CHÚA NHẬT LỄ LÁ – Năm B
Lời Chúa: Mc 11, 1-10; Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
———
-
Ông này là Con Thiên Chúa (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Cố Lên, Đừng Sợ (Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
- Gương Khiêm Nhường(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
-
Sự thương khó Đức Giêsu (Lm. Thái Nguyên)
-
Dáng đứng của tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Tình yêu là minh chứng (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Ca vang Hosanna (Lm. Vũ Đình Tường)
-
Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật Lễ Lá_B (Jorathe Nắng Tím)
-
Con đường thập giá (Lm. Đaminh Trần Quang Hiền)
-
Cõi khổ (Trầm Thiên Thu)
-
Tự tin tiến bước (Lm.Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Người chết vì yêu (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Thông hiệp cuộc tử nạn của Đức Kitô (Lm. Xuân Hy Vọng)
-
Sống vì yêu, chết cũng vì yêu (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)
-
Vua vinh quang: Chịu đau khổ trên thập giá (Lm. Ngọc Dũng, SDB)
-
Lạy Thiên Chúa của con, Sao Ngài bỏ rơi con? (Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)
1. Con đường theo Chúa (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Ngã rẽ cuộc đời (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Nhiệt thành của thập giá (Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
4. Ai là bạn của tôi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Bước vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu(Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,DCCT)
6. Thiên Chúa tin tưởng con người(Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
7. Ngài đã luôn (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
8. Con đường thập giá (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Suy niệm Lễ Lá_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
10. Suy niệm Lễ Lá_B. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
11. Cuộc thương khó mang tên con người (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
12. Bóng tối và niềm tin (Lm. GB. Trần Văn Hào,SDB)
13. Con đường thập giá. (Lm. Đaminh Trần Quang Hiền, SDB)
14. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
15. Chuyến khổ (Trầm Thiên Thu)
16. Thật, người này là con Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
17. Vác thập giá với Chúa Giêsu (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
18. Sự thương khó (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
19. Lòng người thay trắng đổi đen (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
20. Vài nghịch lý trong cuộc đời Đức Giêsu theo thánh Marcô (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
21. Máu Con Chiên (Lm. Nguyễn Thái)
22. Tham dự vào cuộc vượt qua của Chúa (Lm. Đinh Lập Liễm)
23. Con đường có Chúa (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
24. Những đổi thay đến ngỡ ngàng (Tu sĩ Jos.Vinc.Ngọc Biển, SSP)
25. Trong đám đông ấy, có tôi (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
26. Nỗi đau thập giá (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
27. Hai mặt đời (JM. Lam Thy, ĐVD)
28. Mặc khải (Lm. Vũ Đình Tường)
29. Chúa Nhật Lễ Lá_B (Lm. Gioakim Trần Minh Dũng)
30. Vào trong vinh quang ngang qua thập giá (Lm. Đan Vinh)
31. Thái độ của ChúaGiêsu khi trải qua cuộc thương khó(Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
32. Khổ nạn của Chúa là hy vọng của chúng ta (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)
33. Suy niệm Lễ Lá. Năm B (Lm. anthony Trung Thành)
34. Chúa Nhật Lễ Lá. Năm B (Lm. Antôn)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Phụng vụ khai mạc Tuần Thánh bằng trình thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, mà chúng ta quen gọi là “Bài Thương Khó”. Bằng những góc nhìn và điểm nhấn khác nhau, tất cả bốn tác giả Tin Mừng đều kể lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Bài Thương Khó trích Tin Mừng Thánh Máccô được đề nghị cho năm Phụng vụ B. Tác giả dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu từ làng Bêtania, nơi có gia đình thân thiết với Người. Chúng ta cùng với Chúa Giêsu trải qua những sự kiện quan trọng: bữa tiệc Vượt Qua (cũng gọi là bữa tối cuối cùng), sự phản bội của Giuđa, việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, việc Chúa cầu nguyện trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu bị bắt, cuộc đối chất và xét xử và lên án tử cho Người bởi Công nghị Do Thái, sự phản bội của Phêrô, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Philatô, chặng đường thập giá và cuộc khổ nạn của Người. Lời tuyên xưng “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa” ở phần cuối của trình thuật, như một đáp số cho mọi vấn nạn đặt ra về một Con người bị treo và chết trên thập giá.
Những gì được liệt kê trên đây giống như một cuốn phim quay nhanh, giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, đồng thời rút ra những bài học quan trọng và hữu ích cho đời sống Đức tin. Hãy cùng chiêm ngắm chân dung Chúa Giêsu được diễn tả trong Bài Thương khó:
Cuộc thương khó của Chúa là cuộc thương khó vì tình yêu. Chúa Giêsu đã trung thành cho đến chết, trung thành với tình yêu vô biên của Chúa Cha. Người cũng trung thành với tình yêu vô biên đối với nhân loại.
Chúa Giêsu đã chấp nhận cuộc thương khó này một cách hoàn toàn tự nguyện. Người đã bẻ gẫy quyền lực của sự chết trong con người, tức là quyền lực tội lỗi. Tội lỗi đã khiến một số luật sĩ và Biệt phái hận thù và kích động bạo lực nơi dân chúng. Tội lỗi cũng khiến Philatô và đám đông hằn học ùa theo những lời vu khống. Tội lỗi cũng khiến cho các môn đệ sợ hãi chạy trốn và cuối cùng, tội lỗi khiến cho Phêrô chối Thày mình mà không hề ngượng ngùng.
Đối diện với cơn sóng tội lỗi và bạo lực hung dữ, Chúa Giêsu vẫn thể hiện một tình yêu cho đến cùng. Người vẫn nhìn con người với cái nhìn yêu thương, ngay cả khi bị đóng đinh trên thập giá. Đó là cái nhìn mời gọi tình yêu và sống cho tình yêu.
Đương nhiên, khi thấy bạo lực và sự chết, Chúa Giêsu đã run sợ, vì Người là Thiên Chúa nhưng cũng là con người. Trên thập giá, Người đã cảm thấy cô đơn và dường như bị Chúa Cha bỏ rơi. Tuy vậy, vượt trên tất cả, đó là lòng trung thành của Người. Người đã chấp nhận cuộc thương khó, như Người đã chấp nhận hạ mình mang lấy thân phận nô lệ phàm nhân. Sự chết của Người là sự chết tự trao ban, cũng như sự sống của Người đã hiến dâng trọn vẹn cho sứ mạng được Chúa Cha trao phó. Cây thập giá là dụng cụ để thi hành cuộc thương khó, đã trở thành dấu chỉ để nhận ra môn đệ của Người. Cây thập giá cũng là điểm quy tụ muôn dân, để cùng quy hướng về Đấng Cứu độ: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).
Màu áo đỏ của Phụng vụ lễ Lá nhắc lại cho chúng ta sự sỉ nhục của đám quân lính Rôma. Sự sỉ nhục này, lạ thay, lại mang tính tiên tri. Bởi lẽ vào lúc Chúa chịu thương khó, Đấng sẽ bị đóng đinh trên thập giá được phủ bằng áo khoác đỏ. Màu đỏ là sắc màu y phục của vua chúa. Chiếc áo này khẳng định với chúng ta: Chúa Giêsu là Vua và ngai toà của Người chính là cây thập giá.
Vị vua cao cả đã hiến thân làm người nô lệ. Vị Vua Giêsu đã tự huỷ mình ra không, như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài đọc II. Vị Vua này không giống như các vua chúa trần gian. Đó là Vị Vua yêu thương nhân loại. Người muốn cho con người được hiện hữu và được hạnh phúc. Đó cũng là Vị Vua đến trần gian để bẻ tan xiềng xích, kêu gọi con người xoá bỏ hận thù và bạo lực do tội gây nên.
Thánh Máccô đã kể với chúng ta, viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy, liền nói: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa“. Viên đại đội trưởng là một quân nhân Rôma, tức là người ngoại đối với người Do Thái. Ông cũng là người tham gia thi hành án tử trong vụ Chúa Giêsu. Lúc Người còn sống thì ông lại không tin Người, nhưng chính lúc Người tắt thở thì ông lại nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Cái chết thánh thiện và tự nguyện của Chúa Giêsu chính là một bằng chứng hùng hồn cho thân thế và sự nghiệp của Người.
Hôm nay và những ngày sắp tới của Tuần Thánh, chúng ta suy tư cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta hãy tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cũng cầu nguyện cho thế giới hôm nay nhận ra nơi Đấng chịu đóng đinh tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại. Xin cho thế giới mở rộng tấm lòng để đón nhận Chúa Giêsu. Một khi đón tiếp Người, cuộc sống sẽ có ý nghĩa, gia đình sẽ hạnh phúc, lương tâm sẽ thanh thản và thế giới sẽ bình an.
Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc
Có phải người thời xưa độc ác, hung dữ, do hoàn cảnh xã hội lúc đó chưa văn minh hiện đại, hay còn nhiều giới hạn ? Chắc không phải chỉ những ai sống bậc hôn nhân gia đình, mới cần được dồi dào tình yêu và thuỷ chung ? Thực tế cho thấy: giầu nghèo, đạo đức, thánh thiện, khờ hay khôn, tất cả đều sợ bị phản bội, bất trung. Mặt trời mọc ở phương đông, mặt trời lặn ở phương tây, đó là chân lý. Xã hội thời nào cũng có người tốt kẻ xấu, ấy vậy mà Đức Giêsu tự ban đầu, đã có ý giúp tất cả mọi phần tử biến đổi tâm tính, hầu trở nên thánh. Khao khát được biết người, biết ta, làm việc bác ái, sống tình sống nghĩa, chính là ơn gọi trở nên con người mới, mang lại niềm vui hạnh phúc cho mình và tha nhân. Cố lên, đừng sợ, mãi mãi là những lời động viên cần thiết, giúp nhau vượt qua khó khăn gian khổ, hoàn thiện đời mình, nên xứng hợp với tình yêu được ban tặng.
Tình yêu là thứ ngôn ngữ đặc biệt: qua nụ cười, ánh mắt, người ta đủ cảm nhận về sự mộ mến nhau ít hay nhiều, dù họ không cùng chung sắc tộc mầu da. Tất cả vì yêu, cố lên, đừng sợ, yêu là chết trong lòng một ít (Xuân Diệu). Các bạn trẻ rất thực tế, khi nói: trong tình yêu không cần phải nói dài dòng, chỉ cần hiểu nhau. Đức Giêsu vì yêu đã đến thế gian, vì yêu nên không lùi bước trước khổ đau thập giá, yêu đến cùng, cho dù đi Giêrusalem là nguy hiểm chết người. Cố lên, đừng sợ, tình yêu của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần ở trong Đức Giêsu, tình yêu của Đức Giêsu hiện diện trong hành trình của mỗi người, khi ta sống niềm tín thác cách trọn vẹn. Dù tài giỏi đức độ hoặc khờ dại đầy thiếu xót, người ta vẫn cần được yêu thương. Hành trình đời người là hành trình đi Giêrusalem, hoàn tất ơn gọi đời mình, ai cũng cần phải được có sức mạnh của tình yêu.
Cố lên, đừng sợ: ai cũng nói tương lai luôn mở rộng đón bạn, nhưng nếu không nắm bắt được hiện tại, tương lai của bạn sẽ chẳng có gì đâu ! Mọi người đến nhà thờ tham dự vào phụng vụ đều là công giáo, dù không bán Thầy, không chối Chúa, nhưng có ai dám tự mãn ta là thánh ? Tất cả người tội lỗi, thánh thiện, đều có cơ hội để nhận ra Thiên Chúa Đấng giầu lòng xót thương, có thể niềm tin Đấng mời gọi ta cùng đi Giêrusalem còn lơ mơ ! Không phải một số người cứng lòng tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, mà ngay cả các môn đệ sống sát gần bên Thầy, các ông còn hoài nghi, khó hiểu, tại sao Thầy có quyền phép mà lại im lặng trước sự dữ ? Hãy cố lên: hạnh phúc không phải có sẵn, mà luôn xuất phát từ hành động của bạn. Đừng sợ, tình yêu và sự trung thành không phải chỉ cần cho bậc là cha mẹ, vợ chồng, bởi vì bình an, niềm vui, chính là cơ hội cho mọi thành phần đang sống niềm tin nơi hiện tại này.
Cố lên, đừng sợ: sự khác biệt nơi người thành công với kẻ thất bại không hệ tại ở sức mạnh, hiểu biết, bằng cấp, mà ở lý trí. Tiếng hoan hô chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, rồi cũng từ những con người ấy lại hô vang “đóng đinh nó vào thập giá” ! Cố lên, Đức Giêsu có nghe, có cảm nhận được tình liên đới hiệp thông khích lệ của Chúa Cha trong tình yêu Chúa Thánh Thần không ? Vào buổi chiều hôm ấy, đang khi cùng các môn đệ ăn tiệc vượt qua, Đức Giêsu nói: “Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta” ! Cố lên, đừng sợ: sự dữ, sự xấu, ác tâm ác đức, tạo nên khổ đau, sự chết, nhưng hãy vững tin, “Thầy đã thắng thế gian”. Trong tình yêu không có đúng sai, chỉ là ai yêu nhiều hơn thôi ! Bằng tình liên đới hiệp thông, Đức Giêsu vẫn nói lời chân tình với từng người chúng ta: con người có sinh ắt có tử, nếu bạn còn đang sống, hãy sử dụng phương thế tốt nhất để sống tiếp, thế là đủ !
Cố lên, đừng sợ, còn là lời nhắc nhớ: Thầy không van xin Chúa Cha sai vệ binh thiên thần đến cứu, Thầy im lặng, cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ lầm không biết, quyết không xuống khỏi thập giá, dù Thầy có tự do. Tất cả vì yêu, tất cả là hồng ân: hãy theo Thầy bước vào tuần thương khó, tiến vào tam nhật vượt qua, cố lên, đừng sợ, chính tình yêu và sự thông hiệp sẽ giúp ta nhận ra lòng thương xót của Chúa đối với tội nhân. Chắc không phải người thời xưa mới thắc mắc, tại sao Đức Giêsu không loại Giuđa, Phêrô, và một số các môn đệ nhút nhát, để thành lập nhóm 12 tài giỏi đức độ hơn ? Theo người giầu, làm môn đệ “vua tài, tướng giỏi”, dễ hơn làm học trò Đấng dang tay trên thập giá, chết vì yêu. Cố lên: không phải xinh đẹp, tài giỏi là hạnh phúc, người hạnh phúc là người đủ niềm tin để được yêu thương và biết sống yêu thương.
Người ta có kẻ ngụ ngôn bác gà trống và chú chó như sau: bác gà nói, sao chú sướng thế, cứ luẩn quẩn ở nhà, ăn rồi ngủ ? Chú chó trả lời, ấy là bác nghĩ vậy thôi, mọi người đều nói bác hạnh phúc nhất, ban ngày tơn tơn rong chơi, tối về ngủ nghỉ thẳng giấc ! Đứng núi này trông núi khác, thực ra: mỗi nhà mỗi cảnh, đúng là sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi kiểu. Theo Đức Giêsu có ai là không khổ đau, thập giá, ai chẳng có sứ mạng riêng, ai mà không có hoàn cảnh đáng thương ? Đức Giêsu ở trên cao, ở trên cây thập giá, không phải để nhìn rõ tội lỗi của mỗi người, ở trên cao để minh chứng tình yêu của Thiên Chúa cứu độ. Ở trên cao, Chúa vẫn hô vang, nói lớn: các bạn cố lên, đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian, thắng sự chết, các bạn cũng sẽ thắng đau khổ, tội lỗi và sự chết.
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Lễ Lá, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã muốn cho Đấng Cứu Thế mang thân phận người phàm và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận bài học Người để lại trong Cuộc Thương Khó, và thông phần Vinh Quang Phục Sinh với Người.
Đức Giêsu là mẫu gương khiêm nhường thực thi thánh ý Chúa Cha, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư gửi tín hữu Hípri đã tường thuật lại: Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới.
Đức Giêsu đã trở nên hiền lành và khiêm nhường, để nâng chúng ta lên, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Anrê Cơrêta đã nói: Người là Đấng hiền lành, đã vượt lên trên phía mặt trời lặn, tức là lên trên thân phận yếu hèn của chúng ta. Người vui mừng vì trước kia đã tỏ cho chúng ta thấy Người hiền lành như thế, nên đã tới chung sống với chúng ta, để nhờ dây thân thích với chúng ta, Người nâng chúng ta lên và đưa chúng ta đến với Người.
Đức Giêsu là Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã khiêm nhường chấp nhận tất cả, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia cho thấy: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cũng đã cho thấy Đức Giêsu đã đi đến cùng của mầu nhiệm tự hủy: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã khiêm nhường chấp nhận mọi sỉ nhục, khinh chê, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 21, vịnh gia đã cho thấy: Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao? Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi. Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: “Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay cũng cho thấy sự tự khiêm tự hạ của Người: Vì chúng ta, Đức Kitô đã tự hạ, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu.
Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật lại Cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Quyết định của Chúa, ai dò cho thấu. Đường lối của Người, ai theo dõi được. Tại sao Chúa lại chọn cách thức khiêm nhường, tự hủy, để biểu tả tình yêu của Người? Đây là một mầu nhiệm. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa để vào thành thánh Giêrusalem. “Ngựa” được dùng để chiến đấu ngoài sa trường, biểu tượng cho sự mạnh mẽ, oai hùng, còn “lừa” được dùng để chỉ sự khiêm nhường, ôn nhu. Đức Giêsu đích thực là vị Vua Hòa Bình, mang bình an đến cho nhân loại. Noi gương Đức Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, chúng ta hãy lấy hết lòng khiêm nhường, trí khiêm hạ, và hoàn toàn khoét rỗng chính mình, để dọn đường: đón Đức Giêsu đi vào tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết cởi bỏ những chiếc áo, đính đầy những quyến luyến lệch lạc của thú vui trần thế, để mặc lấy Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận bị lột trần trụi trên thập giá, để che đậy sự tủi hổ mà tội lỗi đã mang lại cho chúng ta. Ước gì được như thế!
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta cử hành biến cố Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia, đồng thời với tư thế sẵn sàng chịu đau khổ và chịu chết vì chúng ta.
Theo lời Thiên Chúa hứa, dân Israel từng ngày mong chờ hoàng tử nhà Đavít đến giải thoát họ khỏi ách đô hộ của đế quốc. Khi Chúa tiến vào thành thánh, dân chúng đã nhiệt liệt tung hô: các môn đệ “lấy áo choàng của mình trải lên lưng lừa”, dân chúng thì “chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang dậy”. Đối với họ, ngày giải phóng đã đến, vị anh hùng đã xuất hiện.
Thế nhưng Đức Giêsu vào thành không phải với phong thái của vị tướng oai phong hiển hách ngồi trên lưng chiến mã, nhưng lại ngồi trên lưng lừa, là hình ảnh của một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm nhường. Đây là hình ảnh đã được tiên báo bởi ngôn sứ Dacaria: “Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…” (9, 9-10).
Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác, và cũng không mang ý nghĩa giải phóng theo kiểu người Do Thái chờ mong. Ở đây, hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ đúng là thích hợp với câu tung hô “Hôsanna!” theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’. ‘Cứu chúng tôi’ không phải bằng quyền lực thống trị như bất kỳ lãnh tụ nào khác, nhưng “cứu chúng tôi cho khỏi mọi sự dữ”, bằng lòng từ bi và thương xót của “Đức Vua đang đến… hiền hậu ngồi trên lưng lừa”. Thật vậy, đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là “thánh giá”, nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, “yêu mến cho đến tận cùng” (Ga 13,1). Cuộc đời tràn ngập đau khổ nên Phật giáo coi “Đời là bể khổ”. Nhiều người đã tìm nhiều cách để tránh khổ và diệt khổ. Nhưng Đức Giêsu không tránh khổ, cũng không diệt khổ. Ngài “vác” lấy đau khổ (thập giá), và Ngài dạy môn đệ mình: “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo”.
Phụng vụ Lễ Lá được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó, cho ta thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình, cũng là người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, vì Ngài đến thế gian là để thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Dt 10,9), để cứu độ nhân loại. Nhưng rồi Ngài cảm thấy chính Cha dường như cũng vắng bóng: “Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?”. Ðức Giêsu không chỉ đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn, mà còn bị hành hình một cách ô nhục, tan nát cả tấm thân: đầu bị quấn mão gai nhọn để làm ông vua hề; khuôn mặt thánh thiện bị tát tai và khạc nhổ; tấm thân ngời sáng bị phơi ra cho những trận roi cầy nát; đôi bàn tay thi ân giáng phúc bị co quắp dưới những mũi đinh đóng chặt; đôi bàn chân đi rao giảng Tin Mừng cũng bị đóng cứng; Đấng trong sạch vô ngần bị lột áo quần phơi mình trần ra nhục nhã. Không còn gì hãi hùng hơn mà một con người có thể chịu. Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế vì con người và cho con người.
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một bày tỏ về tội lỗi của loài người chúng ta. Mãi mãi Thập giá là biểu trưng của sự độc ác của con người, là đỉnh cao của trí tuệ con người trong việc sáng chế ra những phương thế hành hạ và loại trừ nhau, là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại. Nhưng Thập giá không chỉ là một mạc khải về tội lỗi con người, mà còn là mặt trái của ánh sáng tình yêu: một tình yêu kiên trung và tha thứ cho đến cùng.
Cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân Thập giá, ta hãy để tâm hồn mình hòa nhập vào những nỗi thống thiết của Chúa Giêsu. Hãy cảm nhận cái nhìn tràn đầy yêu thương và trìu mến của Chúa trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Nhờ đó, ta biết tận dụng mọi khổ đau để thông phần với Chúa mà cải hóa đời mình trong tiến trình hoàn thiện.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Chúa đã cho con biết,
nguyên nhân của sự dữ bởi loài người,
khi dùng tự do để phạm tội,
ngược lại đường lối của tình yêu.
Vì tội lỗi mà có đau khổ và sự chết,
như hậu quả của vòng vây nghiệp chướng,
khiến cuộc đời mang nặng những sầu thương,
và do đó đánh mất cả thiên đường.
Sự dữ có mặt ở mọi nơi mọi thời,
hiện hữu dưới mọi hình thức gọi mời,
luôn khơi dậy từ ham muốn của lòng người,
tàng ẩn ngay trong những thứ đẹp tươi.
Sự dữ khiến nhiều người đặt câu hỏi:
Nếu Thiên Chúa toàn năng,
sự dữ sao lại có?
Nếu Thiên Chúa là tình yêu,
sự toàn năng của Người có hay không?
Chúa Giêsu đã trả lời trên thập giá:
quyền năng của Thiên Chúa là tình yêu,
khi trao hiến Con Mình cho nhân loại.
để đền thay sự bại hoại của gian trần,
Sự dữ hay tội lỗi cũng chính là thách đố,
đều có chỗ trong chương trình tạo dựng,
để con người có cơ hội mà minh chứng,
lòng thành tin hay bất tín của mình.
Xin cho con sức mạnh lòng yêu mến,
để dẹp tan những bóng tối tội đời,
những ích kỷ kiêu căng và gian dối…
để tim con từ đây được biến đổi,
trọn cuộc đời để phụng sự Chúa thôi. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài là người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Ngài đón nhận Thập giá tủi nhục thất bại, và đã biến đổi Thập giá thành nguồn ơn cứu độ, tình thương tha thứ cho nhân loại tội lỗi.
Phụng vụ bước vào Tuần Thánh với khởi đầu là Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Thương khó, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó.Việc cử hành hôm nay mang hai sắc thái có vẻ nghịch nhau : mới mừng cuộc khải hoàn của Chúa Kitô, rồi lại cảm thông nỗi thống khổ của Người. Phụng vụ hôm nay kết hợp hai khoảnh khắc trái ngược nhau; cuộc chào đón Đức Giêsu vào Giêrusalem và thảm kịch Thương khó; lễ hội “Hosanna” và những tiếng la ó lặp đi lặp lại “Đóng đinh nó vào thập giá!”; cuộc khải hoàn và sự thất bại bề ngoài qua cái chết trên thập giá.
Bài Thương khó kể lại từng chặng đường đau thương của Đấng Cứu Thế. Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Thầy. Giuđa chỉ điểm bắt Thầy bằng một nụ hôn giả dối. Các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Thầy. Chúa Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Họ khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào da thịt. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để rồi thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thơ, mau kiệt sức và chóng chết. Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền!. Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Ngài như thế.
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).
Cuộc khải hoàn rước lá của Chúa Giêsu là một dấu chỉ của chiến thắng vinh quang chung cuộc. Việc kiệu lá cho thấy rõ ý nghĩa đích thực của đau khổ và thập giá. Tương tự trong sự kiện “biến hình” trên núi Tabo: Chúa Giêsu cho ba tông đồ thoáng thấy vinh quang thần tính. Khi xuống núi, Ngài ra lệnh cho ba tông đồ phải bảo mật cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết, nghĩa là cho đến khi ý nghĩa của biến cố được tỏ bày. Cũng chính ba tông đồ thân tín chứng kiến cơn hấp hối của Chúa ở vườn Cây Dầu. Sau Phục sinh, Chúa Kitô cũng giải thích cho hai môn đệ trên đường Emmau: “Đức Kitô không phải chịu đau khổ như thế rồi mới vào vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26).
Như vậy ngay từ Lễ Lá, hai sắc thái, hai cục diện của mầu nhiệm Vượt Qua được trình bày rõ ràng. Lễ Lá trình bày hai cục diện theo thứ tự đảo ngược : vinh quang trước, khổ nạn sau. Nhưng thứ tự đó biểu lộ thực chất của mầu nhiệm Vượt Qua. Mầu nhiệm Vượt qua cơ bản là một mầu nhiệm đạt tới vinh quang và sự sống. Sự chết chỉ là bước đi qua, là phương tiện để đạt tới mục đích là vinh quang Phục Sinh. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Chúa Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Chúa Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng.
Trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền. Tình yêu ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh.
Bước vào Tuần Thánh, chúng ta cùng theo Chúa Giêsu trên con đường Thập giá.
Theo Chúa không chỉ khi gặp may mắn, thành công, bình an mà còn chấp nhận khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại.
Theo Chúa không là con đường “xuôi chèo mát mái” hoàn toàn hạnh phúc an lành, mà còn là con đường chọn lựa quyết liệt với những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực thế gian.
Theo Chúa Giêsu là đi con đường thập giá vừa lên dốc, vừa nhiều ổ gà ổ voi và vừa là con đường một chiều. Con đường ấy hẹp chứ không thênh thang theo những trào lưu dễ dãi, giả dối, ích kỷ, hận thù, bạo lực… nên cần phải sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung.
Tuần Thánh, cùng đi vào hành trình thương khó của Chúa, chúng ta gặp thấy nhiều tình huống tăm tối của “nhân tình thế thái” như vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình Yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh đối với Chúa Cha và lòng xót thương với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Cảm nếm và thông phần với nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng vẫn luôn nhận ra lòng xót thương nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài theo Tin Mừng kể lại. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta càng yêu Thập giá của Chúa hơn, yêu thập giá của mình hơn và kính trọng thập giá của người khác hơn.
Theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là một thách đố lớn trong bối cảnh thời nay. Xác tín rằng, có Chúa cùng đồng hành, Ngài luôn thấu hiểu nâng đỡ, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên hành trình theo Ngài. Nếu can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
Bông hồng nhỏ
Chiều nay, Thầy Giêsu đang ở làng Bêtania. Làng quê nhỏ bé ấy là một làng quê bình yên và rất đỗi thân thương. Nơi đây là điểm dừng chân quen thuộc của Thầy Giêsu và các môn đệ sau những ngày rong ruổi rao giảng Tin Mừng đây đó.
Chiều dần buông. Nhà ông Simôn Cùi đã đầy thực khách. Khách khứa đã đông đủ quanh bàn tiệc. Thầy Giêsu ngồi dùng bữa với họ. Đang dùng bữa, có một người phụ nữ đến. Chị mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất, đây là thứ dầu thơm đắt tiền. Sự xuất hiện bất ngờ của vị khách không mời mà đến đã khiến cho khách dự tiệc xôn xao và làm cho chủ nhà rơi vào tình thế khó xử. Bất chấp những ánh mắt nghi kị, không thân thiện của những người khác, chị vẫn bước đến bên Thầy Giêsu. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía chị, ánh mắt của chị lại chỉ hướng về phía Thầy. Ánh mắt của Thầy khiến chị thêm vững dạ an tâm. Chị đến, quỳ gối bên Thầy, lấy ra bình bạch ngọc đựng dầu thơm mà chị đã dành dụm tiền để mua. Chị đập vỡ bình, lấy dầu xức trên đầu Thầy. Mùi thơm tỏa ra tràn cả căn phòng. Có vài người lấy làm bực tức nói với nhau: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo”. Rồi họ gắt gỏng với chị (x. Mc 14, 3-5). Người ta muốn đuổi chị đi. Chị đâu phải là khách dự tiệc. Chị là người không được chào đón ở đây.
