Lời Chúa Năm A Các bài suy niệm Lễ Mình Máu Chúa Kitô Năm A

Các bài suy niệm Lễ Mình Máu Chúa Kitô Năm A

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ

Lời Chúa: Dnl. 8, 2-3.14b-16a; 1Cr. 10, 16-17; Ga. 6, 51-58

———

Mục lục

  1. Khao Khát Chính Đáng(Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2. Tấm bánh nhiệm màu (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  3. Chất Kitô  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  4. Bàn tiệc hiệp thông (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  5. Bữa ăn tình liên đới (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  6. Mầu nhiệm hiệp thông (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  7. Dấu chỉ sự sống  (Lm. Vũ Đình Tường)
  8. Qùa tặng tình yêu  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
  9. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô  (Jorathe Nắng Tím)
  10. Xác bồn chồn hồn héo hon (Trầm Thiên Thu)
  11. Suy niệm chú giải Lời Chúa-CN Lễ Mình Máu Thánh Chúa (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Mục lục

1. Thịt và Máu (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tấm bánh tình yêu  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Thịt Máu Chúa là của nuôi hồn  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Lương thực quý báu (Anna Cỏ May, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

5. Tôi là Bánh Hằng Sống (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

6. Lễ Mình Máu Chúa Kitô (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

7. Những tên gọi tầm thường  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. “Chóp đỉnh và nguồn mạch” của Giáo hội là bí tích Thánh Thể (Tu sĩ Jos Vinc.Ngọc Biển)

9. Bánh Trường Sinh  (Trầm Thiên Thu)

10. Phép lạ của Tình yêu (Lm. Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

11. Chúng ta được biến đổi theo điều chúng ta ăn  (Văn Chính, SDB chuyển ngữ)

12. Lương thực siêu nhiên (P. Trần Đình Phan Tiến)

13. Nước mắt, mồ hôi (Lm. Vũ Đình Tường)

14. Ăn và Uống (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

15. Ăn Mình Thánh Chúa  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

16. Thần lương  (Lm. Trần Việt Hùng)

17. Suy niệm lễ Mình Máu Thánh Chúa. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)

18. Bánh Hằng Sống (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

19. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời (Fx. Đỗ Công Minh)

20. Tấm Bánh Lời Chúa  (JM. Lam Thy, ĐVD)

21. Thông ban sự sống thần linh  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

22. Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống  (Lm. Jos. Uyên Nguyên)

23. Mình Máu Thánh Chúa – Lương thực cho linh hồn (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

24. Ăn Bánh Thánh Thể sẽ được sống muôn đời (Lm. Đan Vinh)

25. Lễ Mình Máu Thánh Chúa_A (Lm. Antôn)

 

KHAO KHÁT CHÍNH ĐÁNG

MÌNH MÁU CHÚA-A: Ga 6, 51-58

Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Xã hội thời nào cũng mong có sự dấn thân của những người nhiều tài lắm đức, có tinh thần ái quốc, biết chung sức chung lòng, cùng xây dựng một đất nước khang an thịnh vượng. Dù không nói, nhưng các bậc sinh thành đều mơ ước con cháu nên người hữu ích: con cái vinh hoa, vẻ vang cha mẹ. Dù tài trí không xuất chúng, trong ứng xử còn vụng dại, mỗi người vẫn dư biết: trên đường thành công, không thể có bước chân kẻ lười biếng. (Lỗ Tấn). Thân xác khỏe mạnh, tinh thần an vui, hẳn không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không thành. Của ăn nuôi thân xác, kiến thức bồi bổ tinh thần, sống và làm việc ở đâu cũng phải có tình có nghĩa trước các tương quan gia đình, xã hội. Khi nghèo, người ta mơ đủ ăn đủ mặc, khi có tiền có của, người ta lại mơ được ăn ngon, mặc đẹp, khi đời sống vật chất tinh thần ổn định, người ta lại khao khát có sức khỏe tốt, gia đình hạnh phúc, được trường thọ hơn.

Trước thao thức chung của số đông, làm gì để có “công thành danh toại”, Đức Giêsu cho biết có một sự thật quý hơn điều người ta mơ ước: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này, sẽ được trường sinh”. Người đời cũng quan niệm rằng: có tiền mua tiên cũng được, nhưng thực chất biết bao người nhiều tiền lắm của, nào có mua được sức khỏe đâu ! Nhiều bậc làm cha mẹ giầu sang phú quý, thế mà “bất lực”, không mua được sự thông thái, cũng chẳng giúp cho con cháu chăm ngoan, trở nên người hùng tài ! Thứ bánh đặc biệt, của ăn kỳ diệu, mà Đức Giêsu nói, tuy không thay thế cơm áo gạo tiền, chẳng giúp no thỏa quyền lực, ước muốn thụ hưởng, nhưng lại là thứ lương thực đem đến “hạnh phúc đời đời”. “Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta, để thế gian được sống”; thứ bánh Đức Giêsu tặng ban là bánh hằng sống, là bánh niềm tin: nuôi dưỡng, biến đổi, xứng hợp với tình yêu Thiên Chúa đang hiện diện.

Khao khát được no cơm ấm áo, được ở trong bầu khí gia đình êm ấm hạnh phúc, khao khát được sự sống đời đời, có chính đáng không ? Mọi người không khó để trả lời, nhưng phải bắt đầu từ đâu, làm gì để mơ ước đó trở thành hiện thực, Đức Giêsu đã quả quyết: “ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”. Ăn cơm bánh, ăn bún ăn phở rất quen và dễ, nhưng ăn thịt và uống máu, quả là đáng sợ, nếu thiếu niềm tin, thiếu sự tác động của Đấng là Thầy là Chúa. Ăn uống là một nghệ thuật: khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Ăn thực phẩm nào ngon, bổ, rẻ, ăn thế nào để khoẻ mà không mập ? Có vị đã chỉ cách khắc phục vui vui là “bạn cứ ăn, cứ nhai, nhưng đừng nuốt” ! Do đó không lạ gì khi tiền nhân chúng ta nói là hãy: học ăn học nói, học gói học mở ! Đức Giêsu cũng cụ thể, rõ ràng: “ai ăn thịt và uống máu Ta, sẽ được trường sinh”.

Khao khát nào là chính đáng ? Ăn uống loại thực phẩm nào là an toàn, bổ dưỡng, ích lợi cho sức khoẻ, dẫu biết rằng cuộc sống này đâu phải chỉ là ăn uống, thụ hưởng ? Thật diễm phúc cho những ai khao khát được bồi bổ tinh thần, được sống trong hoà thuận yêu thương, mà không mất tiền, mất công sức, để tìm của ăn thức uống, của ăn thiết thực. Đấng là Thầy, là Chúa, đã lưu ý: chỉ cần tỏ bày niềm tin, và sống niềm tin là đủ, là ta thấy sự biến đổi kỳ diệu của tình liên đới hiệp thông. Chính tự do và khái niệm lờ mờ về tình yêu, về hạnh phúc thật, người Do-thái đã phản ứng kịch liệt: “làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được” ? Của ăn nuôi xác, của ăn nuôi hồn, hạnh phúc đời này, hạnh phúc đời sau, tin Đức Giêsu tài giỏi, tin Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, vẫn mãi là tự do, là chọn lựa của mỗi người.

Truyện ngụ ngôn “khao khát trường sinh”. Truyện kể như sau: có 2 chú chó thật tinh khôn, chúng lên kế hoạch, ngày mai một đứa ở nhà trông nhà, một đứa vào rừng tìm của ăn bất tử. Thế rồi, chúng mâu thuẫn với nhau, vậy mai đứa nào sẽ ở nhà, đứa nào vào rừng, vì đứa vào rừng sẽ có cơ hội trường sinh cao hơn là đứa ở nhà. 2 chú chó đã nhờ chị gà tư vấn giùm đứa nào nên vào rừng tìm thực phẩm ? Chị gà đã chia sẻ kinh nghiệm: 2 chú không phải đi đâu tìm kiếm nữa, tình yêu thương chính là của ăn bất tử ở hiện tại và tương lai. Vâng, yêu thương là điều thiết thực mà ai cũng cần phải có trong các tương quan. Tất cả mọi thứ rồi sẽ qua đi, duy chỉ có tình yêu là tồn tại. Cơ hội thành công, điểm đến hạnh phúc, đâu phải do bạn sang giầu, khôn ngoan tài giỏi, mà do bạn biết lắng nghe và sống hết tình hết mình với điều kiện bạn đang có.

Khao khát được yêu thương, khao khát được thành công, khao khát được trường sinh bất tử, có phải là khao khát chính đáng không ? Kinh nghiệm của các đấng bậc cho rằng: giầu có là điều tốt mà bạn đã chứng minh. Có chức quyền là phần thưởng cho sự thông thái, linh lợi của  bạn. Cho dù bạn thành công ở ngoài xã hội mà nơi gia đình bạn không hạnh phúc, hẳn bạn vẫn là kẻ thất bại, đáng tiếc ! Đức Giêsu đã chia sẻ, đã công khai minh bạch: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”. Hãy khao khát bánh hằng sống, hãy đến với bánh trường sinh, thứ lương thực giúp bạn đạt đến hạnh phúc thật, có được sự sống đời đời, khi bạn tin yêu và sống giáo huấn của Đức Giêsu. Amen.

Về mục lục

TẤM BÁNH NHIỆM MÀU

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: khi linh mục chủ sự thánh lễ lặp lại lời Chúa Giêsu đã nói trong bữa tiệc ly: Này là Mình Thày, này là Máu Thày…. thì Chúa Thánh Thần tác động làm cho bánh thành Mình Thánh Chúa và rượu thành Máu Thánh Chúa. Tuy vậy, nếu nhìn bằng con mắt thể lý, trước và sau lời “truyền phép” này, bánh và rượu vấn y nguyên, không có gì thay đổi. Thánh Thể là mầu nhiệm của đức tin, nghĩa là chỉ cảm nhận bằng đức tin, như chúng ta vẫn hát trong bài Ca Thánh Thể (Tantum ergo): “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì”. Sau lời truyền phép, linh mục chủ sự thánh lễ cũng tuyên bố với cộng đoàn phụng vụ: “Đây là mầu nhiệm đức tin”, như lời khẳng định: chỉ có đức tin mới nhận ra sự biến đổi tự bản thể của bánh và rượu. Thánh Thể chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa trần gian. Tấm bánh đơn sơ là thế, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, trở nên Tấm Bánh Nhiệm Màu đối với các Kitô hữu.

Đây là Tấm Bánh Nhiệm Màu vì có Chúa Giêsu hiện diện. Suốt bề dày lịch sử của dân riêng, tức là dân Do Thái, Thiên Chúa hiện diện và đồng hành với họ. Ngài ở bên họ để chúc lành, hướng dẫn. Sự hiện diện của Chúa giữa dân Ngài là niềm tự hào của dân được tuyển chọn. Ông Môisen đã nói với người Do Thái: “Anh em hãy xem, có dân nào được các vị thần linh ở gần như Thiên Chúa ở gần chúng ta không?”. Sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa còn thể hiện qua việc Ngài nuôi dưỡng họ trong hành trình sa mạc. Ông Môisen (Bài đọc I) đã nhắc lại những lần Chúa làm phép lạ để nuôi dưỡng dân Ngài: manna, chim cút, nước tử tảng đá…

Nếu trong lịch sử, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài qua các biểu tượng như đám mây, cột lửa, sấm sét… thì hôm nay, Chúa Giêsu lại đang hiện diện giữa Giáo Hội và giữa trần thế qua Thánh Thể. Công đồng Tridentinô đã khẳng định: Trong Bí tích Thánh Thể, có trọn vẹn mình và máu, thiên tính và nhân tính, linh hồn và thân xác của Đức Giêsu. Để giữ lời hứa: “Này đây, Thày sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể.  Qua Thánh Thể, Chúa ở giữa chúng ta để chia sẻ phận người, nhất là đối với những người đau khổ và bất hạnh, những người cô thế cô thận và bị gạt ra bên lề của cuộc sống. Chúa hiện diện để lắng nghe nỗi lòng của chúng ta, đồng thời ban lời hướng dẫn, giúp chúng ta vượt lên những khó khăn vất vả trên đường đời. Thánh Thể không phải là một hình ảnh tượng trưng, mà là chính sự hiện diện của Chúa Giêsu.

Thánh Thể được gọi là “Bí tích” và là một trong bảy bí tích do Chúa Giêsu thiết lập. “Bí” là khía cạnh bí nhiệm, vô hình, thiêng liêng; “Tích” là khía cạnh hữu hình, có thể cảm nhận bằng giác quan. Khi lãnh nhận Thánh Thể trong thánh lễ hoặc khi “chầu” Mình Thánh, chúng ta chỉ thấy một tấm bánh đơn sơ, đó là khía cạnh “tích” mà chúng ta cảm nhận, còn khía cạnh “Bí” thì vô hình, chỉ có thể cảm nhận bằng đức tin.

Là Tấm Bánh Nhiệm Màu, Thánh Thể ban sức sống thần thiêng cho các tín hữu. Khi rước lễ, người tín hữu được hiệp thông với Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng sức sống thần linh. Nói cách khác, nhờ Thánh Thể, chúng ta đón nhận sự sống của chính Thiên Chúa, được kết nối với Ngài, như cành nho đón nhận sức sống từ thân nho để sinh hoa kết trái. Không chỉ được tiếp sức sống trong cuộc đời hiện tại, Thánh Thể còn là bảo đảm cho chúng ta được sống đời đời. Tin Mừng Thánh Gioan ghi lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với người Do Thái về đề tài “Bánh hằng sống”. Chúa Giêsu đã khẳng định: Bánh hằng sống là chính bản thân Người. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Việc lãnh nhận bánh hằng sống giúp cho người tín hữu kết hợp với Chúa Cha và Chúa Con. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”.

Tấm Bánh Nhiệm Màu cũng nối kết các tín hữu thành một thân thể. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (Bài đọc II). Thật là huyền diệu! Thánh Thể liên kết các tín hữu và làm cho họ trở nên những người thân thiết, đến nỗi được so sánh như những chi thể của một thân thể, cùng chung chia vui buồn và cùng cảm thông nâng đỡ nhau. Như vậy, nhờ Thánh Thể, không còn ai là người xa lạ, nhưng đều là anh chị em với nhau trong gia đình Giáo Hội, để cùng nhau liên kết làm nên vẻ đẹp của tình mến và tình hiệp thông.

Ta hãy đến thờ lạy Tấm Bánh Nhiệm Màu với đức tin và với tình yêu mến. Ta hãy tuyên xưng: đây là Bí tích của tình yêu, vì qua Bí tích này, Chúa Giêsu hiến mình nên của ăn của uống cho con người. Sống mầu nhiệm Thánh Thể, chính là thực hiện tình yêu, cụ thể qua những nghĩa cử chia sẻ, hy sinh vì hạnh phúc của tha nhân, noi gương Đấng đã hy sinh và hiến mình vì chúng ta.

Về mục lục

CHẤT KITÔ

Lm. Jos DĐH.

Trong tương quan xã hội, khi giao dịch làm ăn: chất lượng, uy tín, bao giờ cũng là ưu tiên hàng đầu cho mỗi cá nhân gia đình. Bước vào lãnh vực nghệ thuật: mấy ai đặt tiêu chí thế nào là đỉnh cao, đâu là trình độ thưởng thức thấp, nhỏ, bởi vì tác giả nào chẳng muốn “sinh ra” sản phẩm để đời của mình cho hậu thế. Từ xa xưa cha ông ta đã có khái niệm: bản chất tự tin làm nên giầu mạnh, tính chất cần cù kiên nhẫn góp phần làm nên xinh đẹp, và tình đoàn kết dân tộc tạo nên tính anh hùng cho đất nước, quê hương phong phú rạng ngời. Hiểu biết và áp dụng trong đời, thiết tưởng là chí lý rồi, ấy vậy mà qua các thời đại, xã hội vẫn phải cảnh giác những đối tượng khác thường: thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ liều mình cố thây.

Ngày hôm nay, xã hội lưu ý nhiều đến chất bổ dưỡng: thực phẩm sạch, đồ ăn thức uống mang đến ích lợi cho xác hồn, nhằm đáp ứng nhu cầu khoẻ mạnh, sống vui, sống hạnh phúc, sống trường thọ… Đức Giêsu hôm xưa, Ngài nói tới của ăn không những ngon, bổ, khoẻ, mà còn bảo đảm trường sinh bất tử, của ăn mang “Chất Kitô”, là chất yêu thương, được ban phát cho muôn dân thiên hạ. Nếu bậc sinh thành cho rằng: cha mẹ hiền để đức cho con ; cha anh hùng, con hảo hán, thì đúng là các ngài đã hết tình hết mình để lại phúc đức, để lại “một tài khoản” tốt nhất cho con cháu rồi. Đức Giêsu rất mực chân thành, cùng với mức độ quả quyết thật mạnh mẽ về chất Kitô: “bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để thế gian được sống”.

Theo quy luật tự nhiên: cơm bánh là lương thực nuôi xác, bạc vàng là của cải nhằm mang lại cảm giác được sung túc ở trần gian, nhưng người biết thực hành đức yêu thương, mới có sự sống đời đời. Qua việc ăn uống, Đức Giêsu nối kết một của ăn tồn tại muôn đời, đó là “chất Kitô”. Đức Giêsu nói lên điều hệ trọng hơn: “nếu các ngươi không ăn thịt Con Người, các ông không có sự sống nơi mình các ông”. Từ việc tổ tiên ăn Manna ở Samạc, Đức Giêsu dẫn dắt đến việc ăn bánh trường sinh từ trời ban phát. Từ việc cơm bánh nuôi thân xác ở đời này, Đức Giêsu hướng nhân loại đến của ăn mang lại sự sống đời đời, đó là “chất yêu thương” thực sự được sẻ chia.

Xưa kia, hiện tại và tương lai, nhân loại đã từng tìm kiếm hạnh phúc, vẫn đang hành động bác ái, vẫn không hề lùi bước trước mọi khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm của dân gian: dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Hẳn việc tìm kiếm của ăn đem đến hạnh phúc, mang lại sự sống đời đời, sẽ còn thôi thúc con người qua dòng thời gian, cho dù lập trường không vũng chắc, dễ ngả nghiêng vì chất bổ dưỡng thân xác và chất Kitô khác hoàn toàn ! Đức Giêsu trước những con người đáng thương hơn là đáng trách, Ngài kiên nhẫn khi giải thích: “như Cha Hằng Sống đã sai tôi, nên tôi sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta cũng sẽ sống nhờ tôi”. Vững tin vào Đấng từ trời nói về “chất Kitô” để được sống đời đời, hay tìm kiếm của ăn vật chất để được thế gian là tuỳ tự do của mỗi người.

Trong bài thờ “Dại Khờ” của Xuân Diệu, rất đáng để ta suy gẫm:

Người ta khổ vì thương không phải cách,

yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người.

Có kho vàng nhưng tặng chẳng tuỳ nơi,

người ta khổ vì xin không phải chỗ …

Dấn thân mãi để kiếm trời dưới đất !

Đức Giêsu đã đến từ trời, đã chia sẻ phận người với nhân trần, Ngài ban phát bánh trường sinh, giải thích, nhẫn nại, đợi chờ từng tâm hồn, từng thế hệ, tin và đón nhận niềm tin hoặc sống niềm tin, luôn tuỳ thuộc mỗi người. Ăn gì để được khôn ngoan sáng suốt, uống gì để hết khát, có sức khoẻ, đâu là thực phẩm sạch, an toàn, ngày hôm nay, đúng là nhân loại vẫn không ngừng tìm kiếm ! Đấng từ trời là Đức Giêsu, Ngài vẫn đang hiện diện, vẫn đang nói: “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống, … Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì được sống muôn đời”. Chất Kitô, sẽ mãi mãi là tình yêu, là sự sống, bao lâu con người còn dửng dưng thờ ơ, Đấng từ trời và những ai thuộc về đoàn chiên của Ngài còn phải dấn thân trước sứ mạng “yêu thương” nặng nề hơn nữa ! Sức mạnh và tình yêu của “chất Kitô”, sẽ mãi là hiện thực, nơi quyền năng của Đấng yêu thương nơi mỗi tâm hồn người môn đệ theo Đức Ktiô. Amen.

Về mục lục

BÀN TIỆC HIỆP THÔNG

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Lễ vượt qua cuối cùng là điều mong ước của Chúa Giêsu sớm thực hiện. Lễ vượt qua là một bữa tiệc hiệp thông khởi sự từ Chúa và tiếp tục lan tỏa tới người đồng bàn.

Chúa Giêsu tâm điểm của bàn ăn hiệp thông.

Một bữa ăn bắt đầu từ việc tiếp khách vào bàn tiệc. Chúa Giêsu cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, như chủ nhà đón tiếp khách quý đến dự là các môn đệ. Chúa đã nói với các môn đệ: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.”  (Ga 15, 15).

Là bạn hữu nghĩa là một người bạn thân tình với Chúa kể cả Giuđa Iscariot. Một tình bạn tuyệt vời, Chúa luôn trung tín trong tình bạn đó, dù con người có bội tín như thế nào chăng nữa. Chúa luôn giữ tình bạn, chủ động mời bạn hữu vào bàn tiệc hiệp thông với Chúa. Giuđa đã chọn một lối khác, không cùng một hiệp thông nơi bàn ăn.

Các môn đệ ở lại dù chưa biết chuyện gì xảy ra, chỉ nghe Thầy nói những điều khác lạ với bữa tiệc vượt qua truyền thống. Người cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: “Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn: Vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con.

Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ mà nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống: Vì này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”

Hình ảnh người tôi trung đau khổ có lẽ lại xuất hiện trong tâm trí của các môn đệ. Rồi đây các ngài cũng sẽ hiệp thông với Chúa trong tất cả những đau khổ như thế. Phúc âm nói đến lời di chúc của Chúa Giêsu “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Môt tình yêu hiệp thông trong lúc vui cũng như lúc buồn, khi hạnh phúc cũng như khi đau khổ. Hiệp thông trong tình yêu là gánh vác đời nhau, là đóng đinh chết cho người mình yêu.

Nhận ra Người lúc bẻ bánh.

Từ sau bữa tiệc hiệp thông, các diễn tiến của tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu xảy ra. Những lúc ngoài bàn tiệc mới thấy rõ con người yếu đuối của mình. Lúc vui vẻ bên bàn tiệc có thể thề non hẹn biển nhưng lúc nguy khó có thể đánh mất lời thề ước kia. Qua những lúc thử thách, sau này các môn đệ đã nhận ra: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn”   (Gc 1, 2- 3).

Hai môn đệ trên đường Emmau cũng cho thấy, thiếu đi bàn tiệc hiệp thông là thiếu đi ý nghĩa cuộc sống. Tin mừng diễn tả nỗi buồn của hai môn đệ trên đường về quê. Họ tường thuật câu chuyện cho người khách lạ như là một sự kiện buồn của họ. Rồi họ được nghe giải thích Thánh Kinh, nhận ra Chúa lúc bẻ bánh. Họ vui mừng, một niềm vui thúc đẩy trở lại Giêrusalem để gặp lại các môn đệ khác. Nỗi buồn của ngày không được hiệp thông trong bàn tiệc trong những giãn cách vì Virus Vũ Hán là một kinh nghiệm.

Thánh lễ online cũng không thể thay thế cho Thánh lễ cộng đoàn được. Sống hiệp thông cùng với Chúa và cùng với anh chị em trong cộng đoàn Thánh Thể, là kết nối mang chiều kích Giáo Hội địa phương và Giáo Hội toàn cầu. Trong niềm tin tôi tin và chúng tôi tin, Giáo Hội hướng tới trong bàn tiệc viên mãn ở Nước Trời khi bàn tiệc tại thế hoàn tất.

Hiệp thông nơi bàn tiệc Thánh Thể nhờ Chúa Thánh Thần trong Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha. Đó là bàn tiệc mọi người được nếm trước bàn tiệc muôn đời do chính Thiên Chúa thết đãi.

Xin cho chúng con được tham dự bàn tiệc muôn đời trong Nước Chúa.

Về mục lục

BỮA ĂN TÌNH LIÊN ĐỚI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Xã hội hôm nay nhiều gia đình đang thèm bữa cơm gia đình. Vì công việc, vì thời giờ mỗi người khác nhau nên nhiều bà mẹ chẳng muốn nấu cơm, vì có ai ăn đâu mà nấu! Nhưng từ ngày dịch bệnh xảy ra, đặc biệt trong thời gian cách ly xã hội, nhiều gia đình đã tìm lại được niềm vui bên bữa cơm gia đình. Một chị nội chợ nói rằng: từ ngày kết hôn đến nay, đây là khoảng thời gian đầu tiên gia đình chị duy trì ba bữa cơm trong một ngày có đầy đủ mọi người. Không khí gia đình đầm ấm, hạnh phúc vô cùng. Một anh chồng thì thú nhận: “Những bữa cơm gia đình trong thời gian chống dịch Covid-19 giúp vợ chồng tôi thấy cần phải thay đổi lại bản thân, sống có trách nhiệm hơn với bố mẹ, con cái và bạn đời của mình. Thời gian này ngồi ăn cùng với mẹ, tôi nhận ra bà không ăn được cơm mà chủ yếu ăn cháo vì răng rụng gần hết. Cái mẹ cần nhất không phải là những đồ ngon, đồ bổ mà tôi nỗ lực kiếm tiền mua về cho mẹ ăn, mà là được ngồi ăn cơm cùng với con cháu hàng ngày. Với con cái cũng vậy, ngồi ăn chung với các con, tôi nhận ra lâu nay mình thật vô tâm với chúng. Chắc chắn từ giờ về sau, tôi sẽ thay đổi để về ăn cơm với mẹ và vợ con nhiều hơn”.

Ăn uống là chuyện rất bình thường nhưng đừng để mất đi bữa ăn chung trong gia đình. Qua bữa ăn đó chúng ta quan tâm lẫn nhau. Nơi bữa ăn chúng ta ân cần hỏi nhau: về sức khỏe, về niềm vui hay những lo âu , những gánh nặng trong cuộc sống.  Đó là nơi chúng ta chia sẻ cho nhau qua việc gắp cho nhau miếng ăn ngon, và mời gọi nhau: “Nào, ăn thêm đi, uống thêm đi! “. Đó là nơi chúng ta kể chuyện mới, ôn chuyện cũ, là nơi êm đềm và hạnh phúc đến nỗi ngườixưa bảo rằng: “Trời đánh cũng tránh miếng ăn”. Bàn ăn cũng luôn đủ chỗ cho mọi người. Khi có khách viếng thăm ai cũng niềm nở nói rằng: chỉ là “thêm đũa thêm chén” cho vui. Vì điều quan yếu của bữa ăn chính là sự liên đới tình người. Liên đới của những người cùng chung một nhà. Liên đới với những người thân thuộc. Có liên đới mới ở bên nhau trong bữa ăn. Có tình liên đới mới ngồi chung với nhau quanh bàn ăn.

Bữa ăn thật thấm đượm tình người mà Nguyễn Minh Tâm đã nói rằng:

“Bữa cơm – ta ngỡ chuyện bình thường
Nhưng đó sum vầy đủ yêu thương
Ông bà – bố mẹ cùng con cháu
Ấp áp quây quần tình thơm hương”.

Hôm nay chúng ta tưởng niệm việc Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể. Ngài đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong một bữa ăn và như một bữa ăn, nhờ đó chúng ta được liên kết, được gắn bó mật thiết với Chúa và với nhau. Bởi vì, ai ăn Tấm Bánh và uống Chén Rượu đã được Ngài biến đổi nhờ quyền năng Thánh Thần, người ấy nên một với Ngài. Nên một trong sự sống thần linh của Thiên Chúa để trở thành một gia đình của Thiên Chúa.

Đồng thời khi trao ban chính Thánh Thể làm của ăn  cho nhân loại, Ngài đã hoàn toàn qui hướng về cái chết và sự phục sinh của Ngài: Này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con… Này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.

Như vậy, mỗi khi cử hành thánh lễ, Giáo hội diễn lại sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô, diễn lại mầu nhiệm ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.

Vì thế, dù dưới khía cạnh một bữa ăn, hay dưới khía cạnh một hy tế, bí tích Thánh thể vẫn mãi mãi là một bí tích của tình yêu, bởi vì hy tế thập giá chính là cao điểm của tình yêu cứu độ, như lời Đức Kitô đã phán:

–  Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.

Bởi đó, sống thánh lễ là phải tiêu diệt tính ích kỷ, sự chia rẽ và tất cả những gì đối nghịch với tình yêu của Đức Kitô và tình yêu của anh em đồng loại. Sống thánh lễ là sống tình hiệp nhất để cùng ăn, cùng uống một tấm bánh, một chén rượu thì cũng phải nên một với nhau trong Đức Ky-tô.

Vì thế, nếu thánh lễ là một bàn tiệc thì chúng ta sẽ thiếu sót to lớn khi chúng ta đến tham dự thánh lễ mà lại không để ý, không quan tậm tới người khác, cũng như không muốn chung tiếng chung lòng với nhau để tham dự một cách tích cực và sốt sắng. Quả là không bình thường khi bầu khí thánh lễ thiếu vắng tình huynh đệ, thiếu vắng sự hòa hợp, thiếu vắng sự vui tươi.

Ước gì mỗi người chúng ta luôn trân trọng sự hiện diện bên nhau qua bữa ăn gia đình. Xin cho bữa ăn nơi các gia đình mãi lan tỏa tình liên đới hiệp nhất và bình an. Và xin cho bàn tiệc Thánh Thể nơi các xứ đạo luôn thể hiện tình hiệp nhất và bình an của đại gia đình Thiên Chúa.

Về mục lục

MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Hôm nay, chúng ta cử hành trọng thể lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi). Đây là cơ hội thuận tiện để chúng ta suy niệm về bí tích Thánh Thể. Trong bài đọc II, thánh Phaolô trình bày về bí tích Thánh Thể như là mầu nhiệm “hiệp thông”: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? ” (1 Cr 10, 16).

1. Ý nghĩa hiệp thông

Hiệp thông có nghĩa là kết hợp, trao đổi và chia sẻ. Đây là nguyên tắc nền tảng của sự chia sẻ: mọi sự của anh là của tôi và mọi sự của tôi là của anh. Chúng ta thử áp dụng nguyên tắc này vào sự hiệp thông của bí tích Thánh Thể để khám phá ý nghĩa cao cả của sự hiệp thông này.

Theo nguyên tắc trên, điều tôi có thể chia sẻ là những gì nếu không phải là sự khốn cùng và tội lỗi. Điều Chúa Giêsu có là gì nếu không phải là sự thánh thiện, sự hoàn hảo của các nhân đức. Như thế, những gì tôi dành cho Chúa Giêsu là tội lỗi và sự nghèo khó của tôi, và những gì Người ban tặng cho tôi chính là sự thánh thiện và muôn vàn ơn phúc của Người.

Trong mầu nhiệm này, “một sự trao đổi nhiệm lạ” (admirabile commercium) hay là “sự chuyển đổi tuyệt vời” được thực hiện như phụng vụ diễn tả. Chúng ta nhận thấy có những kiểu hiệp thông khác nhau. Một trong những sự hiệp thông có tính thân mật và đặc trưng nhất đó là chia sẻ thức ăn mà chúng ta dùng với nhau. Khi chúng ta ăn thức ăn như cơm bánh, thịt cá, rau quả vào trong chúng ta, chúng trở thành nguồn dinh dưỡng, năng lượng và sức mạnh cho chúng ta, thành xương thịt trong cơ thể chúng ta. Nhờ quá trình tiêu hóa và biến đổi này, thức ăn trở nên giống chúng ta và nên một với chúng ta.

2. Nên một với Chúa

Ở trong bí tích Thánh Thể, có điều gì đó tương tự như thế xảy ra khi chúng ta đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể như là của nuôi linh hồn chúng ta. Trong Tin Mừng Chúa Giêsu giới thiệu rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống… Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời… vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 51-56).

Ở đây, Chúa Giêsu trở thành bánh hằng sống, Mình và Máu Người trở thành của ăn nuôi dưỡng chúng ta.

