CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ LÁ. NĂM C

762

LỜI CHÚA LỄ LÁ – Năm C

Lời Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14 – 23,56

——-

Mục lục

1. Góc khuất đời người (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

2. Cái giá của sự trung tín (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

3. Thánh giá  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

4. Bài thương khó  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

5. Tại làm sao Chúa chết (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Tha thứ và ban thưởng (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Cùng với Ngài  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Phận lừa  (Mai Ly, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

9. Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Lễ Lá hôm nay  (Jos. Hoàng Mạnh Hùng)

11. Con đường Thập giá (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

12. Con đường Thập giá. (Lm. Đaminh Trần Quang Hiền)

13. Suy niệm Chúa Nhật Lễ Lá_C (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

14. Cuộc thương khó Chúa (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

15. Thông cảm với Chúa (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

16. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật Lễ Lá_C  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

17. Kẻ thù có sỉ nhục, đừng để bụng: một con đường sám hối (Lm.Bosco DươngTrung Tín)

18. Lật mặt như trở bàn tay (JM. Lam Thy, ĐVD)

19. Giờ đã điểm  (Trầm Thiên Thu)

20. Thập giá đòi hỏi lòng quả cảm  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

21. Chúa Nhật Lễ Lá_C (Lm. Antôn)

22. Mâu thuẫn (Lm. Thái Sơn)

 

Mục lục

1. Phó mình trong tay Chúa Cha  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Tình yêu đáp lại hận thù  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Con người tham sống sợ chết  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Tin là đón nhận lòng Chúa xót thương (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

5. Tình thương của Thiên Chúa là Cha (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

6. Niềm vui – Thập giá – và Ơn Cứu Độ  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Con đường Thập giá  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Cái chết giúp sự thật hiển lộ  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

9. Đức Vua đa không  (Trầm Thiên Thu)

10. Suy niệm bài thương khó Đức Giêsu – Kitô (P. Trần Đình Phan Tiến)

11. Thay đổi trong yêu thương (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

12. Thập giá, mầu nhiệm của môn đệ Đức Kitô (Lm. Giuse Trực)

13. Bước theo Đức Giê-su trên đường Thập giá  (Lm. Đan Vinh)

14. Qua Thập giá vào trong vinh quang (Lm. Đan Vinh)

15. Đường thương xót của Thiên Chúa  (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

16. Yêu thương đến cùng  (Dã Quỳ)

17. Chúc tụng Đức Vua  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

18. Khuôn mặt người tôi tớ của Thiên Chúa (Huệ Minh)

19. Chiêm ngắm mầu nhiệm Thập giá (Lm. John Nguyễn)

 

GÓC KHUẤT ĐỜI NGƯỜI

Lm. Jos. DĐH.

Người ta có thể thành công vang dội ngoài xã hội: bằng cấp, địa vị, thu nhập cao, nhưng trong gia đình lại không êm xuôi hạnh phúc như ý, phải chăng khó khăn ấy, thiên hạ vẫn gọi là thiên thời, địa lợi, mà nhân không hoà. Người ta nhìn rõ, biết rõ, lỗi lầm của anh chị em, vậy mà đâu dễ gì nhận biết mình đang sai đường lạc bước, đang sống “đúng chuẩn hay lệch chuẩn”. Góc khuất tầm nhìn của người lái xe, vừa là thách đố mỗi khi lưu thông trên đường, vừa là một minh chứng về nghệ thuật, về bản lĩnh nghề nghiệp mà “bác tài” phải có. Không nhìn thấy sự việc tốt đẹp, không hiểu hết tâm tính nơi người thân, có nên đổ lỗi vì yếu đuối, vì đó là góc khuất của tương quan, là góc khuất giữa tình người đầy giới hạn chăng ?

Bài thương khó thật là dài, nhưng mọi người được nghe, được biết đến tình yêu thương của Thiên Chúa, tình yêu của Đức Giêsu chịu đau khổ, chịu chết vì tội lỗi nhân loại, trong đó có cả người thân thiết, người từng chịu ơn Ngài. Góc khuất đời người đưa đến nhiều bất nhất: vô tâm, vô tình, bội ân, bội nghĩa, giá trị cuộc sống đảo lộn, tương quan huynh đệ lu mờ, truyền thống đức tin lung lay bởi thế lực trần gian. Có phải vì mất phương hướng mà con cái không cảm nhận được tình thương của cha mẹ, lời giáo huấn hay và việc chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu mau chóng rơi vào quên lãng ! Có phải do kiêu căng tự phụ, che mất tầm nhìn về Một Thiên Chúa yêu thương cứu độ đang sống động ở sát gần ? Đúng như câu thành ngữ đầy ẩn ý: cho dù đá có biến thành vàng, lòng người vẫn không thoả mãn !

Người Do-thái đi Giêrusalem để cử hành lễ Vượt Qua theo tập tục, Đức Giêsu đi Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng cứu độ Chúa Cha trao phó, tuy cùng hướng tới một điểm, nhưng việc gặp gỡ Chúa và sống thánh ý Chúa lại không giống nhau. Con người giới hạn, lười suy xét về tính thực hư tốt xấu của mình, nên thường phản ứng rất nông cạn theo quan niệm: ghét ai ghét cả tông ti họ hàng. Đức Giêsu ghét tội, nhưng không ghét người có tội, Ngài không kết án kẻ tội lỗi lầm lạc, Ngài thuyết phục được đám đông buông thả hòn đá trên tay và trở về với cõi lòng mình ; ở trên thập giá Ngài hứa thiên đàng cho kẻ trộm có lòng hối cải ! Đức Giêsu lên án bất công, nhưng Ngài vẫn cầu xin: “lạy Cha tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Đức Giêsu loan báo con đường nhỏ hẹp, và bằng đời sống kết hiệp cầu nguyện, Ngài đi đến cùng tận yêu thương. Ngài đón nhận khổ đau thập giá, và cảm thông thân phận mong manh của kiếp người: “lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con”.

Người Do-thái không nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa mà tiền nhân họ hằng kêu gọi con cháu để tâm, đợi chờ ; Đức Giêsu không xuống khỏi thập giá theo lời thách thức của anh trộm bên tả và đám lính hò reo ở phía dưới. Người kitô hữu chúng ta hôm nay cũng chẳng dễ gì nhận ra Đức Giêsu trong hình ảnh những anh chị em túng thiếu nghèo hèn. Tất cả không phải do mây mù giăng mắc, che khuất tầm nhìn, nhưng là vì tình yêu của con người chưa đủ thông thoáng, tính hờn ghen ích kỷ vây hãm, khiến người ta tìm kiếm Con Thiên Chúa xuất thân từ hàng ngũ quyền quý. Khởi đầu của hành trình cuộc đời, con người được sinh ra trong tình yêu, được nuôi dưỡng bằng mồ hôi nước mắt của cha mẹ, được lớn lên trưởng thành, bằng khổ đau và sức mạnh của ơn ban, dù niềm tin ấy còn nhỏ bé.

Góc khuất của đời người không phải chỉ có tội lỗi, sự chết, mà còn có cả đại dương mang ơn tha thứ, thôi thúc tội nhân mau sám hối, để được tẩy rửa mọi lỗi phạm, nhằm đưa dẫn con người đến bến bờ yêu thương. Góc khuất của quá khứ tội lỗi, có thể khiến con người mù loà, buông xuôi theo phận số ; góc khuất của tương lai thiếu định hướng, con người dễ trở thành máy móc của cơ chế công nghệ. Con người phải có thái độ nào trước đau khổ thập giá của Đức Giêsu, làm sao người tín hữu hôm nay hiểu thế nào là góc khuất của thưởng phạt, và khoảng trống của mất và được ? Nếu bao lâu người ta chưa biết đến giọt nước mắt ăn năn của Phêrô, niềm tín thác của người trộm lành có lòng hoán cải. Đau khổ thập giá của Đức Giêsu có thắng được hận thù không ? Tình yêu thương của Đức Giêsu nơi toà án Philatô liệu có xoa dịu được bất công không ? Mỗi chúng ta trong hoàn cảnh, điều kiện riêng của mình, có phải vừa là đáp án, vừa là câu trả lời cho những ẩn khuất nơi khổ đau thập giá hay không ?

Giá trị của tình yêu tự nhiên hay siêu nhiên, đều cần đến hy sinh dù là đơn sơ nhỏ bé, đó phải là sự thật, khi Đức Giêsu không cần anh trộm lành xuống khỏi thập giá để ăn năn sám hối, minh chứng niềm tin vào Đấng anh cầu khẩn. Đức Giêsu không yêu cầu Phêrô tìm gặp “đứa tớ gái” để tuyên xưng lại niềm tin mà ông lỡ chối bỏ. Lòng ăn năn thống hối của mỗi người, sẽ được tẩy xoá đi khoảng tối tăm mù mịt của bi quan sợ hãi, khi mà tâm hồn tội lỗi của chúng ta đụng chạm đến tình yêu vô biên của Thiên Chúa: “lạy Cha, Con phó thác  linh hồn Con trong tay Cha”. Nhận ra mình mang hình ảnh của Phêrô, biết mình mang trái tim “thỏ đế” như số các học trò nhút nhát, hay đang ở trong tình trạng tội lỗi, trộm cướp gian tham, tất cả đều có cơ hội, đó là thật lòng sám hối ăn năn, tin tưởng vào Đức Giêsu Đấng cứu độ. Xin tình yêu của Đấng chết vì yêu, chúc lành và ở mãi trong cuộc đời chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CÁI GIÁ CỦA SỰ TRUNG TÍN

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Là người ai rồi cũng chết. Dù giầu sang hay nghèo khó. Dù quyền quý hay dân hèn thì cuối con đường của mỗi người đều là cái chết.

Với người Việt Nam chết là kết thúc một cuộc đời. Với niềm tin đạo Công Giáo thì chết là cuộc trở về nơi mình phát xuất ra là nhà Cha trên trời.

Luận về cái chết thì dân gian đã tổng kết  rất nhiều lý do chết qua bài vè sau:

Chết vì “rượu” là cái chết “sành điệu”
Chết vì “yêu” là cái chết “liêu xiêu”.
Chết vì “gái” là chết rất “dạinhất”.
Chết vì “tình” là cái chết bất “thình lình”.
Chết vì “lười” là cái chết rất “buồn cười”.
Chết vì “học” là cái chết rất “vàng ngọc”.
Chết vì “sầu” là cái chết rất “ngầu”.
Chết vì “ghen” là cái chết “nhỏ nhen”.
Chết vì “chơi” là cái chết “ngusi”.
Chết vì “bệnh” là cái chết “từngngày”.
Chết vì “hận” là cái chết “lận đận”

Như vậy, chết là lẽ đương nhiên nhưng điều quan trọng là cái chết đến với chúng ta như thế nào? Chính cuộc sống sẽ mang lại cho ta cái chết đẹp hay chỉ là cái chết tẻ nhạt, đúng như ai đó đã nói: “Đừng lo rằng một mai mình sẽ chết, hãy lo rằng liệu mình đã sống trọn vẹn hay chưa”.

Hômnay bắt đầu tuần thương khó với hình ảnh  Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ cùng đi Giêrusalem lần cuối cùng, một cuộc hành trình quyết định số phận và hoàn tất công cuộc cứu độ của Ngài, ở đó Ngài sẽ trải qua đau khổ, tủi nhục và chịu chết thật đau thương. Ngàicùng với các tông đồ tiến về Giêrusalem cách quả cảm và cương quyết vì yêu thương nhân loại: “Này chúng ta lên Giêrusalem”.

Ngài biết trước cái chết sẽ đến nhưng Ngài vẫn bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem, vì đó là con đường mòn của tình yêu đến quên mình cho người mình yêu. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng “Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu.

Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án ngườivô tội, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi nhauđể tìm những niềm vui bất chính. Khi chúng ta làm đau lòng nhau là chúng ta làm đau lòng Chúa, vì chính Ngài đã trở nên giống như con người chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta.

Và ước gì cuộc đời chúng ta cũng biết sống đẹp trên từng hành trình cuộc đời. Sống đẹp khi chu toàn bổn phận. Sống đẹp khi dấn thân cho công việc chung và cho tha nhân. Xin cho chúng ta cũng biết sống đẹp như Chúa Giệ-su luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha để làm sáng danh Chúa và yêu thuơng đến mọi ngừơi. Amen

Về mục lục

.

THÁNH GIÁ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Đường lên núi sọ tới gần,
Thầy sai môn đệ, việc cần phải lo.
Vào làng trước mặt hỏi dò,
Lừa con cột sẵn, thầy trò cần ngay.
Tông đồ trải áo phủ dầy,
Đặt ngồi lên trốc, cùng Thầy bước đi.
Vào Thành trọng vọng uy nghi,
Mọi người nhảy múa, lối đi đền đài.
Áo choàng cành lá trải dài,
Hoan hô vang dậy, Thiên Sai vào đời.
Nhân danh chúc tụng Chúa Trời,
Bình an dưới thế, gọi mời thiện tâm.
Khởi đầu sứ mệnh âm thầm,
Bước vào Tuần Thánh, hương trầm tỏa lan.
Tấm thân đòn vọt nát tan,
Vai mang thánh giá, gian nan khổ hình.
Nhạo cười phỉ báng vô tình,
Con người phản bội, tử hình Chúa Con.
Giang tay chịu chết héo hon,
Thành toàn Thiên Ý, mỏi mòn tấm thân.

Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem trong tiếng hò la vang dậy của các môn đệ và dân chúng. Ngài ngồi trên lưng lừa mẹ, dân chúng với cành lá trong tay đón rước Chúa vào thành. Họ tung hô danh Chúa: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Chúng ta cùng đồng hành với Chúa trong Tuần Thánh này. Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời Kinh Thánh đã loan báo về Ngài. Ngài bắt đầu vào thành Giêrusalem với tiếng tung hô vang dậy và ít ngày sau, Ngài ra khỏi thành vác thánh giá trên vai trong tiếng la ó phỉ báng.

Lễ Lá, chúng ta được nghe trọn hành trình thương khó của Chúa. Chúa đã chịu bao nhiêu nỗi khốn khó dồn dập đổ xuống trên mình cả tinh thần lẫn thể xác. Chúa bị môn đệ thân cận phản bội và bán rẻ. Chúa bị vây bắt như một tên trộm. Bị tông đồ yêu qúi chối bỏ không quen. Bị lên án là tên phạm thượng và bị kết án tử hình. Bị dân chúng thách đố, nhục mạ và cười chê. Sau cùng bị treo trên thập giá giữa hai kẻ trộm. Chúa chấp nhận tất cả mà không hề hé môi than van một lời.

Suy niệm về đường thập giá, chúng ta thấy có nhiều người liên quan kéo phe kết đảng và toa rập để lên án Chúa. Mỗi người chúng ta cũng góp phần giơ tay xin giết Chúa. Những kẻ âm mưu giết Chúa, đại diện tôn giáo là các thầy Thượng tế, Luật sĩ, Biệt Phái, các Đầu mục trong dân và ngoài đời có Philatô, các quân thần, lính tráng và dân chúng. Còn có các Tông đồ như Giuđa phản bội, Phêrô chối Chúa và những tông đồ, môn đệ khác bỏ trốn.

Đám đông dân chúng hùa theo. Họ bị kích thích bởi các nhà lãnh đạo. Họ dựa vào dư luận để rồi lên án Chúa. Họ là những người đã từng chịu ơn, đã được chữa lành bệnh tật, được ăn bánh no nê và được nghe lời giảng dạy. Ấy thế mà trong chốc lát đã thay lòng đổi dạ. Họ đổi lòng có thể vì sợ hoặc không biết. Trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã xin Cha tha cho họ tất cả vì họ lầm chẳng biết.

Truyện kể: Anh Clint Rennis đã một thời xa Chúa. Anh nghe nói trong Tuần Thánh có tổ chức đi Đường Thánh Giá, anh nhập đoàn với mọi người cùng hô to giết đi, giết đi. Có người đến nói với anh, người đóng vai tên trộm chưa đến, anh có thể giúp không? Suy nghĩ một hồi, anh nói: Được. Anh đóng vai người trộm. Đi bên Chúa, có người hỏi anh: Có khi nào anh xin Chúa tha thứ tội cho anh chưa? Anh nói: Chưa. Anh hãy xin Chúa mở rộng tâm hồn và tha thứ. Anh mới ra khỏi tù và tuần qua mới ăn cắp hai chiếc xe. Anh nhận ra ơn Chúa và anh đã thực sự thống hối.

Ngày xưa thiên hạ lầm lẫn vì không biết Chúa, Chúng ta ngày nay đã biết Chúa nhiều hơn nhưng chúng ta vẫn chối Chúa và có khi bán rẻ Chúa nữa. Xin Chúa thương tha thứ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Về mục lục

.

BÀI THƯƠNG KHÓ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Là Kitô hữu Công Giáo, vào tuần Thánh thì một trong những chuyện xem ra khá vất vả cho những người có trách nhiệm phục vụ các Lễ nghi Phụng vụ và cả bà con tín hữu tham dự đó là “hát và nghe bài Thương Khó”. Những người hát thì vất vả cở nào còn tuỳ khả năng ca hát của họ, còn người nghe thì hầu như phải chịu đựng khá nhiều, nhất là khi nghe các “ca viên không chuyên” ê a, chưa kể đến các yếu tố âm thanh, thời tiết…

Chắc hẳn anh chị em bà con lương dân, khác đạo sẽ thấy lạ tai với cụm từ thương khó, một cụm từ không phổ thông. Lần giở các trang tự điển tiếng Việt, tôi không tìm thấy cụm từ ấy. Thế nhưng, hầu như Kitô hữu Công Giáo nào khi nghe đến cuộc thương khó, cũng hiểu ngay đó là cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Cụm từ “cuộc thương khó” được dịch bởi từ La ngữ “Passio”, mà nguyên nghĩa là chịu đau khổ. Anh ngữ và Pháp ngữ đều dịch là “Passion”, cũng một nội hàm. Không hiểu vì sao khởi đi từ nghĩa gốc là “chịu đau khổ” thì từ Passion theo thời gian, có lẽ bắt đầu từ thế kỷ XII, lại có thêm nghĩa là dục vọng, một dục vọng mãnh liệt vượt mức bình thường, thành sự đam mê, thành “yêu say đắm”. Có mối tương quan gì chăng giữa các nghĩa của từ ngữ này bản thân không được rõ nhưng cũng xin mạo muội chia sẻ đôi tâm tình về cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta, nhân sự gợi ý của hai ngữ nghĩa ấy. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Và vì đam mê, yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu chịu khổ nạn.

1.Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Vấn đề là ở đối tượng của sự đam mê hay yêu say đắm. Con người đã theo chước cám dỗ mà hướng chiều sự say mê vào chính bản thân mình. Biết sự lành sự dữ là một ước muốn chính đáng và hợp lý với loài có trí khôn. Tuy nhiên khi lấy bản thân mình, lấy lợi ích của mình để làm thước đo lành dữ thì quả là một sai lầm to lớn. Vì say đắm chính mình nên con người đã đặt danh dự, chức phận, lợi ích của mình lên hàng trên hết. Những gì có lợi cho tôi, làm cho tôi vinh dự, giúp tôi thăng tiến quyền chức đã trở thành điều lành theo quan điểm của tôi. Và như thế sự lành dữ không còn mang tính khách quan, nghĩa là do Thiên Chúa đặt định.

Các nhà Kitô học cũng như các chuyên gia Thần học Thánh Kinh đã phân tích các nguyên nhân phía nhân loại gây ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong các nguyên nhân ấy cần phải kể đến tham vọng quyền bính của nhóm Mười Hai mà đặc biệt là của tông đồ Giuđa. Sự thường, đi liền sau quyền bính chính là lợi lộc. Ngoài ra chúng ta cũng cần kể đến tham vọng quyền bính của những người lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Tổng trấn Philatô đã biết rõ: “chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người” (Mt 27,18).

Một sự say đắm “quy ngã”, nghĩa là hướng về bản thân mình rất dễ dẫn đến những điều tồi tệ cho tha nhân và cho cả bản thân. Quá yêu mình thì người ta sẽ dễ coi thường tha nhân. Quá xem trọng lợi ích của mình thì người ta cũng dễ bị cám dỗ tìm cách hạn chế hay xâm phạm lợi ích của kẻ khác. Để bảo vệ quyền chức của mình người ta cũng dễ sẵn sàng hạ bệ kẻ khác bằng mọi cách thế, kể cả thủ đoạn.

2. Vì yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn. Vừa đặt câu hỏi lại vừa trả lời , tác giả Thánh Vịnh cho ta hay: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,4-7). Ngoài câu trả lời: vì “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4, 8), thì chúng ta không thể trả lời cách đầy đủ cho câu hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người đến thế, nhưng chúng ta lại biết rõ “cái thế này”: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chúng ta còn thấy sự đắm say này qua việc Con Thiên Chúa làm người đã tự nhận làm con của loài người (Son of Man – Fils de l’ Homme). Đó là Đấng mà xưa ngôn sứ Đaniel qua thị kiến đã thấy “ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7,13).

Sự đắm say của của Chúa Giêsu mang tính “hướng tha” nghĩa là hướng về người khác. Là Người Con Một, Người luôn hướng về Chúa Cha bằng sự hiệp thông, mến yêu, vâng phục. Vào trần gian, làm “con của loài người”, ý định của Người là “không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).

Tình yêu thì không có biên giới. Đã yêu thì không chấp nhận sự nửa vời. Và có thể nói say đắm là điểm tới của yêu thương. Đã đắm say thì có sự khổ nạn. Vấn đề đặt ra là hướng của sự đắm say là bản thân hay tha nhân. Khi ta say đắm bản thân thì ta sẽ gây đau khổ cho kẻ khác và ta lại huỷ hoại chính bản thân mình. Ngược lại khi ta đắm say tha nhân thì ta sẽ đón nhận khổ đau để tha nhân được cứu sống, được hạnh phúc và chính ta cũng sẽ được sống, triển nở và sống dồi dào.

Người ta thường gọi các thánh là những người “điên”. Có lẽ chữ “điên” hơi mang dáng vẻ hàm hồ và dễ bị ngộ nhận. Thiết nghĩ nên gọi các Ngài là những vị yêu Chúa, yêu tha nhân cách say đắm. Như thế ngoài những vị đã được Hội Thánh tuyên phong thì đã và đang có đó nhiều vị thánh không tên, những người đang yêu đồng loại cách đắm say. Họ đang dõi bước theo chân Chúa Giêsu, Đấng đã từng phán “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Với những vị đó, theo cách nói của thánh Âugustinnô, thì “bài thương khó” dù rằng khó và rất khó nhưng vẫn dễ thương, vì đã được thương rồi.

Về mục lục

.

TẠI LÀM SAO CHÚA CHẾT

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo thánh Luca. Chúng ta không thể không màng chi đến những sự xảy ra trước đó. Nhiều người không khỏi thắc mắc: một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Đâu là nguyên do dẫn đến cái chết và ai là người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?

Theo một lý thuyết lưu hành vào thế kỷ 20 sau thảm kịch Shoah, Hitler tiêu diệt những người Do thái, người ta qui trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu cho người Do thái, Philatô và các thẩm quyền Rôma thời ấy, mà động lực thúc đẩy thuộc bản chất chính trị hơn là tôn giáo.

Bằng chứng là Hội đồng Do thái, đứng đầu là các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão (x. Lc 22, 52) ; chứng gian tìm không ra, lời chứng lại không khớp, phải nại đến Thượng Hội Đồng và hỏi Chúa Giêsu xem có phải Người là Đức Kitô không ? Chúa Giêsu trả lời: “Nếu Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời” (Lc 22, 67-68. Người buộc họ lên tiếng: “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư ?” Chúa Giêsu đáp : “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa” (Lc 22, 70). Bấy giờ họ nói : “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói” (Lc 22, 71). Họ quyết định lên án tử cho Người.

Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua tay tổng trấn Rôma là Philatô, nên họ “giải Ngườiđến Philatô” (Lc 23, 1)Philatô không phải là người quan tâm tới sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (x. Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Giêsu, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.

Khi gặp Chúa Giêsu, Philatô hỏi: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” (Lc 23,3). Chúa Giêsu vẫn giữ thái độ và hành vi tương tự như trước cộng nghị: “Ông nói tôi là vua” (Lc 23,3). Câu trả lời của Chúa Giêsu không giúp Chúa thoát khỏi vụ án mà lại như thêm dầu vào lửa, khiến các thầy thượng tế lại tố cáo thêm, nhưng Chúa không đáp lại một lời nào.

Đối diện với những kẻ đòi giết Chúa Giêsu, Philatô không biết làm sao nên bảo dân “Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi” (Lc 23, 16). Lúc ấy trong khám đang có sẵn kẻ giết người tên là Baraba, Philatô nghĩ ra trò tráo mạng Giêsu để may chăng dân chúng tha cho Chúa Giêsu, nhưng ông đã lầm, chẳng những không cứu được Chúa Giêsu mà còn như thể gia tăng lòng quyết xử tử Người. Dân chúng biến các lời chúc tụng thành tiếng kêu tố cáo: “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!” (Lc 23, 21). Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “ Ông liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu” (Lc 23, 24).

Khi quyết định trao nộp Chúa Giêsu  thì ông cũng đi vào cái vòng di chuyển của họ. Tin Mừng được giả thiết là đã minh oan cho Philatô và tố cáo những người lãnh đạo Do thái chủ mưu giết Chúa. Chính thánh Phaolô khi tường thuật về án tử của Chúa Giêsu giống như các sách Tin Mừng mô tả, ông viết “những người Do thái đã giết Chúa Giêsu” (1 Tx 2,15).

Từ những tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác, truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Giêsu. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng nếu có hành động nào, họ đã chối hành động đó, từ viễn ảnh Do thái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô Giêsu là một án bất công.

Như vậy, đối với câu hỏi, “ tại sao Chúa chết ? ” Sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Kết luận, các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thủ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.

Phần chúng ta, những người tin Chúa Giêsu đều nghĩ rằng chính những người Do thái đã giết Chúa. Chúng ta cũng thường qui kết cho Giuđa là kẻ phản bội đã bán đứng Thấy, kẻ tiếp tay cho các thượng tế và kinh sư bắt nộp Chúa.

Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế…” chịu đóng đanh, chịu chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh Tin Kính).

Khi ta từ chối Chúa và chương trình thiêng liêng của Người, hay khi ta xúc phạm đến Chúa, không sống xứng đáng là con Thiên Chúa, chúng ta chịu trách nhiệm cách đặc biệt hơn vào cái chết của Chúa. Mỗi lần chúng ta phạm tội bất công, lỗi đức bác ái, gây gương mù gương xấu, cộng tác với sự dữ gây tác hại trực tiếp cho tha nhân, làm hại bản thân, gây thiệt hại cho cả Hội Thánh nữa là chúng ta làm khổ nhau, nhất là làm cho Chúa phải đau phiền và phải chết.

Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Amen.

Về mục lục

.

THA THỨ VÀ BAN THƯỜNG

Bông hồng nhỏ

Ngồi trong ngục thất chờ ngày bị hành quyết, người tử tù nhớ lại những ngày tháng tăm tối của đời mình. Anh đã chẳng làm gì hữu ích cho đời. Đời ghê tởm một tên gian phi như anh. Thế nhưng khi bị treo trên thập giá, anh lại được một ân huệ lớn lao từ lời hứa của Chúa Giêsu: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43).

Quả thật, anh đã nhận lấy bản ánh dành cho tội lỗi của mình là cái chết nhục nhã trên thập giá. Anh đã vác lấy thập giá là hậu quả của tội lỗi anh phạm. Anh hứng lấy sự sỉ nhục và khinh thường mà người đời dành cho anh. Anh bước lên đồi Gôngôtha trong ánh nắng gay gắt. Thập giá đè nặng vai anh và bao tủi nhục làm anh muốn quẳng thập giá xuống nhưng lính tráng vụt roi liên tục lên người anh. Anh thấy Đức Giêsu ôm hôn thập giá. Khuôn mặt Người chẳng còn hình dạng: mão gai trên đầu, mắt người một bên sưng vù, tím lại và cả thân mình nhầy nhụa máu. Anh đã nghe danh Người khắp gần xa và mấy hôm trước anh còn nghe lính tráng kháo nhau về việc Vua Giêsu vào thành Giêrusalem. Vậy mà hôm nay, người ta kết án, người ta điệu Người đi đóng đinh. Anh biết tội lỗi của mình và anh biết tội anh đáng chết. Còn Thầy Giêsu vô tội. Tại sao Thầy lại chấp nhận một bản án bất công? Có bao người nhục mạ Thầy Giêsu mà Thầy lại thưa lên: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Thầy Giêsu đã cầu nguyện cho kẻ làm hại mình.

Tình thương của Thầy Giêsu, bây giờ anh hoàn toàn cảm nhận được. Nơi Thầy, anh hoàn toàn bị thu hút, hoàn toàn bị chinh phục. Nghe tên gian phi kia nhục mạ Thầy: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình và cứu chúng tôi với” (Lc 23, 39). Anh liền mắng: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa mày cũng không biết sợ! Chúng ta bị như thế này là đích đáng, là xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23, 40-41). Đang khi đau đớn vì bị đóng đinh, một tử tù như anh lại có thể lên tiếng bênh vực cho người khác. Đã bao giờ chúng ta lên tiếng bảo vệ quyền lợi của người khác mà không màng đến nỗi khổ của ta chưa? Ta có tấm lòng chân thành như anh gian phi dành cho Chúa không? Vì anh đã xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23, 42). Ân huệ anh nhận được quả là lớn lao. Chúa Giêsu đã xóa bỏ tội lỗi cho anh và hứa cho anh vào Thiên Đàng. Quả là tha thứ cũng có nghĩa là ban thưởng. Anh đón nhận Chúa Giêsu là vua của mình.

Lạy Chúa Giêsu Chịu – Đóng – Đinh! Cảm tạ Chúa đã gánh lấy tội lỗi của con và nhân loại. Xin cho con được lòng ăn năn đau đớn vì tội đã phạm và luôn biết cậy trông nơi lòng thương xót vô biên của Chúa.  Xin Chúa giúp con khi được Chúa xót thương cũng biết rộng lòng thương xót người khác. Amen.

Về mục lục

.

CÙNG VỚI NGÀI

Anna Cỏ May

Tuần Thánh là tuần quan trọng của mọi Kitô hữu. Đây là tuần lễ cuối cùng của Đức Giêsu khi ở trần gian, là tuần Ngài bước vào cuộc khổ nạn, chịu chết và Phục Sinh. Tuần Thánh bắt đầu từ Lễ Lá, khi Đức Giêsu hân hoan bước vào thành Giêrusalem và dân chúng hoan hô đón rước Ngài.

Đức Giêsu biết rõ giờ của Ngài đã đến, giờ Ngài tự hiến mình để thực thi ý Chúa Cha, giờ Ngài tự nguyện bước vào cuộc đau khổ và lãnh cái chết để sinh ơn cứu độ cho mọi người.

Dân chúng, mới vừa đây thôi, tay cầm cành lá đón rước Đức Giêsu với lời tung hô: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19, 28-40), nhưng chỉ mấy ngày sau đó, dân chúng đã giận giữ kết án Đức Giêsu trước tòa Philatô: “Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!” (Lc 23, 21). Thế chẳng phải họ chỉ tung hô ngoài môi miệng, theo tục lệ, theo phong trào, còn lòng dạ và tâm hồn họ trống rỗng sao?

Là những người Kitô hữu, chúng ta ca ngợi tung hô Chúa trong nguyện đường. Nhưng khi đi vào cuộc sống chúng ta có đang khinh bỉ, bắt bớ người anh em của mình không? Người anh em là những người mang hình ảnh của Chúa, là những người được Chúa yêu thương, đã hy sinh để cứu dộ. Chúng ta có đang mang trong mình thái độ như dân Do thái xưa không?

Tiến vào Giêrusalem là Đức Giêsu bước vào những ngày khổ đau trong hành trình vác Thánh Giá. Ngài mời gọi chúng ta cùng bước theo Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài bước vào nỗi khốn khổ đau đớn và cái chết trên thập giá. Đức Giêsu là mẫu gương cho chúng ta bước theo. Đường thập giá của Đức Giêsu là đường cứu độ, là đường đưa vào sự sống. Lễ Lá đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Ngài trên Núi sọ. Phúc cho những ai bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Đức Giêsu, và nói được như Ngài: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha” (Lc 22, 42). Ở trong đau khổ, chúng ta có quyền khóc và kêu gào. Nhưng chính trong đau khổ, một khi chúng ta có lòng tín thác vào Chúa, chính Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua đau khổ đó và chúng ta sẽ lớn lên. Tuy nhiên, chúng ta có cảm thấy đau khổ là một hồng ân không? Thánh giá là hình phạt khổ nhục cho tội nhân, nhưng Đức Giêsu đã dùng Thánh giá để đem lại ơn cứu độ, đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Chúng ta hãy suy gẫm lời mời gọi của Chúa: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24) .

Lạy Chúa, xin cho chúng con bền vững bước theo Ngài trong cuộc thương khó, biết từ bỏ mọi lỗi lầm để cùng Ngài đi đến sự sống vinh quang. Amen.

Về mục lục

.

PHẬN LỪA

Mai Ly

Tôi sinh ra và lớn lên trong một thành đô đông người. Vào những dịp lễ hội thì chao ôi, khắp các ngả đường vào thành, người ta nhộn nhịp, bận rộn, ồn ào. Nhưng tôi thì lại ôm mang một nỗi hiu quạnh. Tôi không hề thích thú hay muốn hòa mình vào cái nhộn nhịp của thành đô ấy. Vì tôi mang tên Lừa. Tôi là một con lừa ngu ngốc. Hơn nữa, dường như tôi mắc môt căn bệnh trầm kha mà khó ai cảm thông: bệnh lười. Tôi lại còn hay suy nghĩ và làm ngược lại với những gì mọi người suy nghĩ hay hành xử. Tôi xa lánh con người, vì tôi là con lừa, còn mọi người là con người. Tôi tự nghĩ vậy.

Có một người đến và nói với tôi: “Bạn lừa, bạn thật vĩ đại, có lẽ bạn có cái tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. Cuộc sống diễn ra ồn ào vội vã như thế mà bạn vẫn giữ được phong thái ung dung, tự do tự tại… tôi phục bạn quá! ”

Tôi nhoẻn miệng cười và thầm nghĩ: “Người này chắc từng làm kiếp lừa nên mới nhìn tôi với cái nhìn tích cực này sao?”

Sau đó người ấy mang tôi đi và nói: “Bạn à! Không tin thì cứ hãy theo tôi, tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy…” Tôi lừng khừng, rồi cũng đồng ý, lẽo đẽo theo sau người ấy…

Bỗng dưng có người tiến đến, ngồi lên lưng tôi… Trời ơi! Sức nặng của người ấy làm tôi thấy mệt nhọc. Đúng là thân lừa! Tại sao tôi lại chấp nhận vác thập giá này chỉ vì câu nói “Bạn thật vĩ đại; tâm bạn bất biến; tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy…” Tôi cúi gầm mặt xuống và lê chân bước đi. Thân lừa mãi khổ và ngu ngốc khi bị lừa như thế này sao?

Gần tới đền thờ Jerusalem. Tôi nghe thấy tiếng đám đông hò reo: “Tung hô con vua Đa-vít, Đấng nhân danh Chúa mà đến…” Ôi! Cuộc sống nhộn nhịp và tấp nập. Người ta hò la, còn tôi thì câm nín; họ hân hoan, còn tôi đau khổ. Rốt cuộc cây thập giá trên lưng tôi là ai? Tại sao lại được tán tụng và tung hô như thế?

Khi qua khỏi đám đông, thật lạ, tôi không cảm thấy nặng nữa… Có thể người ấy đang mang cùng tâm trạng với tôi. Một tâm trạng đau khổ?!  Người ấy cúi xuống, và nói thầm thì với tôi: “Cám ơn chú lừa, chú là người bạn tốt bụng. Cám ơn chú đã đồng hành với tôi qua đám đông ấy. Chú về đi, tôi còn cần thực hiện một Cuộc Vượt Qua … Tôi hy vọng chú là chú lừa luôn làm việc tốt!”

Tôi chẳng hiểu rõ về con người ấy, nhưng khi nghe những lời ấy, tôi thấy mình vui vì tôi được hiểu và được trân trọng.  Đàng khác, tôi thấy mình quan tâm đến con người ấy. Tôi cảm nhận được sự đau khổ đang xâm chiếm con người ấy… mặc dù con người ấy được đám đông tung hô, tán tụng…Ôi! Phận người! Hay tại phận lừa như tôi không hiểu phận người?

Lạy Chúa! Con không muốn mình như đám đông kia: hò la, tung hô Chúa rồi lại la hét yêu cầu đóng đinh Chúa vào thập giá. Chúa đã đến tìm con, Chúa dùng con, Chúa đã cho con đồng hành cùng Chúa. Xin cho con can đảm đi tiếp con đường lên Jerusalem với Chúa. Xin Chúa cho con luôn giữ được trái tim quân bình, một trái tim yêu Chúa và chỉ muốn phụng sự Chúa mà thôi. Lạy Chúa! Xin đến bên cuộc đời con, vì con cần Chúa…

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU CHẾT TRONG SỰ VÂNG PHỤC

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Cuốn sách “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin” viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên trong Chúa Kitô Phục Sinh.

Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng hận thù và đố kỵ.

Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.

Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế.

1. Chúa Giêsu chết trong cô đơn

Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng khắc cô đơn kinh hoàng.Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn. Có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một tên phiến loạn giết người. Các môn đệ ở đâu ? Những người được Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit giờ ở đâu? Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?

2. Chúa Giêsu chết trong đau khổ

Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê rợn.

a. Đau khổ về thân xác Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau kiệt sức và chóng chết.

b. Đau khổ về tinh thần Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào !. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền ! Cả những tên cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.

3. Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục

Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26,39). Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).

4. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm

Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sỉ nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu : bị đánh vào lưng, bị giật râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ. Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô ( Mt 8,16;Is 53,4; Mc 1,1;Is 52,1; Mt 12,18-21;Is 42,1-3; Mc 9,31;Is 53.6.12; Ga 12,38;Is 53,1). Đề tài Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is 53,5; 1Cor 11,24). Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa “vì mọi người và cho mọi người” chứ không phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên sự sống cho mọi người. Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.

5. Sứ điệp tình yêu

Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.

Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát. Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.

Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra “Con Người” đẹp nhất trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi. Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của bạo lực đa đoan. Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ bao dung. Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống .

Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi với cả đại dương mênh mông vô tận!?

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ. Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho muôn người. Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con đường dẫn đến sự sống muôn đời.

Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu. Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.

Về mục lục

.

LỄ LÁ HÔM NAY

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

Khi thấy Đức Giê-su cỡi trên lưng lừa tiến về thành Giê-ru-sa-lem. Một đám người rất đông cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời. (Mt 21, 8-9)

Trong tâm lý của quần chúng Do Thái thời đó – tâm lý của người dân nhược tiểu sống dưới ách đô hộ của đế quốc Rôma – Đức Giê-su là vị Vua Giải Phóng Dân Tộc nên khi thấy Người cùng các môn đệ tiến vào Giê-ru-sa-lem, họ nghĩ rằng niềm vui được giải phóng đã gần kề.

Không vui sao được, khi người đang cỡi trên lưng lừa chính là người đã hóa nước thành rượu trong tiệc cưới Ca-nan. Đã làm phép để với một ít bánh và vài con cá đã cho hàng ngàn người ăn no nê. Đã làm cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi … và cũng chính là người đã làm cho Lazarô, một kẻ đã chết ba ngày được sống lại. Với “72 phép thần thông biến hóa” đáng nể như vậy, chắc chắn binh hùng tướng mạnh của người La Mã sẽ phải cúi đầu khuất phục!

Chắc hẳn những tiếng reo hò “Hoan hô ! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa !” trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm đó đong đầy âm sắc của niềm vui, của hy vọng, của hoà bình. Những tiếng hoan hô đó phải lớn lắm – lớn hết sức mình có thể – và kèm theo đó là sự tham gia của cả thể hình với những khuôn mặt đầy phấn khích, những cánh tay vẫy cao những cành lá.