Trước thái độ bực tức, gắt gỏng của họ, Thầy đã lên tiếng bênh vực chị. Thầy biết, Thầy hiểu thấu tấm chân tình của chị. Đối với chị, Thầy có một chỗ đứng rất đặc biệt trong trái tim, Thầy là người rất quan trọng trong cuộc đời chị. Chắc chắn, chị đã cảm nhận được tình yêu và sự đón nhận mà Thầy Giêsu đã dành cho mình. Chị không chỉ kính trọng Thầy mà chị còn yêu mến Thầy. Tình yêu chân thành của chị đã vượt thắng mọi nghi ngại và khó khăn. Thầy đã đến trong cuộc đời chị, Thầy đã đón nhận chị, đã yêu thương chị vô điều kiện. Ba trăm quan tiền quả là một số tiền lớn có thể giúp ích được cho những người nghèo khó. Hành động của chị có phải là một hành động quá phí phạm không? Có lẽ, đối với những khách dự tiệc, Thầy Giêsu chỉ là một người không mấy quan trọng trong cuộc đời của họ. Thầy chỉ là một con người bình thường như bao người khác. Họ trách móc chị chỉ vì thương người nghèo hay họ chỉ đang ghen tị với tâm hồn quảng đại của chị? Họ thương người nghèo thật tâm hay họ chỉ tiếc ba trăm quan tiền? Còn chị, chị chẳng nói với Thầy Giêsu câu gì nhưng Thầy đã đón nhận tấm chân tình của chị. Thầy để cho chị làm việc chị muốn. Thầy cũng hiểu thấu tâm địa của những người đã buông lời trách móc chị: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!” (Mc 14, 6-8). Thầy biết họ chỉ cố ý sinh chuyện để gây lôi thôi, rắc rối cho người khác. Thầy biết có gì trong lòng họ. Thầy nhắc cho họ nhớ rằng, chẳng bao lâu nữa, họ sẽ không còn được thấy Thầy. Không còn được thấy Thầy, họ có đau lòng không? Thầy khẳng định chị đã làm cho mình một việc nghĩa. Tuyệt vời thay! Tình yêu của chị đã chiến thắng tất cả: một tấm lòng yêu Chúa chân thành.
Lạy Chúa! Cảm tạ Chúa đã yêu thương con và đón nhận con vô điều kiện. Xin cho con cũng biết mạnh dạn diễn tả lòng yêu mến Chúa bằng hành động, bằng những việc làm phục vụ anh chị em. Trước những khó khăn và thử thách trong cuộc đời, xin cho con luôn hướng nhìn lên Chúa, lắng nghe và thi hành điều Chúa muốn dành cho con. Xin thanh luyện ý hướng làm việc thiện trong con để tất cả những gì con làm đều xuất phát từ lòng yêu mến Chúa chân thành. Amen.
Lm Vũđình Tường
Dân chúng vui mừng vang ca đón chào Đức Kitô, ngồi trên lưng lừa tiến vào thành thánh Jerusalem. Người ta mượn con lừa của người nông dân, trải áo vải trên đó cho Đức Kitô cưỡi lừa tiến đi. Hai bên đường, dân chúng người vỗ tay, kẻ bẻ vội cành lá bên đường hoan ca, đón chào. Trên đường đi có chỗ người ta còn rải cành lá tươi trên mặt đường cho Đức Kitô tiến bước. Đám đông ca vang tận trời xanh. Tiếng vang vọng đó vang xa mãi, xa mãi cho đến khi chúng biến mất vào không trung. Danh vọng trần gian là thế đó, chúng đến rất mau, ra đi rất lẹ. Đến ồn ào, náo nhiệt. Đi âm thầm, lặng lẽ, từ từ biến mất. Đức Kitô vào thành thánh trong vinh quang. Vinh quang đó dài không quá vài giờ. Sau đó là cuộc thương khó kéo dài vài ba ngày.
Người phản bội lại là người thân cận càng làm cho sự việc trở nên tồi tệ hơn. Juda Iscariot là một trong số mười hai đệ Đức Kitô tuyển chọn. Juda ngầm cấu kết với nhóm Thượng Tế đền thờ phản bội Đức Kitô. Ông đồng í chỉ điểm cho họ bắt Đức Kitô. Để trả công, nhóm Thượng Tế chi cho ông ba chục đồng bạc. Ngay sau đó nhóm Thượng Tế cấu kết với Kinh Sư và Kì Mục tìm cách thực hiện cho bằng được í tưởng triệt tiêu Đức Kitô. Họ đồng í kết liễu cuộc đời Đức Kitô bằng bản án tử hình. Việc đưa ra toà xét xử cách chóng vánh, chỉ là hình thức trá hình, che mắt quần chúng. Nếu ai đó thắc mắc, họ có cách biện báo.
Điều gì dẫn đến việc Juda phản bội Đức Kitô đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Bởi chỗ Juđa không thiếu tiền. Cần bất cứ điều gì Đức Kitô đều cung cấp đầy đủ. Ông hiện đang giữ chức thủ quĩ cả nhóm, lúc nào cũng sẵn tiền đủng đỉnh. Juda quí mến Đức Kitô, nhưng có lẽ ông quí tiền hơn nên tìm cách bán Thầy.
Kẻ thù không chung bàn, chung tiệc. Điều này cho thấy Đức Kitô biết Juđa phản bội nhưng Ngài vẫn yêu mến Juđa, vẫn coi ông là một trong số các môn đệ, và vẫn mời ông ngồi chung bàn với Ngài. Trong bữa Tiệc Li, Đức Kitô cầm bánh, dâng lời tạ ơn rồi trao cho các môn đệ. Juđa cũng nhận phần bánh Đức Kitô trao. Đức Kitô loan báo tin buồn. Ngài cho biết trong số những kẻ ngồi chung bàn có kẻ phản bội Ngài.
Các tông đồ lần lượt lên tiếng ‘Chắc chắn không phải là con’ Mk 13,20. Đến lượt Juđa, ông cũng lên tiếng như thế. Đức Kitô biết Juđa nói dối, nhưng Ngài không chất vấn. Cho đến giờ này, ngoài Đức Kitô ra, không môn đệ nào biết việc Juđa rấp tâm thực hiện.
Sau khi nhận bánh từ tay Đức Kitô, ông ăn bánh; liền sau đó ra đi lẩn mình trong bóng tối. Các môn đệ khác nghĩ, Juđa ra đi vì ông cần mua thêm gì đó chuẩn bị cho ngày lễ Vượt Qua. Các ông đã sai lầm. Juđa ra đi không phải để mua mà để bán. Ông ra đi bán Thầy, bán tình thương Thầy dành cho. Ông bán tình nghĩa giữa các môn đệ, bán lòng Thầy tin ông. Bán tình thân hữu. Một khi Juđa đồng í bán Đức Kitô, nhóm Thượng Tế chắc chắn không để cho Juđa đổi í. Sự việc đến lúc này coi như ngoài tầm kiểm soát của Juđa. Juđa không có khả năng thay đổi sự việc. Juđa nhắm mắt bước đi trong bóng tối.
Sau bữa Tiệc Li, các môn đệ theo Đức Kitô lên vườn Cây Dầu. Tại đây, Đức Kitô một mình cầu nguyện, còn các môn đệ khác, phần vừa say, vừa mệt đều thiếp đi. Đức Kitô trở lại lần thứ hai thấy các ông vẫn còn đang ngon giấc. Lần thứ ba, Ngài bảo các ông. Thức dậy đi. Giờ đã đến, Kẻ nộp Thầy đã xuất đầu, lộ diện. Các ông tỉnh cơn ngủ. Juđa đến ôm Đức Kitô hôn Người. Đức Kitô thân thiện, nhỏ nhẹ nói với ông:
Juđa, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao? Lk 22,48.
Đến lúc này ngoài Đức Kitô ra không còn ai có thể cứu vãn tình thếu. Đức Kitô tạo cho Juđa cơ hội cuối để Juđa thống hối. Juđa bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng đó. Khi phạm tội người ta bỏ ngàn vàng đổi lấy đồng bạc. Thiệt thòi thế mà nhiều người vẫn coi đó là hành động khôn ngoan. Tội làm cho người ta ra mù quáng. Tự cho cái khờ dại của mình là khôn. Juđa từ chối sự giúp đỡ của Đức Kitô và của các môn đệ khác.
Juđa nhận tiền. Ông rất vui. Niềm vui đó mau chóng tàn phai khi ông biết người ta sẽ giết Thầy ông, Đức Kitô. Ông hối hận, mang tiền trả lại nhóm Thuợng Tế. Họ không nhận, ông quăng tiền lại, tháo chạy. Tội sinh ra tội. Ông phạm tội khác lớn hơn tội cũ. Ông tin là tội ông không thể tha. Ông thật sai lầm. Tình Chúa cao hơn tội ông phạm. Tình Chúa mạnh hơn tội ông phạm. Thay vì quay về thống hối, ăn năn, ông tự kết liễu đời mình. Kết liễu cuộc đời đã không giải quyết được gì, còn làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn.
Sau khi đóng đanh Đức Kitô vào thập giá, nhóm Thượng Tế, Kinh Sư và Kì Mục mở tiệc mừng. Niềm vui vừa trọn ba ngày. Tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết làm cho các ông giật nảy mình, mất ăn, mất ngủ cho đến khi các ông nhắm mắt lìa đời. Niềm vui trần thế chóng qua, mau tàn là thế.
Đức Kitô chịu đau khổ trong tay con người và sau ba ngày Ngài sống lại vinh quang. Ngày nay vẫn còn nhiều người không hiểu là Đức Kitô chọn cách chết đau thương trên thập tự để diễn tả tình thương cứu rỗi dành cho nhân loại. Ngài sống lại vinh quang, ban cho những ai tin vào Ngài nhiềm vui sống lại, tươi mát như cây lúa mới trổ sinh bông trái từ hạt lúa mì gieo vào lòng đất.
SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT LỄ LÁ_B
Jorathe Nắng Tím
Cùng Giáo Hội cầm lá trên tay đón mừng Đức Giêsu tiến vào thành thánh, chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta tâm hồn luôn sẵn sàng với Chúa: sẵn sàng trong mọi vị thế, sẵn sàng trong mọi tình trạng, sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh để bất cứ ở đâu và lúc nào, mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại cũng là niềm vui cứu độ của chúng ta.
Tin Mừng được công bố khi chủ tế làm phép lá và cùng cộng đoàn rước lá hoàn toàn trái ngược với nội dung của thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Philípphê và bài Thương Khó trong thánh lễ: một bên là quang cảnh dân chúng tự phát phấn khởi tung hô, hân hoan đón rước Đức Giêsu khi Ngài vào thành Giêrusalem, ở đó “nhiều người lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy : “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!”(Mc 11, 8-10); còn một bên là cảnh tượng Đức Giêsu chịu bắt bớ, tra khảo, hành hạ, bị kết án tử hình, vác thập giá đến nơi chịu đóng đinh, chết ô nhục trên thánh giá, và chôn trong mồ.
Hai hình ảnh đối nghịch của cùng một con người: hình ảnh Đấng Thiên Sai, với triều đại đang tới rất huy hoàng, vì là triều đại của vua Đavít, trung thần của Thiên Chúa Giavê, và tổ phụ Ítraen, bên cạnh là hình ảnh “tên phản quốc, kẻ phạm thượng, đứa phá rối trật tự xã hội”như những lời cáo buộc tàn nhẫn của các thượng tế, kỳ mục, kinh sư được đám đông nhao nhao nhất trí khi điên cuồng la lớn trước toà Philatô: “Đóng đinh nó vào thập giá”(Mc 15,13).
Hai tình trạng đối nghịch trên cùng một con người: tình trạng được mọi người thần tượng, trông đợi, ủng hộ, và tình trạng bị mọi người bủa vây, truy lùng, như lời thánh vịnh: “Quanh con bầy chó dữ đã bao chặt. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được ngắn dài, chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn”(Tv 21,17-19).
Hai vị thế hoàn toàn xa lạ ở cùng một con người: vị thế Con Thiên Chúa đến để cứu độ con người, Đấng minh quân đến giải phóng dân và vị thế tội đồ, người có tội, kẻ gây xáo trộn xã hội, và tôn giáo cần phải loại trừ, tiêu diệt.
Sở dĩ những người Do Thái hôm ấy đã “thay lòng đổi dạ ”qúa đột ngột với Đức Giêsu, vì họ không hề sẵn sàng đi theo Ngài. Vì không sẵn sàng đi theo, nên ở những khoảnh khắc nguy hiểm, bị đe dọa, họ đã đứng ra bên lề đường, và bỏ mặc Ngài độc hành tang thương. Bằng chứng là khi thấy những phép lạ Ngài làm, họ tung hô Ngài là vua, xưng tụng Ngài là Đấng Cứu Thế đến từ Thiên Chúa, nhưng vì không sẵn sàng đi theo Ngài đến cùng, nên khi bị mua chuộc, tuyên truyền hay bị dọa dẫm, nạt nộ, họ không ngần ngại quay lưng phản bội và giơ cao tay đả đảo Ngài.
Cũng vì không sẵn sàng đi theo Ngài, nên họ đã lầm tưởng về Ngài: họ lầm tưởng Ngài đến để làm theo ý họ, kiểu ý dân là ý trời (vox populi, vox Dei), mà không biết Ngài đến để làm theo ý Cha Ngài, mà ý Chúa Cha là Ngài từ bỏ “địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên như phàm nhân, sống như người trần thế… và hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8), để trở nên giá cứu chuộc muôn dân.
Không đi theo Ngài, họ đã lầm tưởng Ngài là nhà giải phóng chính trị sẽ đưa Ítraen là dân riêng của Giavê Thiên Chúa ra khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, và cứu họ khỏi cuộc sống thiếu thốn, cơ cực vì chính sách thuế má hà khắc của đế quốc và chính quyền tay sai tham nhũng, bóc lột, mà không biết sứ vụ của Ngài là thực thi thánh ý Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc toàn thể nhân loại, một sứ vụ thiêng liêng bao trùm mọi dân tộc, mọi thời, mọi nơi, cho đến tận thế.
Thực vậy, không mấy người đã biết Đức Giêsu là ai, ngay các môn đệ của Ngài. Như Phêrô, nếu biết rõ thầy mình, ông đã không lên tiếng can ngăn Ngài đừng lên Giêrusalem để rơi vào tay các thượng tế, kinh sư, ở đó “họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Ngưòi cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người”(Mc 10,33-34). Cũng vì không biết rõ Đức Giêsu, nên nhiều người, kể cả các môn đệ, đặc biệt là Tôma, đã không tin Ngài sống lại từ cõi chết.
Cùng Giáo Hội cầm lá trên tay đón mừng Đức Giêsu tiến vào thành thánh, chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta tâm hồn luôn sẵn sàng với Chúa: sẵn sàng trong mọi vị thế, sẵn sàng trong mọi tình trạng, sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh để bất cứ ở đâu và lúc nào, mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại cũng là niềm vui cứu độ của chúng ta.
Lm. Đaminh Trần Quang Hiền
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhát, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
Trầm Thiên Thu
Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa
Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua
Đời là bể khổ. Chỗ nào cũng khổ, ngay ở những nơi mà người ta coi như “thiên đàng” thì cũng vẫn đầy nỗi khổ. Ai cũng khổ, đủ kiểu và đủ mức. Thánh Rosa Lima cho biết: “Thiếu gánh nặng đau khổ thì không thể đạt đến đỉnh cao ơn thánh. Những tặng phẩm ơn thánh gia tăng khi các cuộc giao chiến gia tăng.” Đau khổ có giá trị đặc biệt lắm. Văn hào Victor Hugo nói: “Đau khổ như hoa quả, Thiên Chúa không để nó phát triển trên những cành quá yếu ớt.” Nhận xét thật là độc đáo.
Đau khổ có giá trị, Thánh Madeleine Sophie Barat ví von: “Một thanh sắt được thành hình trên một cái đe và nhờ ngọn lửa thế nào, thì dưới sức nặng thử thách và trong ngọn lửa đau khổ, linh hồn chúng ta cũng sẽ thành hình đúng như Thiên Chúa muốn về nó như vậy.” Người ta nên khôn là nhờ đau khổ. Sướng quá hóa rồ dại mà thôi.
Khởi đầu Tuần Thánh là Lễ Lá. Những chiếc lá xanh biếc. Màu xanh tượng trưng niềm hy vọng. Hy vọng là khởi đầu ước mơ, hướng tới mục đích. Hy vọng rất cần cho cuộc sống. Có bốn hướng nhìn: Nhìn lại phía sau để rút kinh nghiệm, nhìn tới phía trước để thêm hy vọng, nhìn ra xung quanh để thấy thực tế, nhìn vào nội tâm để nhận diện chính mình.
Chỉ vài ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu cưỡi một con lừa nhỏ vào Thành Giêrusalem, có các môn đệ lội bộ theo sau. Dân chúng đông lắm, như Thánh Gioan cho biết: “Dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giêsu tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel!” (Ga 12:12-13) Thật tuyệt vời!
Cuộc đời vui buồn lẫn vào nhau. Vui để rồi buồn. Buồn để rồi vui. Buồn càng nhiều, vui càng rộn rã. Tương tự, đau khổ để rồi hạnh phúc. Đau khổ càng nhiều, hạnh phúc càng lớn. Đó là hệ lụy tất yếu, và cũng là Thánh Ý Chúa, Thánh Ý mầu nhiệm.
Phần đầu của bài thứ ba trong số các Bài Ca Người Tôi Trung là trình thuật Is 50:4-7, đề cập đau khổ của Người Tôi Trung – Người Tôi Tớ Đau Khổ: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.” Các động thái đó không là miễn cưỡng, mà là tự nguyện – vì yêu thương và thương xót những sinh linh mà Người Tôi Trung quý mến. Họ là ai? Là chính mỗi tội nhân chúng ta. Thật lạ lùng!
Ai cũng sợ đau khổ, càng sợ hơn khi đau khổ quá lớn, đến tột cùng. Nhưng dù đau khổ tới đâu, Người Tôi Trung vẫn một lòng tín trung: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Chẳng ai muốn sầu khổ, nhưng có nếm sầu khổ rồi mới biết thương những người “kém may mắn” hơn mình. Nếu chưa đau khổ, người ta không thể hình dung ra đau khổ. Chưa bị tù thì không thể cảm nhận khổ nhục nơi lao lý, và cũng khó hiểu được ý nghĩa của sự tự do đích thực.
Chắc hẳn chúng ta đã nhiều lần đọc hoặc nghe Phúc Âm tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nhưng có thể nói rằng vẫn có chút gì đó “chưa đủ” nếu chưa xem phim “The Passion of Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của đạo diễn Công giáo Mel Gibson. [https://vimeo.com/413740746 – 180 phút] Quân lính đánh đập Chúa Giêsu rất dã man, khó có ai có thể tưởng tượng được như vậy. Mel Gibson có trí óc tinh tế, và ông cho diễn như thật. Đặc biệt, sau khi đóng vai Chúa Giêsu, diễn viên Jim Caviezel đã gia nhập Công giáo.
Đau khổ có tác dụng khác nhau, tùy mỗi người: “Cùng một đau khổ, nhưng nó minh chứng, thanh luyện và làm thuần thục những người lành; nhưng nó lại kết án, phế truất và loại bỏ những kẻ xấu.” (Thánh Augustinô) Khi gặp đau khổ, người kiêu ngạo thì nguyền rủa – nguyền rủa người khác, trách móc đất trời, thậm chí nguyền rủa chính mình, vùng vẫy như con giun bị đạp; còn người khiêm nhường thì chấp nhận, cảm thấy tủi thân, có trách thì chỉ tự trách mà thôi: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Buồn lắm, buồn phát khóc, buồn như chết được!
Tác giả John Piper giải thích rõ ràng trong cuốn “It Is Well with My Soul” thế này: “Đau khổ làm cho chúng ta SÁM HỐI, đau khổ làm cho chúng ta LỆ THUỘC vào Thiên Chúa, đau khổ làm cho chúng ta TUÂN THEO Đức Kitô, đau khổ chuẩn bị cho chúng ta TẬN HƯỞNG Thiên Chúa, đau khổ PHƠI BÀY TỘI LỖI của chúng ta.”
Không ai hiểu được đau khổ. Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Buồn này chưa qua, sầu khác đã tới. Nước mắt không chỉ mặn mà còn chua và cay. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Dù cô đơn, lạc lõng, đau khổ vẫn đeo bám, cứ tiếp tục chồng lên nhau: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa!” (Tv 22:17-20)
Đức Giêsu Kitô đã phải chịu như vậy. Dù là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn phải đau khổ đến tột cùng để làm trọn sứ vụ cứu độ chúng sinh. Chắc chắn không một phàm nhân nào phải chịu đau khổ như Ngài. Chính Ngài cũng phải chịu đựng theo nhân tính, khổ tinh thần và đau thể lý, chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Ngay cả những người chịu đóng đinh trong lễ hội Cutud (Philippines) chỉ là một phần nhỏ so với Con Người Giêsu mà thôi, chưa thấm vào đâu, nhưng chúng ta cũng phải khâm phục sự chịu đựng của họ.
Mặc dù cô đơn, đau khổ, nhục nhã, nhưng Người Tôi Trung vẫn quyết một lòng vì Danh Chúa. Hình ảnh này đã và đang được thể hiện nơi các vị tử đạo. Một lần hứa là trọn trăm năm, trước sau như một, không gì có thể lay chuyển: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.” (Tv 22:23)
Về sự tự nguyện của Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, Thánh Phaolô cho biết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:6-8) Sự tự nguyện luôn cao cả, quý giá, đáng khâm phục, đáng noi gương. Bất cứ tình yêu nào cũng phải tiết ra chất hy sinh, nếu không thì không đáng gọi là tình yêu. Dám chết vì người khác là sự hy sinh cao nhất, vì Chúa Giêsu xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Đức Giêsu Kitô đã nêu gương để chúng ta noi theo, nhờ đó mà được vĩnh viễn ở với Ngài.
Chuỗi đau khổ bắt đầu từ khoảnh khắc hiển hách. Thật lạ lùng! Trình thuật Mc 14:1-15 (≈ Mt 26:1-5, 26:6-16; Lc 22:1-6; Ga 11:45-53, 12:1-8) như một thước phim sống động chứng tỏ điều đó: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi, vì họ nói: “Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.” Họ muốn giết Ngài trước ngày lễ, nhưng không thể, vì Chúa không muốn vậy. Loài người muốn không phải là Trời muốn: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”
Tại nhà ông Simon Cùi ở làng Bêtania. Khi Đức Giêsu dùng bữa, một phụ nữ đến với chiếc bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất, rất thơm và quý giá. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. Chắc hẳn cô biết mình tội lỗi, nhưng cô không có ý “mua chuộc” hoặc “lấy lòng” Chúa Giêsu. Chắc hẳn cô tâm phục khẩu phục Con Người thánh thiện và cao cả này. Cô tin nên cô mới “ngồi lì” để xin Ngài thương xót. Cô có lý. Niềm hy vọng của cô rất rộng lớn và sâu thẳm. Thiện chí của cô đã được đáp đền.
Bạn bè của ông Simon Cùi biết rõ cô, thế nên có vài người tỏ vẻ bực tức: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo.” Ôi chao, ra cái điều nhân đức lắm. Bảo là thương người nghèo hay tiếc của? Họ hy vọng gì? Có lẽ chúng ta cũng thường có động thái này khi muốn chứng tỏ “bản lĩnh đạo đức” của mình, nhưng ngày nay chúng ta có “phong cách” tinh vi hơn. Thử “nhìn” các thành viên trong hội này hoặc đoàn nọ thì sẽ nhận thấy. Đôi khi thấy mà kinh dị. Đáng quan ngại lắm!
Bực tức trong lòng chưa đủ, họ còn gắt gỏng với cô. Lòng ghen tức của con người thật là kinh khủng! Nhưng Đức Giêsu ôn tồn bảo họ: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.” Chúa Giêsu không thích nói nhiều, nhưng lúc này Ngài phải nói dài một chút để họ có thể hiểu ra. Vậy mà họ vẫn cố chấp.
Chúng ta cũng chẳng ưa nữ tội nhân này, chúng ta khinh miệt cô, nhưng Chúa Giêsu đã làm cho cô hãnh diện: “Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.” Quả thật, cô “nổi tiếng” từ xưa tới nay, nhất là vào Tuần Thánh, dịp Lễ Vượt Qua.
Bất cứ điều gì phải đến rồi sẽ đến. Thánh sử Máccô kể ngắn gọn sang một cảnh khác: “Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.” (Mc 14:10-11) Vì mê tiền, ông Giuđa đã “đi đêm” với bọn bất lương. Ông cũng có cách hy vọng riêng: Có tiền tiêu xài hoặc làm việc gì đó. Tiền dù rất “bạc bẽo” nhưng nó có ma lực cực mạnh, khó có thể cưỡng lại. Tiền cần thiết nhưng nguy hiểm, Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1 Tm 6:10) Khinh suất là chết chắc – bất kỳ ai. Mê tiền là một dạng thờ ngẫu tượng!
Vào ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế Chiên Vượt Qua, các môn đệ hỏi Thầy Giêsu xem Thầy muốn ăn lễ Vượt Qua ở đâu. Ngài sai hai môn đệ đi, và dặn họ vào thành, gặp một người mang vò nước đến đón thì cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ vào theo và hỏi chủ nhà xem phòng dành cho tiệc Vượt Qua ở đâu. Chúa Giêsu cho biết rằng chính ông ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng, và họ có nhiệm vụ dọn tiệc. Mọi thứ đã được Thiên Chúa quan phòng và tiền định.
Vào buổi chiều, Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới. Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.” Tá hỏa tam tinh. Thầy biết rồi sao? Kẻ thù thì dễ thấy mà đề phòng, người thân thiết thì biết họ trở tay lúc nào mà đề phòng? Nguy hiểm lắm. Quả thật, bạn bè và người thân đôi khi còn đáng sợ hơn kẻ thù. Sự thật cuộc đời quá phũ phàng!
Sau tiệc, qua việc chỉ điểm của ông Giuđa, bọn thủ ác đã tra tay bắt Chúa Giêsu. Thấy chướng mắt, ông Phêrô có sẵn gươm liền tuốt ra, vung chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế. Hú hồn! Có lẽ Phêrô chỉ hoảng mà chém đại thôi, chứ cũng đang run lắm. Nhưng Chúa Giêsu bảo ông cất gươm, rồi Ngài chữa lành tai cho nạn nhân. Thế mà chúng vẫn cứng lòng tin, không chịu sám hối, vẫn quyết bắt giết Con Thiên Chúa!
Một “khoảng tối” bao trùm, nhưng đoạn phim buồn chưa khép lại ở đây. Còn một “khoảng đen” khác, cuối cùng sẽ là “vùng sáng” huy hoàng. Màu xanh hy vọng vẫn tươi sắc xanh biếc… Hy vọng vẫn vươn lên, không bao giờ dừng lại.
Cuộc đời có nhiều thứ đan xen nhau: Lúa – cỏ, tốt – xấu, lành – dữ, hiền – ác, trắng – đen, mưa – nắng,… Trong một lần thị kiến, Thánh Faustina được Chúa Giêsu cho biết: “Con đừng ngạc nhiên vì đôi khi bị tố cáo bất công. Chính Ta đã từng uống trước chén đau khổ bất công này vì yêu con.” (Nhật Ký, #289)
Với cảm nghiệm sâu sắc, Thánh Faustina xác định: “Đau khổ là đại hồng ân; qua đau khổ, linh hồn trở nên giống Đấng Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu trở nên tinh tuyền; càng chịu đau khổ, tình yêu càng tinh khiết.” Chính thánh nữ đã chân thành cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những đau khổ nội tâm, về sự khô khan, về sự sợ hãi, về nước mắt, về sự lưỡng lự, về sự tăm tối nội tâm, về sự cám dỗ, về sự thử thách, về sự giày vò mà con không thể diễn tả, nhất là về những điều mà không ai hiểu, về giờ chết với sự chiến đấu dữ dội và cay đắng. Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những thập giá nho nhỏ hằng ngày, về sự đối nghịch với các nỗ lực của con, về sự gian khó của đời sống cộng đoàn, về sự hiểu lầm, về sự bẽ mặt vì người khác, về sự khó chịu mà người ta đối xử với con, về sự nghi oan, về sức khỏe yếu kém của con, về sự hy sinh, về sự chết cho chính con, về sự kém hiểu biết, về các kế hoạch thất bại của con.” (Nhật Ký, #57) Ước gì mỗi chúng ta cũng can đảm như vậy.