Để hiểu rõ hơn điều này, chúng ta hãy quan sát những gì xảy ra trong thế giới tự nhiên liên quan đến thức ăn nuôi dưỡng. Những sinh vật cấp cao hơn ăn và tiêu hóa những sinh vật cấp thấp hơn. Cây cối ăn khoáng vật; con vật ăn cây cỏ. Cả trong mối tương quan giữa Chúa Kitô và con người cũng theo quy luật này.

Tuy nhiên, nơi bí tích Thánh Thể, lương thực không chỉ là một cái gì, mà là một Con Người sống động, là chính Thiên Chúa. Vì thế, ở đây có sự khác biệt so với các lương thực vật chất; khi tiếp nhận thức ăn, chúng ta tiêu hóa chúng và làm cho chúng trở thành máu thịt của chúng ta. Còn khi tiếp nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa không bị biến đổi thành chúng ta, nhưng chúng ta được biến đổi và nên giống Người. Một nhà vô thần duy vật chất nói rằng: “Bạn cho tôi biết bạn ăn gì, tôi sẽ cho biết bạn là ai.” Dù không biết gì về Thánh Thể, người này đã cho chúng ta một định nghĩa hoàn hảo về Thánh Thể. Nhờ Thánh Thể, con người thực sự trở thành điều mình ăn tức là thân thể Chúa Kitô. Chúng ta được kết hợp và nên một với Người. Đây là sự hiệp thông gần gũi, thân mật và kỳ diệu nhất trong các sự hiệp thông.

3. Nên một với tha nhân

Chúng ta hãy đọc phần còn lại bản văn của thánh Phaolô: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10, 17).

Rõ ràng trong trường hợp thứ hai này từ “thân thể” không còn quy chiếu về thân thể Chúa Kitô được sinh ra từ Đức Maria, nhưng quy chiếu về “tất cả chúng ta, ” nghĩa là muốn nói đến một thân thể vĩ đại của Chúa Kitô, tức là Giáo Hội. Thánh Augustinô gọi đó là “Đức Kitô toàn thể (total Christ) gồm chính Người và Giáo Hội. Điều này muốn nói rằng sự hiệp thông Thánh Thể cũng chính là sự hiệp thông ở giữa chúng ta với nhau, giữa con người với con người. Khi cùng ăn một tấm bánh và uống chung một chén rượu, chúng ta sẽ trở nên một thân thể mầu nhiệm trong Đức Kitô. Chúng ta được nên một với nhau nhờ việc hiệp thông với Chúa Kitô và ngược lại.

Điều gì sẽ xảy ra từ đây? Chúng ta không thể hiệp thông với Chúa Kitô nếu chúng ta chia rẽ lẫn nhau, nếu chúng ta thù ghét nhau; hay nếu chúng ta không sẵn sàng hòa giải cho nhau. Nếu chúng ta xúc phạm đến người anh em mình, thánh Augustinô khuyên rằng: “Nếu bạn đã phạm tội bất công chống lại người anh em, rồi đi rước lễ như là không có gì xảy ra, có thể khi đó bạn tràn đầy lòng yêu mến trước Chúa Kitô, khi đó bạn giống như một người gặp một người bạn đang đến với mình, người bạn đó khá lâu rồi anh không gặp. Anh chạy đến với người bạn đó, anh đưa tay choàng lên cổ và hôn người bạn mình. Nhưng đang khi làm như thế, anh đồng thời đá vào người đó bằng mũi dày đinh nhọn.”

Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu dạy rằng: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24).

Tha nhân chính là hiện thân của Chúa Kitô. Trong ngày lễ Corpus Christi, chúng ta được mời gọi để khám phá sự mù lòa của mình khi đánh mất khả năng nhận biết tha nhân, nhất là những người nghèo là hiện thân của Chúa Kitô, tệ hơn khi hình thành một lối sống vô cảm và vô can trước cuộc sống.

Đây cũng là điều xảy ra với Thiên Chúa. Con người ngày hôm nay tìm kiếm Thiên Chúa trong vũ trụ bao la hoặc trong thế giới nguyên tử; họ tranh luận suốt ngày về một Thiên Chúa tạo dựng thế giới này. Họ tiếp tục chất vấn: “Thiên Chúa ở đâu? ” Nhưng họ không ý thức rằng Người ở với chúng ta và quả thật Người trở thành của ăn và của uống để nên một với chúng ta cách thân mật nhất nơi Thánh Thể. Thật đáng buồn khi nhắc lại lời của thánh Gioan Tẩy Giả: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1, 26b).

Chính vì thế, lễ Mình Máu Thánh Chúa được thiếp lập và cử hành chính xác là để giúp người Kitô hữu ý thức về sự hiện diện của Chúa Kitô ở giữa chúng ta và để minh chứng cho điều mà thánh Giáo Hoàng Phaolô II gọi: “Sự diệu kỳ của Thánh Thể.” Amen!

Về mục lục

DẤU CHỈ SỰ SỐNG

Lm Vũđình Tường

Thân thể con người cần được chăm sóc, bảo vệ. Nếu lơ là, coi thường, hậu quả thật khó lường trong tương lai. Tư tưởng muốn thay đổi một phần cơ thể do ảnh hưởng xã hội. Tư tưởng này được cổ võ bởi nhóm chuyên sửa sắc đẹp và phẫu thuật làm đẹp. Yêu quí sắc đẹp là điều tốt, cần cổ võ. Mục đích chính của ngành sửa sắc đẹp là kinh doanh, là lợi nhuận. Chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ là điều tốt lành, đáng khuyến khích. Hiện nay hầu như quốc gia nào cũng có trụ sở ‘Hồng Thập Tự’. Một số quốc gia tránh dùng chữ này nên dùng chữ khác nhưng cùng chung mục đích: bảo vệ sự sống con người. Hồng Thập Tự được sáng lập năm 1863 bên Thuỵ Sĩ để giúp nạn nhân thiên tai, chiến tranh và bệnh dịch.

Phụ huynh thương yêu con cái và cung cấp cho chúng những nhu cầu cần thiết cho cuộc sống về các phương diện sức khoẻ, tâm lí và tâm linh. Phụ huynh có khả năng cung cấp sự an toàn cho con cái và mang lại sự an vui trong cuộc sống của chúng. Họ còn muốn làm tốt hơn cho con cái, nhưng không thể cung cấp những gì ngoài khả năng. Một trong những điều đó là vấn đề bảo đảm đời sống tâm linh. Những ai tin tưởng vào Đức Kitô thường phó dâng cuộc sống của cái, người thân cho Đức Kitô và mẹ Maria coi sóc. Làm như thế vì họ tin tưởng Đấng Toàn Năng có khả năng, sẵn sàng bảo vệ người thân họ.

Con người có thể hiến máu mà không bị tổn hại đến sức khoẻ, trái lại việc hiến máu còn mang lại sự sống cho người khác. Thân nhân có thể hiến một mắt, tặng một trái thận khi còn sống. Việc hiến tặng một bộ phận cơ thể cho người khác đòi người cho phải chết đi mới có để hiến tặng. Đức Kitô cũng theo cách này; chết đi để trao tặng nhân loại sự sống. Đức Kitô yêu thương nhân loại đã tự hiến chính Thịt và Máu Ngài làm của ăn nuôi dưỡng tâm linh con người. Ngài diễn tả việc đó dưới hình bánh rượu – Bí Tích Thánh Thể. Chính Ngài phán:

‘Tôi là bánh gằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống’ Gn 6, 51.

Điều này không những ây tranh luận và còn tạo bất mãn trong số những người nghe. Họ đặt vấn đề Đức Kitô có khả năng làm điều Ngài phán dậy chăng? . Số khác đi xa hơn, không những chỉ trích điều Đức Kitô phán dậy mà còn phân tích và chỉ trích ngôn từ Đức Kitô dùng. Họ nói ‘Lời gì nghe chói tai thế, ! ai mà nghe nổi c.60’. Lối suy nghĩ này hiện nay vẫn tồn tại. Hai niềm tin đối nghịch nhau. Nhóm một tự tin vào khả năng con người, tin là càng ngày càng tiến bộ về mọi mặt, nên con người có khả năng tự cứu mình. Nhóm hai tin là con người dù tài giỏi đến đâu cũng phải đầu hàng trước bí ẩn của sự chết. Đi về đâu sau khi chết. Con người đầu hàng trước sự sống trường sinh. Họ hướng về Đức Kitô. Tin vào điều Ngài giảng dậy. Họ tin là mọi sự Thiên Chúa toàn năng đều có thể thực hiện, bao gồm cả việc cho kẻ chết sống lại, cho linh hồn sống an vui muôn đời. Đây không phải là tin hão huyền. Niềm tin này đặt trọng tâm vào Đức Kitô Phục Sinh, hứa ban cho những ai tin tưởng, yêu mến Ngài. Đón nhận ‘Mình và Máu’ Đức Kitô là liên kết chặt chẽ với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Kitô dùng từ ‘Bánh và rượu’ chỉ về thân thể và máu Người đổ ra trên thập giá. Thân thể Ngài bị tra tấn, da rách, thịt nát, máu trào ra, vương vãi, tương tự như tấm bánh bị bẻ ra, li rượu trao tay, chia sẻ cho người cùng bàn ăn.

Cha mẹ diễn tả tình yêu của mình cho con cái bằng cách làm việc cho con có nhà ở, của ăn, thức uống, học hành. Biến lao nhọc, mồ hôi thành thực phẩm và điều cao quí nhất là tình yêu, lòng mến. Con cái không hiểu được việc biến đổi này. Chúng nhìn thấy nhưng không hiểu, không giải thích được việc biến đổi đó. Đức Kitô cũng liên kết thân thể rách nát của Ngài trên thập giá là hình ảnh Bánh Trường Sinh, và chén cứu độ Ngài ban. Ngài chết để cho ta được sống. Ngài sống lại ban cho ta sự sống trường sinh. Khi chúng ta tham dự Bí Tích Thánh Thể, chúng ta liên kết Thánh Thể và Thập Tự của Đức Kitô là một thực thể không thể chia lìa, phân cách. Hai sự việc diễn tả một hành động: Tình yêu Đức Kitô dành cho Kitô hữu. Ngày nay cử hành Bí Tích Thánh Thể chính là làm sống lại hành động xưa Đức Kitô đã hy sinh trên thập tự. Lập lại việc chính Đức Kitô đã thực hiện trong bữa Tiệc Li; làm sống lại đoạn đường thương khó của Đức Kitô, cái chết và sự sống lại Phục Sinh vinh hiển của Ngài. Đây là niềm tin của các Kitô hữu. Chúng ta cầu nguyện mỗi khi tham dự Bí Tích Thánh Thể hình ảnh bữa Tiệc Li và hình ảnh Đức Kitô Phục Sinh luôn sống trong tâm hồn chúng ta.

Về mục lục

QUÀ TẶNG TÌNH YÊU

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Thưa quý OBACE, trong cuộc sống, cũng có những người dám hy sinh một phần thân thể của mình, tặng mắt, tặng thận hoặc tặng một phần máu để cứu người khác. Một bà mẹ đã chia sẻ: Khi được gợi ý tặng các cơ phận của đứa con trai bà, cậu bị tai nạn giao thông, đã hôn mê sâu không còn cơ hội cứu sống, đó là điều khó chấp nhận. Nhưng sau khi trao đổi với chồng, hai người đã đồng ý. Các cơ phận trong cơ thể của con bà đã đem lại hạnh phúc cho nhiều người khác: Một người được thay giác mạc, một thanh niên được thay tim, và người khác được cứu sống nhờ trái thận của con bà. Bà cảm thấy đó là những món quà quý giá và ý nghĩa nhất mà con bà để lại cho đời. Cách đây hơn hai ngàn năm, đã có một người, không chỉ tặng một phần máu hoặc một cơ phận nào đó cho người khác, mà là trao tặng toàn bộ, trọn vẹn con người của mình, để cho người mình yêu được cứu sống. Người ấy có tên là Giêsu. Đức Giêsu vì yêu thương nhân loại và vì muốn ở lại với nhân loại mãi mãi và muốn ở trong trái tim, tâm hồn người mình yêu, Chúa đã trao tặng chính máu thịt mình làm của ăn của uống cho nhân loại.

Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Mình và Máu Chúa Kitô, nhắc lại cho chúng ta về món quà hết sức đặc biệt mà Chúa Giêsu trao tặng cho nhân loại. Đây không phải một món đồ lưu niệm treo trong phòng, nhưng là món quà sống động, đem lại sự sống cho người đón nhận.

Thánh Phaolô trong thư gửi cộng đoàn Corintô đã trình bày sự sống động của món quà là Mình và Máu Chúa: Mình và Máu được trao ban không phải là một miếng thịt, một ly huyết tửu, mà là trọn vẹn cả con người, sự sống của Chúa Giêsu và cũng là trọn vẹn cả Thiên Chúa. Khi đón nhận Mình và Máu Chúa, chúng ta đón Chúa đi vào trong thân xác và trong tâm hồn. Thịt máu ấy sẽ trở thành chất dinh dưỡng nuôi sống cả thể xác và linh hồn, đồng thời tăng cường sức mạnh giúp ta có thêm sức để chiến đấu chống lại ma quỷ và tội lỗi và là năng lượng giúp cho hành trình về quê trời. Khi đón nhận Mình Máu Chúa, không chỉ Chúa Giêsu đi vào trong tâm hồn ta, nhưng chúng ta được đi vào trong Thiên Chúa, được dự phần, được thông hiệp với Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã nhấn mạnh: “Khi ta nâng chén chúc tụng… là ta dự phần vào Máu Chúa Kitô. Khi ta cùng bẻ Bánh… là ta dự phần vào Thân Thể Người… Tất cả chúng ta, tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”. Khi tất cả chúng ta cùng ăn một Bánh, cùng uống một Chén, chúng ta làm nên thân thể Chúa Kitô, tức là cùng nhau làm nên sự hiệp nhất, duy nhất. Như vậy Mình và Máu của Chúa Giêsu là món quà sống động nối kết chúng ta với Thiên Chúa và liên kết chúng ta nên một với nhau.
Chúa Giêsu cho biết món quà mà Ngài ban tặng cho nhân loại là món quà từ trời. Trong bài giảng về Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban, chính là thịt tôi để cho thế gian được sống”.Khi nói những điều này với người Do Thái, họ đã không dễ dàng để đón nhận. Khi nói đến bánh bởi trời, người Do Thái chỉ nghĩ tới Manna trong sa mạc, nuôi tổ tiên họ suốt bốn mươi năm.

Sách Đệ Nhị Luật cho thấy, Môsê hướng người Do Thái đến một ý nghĩa khác hơn khi đón nhận Manna từ trời. Ông nói với họ, Thiên Chúa ban Manna sau khi đã huấn luyện và thử thách lòng trung tín của Israel. Môsê cũng đã nhìn thấy rất xa về việc Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một thứ lương thực đặc biệt hơn sau này, đó là loại lương thực “Anh em và cha ông anh em chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng, người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Để minh chứng cho việc Thiên Chúa nuôi dân bằng lời do miệng của Ngài, Môsê còn nhắc cho dân Israel nhớ lại rằng lời của Chúa có sức giải thoát dân Israel và cứu họ khỏi những gian lao thử thách bên Aicập cũng như trong hoang địa. Lời Chúa vừa là lương thực vừa là sức mạnh cho Israel.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cho người Do Thái thấy rằng Manna được Chúa ban trong sa mạc vẫn chỉ là bánh vật chất. Bánh đó chỉ đáp ứng cho nhu cầu của thân xác, giải quyết cái đói. Bánh đó không đem lại sự sống cho linh hồn. Vì thế, ăn bánh đó vẫn phải chết. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu nói cho người Do Thái biết rằng, Ngài sẽ ban cho họ một thứ Bánh đặc biệt, Bánh này không chỉ đáp ứng nhu cầu thân xác, nhưng Bánh này còn có sức mạnh nuôi sống linh hồn và bảo đảm cho sự sống đời đời.

Chúa Giêsu nói rõ hơn về Bánh bởi trời được Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại là chính con người của Ngài. Ai đón nhận Ngài vào tâm hồn, ai ăn Ngài, sẽ đón nhận được sự sống đời đời. Bánh này vừa là quà tặng của Thiên Chúa Cha ban cho nhân loại, vừa là quà tặng của chính Đức Giêsu: “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”. Món quà này của Chúa Giêsu trao ban cho nhân loại hết sức độc đáo, đặc biệt, mà không có ai trong nhân loại có thể nghĩ ra và có thể làm được như thế. Trao ban máu thịt cho nhân loại, Chúa Giêsu đã trao ban cả con người, sự sống, cả linh hồn, thân xác và bản tính Thiên Chúa của Ngài cho nhân loại. Điều này có nghĩa là Chúa trao tặng cách trọn vẹn, không còn giữ lại gì cho riêng bản thân. Ngài chấp nhận hoàn toàn trở nên món quà trong tay con người, để cho con người sử dụng.

Khi ban chính máu thịt cho nhân loại, Chúa Giêsu không gây sốc cho con người. Ngài không trao tặng món quà như một thân xác bị phân thây, máu me be bét, nhưng Ngài lại khôn ngoan và kỳ diệu khi biến máu thịt của mình trở nên hình bánh hình rượu, trở nên của ăn phổ thông cho con người dễ dàng đón nhận. Bánh và rượu là của ăn căn bản của mọi người, mọi dân tộc. Bánh và rượu là thứ lương thực không thể thiếu trong cuộc sống con người. Lương thực này cũng là nguồn cung cấp dưỡng chất căn bản cho cơ thể con người. Nhưng quan trọng hơn, lương thực là Mình Máu Chúa dưới hình bánh và rượu được trao tặng là thứ lương thực không thể thiếu của linh hồn. Ai ăn bánh và uống rượu thánh này, thì được bảo đảm cho một đời sống linh hồn khỏe mạnh, một sức đề kháng cực tốt, có thể ngăn chặn và đẩy lùi những virus độc hại và những căn bệnh do ma quỷ và tội lỗi gây ra.

Tuy nhiên, những người nghe Chúa Giêsu đã không vượt qua được cái nhìn vật chất, đầu óc họ không chịu mở ra để đón nhận những mạc khải về đời sống siêu nhiên, nên họ bị trói buộc theo cái nhìn phàm trần. Vì vậy, khi Chúa nói đến việc trao ban máu thịt làm của ăn, của uống: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông sẽ không có sự sống nơi mình”, họ không chấp nhận: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?” mặc dù Chúa đã giải thích bằng nhiều cách, ai ăn thịt và uống máu Ngài thì có sự sống đời đời, được ở lại trong Ngài và được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa.

Thưa quý OBACE, “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì người mình yêu”. Đức Giêsu đã yêu thương nhân loại và yêu từng người chúng ta. Ngài đã trao tặng cho chúng ta món quà quý giá và ý nghĩa nhất, đó là chính Người, máu thịt của Ngài làm của ăn của uống để nuôi dưỡng và tăng sức cho chúng ta trên hành trình trần thế. Như đã nói, món quà này không phải là đồ lưu niệm, nhưng là món quà sống động, đem lại sự sống cho nhân loại. Vì thế khi trao tặng, Chúa Giêsu muốn chúng ta đón nhận Ngài cách chủ động, tích cực, để cho Ngài đi vào trong cơ thể con người và thấm sâu vào linh hồn mỗi người. Mình Máu Chúa sẽ là dưỡng chất, sự bồi bổ, tăng lực, tăng đề kháng giúp chúng ta chống trả ma quỷ, tội lỗi và cám dỗ, và thêm sức để ta có thể đi trọn hành trình trần thế.

Đón rước Mình và Máu Chúa, không chỉ Chúa ở lại trong chúng ta, mà chúng ta được ở lại trong Chúa, như con cái ở trong vòng tay cha mẹ. Vì thế, khi rước Chúa vào tâm hồn, đưa Chúa về gia đình, Chúa sẽ tiếp tục ở với mỗi thành viên trong gia đình. Chúa không ở như người khách, nhưng Chúa sẽ ở với các gia đình trong tư cách là Chúa, là Chủ gia đình đồng thời cũng là thành viên trong gia đình, để chia sẻ, trợ lực cho mọi lo toan của các gia đình.

Xin Chúa cho chúng ta được vượt qua cái nhìn tự nhiên để nhìn thấy Chúa đang hiện diện thật sự và sinh động trong Bí tích Thánh Thể. Xin Chúa giúp chúng ta được luôn xác tín và chạy đến tâm sự với Chúa như với người bạn, để được Chúa nâng đỡ an ủi khích lệ cả khi vui và lúc buồn, khi lo âu cũng như khi thành đạt. Amen.

Về mục lục

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ

Jorathe Nắng Tím

Đói là thử thách đáng sợ, là tai ương khủng khiếp của con người. Cứ nhìn những em bé gầy giơ xương, mới năm bẩy tuổi mà già như ông cụ chỉ vì đói, những thước phim ghi lại cảnh đói năm 1945 ở miền bắc Việt Nam với hơn một triệu người chết la liệt, chết co quắp, chết nhăn nhó tang thương vì đói đã làm rùng mình, kinh sợ. Bởi là người ai cũng sợ sống mà thiếu ăn; làm người, ai cũng hãi sống mà phải đói, cũng như không mấy người dám nghĩ đến cảnh phải chết đói, để phải thành “ma đói” dưới âm phủ. Chẳng thế mà người ta vẫn giữ tục lệ dành cho tử tội trước khi bị hành quyết được ăn một bữa no nê, để khỏi phải làm người chết đói.

Thời Cựu Ước, dân Do Thái những năm tháng trong sa mạc, trên đường từ Ai Cập về Đất Hứa đã thấm thiá cái đói của đoàn người lữ hành “thiếu thốn” trên hành trình dằng dặc dài và gian khổ. Trong những ngày đói ăn đó Thiên Chúa Giavê đã nuôi họ bằng manna từ trời như sách Đệ Nhị Luật đã ghi lại lời của Môsê nói với dân: “Người đã bắt anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn manna là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Đnl 8,3).

Thiên Chúa Giavê đã nuôi dân Ngài bằng manna là lương thực nuôi thân xác. Không của ăn, dân sẽ chết lả vì đói; không nước uống, dân sẽ chết khô vì khát, và Thiên Chúa đã chăm sóc, nuôi nấng dân Ngài, không để họ phải chết vì đói khát trong sa mạc. Nhưng Thiên Chúa còn muốn đi xa hơn, muốn làm nhiều hơn cho con người, khi ban cho con người lương thực thiêng liêng, lương thực ban sự sống đời đời, lương thực mà ai ăn sẽ không còn đói, và nguồn nước, ai uống sẽ không còn  khát. Lương thực ấy chính là Mình và Máu Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa đã được chính Đức Giêsu mặc khải: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).

Khi ban cho con người Mình và Máu, Đức Giêsu Thiên Chúa cho chúng ta được thông hiệp vào chính Thân Thể của Ngài, được kết hiệp với Chúa Cha, được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa (x. Ga 6,56-57). Đồng thời, chúng ta cũng được thông hiệp với anh em, khi ăn thịt và uống máu Con Thiên Chúa, vì tất cả đều là chi thể của một Thân Thể Đức Giêsu, như thánh Phaolô đã khẳng định: “Chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13).

Như thế, Mình và Máu Đức Giêsu không chỉ nuôi sống linh hồn và ban cho chúng ta sự sống đời đời, mà còn cho chúng ta được kết hiệp với Thiên Chúa và hiệp thông với anh em. Chính nhờ kết hiệp với Thiên Chúa mà chúng ta được sống đời đời, và nhờ hiệp thông với anh em mà chúng ta trở thành chi thể sống động, chi thể yêu thương của Thân Thể mầu nhiệm là Giáo Hội.

Qủa thế, nếu manna đã được Thiên Chúa ban để nuôi dân riêng trong sa mạc, thì Mình và Máu Đức Giêsu là lương thực được Thiên Chúa ban để nuôi Giáo Hội, dân mới của Thiên Chúa, “bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,17).

Chính Thánh Thể quy tụ, hiệp nhất, xây dựng, nuôi sống Giáo Hội, nên không có Giáo Hội, nếu không có Thánh Thể. Một Giáo Hội thiếu Thánh Thể, một Giáo Hội không yêu mến Thánh Thể, không tìm về Thánh Thể là nguồn tình yêu, ân sủng, sức sống sẽ là một Giáo Hội “không có Đức Giêsu”, không hiệp thông, không hiệp nhất, không sinh sôi nẩy nở, vì là một Thân Thể “không đầu”, cạn kiệt sức sống, chết lả, khô héo.

Trước những phong trào cải cách không muốn tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, không chấp nhận sự hiện diện đích thực và sống động của Đức Giêsu trong Mình Máu thánh, như đám đông người Do Thái ngày xưa đã phẫn nộ la ó phản đối khi nghe Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống” (Ga 6,54-55), ngay cả các môn đệ cũng có người cho những lời Ngài nói khó nghe qúa và từ lúc đó, nhiều  môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa (Ga 6,66), chúng ta, những người Kitô hữu, giữa một thế giới không còn muốn tin, trong lòng một xã hội muốn triệt hạ và loại bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ khó tránh khỏi những cám dỗ “nghi ngờ mầu nhiệm Thánh Thể”, và chỉ coi Thánh Thể như một biểu tượng, một biểu trưng mang tính hình thức, chứ không là Mình và Máu thật của Đức Giêsu, Thiên Chúa.

Chúng ta cũng bị cám dỗ hời hợt với Thánh Thể, khi không nhận ra Thánh Thể chính là Tình Yêu của Thiên Chúa, nên không thể đón nhận Thánh Thể với trái tim rực lửa hận thù, rước Mình Máu Chúa với lòng dạ ganh ghét, kiêu căng, ích kỷ, bởi Tình Yêu đòi hiệp nhất, hiệp thông, trao ban, chia sẻ như Mình Máu thánh đã được hiến dâng để làm nên một dân tộc mới hiệp nhất với Đức Giêsu, Thiên Chúa và hiệp thông với mọi người như các chi thể của một Thân Thể duy nhất.

Thực vậy, Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và sáng kiến tình yêu của Ngài luôn độc đáo, táo bạo, kỳ diệu mà bí tích Thánh Thể là một trong những sáng kiến đó, để ở lại và nuôi dưỡng linh hồn chúng ta một cách thực sự và sống động cho đến tận thế.

Mừng lễ Mình Máu thánh Chúa, chính là dịp sống lại lòng suy tôn Thánh Thể và yêu mến Thánh Lễ, ở đó tất cả chúng ta là Giáo Hội được quây quần, hiệp nhất nên một trong một tấm Bánh, một Thân Thể mầu nhiệm là Đức Giêsu.

Về mục lục

XÁC BỒN CHỒN HỒN HÉO HON

Trầm Thiên Thu

Khi cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi với Mùa Sáng, chúng ta cầu xin trong ngắm thứ năm: “Xin cho được năng kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể.” Tất nhiên cũng hiểu ngầm là tình trạng linh hồn phải thực sự xứng đáng.

Con người có hai phần: xác và hồn. Thân xác cần lương thực để duy trì sự sống và phát triển, linh hồn cũng vậy, và còn cần hơn nữa. Lo cho phần xác mà nhếch nhác phần hồn thì không chỉ hại chính mình mà còn làm cho Chúa buồn. Một tinh thần minh mẫn trong một thân xác khỏe mạnh, tương tự, nếu xác bồn chồn thì hồn héo hon là điều chắc chắn.

Con người rất cần lương thực – kể cả động vật và thực vật. Chiến tranh không ngừng cũng chỉ vì giành nhau miếng cơm, manh áo. Để duy trì sự sống, người ta cần có lương thực – một phần thiết yếu. Tuy nhiên, ngày nay người ta phải cảnh giác cao độ vì các loại thực phẩm nhiễm độc vì các hóa chất, đặc biệt là thực phẩm của Trung cộng, loài quỷ đỏ đang bị cả thế giới tẩy chay. Do đó, càng văn minh thì người ta càng quan ngại về thực phẩm, nghĩa là càng cần sự an toàn về thực phẩm. Ngày xưa người ta nghèo nhưng không lo về thực phẩm, hầu như an toàn tuyệt đối: không chất bảo quản, không tẩm thuốc, không hóa chất,…

Để hỗ trợ dân nghèo vì nhân đạo, Liên Hiệp Quốc đã thành lập tổ chức FAO (Food and Agriculture Organization – Tổ chức Lương Nông) ngày 16-10-1945 tại Canada. Tổ chức này nhằm 3 mục đích chính: 1) Nâng cao mức sống và mức dinh dưỡng của nhân dân các nước thành viên; 2) Nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực và nông sản; 3) Góp phần vào việc phát triển kinh tế thế giới và giải phóng nhân dân khỏi nạn đói. Trên logo của FAO có 2 chữ “Fiat Panis” (La ngữ) – nghĩa là “Để Có Lương Thực” (let there be bread).

Là Đấng giàu lòng thương xót, Chúa Giêsu sợ người ta đói nên Ngài đã chạnh lòng thương mà hai lần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho đám người “quên” cái bụng đói vì say mê nghe Ngài giảng thuyết. Các thánh sử đã ghi lại phép lạ lần một (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14), với 5 cái bánh và 2 con cá, số thực khách lên tới 5.000 người, chưa kể phụ nữ và trẻ em, phần dư còn thu được 12 thúng đầy; và lần hai (Mt 15:32-39; Mc 8:1-10), với 7 cái bánh và vài con cá nhỏ, khoảng 4.000 người no nê, cũng không tính phụ nữ và trẻ em, phần dư còn thu được 7 thúng đầy.

Đó là ngụ ý đề cập Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong buổi Dạ Tiệc Vượt Qua, trước khi Ngài chịu chết vì tội lỗi của chúng ta. Máu và thịt không thể tách rời, vì đó là dấu cho thấy có sự sống.

Trong cuộc sống đời thường, ăn uống là chuyện thường xuyên, nên khi đề cập cái gì thường xuyên thì người ta thường ví von “như cơm bữa.” Ăn và uống thường đi đôi. Ăn là một trong tứ khoái của con người, đặc biệt là đứng đầu, có thể gọi là “đệ nhất khoái.” Tuy nhiên, miếng ăn cũng có thể là vinh dự hoặc nhục nhã. Có lẽ vì vậy, nhất là với người có lòng tự trọng, tục ngữ Việt Nam so sánh: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ.” Ăn cũng có nghệ thuật ăn, không phải cứ cho vô miệng là xong. Không chỉ vậy, ăn không chỉ để no bụng mà còn cần ngon miệng: Đồ ăn ngon, chỗ ăn ngon, và người ăn ngon (cùng ăn). Thế mới đủ độ ngon. Chuyện ăn uống quả là phức tạp!

Ngày xưa, khi dân Israel đi qua sa mạc ròng rã 40 năm để tới Miền Đất Hứa, lương thực duy nhất là manna. Suốt 40 năm chỉ một món manna thế thì ngán thật. Thảo nào vì chán ngán mà thấy thèm đồ ăn ngon ngày xưa thường ăn, thế rồi cả đám con cái Israel khóc lóc than vãn: “Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? Nhớ thuở nào ta ăn cá bên Ai Cập mà không phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào hành, nào tỏi. Còn bây giờ đời ta tàn rồi; mọi thứ đó hết sạch, chỉ còn thấy manna thôi.” (Ds 11:4-6) Giữa sa mạc khô cằn hoang vu mà đòi thịt thì lấy đâu được chứ? Môsê thấy “đau đầu, nhức óc” ghê gớm. Khổ!

Theo Kinh Thánh, manna là loại “bánh từ trời,” nhìn như hạt ngò và trông như nhựa hương. Lạ quá chừng! Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, mùi vị manna cũng y như mùi vị bánh chiên dầu. Thơm phức, nức lòng. Đêm về, sương rơi trên doanh trại, và manna cũng rơi xuống. (Ds 11:7-9) Cái món manna lạ nhưng ăn hết ngày này sang tháng nọ thì cũng thấy ngán. Dân kêu réo, Môsê đành “cầu cứu” Chúa. Ngài cho gió lùa chim cút tới, lớp chim cút dày tới cả mét, dân cứ việc lượm mà ăn cho thỏa thích. Nhưng người ta tham lượm nhiều để dành, thế nên Chúa nổi trận lôi đình. (Ds 11:31-33) Tham thì thâm. Rõ ràng là “thần khẩu hại xác phàm” – cái miệng hại cái thân. Có ăn cũng khổ, chẳng sướng gì!