Nhưng cũng chính đám đông ấy trong buổi sáng thứ Sáu Tuần Thánh lại vang dậy tiếng hò hét mang đầy âm sắc của dữ dằn, của khát máu, của sự loại trừ: “Đóng đinh nó vào thập giá ! Đóng đinh nó vào thập giá !”. Những tiếng la hét ấy đã khiến Philatô phải băn khoăn: “Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác ?”. Câu trả lời của đám đông vẫn là: “Đóng đinh nó vào thập giá !” và càng gào lên ghê gớm hơn khi Philatô tự cho là mình vô can và phủi tay : “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi !”. (Mt 27, 22-25)

Theo nhà tâm lý học xã hội Gustave Le Bon: đám đông thường bị điều khiển bởi sự vô thức của mỗi cá nhân, hành động tùy theo những kích thích ngẫu nhiên. Họ đặc biệt dễ bị tác động, nội tâm của họ xuất hiện một sự thúc dục phải biến nhanh ý tưởng thành hành động.

Hiệu ứng đám đông còn có thể được hiểu là những suy nghĩ hoặc hành vi của con người thường xuyên chịu tác động của những người khác. Đây là một phản ứng tâm lý rất tự nhiên, không hề xấu. Thế nhưng, khi hiệu ứng này có thể giết chết một con người, đó không còn là chuyện nhỏ.

Những kích thích và tác động ở đây chính là niềm mong ước của dân Do Thái muốn được giải phóng khỏi ách kềm kẹp của đế quốc Rôma và sự “ganh ăn ghét ở” của giới lãnh đạo Do Thái thời đó. Họ sợ đám đông rời bỏ mình đi theo Đức Giê-su và việc đó ảnh hưởng đến những đặc lợi, đặc quyền mà từ trước đến nay họ vẫn được hưởng vì vậy “các thượng tế và kỳ mục trong dân nhóm họp tại dinh của vị thượng tế tên là Cai-pha, và cùng nhau quyết định dùng mưu bắt Đức Giê-su và giết đi.” (Mt 26, 3-4)

Ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay mang đến cho chúng ta bài học bổ ích và mang tính rất thời sự dù sự việc đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm. Con người hiện nay sống trong thời đại công nghệ “4G”, có thể nói đang có một thế hệ trưởng thành từ mạng xã hội, một thế hệ “check in, like, comment …” mỗi lúc và mọi nơi. Những thói quen từ mạng xã hội có thể là niềm vui của người này, nhưng đôi khi lại là sự phiền phức của kẻ khác.

Nó tác động đến cuộc sống của con người; thậm chí làm thay đổi nếp sống, cách nghĩ của nhiều người. Nó giúp những người ở xa nhau nửa vòng trái đất cũng trở nên gần gũi nhờ tương tác đều đặn hàng ngày. Nhưng đôi khi lại khiến những người ở rất gần trở nên xa cách…. Tất cả là do cách mỗi người sử dụng, cũng như ứng xử với mạng xã hội.

Mạng xã hội có sức mạnh “phù phép” đông đảo người nghe theo, tin theo và làm theo. Mặt khác, có rất nhiều hậu duệ của những “thượng tế và kỳ mục” sở hữu sẵn “máu bài trừ” người khác bằng cách truyền đi những thông điệp mang tính chất kích động và chống lại một ai đó (thường là những người nổi trội hơn mình, … hoặc đơn giản chỉ là ai đó “thấy ghét”!).

Khi những thông điệp mang tính “bêu xấu” được truyền đi một cách có chủ đích, có hệ thống, và chuyên nghiệp thì vấn đề càng trở nên nguy hiểm hơn. Trong khi đó, từng cá nhân trong đám đông thường bị “lu mờ lý trí” hay “mê muội” như bị thôi miên và được dẫn dắt bởi những lời lẽ kích động của những “anh hùng bàn phím”.

Một comment chê bai có thể chưa mang lại nhiều tác động tiêu cực, nhưng khi một đám đông cực đoan cùng “hùa” vào chê bai thì hậu quả thật khó lường. Sự a dua tập thể chính là một con dao vô hình, có thể lấy đi sự tự tin, niềm vui, cướp đi ước mơ, hoài bão, thậm chí sinh mạng con người… Liệu chúng ta có thực sự còn muốn tham gia vào một cuộc chỉ trích, phê phán ai đó nếu biết được rằng một lời nói nhỏ bé của mình có thể khiến họ phải tìm đến cái chết?

Rất nhiều người thú nhận họ lên án, “like” hay “view” cho một người chỉ vì dư luận xung quanh đang làm thế mà không thực sự tìm hiểu cặn kẽ câu chuyện. Gần đây kênh YouTube mang tên “Khá Bảnh” với hàng loạt video “chém gió, dạy đời” gây sốc với cách hành xử kiểu giang hồ như văng tục, chửi bới, đốt xe, khoe tiền … đã thu hút được sự chú ý của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ với hàng triệu lượt xem và bình luận là một ví dụ.

Hẳn những nhà sáng lập ra Instagram, Twitter hay Facebook… có thể không bao giờ mong muốn sản phẩm của mình sẽ mang lại phiền toái đau thương cho con người, bởi vì những trang mạng xã hội thật ra chỉ là phương tiện giải trí, gắn kết mọi người. Vì thế, khi chưa tìm hiểu kỹ càng, xin đừng nghe theo những “thượng tế và kỳ mục” thời nay để biến mạng xã hội thành những công cụ mang tính hủy diệt như đám đông Do Thái xưa vội vã “hoan hô” rồi ngay sau đó lại hét to “đả đảo”!

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Nhật Lễ lá đưa chúng ta đi vào chặng đường thương khó của Chúa Giêsu. Cuộc thống khổ của Đức Giêsu được gọi là cuộc đau khổ hồng phúc. Gọi là hồng phúc bởi vì không có sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu :” Nhân loại không nhận được ơn cứu độ”.Hôm nay ý nghĩa thập giá được biểu lộ rõ nét.Cây thánh giá trở nên nguồn cứu rỗi cho nhân loại, cho con người. Chính nơi thập giá của Chúa ơn cứu chuộc chứa chan nơi Người.

Suy gẫm về thập giá, thánh Gioan Kim Khẩu đã viết :” Cây Thánh Giá là hy vọng của các Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù, là sự an ủi cho kẻ nghèo khó, là sự kiềm hãm của kẻ giầu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng trước ma quỷ, là thành lũy cho những kẻ bị vây hãm “ .Vâng, trong sự vinh quang khải hoàn của Chúa Giêsu khi được dân tung hô và các trẻ Do Thái hát mừng. Sự chiến thắng khải hoàn của Chúa tiến vào thành thánh Giêrusalem tiên báo sự vinh thắng của Người trên thập giá. Khi Chúa Giêsu tiến vào thành thánh Giêrusalem, chúng ta như thấy thánh giá hiển hiện. Thánh Giá vút cao bởi vì Đức Giêsu đã tiên báo khi nào Ta được kéo lên khỏi đất Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta.

Trong Phụng vụ Tuần thánh, Giáo Hội đưa chúng ta đi từ biến cố này đến biến cố kia, sự kiện này đến sự kiện khác. Chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu đau khổ tột cùng. Ba môn đệ thân tín được chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa trên núi Taborê : Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chính ba môn đệ này trong núi Cây Dầu đã bỏ rơi Chúa, trong khi Ngài đau khổ, mồ hôi và máu chảy ra thì ba ông vẫn ngủ vùi, ngủ say không hay không biết gì ! Giuđa Iscariốt phản bội, đang tâm bán Chúa cho các Thượng tế, Ký lục với giá rẻ mạt 30 đồng, và chỉ điểm cho quân lính bắt Chúa bằng một nụ hôn giả dối… Phêrô, Vị tông đồ trưởng hèn nhát, chối Chúa. Các môn đệ khác sợ hãi chạy trốn tán loạn. Chúa Giêsu bị bắt, bị kết án bất công.Người bị sỉ nhục, bị đánh đập và sau cùng bị quân dữ đóng đinh Người trên Thập giá…Cái chết của Chúa Giêsu thể hiện sự vâng phục của Người đối với Thiên Chúa Cha.Chính tình yêu cao vời của Chúa mới có giá trị cứu độ.

Đứng trước sự đau khổ tột độ và kinh khủng của con người, Chúa Giêsu vẫn thái độ hiền hòa và luôn phó thác vào Cha. Người luôn tuân phục ý Chúa Cha và nhẫn nại với những kẻ phản bội Người, đặc biệt đối với Giuđa, kẻ phản bội, bán Chúa, Người vẫn hiền lành và tử tế đối với Giuđa, Người vẫn giữ tình Thầy trò đối với Giuđa. Người muốn Giuđa quay trở về với Người, nhưng Giuđa quyết tâm ngoảng mặt làm ngơ và ra đi trong đêm tối, có nghĩa là đồng lõa với ma quỷ, với sự dữ, với Satan…Người sống hết tình với các môn đệ và nêu gương sự trung thành, tuân phục của Người đối với Thiên Chúa Cha…

Suy gẫm về cuộc thương khó hồng phúc của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra tình yêu cao vời tuyệt diệu của Chúa Giêsu.Chính tình yêu này mới có giá trị cứu độ. Cuộc thống khổ, tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cảm thông, chia sẻ với nỗi đau khổ của Chúa để cùng được sống lại với Người bởi vì “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết vác Thập giá mà theo chân Chúa Giêsu.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Trong núi Cây Dầu, Ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu đã làm gì ?
2.Giuđa đã có thái độ nào đối với Chúa Giêsu ?
3.Chúa Giêsu đã có thái độ nào đối với Chúa Cha ?
4.Cuộc thương khó của Chúa Giêsu nói gì đối với mỗi người chúng ta ?

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ.

Lm. Đaminh Trần Quang Hiền

Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.

Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.

Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.

Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhác, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.

Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.

Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.

Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.

Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.

Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài,  thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ LÁ_C

Lm Giuse Đinh tất Quý

  Anh chị em thân mến,

  Bài Thương khó hôm nay tương đối khá dài và tự nó đã nói lên rất nhiều ý nghĩa cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên tôi cũng xin được chia sẻ với anh chị em một vài cảm nghĩ của tôi. Đọc bài Thương khó hôm nay, tôi thấy có một vài điểm rất đáng cho chúng ta suy nghĩ

1. Điểm thứ nhất là lòng dạ của con ngưòi. Lòng dạ con người sao mà dễ thay đổi quá. Chỉ trong một thời gian không đầy một tuần lễ mà chúng ta được chứng kiến bao nhiêu cảnh thay lòng đổi dạ của con người dối với Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.

  a/ Trước hết là đám đông quần chúng

Lúc Chúa vào Thành thánh Giêrusalem, chúng ta không thể tưởng tượng được thái độ của họ vui mừng đến như thế nào. Họ sẵng sàng cởi áo trải xuống lót đường cho Chúa đi qua. Họ bẻ cành cây đầy lá giơ cao để đón mùng Chúa. Miệng của họ hò la đến vang trời dậy đất khiến nhà cầm quyền lúc đó cũng cảm thấy rúng động. “Hoan hô con Vua Đavid…Hoan hô….Hoan hô…Vạn tuế….Vạn tuế …Vạn tuế con Vua Đavid ….Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chuá đến cùng chúng tôi”

  Nhưng rồi cũng lại hầu hết những con người này, chỉ mấy ngày hôm sau lại gân cổ lên mà la thật to rằng “Hãy đóng đinh nó vào Thập giá, hãy đóng đinh nó vào Thập giá”- Và cả sau khi Chúa chịu đóng đinh rồi họ cũng vẫn chưa chịu buông tha cho Chúa: “Hãy xuống khỏi Thập giá đi để chúng ta tin nào…Kẻ đã cứu được người khác mà không cứu nổi chính mình…..Xuống khỏi Thập giá đi…Xuống khỏi Thập giá đi..”

  Ôi lòng dạ của con người sao mà chóng đổi thay đến như thế.

 b/ Thứ đến là lòng dạ của một người môn đệ đã được Chúa dành cho nhiều tình thương. Người đó là ai thì tất cả chúng ta đều đã biết: Giuđa. Vâng Giuđa đã phản bội. Tin Mừng đã ghi thật rõ “Giuđa tên phản bội”. Lòng dạ của Giuđa thật ích kỷ và hẹp hòi. Anh ta đã được Chúa thương, thương hơn nhiều môn đệ khác. Anh đã được Chúa tín nhiệm, tín nhiệm hơn những anh em khác, Chúa trao cho anh quản lý tất cả những gì Chúa có. Chúng ta có thể nói như thế. Anh đâu dó thiếu gì vậy mà anh đã phản bội. Chúa rất buồn với anh, buồn tới mức độ Chúa phải thốt lên một lời, một lời mà trong suốt cả cuộc đời của Chúa, Chúa không hề nói với bất cứ một ai: “Thà nó đừng sinh ra thì hơn” Thật là xót xa cho Chúa, cho Người Thầy chí Thánh của anh, anh Giuđa ạ

c/ Một số các nhân vật khác mà Bài thương khó hôm nay cũng nhắc tới. Đó là nhóm những người được Chúa ưu ái tuyển chọn trong đó có một người mà Chúa yêu thương rất đặc biệt. Người ấy không là ai xa lạ với chúng ta. Đó là Ông  Phêrô. Phêrô theo nội dung  tiếng Do Thái là đá tảng. Trước đó không bao lâu đá tảng Phêrô đã thề sống thề chết: “Dù tất cả có bỏ Thấy, con cũng không bao giờ….không bao giờ”- và Tin Mừng  còn ghi “Các tông đồ khác cũng nói như vậy”. Vậy mà sau đó không bao lâu chỉ có vài lời vu vơ của một vài đứa đầy tớ gái, tảng đá Phêrô đã vỡ tan tành. Ông Phêrô ơi! Ông không biết Chúa thật sao?. Thật là đau đớn cho Chúa….Con người mà Chúa đã tin tưởng đặt làm thủ lãnh một xã hội mới lại thề thốt trước mặt mọi người rằng không biết Chúa là ai. Thật là đau xót. Thật là tủi buồn.

2. Nhưng may mắn thay chúng ta còn có Chúa. Lòng Chúa không bao giờ đổi thay. Chúa luôn một lòng một dạ…một lòng một dạ với Thiên Chúa Cha, một lòng một dạ với lý tưởng yêu thương của Ngài. Vâng Chúa luôn một lòng một dạ. Lòng trung thành của Chúa không bao giờ thay đổi.

  a/ Chúng ta có thể nói sự sống của Chúa là Thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” Cả cuộc đời trần thế của Chúa cũng chỉ là như vậy: “Lạy Cha này con xin đến để làm theo ý Cha”. Ý Cha như thế nào con cũng một lòng một vâng theo. Trước chén đắng đầy tràn, Ngài cảm thấy run sợ nhưng lúc nào Thánh ý Thiên Chúa Cha cũng phải được đặt lên trên hết: “Lạy Cha nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con mà theo ý của Cha”

  b/ Bên cạnh đó Chúa có một lý tưởng để đi theo: Lý tưởng yêu thương. “Thầy đã đem lửa xuống trần gian và Thầy mong uớc biết bao cho lửa đó được bùng cháy lên”. Chúa một lòng một dạ với lý tưởng đó. Không có cái gì trên trần gian này có thể làm cho Chúa xa rời lý tưởng đó.

Từ trên Thập giá Chúa nhìn xuống cả một đám đông vẫn còn say máu căm thù vậy mà Chúa vẫn có thể bình thản cầu nguyện “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.

Cả cuộc  đời của Chúa là cuộc đời phục vụ. Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa phục vụ đến quên mình. Chúa sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, kể cả cái chết trên Thập giá vì Lý tưởng yêu thương: “Không có tình yêu nào lớn hơn Tình yêu của người dám hiến mạng sống của mình cho người mình yêu”

Lạy Chúa, Chúa đã một lòng một dạ với Thiên Chúa Cha, một lòng một dạ với lý tưởng yêu thương. Xin Chúa giúp cho chúng con được luôn gắn bó vớ Chúa. Xin cho chúng con được biết yêu thương như Chúa. Để khi sống như Chúa

  chúng con biết cho đi mà không tính toán

  biết chiến đấu mà không sợ thương tích

  biết làm việc mà không tìm an nghỉ

  biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác

 ngoài việc biết rằng chúng con đang thi hành Thánh ý Chúa. Amen

Về mục lục

.

CUỘC THƯƠNG KHÓ CHÚA

Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Tuần thánh là thời gian hết sức đặc biệt và linh thiêng nhất trong năm Phụng vụ. Tuần thánh bắt đầu từ ngày hôm nay bằng việc cử hành Lễ Lá, kỷ niệm việc Đức Giêsu đi vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia.

 Trong bối cảnh ngày hôm ấy, các môn đệ thì lấy áo choàng trải lên lưng lừa cho Chúa ngồi. Còn dân chúng thì tỏ lòng ngưỡng mộ đến nỗi trải áo ra và lấy những cành vạn tuế lót đường cho Chúa đi qua, rồi đồng thanh tung hô: “Vạn tuế con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11,9).

Bước vào tuần thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta dành nhiều thời giờ trong thinh lặng suy niệm cuộc thương khó Chúa để cảm nghiệm sâu hơn: Vì yêu thương nhân loại mà Chúa phải chịu muôn phần đau khổ đến chết dường ấy.

Đầu tiên là ba môn đệ thân tín nhất nơi vườn Giếtsêmani đã ngủ say đến độ bỏ rơi Chúa một mình trong cô đơn. Giuđa cả lòng dám dùng nụ hôn là dấu chỉ tình yêu để trở thành nụ hôn phản bội trao nộp Chúa cho quân dữ. Phêrô nhát đảm đến nỗi chối Thầy ba lần. Các môn đệ khác thì sợ hãi bỏ Thầy mà trốn đi hết.

Các thượng tế và luật sĩ đã vu khống cho Chúa những tội mà Chúa không hề có để trao nộp Chúa cho quan Philatô xét xử.

Philatô đã biết rõ ông Giêsu này vô tội nhưng vì sợ mất lòng dân, nên đành trao nộp Chúa cho quân dữ đóng đinh hành hạ cho đến chết.

Còn dân chúng thì mau thay lòng đổi dạ. Ngày hôm trước khi Chúa vào thành Giêrusalem, họ dùng những cành vạn tuế tung hô chúc tụng, nhưng ngày hôm sau họ biến thành những ngọn roi đánh trên thân mình Chúa.

Những cành cây, những bông hoa hôm trước trải đường cho Chúa đi qua, nhưng hôm sau họ làm thành mão gai đội trên đầu Chúa. Những lời tung hô chúc tụng sẽ được thay thế bằng những lời đả đảo sỉ nhục, thách thức và lên án: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” (Lc 23, 21).

Ôi thương thay! Dung mạo Chúa rạng ngời sáng láng trong biến cố biến hình trên núi Tabor, nay bị người đời khạc nhổ, sỉ vã và nhục mạ. Đôi mắt quan tâm với ánh nhìn bao dung tha thứ nay bị lý hình bịt lại làm thành một trò chơi như trẻ con.

Tấm thân Chúa gánh lấy bao nỗi khổ đau của nhân loại, giờ đây được phơi ra gánh lấy những trận mưa đòn bầm dập thân xác đến nỗi không còn hình tượng người ta nữa. Đôi bàn tay tựng chạm đến chữa lành bệnh nhân và nâng đỡ biết bao người, nay buộc phải giang ra cho quân dữ đóng đinh vào thập giá. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường rao giảng Tin mừng, nay không thể nâng cả thân mình đang trĩu nặng vì kiệt sức.

 Dân chúng vô ơn đồng thanh đòi đóng đinh Chúa. Họ coi Chúa còn thua Baraba tên trộm cướp. Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của bao cực hình khi Ngài cảm thấy dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ: “Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài bỏ tôi?” (Mc 15, 34).

Nhưng thưa anh chị em, Đức Giêsu chết thương đau không những bởi người Do Thái năm xưa, mà ngay cả chúng ta cũng góp phần vào việc đóng đinh giết Chúa mỗi khi chúng ta cố tình phạm tội trọng. Và việc đóng đinh Chúa vào thập giá không chấm dứt trên đồi Calvê, nhưng vẫn còn tiếp diễn mỗi khi chúng ta chửi mắng đánh đập người khác.

 Chúa Kitô vẫn bị quên lãng, mỗi khi ai đó không đồng quan điểm thì chúng ta tìm cách loại trừ chống đối.

 Chúa Kitô vẫn tiếp tục chết đi từng ngày, mỗi lần chúng ta sống ích kỷ, thiếu tình liên đới chia cơm xẻ áo cho nhau. Bởi vì Chúa đã đồng hoá: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta!”(Mt 25,45).

Anh chị em thân mến,

Khi tưởng niệm cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, là cơ hội rất tốt giúp chúng ta nhìn lại mối tương quan giữa chúng ta với Chúa. Chúng ta có cảm nghiệm thật sự lòng Chúa thương xót chúng ta không? Và chúng ta làm gì để đền đáp công ơn cao vời ấy. Ngày nay, Thánh giá được trưng bày khắp nơi như một lời nhắc nhớ chúng ta, đây là biểu tượng lòng thương xót của Thiên Chúa.

 Khi ngắm nhìn Đức Giêsu chết treo trên thập giá, chúng ta cũng đừng quên rằng: Đức Giêsu đang là hiện thân nơi những anh chị em nghèo khổ, đói rách hoặc đang bị bỏ rơi.

 Nhìn ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh, sẽ giúp ánh mắt đức tin chúng ta nhận ra giá trị nơi mỗi con người. Mạng sống con người cao quý đến độ, Con Thiên Chúa phải trả bằng một giá máu quá cao để cứu chuộc như thế.

 Xin cho chúng ta ghi tâm khắc cốt công ơn cứu chuộc của Chúa. Ngài đã chết để nhân loại được sống. Và Ngài đã chết để tái sinh chúng ta trong ơn làm con Chúa. Xin cho chúng ta mỗi ngày cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa yêu thương, để rồi chúng ta cũng cố gắng sống tình yêu đáp lại tình yêu. Amen.

Về mục lục

.

THÔNG CẢM VỚI CHÚA

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP. 

          Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá.  Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta : Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta.  Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng . Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.

          Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn  hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nhói :”Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao” ? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá ! Chúng ta có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không ? Lời Chúa tiên báo :”Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng ta không  ?

          Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ : đường thập giá :”Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.  Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài nơi chúng ta để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác. 

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          Bài đọc 1 : Is 50, 4-7).

          Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ.  Bài ca hôm nay là bài ca thứ ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi tớ nào đó, được Isaia diễn tả với những đặc tính sau đây :

  1. a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung thành với nhiệm vụ được giao phó nên đã chấp nhận tất cả : sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn.
  2. b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống bạo lực.
  3. c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.

Bài đọc 2 : Pl 2, 6-11.

          Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo trước.  Nơi Người có hai sự tương phản rõ rệt : sự tự hạ phi thường và chiến thắng vinh quang.  Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể  là một Đấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải nhận uy quyền của mình. Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ mình làm một người tôi tớ, hạ mình đến tận cùng để phục vụ.  Những ai càng hạ mình càng được nâng lên, sự hạ mình khiêm tốn của Chúa Giêsu đã được đền đáp : Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài muôn vật.

          Bài Tin Mừng : Mt 26,14-27,66.

          Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật đều có bố cục giống nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi bật lên :

          . Marcô chú trọng vào mục đích truyền giáo.

          . Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu của Chúa.

          . Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận của Chúa, đồng thời cũng nói lên vương quyền của Ngài.

          . Matthêu trình bầy đầy đủ hơn cả.  Bài thưong khó này được coi như bài giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức Giêsu là ai.

          Bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta ; đồng thời cũng là một thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh chịu đựng, cũng như thái độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương khó của Chúa sẽ giúp chúng ta biết  can đảm đón nhận mọi gian nan thử thách  trong cuộc sống để góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Ngài.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Cùng đau khổ với Chúa

  1. Nói về đau khổ.

          Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).

          Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.

          Có hai thứ đau khổ : đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là đau khổ.  Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau : đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn , hoặc vừøa đau đớn vừa đau khổ.

          Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần.  Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế :

                                      Vừa sinh ra sao đà khóc chóe,

                                      Trần có vui sao chẳng cười khì.

                                                (Cao bá Quát)

          Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa.  Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau.  Gần đây người ta phân tích  nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết :

                   . 85% đau khổ là do người làm khổ người.

                   .   5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất…

                   . 10% là do ngẫu nhiên.

          Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.

  1. Ý nghĩa của đau khổ

          Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó.  Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng.

a) Các chủ trương trước đau khổ. 

          Thiên Chúa giáo :  

          Theo nhiều bản kinh , nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể khổ.  Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ…

          Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng thời gian dự bị , thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực.

          * Phật giáo.

          Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là : sinh, lão, bệnh, tử.  Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”.  Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường…

          Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm :”Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ : sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ,  cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo  đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47).  Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo.  Chính phật Tổ cũng dạy :”Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Lm Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).

          Phái Khắc kỷ

          Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.

          Người ta kể : Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình trước đau khổ : coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh.  Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng :

          – Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.

          Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra.  Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói :

          – Tôi đã bảo kia mà ! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi !

          Theo quan niệm người đời.

          Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ :

                             Trời đất sinh ta âu hữu ý

                             Khách tài tình nên trải vị gian truân,

                             Một mai gặp hội phong vân.

                                       (Cao bá Quát)

                   hoặc:

                             Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử ?

                             (Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)

          Kinh Thánh cũng nói :”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này : càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108).  Cũng một lẽ : chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên  nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời.

  1. Mục đích của đau khổ.

          Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái ; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.

           Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin  đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm.    Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này :”Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúa rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”.  Như thế đau khổ  có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.

  1. Thái độ của ta trước đau khổ.

Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ ? Đương đầu với nó hay trốn chạy ? Chiến thắng hay đầu hàng ?  Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến :”Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”.

                       (Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965).

a) Thái độ tiêu cực

          Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.

b) Thái độ tích cực

          Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh.  Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi  hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.

          Ta nghĩ thế nào về hạt cát ? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta ?  Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích ?  Phải phân biệt :

          . Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.

          . Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao ?  Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.

          Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh : chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại.  Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa.

          Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn :

“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ AMEN.  Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và vì Chúa,  bởi họ đã đọc lời giải khát.

          “Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng : Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”.

                   (Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT LỄ LÁ_C

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Chúa Nhật Lễ Lá tập trung vào một chủ đề duy nhất: “tưởng niệm cuộc Thương Khó của Đức Giê-su”.

Is 50: 4-7

Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Vị ngôn sứ cho chúng ta thoáng thấy dung mạo người tôi trung của Đức Chúa chịu đau khổ, nhạo báng, sĩ nhục, nhưng không một lời oán than, trái lại đặt trọn niềm tin tưởng vào một mình Thiên Chúa.

Pl 2: 6-11

Tiếp đó, chúng ta tiếp tục suy niệm mầu nhiệm hạ mình và tôn vinh của Đức Giê-su, được thánh Phao-lô họa lại trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, dưới dạng một bài thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô. Đây là một lời chứng đáng chú ý về niềm tin Giáo Hội tiên khởi.

Lc 22: 14-23: 56

Sau cùng, chúng ta sống lại cuộc Thương Khó của Đức Giê-su theo thánh Lu-ca, nhắc chúng ta nhớ rằng qua con đường Thương Khó và Tử Nạn Đức Giê-su dẫn chúng ta đến sự sống.

BÀI ĐỌC I (Is 50: 4-7)

Bản văn này nói cho chúng ta về những xác tín của vị ngôn sứ. Vì luôn lắng nghe Thiên Chúa, chuyên tâm suy gẫm lời của Ngài, ông đã không tránh né sứ mạng của mình và biết lựa lời mà nâng đỡ những người bất hạnh. Ông đã không đón nhận bất kỳ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại, đã phải hứng chịu muôn vàn ê chề nhục mạ: bị đánh đòn, chịu những lời mắng nhiếc phỉ nhổ. Nhưng người tôi trung này đã đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Chúa; ông “trơ mặt ra như đá”, nghĩa là “nhất quyết, không hề nao núng, vững như bàn thạch”. Thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng “Chúa Giê-su trơ mặt ra như đá”, nghĩa là, Ngài nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem để chịu cuộc khổ nạn của Ngài, tức là Ngài thu hết can đảm và khẳng định ý muốn của mình (Lc 9: 51).

  1. Dung mạo người tôi trung

Đây bài ca thứ ba trong bốn bài ca được gọi “bài ca về Người Tôi Trung của Đức Chúa” được gặp thấy trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. “Người Tôi Trung”này được quy chiếu đến hoặc dân Ít-ra-en (vị ngôn sứ thường gọi họ là “người tôi trung của Đức Chúa”), hay một nhân vật biệt phân và đón nhận sứ mạng đặc thù. Vả lại, lời giải thích tập thể và lời giải thích cá nhân không loại trừ nhau; chúng chồng chéo lên nhau ở nhiều đoạn văn. Người tôi trung này hành xử một cách khiêm nhu (bài ca thứ nhất); ông được trao phó cho việc giải thoát dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai), ông phải hứng chịu những bách hại và nhục mạ (bài ca thứ ba), ông bằng lòng chịu chết một cách ô nhục, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư).

Đây là một khúc quanh của Mặc Khải. Cho đến lúc đó những viễn cảnh Mê-si-a nhắm đến một dung mạo một vị vua vinh quang thuộc dòng dõi vua Đa-vít, Ngài sẽ thiết lập nền hòa bình và công lý. Ấy vậy, vào lúc này, dân Ít-ra-en không còn có vua, vương quyền Đa-vít đã bị tiêu tan trong cơn bảo táp; Đền Thờ Sa-lô-mon bị phá hủy, Giê-ru-sa-lem phải làm tôi và phần lớn dân cư bị lưu đày. Đây là giờ thuận tiện để loan báo một sứ điệp mới. Qua những linh tính của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa tiến một bước tiến vĩ đại. Không phải những sấm ngôn thuở xưa về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít bị hủy bỏ, nhưng điều mà những viễn cảnh mới cho thấy, chính là sự can thiệp của “một người được Thiên Chúa tuyển chọn”“một người được Đức Chúa xức dầu tấn phong”, Đấng này sẽ hành động không ồn ào nháo nhiệt, bên ngoài có vẻ thất bại: đau khổ và chết, trước khi được tôn vinh.

  1. Vị ngôn sứ chịu sĩ nhục

Ở nơi nhân vật chịu nhiều nỗi truân chuyên này chúng ta dể dàng nhận ra chính vị ngôn sứ. Lãnh nhận sứ mạng an ủi những người lưu đày bất hạnh mệt mỏi chán chường, ông đã không thể tránh khỏi thái độ vô ơn bạc nghĩa này. Ông đã cố giúp họ hiểu ý nghĩa của cuộc thử thách của họ, kêu gọi họ hoán cải, hứa với họ sự giải thoát; tuy nhiên, ông đã vấp phải thái độ không hiểu, ngờ vực và hung hăng của những người mà cuộc lưu đày dài lâu đã khiến họ nên chua chát đắng cay.

  1. Người công chính chịu đau khổ

Qua dung mạo của vị ngôn sứ, ẩn hiện dung mạo người công chính thập toàn. Bản văn có cung giọng Mê-si-a. Chúa Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng được giao phó cho Ngài trong sự vâng phục hoàn hảo; Ngài sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo khổ và phiền muộn. Như vị ngôn sứ vô tội, Ngài sẽ đón nhận, thay vì những lời cám ơn, những đòn vọt, lăng mạ, nhục hình mà Ngài sẽ gánh chịu không hề nao núng “vì biết mình sẽ chẳng phải thẹn thùng hổ ngươi bẽ mặt”.

BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)

Đoạn thư của thánh Phao-lô gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê này là một bài thơ, bằng văn xuôi có nhịp điệu, gồm sáu khổ thơ. Ba khổ thơ đầu vạch lại ba giai đoạn tự nguyện hạ mình của Đức Ki-tô, và ba khổ thơ còn lại, trái lại, ba giai đoạn được Chúa Cha tôn vinh.

Người ta không khỏi ngạc nhiên khi gặp thấy ở nơi cung giọng nồng nàn nhưng thân quen, những dòng thơ khôn sánh này, như tuôn trào từ ngọn bút. Người ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay chỉ là người trích dẫn bài thơ này. Bài thơ này, bằng Hy ngữ, được phô diễn rất văn chương. Tuy nhiên, các nhà chuyên môn phát hiện ở đây những ảnh hưởng của ngôn ngữ A-ram. Phải chăng có một bản văn bằng tiếng A-ram trước bản văn Hy ngữ này? Nếu vậy, chúng ta đang đứng trước một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi. Dù sao chúng ta có ở đây một chứng liệu đáng chú ý, một trong những bản văn xưa về thần học Đức Ki-tô; nhất là nó mang đến một lời chứng có giá trị đầu tiên về đức tin tiên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su, trước cả Tựa Ngôn của thánh Gioan.

  1. Ba giai đoạn hạ mình

1- Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nhất quyết đòi cho mình được ngang hàng Thiên Chúa.

2- Ngài tự hủy mình ra hư không và mặc lấy thân phận thấp hèn, nên giống phàm nhân, nghĩa là chia sẻ tất cả mọi yếu đuối của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.

3- Ngài lại còn hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết ô nhục trên thập giá.

  1. Ba giai đoạn tôn vinh

1- Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban tặng cho Ngài danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.

Chữ “danh hiệu” được hiểu theo nghĩa tuyệt đối: “Danh khả danh phi thường Danh”, nghĩa là danh hiệu này chỉ dành riêng cho một mình Ngài, đây là danh của “Đức Chúa”, mà theo truyền thống Do thái dành riêng để chỉ tên khôn tả của Thiên Chúa.

Danh hiệu “trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu”, vì danh này trổi vượt, thậm chí trên muôn loài muôn vật trên trời dưới đất.

2- Muôn loài muôn vật phải phụng thờ Ngài.

“Để vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ”. Không phải chỉ vì danh Giê-su, vì tên này khá phổ biến, đó là lý do tại sao tên này thường được đám đông xác định: “ông Giê-su thành Na-da-rét”; nhưng vì danh Giê-su đồng nhất với danh Đức Chúa như khổ thơ trước chỉ cho thấy.

“Cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty”: chỉ toàn thể vũ trụ. Điều này muốn nói rằng, không chỉ nhân loại phải tôn thờ Ngài, nhưng còn muôn loài thọ tạo nữa. Đây là đề tài chúng ta sẽ gặp lại ở sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chức tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” (Kh 5: 13).

3- Sau cùng, Thiên Chúa ban cho Đức Giê-su quyền tối thượng hoàn vũ, nghĩa là tước vị “Chúa”. Vì những người Ki tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Giê-su tước vị này mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa. Đây là lời tuyên tín đặc trưng tiên khởi; thánh Phao-lô nhấn mạnh nhiều lần, cũng như thánh Lu-ca trong sách Công Vụ, Thiên Tính của Ngài.

Câu cuối của bài thánh thi định rõ “để tôn vinh Chúa Cha”. Đây cũng là một nét thần học xứng đáng nhấn mạnh: siêu tôn Đức Giê-su đồng nghĩa tôn vinh Chúa Cha. Phụng Vụ Ki tô giáo sẽ theo đường hướng này: mọi lời chúc tụng dâng lên Đức Ki-tô đều là tôn vinh Chúa Cha.

  1. Mẫu gương

Thánh Phao-lô rất yêu quý các tín hữu Phi-líp-phê mà thánh nhân đã sáng lập vào năm 49-50 và là cộng đoàn Ki-tô giáo đầu tiên trên đất Châu Âu. Phi-líp-phê là một thành phố quan trọng thuộc miền Ma-xê-đoan; thành phố này được đặt tên theo vua Phi-líp-phê, cha của đại đế A-lê-xan.

Khi thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh nhân đang sống trong cảnh xiềng xích. Thánh nhân ước mong các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài biết đồng tâm nhất trí với nhau, nhất là khiêm tốn tận đáy lòng. Vì thế, thánh nhân đưa ra cho họ mẫu gương của Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Lc 22: 14-23: 56)

BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ THEO THÁNH LU-CA

Như tất cả các thánh ký khác, thánh Lu-ca dành một phần lớn tác phẩm của mình cho bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế chúng ta có bằng chứng theo đó Giáo Hội tiên khởi đã hiểu biến cố đồi Sọ, không là một giai đoạn hổ ngươi bẽ mặt mà biến cố Phục Sinh xóa đi, nhưng rõ ràng là đỉnh cao công trình yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại. Sự thách đố của thập giá đã được những Ki-tô hữu tiên khởi đảm nhận, bất chất sự kỳ chướng gây ra cho người Do thái lẫn lương dân.

Bài tường thuật của thánh Lu-ca bộc lộ một cảm xúc mãnh liệt, tuy nhiên thánh ký tránh đề cập những chi tiết quá tàn bạo, nhưng chỉ gợi ý; khi đọc bài tường thuật của ông, người ta có thể không biết rằng Đức Giê-su đã bị đánh đòn và bị đội mảo gai. Mặt khác, chân dung mà thánh ký phác họa về Đức Giê-su hoàn toàn phù hợp với những gì ông đã mô tả về Ngài trước đó. Suốt lộ trình đau thương của Ngài, Đức Giê-su gieo rắc sự tha thứ, hòa giải và lòng xót thương. Sau cùng, người ta nhận ra rằng thánh ký, tác giả của sách Công Vụ sau này, rất quan tâm đến Giáo Hội: thánh ký muốn rằng bài Thương Khó của ông phải giúp cho người Ki-tô hữu gặp thấy ở nơi Đức Giê-su một mẫu gương noi theo cho đến phúc tử đạo.

ĐỨC GIÊ-SU LẬP PHÉP THÁNH THỂ (22: 14-20)               

Chúng ta bắt đầu bài tường thuật của thánh Lu-ca với việc Chúa Giê-su lập phép Thánh Thể. Hai tình tiết đi trước việc thiết lập phép Thánh Thể:

– Các thượng tế âm mưu và thông đồng với ông Giu-đa, tên phản bội.

– Chúa Giê-su sai hai môn đệ, thánh Phê-rô và thánh Gioan, chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua.

Thánh Lu-ca là một trong các thánh ký đã khôi phục tốt nhất việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể trong bối cảnh của bữa ăn Vượt Qua Do thái.

  1. Lễ Vượt Qua Mới

Khi giờ đã đến”, tức là vào lúc mặt trời lặn, Chúa Giê-su và các Tông Đồ “ngồi vào bàn”. Từ lâu bữa ăn Vượt Qua không còn theo cách thức cựu trào nữa, nghĩa là “lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy” (Xh 12: 11), nhưng theo cách thức Hy-La, nằm duỗi dài trên trường kỷ.

Bữa ăn Vượt Qua Do thái được người cha hay vị thủ lãnh của nhóm chủ trì, như cộng đồng nhỏ bé của Đức Giê-su cùng các môn đệ của Ngài. Người cha hay vị thủ lãnh có nhiệm vụ giải thích diễn tiến và ý nghĩa của các nghi thức, trả lời các câu hỏi. Vì thế Chúa Giê-su lên tiếng trước, trong và sau bữa ăn. Ngài xác định ý nghĩa các cử chỉ của Ngài; Ngài sắp biến đổi lễ Vượt Qua truyền thống thành lễ Vượt Qua Mới; vừa đoạn tuyệt vừa nối tiếp, vừa song đối sâu xa vừa có tính cách mới tận căn.

Ngay lập tức, Đức Giê-su đem lại cho nghi lễ sắc điệu của Ngài: lễ Vượt Qua này thể hiện một trong những ước muốn nồng nàn nhất tấm lòng của Ngài và nó mang một ý nghĩa cánh chung.

  1. “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình”

Chúa Giê-su đã bày tỏ mong ước này rồi: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bừng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12: 49-50). Đó là ngọn lửa tình yêu mà Ngài sẽ tỏ cho nhân loại thấy Thiên Chúa yêu thương họ đến độ nào.

  1. Ý nghĩa cánh chung

Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm việc dân Do thái được giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, biến cố quyết định của lịch sử dân Ít-ra-en. Cuộc tưởng niệm này được hiểu như đảm bảo những lần Đức Chúa can thiệp trong tương lai, việc Đấng Mê-si-a ngự đến (ở bữa ăn Vượt Qua, một chỗ tượng trưng được dành riêng cho ngôn sứ Ê-li-a), cũng như ơn cứu độ vĩnh viễn (người ta nghĩ rằng ơn cứu độ này bất chợt đến vào đêm Vượt Qua). Như vậy, bữa ăn Vượt Qua Do thái là một trong những tiên trưng của bữa tiệc cánh chung mà Thánh Kinh mô tả để diễn tả niềm vui của những người công chính trong thế giới hậu lai như: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người” (I s 25: 6-8; 55: 1-3; Cn 9: 1-6).