Lạy Thiên Chúa, chúng con biết thế gian là cõi tạm nhưng đầy đau khổ, xin giúp chúng con can đảm chấp nhận mọi đau khổ vì yêu mến Ngài, vì yêu thương tha nhân, vì muốn cứu các linh hồn và để đền tội ở đời này. Xin gia tăng tín lực và ái lực để chúng con đủ sức đi theo Đức Giêsu Kitô tới hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Lm. Jos DĐH
Mưa nắng thất thường, đó là tiếng lóng, chỉ những người không có lập trường, dở tính hay xấu nết, xã hội đều tẩy chay. Người đời cho rằng: quân tử nhất ngôn là quân tử dại, người đại khái mới đúng là khôn, nếu bạn sống vô trách nhiệm, làm việc vu vơ cho qua lần chiếu lệ, cùng lắm bạn bị mang tiếng là tiểu nhân. Con người tự nhiên dễ ảo tưởng với năng lực của mình: mạnh vì gạo, bạo vì tiền; không ốm không đau, làm giầu mấy chốc. Theo bạn, như thế nào là người quân bình, người tự tin, để bước những bước thật vững chắc, không sợ dự luận: ai ơi giữ chí cho bền, dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai ? Kinh nghiệm ở trường đời vẫn là câu trả lời: ý chí quyết tâm, tình yêu và lòng bao dung, mới thực sự là lực đẩy người người đi đến cùng tận của hạnh phúc.
Trong khi Đức Giêsu tự tin trên hành trình tiến về Giêrusalem, dù khổ đau thập giá và mùi tanh của chết chóc đã tới sát gần Ngài ? Đức Giêsu vào thành hôm đó trong tiếng hoan hô, chúc tụng, nhưng rồi chẳng mấy chốc, họ lại gào to hét lớn, “đóng đinh nó vào thập giá” ! Người tín hữu chúng ta hôm nay được mời gọi theo Thầy Giêsu vào thành, theo Thầy chí thánh tiến bước vào tuần thương khó, ta hãy tự hỏi: tôi đang tự tin theo Thầy vào thành, hay tôi lo lắng, sợ hãi, khi phải vào thành ? Ta cùng Thầy Giêsu vào thành chắc không phải để hưởng bổng lộc, vào thành không phải loáng thoáng như ôn lại kỷ niệm xa xưa, hoặc tìm kiếm một chút rung động lấp vào khoảng trống cuộc đời mù mịt của ta !
Chỉ cần một chút bình tĩnh, người ta sẽ hiểu không gian ồn ào vì ai ai cũng mưu cầu một cuộc sống phúc lộc dư đầy. Phải mất khá nhiều mơ ước, người ta mới nhận ra: tự tin, chính là nhân tố giúp ta trưởng thành, đủ ý chí quyết tâm đi tới cùng đích an vui hạnh phúc. Đức Giêsu đi Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha ủy thác, dù ưu tư, sợ hãi, vẫn bủa vây giăng mắc nơi phận người mà Ngài luôn ý thức, đó là tên cám dỗ, là cạm bẫy thế gian. Có phải sự hiệp thông trọn vẹn nên một trong tình yêu với Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu hằng lấy đức ái để minh chứng về lòng bao dung của Thiên Chúa từ bi nhân hậu. Đúng như kinh nghiệm của tiền nhân: người ta không thể nói hết về tình yêu của Thượng Đế, cũng không bao giờ diễn tả hết ý nghĩa về Thiên Chúa làm người, làm Đấng cứu độ trần gian.
Người kitô hữu chúng ta hiểu như thế nào về ơn gọi làm người, về niềm tin theo Chúa, làm môn đệ Chúa ? Chúng ta vì yêu, hay vì miễn cưỡng phải đi Giêrusalem, khi sự dữ, sự xấu xâm nhập, tấn công tư bề, không khỏi làm chúng ta nhụt chí, nản lòng, sợ đủ thứ ! Trong khi mọi người mong muốn có Thầy Giêsu cùng vào thành, có Thầy đi suốt hành trình làm môn đệ của mình: không gian vắng lặng, giầu tình giầu nghĩa, con vua thời lại làm vua, vẫn chỉ là ước mơ. Đức Giêsu vào thành, Đức Giêsu sẽ còn mãi mãi cùng các môn đệ trên hành trình trần thế, Ngài sẽ là sức mạnh, là Thầy, là Bạn đồng hành, là sự tự tin cho những ai cậy trông vào tình yêu của Đấng đã chiến thắng thế gian. Vũ trụ này rộng lớn nhất là biển, to lớn hơn biển là bầu trời. Rộng lớn hơn bầu trời là sự độ lượng của tình yêu và lòng bao dung. (Victor Hugo).
Có phải biết trước Thầy Giêsu vào thành để làm vua, người ta sẽ mau lẹ không để Thầy cô đơn một mình, có thể còn “tiền hô hậu ủng”, cùng theo Thầy tiến bước với hy vọng được một chút địa vị bổng lộc ? Nếu đúng thật, Đức Giêsu vào thành làm vua, vua tình yêu, yêu đến cùng, yêu đến độ chịu chết treo thập giá, hầu cứu nhân loại khỏi chết đời đời, chúng ta vẫn mạnh mẽ cùng Ngài tự tin tiến bước vào thành chứ ? Người không vững lập trường sẽ luồn lách, né tránh như câu thành ngữ: khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn có còn mấy ai ! Người không có niềm tin vững chắc, lúc bình an, chẳng khó gì khi họ tung hô, chúc tụng, song không mấy chốc họ lại “đả đảo”, đóng đinh nó đi, giết nó đi !
Vào thành Giêrusalem thiên quốc, tự tin tiến bước cùng Thầy Giêsu trên hành trình trần thế, chắc chắn không phải là toan tính hơn thiệt, là tìm kiếm vật chất địa vị, nhưng là vì yêu, vì thao thức muốn cùng Đức Giêsu hoàn tất bổn phận và trách nhiệm của người theo Chúa. Quen một người là do duyên phận, hiểu biết một người cần phải nhẫn nại và kiên trì, nhưng thủy chung và ở bên nhau đến trọn đời, nhất định phải có tình yêu và lòng vị tha. Nếu chỉ đứng xa xa vì dấu, quan sát thôi, hẳn bạn sẽ bị cười chê là quân đạo đức theo mùa: thấy quan tài đưa vào nhà, ta mới đổ lệ. Dù bạn đang là nông dân hay đại gia, dù bạn là linh mục tu sĩ, hay là người tín hữu bình dân, sớm tối chỉ biết cầu nguyện bằng kinh mân côi, tất cả vẫn cần được lòng thương xót của Đấng là Thiên Chúa cứu độ. Xin hãy hiệp lời cầu nguyện với nhau, với Thầy Giêsu, hầu tất cả sẽ đủ tự tin, đủ tình yêu và sức mạnh của Chúa, bước theo Chúa vào thành Giêrusalem thiên quốc cách trọn vẹn thật sự. Amen.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Chúa nhật Lễ Lá là khởi đầu cho hành trình đi vào tuần thương khó với Chúa Giê-su. Gọi là tuần thương khó vì xét theo nhân tính thì Chúa Giê-su cũng trải qua đau khổ tê tái khi bị người đời ngược đãi, khi bị tòa án kết án bất công và khi bị đám đông đã từng reo hò khi Chúa vào đền thờ, khi Chúa cho họ ăn bánh no nê, khi Chúa cứu chữa bệnh nhân và phục sinh kẻ chết, thế mà họ lại quay lưng để cùng nhau đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.
Thế nên, cha nhạc sỹ Văn Chi khi viết bài “Người chết vì yêu” đã miêu tả đây là cái chết cô đơn vì yêu. Dầu rằng ai cũng biết Chúa Giê-su luôn sống cho tình yêu, yêu cả nhân trần tội lỗi, Ngài yêu cả những con người mang nặng tính yếu đuối xác thịt mọn hèn, nhưng yêu nhiều, cho đi rất nhiều mà lại chẳng nhận lại được bao nhiêu, có chăng là tình phụ bạc với người mình yêu. Bài hát với giai điệu mượt mà thiết tha như sau:
“Ngày đó chiều nắng vàng trên đồi Goltha vắng. Chiều đó, có ai cô đơn chết vì yêu. Yêu, yêu nhân trần tội lỗi, yêu con người đắm đuối chết đớn đau u sầu”.
Và rồi, tác giả đã giải thích người đó chính là Chúa Trời, một vì Thiên Chúa yêu nhân loại đến nỗi xóa mình là Thiên Chúa để cúi xuống với nhân loại lầm than, để hát lên khúc hát yêu thương giữa thế gian đọa đầy.
“Người đó là Chúa Trời, làm người nơi dương thế. Tình mến chứa chan khơi trên mắt buồn vương. Cơn đam mê bừng rực sáng, yêu thương bằng cái chết tiếng kêu vang vọng đêm trường”.
Phận số của người sống vì yêu thường là vậy. Yêu là cho đi nhưng nhận lại chẳng bao nhiêu. Yêu là yêu cho đến cùng nhưng người đi cùng lại chẳng có bao nhiêu. Thế nên, mới có câu thơ viết rằng:
“Triệu người quen có mấy người thân
Khi lìa trần có mấy người đưa?
Lệ xóa cho em được không những kỷ niệm đắng
Lời nói yêu thương ngày xưa có trở về tìm?”
Cuộc đời Chúa Giê-su dường như cũng trải qua những chuyện thế thái nhân tình phụ bạc ấy. Mới hôm qua họ no say bổng lộc Chúa. Họ tung hô Chúa. Họ ca ngợi Chúa. Và hôm sau cũng chính những con người ấy khi mất bổng lộc, khi không còn thấy Chúa là mối lợi nên đã quay lưng. Họ dửng dưng trước bất công mà Chúa phải chịu. Họ còn toa rập với phường gian ác để la hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Thật đau lòng vì:
Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân
Con người chỉ kết bạn với những ai có lợi cho họ và dường như lại luôn xa lánh những ai không có lợi, và càng bỏ rơi những ai đang lâm cảnh bi ai. Con người thường tính toán khi giao tiếp, thường tìm bạn khi có lợi và rời xa nhau khi mối lợi không còn:
Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng
Tính chi li xem có lợi cho mình
Thì miệng mới cười, nói lời nhân ái
Con người hôm nay cũng tính toán với Chúa thật chi li. Họ đến với Chúa tính từng giây. Họ sum vầy bên nhau quanh ly rượu thâu đêm. Họ bám vào Chúa khi gặp gian nan. Họ rời xa Chúa để tìm kiếm công danh tiền tài.
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy nghĩa nhân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không?
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy tình yêu để mà cân đo đong đếm. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen
THÔNG HIỆP CUỘC TỬ NẠN CỦA ĐỨC KITÔ
Lm. Xuân Hy Vọng
Một trong những tâm lý phức tạp của con người mà ít nhiều chúng ta từng trải nghiệm hằng ngày trong cuộc sống, đó là: tâm lý số đông. Mặc cho sự việc thế nào, hoặc chưa biết thực hư, chân tướng ra sao, cứ thấy nhiều người đồng thuận, thì chúng ta thường nghiêng theo không một chút mảy mảy cân nhắc, nhận định!
Trong thời điểm dịch bệnh vẫn đang tiếp diễn, có lẽ nhiều nơi không cử hành Lễ Lá, hay đơn giản tham dự Thánh lễ trực tuyến, nhưng lễ Chúa Nhật tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su nhắc nhở chúng ta điều gì, và mỗi lần chúng ta tham dự Lễ Lá (như chúng ta thường gọi) với tâm tình nào? Phải chăng chúng ta nghiêng về tâm lý số đông như dân chúng thời đó: cầm lá vạn tuế tung hô, đón Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem, rồi sau đó cũng chính đám đông này la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (x. Mc 15, 13.14), hay chúng ta cùng hiệp thông, tham dự vào cuộc Thương Khó – Tử Nạn của Đức Ki-tô, hầu được thánh hoá và được nhận lấy vinh quang Phục Sinh của Ngài?
Trong Kinh Thánh, ít nhất ba lần, Đức Giê-su tiên báo cho các Tông đồ biết về thân phận và sứ mệnh của Ngài, đó là: người Tôi tớ trung tín của Thiên Chúa (x. Mt 16, 21-22; Is 50, 4-7). Hơn nữa, Ngài đã từng tỏ lộ rõ rệt: “Tôi đến thế gian không phải làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (x. Ga 6, 38). Trong mọi việc, Ngài hằng vâng phục, thực hiện theo chương trình cứu độ của Chúa Cha, “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 17), và “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ez 33, 11). Thật vậy, sứ mệnh của Đức Giê-su là hoàn tất ý định của Chúa Cha, cho dù “…bị đánh, bị giật râu, bị nhạo cười và bị phỉ nhổ. Nhưng vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn” (x. Is 50, 6-7). Ở điểm này, chúng ta khác hoàn toàn với người Tôi Trung của Chúa! Chúng ta bất tuân phục, chúng ta luôn tìm mưu cầu ích lợi riêng tư, cá nhân. Hầu như chúng ta muốn người khác làm theo ý mình, tệ hơn là bắt người khác tùng phục bản thân ta! Mỗi lần chúng ta cử hành Lễ Lá, chúng ta cùng nhau nhìn kỹ vào Đức Giê-su, học sống như Ngài: biết vâng phục và thực hiện Thánh ý Chúa nơi cuộc sống mình.
Hơn nữa, vì hết lòng yêu thương chúng ta, người Tôi Tớ tín trung của Thiên Chúa đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mà mặc lấy thân phận xác phàm yếu hèn của con người, hầu giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, cứu chuộc chúng ta khỏi sự huỷ diệt, và đưa chúng ta về với nguồn cội tình yêu là Thiên Chúa Cha, “…tuy là thân phận Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Ngài huỷ bỏ chính mình, nhận lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm” (x. Pl 2, 6-7). Ngược lại với A-đam nguyên tổ, Đức Ki-tô khiêm nhường, hạ mình, vâng phục Thiên Chúa đến nỗi tự nguyện chết trên thập tự, “Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá” (Pl 2, 8). Phải chăng, mỗi khi tham dự Lễ Lá, chúng ta được thông phần vào cuộc Thương Khó – Tử Nạn của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta cũng nên soi lại mình đã sống khiêm hạ mỗi ngày chưa? Một trong bảy mối tội đầu dẫn đến nhiều tội lỗi khác như thể ‘tội mẹ đẻ ra tội con’, chính là: thói ngạo mạn, tính kiêu căng, lòng tự mãn. Chính tật xấu này mà thường đưa đẩy chúng ta tới sự bất tuân, không biết vâng phục Thánh ý Chúa, được thể hiện qua Giáo Hội và qua các giáo huấn của Giáo Hội.
Ước gì, Lễ Lá mỗi năm đều không trôi qua như một lễ hội bên ngoài, mà là cơ hội, thời khắc giúp chúng ta ngày càng được hiệp thông với cuộc Tử Nạn của Đức Ki-tô, hầu đón nhận ơn sủng cao quý thông phần vào vinh quang Phục Sinh của Ngài!
Lạy Chúa Giê-su lòng con
Tuy là Thiên Chúa, chẳng màng vinh quang
Tự huỷ chính mình vô hạn
Mặc lấy xác thân, cơ hàn thế nhân.
Vâng phục, khiêm hạ thánh ân
Chết treo thập giá, muôn phần vì con.
Do đó, Chúa Cha suy tôn
Ban cho danh hiệu muôn muôn đời đời. Amen!
Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương
Trong thực tế ai ai cũng ham sống sợ chết, phương chi là chết thay cho người khác lại là chuyện hiếm hoi. Tuy nhiên, chuyện khó có thể xảy ra theo cái nhìn người đời, thì lại được diễn tả nơi hình ảnh Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Hôm nay, toàn thể Giáo hội hoàn vũ bắt đầu bước vào Tuần Thánh, tuần mà mọi người chúng ta được mời gọi bước theo Đức Giê-su trong những giờ cuối cùng ngang qua cuộc thương khó và sự chết trên thập giá của Ngài.
Thiên Chúa là Tình Yêu đã sáng tạo con người từ hư vô trở nên mà có và trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Người luôn mong muốn con người được sống và hạnh phúc. Qua mọi thời, tình yêu đó được diễn tả ngang qua các ngôn sứ, các thủ lãnh, các vua chúa để dẫn dắt dân đi đúng đường ngay nẻo chính. Dân sai lạc thì Người lại đến qua trung gian để nhắc nhở và răn dạy. Thế nhưng mà thay vì biết ơn và sống trung thành, thì con người lại vô tình bội nghĩa và bất trung lần này lượt khác với Thiên Chúa, là Đấng luôn trung tín và yêu thương.
Vì Thiên Chúa là Tình Yêu nên Người không mệt mỏi để tha thứ cho con người. Vì yêu nên sẵn sàng trao ban và hy sinh cho người mình yêu, thậm chí “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một mình để ai tin vào Ngài có sự sống đời đời (Ga 3,16)”. Con Một của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể. Ngài đã đáp lời xin vâng Chúa Cha để chấp nhận mang thân phận con người ‘bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh’ và giống con người mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. (x. Dt 4,15). Ngài là Thiên Chúa thật và là con người thật. Ngài đã sống ẩn dật suốt 30 năm tại làng Nazaret trong gia đình Thánh Gia. Sau đó, Đức Giê-su bắt đầu công khai rao giảng Nước Trời cho tất cả mọi người ở mọi nơi mọi lúc. Ngài là hiện thân của Lòng Thương xót của Thiên Chúa ở với nhân loại tội lỗi. Thiên Chúa vô hình được tỏ lộ rõ ràng nơi Đức Giê-su Ki-tô hữu hình. Lời giảng đầy uy quyền (x.Mc 1,2) đã thốt ra từ môi miệng của Ngài để khích lệ, kêu gọi, khuyên răn, ngăm đe kẻ có tội; chăm sóc và an ủi kẻ bệnh tật; rao giảng và giải thích Lời Thiên Chúa cho muôn người,…Bên cạnh lời nói, Đức Giê-su đã thể hiện tình yêu của Thiên Chúa qua việc thi thố các phép lạ là làm cho kẻ điếc nghe được, câm nói được, mù được sáng, què đi được, bệnh tật được chữa lành, kẻ chết được cứu sống,…(x. Lc 7, 19-23). Ngài hiện diện ở đâu là niềm vui và sự chữa lành đến ở đó. (x. Mc 6,53-56; Mc 5, 21-43; Ga 4, 43-54). Ngài gần gũi, thân thiện và tiếp đón những người thu thuế, người tội lỗi, người phong hủi, mà người Do Thái cho ô uế và đáng khinh.(x. Lc 19: 1-10; Mc 1, 40-45). Một tình yêu quảng đại và rộng lớn khi Đức Giê-su không ngần ngại đến với dân ngoại cũng như thương xót họ.(x. Mt 15, 21-28; Lc 10,29-37; Lc 17,17-18),…
Mặt khác, vì yêu nên Đức Giê-su luôn tìm mọi phương cách để giúp con người sở hữu được bình an và niềm vui. Trong sứ vụ rao giảng của mình, Đức Giê-su đã chọn cho mình những môn đệ riêng để dạy dỗ, hướng dẫn và đào tạo nhằm giúp các ông cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng của Ngài. (x. Lc 6,12-16). Ngài yêu thương các ông hết mực với tình yêu chân thành và trung tín như bạn hữu. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. (Ga 15,15)”. Thế nhưng mà trong số các ông lại có những người dám cả gan phản bội và chối bỏ Ngài. Dẫu biết rằng sứ vụ của Đức Giê-su đến trần gian là để yêu thương, để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho muôn người, nhưng không thể không kể đến một phần cộng tác của con người trong sự đau khổ và cái chết của Ngài.
Ngài yêu và Ngài phục vì Nước Chúa để cứu độ con người, nhưng cũng vì đó mà Ngài cũng bị kết án, bị bắt, bị hành hình, phỉ nhổ, đánh đập, đóng đinh và chết nhục nhã trên cây thập tự. Dẫu cho sự phản bội và phản trắc của các môn đệ nói riêng, của mỗi chúng ta nói chúng, Đức Giê-su đã tha thứ tất cả vì yêu: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Nhìn vào cái chết đau thương của Đức Giê-su trên thập giá, một phần để tố cáo tội ác của con người, một phần để biểu lộ tình yêu cao vời khôn ví của một vị Thiên Chúa làm người. Đúng như lời Chúa đã nói “Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ.”(Ga 3, 16-17). Quả thật, Đức Giê-su đã sống trọn vẹn cuộc sống vì yêu dẫu cho con người vô tình tệ bạc và khinh mạn dể duôi. Cái chết vì yêu của Đức Giê-su cũng không ngừng diễn tả tình yêu khôn dò khôn thấu của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng nhân hậu và bao dung là luôn luôn mong muốn cho con người được tha thứ và sống muôn đời.
Thật vậy, chết vì yêu của Đức Giê-su không chỉ là điểm kết thúc nhưng là điểm mở ra cho muôn người để từ nay ai “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Ki tô, chúng ta sẽ cùng sống lại với Ngài” (Rm 6,8). Đức Giê-su sống vì yêu cho nên Ngài cũng chết vì yêu. Như vậy, vì yêu mà Đức Giê-su đã hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống cho loài người chúng ta, chúng ta cũng cố gắng bám rễ sâu vào Ngài, lắng nghe Lời Ngài và đem ra thực hành nơi đời sống thường ngày những điều Ngài dạy, nhất là ‘giới răn yêu thương’. Chiêm ngắm cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, chúng ta tự nhận ra tội của mình để ăn năn hối cải, dốc lòng chừa và quyết tâm làm mới lại nơi Bí tích Giao hoà. Chiêm ngắm cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài chấp nhận mọi khổ đau, mọi khó khăn và gian nan trong cuộc sống hằng ngày. Chiêm ngắm cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, chúng ta được mời gọi hãy yêu như Ngài đã yêu, hãy sống như Ngài đã sống, biết tha thứ như Ngài và hãy cùng chết với Ngài thì sẽ được sống lại như Ngài.Amen.
VUA VINH QUANG: CHỊU ĐAU KHỔ TRÊN THẬP GIÁ
Lm. Ngọc Dũng
Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta vào tuần thánh. Như chúng ta biết chỉ có tuần này trong toàn năm phụng vụ được gọi là “tuần thánh.” Điều này không có nghĩa là 53 tuần khác trong năm không là thánh. Đối với người Kitô hữu, ngày nào cũng được gọi là ngày thánh, vì được thánh hiến cho Thiên Chúa. Thật vậy, thời gian thuộc về Thiên Chúa và Ngài đã thánh hiến thời gian. Tuần này được gọi là “tuần thánh” vì trong tuần này chúng ta tưởng niệm Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô, mầu nhiệm mà qua đó Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Kitô, cứu chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi và biến chúng ta thành dân riêng của Ngài. Qua mầu nhiệm này, Đức Giêsu Kitô đã đánh bại thần chết hầu mang lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Để giúp chúng ta cử hành cách thánh thiện phụng vụ hôm nay và sống trọn vẹn tuần thánh, chúng ta hãy để Lời Chúa hướng dẫn chúng ta qua các bài đọc. Nhìn vào Chúa Giêsu trong các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể rút ra những điểm sau đây để suy niệm, để học hỏi và để đem ra thực hành.
Thứ nhất, Chúa Giêsu là vua của gia đình và của cuộc đời chúng ta. Phụng vụ hôm nay bắt đầu với nghi thức làm phép lá và rước lá. Hình ảnh “Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem” nhắc nhở chúng ta về việc Chúa Giêsu cũng đang tiến vào gia đình, vào tâm hồn của mỗi người chúng ta. Chúng ta sẽ chào đón Ngài như thế nào? Mỗi năm trong phụng vụ của ngày Lễ Lá, chúng ta thường tập trung quá nhiều vào những chiếc lá mà chúng ta cầm trên tay trong suốt thánh lễ. Khi về đến nhà chúng ta tìm một nơi cao trọng để đặt những chiếc lá đã được làm phép. Điều đó rất tốt! Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng những chiếc lá chúng ta cầm trên tay phải tượng trưng cho những nhân đức, những việc tốt, hay những quyết định từ bỏ lối sống tội lỗi của mình để đón Chúa vào trong gia đình và tâm hồn của chúng ta.
Thứ hai, Chúa Giêsu là người tôi tớ đau khổ của Giavê và là người đau khổ cho và với chúng ta. Trong bài đọc 1 hôm nay, Ngôn sứ Isaia nói về người tôi tớ đau khổ của Giavê. Ngôn sứ trình bày cho chúng ta những đặc điểm quan trọng sau đây của người môn đệ, người tôi tớ đau khổ của Giavê mà mỗi người chúng ta được mời gọi để trở thành: (1) là người nói năng như một người môn đệ, đó là “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (Is 50:4); (2) là người lắng tai nghe như một người môn đệ mà “không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5); (3) là người sẵn sàng đón nhận đau khổ mà người khác mang lại cho mình, đó là “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu.Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:6). Chúng ta có thể làm những điều này vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa luôn ở bên chúng ta để phù trợ (x. Is 50:7). Tóm lại, điểm thứ hai mà lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm là xét lại đời sống theo Chúa Giêsu của chúng ta: chúng ta có trở nên giống Ngài mỗi ngày trong lời ăn tiếng nói, hay trong hành động của chúng ta không?
Thứ ba, Chúa Giêsu là mẫu gương của sự tự hạ và khiêm nhường. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô giới thiệu cho các tín hữu Philiphê mẫu gương của Chúa Giêsu, Đấng “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Hôm nay, Thánh Phaolô chỉ ra mẫu gương khiêm nhường và sống cho người khác của Chúa Giêsu cho chúng ta, những người đang sống trong một thế giới mà trong đó con người tìm đủ mọi cách để đặt chính mình và lợi ích của mình lên hàng đầu. Chúng ta nhìn nơi Chúa Giêsu, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang của mình và sẵn sàng chết cho chúng ta, ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân. Là môn đệ của Ngài, chúng ta được mời gọi sẵn sàng đón nhận một đời sống thật đơn sơ và khiêm nhường, một đời sống hoàn toàn sống và chết cho Thiên Chúa và cho người khác, nhất là những người trong gia đình và cộng đoàn của chúng ta. Chính trong sự khiêm nhường và tự hạ của chúng ta mà Thiên Chúa sẽ nâng chúng ta lên như Ngài đã siêu tôn Chúa Giêsu: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9). Đừng tự nâng mình lên, nếu không chúng ta sẽ bị hạ xuống. Nhưng chúng ta hãy hạ mình xuống để được Thiên Chúa nâng lên.
Thứ bốn, Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết vì tội lỗi chúng ta. Điểm này được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay. Trong phụng vụ năm B, chúng ta nghe bài Thương Khó của Chúa Giêsu trích từ Tin Mừng Thánh Máccô. Cuộc Thuơng Khó của Chúa Giêsu bao gồm những sự kiện quan trọng sau:
Thứ nhất, cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu bắt đầu với người phụ nữ xức dầu chân Chúa Giêsu, bữa Tiệc Ly và việc thành lập Bí Tích Thánh Thể (Mc 14:1-16). Trong sự kiện này, Chúa Giêsu tiên báo việc Giuđa sẽ nộp Ngài, Phêrô sẽ chối Ngài và các môn đệ khác sẽ bỏ Ngài. Qua việc chia sẻ bữa ăn với các môn đệ và thành lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu diễn tả một tình yêu trung thành, và yêu cho đến cùng. Đây là một tình yêu mạnh hơn sự chết, hay nói cách khác, là tình yêu không dừng lại ở cái chết, nhưng luôn hiện diện mãi với người mình yêu. Qua sự kiện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy diễn tả một tình yêu trung thành và vô điều kiện cho mọi người, đặc biệt cho chồng, cho vợ, cho con cái, cho cha mẹ, cho bạn bè và ngay cả cho kẻ thù của chúng ta.
Thứ hai, Chúa Giêsu tiên báo người sẽ nộp Ngài (Mc 14:17-21). Trong sự kiện này, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về bao nhiêu lần chúng ta đã nộp Ngài khi chúng ta chiều theo những cám dỗ của ma quỷ và những đam mê xác thịt. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta trở thành Giuđa. Chúng ta nộp Chúa Giêsu khi chúng ta không sống đúng với ơn gọi Kitô hữu [ơn gọi thánh hiến] của mình. Khi làm như thế, chúng ta đã trao nộp Chúa Giêsu cho những người thuộc tôn giáo khác hay những người yếu lòng tin để họ “đóng đinh” Ngài qua việc “không tin” hay “mất niềm tin” vào Ngài.
Thứ ba, Chúa Giêsu tiên báo việc Phêrô sẽ chối Ngài (Mc 14:26-31). Hình ảnh của Phêrô, một người có khi rất can đảm để bảo vệ Thầy mình, nhưng khi gặp khó khăn và nhất là khi đối diện với sự mất mát về quyền lợi và tính mạng, thì lại chối Thầy, cũng chính là hình ảnh con người của chúng ta. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta hãy cẩn thận khi chúng ta nghĩ rằng mình đang mạnh, vì chúng ta có thể chối Ngài khi đối diện với khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Chúng ta chỉ không chối Chúa Giêsu khi chúng ta sống kết hiệp mật thiết với Ngài trong cầu nguyện. Và chúng ta cũng nhớ rằng Chúa Giêsu luôn cầu nguyện cho chúng ta để chúng ta không chối Ngài như Ngài đã cầu nguyện cho Thánh Phêrô.