Dân cứng đầu cứng cổ, ngang ngược, xấc xược, thế nên Thiên Chúa thịnh nộ. Họ được ăn mà không biết cảm ơn lại còn dám nổi loạn. Loài người vô ơn bạc nghĩa thật! Nhưng Ngài vẫn luôn nhân từ, vẫn tha thiết mời gọi: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào.” (Is 55:1) Thế nhưng con người “chảnh” lắm, nên ca dao cũng có tâm sự buồn: “Khi vui chẳng nhớ tới ai, Đến khi nóng cứ trái tai mà sờ.”

Nói đi rồi nói lại, nhắc tới rồi nhắc lui, Kinh Thánh tiếp tục cho biết: “Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy Người thử thách anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không. Người đã bắt anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra.” (Ðnl 8:2-3) Chính Đức Kitô cũng đã nhắc nhở y như vậy. (x. Mt 4:4; Lc 4:4) Xác cần ăn thì hồn cũng cần ăn, có vậy mới sống và phát triển cân bằng – thể lý, tâm sinh lý, trí tuệ, đặc biệt là tâm linh.

Không thể ngưng hoặc im lặng, Kinh Thánh lại tiếp tục vừa giải thích vừa động viên: “Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Người đã dẫn anh em đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước. Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy ra cho anh em uống. Trong sa mạc, Người đã cho anh em ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh em chưa từng biết, để bắt anh em phải cùng cực và thử thách anh em, hầu làm cho anh em được hạnh phúc trong tương lai.” (Ðnl 8:14-16) Thế nhưng trái tim phàm nhân nếu không bằng đá thì cũng bị xơ cứng, nghe xong rồi quên, hứa xong rồi thôi, vậy mà vẫn tự nhận mình là “cái rốn của vũ trụ,” là “số dzách,” cho nên lúc nào cũng chỉ chực nổi loạn. Không hề oan ức. Đó là loại “ADN kiêu ngạo” di truyền từ Ông Bà Nguyên Tổ. Mệt ghê!

Không chỉ là phàm nhân mà còn là tội nhân, nhưng “cái tôi” của chúng ta to hơn cái tháp Eiffel, chẳng cần biết ai, kể cả Chúa. Vì thế, chúng ta vẫn tưởng mình “ngon lành” lắm, dám mạo nhận mình là ân nhân, mặc dù chúng ta chỉ cho người khác những thứ thừa thãi – còn tệ hơn bố thí, thay vì vứt đi! Do đó, Thánh Vịnh gia nhắc khéo bằng cách mời gọi: “Giêrusalem hỡi, nào tôn vinh Chúa! Này Sion, hãy ca ngợi Thiên Chúa của ngươi! Then cửa nhà ngươi, Chúa làm cho thêm chắc, con cái trong thành, Người giáng phúc thi ân. Cõi biên cương, Người thiết lập hoà bình, và cho ngươi no đầy lúa mì tinh hảo.” (Tv 147:12-14) Đúng là tình yêu Chúa bao la, hồng ân Chúa chan hòa, lòng thương xót của Ngài vô tận.

Dân Israel là Dân Riêng của Chúa, và cũng là hiện thân của chúng ta, bởi vì chúng ta cũng là Dân Thánh của Ngài. Chúng ta cũng được “đặc cách” mà vẫn vô ân bội nghĩa. Thật vậy, Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa bày tỏ lời Người cho nhà Giacóp, chiếu chỉ luật điều cho Israel. Chúa không đối xử với dân nào như vậy, không cho họ biết những điều luật của Người.” (Tv 147:19-20) Thật thấm thía với lời xác định của bác học André Marie Ampère: “Con người chỉ vĩ đại khi quỳ gối cầu nguyện.” Đó là lúc nhận biết Chúa là ai và nhận ra mình là gì.

Dù chẳng đáng gì, nhưng chúng ta được Thiên Chúa ban tặng mọi thứ, tặng phẩm đặc biệt là chính Con Một Ngài – Đức Giêsu Kitô. Đó là hệ quả của “khối tình si” của Thiên Chúa dành cho đám tội nhân chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3:16) Vâng, Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân. (Rm 5:8) Và rồi Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.” (1 Cr 10:16-17) Đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta về việc yêu thương nhau – yêu thương bằng mọi động thái, bằng cả con người của mỗi chúng ta: Hai mắt để nhìn nhiều, hai bán cầu não để động não nhiều, hai tai để lắng nghe nhiều, hai tay để hành động nhiều, hai chân để đến với nhau, nhưng một miệng để nói ít, và một con tim để trung tín.

Đã có lần Chúa Giêsu nói với người Do Thái trong thời gian đi rao giảng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6:51) Nghe “chói tai” nên họ tranh luận sôi nổi, và đặt vấn đề: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52) Ừ, nghe thấy ớn thật. Nhưng họ ớn vì họ không chịu tin Ngài là Con Thiên Chúa.

Vấn đề cốt lõi là chỗ đó. Nhưng làm sao họ hiểu được. Nếu có chúng ta trực tiếp nghe Chúa Giêsu nói lúc đó, chắc chắn chúng ta cũng phản đối tới cùng chứ chẳng vừa đâu. Chúa Giêsu biết hết, và Ngài nghiêm túc nói với họ, có vẻ “dài dòng” nhưng cần thiết, đồng thời cũng vừa xác định vừa giải thích: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6:53-58) Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ làm cho chúng ta sống, vì chính Ngài là Sự Sống, (Ga 14:6) mà Ngài còn cho chúng ta được sống dồi dào. (Ga 10:10) Sống đúng mức, tới đỉnh điểm của sự viên mãn.

Thật vậy, điều đó đã được Chúa Giêsu thực hiện ngay khi cùng các môn đệ ăn Bữa Tiệc Ly, và đó cũng là cách Ngài thực hiện lời hứa trước đó: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Một cách tương tự là Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” (Ga 14:16) Và Chúa Thánh Thần vẫn đang ở với chúng ta cùng với Thánh Thể, bây giờ và mãi đến lúc không còn thế gian này nữa.

Giống nhau mà rất khác nhau, bởi vì cũng là “bánh từ trời,” nhưng manna chỉ là lương thực bình thường, ăn để sống phần xác rồi… chết, còn Mình Máu Đức Kitô là lương thực thiêng liêng, vừa là Thần Lương vừa là Thần Dược, ăn để sống và điều trị phần hồn (kể cả phần xác), đặc biệt là Thánh Thể làm cho chúng ta bất tử và được hưởng vĩnh phúc. Thánh Thể chính là Thần Lương cho chúng ta đủ sức kiên nhẫn đi hết chặng đường lữ hành trần gian, là Của Ăn Đàng, là Nguồn Trường Sinh của chúng ta. Nhờ Thần Lương Thánh Thể, chúng ta không chỉ sống mà sống dồi dào, sống sung mãn.

Mẹ Thánh Teresa Calcutta xác định: “Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể.” Đối với Bí tích Thánh Thể, chúng ta phải có đức tin thực sự trưởng thành, không thể dựa trên thính thị hoặc cảm giác. Chỉ có đức tin mới thực sự cảm nghiệm được Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì.

Hằng ngày, mỗi khi rước lễ là chúng ta đón rước Thiên Vương Giêsu vào lòng, lúc đó Chúa Tể càn khôn đang hòa tan vào chúng ta, nên một với chúng ta, thật là đại phúc cho phàm nhân và tội nhân chúng ta. Ước gì sau khi rước lễ, chúng ta có được vài phút để cùng nhau cảm nghiệm Chúa Giêsu Thánh Thể, Vua Thương Xót. Ngài muốn lắng nghe chúng ta về mọi điều buồn vui, đặc biệt là Ngài muốn chúng ta tôn thờ và cảm tạ Ngài. Vài phút ngắn ngủi đó rất cần thiết cho đời sống của tín nhân – những người khao khát sự sống của Đức Giêsu Kitô.

Đức tin là điều rất quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Bí tích Thánh Thể luôn “gắn liền” với đức tin, nhưng cũng phải thận trọng lắm, vì có thể dễ trở thành cuồng tín hoặc tin lệch lạc. Vấn đề tín lý không đơn giản. Tương tự, khi nói về Kinh Thánh cũng phải thận trọng, nếu không cũng rất nguy hiểm. Chẳng hạn, mới đây có người nói trong một bài viết nói về “con tim” mà sai tín lý. Nguyên văn của tác giả: “Lạy Chúa Giêsu mến yêu! Như trái tim của Ápraham đau khổ khi vâng lời Chúa, sát tế con mình, như trái tim Môsê vâng lệnh Chúa đưa dân Israel vào sa mạc suốt 40 năm mà vẫn không vào được Đất Hứa, hoặc như trái tim vua Đavít đã hối hận ăn năn vì biết bao tội lỗi mình đã phạm, và trái tim đau khổ vô ngần khi Mẹ Maria vâng theo Thánh ý Chúa Cha để công cuộc cứu độ loài người được hoàn tất.”

Thật vô cùng nguy hiểm nếu tác giả “trực tiếp chia sẻ” với người khác như vậy, nếu người nghe là tân tòng thì càng nguy hiểm hơn. May thay bài viết này tác giả đã được thông báo và kịp sửa lại cho đúng tín lý Công giáo. Ngày xưa, khoảng vài thập niên của thế kỷ XIX cũng vẫn có các tà thuyết hoặc dị giáo, trước đó có nhiều – ví dụ: Albigensianism (thế kỷ XII–XIII), Arianism (thế kỷ IV), Donatism (năm 311), Jansenism (thế kỷ XVII), Macedonianism (khoảng năm 362), Manichaeism (khoảng 216–276), Nestorianism (giữa thế kỷ IV và V), Pelagianism (thế kỷ V), Priscillianism (thế kỷ IV–V), Calvinism (1570),… Chỉ vì họ tin sai và suy diễn lệch lạc, đối nghịch với đức tin Công giáo. Phải chăng họ muốn lập tân giáo? Ngày nay cũng vẫn có người tự xưng là giáo chủ của phái này, phái nọ. Nguy hiểm!

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất, xin gia tăng đức tin, thắp Lửa Yêu Mến và biến đổi trái tim chai sạn của chúng con, để chúng con chỉ yêu mến Ngài mà thôi, yêu bằng cả con người của chúng con, xin thêm sức mạnh để chúng con vượt qua mọi mưu ma chước quỷ, để chúng con xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể Ngài mỗi ngày. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Thánh Phụ, hiệp nhất với Thánh Linh đến đời đời. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT LỄ MÌNH MÁU CHÚA

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Vào ngày lễ Mình và Máu Thánh Đức Ki-tô, Phụng Vụ Lời Chúa cử hành sự kiện Thiên Chúa ban tặng bánh từ trời làm lương thực cho nhân loại.

Đnl 8: 2-3, 14-16

Sách Đệ Nhị Luật nhắc lại ân ban bánh Man-na kỳ diệu từ trời xuống mà Đức Chúa ban cho dân Do thái để nuôi dưỡng họ trong suốt cuộc hành trình qua sa mạc khô cằn nóng cháy và thiếu thốn.

1Cr 10: 16-17

Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nêu lên bí tích Thánh Thể, bí tích hiệp nhất mọi Ki-tô hữu khi cho họ được dự phần vào chỉ một tấm bánh là Thân Thể Đức Giê-su.

Ga 6: 51-58

Tin Mừng Gioan trích từ diễn từ về “Bánh Hằng Sống” trong đó Đức Giê-su tuyên bố Ngài chính là “Bánh Hằng Sống”, bánh ban sự sống đời đời cho nhân loại.

BÀI ĐỌC I (Đnl 8: 2-3, 14-16)

Đệ Nhị Luật là sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư, được gọi chung là “Sách Luật” (Tô-ra). Tuy nhiên, thuật ngữ Tô-ra theo tiếng Do thái không có nghĩa pháp lý, nhưng là những giáo huấn giúp soi sáng, hướng dẫn cách ăn nếp ở của người tín hữu.

Nhan đề sách: “Đệ Nhị Luật”, có nghĩa “Luật thứ hai” hay “Thứ Luật” (tiếng Hy lạp: Deuteros: thứ hai, và nomos: luật). Tác phẩm này là “ôn cố tri tân”, nghĩa là nhắc lại những lời dạy của Mô-sê để dân biết phải sống như thế nào khi ở trong Đất Hứa. Thật ra, sách này được biên soạn vào thế kỷ thứ 8 hay thứ 7 tCn, khi dân Ít-ra-en đã an cư lạc nghiệp qua nhiều thế kỷ ở đất Ca-na-an và có chiều hướng quên Giao Ước cũng như những huấn lệnh tôn giáo và luân lý.

Sách Đệ Nhị Luật chủ yếu bao gồm những diễn từ, được gán cho ông Mô-sê, nhân vật được xem như đang ngỏ lời với dân Do thái trước ngưỡng cửa Đất Hứa, để cảnh giác họ về những mối nguy hiểm đang rình rập họ khi sống trong môi trường ngoại giáo tại đất Hứa, cũng như để khẩn khoản nài van họ trung thành với những giới luật của Thiên Chúa như điều kiện tiên quyết để sống dài lâu trong Đất Hứa.

Bản văn hôm nay được trích từ chương 8 của sách Đệ Nhị Luật gồm hai phần: 8: 2-3 và 8: 14-16. Phần trích dẫn thứ nhất nhấn mạnh nguồn gốc từ trời của bánh Man-na, trong khi phần trích dẫn thứ hai nhấn mạnh giá trị dấu chỉ của bánh Man-na, dấu chỉ của việc Thiên Chúa can thiệp cách đặc biệt, nhờ đó dân Ngài được sống trong những ngày tháng lang thang trong sa mạc. Cả hai phần trích dẫn đều bắt đầu với những nhắc nhở: “Anh em hãy nhớ lại” và “Anh em đừng quên” bánh Man-na là một thiên ân.

1.“Anh em hãy nhớ” (8: 2-3)

Phần trích dẫn thứ nhất mở ra với lời mời gọi dân Ít-ra-en “nhớ lại” những thử thách mà họ đã trải qua trong sa mạc: “Anh em hãy nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi trong sa mạc suốt bốn mươi năm qua”, vì thời gian thử thách là cách thức Thiên Chúa giáo huấn dân Ngài khỏi mọi ảnh hưởng xa lạ. Chính khi sống trong khung cảnh nghèo khó, kham khổ và gian nan vất vả mà con cái Ít-ra-en thấy mình hoàn toàn phụ thuộc vào Thiên Chúa. Bánh Man-na đã là một ân ban đặc biệt, lương thực từ trời, để cho con người hiểu rằng “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi điều từ miệng Chúa phán ra”. Có một sự đồng hóa và hầu như đồng nhất giữa bánh Man-na và Lời Thiên Chúa, vì Lời Chúa cũng là lương thực ban sự sống cho con người. Đó cũng là câu trả lời của Đức Giê-su cho Xa-tan khi Ngài chịu những chước cám dỗ trong hoang địa (Mt 4: 4).

  1. “Anh em đừng quên”(8: 14-16)

Phần trích dẫn thứ hai kêu gọi “đừng quên” những ân phúc Thiên Chúa ban cho dân Ngài trong sa mạc khi phải đối mặt với biết bao nguy hiểm. Lời ghi nhận này cũng gợi nhớ ơn Quan Phòng lạ lùng, tức là bánh Man-na.

  1. Bánh Man-na

Bánh Man-na có thể từ một thứ nhựa cây rỉ ra và đông cứng lại. Loại cây sa mạc thuộc gia đình liễu bách này, khi bị côn trùng chích vào, liền tiết ra một thứ nhựa và đông cứng lại trong khí lạnh ban đêm và khi mặt trời mọc lên những hạt nhựa này rơi xuống đất như những hạt nhỏ có vị mật ong. Đây là lương thực mới lạ mà dân Do thái bất ngờ gặp thấy cho đến lúc đó, vì thế tên gọi Man-na có nghĩa “Cái gì đây?” (Xh 16: 15). Từ đó, bánh Man-na là lương thực hằng ngày của họ cho đến cuối cuộc hành trình băng qua sa mạc. Thánh vịnh 78 gợi lên bánh Man-na là “bánh của những kẻ mạnh” mà bản Bảy Mươi dịch “bánh của các thiên thần”. Văn chương kinh sư loan báo rằng bánh Man-na sẽ là thức ăn của thời thiên sai. Đức Giê-su trình bày bánh Man-na là hình ảnh báo trước bánh ban sự sống đích thật, tức là Bánh Thánh Thể.

BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 16-17)

Cùng chung một bàn ăn, cùng chia sẻ một tấm bánh, tạo nên “tình liên đới” giữa những người đồng bàn. Nghi thức Thánh Thể là một nghi thức “đồng hội đồng thuyền”“đồng sinh đồng tử”“sống chết có nhau”“Bánh Thánh Thể” không là bất cứ bánh nào mà người ta chia sẻ với nhau; “rượu Thánh Thể” cũng không là bất cứ rượu nào mà người ta chuyền tay cho nhau. Bánh mà người ta ăn, chính là “Thân Thể Đức Ki-tô”, rượu mà người ta uống chính là “Máu Đức Ki-tô”, nghĩa là thiết lập mối liên hệ vừa vật chất vừa mầu nhiệm giữa các tín hữu với nhau và với Đức Ki-tô. Thánh Thể là bí tích của sự hiệp nhất tuyệt vời. Đồng bàn với Đức Kitô, Chúa chúng ta, mọi người đều được dự phần vào cùng một thực tại siêu nhiên: nên một với Đức Ki-tô. Đức Ki-tô làm cho cộng đoàn Ki-tô hữu trở nên một thực thể duy nhất.

Đây là đạo l‎ý căn bản của thánh Phao-lô. Trong cùng thư gửi tín hữu Cô-rin-tô này, thánh nhân khai triển chủ đề “liên đới” của mọi chi thể thành một thân thể với Đầu, Thủ Lãnh, là Đức Ki-tô, Ngài vừa nguyên l‎‎ý của sự sống vừa là nguyên lý của sự hiệp nhất: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12: 27).

Thánh Phao-lô lại càng có l‎ý do nhấn mạnh sự liên đới này hơn nữa vì các tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau. Thánh nhân muốn cho họ hiểu rằng họ không chỉ liên đới với nhau thành một cộng đồng duy nhất, nhưng còn với các cộng đoàn khác thành một Giáo Hội duy nhất bất khả phân chia.

TIN MỪNG (Ga 6: 51-58)

Ngày hôm sau Đức Giê-su trở lại Ca-phác-na-um, ở đó Ngài gặp lại đám đông mà Ngài đã cho họ ăn no nê qua dấu lạ “hóa bánh ra nhiều”. Trên bờ hồ, Đức Giê-su bắt đầu ngỏ lời với họ (Ga 6: 26); sau đó, trong hội đường Ca-phác-na-um (Ga 6: 59), Ngài hoàn tất bài diễn từ của Ngài, được gọi là diễn từ về “Bánh Hằng Sống”.

Bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống” (6: 26-58) được chia làm hai phần. Phần thứ nhất (6: 26-51b) được gọi là “diễn từ về Lời Chúa”, trong đó Đức Giê-su tự giới thiệu Ngài là “Lời từ trời xuống ban sự sống đời đời”. Phần thứ hai (6: 51c-58) được gọi là “diễn từ về Thánh Thể”, trong đó Ngài tự giới thiệu Mình và Máu Ngài là “của ăn đích thật ban sự sống đời đời”. Toàn bộ câu 51 đóng chức năng nối kết hai phần của một diễn từ: lời công bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” kết thúc diễn từ: “Bánh Hằng Sống là Lời Ngài”; lời công bố thứ hai: “Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” mở ra diễn từ: “Bánh Hằng Sống là Mình Ngài”.

Đoạn trích dẫn hôm nay là phần thứ hai của diễn từ “Bánh Hằng Sống là Mình Ngài”. Trong phần thứ nhất, Đức Giê-su đòi hỏi phải tin vào Ngài như điều kiện tiên quyết, bởi vì Mặc Khải mà Ngài sắp ban lạ lùng đến nỗi nó đòi hỏi, trước hết, “phải tin vào Đấng Chúa Cha đã sai đến” và “tín thác vào Lời Ngài”. Tiếp đó, Đức Giê-su không úp mở khai triển phần thứ hai, phần trọng điểm lời công bố của Ngài. Đây là đoạn Tin Mừng được trích dẫn vào ngày lễ “Mình và Máu Chúa Ki-tô”.

  1. Bánh Hằng Sống Đức Giê-su ban chính là Mình và Máu của Ngài:

Trong suốt những lời tuyên bố gây kinh ngạc của Ngài: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”, Đức Giê-su không ngừng gợi lên nguồn gốc thiên giới của Ngài và tử hệ thần linh của Ngài. Chính vì Ngài đến từ Chúa Cha và nên một với Chúa Cha, mà Ngài có thể tự mình ban phát sự sống thần linh cho nhân loại: “Bánh tôi sẽ cho, chính là thịt tôi ban, để thế gian được sống”.

Những lời này rất gần với những lời mà Đức Giê-su sẽ công bố khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26: 26; Mc 14: 22; Lc 22: 14; 1Cr 11: 24). Chúng ta lưu ‎ý rằng thánh Gioan không dùng từ “sôma” (thân xác) như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng từ “sarx” (nhục thể, nhân tính), bởi vì từ “sôma” rất dễ hiểu lầm, quả thật, ‎ý nghĩa đầu tiên của từ “sôma” là xác chết, thây ma (x. Lc 17: 37). Với từ “sarx” này, thánh Gioan nối kết Bí Tích Thánh Thể với Mầu Nhiệm Nhập Thể (Ga 1: 14). Ngôi lời nhập thể để trở nên bánh ban sự sống. Mầu nhiệm Nhập Thể là căn nguyên của ơn cứu độ.

  1. Khó mà tin được

“Người Do thái liền tranh luận sôi nổi với nhau”. Danh xưng “người Do thái” chung chung mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin Mừng thứ tư. Danh xưng này được dùng để chỉ những người Do thái cứng lòng tin; trái lại, danh xưng “Ít-ra-en” được dành riêng cho những người gắn bó mật thiết với Đức Giê-su.

Quả thật, người Do thái càng tỏ thái độ nghi nan ngờ vực: “Ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được”, Đức Giê-su càng nhấn mạnh hơn nữa. Lời công bố của Ngài càng trở nên thách thức hơn nữa, vì Ngài không chỉ kể ra thịt của Ngài mà còn cả máu của Ngài nữa: “Quả thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, thì các ông không có sự sống nơi mình…”

Đối với những người Do thái nghi nan ngờ vực, lời công bố này không thể nào tin được, nhưng còn quá kỳ chướng. Như chúng ta biết, dân Do thái bị nghiêm cấm triệt để không được ăn máu bởi vì máu là trung tâm sự sống được dành riêng cho Thiên Chúa. Vì thế, trong mỗi hy tế, máu phải được dâng hiến trọn vẹn lên Thiên Chúa.

Theo cách thức này, Đức Giê-su loan báo tính cách hy tế của Thánh Thể, cũng như mối hiệp nhất khả phân giữa ân ban thịt và máu của Ngài với cuộc Tử Nạn của Ngài.

  1. Thịt và máu “Con Người”

Nhưng ở bên kia cuộc Tử Nạn của Ngài, Đức Giê-su gợi lên cuộc siêu tôn của Ngài khi quy chiếu đến danh xưng “Con Người”“Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời” (6: 53). “Thịt và máu Con Người” thuộc trật tự khác với trật tự trần thế: Đức Giê-su sẽ ban cho nhân loại “thịt và máu” của Ngài làm lương thực, chính là “Thân Thể vinh hiển” của Ngài. Sau diễn từ này, Ngài cũng sẽ quy chiếu theo cùng một cách như vậy khi ngỏ lời với các môn đệ đang xầm xì về vấn đề này: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62).

Như vậy, khi loan báo ân ban Thánh Thể một cách hiện thực và khá mạnh bạo, Đức Giê-su thử làm cho hiểu rằng ân ban này sẽ được trình bày một cách mầu nhiệm, hoàn toàn đặc biệt (được ẩn dấu dưới kiểu nói: “bánh hằng sống từ trời xuống”).

  1. Lời hứa ban sự sống

Về thành quả của Bí Tích Thánh Thể, điểm nhấn được đặt trên sự sống: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy được sống lại… Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Qua lời này, Đức Giê-su khẳng định cách rõ ràng sự sống siêu nhiên và ‎ý nghĩa cánh chung của nghi thức Thánh Thể.

  1. Hiệp thông mật thiết và nội tại

Lời công bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy”, gợi lên sự hiệp thông mật thiết đến độ không gì có thể sánh ví được. Động từ “ở lại” là một động từ tâm đắc của thánh Gioan, qua đó thánh k‎ý diễn tả tính thường hằng của sự sống siêu nhiên luân chuyển trong mỗi Ki-tô hữu, một cách nào đó, tính nội tại của Vương Quốc.

  1. Lễ Vượt Qua sắp đến

Dấu lạ “hóa bánh ra nhiều” và diễn từ “Bánh Hằng Sống” được thánh Gioan xác định ngay từ đầu: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái” (Ga 6: 4). Đó là l‎ý do tại sao có đông đảo người ở Ca-phác-na-um. Từ khắp nơi, người ta quy tụ với nhau ở đây để theo từng nhóm hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Như vậy, chính trong bối cảnh lễ Vượt Qua mà Đức Giê-su ban cho đám đông Mặc Khải gây xôn xao của Ngài. Trong Tin Mừng thứ tư, lễ Vượt Qua sắp đến này là lễ Vượt Qua áp chót của Đức Giê-su. Vào lễ Vượt Qua năm tới, Ngài sẽ thực hiện lời hứa của Ngài khi thiết lập lễ Vượt Qua đích thật của Ngài, lễ Vượt Qua của Ki-tô giáo.

Về mục lục

 

THỊT VÀ MÁU

 Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Thịt và máu là hai yếu tố căn bản làm nên một thân xác con người. Thịt và máu cũng là biểu tượng của sự gắn bó liên kết. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể, tức là làm cho bánh trở nên Thịt Người và rượu trở nên Máu Người. Qua bí tích này, Chúa muốn ở lại với nhân loại, để đồng cam cộng khổ với con người của mọi thời đại. Cũng qua bí tích này, Chúa cho phép con người được gắn bó với Chúa, nhờ ăn uống Thịt và Máu Người, là lương thực thần linh. Lương thực này vừa ban sức sống thiêng liêng cho con người khi còn tại thế, vừa là bảo đảm cho họ được sự sống đời đời.
 
Bí tích Thánh Thể là sự kết hợp thiêng liêng với Chúa Giêsu. Trong cuộc tranh luận với người Do Thái, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy”. Nhờ việc rước lễ, người tín hữu được ở trong Chúa Giêsu. Hơn thế nữa, một cách nào đó, họ được trở nên chính Chúa, để rồi họ có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là chính Chúa Giêsu sống trong tôi” (Gl 2,20). Khi ta ăn uống lương thực và thực phẩm, thì các loại lương thực và thực phẩm ấy được biến hóa trở nên máu thịt làm cho thân xác ta được khỏe mạnh và tràn đầy sức sống. Nhưng khi chúng ta lãnh nhận Mình và Máu Đức Giêsu, chúng ta được biến đổi dần dần để nên giống như lương thực mà chúng ta đã ăn, để trở nên đồng hình đồng dạng với Con Thiên Chúa. Đây là sự khác biệt giữa lương thực vật chất và lương thực thiêng liêng.
 
Manna trong Cựu ước và phép lạ nhân bánh trong Tân ước chỉ là hình bóng của Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu thiết lập trong bữa tiệc ly. Nếu người Do Thái vẫn còn in đậm trong trí nhớ phép lạ Manna, thì Chúa Giêsu quả quyết với họ, chính là Chúa Cha ban cho họ lương thực huyền nhiệm đó, đồng thờ Chúa nêu sự khác biệt giữa Manna với Thánh Thể: Manna chỉ là lương thực vật chất để nuôi sống thân xác; Thánh Thể chính là lương thực thần thiêng để nuôi sống tâm hồn. Manna chỉ là lương thực đời này; Thánh Thể là bảo đảm cho con người được hưởng sự sống đời sau.
 
Khi cử hành trọng thể lễ kính Mình và Máu Đức Kitô, Giáo Hội mời gọi chúng ta đừng quên sự hiện diện huyền nhiệm của Chúa Giêsu trong Bí tích cực trọng này. Trong bảy bí tích Chúa Giêsu đã thiết lập, bí tích Thánh Thể được gọi là “Bí tích rất thánh – Sancti – Saint Sacrement”. Bởi đây là sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu. Trong bí tích Thánh Thể, “có trọn vẹn linh hồn và thể xác, thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể” như Công đồng Tridentinô đã xác quyết và định tín. Vì vậy, theo truyền thống của Giáo Hội Công giáo, sau thánh lễ này, thường có cuộc rước trọng thể để tôn vinh sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu. Sự hiện diện này không chấm dứt khi thánh lễ kết thúc, như một số giáo phái Kitô khác chủ trương.
 
Bí tích Thánh Thể cũng là lời mời gọi sống yêu thương và hiệp thông với nhau như máu với thịt. Mối hiệp thông này có hai chiều kích: Hiệp thông chiều dọc và hiệp thông chiều ngang. Hiệp thông chiều dọc là gắn bó với Chúa Giêsu để nhờ Người mà chúng ta được gặp gỡ Chúa Cha. Hiệp thông chiều ngang là tình liên đới cảm thông với anh chị em mình. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự hiệp thông chiều ngang này khi Ngài viết cho giáo đoàn Côrinhtô: “Bởi vì chí có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (Bài đọc II). Qua hình ảnh một thân thể, vị Tông đồ dân ngoại muốn nhắc chúng ta sống liên kết và yêu thương nhau. Bởi lẽ tất cả đều được nuôi dưỡng bằng một lương thực thần thiêng là Mình và Máu Đức Giêsu. Lương thực ấy liên kết chúng ta thành một thân thể là Giáo Hội. Người Việt Nam chúng ta thường nói: “Máu chảy ruột mềm”. Hình ảnh này muốn nói lên tình tương thân tương ái giữa mọi thành viên trong gia đình với nhau và còn vươn rộng hơn là tình đồng loại, để gia tay cứu giúp những ai hoạn nạn khổ đau và những người bất hạnh.
 
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Bài đọc I). Ông Môi-sen nhắc nhở dân Do Thái hồi tưởng lại những việc kỳ diệu Chúa đã làm, để tôn vinh quyền năng cao cả của Chúa, cũng là để cảm tạ tình thương bao la của Ngài. Tôn thờ Thánh Thể cũng là tôn thờ quyền năng cao cả của Chúa. Bởi lẽ như chúng ta đọc trong “Kinh Cám ơn thông dụng” của Mùa Chay: “Chúa trọng vô cùng cả và trời đất chứa chẳng đủ, mà rầy muốn ở trong một Hình Bánh nhỏ làm vậy…”. Thiên Chúa cao cả ẩn mình trong bí tích Thánh Thể vì yêu thương con người. Qua Bí tích này, Chúa cũng dạy chúng ta bài học khiêm nhường, sống và hy sinh vì tha nhân, như Chúa đã trở nên của ăn của uống cho con người.

Về mục lục

.

TẤM BÁNH TÌNH YÊU

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.

Tấm bánh, tình yêu gần gũi.

Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.

Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.

Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị.

Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.

Tấm bánh, tình yêu tự hiến.

Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.

Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.

Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.

Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.

Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.

Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.

Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.

Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.

Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?

Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?

Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?

2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?

3) Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?

Về mục lục

.

THỊT MÁU CHÚA LÀ CỦA NUÔI HỒN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống sống trường sinh. Thế nên, người ta ra công tìm mọi cách để kéo dài sự sống bao lâu có thể. Một trong những thứ đó là “Bánh” mà phụng vụ lễ Mình Máu Thánh Chúa năm A đề cập đến : bánh vật chất, bánh Giêsu và bánh Thánh Thể.

Manna của ăn trong sa mạc

Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, “Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn” (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa.

Thật đáng ngưỡng mộ, Thiên Chúa đã làm mưa Manna từ trời xuống mỗi ngày cho cha ông chúng họ ăn no thỏa thích. Đó là lý do tại sao người ta nói : “Bánh Thiên Thần phàm nhân được hưởng” (Tv 77, 25). Nhưng cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân Israel trong sa mạc, hay bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta bánh bởi trời xuống là chính Chúa, Người đến làm no thỏa cái đói tinh thần con người, ai ăn chính Người sẽ khỏi đói muôn đời, và nhất là khỏi chết đời đời: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).