Lễ Vượt Qua mà Chúa Giê-su chuẩn bị thiết lập mặc lấy dấu chỉ cứu độ “cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa”. Thánh Thể là lương thực cánh chung, bảo chứng cuộc sống đời đời.

  1. Chén rượu thứ nhất

Đức Giê-su đổi mới viễn cảnh này khi cầm chén rượu người ta đưa cho Ngài. Quả thật, bản văn viết: “Rồi Người nhận lấy chén”. Đức Giê-su chủ trì bữa ăn Vượt Qua. Chỉ một mình thánh Lu-ca kể ra chén rượu thứ nhất này.

Trong suốt bữa ăn Vượt Qua Do thái, có đến bốn chén rượu. Lời tạ ơn được đọc trên chén rượu thứ nhất, trước khi bữa ăn khởi sự, nhằm mục đích thánh hiến nghi lễ: Đức Giê-su dâng lời tạ ơn thứ nhất trên chén rượu này.

Tiếp đó, người ta ăn “rau diếp đắng”, đoạn đọc lời tạ ơn và cùng ăn bánh không men.

  1. Đọc lời tạ ơn trên bánh

 Lúc đó, Đức Giê-su dâng lời tạ ơn trên bánh, nhưng Ngài biến đổi nghi thức: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Bản văn của thánh Lu-ca rất gần với bản văn của thánh Phao-lô. Chỉ hai người kể ra “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm mà tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11: 24).

  1. Chén rượu cuối bữa ăn

“Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy”. Những lời theo sau ở đây vẫn còn tương tự với những lời mà thánh Phao-lô trích dẫn (1Cr 11: 25). Chén rượu mà Chúa Giê-su dâng lời tạ ơn có thể là chén thứ tư, chén mà người ta uống ngay khi bữa ăn được hoàn tất, trước khi đọc các Thánh Vịnh 113-118, để nói lên Giao Ước Mới và phân biệt rõ nét Chén Máu của Ngài với các chén khác.

Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ Ngài cái chết dữ dội của Ngài, Ngài chết như một hiến lễ: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em”.

DIỄN TỪ TỪ BIỆT (22: 21-38)

Trái với thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, nhưng như thánh Gioan, thánh Lu-ca tường thuật bài diễn từ của Chúa Giê-su như diễn từ từ biệt, dưới hình thức của những lời loan báo, dặn dò và hứa hẹn.

  1. Loan báo Giu-đa phản bội

Trước tiên, Đức Giê-su loan báo rằng một người trong họ sẽ phản bội Ngài. Đây là nét chung cho cả bốn sách Tin Mừng: thánh Lu-ca đặt lời loan báo này sau bữa ăn, thánh Gioan thì trong bữa ăn, còn thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thì trên đường đến vườn Cây Dầu. Chỉ mình thánh Gioan trích dẫn Tv 41: 10: “Kẻ đã cùng chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13: 18). Thánh Lu-ca chỉ dành cho lời loan báo này chỉ ba dòng mà không đưa ra bất kỳ sự xác định nào, vì thánh ký không thích trì hoãn trên những cử chỉ ô nhục. Lời than thở: “Khốn cho kẻ nào nộp Con Người” không là lời kết án, càng không là lời nguyền rủa. Đó chỉ là một ánh nhìn đượm buồn trên người bạn lầm đường lạc lối này.

“Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định”, nghĩa là cuộc Thương Khó của Đức Giê-su đã được ấn định bởi kế hoạch của Chúa Cha. Chúng ta không gặp thấy bản văn Kinh Thánh nào mà Chúa Giê-su có thể ám chỉ đến, nhưng phải nhớ rằng Đức Giê-su đã thường liên kết mật thiết dung mạo Con Người với dung mạo Người Tôi Trung. Vả lại, bài học phục vụ đến rất đúng lúc như một lời quở trách gửi đến các môn đệ Ngài.

  1. Lý tưởng phục vụ

Sau một thoáng xúc động vì lời loan báo một người trong họ sẽ phản bội Thầy, các ông, vẫn chứng nào tật nấy, tranh cãi sôi nổi với nhau xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất.

Đức Giê-su nhắc lại cho họ giáo huấn mà Ngài không ngừng nhắc đi nhắc lại: kẻ rốt hết sẽ là người làm đầu, ai trở thành bé mọn như con trẻ sẽ đi vào Nước Trời, vân vân. Kẻ lớn nhất phải nên như người phục vụ: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”. Người ta nghĩ rằng thánh Gioan đặt việc rửa chân vào bữa ăn này, Đức Giê-su mặc lấy y phục người nô lệ, khăn thắt ngang lưng, để cúi xuống trước mỗi vị Tông Đồ.

  1. Xa-tan trở lại

Sự phản bội của Giu-đa không là cuộc tấn công duy nhất của các thế lực sự dữ. Chúng ta gặp thấy ở đây một trong những tuyến phát triển của Tin Mừng Lu-ca, cuộc tấn công này xuất hiện ngay từ câu chuyện Cám Dỗ trong hoang địa: ở đó Đức Giê-su chiến thắng Xa-tan và cuộc chiến thắng khởi đầu này bao quát toàn bộ sứ mạng của Ngài; nhưng Xa-tan chờ đợi giờ của nó (Lc 4: 13). “Xa-tan đã nhập vào Giu-đa” (Lc 22: 3). Ngoài ra “Xa-tan đã xin được sàng các Tông Đồ như người ta sàng gạo” (Lc 22: 31), tức là đưa các ông vào một cuộc thử thách cam go đối với đức tin của các ông. Chính thánh Phê-rô sẽ vấp ngã.

  1. Tấm lòng nhân hậu của Chúa Giê-su

 Chúng ta lưu ý đến tấm lòng nhân hậu của Đức Giê-su; Ngài gợi lên cuộc tấn công của Xa-tan này chỉ sau khi đã trấn an các Tông Đồ của Ngài; Ngài nói với họ về cuộc thử thách này, khi nhấn mạnh rằng rốt cuộc họ sẽ chiến thắng: “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao vương quốc này cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được dồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự tòa xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”, tức là dân Thiên Chúa.

Đối với thánh Phê-rô cũng thế, để thánh nhân khỏi phải quá buồn phiền, Đức Giê-su công bố cho ông, trước khi tiên báo ông sẽ chối Thầy: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh”.

Chỉ một mình thánh Lu-ca gợi lên ngay từ giây phút này uy quyền mà Đức Giê-su ban cho thánh Phê-rô trên Nhóm Mười Hai, và đảm bảo rằng lời cầu nguyện của Ngài sẽ phù trợ đức tin của Giáo Hội.

Thánh Phê-rô cực lực biện bác, nhưng Chúa Giê-su nói trước cho thánh nhân biết nội trong đêm nay ba lần ông sẽ chối Thầy, nhưng Ngài cũng giúp cho thánh nhân hiểu trước rằng Ngài sẽ bỏ qua cho ông. Đây là một trong những trang Tin Mừng ghi đậm nét lòng nhân từ của Thiên Chúa.

  1. Giờ chiến đấu quyết liệt

Đoạn Chúa Giê-su với một nghị lực đáng kinh ngạc cho các môn đệ mình hiểu rằng giờ chiến đấu quyết liệt đã đến. Không còn ra đi không hành trang như trước đây Ngài đã truyền lệnh cho họ, nhưng phải trang bị vũ khí chống lại sự thù hận khủng khiếp. Chúa Giê-su nói bằng ngôn ngữ biểu tượng về khí giới thiêng liêng.

Bây giờ sấm ngôn Is 53: 12 sắp được ứng nghiệm: “Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất”. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất áp dụng bản văn ngôn sứ I-sai-a đệ nhị về người tôi trung chịu đau khổ vào cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô. Chúa Giê-su bước đi trong khi hoàn toàn ý thức rằng mình bị bêu xấu cho đến mức bị liệt vào hàng những kẻ phạm pháp và phải chịu chết một cách ô nhục. Ngài thử truyền đạt điều này cho các môn đệ, nhưng các ông lại hiểu theo nghĩa vật chất, vì thế họ trình cho Ngài hai thanh gươm. Chúa Giê-su, thất vọng, cắt ngang: “Đủ rồi!”.

CƠN HẤP HỐI TẠI NÚI Ô-LIU (22: 39-46)

Bài tường thuật của thánh Lu-ca thì ngắn gọn: thánh ký bỏ qua nhiều chi tiết được thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô cung cấp, chỉ để tâm đến lời cầu nguyện, lời cầu nguyện căng thẳng của Chúa Giê-su, lời cầu nguyện mà Ngài khuyên bảo các môn đệ ngay từ đầu và được lập lại ở phần cuối; một kỷ thuật đóng khung có ý nghĩa.

Chẳng có gì phải ngạc nhiên: thánh Lu-ca là thánh ký của lời cầu nguyện; chính thánh nhân ghi nhận thái độ thường hằng này của Chúa Giê-su: “Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu” (21: 37). Chúa Giê-su không thay đổi thói quen của mình; hơn nữa, Ngài biết rõ rằng Ngài đang đối mặt với nguy hiểm. Vào chiều hôm đó, các môn đệ theo Ngài; Ngài bận lòng trước hết về họ; họ đã thật sự không ý thức về cơn kỳ chướng kinh khiếp đang chờ đợi họ. Ngài bảo các ông: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Chính Ngài tách riêng một mình mà cầu nguyện.

  1. Chúa Giê-su cầu nguyện

Thánh Lu-ca viết: “Chúa Giê-su quỳ gối cầu nguyện”. Thái độ này không thông thường: dân Do thái cũng như dân Hy-lạp và dân Rô-ma đứng cầu nguyện; tuy nhiên, Cựu Ước nhiều lần kể ra thái độ quỳ cầu nguyện này (2Sb 6: 13; Đn 6: 11). Đây cũng là thái độ cầu nguyện Ki-tô giáo được nhiều lần ghi nhận trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 9: 40; 20: 36; 21: 5).

Trong suốt buổi cầu nguyện dài lâu này, Chúa Giê-su đã có thể thay đổi tư thế. Tuy nhiên, thánh Lu-ca thích kể việc Chúa Giê-su quỳ cầu nguyện hơn “sấp mình xuống mà cầu nguyện” như Mát-thêu hay Mác-cô.

Lời cầu nguyện của Đức Giê-su ở vườn Ô-liu nhắc nhớ Kinh Lạy Cha mà Ngài đã dạy cho các Tông Đồ. Đức Giê-su thân thưa với Cha Ngài với trọn niềm tin tưởng của người con thảo; nhưng thân phận con người khiến Ngài xao xuyến: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con”. “Chén” là hình ảnh Kinh Thánh chung chung được liên kết với ý tưởng trừng phạt, “chén cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, chén dành cho số phận của những người tội lỗi. Khi chấp nhận uống chén này, thay cho những người tội lỗi, Chúa Giê-su sẽ cho phép họ được uống chén cứu độ: chén máu Thánh Thể, tức là máu Ngài đổ ra cho họ.

  1. Thiên sứ

“Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người”. Đây là nét riêng của thánh Lu-ca.

Đây là câu trả lời của Chúa Cha cho tấm lòng hiếu thảo của Đức Giê-su. Điểm nhấn này rất gần với Tin Mừng Gioan; quả thật, theo Tin Mừng Gioan, Chúa Cha đã chưa bao giờ yêu mến Chúa Con cho bằng khi Chúa Con chịu cuộc Tử Nạn của mình. Một tình tiết song đối được gặp thấy chính xác trong Tin Mừng Gioan. Chúng ta biết rằng thánh Gioan không tường thuật cơn hấp hối của Chúa Giê-su ở vườn Ô-liu, nhưng phải nói là thánh nhân cho một sự tham dự trước cơn hấp hối này: khi những người Hy-lạp bày tỏ ước muốn được gặp Chúa Giê-su, thái độ của họ làm Ngài xao động. Lương dân đến với Ngài; Ngài sắp chết cho tất cả họ:“Tâm hồn Thầy xao xuyến…Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này…Bây giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ‘Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!’. Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: ‘Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!’” (Ga 12: 27-28).

  1. Mồ hôi hòa lẫn với máu

“Mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất”. Chi tiết này gây chú ý cho thánh Lu-ca, thầy thuốc. Nó chỉ cho thấy nỗi đau cùng cực của Chúa Giê-su. Mỗi Ki tô hữu tự hỏi chính mình: phải chăng việc thấu hiểu nỗi đau khổ kinh khiếp và cái chết là nguyên nhân duy nhất gây nên nỗi phiền muộn bao la của Đức Giê-su, hay còn có nỗi đau đớn lớn lao do tội lỗi của con người? Ở đây chúng ta đi vào trong mầu nhiệm.

  1. Cầu nguyện không ngừng

Sau khi cầu nguyện, Chúa Giê-su trở lại các môn đệ và Ngài gặp thấy họ đang ngủ. Thánh Lu-ca viết một cách độ lượng: “họ ngủ vì buồn phiền”. Chúa Giê-su lại khuyên họ cầu nguyện, “kẻo sa chước cám dỗ”.

Họ đã không cầu nguyện đủ; họ khó mà cưỡng nỗi chước cám dỗ, và chẳng mấy chốc nữa, tất cả họ sẽ trốn chạy mà bỏ rơi Đức Giê-su. Bên kia các môn đệ, thánh Lu-ca nghĩ đến tất cả những Ki tô hữu.

ĐỨC GIÊ-SU BỊ BẮT (22: 47-53)

Bài tường thuật của thánh Lu-ca không khác mấy với các bài tường thuật khác, ngoại trừ vài sắc thái.

  1. Nụ hôn của Giu-đa

Thánh Lu-ca từ chối ghi lại nụ hôn của Giu-đa bằng những ngôn từ thô thiển; thánh ký chỉ gợi ý: “Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người”; tiếp liền ngay sau đó là lời của Đức Giê-su: “Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?”. Trong khi đó thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô viết: “Rồi hắn hôn Người”; còn thánh Gioan không kể ra nụ hôn của Giu-đa.

Chúa Giê-su gọi đích danh người môn đệ phản bội này nhằm cố ý giúp hắn ý thức về cử chỉ bỉ ổi của hắn; Đức Giê-su xưng mình “Con Người”, tước hiệu mà Ngài đã luôn luôn sử dụng khi tiên báo cuộc Thương Khó của mình, nhằm lay động, nếu có thể, những tâm tư tình cảm của tên phản bội.

  1. Chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế

Tình tiết chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế đều được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Thánh Lu-ca xác định tai bị chém đứt là tai bên phải. Những phần thân thể bên phải được xem là cao cả hơn bên trái. Nhưng chỉ mình thánh Lu-ca tường thuật Chúa Giê-su chữa lành tai của hắn. Đức Giê-su đã cư xử kẻ thù của Ngài như thế đó…Thánh Lu-ca là thầy thuốc, vì thế ông có một tấm lòng nhạy cảm.

  1. Các thượng tế và kỳ mục

Thánh Lu-ca không kể đám đông cầm gậy gộc và gươm giáo. Trái lại, ông lưu ý đến sự hiện diện của các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ cũng như kỳ mục. Việc lãnh binh Đền Thờ có mặt ở đây là chuyện thường tình để điều hành việc bắt giữ. Nhưng những nhân vật vị vọng, như các thượng tế và kỳ mục, đêm hôm lặn lội đi bắt Ngài thì đáng ngạc nhiên. Thánh ký muốn vạch mặt chỉ tên những người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Ki-tô ngay từ giây phút bắt giữ Ngài.

Đức Giê-su vạch ra cho thấy việc ra tay Ngài vào ban đêm là hành động không quang minh chính đại, bởi vì hằng ngày Ngài công khai giảng dạy cho dân chúng trong Đền Thờ; nếu muốn bắt Ngài thì quá dể dàng, cần gì phải lén lút bắt Ngài như vậy. Nhưng cách thức bắt Ngài như thế rõ ràng cho thấy có một sự thông đồng với Giu-đa: “Giu-đa ưng thuận và tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su cho họ, lúc không có đám đông” (Lc 22: 6), trong khi các thượng tế và kỳ mục muốn hoản cuộc bắt giữ cho đến sau ngày lễ, kẻo gây náo loạn trong dân (Mt 26: 5). Thánh Lu-ca còn kể thêm: “Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm”. Chúng ta gặp lại bóng tối của Xa-tan.

THÁNH PHÊ-RÔ CHỐI THẦY (22: 54-62)

“Họ bắt Đức Giê-su”. Chỉ vào lúc này thánh Lu-ca mới kể việc bắt giữ Đức Giê-su, trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đặt việc bắt giữ liền ngay sau Giu-đa ôm hôn Ngài. Thánh Lu-ca muốn chứng tỏ rằng cho đến lúc đó Đức Giê-su tự do, làm chủ biến cố, vạch cho thấy những sai trái của tên phản bội và của những kẻ đến bắt Ngài, ra lệnh cho các môn đệ và chữa lành kẻ bị thương. Tin Mừng Gioan cũng đưa ra một quan điểm như thế, nhưng chỉ cho thấy Đức Giê-su bị trói. Thánh Lu-ca không bao giờ nói việc Đức Giê-su bị trói.

“Họ điệu Người đến nhà vị thượng tế”. Vị thượng tế này không được nêu tên, chắc hẳn là Cai-pha, vị thượng tế đương nhiệm. Chỉ một mình thánh Gioan kể ra việc Chúa Giê-su bị điệu ra trước Kha-nan, vị thượng tế mãn nhiệm, bố vợ của Cai-pha. “Còn thánh Phê-rô thì theo xa xa”; thánh Phê-rô cẩn trọng giữ một khoảng cách nào đó. Tuy nhiên, vào đêm xuân, khí trời thì lạnh. Thánh Phê-rô thấy những người canh gác đã nhóm một bếp lửa giữa sân nên đến gần để sưởi ấm. Dưới ánh lửa bập bùng, thánh nhận dể bị nhận dạng và vì thế ông bị tra hỏi đến ba lần.

Bài tường thuật Lu-ca về việc thánh Phê-rô chối Thầy không khác mấy với các bài tường thuật của các thánh ký khác, tuy nhiên thánh Lu-ca không diễn tả mức độ tăng dần của việc thánh Phê-rô ba lần chối Thầy liên tiếp, nhưng nêu lên cường độ kịch tính một cách đặc biệt bởi cái nhìn gây xúc động của Chúa Giê-su trên vị Tông Đồ, cái nhìn của Ngài khiến thánh Phê-rô xao động. Tiếng gà gáy nhắc cho thánh nhân nhớ lại lời của Chúa Giê-su. Thánh nhân ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.

ĐỨC GIÊ-SU BỊ ĐÁNH ĐẬP (22: 63-65)

Trong khi chờ đợi, Đức Giê-su bị giao lại vào tay những kẻ canh giữ, chúng nhục mạ Ngài và đánh đập Ngài; chúng chế nhạo Đấng đã xưng mình là “ngôn sứ”. Thánh Lu-ca không nhấn mạnh những chi tiết của màn bỉ ổi và đau buồn này; thánh ký tránh kể ra những cái tát tai và những khạt nhổ vào mặt.

PHIÊN TÒA DO THÁI (22: 66-71)

Đức Giê-su cần phải ra trước tòa án Do thái. Giả như Ngài bị giao nộp trực tiếp vào chính quyền Rô-ma, Ngài sẽ bị đồng hóa với những người ái quốc và được hưởng triều thiên tử đạo. Điều quan trọng trước tiên là làm mất uy tín của Ngài trước mắt toàn dân Ít-ra-en.

  1. Thượng Hội Đồng

Thượng Hội Đồng Giê-ru-sa-lem là tòa án tối cao của người Do thái. Giới học giả tranh luận về thẩm quyền của Thượng Hội Đồng này; dù thế nào đi nữa về lãnh vực tôn giáo, ba trường hợp chính buộc phải xét xử ở Thượng Hội Đồng này: thờ ngẫu tượng, một ngôn sứ giả, hay một vị thượng tế phạm một tội danh nào đó. Tước hiệu “ngôn sứ” sẽ là trung tâm của phiên tòa xét xử Đức Giê-su trước Thượng Hội Đồng, trong khi tước hiệu “vua” sẽ là trung tâm của phiên tòa Rô-ma trước quan tổng trấn Phi-la-tô.

Thượng Hội Đồng gồm có bảy mươi thành viên không tính vị thượng tế, người chủ trì Thượng Hội Đồng này; lời tuyên án của Thượng Hội Đồng chỉ có giá trị nếu hội đủ ít nhất hai mươi ba thành viên. Xem ra có nhiều hơn khi Chúa Giê-su bị điều ra trước Thượng Hội Đồng.

  1. Hai tước vị của Ngài

Thánh Lu-ca chỉ tường thuật một phiên tòa Thượng Hội Đồng, phiên tòa xảy ra vào ban ngày. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu gợi lên một phiên tòa trước, phiên tòa xảy ra vào ban đêm. Theo luật, trong trường hợp nghiêm trọng, Thượng Hội Đồng phải nhóm họp hai lần cách nhau khoảng hai mươi bốn tiếng, ngõ hầu những người xét xử có đủ thời gian để suy nghĩ. Phiên tòa thứ hai phải khẳng định hay hủy bỏ quyết định của phiên tòa thứ nhất chứ không có quyền tăng thêm bản án. Thánh ký không trì hoãn ở nơi những hình thức nực cười của phiên tòa mà bản án đã được định sẵn trước rồi; ông muốn hướng sự chú ý đến con người của Đức Giê-su, nơi hai tước vị của Ngài: Đấng Mê-si-a và Con Thiên Chúa. Khác với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca phân biệt rất rõ hai tước vị này, như thánh ký đã làm lần đầu tiên, vào biến cố Truyền Tin. Sự phân biệt này nói lên nỗi bận lòng của một sử gia. Tác giả sách Công Vụ sau này biết rằng khi Giáo Hội được phát triển, nhất là ở môi trường lương dân, tước vị Do thái: “Mê-si-a” được bảo tồn ở nơi tước hiệu Hy-lạp: “Ki-tô”, nhưng điểm nhấn chính được đặt trên tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giê-su, tức là nhận ra Thần Tính của Ngài.

Đối với câu hỏi về tước vị Mê-si-a của Ngài, Đức Giê-su trả lời bằng cách làm cho những người xét xử Ngài hiểu rằng tước vị này không tương hợp chút nào với những gì họ nghĩ: nó không thuộc trần thế, nhưng siêu việt vì “Từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”. Cũng như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca liên kết sấm ngôn Đa-ni-en và Thánh Vịnh 110, cả hai đều loan báo việc con vua Đa-vít sẽ được tôn vinh bên hữu Đức Chúa.

Đối với câu hỏi về tước vị Con Thiên Chúa của Ngài, Đức Giê-su trả lời bằng cách biến đối thủ của Ngài thành người công bố chân lý: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây”. Tại thánh Mác-cô, Đức Giê-su trả lời rõ ràng: “Phải, chính thế”.

  1. Bản án

Thượng Hội Đồng chỉ có thể tuyên án khi dựa vào tối thiểu hai lời chứng ăn khớp với nhau. Thánh Lu-ca để cho hiểu rằng điều kiện này không hội đủ. Sau lời công bố của Đức Giê-su, các thành viên Thượng Hội Đồng gào lên: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!”. Thánh Lu-ca không nói về việc kết án, ông cũng không kể ra lời tuyên án: “Hắn đáng chết!”; thánh ký sẽ không nói ở bất cứ nơi nào rằng Đức Giê-su đã bị kết án, bởi vì lời tuyên án của Thượng Hội Đồng thì bế tắt. Tòa án này đã mất đi quyền thi hành án tử. Chính quyền Rô-ma đã lấy đi quyền này khỏi người Do thái. Vì thế, để có thể giết Ngài, phải tìm thấy một lý do không là tôn giáo nhưng chính trị, vì thế phải cậy nhờ đến quan tổng trấn Rô-ma.

PHIÊN TÒA RÔ-MA (23: 1-5)

Thánh Lu-ca nêu bật việc chuyển biến từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị; thánh ký trích dẫn những lời buộc tội mà các thành viên Thượng Hội Đồng nêu lên để ép buộc Phi-la-tô phải can dự: tên Giê-su này sách động quần chúng phá rối trị an; hắn chống đối việc nộp thuế cho hoàng đế, hơn nữa, hắn còn xưng mình là Đấng Mê-si-a, là Vua nữa.

Phiên tòa tôn giáo dựa trên một nền tảng xác thực nào đó: Đức Giê-su công bố mình vừa là Đấng Mê-si-a vừa là Con Thiên Chúa, đó là những lời phạm thượng dưới quan điểm của những người xét xử Ngài. Phiên tòa chính trị sẽ dựa trên những lời chứng gian. Phi-la-tô khó mà khỏi nghi ngờ, ông sẽ khẳng định sự vô tội của Đức Giê-su đến ba lần (như trong Tin Mừng Gioan).

Quan tổng trấn đặt câu hỏi chủ chốt liền ngay với Đức Giê-su: “Ông là Vua dân Do thái sao?”. Chỉ tham vọng này thôi cũng đủ chính quyền Rô-ma trừng trị nghiêm khắc. Đức Giê-su tránh trả lời trực tiếp; tuy nhiên, câu trả lời của Ngài rõ ràng mang sắc thái khẳng định: “Chính ngài nói đó”, ngầm hiểu: “Tôi là vua, nhưng không theo như cách ngài nghĩ”.

Thánh Lu-ca tóm tắt rất ngắn gọn phiên tòa của Đức Giê-su trước Phi-la-tô; vả lại, thánh ký chia phiên tòa này ra làm hai phần, bởi việc áp giải Đức Giê-su đến trước mặt vua Hê-rô-đê.

Ngay từ cuộc nói chuyện đầu tiên, Phi-la-tô tin rằng những lời buộc tội là vô căn cứ. Các thượng tế liền đáp lại: “Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây”. Địa danh “Ga-li-lê” gợi cho quan tổng trấn một lối thoát. Bởi vì Đức Giê-su là người Ga-li-lê, ông giao lại cho Hê-rô-đê, tiểu vương miền Ga-li-lê. Vào lúc đó, Hê-rô-đê có mặt ở Giê-ru-sa-lem để tham dự lễ Vượt Qua.

ĐỨC GIÊ-SU RA TRƯỚC MẶT VUA HÊ-RÔ-ĐÊ (23: 6-12)

Việc Đức Giê-su ra trước mặt vua Hê-rô-đê là một tình tiết riêng của thánh Lu-ca. Lập luận pháp lý mà Phi-la-tô viện dẫn được các bản văn khẳng định. Chúng ta biết rằng miền Ga-li-lê không có cùng quy chế chính trị như miền Giu-đê. Chính quyền Rô-ma đã để cho miền Ga-li-lê một tiểu vương cai trị, lúc đó là Hê-rô-đê An-ti-pát, một trong những người con của Hê-rô-đê đại đế.

Động cơ duy nhất của Phi-la-tô là làm tròn những yêu sách của luật thì đáng nghi ngờ; vả lại luật không đòi buộc như thế; nhưng chắc chắn ông bằng lòng chia sẻ trách nhiệm về một công việc tinh tế với chính quyền Do thái. Phi-la-tô nắm bắt cơ hội để xoa dịu vị tiểu vương mà quan hệ giữa hai người vốn rất hiềm thù. Thêm nữa, Phi-la-tô hy vọng vị tiểu vương này tìm ra một giải pháp, vì Hê-rô-đê nổi tiếng là một nhân vật xảo quyệt (Đức Giê-su đã gọi vị tiểu vương này là “con cáo già”: Lc 13: 32).

Hê-rô-đê bày tỏ một sự hiếu kỳ không đúng chỗ và hỏi Ngài dồn dập. Với thái độ như thế, Đức Giê-su không thèm trả lời. Bị thương tổn, Hê-rô-đê khinh dể Ngài ra mặt nên ra lệnh cho thị vệ khoác cho Ngài một chiếc áo rực rỡ để chế giễu tham vọng vương quyền của Ngài. Chi tiết này phù hợp với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu khi miêu tả bọn lính tráng khoác cho Đức Giê-su một tấm áo điều mà chế giễu Ngài. Hê-rô-đê không tuyên án, rồi cho giải Ngài lại cho tổng trấn Phi-la-tô. “Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau”. Phải chăng thánh ký thấy ở đây lời tiên báo về sự hòa giải giữa người Do thái và dân ngoại trong những cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi?

ĐỨC GIÊ-SU LẠI RA TRƯỚC PHI-LA-TÔ (23: 13-25)

Đức Giê-su lại bị điệu ra trước Phi-la-tô nhưng không còn có đối thoại nữa giữa tổng trấn và Đức Giê-su. Lối thoát của tấn thảm kịch được diễn ra giữa chính quyền Rô-ma và giai cấp lãnh đạo Do thái; chính ở nơi giai cấp lãnh đạo này mà thánh ký sắp quy những trách nhiệm nặng nề nhất.

Phi-la-tô triệu tập các thượng tế và các thủ lãnh dân chúng; ông cao giọng công bố Đức Giê-su vô tội và tố cáo những lời buộc tội gian trá chống lại Đức Giê-su. Bài tường thuật Lu-ca rất gần với bài tường thuật Gioan. Tuy nhiên, để xoa dịu giai cấp lãnh đạo Do thái, vị tổng trấn loan báo một cách đê hèn rằng ông sẽ ra lệnh trừng trị Ngài cho dù ông vừa mới công bố Ngài vô tội và hứa sẽ thả Ngài. Thánh Lu-ca chỉ kể ra sự nhục hình đòn vọt một cách gợi ý chứ không miêu tả chi tiết. Như thánh Gioan, thánh Lu-ca tách riêng việc đánh đòn mà ý định của nó chỉ nhằm ngăn ngừa, chứ không như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu xem việc đánh đòn như điều kiện tiên quyết của việc đóng đinh trên thập giá.

Nhưng các giai cấp lãnh đạo nhất quyết đòi hỏi án tử của Ngài cho bằng được: “Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi”. Thánh Lu-ca không cung cấp bất kỳ lời giải thích nào về yêu sách này; ông giả sử rằng tập tục này ai cũng biết cả, theo đó vào dịp lễ Vượt Qua, người Do thái yêu cầu phóng thích một tù nhân, chắc chắn để tưởng niệm ngày giải thoát khỏi Ai-cập. Chính quyền Rô-ma thuận theo truyền thống Ít-ra-en.

Trái với thánh Mác-cô (15: 11) và thánh Mát-thêu (27: 20), thánh Lu-ca không kể ra tiếng gào thét của đám đông, cũng như áp lực của các thượng tế trên đám đông, bởi vì thánh ký không làm loãng đi trách nhiệm của dân Ít-ra-en. Còn Phi-la-tô, ông luôn luôn cho rằng  những lời buộc tội là bất công, cuối cùng đành phải nhượng bộ, thả Ba-ra-ba, kẻ bạo động và sát nhân, và trao nộp Đức Giê-su, người vô tội, “theo ý họ muốn”. Thánh Lu-ca không muốn nói rằng Phi-la-tô giao cho các thượng tế tế và các thủ lãnh dân chúng việc hành hình Đức Giê-su, vì đối với người Do thái cuộc hành hình phải là ném đá chứ không đóng đinh vào thập giá, nhưng thánh ký muốn nói rằng cuối cùng, ý muốn của họ đã thắng.

ĐƯỜNG LÊN “ĐỒI SỌ” (23: 26-31)

Bốn bài tường thuật về phần cuối của tấn thảm kịch này rất phù hợp với nhau, ngoài trừ vài tiểu tiết. Cả bốn bài tường thuật đều mực thước, thậm chí ngắn gọn. Đặc biệt thánh Lu-ca theo đuổi ý muốn của mình là không nhấn mạnh những khía cạnh quá bi thương; thánh ký thổi vào những trang Tin Mừng của mình một hơi mát thanh bình như thử để quét sạch mọi điều ghê tởm. Lòng xót thương của Thiên Chúa thống trị trên sự thù hận của con người, lòng sám hối của kẻ gian phi phát xuất từ cái nhìn của anh trên Đức Ki-tô hấp hối, đám đông đến xem thay đổi từ thái độ bàng quang đến đấm ngực ăn năn; Đức Giê-su hơi tàn lực tận cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây nên cái chết của Ngài, hứa cõi đời đời cho tên gian phi hối cải, phó dâng linh hồn trong tay Chúa Cha.

  1. Ông Si-mon thành Ky-rê-nê

“Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-mon, thành Ky-rê-nê, đặt thập giá trên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su”.

Thánh Lu-ca không xác định ai trưng dụng người qua đường này, nhưng cách diễn tả rất gợi ý: “họ đặt thập giá trên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su”. Thánh ký rõ ràng ám chỉ đến những lời của Đức Giê-su: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14: 27). Ông Si-mon thành Ky-rê-nê chắc chắn là một người Ki tô hữu hiện đang sống giữa cộng đoàn Ki tô hữu; dù thế nào, thánh Mác-cô trích dẫn tên của các con ông như những nhân vật rất quen thuộc trong Giáo Hội tiên khởi.

  1. Khóc thương thành Giê-ru-sa-em

“Dân chúng đi theo Người đông lắm”. Chúng ta gặp lại cũng một từ vựng được dùng để chỉ dân chúng thiện cảm này. “Trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc”. Những người phụ nữ này làm chứng về sự vô tội của Đức Giê-su theo cách của họ. Thánh Lu-ca là thánh ký nêu lên nhiều nhất những gương mặt phụ nữ.

“Đức Giê-su quay lại”, tại thánh Lu-ca, cử chỉ này loan báo một sứ điệp quan trọng hay một giây phút quyết định (Lc 14: 25). Lúc đó, Đức Giê-su tiên báo cho các bà cuộc sụp đổ thành thánh Giê-ru-sa-lem sắp đến: “Đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu…”. Tình tiết này, riêng của Lu-ca, song đối với tình tiết mà thánh ký đã đặt vào giây phút Chúa Giê-su chuẩn bị vào thành thánh Giê-ru-sa-lem: khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương thành khi nghĩ đến việc thành bị tàn phá thành bình địa, vì thành đã không nhận biết thời giờ nó được Thiên Chúa viếng thăm (Lc 19: 41-44). Khi ra khỏi thành thánh, Đức Giê-su cũng có những cảm xúc như vậy.

Thánh Lu-ca đặt trên môi miệng Chúa Giê-su ngôn từ của các ngôn sứ: “Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” gợi nhớ những hô ngữ của ngôn sứ I-sai-a và ngôn sứ Da-ca-ri-a; “Vì này đây sẽ tới những ngày” là cách nói rất tâm đắc của ngôn sứ A-mốt và được ngôn sứ Giê-rê-mi-a lấy lại; cách nói này báo trước những tai ương hoạn nạn. “Phúc thay đàn bà hiếm hoi”: Đức Giê-su đã diễn tả cùng tư tưởng với lời tiên báo khác về cuộc sụp đổ thành Giê-ru-sa-lem (Lc 21: 23).

Sau cùng, lời trích dẫn này mượn của ngôn sứ Hô-sê: “Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi!”, lời cầu nguyện khốn cùng này được lấy lại trong sách Khải Huyền để diễn tả sự khủng khiếp của ngày Chung Thẩm.

Chúa Giê-su hoàn tất lời tiên báo của Ngài khi nhắc lại câu cách ngôn: “Cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế (cây không phải bị đốt cháy, ám chỉ đến cái chết bất công của Ngài), thì cây khô héo sẽ ra sao?”. Nói cách khác, nếu người công chính bị đày đọa cho đến chết, thì người ta sẽ cư xử với những tội nhân như thế nào?

KHỔ HÌNH THẬP GIÁ (23: 32-33)

“Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá”. Địa danh này gợi lên một đồi trọc, không cây cối. Nơi hành hình được định vị ngoài thánh thánh. Vùng đất thành thánh, được bao bọc chung quanh, là một khu vực thánh không được xác nạn nhân làm ô uế. Nhưng nơi hành hình này gần cửa thành Giê-ru-sa-lem, vì chính quyền muốn những khách bộ hành trông thấy những nạn nhân hấp hối để răn đe.

Trên đồi hành hình, Chúa Giê-su bị đóng đinh giữa hai tên gian phi. Sự kiện được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Sự nhục nhã càng tăng thêm đối với Đức Giê-su, nhưng đó là số phận mà Thiên Chúa dành cho người tôi trung thập toàn của Ngài “bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53: 12). Trên đường từ Bữa Tiệc Ly đến vườn Ô-liu, Đức Giê-su đã nhắc lại sấm ngôn này cho các môn đệ Ngài: “Cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh này” (Lc 22: 37).

LÒNG XÓT THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA (23: 34-43)

 “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.

Thánh Lu-ca là vị thánh ký duy nhất truyền đạt cho chúng ta lời khẩn nguyện của Đức Giê-su cho các lý hình, và cho tất cả những ai đã nhúng tay vào cái chết của Ngài.

  1. Lời khẩn nguyện

Toàn bộ Tin Mừng Lu-ca chuẩn bị cho lời cầu nguyện cao cả về sự tha thứ này. Thánh Lu-ca đã không giữ lại tiếng kêu thống thiết của Đức Giê-su: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”, tiếng kêu bi thương xuất phát từ nỗi cô độc cùng cực. Thánh ký chuộng nêu lên lời khẩn cầu đầy lòng xót thương. Đức Giê-su đã dạy hãy yêu thương kẻ thù và Ngài bảo chúng ta đọc trong Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cùng tha kẻ có nợ chúng con”. Đức Giê-su dâng hiến một mẫu gương cho các người Ki tô hữu và đặc biệt cho Các Thánh Tử Đạo (x. Cv 7: 60).

Đối diện với tình yêu và sự tha thứ, thánh Lu-ca phác họa sự thù hận và lòng căm thù. Những chi tiết mà họ phô bày không là giai thoại; chúng ta đọc thấy ẩn hiện ở nơi những bản văn ngôn sứ : Dcr 12: 10: “Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu”, và Tv 22, lời cầu nguyện dài của người công chính chịu đau khổ trong đó chúng ta đọc thấy: “Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (Tv 22: 17-19).

  1. Dân chúng đứng nhìn

Thánh Lu-ca đã không nói đến dân chúng vào lúc xét xử Chúa Giê-su; bây giờ thánh ký giới thiệu họ trên Đồi Sọ, trong thái độ tôn kính và trung thành. Thánh Lu-ca không nói đám đông (plethos), nhưng dân chúng (laos); có một dị biệt tinh tế giữa hai từ vựng này. Qua từ vựng “dân chúng” thường có hậu ý Giáo Hội, thánh ký mời gọi dân Thiên Chúa chiêm ngắm mầu nhiệm thập giá.

Thánh Lu-ca đối lập thái độ dân chúng với thái độ của những giai cấp lãnh đạo, họ cười nhạo và đắc thắng (thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô còn thêm những người qua đường).

  1. Binh lính cũng chế nhạo Người

 Lần đầu tiên thánh Lu-ca nói về binh lính Rô-ma và những lời chế giễu của họ; thánh ký đã không gợi lên mũ gai và trò bỉ ổi của họ. Những binh lính đưa giấm cho Đức Giê-su uống; sự kiện được cả bốn Tin Mừng tường thuật, đặc biệt ở Tin Mừng Gioan cử chỉ này được giải thích rõ hơn: Đức Giê-su vừa nói: “Ta khát”.

Bọn lính làm như vậy một cách vô tình mà không biết bản văn ngôn sứ. Quả thật, người ta đọc thấy ở thánh vịnh 69 lời phàn nàn của một người công chính, nạn nhân vì lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa: “Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời. Nỗi sầu riêng, mong người chia sớt, luống công chờ, không được một ai; đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu! Thay vì đồ ăn , chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69: 21-22).

  1. Vua dân Do thái

Một tấm bảng viết “vua dân Do thái” được treo trên đỉnh thập giá. Sự kiện được cả bốn thánh ký ghi nhận. Thánh Gioan xác định rằng nó đã được Phi-la-tô ra lệnh viết. Quan tổng trấn Rô-ma biết rõ rằng tước hiệu này chỉ là cái cớ; nhưng để biện minh cho bản án tử hình, trong bản báo cáo của ông trình lên hoàng đế, tội khi quân rõ ràng phải đặt lên hàng đầu.