Thứ tư, Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi Ôliu trong khi các môn đệ của Ngài ngủ (Mc 14:32-42). Hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi chịu đóng đinh gợi cho chúng ta nhớ lại hình ảnh của Ngài chịu cám dỗ trong sa mạc. Trong Tin Mừng Thánh Maccô, cầu nguyện được xem là phương thế hữu hiệu mà Chúa Giêsu sử dụng để chống lại cám dỗ. Cái chết trên thập giá là “cám dỗ cuối cùng” của Chúa Giêsu, nên Ngài đã cầu nguyện để làm theo thánh ý của Chúa Cha và để vượt thắng được cám dỗ. Chúng ta cũng như các môn đệ xưa, “gánh nặng nhưng dịu ngọt” của cám dỗ nhiều lần làm chúng ta ngủ quên trong đam mê vì chúng ta không cầu nguyện. Hãy để Lời Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta: “Anh [chị] em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.” Thật vậy, “sao anh [chị] em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ.”
Thứ năm, Chúa Giêsu bị nộp vì một cái hôn, bị bắt và bị đánh đập (Mc 14:43-72). Sự kiện này gợi nhớ trong chúng ta những lần chúng ta dùng danh nghĩa của tình yêu để làm lợi cho chính mình. Chính tình yêu giả tạo của chúng ta đã làm cho nhiều người phải bị tổn thương và đau khổ. Qua sự kiện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng yêu nhau với tình yêu giả tạo, nhưng hãy yêu nhau với một tình yêu chân thật và vô điều kiện.
Thứ sáu, Chúa Giêsu bị kết án tử bởi Philatô (Mc 15:1-22). Chúa Giêsu bị trao nộp và bị kết án như một người “phản động.” Bên trong bản án này hàm chứa mối hận thù của những người nghĩ rằng họ nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Ngài; họ hận thù khi nghe Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha và tuyên bố rằng Ngài và Thiên Chúa của họ là một. Sự kiện này khuyến cáo chúng ta về thái độ nhân danh Thiên Chúa để kết án người khác, nói đúng hơn là thái độ xem mình thánh thiện hơn người khác để rồi kết án anh chị em của mình.
Thứ bảy, Chúa Giêsu bị đóng đinh giữa hai tên gian phi (Mc 15:23-28). Chi tiết quan trọng nhất trong sự kiện này là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Giáo Hội dạy chúng ta rằng, không chỉ người Do Thái xưa, nhưng cả chính chúng ta cũng là những người đã đóng đinh Chúa Giêsu và thập giá mỗi khi chúng ta phạm tội. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã diễn tả tình yêu của Ngài cách tuyệt đối và vô điều kiện khi Ngài cầu xin Chúa Cha tha thứ cho chúng ta. Về phần mình, chúng ta có dốc lòng tránh xa tội lỗi và sẵn sàng tha thứ cho người khác không?
Thứ tám, những phản ứng khác nhau của người chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu (Mc 15:29-32). Trước sự đau đớn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, có người “buông lời cười nhạo,” có người “chế giễu,” một trong hai người cùng chịu đóng đinh với Ngài thì “nhục mạ” Ngài, người kia thì bảo vệ Ngài và đặt niềm tin vào Ngài và xin Ngài nhớ đến mình khi Ngài vào vương quốc của Ngài, viên đại đội trưởng thì tôn vinh Thiên Chúa, và toàn thể dân chúng thì “đấm ngực” ăn năn. Chúng ta thuộc vào nhóm nào trong những nhóm trên? Trong sự kiện này, chi tiết quan trọng là: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia.” Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không.” Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15:33-37). Bức màn trong đền thờ chia cách giữa “nơi cực thánh” và phần “phạm tục” bị xé ra làm đôi. Điều này nói cho chúng ta rằng, với cái chết của Chúa Giêsu, Ngài đã phá đổ bức tường tội lỗi ngăn cách chúng ta với Thiên Chúa. Liệu chúng ta có chạy đến với Ngài để hòa giải với Ngài không? Và liệu chúng ta có sẵn sàng phá đổ bức tường chia cắt chúng ta với anh chị em của mình không?
Thứ chín, Chúa Giêsu được chôn trong mồ (Mc 15:42-47). Điều đáng buồn trong sự kiện này là không một ai trong nhóm 12 hiện diện. Những người thân tín nhất của Ngài đã bỏ Ngài. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng bỏ Chúa Giêsu trong những giây phút mà chúng ta tưởng Ngài “đã chết,” không còn hiện diện với chúng ta. Trong những lúc dường như không cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải kiên trì ở lại, đừng trốn chạy. Vì nếu chúng ta không đến với một Đức Kitô, Đấng chết và chôn trong mồ vì chúng ta thì làm sao chúng ta có thể chứng kiến được sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Chỉ qua đau khổ mới đến vinh quang, qua nấm mồ mới đến thiên đàng!
LẠY THIÊN CHÚA CỦA CON, SAO NGÀI BỎ RƠI CON?
Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Từ Trên cây thập giá, Thánh Marcô tường thuật lại cho chúng ta lời nói cuối cùng của Chúa Giê-su: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34). Trên đồi Golgotha chiều ấy, Giê-su trần trụi trên Thập giá. Không có ai đứng dưới cây thập giá mà chỉ có một số phụ nữ đứng xa xa mà nhìn. Chúa hoàn toàn cô đơn. Mọi người đã bỏ rơi Ngài. Và trong nội tâm sâu thẳm của Chúa, Ngài cũng cảm nhận dường như Thiên Chúa cũng bỏ rơi Ngài. Sau lời nói cuối cùng này, Chúa kêu lớn tiếng rồi trút hơi thở. Chứng kiến cái chết của Chúa, một viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa thấy Người tắt thở như vậy liền nói: Quả thật, người này là Con Thiên Chúa. (x Mc 15,39). Tôi thích câu nói này của viên đại đội trưởng. Ông không nói vị thánh này, hay ông chúa này là Con Thiên Chúa. Ông chỉ thốt lên NGƯỜI này là Con Thiên Chúa.
Là một con người với thân xác nặng nề, Chúa cũng giống như bạn và tôi.
Chúa cảm thấy bị bỏ rơi khi nhìn thấy một đám đông hung tợn. Họ lên án Chúa và hô lên đóng đinh Chúa vào thập giá. Chúa là đấng vô tội nhưng lại bị kết án như tội nhân. Không ai tìm được chứng tố cáo Chúa. Cuối cùng, Chúa bị kết án chỉ bởi vì Ngài dám xưng mình là Con Thiên Chúa. Thật đáng nực cười biết bao khi Đấng đến từ cung lòng Thiên Chúa, lại bị kết án bởi Ngài nhận thật về điều đó. Kẻ giết người thì được tha còn người vô tội lại bị đóng đinh vào thập giá.
Chúa cảm thấy bị bỏ rơi khi trong nhóm 12 thân tín lại có những người phản bội. Giuđa bán đứng Thầy mình để lấy tiền. Dấu hiệu để người ta bắt Chúa là một nụ hôn. Thật nghiệt ngã biết bao. Nụ hôn là dấu chỉ của tình yêu lại trở thành dấu hiệu của phản bội. Phê-rô, vị tông đồ trưởng đầy nhiệt huyết khi theo Chúa. Ông quyết tâm dù phải chết cùng thầy, ông cũng không chối thầy. Thế mà chỉ phải đối diện với một đầy tớ gái, ông đã không đủ can đảm để nhận mình là đệ tử của Giê-su. Và khi gà chưa gáy lần thứ hai thì ông đã chối thầy đến ba lần. Một người bán, một người chối, còn nỗi đau nào lớn hơn cho một người thầy đã vất vả dạy dỗ học trò?
Chúa cảm thấy bị bỏ rơi khi mà tất cả mọi người đều nhục mạ Chúa. Chúa phải chịu đánh đòn, đội vòng gai và vác thập giá bước đi trong sự nhạo cười của đám đông. Ngay cả nhóm môn đệ thân tín nhất cũng không thể thức và nguyện cầu cùng Chúa. Trong giờ phút quyết định của sống và chết, Chúa cũng buồn sầu đến chết được. Ngài mời ba môn đệ thân tín cùng cầu nguyện với Ngài. Nhưng rồi các ông ngủ gục. Có vẻ như không chỉ có ba môn đệ thân tín ngủ, mà cả trần gian này đều ngủ. Không mấy ai thức cả. Vì thế mà Chúa thấy cô đơn lạc lõng làm sao.
Và cuối cùng trên thập giá, Giê-su thốt lên những lời cuối cùng rất đỗi con người: Chúa ơi sao Chúa bỏ con?
Chúng ta đã quá quen thuộc với việc thần thánh hóa Chúa Giê-su đến nỗi quên luôn khía cạnh con người của Ngài. Cái gì chúng ta cũng coi như là Chúa làm nên dễ dàng. Chúng ta thường hay nói với nhau rằng cái đó thì chỉ Chúa mới làm được còn mình là con người làm sao mà làm được. Vì thế, chúng ta không chịu làm và không dám làm. Tôi nhớ có lần giải thích cho một số người lời nói của Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43). Có một người nói với tôi rằng yêu kẻ thù thì chúng con chịu không làm được. Chúa mới làm được thôi. Con là con người thì làm sao mà làm được điều đó. Hôm nay tôi khẳng định lại với các bạn rằng câu nói trên của Chúa, chúng ta hoàn toàn có thể làm được. Chỉ có tình yêu mới hóa giải được hận thù. Bao lâu chúng ta chưa tha thứ thì bấy lâu chúng ta còn nô lệ cho chính bản thân mình. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được giây phút bình yên.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay khởi đầu tuần Thánh, tuần thương khó của Chúa, tôi mời bạn hãy đọc lại cuộc thương khó của Chúa trong Tin Mừng. Hãy nhìn Giê-su như một con người thực thụ để bạn có thể hiểu và rút ra được bài học cho riêng mình. Chúa đã trải qua tất cả mọi cung bậc cảm xúc của kiếp người và Ngài đã chiến thắng. Ngài chiến thắng không phải bằng sức lực của riêng mình mà là sức mạnh đến từ chính Chúa Cha, Đấng Ngài luôn kết hợp nên một. Cuộc sống của bạn và tôi mỗi ngày cũng phải đối diện với nhiều thử thách. Đừng bao giờ chúng ta chiến đấu một mình. Hãy để cho Chúa Cha hành động trong chúng ta. Hãy để cho sức mạnh Thiên Linh hướng dẫn chúng ta. Chắc chắn c húng ta sẽ có thể vượt qua và hoàn thành tốt đẹp vai trò và sứ mạng của mình trên trần gian này.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong ngôn ngữ thông thường, người ta vẫn nói: tin là theo Chúa, là theo Đạo. Chữ “theo” ở đây diễn tả một hành trình dài, một hướng đi cho cả cuộc đời. Con đường theo Chúa bao gồm vui mừng và đau khổ đan xen. Giữa những đau khổ gian nan, người theo Chúa luôn phải vững vàng. Trong ngày khai mạc Tuần Thánh, cùng với anh chị em tín hữu, tôi được mời gọi lắng đọng tâm hồn để nhìn lại con đường theo Chúa của tôi như thế nào.
Trong hành trình theo Chúa, nhiều khi tôi hiểu sai sứ mạng của Người: Người dân thành Giêrusalem vui mừng khi Chúa tiến vào thành thánh. Họ nghĩ Chúa Giêsu chính là vua Đavít ngày xưa đã tái xuất hiện. Họ tung hô vui mừng, cành lá phất phới trong tay, vì nghĩ dân tộc mình sắp được giải phóng khỏi ách đô hộ của người La Mã. Chính vì thế, dân thành ùa ra đường, hòa mình vào đám rước và thể hiện niềm vui hết mình. Họ nhìn Đức Giêsu thuần túy với cái nhìn chính trị. Cái nhìn lệch lạc này đôi khi cũng là cái nhìn của tôi. Nhiều lúc tôi chỉ coi Chúa như một nhân vật lịch sử xa xưa, hoặc như một nhà cách mạng giải phóng dân nghèo. Chính vì vậy, tôi không được gặp Chúa trong đời sống nội tâm, không được nghe tiếng Chúa nơi sâu thẳm của tâm hồn và không thực hiện giáo huấn của Chúa trong cuộc sống cụ thể. Đôi khi tôi cũng giống như những người dân thành Giêrusalem tung hô: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!”, nhưng lòng tôi trống rỗng khô khan. Lời tung hô ấy chỉ giống như những khẩu hiệu vô hồn mà tôi vẫn thấy giăng ngoài đường phố, chẳng hề tác động những người đi qua. Ngước nhìn thập giá, tôi thấy Chúa khẳng định với tôi, Ngài là Thiên Chúa tối cao. Giống như viên đại đội trưởng nọ, tôi tuyên xưng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Trong hành trình theo Chúa, nhiều khi tôi chán nản. Theo Chúa là con đường dài thăm thẳm, không giống như một nghề nghiệp hoặc một chức danh ngoài đời. Trên con đường dài thăm thẳm này, nhiều lúc tôi nản lòng, nhất là những lúc đối diện với những khó khăn nghiệt ngã. Biết bao lần tôi đã hỏi: “Lạy Chúa, Chúa ở đâu trong những lúc con gặp gian nan khốn khó?”. Biết bao lần đức tin của tôi xao xuyến băn khoăn, và tôi đã bị cám dỗ để tin vào những thần linh khác không phải Chúa. Tôi cũng luôn bị cám dỗ rằng Chúa không hiện hữu, để tha hồ tự do mà làm những gì mình thích. Nản lòng trước thử thách, đó cũng là cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã trải qua. Người đã cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà hãy làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu vừa diễn tả sự lo sợ của Người trước thập giá, vừa nói lên lòng hiếu thảo và sẵn sàng tuân phục ý Chúa Cha. Lời cầu nguyện này cũng giúp tôi có thêm nghị lực, để tiếp bước theo Chúa mặc dù những chướng ngại gian nan trong cuộc đời.
Trong hành trình theo Chúa, nhiều khi tôi phản bội. Những người Do Thái tung hô Chúa khi Người vào thành thánh Giêrusalem, ngay sau đó đã thay lòng đổi dạ. Những cánh tay giơ lên để tung hô ca ngợi Chúa, rồi cũng chính những cánh tay ấy lại giơ lên “biểu quyết” lên án tử cho Người. Trước câu hỏi của Philatô, những người Do Thái đã nhiều lần hô to: “Đóng đinh nó vào thập giá”. Họ đã đồng thuận việc thả Baraba để giết Chúa Giêsu. Người Do Thái đã căm ghét Chúa Giêsu hơn một kẻ phiến loạn. Nhận mình là Kitô hữu, nhiều khi tôi đã sống ngược lại với danh nghĩa cao quý này. Lối sống và cách ứng xử của tôi đã làm cho nhiều người hiểu sai lý tưởng Kitô giáo, để rồi hình ảnh Giáo Hội của Chúa Kitô trở nên biến dạng nơi cuộc đời của tôi. Nhiều khi tôi giống như Phêrô, lo sợ trước câu hỏi của một cô nữ tỳ, đã chối phăng Thày mình. Hoặc là, tôi giống như các môn đệ, sợ hãi chạy trốn khi Thày mình bị bắt, hay tôi mê ngủ khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn đau thương. Những ngày Tuần Thánh này mời gọi tôi hãy “trở về” để củng cố lòng trung thành với Chúa, kiên định và gắn bó với Người, kể cả những lúc tăm tối gian nan.
Lễ nghi của Tam nhật Vượt qua không phải là một vở kịch, nhưng là một nghi thức gợi lại cho chúng ta cái chết của Chúa, và tình yêu thương của Người dành cho chúng ta qua cái chết này. Đó là cái chết mang ơn cứu độ cho con người. Cuộc đời của Chúa Giêsu không dừng lại ở nấm mồ, nhưng Chúa đã phục sinh sau khi trải qua sự chết. Phụng vụ của Giáo Hội trong những ngày này nhắc nhớ tôi hãy lặng thinh suy niệm, và chân thành nhìn lại mối tương quan giữa bản thân mình với Đấng chịu đóng đinh, qua đó, tôi thực sự là môn đệ của Đức Giêsu, trung thành tiếp bước theo Người.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).
Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?
.
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.
Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).
“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có ai đó nói rằng: “Trời mưa rồi, mới biết ai sẽ là người đưa dù cho bạn. Gặp chuyện rồi, mới biết ai sẽ là người đối đãi với bạn thật lòng. Có những người chỉ biết thêu hoa trên gấm, chứ không biết đưa than trong những ngày đông. Lại có những người chỉ biết thêm dầu vào lửa, chứ không biết đối đãi chân thành”.
Nhiều ngươi vẫn tự hào có đông bạn bè, nhưng người thật sự hết lòng vì mình liệu có được mấy ai?
Có một người kể rằng vì vấn đề trong làm ăn nên anh đang cần gấp một số tiền. Anh liền gọi điện cho những bạn bè thân thiết của anh. Đều được trả lời là không thể giúp với nhiều lý do. Anh đã dựa vào độ thân thiết mà gọi 9 cuộc điện thoại kêu cứu, nhưng càng gọi về sau thì càng không có lòng tin. Cho tới cuộc gọi thứ 10 chỉ là thử vận may mà thôi, thế mà anh lại được một người bạn ít thân thiết sẵn lòng cho mượn.
Cuối cùng anh kết luận rằng: “Nếu không phải lần mượn tiền này, tôi còn tưởng rằng mình có rất nhiều bạn bè, bây giờ tôi mới hiểu thì ra tôi cô đơn đến như vậy!”
Đời người, gặp nhau là do duyên Trời, ấm áp bởi tình, tan rã bởi thiếu chia sẻ với nhau, tệ hơn là bạn bè nhưng lại chơi xấu nhau. Đời thị phi là vậy. Con người chỉ nghĩ đến lợi cho bản thân. Khi chơi với ai có lợi thì thân. Ngược lại khi mối lợi không còn thì tình thân cũng tan biến. Có khi còn vì bản thân mà đạp đổ danh dự của nhau. . .
Chúa Giê-su dường như cũng nếm trải nỗi đau của chơi xấu, của bỏ rơi nơi các môn đệ. Giu-đa môn đệ được tin tưởng giao cho làm thủ quỹ thì biển thủ, thì tham lam, cho tới khi có cơ hội lại bán Thầy với giả rẻ mạt chỉ 30 đồng thôi. Các môn đệ khác thì bỏ mặc Thầy trong nguy khó. Một mình Thầy cô đơn. Một mình Thầy trải qua cuộc thương khó. Có chăng Gioan và Phê-rô theo Thầy, nhưng chỉ lén lút đi trong đêm tối, và rồi khi đối diện với khó khăn, Phê-rô đã chối Thầy đến 3 lần.
Đúng như người ta nói: “Lúc khó khăn mới biết ai là bạn, khi hoạn nạn mới hiểu bạn là ai!”. Con người ta chỉ một lần sa cơ, mới biết ai thật lòng, ai quan tâm đến mình nhất. Điều mà thời gian lưu lại không phải là tài phú, không phải là vẻ đẹp, mà là sự chân thật dành cho nhau. Hoa nở rồi sẽ tàn, thời gian trôi đi sẽ không quay trở lại. Lâu ngày không hẳn sẽ sinh tình, nhưng nhất định sẽ thấy được lòng người chân thành hay chỉ là đãi bôi.
Quang cảnh lễ lá hôm nay cũng tương phản với hình ảnh thứ sáu tuần thánh nơi dân thành Giê-ru-sa-lem. Hôm nay họ trải lá lót đường đón Chúa. Ngày mai họ ném đá đòi đónh đinh Chúa. Hôm nay họ tung hô Chúa là vua, ngày mai họ đóng đinh Ngài vào thập giá. Xem ra Chúa vẫn cô đơn trong tiếng reo hò của hàng ngàn người dân thành Giê-ru-sa-lem. Ngày lễ lá họ reo mừng vì thấy Chúa là mối lợi cho dân tộc. Ngày thứ sau họ kết án vì muốn lợi dụng Ngài “chết thay cho cả dân được nhờ”. Chúa vẫn cô đơn trong chính dân tộc của mình và ngay cả nơi nhóm nhỏ môn đệ thân tín của Ngài.
Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong nhà thờ, vì người ta đến với Chúa chỉ vì thói quen, vì muốn tìm cái phao cứu mình khỏi khó khăn?
Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong dòng đời, vì đâu mấy ai dám hy sinh cho Ngài khi phục vụ giúp đỡ người ốm đau, nghèo khó hay tật nguyền?
Hình như hôm nay Chúa vẫn cô đơn trong các mái gia đình, vì còn mấy gia đình vẫn sáng lễ chiều kinh, nhưng họ chỉ dành thời gian cho công việc và nghỉ ngơi?
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? Có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy tình thân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không!
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy lợi nhuận để mà cân đo đong đếm tình yêu. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen
.
BƯỚC VÀO CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Lễ Lá cho chúng ta đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu.Ngày Chúa khải hoàn đi vào Giêrusalem tưởng chừng như một cuộc vinh quang lớn của một Vị Vua. Người ta trải đường cho Chúa, trẻ con cầm cành Ô liu, và cành vạn tuế để tung hô Chúa. Người ta tưởng tượng đây là cuộc chiến thắng khải hoàn của một Vị Vua thắng trận.Tuy nhiên Chúa vào Giêrusalem để chấp nhận cái chết theo ý Thiên Chúa Cha.
Thực vậy, con đường của Chúa Giêsu là con đường Thập giá. Con đường đau khổ, con đường hẹp, nhưng đó là con đường tình yêu.Tin Mừng của Thánh Gioan cho chúng ta hay Chúa Giêsu phải can đảm hết mình bởi vì người Do Thái, đặc biệt các Thượng tế, Kinh sư và Kỳ mục đang tìm cách bắt Ngài. Do đó, việc đi vào Giêrusalem trong dịp lễ Vượt Qua làm chúng ta không thể nào tin nổi :” Sắp đến lễ Vượt Qua, và rất nhiều người đi Giêrusalem…Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau “ Bạn nghĩ sao ? Chắc Ngài chẳng đến dự lễ đâu ? “. Bọn Tư tế và Biệt phái đã ra lênh : bất cứ ai biết Đức Giêsu ở đâu thì phải báo cáo ngay để họ bắt Ngài “ (Ga 11, 55-57 ). Và như thế, mọi người đều lo ngại cho việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem có ý nghĩa gì ? Và dân chúng đón chào Ngài có ý làm sao ? Thánh Gioan cho chúng ta hiểu :” Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cưỡi lên nó, đúng như lời Kinh Thánh dạy : Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây Vua ngươi đến, Ngài đang cưỡi trên một chú lừa con “ ( Ga 12, 14-15 ). Đức Giêsu tiến vào thành, dân chúng vẫy các cành thiên tuế và reo lên :” Hosanna ! Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Hoan hô Vua Israen “ ( Ga 12, 13 ). Thánh Gioan kết thức đoạn Tin mừng này bằng lời bình luận bất thường như sau:” Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã được đưa đến chốn vinh quang, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho Ngài “ ( Ga 12, 16 ).
Chúng ta hiểu thế nào về sự trái nghịch đó ? Điều này nằm nơi chú lừa ! Người ta thường cho rằng lừa là con vật chậm chạp, đần độn. Nhưng các nhân vật trong Kinh Thánh lại khen con vật này. Họ cho lừa là con vật hiền hòa khác hẳn với giống ngựa là giống vật dùng cho chiến tranh thường chở các chiến binh vào chiến địa vv…Ngôn sứ Giacaria đã tiến báo Đấng Mêsia sẽ cưỡi lừa tiến vào Giêrusalem. Đức Giêsu là như thế, Ngài quả quyết hai điều: thứ nhất Ngài là Đấng Mêsia của dân Israen, thứ hai Ngài vén lộ, mạc khải cho muôn dân biết sứ mệnh Thiên Sai của Ngài là gì ?
Vâng, vào thời Đức Giêsu người ta hiểu rất mơ hồ về vai trò, sứ mệnh của Đấng Thiên Sai. Họ cứ nghĩ Đấng Thên Sai phải là một Vị Vua oai hùng đánh Đông dẹp Bắc, quy tụ mọi người Israen tản mác, đánh đuổi Đế Quốc La Mã ra khỏi vùng Palestina, đẩy chúng nhào xuống biền khơi vv…Đức Giêsu cỡi trên con lừa hiền lành tiến vào Giêrusalem đã đi ngược lại ý tưởng của họ. Đức Giêsu lúc đó không đáp ứng được đúng yêu sách và những điều họ suy nghĩ về Ngài. Ngài phải là Vị Vua chinh chiến, bắt quân thù làm nô lệ và hầu hạ mình. Nhưng Đức Giêsu lại là một vị Vua hiền lành, yêu thương, nhân hậu đến để phục vụ chứ không để được phục vụ. Ngài cúi mình rửa chân cho các môn đệ của mình. Đức Giêsu đã không làm những việc nhưng dân chúng tưởng tượng, Ngài đến để quy tụ con người, những người thành tâm để chống lại nghèo nàn, đói khổ. Đức Giêsu đến không để kết án nhưng để tha thứ. Đức Giêsu đến để đem hòa bình, tình thương cho con người cho mọi người.
Hôm nay, chúng ta đón Đức Giêsu và tung hô một Vị Vua hiền hòa, khiêm nhượng. Hosanna! Tung hô Con Vua Đa Vít !.
Đi vào cuộc thương khó và Phục sinh của Đức Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào cuộc thương khó của Chúa bằng đời sống đạo đức, thánh thiện của chúng ta. Hãy làm những việc tử tế và tỏa sáng để đời số của mỗi người chúng ta luôn tỏa chiếu ánh sáng huy hoàn của Thầy Chí Thánh : Vua Giêsu hiền từ, nhân hậu và đầy lòng Thương Xót.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chấp nhận con đường Thập giá, con đường mà Chúa đã đi để cứu rỗi nhân loại, cứu độ nhiều người.Xin cho chúng con đi vào Tuần Thánh với tất cả tấm lòng yêu thương, với tất cả đức tin của chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa đi vào Giêrusalem để làm gì ?
2.Dân chúng tung hô Ngài để làm gì ?
3.Con lừa theo nghĩa người đời và theo nghĩa các nhân vật Kinh Thánh ?
4.Vua Giêsu là Vua thế nào ?
5.Dân Do Thái nghĩ gì về một Vị Vua mà họ mong đợi ?
.
THIÊN CHÚA TIN TƯỞNG CON NGƯỜI
Bông hồng nhỏ
Dostoievsky từng viết thư cho anh là Michel như sau: “Em bị đày bốn năm, anh ạ; em không thất vọng đâu. Ở đâu, đời sống cũng là đời sống, nó ở trong bản thân ta chứ không phải ở thế giới chung quanh ta. Ở nơi tù đày này thì bên cạnh em, cũng sẽ có những con người và làm một con người giữa đám người, giữ được hoài như vậy dù hoàn cảnh ra sao thì ra, không nản chí, không bỏ cuộc; đó, đời là vậy, chân ý nghĩa cuộc đời là vậy. Em đã lĩnh hội được rồi.” Đọc lời tâm sự của Dostoievsky, ta thật cảm động. Ông đã có một niềm tin tưởng mãnh liệt vào cuộc sống và nhận ra được ý nghĩa của cuộc đời.
Chúa đã làm người, trải nghiệm cảnh bị bắt gian và bị giết như một tên tội phạm, nhưng Chúa vẫn yêu những kẻ làm hại mình. Vì sao vậy Chúa? Nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh, lòng ta ngập tràn niềm tin mến. Ta thân thưa đôi điều: Lạy Chúa Giêsu, tại sao Chúa chấp nhận một cái chết bi thương như vậy? Dostoievsky chịu cảnh tù đày mà lòng vẫn tràn đầy niềm tin tưởng vào cuộc đời vì ông tin vẫn có những con người bên cạnh mình. Ông nắm được ý nghĩa cuộc đời khi nhận ra nó ở trong chính bản thân ông. Chiêm ngắm chân dung của Chúa trong cuộc khổ nạn, lòng con từng bước được Chúa trả lời cho những thắc mắc trong lòng.