Bánh Giêsu

Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, là hồng ân bởi trời, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống đời đời, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở cung lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, dẫn con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thất bại, gặp phải điều cấm kỵ trong dân Israel khi tuyên bố : “Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51 ). Người dẫn chứng : “Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết”, khiến họ tranh luận với nhau: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được? ” (Ga 6, 52). Họ không vượt qua được nguồn gốc trần thế của Chúa Giêsu, vì thế họ khước từ tiếp nhận Chúa Giêsu như Lời nhập thể của Thiên Chúa. Và như một hệ quả, họ đã mang án tử để đi vào cõi chết vì không tin. Họ còn quá xa bánh bởi trời và không cảm thấy đói bánh ấy.

Thế giới ngày nay có rất nhiều người đói và cần bánh. Có người cam chịu chết đói, chết vì cô đơn, vì thiếu hy vọng, nhưng cũng có nhiều người cần đến Chúa Giêsu. Có ba cái đói và ba phương thế để chuyển hóa ba loại bánh : bánh vật chất, bánh Giêsu và bánh Thánh Thể.

Bánh Giêsu là bánh quan trọng nhất. Nếu không có Chúa Giêsu, chúng ta không thể sống như lời Chúa nói “Không có Thầy, anh em không thể làm gì được” (Ga 15,5). Tuy nhiên, Chúa muốn nuôi dưỡng những người đói khát. Có lẽ Chúa nghĩ rằng đó là một cách tốt để mạc khải và biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa là Đấng Cứu Thế. Nhưng Chúa cũng muốn trở thành bánh cho chúng ta, để nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình dương thế, ngõ hầu chúng ta được ở lại trong tình yêu của Chúa mà được sống đời đời. Người khuyên chúng ta phải tìm kiếm và sống trong Người. Khi nuôi dưỡng những kẻ đói khát, Chúa chỉ cho chúng ta tình yêu tự hiến của Chúa trong Bí tích Thánh Thể : “Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời” (Ga 6,58). Theo thánh Augustinô thì “khi chúng ta ăn Chúa Kitô, là chúng ta ăn sự sống (…), thật vậy, giả như, anh em tự tách mình ra không ăn thịt và uống máu Chúa nữa, anh em sẽ không có sự sống”.

Muốn sống đời đời, hãy ăn Bánh Giêsu

Xưa kia Chúa Giêsu mời gọi những người Do thái, giờ đây Chúa bảo chúng ta hãy đến mà ăn cho no uống cho thỏa. Nếu chúng ta khao khát sự sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người : “Là Bánh Hằng Sống” (Ga 6,51).

Thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời : “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 54) và hơn thế nữa còn được Người đến cắm lều ngay nơi lòng kẻ ấy : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6, 56). Chúa Giêsu là bánh bởi trời xuống làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là cái ước vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là sự sống đời đời.

Thánh Thể thần lương vượt thế trần

Nếu như trong sa mạc, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang.

Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành ; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.

Lạy Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, xin cho con biết ra đi tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

LƯƠNG THỰC QUÍ BÁU

Anna Cỏ may

          Một anh bạn lần đầu tiên lên thành phố làm việc. Vào một ngày anh được bạn bè trong công ty mời đi nhậu. Khi món ăn vừa được đưa ra và đặt lên, anh bạn liền nói: “Đây là thịt dê quay, ngon lắm đó, ăn thử đi”. Mọi người cùng ăn và tấm tắc khen ngon.

          Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng giới thiệu cho người Do thái và cả chúng ta về một món ăn: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế  gian được sống”(x. Ga 6, 51). Chúa Giêsu khẳng định mình là bánh hằng sống, bánh đem lại sự sống muôn đời. Bánh không do nguyên liệu nào mà từ chính mình Ngài.

          Khi Chúa Giêsu tuyên bố mình là Bánh hằng sống, Ngài muốn nói đến bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập. Ngài cũng không cho biết về phương thức thực hiện việc này. Ngài chỉ đòi hỏi người người Do thái một niềm tin cậy và phó thác, nên Ngài chỉ nhấn mạnh đến sự cần thiết và hiệu quả lương thực bởi trời(x. Ga 6, 53- 58).

          “Ai ăn thịt và uống máu Tôi” là câu được lặp đi lại nhiều lần để nói lên sự hiện của Ngài trong bí tích Thánh Thể. Phép Thánh Thể là của ăn cần thiết cho sự sống linh hồn cũng như của ăn vật chất cho thể xác. Nếu chúng ta muốn đạt đến sự sống viên mãn của đời sống thiêng liêng thì phải cần phép Thánh Thể là của ăn giúp chúng ta được điều ấy. Khi được ăn Thịt Máu Ngài qua hình bánh và rượu, chúng ta còn được hiệp nhất với Chúa Kitô, được gặp gỡ, trò chuyện, ở lại và được biến đổi nên một với Ngài như Thánh Phaolô nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi”.

          Xưa kia, người Do thái được trực tiếp thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhưng khi nghe lời Ngài nói thì họ cho Ngài là điên và xì xầm với nhau. Trong số các môn đệ đi theo Chúa cũng có những lời nói tỏ lộ không chấp nhận tin lời Ngài và đã rút lui không đi theo Ngài nữa. Còn chúng ta có thái độ nào với Chúa Giêsu đây? Xung quanh chúng ta có rất nhiều loại bánh và rượu ngon. Đó là lương thực chúng ta phải mất rất nhiều thời gian và mất tiền mới có ăn. Nó chỉ cho chúng ta có vị ngon và no tạm thời ngay lúc đó mà thôi. Còn Chúa Giêsu ngự trong hình bánh và rượu mà Hội Thánh luôn kêu gọi chúng ta chỉ cần tham dự và hưởng dùng là đủ. Chúng ta không mất công đi tìm hay mất một đồng xu nào mà còn được nuôi dưỡng phần hồn lẫn phần xác và được sự sống muôn đời.

          Bí tích Thanh Tẩy đem lại sự sống thần linh. Nhưng như sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta còn non nớt, dễ bị cám dỗ và dễ phai tàn. Chính vì thế, Chúa Giêsu ngự trong Mình Máu để tiếp sức và hồi sinh chúng ta. Ngài củng cố, nuôi dưỡng, gìn giữ đời sống thần linh cho chúng ta mà còn làm tăng trưởng sự sống ấy. Ngài như đặt sự sống của chúng ta lên trên bản thân Ngài.

          Chúng ta có suy nghĩ gì với câu chuyện này: một Giáo xứ nọ, cứ đến Lễ Chúa Nhật hay các lễ lớn, cha xứ phải mời gọi mọi người vào nhà thờ ngồi. Những người trong Ban Hành Giáo cũng ra mời vào vì ở trong nhà thờ còn nhiều chỗ trống.

          Lạy Chúa Giêsu, chính Ngài là lương thực trường sinh. Xin cho chúng con ý thức, năng tham dữ Thánh Lễ và đón nhận của ăn thiêng liêng mỗi ngày để ở cùng Chúa luôn mãi và luôn mãi. Amen.

Về mục lục

.

TA LÀ BÁNH HẰNG SỐNG

Lm. GB. Trần Văn Hào

Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: “ Mọi bí tích của Giáo hội đều quy nguồn về Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, là nhiệm thể Đức Kitô. Không có Thánh Thể, không có đời sống cầu nguyện và cũng không có việc rao giảng Tin mừng” (số 8). Lời khẳng quyết của Hội thánh nêu bật nền tảng thiết yếu của bí tích Thánh Thể trong đời sống Đức tin của mọi Kitô hữu .

Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời  gọi chúng ta lắng đọng tâm hồn để tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi bàn tiệc thánh. Đó là bàn tiệc yêu thương, bàn tiệc đức tin và cũng là bàn tiệc diễn bày sự hiệp thông huynh đệ.

Bàn tiệc tình yêu.

Thánh Gioan đã viết: “ Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm”(Ga 1,14). Thân xác Đức Giêsu sau khi sống lại đã đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, nhưng thân xác thánh thiêng ấy vẫn còn hiện diện cách nhiệm mầu nơi bí tích Thánh Thể. Đó là sự hiện diện của tình yêu. “Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Ngài”. Ngài đã đến cắm lều giữa chúng ta, dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc để tỏ hiện tình yêu nhưng không của Ngài. Đây cũng chính là bữa tiệc mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc. Thực đơn của bàn tiệc này chỉ có một món duy nhất, đó chính là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu, là lương thực được hiến trao, như chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin mừng hôm nay : “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Không có từ ngữ nào lột tả được cách trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu sâu xa này. Chính Đức Giêsu đã khải thị cho các học trò trong bữa tiệc ly trước khi Ngài đi thụ nạn : “ Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến ban mạng sống mình cho bạn hữu”.

Muốn ngồi vào bàn tiệc tình yêu này, chúng ta phải loại bỏ khỏi mình những gì thuộc ác quỷ, đối kháng với tình yêu mà Thiên Chúa diễn bày. Thánh Augustinô đã nói: “Bánh mì nuôi sống con người, nhưng sẽ giết chết chim diều hâu”. Bao tử con người thích hợp với bánh mì nhưng khi diều hâu ăn vào, bánh mì sẽ trương nở, nó bị ngạt thở và sẽ chết. Bàn tiệc tình yêu sẽ không có chỗ để những con người ác tâm với một trái tim diều hâu ngồi vào. Diều hâu chuyên rúc rỉa xác chết, là một hình tượng ám chỉ những hôi thối và bẩn thỉu của tội lỗi. Ngồi vào bàn tiệc thánh, chúng ta cần phải tinh luyện tâm hồn, loại bỏ đi những gian dối lọc lừa, những hận thù ghét ghen, những tham lam bất chính. Chúa nói “Tôi là Bánh trường sinh”, bánh đem lại sự sống cho những người ngay lành nhưng sẽ giết chết những tâm hồn diều hâu đầy gian ác.

Bàn tiệc đức tin.

Mỗi khi chầu thánh thể, chúng ta mượn lại những vần thơ thánh của thánh Tôma Aquinô để hát lên: “ Đây nhiệm tích vô cùng cao quý. Nếu giác quan không cảm nhận ra, chúng ta hãy lấy đức tin bù lại”. Đức tin là điều kiện tiên quyết để dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc thánh. Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ sống muôn đời” (Ga 6,54). Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu cũng đã khải thị : “Ai tin vào Con của Ngài, sẽ được trường sinh” (Ga 3,15-16). Đây là hai cách diễn tả của một thực tại duy nhất : Ăn bánh trường sinh và tin vào Thiên Chúa. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc của đức tin. Rất nhiều lần chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ nhưng thiếu hẳn cảm thức đức tin cần phải có. Nhiều người coi việc dự lễ mỗi tuần một lần vào Chúa nhật như một bổn phận phải làm để lương tâm được yên ổn, hay để người khác khỏi dị nghị. Thái độ đức tin là điều kiện tất yếu cần phải có, vì nếu không phát xuất từ đức tin, việc đi lễ cách máy móc sẽ trở nên vô nghĩa và phí phạm thì giờ cách vô ích.

Tin không phải là một động thái mang tính suy lý, nhưng trước hết đây là tác động của ơn sủng. Vì thế trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội luôn nhắc nhở : “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Qua lăng kính đức tin, chúng ta mới có thể khám phá nguồn sống vô tận từ Bánh Hằng Sống. Chỉ với đức tin soi dẫn, chúng ta mới có thể tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu linh thánh được diễn bày nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham  dự.

Bàn tiệc hiệp thông.

Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung  cảnh một bữa ăn. Bữa ăn là dịp để quy tụ, gắn kết mối hiệp thông trong mỗi gia đình hay tại bất cứ một tổ chức, một đoàn thể  nào. Cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần hiệp thông này. Tác gỉa sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng, các tín hữu ‘luôn  chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Tất cả đều đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ’ (Cv 3,42-46). Sự hiệp thông này đòi hỏi phải xóa bỏ những hàng rào cách ngăn, dẹp tan mọi toan tính ích kỷ mang tính vụ lợi, và sống gắn kết nên một với nhau như lời ước nguyện của Chúa Giêsu “ Ut unum sint ” (xin cho chúng nên một).

Một tu sĩ nọ khi tham dự một Thánh lễ khá đặc biệt ở Bolivia thuộc Châu Mỹ La tinh đã tả lại quang cảnh buổi lễ đó như sau. Phần đầu lễ, vị linh mục mời gọi mọi người thống hối. Vài giây phút thinh lặng để cầu nguyện, sau đó một hồi trống nổi lên. Bốn thanh niên nam nữ từ cuối nhà thờ tiến lên trước cung thánh, trên tay mỗi người mang một sợi xích thật nặng. Họ cố giơ cao tay lên cùng với lời cầu nguyện : Lạy Chúa, đây là những dây xích biểu tượng sức mạnh tội lỗi đang đè nặng trên chúng con. Chúng con chưa hết lòng yêu mến Chúa và mến thương nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, đức ái của chúng con vẫn bị khống chế bởi những sợi xích của tham lam và ích kỷ, những trói buộc của đam mê và dục vọng thấp hèn. Xin Chúa phá đi những dây xích nặng nề này nơi tâm hồn tan nát và bầm dập của chúng con. Lạy Chúa xin thương xót chúng con.” Cả cộng đoàn lập lại : Xin Chúa thương xót chúng con. Đến phần dâng lễ vật, cũng hai cặp thanh niên nam nữ tiến lên dâng bánh và rượu. Đặc biệt họ mang theo một tảng đá lớn cùng với lời cầu nguyện: “ Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa cả tảng đá này, biểu trưng sự chai cứng trong tâm hồn mỗi người. Xin Chúa hãy nhận bánh và rượu để biến nên mình và máu con Chúa. Xin Chúa cũng dang rộng đôi tay đón nhận những con tim lạnh lùng và chai đá của chúng con để biến đổi thành những trái tim thịt mềm. Xin Chúa giúp chúng con biết sống với nhau tử tế hơn, khoan dung hơn và biết quảng đại tha thứ cho nhau hơn”.

Kết luận

Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian Ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề ‘Năm chiếc bánh và hai con cá’ để chia sẻ cho giáo triều Rôma trong dịp tĩnh tâm mùa chay vào những năm thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ Ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ Ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù Ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của Ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giêsu đã cử hành năm xưa trên Thập giá. Đó là những Thánh lễ đẹp nhất trong cuộc đời linh mục của Ngài. Vị Giám mục đáng kính đã dâng những Thánh lễ như thế để kín múc cho mình sức mạnh tâm linh trong những tháng ngày đen tối nhất nơi ngục tù. Còn những Thánh lễ chúng ta tham dự mỗi ngày thì sao?  Đặc biệt đối với anh em linh mục là những “Alter Christus”, đã hàng trăm, hàng ngàn lần cử hành Thánh lễ “in personna Christi”, chúng ta đã dâng các Thánh lễ ấy như thế nào? Chúng ta cũng hãy bắt chước tâm tình đơn sơ của một nữ tu dòng Clara khi đến bàn tiệc thánh. Chị chia sẻ với các chị em trong cộng đoàn : “ Các chị hãy xem một người ăn xin nghèo khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có, một bệnh nhân gần chết đến với một bác sĩ tài giỏi, một người đang khát cháy đến bên dòng nước mát trong. Họ đến để làm gì, thì em cũng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như thế”.

Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta một ánh lửa đức tin ngời sáng, mỗi khi chúng ta đến ngồi vào bàn tiệc thánh này.

Về mục lục

.

LỄ MÌNH MÁU CHÚA KITÔ

Lm Giuse Nguyễn Văn Nam

Phụng vụ lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Bí tích Thánh Thể. Bài đọc I, sách Đệ Nhị Luật thuật lại sự việc Thiên Chúa nuôi dân Do Thái trong sa mạc bằng Manna bởi trời và nước từ tảng đá chảy ra, Manna là hình bóng chỉ Bí tích Thánh Thể. Bài đọc II, thánh Phaolô nhắc tín hữu Côrintô ý thức rằng họ cùng ăn một bánh và cùng uống một chén, lãnh nhận Thánh Thể, thì phải đoàn kết yêu thương nhau.

Bài Tin mừng ghi lại bài diễn văn về bánh hằng sống của Chúa Giêsu tại hội đường Caphanaum, sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi 5.000 người trong sa mạc. Chính Chúa Giêsu, từ bánh nuôi thể xác, Ngài hướng mọi người đến một thứ lương thực cao quý hơn, đó chính là Mình và Máu Ngài, là Thánh Thể.

“Tôi là bánh trường sinh… Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.. Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi sẽ được sống muôn đời”.

Đức Giêsu vì yêu thương nhân loại, đã thiết lập bí tích Thánh Thể vào Thứ Năm Tuần Thánh trước khi Ngài hy sinh hiến thân trên thập giá để cứu độ muôn người.

Sách Giáo lý Công giáo số 1323 dạy về bí tích Thánh Thể: “Đang khi ăn bữa tiệc ly, trong đêm Người bị nộp. Đấng Cứu Độ chúng ta đã thiết lập hy lễ Thánh Thể bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó hy tế thập giá trương tồn qua các thời đại cho tới khi Người đến. Và Chúa Giêsu đã ủy thác cho Hội Thánh việc tưởng nhớ sự chết và sống lại của Người”.

Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch, tột đỉnh của đời sống Giáo hội, của đời sống Kitô giáo, bởi vì tất cả các bí tích đều quy về bí tích Thánh Thể chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Giáo hội và chính Đức Giêsu Kitô.

Các thánh Giáo phụ dạy rằng Bí tích Thánh Thể là bản toát yếu, bản tổng luận của đức tin chúng ta; ai hiểu biết bí tích Thánh Thể là hiểu biết tất cả giáo lý đạo Công Giáo. Ai sống bí tích Thánh Thể là sống tất cả giáo lý của đạo, bởi vì bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm của tình thương, đạo Công Giáo là đạo bác ái, đạo tình yêu.

Bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu: Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể người trở nên một với con người, Ngài trở nên thần lương nuôi sống chúng ta để chúng ta được sống muôn đời, Ngài bảo đảm cho ta được sự sống đời đời “Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”.

Vậy sống bí tích Thánh Thể là phải trở nên tấm bánh cho mọi người như Chúa Giêsu, nghĩa là phục vụ anh em trong yêu thương: cha mẹ trở nên tấm bánh cho con cái, hết tình phục vụ, yêu thương và làm cho con cái được những điều may lành. Con cái yêu thương giúp đỡ cha mẹ. Vợ chồng yêu thương phục vụ nhau. Trong đời sống xã hội, người Kitô hữu phải trở nên tấm bánh cho anh em, cho mọi người, nghĩa là biết hy sinh, giúp đỡ, chia sẻ, thông cảm với anh em, nhất là những anh em đang đau khổ, nghèo đói, bệnh tật.

Hãy siêng năng tham dự thánh lễ, nhất là thánh lễ Chúa nhật, đừng bao giò bỏ lễ Chúa nhật khi không có lý do chính đáng. Trong thánh lễ, chúng ta được nuôi dưỡng bằng hai của ăn thiêng là lời Chúa và Thánh Thể. Về đời sống thể xác, con người cần phải ăn uống, cần thực phẩm mới sống. Đời sống thiêng liêng cũng vậy, cần được nuôi dưỡng bằng lời Chúa và Thánh Thể, chính là lương thần nuôi dưỡng chúng ta, bảo đảm sự sống đời đời.

Về mục lục

.

NHỮNG TÊN GỌI TẦM THƯỜNG

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

1. Đất, nước, đá

Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dùng đất nắn nên hình hài (St 2,7).Từ đó Tổ Tông loài người mang tên Đất (St 4,25;5,1-3). Ađam, tiếng Do thái nghĩa là đất.

Để cứu Dân Ngài thoát khỏi nô lệ Ai cập, vượt qua Biển Đỏ khô chân, lập giao ước Sinai với dân, Thiên Chúa đã dùng Môsê. Môsê, tiếng Do Thái nghĩa là nước (Xh 2,10).

Khi xây dựng Giáo Hội, Thiên Chúa lại dùng một con người đánh cá tầm thường, khi thì hùng hổ tuốt gươm bảo vệ Thầy Giêsu (Lc 22,50), khi thì sợ hãi chối quanh trước một đầy tớ gái (Lc 22,56-57). Người ấy Chúa Giêsu đặt tên là Đá (Mt 16,18). Kêpha, tiếng Do Thái nghĩa là đá.

Như vậy, lịch sử sáng tạo,lịch sử cứu độ quyện đan với những cái tên gọi tầm thường: Đất, Nước, Đá.

2. Bánh và rượu

Chúa Giêsu đã dùng bánh rượu làm nên Mình và Máu Thánh của Người. Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống hàng ngày của con người. Chính Chúa Kitô đã muốn trở nên gần gũi và cần thiết đó. Người muốn bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người để nuôi sống chúng ta hàng ngày.

Tình yêu Chúa Kitô làm nên sáng kiến tuyệt vời. Vì yêu thương hết mọi người, Chúa đã muốn trở nên bé nhỏ tầm thường trong thân phận một người thợ mộc ở Nazareth để có thể ở giữa mọi người, từ kẻ hèn cho đến người sang trọng, từ người thánh thiện cho đến kẻ tội lỗi, từ người Do thái cũng như dân ngoại. Để trở thành của ăn nuôi mọi người,Chúa đã muốn trở thành tấm bánh ly rượu. Chỉ khiêm tốn và giản dị thế thôi để mọi người có thể ăn, chứ không phải là một bữa ăn đắt giá dành cho bậc quyền quý sang giàu.

Khi sinh ra đời, Chúa đã chọn cái chuồng bò. Khi sống ở Nazareth Chúa đã muốn làm một người thợ giữa những người lao động khác. Khi bắt đầu rao giảng tin mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường trong xã hội làm bạn đồng hành, làm bạn tâm phúc thừa kế sự nghiệp. Trong giờ sau hết, Chúa đã chọn tấm bánh ly rượu, chọn khung cảnh một bàn ăn giữa bạn bè, chọn một tư gia để Tạ Ơn, trong đó người vừa là chủ tế vừa là của lễ. Và Chúa muốn Giáo Hội tiếp tục lễ Tạ Ơn theo cách thức của Người bằng những phương tiện đơn sơ là tấm bánh ly rượu.

Chỉ cần một bông lúa, một chùm nho đủ làm nên tấm bánh ly rượu. Không cần cái gì cao sang đắt giá, to lớn như con bò, con bê, con cừu mà đạo Do thái vẫn tế lễ trong đền thờ. Với tấm bánh ly rượu, Chúa Giêsu còn muốn cho của lễ Tạ Ơn phải chính là sản phẩm hoa màu ruộng đất, lao công con người, của ăn thức uống căn bản và phổ biến nhất của con người. Chính vì thế, khi dâng Bánh, dâng Rượu, Giáo Hội thay cho toàn thể con người để tôn vinh Thiên Chúa: Chúc tụng Chúa là Chúa tể càn khôn… Chúa đã rộng ban cho chúng con Bánh này là hoa màu ruộng đất và lao công của con người… Chúng con dâng lên Chúa để trở nên Bánh nuôi sống chúng con… Chúc tụng Chúa là Chúa Tể càn khôn, vì Chúa đã rộng ban cho chúng con Rượu này là rượu bởi cây nho và lao công của con người… Chúng con dâng lên Chúa để trở thành của uống thiêng liêng cho chúng con.

Chúa Giêsu là bông lúa, là chùm nho mọc lên từ ruộng đất thế gian, nơi Người nhập thể làm người. Người đã biến đổi trong thân thể Người là Con Thiên Chúa và cũng là con loài người tất cả tinh hoa của ruộng đất, trở thành bông lúa chùm nho. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Chối từ cám dỗ của Satan hoá đá thành bánh, nhưng Chúa Giêsu đã tự ý biến đổi đời mình thánh Tấm Bánh để nuôi dưỡng con người.

“Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”. Chắc hẳn không ai hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh muốn ăn thịt Đường Tăng, trong truyện Tôn Ngộ Không. Yêu tinh quyết tâm bắt cho được Đường Tam Tạng để ăn thịt. Nó tin rằng ăn thịt vị cao tăng này thì sẽ được trường sinh bất tử.Tôi nghĩ rằng giả như có ai giết Chúa Giêsu để ăn thịt Người (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường, và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói “Thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và Máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.

3. Lương thực thần thiêng

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.

Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.

Thánh thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh thể và Thánh giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.

Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn 20 thế kỷ qua. Thánh giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.

Thánh thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta,chúng ta đều biết cả,sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi,thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?”( Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,66).

Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống,chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.

Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh thể.

Từ Thánh giá đến Thánh thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh thể. Bí tích Thánh thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa.Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người.Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.

Đất nước đá cũng như bánh và rượu là những thực tại tầm thường trong cuộc sống, nhưng một khi đã gắn với lịch sử cứu độ là nó trở nên những điều kỳ diệu.

Cuộc sống chúng ta với Thiên Chúa cũng thế. Sống đời sống thiêng liêng, siêu nhiên một cách tự nhiên. Sống đời sống tự nhiên một cách thiêng liêng, siêu nhiên. Thánh Thể, suối nguồn tình yêu của cuộc sống Giáo Hội là trường học của tình bác ái và liên đới. Ai nuôi mình bằng Bánh của Chúa Kitô thì người ấy sống những điều tầm thường hàng ngày một cách phi thường trong tin yêu.

Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

“CHÓP ĐỈNH VÀ NGUỒN MẠCH” CỦA GIÁO HỘI LÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Nếu chiều thứ năm Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành thánh lễ Tiệc Ly, kỷ niệm việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với loài người mọi ngày cho đến tận thế, thì hôm nay, Giáo Hội long trọng cử hành thánh lễ kính Mình và Máu Chúa Giêsu nơi Bí Tích Thánh Thể. Khi cử hành như thế, Giáo Hội cảm nghiệm và xác tín rằng: Bí tích Thánh Thể chính là trung tâm trong lịch sử của nhân loại, là “nguồn mạch” và “chóp đỉnh” của mọi sinh hoạt trong phụng vụ của Giáo Hội, bởi vì Thánh Thể là lương thực cần thiết cho sự sống và sứ mạng của Giáo Hội.

Thật là ý nghĩa và tốt đẹp biết bao khi các tín hữu trong ngày Lễ này, quy tụ với nhau chung quanh Thánh Thể, để tôn thờ Người hiện diện trong Bí tích cao trọng qua các hình thức đạo đức như chầu và rước kiệu Thánh Thể để diễn tả lòng đạo đức, sốt sắng tham dự Thánh lễ và rước Mình và Máu Thánh Chúa xách xứng đáng, để thể hiện niềm tin vào Chúa Giêsu hằng sống và nói lên niềm vui vì sự hiện diện của Ngài trong nhân loại và trên cuộc đời.

  1. Sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể

Trong Giáo Hội có bẩy Bí tích, nơi các Bí tích này đều có sự liên hệ mật thiết với nhau làm nên tính toàn thể trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Bí tích cao trọng nhất và vĩ đại nhất vẫn là Bí tích Thánh Thể. Vì thế, Bí tích này được gọi là: “Bí tích của các Bí tích”: Thật vậy: “Tất cả các Bí tích khác đều quy hướng về Bí tích Thánh Thể như về cùng đích” (GLHTCG số 1211), và đời sống đức tin của chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể như là cứu cánh của mình.

Vì thế, không có kinh nào, nghi thức nào và tổ chức nào cao trọng, quý mến cho bằng Thánh lễ, bởi vì trong Thánh lễ sẽ diễn ra một cuộc trao đổi kỳ diệu dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, làm cho bánh và rượu trở nên Thịt và Máu Chúa Giêsu qua lời truyền phép của linh mục. Bí tích Thánh Thể nói lên sự hiện diện thực sự và trọn vẹn của Chúa Giêsu. Cũng qua Thánh lễ, cùng với của lễ tuyệt hảo là Chúa Giêsu trên Thánh giá, chúng ta nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, dâng lên Thiên Chúa Cha lời chúc tụng, tạ ơn và cầu xin.

Nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu diễn tả tình yêu trọn vẹn khi trao hiến Thịt và Máu của mình làm của ăn, của uống cho nhân loại. Qua Bí tích Cực Thánh này, Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh, hình rượu để trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta, làm cho đời sống tinh thần của chúng ta được lớn mạnh không ngừng.

Chính vì thế, Bí tích Thánh Thể là “Nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống kitô hữu” (x. LG 11). “Hy lễ Thánh Thể, tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa, tiếp diễn mãi mãi Hy Lễ Thánh Giá, là tuyệt đỉnh và nguồn suối của tất cả phụng tự và đời sống Kitô giáo. Nhờ Hy Lễ Thánh Thể, sự hiệp nhất của dân Chúa được biểu lộ và thể hiện, việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô được hoàn tất. Bởi đấy, các Bí Tích khác và mọi hoạt động tông đồ của Giáo Hội đều quy hướng về và liên kết chặt chẽ với Bí Tích Thánh Thể” (Giáo  Luật, số 897). Thật vậy, mỗi lần Hy tế Thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế (x. 1 Cr  5,7), thì công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (x. LG, số 3).

Như thế, tham dự và cử hành Bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn là việc vô cùng quan trọng trong đời sống của Giáo Hội và của mọi người tín hữu Chúa Kitô, vì đây chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (x. LG, số 11) như Giáo Hội dạy.

Mỗi khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể hay tôn sùng Bí tích cao trọng này cách xứng đáng, ấy là lúc chúng ta tin nhận Bí tích Thánh Thể  là“nguồn mạch và tột đỉnh” của đời sống kitô hữu. Nói cách khác, toàn thể đời sống tâm linh của kitô hữu cũng như mọi cử hành phụng vụ của Giáo Hội được bắt nguồn từ Bí Tích Thánh Thể.

Khi xác tín như thế, chúng ta cùng nhau hướng mục đích của cuộc đời mình về Chúa Giêsu như một sự quy chiếu đến cùng đích tối hậu của cuộc sống nơi mình. Đồng thời, mỗi khi cử hành và tôn sùng Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội mời gọi con cái mình trở nên giống Chúa Giêsu ngày càng mật thiết hơn và sống mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống hằng ngày.

Như thế, đời sống tâm linh của chúng ta phải là con đường hai chiều. Con đường này khởi đi từ Bí tích Thánh Thể, rồi sau đó lại đưa dẫn chúng ta trở về với Thiên Chúa trong Bí tích này. Mối liên hệ trên được diễn ra trong tình yêu. Chính nhờ tình yêu, mà chúng ta cũng kết hợp với toàn thể Giáo Hội, là Nhiệm Thể Đức Kitô. Để rồi nhờ hồng ân Bí tích Thánh Thể, chúng ta thương yêu tha nhân như chính mình vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa.

  1. Sống mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống người kitô hữu

Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Mane Nobiscum Domine – lạy Chúa, xin ở lại với chúng con” đã nhấn mạnh khi viết: “Mỗi lần ta dự phần vào Mình và Máu Người, chúng ta đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình niềm hân hoan mình đã cảm nghiệm. Việc gặp gỡ riêng tư với Chúa Kitô cách thường xuyên được tăng triển và đào sâu trong Bí tích Thánh Thể khơi lên trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu một lời mời gọi khẩn thiết cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng” (Gioan Phaolô II, Mane Nobiscum Domine, số 24).

Người kitô hữu chúng ta không thể sống khác đi được. Nếu đi ngược lại, chúng ta đánh mất chính mình vì đã mâu thuẫn nội tại.

Vì thế, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, nhất là rước Mình và Máu Chúa vào trong linh hồn chúng ta, hẳn là hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi để trở nên thánh thiện, trong sạch hầu xứng đáng với Mầu Nhiệm ta đã lãnh nhận.

Thông hiệp vào Mầu Nhiệm Cực Thánh này, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để đi vào tận sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa để cảm nghiệm được tình yêu tự hiến nơi Chúa Giêsu, Đấng đã “đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ”, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, để qua đó, mời gọi chúng ta noi gương Ngài, phục vụ anh chị em mình với sự khiêm nhường trong lòng mến.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Chúa ban cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự Thánh lễ, rước Mình và Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời luôn xác tín Bí tích Thánh Thể chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội và nơi mỗi người chúng con. Amen.