  1. Người gian phi sám hối

Tình tiết này riêng của thánh Lu-ca. Đức Giê-su thực hiện sứ mạng đầy lòng xót thương của Ngài cho đến giây phút sau cùng. Tấm lòng khiêm hạ của hối nhân được đáp trả bởi ân ban soi sáng. Người gian phi nhận ra ở nơi Đức Giê-su tước vị Mê-si-a vương đế của Ngài. Lời khẩn cầu của hối nhân này: “Xin nhớ đến tôi” là lời mở đầu kinh nguyện Do thái của những người hấp hối: “Lạy Đức Chúa, xin nhớ đến tôi”.

Đức Giê-su trả lời cho anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Lời khẳng định của Đức Giê-su rất trang trọng: “Tôi bảo thật anh” thánh Lu-ca hiếm khi sử dùng cách nói này.. Từ ngữ “hôm nay” tại Tin Mừng Lu-ca luôn luôn được liên kết với ý tưởng cứu độ.

Trong niềm tin Do thái giáo, “Thiên Đàng” gợi lên một chốn bồng lai cực lạc ở đó những người công chính sau khi qua đời chờ đợi sự phục sinh; từ này được hoán chuyển với cách nói: “vào lòng ông Áp-ra-ham” mà thánh Lu-ca gợi lên trong dụ ngôn người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ: “Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham” (Lc 16: 22).

Đức Giê-su cho người gian phi sám hối hiểu rằng từ nay chính Ngài đón tiếp những người công chính và đưa họ vào “Thiên Đàng”. Thánh Lu-ca không tìm cách xác định giây phút Đức Giê-su phục sinh, khi định vị biến cố này ngay sau cái chết của Đức Giê-su. Không ai biết chính xác giây phút Đức Giê-su phục Sinh, đừng nhầm lẫn với giây phút khám phá ngôi mộ trống (giữa cái chết của Đức Giê-su và việc các người phụ nữ đến viếng mộ, ngày sa-bát đã trôi qua).

Nhưng thánh Lu-ca ghi lại bài tường thuật của mình theo những viễn cảnh Ki-tô giáo. Đừng quên rằng thánh ký vừa là môn đệ vừa là bạn đồng hành của thánh Phao-lô. Đoạn Tin Mừng này gặp lại tư tưởng của vị Tông Đồ, được diễn tả trong thư gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê (Pl 1: 21-23), cũng như trong thư thứ hai gửi cho ông Ti-mô-thê (2Tm 4: 8): người Ki tô hữu qua đời được đoàn tụ với Đức Ki-tô. Trong sách Công Vụ, thánh ký sẽ cho thấy rằng thánh Tê-pha-nô, ngay từ trước khi bị ném đá, “thấy trời mở ra” (Cv 7: 56).

CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊ-SU (23: 44-49)

“Bây giờ đã gần tới giờ thứ sáu (tức mười hai giờ trưa), thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất”. Không loại trừ bầu trời thường trở nên âm u vào mùa xuân, nhưng việc gợi lên trước tiên là Kinh Thánh: những dấu chỉ vũ trụ loan báo hay thường đi theo những cuộc can thiệp của Thiên Chúa vào Lịch Sử (x. Xh 10: 22; vân vân). Các ngôn sứ đã biến các dấu chỉ này thành nét đặc trưng của ngày tận thế, ví dụ như Am 8: 9-10: “Trong ngày ấy, Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng….Ta sẽ làm cho đất này chịu tang như người ta chịu tang đứa con một”. Cái chết của Đức Giê-su khai mở kỷ nguyên cánh chung, nghĩa là kỷ nguyên phán xét; từ nay kỷ nguyên này sẽ được đặt dưới dấu chỉ trung gian của Ngài.

  1. Bức màn trướng trong Đền Thờ

Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất đặt việc “bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa” trước cái chết của Đức Giê-su. Bức màn trướng này, hoặc bức màn người ta giăng trước tiền đường để che phần bên trong Đền Thờ khỏi những người ở trên sân tiền đình, hay bức màn trướng phân cách phần còn lại của Đền Thờ với Nơi Cực Thánh ở đó chỉ vị thượng tế mới có thể đi vào, mỗi năm một lần, để thực hiện nghi thức xóa tội. Xem ra bức màn trướng này mà thánh Lu-ca nghĩ đến, khi nối tiếp tác giả thư gửi cho các tín hữu Do thái: nhờ máu Ngài đã đổ ra, Đức Giê-su khai mở cho nhân loại lối vào bên Thiên Chúa trong cung thánh trên trời (Dt 10: 19-20).

Dù thế nào, biểu tượng thì rõ ràng. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã không còn đóng vai trò của mình; việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn ưu tiên cho dân Ít-ra-en; nó được dâng hiến cho hết mọi người. Đền Thờ đích thật của Thiên Chúa sẽ là thân thể của Đức Giê-su Phục Sinh, như chính Ngài đã loan báo.

  1. Lời cầu nguyện cuối cùng

“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Tại thánh Lu-ca, cuộc đời của Đức Giê-su được hoàn tất trên lời cầu nguyện, trong khi thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô ghi nhận “một tiếng kêu lớn” của Đức Giê-su hấp hối, còn thánh Gioan đặt trên môi miệng của Đức Giê-su như những lời sau cùng: “Thế là đã hoàn tất!”, nhưng thánh Gioan nói thêm khi nối kết với thánh Lu-ca: “Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”.

Lời cầu nguyện này được trích từ Tv 31 ở trong số kinh nguyện truyền thống ban chiều. Chúa Giê-su thân thưa với Cha Ngài, nhưng lời cầu nguyện hấp hối của Ngài cũng định vị Ngài vào trong sự hiệp nhất với dân Ngài.

  1. Lời chứng của viên bách quản

Viên bách quản Rô-ma, đứng canh dưới chân thập giá, “cất tiếng tung vinh Thiên Chúa” : “Người này đích thật là người công chính”. Lời chứng của viên bách quản được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm kể lại, với vài biến thể; cách diễn tả của Lu-ca xem ra gần với sự thật nhất; viên bách quản nhận ra sự vô tội của Đức Giê-su. Tiếng reo vui của viên bách quản là lời tôn kính đầu tiên mà lương dân tỏ bày cho Đức Ki-tô; lời này loan báo chiều kích ơn cứu độ phổ quát, đồng nghĩa với việc tấm màn trướng trong Đền Thờ bị xé ra làm hai.

  1. Thái độ dân chúng

“Toàn thể dân chúng đã đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về”. Đây là cử chỉ tang chế, nhưng cũng là nghi thức ăn năn, dấu chỉ sám hối. Chỉ một mình thánh Lu-ca cho dân chúng thái độ này.

  1. Những người thân quen

Thánh Lu-ca cũng là thánh ký duy nhất kể ra sự hiện diện của những người thân quen: “Đứng đằng xa, có những người quen biết Đức Giê-su”. Thật ra, thánh ký nhạy bén trước tất cả những gì có thể làm giảm bớt những đau khổ của Đức Giê-su.

“Đứng đàng xa”: ngôn từ có âm hưởng Kinh Thánh khiến chúng ta nghĩ đến Tv 38, thánh vịnh này gợi lên nỗi cô độc của người tôi trung trong cảnh khốn cùng: “Con bị tai ương, người thân kẻ nghĩa chẳng tới gần, bà con ruột thịt cũng đứng xa” (Tv 38: 12).

  1. Những phụ nữ xứ Ga-li-lê

Thánh Lu-ca không quên kể ra sự hiện diện của những người phụ nữ xứ Ga-li-lê trên Đồi Sọ. Những người phụ nữ này đã luôn luôn đồng hành với Đức Giê-su, đã lấy của cải của mình mà giúp đỡ Ngài (Lc 8: 2-3).

MAI TÁNG ĐỨC GIÊ-SU (23: 50-56)

Theo phong tục tập quán Rô-ma, để việc răn đe có tác dụng, phải phơi bày thi thể của nạn nhân trong nhiều ngày. Luật Do thái thì hoàn toàn khác: không được để mặt trời lận trên xác chết của nạn nhân, nhưng phải chôn cất trước khi đêm xuống (Đnl 21: 22). Ngoài ra, buổi chiều hôm đó lại là ngày sa-bát, ngày người ta phải kiêng cử mọi công việc. Vì thế, phải vội vả chôn cất ngay kẻo không kịp.

  1. Ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê

“Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng”. Thánh Mát-thêu nói với chúng ta, “ông là một người giàu sang”; còn thánh Mác-cô nói ông là “thành viên có thế giá của hội đồng”; trong khi Lu-ca lại nói ông là “một người lương thiện, công chính”, thánh ký thích đặt ưu tiên những giá trị luân lý. Với tư cách thành viên của Thượng Hội Đồng, “ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng”. Đây là điều chỉ dẫn quý báu: vì thế việc kết án Đức Giê-su không được mọi thành viên đồng thuận. Ông xuất thân từ A-ri-ma-thê, một thành phố duyên hải xứ Giu-đê. Ông định cư ở Giê-ru-sa-lem và đã cho đục ngôi mộ trong núi đá, ở một thuở vườn (Ga 19: 40) bên cạnh Đồi Sọ.

  1. Cuộc mai táng Đức Giê-su

Người môn đệ kín đáo này can đảm đến xin Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống khỏi thập giá để mai táng. Phi-la-tô chấp thuận theo luật Do thái, có lẽ vì ông quan niệm rằng nhập gia tùy tục; hơn nữa ông tin rằng Đức Giê-su vô tội.

Như vậy, Đức Giê-su, khi còn ấu thơ, đã được ẳm trong tay cụ già Si-mê-ôn, “một người công chính và sùng đạo”, “ông những mong chờ niềm an ủi của dân Ít-ra-en” (Lc 2: 25); bây giờ, khi chết, được ẳm trong tay ông Giô-xếp, “một người lương thiện công chính”, “ông vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa”.

“Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào trong ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ”. Hoa trái đầu mùa không phải thuộc về Thiên Chúa sao?

  1. Ánh sáng Giê-ru-sa-lem

“Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng”. Trong Tin Mừng Lu-ca, có những yếu tố khó lường mà tác giả giải thích với một độ nhạy bén gần với độ nhạy bén của thánh Gioan. Vào lúc Đức Giê-su được đặt vào ngôi mộ, mọi nhà trong thành thánh Giê-ru-sa-lem bắt đầu lên đèn. Nét đặc trưng này nêu bật tính xác thực lịch sử hơn cái ý nhị của lời văn, nhưng nhất là nó có giá trị dấu chỉ. Khi Đức Giê-su bị bắt, Ngài tuyên bố: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22: 53). Khi Đức Giê-su chết, bây giờ là những tia sáng đầu tiên, tia sáng của ơn cứu độ, tia sáng hy vọng, những điềm báo cho vầng sáng phục sinh.

  1. Những người phụ nữ trung thành

Phận sự của các bà là chuẩn bị dầu và thuốc thơm để chăm lo thân xác của Ngài. Vì thế, những người phụ nữ xứ Ga-li-lê theo chân Đức Giê-su này để ý đến nơi đặt thi thể Ngài trong ngôi mộ; họ sẽ trở lại sau ngày sa-bát, thực hiện công việc đạo đức của họ. Trong khi chờ đợi, họ tuân giữ ngày hưu lễ.

  1. Ngày sa-bát, ngày hưu lễ

Thánh Lu-ca chấm dứt bài tường thuật của mình trên viễn cảnh của ngày hưu lễ. Chắc chắn mọi công việc phải ngừng lại đó là lý do giải thích tại sao những nghi thức tang chế còn dang dỡ, và vì thế các bà vội vả đến mồ khi trời vừa tảng sáng. Nhưng thánh Lu-ca kín đáo gợi ý rằng Đức Giê-su đã bước vào nơi an nghỉ, vì thế việc mai táng Ngài vào lúc sắp bắt đầu ngày sa-bát mặc một ý nghĩa. Ngay từ đầu, sau khi hoàn tất công trình sáng tạo của Ngài, Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Công trình của Đức Giê-su không phải là một cuộc tạo dựng mới sao? Công trình này được hoàn tất. Chúa Giê-su vào nơi an nghỉ của Thiên Chúa, giai đoạn mầu nhiệm trước khi Ngài phục sinh.

BA TẤN THẢM KỊCH

Ba tấn thảm kịch chồng chéo lên nhau trong cuộc Thương Khó của Đức Giê-su: trước hết, tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối, rồi đến tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người, sau cùng tấn thảm kịch của tội lỗi.

  1. Dân Ít-ra-en từ chối

Đức Giê-su đã không ngừng công bố một sứ điệp khó khăn; Ngài đã phá đổ những thành kiến, lên án chủ nghĩa duy luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, đoạn sự thù hận đã liên kết với nhau chống lại Ngài. Những người lãnh đạo tôn giáo đã không chấp nhận nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, vì Ngài không đáp ứng hình ảnh mà họ tự mình tưởng nghĩ ra. Việc họ kiên tâm tiêu diệt Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ suy tính: Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết, nhưng do việc làm của họ, dân Ít-ra-en, dân được ký thác Lời Hứa, đã thôi không còn nữa.

  1. Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người

Khi đón nhận kiếp phàm nhân như chúng ta, Đức Giê-su đã chấp nhận thân phận tử biệt sinh ly của chúng ta. Ngài đã đảm nhận vận mệnh con người trong mọi chiều kích đau khổ khủng khiếp. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến Ngài phải hứng chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài sống. Số phận này ở trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18-19). Đây là cử chỉ yêu thương tận mức, Đức Giê-su đã muốn thuộc vào số những người bị tra tấn, những người bị hành hình, những người tử đạo, ngỏ hầu những ai phải chết trong những đau đớn cùng cực nhất, và những ai phải chịu đau khổ về thể lý cũng như luân lý, đều gặp thấy ở nơi cuộc Thương Khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Cũng phải ghi nhận rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có muôn vàn ân phúc. Ở đâu có những đau khổ được liên kết với Ngài, ở đó Ngài sẽ ban muôn vàn ân sủng.

  1. Tấn thảm kịch của tội lỗi

“Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Đức Giê-su cho cái chết của Ngài ý nghĩa này.

Tuy nhiên, lời này đưa chúng ta vào mầu nhiệm: “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc”. “Người cứu chuộc” (goel) là người phục hồi phẩm giá cho một thành viên trong gia tộc phải lâm vào cảnh bần cùng, và chuộc lại nếu người ấy phải sa vào vòng nô lệ vì nợ nần. Đây là ý nghĩa đặc biệt của từ Hy-bá mà chúng ta dịch “Đấng Cứu Chuộc”.

Dù được Kinh Thánh soi sáng, biết bao vấn đề gợi lên trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Thiên Chúa rất mực tốt lành, Thiên Chúa-Tình Yêu, Ngài đã không muốn nhân loại một mình phải gánh chịu mọi hậu quả tội lỗi của mình. Ngài đã sai Con Ngài đến để chia sẻ gánh nặng tội lỗi và xóa đi mọi vết nhơ của tội. Đó là lý do tại sao Thánh Giá là “vinh quang” của Thiên Chúa, như thánh Gioan nói.

Về mục lục

.

KẺ THÙ CÓ SỈ NHỤC, ĐỪNG ĐỂ BỤNG:

MỘT CON ĐƯỜNG SÁM HỐI

Lm. Bosco Dương Trung Tín

  “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn; giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50,6)

  Đây là bài ca thứ tư của người tôi tớ đau khổ. Đau khổ vì bị người ta đánh đòn; đau khổ vì bị người ta giật râu; đau khổ vì bị mắng nhiếc, phỉ nhổ. Dù vậy, “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ Tôi, vì thế Tôi đã không hổ thẹn; vì thế Tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” (x. Is 50,7).

  Người tôi trung đau khổ đó chính là Đức Giê-su Ki-tô. “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất thiết duy trì, địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 6-9).

  Nói cách khác, Đức Giê-su đã tự hạ mình, xuống thế làm người và chấp nhận để người ta đánh đòn, giật râu, mắng nhiếc, phỉ nhổ trong cuộc thương khó, để đem lại ơn cứu độ cho con người.

  Còn con người chúng ta, không được như Đức Giê-su, nhưng trong cuộc sống, dù ta không làm gì sai, không làm hại đến người ta, nhưng người ta lại chơi xấu; lại nói xấu, lại vu khống, lại “ném đá”, lại mắng nhiếc, lại sỉ nhục ta. Theo thánh Gio-an Kim Khẩu thì nếu: “Kẻ thù có sỉ nhục chúng ta, chúng ta đừng để bụng, hãy chế ngự tính giận hờn; hãy tha thứ tội lỗi cho anh em và như thế, chúng ta có xúc phạm đến Chúa điều gì, Người cũng sẽ thứ tha. Đó là cách thứ hai để tẩy sạch tội lỗi. Chúa nói: Thậy vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng tha thứ cho anh em”.

  Như vậy thì: nếu người ta có chơi xấu; có nói xấu, có vu khống, có “ném đá”, có mắng nhiếc, có sỉ nhục ta, thì ta đừng để bụng và hãy tha thứ cho họ. “Đừng để bụng và hãy tha thứ”, nghe đơn giản nhưng không dễ mà thực hành được. Thực vậy, đối với con người yếu đuối và giới hạn, tự sức ta, ta không thể làm được được đâu. Nhưng noi gương Đức Giê-su trong cuộc thương khó của Ngài và nhờ ơn Chúa giúp, ta có thể chiến thắng con người của mình mà cố gắng thực hiện.

  Với lý do là nếu ta có tha cho người ta thì Chúa mới tha cho ta. Nếu ta có xúc phạm đến Chúa điều gì Chúa sẽ tha thứ cho ta. Điều này không tốt hơn cho ta sao ! Nếu ta cứ khư khư để bụng, không tha thứ thì ta được gì? Thứ nhất, ta sẽ làm hại chính mình; làm hại cho thân xác cũng như làm hại cho linh hồn. Về phần xác, con người của ta sẽ buồn rầu, tức tối; ăn không ngon, ngủ không yên. Về phần hồn, thì ta sẽ không được Chúa thứ tha. Có phải là ta mất cả chì lẫn chài không.

  Nếu ta không để bụng và tha thứ, thì ta sẽ lợi được đôi đàng, “nhất cử lưỡng tiện”. Một đàng thân xác ta sẽ được thoải mái; đầu óc không phải suy nghĩ; một đàng ta được Chúa tha thứ. Con người mà, đâu có ai hoàn hảo và thánh thiện đâu; ngay cả chính bản thân của ta cũng thế thôi, ta đâu có hơn gì họ đâu. Thế thì ta để bụng làm gì cho nặng bụng; cho to bụng, cho xấu người đi. Để những thứ đó trong bụng chỉ làm cho ta thêm xấu bụng mà thôi. Ta hãy cho nó ra ngoài.

  Ta hãy bắt chước thân xác của ta. Những gì tốt cho cơ thể sẽ được cơ thể hấp thụ, đưa vào máu và đi nuôi cơ thể; còn những gì xấu, có hại cho cơ thể hay chất thải sẽ bị thải ra ngoài tức thì hay mỗi ngày. Ta cũng hãy làm như vậy cho linh hồn của ta.Hãy thải ngay lập tức hay thải mỗi ngày những gì người ta chơi xấu; những lời nói xấu, những vu khống, những “ném đá”, những mắng nhiếc, những sỉ nhục ta đi. Ta mà giữ những thứ đó lại trong bụng, trong đầu, trong tâm thì chỉ gây hại cho con người của ta mà thôi.

  Đó cũng là một cách ăn năn sám hối đấy.

  Tôi đã theo thánh Gio-an Kim Khẩu, trong các Chúa Nhật Mùa Chay năm nay, khai triển năm con đường ăn năn sám hối. Đó là: thứ nhất lên án tội mình (Chúa Nhật V Mùa Chay); thứ hai tha thứ lỗi lầm cho người thân cận (Chúa Nhật Lễ Lá); thứ ba là cầu nguyện (Chúa Nhật II Mùa Chay); thứ bốn là làm phúc bố thí (Chúa Nhật III Mùa Chay) và thứ năm là ăn ở khiêm nhường (Chúa Nhật I Mùa Chay).

  Thánh Kim Khẩu giải thích tiếp như sau: “Bạn đừng có thụ động, nhưng ngày nào cũng phải dùng tất cả những phương thế trên đây mà tiến lên. Vì lẽ đây là những phương thế dễ theo và bạn cũng không thể viện cớ là nghèo. Dầu bạn có nghèo lắm đi nữa, bạn vẫm có thể dẹp bỏ thói giận hờn; sống khiêm tốn; chuyên cần cầu nguyện; lên án tội lỗi và cảnh nghèo đâu có gây trở ngại nào cho bạn. Tôi nói gì nữa đây, bởi vì khi chúng ta theo cách sám hồi trong đó cần phải cho tiền (nghĩa là làm phúc bố thí), thì ngay cả cảnh nghèo cũng không cản trở chúng ta thi hành mệnh lệnh kia. Bà góa bỏ hai đồng tiền kẽm vào thùng đã chứng thực điều đó.

  Vậy khi chúng ta đã học được cách chữa lành thương tích, chúng ta hãy sử dụng các phương dược đó, để sau khi sức khỏe được hồi phục thực sự, chúng ta sẽ mạnh dạn đến hưởng tiệc thánh, sẽ được vinh dự lớn lao là đi nghênh đón Vua Ki-tô vinh hiển và mãi mãi chúng ta được phúc lộc vĩnh cửu nhờ ân sủng và lòng từ bi nhân hậu của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (Trích bài đọc 2, Kinh Sách CN 21 QN).

  Chúng ta hãy tin điều đó, vì điều đó đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô trong cuộc đời dương thế của Ngài, cũng như trong cuộc thương khó của Ngài, mà chúng ta đang cử hành, khi bắt đầu vào tuần thánh. Và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua.

  Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã đưa lưng cho người ta đánh đòn; giơ má cho người ta giật râu; đã không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ Ngài, vì thế Ngài đã không hổ thẹn; vì thế Ngài trơ mặt ra như đá. Ngài biết mình sẽ không phải thẹn thùng.

  Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất thiết duy trì, địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trỗi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.

  Chúng ta cũng hãy làm như vậy. Nếu người ta có chơi xấu; có nói xấu, có vu khống, có “ném đá”, có mắng nhiếc, có sỉ nhục ta, thì ta đừng để bụng và hãy tha thứ cho họ. Vì Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ ta, vì thế ta sẽ không hổ thẹn; vì thế ta sẽ trơ mặt ra như đá. Ta biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Và chính vì thế Thiên Chúa sẽ siêu tôn ta và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu đấy.

  Ta hãy thực hành 5 con đường ăn năn sám hối đó, để cùng vào thánh thánh Giê-ru-sa-lem với Đức Giê-su Ki-tô; cùng vào tuần thánh với Giáo Hội và cùng phục sinh với Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

Về mục lục

.

LẬT MẶT NHƯ TRỞ BÀN TAY

Lam Thy

Tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ là Tuần Thánh. Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó, trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Giáo hội có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Quả thật có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giê-su và mời gọi con cái mình bước theo Thầy Chí Thánh.

Trước hết, Chúa nhật Lễ Lá phản ánh trung thực tâm trạng dân chúng Do Thái và nói chung là của con người trần thế: Vừa mới hoan hô, chúc tụng Chúa Giê-su rất nồng nhiệt, bằng những lời lẽ tưởng chừng như chân thành nhất (“Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!” – Mt 21, 9); vậy mà chỉ mấy ngày sau, cũng chính những người hoan hô ấy lại hò reo: “Đóng đinh nó vào thập giá!” Thậm chí khi Tổng trấn Phi-la-tô thấy không cứu vãn được tình thế, đã lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!”, thì đám đông còn gào thét như thách thức: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27, 24-25).

Đám đông dân chúng thì như vậy, nhưng còn những môn đệ ở liền bên với Đức Ki-tô thì sao? Các ngài đi theo Đức Ki-tô vì tin tưởng Người chính là vị cứu tinh cho cuộc đời của mình và các ngài luôn sẵn sàng tuyên xưng niềm tin ấy. Cụ thể như Phê-rô khi nghe Đức Ki-tô hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”, thì tuyên xưng liền: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16) và khi nghe Thầy tiên báo sẽ chối Thầy, thì ngay lập tức khẳng định chắc nịch: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”. Thực ra, cũng không chỉ có một mình Phê-rô đâu, mà “Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (Mt 26, 35). Như thế thì chẳng phải là ca tụng, tung hô đó sao? Nhưng đến khi Thầy gặp nạn, thì “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26, 56), còn Phê-rô thì lẽo đẽo theo sau và chỉ cần một tớ gái nhà Cai-pha vặn hỏi đã vội vàng “Tôi thề là không biết người ấy” (Mt 26, 74) tới 3 lần. Ấy là chưa kể Giu-đa It-ca-ri-ốt đã bán Thầy cho quân dữ để lấy 30 đồng bạc. Bán Thầy, bỏ trốn hết, chối Thầy như vậy thì có khác gì đả đảo?

Thánh Phê-rô tuy có chối Thầy 3 lần trong một đêm, nhưng khi “sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.” (Mt 26, 75). Còn Giu-đa It-ca-ri-ốt thì sao? Cùng ở trong nhóm 12 với các môn đệ được coi là thân tín nhất của Đức Giê-su, thì hẳn nhiên Giu-đa cũng tin tưởng và tung hô Thầy như các môn đệ khác (“Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!” – Lc 19, 37-38). Ngay cả khi Đức Giê-su tiên báo có môn đệ sẽ nộp Người cho quân dữ, các môn đệ xôn xao thắc mắc không biết đó là ai, thì Giu-đa cũng vẫn thản nhiên hỏi: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” Cho đến lúc “Đức Giê-su trả lời: “Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy.” Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. Y vừa ăn xong miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào y.” (Ga 13, 26-27), và thế là Giu-đa trở thành công cụ của Xa-tan bán Thầy lấy 30 đồng bạc! Cuối cùng lại phạm thêm một tội tày trời: Huỷ diệt công trình tạo dựng của Thiên Chúa (thắt cổ tự tử).

Thánh Phê-rô và Giu-đa chỉ là 2 nhân vật nổi cộm nêu bật hai chiều kích mâu thuẫn, đối nghịch nhau trong cùng một con người. Đến như đám đông người Do Thái khi đón tiếp Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem (kể cả những người đồng hương với Chúa khi đón tiếp Người về thăm Na-da-ret) còn tệ hại hơn nhiều. Ngày xưa thì như thế, còn ngày nay hẳn là còn hơn thế nữa là cái chắc. Ở Việt Nam tuy có gần 130.000 người chấp nhận cái chết chớ không chịu đả đảo Ki-tô (bước qua, đạp lên thánh giá, bỏ đạo), nhưng con số người sẵn sàng đạp lên thánh giá (chớ đừng nói chỉ bước qua), sẵn sàng gỡ bỏ bàn thờ để chưng hình lãnh tụ (đả đảo Giê-su, hoan hô lãnh tụ), sẵn sàng ghi vào sơ yếu lý lịch là “không tôn giáo”… thì không hiểu còn đông gấp bao nhiêu lần?

“Tình đời đổi trắng thay đen” chẳng khác gì cảnh “lật mặt như trở bàn tay”. Ôi chao! “Còn bạc còn tiền, còn đệ tử. Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi.” (xc “Thế thái nhân tình” – Nguyễn Bỉnh Khiêm); “Suy ra cho kỹ, chi hơn nữa. Bạc quá vôi, mà mỏng quá mây” (xc Nguyễn Công Trứ  trong cùng tiêu đề thơ vịnh “Thế thái nhân tình”). Đám người vừa mới “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, thì ngay sau đó “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” (Lc 4, 28-30). Vừa mới hôm trước “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời”, hôm sau đã “Đóng đinh nó vào thập giá! … Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!”. Cảnh tượng đó nào có khác chi những kẻ “thay lòng đổi dạ” nhanh như chớp. Thật đúng là “Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không đao!” (“Kiều” – Nguyễn Du).

Đã có phản biện: Ngày xưa vì Đức Giê-su là Thiên-Chúa-làm-người – là một nhân vật bằng xương bằng thịt như bao người khác – nên mới có vụ hoan hô, đả đảo. Còn ngày nay thì đâu có một ông Giê-su Na-da-ret để mà hoan hô, đả đảo, đóng đinh vào thập giá. Để trả lời vấn nạn trên, xin nhấn mạnh ở đây: Vấn đề đả đảo, đóng đinh Chúa, không nhất thiết là cứ phải thật sự trực tiếp bắt trói Chúa, cầm búa đóng đinh vào tay chân Chúa đâu. Ngày nay cũng chẳng có cái vụ bắt bước qua hoặc đạp lên thánh giá, mà hình thức bách hại đạo còn tinh vi, khủng khiếp hơn nhiều. Ngay đến cả những người bề ngoài thì rất siêng năng đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, nhưng chỉ cần một người nghèo khó (một hành khất, chẳng hạn) đến “quấy rầy”, thì ngay lập tức “Không có gì hết! Cút đi chỗ khác!” Than ôi! “Ngày xưa Ta khát…, Ta đói…, Ta trần truồng… ” thì ngươi đã đối xử như vậy đó! Vậy thì ai hoan hô, ai đả đảo? Hoan hô và đả đảo ai vậy? Cứ thử gẫm suy cho thấu đáo mà xem, có đúng là chúng ta gây chia rẽ, bất hoà với anh em nhiều hơn là xây dựng, đoàn kết nhau không? Có phải là chúng ta đố kỵ ghen ghét nhiều hơn là yêu thương đùm bọc nhau không? Những cái mà chúng ta cư xử với anh em như vậy chẳng phải là chúng ta đã làm cho Chúa đấy sao? Vấn đề chính là ở chỗ đó.

Đối với con người thì chuyện thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen chỉ là “chuyện thường ngày ở huyện”. Vấn đề đặt ra là khi được ơn soi sáng thì có biết ăn năn hối cải hay không mà thôi. Nếu chỉ là hối hận thì Giu-đa It-ca-ri-ốt và đám đông người Do Thái đã biểu hiện (“Bấy giờ, Giu-đa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận… ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ.” – Mt 27, 3-5; “Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính!” Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.” – Lc 23, 47-48). Đến như thánh Phê-rô mới là thực lòng ăn năn hối cải (Từ nguyên – Hối: cảm thấy nuối tiếc và băn khoăn, day dứt vì đã trót làm điều lầm lỗi; Cải: đổi khác đi). Vì thế, “sám hối” không thôi thì chưa đủ, mà còn cần “canh tân” nữa, và đó cũng chính là chủ đích của mùa Chay Thánh. Vâng, “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12, 20), “anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em” (Ep 4, 23).

Xin hãy noi gương tảng đá góc tường Phê-rô khi nhìn lại mình đã thực sự ăn năn hối cải, để rồi cùng với các Tông đồ tiên khởi hiệp ý cùng Mẹ Maria khẩn thiết cầu nguyện (“Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-lip-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-mon thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giê-su.” – Cv 1, 13-14). Người Ki-tô hữu hãy cầu nguyện xin ơn soi sáng để nhìn rõ hình ảnh Thiên Chúa nơi người anh em, từ đó sống với nhau trong một sự hiệp thông liên kết như các chi thể của cùng một thân mình. Nói cách khác, “Các tín hữu Ki-tô chúng ta theo gương các Tông Đồ và nhìn thấy qua sự kiện có thể chia sẻ thiện ích của chúng ta với người khác là một chứng tá cụ thể về tình hiệp thông mà chúng ta sống trong Giáo Hội.” (Sứ điệp Mùa Chay 2018). Và chỉ có kết hiệp với nhau nên một trong Chúa Ki-tô, đồng tâm nhất trí cầu nguyện mới thực sự được Chúa ban Thần Khi như xưa Người đã ban trong ngày Lễ Ngũ Tuần.

Tóm lại, “khi các Ki-tô hữu và tất cả con người đón nhận một cách cương quyết “cơn đau sinh nở” của sự sám hối; toàn thể thế giới thụ tạo sẽ “không còn phải lệ thuộc vào cảnh hư nát nữa, nhưng được cùng với con cái Thiên Chúa, chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,21). Mùa Chay chính là dấu chỉ mang tính Bí Tích của sự hoán cải. Mùa này kêu gọi các Ki-tô hữu hãy để cho mầu nhiệm Vượt Qua trở nên hữu hình cách mạnh mẽ và cụ thể hơn trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội của họ, đặc biệt là thông qua việc chay tịnh, cầu nguyện và làm phúc bố thí.” (Sứ điệp Mùa Chay 2019).

Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khi soi sáng cho con để con nhìn thấy tỏ tường Chúa nơi người anh em của con, đồng thời giúp con đủ dũng khí đổi mới con người của con từ một “kẻ 2 lòng” trở nên người “một lòng một dạ” yêu thương và trung thành với Chúa, thương yêu anh em như chính bản thân mình, cho đến trọn đời. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho Ðấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc thương khó, và được thông phần vinh quang phục sinh với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Lời nguỵên nhập lễ Lễ Lá).

Về mục lục

.

GIỜ ĐÃ ĐIỂM

Trm Thiên Thu

Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa

Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua

Cái gì phải đến rồi cũng sẽ đến, dù người ta chờ đợi hoặc không hề mong muốn, bởi vì cái gì cũng chỉ có một thời, với một khoảng thời gian nhất định. Mọi thứ hữu hạn, vô thường chứ không bất thường. Bình thường.

Dù gần hay xa, mau hay lâu, ngắn hay dài,… rồi cũng đến. Trong thời gian Chúa Giêsu công khai sứ vụ, nhiều lần người ta đã lập mưu bắt Ngài nhưng chẳng ai làm gì được, bởi vì “chưa đến giờ”. Nhưng rồi cũng đến giờ, Chúa Nhật Lễ Lá là lúc giờ đã điểm, khởi đầu hành trình khổ nạn của Đức Kitô từ lúc vào Thành Giêrusalem.

Dân chúng đã từng chứng kiến Chúa Giêsu làm nhiều thứ quá tuyệt vời, quá kỳ diệu, vượt ngoài sức tưởng tượng của loài người, thế nên họ muốn tôn Ngài làm vua, vả lại chính họ cũng đã nhận biết Ngài là ai, họ lũ lượt theo nhau và reo hò vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9). Nhưng chuyện không dừng lại ở “khoảng vinh quang” như thế!

Cây càng cao, gió càng lay. Càng làm lớn càng khổ. Khổ từ khi đăng quang và vinh quy bái tổ. Vua chúa, hoàng đế hoặc quốc vương nào cũng có lễ đăng quang. Ngay cả giáo hoàng cũng có lễ đăng quang. Riêng Chúa Giêsu, chỉ có đám dân đen tôn Ngài làm Vua, vì thế Ngài không hề được làm lễ đăng quang, và tất nhiên, Ngài là HOÀNG ĐẾ KHÔNG NGAI VÀNG, mà chỉ có “ngai khổ” là Thập Giá – loại khủng khiếp nhất thời đó.

Trong xã hội Việt Nam, người ta thường có cách nói ví von là “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Ải gì chứ ải khổ thì… khổ thật. Và cuộc đời là “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ”. Phải chi “đời là ly khổ” thì đỡ khổ biết bao! Cách ví von đó cho thấy kiếp người không ngừng đau khổ, nỗi khổ này chồng chất nỗi khổ khác, ngày tháng là một hành trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà khi sinh ra không ai cười, ai cũng “cất tiếng khóc chào đời”, trẻ sơ sinh nào cười là “có vấn đề” đấy.

Thật khó hiểu vì bí ẩn. Biết chấp nhận thì có thể “hóa giải” đau khổ thành niềm vui, nếu không thì tự đày đọa thêm mà thôi. Không thể thoát khổ, càng diệt khổ càng đau khổ, muốn thoát khổ hoặc diệt khổ chỉ là điều không tưởng, chuyện hão huyền. Nhưng có bí quyết khả dĩ giảm khổ, đó là “đi xuyên qua” chính những nỗi đau khổ của mình. Thánh nữ Bernadette có ước nguyện tuyệt vời: “Lạy Chúa, con không xin thoát khỏi đau khổ, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc con trong đau khổ”.

Ngày xưa, ông Thích Ca Mâu Ni là một hoàng tử sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế (Sinh là khổ, Lão là khổ, Bệnh là khổ, và Tử là khổ). Nói tóm lại, khổ là… khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức Phật.

Khi cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, Chúa Giêsu được người ta vừa tung hô vừa cầm lá thiên tuế vẫy chào đón, có người còn lấy áo trải xuống đường cho Ngài đi qua. Thế nhưng khi đó cũng là lúc Ngài khởi đầu “hành trình đau khổ”, đau khổ tột cùng, không thể tưởng tượng nổi.

NGƯỜI TÔI TRUNG

Trong Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã nhiều lần tiên báo về “người tôi tớ đau khổ”. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Chính ông minh đinh: “Sáng sáng Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (Is 50:4). Và ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5). Không phản đối, không chạy trốn, hoàn toàn tự nguyện chấp nhận chứ không hề miễn cưỡng.

Mặc dù phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6), ông vẫn một lòng trung tín tới cùng. Ông tin tưởng “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Hoàn toàn tin tưởng nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “chuyến khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua. Cuộc sống rất nhiêu khê!

Lời lẽ trong Thánh Vịnh mô tả về tình trạng chịu nhục nhã ê chề mà Chúa Giêsu phải chịu, thật não lòng với cách diễn đạt rất thật:

Thấy con ai cũng chê cười

Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:

“Nó trông cậy Đức Chúa Trời

Cứ để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)

Người Tôi Trung không chỉ bị khiêu khích, mà cả tinh thần và thể lý đều đau khổ đến tột cùng:

Quanh con bầy chó bao chặt chẽ

Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài

Chúng đâm con thủng chân tay

Xương con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)

Người Tôi Trung bị đau khổ vô cùng, nhưng vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mà thôi:

Áo mặc ngoài chúng đem chia chác

Còn áo trong cũng bắt thăm luôn

Chúa là sức mạnh con nương

Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv 22:19-20)

Dù có thế nào thì Người Tôi Trung vẫn muốn được tôn vinh Thiên Chúa trong chính nỗi đau khổ của mình: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa, cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương” (Tv 22:23). Người Tôi Trung một niềm tín thành, vừa tự động viên mình vừa khuyến khích người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Israel tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24).

NIỆM KHÚC KHỔ

Dùng cách nói vừa phân tích vừa xác định, Thánh Phaolô cho biết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6). Dù đạo hay đời, những người quyền cao chức trọng hiếm thấy những người dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân. Có đi đâu thì kèn trống, cờ xí, tiệc tùng,… chuẩn bị rất kỹ lưỡng, thậm chí có nơi còn tập nghi thức. Thế thì làm sao biết được thực tế cuộc sống của đám chiên ghẻ, chiên lạc?

Thật tuyệt vời khi thấy trong tác phẩm “Authority: Its Use and Abuse” (*) có kể một số “điểm son” của Đức cố GM Joseph Irumpen (1919-1997), GP Palakkad (Ấn Độ), một giám-mục-đa-không, đáng để chúng ta noi gương. Tác giả cho biết:

Mỗi Chúa nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà KHÔNG BÁO TRƯỚC, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý, và CHUYỆN TRÒ với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài KHÔNG BAO GIỜ cho phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Ngay tại tòa giám mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài KHÔNG nhận bất cứ sự biệt đãi nào dành cho mình. Ngài cho rằng sự hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước trong những dịp đặc biệt) KHÔNG phải là chứng nhân Tin Mừng, mà là chứng nhân của VĂN HÓA THẾ TỤC. Hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12 giờ để tiếp bất cứ ai đến gặp, không cần hẹn trước; ngài không bao giờ nghỉ trưa; ngài chỉ dự những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng NẾU những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ chính tòa; ngài KHÔNG tổ chức mừng ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của mình.

Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng, dịp các linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19-3 (Lễ Đức Thánh Giuse Phu Quân Đức Maria). Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài không đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về hoạt động hay đi lại của ngài trong giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi người biết trước về những trường hợp ngài phải ra ngoài giáo phận quá một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng Giám Mục,… Ngài không bao giờ đi nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc như về Rôma dịp Ad limina. Ngài không bao giờ đi nước ngoài để quyên tiền. Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác bởi chính giáo dân trong giáo phận; không bao giờ có chuyện “phạt treo” – chẳng hạn, không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp quỹ. Ngài luôn ăn mặc giản dị, ăn chay trường, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài trên báo chí. Ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên. Cuộc đời ngài thật đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng ngài không nhận, chỉ muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác trong giáo phận; ngài không muốn xin viện trợ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn. Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính các giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một ngôi nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng, sống điều ngài rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ quyền bính là để phục vụ.