Thầy Giêsu rao giảng Tin Mừng trong ba năm, ba năm với biết bao người mộ mến nhưng cũng không ít kẻ hiềm khích và ghen ghét. Giới quần chúng đặc biệt là những người bệnh tật và những kẻ tội lỗi thì luôn tìm cách để được gặp gỡ Thầy, vì tự nơi Thầy phát xuất một năng lực có thể chữa lãnh bệnh tật cho họ. Giới lãnh đạo tôn giáo thì tìm cách giết Thầy cho bằng được. Thầy Giêsu biết rõ cả âm mưu đen tối của các thượng tế và kinh sư. Thầy cũng biết được có kẻ sẽ nộp Thầy, người đó lại là học trò của mình. Thầy vẫn đến với con người mà không hề trốn chạy, không hề tránh né những hiểm nguy đang chờ phía trước. Là con người, Thầy hãi hũng đến nỗi đổ mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu nhưng lòng Thầy vẫn nguyện một lòng “xin cho ý Cha nên trọn thì hơn”. Bị Giuđa phản bội, Thầy đau lòng hơn ai hết bởi sẽ mất đi một con chiên. Mỗi người đều có một chỗ đứng trong lòng Thầy. Thầy đặt tình yêu và niềm tin nơi con người. Thầy biết rõ con người đầy những yếu đuối và bất trung nhưng thầy vẫn đặt nơi con người một niềm tin. Niền tin đó là gì và xuất phát từ đâu vậy? Niềm tin đó mang tên tình yêu và cũng xuất phát từ tình yêu Thầy dành cho con người, niềm tin tưởng sâu xa xuyên qua cả đau khổ để cho ánh sáng tình yêu tràn ra rửa sạch tâm hồn hoen nhơ của con người. Phêrô chối Thầy ba lần nhưng Thầy không từ mặt, trái lại Thầy đã dùng ánh mắt xót thương để đưa người môn đệ lầm lỗi trở về. Trên cây thập giá chiều nao, Thầy nhận biết bao điều sỉ nhục khinh khi của con người, nhưng lời Thầy thốt lên khi còn chút sức lực cuối cùng không phải là oán trách căm hờn nhưng là tiếng hát yêu thương: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Lạy Chúa! Khi rước Chúa vào thành thánh trong niềm hân hoan, xin cho con cũng biết rằng Chúa mãi là vua của tâm hồn con. Khi hân hoan rước Chúa trong vui mừng, xin cho con biết nhìn lại những lần tâm hồn con bán Chúa như Giuđa khi con bán mình trong tội lỗi, cũng chối Chúa như môn đệ Phêrô khi hoảng loạn không dám làm chứng cho Chúa giữa đời. Xin cho con luôn đặt niềm tín thách nơi Chúa như Chúa đã đặt niềm tin tưởng nơi con vì Chúa yêu con. Amen.
.
Anna Cỏ May
– Ứ ừ! Con không muốn xa mẹ đâu.
– Mẹ cũng không muốn xa con đâu nhưng con phải đến với các anh của con.
– Không. Con không đi.
– Bạn Tím ơi! Các anh của bạn đang chờ bạn kìa, chỉ còn thiếu bạn thôi. Nếu không có bạn thì không còn là bảy sắc cầu vồng nữa. Mọi người sẽ rất buồn đó.
Nghe các bạn mây gọi, Tím cứ chần chừ mãi. Mẹ Tím ân cần:
– Đúng đó con. Nếu không có con, các anh của con cũng không hoàn thành nhiệm vụ được. Các anh cần con, mọi người cần con.
– Vậy con đi mẹ nha.
– Tạm biệt con.
Mỗi người sinh ra đã có một nhiệm vụ và có một tương lai cho chính mình. Chúa Giêsu cũng giống như bao người khi được sinh ra, được lớn lên trong mái nhà với một sứ mạng riêng. Vậy, sứ mạng của Chúa Giêsu là gì?
- Gần gũi với thế giới đau khổ của con người
Trong một thế giới dù tiện nghi đến đâu cũng luôn có những người đau khổ. Họ là những người tội lỗi, bệnh tật, nghèo hèn. Chúa Giêsu đã đến ở giữa, để sống với và sống cho những người như thế. Thánh Luca cho chúng ta biết “Đi đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10, 38). Ngài đã xoa dịu và chữa lành cho tất cả mọi người. Ngài không phân biệt chủng tộc hay tầng lớp xã hội nào. Ngài làm cho kẻ chết sống lại và ân cần ngỏ lời “Anh em có muốn được khỏi bệnh không?” (Ga 5, 6). Ngài khích lệ rằng: “Phúc cho anh em, nếu anh em đang lâm vào hoàn cảnh đó vì Ta.” (x. Mt 5, 3-12). Ngài sống cùng với những con người luôn tính toán “Phí dầu thơm như thế để làm gì…” (x. Mc 14, 4 -5).
- Là nạn nhân đầu tiên của sự dữ
Chúa Giêsu đã chấp nhận sinh ra, sống và chết như một người khốn cùng. Ngài chịu sự vất vả ngay cả chỗ tựa đầu cũng không có. “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu.” (Lc 9, 58). Ngài chấp nhận sống trong sự vây hãm của địch thù, bị hiểu lầm từ những người thân tín nhất. Ngài chấp nhận những đau khổ ấy không là cưỡng ép nhưng với một sự tự nguyện hoàn toàn. Ngài trao ban tình yêu nhưng đổi lại Ngài đã nhận lấy sự hận thù. Lời giảng dạy yêu thương của Ngài lại bị khép cho tội xúi dân nổi loạn. Do đó, mạng sống của Ngài luôn bị những kẻ chống đối tìm cách tiêu diệt.
Tại vườn cây dầu, Ngài đã khiếp sợ đến vã mồ hôi máu. Ngài đã bị trao nộp do chính người môn đệ của mình, bị bán với giá chỉ 30 đồng bạc. Không chỉ vậy, Ngài đã bằng lòng trở thành nạn nhân của bao người hèn nhát, không vững lập trường. Môn đệ Phêrô luôn yêu nến Chúa nhưng cũng đã chối Thầy ba lần. Sau cùng, Ngài tự nguyện đi vào sự âm thầm, Ngài không là kẻ phản loạn, chấp nhận nhục nhã với bản án tử hình thập giá với hai người tội lỗi.
- Trong đau khổ, Chúa Giêsu đã dạy ta điều gì?
Mỗi khi gặp đau khổ, tự nhiên chúng ta lâm vào tình trạng hoảng loạn, sợ hãi… Chính trong giờ phút đó, nếu có niềm tin vào Chúa, chúng ta sẽ nghe vang lên bên tai lời an ủi của Ngài “Đừng sợ hãi, có Ta ở với ngươi, Ta ban cho ngươi vững mạnh” (Is 41, 10). Ngài đã thấu hiểu nỗi đau khổ của chúng ta bằng chính kinh nghiệm của bản thân. Chúng ta cần được tha thứ như những con chiên lạc được trở về trong vòng tay người Mục tử nhân lành. “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”(Lc 23, 34).
Muốn vào thông phần vinh quang của Chúa, không có con đường nào khác là con đường đau khổ. Xin cho chúng con biết dùng những sự vất vả, đau khổ để được kết hợp với Ngài mọi ngày trong cuộc sống.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ở Tây Ban Nha, trong một thánh đường, có cây thập giá đặc biệt, nhiều người đến chiêm ngắm tôn thờ. Chúa Giêsu bị đóng đinh tay trái, còn tay phải lại buông thõng xuống.
Truyền thuyết kể lại: có một người tội lỗi tìm đến với cha xứ. Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi với lòng sám hối, nhưng cha xứ lưỡng lự không biết có nên tha hay không, vì thấy ông ấy phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm giọng nói:
– Tôi ban bí tích Giải tội cho ông, nhưng trong tương lai ông phải cố gắng sửa mình.
Ông hứa với cha xứ, nhưng vì yếu đuối ông lại sa ngã và một thời gian sau lại tìm đến tòa cáo giải.
Lần này thì cha xứ nói với ông bằng một giọng nghiêm khắc:
– Tôi ban bí tích Giải tội cho ông lần này là lần cuối cùng. Ông đã nghe thấy chưa.
Vài tháng sau, ông lại đến quỳ dưới chân cha xứ và năn nỉ:
– Con thực lòng ăn năn, xin cha tha tội cho con một lần nữa.
Cha xứ đáp:
– Đừng đùa giỡn với Chúa. Tôi không ban bí tích Giải tội cho ông nữa đâu.
Khi nói thế, cha bỗng nghe thấy có tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ xuống và ban phép giải tội cho người tín hữu thành tâm sám hối. Và Ngài nói với vị linh mục:
– Chính Ta đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải là con.
Và cũng từ ngày đó, cánh tay phải của Chúa thõng xuống trong tư thế ban phép tha tội.
‘Chính Ta đã đổ máu ra để cứu chuộc con’. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời tuyên xưng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ Trời xuống thế…Người chịu đóng đinh vào Thập giá vì chúng tôi“. Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài là người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Ngài đón nhận Thập giá tủi nhục thất bại, và đã biến đổi Thập giá thành nguồn ơn cứu độ, tình thương tha thứ cho nhân loại tội lỗi.
Phụng vụ bước vào Tuần Thánh với khởi đầu là Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Thương khó, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó.Việc cử hành hôm nay mang hai sắc thái có vẻ nghịch nhau : mới mừng cuộc khải hoàn của Chúa Kitô, rồi lại cảm thông nỗi thống khổ của Người. Phụng vụ hôm nay kết hợp hai khoảnh khắc trái ngược nhau; cuộc chào đón Đức Giêsu vào Giêrusalem và thảm kịch Thương khó; lễ hội “Hosanna” và những tiếng la ó lặp đi lặp lại “Đóng đinh nó vào thập giá!”; cuộc khải hoàn và sự thất bại bề ngoài qua cái chết trên thập giá.
Bài Thương khó kể lại từng chặng đường đau thương của Đấng Cứu Thế. Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Thầy. Giuđa chỉ điểm bắt Thầy bằng một nụ hôn giả dối. Các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Thầy. Chúa Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Họ khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào da thịt. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để rồi thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thơ, mau kiệt sức và chóng chết. Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền!. Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Ngài như thế.
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).
Cuộc khải hoàn rước lá của Chúa Giêsu là một dấu chỉ của chiến thắng vinh quang chung cuộc. Việc kiệu lá cho thấy rõ ý nghĩa đích thực của đau khổ và thập giá. Tương tự trong sự kiện “biến hình” trên núi Tabo: Chúa Giêsu cho ba tông đồ thoáng thấy vinh quang thần tính. Khi xuống núi, Ngài ra lệnh cho ba tông đồ phải bảo mật cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết, nghĩa là cho đến khi ý nghĩa của biến cố được tỏ bày. Cũng chính ba tông đồ thân tín chứng kiến cơn hấp hối của Chúa ở vườn Cây Dầu. Sau Phục sinh, Chúa Kitô cũng giải thích cho hai môn đệ trên đường Emmau: “Đức Kitô không phải chịu đau khổ như thế rồi mới vào vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26).
Như vậy ngay từ Lễ Lá, hai sắc thái, hai cục diện của mầu nhiệm Vượt Qua được trình bày rõ ràng. Lễ Lá trình bày hai cục diện theo thứ tự đảo ngược : vinh quang trước, khổ nạn sau. Nhưng thứ tự đó biểu lộ thực chất của mầu nhiệm Vượt Qua. Mầu nhiệm Vượt qua cơ bản là một mầu nhiệm đạt tới vinh quang và sự sống. Sự chết chỉ là bước đi qua, là phương tiện để đạt tới mục đích là vinh quang Phục Sinh.
Bước vào Tuần Thánh, chúng ta cùng theo Chúa Giêsu trên con đường Thập giá.
Theo Chúa không chỉ khi gặp may mắn, thành công, bình an mà còn chấp nhận khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại.
Theo Chúa không là con đường “xuôi chèo mát mái” hoàn toàn hạnh phúc an lành, mà còn là con đường chọn lựa quyết liệt với những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực thế gian.
Theo Chúa Giêsu là đi con đường thập giá vừa lên dốc, vừa nhiều ổ gà ổ voi và vừa là con đường một chiều. Con đường ấy hẹp chứ không thênh thang theo những trào lưu dễ dãi, giả dối, ích kỷ, hận thù, bạo lực… nên cần phải sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung.
Tuần Thánh, cùng đi vào hành trình thương khó của Chúa, chúng ta gặp thấy nhiều tình huống tăm tối của “nhân tình thế thái” như vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình Yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh đối với Chúa Cha và lòng xót thương với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Cảm nếm và thông phần với nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng vẫn luôn nhận ra lòng xót thương nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài theo Tin Mừng kể lại. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta càng yêu Thập giá của Chúa hơn, yêu thập giá của mình hơn và kính trọng thập giá của người khác hơn.
Theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là một thách đố lớn trong bối cảnh thời nay. Xác tín rằng, có Chúa cùng đồng hành, Ngài luôn thấu hiểu nâng đỡ, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên hành trình theo Ngài. Nếu can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay được mở đầu với bầu khí hân hoan phấn khởi qua nghi thức rước lá nhằm tưởng nhớ lại việc Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng tung hô Chúa Giêsu“Hosana, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Nhưng liền sau đó, phụng vụ Lời Chúa lại trình bày cho chúng ta con đường thập giá và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua bài thương khó. Giáo hội muốn làm nổi bật Mầu nhiệm Thập giá trong suốt Tuần thánh để người Kitô hữu xác tín: Thập giá, tình yêu cứu độ. Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
Sau đây, chúng ta chiêm ngắm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua Tin mừng thánh Marcô vào dịp lễ Vượt Qua năm 30; lễ vượt qua cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Hôm đó, người ta đổ về Giêrusalem để mừng lễ, nhiều người ngoại quốc cũng đến để chung vui với người Do Thái vào dịp đại lễ này. Họ chứng kiến một vị ngôn sứ là Chúa Giêsu bị kết án tử hình đóng đinh thập giá. Người ta tố cáo Ngài với hai tội danh là phạm thượng“tự xưng mình là Thiên Chúa” và tội phản động chống lại hoàng đế Rôma“Người này nói dân nổi loạn”. Nhưng trước mắt toàn dân, quan án Philatô xét xử và xác nhận: Ông Giêsu không có tội, ta truyền đánh đòn và tha ông.
Các thượng tế, luật sĩ, biệt phái nhất định giết Đức Giêsu. Họ sách động dân chúng lên án Chúa Giêsu “đóng đinh nó vào thập giá”. Sau cùng Philatô đã viết bản án “đóng đinh ông Giêsu” và tha cho tên trộm cướp giết người là Baraba.
Để cứu độ nhân loại, Đức Giêsu đã chấp nhận án tử hình thập giá, chấp nhận chết để cứu sống nhân loại tội lỗi. Con đường Đức Giêsu đã đi là con đường thập giá, con đường tử nạn để cứu nhân loại khỏi tội và đưa con người vào cõi sống muôn đời như lời thánh Phêrô đã nói:
“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1Pr 2, 24). Vì thế Giáo hội đã hướng nhìn thập giá với niềm tin:
“Ôi Thập giá, phước lành thế giới,
Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan”
(Thánh thi kinh trưa Thứ sáu tuần thánh)
Thập giá là đỉnh cao của con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại được thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu Kitô: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu dám chết cho người mình thương. Đức Giêsu đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Chúa Giêsu chết trên thập giá: một cái chết yêu thương, tự nguyện, tha thứ để con người được cứu sống: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết”. Chỉ khi Chúa chết mới giải quyết được mọi vấn đề liên quan tới sự kiện Đức Giêsu Kitô “Ngài là ai”? Người Do Thái thời Chúa Giêsu không thể chấp nhận Ngài là Đấng Messia, bởi người ta chỉ trông chờ một Đấng Messia có tính cách chính trị để giải phóng dân Do Thái khỏi đế quốc Rôma. Họ không thể hiểu được “Đấng Cứu Thế phải chết thay cho muôn người”, “Đấng Messia cứu độ”. Qua cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta tìm được lời giải đáp về căn tính của Đức Giêsu.
Chính khi Đức Giêsu tắt thở trên thập giá, là lúc Chúa Giêsu trở nên Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại như lời Ngài đã nói trước: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.Chính lúc Chúa chết là lúc Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết, vì Ngài đã chu toàn sứ mạng cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chính giờ phút Chúa chết là lúc Chúa được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Chứng kiến Chúa chết trên thập giá, viên sĩ quan Rôma đâm cạnh sườn Chúa đã phải thốt lên với niềm tin vào Đức Giêsu: “Ông này quả thật là con Thiên Chúa”. Người trộm bên hữu cùng chịu đóng đinh đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi! Khi Ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi… Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 42-43).
Dưới chân thập giá nhiều người đã đấm ngực và tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa”.
Cái chết đầy yêu thương và tha thứ của Chúa Giêsu đã tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và là Thiên Chúa thật.
Bước vào Tuần thánh là bước vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô và cũng là hành trình tiếp cận tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa.
Bước vào Tuần thánh là đi vào cuộc hành trình tiến lên đỉnh cao phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ chẳng có Đức Giêsu phục sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết. Sẽ chẳng có chiến thắng vinh quang, nếu không có chiến đấu gian nan và đau khổ tột cùng trên thập giá. Thật đúng như tục ngữ Hoa Kỳ: “Không có thập giá, không có triều thiên, không có đau khổ, không có thắng lợi. (No cross, no crown, no pain, no gain).
Đón nhận khổ giá với sức mạnh của tình yêu là đồng hành với Đức Kitô trên con đường cứu thoát chính mình và tha nhân. Như thế, thập giá, tình yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
.
Giuse Đinh Tất Quý
Lễ lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem. Kết cục Chúa Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên Thập giá. Con đường vào thành thánh Giêrusalem của Người là con đường vinh quang vương giả. Còn con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội đồ.
Đám rước ngày lễ Lá hôm nay mời gọi chúng ta cùng tiến bước theo Chúa.
Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình theo Chúa không kết thúc tại cổng thành Giêrusalem với đám đông người ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm đường đi, nhưng kết thúc trên nuí Sọ với những lời nhục mạ ê chề, với cây Thập giá cùng với hai tội nhân đồng hành. Chúa Giêsu đã không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt nghinh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, và phải đứng trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Và danh hiệu làm Vua chỉ được chính thức ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên Thập Giá: “Giêsu Nagiareth, Của dân DoThái” (Mt 27,37).
Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Đích điểm chỉ đạt tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ nhà cửa, y phục mà cả những người thân, cả thành công, cả danh dự và cả mạng sống.
Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng cuả lòng dạ con người.
Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay vung chân hoan hô Chúa, ngay hôm sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa.
Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, ngay hôm sau cũng vẫn reo hò nhưng là để buộc tội Chúa.
Cũng đám đông ấy hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón Chúa, ngay hôm sau đã xúm lại với nhau để hành hạ Chúa.
Cũng đám đông ấy hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường để Chúa đi qua, ngay hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lại đặt lên đầu Chúa.
Tiến bước theo Chúa còn là để dứt khoát lựa chọn cho mình một con đường.
Đường vào Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người đều có thể tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra muôn ngả. Mỗi người có thể chọn cho minh một con đường để đi.
Đường vào Giêrusalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than khóc và tiếng chửi rủa.
Đường vào Giêrusalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là môn đệ Chúa.
Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thầy.
Đường vào Giêrusalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ, Chúa phải vác Thánh Giá.
Đi theo Chúa trên đường vào Giêrusalem thì dễ dàng và vui vẻ. Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai.
Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hòa nhập vào đoàn người cầm cành lá đi rước Chúa.
Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào? Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội Chúa như Giuđa? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa như Phêrô? Tôi sẽ rẽ sang những con đường hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi sẽ phụ họa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường.
Theo truyện thần thoại của Hy lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem đi về đâu. Hai người chỉ đường đến với ông. Một người nói:
– Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng.
Người thứ hai nói:
– Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc.
Hercule đã chọn con đường thứ hai, khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.
Vâng! Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều, phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều.
- Martin Kohe nói: “Sức mạnh lớn nhất mà con người có được là sức mạnh có được quyền lựa chọn”.
Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá,
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên lòng tin của con
vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha,
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân,
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho cho con trong đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi. (Karl Rahner)
.
CUỘC THƯƠNG KHÓ MANG TÊN CON NGƯỜI
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu cũng gợi lên bao cuộc thương khó của con người ngày nay đang gây ra cho nhau. Những cuộc thương khó ấy giống như Thánh Phaolô nói: “Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh.” (Col 1, 24). Ước gì những người đang mang gánh nặng khổ đau cùng mang tâm tình của Thánh Phaolô để được tháp nhập vào trong thập giá của Chúa Giêsu.
Đau khổ về tâm hồn.
Tại vườn cây Dầu, Chúa nói với các môn đệ: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26, 38).
Nỗi đau tâm hồn đến từ nhiều khía cạnh trong cuộc đời này. Những người cha, mẹ, buồn sầu vì những đứa con ngỗ nghịch, đi hoang, ăn chơi, rơi vào cạm bẫy ma tủy đá, thuốc kích thích… Biết bao đau khổ của những con người tâm hồn bị dày xéo bởi tội lỗi của mình và của người khác gây nên, không thể ra khỏi hoặc trốn tránh.
Trong nỗi đau khổ tâm hồn, Chúa mang chịu trong vườn cây Dầu, chẳng mấy môn đệ hiểu về mình, vẫn tranh giành chỗ nhất, chỗ nhì, vẫn sẵn sáng chạy trốn khi cơn nguy hại đến. Cô đơn, lạc lõng, sống với nhau bao nhiêu năm, nhưng chẳng bao giờ hiểu nhau, thông cảm, sẻ chia, tha thứ, lại còn sẵn sàng lên án. Khinh miệt và chịu lên án.
Nỗi đau tâm hồn, như Chúa nói: “buồn đến chết được”, là cái chết của những trái tim bị bỏ rơi giữa dòng đời, giữa lúc tình người chỉ còn là chém giết, giữa lúc con người chỉ là tranh giành hơn thua. Con người yếu thế đến cùng cực, kêu than mà chẳng được đoái hoài. Tiếng thét gào của những con người bị tước đoạt mọi sự chỉ còn tấm thân trần mỏi mệt.
Nỗi đau của tâm hồn, còn đang chịu dày xéo bởi những lầm lỗi quá lớn trong cuộc đời vấp ngã. Những bà mẹ đau khổ từ trong đáy sâu của trái tim, khóc thương cho những đứa con mình đã giết chết, của những nặng nề oán thù mà không có dịp để gặp lại tha thứ, của những vô tình làm lạc mất nhau trong cuộc đời.
Đau khổ bởi ly biệt. Những người con mới trưởng thành, bước vào đời với những chập chững thành công đã bị chết bởi tai nạn, bởi chiến tranh, giết hại, bạo lực tính dục… Những người cha mẹ, ngày nay đôi khi cũng chỉ có một con hoặc cũng chỉ trông vào người con đang khôn lớn với đời. Mất mát để lại sự trống vắng, tê dại tâm hồn người ở lại.
Không thiếu những khổ đau tâm hồn, nhiều kiểu, nhiều cách, những đau khổ không tên, được mời gọi thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa. Xin cho những tâm hồn khổ đau được thấy ánh bình minh của ngày mới Phục Sinh xoa dịu những thương đau.
Đau khổ thể lý.
Chịu đánh đón, khạc nhổ, đội mạo gai, vả vào mặt, vác Thánh Giá, chịu lột trần, chịu đóng đinh, lưỡi đòng đâm thâu…
Ngày nay cuộc thương khó ấy vẫn còn tiếp diễn trên nhiều người chịu khổ đau. Vì chiến tranh, họ trở thành những di dân, đến những vùng đất xa lạ để bắt đầu lại cuộc sống. Thế nhưng, nhiều nơi họ vẫn bị từ chối và phải ở lại những căn lều tạm bợ, với những bệnh tật, thiếu thốn. Trong thông điệp Giáng Sinh 2017, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói về những tình trạng tại Sirya, Sudan, Somalia, Burundi, Cộng Hòa Congo, Cộng Hòa Trung Phi và Nigeria.: “Chúng ta thấy Chúa Giêsu ở nơi nhiều trẻ nhỏ bị buộc phải rời khỏi đất nước của mình để một mình ra đi trong những điều kiện phi nhân và những trẻ em đang trở thành một mục tiêu dễ dàng cho những kẻ buôn người. Qua đôi mắt của các cháu chúng ta thấy bi kịch của tất cả những người bị buộc phải di dân và chịu rủi ro mạng sống của họ khi đối diện với những hành trình mỏi mệt mà đôi khi kết thúc trong tình trạng bi đát.” (Thông Điệp Urbi et Orbi 2017).
Đau khổ vì những căn bệnh do môi trường ô nhiễm, thực phẩm bẩn, điều kiện sống tệ hại… Những đau khổ trên thân xác hằng ngày là những thử thách về niềm tin, trông cậy: “Bệnh tật, trên hết là bệnh nghiêm trọng, luôn luôn đặt sự hiện hữu của con người vào trong cuộc khủng hoảng và mang theo cùng với nó những câu hỏi đào sâu. Sự đáp trả đầu tiên của chúng ta đôi khi là một sự đáp trả kiểu nổi loạn: Tại sao điều này lại xảy ra với tôi? Chúng ta có thể cảm thấy tuyệt vọng, nghĩ rằng tất cả đã mất hét, rằng mọi thứ không còn ý nghĩa nữa…” (Sứ điệp ngày bệnh nhân lần thứ 24, Đức Giáo Hoàng Phanxicô).
Đau khổ về thể lý cũng đang hoành hành nơi những xã hội kém an ninh, thiếu nền tảng đạo đức: Bạo lực học đường, đường phố, bắt cóc, buôn người, mua bán nội tạng, ma túy đá, trộm cướp, giết người…
Cuộc gặp gỡ hòa giải quốc gia diễn ra trong hình thức một buổi cử hành Lời Chúa trong một cơ cấu có mái che có chỗ cho 6.000 người, ngày 9 – 9 – 2017.
Ngỏ lời với đại diện các nạn nhân của bạo lực, giới quân nhân và cảnh sát cũng như các cựu du kích quân ĐTC nói:
“Với lòng tôn trọng tôi đến một vùng đất được tưới gội bằng máu của hàng ngàn nạn nhân vô tội, và với nỗi đớn đau xé lòng của các thân nhân và người quen của họ. Các vết thương khó trở thành sẹo và khiến cho chúng ta tất cả đau đớn, bởi vì mỗi một bạo lực chống lại một con người là một vết thương trong thịt xác của nhân loại; mỗi một cái chết bạo lực khiến cho chúng ta ít là người hơn. Tôi ở đây không phải để nói nhưng để gần gũi anh chị em và nhìn vào mắt của anh chị em, để lắng nghe anh chị em và mở rộng con tim của tôi cho chứng tá cuộc sống và đức tin của anh chị em. Và nếu anh chị em cho phép, tôi cũng muốn ôm anh chị em trong vòng tay và cùng khóc với anh chị em, tôi muốn chúng ta cùng nhau cầu nguyện và tha thứ cho nhau – cả tôi nữa cũng phải xin tha thứ – và như vậy cùng nhau tất cả chúng ta có thể nhìn và tiến tới với đức tin và niềm hy vọng.”
Đau khổ về tinh thần:
Tại đồi sọ trên Thánh Giá Chúa vẫn phải chịu sự bêu riếu của quân lính, của người đời: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn! “. Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống37 và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi! ” (Lc 23, 35 – 36).
Nỗi đau đến từ những vu oan, báo họa, chịu tổn thương vì những tin giả, hoặc những bôi nhọ trên các phương tiện truyền thông. Đức Giáo Hòang ghi nhận trong sứ điệp ngày truyền thông thế giới 2018:
“Khó khăn của việc lột mặt nạ và bài trừ tin giả cũng là do bởi sự thật là nhiều người tương tác trong những môi trường kĩ thuật số đồng nhất không thể tác động được trước những cách tiếp cận và ý kiến khác nhau. Do đó thông tin sai lệch phát triển trên một sự vắng bóng của sự đối diện lành mạnh với những nguồn thông tin khác vốn có thể một cách tích cực đang thách đố những thành kiến và tạo ra cuộc đối thoại mang tính xây dựng; thay vào đó, sự lệch lạc này có nguy cơ biến người ta thành những người đồng phạm không sẵn sàng trong việc lan tỏa những ý tưởng lấn loát và thiếu cơ sở. Bi kịch của thông tin sai lệch là nó sẽ hạ thấp uy tín người khác, trình bày họ như những kẻ thù, đến mức biến họ thành quỷ và tạo nên mâu thuẫn. Tin giả là một dấu hiệu của những thái độ bất khoan dung và nhạy cảm thái quá, và chỉ dẫn đến việc làm lan tỏa sự kiêu ngạo và hận thù. Đó là kết quả cuối cùng của điều không thật.”