Về mục lục

.

BÁNH TRƯỜNG SINH 

Trầm Thiên Thu

Thánh Thể liên quan đức tin, bởi vì “đây là mầu nhiệm đức tin”. Giáo Hội đã xác định như vậy, và mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể, mỗi chúng ta có trách nhiệm “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.

Có rất nhiều loại bánh. Mặn có, ngọt có, dẻo có, cứng có,… và người ta có cả bánh chay nữa. Thích gì ăn nấy, đủ loại có thể tự chọn theo sở thích. Bánh là một loại thực phẩm, ăn để no một thời gian rồi lại cần ăn nữa, thậm chí mỗi ngày người ta còn phải ăn vài lần mới ổn cái bụng. Và rồi ai cũng phải chết, dù no hay đói, dù ăn bất cứ loại thực phẩm nào.

Nhưng có một loại bánh đặc biệt được mệnh danh là Bánh Trường Sinh, đó là Thánh Thể. Chúa Giêsu đã xác định: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Thật vậy, chị Marthe Robin (1902-1981, người Pháp) là người chứng tỏ điều Chúa Giêsu đã nói. Chị Marthe ốm yếu từ nhỏ, đến năm 28 tuổi thì bị liệt, thi thoảng chị được Chúa Giêsu hiện ra, chị không thể ăn hoặc uống được bất cứ thứ gì, chị chỉ sống nhờ Thánh Thể trong suốt 51 năm. Giáo Hội đã tôn phong chị là bậc đáng kính vào ngày 7-11-2014.

Thánh Thể là bằng chứng hùng hồn về Lòng Chúa Thương Xót, và liên quan đức tin, nhưng đức tin lại liên quan cách thể hiện yêu thương, liên quan cuộc sống và con người – đặc biệt là những con người hèn mọn. Mẹ Thánh Teresa Calcutta lý giải: Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể”. Vô hình mà hữu hình. Rất thực tế, rất cụ thể!

Cuộc đời được gọi là cuộc sống. Sự sống liên quan việc ăn uống, liên quan ẩm thực. Ăn để sống, chứ không sống để ăn. Lương thực là một phần thiết yếu để duy trì sự sống. Tuy nhiên, ngày nay người ta phải cảnh giác cao độ vì các loại thực phẩm nhiễm độc vì các hóa chất, đặc biệt là thực phẩm của Trung cộng. Do đó, người ta càng văn minh lại càng đáng quan ngại về thực phẩm – kể cả các dụng cụ, nghĩa là người ta càng cần có sự an toàn.

Theo dòng đời, ai cũng biết rằng lương thực và thực phẩm rất cần, người ta cũng chỉ vì “miếng ăn” mà không ngừng gây chiến tranh. Các dạng tội phạm cũng vì đó mà leo thang. Để hỗ trợ dân nghèo vì nhân đạo, Liên Hiệp Quốc đã thành lập tổ chức FAO (Food and Agriculture Organization – Tổ chức Lương Nông) vào ngày 16-10-1945 tại Canada. Tổ chức này nhằm ba mục đích: (1) Nâng cao mức sống và mức dinh dưỡng của nhân dân các nước thành viên; (2) Nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực và nông sản; (3) Góp phần vào việc phát triển kinh tế thế giới và giải phóng nhân dân khỏi nạn đói. Trên logo của FAO có dòng chữ bằng La ngữ: “Fiat Panis – Để Có Lương Thực” (Anh ngữ: Let There Be Bread).

Ngày xưa, chính Chúa Giêsu đã vì chạnh lòng thương, sợ người ta đói khát nên Ngài đã hai lần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho đám người mê Ngài nói mà quên cả cái bụng. Các thánh sử đã ghi lại phép lạ mà Chúa Giêsu đã làm bằng cách hóa bánh ra nhiều: lần một (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14), với 5 cái bánh và 2 con cá, Ngài đã cho mọi người no nê, số thực khách lên tới 5.000 người, chưa kể phụ nữ và trẻ em, phần dư còn thu được 12 thúng đầy; và lần hai (Mt 15:32-39; Mc 8:1-10), với 7 cái bánh và vài con cá, Ngài cũng đã cho mọi người no nê, phần dư còn thu được 7 thúng đầy. Đó là ngụ ý đề cập Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu thiết lập trong buổi Dạ Tiệc Vượt Qua, trước khi Ngài chịu tử hình vì tội lỗi của chúng ta. Máu và thịt không thể tách rời. Chính máu và thịt là dấu chứng tỏ của sự sống.

Đối với phàm nhân, chuyện ăn uống là một trong tứ khoái của con người, ăn là hành động đứng đầu, và có thể gọi là “đệ nhất khoái”. Tuy nhiên, miếng ăn cũng có thể làm cho người ta vinh hoặc nhục. Có lẽ vì vậy, nhất là với người có lòng tự trọng, tục ngữ Việt Nam so sánh: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Ăn cũng có nghệ thuật ăn, không phải cứ cho vô miệng là xong. Không chỉ vậy, ăn không chỉ để no bụng mà còn cần ngon miệng: Đồ ăn ngon, chỗ ăn ngon, và người ăn (với mình) cũng ngon. Thế mới đủ “độ” ngon. Có cả chuỗi nghệ thuật liên quan chứ không đơn giản đâu!

Quả thật, chuyện ăn uống cũng đủ kiểu và đủ mức, nhiêu khê lắm! Ngày xưa, khi dân Chúa đi qua sa mạc suốt 40 năm để tới Miền Đất Hứa, lương thực duy nhất là man-na, một món cứ ăn mãi nên dân chán ngán. Chán lắm! Chán ngán đồ ăn nhớ không mùi vị nên thèm đồ ăn ngon ngày xưa thường ăn, đám dân ô hợp sống giữa dân Ít-ra-en bắt đầu cảm thấy không chịu nổi, họ và cả con cái Ít-ra-en đều khóc lóc mà nói: “Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? Nhớ thuở nào ta ăn cá bên Ai-cập mà không phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào hành, nào tỏi. Còn bây giờ đời ta tàn rồi; mọi thứ đó hết sạch, chỉ còn thấy man-na thôi” (Ds 11:4-6). Mô-sê cũng “nhức đầu” lắm, vì họ đòi thịt thì lấy đâu giữa sa mạc khô cằn và hoang vu như vậy chứ? Căng dữ nghen!

Và Kinh Thánh cho biết rằng man-na là loại “bánh từ trời”, nhìn như hạt ngò và trông như nhựa hương. Lạ lắm. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. Đêm về, sương rơi trên doanh trại, và man-na cũng rơi xuống (Ds 11:7-9). Cái món man-na lạ nhưng ăn hết ngày này sang tháng nọ thì chịu hết nổi rồi! Mô-sê “cầu cứu” Chúa. Và rồi Ngài cho gió lùa chim cút tới, lớp chim cút dày tới cả mét, dân cứ việc lượm mà xơi cho đã cơn thèm. Nhưng ai cũng tham nên lượm nhiều để dành, thế nên Chúa nổi trận lôi đình (Ds 11:31-33). Đúng là “tham thì thâm”. Đúng là “thần khẩu hại xác phàm”, cái miệng hại cái thân rõ ràng. Có ăn mà không khéo cũng khổ!

Ngày nay chúng ta cũng không hơn gì dân ngày xưa, thế nên Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ vì chúng ta sai trái, đã vậy còn cứng đầu cứng cổ, ngang ngược và bướng bỉnh. Được ăn chưa biết cảm ơn lại dám nổi loạn. Loài người vô ơn bạc nghĩa hết sức! Thế nhưng Ngài vẫn luôn nhân từ, vẫn tha thiết mời gọi tất cả chúng ta: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55:1). Và đó cũng là “lời mời gọi cuối cùng”.

Kinh Thánh nhắc nhở: “Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy Người thử thách anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không. Người đã bắt anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Ðnl 8:2-3). Chính Đức Kitô cũng đã từng nhắc nhở y như vậy (Mt 4:4; Lc 4:4). Xác cần ăn thì hồn cũng cần ăn, có vậy mới sống và phát triển toàn diện.

Kinh Thánh tiếp tục giải thích và động viên: “Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Người đã dẫn anh em đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước. Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy ra cho anh em uống. Trong sa mạc, Người đã cho anh em ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh em chưa từng biết, để bắt anh em phải cùng cực và thử thách anh em, hầu làm cho anh em được hạnh phúc trong tương lai” (Ðnl 8:14-16). Thế nhưng trái tim phàm nhân bằng đá hoặc đã xơ cứng, nghe xong rồi quên, hứa xong rồi thôi, cứ tưởng mình là “cái rốn của vũ trụ”, tự nhận mình là “số dzách”, cho nên lúc nào cũng chỉ chực nổi loạn. Lô-gích thôi. Đó là chúng ta có “gen kiêu ngạo” của Ông Bà Nguyên Tổ!

Ôi, phàm nhân chúng ta dễ vô ơn lắm, dù có lãnh nhận đại ân. Và rồi chúng ta cũng rất “chảnh”, luôn nghĩ mình “ngon lành”, tự nhận mình là ân nhân, mặc dù chúng ta chỉ cho người khác những thứ thừa thãi – còn tệ hơn bố thí (thay vì vứt bỏ í mà)! Do đó, tác giả Thánh Vịnh nhắc khéo chúng ta bằng cách mời gọi: “Giêrusalem hỡi, nào tôn vinh Chúa! Này Sion, hãy ca ngợi Thiên Chúa của ngươi! Then cửa nhà ngươi, Chúa làm cho thêm chắc, con cái trong thành, Người giáng phúc thi ân. Cõi biên cương, Người thiết lập hoà bình, và cho ngươi no đầy lúa mì tinh hảo” (Tv 147:12-14).

Dân tộc Ít-ra-en là Dân Riêng của Chúa. Ít-ra-en là hiện thân của chúng ta, vì chúng ta cũng là Dân Thánh của Ngài. Chúng ta cũng được “đặc cách” mà vẫn vô ơn. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Chúa bày tỏ lời Người cho nhà Gia-cóp, chiếu chỉ luật điều cho Ít-ra-en. Chúa không đối xử với dân nào như vậy, không cho họ biết những điều luật của Người” (Tv 147:19-20).

Với lòng đại lượng bao la, Thiên Chúa ban tặng chúng ta mọi thứ, đặc biệt là chính Con Một Yêu Dấu của Ngài. Đó là hệ quả của “khối tình si” của Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Vâng, Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân kia mà! (x. Rm 5:8). Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10:16-17). Và đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải biết yêu thương nhau – bằng mọi động thái, bằng cả con người của chúng ta. Chữ MỘT rất quan trọng!

Khi Chúa Giêsu đi rao giảng khắp nơi, có lần Ngài nói với người Do Thái: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51). Có vẻ họ “chói tai” nên họ liền tranh luận sôi nổi với nhau. Và họ đặt vấn đề: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52).

Với trí tuệ loài người, tất nhiên làm sao họ hiểu được. Nếu có chúng ta trực tiếp nghe Chúa Giêsu nói lúc đó, chắc chắn chúng ta cũng phản đối tới cùng chứ chẳng vừa đâu. Tất nhiên Chúa Giêsu biết tỏng, và Ngài nghiêm túc nói với họ, có vẻ “dài dòng” nhưng cần thiết, đồng thời vừa xác định vừa giải thích: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:53-58). Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ làm cho chúng ta sống, vì chính Ngài là Sự Sống (Ga 14:6), mà Ngài còn cho chúng ta được sống dồi dào (Ga 10:10).

Và rồi ngay trong Bữa Tiệc Ly, điều đó đã được Đức Giêsu thực hiện, đồng thời đó cũng là cách Ngài thực hiện lời hứa của Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Một cách tương tự là Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16). Và Chúa Thánh Thần đang ở với chúng ta hằng ngày cùng với Thánh Thể.

Tuy là “bánh từ trời”, nhưng man-na chỉ là lương thực bình thường, là loại bánh ăn để sống phần xác thôi, nghĩa là có ăn bao nhiêu rồi cũng… chết. Ngược lại, Mình và Máu Đức Kitô là lương thực thiêng liêng, vừa là Thần Lương vừa là Thần Dược, ăn để có sự sống và được điều trị phần hồn (kể cả phần xác), đặc biệt là Thánh Thể làm cho chúng ta bất tử và được hưởng vĩnh phúc. Thánh Thể chính là Thần Lương tăng lực để chúng ta đủ sức kiên nhẫn đi hết chặng đường lữ hành trần gian, là Của Ăn Đàng, là Nguồn Trường Sinh của chúng ta.

Đối với Bí tích Thánh Thể, chúng ta phải có đức tin trưởng thành, không thể dựa trên thính thị hoặc cảm giác. Chỉ có đức tin mới thực sự cảm nghiệm được Mình và Máu Thánh của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa.

Hằng ngày, mỗi khi rước lễ là chúng ta đón rước Thiên Vương Giêsu vào lòng, lúc đó Vua Trời Đất vui mừng hòa tan vào chúng ta, nên một với chúng ta, thật là đại phúc đối với phàm nhân chúng ta. Ước gì sau khi rước lễ, chúng ta dành vài phút để cảm nghiệm Chúa Giêsu Thánh Thể, Vua Thương Xót, và tâm sự với Ngài. Thực sự Ngài rất muốn lắng nghe chúng ta về mọi điều buồn vui, đặc biệt là Ngài muốn chúng ta tôn thờ và cảm tạ Ngài. Vài phút ngắn ngủi đó rất cần thiết và sinh nhiều ích lợi cho đời sống của mỗi chúng ta.

Như chúng ta đã biết, Bí tích Thánh Thể “gắn liền” với đức tin. Mà đức tin (nói chung) là điều rất quan trọng trong đời sống Kitô hữu, nhưng cũng phải thận trọng lắm, vì có thể dễ trở thành cuồng tín hoặc tin lệch lạc. Vấn đề tín lý quan trọng lắm. Tương tự, khi nói về Kinh Thánh cũng phải thận trọng, nếu không rất nguy hiểm.

Ngày xưa, có nhiều tà thuyết hoặc dị giáo – chẳng hạn: Albigensianism (thế kỷ XII–XIII), Arianism (thế kỷ IV), Donatism (năm 311), Jansenism (thế kỷ XVII), Macedonianism (khoảng năm 362), Manichaeism (khoảng 216–276), Nestorianism (giữa thế kỷ IV và V), Pelagianism (thế kỷ V), Priscillianism (thế kỷ IV–V), Calvinism (1570),… Đó là do niềm tin sai lạc và suy diễn lệch lạc, đối nghịch với đức tin Công giáo. Có lẽ họ muốn lập một đạo mới chăng? Ngày nay cũng vẫn có các tà thuyết nhưng ở dạng khác, tinh vi hơn nên khó nhận ra. Còn chúng ta, những tín hữu của Đức Kitô Giêsu, hãy cố gắng tâm niệm như Thánh nữ Catharina Senensis (Catarina Siêna, 1347–1380): “Mặc dù tôi u mê yếu đuối, nhưng tôi quyết không thất vọng đem linh hồn của tôi ẩn núp vào trong các vết thương của Chúa Giêsu, xin Máu Thánh của Chúa Giêsu rửa sạch tội lỗi của tôi”.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con xin tôn vinh và kính thờ Ngài. Xin thêm đức tin cho con người yếu kém của con, xin dùng Lửa Yêu Mến thiêu đốt lòng con và biến trái tim chai cứng của con trở thành trái tim si tình để con chỉ yêu Ngài mà thôi, yêu bằng cả con người của con, yêu qua từng động thái, và xin luôn canh giữ con như con ngươi trong mắt Ngài để con xứng đáng đón rước Ngài vào lòng hằng ngày. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

PHÉP LẠ CỦA TÌNH YÊU

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội 

I.  LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (Ga 6.51-58)

51 Khi ấy, Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng:“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”

52 Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” 53 Đức Giêsu nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.  56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”

II.  TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA

2.1 Chương 6 là chưong khó “nuốt” nhất của Sách Tin Mừng Gio-an, vì Đức Giê-su khẳng định Thịt và Máu Con Người là Bánh từ trời xuống đem lại sự sống muôn đời cho những ai ăn Bánh (Thịt) và uống Chén (Máu) ấy. Với người Do-thái thì khi nói đến bánh từ trời xuống là họ nghĩ ngay đến man-na là thứ bánh mà Thiên Chúa đã ban cho cha ông họ trong hoang địa. Nhưng bánh từ trời xuống mà Đức Giê-su ban cho cac tín hữu thì vượt xa man-na ấy. Ăn man-na người Ít-ra-en vẫn chết. Ăn bánh từ trời Đức Giê-su ban, các tín hữu sẽ có sự sống bất diệt, ở đời này và ở đời sau.  

2.2 Không chỉ có thế, ai ăn Bánh (Thịt) và uống Chén (Máu) Đức Giê-su ban sẽ được ở lại trong Người, được kết hiệp với Người, được sống bằng sự sống thần linh, sự sống của Thiên Chúa, được nên một với Người. Đó chẳng là điều thần kỳ sao?  

2.3 Suy nghĩ về những điều trên, chúng ta không thể không thán phục quyền năng và tình yêu mà Chúa Giê-su đã dành cho Dân Thánh Chúa. Trước việc thể hiện quyền năng và tình yêu vô biên ấy, chúng ta được mời gọi dâng lên Thiên Chúa và Con của Ngài là Đức Ki-tô Giê-su, lời cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng. Nhờ quyền năng và tình yêu vô biên ấy mà chúng ta được chứng kiến phép lạ phi thường mỗi ngày: Phép Lạ của Tình Yêu!  

III.  THỰC THI LỜI CHÚA

3.1 Từ ngày rước lễ lần đâu, tôi đã rước Thánh Thể không biết bao nhiêu lần. Tôi đã “chầu” Thánh Thể trong nhiều thời gian. Tôi đã có được những cảm nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Chúa Ki-tô trong Thánh Thể. Chính sự hiện diện này đem lại cho tôi sức mạnh và niềm an ủi trong cuộc sống.     

3.2 Qua các Khóa Thánh Kinh (mà tôi hướng dẫn) và qua các Sách Tu Đức, Thần Học, Hạnh các Thánh (mà tôi đọc), tôi đã hiểu sâu hơn ý nghĩa của Thánh Thể. Qua việc dấn thân phục vụ, tôi đã làm cho đời sống của tôi đậm đà ý nghĩa hiến dâng chia sẻ mà Thánh Thể gợi ý.

3.3 Tôi cảm tạ Thiên Chúa và Chúa Giê-su Thánh Thể về những hồng ân mà tôi đã lãnh nhận từ lòng từ bi thương xót của Người.  

IV.  CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, vì yêu thương nhân loại, Chúa đã  xuống thế làm người;   vì yêu thương các tín hữu, Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể để trở thành của ăn của uống cho chúng con. Con xin dâng lên Chúa lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ!

Nơi Thánh Thể Chúa mời gọi con sống hiệp nhất với mọi người. Chúa cũng mời gọi con sống hiến dâng cho mọi người và sống chia sẽ với mọi người, nhất là với những người thiếu thốn.

Con quyết không quên những mời gọi ấy của Chúa. Xin Chúa giúp con thực hiện chúng một cách khiêm cung và chân thành. Amen.

Về mục lục

.

CHÚNG TA ĐƯỢC BIẾN ĐỔI THEO ĐIỀU CHÚNG TA ĂN

Văn Chính, SDB chuyển ngữ

Thánh nữ Juliana thành Liege, một nữ tu dòng thánh Âu-tinh, đã có một thị kiến trong có thánh nữ nhìn thấy một mặt trăng tròn trịa chiếu sáng. Mặt trăng thật hoàn hảo, ngoại trừ bị  một vài lỗ nhỏ màu đen, mà qua đó thánh nữ được cho biết là do thiếu việc lễ mừng Thánh Thể. Chuyện này đã dẫn đến việc mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa trong niên lịch phụng vụ của Giáo Hội vào năm 1264.

Tại sao chúng ta cần mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa? Lễ mừng này cho chúng ta cơ hội để cám tạ Thiên Chúa vì sự hiện diện thường hằng của Đức Giê-su Ki-tô cách hữu hình trong Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa. Đó cũng là cơ hội để chúng ta tìm hiểu sâu hơn ý nghĩa cúa Bí Tích này cũng như có thái độ sống sao cho xứng đáng, vì Bí Tích Thánh Thể là bí tích của sự sống, mà ai ăn uống bất xứng, sẽ lãnh lấy án phạt cho mình như Thánh Phao-lô đã viết trong thư gởi tín hữu thành Cô-rin-tô: “Thật vậy, ai ăn uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết” (1Cr 11,29-30).

Để hiểu biết hơn về Bí Tích Thánh Thể, trước hết, chúng ta cần cầu xin Đức Giê-su ban cho chúng ta bí tích này. Bài Tin mừng hôm nay, đúng hơn là cả chương 6 của Tin Mừng Gioan, cho chúng ta câu trả lời. Chúng ta có thể thấy Đức Giê-su đưa ra cho chúng ta 2 lý do:

a) Đức Giê-su hứa sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Qua Bí Tích Thánh Thể, Đức Giê-su cho chúng ta một dấu chỉ hữu hình và một phương cách hiệu quả để hiện diện với chúng ta và đưa chúng ta đến với Ngài. Như Đức Giê-su đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong người ấy”.

b) Đức Giê-su nói rằng Ngài đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Trong Bí tích Thánh Thể, ngài trở thành phương cách hữu hình của sự trao ban sự sống cho chúng ta, để chúng ta có thể sống dồi dào trong thế giới này và trong cuộc sống mai hậu, như lời Ngài đã nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.  Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,53-54)

Đức Giê-su nói với người Do thái khi họ cùng nhau đến để xin Ngài ban cho họ bánh ăn một lần nữa. Nhưng lần này, Đức Giê-su muốn ban cho họ thứ bánh và máu một cách bí tích. Trong đầu óc phàm tục của họ, họ không thể hiểu và đánh giá được giá trị của bí tích này. Họ xầm xì với nhau: “Làm sao ông này có thể ban cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (c. 52). Thế nhưng Đức Giê-su khẳng quyết: “Thịt tôi chính là của ăn, máu tôi thật là của uống” (c. 55). Kết cục, những người Do Thái đã bỏ đi khi nghe về Bí Tích Thánh Thể, vì họ thấy bí tích này quả không có nghĩa gì đối với họ trong cuộc sống vật chất của trần gian.

Vấn nạn mà những người theo Đức Giê-su đặt ra vẫn còn là một vấn đề đối với chúng ta ngày hôm nay. Nếu chúng ta đến với Bí Tích Thánh Thể với một đầu óc duy vật, chúng ta chẳng thể hiểu được, và tất nhiên sẽ đánh mất tất cả những ơn ích của một món quà tuyệt vời của Tình Yêu Thiên Chúa. Bí Tích Thánh Thể thực là của ăn và của uống cho chúng ta, nhưng đồng thời cũng rất khác biệt với những loại đồ ăn thức uống của trần gian. Điều khác biệt lớn nhất hệ tại ở những lời của Đức Ki-tô mà Thánh Âu-Tinh đã được nghe trong lúc cầu nguyện: “Con chẳng thể làm cho Ta đi vào thân xác con trừ khi con đón nhận như một thức ăn cho cơ thể con; và đó cũng là cách con được biến đổi trong Ta”. Hằng ngày, chúng ta biến đổi những thức ăn thành thịt máu chúng ta, thì thức ăn của Bí Tích Thánh Thể cũng biến đổi chúng ta thành thân mình của Đức Ki-tô. Câu nói của Ludwig Feuerbach “chúng ta sẽ trở thành điều mà chúng ta ăn” thì càng đúng hơn nữa trong sự cảm nghiệm về Bí Tích Thánh Thể.

Nhưng tại sao nhiều người trong chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, nhưng không cảm nghiệm được sự biến đổi tận căn này? Có thể câu chuyện sau đây cũng soi sáng việc này: Một nhóm gồm những người Nga và người Hoa Kỳ cùng tham gia vào một cuộc thám hiểm. Trong ngăn chứa lương thực có loại bánh mì đen của người Nga. Vị của nó thật ngon, nhưng lại quá cứng để nhai. Chuyện xảy ra là trong một bữa ăn, một người Hoa Kỳ cắn một miếng bánh và bị gãy một chiếc răng. Anh ta liền quẳng ổ bánh vào trong ngăn và làu bàu: “Đúng là loại bánh mì cộng sản”. Nhưng một người Nga cãi lại: “Chẳng phải vì loại bánh của xã hội chủ nghĩa đâu, mà là do hàm răng hư thối của tư bản đấy”.

Nếu chúng ta không cảm nghiệm được năng lực biến đổi của Bí Tích Thánh Thể, thì có lẽ không phải do Bí Tích Thánh Thể, nhưng chính do việc thiếu niềm tin của chúng ta. Ngày hôm nay, chúng ta hãy đến với Bí Tích Thánh Thể trong một đức tin sống động tin vào sự hiện diện thực sự của Đức Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể, và chúng ta sẽ cảm nghiệm quyền năng cứu độ của Thiên Chúa cũng nhưng tình yêu có sức biến đổi của Ngài.

Về mục lục

.

LƯƠNG THỰC SIÊU NHIÊN

P. Trần Đình Phan Tiến

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, Thiên Chúa tạo thành sự sống cho nhân loại bắt nguồn từ sự sống bởi Thiên Chúa. Sự sống Thần Linh duy nhất và vĩnh cửu, vì nơi Thiên Chúa không có sự chết, đó là chân lý muôn đời. Vì, Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, đó là bản tính tất yếu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Điều nầy không khó suy luận, bởi vì, dù sự hèn kém của thụ tạo cũng chẳng ai “dại” gì tạo ra kẻ thù, hay là sự đối lập với mình, hoặc làm ra vật hủy hại mình, hay chơi với kẻ chống lại mình, phương chi là Thiên Chúa, có nghĩa là Chủ Trời Đất muôn vật.

Vậy, khi có sự sống, hay nói về sự sống , hệ lụy tất yếu phải có “lương thực” là phượng tiện để nuôi sống, có nghĩa là duy trì sự sống, vì không ai dược sống mà không được ăn. Vì vậy, người ta thường nói :ăn để sống, và rõ ràng, muốn sống phải ăn. Việc ăn uống là phương tiện để sinh sống, dù ít, nhiều, ngon , dỡ đều phải có để mà ăn.. Miếng ăn nơi thân xác cũng thánh thiện biết bao, vì nó liên hệ đến sự sinh tồn mà Thiên Chúa đã tạo thành. Miếng ăn tuy nhỏ, nhưng nó đứng ngang hàng với sự sống của nhân loại. Vâng, thưa quý vị, nhưng chỉ dừngg lại nơi miếng ăn của thân xác không thôi, thì sự sống của thân xác không thể sinh tồn và trường tồn được. Vì , thân xác tự nhiên hữu hạn, hữu hình, tất phải có thời gian chấm dứt. Nếu chỉ dừng lại tại nơi hữu hình chỉ vì “ miếng ăn” nuôi thân xác không thôi, thì quả là vô cùng bất hạnh cho nhân loại, vì ,như  người ta nói : “ miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”. vâng, điều nầy nói lên, nhân thế “tranh “ nhau miếng ăn nuôi thân xác, và nếu chỉ có thế thôi, thì sự sống thân xác hữu hạn lại càng “ mỏng manh”, người ta sẵn sàng sát phạt nhau chỉ vì miếng ăn, cái ăn.  Từ người thân trong gia đình, đến bạn bè, sơ giao, tâm giao, đến xã hội, giữa nước nầy và nước kia. Các nước xâm lược lẫn nhau, nước lớn  đánh nước bé. Hằng ngày, hằng giờ, từng giây, từng phút nhân thế tranh giành và sát phạt nhau chỉ vì miếng ăn, có khi anh em ruột thịt, cha mẹ, con cái, bên chồng, bên vợ, bên nội , bên ngoại đâm chém nhau tất cả chỉ vì miếng ăn.

Từ đó, ra đến xã hội “kim tiền”, chẳng hạn muốn được việc  thì phải : “cao lễ dễ thưa”, hay “ đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” , và dẫn đến bất công xã hội :”nén bạc đâm toặc tờ giấy”. tất cả, nếu đánh mất sự công bằng, bác ái sẽ dẫn đến diệt vong. Như vậy, sự hữu hình nơi thân xác thật mỏng manh, vô nghĩa, sự sống thân xác không có siêu nhiên thì chắc chắn không phải là sự sống vĩnh cửu được. Nên chi, sự sống hữu hình không phải là sự sống thật, dù sống đến già trăm tuổi.

Suy luận chân lý ấy, chúng ta mới hiểu được Lời Chúa hôm nay ( Ga 6, 51 -58) Lễ Mình Và Máu Thánh Chúa Kitô, Lễ hôm nay là đứng đầu mọi Thánh Lễ, Lễ hôm nay có thể nói là Lễ Cả của mọi Lễ Misa. Điều mà người Dothai cho là chói tai, vì họ không hiểu về đời sống vĩnh hằng, nếu chúng ta tin và hiểu về đời sống siêu nhiên, thì Lời nói của Chúa Giêsu hôm nay không khó hiểu, không chói tai như người Dothai đã nghe.

Vì khi Chúa Giêsu nói về “của ăn” nuôi sống sự siêu nhiên, vĩnh hằng, chứ không phải nuôi sống thân xác hữu hạn. Người nói bằng từ ngữ của nghe là trần thế, nhưng ý nghĩa siêu nhiên. Từ đó, chúng ta biết được Bí Tích Thánh Thể là một Mầu Nhiệm vô cùng cao cả, bởi chính Phần Nhân Tính tức mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế, tức mầu nhiệm làm Người của Chúa Giêsu, trở nên Hy Tế muôn đời để cứu chuộc nhân thế, nhưng phần Nhân tính ấy lại được một Thiên Tính của một Ngôi Vị Thiên Chúa làm nên. Như vậy, Đoạn Lời Chúa hôm nay ( Ga 6, 51 -58) là một Đoạn nói lên ơn Cứu Độ muôn đời của Đấng Cứu Thế, vì khi được lãnh nhận ơn Cứu Độ ấy, không những chỉ bằng Phép Rửa bởi Nước và Thần Khí, mà còn phải được kết hợp bởi việc “ăn và uống” chính Đấng Cứu Chuộc, vì chính Người đã tự nguyện trao ban. Khi nói đến đây, Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta đáp lại trọn vẹn sự trao ban của Người. Chúa Giêsu muốn trao ban tuyệt đối, trao ban tất cả, cho đến tận cùng cái cho là Bí Tích Thánh Thể.

Bí Tích Thánh Thể là nguồn sung mãn nhất, nguồn lương thực vĩnh hằng từ Đấng Cứu Thế Giêsu, chính là thần Lương để nuôi sống vĩnh hằng siêu nhiên là linh hồn bất tử đã được cứu chuộc bằng Máu và Nước của Một Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người. Chúa Giêsu không ẩn nấp, không quanh co, không che đậy, mà Người nói rõ : “ … Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống.” ( c 51c ).

Vâng , khi nghe nói đến “thịt”, người Dothai không khỏi kinh ngạc, vì “thịt” không thể ăn sống. Nhưng,  “thịt” của Đấng Cứu Thế là phần nhân tính, siêu nhiên, Người vẫn mang sự hữu hình trong siêu nhiên, Vì vậy, Người vẫn muốn trao ban trọn vẹn “cuộc khổ hình sinh ơn cứu độ” của người trong mầu nhiệm Tử Nạn, để rồi không những từ ý nghĩa siêu nhiện nhiệm mầu, mà còn là sự hữu hình mà Người đã mang và đã gánh lấy vì nhân loại. Từ đó, việc “ăn Thịt và uống Máu” Đấng đã chết vì chúng ta, mặc nhiên chúng ta mới được phục sinh trong Người, có nghĩa là được sống đời đời.