Thật vui mừng vì tại Việt Nam cũng có được tấm gương sáng của Đức cố GM Cassaigne (người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi. Khi còn là giám mục Saigon, ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư nghèo để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi người. Ôi, tuyệt vời biết bao!

Thật đáng khâm phục các chứng nhân sống động như vậy, đúng là các mục tử như lòng Chúa mong ước, dám quên mình vì đoàn chiên, các chủ chăn đích thực chứ không nói suông qua các văn bản hoặc bài giảng sáo rỗng.

Chúa Giêsu không chỉ là Người Tôi Trung mà còn là Người Tôi Tớ Đau Khổ và Khiêm Nhường: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10). Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:11).

Chắc hẳn chẳng ai muốn khó đến thân chứ nói chi chịu đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn cuộc sống ung dung sung sướng, thanh thản tận hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng bằng mọi cách, càng nhiều càng tốt. Do đó, con người miệt mài đi tìm hạnh phúc, bất kể ngày hay đêm. Đau khổ luôn là điều bí ẩn đối với cuộc sống, nó kỳ diệu nhưng không dễ chấp nhận, thậm chí người nào chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, là “điên khùng”. Tuy nhiên, đối với người tin vào Đức Kitô thì đau khổ là một mầu nhiệm – nghĩa là không thể hiểu hết nhưng chấp nhận vì đức mến, đặc biệt là noi gương và kết hiệp với Đức Kitô.

Chúng ta biết rằng ở bất kỳ ở quốc gia nào, một bị cáo đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa (biện hộ thật chứ không “làm kiểng” hoặc cho đủ bộ). Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và một phe đưa ra các điều xấu – gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Thánh GH Gioan XXIII, phe luật sư của quỷ đã hết cách nên “tố cáo” Gioan XXIII hồi nhỏ hay chơi diều. Đúng là “hết nước nói” luôn! [Nói khôi hài mỉa mai theo Pháp ngữ là “finir l’eau dire”, hoặc kiểu Anh ngữ là “no star where”, còn Việt ngữ thời @ là BóTay.com].

Chắc hắn rằng từ cổ chí kim, chỉ có một tử tội đặc biệt không có luật sư bào chữa, cũng chẳng có ai bênh vực một lời nào, đó chính là Đức Giêsu Kitô – Chúa của chúng ta. Thật đáng buồn, bởi vì người ta vừa mới tôn Ngài làm vua thì đã vội lật mặt và đòi đóng đinh vào Thập giá, đến cả những người thân cận nhất cũng sợ liên lụy mà bỏ rơi chính Tôn Sư của mình, người mà mình vẫn không tiếc lời tán dương lên tận mây xanh. Cái lưỡi không xương uốn éo kiểu lươn lẹo “khéo” thật đấy!

GIỜ ĐÃ ĐIỂM

Điểm giờ là lúc giờ đã đến. Người ta gọi thời điểm đó là Giờ G (do câu “Time is Gold” – Thời giờ là vàng bạc, “giờ vàng”, rất quý, được hiểu với ý nghĩa là “thời điểm quan trọng” để hành động). Bài Thương Khó hôm nay là một bộ phim dài, một tấn bi kịch thảm thương, một cuộc chia ly đẫm nước mắt với vị mặn chát bao trùm những người thân tín nhất.

Thời khắc quan trọng đã điểm, Đức Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ. Biết trước những gì sắp xảy ra, Ngài nói: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22:15). Ngài nói rõ, không bóng gió nữa, và Ngài cho biết lý do: “Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (Lc 22:16). Những lời này như lời trăn trối của người sắp vĩnh biệt cõi đời. Nghe thật não lòng!

Ngay sau đó, Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Mình Máu Ngài để nuôi sống chúng ta, và thiết lập chức linh mục để tiếp nối công việc Ngài ủy thác. Ngài tiên báo mọi chuyện sắp xảy ra như những lời trăn trối, và để cảnh báo mọi người. Rồi Ngài phân tích về cách cai trị: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ. Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Lc 22:25-30). Phải hành động khác người, khác với đời thường, nghĩa là không được lạm quyền mà lộng hành, chỉ nói phục vụ mà thực tế thì không như vậy.

Và đặc biệt hơn, Ngài đã thẳng thắn cảnh báo về sự dữ đối với Phêrô: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:31-32). Chúa Giêsu biết ông sẽ sa ngã và trở lại, Ngài thân thiện gọi đích danh ông là Simon, gọi tên thật chứ không gọi “nickname” Phêrô – tông hiệu của vị giáo hoàng tiên khởi.

Ông Phêrô thưa với Người: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng” (Lc 22:33). Đức Giêsu nói ngay: “Này anh Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy” (Lc 22:34). Tính nóng như lửa, Trương Phi thua xa, thế mà Phêrô cũng chỉ biết cúi đầu im lặng, không biết nói gì nữa. Bình thường thì nói ngon lắm, nhưng rồi đâu dễ gì làm được như thế. NÓI và LÀM là hai việc khác nhau, có một khoảng cách rất gần mà cũng… rất xa. Nói trước bước khó qua ghê!

Chúa Giêsu biết mình không còn bao lâu nữa sẽ xa rời họ – nhưng người thân thích, nên Ngài thực sự rất quan tâm: “Anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc 22:35). Các ông trả lời “không”, họ cứ tưởng sắp có chiến tranh và đổ máu nên cùng nhau nói: “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây” (Lc 22:38a). Nhưng Chúa Giêsu bảo họ: “Đủ rồi!” (Lc 22:38b). Thật ra chỉ một thanh gươm cũng là thừa rồi, bởi vì không bao giờ cần dùng bất cứ vũ khí gì.

Và theo thói quen, Ngài đi ra núi Ô-liu. Các môn đệ lặng lẽ đi theo Ngài. Khi đến nơi, Ngài bảo: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:40). Cầu nguyện là điều cần thiết lắm, thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động. Ngài đi xa các ông một quãng, rồi quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22:42). Lúc này Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Theo nhân tính, Chúa Giêsu vừa lo vừa sợ, vừa u buồn vừa cô đơn, đến nỗi mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44).

Khi cầu nguyện xong, Ngài quay lại chỗ các môn đệ, nhưng thấy các ông vẫn đang ngủ ngon lành. Ngài nói: “Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:46). Lần thứ hai Chúa nhắc các ông về việc cầu nguyện, Ngài xác định việc cầu nguyện vô cùng cần thiết, mọi nơi và mọi lúc, phải cố gắng làm chứ không thể tùy hứng.

Đúng ngay thời điểm đó, Giuđa lại gần Đức Giêsu để hôn và cũng để chỉ điểm cho bọn thủ ác đến vây bắt Ngài. Chúa Giêsu ôn tồn: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22:48). Lời nói nhẹ nhàng mà thấm thía nỗi đau. Ngày nay, chúng ta cũng vẫn dùng các dạng “dấu tốt” để bán đứng Chúa, mưu hại tha nhân, sẵn sàng làm những điều phi nhân phi nghĩa mà không chút ngại ngùng. Lương tâm không còn thẳng thắn mà bị lệch lạc rồi, bóng tối che khuất nẻo sáng rồi. Thật đáng sợ!

Như phản xạ tự nhiên, người ta muốn dùng gươm giáo để chiến đấu, chính Phêrô cũng đã nhanh như chớp, tuốt gươm ra chém ngay, nhưng có lẽ ông run tay nên chỉ đứt tai một tên lính chứ nếu ngon lành thì ông cho cái đầu nó lìa khỏi cổ rồi. Thế thì Phêrô còn nhát tay lắm! Vừa thấy thế, Đức Giêsu lên tiếng ngay: “Thôi, ngừng lại” (Lc 22:51). Và rồi Ngài gắn lại liền tai cho khổ chủ. Ôi, phép lạ nhãn tiền thế mà bọn thủ ác vẫn lì lợm, vẫn cứng lòng, vẫn cố chấp. Kể ra chúng cũng quái gở thật. Ma quỷ “đầu độc” chúng rồi!

Đám ác nhân dẫn Chúa Giêsu đi. Khi đi ngang qua Phêrô, Ngài nhìn ông với ánh mắt sâu thẳm, vừa buồn trách vừa xót thương, ông giật mình bởi vì ông vừa chối Thầy đúng như lời Thầy nói trước. Tiếng gà chợt gáy như xoáy sâu vào lòng ông khiến ông vừa xấu hổ vừa sợ hãi, ông vội chạy ra ngoài, ăn năn và bật khóc, khóc như con trẻ, khóc như chưa bao giờ khóc, tiếng khóc rất thảm thiết (Lc 22:62). Phạm tội là xấu nhưng chưa đáng ngại, cố chấp mà cứ ù lì trong tội mới đáng sợ!

Máu ác dồn lại trong tim và dâng cao lên óc, bọn thủ ác bịt mắt Ngài lại, thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Ngài, và hành hạ Ngài đủ kiểu, thâu đêm suốt sáng, không chút nương tay. Chỉ tưởng tượng cũng thấy thật kinh khủng! Khi trời sáng, chúng mỉa mai: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” (Lc 22:70a). Ngài vẫn thản nhiên: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây!” (Lc 22:70b). Họ liền vào hùa với nhau để kết tội Ngài: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!” (Lc 22:71).

Sau đó, họ bắt đầu tố cáo Chúa Giêsu đủ thứ, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, họ bắt bẻ và bịa chuyện đủ thứ, tốt thành xấu, cái gì cũng hóa thành trọng tội, kiểu xử bất công miễn sao có thể giết người lành. Tâm địa kẻ ác là vậy, xã hội ngày nay không thiếu gì những phiên tòa bất công như vậy!

Còn Philatô thì nhát gan vì sợ mất chức mất quyền, không dám hành động theo lương tâm, rửa tay để chứng tỏ mình chí công vô tư, biết Chúa Giêsu vô tội mà không dám tha – dù chính ông ta xác nhận hai lần (Lc 23:4 và 22). Ông ta muốn cho đánh đòn Chúa Giêsu rồi thả ra, nhưng dân chúng không chịu, họ đồng thanh la ó: “Giết nó đi, thả Baraba cho chúng tôi!” (Lc 23:18). Có quyền lực mà bất lực. Thật hèn hạ và nhục nhã! Còn Baraba là ai? Hắn đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người. Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên tử tội tàn ác khét tiếng. Thấy dân chúng nhất quyết xin tha Baraba mà giết Chúa Giêsu, Philatô đành chiều theo ý họ. Thật đê tiện khi ích kỷ mà để cho cái ác lộng hành!

Từ dinh Philatô tới Đồi Can-vê là con đường quanh co, đồi dốc và lởm chởm. Chúa Giêsu phải tự vác thập giá mà đi, rất cực nhọc, đuối sức dần vì Ngài bị đòn roi với đủ nhục hình và còn bị đói khát nữa, thế nên Ngài đã ngã xuống 3 lần vì sức nặng của thập giá. Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi, không đơn giản chút nào!

Khi tới Đồi Sọ, họ đóng đinh Ngài vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Đã chịu đủ loại nhục hình, từ lời nhục mạ tới hành động đóng đinh – loại tử hình khủng khiếp nhất thời đó, và dù đang bị treo trên thập giá, Đức Giêsu vẫn đại lượng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Kể từ xưa tới nay, và cho đến tận thế, chắn chắn không có sự tha thứ nào vĩ đại hơn như vậy!

Thật kỳ diệu, ngay cả tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài, với chỉ một lời “xin nhớ tới hắn” thôi, thế mà Ngài liền cho hắn đồng hành vào Thiên Quốc, và trở thành vị thánh đầu tiên của Tân Ước. Thật là đại phúc cho Dismas – kẻ cướp tốt lành. Ước gì chúng ta cũng chân thành sám hối và được diễm phúc như vậy!

Đối với một con người, cái chết là kết thúc cuộc sống trần gian, làn hơi thở cuối cùng là ranh giới giữa sự sống và sự chết. Mọi sự đã hoàn tất. Sứ vụ cứu độ đã trọn vẹn. Khi đó, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Nói xong, Ngài tắt thở. Chúa Giêsu chỉ chết về phần nhân tính, như một con người bình thường, chứ Ngài KHÔNG CHẾT về phần thần tính.

Khi thấy sự việc xảy ra nhãn tiền như vậy, viên đại đội trưởng kinh ngạc và liền cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách xác nhận: “Người này đích thực là người công chính!” (Lc 23:47 ≈ Mt 27:54; Mc 15:39), và toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về (Lc 23:48). Đó là những biểu hiện sám hối, họ còn may mắn và kịp nhận ra tội mình – không trực tiếp thì cũng gián tiếp giết chết người vô tội, làm khổ tha nhân, sát hại Đức Kitô. Sự thật mãi mãi là sự thật, vĩnh hằng và bất biến.

Chắc chắn không có nỗi đau khổ nào bằng (chứ không thể “hơn”) nỗi khổ của Chúa Giêsu. Ngài được tôn làm vua – chỉ trong chốc lát – mà không hề có ngai vàng, không hề được đăng quang, thay vào đó lại là những loại nhục hình, cuối cùng là bị đóng đinh vào thập giá. Thật thê thảm!

Lạy Thiên Chúa muôn loài, tội nhân chúng con thành tâm sám hối và xin lỗi Ngài, xin thương xót và tha thứ. Chúng con cảm tạ Chúa Cha đã ban Đấng Cứu Thế để chúng con được giải thoát và có cơ hội làm lại cuộc đời. Thật là diễm phúc vì chúng con được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên nhờ cái chết của Đức Kitô, dù chính chúng con đã nhẫn tâm trực tiếp hoặc đồng lõa sát hại Ngài. Xin Cha ban Thánh Linh giúp chúng con can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành trình đau khổ và làm chứng nhân sống động về Lòng Thương Xót vô biên của Ngài, để rồi chúng con cũng được cùng phục sinh với Chúa Con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.

——-

(*) Authority: Its Use and Abuse (Sử dụng và Lạm dụng Quyền bính), sách của LM C.P. Varkey (NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999).

Về mục lục

.

THẬP GIÁ ĐÒI HỎI LÒNG QUẢ CẢM

Lm JB Nguyễn Minh Hùng

Hôm nay với nghi thức làm phép và rước lá, tưởng niệm việc Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem trong vinh quang, Hội Thánh chính thức khai mạc tuần Thánh.

Lắng nghe và suy niệm bài Thương Khó dài tường thuật biến cố tử nạn đau thương, đầy ảm đạm của Chúa Giêsu, tôi lại thấy tiếng nói của thập giá vang trong tâm hồn mình, đòi hỏi cả một nỗ lực lớn, một lòng can đảm đầy quả cảm để có thể cùng Chúa vác thập giá bước theo Chúa suốt đời mình.

Đòi hỏi về sự quả cảm đó, không chỉ riêng bạn và tôi hôm nay, ngày xưa các môn đệ của Chúa cũng đã từng phải đối diện.

Đòi hỏi của thập giá là đòi hỏi nghiêm túc đến mức khắt nghiệt, có lúc ê chề, đau đớn. Các môn đệ Chúa Giêsu đã từng hoang mang, đau đớn như thế khi chứng kiến cuộc thương khó của Thầy.

Mới mấy ngày trước đây, dân chúng còn dành cho Thầy một vinh dự quá lớn khi đón tiếp Thầy vào thủ đô, vậy mà ngay sau đó, người ta đã trở mặt nhanh chóng và lạnh lùng.

Thay cho sự tiếp đón, bay giờ người ta dành cho Thầy những trận đòn độc ác đến ngỡ ngàng. Những trận đòn tàn nhẫn cứ y như là bao nhiêu nỗi căm hờn, sự tức tối, thù ghét chất chứa bao nhiêu năm tháng bây giờ được dịp bung ra dồn vào đầu ngọn roi, vào mọi lời sỉ vả, chửi bới, dồn vào những mũi đinh nhọn hằn học giết chết Thầy…

Hóa ra phút vinh quang của ngày lễ Lá chỉ là một ánh chớp thoáng qua rồi lịm tắt.

Đâu hết rồi cảnh huy hoàng của những người ái mộ trải áo, lót lá xuống đường nghênh đón Vua Trời? Đâu hết rồi những lời tung hô dậy trời: “Hoang hô con vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến ; hoang hô trên các tầng trời”? Đã biến đi đâu cảnh náo động đến tưng bừng khắp Giêrusalem khi “Tiên tri Giêsu” tiến vào thành?

Cứ như thế, niềm vui vừa mới chớm, nỗi khổ đã lên ngôi. Niềm vui sao mà nhỏ bé, còn nỗi buồn sao cứ ngất cao đầy ứ lòng người. Các môn đệ thấy hết, chứng kiến hết. Vậy đó, vinh quang chỉ là những ánh chớp, còn nỗi buồn cứ giăng mắc không thương tiếc. Không thể đối diện với nó, các môn đệ chỉ còn biết trốn chạy.

Cuộc thương khó vượt quá tầm hiểu biết, vượt lên trên mọi lý lẽ của mình, bởi sức người khó có thể chấp nhận được vì sao Đấng là Thiên Chúa làm người lại có thể bị vùi giập đến tan nát như thế?

Càng không thể hiểu, các môn đệ càng sợ hãi, càng mất tất cả niềm hy vọng, mất tất cả sinh lực sống. Các môn đệ Chúa Giêsu trở thành những kẻ bi quan, khiếp đảm, bạc nhược.

Nhưng đâu chỉ có thế, đòi hỏi của thập giá là đòi hỏi cá nhân, dành cho mỗi một người, cần sự đáp trả bằng lòng trung thành của mỗi một người.

Để chấp nhận thập giá và để đáp ứng mọi đòi hỏi của thập giá, chỉ có một điều kiện duy nhất, cũng là điều kiện tiên quyết, đó chính là lòng yêu mến thâm sâu và cá vị với Chúa Giêsu.

Thánh Gioan tông đồ, Đức Maria là những người có tâm hồn chan chứa lòng yêu mến ấy. Chính vì lòng yêu mến cá vị này, mà cả hai: Đức Mẹ và thánh Gioan đã can đảm chứng kiến đến giây phút sau cùng nỗi đau của thập giá mà Chúa Giêsu đã chấp nhận suốt đời của Người cho đến đỉnh cao là cái chết bi thương trên đồi Sọ.

Bởi thập giá Chúa Giêsu phải gánh lấy đâu chỉ là cây thập giá bằng gỗ trên đường thương khó, mà nó còn là cây thập giá suốt chiều dài trên đường dương thế của Người.

Chứng kiến đến cùng bằng sự nhìn ngắm thẳm sâu và bằng tình yêu hiệp thông mật thiết cách cá vị như thế, chính là lúc Mẹ Maria cũng như thánh Gioan tông đồ đã cùng kề vai vác thập giá với Chúa.

Chính trong tình yêu, nỗi đau hay niềm vui của người này trở thành nỗi đau hay niềm vui của người kia. Bởi đó ta có thể nói, trong lòng yêu mến cá vị của mình, thập giá của Chúa chính là thập giá của Đức Maria, của thánh Gioan khi đi bên cạnh Chúa Giêsu.

Cũng là người môn đệ của Thầy Giêsu trong cuộc đời này, chắc chắn đòi hỏi của thập giá đã và sẽ tiếp tục không khước từ chúng ta.

Theo Chúa giữa lúc Chúa được tung hô, chẳng khó gì. Nhưng tiếp tục theo Chúa và ở lại với Chúa giữa lúc Chúa bị loại trừ, bị bách hại là một khó khăn lớn. Càng dấn bước theo Chúa sâu xa bao nhiêu, đòi hỏi của thập giá càng lớn lao, mạnh mẽ và dữ dội bấy nhiêu.
Chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, nhìn mẫu gương của thánh Gioan tông đồ mà cố gắng hiến dâng tình yêu, hiến dâng lòng trung thành của mình.

Hoặc nếu đã có lần nào ta va vấp trong cuộc đời, thì hãy nhìn mẫu gương của mười tông đồ còn lại, là những người đã từng khiếp đảm trốn chạy, nhưng cũng đã lấy lại niềm tin để tiếp tục sống trung thành.

Những tấm gương ấy sẽ tạo thêm nghị lực cho mình, đủ sức đứng lên làm lại những gì đã mất.

Mẫu gương trung thành của Đức Mẹ, của các thánh tông đồ phải là bài học thường xuyên liên tục suốt đời Kitô hữu của bạn và của tôi.

Nguyện xin Đức Mẹ, xin các thánh Tông đồ cầu bàu cho chúng ta, để chúng ta hoàn thành những đòi hỏi của thập giá suốt cuộc đời mình cách xuất sắc nhất.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ_C

Lm. Antôn

Chúa nhật Lễ Lá hôm nay khởi đầu Tuần thánh, và suy niệm những đoạn Tin mừng diễn tả những sự kiện xảy ra trong những ngày cuối cùng trong chương trình cứu độ của Chúa Giê-su.  Một điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý là tất cả lời nói và hành động của Chúa Giê-su phát xuất từ một động lực và diễn tả một điều duy nhất là tình yêu cao cả và tột đỉnh của Chúa cho chúng ta.

Bài Thương khó theo Tin mừng thánh Lu-ca có rất nhiều ý nghĩa sâu sa về mầu nhiệm tình yêu của Chúa, nhưng ở đây tôi xin chia sẻ 3 ý tưởng để chúng ta cùng suy niệm. Thứ nhất, Tin mừng nhất mạnh đến sự vô tội của Chúa Giê-su.  Khi Chúa Giê-su bị điệu đến dinh tổng trấn Phi-la-tô, một người quyền lực và có tâm độc, có thể xét xử và kết án bất cứ ai, nhưng ông đã tuyên bố Chúa Giê-su là người vô tội, không phải một lần, nhưng tới 3 lần và ra lệnh giải Chúa đến Hê-rô-đê.  Nhưng Hê-rô-đê cũng nhận ra Chúa vô tội và gởi trả về cho Phi-la-tô.  Người trộm cướp bị đóng đinh cùng Chúa cũng khẳng định rằng: “Chúng ta chịu đóng đinh xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu.”  Và người sĩ quan cũng công nhận Chúa Giê-su vô tội và ca tụng rằng: “Ông này quả thật là người công chính.”

Chúa Giê-su vô tội nhưng đã bị nhạo cười, phỉ báng, đánh đập, chịu những bất công và bị lên án đóng đinh vào thập giá. Nếu đặt mình trong đám đông dân chúng, chúng ta tự hỏi: “Chúng ta có là những người hoan hô vinh danh Chúa?  Hay là những người đã kết án đóng đinh Chúa vào thập giá?”  Hay “Chúng ta là những người dửng dưng, lạnh nhạt và cứng lòng trước những sự thương khó và đau khổ của Chúa?”  Chúng ta thấy ngày nay có nhiều người kể cả những Ki-tô hữu cứng lòng trước sự thương khó và thập giá của Chúa.  Cuộc thương khó của Chúa không còn đánh động vào con tim chai đá của họ. Tội lỗi đã làm cho tâm hồn họ trở nên chai cứng. Không có lời nào có thể lay chuyển con tim chai cứng và thay đổi được đời sống của họ.

Ý tưởng thứ hai là bản tính nhân từ và lòng thương xót tha thứ của Chúa.  Chúng ta đã biết Tin mừng của thánh Lu-ca là Tin mừng của lòng thương xót tha thứ.  Lòng thương xót của Chúa Giê-su được thể hiện khi Người còn đang trên con đường thương khó, chữa lành tai phải của người đầy tớ bị Phê-rô dùng gươm chém cụt mất, và đã giải sự thù nghịch giữa Phi-la-tô và Hê-rô-đê, để họ làm hòa và trở nên thân thiết với nhau.  Và khi chịu đóng đinh treo trên thập giá, Chúa đã tha thứ cho người trộm cướp có lòng tin cùng chịu đóng đinh xin được vào Thiên Đàng, và cho những người làm hại mình, Người đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm.” Và Chúa cũng đã tha thứ.

Chúng ta không là người vô tội như Chúa Giê-su, chúng ta là những người có tội, nhưng cũng có thể theo gương Chúa trở thành sứ giả của lòng thương xót và tha thứ của Chúa.  Chúng ta được kêu gọi lấy tình yêu chữa hận thù, và tha thứ cho người khác thay vì mang nặng những sự thù ghen trong con người chúng ta.

Ý tưởng cuối cùng là tuy Tin mừng không đề cập đến việc Chúa bị đội mão gai, nhưng cho chúng ta biết đến sự kiện Chúa bị sỉ nhục, bị vả vào mặt trong sự nhạo cười và chế diễu.  Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa cao cả nhận chịu những sự nhục nhã và đau khổ do con người gây nên.  Tại sao Chúa nhận chịu những sự sỉ nhục này? Thưa vì yêu thương cho nên Chúa muốn gánh lấy tất cả để chúng ta tin và yêu mến Người.

Tôi phải thú nhận mỗi khi suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su, tôi tìm được sức mạnh để đối diện và vượt qua những khó khăn và thử thách trong cuộc sống.  Và tôi nghĩ rằng tất cả mọi người chúng ta cũng sẽ tìm được sức mạnh và niềm hy vọng nếu hy sinh thời giờ suy niệm sự đau khổ, sự sỉ nhục và cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá. Và cũng sẽ cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa cho chúng ta.

Tôi kêu gọi tất cả ông bà anh chị em hy sinh chút thời giờ trong Tuần Thánh này để suy niệm và đặt mình vào cuộc hành trình thương khó của Chúa Giê-su, để cảm nghiệm tình yêu và lòng thương xót của Người cho chúng ta, trở nên sứ giả tình yêu và lòng thương xót của Chúa cho những người sống chung quanh chúng ta.

Về mục lục

.

MÂU THUẪN

Lm. Thái Sơn

Có một đứa bé, đầu óc đần độn, hay nói những câu gở miệng. Cả nhà đều biết chuyện này cho nên dặn đi dặn lại nhiều lần:

– Này, hôm nay là ngày tết, đừng nói gở đấy! Nhớ nhé, toàn là người lớn cả, đừng nói gở mà phải đòn đấy.

Chứng nào vẫn tật ấy! Một hôm, nhà chú có đám cưới, bố dắt bé đi cùng. Trước khi đi, bố dặn kỹ, con gật đầu, nói rất rõ:

– Con biết rồi, không được nói gở.

Bố xoa đầu con và dắt đi dự tiệc đám cưới. Trước khi ngồi vào mâm cỗ, bố lại dặn con lần nữa:

– Nhớ lời bố dặn, không được nói gở đấy?

Đứa bé nói thật to:

– Con biết rồi, không nói gở, đám cưới chứ có phải là đám tang đâu!

Thưa các bạn !

Phải chăng, mâu thuẫn là sự tương phản, đối lập hay trái ngược nhau? Ca dao tục ngữ Việt Nam có nói:

Gió đưa buồng chuối sau hè,

Lăm le cô chị, dò dè cô em!”.

Hay

Bên ngoài lồng lộng như gương,

Bên trong nát bấy như đường trâu đi!”…

Trên trang “Bút Sen”, thầy Thích Thanh Từ đã chia sẻ thật sâu sắc: “Cuộc đời là những mâu thuẫn”.

Lời của một nhà văn đã viết: “Giới trẻ bây giờ giống cha ông của chúng ngày trước. Cũng bỏ nhà ra đi, cũng hút thuốc lá, cũng lấy bà xã, sinh con, chỉ có điều, chúng làm tất cả theo thứ tự ngược lại”.

Franz Peter Schubert, nhà soạn nhạc người Áo, có viết một câu đại ý như sau: “Khi tôi muốn hát về tình yêu thì tình yêu thành đau khổ. Khi tôi muốn hát về đau khổ thì đau khổ thành tình yêu đối với tôi”.

Mừng kính Chúa Nhật Lễ lá, Giáo Hội mời gọi ta lắng nghe và suy ngắm cuộc thương khó của Đức Giêsu Kitô. Thiết tưởng, trong đó mâu thuẫn rất nhiều. Xin lược một vài nhân vật:

Mâu thuẫn nơi dân Do Thái: Mới hoan hô Chúa vào thành, chẳng bao lâu lại hô hào đóng đinh Chúa vào thập giá.

Mâu thuẫn của quan Philato: Xét thấy Chúa không có tội gì đáng chết, nhưng áp lực của dân chúng mà xử bất công.

Mâu thuẫn nơi tông đồ Giuda: Được tin tưởng giao cho nhiệm vụ cầm tiền, để rồi lại tham tiền mà bán đứng Chúa.

Mâu thuẫn của thánh Phero: Mạnh mẽ thề thốt sẽ sống chết với Thầy và cũng thê thảm chối Thầy với người tớ gái.

Thưa các bạn !

Dù nhiều mâu thuẫn đó, nhưng kết cục có những thái độ khác nhau. Nơi dân Do Thái cũng như quan Philato đó là thái độ “cố chấp”, nơi Giuda là “tuyệt vọng”, và nơi Phero là tính “khắc phục”.

Thiết tưởng, cố chấp thì nên loại trừ, tuyệt vọng thì càng nên tránh xa, nhưng cần học hỏi tính khắc phục của Phero, là biết nhìn nhận yếu đuối, lỗi lầm, rồi ăn năn quay trở về. Hơn nữa, biết tin tưởng vào lòng Chúa lớn hơn tội lỗi con người…

Sau cùng, với Phaolo thật kinh nghiệm, nên đã nói: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).

Dù “đám cưới” hay “đám tang”, “cô chị” hay “cô em”, “bên trong” hay “bên ngoài”… ước gì “bạn & tôi” vẫn dám xác tín vào tình yêu Thiên Chúa sẽ chiến thắng mâu thuẫn bản thân. Amen

Về mục lục

.

 

PHÓ MÌNH TRONG TAY CHA

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Với nghi thức nhắc lại sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, phụng vụ dẫn đưa chúng ta vào Tuần Thánh. Thánh lễ hôm nay nhằm chuẩn bị tâm hồn các tín hữu,  giúp họ tham dự tích cực vào việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, để cùng hiệp thông với Người, sống mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời. Trình thuật về cuộc thương khó của Chúa, giúp chúng ta theo Chúa Giêsu từ phòng tiệc ly đến chân thánh giá. Trong biến cố này, có sự phản bội của Giuđa, sự hận thù ghen ghét của các kỳ mục Do Thái, sự thay lòng đổi dạ của quần chúng đám đông. Nhưng trên hết, đó là sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý của Chúa Cha. “Người đã yêu thương đến cùng” – Thánh Gioan nói với chúng ta như vậy (Ga 13,1). Đức Giêsu như một người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa được loan báo trong ngôn sứ Isaia. Người mang trên đôi vai mình tội lỗi của nhân loại. Người không dùng bạo lực đối lại với bạo lực, không dùng lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa. Người là con chiên vượt qua mà người Do Thái vẫn giết trong Đền thờ vào dịp lễ để kỷ niệm cuộc xuất hành khỏi Ai Cập. Máu của Người đổ ra là hy lễ xá tội muôn dân.
 
Trước biến cố thập giá, Chúa Giêsu luôn phó thác nơi cánh tay Chúa Cha. Người sẵn sàng đón nhận cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng. Người đến trần gian để thực hành thánh ý của Chúa Cha. Người chấp nhận mọi sự, miễn là ý của Chúa Cha được thành tựu. Lời cầu nguyện: “Xin đừng theo ý con, một theo ý Cha” đã diễn tả niềm tín thác kỳ diệu ấy. Trong sa mạc, đã có lần ma quỷ thách thức Người gieo mình từ trên nóc Đền thờ xuống. Nếu khi ấy, Người đã không gieo mình xuống theo thách thức của tên cám dỗ, thì giờ đây, Người lại hoàn toàn phó thác mà gieo mình vào lòng Chúa Cha. Người không tính toán, không băn khoăn, nhưng một niềm tin tưởng nơi Chúa Cha.
 
Thập giá là trung tâm điểm của nghi thức phụng vụ Tuần Thánh. Hai mươi thế kỷ đã qua, các tín hữu được mời gọi nhìn lên thập giá để cảm nhận lòng xót thương của Thiên Chúa. Thập giá là một mầu nhiệm mà trí khôn loài người không thể suy thấu. Quả thật, làm sao có thể lý giải được việc Thiên Chúa chịu đau khổ và chịu chết? Làm thế nào để hiểu sự kiện một Thiên Chúa quyền năng lại chấp nhận chịu bắt bớ, hy sinh và cuối cùng phải chết một cách nhục nhã trên cây thập giá? Quyền năng Thiên Chúa ở đâu nơi thập giá?
 
Có một câu trả lời duy nhất và ngắn gọn, đó là tình thương. Cũng như chỉ có tình thương mới giúp người mẹ hy sinh khuya sớm để chăm sóc đứa con bệnh tật lâu năm mà không một lời phàn nàn oán trách, chỉ có tình thương mới dẫn đưa Đức Giêsu đến việc chấp nhận khổ đau và chết trên thập giá. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để tất cả những ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).
 
Vụ án Chúa Giêsu không chỉ là câu chuyện của quá khứ, nhưng là của ngày hôm nay. Tại một số nước Hồi giáo, vẫn có các Kitô hữu bị thảm sát, là nạn nhân của mối thù hận. Đây đó trên thế giới, vẫn còn những người vô tội bị giết. Bóng thập giá vẫn phủ ngang qua mọi mảnh đời bất hạnh, phá vỡ hạnh phúc, sói mòn niềm tin. Đấng Cứu thế vẫn đang bị hành hình nơi những người nghèo khổ, người di dân lánh nạn và người cô thế cô thân. Thập giá là tiếng kêu hãy ngưng bạo lực và đối xử với nhau cho xứng tình người. Khi Đức Giêsu tắt thở trên thập giá, dân chúng đấm ngực ăn năn và nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Vị sĩ quan người Rôma cũng tuyên xưng điều ấy. Khi chiêm ngưỡng và suy ngắm mầu nhiệm thập giá, chúng ta cũng hãy nhận ra nơi con người chịu treo trên thập giá là Đấng Cứu độ trần gian. Thập giá cũng mời gọi chúng ta noi gương Chúa Giêsu, phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa quyền năng và nhân hậu, để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống trần gian. Đó là niềm tín thác trọn vẹn của người con nơi cha mình, biết rằng bao giờ cha cũng muốn những điều tốt lành cho con và làm mọi sự để con được sống vui và hạnh phúc.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU ĐÁP LẠI HẬN THÙ

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.

Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.

Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.

Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự.

Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.

Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.

Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.

Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.

Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.

Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.

Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
  2. Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
  3. Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?

Về mục lục

.

CON NGƯỜI THAM SỐNG SỢ CHẾT

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Chuyện kể rằng: Đôi trai gái đang đi dạo trong thảo cầm viên. Chàng nắm tay nàng nhẹ nhàng nói: “Anh sẽ không bao giờ buông tay em ra đâu. Cho dù có chết anh vẫn bảo vệ em”.
Thình lình một con cọp sổng chuồng nhảy bổ ra. Chàng trai hốt hoảng nhảy thót lên  cây. Còn cô gái sợ hãi nằm bất động. Rất may con cọp chỉ đến ngửi trên mình cô gái rồi bỏ đi. Sau khi con cọp đi rồi, chàng trai mới chạy đến đỡ cô gái dậy và hỏi: “Con cọp nó nói gì với em đó”.
Cô gái trả lời: Nó nói anh là thằng đểu!
Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những người thề sống chết bên nhau nhưng khi đối diện với gian nan, họ cũng tìm trăm ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Đó là lý do chúng ta thấy con người thường dễ quên lời hứa, dễ thất hứa, thất tín và thất trung.
Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau.
Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử, nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà bỏ quên lời hứa với nhân dân.
Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy.
Chúa Giê-su trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy, Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn thân cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì “yêu cho đến cùng”.
Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với đàn hát, với trải lá lót đường . . . ; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa Giê-su luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”.
Vâng, Chúa Giê-su Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng “Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu.
Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Ngài, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng tình yêu của Chúa vẫn mãi dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

TIN LÀ ĐÓN NHẬN LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Ba cuốn Phúc Âm Nhất Lãm đều có cùng một nội dung nhất quán trong việc mô tả cuộc thương khó Đức Giê-su, tuy về chi tiết có một vài khác biệt nho nhỏ. Tôi đặc biêt lưu tâm tới hai tiểu tiết được Phúc Âm Lu-ca triển khai cách rạch ròi: việc Phê-rô chối Thầy và tên gian phi (thường được gọi là ‘kẻ trộm lành’) sám hối.

Sự kiện Phê-rô chối Thầy cùng với lời Đức Giê-su cảnh báo các môn đệ, được cả ba cuốn đề cập tới, trong đó cho thấy: thái độ cương quyết bảo vệ thầy mình trong cơn nguy biến của Phê-rô là rất đáng khen: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng”. Phúc âm Luca còn thêm một chi tiết khác nữa: Đức Giê-su thậm chí còn xem ra ủng hộ việc chuẩn bị chiến đấu này (xem Lc 22:38). Có điều… Người không tỏ ra mặn mà lắm với lời cam kết đầy nhiệt huyết của Phê-rô, trái lại còn đưa ra lời cảnh báo: Người không muốn Phê-rô có thứ đức tin mạnh mẽ không gì lay chuyển nổi tới độ trở thành kẻ đứng ra bảo vệ Người đến cùng. Thứ đức tin Người cầu nguyện cho Phê-rô lại rất khác: để ông biết trỗi dậy, rồi sau đó sẽ củng cố trong cảm thông các anh em mình; tóm lại, đó là niềm tin cảm nghiệm sự yếu hèn của mình và đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa từ nhân cứu độ. Để có được niềm tin đó Phê-rô cần trải qua một kinh nghiệm về sự yếu đuối tột dùng của mình: tội chối bỏ và phản bội Thầy. Lu-ca nhấn mạnh trên chi tiết này: “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh”. Lòng tin mà Đức Giê-su đề cập tới ở đây chắc chắn không phải là tin vững chắc rằng: Giê-su là Con Thiên Chúa hằng sống, điều mà Phê-rô đã từng đại diện cho các môn đệ khác tuyên xưng cách long trọng, và đã từng được Người khen ngợi. Điều mà Đức Giê-su, vì qua nhiều tình huống khác nhau đã quá rõ người môn đệ này, muốn cảnh báo ông chính là: ông không tin và không muốn chấp nhận Thầy phải chết cho mình. Đã nhiều lần ông lên tiếng can ngăn Thầy đi chịu chết, ông đã không muốn Thầy rửa chân cho ông, và cho tới phút chót ông vẫn đinh ninh rằng: việc theo Thầy chính yếu hệ tại ở việc trung thành bảo vệ Thầy; chính vì những điều đó mà Đức Giê-su thấy cần phải cầu nguyện cho ông…, vì Người liệt thái độ đó vào hạng cám đỗ lớn của Xa-tan; và nếu điều này cũng phổ biến nơi các môn đệ khác, thì đây chính là điểm mà Người muốn Phê-rô – thủ lãnh phải củng cố các anh em mình. Sau trải nghiệm ba lần chối Thầy nhưng đượcThầy thứ tha, Phê-rô mới hiểu cốt lõi của đức tin chính là tin vào Thiên Chúa từ nhân đã dám chết để tha thứ cho mình; chỉ như thế ông mới thực sự xứng đáng trở thành thủ lãnh của Hội Thánh, một cộng đoàn không chỉ tuyên xưng Đức Ki-tô Giê-su là Chúa, mà trước hết và trên hết: Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa cứu độ toàn thể nhân loại…, đặc biệt cứu độ cá nhân mỗi người.

Sự kiện thứ hai: tên gian phi đồng chịu đóng đinh vào thập giá với Đức Giê-su đã sám hối vào phút chót. Chỉ mình Lu-ca kể lại chi tiết này, và hầu như với ngụ ý: tên này là người đầu tiên hưởng lãnh ơn cứu độ, và trong mức độ nào đó, chính là ‘nguyên mẫu’ (prototype) của mọi Ki-tô hữu sau này. Để được hưởng sự cứu rỗi sau một cuộc đời làm toàn điều ác (như chính miệng hắn đã xưng thú) chỉ cần hắn làm được hai điều đơn giản, một là nhìn nhận tội lỗi mình đã phạm: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”, hai là mở miệng cầu khẩn lòng thương xót của Thầy Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi nào vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Chỉ có thế, đơn giản quá phải không! Tên tướng cướp tội ác tầy trời đã tức khắc lãnh nhận trăm phần trăm ơn cứu độ, chỉ vì đã đặt trọn niền tin nơi Thiên Chúa từ nhân: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.