“Điều đáng quan ngại chính là lòng tham của chúng ta. Tin giả thường đi với việc lan tỏa, phát tán quá nhanh chóng đến nỗi thật khó để dừng lại, không phải vì cảm giác của việc chia sẻ làm động lực cho mạng xã hội, mà vì nó khơi gợi lòng tham không đáy vốn quá dễ dàng nổi lên trong con người nhân loại. Các mục đích kinh tế và mang tính thao túng đang nuôi dưỡng thông tin sai lệch được bắt rễ trong một lòng khao khát quyền lực, một lòng khao khát muốn sở hữu và hưởng thụ, mà sau cùng biến chúng ta thành nạn nhân của một điều gì đó bi đát hơn: sức mạnh mang tính lừa phỉnh của ma quỷ vốn chuyển từ một sự giả dối này đến một sự giả dối khác hòng cướp đi khỏi chúng ta sự tự do nội tâm. Đây là lý do vì sao việc giáo dục sự thật có nghĩa là dạy cho người ta biết cách biện phân, đánh giá và hiểu được những khao khát và khuynh hướng thẳm sâu nhất, để chúng ta không đánh mất tầm nhìn về điều gì là thiện hảo và sa ngã trước mọi cơn cám dỗ.”
Những con người chịu đau khổ về tin giả hằng ngày vẫn thường tìm đến cái chết qua việc tự tử, bị trầm cảm, mất niềm tin vào cuộc sống…
Có lẽ cuộc thương khó của Chúa Giêsu còn nhiều tập nhiều chương viết tiếp. Như vết đinh muôn đời mới, con người vẫn đâm vào tim nhau, vẫn còn cướp bóc mạng sống của nhau, vẫn giết chết nhau bằng những đau đớn tinh thần. Bao lâu nữa, con người mới biết thương nhau, tha thứ cho nhau, đón nhận nhau với tình thân hữu, để tháo đanh Chúa xuống khỏi thập giá và đón chờ Chúa Phục Sinh đổi mới nhân loại.
Thay lời kết:
“Lạy Chúa, xin hãy dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa.
Giúp chúng con nhận ra sự dữ ẩn náu trong một nền truyền thông không xây dựng sự hiệp thông.
Xin giúp chúng con biết bỏ đi sự độc hại khỏi những phán xét của chúng con.
Giúp chúng con biết nói về người khác như những anh chị em của chúng con.
Chúa là Đấng trung tín và đáng tin; xin cho những lời của chúng con là những hạt giống của sự tốt lành cho thế giới:
nơi nào có gào rú, xin giúp chúng con biết thực hành sự lắng nghe;
nơi nào có sự bối rối, xin giúp chúng con biết gợi sự hòa hợp;
nơi nào có sự mập mờ, xin giúp chúng con biết mang lại sự mạch lạc.
nơi nào có sự loại trừ, xin giúp chúng con biết mang lại tình liên đới;
nơi nào có sự ủy mị, xin giúp chúng con biết mang lại sự tiết độ;
nơi nào có sự hời hợt, xin giúp chúng con biết đặt ra những câu hỏi thật sự;
nơi nào có thành kiến, xin giúp chúng con biết đánh thức sự tin cậy;
nơi nào có sự thù nghịch, xin giúp chúng con biết mang lại sự tôn trọng;
Nơi nào có sự giả dối, xin giúp chúng con biết mang lại sự thật.
Amen.”
Làm tại Vatican, 24/01/2018, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Joseph C. Pham (Chuyển ngữ từ Vatican News)
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Bước vào tuần thánh, chúng ta tiếp bước dấu chân Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, chúng ta đi từ vinh quang sáng chói khi được toàn dân đón chào, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên Thập giá. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng cuối cùng họ đã trở mặt. Tất cả đã đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm.
Giêrusalem, thành phố của những đối nghịch
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình lên Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là kinh thành có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là chốn biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là thành phố của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó họ đã trở mặt, lòng chất đầy phẫn nộ và sự căm thù. Giuđa thì bán đứng vị tôn sư khả kính. Trò phản thầy cách gian ác và tàn nhẫn. Các đầu mục tôn giáo thì quá quỷ quyệt đã dàn dựng một phiên tòa giả dối. Riêng các môn sinh nghĩa thiết nhất lại vội quên mất vị tôn sư của mình. Họ ngủ vùi trong mệt mỏi và cuối cùng đã lặng lẽ tháo lui. Phêrô thì quá khiếp sợ đã thẳng thừng chối bỏ người thầy đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo nguyên ngữ Aram, có nghĩa là ‘con của cha’. Họ đã chọn để xin tha một người ‘con’ với quá khứ đặc kín tội ác, và đòi kết án người ‘Con’ duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội, đã gánh trên vai tội lỗi của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Niềm tin kiên định nơi Đức Giêsu
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của Thập giá là một chứng tá và cũng là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời xưa. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau: “ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau…, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị Tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở: “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập gía như cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm nơi Chúa Giêsu. Kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là ‘Thiên Chúa đã tôn vinh Người và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa’.
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập gía. Đức Giêsu đã hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ cho đến chết và chết trên Thập gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là Ađam đã sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu – Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa liên kết với nhau. Chúa Giêsu là Ađam mới, và cũng là người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, tình trạng sống kiếp nô lệ, và tiến nhận cái chết để giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi suy gẫm việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên Thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước những gì sẽ xảy ra. Nếu quả như thế và Đức Giêsu không thể có một sự chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Chúa trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu lại tuôn đổ đến mức thảm thiết như vậy? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) :“ Cha ơi, nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Chúa vẫn phải thét gào một cách thảm thiết: “Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy rằng, vì Đức Kitô đã tự hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của Thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Song, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi trần gian, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin kiên định và một sự vâng phục tuyệt đối. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi đối diện trước những bầm dập và tan nát trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế chưa, khi chúng ta bị mất hết, bị nhấn chìm trong bóng tối của khiếp hãi? Khi gặp những khổ đau và cay đắng, khi bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào chán chường hay tuyệt vọng…, chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và ở trên Thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta đang gặp phải.
Kết luận
Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Đức Giêsu đi vào lộ trình lên Giêrusalem, để thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
.
Lm. Đaminh Trần Quang Hiền
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhác, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trong trình thuật Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách đấng Mê-si-a, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Mác-cô và Lu-ca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!… Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân” (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10:3; 1:14; 1Sm 25:23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức Giê-su tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18:36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết ‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; A-bra-ham sát tế I-xa-ác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức Giê-su khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3:14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể nào khác được!
Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! A-men.
.
Trầm Thiên Thu
CHÉN CAY, CHUYẾN KHỔ TRIỀN MIÊN
THẦY GIÊSU VẪN MỘT NIỀM XIN VÂNG
THẬP HÌNH LÀ DẤU YÊU THƯƠNG
CỨU NHÂN ĐỘ THẾ KHỎI VÒNG TRẦM LUÂN
Là phàm nhân, chẳng ai lại không khổ. Càng chạy trốn khổ thì càng thêm khổ: Khờ Ô Khô Hỏi Khổ. Khổ tới Khô và Khờ luôn, hỏi mà không ai trả lời được, chỉ thấy người ta thở dài và nói: “Khổ thật! Khố quá! Khổ lắm!”. Thấy “oải” lắm nghen. Khôn hồn thì có thể tránh khổ bằng cách “đi xuyên qua đau khổ”, chứ diệt khổ cũng chẳng hết, nó còn vây quanh nhiều hơn đấy. Vâng, biết rồi, khổ lắm, nói mãi!
Vì thế, người ta vẩn thường than vắn thở dài: “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ” đâu. Điều đó cho thấy kiếp người là chuỗi nối tiếp đủ thứ khổ, suốt hành trình ngổn ngang nỗi khổ, một chuyến khổ đầy ắp, khổ triền miên suốt ngày thâu đêm. Có lẽ vì vậy mà không ai cười để chào đời, mà lại “cất tiếng khóc chào đời”. Điềm báo khổ mà! Thế nên phải tự khổ luyện cách chấp nhận để khả dĩ phần nào “hóa giải” đau khổ thành niềm vui, nếu không thì càng chồng chất thêm đau khổ mà thôi. Chúa Giêsu gọi đó là “vác thập giá”.
Trong các nỗi khổ, có lẽ nỗi oan là loại gây “khó chịu” đối với chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu đã nói với Thánh nữ Faustina thế này: “Con đừng ngạc nhiên vì đôi khi bị tố cáo bất công. Chính Ta đã từng uống chén đau khổ bất công này trước vì yêu con” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 289). Nỗi khổ lớn nhất của chúng ta cũng không là gì so với nỗi khổ của Thầy Giêsu.
Từ hơn hai ngàn năm trước, hoàng tử Thích Ca Mâu Ni là sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là khổ, Bệnh là khổ, Lão là khổ, và Tử là khổ. Nói chung, Khổ là… Khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức Phật. Chắc chắn rằng MUỐN THOÁT ĐAU KHỔ thì chỉ có cách là ĐI XUYÊN QUA ĐAU KHỔ. Khi Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta vừa cầm lá thiên tuế chào đón vừa tung hô Ngài là “Đấng ngự đến nhân danh Chúa”. Thế nhưng chính giây phút đó lại là lúc khởi đầu “chuyến khổ” của Ngài.
KIẾP KHỔ
Người có “chuyến khổ” nặng nề nhất là Đức Giêsu Kitô, mệnh danh là “người tôi tớ đau khổ”, điều này đã được ngôn sứ Isaia đề cập nhiều lần. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông xác nhận: “Sáng sáng Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (Is 50:4). Ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5).
Hiền không phải là dại khờ hoặc yếu thế, mà là nhịn nhục và tha thứ. Ngôn sứ Isaia “không cưỡng lại” và “không thoái lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6). Ông tin mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Thế nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “hành trình đau khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua.
Nói về nỗi đau khổ tột cùng, trong tình trạng chịu nhục nhã ê chề, Thánh Vịnh gia mô tả:
Thấy con ai cũng chê cười
Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:
“Nó trông cậy Đức Chúa Trời
Cứ để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)
Thật thê thảm, thật thống thiết! Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không chỉ bị khiêu khích, bị đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ cả về thể lý, trong tình trạng thật tồi tệ:
Quanh con bầy chó bao chặt chẽ
Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài
Chúng đâm con thủng chân tay
Xương con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)
Không chỉ như vậy, Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ còn tiếp tục chịu đau khổ đến tận cùng, thế nhưng vẫn luôn một lòng trông cậy vào Thiên Chúa mà thôi:
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác
Còn áo trong cũng bắt thăm luôn
Chúa là sức mạnh con nương
Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv 22:19-20)
Còn hơn thế nữa, Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ vẫn không hề dao động, và chỉ muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính nỗi đau khổ tột cùng của mình:
Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
Cho anh em tất cả được hay
Và trong đại hội dân Ngài
Con xin dâng tiến một bài tán dương (Tv 22:23)
Thật tuyệt vời và đáng khâm phục biết bao! Dù sao thì Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ luôn trung tín với Thiên Chúa, vừa tự động viên mình vừa khuyến khích người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24).
CHỊU KHỔ
Mang số kiếp đau khổ thì chẳng tránh đâu cho thoát, thế thì chịu đựng cho khỏi “phiền phức”. Đó là thượng sách. Thánh Phaolô vừa phân tích vừa xác định: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6). Đạo cũng như đời, người quyền cao chức trọng có mấy ai dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân?
LM C.P. Varkey có kể lại trong cuốn “Authority: Its Use and Abuse” (Quyền bính: Sử dụng và Lạm dụng – NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999) về một số “điểm son” của Đức cố GM Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ), một giám-mục-đa-không, một tấm gương sáng về tinh thần phục vụ và dấn thân. Tác giả Varkey cho biết:
Mỗi Chúa Nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà KHÔNG BÁO TRƯỚC, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý, và chuyện trò với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài KHÔNG BAO GIỜ cho phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Và tại tòa giám mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài không nhận bất cứ sự biệt đãi nào dành cho mình; ngài cho rằng sự hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước trong những dịp đặc biệt) KHÔNG PHẢI LÀ CHỨNG NHÂN TIN MỪNG mà là chứng nhân của văn hóa thế tục; hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12 giờ để TIẾP BẤT CỨ AI đến gặp, KHÔNG cần hẹn trước; ngài KHÔNG BAO GIỜ nghỉ trưa; ngài chỉ dự những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng NẾU những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ chính tòa; ngài KHÔNG tổ chức mừng ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của mình. Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng dịp các linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19 tháng Ba (lễ Đức Thánh Giuse).
Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài KHÔNG đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về hoạt động hay đi lại của ngài trong giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi người biết trước về những trường hợp ngài phải ra ngoài giáo phận quá một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng Giám Mục,…; ngài KHÔNG BAO GIỜ đi nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc như về Rôma dịp Ad limina. Ngài KHÔNG BAO GIỜ đi nước ngoài để quyên tiền. Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác bởi chính giáo dân trong giáo phận; KHÔNG BAO GIỜ có chuyện “phạt treo”, chẳng hạn không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp quĩ; ngài luôn ĂN MẶC GIẢN DỊ, ĂN CHAY TRƯỜNG, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài trên báo chí; ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên.
Cuộc đời ngài thật đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng NGÀI KHÔNG NHẬN, chỉ muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác trong giáo phận; ngài KHÔNG MUỐN XIN VIỆN TRỢ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn. Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính các giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một ngôi nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng, sống điều ngài rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ QUYỀN BÍNH LÀ ĐỂ PHỤC VỤ.
Là người Việt Nam, chắc hẳn chúng ta không thể nào quên tấm gương sáng về sự quên mình phục vụ của Đức cố GM Jean Cassaigne (1895–1973, người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi ở Di Linh (Đà Lạt). Ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư nghèo để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi người.
Những chứng nhân sống động như vậy thật đáng khâm phục, bởi vì họ đúng là những mục tử nồng nàn “mùi chiên”, dám quên mình và xả thân vì đoàn chiên của Chúa. Họ thực sự là những Vị Thánh Sống.
“Chiên Con hiền lành” Giêsu là Con Thiên Chúa, không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ mà còn là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:11). Thật vậy, ngay sau khi hả hê giết chết Ông Giêsu, viên đại đội trưởng đã phải sợ hãi và thốt lên: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa, đích thực là người công chính!” (Mt 27:54; Mc 15:39; Lc 23:47).
Dù cho cuộc sống nghèo nàn hoặc rất ư bình thường, cũng chẳng ai muốn đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn sống sung sướng, muốn tận hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế mà CON NGƯỜI KHÔNG NGỪNG THAO THỨC ĐI TÌM HẠNH PHÚC. Đau khổ luôn là một ẩn số đối với cuộc sống, đồng thời cũng như một hằng số. Những người chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột” hoặc “điên khùng”. Nhưng chính đau khổ đã tạo nên các vĩ nhân và các thánh nhân.
Ở bất kỳ quốc gia nào, khi bị cáo đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa. Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và một phe đưa ra các điều xấu – được gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Thánh GH Gioan XXIII, luật-sư-của-quỷ đã hết cách nên đành “tố cáo” rằng Đức Gioan XXIII hồi nhỏ hay CHƠI DIỀU. Thật là tức cười!
Thế nhưng khi Chúa Giêsu bị xét xử, dù không ai thấy Ngài có tội gì ngoài “tội làm điều tốt”, không hề có trạng sư nào bào chữa cho Ngài. Ai cũng tố cáo, kể cả những người vừa tung hô Ngài mấy hôm trước. Phúc Âm theo Thánh sử Mác-cô ghi rõ rằng vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ TRÓI Đức Giêsu lại và giải đi NỘP cho ông Philatô. Ông Philatô hỏi Ngài: “Ông là vua dân Do Thái sao?” (Mc 15:2a). Chúa Giêsu trả lời: “Đúng như ngài nói đó” (Mc 15:2b). “Đúng như ngài nói đó”, một câu nói đơn giản mà THÂM THÚY và KHIÊM NHƯỜNG. Chúa Giêsu không hề tự nhận là Vua-dân-Do-Thái mà tại người ta nói vậy. Ngài chỉ tự nhận” là Con-Số-Không: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20; Lc 9:58) và “Tôi đến KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC NGƯỜI TA PHỤC VỤ, nhưng là ĐỂ PHỤC VỤ, và HIẾN MẠNG SỐNG làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Vụ án oan sai về Chúa Giêsu là vụ án bất công và độc ác nhất lịch sử nhân loại.
Thấy các thượng tế cấu kết với nhau để tố cáo nhiều tội, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!” (Mc 10:4). Nhưng Ngài làm thinh, KHÔNG TRẢ LỜI gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên. Người hiểu thì không cần giải thích, người không hiểu thì giải thích cũng vô ích mà thôi!
Kinh Thánh cho biết rằng, vào mỗi dịp lễ lớn, ông Philatô thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có tử tù “khét tiếng” Baraba đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Ông Philatô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do Thái không?” (Mc 10:9).
Chắc hẳn ông ta thừa biết chỉ vì ghen tị mà các thượng tế nộp Ngài. Nhưng các thượng tế xách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích Baraba. Bị áp lực mạnh nên ông Philatô lại hỏi: “Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do Thái?”. Họ la lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 10:13). Ông Philatô muốn tha Chúa Giêsu vì thấy Ngài vô tội, nhưng ông ta hèn nhát và sợ mất chức quyền, ông cù cưa: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” (Mc 10:14a). Nhưng đám đông càng la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 10:14b). Qua cách xét xử này, chúng ta thấy rằng KHÔNG PHẢI CỨ ĐA SỐ LÀ ĐÚNG, thậm chí còn trái ngược – tức là SAI THẬM TỆ. Đừng bao giờ vào hùa với người khác, nhất là trong những chuyện bất lợi cho tha nhân. Hãy lưu ý vài cái “đừng” mà Kinh Thánh đề cập:
- “ĐỪNG làm điều xấu thì cái xấu sẽ không thắng được con” (Hc 7:1).
- “ĐỪNG gieo trên những luống bất công, kẻo phải gặt bất công gấp bảy lần” (Hc 7:3).
- “ĐỪNG xin Đức Chúa cho con quyền cao, ĐỪNG xin vua cho con chức trọng” (Hc 7:4).
- “ĐỪNG tưởng mình là công chính trước mặt Đức Chúa” (Hc 7:5).
- “ĐỪNG để tội nào trói buộc con đến hai lần, vì một lần thôi cũng đủ để bị phạt” (Hc 7:8).
Chỉ vì muốn được lòng đám đông, ông Philatô đã phóng thích tướng cướp Baraba và truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Ngài cho họ đóng đinh vào thập giá. Đám lính điệu Đức Giêsu vào bên trong dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Ngài một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài, rồi mỉa mai: “Vạn tuế đức vua dân Do Thái!” (Mc 10:18). Chúng lấy cây sậy ĐẬP lên đầu Ngài, KHẠC NHỔ vào Ngài. CHẾ GIỄU chán, chúng LỘT ÁO điều ra, và cho Ngài mặc áo lại như trước. Vải dính vào những vết thương sẽ rất đau đớn khi bị giật áo ra. Cảnh tượng thật hãi hùng!
Thông thường, các tử tội được ân huệ sau cùng, nhưng Chúa Giêsu không hề được ân huệ cuối cùng nào, có chăng chỉ là chút giấm chua. Bị hành hạ đủ kiểu, thương tích đầy mình, thế mà Ngài còn phải tự vác thập giá đi lên đồi. Những kẻ thủ ác vô cùng bất công và thâm độc, phàm ngôn không đủ từ ngữ để diễn tả sự bất nhân như vậy!
Dọc đường lên Gôngôtha – nghĩa là Đồi Sọ, có một người tên Simôn (gốc Kyrênê, từ miền quê lên) tình cờ đi ngang qua đó. Chúng liền bắt ông vác thập giá đỡ cho Đức Giêsu. Tới nơi, chúng trao rượu pha mộc dược cho Ngài, nhưng Ngài không uống. Chúng đè Ngài xuống và đóng đinh vào thập giá, rồi đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba (khoảng 9 giờ sáng).
Hôm đó, có hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu – nghĩa là Ngài bị liệt vào hạng những tên phạm pháp. Kẻ qua người lại đều khinh bỉ và nhục mạ Ngài, có kẻ vừa lắc đầu vừa nói: “Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!” (Mc 10:29-30). Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Ngài như vậy, và kháo nhau: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình”. Rồi họ thách thức: “Ông Kitô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin” (Mc 10:31-32). Thậm chí cả một tên cùng chịu đóng đinh với Ngài cũng không biết thân mà còn nhục mạ và thách thức Ngài: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” (Lc 23:39). Thật tồi tệ, chết đến nơi không sợ mà còn hống hách!
Bất ngờ bóng tối bao phủ khắp mặt đất từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (khoảng từ 12 giờ tới 15 giờ), mặc dù trời đang nắng chang chang. Một hiện tượng thiên nhiên bất thường, vô cùng kỳ lạ! Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Ê-lôi, Ê-lôi, la-ma-xa-bác-tha-ni!” – nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 10:34). Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia”. Có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không”.
Sau đó, Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi trút hơi thở. Sự lạ lại xảy ra: Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Và rồi chính viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Ngài tắt thở như vậy cũng phải công nhận Tử Tôi Giêsu là Con Thiên Chúa. Thế là hoàn tất “chuyến khổ”. Những người không muốn tin thì cho đó là nỗi thất bại ê chề của Đức Kitô, nhưng họ hoàn toàn lầm tưởng. Đối với những người tin Ngài thì đó là Hồng Phúc, và sẽ được Ngài ban Ơn Cứu Độ.
Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, cả Giáo Hội cùng chịu Đại Tang, đó là ngày Thế Giới Tang!
Lạy Thiên Chúa nhân từ, con chân thành sám hối và xin lỗi Chúa, xin Ngài thương xót và tha thứ. Xin cảm tạ Cha đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Phàm nhân tro bụi nhưng thật diễm phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên nhờ cái chết cứu độ của Đức Kitô. Xin giúp con can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành trình đau khổ và làm chứng nhân của Lòng Thương Xót của Ngài, để mai đây con cũng được cùng phục sinh với Đức Giêsu Kitô. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
THẬT, NGƯỜI NÀY LÀ CON THIÊN CHÚA
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật Lễ Lá năm B hôm nay, Phụng vụ Giáo hội cho chúng ta đọc và nghe bài Thương Khó theo thánh Marcô. Tác giả Tin Mừng đã làm nổi bật lời của viên sĩ quan Rôma, người ngoại quốc, sau khi tham dự vào số những người hành quyết Chúa Giêsu, chứng kiến tận mắt cảnh Chúa bị đánh đòn, bị ngược đãi, bị treo trên thập tự giá và trút hơn thở, ông đã phải thốt lên cách ngạc nhiên : “Thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Câu “Thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39) không phải dễ để viên sĩ quan tuyên xưng như thế. Anh đã thấy gì nơi khuôn mặt hầu như không còn hình dạng người ta nữa, để đưa ra một tuyên bố như vậy. Bằng mọi cách, anh phải khám phá ra Chúa Giêsu là người vô tội, bị bỏ rơi, và thậm chí bị phản bội; hay có thể là một con người bị đối xử không công bằng trong một xã hội bất công; Người không hề mở miệng, chịu đau khổ mà chẳng than van, chấp nhận mọi sự xảy đến cho mình, thật không hiểu nổi. Có lẽ, viên sĩ quan này cảm thấy mình là một kẻ đồng lõa với sự bất công khi thấy người vô tội mà anh không giơ ít là một ngón tay lên để ngăn chặn nó, anh nghĩ mình giống như bao người đã rửa tay trước những khó khăn của người khác.
Hình ảnh của viên sĩ quan người Rôma là hình ảnh của người có cái nhìn với lòng thương xót. Cùng lúc đó, niềm tin của một người ngoại đạo được tuyên xưng. Chúa Giêsu là Đấng vô tội, đã bị đánh đòn, bị bỏ rơi và bị giết chết, đồng thời, anh tin vào ý nghĩa sâu xa của sứ mạng, với “cái còn lại của tình yêu” và tin vào ý nghĩa sứ mệnh cao cả của Chúa, mà những vết thương còn hằn trên thân xác là bằng chứng.
Nhưng trước khi những điều điều trên xảy đến, Chúa Giêsu đã tiến vào Giêrusalem và được dân chúng tung hô là Đấng nhân danh Chúa mà đến (x.Mc 11,9). Hôm nay, chúng ta cũng hô cũng hát, nhưng tiếng hô hát của chúng ta không phải là ảo tưởng và vô thức, giống như của dân thành Giêrusalem xưa. Lời tung hô của chúng ta hướng về Đấng đã trải qua thử thách đến nỗi hiến thân hoàn toàn và đã chiến thắng.
Sau cùng, nếu khi xưa dân chúng cầm cành lá dừa vừa đi vừa hát, họ còn trải áo lót đường Chúa đi. Thì hôm nay chúng ta sẽ không trải áo hoặc càm cành lá vô tri, những cành cây chỉ làm vui mắt trong chốc lát. Bước vào Tuần Thánh, chúng ta giục lòng tin thật, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng đã chịu đau khổ, chịu chết và đã sống lại để cứu chuộc chúng ta. Amen.
.
Lm. I-nha-xi-ô Trần Ngà
Trong mùa chay và đặc biệt trong tuần thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta thông hiệp sâu xa vào cuộc thương khó của Chúa Giê-su và cùng vác thập giá với Ngài. Việc này có ý nghĩa gì và có mang lại lợi ích gì không? Chúng ta cùng tìm hiểu qua mấy điểm sau đây:
Chúa Giê-su không vác thập giá một mình
Khi vác thập giá lên đồi Can-vê, Chúa Giê-su muốn cho ông Si-mon cùng vác thập giá với Ngài, muốn có Mẹ Ma-ri-a, thánh Gioan cùng đồng hành, cùng thông phần đau khổ với Ngài từ lúc bắt đầu cuộc thương khó cho đến lúc Ngài nhắm mắt tắt hơi.
Chúa Giê-su mời ta vác thập giá với Ngài
Và hôm nay, Ngài kêu gọi mỗi người chúng ta cùng vác thập giá với Ngài. Ngài nói: “Ai muốn theo tôi thì hãy vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34).
Để thực hiện việc này, Ngài lập nên bí tích Thánh tẩy (Rửa tội) để tháp nhập chúng ta vào Thân mình Ngài, trở thành một chi thể trong Thân thể Ngài. Rồi Ngài lại cho trao cho chúng ta chức linh mục (vai trò tư tế) của Ngài để chúng ta cùng hiến tế với Ngài mọi lúc mọi nơi.
Thế là từ đây,
Vì đã trở nên vai của Chúa Giê-su, gánh nặng chúng ta đang mang cũng chính là thập giá mà Chúa Giê-su đang vác;
Vì đã trở nên bàn tay, bàn chân… của Chúa Giê-su, những đau thương ta chịu hôm nay cũng chính là những mũi đinh nhọn đâm thâu tay chân Ngài… và máu của các thánh tử đạo đổ ra hôm nay cũng chính là máu của Chúa đổ ra cho nhiều người được tha tội.
Như thế, Chúa Giê-su cần có chúng ta vác thập giá với Ngài, chịu khổ nạn với Ngài để đền tội cho vô vàn tội nhân đang phạm đủ mọi thứ tội lỗi khắp nơi trên thế giới.
Vác thập giá cách nào?
Vác thập giá theo Chúa Giê-su không phải là vác cây gỗ hình chữ thập đi lui đi tới, nhưng là kết hợp với Chúa Giê-su để làm những việc bổn phận hằng ngày.
Trước hết chúng ta hãy nhớ rằng hôm nay, Chúa Giê-su đang sống trong ta như lời thánh Phao-lô dạy: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là chính Chúa Giê-su đang sống trong tôi” (Galat 2, 20).
Vì có Chúa Giê-su đang sống trong ta và ta là chi thể của Ngài, nên những việc ta làm không còn là việc ta làm nữa, mà là “chính Chúa Giê-su đang làm” việc đó trong ta.
Vậy thì khi tôi quét rác, “không còn là tôi, mà là Chúa Giê-su” đang quét trong tôi… Khi tôi vất vả cực nhọc, “không còn là tôi, mà là Chúa Giê-su” đang chịu vất vả cực nhọc trong tôi…
Như thế, nếu chúng ta kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su, thì chính Chúa Giê-su đang tiếp tục cuộc thương khó của Ngài trong thân mình chúng ta, qua mỗi công việc ta làm, và khi ta làm bất cứ việc gì với Chúa, là cùng vác thập giá với Chúa.
Vác thập giá hằng ngày với Chúa
Đề nghị: Mỗi sáng, chúng ta hãy thưa với Chúa một câu: “Lạy Chúa Giê-su, xin cùng làm việc với con suốt ngày hôm nay.”
Và mỗi tối trước khi đi ngủ, cũng nhớ thưa với Chúa một câu: “Con xin dâng mọi việc con làm cho Chúa.”
Thế là có Chúa Giê-su làm việc với ta suốt ngày. Đời ta ý nghĩa biết bao!
Thế là ta đang vác thập giá với Chúa Giê-su suốt ngày. Biết bao nhiêu là công phúc!