Như vậy, Bí Tích Thánh Thể là được kết hiệp trọn vẹn mầu nhiệm Nhân Tính và Thiên Tính của Đấng Cứu Thế. Vì vậy, việc “ăn và uống” Thịt và Máu của Đức Kitô không phải như cầm “cục thịt” mà ăn, bưng một  “chén Máu” mà uống. Mà là mỗi lần cử hành mầu nhiệm Đức Tin, qua thể thức Bánh và Rượu mà chúng ta nhìn thấy, chúng ta được “ăn” tron vẹn mầu nhiệm làm Người, Tử Nạn và Phục Sinh của Con Một Thiên Chúa, như vậy, chúng ta mới được đón nhận ơn cứu độ trọn vẹn. Theo đó, không phải việc ăn và uống Máu Chúa Kitô là một việc theo tự nhiên, mà là việc làm của Đức Tin.

Mỗi lần rước Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là mỗi lần được tham dự vào mầu nhiệm Nhân Tính và Thiên Tính của Người. Vì : “… Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ sống nhờ Tôi như vậy” ( c 57). Vì vậy, dù Manna ngày xưa từ trời mà rơi xuống cho dân riêng của Chúa, nhưng, cũng không thể được gọi là lương thực siêu nhiên, mà chỉ có chính “Thịt và Máu” của Đấng Cứu Thế mới được gọi là Thần Lương. Vì , ai ăn manna thì cũng sẽ chết( ý nói đến chưa được ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế.)

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến cho thế gian được sống, và sống dồi dào, nếu thế gian biết kết hợp vào Chúa là sự sống vĩnh cửu, bởi chính Thánh Thể của Chúa, thì họ sẽ được đón nhận sự sống muôn đời, vì sự sống của Thiên Tính là sự sống muôn đời./. Amen.

Về mục lục

.

NƯỚC MẮT, MỒ HÔI

Lm. Vũ Đình Tường

Nước mắt mồ hôi nói đây không phải nước mắt mồ hôi do sợ hãi, do bệnh tật mà do vất vả, lao công khó nhọc của ngày làm việc cực khổ kiếm miếng cơm, manh áo. Nuớc mắt mồ hôi đôi khi đến từ lo lắng mất công ăn, việc làm. Nước mắt mồ hôi đôi khi đến từ sợ hãi đơn xin việc bị từ chối, không được phỏng vấn. Công ăn việc làm không chỉ giúp ta nhận ra giá trị con người mà còn cung cấp thực phẩm hàng ngày và các phí tổn trong cuộc sống.

Thực phẩm, thức uống chúng ta dùng hàng ngày không những cung cấp dinh dưỡng cho thân xác, mà còn trở thành chính máu huyết thân thể con người. Bánh và rượu dâng tiến trong thánh lễ cũng là của mồ hôi nước mắt do bàn tay con người làm ra. Chúng là hoa qủa của đất trời cộng với công lao của con người được dâng lên Chúa Trời, nói lên tâm tình tạ ơn và lòng yêu mến. Tạ ơn Chúa tạo dựng trái đất; vì yêu mến Chúa dựng nên trái đất cho con người hưởng dùng. Qua lời cầu nguyện và ơn thánh hoá của Thánh Thần bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Việc biến đổi tuyệt vời này xảy ra thế nào thì ngoài sự quan sát của con mắt trần thế và cũng vượt khỏi tầm tìm hiểu của khối óc loài người. Kitô hữu tin vào việc biến đổi đó bởi Kitô hữu tin vào chỉ dậy của Đức Kitô. Tin tưởng vào Đức Kitô và yêu mến Ngài giúp chúng ta tin Thánh Thần Chúa biến bánh rượu thành Mình và Máu Thánh Chúa như lời Ngài truyền dậy

Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống Gn 6,51.

Tất cả những gì đến từ trời cao không phải để cho chúng ta tìm hiểu, tranh biện mà chính là để sinh ích cho phần rỗi linh hồn. Vì thế tranh luận về sự biến đổi Mình Máu Thánh Chúa không sinh ích gì cho tâm linh. Tin vào Mình Máu Thánh Chúa mang sự sống trường sinh cho tâm hồn và chính Mình và Máu Thánh đó trở nên một phần máu thịt trong cuộc sống tâm linh của các tín hữu. Đức Kitô tự hiến thân mình vì nhân loại, trao tặng nhân loại chính thân thể Ngài và trao tặng nhân loại chính Thần Khí Ngài để luôn cùng đồng hành với nhân loại. Tất cả đến từ lòng yêu mến Đức Kitô dành cho nhân loại vì thế Kitô hữu học từ Đức Kitô cũng hy sinh cuộc sống mình, yêu tha nhân như yêu mình. Thánh Phaolô trong thư gởi cho tín hữu thành Corintô nhắc nhở mỗi chúng ta là một thành phần của thân thể Đức Kitô, Ngài là đầu chúng ta là phần thân thể và các phần thân thể phải lắng nghe hướng dẫn của đầu.

Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô sao? Và khi ta cùng bẻ bánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, vá tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, hungg ta cũng chỉ là một thân thể. 1 Cor 10,16-17

Chúng ta có thể trao tặng nhau thực phẩm, nước uống cho thân xác nhưng không có khả năng ban sức mạnh tâm linh. Chúa là Đấng duy nhất có khả năng làm được điều đó. Ai đón nhận với tâm tình yêu mến, tạ ơn, người đó được hưởng cuộc sống trường sinh trong nước Chúa.

Nhiều cha mẹ cảm thấy quá cực nhọc, vất vả kiếm được lương thực hàng ngày và cái cực nhọc lo lắng kia làm lu mờ những sự hy sinh cao quí cha mẹ dành cho con cái; trong khi đó lại có người thực phẩm lúc nào cũng dư thừa chan chứa nên coi thường thực phẩm và đâm ra phí phạm một cách đáng trách. Họ không hề bao giờ nghĩ đến việc phải dâng lời tạ ơn Chúa ban cho thực phầm qua trái đất, khí hậu và lao công. Kitô hữu lúc nào cũng cần nhớ dâng lời tạ ơn Chúa ban cho vũ trụ, thực phẩm bởi không có Chúa chúng ta không thể tồn tại vì thế sống tâm tình tạ ơn là điều không thể thiếu trong cuộc sống của các Kitô hữu.

Về mục lục

.

ĂN VÀ UỐNG

Lm. Jos. DĐH.

Ăn uống là nhu cầu để tồn tại, mà ăn để sống, ăn để hưởng thụ, hoàn toàn khác nhau, cho dù người Việt ăn cơm, ăn phở, người Tây ăn bánh, ăn súp. Ăn uống đâu phải chỉ là đưa cơm bánh vào miệng nhai nuốt, nhưng nhờ được giáo dục, mà điều đầu tiên chúng ta đã ý thức: ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Khi ăn người ta còn được tự do chọn lựa thứ thực phẩm mang lại sức khỏe, sức sống, có hiệu quả cao nhất. Chắc chắn không phải vô tình mà cha ông chúng ta nói: ăn trông nồi, ngồi trông hướng, cũng không phải vì lắm lời nhiều lẽ, cha ông ta đã sức ưu tư, làm gì để ta không phải bận tâm đến cơm áo gạo tiền.

Ăn như thế nào gọi là đúng, đủ, không lỗi đạo làm người, ăn uống ra sao để không phí phạm đến của trời ban, như câu thành ngữ các đấng bậc nhắc nhớ: khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Chúa Giêsu hôm nay không nói đến “văn hóa ẩm thực”, không chi tiết đến độ “cách ăn nết ở”, Ngài lưu ý chúng ta hãy ăn uống thứ lương thực nào để nuôi sống được linh hồn. Ăn uống thế nào để mỗi người tìm gặp được sự sống đời đời. Ăn tươi nuốt sống, đó là câu thành ngữ chỉ người bạo ăn bạo uống, dám nói, dám làm dám chịu, nghe quả thật là bạo lực. Từ việc ăn uống tự nhiên, Chúa Giêsu mạc khải “ai ăn bánh Ta ban sẽ được sống muôn đời”, Ngài còn quả quyết với đám đông Do-thái: “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống đời đời, và tôi sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”.

Thực tế ở đời là: người ta ăn rồi lại đói, uống rồi lại khát, người ta “vận sức dụng mưu” hầu có của ăn của để, rồi cũng tới lúc bỏ lại tất cả vì tuổi cao sức yếu. Người khôn ngoan đức độ nhất, cũng “bó tay” trước vận mệnh: sinh lão bệnh tử ; người tài giỏi thông thái tới đâu, cũng không thể chế biến được thứ cơm bánh nuôi xác hồn bất tử. Ăn uống đủ chất, kiêng khem, loại bỏ được thực phẩm bẩn, ăn chín uống sôi, mới chỉ là cách phòng tránh bệnh, tự chăm sóc sức khỏe, chứ nào phải là kiếm tìm được thứ lương thực trường cửu. Ăn cơm bánh để nuôi thân xác, tiếp nhận những lời hay ý đẹp của các đấng bậc mới nuôi sống được lương tâm, được tâm trí sáng suốt.

Xã hội văn minh vẫn thừa nhận là không thiếu cơm bánh, có thiếu là thiếu lòng quảng đại, các gia đình trẻ hôm nay không sợ đói ăn khát uống, nhưng họ sợ không biết cách giáo dục con cháu nên người. Bánh vật chất là lương thực nuôi thân xác, không ai bàn cãi nữa, bánh trường sinh mà Chúa Giêsu ban để nuôi linh hồn, người Do-thái, và cả chúng ta hôm nay, đều phải có niềm tin, nếu không, sự sống đời đời cũng chỉ là vô vọng mà thôi. Của ăn tạm thời và của ăn trường tồn, sẽ không khó để phân biệt, điều hệ trọng là người ta có tin nhận Chúa Giêsu là Bánh tình thương, là Bánh trường sinh từ trời ban tặng không ?

Người xưa dùng nhiều ca dao tục ngữ để răn dạy con cháu, có những câu nghe qua là hiểu: cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ, trăm đường con hư. Có những câu nói, người ta không thể hiểu được hết ý: ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân, hay: của thiên trả địa. Nếu bao lâu, chúng ta chưa nhận ra công khó nuôi dạy con cháu, chưa tin cha ông ta phải trải qua nhiều vấp ngã mới để lại cho hậu thế những bài học quí báu, khó mà ta hiểu được tấm lòng mẹ cha của mình. Bao lâu chúng ta còn nhìn nhận Đức Giêsu là một anh thợ mộc con ông Giuse, hẳn không ai đủ hiểu thế nào là Bánh ban sự sống, cùng lắm chỉ hiểu bánh nuôi xác thân.

Có thực mới vực được đạo, nếu hiểu theo nghĩa mặt chữ, cùng lắm người ta chỉ tìm được của ăn vật chất, khó lòng hiểu được đạo làm người, đạo làm con Chúa, cần có Bánh nuôi linh hồn, Bánh Giêsu. Nếu gặp gỡ Đức Giêsu là đủ hạnh phúc, là có ơn cứu độ, Chúa Giêsu đã không phải lập đi lập lại nhiều lần: “ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì được sống muôn đời”. Tin và sống niềm tin, sẽ mãi sống động như chúng ta vẫn hiểu: học phải đi đôi với hành. Người thiếu hiểu biết chỉ nghĩ được không ăn uống sẽ chết, còn người thiếu niềm tin sẽ không phân biệt được thịt máu Chúa Giêsu là của ăn nuôi linh hồn, khác với thịt cá nuôi thân xác.

Nếu người ta cảm nhận được: trên đời này không gì quý bằng sự sống, trong tương quan không gì quý bằng tình yêu, thì người ta sẽ phải công nhận, không gì hạnh phúc bằng có sự sống, có Chúa là gia nghiệp đời đời. Là người tín hữu, chúng ta không chỉ mưu toán tính toán hầu có cơm áo gạo tiền, nhưng còn vương vấn bằng nhiều thứ đam mê khác: sức khỏe, phán đoán, đức ái, đức công bình…. Chúa Giêsu lưu ý chúng ta một của ăn duy nhất đó là Bánh tình thương, là trọn vẹn Đức Ktiô trong ơn gọi khát khao sự sống đời đời. Ngày hôm nay, ăn thịt cá, uống bia rượu, chỉ là khía cạnh nhỏ của cuộc sống, vì ai ai cũng đủ dư sự khôn ngoan để làm gì mà đạt tới hạnh phúc đời đời. Xin tình yêu của Đấng ban phát của ăn thức uống nuôi linh hồn, giúp mỗi người biết sử dụng tự do của mình để mau đón nhận Đức Giêsu là sự sống đời đời. Amen.

Về mục lục

.

ĂN MÌNH THÁNH CHÚA

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Ăn uống là nhu cầu phải có của con người. Việc ăn uống còn mang lại nhiều niềm vui cho con người. Niềm vui của sự ngon miệng. Niềm vui của sự bồi bổ và được nhân lên thêm sức sống. Vì thế, ăn không chỉ đơn thuần dừng lại ở động tác nhai hay nuốt, nhưng động tác ăn chỉ đạt tới mục tiêu cuối cùng của mình là tiến trình tiêu hóa. Thức ăn được chuyển hóa, được hấp thụ để trở thành sức sống, thành máu thịt cho người tiếp nhận.

Chúa Giê-su khi trao ban Thánh Thể mình qua tấm bánh là Ngài cũng muốn trao ban sự sống thần linh cho chúng ta. Ngài cũng muốn chúng ta tiếp nhận máu thịt Ngài để trở nên một với Ngài. Hấp thụ sức sống thần linh của Chúa con người cũng được tiếp nhận sự sống phục sinh từ Đấng đã từ cõi chết để mai sau cũng được sống lại với Người.

Phúc âm nói rằng: trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, Chúa Giê-su đã tự hiến trở nên tấm bánh, tấm bánh được bẻ ra và trao tặng, trao tặng cả cuộc đời, cả con người cho những kẻ mình yêu thương. Tấm bánh yêu thương ấy, ngày hôm nay vẫn không ngừng được ban tặng cho nhân loại. Không chỉ để được cầm lấy mà chúc tụng, cám ơn hay chiêm ngắm ở nơi cao trên bàn thờ, nhưng còn là để đón nhận như Lời Chúa mời gọi: “Anh em cầm lấy mà ăn”, để tình yêu và sức sống của Ngài dâng trào trong từng đường thớ thịt, trong suy nghĩ và việc làm, trong khối óc và con tim của chúng ta, trong mọi lối nẻo của cuộc sống đời thường.

Khi Chúa nói “hãy cầm lấy mà ăn” là Ngài muốn những ai đón rước Thánh Thể Ngài thì cũng phải trở nên giống như Ngài để có thể trao ban tình yêu ấy cho tha nhân. Nên một với Ngài trong suy nghĩ và trong hành động để có thể “yêu như Thầy đã yêu”. Như vậy, Tấm Bánh Đức Kytô, Con Thiên Chúa làm người không  chỉ được bẻ ra và trao tặng trong thánh Lễ hay trên bàn  thờ, mà còn có thể được bẻ ra và nhân lên nhiều hơn nữa trong cuộc sống của người Kytô hữu. Người ky-tô hữu một khi đã thấm nhuần sức sống của Chúa thì cũng dám sống hết mình vì người khác, dám sống gieo rắc tình yêu và lòng thương xót của Chúa nơi nhân thế.

Dám sống như Ngài là gì, nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhượng hơn, sống gần gũi và chân tình hơn với mọi người, nhất là những người anh em nhỏ bé, bị bỏ rơi bên lề cuộc sống?

Dám sống như Ngài là gì, nếu không phải là chấp nhận bị hao mòn, chấp nhận những thiệt thòi mất mát khi sống quên mình vì Chúa , vì mọi người, nhất là trong gia đình khi chúng ta dám bào mòn chính mình để mọi người được hạnh phúc?

Dám sống như Ngài là gì, nếu không phải là làm cho đời mình cũng trở nên một Tấm Bánh, luôn là niềm vui, là sức sống cho mọi người?

Đó là lời dặn dò của Con Thiên Chúa, là sứ điệp được công bố trong bữa tiệc của Chúa, và trong mọi cử hành Thánh Thể: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, và cũng là điều được gợi lên cho chúng ta hôm nay: hãy bẻ tấm bánh đời mình nên nguồn sống, niềm vui cho tha nhân.

Như vậy, bữa tiệc Thánh thể không chỉ được cử hành trong thánh lễ , mà còn được nối tiếp vào trong cuộc sống, khi con người biết sống với nhau, biết tôn trọng quyền được sống của người khác và biết cùng nhau xây dựng nền văn minh tình thương, nền văn minh sự sống như lòng Chúa hằng mong ước.

Xin Chúa thương biến đổi cuộc đời chúng ta trở nên những tấm bánh của Chúa và để mạnh dạn thưa cùng anh chị em chung quanh bằng chính Lời của Chúa: “Anh em cầm lấy mà ăn” ngõ hầu cuộc đời chúng ta cũng dám bào mòn chính mình để trở nên nguồn sống cho tha nhân. Amen.

Về mục lục

.

THẦN LƯƠNG

 Lm. Trần Việt Hùng

Chính Ta là bánh trường sinh,

Ai ăn sẽ sống, thiên linh rạng ngời.

Bánh từ trời xuống trong đời,

Thịt ban sự sống, cho người trần gian.

Nhóm người Do-thái lạm bàn,

Làm sao thịt máu, trao ban cho đời?

Còn Ta bảo thật các người,

Nếu không ăn Thịt, Ngôi Lời Ta đây,

Và không uống Máu Thánh nầy,

Sẽ không được sống, cùng Thầy mãi đâu.

Ai ăn Thịt Máu nhiệm mầu,

Muôn đời sự sống, thỉnh cầu phúc ân.

Thịt Ta là thật của ăn,

Máu Ta nguồn sống, thế nhân gọi mời,

Thân Ta lương thực bởi trời,

Dưỡng nuôi người thế, sống đời thánh nhân.

Man-na ban xuống gian trần,

Ăn rồi phải chết, xác thân bụi tàn.

Thần lương Thánh Thể Cha ban,

Chan hòa sức sống, tràn lan phúc lành.

Chúa Giêsu phán: “Ta là bánh hằng sống, ai ăn, sẽ được sống đời đời.” Đây chính là bánh trường sinh giúp chúng ta chia xẻ cuộc sống đời đời. Bánh trường sinh do từ thân thể trường sinh. Chúa Giêsu muốn ở lại với Giáo Hội và Ngài muốn thân xác của Ngài trở nên của ăn, của uống dưỡng nuôi con người. Bánh miến kết hợp bởi muôn hạt miến và rượu nho ép từ những trái nho được thánh hiến để trở nên của ăn, của uống nuôi dưỡng thân xác và linh hồn.

Không có tình yêu nào cao qúy hơn là hiến mạng sống mình làm của nuôi hồn. Chúa Giêsu muốn chia xẻ chính thiên tính và con người của Ngài cho chúng ta. Mỗi khi chúng ta nhận lãnh Mình và Máu của Chúa là chúng ta được tháp nhập vào đời sống của Chúa. Mình và Máu Chúa đã thấm nhập và hòa tan trong thân xác hay chết của chúng ta. Chúng ta sẽ cùng được chia phần sự sống đời đời với Chúa.

Ai trong chúng ta cũng muốn sống, sống mãi và sống khỏe. Con người đã đang tìm mọi cách để bảo vệ, gìn giữ và kéo dài sự sống. Đã có nhiều người mơ ước được sống trẻ mãi, không già và không chết. Họ đã tìm kiếm những thang thuốc bổ trường sinh và cây sâm ngàn năm để tăng tuổi thọ. Cuối cùng mọi người ai cũng chết thôi.

Chúa Giêsu đã chọn cách thế tuyệt hảo nhất để dưỡng nuôi hồn xác chúng ta. Như hình ảnh người mẹ nuôi con, mẹ cho con bú do chính những giọt sữa là máu thịt của mẹ. Mẹ truyền thụ cho con cái chính sự sống mình. Chúa Giêsu đã dùng Thịt và Máu của Ngài qua Bí Tích Thánh Thể như của ăn không hư nát, dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời.

Truyện kể: Ngày nọ, đang khi học hỏi về Bí Tích Thánh Thể, anh chị em dự tòng thắc mắc và đã đưa ra câu hỏi. Bí Tích Thánh Thể cao qúi và cần thiết cho đời sống thiêng liêng như thế, tại sao nhiều người bỏ lễ, đứng ở ngoài và phần lớn không lên rước Mình Thánh Chúa. Cũng thật khó trả lời. Vì đây là vấn đề thiêng liêng và riêng tư. Chúng ta có thể góp ý như thế này, thí dụ: Họ có thể yếu kém giáo lý, thiếu hiểu biết về Chúa, yếu đức tin, thiếu ý thức đới sống thiêng liêng, giữ luật dự lễ vì sợ phạt, không muốn làm hơn điều đòi hỏi hoặc vì lười biếng…

Bí Tích Thánh Thể là do chính Chúa Giêsu lập và nhắc nhở rằng các con hãy làm việc này để nhớ đến Ta. Chính Chúa mời gọi: Ai ăn Thịt Ta, sẽ có sự sống đời đời. Nếu chúng ta muốn được tham dự vào sự sống muôn đời hãy tiếp nhận Chúa. Chúa không lừa dối chúng ta đâu.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Vào năm 1263, một Linh Mục người Đức cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ kính thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên cha thấy Mình Thánh Chúa không còn là hình tấm bánh trắng, mà đã biến thành Thịt và Máu thật sự ngay trước mắt cha và toàn thể giáo dân. Những giọt Máu Thánh loang ra thấm ướt tấm khăn thánh lớn trải trên bàn thờ. Cha vội nhanh tay gấp khăn lại, nhưng hễ vừa gấp tới đâu thì Máu Thánh lại thấm ra tới đó, tất cả qua 25 lần vải trắng. Vừa xúc động vừa kính sợ, cha không thể tiếp tục dâng Thánh Lễ được nữa. Sự việc kỳ lạ này sau đó được cha đích thân xin yết kiến và tâu trình lại với Đức Giáo Hoàng Urbano. Đức Giáo Hoàng liền cử ngay một vị Giám Mục đến rước Mình Thánh Chúa cùng với tấm khăn đẫm Máu Thánh về Tòa Thánh, đặt ở Nhà Thờ Chính Tòa cho giáo dân đến tôn kính. Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Thánh Cha ra sắc dụ thiết lập Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu trong toàn Giáo Hội Công Giáo (Nguồn câu chuyện: Sưu Tầm trên Internet).

Hôm nay, chúng ta mừng trọng thể lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu. Đây là Bí tích cao trọng nhất trong bảy Bí tích chính Đức Giêsu đã thiết lập, chúng ta thường gọi là Bí tích Tình yêu. Bởi vì, không có một tình yêu nào cao qúy hơn thế nữa. Thánh Augustinô khẳng định rằng: “Dầu Thiên Chúa quyền phép vô cùng, cũng không thể cho ta điều gì hơn nữa, dầu Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng cũng không biết cho ta điều gì hơn nữa, và dầu Thiên Chúa giàu có vô cùng cũng không còn có gì cho ta hơn nữa.” Thánh Bênađô cũng nói: “Thánh thể là tình yêu vượt trên mọi tình yêu trên trời dưới đất.” Vì thế, Bí tích Thánh Thể đã trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao bài hát ra đời. Chẳng hạn, trong bài hát CÙNG THỜ LẠY CHÚA, có đoạn: “Cùng thờ lạy Chúa, trong phép Thánh thể nhiệm mầu, ân tình cao sâu, ngàn đời ai hiểu được đâu, Chúa trở nên Bánh thánh, lương thực nuôi muôn dân;” hay trong bài hát THÁNH THỂ CAO SIÊU, có đoạn: “Qua Thánh thể cao siêu con ngợi ca tình yêu của Chúa, một tình yêu bao la vời vợi, tình yêu có từ bao đời…” 

Thật vậy, vì yêu thương nhân loại nên Đức Giêsu đã lập nên phép Thánh Thể để ở lại với nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Trong bữa tiệc ly, Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà ăn: Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.” Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà uống: Này là chén Máu Thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19-20; Mt 26, 26 -28; Mc 14, 22 -24; ICor 11, 23 -25 ).

Bí tích Thánh Thể trở nên nguồn mạch và tột đỉnh của mọi sinh hoạt Hội Thánh. Vâng lệnh Đức Giêsu, Hội Thánh không những cử hành mà mời gọi mọi thành phần tham dự, yêu mến và tôn thờ Bí tích Thánh Thể. Đồng thời, Thánh Thể là của ăn chính của linh hồn, cho nên Hội Thánh mời gọi mọi Kitô hữu năng dọn mình rước lễ và rước lễ mỗi ngày. Nhưng để rước lễ nên cần phải biết dọn mình. Thánh Phaolô nói: “Ai nấy hãy tự xét mình rồi hãy ăn” (1Cr 2,28). Về thể xác: phải ăn mặc sạch sẽ, thái độ phải nghiêm trang, giữ chay thánh thể đúng theo luật. Về phần linh hồn: phải trong trạng thái ân sủng, tức là phải sạch tội trọng; có lòng tin; có lòng khiêm nhường như viên sĩ quan trong Tin mừng thánh Mathêu: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con” (Mt 8,8); phải có lòng ước ao được rước Chúa vào lòng “Như Nai rừng khao khao nguồn nước, hồn con khát Chúa trời…” (Tv 41). 

Nếu có được những điều kiện trên thì rước lễ sẽ được những ơn ích trọng đại sau đây: 

Thứ nhất, được tăng thêm ơn thánh hóa. Khi chúng ta lãnh các Bí tích: Thêm sức, Giao hòa, Xức dầu, Truyền chức thánh và Hôn phối, chúng ta cũng được tăng thêm ơn thánh hóa. Nhưng khi nhận lãnh Bí tích Thánh Thể chúng ta được tăng thêm ơn thánh hóa nhiều nhất, vì không phải chúng ta chỉ lãnh thêm ơn thánh hóa mà là lãnh nhận chính Đấng ban ơn thánh hóa, là chính nguồn mạch ơn phúc.

Thứ hai, được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Đức nguyện Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói: “Khi chúng ta ăn bất cứ thứ gì thì chúng ta biến nó trở nên thịt máu của chúng ta, nhưng khi chúng ta ăn Thịt và Máu Chúa Giêsu thì ngược lại, chính Chúa Giêsu biến đổi chúng ta thành chi thể của Ngài nhờ đó chúng ta được ở lại trong Ngài.” Đồng thời, Đức Giêsu sẽ sống trong chúng ta, như Ngài đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở trong người ấy” (Ga 6,56). Khi đó, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). 

Thứ ba, được hiệp nhất với anh chị em tín hữu trong Hội Thánh. Bởi vì, chúng ta cùng chia sẻ một lương thực là cùng chia sẻ một sự sống, nên chúng ta hiệp thông và hiệp nhất với nhau, như Thánh Phaolô đã khẳng định trong bài đọc 2 hôm nay: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17). Do đó, khi chúng ta được hiệp nhất với Đức Giêsu thì chúng ta cũng được hiệp nhất với nhau.

Thứ tư, được tha các tội nhẹ. Hằng ngày chúng ta phạm nhiều tội nhẹ trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Có những tội nhẹ vô tình nhưng cũng có những tội nhẹ cố tình. Những tội nhẹ này không những không ngăn trở chúng ta rước lễ, mà chính việc rước lễ sẽ tha các tội đó cho chúng ta. 

Thứ năm, giúp bảo vệ chúng ta khỏi phạm tội trọng. Việc rước lễ như là tấm lá chắn ngăn chúng ta phạm tội trọng. Công đồng Trentinô đã nói: “Việc rước Chúa là một liều thuốc gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng.” 

Thứ sáu, bảo đảm cho chúng ta có sự sống đời đời. Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (x. Ga 6,54). Đức Giêsu không nói người ấy “sẽ được sống muôn đời” nhưng Ngài nhấn mạnh người ấy “được sống muôn đời.” Còn việc bảo đảm sẽ được sống lại sau này thì chính Đức Giêsu đã khẳng định: “…Tôi sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết” (x. Ga 6,54). Như vậy, phép Thánh Thể, sự phục sinh và cuộc sống vĩnh cửu có tương quan với nhau, nghĩa là bây giờ nhờ rước Chúa, chúng ta có đời sống ân sủng, sau khi chết, linh hồn chúng ta được hạnh phúc trường cửu, và ngày tận thế thân xác chúng ta sẽ được đồng vinh hiển cùng với linh hồn.

Rước lễ được nhiều ơn ích như thế. Vậy mà, trong thực tế đời sống đạo, vẫn có nhiều người bỏ rước lễ. Họ bỏ rước lễ có thể do thái độ lãnh đạm, thờ ơ hay kiêu ngạo. Cũng có thể, họ bỏ rước lễ vì sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể nên họ mặc cảm, tự ti, sợ sệt vì tội lỗi của mình mà không ăn năn thống hối để rước lễ. Nhưng dầu có vịn vào lý do nào đi chăng nữa thì: Bỏ rước lễ là khinh dễ, xúc phạm đến tình yêu và làm trái lệnh Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Ai không ăn thịt con người và uống máu Ngài thì không có sự sống nơi mình.” (Ga 6,53); Bỏ rước lễ là coi thường Giáo Hội vì Giáo Hội là kẻ sắm, bảo quản, ban phát Thánh Thể cho chúng ta; Bỏ rước lễ trong những trường hợp sau đây là lỗi luật của Giáo Hội: trong vòng một năm không rước lễ, khi hấp hối và nguy tử (có cơ hội mà không rước lễ); Bỏ rước lễ cũng có thể trở thành gương mù gương xấu: Cha mẹ bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho con cái. Thầy cô giáo lý viên bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho học sinh. Người lớn bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho trẻ em…; Người xưng mình là Kitô hữu, tin Chúa Giêsu, mà bỏ rước lễ thì tự phản lại lí lịch của mình và làm người ta hồ nghi về bản chất kitô hữu của mình. 

Bên cạnh nhiều người bỏ rước lẽ thì lại có những người rước lễ không nên như: rước lễ khi còn mắc tội trọng; rước lễ khô khan khi không dọn mình trước, cám ơn sau; không có thái độ khiêm tốn, cung kính khi lên rước lễ hay trước Thánh Thể Chúa…

Còn thái độ của của chúng ta lâu nay đối với Bí tích Thánh Thể như thế nào? Có siêng năng tham dự thánh lễ không? Có siêng năng dọn mình rước lễ sốt sắng không? Hay chúng ta lại lười biếng bỏ rước lễ? Rước lễ trong khi mắc tội trọng?

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì yêu thương nên Chúa lập Bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế, xin cho mỗi người chúng con biết năng dọn mình rước lễ sốt sắng để được những ơn Chúa ban qua Bí tích Tình Yêu này. Amen.

Về mục lục

.

BÁNH HẰNG SỐNG

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi 

Con người muôn thời luôn ước mong có một cuộc sống trường sinh bất tử.Do đó, có nhiều Vị Vua đã tốn rất nhiều công sức, đầu tư cho các nhà bác học, các nhà nghiên cứu y khoa tìm ra thuốc trường thọ. Nhiều Vị Vua đã tàn nhẫn hy sinh biết bao nhiêu sinh mạng để nghiên cứu hầu có thể kéo dài sự sống.Tuy nhiên, tất cả đều vô vọng, tất cả đều mơ hồ. Không có một viên thuốc cải lão hoàn sinh nào được bào chế. Một Tần Thủy Hoàng xưa, một Nursultan Nazarbayev, tổng thống nước Kazakhtan nay, đã truyền lệnh cho các nhà khoa học tìm ra thuốc trường sinh bất lão. Tất cả đều chỉ là một giấc mơ hão huyền…

Trần gian không thể nào tìm được thuốc cải lão hoàn sinh, nhưng Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta thứ thuốc, thứ bánh trường sinh. Manna khi xưa, Thiên Chúa ban cho dân Israen trong sa mạc chỉ giúp nuôi họ trong cuộc hành trình tiến vào đất hứa. Nhưng, bánh hằng sống mà Ngài hứa ban sẽ cho chúng ta sự sống đời đời. Thịt của Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ có sự sống đời đời . Chúa đã xác định rõ ràng như thế trong Tin mừng thánh Gioan 6,32.51 :” Bánh Môisen ban tặng các ngươi chẳng phải là bánh từ trời xuống…Ta là bánh hằng sống từ trời xuống.Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta “.Có nhiều người đã tin vào Ngài, nhưng cũng có môn số môn đệ rút lui không đi theo Ngài vì họ cho rằng lời nói ấy thật chói tai….Chúng ta phải trở lại Nhà Tiệc Ly mới hiểu được điều Chúa hứa ban, thánh Máccô viết :” Đang khi họ đồng bàn với nhau, Chúa Giêsu cầm một miếng bánh tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói :” Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta”. Đoạn Ngài cầm lấy chén lên, tạ ơn Chúa, rồi trao cho họ “ Tất cả hãy cầm lấy mà uống. Đây là Máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người. Máu này để ký giao ước với Thiên Chúa “. Thánh Luca đã diễn tả lại sự kiện trên như sau :” Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ “( Lc 24, 30 ). Diễn tiến này xẩy ra y hệt trong bữa Tiệc ly Chúa đã làm. Thực tế, Chúa Giêsu đã cho các Kitô hữu muôn thời cảm nghiệm được chính Mình Máu Chúa ban cho họ sự sống đời đời. “ Bánh mà Ta ban cho là Thịt Ta để cho thế gian được sống “ hoặc “ Thiên Chúa đã không tha Con Một Ngài, nhưng đã trao ban Con Một Ngài “ ( Ga 3,16 ), để cứu độ trần gian, để cứu vớt mọi người, như là Bánh nuôi sống tất cả. Vâng, Chúa đã nuôi nhân loại, nuôi con người bằng “ Bánh trường sinh “, bằng “ Bí Tích Thánh Thể “. Mình Máu của Chúa là lương thực nuôi sống con người, là thuốc trường sinh mà con người, loài người vẫn mong tìm kiếm. Vâng, Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu, Chúa trao ban cho nhân loại, cho mỗi người. Bánh Hằng Sống không chỉ nuôi sống chúng ta đời, nhưng còn là nguồn lực khích lệ, an ủi, động viên chúng ta để chúng ta vượt thắng những thử thách, khó khăn, phong ba bão táp để tiến về Quê trời.