Ôi tuyệt vời và kỳ diệu quá: điều mà Phê-rô – thủ lãnh Giáo Hội, cần phải trải nghiệm với lời cầu nguyện nâng đỡ của chính Đức Giê-su, thì tên đại gian đại ác đã đạt được cách trọn vẹn và dễ dàng chỉ qua một thái độ thành khẩn và khiêm tốn! Quả vậy, nhận lãnh ơn cứu độ của lòng Thương xót vừa khó lại vừa rất dễ! Nhưng đó là niềm tin đích thực mà mọi Ki-tô hữu đều cần tích cực xây dựng và củng cố, kinh qua các trải nghiệm sa ngã yếu hèn của mình trong cuộc sống. Quả thực đó chính là ‘felix culpa’ mà Âu-tinh lừng danh đã hô lên!

Lạy Chúa Giê-su đầy lòng nhân hậu, hôm nay kỷ niệm ngày con dâng Thánh Lễ đầu tay (Lễ Lá năm 1971). Con đã được trở nên linh mục của Chúa, được chia sẻ công việc lãnh đạo là củng cố niềm tin nơi các tín hữu Chúa trao cho. Có thể cũng như Phê-rô và nhiều linh mục khác, con cứ nghĩ rằng điều con phải làm trước hết là trung thành bảo vệ Chúa và các giới luật của Chúa và Hội Thánh. Con đã lầm! Kể từ ngày 16/09/2007, ngày Chúa ban cho con cảm nghiệm trong giờ chết là: phó thác cho lòng thương xót Chúa mới là điều quan trọng hơn hết mọi sự, con nhận ra sứ mạng thực của chức linh mục là trao ban cho và củng cố nơi anh em niềm tin vào tình yêu thương xót của Chúa, qua ban bí tích Hòa Giải tha tội, qua cử hành Hy Lễ Thập Giá cứu độ. Cảm tạ Chúa về ‘mạc khải’ quí báu này! Mỗi dịp Tuần Thánh về, nhờ việc cùng với toàn thể Giáo Hội cử hành cách đặc biệt long trọng Hiến Tế Thập Giá đầy yêu thương, xin cho con gia tăng kinh nghiệm sống động về tình yêu tha thứ và cứu chuộc nơi bản thân mình, để có thể củng cố niềm tin vào lòng thương xót Chúa nơi các anh em con. A-men.

Về mục lục

.

TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA LÀ CHA

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Tại một phiên tòa xét xử phạm nhân về tội hành hung gây thương tích cho cha mẹ, bị cáo là một trong những đứa con trai của bên nguyên cáo. Cáo trạng cho thấy gia đình của bị cáo có ba người con. Người mẹ đã già, bà phân chia tài sản đồng đều cho con cái trước khi chết. Tuy nhiên vì lòng tham, bị cáo đã không đồng ý với sự phân chia của mẹ. Anh gằn hắt, đánh đập người mẹ với lý do anh đang là người nuôi bà. Không được chia tài sản như ý muốn, anh đuổi mẹ ra khỏi nhà. Trong đau đớn và nhục nhã, bà đã phải làm đơn kiện người con bất hiếu. Khi tòa xét xử, bà chỉ ngồi theo dõi và khóc. Lúc tòa tuyên án bị cáo năm năm tù giam, bà đã bật khóc. Bà đứng lên xin tòa xem xét và tha thứ cho con bà. Mọi người ngạc nhiên khi thấy bà một mực xin tòa tha cho đứa con phản nghịch. Có người hỏi : Tại sao bà kiện nó, bây giờ lại xin tha cho đứa con bất hiếu, kẻ tranh giành của cải của bà, đánh đập bà và còn đuổi bà ra đường ? Bà già vừa khóc vừa trả lời : Dù nó có hư thế nào, thì nó cũng vẫn là con tôi.

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn bắt gặp những hình ảnh, những câu chuyện thật cảm động về tình yêu thương của cha mẹ dành cho con. Những câu chuyện như câu chuyện vừa kể thật khó hiểu và khó giải thích về tình yêu của cha mẹ dành cho con cái. Hôm nay, ngày Lễ Lá, Tin Mừng Luca cũng kể cho chúng ta câu chuyện thật cảm động của Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Câu chuyện khó hiểu và khó có thể giải thích hết bằng lời, tại sao Chúa Giêsu lại chấp nhận đau khổ, nhục nhã như vậy ? Có lẽ cũng chỉ có một cách trả lời giống như câu trả lời của người mẹ đau khổ trong câu chuyện trên : Vì Chúa yêu ta và dù chúng ta có đối xử với Ngài như thế nào, thì Ngài vẫn coi chúng ta là con của Ngài.

Các bài đọc hôm nay cho thấy nhiều khía cạnh tương phản : sự thay lòng đổi dạ nhanh chóng của những người Do Thái, sự hững hờ dửng dưng của các môn đệ ; trong khi đó, Chúa Giêsu một mình lẻ loi đứng trước sự điên cuồng gào thét của đám đông, sự khinh khi miệt thị của những kẻ cầm quyền.

Bài đọc trong nghi thức làm phép lá cho thấy dân chúng đang kỳ vọng vào Chúa Giêsu. Họ cho rằng đã đến thời điểm khởi nghĩa, Chúa Giêsu sẽ đứng lên quy tụ dân chúng đánh đuổi đế quốc Rôma. Vì thế, họ lũ lượt theo Chúa vào thành Giêrusalem, miệng ca tụng : Hoan hô con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Tuy nhiên, khi không được như ý, họ đã quay lưng lại với Chúa Giêsu. Họ đã dùng đám đông gây áp lực để đòi giết Chúa Giêsu. Trong số những con người gào thét điền cuồng : Đóng đinh nó vào thập giá, có cả những người vừa mới theo Ngài vào thành Giêrusalem vừa hô vang : Hoan hô con vua Đavít. Trong số những kẻ đòi tha Baraba và giết Giêsu, có những người vừa mới trải áo lót đường cho Chúa đi.

Đau đớn, nhục nhã hơn nữa đó là khi đứng trước Philatô, một Tổng trấn La Mã, họ vu oan, đặt điều bôi nhọ Chúa Giêsu : Tên này xúi dân làm loạn, tên này xúi dân không nộp thuế. Họ công khai tuyên bố từ chối Chúa Giêsu là vua của họ để nhận hoàng đế Rôma làm vua của mình : Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Cesare. Họ chối từ Thiên Chúa là vua, là chủ cuộc đời họ và nhận một ông vua thế gian làm chúa và làm chủ của mình.

Chúa Giêsu như người cha đau khổ khi thấy đàn con ngỗ nghịch. Ngài chỉ nhìn mà thấy thương cho họ, vì họ ngây ngô, khờ dại, vì họ thay trắng đổi đen, vì họ không nhận ra chân lý. Thánh Luca đã cho thấy, Chúa Giêsu như người cha thấy trước giờ chết đang đến, nên Ngài đã chuẩn bị mọi sự cho con, dặn dò, chỉ bảo và làm tất cả những gì có thể cho con của mình. Ngài bày tỏ lòng ước ao được ăn bữa tiệc vượt qua sau cùng với các môn đệ. Trong bữa ăn này, bầu khí yêu thương tràn ngập, Chúa cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho các ông : Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy. Ngài cũng trao cho các ông chén rượu và nói : Đây là chén Giao ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì các con.

Trong bầu khí trang nghiêm và trầm buồn như thế, dường như các tông đồ cũng không hiểu được tâm trạng của Chúa Giêsu lúc này. Các ông cũng không quan tâm Chúa Giêsu đang làm gì, đang dặn các ông điều gì. Các ông vẫn mơ về một địa vị vinh quang và bổng lộc trần gian. Vì thế, các ông tranh luận hay nói đúng hơn, các ông cãi nhau xem ai được coi là người lớn nhất. Chúa Giêsu như bị lạc lõng ngay trong các người thân tín của mình. Trong những giờ phút cuối cùng, Ngài đang cần những người bạn tâm giao có thể hiểu và thông cảm với Ngài, thì họ lại lo bàn những chuyện khác. Chúa Giêsu đã phải chỉnh sửa và dạy cho các ông biết về bài học yêu thương và phục vụ : Ai muốn làm đầu, phải trở thành kẻ phục vụ anh em. 

Như một người cha, Chúa Giêsu quan tâm đến từng người trong các tông đồ. Ngài hỏi han, căn dặn từng người, nhưng khi giờ khổ nạn đến, các tông đồ đã bỏ trốn hết, chỉ còn lại Simon Phêrô theo xa xa. Tuy nhiên khi bị đe dọa, Simon đã sẵn sàng chối Thầy trước mặt một đứa đầy tớ gái. Chỉ còn một mình Chúa Giêsu bị điệu từ dinh Caipha đến trước mặt quan Philatô. Tại dinh Caipha, người ta đã lên án Chúa đáng phải chết, chỉ vì Chúa Giêsu đã nói đến ngày mọi người sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa. Tại dinh Philatô, ông này tìm cách tha Chúa Giêsu vì thấy Ngài vô tội, nhưng ông không cản đảm sống và bênh vực cho sự thật, không dám làm theo tiếng lương tâm nhắc bảo. Cuối cùng, ông đã để cho sự ác thắng thế, sự giả trá bất công lên ngôi và tìm cách triệt hạ Chúa Giêsu là Tình yêu là Sự thật.

Cử hành ngày Lễ Lá khai mạc Tuần Thánh hôm nay, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm, cảm nhận lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Chúng ta sẽ không thể mãi dửng dưng, vô cảm với tình thương của Chúa, cũng đừng đứng bên ngoài để xem như một người khách bàng quan, nhưng hãy cùng theo Chúa Giêsu trên hành trình thập giá, sống với Ngài, chia sẻ tâm tình với Ngài và nhất là đón nhận từng lời nói, từng hành động Ngài làm vì yêu thương ta.

Chúng ta hãy suy gẫm cuộc thương khó Chúa Giêsu trong tuần thánh này để thấy mỗi người có trách nhiệm, có liên đới trong việc gây ra cái chết cho Chúa Giêsu. Vì, tội lỗi của mỗi chúng ta đã làm cho nỗi nhục nhã của Chúa gia tăng, thập giá của Ngài thêm nặng và vết thương của Ngài thêm sâu hơn, đau hơn.

Chúa Giêsu chịu tất cả chỉ vì yêu ta, thương ta, Ngài muốn cho chúng ta được sống hạnh phúc. Dù cho chúng ta tội lỗi, ngỗ nghịch, Chúa vẫn yêu thương tha thứ, chỉ vì Ngài là Chúa chúng ta và vì chúng ta là con của Ngài. Xin cho chúng ta đừng bao giờ chất thêm đau khổ cho Chúa nữa. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM VUI – THẬP GIÁ – VÀ ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

Với Chúa nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm của toàn thể Năm Phụng Vụ, trong Tuần này chúng ta dõi theo hành trình thương khó của Chúa Giêsu, chết và sống lại.

Niềm vui

Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! (x. Ga 12, 12-16)

Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm phép kiệu lá, tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng rủ nhau ra mà đón : “Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19, 36-38). Giờ đây mỗi người cầm cành lá trong tay vừa đi vừa hát “Hoan hô…” thấy thật là vui.

Đám đông dân chúng đón rước Chúa lúc đó hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành biến cố năm xưa hôm nay. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi dậy lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trong xã hội. Người thấu hiểu và cảm thông cảnh lầm than khốn khổ của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương thể xác cũng như tâm hồnvà tỏ lòng từ bi đối với họ.

Đúng như lời ngôn sứ I-sai-a nói : “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Đó là tình thương cao cả của Chúa Giêsu, Người đã mang tình thương ấy đi vào thành Giêrusalem. Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.

Thập giá

Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm, những lời của Tiên tri Isaia, bài tường thuật của thánh sử Marcô, và những bài đọc phụng vụ khác dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu. Isaia mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (Lc 23,44-45). Nơi bài đọc II, thánh Phaolô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua: Chúa Giêsu, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự” (Phil 2, 6- 8).

Một vị Vua cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực tiến vào thành Giêrusalem là Chúa Giêsu. Người không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Người vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã tiên báo (x. Is 50,6); Người vào để chịu đội mão gai và mặc áo choàng đỏ, vương quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười; Người vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá; Người vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy Thập giá trên mình, mang vào mình sự ác, cùng với sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế và cả tội chúng ta nữa. Với lòng từ bi và tình thương của Thiên Chúa, Người lấy máu mình mà tẩy rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ.

Sống Tuần Thánh

Bước vào Tuần Thánh, Giáo hội cùng với con cái mình dõi theo Chúa Giêsu trên hành trình tiến lên đồi Canvê với thập giá và sự sống lại của Người. Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân của Chúa Giêsu hầu mang lại sự sống cho con người

Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rong ruổi trên khắp nẻo đường, với lòng tin, Người đã chọn gọi 12 người đơn sơ để họ ở với và tiếp tục sứ mạng yêu thương của Người. Trong Tuần Thánh chúng ta sống trọn vẹn cuộc hành trình này. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thi hành sứ mạng yêu thương ấy.

Chúa Giêsu không sống cách thụ động tình thương dẫn đến hy sinh, hoặc như một định mệnh không thể tránh được; Người không che giấu sự sao xuyến sâu xa như một con người trước cái chết dữ dằn, nhưng phó thác hoàn toàn nơi Chúa Cha. Chúa Giêsu tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết, để chứng tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Thánh Phaolô cảm nghiệm được rằng, trên Thập giá, Chúa Giêsu “đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Mỗi người chúng ta có thể nói: Người đã yêu thương tôi và đã phó nộp mình vì tôi.

Nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chúng ta khám phá ra những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của chính cá nhân mình nói riêng. Chúa Giêsu, dù vô tội, đã nhận mang lấy vào thân điều mà con người không thể chịu được như : sự bất công, sự dữ, tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối cùng là sự chết. Trong Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến cho con người ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống.

Mỗi năm, với Tuần Thánh, Giáo Hội bước vào trong Mầu nhiệm Vượt Qua, Mầu nhiệm tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể công bố cho thế giới bằng lời nói và bằng những việc làm tốt của những con cái mình rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là Chúa, Người là Chúa của thời gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người; Người là Ðấng Cứu Thế! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna!

Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy xin với Mẹ là Ðấng đã theo Chúa Giêsu Con Mẹ  trong suốt chặng đường dẫn tới Canvê trong đức tin, giúp con cái Mẹ vác thập giá với niềm thanh thản và yêu thương bước theo Chúa, để đạt được niềm vui của lễ Phục Sinh. Amen.

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An 

Ở Tây Ban Nha, trong một thánh đường, có cây thập giá đặc biệt, nhiều người đến chiêm ngắm tôn thờ. Chúa Giêsu bị đóng đinh tay trái, còn tay phải lại buông thõng xuống.

Truyền thuyết kể lại: có một người tội lỗi tìm đến với cha xứ. Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi với lòng sám hối, nhưng cha xứ lưỡng lự không biết có nên tha hay không, vì thấy ông ấy phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm giọng nói:

  • Tôi ban bí tích Giải tội cho ông, nhưng trong tương lai ông phải cố gắng sửa mình.

Ông hứa với cha xứ, nhưng vì yếu đuối ông lại sa ngã và một thời gian sau lại tìm đến tòa cáo giải.

Lần này thì cha xứ nói với ông bằng một giọng nghiêm khắc:

  • Tôi ban bí tích Giải tội cho ông lần này là lần cuối cùng. Ông đã nghe thấy chưa.

Vài tháng sau, ông lại đến quỳ dưới chân cha xứ và năn nỉ:

  • Con thực lòng ăn năn, xin cha tha tội cho con một lần nữa.

Cha xứ đáp:

  • Đừng đùa giỡn với Chúa. Tôi không ban bí tích Giải tội cho ông nữa đâu.

Khi nói thế, cha bỗng nghe thấy có tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ xuống và ban phép giải tội cho người tín hữu thành tâm sám hối. Và Ngài nói với vị linh mục:

  • Chính Ta đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải là con.

Và cũng từ ngày đó, cánh tay phải của Chúa thõng xuống trong tư thế ban phép tha tội.

‘Chính Ta đã đổ máu ra để cứu chuộc con’. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời tuyên xưng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ Trời xuống thế…Người chịu đóng đinh vào Thập giá vì chúng tôi“. Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài là người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Ngài đón nhận Thập giá tủi nhục thất bại, và đã biến đổi Thập giá thành nguồn ơn cứu độ, tình thương tha thứ cho nhân loại tội lỗi.

Phụng vụ bước vào Tuần Thánh với khởi đầu là Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Khổ nạn, đặc biệt Bài Thương khó kể lại từng chặng đường đau thương của Đấng Cứu Thế. Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Thầy. Giuđa chỉ điểm bắt Thầy bằng một nụ hôn giả dối. Các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Thầy. Chúa Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Họ khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào da thịt. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để rồi thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thơ, mau kiệt sức và chóng chết. Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài mà nói:  Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền!.  Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Ngài như thế.

Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).

Cuộc khải hoàn rước lá của Chúa Giêsu là một dấu chỉ của chiến thắng vinh quang chung cuộc. Việc kiệu lá cho thấy rõ ý nghĩa đích thực của đau khổ và thập giá. Tương tự trong sự kiện “biến hình” trên núi Tabo: Chúa Giêsu cho ba tông đồ thoáng thấy vinh quang thần tính. Khi xuống núi, Ngài ra lệnh cho ba tông đồ phải bảo mật cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết, nghĩa là cho đến khi ý nghĩa của biến cố được tỏ bày. Cũng chính ba tông đồ thân tín chứng kiến cơn hấp hối của Chúa ở vườn Cây Dầu. Sau Phục sinh, Chúa Kitô cũng giải thích cho hai môn đệ trên đường Emmau: “Đức Kitô không phải chịu đau khổ như thế rồi mới vào vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26).

Như vậy ngay từ Lễ Lá, hai sắc thái, hai cục diện của mầu nhiệm Vượt Qua được trình bày rõ ràng. Lễ Lá trình bày hai cục diện theo thứ tự đảo ngược : vinh quang trước, khổ nạn sau. Nhưng thứ tự đó biểu lộ thực chất của mầu nhiệm Vượt Qua. Mầu nhiệm Vượt qua  bản là một mầu nhiệm đạt tới vinh quang và sự sống. Sự chết chỉ là bước đi qua,  phương tiện để đạt tới mục đích là vinh quang Phục Sinh.

Bước vào Tuần Thánh, chúng ta cùng theo Chúa Giêsu trên con đường Thập giá.

Theo Chúa không chỉ khi gặp may mắn, thành công, bình an mà còn chấp nhận khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại.

Theo Chúa không là con đường “xuôi chèo mát mái” hoàn toàn hạnh phúc an lành, mà còn là con đường chọn lựa quyết liệt với những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực thế gian.

Theo Chúa Giêsu là đi con đường thập giá vừa lên dốc, vừa nhiều ổ gà ổ voi và vừa là con đường một chiều. Con đường ấy hẹp chứ không thênh thang theo những trào lưu dễ dãi, giả dối, ích kỷ, hận thù, bạo lực… nên cần phải sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung.

Tuần Thánh, cùng đi vào hành trình thương khó của Chúa, chúng ta gặp thấy nhiều tình huống tăm tối của “nhân tình thế thái” như vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình Yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh đối với Chúa Cha và lòng xót thương với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Cảm nếm và thông phần với nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng vẫn luôn nhận ra lòng xót thương nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài theo Tin Mừng kể lại. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta càng yêu Thập giá của Chúa hơn, yêu thập giá của mình hơn và kính trọng thập giá của người khác hơn.

Theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là một thách đố lớn trong bối cảnh thời nay. Xác tín rằng, có Chúa cùng đồng hành, Ngài luôn thấu hiểu nâng đỡ, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên hành trình theo Ngài. Nếu can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

Về mục lục

.

CÁI CHẾT GIÚP SỰ THẬT HIỂN LỘ

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Sau ba năm Đức Giêsu rao giảng, không ít người đã tin vào Ngài; tuy nhiên niềm tin vào Đức Giêsu của những người này tối đa cũng tương tự như niềm tin của các tông đồ khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế. Họ cho rằng Đức Giêsu là một vị thầy, hơn nữa có thể là một tiên tri, và cao nhất có thể là Đấng Kitô Vua (Ga.6, 15; Mc.8, 29; 11, 9-10). Vào thời điểm đó, người ta không thể biết khác hơn được. Còn đối với những người không tin Đức Giêsu, những kẻ khó chịu hoặc bực tức vì Ngài trổi trang hơn họ, Đức Giêsu đơn thuần chỉ là một con người bình thường như bao người. Những người này không chỉ bất đồng ý kiến với Đức Giêsu, không chỉ khó chịu và bực tức mà còn muốn giết Đức Giêsu nữa (Mc.3, 6).

Vào thời cuối của ba năm rao giảng, Đức Giêsu đã nhiều lần nói những điều có thể làm cho Ngài phải bị ném đá. Chẳng hạn Ngài nói Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5.7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và Thiên Chúa là một (Ga.10, 30). Vào cuối đời, Ngài có những câu nói “gây mất lòng” nhiều người. Càng vào cuối đời, càng có ít người theo Ngài, vì những lời khó có thể hiểu và chấp nhận được, chẳng hạn: “chính tôi là bánh hằng sống. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga.6. 35). Những lời nói tương tự không chỉ làm Đức Giêsu “mất người” mà còn gây thêm có nhiều người thù địch với Ngài, thậm chí còn làm cho những người muốn giết Ngài có đủ bằng cớ và hậu thuẫn. Chẳng hạn, Ngài nhận mình là Thiên Chúa: “chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp nhưng vì một lời phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10, 33).

Gần lễ Vượt Qua, âm mưu giết Đức Giêsu trở nên rõ ràng nên Ngài lui về Galilê. Vì thế, thời điểm Lazarô chết không có mặt Đức Giêsu tại đó. Sau đó khi Ngài muốn lên Giêrusalem thì các tông đồ đã ngăn cản. Tông đồ Thomas đã động viên các bạn: “nào chúng ta cùng lên Yerusalem để cùng chết với thầy” (Ga.11, 16). Đức Giêsu cũng biết Ngài sẽ bị giết nếu Ngài lên Giêrusalem vào thời điểm này, tuy nhiên Ngài vẫn cứ lên. Ngài không muốn trốn chạy cái chết. Ngài đã phải chọn lựa giữa sống và chết một cách cụ thể qua việc có lên Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua này hay không. Cuối cùng Ngài đã chọn lên Giêrusalem cho dù cái chết đang chờ đón Ngài.

Ở Giêrusalem, Ngài vẫn làm điều Ngài vẫn thường làm: “ban ngày Ngài giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm Ngài và các tông đồ ra vườn dầu để ngủ” (Lc.21, 37). Hôm nay Ngài vào Giêrusalem và được dân chúng đón rước như vị Thiên Sai. Ngài chấp nhận biến cố này vì biết thời điểm đặc biệt của Ngài đã đến: thời điểm Ngài được tôn vinh cũng là thời điểm Ngài chết trên thập giá. Cái chết của Ngài có thể được thấy trước vì nó cũng theo quy luật của xã hội: người ta ghét Ngài đến độ muốn giết Ngài (Mc.14, 1).

Lúc khởi đầu người ta muốn giết Ngài vì Ngài đã dám suy nghĩ và nói ngược lại những người có thế lực (Mc.3, 6; 14, 1; 14, 53-59); nhưng khi vị thượng tế hỏi Đức Giêsu và Đức Giêsu trả lời: “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và đến trên mây trời” thì họ không cần phải sắp đặt chứng cớ để giết Đức Giêsu như trước nữa, vì Đức Giêsu đã phạm một tội vô cùng lớn mà mọi người Do Thái một khi biết đều phải xử tử Đức Giêsu, vì là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62-64). Đức Giêsu đầu tiên bị người ta ghen ghét mà muốn giết, rồi khi đã bị bắt và xét xử với chứng cớ được xếp đặt trước, Ngài lại nói Ngài ngang hàng với Thiên Chúa; như vậy trước công nghị Do Thái, Đức Giêsu bị kết án tử hình vì tội tôn giáo: lộng ngôn xúc phạm đến Thiên Chúa. Trên thập giá Đức Giêsu nói: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34); thật vậy, không biết nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu, thì kết án Ngài là chuyện tất nhiên.

Để giết được Đức Giêsu một cách hợp pháp, người Do Thái phải đem Đức Giêsu sang tòa Roma. Vào thời người Do Thái bị đô hộ, quyền xử tử thuộc về thẩm quyền người Roma. Đức Giêsu đã bị gán cho tội chính trị “xưng vương”. Nếu không gán cho Đức Giêsu tội chính trị thì Philatô đã không kết án tử hình Đức Giêsu. Philatô biết Đức Giêsu bị oan, nhưng vì sợ mất chức nên đã  kết án Ngài. Nếu không kết án Đức Giêsu, Philatô có thể bị người Do Thái tố cáo với hoàng đế Roma vì đã buông tha người xưng vua phất cờ khởi nghĩa. Nếu vậy, Philatô phải giải thích, phải biện luận, và sẽ gặp nhiều phiền phức, và hậu quả sẽ là không được hoàng đế tin tưởng nữa, vì vậy Philatô đã kết án tử hình Đức Giêsu thuận theo ý của người Do Thái.

Nếu Đức Giêsu chỉ là một con người, Đức Giêsu xứng đáng lãnh án tử. Thực vậy, khi Đức Giêsu còn sống, nào ai biết Đức Giêsu là người có nguồn gốc thần linh, vì đâu là chứng cớ để người ta có thể tin như vậy! Chỉ khi Đức Giêsu chết và sống lại, người ta mới nhận ra những gì Đức Giêsu nói và cho mình là, là chân thực. Như vậy, chỉ sau biến cố Đức Giêsu Phục Sinh, các tông đồ mới biết chân tướng của Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu là kẻ lộng ngôn phạm thượng, thì Thiên Chúa đã chẳng phục sinh Ngài, còn nếu Ngài đã sống lại, nghĩa là những điều Ngài đã nói là đúng, là chân lý. Nghĩa là, Ngài và Thiên Chúa là một, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài có trước Abraham.

Khi còn sống đời dương thế, Đức Giêsu khó có thể thoát chết, vì chân tướng của Ngài chỉ có thể được thấy rõ sau khi Ngài sống lại. Đức Giêsu bị hiểu lầm mà bị kết án tử hình, vì không ai biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị, vì không ai có thể tưởng rằng Thiên Chúa có thể nhập thể làm người. Sau khi Ngài sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra ý nghĩa của những lời Ngài đã nói mà khi Ngài còn đang sống các ông chẳng hiểu gì. Ngài là Đấng có nguồn gốc thần linh, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài và Cha là một, Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Theo bạn tại sao người ta giết Đức Giêsu?
  2. Có cách nào giúp Đức Giêsu thoát chết không? Tại sao Đức Giêsu không dùng nó?

Về mục lục

.

ĐỨC VUA ĐA KHÔNG

Trầm Thiên Thu

Hoàng đế (Hán tự: 皇帝 – Anh ngữ: Emperor – La ngữ: Imperator) là tước vị cao của Vua, thường là người cai trị của một đế chế hoặc loại khác của vương quốc, đế quốc. Nói chung, Hoàng đế là người được công nhận có danh dự và xếp hạng cao hơn so với quốc vương.

Vua thì có ngai, gọi là bệ rồng. Quần thần không được “đụng chạm” tới Vua, có tâu cũng chỉ được tâu cái bệ có cái ngai của Vua ngồi: “Muôn tâu b h. Ngước nhìn long nhan nhà vua là phạm tội “khi quân”, xử tử ngay!

Vua nào cũng có tiền hô hậu ủng, có tất cả mọi tứ, kể cả quyền sinh tử: “Quân x thn t, thn bt t bt trung. Chỉ có Đức Giêsu Kitô là vị Vua cao cả nhất, Vua của các vua, là Thiên Vương, là Chúa của các chúa, thế mà lại có một số KHÔNG to lớn và tròn trịa: KHÔNG đăng quang, KHÔNG ngai vàng, KHÔNG bệ rồng, KHÔNG long bào, KHÔNG bảo kiếm,… chỉ có đám dân đen tôn Ngài làm Vua, cái mà chúng ta gọi là “ngai vua” đối với Ngài là chính “ngai khổ” Thập Giá. Và Ngài được dân chúng reo hò chúc tụng là “Con Vua Đa-vít, Đấng nhân danh Chúa mà đến” chỉ trong chốc lát mà thôi. Rồi người ta mau chóng lật mặt như trở bàn tay!

Ngay trong khi dân chúng tôn vinh Ngài, cả bốn Phúc Âm đều nói rõ rằng lòng kính trọng Chúa Giêsu khi Ngài vào Thành Giêrusalem được thể hiện nhưng không phải tất cả đều là cư dân Giêrusalem. Thánh Mát-thêu cho biết: “Khi Đc Giêsu vào Giêrusalem, c thành náo đng, và thiên h hi nhau: ‘Ông này là ai vy?. Dân chúng tr li: ‘Ngôn s Giêsu, người Nadarét, x Galilê đy (Mt 21:10-11).

Chúa Nhật Lễ Lá là lúc giờ G đã điểm, khởi đầu hành trình khổ nạn của Đức Kitô từ lúc vào Thành Thánh Giêrusalem. Dân chúng thấy Chúa Giêsu làm nhiều thứ quá tuyệt vời, quá kỳ diệu, vượt ngoài sức tưởng tượng của loài người, thế nên họ muốn tôn Ngài làm vua, chính họ cũng đã nhận biết Ngài là ai, họ lũ lượt theo nhau và reo hò vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tng Đng ng đến nhân danh Đc Chúa! Hoan hô trên các tng tri (Mt 21:9).

Cây càng cao, gió càng lay. Càng làm lớn càng khổ. Khổ từ khi đăng quang và vinh quy bái tổ. Vua chúa, hoàng đế hoặc quốc vương nào cũng có lễ đăng quang. Ngay cả giáo hoàng cũng có lễ đăng quang.

Người ta thường nói: “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ”. Điều đó cho thấy kiếp người không ngừng nối tiếp đau khổ, là một hành trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà khi sinh ra không ai cười, ai cũng “cất tiếng khóc chào đời”. Biết chấp nhận thì có thể “hóa giải” đau khổ thành niềm vui, nếu không thì càng chồng chất thêm đau khổ mà thôi.

Hơn 2000 năm trước, Thích Ca Mâu Ni là người sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là khổ, Bệnh là khổ, Lão là khổ, và Khổ là khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức Phật. Mun thoát đau kh không gì hơn là đi xuyên qua đau kh. Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta tung hô khi tay họ cầm lá thiên tuế chào đón. Nhưng đó cũng là lúc Ngài khởi đầu “hành trình đau khổ”.

NGƯỜI TÔI T ĐAU KH

Ngôn sứ Isaia nhiều lần tiên báo về “người tôi tớ đau khổ”. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông xác nhận: “Sáng sáng Người đánh thc tôi đ tôi lng tai nghe như mt người môn đ (Is 50:4). Ông cho biết thêm: “Đc Chúa là Chúa Thượng đã m tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng li, cũng chng tháo lui (Is 50:5).

Ngôn sứ Isaia “không cưỡng lại” và “không thoái lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6). Ông tin mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Thế nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “hành trình đau khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua.

Tác giả Thánh vịnh mô tả về tình trạng chịu nhục nhã ê chề:

Thy con ai cũng chê cười

Lc đu, bĩu m, buông li ma mai:

“Nó trông cy Đc Chúa Tri

C đ mc Người gii cu nó đi! (Tv 22:8-9)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không chỉ bị khiêu khích, bị đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ về thể lý:

Quanh con by chó bao cht ch

Bn ác nhân vây ba trong ngoài

Chúng đâm con thng chân tay

Xương con đếm được vn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ bị đau khổ đến tận cùng, nhưng vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa:

Áo mc ngoài chúng đem chia chác

Còn áo trong cũng bt thăm luôn

Chúa là sc mnh con nương

Cu mau, ly Chúa, xin đng đng xa! (Tv 22:19-20)

Đồng thời vẫn muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính những đau khổ của mình:

Con nguyn s loan truyn danh Chúa

Cho anh em tt c được hay

Và trong đi hi dân Ngài

Con xin dâng tiến mt bài tán dương (Tv 22:23)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ luôn trung tín với Thiên Chúa, tự động viên mình và khuyến khích người khác: “Hi nhng ai kính s Đc Chúa, hãy ca tng Người đi! Hi toàn th ging nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen tt c, nào mt d khiếp oai! (Tv 22:24).

NGƯỜI CHP NHN ĐAU KH

Thánh Phaolô vừa phân tích vừa xác định: “Đc Giêsu Kitô vn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phi nht quyết duy trì đa v ngang hàng vi Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút b vinh quang mc ly thân nô l, tr nên ging phàm nhân sng như người trn thế (Pl 2:6). Đạo cũng như đời, người quyền cao chức trọng có mấy ai dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân?

Trong tác phẩm “Authority: Its Use and Abuse” (*) có kể một số “điểm son” của Đức cố GM Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ), một giám-mục-đa-không, đáng để chúng ta noi gương:

Mi Chúa Nht, ngài đến mt giáo x nào đó mà không báo trước, ngi tòa gii ti khong 15-20 phút, dâng l, ging l, dy giáo lý, và chuyn trò vi giáo dân và linh mc qun x; ngài không bao gi cho phép người ta t chc tiếp tân chào mng ngài ti các giáo x. Và ti tòa giám mc hay bt c nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài không nhn bt c s bit đãi nào dành cho mình; ngài cho rng s hào nhoáng bên ngoài (kiu như đoàn xe đưa rước trong nhng dp đc bit) không phi là chng nhân Tin Mng mà là chng nhân ca văn hóa thế tc; hng ngày ngài dành thi gian t 9 gi đến 12 gi đ tiếp bt c ai đến gp, không cn hn trước; ngài không bao gi ngh trưa; ngài ch d nhng l k nim chu chc hay khn dòng nếu nhng l y t chc nhà th chính tòa; ngài không t chc mng ngày k nim th phong giám mc ca mình. Năm nào ngài cũng mng l bn mng, dp các linh mc tĩnh tâm tháng vào ngày 19-3 (L Đc Thánh Giuse Phu Quân Đc Maria). Linh mc đoàn cùng nâng cc chúc mng và nhâm nhi chút bánh ngt; ngài không đưa lên bng thông tin giáo phn các tin v hot đng hay đi li ca ngài trong giáo phn, mà ch thông tin cho mi người biết trước v nhng trường hp ngài phi ra ngoài giáo phn quá mt ngày, chng hn khi ngài sp đi d hp Hi Đng Giám Mc,…; ngài không bao gi đi nước ngoài, tr phi đó là bn phn bt buc như v Rôma dp Ad limina. Ngài không bao gi đi nước ngoài đ quyên tin. Ngài nói rng các nhu cu căn bn ca giáo phn cn phi được gánh vác bi chính giáo dân trong giáo phn; không bao gi có chuyn pht treo, chng hn không cp giy chng ch hôn phi vì người ta chưa đóng góp quĩ; ngài luôn ăn mc gin d, ăn chay trường, và chng ai thy hình nh ca ngài trên báo chí; ngài hưu trí ti nhà hưu ca các linh mc cao niên. Cuc đi ngài tht đơn gin, tt c đ đc xếp gn trong mt chuyến xe nh; giáo phn tng ngài mt ô tô dp ngài v hưu, nhưng ngài không nhn, ch mun được tr cp hưu bng đúng theo mc hưu dưỡng như các linh mc khác trong giáo phn; ngài không mun xin vin tr t bên ngoài đ xây các nhà th to ln. Nếu ai dâng hiến đt, ngài s xây mt nhà th va phi vi s h tr ca chính các giáo dân đa phương; văn phòng ca ngài là mt gian phòng nh trong mt ngôi nhà cũ k, không có bt c món trang trí nào; ngài là mt chng nhân Tin Mng, sng điu ngài rao ging, cách sng ca ngài cho thy rõ quyn bính là đ phc v.

Tại Việt Nam có gương sáng của Đức cố GM Cassaigne (người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi. Khi còn là giám mục Saigon, ngài cũng đã từng rong rui khp khu dân cư nghèo đ thy rõ thc tế, ca tòa giám mc cũng luôn rng m đón tiếp mi người.

Những chứng nhân như vậy thật đáng khâm phục vì đúng là những mục tử của Chúa, dám quên mình vì đoàn chiên, là những chủ chăn đích thực và sống động, chứ không nói suông qua các văn bn hoc bài ging.

Chúa Giêsu không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ mà còn là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường: “Ngài li còn h mình, vâng li cho đến ni bng lòng chu chết, chết trên cây thp t (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tng ban danh hiu tri vượt trên muôn ngàn danh hiu (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi va nghe danh thánh Giêsu, c trên tri dưới đt và trong nơi âm ph, muôn vt phi bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đc Giêsu Kitô là Chúa (Pl 2:11).

Trong cuộc sống, không ai muốn đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn sống sung sướng, muốn tận hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế mà con người mit mài đêm ngày đi tìm hnh phúc. Đau khổ luôn là điều bí ẩn đối với cuộc sống. Thậm chí những người chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, là “điên khùng”. Tuy nhiên, với người tin vào Đức Kitô, đau khổ là một mầu nhiệm.

Bất kỳ ở quốc gia nào, một bị cáo đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa. Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và một phe đưa ra các điều xấu – được gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Thánh GH Gioan XXIII, luật-sư-của-quỷ đã hết cách nên đành “tố cáo” Gioan XXIII hi nh hay chơi diu.

T c chí kim, ch có mt t ti đc bit không có lut sư bào cha, cũng chng có ai bênh vc mt li nào, đó là Đc Giêsu Kitô. Người ta va tôn làm vua xong đã vi lt mt và đòi đóng đinh vào Thp giá, đến c nhng người thân cn nht cũng s liên ly mà b rơi Đi Sư ca mình, người mà mình leo lo tán dương lên tn mây xanh!

ĐIM BÁO GI G

Bài Thương Khó hôm nay là một bộ phim dài, một tấn bi kịch đẫm lệ sầu, một cuộc chia ly đầy nước mắt.

Giờ G đã điểm, Đức Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ. Người nói: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22:15). Ngài đưa ra lý do: “Thy s không bao gi ăn l Vượt Qua này na, cho đến khi l này được nên trn vn trong Nước Thiên Chúa (Lc 22:16).

Sau đó, Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Mình Máu Ngài để nuôi sống chúng ta. Ngài tiên báo mọi chuyện sắp xảy ra như những lời trăng trối, và để cảnh báo mọi người. Rồi Ngài phân tích về cách cai trị: “Vua các dân thì dùng uy mà thng tr dân, và nhng ai cm quyn thì t xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phi như thế, trái li, ai ln nht trong anh em, thì phi nên như người nh tui nht, và k làm đu thì phi nên như người phc v. Bi l, gia người ngi ăn vi k phc v, ai ln hơn ai? Hn l người ngi ăn ch? Thế mà, Thy đây, Thy sng gia anh em như mt người phc v. Còn anh em, anh em vn mt lòng gn bó vi Thy, gia nhng lúc Thy gp th thách gian nan. Vì thế, Thy s trao Vương Quc cho anh em, như Cha Thy đã trao cho Thy, đ anh em được đng bàn ăn ung vi Thy trong Vương Quc ca Thy, và ng toà xét x mười hai chi tc Ít-ra-en (Lc 22:25-30).

Đặc biệt là Ngài cảnh báo về sự dữ đối với Phêrô: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng go. Nhưng Thy đã cu nguyn cho anh đ anh khi mt lòng tin. Phn anh, mt khi đã tr li, hãy làm cho anh em ca anh nên vng mnh (Lc 22:31-32). Chúa Giêsu thân thiện gọi ông là Simon, gọi tên thật chứ không gọi “nickname” Phêrô, triều đại giáo hoàng đệ nhất.

Ông Phêrô thưa với Người: “Ly Chúa, du có phi vào tù hay phi chết vi Chúa đi na, con cũng sn sàng (Lc 22:33). Đức Giêsu nói ngay: “Này anh Phêrô, Thy bo cho anh biết, hôm nay gà chưa kp gáy, thì đã ba ln anh chi là không biết Thy (Lc 22:34). Tính nóng như lửa, thế mà Phêrô cũng chỉ biết gãi đầu và im lặng, chả nói được gì. Nói ngon lắm, nhưng rồi không phải thế. NÓI và LÀM là hai việc khác nhau, có một khoảng cách rất gần mà cũng rất xa!