Như vậy, những công việc ta làm hằng ngày “sẽ trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa” như lời thánh Công đồng Vatican II dạy:
“Người giáo dân, vì đã được hiến dâng cho Chúa Kitô và được Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn. Thực vậy, mọi hoạt động, kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần… tất cả những việc đó đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô…”
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con cùng vác thập giá với Chúa mỗi ngày bằng cách kết hợp với Chúa mà làm mọi việc bổn phận của chúng con, qua đó, chúng con thi hành vai trò linh mục (tư tế) của mình, đồng thời tham gia vào công trình cứu độ của Chúa.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Con đường thánh giá Chúa đi,
Trải bao gian khó, ngại chi khổ sầu.
Vào thành muôn thuở khởi đầu,
Lưng lừa Chúa ngự, dân chầu đôi bên.
Tung hô vạn tuế xưng tên,
Tay cầm cành lá, rước lên đền thờ.
Mặt đường trái áo ai ngờ,
Toàn dân chúc tụng, tôn thờ Chúa ta.
Lòng người thay đổi phôi pha,
Trắng đen đen trắng, hét la chối Người.
Vinh quang trần thế cõi đời,
Phù hoa tiếp nối, một thời đã qua.
Đám người nông nổi ba hoa,
Ùa theo dư luận, mù lòa dõi theo.
Đánh đòn gai nhọn thân neo,
Tử hình thập giá, chết treo giữa trời.
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần Thánh. Gọi là Tuần Thánh, vì Giáo Hội tưởng niệm công cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại của Chúa Kitô là Đấng Thánh.
Khởi đầu Tuần Thánh là nghi thức làm phép lá và rước lá. Nhớ lại năm xưa khi Chúa vào thành Giêrusalem, dân chúng đã hân hoan đón chào Chúa. Họ tung hô vạn tuế Đấng Nhân Danh Chúa mà đến. Dân chúng đã lấy cành lá vẫy chào và có người đã cởi áo trải đường cho Chúa đi. Họ vui mừng hoan hỉ đón Chúa vào thành thánh Giêrusalem.
Cũng nhóm người này, sau ít ngày, họ lại giơ tay đả đảo chối từ và kết án Chúa. Họ muốn tha cho tên trộm cướp là Baraba và đòi giết Chúa Giêsu. Họ khạc nhổ khinh dể và tẩy trừ Chúa. Tại sao có những thái độ trái ngược và thay đổi nhanh chóng như thế? Chỉ vì nhẹ dạ, tiểu tâm, nhẫn tâm và ác tâm. Chẳng riêng gì các nhà chức trách trong đạo đời, quân lính và dân chúng a dua nịnh bợ, ngay cả các tông đồ yêu qúi của Chúa cũng thế, người thì phản bội bán Chúa, kẻ thì bỏ áo chạy thoát thân, kẻ thì nhút nhát bỏ trốn và người tông đồ cả thì chối Chúa. Ông Phêrô chối rằng ông không biết Chúa là ai ba lần.
Chúa đã bị bắt và chịu tra tấn cực hình trước mặt quan quyền. Một Thiên Chúa quyền năng khôn lường, nhưng thinh lặng trước sự nhục mạ khiêu khích của con người. Trước quan tòa, Chúa lặng thinh không biện hộ. Chúa tự nguyện chấp nhận mọi khổ đau để đền tội cho tất cả mọi người. Chúa lặng lẽ cam chịu khổ đau trong cô đơn và cảm thấy bị ruồng bỏ bởi chính Cha của Ngài. Ngài đã thốt lên rằng: “Lạy Cha, lạy Cha, Cha bỏ Con sao đành Cha”. Nhưng Chúa đã chấp nhận chén đắng này và uống cạn. Chúa đã chết tất tưởi trên Thánh Giá.
Chúng ta nhận biết lòng dạ con người thật hiểm độc và lật lừa thay trắng đổi đen. Tâm tình của chúng ta ngày nay cũng không khác gì tâm tư của những người Do Thái thuở xưa. Chúng ta đã sai lạc trong phán đoán, yếu đuối trong sự phấn đấu và sa ngã trong các cơn cám dỗ. Chúng ta không chịu nổi sự nghi oan giáng họa hay nhục mạ phỉ báng. Chúng ta dễ bị lôi kéo vào những phản ứng tiêu cực và thiếu suy nghĩ. Nói rằng: Người ta làm sao, tôi làm vậy. Chúng ta không muốn lập dị, cho dù biết điều đó là sai và vô lý. Chúng ta im lặng đồng lõa chấp nhận. Ngày đó, có nhiều người lên án Chúa vì họ hùa theo dư luận, chứ không hẳn là thù ghét Chúa. Thật đáng tiếc!
Treo thân trên thánh giá, Chúa nghe biết tất cả những khiêu khích và nhục mạ của quân lính. Chúa cũng hiểu thấu trái tim của từng con người. Chúa không chấp tội họ. Chúa còn xin Chúa Cha tha tội cho họ, vì họ lầm chẳng biết. Lòng nhân hậu của Chúa vô bờ bến. Chúa yêu thương và tha thứ tất cả. Chúa hy sinh đến giọt máu cuối cùng cũng chỉ vì yêu.
.
Lm.Giuse Đỗ Dức Trí
Thưa quý OBACE, Lễ Lá hôm nay được diễn ra với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, lúc tưng bừng phấn khởi, lúc trầm buồn sâu lắng đến tang thương. Lắng nghe và suy gẫm các bài đọc Lời Chúa hôm nay, nhất là bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta thấy: Chúa Giêsu mặc dù thấy trước đau khổ thập giá, nhưng Ngài vẫn bình thản đón nhận một kế hoạch đã định sẵn. Còn các thượng tế, luật sĩ và người Do Thái đã thể hiện lòng gian ác, tráo trở của họ qua việc dẫn dắt và sắp xếp, để đưa Chúa Giêsu vào cái chết thập giá. Bài thương khó cũng phác họa lên cho chúng ta nhiều gương mặt khác nhau với lòng dạ và sự toan tính khác nhau, có người chân thành, có người gian dối, dễ dàng thay trắng đổi đen.
Bài Tin Mừng trước cuộc kiệu lá cho thấy, Chúa Giêsu lên Giêrusalem lần này để thực hiện chương trình Thiên Chúa Cha đã muốn, đó là cứu độ nhân loại bằng thập giá. Các việc làm của Chúa Giêsu lúc này có tính biểu tượng và mang ý nghĩa đặc biệt. Biến cố Chúa Giêsu long trọng vào Giêrusalem trong tiếng reo mừng, gợi lại hình ảnh ngày xưa, Vua Đavít rước hòm bia Thiên Chúa lên Giêrusalem trong tiếng ca hát hoan hô và nhảy múa của toàn dân. Cũng vậy, vua Salomon vị vua của thời hòa bình cũng đã cưỡi con lừa, con vật hiền lành của thời bình, tiến vào Giêrusalem để được tôn vương trong tiếng tung hô của các thanh thiếu niên Do Thái. Hôm nay, Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, thuộc dòng dõi vua Đavít cũng ngồi trên lưng lừa để tiến vào thành Giêrusalem trong tiếng hò reo: “Hoan hô con vua Đavít”. Ngài sẽ là một vị tân vương đem đến một thời đại hòa bình thịnh vượng mới cho cả dân tộc. Tuy nhiên, thời đại hòa bình thịnh vượng mà vua Giêsu đem đến không như dân Do Thái hình dung và mong đợi. Chúa Giêsu không thiết lập vương quốc theo kiểu trần gian, nhưng sẽ thiết lập vương quốc của Ngài trong tâm hồn mỗi con người. Những ai tin nhận Chúa, sẽ có Chúa là vua bình an cư ngụ trong tâm hồn, giúp cho tâm hồn được mở ra với mọi người. Những ai từ chối hoặc không tin Ngài, thì sẽ rơi vào sự điều khiển của ma quỷ và sự dữ.
Khởi đầu bài thương khó theo thánh Marcô cho thấy hai gương mặt khác biệt, thuộc về hai vương quốc khác nhau: Người phụ nữ tội lỗi thuộc về vương quốc của Thiên Chúa, còn Giuđa một trong các môn đệ thuộc về vương quốc của Satan. Với một tấm lòng sám hối chân thành, người phụ nữ tội lỗi đã bước đến bên chân Chúa Giêsu. Cô biết rất rõ về tình trạng và đời sống của bản thân, cô không dám hiên ngang hoặc khoe khoang, nhưng âm thầm đến phủ phục dưới chân Chúa Giêsu. Cô đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm quý giá. Trước đây vật này là đồ đắt tiền, gắn liền với cuộc đời cô, giờ đây khi nhận biết Chúa Giêsu, nó không còn cần thiết và không có ý nghĩa gì nữa. Theo thánh Gioan, cô đã đập vỡ bình dầu quý giá ấy, chỉ để xức lên chân Chúa Giêsu. Một việc làm bề ngoài tưởng chừng vô lý, nhưng nó thể hiện tấm lòng của cô đối với Chúa, vừa là lòng sám hối chân thành, vừa là lòng biết ơn kính trọng cô dành cho Chúa, vừa là quyết tâm đập bỏ quá khứ buôn hương bán phấn của mình. Còn Giuđa, mặc dù là môn đệ của Chúa, ở bên Chúa, nhưng lòng anh không thuộc về Chúa. Anh để lòng mình và cả con người của anh thuộc về ma quỷ và thế gian. Vì thế, khi thấy hành động đập bể bình bạch ngọc đựng dầu thơm của người phụ nữ, anh tiếc nuối và coi đó là phi lý. Giuđa cũng có lòng không ngay thẳng khi anh mượn danh người nghèo để trách lòng quảng đại của cô gái: “Phí phạm dầu để làm gì? Sao không bán để giúp cho người nghèo?”. Tác giả Gioan còn nhận định: “Hắn nói thế không phải vì thương người nghèo đâu, nhưng vì hắn giữ tiền chung, hay bớt xén tiền của anh em”. Khi lòng người đã không ngay thẳng, không thật, thì những hành động hoặc lời nói bên ngoài cũng sẽ không thật. Gioan chắc chắn rất đau lòng khi phải nhận định về người anh em mình như vậy.
Sau đó khi vào bàn tiệc cùng với Chúa Giêsu, Giuđa vẫn mang trong mình lòng gian dối tham lam, mặc dù Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở anh. Khi Chúa nhắc cho mọi người trong bữa tiệc: “Có một người trong anh em sẽ phản bội thầy”. Câu nhắc nhở của Chúa khiến cho những người có lòng ngay, tự rà soát lại hành vi của mình. Giuđa cũng biết rõ về việc anh làm, song anh vẫn giả dối quay sang hỏi Chúa: “Thưa Thầy, có phải con chăng?” Chúa đáp: “Đúng như con nói”. Anh không một chút giật mình, sau đó anh đứng dậy ra ngoài để thực hiện mưu đồ phản bội của mình.
Chúng ta cũng thấy được sự tráo trở, hai mặt, hai lòng của người Do Thái. Họ là đám đông theo Chúa Giêsu, chứng kiến phép lạ Chúa làm, được Chúa cho ăn no, được chữa lành bệnh. Những đám dân chúng này, họ chính là những người mới đây đã theo Chúa vào đền thờ Giêrusalem, reo hò mừng hát: “Hoan hô con vua Đavít”. Vậy mà, khi các thượng tế và luật sĩ tìm cách bắt Chúa Giêsu và điệu đến dinh Philatô, thì không một người nào trong họ lên tiếng bênh vực Chúa Giêsu. Trái lại, họ để lòng mình chiều theo thói đời, nghiêng theo sự dữ, vào hùa với gian ác để kết án Chúa Giêsu. Các thượng tế và luật sĩ thể hiện sự lưu manh tráo trở của họ trong việc tìm cách mượn tay Philatô để loại trừ Chúa Giêsu. Còn người Do Thái thể hiện sự thay trắng đổi đen trong tâm hồn của họ. Mới cách đây không lâu, họ lớn tiếng tung hô Chúa Giêsu là con vua Đavít, có nghĩa là tung hô Ngài là Đấng các tiên tri loan báo. Liền sau đó, trước mặt quyền lực thế gian, họ đã dễ dàng thay đổi, họ chọn tha Baraba là một tên trộm cướp và đòi giết Giêsu. Cũng trước mặt Philatô, họ không nhận Chúa Giêsu là Con vua Đavít, họ đòi đóng đinh Người và công khai tuyên bố: “Chúng tôi chỉ có một vua là hoàng đế Cesare”. Họ đánh đổi Vua Hòa Bình bằng vua trần gian, họ từ chối tuân phục Vua Công Chính để cúi đầu trước quyền lực của hoàng đế dân ngoại.
Trước sự thay trắng đổi đen của con người, Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng phục thành ý Chúa Cha và một lòng trung thành với sứ mạng yêu thương cứu chuộc nhân loại. Ngài không một lời oán trách những kẻ đã gây ra đau khổ cho Ngài, cũng như những kẻ muốn Ngài phải chết, nhưng luôn muốn cho chúng có cơ hội để thay đổi và làm lại cuộc đời. Trước sự phản bội của Giuđa, Chúa Giêsu vẫn dành cho các môn đệ, kể cả Giuđa những giờ phút thân thương ấm tình nhất. Ngài hướng dẫn họ từng chi tiết, từ việc sai họ đi mượn con lừa để tiến vào thành, dạy họ cách trả lời khi có người hỏi. Chúa cũng hướng dẫn các môn đệ chuẩn bị bữa tiệc Vượt qua, để bữa tiệc này không chỉ là bữa tiệc truyền thống, mà còn là bữa tiệc đậm tình thầy trò. Cũng trong bữa tiệc, dù bị học trò phản bội, Chúa không hồ nghi các người còn lại, nhưng vẫn tín nhiệm trao cả con người mình cho các tông đồ và còn cho họ quyền: “Hãy làm việc nay mà tưởng nhớ đến thầy”.
Trước sự bạc bẽo của dân chúng, Chúa Giêsu không hề oán trách, Ngài chỉ nhìn họ với cái nhìn xót thương và cảm thông. Khi bị những người Do Thái từ chối và tìm cách loại trừ, Chúa không từ chối họ. Khi đứng trên cây thập giá, kẻ qua người lại xỉ vả nhạo cười, Chúa Giêsu đón nhận tất cả với tình thương tha thứ. Trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã trao phó tất cả nhân loại cho Thiên Chúa Cha, đón nhận mọi đau đớn cực hình, nhục nhã, để làm nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân loại và xin ơn tha thứ tất cả cho nhân loại.
Cho dù lòng con người có thay đổi, thì Thiên Chúa vẫn trung thành mãi, vẫn tha thứ và yêu thương. Đó là sứ điệp Lời Chúa hôm nay gửi đến cho mỗi người. Suy gẫm Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy gương mặt của mình thấp thoáng qua những con người tham gia vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Có những lúc ta như người phụ nữ, dám đập bể bình dầu để xức lên chân Chúa, nhưng không thiếu những lúc ta để mình bị điều khiển bởi Satan hoặc tiền bạc như Giuđa. Cũng có nhiều lần, chúng ta tráo trở như các thượng tế và luật sĩ, tìm kiếm thỏa mãn sự cao ngạo của mình. Và, nhất là nhiều khi chúng ta cũng vô ơn với Chúa như những người Do Thái, thay trắng đổi đen, hai dạ hai lòng với Chúa. Xin Chúa giúp mỗi người trong Tuần Thánh này, dành những giờ phút thinh lặng để sống với Chúa, bước theo Chúa trên hành trình thập giá và để cảm nhận được tình yêu thương của Chúa dành cho cuộc đời mỗi chúng ta. Amen.
.
VÀI NGHỊCH LÝ TRONG CUỘC ĐỜI ĐỨC GIÊSU
THEO THÁNH MARCÔ
Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
Đọc và suy niệm Tin Mừng thánh Marcô, đặc biệt là bài Thương Khó, ta thấy cuộc đời Đức Giêsu có vài nghịch lý sau:
- Có ngày có lúc, có thời có buổi người ta tôn vinh Đức Giêsu là vua, là Đấng Mêsia…, nhưng cũng có ngày có lúc, có thời có buổi người ta đả đảo, kết án, đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Đó là đám đông dân chúng.
- Có người suốt đời được Đức Giêsu tín nhiệm yêu thương, thế mà có ngày phản bội, cả gan bán nộp Thày mình lấy 30 đồng bạc. Đó là Giuđa Iscariô.
- Có người khi ở miền Césaré Philiphê thì tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa…, nhưng khi Đức Giêsu bị bắt thì ông lại chối bỏ không biết Ngài là ai trước mặt người đầy tớ gái. Đó là tông đồ Simon- Phêrô.
- Có những người được Đức Giêsu tuyển chọn, để cùng ăn cùng ở và cùng chia vui sẻ buồn với Ngài trong sứ vụ rao giảng Tin mừng, nhưng khi Đức Giêsu bị bắt, bị đánh đòn và phải vác thánh giá đến nơi hành hình, thì họ bỏ trốn chẳng còn một ai, chỉ có một người ngoại giáo, không quen biết, tên là Simêôn sẵn sàng ghé vai vác thâp giá đỡ Đức Giêsu và một vài người phụ nữ đạo đức theo Ngài lên đồi Sọ mà thôi. Đó là các Tông đồ và môn đệ.
- Lúc còn rao giảng Tin Mừng, thì Đức Giêsu ngăn cấm, không muốn cho một người nào tiết lộ Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng khi ra trước toà án Philatô, Đức Giêsu lại xác nhận mình là Con Thiên Chúa.
- Đức Giêsu, Đấng vô tội, cả đời làm việc lành cứu người, thế mà lại bị người đồng hương của mình coi không bằng đứa trộm cướp giết người tên là Baraba.
- Người Dothái vốn ghét cay ghét đắng đế quốc Rôma ngoại giáo, thế mà chỉ vì không đồng quan điểm về giáo lý, về Lề Luật, về Đền Thờ, về Thiên Chúa, mà người Dothái lại xuất hiện như những kẻ đứng lên bảo vệ đế quốc Rôma, sẵn sàng trao nộp Đức Giêsu cho quan tổng trấn Philatô.
- Tổng trấn Philatô người đại diện cho công lý, trả lại công bằng cho người vô tội, mặc dù biết Đức Giêsu vô tội, nhưng vì sợ những kẻ gian tham độc ác và sợ mất chức quyền, nên đã cho đánh đòn và đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá như những tên tử tội.
- Lúc còn tại thế, không một phàm nhân nào nhận biết và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, ngoại trừ Phêrô, thế mà khi Ngài tắt thở trên thập giá, có người ngoại giáo lại nhìn nhận và tuyên xưng Đức Giêsu quả thật là Con Thiên Chúa. Đó là viên sĩ quan quân đội Rô-ma.
Những nghịch lý xưa kia trong cuộc đời Đức Giêsu, ngày nay vẫn còn tái diễn trong đời sống cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội. Chỉ xin gợi lên vài điều minh họa:
Nhiều cha mẹ ngày hôm nay khó nhọc cả đời nuôi con…, nhưng khi con cái lớn khôn thì lại đánh đập chửi bới cha mẹ.
Nhiều người ngày hôm nay không muốn ai chất thánh giá trên vai mình, nhưng lại thích chất thánh giá trên vai người khác là những yếu đuối bất toàn và tội lỗi của mình.
Nhiều người ngày hôm nay “khi vui thì vỗ tay vào, khi gặp hoạn nạn thì nào thấy ai,” lúc dễ dàng thuận lợi thì đi Đạo, có thời gian rảnh rỗi thì đi lễ, đọc kinh cầu nguyện, nhưng khi gặp khó khăn, bận bịu thì bỏ Đạo, chẳng lễ lạy kinh hạt gì hết.
Nhiều người trong gia đình và xã hội ngay nay, vì tiền bạc, đất cát, chức quyền, danh vọng mà kiện cáo, bỏ tù và giết hại lẫn nhau.
Nhiều người ngày hôm nay, vì những bất đồng chính kiến, bất đồng tư tưởng mà sẵn sàng khạc nhổ vào mặt, đóng đinh vào thân thể anh chị em mình bằng lời nói và việc làm.
Nhiều người ngày hôm nay, vì ghen tương, đố kỵ trong cuộc sống mà ném đá giấu tay, mượn tay người ngoài để giết anh em đồng loại, mượn tay kẻ ngoại đạo để làm hại người đồng đạo.
Nhiều người ngày hôm nay không muốn ai phản bội mình, nhưng vì những quyền lợi vật chất và lý tưởng trần thế lại bán rẻ lương tâm, chối Chúa, bỏ Đạo, sẵn sàng đứng ra làm chứng gian, vu khống người khác.
Nhiều người ngày hôm nay là những người công chính lương thiện, nhưng phải tan cửa nát nhà, chết oan uổng, vì gặp phải những Philatô mới của thời đại, không bảo vệ người dân vô tội mà lại tiếp tay cho những kẻ gian ác.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã vui lòng chấp nhận những nghịch lý trong cuộc đời cho đến chết trên cậy thập giá, để trở nên bài học và gương mẫu cho nhân loại. Xin cho mỗi người chúng con biết hạn chế tạo nên những nghịch cảnh trong đời và nếu có gặp phải những nghịch cảnh, thì xin cho chúng con biết vui lòng chấp nhận. Amen.
.
Lm. Nguyễn Thái
Năm 1959 quân đội Cộng Sản Trung Quốc chiếm đóng Tibet, Tây Tạng và hành hạ những tu sĩ Phật Giáo bằng những cách tàn nhẫn, dã man. Người Cộng Sản Trung Hoa muốn hủy diệt đời sống tâm linh đã từng ăn rễ sâu trong lòng người dân Tây Tạng. Câu chuyện xảy ra là khi những người lính Trung Hoa xâm lược vào một ngôi chùa của người Tây Tạng, tất cả các tu sĩ đã chạy trốn hết, chỉ trừ ra có một vị ở lại trông coi tu viện và chùa chiền. Thấy chỉ còn mỗi một vị sư trong chùa, trong cơn giận dữ viên sĩ quan chỉ huy quân đội đưa chân đá cổng chùa bước vào. Đứng giữa sân chùa viên sĩ quan nạt nộ vị đại đức: “Ông không biết tôi là ai hả? Tôi là người có thể giết ông bằng một thanh gươm trong nháy mắt.” Vị đại đức bình tĩnh trả lời lại: “Và ông, ông cũng không biết tôi là ai hả? Tôi là người cho phép ông giết tôi bằng một thanh gươm trong nháy mắt đó.”
Vị đại đức đã đặt trọng tâm nơi Thượng Đế, Đấng đã giúp cho ông tách biệt ra khỏi mọi sự đe dọa hầu phá hủy sự bình an và niềm hy vọng mà ông chắc chắn chỉ tìm thấy nơi Ngài (Pl 1:21). Đây chính là hành động khải hoàn của Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để chịu cuộc thương khó mà chúng ta mừng kính trọng thể hôm nay. Giống như chúng ta, là con người, Ngài cũng đã tiến đến cái chết với nỗi sợ hãi. Tuy nhiên Ngài có sự bình an và yên tĩnh của một người đang làm theo thánh ý Thiên Chúa. Vì thế Ngài tiến vào thành Giêrusalem trong khí phách hiên ngang và hùng dũng (Gl 6:14) để chu toàn sứ mạng phục hồi sự sống đời đời cho tất cả mọi người.
Trong Tuần Thánh này chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó, đổ máu chịu chết trên cây Thánh Giá của Chúa Giêsu. Ngài mang hình ảnh của Con Chiên Chuộc tội trần gian: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian!” (Ga 1: 29)
Ngày xưa, trong Cựu Ước, máu của con chiên bôi trên các cửa nhà của những người Do Thái, đã cứu những người con trai đầu lòng của họ khỏi tử thần, và sau cùng dẫn họ đến sự tự do khỏi tình trạng nô lệ ở Ai Cập (Xh 12:23; Dt 11: 28). Và 40 năm sau, Thiên Chúa đã dẫn họ vào miền Đất Hứa.
Để biết lễ Vượt Qua quan trọng như thế nào đối với người Do Thái, William Barclay đã dùng sử liệu của Josephus cho chúng ta biết như sau. Theo sử gia Josephus, vào năm 65 A.D, Cestius, thủ lãnh của xứ Palestine đã gặp phải khó khăn trong việc thuyết phục Hoàng Đế Nêro ý thức về biến cố tôn giáo tối quan trọng của người Do Thái. Để gây ấn tượng mạnh cho Hoàng Đế, Cestius đã yêu cầu thầy cả Thượng Phẩm làm một bảng kiểm tra về số lượng những con chiên bị giết vào ngày lễ Vượt Qua trong một năm. Theo Josephus, con số là 256,500 con chiên. Căn cứ theo luật đòi buộc, mỗi nhóm ít nhất 10 người ăn một con chiên, do đó con số người hành hương lên Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua phải là 3,000,000 người.
Thật là ý nghĩa, khi người Do Thái từ khắp mọi nơi chen chúc nhau về Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua, biến cố được giải thoát khỏi sự nô lệ ở Ai Cập khi xưa, thì cũng là ngày chính Đức Giêsu Kitô đã trở nên Con Chiên Thiên Chúa, đổ máu ra để giải thoát nhân loại khỏi sự nô lệ của tội lỗi, và mở cánh cửa vào miền đất hứa mới – nước Thiên Đàng – cho chúng ta.
Jeff Smith, một người nổi tiếng ở Chicago với những show nấu ăn trên tivi có tên là Frugal Gourmet, Người sành ăn, đã viết một cuốn sách có tựa đề là “The Frugal Gourmet Keeps The Feast”. Trong cuốn sách này, qua việc nghiên cứu tra hỏi với những người chăn chiên, ông đã giải thích làm thế nào máu của Chúa Giêsu Kitô đã đổ ra lại hòa giải chúng ta với Thiên Chúa.
“Qua kinh nghiệm của những người chăn chiên cho biết, vào lúc tinh sương, khi người chăn chiên vừa thức dậy, ông thấy một con chiên mẹ đã sinh con, nhưng chẳng may chiên con bị chết. Trong một bầy chiên khác, ông lại khám phá ra một con chiên khác cũng vừa đẻ con, nhưng chiên mẹ bị chết đang lúc sinh vào ban đêm! Do đó, người chăn chiên có một con chiên mẹ đau lòng vì không có con, và một con chiên con mồ côi không có mẹ. Để cho hợp lý thì ghép chung lại với nhau. Nhưng không được, vì chiên mẹ biết rằng đó không phải là con của nó, và chiên con tự nó cũng rất lúng túng, nên nó cũng sẽ bị chết đói.”
Ông Smith nói, “những vị tiên tri và những chủ chiên ngày xưa đã nhìn thấy sự kiện này thường xuyên xảy ra trong bầy chiên của họ, nên đã dùng hình ảnh tuyệt vời này để diễn tả sự liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta như chiên con bị xa cách với Thiên Chúa nên cũng sẽ chết vì đói. Còn Thiên Chúa giống như chiên mẹ chết con, luôn đau lòng khốn khổ. Chỉ có một điều duy nhất có thể làm được, nếu người chăn chiên lấy máu của con chiên con đã chết, bôi vào con chiên con mất mẹ. Khi chiên mẹ ngửi thấy máu của con mình, thì lập tức xúc động mà để cho con chiên mồ côi được tự do bú. Hay nói một cách khác, qua máu chiên con mà con chiên mồ côi được chấp thuận làm con nuôi, “the blood of adoption”. Trong Cựu ước Thánh Kinh đã hứa rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến và là con chiên chuộc tội trần gian, mang chúng ta về với sự liên hệ thân mật với Thiên Chúa.”
Bắt đầu cuộc hành trình thiêng liêng trong Tuần Thánh này, điều trước tiên chúng ta phải nghĩ đến là tình yêu vô bờ bến của Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta khi Ngài chấp nhận đóng vai trò là Con Chiên Thiên Chúa.
Để diễn tả tình yêu hy sinh của Chúa Giêsu, Shel Silverstein đã dùng một dụ ngôn, gọi là “The Giving Tree” – “Cây Hy Sinh.” Dụ ngôn nói về sự yêu thương một chiều giữa một cây và chú bé. Giống như một người mẹ thương mến đứa con yêu dấu, cây sẵn lòng cống hiến cho chú bé mọi sự trong suốt cuộc đời, miễn sao chú được vui tươi hạnh phúc.
Khi chú còn nhỏ bé, cây cống hiến cho chú cành lá để chú leo trèo thích thú. Chim chóc rủ nhau về làm tổ, ca hát. Chú nương mình dưới bóng cây mát mẻ mỗi buổi trưa hè nóng nực, vui tươi với tiếng chim ca. Mỗi năm chú một lớn, tới tuổi yêu đương thơ mộng, chú thích thẫn thờ lang thang trong những vườn hoa ngoài đồng nội. Cây lại chiều chú nở ra những cành hoa hương phấn ngạt ngào. Ong bướm rủ nhau về lẳng lơ tình tự. Hết mùa sinh hoa thì cây kết trái. Lúc này chú đã lớn hẳn, biết tiêu xài tiền bạc, nguồn vui thiên nhiên không còn là nhu cầu thiết yếu nữa. Cây cho chú những trái ngon ngọt không những dư thừa để thưởng thức mà còn bán ra để chi tiêu. Khi chú lấy vợ, ra riêng, cây lại phải cung cấp vật liệu cho chú xây cất nhà cửa. Những cành to lớn phải chặt xuống cưa ra làm gỗ. Và sau cùng ngay đến thân mình cổ thụ to lớn nhất của cây cũng phải hy sinh để chú xẻ ra lấy ván, đóng thuyền, lênh đênh trên biển cả, đưa chú đi ngao du khắp năm châu bốn bể.