Chúng ta, để được sống sự sống đời đời thì không chỉ tin Chúa, nhưng còn cần phải sống như Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Chúa đã Nhập Thể làm người, đã chết để cứu chuộc chúng ta và đã sống lại để cho chúng ta cũng được sống lại với Người. Nên, Chúa sống lại về trời và ban Thánh Thần cho chúng ta để chúng ta có sức sống mới, để chúng ta được sống nhờ Ngài cũng như Chúa sống nhờ Chúa Cha.

Chính vì thế, mỗi lần chúng ta rước lễ là chúng ta đón nhận chính thân xác sống động của Chúa Giêsu. Đấy cũng chính là Đức Giêsu đã được sinh ra nơi Hang Đá Bêlem. Đấy cũng chính là Đức Giêsu đã chết trên thập giá nơi đồi Canvê và đấy cũng chính là Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.

Vâng, Chúa Giêsu đã long trọng cử hành Bí Tích Thánh Thể tại Emmaus mà Ngài đã tiên báo tại Cana, đã hứa ban tại Capharnaum và đã thiết lập tại Giêrusalem. Ngày nay và cho mãi đến muôn đời, Chúa luôn ngự trong Bí Tích Thánh Thể và ở trong Nhà Tạm để chờ đón chúng con.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho chúng con Bánh Bởi Trời, Bánh Hằng Sống để nuôi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con luôn biết mến yêu Bí Tích kỳ diệu:” Bí Tích Tình Yêu, Bí Tích Ban Sự Sống vĩnh cửu là chính Mình và Máu Đức Kitô “. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Manna trong sa mạc xưa và Thịt Máu của Chúa Giêsu khác nhau thế nào ?
2.Ai đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể ? Ở đâu ? và vào lúc nào ?
3.Bí Tích Thánh Thể là gì ?
4.Rước Mình Máu Thánh là tiếp nhận ai ?

Về mục lục

.

AI ĂN BÁNH NÀY SẼ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI

    Fx Đỗ Công Minh

Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục diễn từ Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu, với lời khẳng định: “Ai ăn Thịt và uống Máu tôi thì được sống muôn đời”.  Bánh Hằng Sống được ban cho con người chính là Thịt Máu của Đức Giêsu, nghĩa là bằng chính thân mình của Ngừơi. Như vậy, con người được nuôi sống, không chỉ bằng cơm bánh, nhưng nhất là bằng sự sống thần linh của Đức Giêsu, qua chính Thịt Máu Ngài.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Những người Do Thái lúc ấy tranh luận với nhau về việc “ Làm sao Ông này có thể cho chúng ta ăn thịt Ông ta được ?”,lời tranh luận ấy đến hôm nay và sau này vẫn còn mãi.

Một vị Linh mục thánh thiện đã kể lại, mỗi lần Cha dâng lễ, khi đưa cao bánh Thánh và công bố lời “Đây Chiên Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian “, ông nhận ra Chúa hiện thân khuôn mặt Người trong Bánh Thánh. Lúc thì Chúa Giêsu với khuôn mặt vui tươi, như đang cười với Ông. Ông hiểu rằng Chúa hài lòng về ông. Lúc khác, vị Linh mục lại nhìn ra gương mặt đau khổ, buồn sầu trong Bánh Thánh, ông hiểu ra Chúa đang đau khổ vì tội lỗi con người xúc phạm đến Chúa, trong đó có ông. Ông xin Chúa thứ tha và tha thiết cầu nguyện nhiều hơn. Cũng có lúc với khuôn mặt tư lự trong Bánh Thánh, ông nhận ra Chúa đang ưu phiền vì nhân lọai thờ ơ với Chúa. Số người đón nhận Thánh Thể Chúa sút giảm.

Phần con trong lòng tin, con biết rằng điều ấy không có gì khó hiểu, bởi con được sống trong bầu khí Thánh Kinh từ nhỏ, được học hỏi giáo lý, được Thánh Thần Chúa soi sáng. Con lại vẫn đang sống trong môi trường Xứ Đạo, nói rộng ra là trong lòng Giáo hội Công Giáo. Thế nhưng việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa có tác động gì đến cuộc sống của con?

Con rước Mình và Máu Thánh Chúa, nhưng con có Chúa ở trong lòng ? Con có thể hiện mình đang ở lại trong Chúa? hay sau mỗi Thánh Lễ, Chúa tiếp tục ở trong nhà Tạm, trong nhà thờ. Còn con, con ra đi giữa chợ đời. Chúa vẫn là Chúa, con vẫn là con với tất cả hỉ nộ ái ố của cuộc sống trần gian.

Nếu con có Chúa trong lòng, con có minh chứng điều ấy bằng những hành động cụ thể không? Con có mạnh dạn sống niềm tin của mình giữa xã hội  hôm nay không ? Tự nhận là con cái Chúa, con có mạnh dạn “Sống Tin Mừng Đức Giêsu giữa dân tộc mình “ như lời Đức Thánh Cha Bênêdictô đã nhắn nhủ ? tại đất nước Việt Nam của con, những người chưa nhận biết Chúa chiếm số đông, trên 90% dân số. Sống Phúc Âm chính là Sống Thánh Thể, sồng có Chúa trong lòng. Sống bác ái thực sự, hy sinh xả kỷ vì anh em. Con có làm được và dám làm ?

Những câu hỏi ấy vẫn theo con mỗi ngày trong cuộc sống này.   

Trong bầu khí tục hóa đang lan tràn, lắm khi con cũng trở nên hờ hững với việc đến với Chúa.Bị chi phối bởi các thế lực trần tục, lắm lúccon không dám đặt hết niềm tin nơi Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Xin Chúa giúp con, mỗi khi tham dự thánh lễ là mỗi lần con  ý thức mình đang dự tiệc, với lương thực thần linh mà Đức Giêsu thết đãi và nuôi sống linh hồn con.

Xin chocon ao ước và say mê rước Thánh Thể với tất cả lòng tin và sự trân trọng.Dám sống và giới thiệu Chúa cho những người sống bên con, là con đang có Chúa ở cùng.AMEN.

Về mục lục

.

TẤM BÁNH LỜI CHÚA

JM. Lam Thy

Người Do-thái vì không tin Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên khi nghe Đức Ki-tô nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51), thì ngay lập tức họ phản ứng: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” (Ga 6, 52). Không những thế, họ còn “tranh luận sôi nổi với nhau; họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6, 52). Không chỉ những kinh sư luật sĩ Do-thái, đến ngay cả các môn đệ của Đức Giê-su cũng “Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 60).

Cứ tưởng chỉ ở thời đó mới có đám người Do-thái nói như vậy; thật không ngờ ngày nay số người không tin vào Lời Đức Ki-tô còn nhiều gấp bội. Có lẽ con người càng văn minh thì lại càng hoài nghi về những dấu chỉ rất thật, rất đời thường về sự hiện diện của Thiên Chúa chăng? Hoá cho nên khi đọc và suy niệm Kinh Thánh cần phân biệt nghĩa văn tự và nghĩa thiêng liêng. Chính Thiên Chúa đã dùng cái bất toàn của con người để công bố Lời toàn năng, dùng miệng lưỡi nhơ uế của con người để nói Lời Chí Thánh. Cụ thể hơn, Thiên Chúa đã thông qua những vật chất bình thường, rất đời thường, để mạc khải cho con người hiểu những mầu nhiệm ân sủng cực cao cực trọng Người đã ban cho nhân loại. Công việc mạc khải ấy Thiên Chúa không dành cho những người được coi là thông thái (cỡ như các kinh sư Pha-ri-siêu), mà dành cho những kẻ bé mọn, những con người cũng rất bình thường (thậm chí còn bị đám kinh sư coi là tầm thường, tội lỗi nữa). Thật vậy, “Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25).

Thử tìm hiểu Lời Chúa vì sao khiến đám người Do-thái tranh luận sôi nổi và không tin. Theo Giáo lý HTCG (các điều 115, 116, 117) thì: “Theo một truyền thống cổ xưa, có thể phân biệt hai nghĩa được dùng trong Kinh Thánh: nghĩa văn tự, nghĩa thiêng liêng. Nghĩa thiêng liêng được chia thành nghĩa ẩn dụ, nghĩa luân lý, nghĩa thần bí. Sự hoà hợp sâu xa của bốn nghĩa này bảo đảm cho vịêc đọc Thánh Kinh được phong phú tối đa… Hai câu thơ trung cổ (“Littera gesta docet, quid credas allegoria, Moralis quid agas, quo tendas anagogia”) tóm tắt ý của bốn nghĩa như sau: Nghĩa văn tự dạy về biến cố; –  Nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin, – Nghĩa luân lý dạy điều phải làm, – Nghĩa thần bí dạy điều phải vươn tới” (xin coi thêm Tông huấn “Lời Chúa”, mục “Nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng”, số 37; và “Cần phải vượt quá chữ viết”, số 38). Riêng Thánh Tô-ma A-qui-nô thì cho rằng : “Tất cả các nghĩa trong Thánh Kinh đều dựa vào nghĩa văn tự” (“Tổng luận” 1, 1; 10, 1)  

Lời Chúa “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51) theo nghĩa văn tự thì thật rõ ràng nói về bánh và thịt là những thứ nhìn thấy, cầm nắm, ăn uống được, nhưng “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6, 52). Đó là vì “Nghĩa văn tự dạy về biến cố”, mà biến cố ở đây là biến cố hy tế thập giá, biến cố này chưa xảy ra, nên đám người Do thái không tin. Còn đối với chúng ta ngày nay thì vì không được chứng kiến hoặc trực tiếp tham dự vào biến cố ấy, nên rốt cuộc cũng lại bán tín bán nghi chẳng kém gì đám người Do thái. Vậy thì phải hiểu Lời Chúa theo ý nghĩa nào?  

Rõ ràng ở đây Chúa muốn nói đến sứ mạng được Chúa Cha trao phó cho Người: cứu độ nhân loại bằng sự hy sinh chính mạng sống mình trên thập giá. Chúa đã dùng hình ảnh cụ thể (bánh, thịt) để nói về ý nghĩa trừu tượng (mầu nhiệm cứu chuộc). Đó chính là “Nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin”. Tiến tới một bước nữa: Chúa muốn cho con người được ăn bánh hằng sống từ trời xuống là chính Thịt và Máu Chúa, để làm gì? Phải chăng là để đem lại hạnh phúc đích thực, hạnh phúc vĩnh cửu (sự sống vĩnh hằng nơi cõi phúc Thiên đàng) cho con người? Rõ ràng (theo điều 116 Giáo lý HTCG) “các biến cố được Kinh Thánh thuật lại phải dẫn chúng ta đến một cách ăn ở chính trực. Các biến cố đó được viết ra “để răn dạy chúng ta” (1Cr 10, 11)”. Cụ thể hơn, đó là “Nghĩa luân lý dạy điều phải làm”. Với nghĩa này, thì không dừng lại ở việc đọc và suy niệm Kinh Thánh, mà phải là đem những điều mình hiểu biết ra thực hành, bởi vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết”. Cuối cùng thì phải hiểu Lời Chúa theo nghĩa thần bí, mà “Nghĩa thần bí dạy điều phải vươn tới”. Chính ý nghĩa cuối cùng này thúc đẩy chúng ta phải củng cố đức tin để kiên trì vươn tới vậy. 

Nếu chúng ta tin rằng chính thực Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, thì vấn đề Người truyền phép cho bánh và rượu trở nên Thịt và Máu của Người cũng chỉ là chuyện nhỏ, quá nhỏ đối với Thiên Chúa. Cũng đã có nhiều người cắc cớ đặt câu hỏi “Thế nhưng tại sao hình dáng, màu sắc, mùi vị của bánh và rượu vẫn giữ nguyên, không  có gì thay đổi?”. Vấn đề chính ở điểm này. Chỉ xin đưa ra một hình ảnh đặc thù, đó là Thánh Phao-lô. Nếu chỉ nhìn hình dáng, cử chỉ, thái độ, giọng nói của ngài trước và sau biến cố Đa-mát thì chẳng có gì thay đổi, nhưng thần trí thì thay đổi hoàn toàn. Trước đó thì năng nổ nhiệt tình đi lùng bắt những người theo Ki-tô, rồi về sau cũng lại rất nhiệt tình năng nổ, thậm chí hy sinh cả tính mạng vì Ki-tô, làm nhân chứng sống động cho Đức Ki-tô phục sinh. Chính nhân chứng độc đáo này đã khẳng định: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.” (1Cr 10, 16-17). Vâng, cái dáng vẻ bên ngoài của Thánh Phao-lô trước và sau biến cố Đa-mát vẫn không có gì thay đổi, nhưng thần trí tiềm ẩn bên trong đã hoàn toàn đổi khác. Cũng vậy, hình dáng và mùi vị bánh rượu vẫn không có gì thay đổi sau khi được truyền phép (kể từ bữa Tiệc Ly cách đây 2000 năm, cho đến mãi muôn đời), nhưng bản tính rượu và bánh đã hoàn toàn đổi khác. Một cách cụ thể, bánh rượu trước khi được truyền phép chỉ là những vật chất bình thường, vô hồn, nhưng sau khi truyền phép thì rượu bánh đã có hồn, tức là có Chúa Ki-tô thực sự hiện diện trong đó vậy.

Thật là rõ ràng “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 56-58). Vâng, không còn nghi ngờ gì nữa về nguyên lý bất biến: Giáo hội là một cộng đồng hiệp thông trong mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi. Toàn thể Giáo Hội đều cùng uống chung một chén, cùng ăn chung một tấm bánh, để cùng thi hành chung một sứ vụ Rao giảng Tin Mừng Cứu Độ (“Người đã thiết lập trong Giáo hội của Người nhiệm tích Thánh Thể kỳ diệu, vừa là dấu chỉ vừa thể hiện sự hiệp nhất của Giáo hội. Người ban cho các môn đệ Người một giới răn mới là tình yêu thương nhau, và hứa ban Thánh Thần an ủi, Ðấng vừa là Chúa vừa ban sự sống để ở với họ mãi mãi.” – SL về Hiệp Nhất”, số 2).  

Trong mỗi Thánh Lễ – một cuộc tái hiện Hy tế Thập Giá của Chúa Giê-su Ki-tô – thì việc cử hành Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm, là trọng điểm. Cùng với nghi thức Truyền Phép Thánh Thể, vị chủ tế nhắc lại chính Lời của Đấng Cứu Độ: “Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em” và “Đây là chén Máu Thầy, Máu Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu”. Mình của Đức Giê-su Ki-tô bầm giập, nát bấy vì đòn roi, gai góc, Máu từ Trái Tim Người bị đòng, giáo, gươm, đao tội lỗi loài người đâm thâu, không chỉ ở trên Golgotha năm xưa, mà cho đến tận ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Tất cả là tấm bánh huyền diệu nằm trong một trái tim ngút ngàn Máu và Nước (Máu Dưỡng Nuôi + Nước Thanh Tẩy) của suối nguồn Tình Yêu. Mầu nhiệm Thánh Thể cũng là trung tâm của đời sống Giáo hội. Biểu tượng sống động nhất cho mầu nhiệm cứu chuộc luôn luôn và mãi mãi vẫn là: “Thập giá Đức Ki-tô, niềm vinh dự của ta, Thập giá Đức Ki-tô đã khơi nguồn ơn thánh hoá. Nhờ Máu Nước Tim Người từ khổ giá tuôn trào, thành nguồn ơn giải thoát cứu độ ta.” (“Thập giá Đức Ki-tô” – TCCĐ).

Về mục lục

.

THÔNG BAN SỰ SỐNG THẦN LINH

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 4.800 km, phát xuất từ Tây Tạng, chạy dọc theo suốt chiều dài của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua Myanma, Thái Lan, Lào, Cambodia, Việt Nam và cuối cùng hoà nhập với biển Đông, đem lại sự sống cho tôm cá, làm tốt tươi các loài thảo mộc, tưới xanh ruộng đồng, đem lại lương thực nuôi sống hàng triệu cư dân thuộc nhiều quốc gia nằm trong lưu vực của nó.

Sự sống thần linh, tức sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, một sự sống tuyệt vời và miên viễn, cũng tuôn chảy dạt dào, không ngừng không nghỉ như một dòng sông không bao giờ vơi cạn và sự sống ấy được thông ban cho vô vàn tín hữu khắp nơi.

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy cho biết sự sống thần linh bắt nguồn từ Chúa Cha: “Chúa Cha là Đấng hằng sống” (Gioan 6,57) và sự sống từ Chúa Cha được thông ban cho Chúa Con cũng như Chúa Thánh Thần: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” (Gioan 6, 57). Thế là nơi Ba Ngôi, sự sống được tuôn ban dồi dào sung mãn như nước đầu nguồn của một dòng sông cả.

Như nước sông Mekong không tụ lại ở đầu nguồn nhưng tuôn đổ chan hòa xuống vùng hạ lưu, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa cũng không dừng lại nơi Ba Ngôi nhưng tiếp tục thông ban dồi dào cho nhân loại.

Làm thế nào có thể đón nhận Sự sống của Thiên Chúa?

Sở dĩ Chúa Giê-su được tiếp nhận Sự sống từ Chúa Cha là vì Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài (Gioan 14, 10 -11).

Vậy nếu chúng ta muốn được tiếp nhận sự sống thần linh từ Chúa Giê-su thông ban, thì chúng ta cũng phải tìm cách ở trong Chúa Giê-su và để cho Chúa Giê-su ở trong chúng ta.

Cách đó thật đơn giản như Chúa Giê-su đã mách bảo cho chúng ta: “Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Gioan 6, 56).

Để cho nhân loại có thể “ăn Thịt và uống Máu Ngài”, Chúa Giê-su đã lập nên Bí tích Thánh thể để Ngài thực sự hiện diện dưới hình bánh, hình rượu và mời gọi chúng ta đón rước Ngài.

Một khi đón nhận Mình Máu thánh Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh thể, chúng ta được tan hoà vào Chúa như giọt nước hoà trong chén rượu, như ao nước nhỏ hoà chung trong đại dương, và một khi đã nên một với Chúa Giê-su, thì tất nhiên, sự sống của Chúa Giê-su sẽ được chuyển thông cho chúng ta. Chúng ta được mang lấy sự sống bất tử của Thiên Chúa trong chính bản thân mình nên được sống đời đời. Chính vì thế Chúa Giê-su mới nói: “Ai ăn Thịt và uống Máu tôi sẽ được sống đời đời” (Gioan 6, 54).

Thế là nhờ Bí tích Thánh thể, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa đã được khơi dòng: Cội nguồn sự sống từ Chúa Cha được thông ban cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần từ trước muôn đời, nay được thông ban cho những ai lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa Giê-su.      

Lạy Chúa Giê-su,

Sự sống của con người trên trái đất tuy mỏng giòn và tạm bợ, nhưng đối với mọi người, đó là một giá trị cao quý nhất, đáng trân trọng nhất và người ta dám hy sinh tất cả mọi thứ trên đời để giành cho được sự sống tạm thời đó.

Tuy nhiên, vì yêu thương chúng con, Chúa rộng ban thêm cho chúng con sự sống của chính Ba Ngôi Thiên Chúa, là một giá trị triệu lần cao quý hơn, vì đây là sự sống cao cấp, sự sống tuyệt vời, sự sống sung mãn và không bao giờ tàn lụi.

Chúng con hết lòng tri ân cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con quà tặng vô giá nầy.

Xin cho chúng con siêng năng đón nhận Mình Máu thánh Chúa để được nên một với Chúa và nhờ đó, sự sống tuyệt vời của Chúa được lan toả trong chúng con.

Về mục lục

.

THỊT TÔI THẬT LÀ CỦA ĂN, MÁU TÔI THẬT LÀ CỦA UỐNG

                                                                    Lm. Jos. Uyên Nguyên

Hôm nay lễ trọng kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Lễ Mình Máu Thánh CKT được ĐGH Urbanô thứ IV lập ra năm 1264, sau khi cẩn trọng điều tra phép lạ Thánh Thể ‘ MTC chảy máu tại Polsena’. Việc tôn kính Mình Máu Chúa cũng được thánh Tôma Aquinô nghi thức hóa thành nghi lễ tôn kính trọng thể: rước kiệu và chầu Phép Lành với bài thánh ca tự biên bằng tiếng la-tinh dùng cho nghi lễ này, bài  hát ‘Pange lingua’.

Mình Máu Thánh CKT đích thực là lương thần để ăn, để uống, là lương thực.  

Trong ba bài đọc thánh lễ hôm nay nói đến việc ăn, việc uống. Bài đọc 1, Môsê nhắc nhở dân Do Thái hoài niệm về những công việc vĩ đại mà TC đã làm cho họ, xám hối những bất trung dẫn đến nhiều thử thách khốn đốn 40 năm trong sa mạc, thắm thía những thử thách của TC về lòng trung thành, gắng sức thực thi những điều Chúa dạy. Mặc bao bất tín bất trung, TC hằng yêu thương chăm sóc, tín trung bất chấp tất cả.  Khi lâm vào  nguy cơ cùng cực, Chúa quay nhìn và thương ban mọi điều khẩn thiết, như thức ăn thiêng manna thừa thải, nước uống vọt ra từ tảng đá thiêng chống khát, cứu khỏi nộc độc rắn cắn nhờ con rắn đồng treo cao trong sa mạc.  Môsê kêu gọi hãy vững tin quyền năng TC và hãy phụng thờ TC tín thành.

Bài đọc 2, Phaolô tuy không nói rõ đến việc ăn uống, mà dùng từ mang ý rất tương đồng ‘dự phần mình và máu’ Chúa Kitô. Thiết nghĩ dự phần cũng là ăn uống đồng bàn, chung tiệc, qua đó Phaolô đề cập dến tinh thần sống thông hiệp, tránh những phân biệt bất hòa, phe nhóm chia rẻ.

Bài đọc 3, CGS trong Tin Mừng Gioan nói rõ không úp mở việc ăn và uống. Cụ thể hóa việc ăn uống là ăn thịt và uống máu Người. Ăn và uống Thịt Máu Người là cách để có sự sống.

CGS nói đến thịt máu Người là của ăn của uống cho nhân loại xuất phát từ bài giảng ở thành phố Caphanaum đối diện bên kia biển hồ nơi mà ngày hôm trước đó Chúa đã cho năm ngàn người ăn no nê chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá. Để hiểu Mình Máu Thánh Chúa không chỉ là của ăn của uống nuôi dân Người, mà còn hơn thế, cần thiết ôn lại những gì mà Người đã giảng cho dân? Bên kia Caphanaum, nơi Người đã làm phép lạ hóa bánh cá nuôi dân, để rồi hôm sau đó bên này, ĐGS giàng bài giảng minh bạch chỉ giáo về bánh để ăn, thức để uống, nhu cầu không chỉ cho sự sống thể lý mong manh mà còn cho sự sống trường sinh nữa.  Điều này được hiểu từ câu hỏi không thể không có chủ tâm gợi chú ý về mình, khi ĐGS hỏi Philipphê:“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn”? ( Ga.6,5). Từ ‘ mua đâu’ mang nội dung không thiếu hàm ý. Cặp từ gợi chú ý các tông đồ qui hướng về Người, chú tâm về việc Người sắp làm, và thành quả của việc sắp làm ấy. Sư gợi ý như vậy, có thể là câu hỏi gợi suy, chuẫn bị tâm thế thấu triệt và xác tín những gì mà Người sẽ dạy về cái để ăn để uống mới lạ trong bài giảng ở Caphanaum. Nhưng khi Người nói đến thịt Người là của ăn, máu Người là của uống, phút chốc sự việc thay đổi chóng vánh, nỗi bức xúc hiện ra giữa các môn đệ. Hậu quả thật tai hại. Các môn đệ nghe mà không hiểu, không hiểu nên không tin và kết cục họ rút lui bỏ Người, không theo nữa.

Thịt và máu CGS không chỉ là của ăn, mà còn là chính Người, Ngôi Lời của Chúa Cha, tiếng nói của Chúa Cha, và hình ảnh của Chúa Cha. Sở dĩ tin thật là thế bởi CGS nói: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và tôi ở lại trong người ấy”(Ga.6,56).  Là Ngôi Lời của Chúa Cha vì Người mạc khải chúa Cha, là bằng chứng sinh động cho tình yêu Chúa Cha hóa nên nhục thể để ở giữa nhân loại, để mạc khải tình yêu Chúa Cha cho nhân loại. Tình yêu Chúa Cha được biểu lộ không chỉ qua công cuộc tạo dựng mà còn hiện rõ trong công cuộc tái tạo mọi sự trong Con dấu ái của Ngài. Và để làm được cuộc tái tạo đó, Ngôi Lời của Chúa Cha phải trở nên nhục thể, chết trong cuộc hiến tế và phục sinh sau đó. Chính nhờ vậy, mà thịt máu Người đã trở nên lương thực trường sinh cho những ai là kẻ tin vào Người, giữ Lời Người. Thế mới biết: “ Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì sẽ được sống muôn đời. vì thịt Tôi thật là của ăn, máu Tôi thật là của uông” (Ga. 6.54,55). Những điều này đã làm sáng tỏ câu hỏi gợi suy dành cho Philipphê  của CGS: “Ta mua đâu bánh cho những người này ăn đây?”.

Mọi kitô hữu hôm nay được mời gọi tâm đắc tư tưởng gói gọn trong lời thư 1 mà thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô được trích đọc trong thánh lễ này! Phaolô viết: ‘Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ TC, là dự phần vào Máu ĐKT, khi ta cùng bẻ Bánh Thánh là dự phần vào Thân Thể Người. Vì chỉ có một tấm Bánh, tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể’. Mọi người được kêu mời dự tiệt Mình và Máu ĐKT, là để trở nện hiệp nhất với anh em trong ĐKT, nghĩa là chung tâm tình, chung cảm xúc, chung ước muốn, chung ý hướng trong ĐKT. Điều này chỉ đến ĐKT thu tóm mọi người trong Người cho Chúa Cha. Nên việc ăn thịt và uống máu ĐKT không thể là việc lập ra phe phái, chia bè phân nhóm. Mà chỉ có kết hiệp nhau, bất chấp mọi khác biệt, vẫn hãy gắng sức cũng cố mọi người làm nên chi thể, từng phần hiệp nhất trong nhiệm thể ĐKT.

Kính lạy Mình Máu Thánh CGS! Xin làm cho con được nên thánh! Xin biến con nên khí cụ bình an, công cụ hiệp nhất mọi người hầu mang lại an bình cho trần gian vì sự rạng ngợi Danh Chúa!

Về mục lục

.