Biết mình không còn bao lâu nữa sẽ xa rời người thân, nên Ngài rất quan tâm: “Anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc 22:35). Các ông trả lời “không”. Các ông tưởng sắp có chiến tranh và đổ máu nên cùng nói: “Ly Chúa, đã có hai thanh gươm đây (Lc 22:38a). Nhưng Chúa Giêsu bảo họ: “Đ ri! (Lc 22:38b).

Sau đó Ngài đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ lẽo đẽo theo Ngài. Đến nơi, Ngài bảo: “Anh em hãy cu nguyn ko sa chước cám d (Lc 22:40). Cầu nguyện là điều cần thiết lắm, thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động. Ngài đi xa các ông một quãng, rồi quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22:42). Lúc này Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Chúa Giêsu vừa lo vừa sợ, vừa buồn vừa cô đơn, đến nỗi m hôi Ngài như nhng git máu rơi xung đt (Lc 22:44).

Cầu nguyện xong, Ngài quay lại chỗ các môn đệ, nhưng các ông đang ngủ ngon lành. Ngài nói: “Sao anh em li ng? Dy mà cu nguyn, ko sa chước cám d (Lc 22:46). Lần thứ hai Chúa nhắc các ông cầu nguyện, Ngài xác định việc cầu nguyện vô cùng cần thiết, mọi nơi và mọi lúc.

Ngay lúc đó, Giuđa lại gần Đức Giêsu để hôn Ngài, và để chỉ điểm cho bọn thủ ác đến vây bắt Ngài. Chúa Giêsu ôn tồn: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà np Con Người sao? (Lc 22:48). Lời nói nhẹ mà đau thấm thía. Ngày nay, chúng ta cũng vẫn dùng “dấu tốt” để bán Chúa, để mưu hại tha nhân, để làm những điều phi nhân nghĩa.

Người ta muốn dùng gươm giáo để chiến đấu, chính Phêrô đã nhanh như chớp, tuốt gươm chém ngay, nhưng có lẽ ông run tay nên chỉ đứt tai một tên lính chứ nếu ngon lành thì ông cho nó đầu lìa khỏi cổ rồi. Phêrô còn nhát tay lắm! Thấy vậy, Đức Giêsu lên tiếng: “Thôi, ngng li (Lc 22:51). Và Ngài gắn lại liền tai cho khổ chủ. Phép lạ nhãn tiền thế mà bọn thủ ác vẫn lì lợm, vẫn cứng lòng, vẫn cố chấp!

Chúa Giêsu bị chúng dẫn đi, khi đi ngang qua Phêrô, Ngài nhìn ông với ánh mắt sâu thẳm, vừa buồn trách vừa xót thương, ông giật mình vì ông vừa chối Thầy đúng như lời Thầy nói trước. Tiếng gà gáy xoáy sâu vào lòng ông khiến ông vừa xấu hổ vừa ăn năn, ông chạy ra ngoài và bật khóc, khóc như con trẻ, khóc như chưa bao giờ khóc, tiếng khóc rất thảm thiết (Lc 22:62).

Bọn thủ ác bịt mắt Ngài lại, thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Ngài, và hành hạ Ngài đủ kiểu, thâu đêm suốt sáng, không chút tiếc xót. Khi trời sáng, mọi người đều nói: “Vy ông là Con Thiên Chúa sao? (Lc 22:70a). Ngài thản nhiên: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây! (Lc 22:70b). Họ liền vào hùa: “Chúng ta cn gì li chng na? Chính chúng ta va nghe ming hn nói! (Lc 22:71).

Sau đó, họ bắt đầu tố cáo Chúa Giêsu đủ thứ, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cái gì cũng hóa thành trọng tội, dù là việc làm tốt. Tâm địa kẻ ác là vậy!

Philatô nhát gan vì sợ mất chức quyền, không dám hành động theo lương tâm, rửa tay để chứng tỏ mình chí công vô tư. Ông ta muốn cho đánh đòn Chúa Giêsu rồi thả ra, nhưng dân chúng không chịu, họ đồng thanh la ó: “Giết nó đi, th Baraba cho chúng tôi! (Lc 23:18). Baraba đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người. Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên tử tội tàn ác khét tiếng. Thấy dân chúng nhất quyết xin tha Baraba mà giết Chúa Giêsu, Philatô đành chiều theo ý họ. Thật đê tiện!

Con đường từ dinh Philatô tới Đồi Can-vê quanh co, đồi dốc và lởm chởm. Chúa Giêsu phải tự vác Thập giá mà đi, biết bao vất vả, sức yếu dần vì bị đòn roi với đủ nhục hình và còn bị đói khát, Ngài đã ngã xuống 3 lần vì sức nặng của Thập giá. Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi!

Đến Đồi Sọ, họ đóng đinh Ngài vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Chịu đủ loại nhục hình, từ lời nhục mạ tới hành động đóng đinh, loại tử hình nặng nhất thời đó, và dù đang bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu vẫn đại lượng: “Ly Cha, xin tha cho h, vì h không biết vic h làm (Lc 23:34). Kể từ xưa tới nay, và đến mãi về sau, chắn chắn không thể có sự tha thứ nào lớn hơn nữa!

Ngay cả tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài, với chỉ một lời “xin nhớ tới hắn” thôi, thế mà Ngài liền cho hắn đồng hành vào Thiên quốc, và trở thành vị thánh đầu tiên của Tân Ước. Hạnh phúc thay cho Dismas!

Cái chết là kết thúc cuộc sống trần gian, trút hơi thở cuối cùng là ranh giới giữa sự sống và sự chết. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Ly Cha, con xin phó thác hn con trong tay Cha (Lc 23:46). Nói xong, Ngài tắt thở!

Thấy sự việc xảy ra nhãn tiền, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này đích thc là người công chính! (Lc 23:47), và toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về (Lc 23:48). Đó là những biểu hiện sám hối, họ còn may mắn và kịp nhận ra tội mình – không trực tiếp thì cũng gián tiếp giết chết người vô tội, làm khổ tha nhân, sát hại Đức Kitô.

Không có nỗi đau khổ nào bằng nỗi khổ của Chúa Giêsu. Được tôn làm vua mà không có ngai vàng, không được đăng quang, thay vào đó lại là nhục hình Thập giá!

Ly Chúa, chúng con thành tâm sám hi và xin li Chúa, xin thương xót và tha th. Xin cm t Chúa Cha đã ban Đng Cu Thế cho chúng con. Chúng con tht may mn và hnh phúc vì được tn hưởng Lòng Thương Xót vô biên nh cái chết ca Đc Kitô, dù chính chúng con đã nhn tâm trc tiếp hoc đng lõa sát hi Con Thiên Chúa. Xin ban Thánh Thn giúp chúng con can đm sng xng đáng vi Ơn Cu Đ, kiên trì đi trn hành trình đau kh và làm chng nhân ca Lòng Chúa Thương Xót, đ chúng con cũng được cùng phc sinh vi Chúa Con. Chúng con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu Kitô, Đng cu đ chúng con. Amen.

(*) Authority: Its Use and Abuse (S Dng và Lm Dng Quyn Bính), sách ca LM C.P. Varkey (NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999).

Về mục lục

.

SUY NIỆM BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU – KITÔ

P.Trần Đình Phan Tiến

“ Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)

Kính thưa quý vị, hôm nay là Chúa Nhật Lễ Lá, ý nghĩa Lễ Lá là một niềm vui, rước lá là rước Đức Kitô khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua của dân Dothai, kỷ niệm Thiên Chúa đã “Cứu” họ khỏi ách nô lệ vua Aicập, nhưng, hôm nay họ lại “giết” Con Thiên Chúa.

Vâng, thưa quý vị Bài Thương Khó theo Tin Mừng thánh Luca hôm nay, thuật về cái chết của Chúa Giêsu, một cái chết có một không hai, một cái chết của Con Người vô tội, Người là Hy Tế bởi Thiên Chúa, cái chết của Người là một Hy Lễ vô song để “CỨU” chuộc thiên hạ. Song, cái chết ấy được bắt nguồn từ sự đố kỵ, ganh ghét, hiềm khích , vu cáo, cáo gian để giết đi một Con Người vô tội, đồng thời là một Hy Tế của Thiên Chúa.

Nhưng, chủ đề chính hôm nay chính là sự “tha thứ”, vâng, Thiên Chúa cứ tha thứ và tha thứ, cũng chính vì tha thứ, Người đã tự nguyện nộp mình chịu khổ hình.

Tin Mừng cho chúng ta biết, người Dothai âm mưu giết Chúa Giêsu cũng chỉ vì họ không biết ”tha thứ ”, không biết “yêu”. Chúng ta thấy hai động thái trái ngược nhau giữa một bên là tinh yêu giữa một bên là thù hận. Yêu thương thì tha thứ, thù hận thì ganh ghét. Họ ganh ghét Chúa Giêsu, bởi vì họ cảm thấy ”thua” Chúa Giêsu, họ nghĩ rằng họ phải hơn Người, nhưng “hơn” làm sao được, vì Người là Con Thiên Chúa, họ nghĩ rằng Chúa Giêsu mạo phạm đến Thiên Chúa, vì một vị Cứu Tinh cho dân tộc Dothai phải là một vị hùng tráng, binh hùng tướng mạnh, chứ không thể là một người “nghèo khó”như Chúa Giêsu được. Vâng, đó là một sự nhầm lẫn rất lớn, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã dùng một giải pháp tối ưu, đi ngược lại con người.

Chúa Giêsu chỉ đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, chữa lành bệnh tật, trừ ma quỷ và thần ô uế, không trộm cắp, giết người, gian tham lọc lừa ai, vu cáo ai. Như vậy, những “cái không” của Chúa Giêsu là có tội sao, mà là tội tử hình sao?! Án tử sao mà dễ thế, công lý ở đâu? ! Pháp luật ở đâu rồi?!

Người Dothai giết Chúa Giêsu chỉ vì lý do tôn giáo, đi ngược lại những ý thức giả trá của họ, những lề luật do họ đặt ra, để có lợi cho họ. Họ âm mưu gài bẫy Người nhiều lần, nhiều cách, nhưng không  thể thắng được Người, vì vậy, họ tìm cách cáo gian Người. Theo đó, Chúa Giêsu không thể bị kết án theo luật Dothai, bị ném đá theo luật Môisen, hay bị người Dothai tự ý hành quyết, mà là họ phải dựa vào tội chính trị “tội phản động”. Nhưng, khi bị cáo gian trước tòa Philato, quan tòa của Đế quốc ngoại bang, thì Philato cũng đầu hàng, vì không tìm ra “tội” nơi Chúa Giêsu. Rồi đến lượt philato trả về cho Herode là thẩm quyền người dothai xét xử. Chúng ta thấy, dù tìm mọi cách, nhưng cũng không thể tìm ra “tội” nơi Chúa Giêsu. Herode nghe danh tiếng Chúa Giêsu đã lâu, nhưng chưa có dịp gặp Người, vì vậy, muốn nhân cơ hội nầy, tìm cách “dụ dỗ” Chúa Giêsu cho ông ta xem phép lạ, vì ông ta nghĩ rằng: ông ta có thể mua chuộc được Chúa Giêsu, một “Con Người khố rách áo ôm”, còn ông ta thì “đầy quyền lực” và “bạc tiền”. Nhưng, qua cuộc đối đáp, Chúa Giêsu không thỏa mãn yêu cầu cũng như sự hiếu kỳ của ông ta, thế là , ông ta đành buông xuôi trao Chúa Giêsu lại cho Philato. Như vậy, làm quan cũng không dùng sự liêm chính mà xét xử, trả lại công bằng cho người vô tội, nhưng đành nhu nhược chiều theo cái ác.

Vâng, vụ án xét xử Chúa Giêsu hơn hai ngàn năm trước, ngày nay những nước chậm tiến, lạc hậu, độc tài, toàn trị cũng nhu nhược không kém, sự liêm chính cuả quan tham chẳng khác nào bọt nước xà phòng, hay bong bóng xì hơi, công bằng, công chính, công lý không thể có trong chế độ độc tài toàn trị. Những Nước như Triều Tiên chẳng hạn, bất chấp dân chủ, nghĩ mình là trên hết, ai động vào sẽ chết.

Là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã tự hạ, vâng lời Chúa Cha, trở nên phàm nhân, ngoại trừ tội lỗi, để trở nên giá chuộc nhân loại. Vâng, không có vị nguyên thủ nào, vị quân vương nào, vị thủ lãnh nào như Chúa Giêsu, dù họ chỉ là phàm nhân hoàn toàn, sự hữu hạn của nhân loại, nhưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa , nhưng Người đã hoàn toàn trở nên hy tế cho nhân loại như trong đoạn ( Is 50, 4 -7) hôm nay. Chịu một bản án bất công, chịu xét xử vô lý, nhưng Người hoàn toàn tự nguyện xin tha cho kẻ giết Người.

Vâng, bản án của Chúa Giêsu chính là kế hoạch Cứu Độ bởi Thiên Chúa mà ra, vì vậy, thái cực của người Dothai và thái cực của Chúa Giêsu hoàn tòan đối lập, tạo nên một bản án bất công. Phơi bày một sự thua thiệt, thất bại của công lý, giống như bóng đêm đè lên ánh sáng mặt trời vậy.

Vâng, là Con Thiên Chúa, mang bản Tính Thiên Chúa thật, nhưng Chúa Giêsu đến trần gian, mang lấy hết những oan khiên, nhục nhã, đau đớn thể xác và tinh thần trong một bản án bất công, nếu là một phàm nhân hoàn toàn thì Đức Kitô qủa là nhà cách mạng có một không hai trên thế giới giải phóng cho nhân loại khỏi những sự bất công vô lối. Vì, không có nhà cách mạng nào dám vì nhân loại mang lấy một bản bất công cho nhân loại, vì nhân loại cách thảm thương như vậy. Những, nhà chính trị họ theo đường lối của những nhà giải phóng dân tộc chẳng qua vì “quyền lực và lòng tham”, vì địa vị và hưởng thụ. Nhưng, chỉ duy một mình Chúa Giêsu mới là nhà cách mạng chân chính cho nhân loại. Ngày nay, sở dĩ còn nhiều nơi bách hại Kitô giáo chính là họ không muốn đón nhận sự công chính, nền hòa bình đích thực từ Thiên Chúa, những nơi còn bách hại  Kitô giáo, chính là còn mang hệ lụy quyền lực, tham lam, bá chủ, thống trị kẻ khác của những tư tưởng sai lạc, chống lại Thiên Chúa. Dù rằng, những người ấy có số tuổi chỉ bằng 0,2% của Chúa Giêsu mà thôi.

Vâng, thưa quý vị , như vậy, cuối cùng bản án của Chúa Giêsu cũng được hoàn tất trên Núi Sọ, vì ngọn núi Golgotha có hình giống chiếc sọ người. Nhưng, giữa hai kẻ trộm cướp, thì cũng còn có một kẻ biết nhìn nhận Người, nhìn nhận bản án bất công của Người phải chịu, và xin với Người: “ Lạy Ngài, khi nào vào Nước Ngài xin nhớ đến tôi ! ” (c 42). Rồi, Người nói với anh ta: “ Ta bảo thật, ngay hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với ta.” ( 43). Vâng, có nghĩa là người trộm biết sám hối, và tin vào Chúa Giêsu, thì anh ta được cứu độ. Theo đó, Thiên Đàng ở đây có nghĩa là được “cứu độ”, được chính Chúa Giêsu tha thứ. Vì, Thiên Đàng có nghĩa là chính Chúa Giêsu, vì Thiên là Trời, Đàng là Đường, có nghĩa là Đường về Trời, hay Con Đường đến từ Trời, là chính Chúa Giêsu, vậy ai được Chúa Giêsu thì chính là nhận được Thiên Đàng rồi, và có lần Chúa Giêsu đã nói: “Ta là Đường, là sự thật, và là  sự sống…”. Vậy, Thiên Đàng là chính Chúa Giêsu vậy. Vâng, quả là hạnh phúc nếu ai tin vào Chúa Giêsu và tuyên xưng vào Người.

Vì như lời thánh Phaolô trong (Pl 2, 6-11), “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng cùng Thiên Chúa… “ . Vâng , và như vậy chính là Thiên Đàng, như vậy Thiên Đàng là con đường trút bỏ hoàn toàn thế tục mà bước theo Đức Kitô –Giêsu. Như vậy, Thiên Đàng hay Nước Trời là chính Chúa Giêsu và nơi có Thiên Chúa ngự trị, chính là tâm hồn người công chính./.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin sấp mình tôn thờ cái chết của Chúa để cứu độ chúng con và chúng con tin vào sự Phục Sinh của Chúa để dẫn đưa chúng con đến cùng Chúa Cha là Cha giàu Lòng Thương Xót. Vì Chúa là Đấng Hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời./. Amen.

Về mục lục

.

THAY ĐỔI TRONG YÊU THƯƠNG

Lm. Jos. DĐH

Có những đổi thay như một chu kỳ tự nhiên : rừng thay lá, trăng khuyết rồi trăng tròn, sau cơn mưa trời lại sáng, mọi người dễ dàng đón nhận. Có những điều lập đi lập lại nhiều lần trong ngày, trong tháng, mà ta không chán : được thành công, khen thưởng, được quan tâm, mộ mến, kính trọng… Lại có những lòng dạ thay đổi, khiến nhiều người phải đau khổ xót xa : thay tình như thay áo, đổi trắng thay đen, với nhiều lý lẽ biện minh như câu thành ngữ : miệng lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.

Đành rằng ai cũng sợ khổ đau, dù về mặt thể xác hay tinh thần, đó là nguyên nhân làm ta gục ngã, khó đứng dạy, nếu thiếu tình yêu. Kinh nghiệm ở đời đâu phải “thất tình” mới cảm thấy cô đơn, không phải những người già ở “viện dưỡng lão” mới cảm nhận mình cô quạnh. Thực ra, đối tượng nào bị bỏ rơi cũng thất vọng, vì khổ đau, cô đơn. Theo diễn tiến Chúa Giêsu trong phụng vụ hôm nay, không phải chỉ có đau khổ và bội phản, chính xác hơn “quy luật yêu thương” không thể thiếu của lễ hy sinh, máu và nước đổ ra, hầu rửa sạch tâm hồn là vậy.

Lập trường Kitô giáo không phải là sống đạo trong nhà thờ, đâu chỉ dừng lại việc suy niệm cuộc đau khổ tử nạn của Đức Giêsu, không phải hấp hối trên giường bệnh rồi mới suy nghĩ về sự chết và sống lại. Ngôn ngữ của người trẻ có câu : say men rượu tuy say mà ngọt, say men tình, tuy ngọt mà cay. Rượu giết ta say, ngày mai ta tỉnh, tình giết ta rồi, bất tỉnh thiên thu. Tuy không thể so sánh tình yêu Giêsu với “ma men” tình đời, nhưng tận cùng của “yêu thương” bao giờ cũng vĩ đại, bất tử.

Người Kitô hữu được thay đổi nên giống “tình Giêsu” là nhờ công cuộc tử nạn và phục sinh của Đấng Kitô. Đức Giêsu chết vì yêu trên thập giá không phải vì “say tình”, mà là hành động “dâng hiến” duy nhất và cuối cùng, hướng nhân loại về mầu nhiệm Phục Sinh. Trước đau khổ về vất chất, chúng ta ai cũng có gia đình người thân để cậy nhờ, nâng đỡ; về đau khổ tinh thần, chúng ta có Giáo hội, có Đức Giêsu, tất nhiên phải có tình yêu Chúa mới thay đổi được con người và tâm tính ta.

Con người luôn có tự do để nhận hay từ chối ơn cứu độ và Đấng Cứu độ, ấy vậy con người không thể sử dụng tự do của mình để đạt tới hạnh phúc thật, có chăng là ảo tưởng. Xưa kia, khi đối diện với bản án chết, hẳn lúc đó Chúa cũng run sợ, cũng phải chống trả cám dỗ để không thay đổi lập trường yêu thương nhân loại tội lỗi. Trong cầu nguyện, yêu thương, Chúa Giêsu đã xác định con đường thập giá chính là cách thể hiện tình yêu vâng phục đúng ý Chúa Cha. Và ai muốn thay đổi con người tội lỗi của mình, cũng phải hiệp thông trong tình yêu Đấng Kitô.

Tình yêu đôi lứa và tình yêu giữa con người với nhau, chúng ta quen hơn là tình yêu của Đấng đã chết vì nhân loại tội lỗi. Chúa Giêsu vì yêu, Ngài đang vào thành thánh của tâm hồn mỗi chúng ta, Chúa cần ta tung hô chúc tụng bằng hành động của “con tim”, tuyệt đối không phải bằng môi miệng. Mỗi đất nước đều có một vị vua, tổng thống, hoặc chủ tịch, để điều hành lãnh đạo. Nhưng thế giới hữu hình và vô hình này, nơi Đức Giêsu, Vua Tình Yêu, Đấng duy nhất chia sẻ và cứu giúp chúng ta thay đổi được tâm hồn mình xứng hợp với hạnh phúc ơn cứu độ.

Tình yêu Đấng trên thập giá xưa kia đã hoán cả được anh trộm lành; đã thay đổi được tâm hồn của Phêrô, của các môn đệ nhút nhát vì sợ đau khổ chết chóc. Trong tình yêu của Đức Giêsu hôm nay, hẳn vẫn đang thay đổi mạnh mẽ thế giới, thay đổi từng tâm hồn của mỗi người bằng nhiều ngôn ngữ không lời khác nhau. Hy vọng chúng ta theo đạo, tin đạo, sống đạo, không phải chỉ khi được những điều như ý, hoặc lý giải được khổ đau thập giá là gì. Nhưng mỗi ngày nhờ đau khổ thập giá, chúng ta được lớn dần trong niềm tin yêu của Đấng Phục Sinh. Amen.

Về mục lục

.

THẬP GIÁ, MẦU NHIỆM CỦA MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ

Lm. Giuse Trực

Hình phạt thập giá đã có từ rất xa xưa. Đến cuối thế kỷ I trước công nguyên thì hình phạt thập giá chỉ dành cho những tên nô lệ và những phạm nhân không có quốc tịch La mã. Qua cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, thập giá không chỉ là một cây gỗ dùng để hành hình những tên nô lệ và phạm nhân không có quốc tịch La mã, nhưng từ đây, nó trở thành biểu tượng của một niềm tin tôn giáo; không còn là hình ảnh tượng trưng của sự tủi nhục, nhưng là tiếng nói của một tình yêu mãnh liệt; không còn là sự nặng nề để người ta tìm tránh né, nhưng là con đường tất yếu để dẫn đến vinh quang bất diệt…

Qua cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, chúng ta thấy được thập giá chính là mầu nhiệm của tình yêu, mầu nhiệm của lòng thương xót, vì “Chúa đã dùng thánh giá mà chuộc tội cho thiên hạ”.

Mầu nhiệm này không phải bất đắc dĩ Đức Giêsu phải chịu, hay “lỡ” bị phạt nên “nâng nó lên” một tầm cao cho bớt đi sự xấu hổ… mà Thiên Chúa Cha đã muốn và thực hiện qua hình ảnh con rắn đồng trong sa mạc, để “Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”; Đức Giêsu đã loan báo ít nhất là 3 lần mầu nhiệm thập giá để chuẩn bị trước cho các môn đệ của Ngài hiểu và can đảm bước đi trên con đường thập giá sau cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài.

Điều kiện của Đức Giêsu: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Ở đây, theo Đức Giêsu không chỉ đơn giản là bước đi theo Người, mà còn là sống giống như Người: yêu thương và tận hiến. Các môn đệ đi theo Đức Giêsu, nhưng các ông chưa thay đổi là vì các ông chưa sống giống như Thầy Giêsu, mà chỉ đơn giản là mới đi theo một bậc thầy mà thôi.

Muốn bước theo Đức Kitô, Kitô hữu đừng nghĩ mình chỉ bước theo một con người, một triết thuyết, một lý tưởng,… nào đó, nhưng phải biết rằng mình được mời gọi để rập khuôn cuộc đời với Đức Kitô, Đấng yêu thương và tự hiến.

Để có thể rập khuôn cuộc đời với Đức Kitô, điều kiện duy nhất là phải vác thập giá mình hằng ngày, nghĩa là phải đi trên con đường Chúa đã đi. Thập giá đó chính là những hy sinh, chịu khó từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Chỉ với động lực vì bước theo Đức Kitô, muốn sống cuộc sống của Ngài, chúng ta mới sẵn sàng chấp nhận những hy sinh, gian khổ. Còn nếu không có động lực bước theo Đức Kitô, chúng ta sẽ khó mà vác thập giá vì nó thật là phi lý.

Ví dụ ngày Chúa Nhật bạn bè tôi đi chơi, tôi phải đi lễ; làm ăn buôn bán, người ta có khi gian dối chút đỉnh, còn tôi thì không; bạn bè cuối tuần rủ đi “mát mẻ”, chúng ta lắc đầu; nhiều người muốn có gia đình hạnh phúc với vợ đẹp, con ngoan, nhưng một số người đã chọn tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa trong đời sống tu trì… Tất cả những điều đó và nhiều điều khác nữa thật là phi lý nếu không có động lực vì bước theo Đức Kitô.

Ngày 16/10 tới đây, Đức Thánh Cha sẽ tuyên thánh cho vị chân phước thiếu niên người Mêxicô, Giuse Sanchez Del Río, tử đạo lúc mới 14 tuổi. Trong lúc bị người ta hành hình, cậu đã hô vang “Hoan hô Chúa Kitô Vua!”. Mặc dù đã chết 88 năm, nhưng thân xác của em vẫn tươi nguyên như đang ngủ, và những vết thương trên người em vẫn như đang rỉ máu.

Động lực nào đã khiến cho cậu thiếu niên 14 tuổi can đảm chấp nhận bị người ta hành hình cho đến chết. Tiểu sử của cậu thiếu niên này đã viết lại rằng: “Trên đường đến nơi hành quyết, bọn lính liên tục dùng con dao phay sắc bén đánh cậu một cách man rợ, cứ mỗi lần bị đánh cậu lại la lớn “HOAN HÔ CHÚA KITÔ VUA !”. Khi đến nghĩa trang, máu cậu chảy lênh láng, bọn lính tiếp tục lấy dao rạch sâu dưới 2 lòng bàn chân, sau đó bắt cậu đi trên muối và trên cả những con đường đầy đá nhọn, cậu khóc thét trong đau đớn nhưng vẫn kiên quyết không chối bỏ đức tin của mình và chấp nhận chết để làm chứng Tình Yêu trọn vẹn vào Chúa Jesus Kitô. ” Mày chỉ cần nói to lên rằng: Khốn chết cho Kitô Vua thì chúng tao sẽ tha mạng cho mày ” bọn lính yêu cầu. Cậu liền từ chối và hô lớn ” CHÚA KITÔ VUA VẠN TUẾ ! ĐỨC MẸ GUADALUPE VẠN TUẾ ! ” Tên chỉ huy ra lệnh bọn lính dùng dao đâm cậu, nhưng cứ mỗi vết đâm, cậu càng hét lớn ” HOAN HÔ CHÚA KITÔ VUA ! “, tên chỉ huy giận điên lên liền rút súng bắn chết cậu ngay tại chỗ”. Rõ ràng chỉ vì muốn rập khuôn cuộc đời mình với Đức Kitô chịu đóng đinh mà cậu đã chấp nhận tất cả.

Đó là bài học cho tôi và mọi người, cách riêng là các bạn trẻ trong ngày quốc tế giới trẻ hôm nay. Từ đây trở về sau, mỗi khi gặp thử thách, cám dỗ, chúng ta hãy vì động lực muốn bước theo Đức Kitô để can đảm vác lấy thập giá, nghĩa là chịu những hy sinh, từ khước những điều sai trái.

Cái chết của Đức Kitô đã đem ơn cứu độ cho nhân loại, nghĩa là lòng thương xót của Chúa Cha được thể hiện qua mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô. Cũng vậy, nếu chúng ta biết can đảm vác lấy thập giá mỗi ngày vì Đức Kitô, thì chúng ta cũng sẽ được vinh quang với Ngài.

Lạy Đức Giêsu, nhân loại biết đến Ngài nhiều nhất qua hình ảnh Ngài chịu đóng đinh trên cây thập giá. Đó cũng là điều nhắc nhở cho mỗi người chúng con: bước theo Đức Kitô là phải chấp nhận vác thập giá và đóng đinh tính xác thịt vào thập giá đó. Động lực lớn nhất để chúng con vui lòng vác thập giá là vì muốn trở thành môn đệ của Ngài. Xin nuôi dưỡng và khơi lên trong tâm hồn chúng con tư tưởng trở thành môn đệ Chúa một cách mạnh mẽ, để đứng trước những gian nan thử thách, chúng con không lùi bước, nhưng sẽ sẵn sàng hy sinh vì muốn theo sát gót Đức Kitô, theo gương vị tân hiển thánh Giuse Sanchez Del Río mà Giáo hội sẽ tuyên phong trong thời gian sắp tới. Amen.

Về mục lục

.

BƯỚC THEO ĐỨC GIÊSU TRÊN ĐƯỜNG THẬP GIÁ

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 19,28-40

(28) Đức Giêsu nói những lời ấy xong, Người đi đầu, tiến lên Giêrusalem. (29) Khi đến gần làng Bếtphaghê và làng Bêtania, bên triền núi gọi là núi Ôliu, Người sai hai môn đệ và bảo: (30) “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và dắt nó đi. (31) Và nếu có ai hỏi: “Tại sao các anh tháo lừa người ta ra”, thì cứ nói: “Chúa cần đến nó”. (32) Hai người được sai ấy ra đi và thấy y như Người đã nói. (33) Các ông đang tháo dây lừa, thì những người chủ con lừa nói với các ông: “Tại sao các anh lại tháo con lừa ra?” (34) Hai ông đáp: “Chúa cần đến nó”. (35) Các ông dắt lừa về cho Đức Giêsu, rồi lấy áo choàng của mình phủ lên lưng lừa, và đặt Đức Giêsu lên. (36) Người tới đâu, người ta cũng lấy áo mình trải xuống đường. (37) Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ôliu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. (38) Họ hô lên: “Chúc tụng Đức vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!”(39) Trong đám đông có vài người thuộc nhóm Pharisêu nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy quở trách môn đệ Thầy đi chứ!” (40) Người đáp: “Tôi bảo các ông: Họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!”.

  1. Ý CHÍNH:

Hai bài Tin mừng Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay gồm hai phần:

– Phần thứ nhất (Lc 19,28-40): Tường thuật việc Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem để làm vua Thiên Sai.

– Phần thứ hai (Lc 22,14-23,56): Tường thuật việc Đức Giêsu thi hành sứ vụ Thiên Sai bằng con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang”. Bài Thương Khó quá dài nên sẽ được đọc trong sách Tân Ước hay trong Bài Tin Mừng CN Lễ Lá năm C.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 28-34: + Người đi đầu: Với tư cách là Vua Mêsia, Đức Giêsu can đảm đi đầu như một mục tử đi trước dẫn đường cho đoàn chiên theo sau (x. Ga 10,4). + Tiến lên Giêrusalem: Đức Giêsu từ thành Giê-ri-cô tiến lên thủ đô Giêrusalem. Giêrusalem nằm trên đỉnh núi cao hơn mặt biển 700 mét, nơi Đức Giêsu sẽ hoàn tất sứ vụ cứu độ bằng việc chịu chết và sống lại. + Làng Bêtania: Tên một ngôi làng nhỏ nằm trên triền núi Ôliu về hướng Đông, cách Giêrusalem khoảng 5 cây số. Làng này có nhà của ba chị em là Mátta, Maria và Ladarô. Đức Giêsu và các môn đệ thường nghỉ lại đây mỗi lần hành hương về Giêrusalem (x. Mt 21,17). + Con lừa: Theo quan niệm của Cựu ước, lừa là một con vật giống như con ngựa, dành cho đức vua và các nhà quý tộc cưỡi. Ápsalôm là con trai vua Đa-vít cũng đã cưỡi lừa trong cuộc nổi loạn chống lại vua cha Đavít (x. 2 Sm 18,9). + Chưa ai cưỡi bao giờ: Nghĩa là đang còn tinh tuyền chưa bị mang ách trên cổ (x. Ds 19,2), nên xứng đáng cho Vua Thiên Sai sử dụng (x.1 Sm 6,7). + Vì “Chúa” cần đến nó: Dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giêsu được môn đệ gọi là “Chúa” hay “Chủ”. Đây là tước hiệu được gán cho Đức Giêsu từ thời Giáo hội sơ khai. Từ ngữ này diễn tả mầu nhiệm Đức Giêsu vừa là Con Người vừa là Con Thiên Chúa (x. Rm 10,9 ; Pl 2,10-11).

C 35-38: + Các ông dắt lừa về, lấy áo choàng của mình phủ lên lưng lừa, và đặt Đức Giêsu lên: Những chi tiết này gợi lại cuộc đăng quang lên làm vua của nhà vua Salômôn do vua cha là Đavít đã chuẩn bị trước (x. 1V 1,33.38.40). Việc Đức Giêsu ngồi trên mình lừa thay vì ngựa chiến nhằm diễn tả sứ vụ của Người là vua Thiên Sai hòa bình, chinh phục lòng người bằng tình yêu thương thay vì bằng bạo lực chiến tranh. + “Chúc tụng Đức Vua.”..: là lời Thánh vịnh 117,25-26 được hát ca tụng Đức Chúa trong các buổi lễ long trọng khi đòan rước tiến vào Đền thờ.

C 39-40: + Thưa Thầy, Thầy quở mắng môn đệ Thầy đi chứ: những người Pharisêu nhắc Đức Giêsu cấm môn đệ hò hét tôn vinh Người, vì họ không tin Người là Vua Thiên Sai. + “Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên”: Không gì có thể ngăn cản thành Giêrusalem nghênh đón Đức Giêsu vào Thành đăng quang như một Đấng Thiên Sai. Số phận của Thành Giêrusalem là sẽ bị tàn phá bình địa vì tội đã từ chối đón nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai (x. Lc 19,44).

  1. MẤY GỢI Ý SUY NIỆM TIN MỪNG LUCA (Lc 22,14-23,56) :

+ Đức Giêsu tình nguyện chịu chết để cho tội nhân được sống: Theo Luca, thập giá là dấu chỉ của lòng thương xót của Chúa, thể hiện qua cuộc khổ nạn của Người: Cuộc khổ nạn chính là “Giờ của kẻ thù và của quyền lực tối tăm” (x. Lc 22,53). Chính khi đón nhận chén đắng thập giá, Đức Giêsu đã biểu lộ tình thương đối với các tội nhân khi chữa tên đầy tớ thầy cả thượng phẩm bị các môn đệ chém đứt tai (x. Lc 22,51), khi nhìn ông Phêrô để nhắc ông về tội vừa chối Thầy ba lần (x. Lc 22,61), khi xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ giết hại mình (x. Lc 23,34), khi hứa ban phần thưởng thiên đàng cho kẻ trộm lành có lòng hối cải (x. Lc 23,43)… Như vậy: Đức Giêsu đã tình nguyện chịu chết trên thập giá để đền tội thay và sống lại để ban sự sống cho lòai người chúng ta.

+ Đức Giêsu là “Chúa”: Trong khu vườn tại núi Ôliu, các môn đệ đã gọi Đức Giêsu là Chúa khi hỏi: “Lạy Chúa, chúng con tuốt gươm chém được không?” (x. Lc 22,49); Tại phiên tòa của Thượng Hội đồng Do thái, các quan tòa cũng hỏi Đức Giêsu về tước vị Con Thiên Chúa như sau: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao ?” (x. Lc 22,70).

+ Đức Giêsu giữ im lặng trước Hêrôđê: Hêrôđê nghe đồn về tài làm phép lạ của Đức Giêsu và muốn gặp Người, hy vọng được xem Người làm phép lạ. Nhưng Người đã giữ im lặng khiến nhà vua tức giận và truyền mặc áo trắng cho Người (x. Lc 23,8-9). Trong suốt cuộc sống, Đức Giêsu thường không thỏa mãn những đòi hỏi Người làm phép lạ như vậy (x.Lc 4,9-12).

+ Đức Giêsu nêu gương cầu nguyện và vâng phục thánh ý Chúa Cha: Trước khi bị bắt, Người đã cầu nguyện và trải qua cơn đau khổ tột cùng (x. Lc 22,39-46). Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa (x. Lc 22,46). Trước khi tắt thở, Người đã cầu nguyện phó dâng linh hồn vào trong tay Chúa Cha (x. Lc 23,46). Người luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha qua lời cầu nguyện: “Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (x. Lc 22,42).

+ Đức Giêsu muốn mọi người đều được gia nhập vào Nước Trời để được hưởng ơn cứu độ: Chỉ những kẻ bất tín, và làm tay sai cho ma quỷ như các đầu mục dân Do thái mới bị loại ra khỏi Nước Trời (x. Lc 11,40-54). Họ đã đòi quan tổng trấn Philatô kết án tử hình cho Người cách bất công (x. Lc 23,2), đang khi ông “không tìm ra một tội nào đáng phải chết” và muốn tha cho Người. Khi chứng kiến các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng Rôma đã phải thốt lên rằng: “Đây thật là một người công chính!” (Lc 23,47); Còn dân chúng Do thái thì bỏ ra về, vừa đi vừa đấm ngực ăn năn vì đã trót vào hùa với những kẻ gian ác để giết hại một người công chính (x. Lc 23,48).

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Sau khi ăn miếng bánh,Giuđa liền đi ra. Lúc đó trời đã tối”(Ga 13,30).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ CHÚA GIÊSU:

Một trong những nhà danh họa nổi tiếng nhất người Hoà Lan là Rembrandt, sống vào thế kỷ 17, với bức tranh “ba thập giá” của ông mô tả về cuộc thương khó của Chúa Giêsu.

Nhìn vào tác phẩm, mọi người đêu bị thu hút chú ý vào trung tâm bức tranh: giữa thập giá của hai tên bất lương, nổi bật lên thập giá của Chúa Giêsu. Dưới chân thập giá Chúa là cả một đám đông mà gương mặt người nào cũng đằng đằng sát khí… Qua đó Rembrandt muốn khẳng định rằng: Tất cả mọi người đều góp phần vào tội đã đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá.

Nhìn kỹ vào đám đông này, người ta thấy nổi lên một gương mặt mà các nhà chuyên môn đều khẳng định đó là khuôn mặt của nhà danh hoạ Rembrandt, tác giả của bức tranh.

Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí, Rembrandt lại cố tình vẽ chen vào khuôn mặt của mình? Lời giải thích hợp lý duy nhất đó là ý thức về tội lỗi. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông hôm nay đã góp phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu lên cây thập giá xưa kia. Qua đó, tác giả muốn nhắn nhủ rằng: mọi người đều phải sám hối tội lỗi…

2) MỘT CUỘC SĂN ĐÊM:

Tuần báo THIS WEEK đã đăng bài giới thiệu với độc giả một vườn bách thú nổi tiếng tên là Nai Hăng Tinh (Night Hunting)- “Cuộc săn đêm”. Đây là một vườn bách thú duy nhất trên thế giới mở cửa vào mỗi buổi tối từ 19g30 đến 24g00. Vườn tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 40 mẫu tây. Vườn bách thú này hiện có trên 1000 con thú thuộc 100 chủng loại khác nhau,. Chúng đến từ khắp các quốc gia trên thế giới. Trong số này có khoảng 40 con thuộc lọai thú quý hiếm. Mỗi đêm có khỏang 3000 du khách đến tham quan cảnh sống của các thú vật về đêm. Dưới ánh sáng mờ ảo, thú vật xem ra đang chìm đắm trong giấc ngủ thư thái và bình an.

Tuy nhiên ông giám đốc vườn bách thú lại cho biết suy nghĩ của ông như sau: “Một trong những điều đáng lo ngại của chúng tôi là hành động nghịch phá của một số du khách. Chẳng hạn: Một số người thì đập mạnh vào chuồng của thú dữ, số khác thì la lối om sòm phá tan sự thinh lặng cần cho việc thưởng lãm vẻ đẹp tự nhiên”. Và tờ báo bình luận bằng một câu đáng cho chúng ta suy nghĩ, và cũng phù hợp với tâm tình người tín hữu phải có trong Tuần Thánh này: “Bóng đêm làm cho nhiều loài thú hoang thiếp ngủ, nhưng lại làm cho thú tính trong lòng một số người thức dậy !”.

  1. THẢO LUẬN: Trong những ngày mùa Chay này, mỗi người chúng ta nên làm những việc cụ thể nào để xua trừ bóng tối tội lỗi ra khỏi con người của chúng ta?
  2. SUY NIỆM:

1) Ý nghĩa của Lễ Lá: Phụng vụ Lễ Lá gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa như sau.

-Một là “Giờ đã đến”: Lễ Lá tưởng niệm cuộc khải hòan của Đức Giêsu vào thành Giêrusalem trước khi chịu khổ nạn, là dấu chỉ “giờ” đã đến: Đức Giêsu biết mình phải làm gì và đã chấp nhận đi con đường Chúa Cha đã định là “qua đau khổ thập giá để vào vinh quang phục sinh”, như hạt lúa mì rơi xuống đất có chết đi mới sinh nhiều bông hạt.

-Hai là tôn vinh Vua hòa bình. Ðây là lần đầu tiên Đức Giêsu để cho dân chúng tung hô Người: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”. Người ngồi trên lừa khải hòan vào thành Giêrusalem. Cũng vì việc này mà sau đó Người đã bị xét xử và bị kết án tử hình thập giá. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng: Do thái, La tinh và Hy lạp như sau: “Giêsu Nadarét Vua dân Do Thái”. khai mào một vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói với Philatô: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi”.

-Ba là suy niệm về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu: Qua bài Thương Khó, Hội Thánh nhắc nhở các tín hữu hãy liên kết sự đau khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày với sự đau khổ của Đức Giêsu trên cây thập giá. Khi chấp nhận chịu đựng các điều trái ý gặp phải hằng ngày là chúng ta cùng chia sẻ gánh nặng của Đức Giêsu. Từ nay đau khổ và sự chết không làm cho con gười thất vọng, nhưng là đường dẫn đưa vào trong vinh quang phục sinh.

2) Chúng ta phải làm gì?:

-Kết hiệp với cuộc tử nạn của Đức Giêsu: Chấp nhận đi theo Đức Giêsu trên đường thánh giá là chúng ta sẵn sàng đón nhận mọi nỗi đau khổ do bệnh tật cũng như các tai nạn và những điều trái ý gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, liên kết với sự đau khổ của Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn. Hãy năng cầu nguyện với Chúa Cha noi gương Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi”. 

-Tỉnh thức và cầu nguyện luôn: Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ “Phải tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ! Vì tinh thần thì mau lẹ, nhưng xác thịt lại yếu hèn !” Tỉnh thức và cầu nguyện đồng nghĩa với bước đi trong ánh sáng của Chúa Giêsu là Mặt Trời Công Chính. Ánh sáng đó chính là Lời Chúa. Chỉ có Chúa Giêsu mới “là con đường, là sự thật và là sự sống”. Bước đi trong ánh sáng của Người, vâng nghe Lời Người, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lạc lối, sẽ chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ và sẽ đạt tới quê trời hạnh phúc muôn đời.

-Quyết tâm sống tình yêu thương cụ thể: bằng việc giúp đỡ một người đang gặp khó khăn hoặc người đang đau khổ tinh thần lấy lại niềm vui và hy vọng. Tập nhìn những người đau khổ bệnh tật không được chăm sóc như Chúa Giêsu bị bỏ rơi trên cây thập gía, và nhiệt tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa Giêsu, để sau này được Người ban thưởng hạnh phúc Nước Trời (x Mt 25,40).

  1. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊSU,

Vì Chúa đã lập phép Thánh Thể để làm của ăn nuôi dưỡng chúng con, xin cho những người nghèo luôn có cơm ăn áo mặc hằng ngày.

Vì Chúa đã xao xuyến trong vườn cây Dầu, xin cho chúng con đủ sức đương đầu với những khó khăn gặp phải trong cuộc sống.

Vì Chúa đã bị kết án bất công, xin cho chúng con biết can đảm bênh vực công lý.

Vì Chúa đã bị xỉ nhục và nhạo báng, xin cho các người bé mọn được tôn trọng nhân phẩm.

Vì Chúa đã chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những ai đang đau khổ trên giường bệnh, nhận được sự nâng đỡ ủi an.

Vì Chúa đã bị lột áo và bị đóng đinh vào thập giá, xin cho sự hiền hòa nhân ái luôn chiến thắng bạo lực hung tàn.

Vì Chúa đã giang tay chịu chết trên thập giá, xin cho các đôi vợ chồng đang xa lìa được nối lại tình yêu ban đầu.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui hân hoan, xin cho chúng con biết vui vẻ đón nhận mọi sự khó xảy đến và phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Về mục lục

.

QUA THẬP GIÁ VÀO TRONG VINH QUANG

Lm. Đan Vinh

  1. TIN MỪNG: Lc 22,14-23.
  2. SUY NIỆM:

1) CUÔC KHẢI HOÀN CỦA ĐỨC GIÊSU VÀO THÀNH GIÊRUSALEM:

– Đức Giêsu đã cưỡi lừa:

Lừa là một con vật hiền hoà, khác hẳn loài ngựa dành cho chiến tranh. Tiên tri Giacaria đã tiên báo sự kiện này khi tuyên sấm: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” (Dcr 9,9).

– Là Vua Thiên Sai mang lại hòa bình:

Hôm nay, khi Đức Giêsu cưỡi lừa vào thành, Người đã khẳng định mình chính là Đấng Thiên Sai vì đã thực hiện và mặc khải về sứ mạng thiên sai của Người. Thế nhưng, khi chọn cưỡi trên con lừa hiền lành vào thành, Đức Giêsu cho thấy Người không phải là một ông vua Thiên Sai chinh chiến, dùng bạo lực bắt kẻ thù khuất phục mình, nhưng là Vua Thiên Sai khiêm hạ thể hiện qua việc làm: Quỳ gối rửa chân cho môn đồ chứ không bắt người dưới hầu hạ mình. Người liên kết muôn dân lại thành dân Thánh của Thiên Chúa, không phải là để đi giao chiến với các dân khác, nhưng để kêu gọi sự hợp tác chống lại giặc nghèo đói, dốt nát, gian ác bất công… Người đến không phải để kết án, nhưng để ban ơn tha thứ. Người không phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân Do thái và chư dân, nhưng kêu mời mọi người bỏ cái tôi ích kỷ tự ái để vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người, cùng chịu đóng đinh và chịu chết, được an táng trong nồ và ngày thứ ba từ trong cõi chết trỗi dậy… Còn chúng ta hôm nay có sẵn lòng đáp trả lời mời gọi đi theo Người không? 

2) THÁI ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU TRƯỚC CÁC BIẾN CỐ:

– Sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa Cha:

Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22,15). Trong khi ăn Lễ Vượt Qua, Người đã lập phép Thánh Thể, tiên báo Giuđa sẽ phản nộp Thầy. Người dạy kẻ làm đầu phải biết hầu thiên hạ. Người tiên báo Phêrô sẽ chối Thầy. Rồi Thầy trò đi ra núi Cây Dầu (x. Lc 22,19-38). Tại đây, Người cầu nguyện xin vâng ý Cha để đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang”, dù trái với ý mình: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Khi Giuđa dẫn dân quân Đền thờ đến bắt, Người vẫn tỏ thái độ bình tĩnh: nhẹ nhàng nhắc bảo Giuđa về việc xấu xa đang làm với hy vọng đánh thức lương tâm của người môn đệ đã vì quyền vì lợi mà trở thành kẻ phản bội (x. Lc 22,48). Người cũng tỏ lòng nhân hậu ra tay chữa lành người đầy tớ vị thượng tế vừa bị Phêrô chém đứt tai (x. Lc 22,51). Người cũng quan tâm đến thái độ hèn nhát chối Thầy ba lần của Phêrô (x. Lc 22,54-60). Khi nghe tiếng gà gáy, Người đã đưa mắt nhìn Phêrô vừa phạm tội để nhắc bảo, khiến ông đã nhớ lại lời Thầy mới tiên báo và ông đã hồi tâm sám hối khóc lóc thảm thiết (x. Lc 22,61-62).

– Nhẫn nhịn chịu đựng sự xét xử bất công:

Đức Giêsu vẫn tỏ ra bình tĩnh khi bị đưa ra xét xử trước Thượng Hội Đồng Do thái với việc kết án bất công của Hội Đồng này (x. Lc 22,66-71). Rồi Người bị điệu ra trước tòa tổng trấn Philatô rồi tòa vua Hêrôđê. Người luôn khẳng định về vai trò cứu thế của mình. Cuối cùng Người đã bị quan Philatô chịu áp lực của quần chúng Do Thái, đã kết án tử hình thập giá cho Người (x. Lc 23,1-25).

– Luôn khoan dung dù đang gặp thử thách đau khổ:

Trên đường lên Núi Sọ, dù phải mang vác thập giá nặng nề, dù thân xác bị nhiều roi đòn thương tích và đói khát, Người được Simôn Kyrenê vác đỡ thập giá (Lc 23,26). Người vẫn quan tâm nói lời an ủi mấy người phụ nữ đi theo (x. Lc 23,. Trên thập giá lúc sắp tắt thở, Người đã nghe người trộm có lòng tin cậy bày tỏ lòng ăn năn sám hối và hứa ban Nước Trời đầu tiên cho anh. Người cầu xin Chúa Cha tha tội cho đám đông dân chúng bị khích động và quân lính hành hình tàn ác vì họ không ý thức việc làm của mình.

– Tin vào sức mạnh của tình thương:

Tình thương vô biên của Đức Giêsu chính là ngọn đèn xua tan bóng đêm thù hận ghét ghen trong lòng mọi người. Tình thương của Chúa vượt trên mọi hận thù gian ác, và bất trung phản bội của con người… Tình yêu của Thiên Chúa đã chiến thắng tội lỗi sự chết và sẽ mang lại niềm vui ơn cứu độ cho những ai thành tâm tin cậy và quyết tâm theo con đường thập giá “qua đau khổ vào trong vinh quang” của Chúa Giêsu.

3) NHÌN LẠI MÌNH QUA CUỘC KHỔ NẠN CỦA ĐỨC GIÊSU:

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta sẽ nhận ra con người thật của mình để hồi tâm sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống trong những ngày này.

– Hình ảnh người môn đệ yếu đuối Phêrô:

Phêrô, một người luôn tự hào về tình yêu mãnh liệt dành cho Thầy, nhưng rồi lại tỏ ra hèn nhát khi chối Thầy trước những kẻ hèn kém là các tôi tớ giúp việc cho thượng tế (x. Lc 22,56-60). Nhưng chính ánh mắt yêu thương của Chúa Giêsu đã nhìn Phêrô sau tiếng gà gáy khiến ông nhớ lại lời Thầy tiên báo trong bữa tiệc ly trước đó: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”, và ông đã ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Lc 22,61-62). Ngày hôm nay vẫn không thiếu những tiếng gà cảnh báo và ánh mắt yêu thương của Chúa trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Nhưng liệu chúng ta có tỉnh ngộ và cấp thời hồi tâm sám hối như Phêrô không?

– Hình ảnh người môn đồ phản bội Giuđa:

Giuđa, một người được Chúa chọn vào Nhóm 12, được yêu thương và trao ban trách nhiệm quản lý tiền bạc phục vụ cộng đoàn, luôn được theo sát bên Thầy, được chứng kiến bao phép lạ Thầy làm, nghe biết bao lời Thầy giảng dạy. Nhưng tất cả những điều tốt đẹp này đã vỡ tan như bèo bọt khi Giuđa chọn theo quyền lực thế gian và tiền tài vật chất để bán nộp Thầy với giá buôn một nô lệ. Anh ta còn tình nguyện trở thành tay sai khi tình nguyện dẫn đầu những kẻ thù ghét để chỉ điểm bắt Thầy bằng cái hôn là một dấu chỉ yêu thương. Chúng ta hôm nay cũng hành xử như Giuđa khi vẫn giữ đạo kinh lễ, vẫn làm việc tông đồ… nhưng lại có lối sống dễ dãi, sa đà vào các thói hư như ăn nhậu say sỉn, quậy làng phá xóm, cờ bạc đỏ đen hoặc buôn gian bán lận!

– Hình ảnh quan Tổng Trấn Philatô hèn nhát và vô trách nhiệm:

Dù là người đầy quyền lực, nhưng quan Philatô vẫn bị sự sợ hãi làm lu mờ lương tri trong việc xét xử con người vô tội là Đức Giêsu: Nỗi lo bị dân chúng nổi loạn, sợ bị mất chức mất quyền đang chiếm hữu, không làm chủ được quyết định của mình trước áp lực của đám đông đang gào thét. Philatô không đủ bản lãnh để quyết định theo lương tâm là tha cho Đức Giêsu mà ông biết rõ là vô tội. Ngày hôm nay có lẽ mỗi người chúng ta nhiều lần cũng đã hành xử hèn nhát và vô trách nhiệm khi không dám lên tiếng bênh vực công lý, che chở người dân lương thiện thân cô thế cô, đang bị những thế lực gian ác hè nhau hãm hại …

– Hình ảnh vua Hêrôđê xảo quyệt cố chấp đã bị Đức Giêsu loại bỏ:

Có lẽ chúng ta cũng nhiều lần hành xử giống vua Hêrôđê bị Đức Giêsu gọi là “tên cáo già” do có lối hành xử quỷ quyệt gian ác bất công của ông (x. Lc 13,31-33). Trong cuộc xử án Đức Giêsu, vua Hêrôđê cũng về Giêrusalem dự lễ Vượt Qua. Quan Philatô nghe biết Đức Giêsu là người Galilê nên cho điệu Người tới dinh của vua Hêrôđê cho ông xét xử. Hêrôđê háo hức muốn gặp Đức Giêsu để thỏa tính tò mò muốn xem Người thi thố phép lạ giống như xem trò ảo thuật (x. Lc 23,8-9). Nhưng Đức Giêsu đã giữ im lặng không trả lời khiến vua Hêrôđê tức giận truyền mặc áo trắng cho Người để coi Người như một kẻ mất trí, rồi trả Người lại cho quan Philatô tiếp tục xét xử (x. Lc 23,9-11). Ngày hôm nay có lẽ nhiều lần chúng ta đi theo Chúa không phải để làm môn đệ Người, nhưng để được Người thỏa mãn các yêu cầu theo như sở thích. Khi không được Chúa ban ơn như ý, nhiều người trong chúng ta cũng đã mất đức tin và chạy theo bói toán đồng cốt và các trò mê tín khác…  Hãy xin Chúa ban cho chúng ta bỏ theo con đường gian ác tội lỗi theo thói thế gian, chiều theo sự yếu đuối xác thịt và các cám dỗ của ma quỷ. Xin cho chúng ta luôn theo con đường hẹp, leo dốc, khiêm nhường phục vụ của Đức Giêsu, là đường duy nhất dẫn đưa chúng ta lên trời đời sau.

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giêsu,

Vì Chúa đã trải qua sự lo buồn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu, xin cho mỗi người chúng con đủ sức đối diện với những khó khăn gặp phải trong cuộc sống, để luôn bỏ đi ý riêng mà vâng theo thánh ý Thiên Chúa.

Vì Chúa đã bị người đời kết án bất công, xin cho chúng con lòng can đảm dám lên tiếng bênh vực chân lý, bảo vệ những người thân cô thế cô khỏi bị kẻ gian ác đàn áp bóc lột

Vì Chúa bị những quan lính hành hạ nhạo cười, xin cho phẩm giá của những người nghèo, các phụ nữ và trẻ em được mọi người tôn trọng và bảo vệ.

Vì Chúa đã vác cây thập giá nặng nề trên vai đến nơi hành hình, xin cho những ai đang chịu đau khổ do bệnh tật, nghèo khổ, thất bại… thấy mình được ơn Chúa trợ giúp và được nhiều người cảm thông nâng đỡ.

Vì Chúa đã bị quân lính lột áo và chịu đóng đanh chân tay vào thập giá cách ô nhục, xin cho mỗi người chúng con biết can trường chấp nhận gian khổ, biết lấy nhu thắng cương, lấy sự hiền hoà khoan dung chiến thắng bạo lực hung tàn.

Vì Chúa dang tay chịu chết trên cây thập giá để giao hòa nhân loại với Chúa Cha, xin cho mọi người dù khác nhau về dân tộc, tiếng nói, tôn giáo, chính kiến… vẫn có thể chung tay hợp tác xây dựng một Trời Mới Đất Mới ngày một an hòa hạnh phúc hơn.

Vì Chúa đã khải hoàn phục sinh, xin cho chúng con biết đi theo Chúa, chấp nhận đi theo con đường ”qua đau khổ vào trong vinh quang”, cùng chịu chết với Chúa để cùng được phục sinh với Chúa sau này. Amen.

Về mục lục

.

ĐƯỜNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội chính thức bước vào Tuần Thánh với biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, khởi đầu hành trình thương khó trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

Cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một nghịch lý, ô nhục, điên rồ với người Do thái, là nỗi thất vọng cho các môn đệ và nhiều người… Tuy nhiên, con đường bất thường này lại làm lộ hiện dung mạo, khuôn mặt, tâm tư và lòng dạ thương xót phi thường của Thiên Chúa ngang qua con người, sứ vụ và nhất là cuộc thương khó của Chúa Giêsu.

Muốn hiểu thêm về cuộc thương khó, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nơi các đối tượng, động lực, hành vi của những kẻ gây nên cái chết bi thương cho Người Công Chính, để thấy được mục đích gian ác của con người thời đó và chương trình yêu thương của Thiên Chúa cũng như sự liên hệ của chúng ta trong mầu nhiệm cứu chuộc hôm nay.

  1. Con đường thương xót của Thiên Chúa ngang qua bàn tay gian ác của con người

Những kẻ gây nên cái chết cho Chúa Giêsu chính là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Họ là những Luật Sĩ, Thượng Tế và Pharisêu. Những con người này có mối thù sâu sắc với Chúa Giêsu, nên quyết không đội trời chung với Ngài!

Những mâu thuẫn được khởi đi từ chuyện Chúa Giêsu vạch trần lối sống giả hình, kiêu ngạo, ích kỷ, dã tâm nơi giới lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Đây là điều mà họ cảm thấy bất lợi và có nguy cơ bại lộ lối sống giả nhân giả nghĩa theo kiểu: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt!

Chúa Giêsu đã không chấp nhận, vì thế, họ đã quyết loại trừ Ngài ra khỏi xã hội của họ bằng cái chết.

Tuy nhiên, điều mà họ muốn thì chính bản thân họ hay dân tộc họ không thể làm được, bởi lẽ, dân Dothái đang bị đô hộ bởi Đế quốc Rôma, vì thế, muốn giết Chúa Giêsu, họ phải mượn tay của Đế quốc, mà người đại diện là Philatô!

Bản án mà họ trình lên quan Tổng trấn để xin ông xét xử, đó là tội: khi quân, phản loạn, sách động dân chúng, lật đổ chế độ, rồi tự xưng mình là vua…!!!

Với ngần ấy cái “mũ” mà họ chụp lên đầu Chúa Giêsu, chắc chắn cuộc thương khó sẽ xảy ra và cái chết là kết cục cho Ngài!

Để thuận lợi, giới lãnh đạo tôn giáo đã âm thầm đề nghị Giuđa, một người trong nhóm môn đệ của Chúa Giêsu là nội gián, tiếp tay từ bên trong. Quả thật, Giuđa đã nhận lời và chấp nhận trở thành nội thù khi bán Thầy với giá 30 đồng bạc qua dấu chỉ một cái hôn.

Ôi một sự chua xót và đau đớn vô cùng, bởi lẽ, nụ hôn là biểu lộ của tình yêu. Yêu ai thì mới trao cho nhau nụ hôn, ai ngờ nụ hôn của trò với Thầy lại là dấu chỉ đẩy Thầy vào chỗ chết!!!

Khi đã được Giuđa chỉ điểm và cho dấu hiệu, họ đã bắt Chúa Giêsu và trao nộp cho Philatô. Từ đây, Philatô cũng là những người có can hệ đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu, bởi vì ông là người đại diện cho luật pháp, có trách nhiệm cầm cân nảy mực… Thế nhưng, thay vì làm việc mang tính công minh chính đại, ông lại bị sức ép từ phía dân chúng, sợ mất chức, mất quyền… nên đã phủi tay, không còn can đảm nghe theo tiếng Lương Tâm để bênh vực Người Công Chính, bảo vệ lẽ công bằng và đứng về phía người vô tội.

Thế là bản án tử hình được trao tặng cho Chúa Giêsu.

Như vậy, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của những người can dự vào cuộc thương khó Chúa Giêsu chính là: kiêu ngạo, hèn nhát, gian dối, tham lam và sợ hãi…

  1. Con người càng tàn bạo, lòng thương xót của Thiên Chúa càng rõ nét

Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đây, có lẽ chúng ta sẽ nghĩ rằng: Thiên Chúa đã thất bại trước sự ác của con người! Công chính, công lý và sự thật đã nhường bước cho sự ác lên ngôi và lộng hành… Không! Chính lúc Con Thiên Chúa bị treo trên thập giá, ấy là lúc Thiên Chúa đang biểu lộ quyền năng và lòng thương xót của Người rõ nét hơn bao giờ hết!

Như đã nói: cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một cuộc thương khó vô cùng nghịch lý, nhưng nó lại hợp lý đối với lòng dạ Thiên Chúa, bởi vì: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 16).

Quả thật, vì yêu, Người đã chấp nhận trao ban Con Một của mình cho nhân loại. Vì yêu, Chúa Giêsu đã xuống thế làm người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, để cứu chuộc chúng ta. Vì yêu, Chúa Giêsu đã một đời rao giảng lời Tình Yêu; Lời Hằng Sống; Lời Cứu Chuộc. Vì yêu, Ngài đã chữa lành và giải thoát con người khỏi bệnh tật phần xác, giải phóng cảnh nô lệ phần hồn.

Đỉnh cao của con đường thương xót, ấy là: Thiên Chúa muốn Con của Người đón nhận cái chết đau thương để giải thoát nhân loại cách toàn diện. Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thương xót ấy trong tâm tình vâng phục và yêu mến, để lòng dạ xót thương của Thiên Chúa được lộ hiện…

Như vậy, qua cái chết của Chúa Giêsu hoàn toàn không phải là sự thất bại, nhưng là sự chiến thắng. Chiến thắng trong và do lòng thương xót của Thiên Chúa.

  1. Chúng ta được mời gọi đi trên con đường của lòng thương xót mà Chúa Giêsu đã đi

Qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta hãy dừng lại để suy tư về hành trình theo Chúa của mỗi người chúng ta:

Bấy lâu nay, chúng ta đi theo Chúa trên con đường nào?

Trên con đường thương xót hay hận thù? Yêu thương hay ích kỷ? Hướng tha hay vụ lợi? Sứ vụ hay danh vọng?

Làm một cuộc cật vấn Lương Tâm như thế để thấy rõ con người thật của chính mình…, bởi vì có biết bao nhiêu mục đích, lựa chọn khác nhau như:

Có nhiều người theo Chúa như những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Họ là những người Công Giáo, thường xuyên đi lễ, nhà thờ, luôn tỏ vẻ đạo đức, nhưng thực ra những điều đó chỉ là bình phong cho một ý đồ đen tối, để khi thuận tiện, sẵn sàng làm hại Giáo Hội, coi rẻ Lương Tâm, bán đứng anh chị em mình… Sẵn sàng trở thành nội gián để tiếp tay cho những kẻ chống phá Giáo Hội! Những người này theo Chúa không phải vì yêu mến, kính trọng hay phần rỗi, nhưng theo Chúa để tìm dịp thuận tiện nộp Ngài, chẳng khác gì Giuđa!

Có những người theo Chúa, nhưng theo xa xa, theo nửa vời. Họ như dân Dothái xưa: khi hay thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì rời nhau ra… Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó những kẻ theo khi thuận tiện, những lúc khó khăn là rút lui… Không những thế, việc trối bỏ đức tin ngang qua những lựa chọn bất chính là điều dễ dàng xảy ra đối với những người này…

Cũng không thiếu những người theo Chúa như Philatô, họ theo vì nhu cầu lợi lộc, thực dụng. Vì thế, họ sống theo kiểu: “Sợ tiếng chửi và ăn mày tiếng khen”. Nếu vì Chúa mà ảnh hưởng đến cuộc sống, sự nghiệp, chức quyền…là họ “rửa tay” như Philatô.

Mong sao, ngày càng có nhiều người Kitô hữu theo Chúa như Đức Mẹ, thánh Gioan, bà Verônica, ông Simong, hay như một số phụ nữ… Các ngài theo vì lòng yêu mến, hiệp thông, để cảm, để thấu và muốn được cùng Thầy trở thành chứng nhân của lòng thương xót.

Lạy Chúa Giêsu, khi nghe bài Thương Khó hôn nay, xin cho chúng con không chỉ dừng lại ở sự xót xa nơi những lời vu khống không thương tiếc, những  lằn roi tê tái, những lời nhục mạ bỉ ổi và những nhát đinh chết người mà con người dành cho Chúa!

Nhưng điều quan trọng, xin Chúa ban cho chúng con biết sống sứ điệp của Chúa ngang qua cuộc thương khó, để ước gì thế giới này được chan chứa tình yêu và hy vọng qua cuộc sống chứng nhân của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG ĐẾN CÙNG

 Dã Quỳ     

Chúng ta bước vào Tuần Thánh được mở đầu bằng Lễ Lá, Tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Đây là tuần lễ quan trọng nhất trong năm Phụng vụ. Hôm nay, cầm trên tay một nhành lá dừa, cành lá giúp chúng ta nhớ về biến cố vào thành của Chúa Giêsu và giúp ta sống Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của Chúa trong Tuần Thánh và trải dài trong suốt năm.

Biến cố trung tâm của Chúa Nhật này là Cuộc Thương Khó của Chúa. Giáo Hội mời gọi chúng ta tìm hiểu và suy gẫm về Cuộc Khổ Nạn hồng phúc của Chúa Giêsu, Đấng đã can đảm tiến bước tiến lên Giêrusalem để chịu chết, không tìm chạy trốn. Chính vì thế, Chúa đã nói:“Thầy những ước ao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình.”(Lc 22,15) Và Người đã chia sẻ bữa ăn cuối cùng với các Tông đồ của Người, bị Giuđa phản bội, những môn đệ bỏ rơi và Phêrô chối bỏ. Người đã trải qua một bản án bất công. Người tự ý gánh lấy đau khổ để chuộc tội loài người như lời ngôn sứ Isaia đã tiên báo về Người Tôi Tớ Thiên Chúa. Người từ bỏ sự bảo vệ chính mình. Người mang vào mình sự thù hận, đau khổ và sự khinh bỉ. Và Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. (x Pl 2,6-11) Để rồi chúng ta hiểu rõ hơn và xác tín vào tình yêu sâu đậm của Thiên Chúa dành cho ta

Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu cốt yếu ở việc loan báo với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, là Thiên Chúa cứu độ. Thiên Chúa nói với chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô mà suốt cuộc sống của Người nơi trần gian chỉ là yêu thương và phục vụ;  là tìm kiếm, yêu thương và tha thứ; là hiến mình vì nhân loại. Chúng ta có một Thiên Chúa, Đấng “yêu thương những người tội lỗi và muốn cứu họ.” Một Thiên Chúa chia sẻ kiếp người với chúng ta, trở nên một con người ở giữa chúng ta. Người đã tự nguyện chết để cho chúng ta được sống. Người có quyền ban cho chúng ta sự sống và giải thoát ta khỏi sự chết trong cái chết của Người.

Hôm nay, Chúa vẫn còn hiện diện và đồng hành với chúng ta.  Khi bước vào trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, tới lượt của chúng ta cũng hãy theo cùng con đường tình yêu và phục vụ với Người như lời Thánh Phêrô nhắc nhở:”Chúa Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người.”( 1Pr 2,21) Cái Chết của Chúa sẽ mãi có ý nghĩa nếu chúng ta biết sống làm chứng cho Người cho đến hơi thở cuối cùng. Chắc chắn là khó khăn, nhưng trong đức tin và ơn Chúa trợ giúp, chúng ta có thể thực hiện.

Chúa Giêsu đã dùng thập giá làm phương tiện để cứu chuộc chúng ta, nhưng thập giá không phải là cùng đích của Kitô hữu mà là Phục Sinh. Thế nên, không thể tách rời thập giá với Phục Sinh. Dẫu biết rằng đau khổ trong cuộc sống cần để ta học biết vâng phục, nhưng khi đau khổ đến, ta khó có thể chấp nhận và luôn đi tìm lời giải đáp. Chỉ khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, ta sẽ tìm được câu trả lời. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã đau khổ để cứu chúng ta, đã đau khổ vì yêu thương ta và đã mang trên vai Người tội lỗi của cả nhân loại. Vậy chỉ nhìn lên Thánh giá, chúng ta mới nhận ra tình yêu vô bờ bến Chúa đã dành cho ta và ta mới biết cách đáp lại tình yêu Chúa.

Chúa đã khẳng định:”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”(Ga 15,13) Chúa đã hiến mạng sống vì chúng ta, đã mang lại cho chúng sự tha thứ và hòa giải với Thiên Chúa. Vậy chính chúng ta cũng phải yêu thương và hy sinh vì anh em mình theo lời thánh Gioan khuyên:“Chúa Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em mình.”( 1Ga 3, 16)

Trong niềm xác tín Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta đến cùng và đã cứu chuộc chúng ta, ta hãy vui mừng tung hô Người với trọn tấm lòng và tình yêu “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời và vinh quang trên các tầng trời!”( Lc 19,38) Và can đảm, trung kiên theo Chúa trên đường Thương Khó, cùng với Chúa đón nhận đau khổ thử thách, vâng trọn Ý Cha, để rồi chúng ta sẽ hân hoan cùng Người Phục Sinh vinh hiển.

* Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho tất cả chúng con, nhất là những anh em Kitô hữu đang bị bách hại vì đức tin, có đủ sức mạnh và tình yêu của Chúa để chúng con vững vàng bền chí đến cùng và đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa. Xin Cuộc Thương Khó của Chúa thay đổi nỗi nghi nan của chúng con bằng lòng tin tưởng và nỗi đau đớn của chúng con bằng niềm vui mừng Phục Sinh. Amen.

Về mục lục

.

CHÚC TỤNG ĐỨC VUA

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người,
Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu,
chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.
Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội
bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi,
bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Ðức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ.
Ngài vác thánh giá của họ, như họ và với họ.
Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Ðức Giêsu,
chúng ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.
Ðức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế,
ngày nào còn một người anh chị em của Ngài khốn khổ.

Ði đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay
giúp ta nhậy cảm hơn với thánh giá của tha nhân,
và nhận ra mình có trách nhiệm
trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên toàn cầu.
Ðức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người.
Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng.
Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý.
Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha,
nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa,
ta thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi thấy mình có nét của Giuđa,
một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần.
Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe.
Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Tôi thấy mình có nét giống Phêrô.
Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy
để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ.
Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh.
Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc.
Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi…

Tôi thấy mình có nét giống Philatô.
Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức.
Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào.
Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.
Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê,
tò mò, háo hức, trông chờ Ðức Giêsu làm phép lạ.
Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh.
Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.

Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.
Simon vác đỡ thập giá Ðức Giêsu, các bà theo sau than khóc.
Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành.
Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác.
Anh tin Ðức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh.
Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ.
“Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng”:
Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Ðức Giêsu.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.

Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.

Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.

Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.

Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.

Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.

Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.

Về mục lục

.

KHUÔN MẶT NGƯỜI TÔI TỚ CỦA THIÊN CHÚA

Huệ Minh

Ta vừa đi lại khoảnh khắc hoành tráng, vinh quang mà người đời dành tặng cho Chúa Giêsu.

Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: “Hoan hô Con Vua Đavit” có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tong trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!”

Lễ Lá thật ra đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong diễn tiến cuộc cứu độ của Đức Kitô, đánh dấu chặng đường đau khổ nhất của Chúa Giêsu trong hành trình làm người. Qua đó cũng làm nổi bật thân phận Người Tôi Tớ của Ngài.

Thân phận người tôi tớ đó đã được gợi lên qua các hình ảnh của các ngôn sứ. Thân phận người tôi tớ đó đặc biệt được ngôn sứ Isaia nói rất nhiều và hiện thân rõ nét nơi Isaia. Ngôn sứ Isaia đã phác họa Ngài trong Bài Ca Người Tôi Tớ: Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi…” (Is 50, 4-7)

Thân phận người tôi tớ ấy vừa được Thiên Chúa Cha an bài, vừa được loài người áp đặt trên thân thể Đức Kitô như con chiên hiền lành bị đem đi giết khi giờ đã điểm.

Thật vậy, Thánh Phaolô đã xác định về thân phận tôi tớ của Ngài: Chúa Kitô tuy là Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi…”(Pl 2, 6)

Khi tự hạ như thế, Chúa Giêsu đã bằng lòng chịu mọi vất vả nhọc nhằn, xỉ nhục cay đắng và chịu lấy án phạt của thân phận người tôi tớ.

Thân phận người tôi tớ của Ngài càng rõ hơn khi bước vào thành Giêrusalem để chịu chết cho nhân loại. Chính Ngài đã dạy các tông đồ những lời trăn trối thật cảm động: Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt họ gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn… Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ…” (Lc 22, 24-27)

Chính Chúa Giêsu đã hành động quá đẹp là hầu hạ trong bữa tiệc Thánh Thể giữa các môn đệ và Chúa Giêsu đã trở thành người tôi tớ thực sự mà ngôn sứ Isaia đã phác họa trong cuộc khổ nạn của Ngài. Ta thấy, Chúa Giêsu hoàn toàn im lặng không lời chống đối thở than và phó mặc cho loài người hành hạ, xỉ nhục, bắt vác thập giá lên đồi sọ và chịu họ đóng đinh giữa trời buồn tím đau thương cô đơn tất tưởi. Người tôi tớ trên tất cả các người tôi tớ ấy đã can đảm nhận lấy cái chết trong tình thương bao la vô bờ, bởi Ngài đã trao cả nhân loại cho mẹ Ngài chăm sóc và trút hết tình thương vào cái chết với lời kết thúc sau cùng: Mọi sự đã hoàn tất!

Dưới con mắt đức tin thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy.

Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài…

Mỗi lần ai đó cảm thấy cô đơn, đau thương dập vùi, hãy cố nhìn lên thân phận người tôi tớ của Đức Kitô, để nhận lấy sức mạnh trong trái tim yêu thương bao la của Ngài mà bước đi trong hành trình nhục nhằn kiếp người. Người đó sẽ còn thấy mình đang được đỡ nâng giữa đoàn người con cái của Chúa từ sau cuộc khổ nạn của Ngài cho đến hôm nay. Sức mạnh Đức Kitô người tôi tớ ấy không còn là sự thất bại của người nô lệ, nhưng theo Lời Thánh Phaolô, đã được Thiên Chúa tôn vinh và ban cho một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. (Pl 2:8-9) Hãy tin tưởng và bước đi theo Ngài.

Ta cùng với Chúa Giêsu bước theo Ngài trên con đường thập giá và ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn.

Ta nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.

Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn…

Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.

Xin Chúa cho ta lòng chạnh thương với anh chị em đồng loại như Chúa đã chạnh thương phận người tội lỗi của ta.

Về mục lục

.

CHIÊM NGẮM MẦU NHIỆM THẬP GIÁ

 Lm John Nguyễn

Lễ Lá là một lễ vui mừng khi Chúa Giê-su vào thánh thánh Giê-ru-sa-lem, dân chúng hò reo vui mừng đón tiếp. Nhưng lại đượm nét buồn, buồn vì lòng người đổi trắng thay đen. Hôm nay dân chúng tung hô Ngài là Vua, sau đó chính họ ra tay giết chết được diễn tả qua Bài Thương Khó, chúng ta được nghe trong thánh lễ hôm nay. Ðức Giêsu bước vào cuộc thương khó.

Hosana! Hosana! Hosana! Tiếng reo hò vang vọng cả một góc trời khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng với những cành lá trên tay, với những cánh tay đưa lên cao để tung hô Ngài là Ðấng Mêsia, là Con vua Ðavít. Ngài là Vị Vua của nhân loại. Nhưng một tuần sau, chính những cánh tay đó cũng giơ cao để gào thét, để chửi rủa chế nhạo và đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Ôi! Thật đớn đau, lòng người đổi trắng thay đen.

Đức Giêsu, Ngài là Con Thiên Chúa và cũng là con người, Ngài mang khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết. Ngài không giải thích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với tình yêu to lớn, đó là mầu nhiệm của đau khổ. Từ vinh quang trở thành đau khổ, và đau khổ lại biến thành vinh quang. Do đó, đau khổ mang đầy ý nghĩa to lớn cho nhân loại. Qua bài Thương Khó hôm nay, bạn và tôi, chúng ta hãy cùng đi với Ðức Giêsu qua từng chặng đường đau khổ từ vườn Cây Dầu đến tận Núi Sọ. Chúng ta cùng vác với Ngài bởi lẽ mọi sự Ngài chịu đau khổ là vì chúng ta và cho cả nhân loại được ơn giải thoát. Sau khi cảm nghiệm được cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu như thế nào thì bạn và tôi sẽ thấy mình yêu thánh giá Chúa hơn, dễ dàng chấp nhận vác thánh giá chính mình, và cảm thông với thánh giá của người khác.

Ðức Giêsu đã đi đến cùng tận của phận con người. Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, đau khổ của thánh giá đã nở hoa và tràn trề sức sống mới. Khi chúng ta chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, chúng ta không cảm thấy đó là chuyện xa lạ đang xẩy ra trong thế giới đầy sự bất công và vô lý do con người tạo ra. Chúng ta cũng đang sống trong bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ bởi một văn hóa của sự chết, một xã hội bạo lực và tàn ác. Điều này đã được diễn ra trong bối cảnh Tin Mừng sau đây:

Khi ta chiêm ngắm cuộc khổ nạn và con đường Chúa đã đi qua, chúng ta dễ dàng đón nhận thánh giá của chính mình, cảm thông hơn với thánh giá của tha nhân, và đồng thời chúng ta nhận ra rằng, mình cần có trách nhiệm trước những khổ đau của tha nhân trong gia đình, cộng đoàn và trong thế giới này. Chúng ta đừng sống vô cảm nhưng hãy biết chia sẻ và xót thương, như Chúa đã xót thương và tha thứ cho chúng ta.

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, chúng ta thấy mình không phải là kẻ đứng ngoài cuộc, thấy mình có nét của Giuđa: Một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần, chứng kiến bao phép lạ và được dạy bảo bao lời vàng ngọc, nhưng lại phản bội Thầy bằng nụ hôn giả dối.

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, chúng ta sẽ thấy mình có nét giống Phêrô: Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy Giê-su, để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ.Tiếng gà gáy cất lên, khiến Phêrô chợt tỉnh lại. Ánh mắt tha thứ của Thầy Giêsu khiến Phêrô òa khóc và hối hận. Ngày hôm nay vẫn còn văng vẳng đâu đó tiếng gà gáy trong đêm và ánh mắt nhân từ của Chúa còn trong đời tôi không?

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông gào thét. Ông không đủ bản lãnh và can đảm để tha một người vô tội. Và chúng ta có thấy mình giống Hêrôđê: tò mò, háo hức, trông chờ Ðức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh, và chính ông đã ra tay giết Chúa Giêsu vì lòng ganh tỵ.

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, tôi nhìn thấy những điểm sáng ngời. Điểm sáng đó từ ông Simon: ông vác đỡ thập giá Ðức Giêsu trên đường lên núi Sọ. Điểm sáng khác nữa, đó là từ các người phụ nữ theo sau Thánh Giá Chúa Giêsu, họ vừa đi vừa than khóc. Điểm sáng rực rỡ hơn cả, đó là tên trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào Ðức Giêsu, và anh ta van xin Ngài nhớ đến anh, và anh là người Kito hữu đầu tiên được hưởng ơn cứu độ. “Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng”.

Lời nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, thì xin cho những người nghèo khổ được no đủ.

Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, thì xin cho chúng con và các bạn trẻ có đủ sức đối diện với những khó khăn của cuộc sống.

Vì Chúa bị kết án bất công, thì xin cho chúng con can đảm bênh vực chân lý và sự thật.

Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, thì xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.

Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, thì xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng và ủi an.

Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, thì xin cho sự hiền hoà, chịu đựng để vượt thắng bạo lực và gian ác.

Vì Chúa giang tay chết trên thập giá, thì xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên kiết với nhau.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui và ơn cứu độ, thì xin cho chúng con biết đón lấy đời thường ngày với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.

Về mục lục

.