MÌNH MÁU THÁNH CHÚA – LƯƠNG THỰC CHO LINH HỒN

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Nhu cầu thường ngày của cơ thể con người cần phải có đủ ba nhóm dinh dưỡng: nhóm đường hoặc tinh bột, nhóm các vitamin hoặc chất khoáng và một nhóm không thể thiếu là đạm và chất béo. Nguồn đạm và chất béo chủ yếu là từ thịt và cá. Vì thế, thịt vẫn là nguồn cung cấp năng lượng không thể thiếu cho hoạt động của cơ thể con người. Cũng vậy, nước chiếm một phần lớn trong cơ thể con người. Mỗi ngày, một người phải nạp vào cho cơ thể từ hai đến ba lít nước thì cơ thể mới hoạt động tốt được.
1/ Nếu như trong đời sống, thể xác con người cần phải có các chất dinh dưỡng cung cấp đủ năng lượng mới có thể hoạt động và phát triển được, thì đời sống của linh hồn cũng không thể thiếu nguồn dinh dưỡng giúp sống và phát triển. Nguồn dinh dưỡng của linh hồn chính là Máu Thịt Chúa Giêsu được ban tặng cho nhân loại. Ai siêng năng ăn và uống nguồn dinh dưỡng này, không chỉ được tăng lực, trợ lực ngay hôm nay mà còn được bảo đảm cho sự trường sinh bất tử, được sống đời đời.
Manna Chúa ban trong sa mạc năm xưa không chỉ là thứ bánh để cứu đói, mà còn là thứ bánh nuôi dưỡng đức tin của dân Do Thái. Bài đọc Sách Đệ Nhị Luật hôm nay nhìn biến cố Chúa nuôi dân Ngài suốt hành trình sa mạc là biến cố Chúa nuôi dưỡng đức tin cho dân Ngài. Bối cảnh cho thấy, khi dân Do Thái ra khỏi đất Aicập, băng qua sa mạc tiến về Đất Hứa, họ đã phải đối diện với nắng nóng, bão cát, nhất là cái đói và cái khát trong hoang địa. Dân Do Thái đã ngã lòng, thất vọng, họ kêu trách Chúa và Môsê. Thiên Chúa đã không để cho dân Ngài phải thất vọng, Ngài đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi họ suốt bốn mươi năm. Họ kêu khát, Chúa cho nước từ tảng đá tại Meriba vọt ra cho họ uống. Họ thèm thịt, Chúa đã cho chim trời bay đến ngập đất, cho họ ăn đến chán.
Tác giả sách Đệ Nhị Luật không dừng lại ở đó, mà còn nhắc người Do Thái và con cháu họ hãy nhìn các biến cố đó không phải là do ngẫu nhiên, nhưng là do quyền năng của Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng sự thiếu thốn, đói khát trong sa mạc để thanh luyện đời sống đức tin của dân Chúa. Ngài ban cho họ bánh, nước và thịt để cho họ ăn và nhất là để họ thêm tin tưởng hoàn toàn vào Lời của Thiên Chúa. Từ đây, dân Do Thái rút ra được bài học trong đức tin, đó là khi hoàn toàn tin tưởng vào Lời của Thiên Chúa, họ sẽ được Thiên Chúa cứu sống, vì Thiên Chúa hết mực yêu thương con người. Các phép lạ xảy ra trong hành trình sa mạc không chỉ là để đáp ứng hay giải quyết một vấn đề trước mắt, nhưng qua các phép lạ đó, Thiên Chúa giúp cho đức tin của dân Chúa mỗi ngày vững vàng hơn.
2/  Nếu như Thiên Chúa đã nuôi dân Ngài trong hành trình sa mạc bằng manna, bằng nước từ tảng đá thì bước qua thời Tân Ước, Thiên Chúa dưỡng nuôi Dân Mới là chúng ta bằng một thứ lương thực cao quý hơn gấp bội. Lương thực ấy chính là thịt máu Chúa Giêsu được hiến dâng cho Thiên Chúa như một của lễ và được trao tặng cho nhân loại như là lương thực thần linh. Của ăn này sẽ là nguồn năng lượng không chỉ để nuôi dưỡng cơ thể, mà còn là nguồn sức mạnh cho mọi hoạt động và đem đến sự sống đời đời. Như thế, những ai từ chối lương thực này sẽ rơi vào tình trạng suy kiệt và sẽ chết đời đời.
Chúa Giêsu đã quả quyết: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi để cho thế gian được sống. Với khẳng định này, Chúa Giêsu cho thấy bánh Người ban tặng có giá trị trổi vượt hơn gấp bội manna ngày xưa. Vì bánh này chính là Đấng từ trời mà xuống, Người chính là Thiên Chúa, Đấng làm chủ và nắm giữ mọi sự sống trên mặt đất này. Vì thế, ai đón nhận, ai ăn ăn bánh Chúa ban sẽ đón nhận được sự sống thần linh của Thiên Chúa thông chuyển cho người ấy. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa để biến bánh và rượu trở nên máu thịt thực sự của Người và đồng thời làm cho máu thịt ấy vẫn con giữ nguyên hình dạng bánh và rượu. Ai ăn bánh là ăn chính thịt Chúa Giêsu, ai uống rượu là uống chính máu Chúa Giêsu.
3/ Người Do Thái ngày xưa và nhiều người ngày nay vẫn không muốn tin và từ chối lãnh nhận thịt và máu của Chúa. Luật Do Thái cấm không được phép uống máu hoặc đụng chạm đến máu, vì máu là sự sống thuộc chủ quyền của Thiên Chúa. Người Do Thái cũng bị cấm không được phép ăn một số loại thịt cá. Do đó, khi nghe Chúa Giêsu nói về việc ăn thịt và uống máu Chúa, những người nghe đã không dễ chấp nhận, họ nghĩ là Chúa nói về việc ăn thịt người. Chúa Giêsu không mời họ ăn thịt người, nhưng mời họ đón nhận thịt và máu Chúa đã được dâng lên Thiên Chúa Cha làm của lễ cứu độ nhân loại, thịt máu ấy lại được giữ trong hình bánh và rượu mà Ngài đã trao tặng trong bữa tiệc ly. Do đó, Chúa Giêsu vẫn quả quyết với họ rằng: Ai từ chối không ăn thịt máu Người ban tặng thì không có sự sống. Chỉ những ai ăn thịt và uống máu Chúa thì được sống và còn được bảo đảm cho sự sống đời đời.
Chúa Giêsu cũng giải thích thêm về sự sống mà những người ăn thịt và uống máu Chúa sẽ được đón nhận. Ai ăn tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong kẻ ấy. Ở lại, không chỉ là ở kế bên, mà là ở trong, ở cùng, ở với Thiên Chúa. Ai đón nhận máu thịt của Chúa, Chúa Giêsu sẽ đi vào trong cơ thể, trong tâm hồn người ấy và trao chuyển cho họ sự sống thần linh của Ngài. Đồng thời, ai ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu thì kẻ ấy cũng được đi vào trong tâm hồn, trong trái tim của Người, tức là bước vào trong tình yêu và trong thế giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã giải thích thêm: Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai tôi, tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn tôi cũng nhờ tôi mà được sống như vậy.
4/ Hai phần ba nhân loại ngày hôm nay vẫn phải sống trong nghèo khổ, đói khát, thiếu thốn lương thực. Hàng ngày vẫn có hàng triệu trẻ em và người lớn phải chết vì đói, vì thiếu dinh dưỡng. Nhiều nơi, nhiều người quá dư thừa của ăn vật chất, còn nơi khác lại thiếu đói. Trầm trọng hơn nữa, có thể nói, cả thế giới ngày nay đang rơi vào tình trạng thiếu đói về đời sống tinh thần, suy nhược về đời sống tâm linh. 
Nhiều người đang thiếu đói về đời sống tâm linh, suy nhược trong đời sống đức tin, èo uột trong đời sống đạo đức vì họ đã từ chối hoặc lười biếng không ăn, không đón nhận, không cung cấp cho mình lương thực thần linh là Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Vì không có sức sống của Thiên Chúa nên họ cũng không đủ sức để làm cho gia đình mình có sự sống của Chúa. Họ để gia đình trở nên rời rạc lạnh lẽo, trở thành môi trường cho ma quỷ và các vi rút như cãi vã, chửi bới, bất hòa có cơ hội tấn công, gặm nhấm các thành viên trong gia đình.
Nhiều bạn trẻ lo chăm sóc cho ngoại hình, cơ bắp của mình, thích uống tăng lực nhưng lại không chăm lo cho linh hồn, tỏ ra coi thường việc bồi bổ tâm hồn. Có nhiều người để tội lỗi lâu ngày trong linh hồn giống như một thứ bệnh mãn tính, không đến với bác sĩ nơi Bí tích Giải tội, khiến cho linh hồn tê liệt, mất khả năng tiếp nhận dinh dưỡng thiêng liêng.
Xin Chúa cho mỗi chúng ta tin tưởng và siêng năng đến đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa làm của ăn và là sức sống cho mình cho gia đình, giúp chống lại sự tấn công của ma quỷ, thế gian, xác thịt và tội lỗi, nhất là được bảo đảm cho sự sống đời đời với Chúa Amen.

Về mục lục

.

ĂN BÁNH THÁNH THỂ SẼ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 6,51-58

(51) “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. (52) Người Do thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được ?”. (53) Đức Giê-su nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. (54) Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. (55) Vì Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống. (56) Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. (57) Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời”. (59) Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um.

  1. Ý CHÍNH:

Tin Mừng lễ Mình Máu Chúa hôm nay gồm mấy điểm chính như sau:

Đức Giê-su tự nhận là Bánh Hằng Sống. Ai ăn vào thì sẽ được sống muôn đời (51). Bánh đó là Thịt Mình của Người (51). Khi người Do thái thắc mắc, thì Đức Giê-su lại càng nhấn mạnh: Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình (52). Ngay từ bây giờ họ đã được kết hiệp với Người (56) và được sống nhờ Người (57). Khác với bánh man-na mà tổ tiên họ xưa đã ăn mà vẫn bị chết, còn ai ăn Bánh Thánh Thể Đức Giê-su ban cho, sẽ được sống muôn đời (58).

  1. CHÚ THÍCH:

– C 51-52: + Bánh Hằng Sống: Đức Giê-su là sự sống và ánh sáng của Thiên Chúa (x. Ga 1,4), được ban cho loài người dưới hình dạng tấm bánh có thể ăn được. Bánh này chứa đựng sức sống thiêng liêng vĩnh cửu, và những ai ăn thì sẽ nhận được sự sống ấy. + Từ trời xuống: Đức Giê-su từ Chúa Cha mà đến (x. Ga 6,46; 16,28). + Bánh tôi sẽ ban tặng: Bánh Thánh Thể Người sẽ lập trong bữa Tiệc Ly sau này (x. Lc 22,19-20). + Chính là Thịt tôi đây: Bánh Hằng Sống được đồng hóa với Thịt của Đức Giê-su. Từ ngữ “thịt” trong tiếng Hy lạp là sarx, ám chỉ thịt của người sống, bao gồm cả hồn xác (x. Ga 1,14). + Để cho thế gian được sống: Hiệu quả của Bánh Thánh Thể là thông ban cho những ai lãnh nhận sẽ được sự sống thiêng liêng, mà Đức Giê-su đã chuộc lại bằng cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người. + Người Do thái liền tranh luận với nhau: Làm sao ông này cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?: Họ thắc mắc vì đã hiểu thịt đó là thân xác của Đức Giê-su hiện tại, người đang hiện diện ở giữa họ, trong khi Đức Giê-su nói về Thịt của Người dưới hình tấm bánh dùng trong bữa tiệc Vượt Qua. Bánh ấy sau lời truyền phép sẽ hóa thành Thịt của Đức Giê-su tử nạn và phục sinh (x. 1 Cr 11,23-26). Thịt trong bí tích Thánh Thể này mới thực là Bánh mà Người sẽ ban để cho thế gian được sống.

– C 53-54: + Thật, tôi bảo thật các ông: Đức Giê-su không cải chính khi người Do thái hiểu lầm lời Người theo nghĩa đen, mà Người càng nhấn mạnh hơn khi quả quyết: “Thật, tôi bảo thật các ông”. + Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người…: Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể là một điều kiện không thể thiếu để được sống đời đời. Nếu họ không ăn uống Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể, thì họ sẽ không nhận được sự sống đời đời do Người chuộc lại nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh. + Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời: Đây là kiểu nói khác lặp lại tư tưởng trên. + Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết: Hiệu quả của việc ăn Thịt và uống Máu Chúa khi lên rước lễ là sẽ được Chúa Phục Sinh ban sự sống siêu nhiên, làm cho họ được sống lại trong ngày tận thế.

– C 55-56: + Vì Thịt Tôi: Chúa Giê-su nhấn mạnh Thịt và Máu Người thật là lương thực để ăn uống, và thông ban sự sống muôn đời. Qua bí tích Thánh Thể, người ta sẽ được nghe Lời Người để có đức tin, sẽ được ăn Thịt uống Máu Người để được nuôi dưỡng đức tin. Nhờ đức tin này họ sẽ có sự sống đời đời. + “Ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”: Câu này nói lên sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa Giê-su Thánh Thể với người rước lễ. Sự kết hiệp này giống như sự kết hiệp giữa hai người bạn tâm giao luôn nghĩ đến nhau và sống vì nhau.

– C 57-59: + Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi…: Chúa Giê-su được Chúa Cha sai xuống thế gian. Người sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì Người cũng ban cho những ai rước Mình Máu Người được tham phần sự sống siêu nhiên như vậy. + Thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy: Sự sống siêu nhiên ấy phát xuất từ Chúa Cha, qua Chúa Giê-su, xuống tới người tín hữu đã lãnh nhận bí tích Thánh Thể. + Đây là Bánh từ trời xuống…: Sự sống ban cho kẻ rước lễ là sự sống đời đời phát xuất từ Thiên Chúa, khác hẳn sự sống thể xác do man-na. Man-na là bánh từ trên không trung rơi xuống, nên dân Do thái thời Mô-sê, dù đã ăn man-na suốt trong thời gian Xuất Hành 40 măm trong hoang địa, nhưng vẫn phải chết. + Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời: Đây là câu tóm lược bài giảng về Bánh Hằng Sống. Chúa Giê-su tự ví là Bánh từ trời mà xuống. Người mang lại sự sống thiêng liêng cho loài người đang phải chết vì phạm tội, nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người. + Hội đường ở Ca-phác-na-um: Nơi Đức Giê-su giảng về Bánh Hằng Sống là một hội đường Do thái ở thành Ca-phác-na-um gần biển hồ Ga-li-lê, nơi Đức có trụ sở truyền giáo của Đức Giê-su (x Ga 6,1).

  1. HỎI ĐÁP:

– HỎI 1: Tại sao người Do thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không đi theo Đức Giê-su và họ đã tranh luận với nhau điều gì? Tại sao ông Phê-rô và Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại với Đức Giê-su? Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như thế nào?

ĐÁP:

+ Sở dĩ người Do thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không đi theo Người nữa (x. Ga 6,66), vì đã hiểu lời Đức Giê-su dạy về việc ăn Bánh Thánh Thể theo nghĩa đen, nghĩa là ăn Thịt Máu của Người, giống như ăn thịt các con chiên, bò, gà… Do đó, họ đã tranh cãi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?”. Cũng như các thân nhân Đức Giê-su ở Na-da-rét có lần đã coi Người bị mất trí (x. Mc 3,21), thì ở đây các đầu mục dân Do thái cũng coi lời Đức Giê-su thật chói tai và không thể chấp nhận được (x. Ga 6,52). Tuy nhiên, thay vì cải chính, Đức Giê-su lại càng nhấn mạnh về điều này hơn: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình… Vì Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống” (Ga 6,53.55). Nghe vậy, một số môn đệ đã hiểu rõ Đức Giê-su nói về bí tích Thánh Thể và đã bỏ đi vì không tin lời Người.

+ Riêng Phê-rô và Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại, sau khi nghe giảng về Bánh Hằng Sống, vì các ông đã tin Người là Đấng Thiên Sai và Lời Người là sự thật, dù bây giờ chưa hiểu rõ tại sao. Khi được Thầy hỏi, Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như sau: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết Thầy chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).

HỎI 2: Luật Mô-sê cấm dân Do thái không được ăn máu và thịt thú chưa cắt tiết (x. Lv 19,26), và nghị quyết của Công Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 cũng yêu cầu các Ki-tô hữu gốc dân ngoại “phải kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết và ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm” (x. Cv 15,29). Vậy tại sao Giáo Hội Công Giáo lại cho phép các tín hữu ăn tiết canh là món ăn máu đông ?

ĐÁP:

Thời Mô-sê, người ta tin rằng: Máu là sinh khí tụ lại, nên chỉ dành riêng để tế lễ dâng cho Thiên Chúa trong ngày lễ Xá Tội. Vì Chúa chính là chủ tể của sự sống (x. Lv 17,11). Đàng khác, tục uống máu các con vật được sát tế dâng cho thần linh, vẫn có trong nghi lễ tôn giáo của dân ngoại, nên Luật Mô-sê cấm dân Ít-ra-en uống máu và ăn thịt thú chưa cắt tiết giống như dân ngoại (x. Lv 19,26).

Ngày nay Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn tiết canh hay thịt thú vật chưa cắt tiết, vì Luật Mô-sê đã được Đức Giê-su kiện toàn (x. Mt 5,17), khi truyền cho các tín hữu “ăn Thịt và uống Máu của Người” (x. Mt 26,26-28).

Còn về việc Công Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 ra nghị quyết không buộc lương dân theo đạo phải chịu phép Cắt Bì theo luật Mô-sê, mà chỉ yêu cầu họ “kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”. Thực ra những yêu cầu không ăn tiết này không phải vì lý do đức tin mà chỉ là một phương thế để bảo vệ sự hiệp nhất nội bộ của cộng đoàn Hội Thánh, bấy giờ gồm các tín hữu gốc Do Thái và gốc lương dân hiệp nhất và ăn uống chung mâm bàn với nhau, như lời ông Gia-cô-bê đã phát biểu: “Phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa. Nhưng chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, và kiêng ăn tiết, Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi thành ông Mô-sê, đều có những người rao giảng: Họ đọc lời của ông trong các hội đường mỗi ngày Sa-bát” (Cv 15,21). Ngày nay do không còn nguy cơ phân hóa giữa các tín hữu gốc Do thái và gốc lương dân như thời sơ khai, nên Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn thịt và uống máu huyết thú vật theo Luật Mô-sê nữa.

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CHIẾC NHẪN- KỶ VẬT CỦA TÌNH YÊU.

Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn một năm. Trong thời gian đó họ đã sống rất hạnh phúc. Mỗi buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và buổi chiều khi vừa trở về ngôi nhà thân thương, người chồng không bao giờ quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói thân thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày thêm nồng thắm. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng bị trúng mưa trên đường từ xưởng làm về nhà. Anh bị cảm nặng phải nằm liệt giường nhiều ngày và trong thời gian này anh đã được chị vợ tận tình săn sóc. Đẩu tiên, anh được vợ mang đến bệnh viện và được bác sĩ chẩn đoán bị sưng màng phổi. Dù đã được các bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng bệnh của anh ngày thêm trầm trọng. Sau đó, bệnh viện kết luận anh đã bị ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba và vô phương cứu chữa. Khi sắp chết, anh chồng đã cầm tay vợ và thều thào nói: “Em yêu quí ! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về rồi. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa muốn. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được tiếp tục sống bên em nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà cách đây hơn một năm, hai vợ chồng mình đã tặng cho nhau khi kết ước trước bàn thờ Chúa. Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn thấy nó, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu Chúa ban cho em an lành hạnh phúc”. Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay ra và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã làm trong thánh lễ hôn phối của hai người. Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang gần nhà. Từ ngày đó, mỗi ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu chít khăn tang, tay cầm bó bông đi vào nghĩa trang. Chị đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của chồng, để cầu nguyện cho anh. Tay chị đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người chồng quá cố đã để lại cho chị khi sắp từ giã cuộc đời.

2) CẬU BÉ MÁC-SEN-LI-NÔ SẴN SÀNG CHẾT ĐỂ ĐƯỢC GẶP MẸ ĐÃ QUA ĐỜI:

Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện về một cậu bé tên là MAR-XEL-LI-NO. Mẹ cậu đã chết đang khi sinh cậu, và do không còn người thân nên cậu đã bị người ta mang đến đặt trước cửa một tu viện, và cậu đã được các tu sĩ nhận nuôi dưỡng.

Cậu bé vốn tính hiếu động, nên thày đầu bếp đã cấm cậu không được leo trèo hoặc lai vãng đến những nơi không được thầy cho phép. Nhưng vì tính tò mò, một ngày kia Marcellino đã lén leo lên gác lẽ ra cậu không được vào. Cậu rất ngạc nhiên nhìn thấy một người khổng lồ đang bị treo trên cây thập giá. Cho rằng người ấy đang bị đói, nên đêm hôm ấy Marcellino lén vào bếp trộm mấy chiếc bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đã đưa tay ra nhận bánh và mỉm cười cám ơn cậu. Từ đó, ngày nào cậu cũng lén mang bánh lên cho người ấy. Người này không ai khác hơn chính là Chúa Giê-su chịu treo trên thập giá. Một hôm, Người đã âu yếm ôm cậu bé và hỏi:

– Con thích nhất điều gì trên trần gian này?

Cậu mau mắn thưa:

– Con muốn được gặp mẹ ruột của con.

Chúa liền nói với cậu:

– Con sẽ được gặp mẹ con sớm nếu con bằng lòng chết đi.

Hôm sau các tu sĩ đã tìm thấy cậu bé nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giê-su trên cây thập giá. Chính vì yêu mẹ và muốn sớm được gặp mẹ, mà Marcellino đã sẵn sàng chịu chết.

Đức Giêsu cũng vì yêu thương loài người chúng ta nên đã sẵn lòng chịu chết để chúng ta được sống. Người còn lập bí tích Thánh Thể để được ở mãi với loài người chúng ta, trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, hầu ai đón nhận Người sẽ được sống muôn đời như Người đã hứa: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.

  1. SUY NIỆM:

Hơn hai ngàn năm trước đây, Chúa Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong sự cảm thông và hiệp nhất yêu thương như Tin Mừng Gio-an viết: Ý thức rằng “Giờ đã đến, Giờ Con Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Người đã lập phép Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn, để lại cho Hội Thánh dấu chỉ của một tình yêu vô cùng lớn lao là Mình Máu Thánh Người dưới hình bánh rượu, để nên của ăn của uống cho các tín hữu, hầu ban cho họ sự sống đời đời.

1) BÍ TÍCH THÁNH THỂ – BỮA TIỆC THÁNH YÊU THƯƠNG:

Tin Mừng cho thấy việc chuẩn bị thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể của Đức Giê-su đều diễn ra trong khung cảnh bữa ăn yêu thương như sau:

– Bữa tiệc cưới tại thành Ca-na: Trong tiệc cưới này, Đức Giê-su đã thể hiện tình thương đối với đôi tân hôn, khi nể lời Đức Ma-ri-a cầu bầu, Người đã làm phép lạ biến nước lã trở thành rượu ngon giúp đôi tân hôn, và củng cố đức tin của các môn đệ mới đi theo Người.

– Bữa ăn cho đám đông nơi hoang địa: Cảm thông với đám đông dân chúng bị đói khi theo Người vào hoang địa nghe giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ được ăn no và còn dư mười hai giỏ đầy bánh còn lại (x. Mt 14,14-21). Sau đó, Đức Giê-su đã giảng về bí tích Thánh Thể để ban thịt máu mình làm của ăn của uống hầu mang lại sự sống đời đời cho các tín hữu: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì sẽ có sự sống đời đời. Và Tôi, Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày tận thế” (Ga 6,55-56).

– Bữa Tiệc Ly chiều thứ Năm Tuần Thánh: Đức Giê-su đã yêu thương các môn đệ đến cùng nên Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ, trước khi từ biệt các ông để chịu khổ nạn như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: ‘Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy’. Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: ‘Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội’ (Mt 26,26-28).

– Bữa tối của hai môn đệ làng Em-mau: Chúa Phục Sinh dưới dáng vẻ như một khách bộ hành đi chung đường với hai môn đệ đang trong tâm trạng chán nản thất vọng. Người đã dùng Lời Kinh Thánh để cho các ông hiểu về ý nghĩa cái chết và sự phục sinh của Đấng Thiên Sai. Rồi “khi ngồi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (Lc 24,30-31). Chính trong khung cảnh bữa ăn yêu thương kèm theo cử chỉ và lời đọc Người đã từng làm, khiến mắt hai môn đệ mở ra và nhận biết người khách bộ hành chính là Thầy Giê-su đã từ cõi chết sống lại.

2) TIN HAY KHÔNG TIN MẦU NHIỆM TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ:

Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống, mặc dù biết đám đông đang xầm xì phản đối, vì cho rằng đây là một điều vô lý không thể chấp nhận, nhưng Đức Giê-su vẫn cương quyết khẳng định thêm về mầu nhiệm này (x. Ga 6,60). Về phần các môn đệ sau khi hiểu Đức Giê-su muốn lập bí tích Thánh Thể để biến Thịt Máu Mình làm của ăn của uống, nên đã bảo nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy Thịt mình mà cho chúng ta ăn được?”. Sau đó, một số đông môn đệ đã bỏ không còn đi theo làm môn đệ Người nữa (x. Ga 6,66). Đức Giê-su cho biết: để tin vào mầu nhiệm này, đòi người ta phải được Chúa Cha ban ơn (x. Ga 6,65). Sau đó, Đức Giê-su đã hỏi nhóm 12 Tông đồ về quyết định tin hay không tin, chọn bỏ đi hay ở lại với Người. Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai thưa rằng: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Như vậy, trước mầu nhiệm này, người ta không thể cảm nghiệm bằng giác quan, mà phải nhờ ơn Thiên Chúa ban và thành tâm tin nhận.

3) CẦN THAM DỰ BÍ TÍCH THÁNH THỂ VỚI TÌNH YÊU THƯƠNG HIỆP NHẤT:

Thánh Phao-lô dạy về thái độ phải có của các tín hữu khi tham dự Bữa Tiệc Thánh Thể như sau: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,17). Do đó, khi đến dự lễ, chúng ta cần có tình yêu thể hiện qua thái độ cảm thông và hiệp nhất, noi gương cộng đoàn Hội Thánh sơ khai tại Giê-ru-sa-lem như sau: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ, Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,44-47).

4) THAM DỰ THÁNH LỄ THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?

– “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”: Cần dọn mình lên rước lễ mỗi lần tham dự thánh lễ, vì chẳng có ai đi dự tiệc mà lại không xem người khác ăn, còn mình thì không ăn uống gì ? Cũng cần kéo dài thánh lễ giữa đời thường, như Đức Cha HELDER CAMERA đã nói: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Ki-tô trong bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi lại gặp gỡ Đức Ki-tô nơi tha nhân. Vì tôi gặp cũng một Đức Ki-tô trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Như vậy: Hiệp nhất với Chúa Giê-su trong thánh lễ phải dẫn chúng ta đến chỗ hiệp nhất với Người đang hiện thân nơi những người đang sống bên chúng ta, nhất là những người nghèo đói bệnh tật và bất hạnh (x.Mt 25).

– Hiệp nhất với Chúa Giê-su Thánh Thể cũng đòi hiệp thông với tha nhân, đòi chúng ta noi gương Chúa quên mình và khiêm tốn phục vụ tha nhân, làm cho tha nhân được hạnh phúc.

– Một khi được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ ý thức bổn phận chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói, tích cực góp phần cải thiện xã hội là gia đình, khu xóm, trường học, nhà máy, công sở… ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, sớm trở thành “Trời Mới Đất Mới” được sách Khải Huyền tiên báo: Bấy giờ “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).

  1. THẢO LUẬN: Để đáp lại tình yêu tột cùng của Đức Giê-su khi lập bí tích Thánh Thể, mỗi tín hữu chúng ta cần dự lễ hay dự các giờ chầu Thánh Thể như thế nào… ?

5.CẦU NGUYỆN:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con muốn ngợi ca lòng từ bi nhân hậu và đầy yêu thương của Chúa khi thiết lập bí tích Thánh Thể. Nhờ bí tích này, Chúa ban Mình Máu Chúa làm của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng con. Cũng nhờ bí tích ấy, Chúa giúp chúng con tưởng niệm về mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa, để được sống đời đời.

– Lạy Chúa Giê-su. Bàn tiệc Thánh Thể do Chúa thiết lập và mời chúng con tham dự nhằm biểu lộ tình yêu thương và sự hiệp nhất cộng đoàn. Chúa muốn chúng con phải tránh thói ích kỷ và những việc làm gây chia rẽ nội bộ, như Tông đồ Phao-lô đã quở trách giáo đoàn Cô-rin-thô như sau: “Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau… Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước. Và như thế kẻ thì bị đói, người lại no say ! Anh em không có nhà để ăn uống sao ? Hay anh em khinh Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của ?… Cho nên thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án !” (1 Cr 11,18-22.33-34). Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con biết hiệp thông với tha nhân mỗi khi tham dự thánh lễ: Cho chúng con biết thể hiện tình bác ái huynh đệ bằng việc vào ngồi trong nhà thờ thay vì đứng ở ngoài sân; Cho chúng con biết mở miệng thưa kinh chung với cộng đoàn. Xin cho chúng con luôn biết dấn thân, sẵn sàng đi bước trước bắt chuyện làm quen với những người lạ, sẵn sàng nhường chỗ tốt cho những người già cả tật nguyền… để Thánh Lễ trở thành cơ hội giúp chúng con thể hiện tình yêu thương hiệp nhất với Chúa và hiệp thông với tha nhân.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

Về mục lục

.

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA_A

Lm. Antôn

Vì khâm phục đời sống đức tin của người Công giáo Việt Nam tại Hoa kỳ, cho nên một linh mục trong ủy ban Di dân và Truyền giáo của Hội đồng Giám mục  Hoa kỳ đã được cử sang Việt Nam để học hỏi và tìm hiểu đời sống đức tin của người Công giáo tại Việt Nam.  Sau khi trở về, vị linh mục Hoa kỳ này đã làm tờ báo cáo tường trình tình hình Giáo hội và đời sống đức tin của giáo dân Việt Nam bằng 3 câu ngắn gọn: “trẻ trung”, “sinh động” và “nhiệt tâm”, điển hình là một giáo xứ vùng Cao nguyên.

Biểu tượng của giáo xứ quê nghèo này là tháp chuông to và cao để báo cho mọi người giáo dân sống trong làng biết giờ lễ.  Khoảng 20 phút trước Thánh lễ, một người trong ban hành giáo đến giật chuông.  Vì cái chuông đã cũ cho nên tiếng chuông không được thánh thoát lắm nhưng làm được việc.  Trong vòng 15 phút hàng trăm người tuôn đến tham dự Thánh lễ.

Một dấu hiệu đức tin lớn mạnh của người Công giáo Việt Nam là số nam nữ tu sĩ tại các dòng, và các chủng sinh theo ơn gọi làm linh mục tại các đại chủng viện rất đông.  Một đại chủng viện có hơn 5 trăm chủng sinh trẻ đang tu học.

Một tuần trước khi linh mục Hoa kỳ trở về nước, tại một giáo phận nhỏ trên vùng Cao nguyên, Đức giám mục địa phận đã truyền chức linh mục cho 11 thày đại chủng sinh.  3 tân linh mục trong số này được gởi sang Hoa kỳ để tiếp tục học ngành Thần học, và 1 tân linh mục cũng được gởi sang Hoa kỳ để làm mục vụ vì trước đó đã theo học ở đây.  Và sự kiện này là bằng chứng sống động của Giáo hội Việt Nam trong một giai đoạn mới, gởi các nhà truyền giáo ra nước ngoài.

Một minh họa về sự sống động của Giáo hội tại Việt Nam mà linh mục Hoa kỳ chứng kiến trong ngày lễ kính Mình Máu Chúa Ki-tô tại một giáo xứ.  Linh mục này viết rằng: “Trong ngày lễ kính Mình Máu Chúa Ki-tô, giáo xứ đã có một cuộc tuần hành cung nghinh Thánh Thể long trọng và Chúa đã gởi đến một cơn mưa to.  Trong con đường khoảng hơn một cây số, đoàn người tuần hành vừa đi vừa lần hạt và vừa hát trong tiếng trống kèn vang những bài hát kính Thánh Thể.  Quần áo của mọi người đều ướt sũng nhưng thật khâm phục không một ai bỏ hàng ngũ để tránh mưa và coi như không có chuyện gì xảy ra.”  Linh mục Hoa kỳ này thú nhận trong tờ tường trình rằng chưa bao giờ được chứng kiến hình ảnh lạ lùng này bằng chính con mắt của mình ở bất cứ nơi đâu.

Ông bà anh chị em thân mến.  Là những người Việt Nam Công giáo sống ở hải ngoại, hay bất cứ người Công giáo nào sống ở đâu, chúng ta cần được nghe nhiều bản báo cáo như vậy để chúng ta biết được sự lớn mạnh của Giáo hội, biết được đời sống đức tin sống động của người Công giáo tại quê hương, và biết được lòng kính thờ và mến yêu, cũng như biết được ý nghĩa của mầu nhiệm Thánh Thể như thế nào trong đời sống của người Việt quê nhà.  Những bản báo cáo này không những đánh động vào tâm hồn người Công giáo Việt Nam chúng ta sống tại Hoa kỳ và tại thành phố Tulsa này, mà còn thách đố chúng ta tự hỏi: “Bí tích Thánh Thể có ý nghĩa gì với tôi?”

Chúng ta nhận biết vì bị lôi cuốn vào đời sống vật chất, tiền bạc, hay vì bận rộn với công ăn việc làm, và nhiều khi vì sự lười biếng, cho nên nhiều người dần dần thờ ơ, đánh mất sự tôn kính và tri ân cũng như lòng nhiệt tâm đối với Bí tích Thánh Thể, một hồng ân, một món quà cao quí của Chúa ban.  Nhiều người khinh thường hay từ khước tình thần hiệp nhất của người Công giáo Việt Nam.

Những bài Tin Mừng cho chúng ta biết chính Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh trong bữa tiệc ly. Chúa Giêsu đã ban và để lại cho các môn đệ và cho nhân loại một hồng ân, một món quà cao quí. Tin mừng thánh Mác-cô diễn tả sự kiện này như sau: “Đang khi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và phán: ‘Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn và trao cho các ông và nói: ‘Đây là Máu Ta, sẽ đổ ra cho nhiều người.’’’ Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta cho đến ngày tận thế.  Bánh và rượu đã trở nên chính Mình và Máu Thánh Chúa.

Đối với mọi Kitô hữu thời Giáo hội sơ khai, họ đã có một niềm xác tín vào Lời Chúa phán.  Sự việc này xảy ra như thế nào đối với họ không thành vấn đề, vì đây không những là một sự việc thuộc về đức tin, mà còn phát xuất từ sự cảm nghiệm sâu xa về tình yêu thương hiệp nhất như những chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô. Bởi vậy cho nên chúng ta nghe thánh Phaolô nói: “Anh chị em thân mến. Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa, chẳng phải là sự thông hiệp với Máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra, chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao?  Vì chỉ có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh.” 

Thánh Phao-lô trong bài đọc 2 khẳng định và cho chúng ta biết Thánh Thể chính là mối dây tuyệt hảo của sự hiệp nhất.  Và khi chúng ta hiệp thông với Mình và Máu Chúa Kitô, có nghĩa là khi chúng ta cùng ăn một bánh và cùng uống một chén, thì chúng ta cũng phải thể hiện sự hiệp thông ấy ra trong đời sống cộng đoàn bằng tinh thần hiệp nhất, yêu thương, và lòng quảng đại. Cũng như chỉ có một tấm bánh, chúng ta tuy nhiều người nhưng cũng chỉ là một thân thể hiệp nhất.

Ông bà anh chị em thân mến.  Là những người Công giáo Việt Nam, chúng ta hãnh diện về đức tin sống động và lòng yêu mến Thánh Thể Chúa của cha ông để lại.  Xin Chúa giúp chúng ta luôn xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể, kết hợp mọi người chúng ta lại trong tình yêu thương để chúng ta thể hiện tinh thần hiệp nhất và sống đức tin làm sáng danh Chúa.

Về mục lục

.

Exit mobile version