Năm tháng qua đi, sau cùng chú bé ngày xưa nay đã già, trở thành một ông lão lưng còng, tóc bạc, muốn trở về mái nhà xưa. Cây khi xưa chẳng còn gì, ngoài một cái gốc cây đã bị cưa gần sát đất. Nhưng gốc cây lại rất ân tình, sung sướng gặp lại chú bé ngày xưa. Vui buồn mừng tủi. Vui vì gặp lại bên nhau. Buồn vì nay cây chẳng còn gì để dâng hiến cho chú bé như ngày xưa nữa. Bây giờ chỉ còn là một cái gốc cây trơ trụi. Gốc cây muốn cống hiến nốt cho ông lão để ông có một chỗ ngồi nghỉ ngơi đỡ đau lưng. Câu chuyện kết thúc với một bức hình hí họa vẽ một ông lão nằm nghỉ trên gốc cây với một hàng chữ: “Và cây rất vui vẻ.”
Dụ ngôn “Cây Hy Sinh” nói lên sự hy sinh và tình yêu tột đỉnh của Chúa Giêsu chịu chết trên cây thập giá cho chúng ta như những điều Thánh Phaolô đã diễn tả về Ngài trong thư gửi tín hữu Do Thái (Dt 5:7-8) và thư gửi tín hữu Philipphê 2: 6-11: “Ngài hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Ngài đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá.”
Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người quá cao vời. Những cách thức của Thiên Chúa khác với cách thức của con người (Ps 103:11-13). Điều phải suy nghĩ trong cuộc thương khó là Chúa Giêsu đã cứu chữa ngay cả những kẻ chế nhạo mình (Lc 23: 47-48). Ngài làm như vậy qua phương cách của Thiên Chúa: Đó là chết cho họ. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì ta, thì sẽ cứu được mạng sống ấy ” (Lc 9: 24). Chính Philatô và dân chúng đã chẳng ai hiểu lời Ngài (Lc 23:34).
Để cảm nghiệm ý nghĩa của tình yêu Thiên Chúa và sự sống lại của Ngài, chúng ta phải cùng bước đi với Chúa Giêsu qua sự thương khó và tử nạn trong Tuần Thánh này. Không có đêm tối sẽ không có rạng đông (Rm 8:17). Và không có thập giá sẽ không có sự sống lại (Lc 24:26).
.
THAM DỰ VÀO CUỘC VƯỢT QUA CỦA CHÚA CHÚA
Lm. Đinh Lập Liễm
Ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay kỷ niệm việc Chúa vào thành Giêrusalem. Ngài sai môn đệ vào làng kiếm con lừa: “Nếu có ai hỏi chúng con: “Tại sao các ông làm như thế?”, thì các con hãy đáp: “Vì Chúa cần dùng, rồi Người sẽ giao hoàn lại sau” (Mc 11,3).
Marcô sử dụng danh từ “Chúa” (Kyrios) với một ý rất thông dụng và thường để chỉ một nhân vật đáng kính, một vị luật sĩ nổi danh nào đó, như tiếng “ông”, tiếng “Ngài” của chúng ta. Câu 3 đoạn 11 là trường hợp duy nhất trong Phúc Âm Marcô, trong đó từ ngữ “Chúa” được áp dụng cho Ðức Giêsu, mà lại do chính Người nói về mình. Ðó chính là tước hiệu mà Cựu Ước luôn dành cho Thiên Chúa hoặc Ðấng Thiên Sai, đồng thời cũng là danh hiệu mà các tín hữu tiên khởi sau này sẽ dùng để chỉ về Ðức Kitô Phục Sinh: “Chúa Giêsu Kitô” (Jn 21:7).
Ðồng thời tiếng hoan hô chào mừng của dân chúng trong Marcô mang một ý nghĩa rõ rệt: “Hosanna! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11,9). Trong khi Luca lại ghi: “Chúc tụng Ðức Vua…” (Lc 19,38).
Các lời hoan hô trên quả như muốn giới thiệu Ðức Giêsu chính thật là Ðấng Thiên Sai đang đến với Dân Người. Dân chúng chặt lá, cởi áo trải ra đường để Người đi qua, hoan hô Người là Con Vua Ðavít! Dân chúng chờ đợi Người tỏ uy quyền như một Môsê quyền thế, một Ðavít chiến thắng, một Salômon trẻ trung xưa, hoặc như một lãnh tụ kiêu hãnh trong ngày công khai ra mắt.
Tại sao Ngài không đọc một tuyên ngôn vạch rõ chương trình hoạt động? Ðức Giêsu đã vào Giêrusalem khiêm nhu trên lưng lừa qua hình dáng một người nô bộc! Ngoài vẻ mặt quen thuộc của người nô bộc được ghi trong Isaia Ðệ Nhị mà Ðức Giêsu đã sống lại cách trọn vẹn, hai đặc tính khiêm nhu của Ðấng Thiên Sai, Marcô muốn vẽ lại cho chúng ta là: sự cô đơn và thinh lặng của Ðức Giêsu trong suốt thời kỳ Khổ nạn!
Marcô đã cố gắng trình bày một cách linh động sự cô đơn tuyệt đối của Ðức Giêsu sau những tiếng hoan hô tán tụng của dân chúng. Chẳng những Người đã bị dân bỏ rơi, mà ngay cả các môn đệ thâm tín của Người cũng xa lìa, trốn tránh! Tại Ghếtsêmani, đáng lẽ những người này phải tỉnh thức, lắng nghe tâm sự của Người, thế mà họ lại ngủ mê mệt (Mc 14,37-40).
Lúc Người bị bắt, tất cả đều bỏ trốn (Mc 14,50). Và có lẽ để tăng thêm vẻ bi đát cho cảnh cô đơn này, Marcô đã không ngần ngại ghi lại cách châm biếm cảnh một môn đệ trẻ vứt bỏ áo quần mình để thoát thân (Mc 14,51-52). Phêrô cũng mạnh dạn chối từ (Mc 14,66-72). Có chăng là sự hiện diện của một con gà vô tội, cố gáy lên hai lần (Mc 14,72) như thức tỉnh những người thân! Người bị ngay cả Cha của mình bỏ rơi (Mc 15,34-35). Thật là một cảnh cô đơn tuyệt đối.
Ngoài ra, đóng vai thân phận người Tôi Tớ Chúa “bị hành hạ, nhưng Người vẫn khiêm nhu, và không mở miệng thốt lên lời nào. Như một con cừu bị điệu đi giết, như một con chiên câm miệng trước người thợ xén lông, Người đã không mở miệng” (Is 53,7).
Trước cảnh tượng ấy, có lẽ chỉ có “những tâm hồn nghèo khao khát Tin Mừng, những kẻ thiếu tự do, những kẻ đui mù, những người bị áp bức, những tâm hồn tan vỡ, những kẻ bị lưu đày, những con người không tiếng nói” (Lc 4,18; Cf Is 61,1; 58,6) mới nhận ra khuôn mặt thật của Người và bắt gặp Người trong địa vị đích thực của Ðấng Thiên Sai Thiên Chúa.
Ðức Giêsu đến, và đến với con người chúng ta qua hình ảnh một người tôi tớ. Chân lý đó quả đã khiến bao người vấp ngã như đám dân Giêrusalem xưa, bởi họ không nhận ra ý nghĩa cuộc hành trình gian khổ về Ðất Hứa xưa của dân Do Thái cũng chính là cuộc hành trình khiêm nhu và thinh lặng của Ðấng Thiên Sai trong giờ Khổ nạn. Ðó cũng chính là cuộc hành trình cứu độ của dân Chúa qua cuộc sống nhân loại ngày hôm nay.
Đức Giêsu không đến để đáp lại những chờ đợi trần gian. Người sẽ không cỡi một con ngựa trận to lớn, nhưng lại ngồi trên một con lừa nhu mì và tầm thường. Khuôn mặt Người chỉ giãi ra một vẻ hiền dịu trong trắng chứ không có vẻ quắc thước và đắc thắng. Ðám rước lúc đầu có vẻ muốn đưa đến một cuộc suy tôn lãnh tụ, nhưng thực ra đã đi vào chốn lặng lẽ của Vườn Giệtsimani. Ðức Kitô vào thành không phải để làm Vua theo ước muốn của quần chúng nhưng để thi hành một sứ mệnh siêu nhiên, đòi phải từ bỏ hết mọi vinh hoa quyền thế, cho đến cả sự sống của mình. Bài Thương Khó tường thuật cuộc thụ khổ như chúng ta vừa nghe cho thấy rõ: Ðức Kitô đã vào thành để chịu chết, và chết ô nhục trên thập giá.
Ðức Kitô biết “GIỜ” của đời Ngài đã gần đến (Jn 13:1), hay đúng hơn, thời điểm thực hiện cuộc Vượt Qua mới mà Thiên Chúa đã chờ đợi từ lâu, hôm nay đã gần đến rồi, và Ngài là Con Đức Chúa Cha sẽ là Đấng thực hiện cuộc Vượt Qua này. Qua việc thực hiện cuộc Vượt Qua mới, Thiên Chúa Cha sẽ chứng tỏ cho nhân loại thấy Người là Đấng chân thật, đã hứa điều gì là thực hiện điều đó, Thiên Chúa không phải là Đấng nói suông, không phải là Đấng lừa dối (Hr 6:17-18). Và cuộc Vượt Qua mới mang lại cho nhân loại một thứ hạnh phúc, một hồng ân quí giá, vượt xa ngàn trùng mọi thứ hạnh phúc khác, vượt xa mọi tưởng tượng, chờ mong và ước mơ của con người.
Chúng ta cũng hãy đi theo Ngài, mật thiết kết hợp với Ngài, để được hưởng hiệu quả của cuộc Vượt Qua mới mà Ngài thực hiện. Phụng vụ Tuần Thánh muốn đưa chúng ta đi theo Người cho đến khi chết trong mồ, để có như vậy, chúng ta mới hy vọng được cùng Người chỗi dậy trong đời sống vĩnh cửu. Chân lý này, Giáo Hội muốn chúng ta đào sâu, để thâm tín, để thi hành. Bất cứ ai muốn theo Chúa, phải theo Ngài cho đến chết. Phải cùng chết với Người, mới được phục sinh (II Tm 2:11-13). Thế mà có nhiều người không theo Chúa cho đến chỗ chết. Họ giống như hầu hết quần chúng Do Thái ngày trước: theo Chúa, rước Chúa, tháp tùng Chúa, phấn khởi, hân hoan trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá, nhưng như trong bài Thương Khó chúng ta vừa nghe, họ đã từ bỏ, phủ nhận, lên án, đóng đinh Chúa. Họ chỉ là những con người ham sống, muốn thứ hạnh phúc trước mắt rẻ tiền. Họ đang sống trong lầm than, hay ít ra, vất vả của cuộc đời. Nghe nói ông Giêsu là nhà tiên tri, có những quyền phép phi thường, làm cho ngay cả Lazarô chết rữa ra rồi mà còn sống lại. Họ liền nô nức chạy đến với nhà tiên tri đó, muốn công kênh Người lên làm vua, để mưa móc ân huệ trần gian cho họ. Ðến khi thấy Người bất lực trước đối thủ, không cứu được mình huống nữa còn đỡ được ai, họ chỉ còn một thái độ: xô luôn con người đó nhào xuống chết đi, để khỏi thấy mặt, để khỏi bực bội vì đã hy vọng hão huyền. Họ không xứng đáng với con người của Ðức Kitô, với sứ mạng cao cả của Người.
Dĩ nhiên chúng ta không ai muốn đồng hóa mình với đám người Do Thái trên. Nhưng có thật chúng ta đã theo Chúa một cách xứng đáng không? Chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp theo đạo vì gạo, vì vợ, vì quyền. Mùa Chay khuyến khích, đòi hỏi mỗi người phải kiểm thảo chính mình, chứ không phải là cứ nhìn vào người khác để phê phán anh em. Ước gì chúng ta có can đảm, sáng suốt, biết phê bình chính cuộc sống đạo đức của mình, để thấy rõ chúng ta có còn đi theo Chúa không, và có dám đi với Người cho đến khi xuống mồ, để cùng chết với Người và sống lại với Người không? Hay là chúng ta đang có khuynh hướng muốn rẽ ngang, không theo đường lối Chúa nữa, nay giấu giếm che đậy chân lý Phúc Âm này, mai có thể bớt dần các thái độ tỏ ra mình là người tín hữu? Ấy là chưa kể, việc đi theo Chúa cho đến chết và chết trên thập giá, đòi chúng ta phải chết đi cho tội lỗi, tiêu diệt các nết xấu, và sống theo giáo lý Phúc Âm. Chúng ta hằng ngày có thực thi những điều ấy không? Ngày xưa, đi theo Chúa cho đến Núi Sọ, không có mấy người. Mười hai tông đồ, bảy mươi hai môn đệ cũng không; chỉ có Ðức Maria và một số người rất ít. Như vậy, chúng ta đừng mặc cảm nhận ra cuộc đời đạo đức hời hợt hiện nay của mình. Ðiều cốt yếu trong Mùa Chay Thánh và đặc biệt trong Tuần Thánh này, là nhận ra tình trạng còn khuyết điểm của ta để cầu xin ơn tha thứ, để hưởng ơn tha tội của Thập giá Ðức Kitô, mà được sống lại đi vào cuộc đời mới.
Cuộc sống mai ngày vẫn là cuộc đời đi theo Ðức Kitô cho đến chết để được sống lại với Ngài. Thế nên tham dự tinh thần của Tuần Thánh này là hun đúc lại niềm tin, sưởi nóng lại lòng mến, để thề hứa lại trong đêm Vọng Phục Sinh: chúng ta nhất định chọn Chúa, đời đời chọn Chúa, mãi mãi trung thành với đức tin, với Giáo Hội; vì dù được lợi tất cả thế gian, mà mất hạnh phúc muôn thuở, cũng là trơ trơ hai bàn tay trắng cộng thêm ân hận vì đã hỏng cả cuộc đời. Nói đơn sơ hơn, trong Tuần Thánh cử hành mầu nhiệm cái chết và cuộc Phục sinh của Chúa chúng ta, không chân lý nào cần được suy nghĩ và thâm tín bằng lời Phúc Âm sau đây: ai ham sống thì chết; còn ai coi nhẹ sự sống sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm và ao ước hạnh phúc trường cửu của mình. Người biết khinh chê những mối lợi nhỏ trước mắt như thế, mới dễ có lòng nhân, hy sinh tư kỷ cho hạnh phúc tha nhân. “Con Người phải đi qua gian khổ để đạt tới vinh quang” (Lc 24:26). Chúng ta có chấp nhận vác Thánh giá hằng ngày để cùng chết với Chúa, thì mới hy vọng được cùng Người phục sinh trong hạnh phúc trường sinh.
Hôm nay chúng ta đã vào thành với Chúa, và rồi đây sẽ rước Chúa vào lòng; chúng ta xin Ngài cho chúng ta được kết hợp với Người hằng ngày và mãi mãi, vì chỉ có như vậy chúng ta mới được ơn cứu độ và được tham dự vào công cuộc cứu thế của Người.
(Trích từ tập Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
.
Lm. Jos. DĐH.
Con đường trải thảm, con đường gai góc, lầy lội, con đường rộng rãi thênh thang, con đường chật hẹp, khó đi, đều có chung nhiệm vụ đưa dẫn người tiến bước về điểm đích. Kinh nghiệm của người xưa: buôn có bạn, bán có phường ; non cao cũng có đường trèo, đường dẫu hiểm nghèo cũng có lối đi. Hành trình đời người đài ngắn, bần cùng hay đại gia, uyên bác thâm sâu hoặc khù khờ hai lúa, ai cũng cần thân nhân bạn bè, có thể hiểu là thiếu ăn thiếu mặc, thì tạm chấp nhận, nhưng không thể thiếu tình thương yêu. Con đường xuôi thuận, cuộc đời đầy nước mắt nụ cười, vì thế, rất cần có nhau trong đời cùng chia vui sẻ buồn, có nhau bên cuộc sống cùng đuổi xa cô đơn, và cùng sống một chân lý: như chim liền cánh, như cây liền cành.
Cùng dõi nhìn Đức Giêsu tiến vào Thành Giê-ru-sa-lem, dân chúng hồ hởi, “người thì cởi áo trải xuống mặt đường, người thì nhặt cành lá rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dội: hoan hô Con Vua Đa-vít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Con Đường có Chúa, luôn vượt ra khỏi trí tưởng tượng của con người: trải áo, rải hoa, tay giơ cao cành thiên tuế, trong khi đó, Đấng ngự đến nhân danh Chúa xuất hiện trên lưng một con lừa nhỏ, thật khó hiểu ! Con đường Chúa đi hôm xưa đã để lại nhiều bất ngờ: Vị Thầy từng rao giảng như Đấng có quyền, chữa bá bệnh, phục sinh được kẻ chết, giờ đây họ đang la lối, đòi đóng đinh thập giá, Thầy vẫn im lặng.
Hôm đó, trên đường tiến về Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu dừng mọi hoạt động, không tranh luận tội hay phúc, có chăng một số nhỏ đã đọc được dấu chỉ về tình yêu Giêsu. Thực ra, cảm nếm mùi đau khổ, cô đơn, chúng ta đã từng đối diện, nói chung, khi gặp khó khăn, ai chẳng muốn tìm cách né tránh, nếu không thể, chúng ta mới vui lòng chịu vậy, muốn được bạn bè người thân gánh vác, giúp vượt qua hoạn nạn. Con đường Đức Giêsu đi tới đỉnh điểm của vâng phục, chính là tình yêu, là sức mạnh của hiệp thông, là tín thác nơi Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Con đường theo Thầy Giêsu bước vào tuần thánh, là con đường có Chúa, có sức mạnh của tình yêu hiệp thông, các môn đệ và chúng ta cũng sẽ vượt thắng khổ đau, sợ hãi, bằng ơn bình an của Thánh Thần.
Con đường thế gian là con đường được quy ước bằng công thành danh toại, con đường được xây dựng trên nhung gấm lụa là, không thể so sánh với con đường Chúa đi, con đường được đan xen theo nhịp “mến Chúa yêu người”. Cha ông chúng ta thật vô vọng khi nói đến một thực tại: đố ai quét sạch lá rừng, để tôi khuyên gió, gió đừng rung cây. Ai có thể tiêu diệt những tên gian ác, ai có thể quét sạch sự dữ ? Đại đa số người kitô hữu tin rằng Chúa làm được điều đó, nhưng lối hành xử mà chúng ta suy nghĩ như thế chỉ là con đường của thế gian. Đức Giêsu có thể xuống khỏi thập giá, đủ quyền năng để giết sạch đám đông Do-thái kết án Ngài. Đức Giêsu dư khả năng để huỷ diệt số người phản bội, tội lỗi, bất xứng, Ngài không làm thế, con đường của Chúa là con đường cứu độ, yêu thương tha thứ.
Cuộc sống có Chúa, bước đường theo Chúa, hay tâm hồn có Chúa, đều cho thấy phải có tình yêu thương, có sức mạnh của hiệp thông, có ơn soi sáng của Thánh Thần. Quan sát con đường Đức Giêsu đã đi, chúng ta sẽ nhận ra đó là con đường của bình an, niềm vui, vì thánh ý Chúa Cha được thể hiện. Câu ca dao mà nhiều người đã đọc: yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông ti họ hàng, rõ ràng yêu và ghét, sẽ còn chi phối tất cả bước đường những ai chưa thực sự là môn đệ Đức Kitô. Khi xưa các luật sĩ biệt phái, từ ganh tỵ đến ganh ghét, đến việc muốn loại trừ Đức Giêsu, muốn tìm hãm hại tất cả những ai thuộc về Đức Giêsu. Họ không làm được điều đó, bởi Chúa Giêsu đã lấy tình yêu và lòng thương xót để tẩy rửa thù hận của nhận loại tội lỗi.
Sinh ra làm người, ai cũng thao thức đi con đường nào để dẫn tới thành công hạnh phúc, hoặc muốn đi con đường ngắn nhất, an toàn nhất. Đi con đường tự nhiên, người ta còn sợ phải cô đơn, cô độc ; đi con đường thiêng liêng, thường thì ai cũng ý thức đó là con đường khác với thế gian, con đường hạnh phúc phải có Chúa đồng hành. Trong bàn nhậu, họ thường nói tới ly rượu thưởng và ly rượu phạt, đối với họ, dù thưởng hay phạt họ vẫn vui, vì cái đích của họ là uống. Trong hành trình đời người, đường đi lối rẽ không hề ít, đường thành thị hay nông thôn đều có những khó khăn vất vả khác nhau, dù khôn hay khờ, nhất định người ta sẽ không có ý định mạo hiểm đi một mình. Trong tuần thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài không chiến đấu cám dỗ, khổ đau sợ hãi một mình, vì chính tình yêu vâng phục đã có yêu thương hiệp thông Ba Ngôi. Con đường có Chúa, con đường theo Chúa, con đường làm môn đệ Chúa, hay con đường nên thánh, phải là con đường tin yêu và hy vọng. Đức Kitô đã chiến thắng sự chết, chính niềm tin cho biết tình yêu của Ngài vẫn hoà nhập với tình yêu của nhân loại tội lỗi, dẫn đường chỉ lối cho chúng ta đến sự sống đời đời. Amen.
.
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Sau 40 ngày Mùa Chay, hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh là tuần cao điểm của năm Phụng Vụ, bởi vì đây là tuần cả Giáo Hội sống lại mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu cách đặc biệt.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu, khởi đi từ việc Ngài tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng hoan hô vang lừng của dân chúng.
Tuy nhiên, sự tung hô, tôn vinh ấy chẳng được bao lâu, thì Ngài đã phải chết. Nguyên nhân chính dẫn đến sự kiện đau lòng này chính là những sự đổi thay của lòng người!
- Những đổi thay của lòng người
Ca dao Việt Nam có câu: “Dò sông, dò biển dễ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng!”. Chính vì lòng dạ con người như thế, nên người xưa, nhất là những người quân tử thường hay dùng người: cho ở xa để đem lòng trung, cho ở gần để đem lòng kính, sai làm nhiều việc để xem cái tài, hỏi lúc vội vàng để xem cái trí, hẹn cho ngặt ngày để xem có tín, ủy cho tiền của để xem có nhân, giao cho việc nguy biến để xem có tiết, cho đánh chén say sưa để xem cử chỉ, cho ở chỗ phiền tạp để xem thần sắc. Xem người đại khái như vậy, thì họa mới có thể biết được người!
Đức Giêsu cũng đã biết rõ lòng dạ con người nham hiểm, khó lường…, nên Ngài đã tìm mọi cách với hy vọng những gì mắt thấy, tai nghe, sẽ làm cho người môn đệ cũng như mọi người hướng thiện và sống tốt. Nhưng ai ngờ, do những tác động ngoại cảnh làm cho lòng người đổi thay theo, vì thế, cuộc thương khó của Đức Giêsu ngày càng leo thang!
Người đổi thay đầu tiên được kể đến, chính là Giuđa. Ông là người Đức Giêsu yêu thương và tuyển chọn. Ngài cũng đã dạy dỗ ông nhiều điều, nhất là những bài học về từ bỏ, thanh thoát. Hơn nữa, còn tín nhiệm và trao cho ông chức vụ quản lý của Nhóm Mười Hai.
Tuy nhiên, thay vì coi đồng tiền là tôi tớ, là phương tiện, thì đằng này, ông đã coi nó là ông chủ, là mục đích. Vì thế, chính đồng tiền đã đè bẹp ông, khiến lòng dạ ông đổi thay. Chỉ với 30 đồng bạc, ông đã chấp nhận đánh đổi vị trí của mình: từ chỗ là môn đệ, thành kẻ phản bội khi bán Thầy của mình bằng cái hôn giả tạo và với giá rẻ mạt. Ôi một sự đổi thay đến đau điếng!
Thứ đến là sự thay đổi của Tông đồ trưởng Phêrô. Đức Giêsu rất thương Phêrô, bởi lẽ ông là một con người bộc trực, nhưng thẳng thắn, chân thành. Điều này lý giải cho việc tại sao Ngài thường đem ông và hai môn đệ khác đi riêng với mình để mặc khải cho ông những sự kiện quan trọng.
Khi ưu ái ông cách đặc biệt như vậy, ấy là vì Ngài muốn ông mục kích tận mắt và thấy tỏ tường quy luật: “Qua đau khổ mới tới vinh quang”. Hơn nữa, khi đưa ông vào trong mối tương quan thân tình với Ngài như vậy, đó là để có dịp tập cho ông những đức tính cần có của người lãnh đạo.
Tuy nhiên, sự hèn nhát, sợ hãi, đã làm tê liệt ngọn lửa mến nơi ông. Sự trung thành đã không còn nữa. Ông đã sẵn sàng chối Thầy của mình trước toán lính quèn đang sưởi khi chúng gặng hỏi thân thế và mối liên hệ giữa ông với Đức Giêsu. Ôi lại một sự đổi thay khó hiểu!!!
Tiếp theo là sự đổi thay của đám đông. Đám đông này là những người thụ ơn Đức Giêsu. Họ là những người đã được Ngài chữa bệnh, trừ quỷ, dạy dỗ, cho ăn no nê…. Vì thế, khi nghe tin Đức Giêsu vào thành, họ đã tuôn đến như thác lũ và vang tiếng tung hô dạy cả một vùng trời! “Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”.
Tuy nhên, sẵn trong lòng sự hưởng thụ, nên họ đã vẽ lên trong tâm tưởng một Đức Giêsu theo ý của họ: Ngài phải là vua thống trị và giải thoát bằng quyền uy cũng như đem lại cho họ sự giàu có vượt trội! Nhưng khi Đức Giêsu không đáp ứng điều họ mong muốn, thế là đám dân này đã đi vào vết xe đổ vô ơn của tổ tiên họ nơi sa mạc khi xưa. Vì thế, họ đã coi Ngài như một kẻ xa lạ, là tội đồ của dân tộc, và, họ đã không ngần ngại đả đảo Ngài tới cùng “Đem đi! Đóng đinh nó vào thập giá”. Ôi một sự đổi thay đến xót xa!
Cuối cùng là sự đổi thay của quan tổng trấn Philatô. Ông là một vị quan toàn quyền Rôma thời bấy giờ. Lẽ ra, ông phải là người cầm cân nảy mực, bênh vực người nghèo và bảo vệ công lý.
Thế nhưng, trước sức ép của đám đông, trước sự tấn công của các Thượng tế, Biệt phái…, ông đã không nghe theo tiếng Lương Tâm mách bảo, nhưng đã trở thành kẻ đê hèn đến độ thuận theo cái ác để trù dập, loại trừ sự thiện và chấp nhận để “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh”. Ôi một sự đổi thay đầy nhục nhã!
Như vậy, qua các cuộc đổi thay của lòng người, ta nhận thấy một mẫu số chung, đó là:
“Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân”.
Và:
“Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng.
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng”.
- Những đổi thay của chính chúng ta
Đọc và lắng nghe bài thương khó của Đức Giêsu hôm nay, nhiều người chúng ta không khỏi bức xúc trước thái độ đổi thay của lòng người thời Đức Giêsu!
Tuy nhiên, trải qua suốt dọc dài lịch sử nhân loại, những thái độ đó lại nhan nhản nơi xã hội hôm nay!
Nhưng điều đáng nói hơn cả, đó là những thái độ ấy lại đang hiển hiện lên thật rõ nét ngay nơi mỗi người chúng ta.
Thật vậy, nhiều khi chính tôi chứ không ai khác! Hình ảnh một Giuđa ham tiền, hám bạc, phản bội lại hiện lên trong tâm hồn tôi khi tôi vẫn còn ham hố và bất chấp, để sẵn sàng chạy đua trên cuộc đua kiếm tiền bằng mọi cách. Vì thế, nhiều lúc tôi đã “đánh lận con đen” để ngụy biện cho hành vi đen tối của mình.
Nhiều khi chính tôi chứ không ai khác! Một Phêrô thời hiện đại với đầy đủ sự hèn nhát, ham sống, sợ chết, đang ẩn hiện trong con người tôi khi tôi không dám can đảm tuyên xưng niềm tin nơi môi trường sống của mình. Tôi cũng đã thất trung với Chúa khi không trung tín giữ giao ước với Ngài.
Nhiều khi chính tôi chứ không phải ai khác! Khi hình ảnh và lựa chọn của đám đông xưa kia cũng chính là lựa chọn của tôi hôm nay. Thật vậy, đã biết bao lần, tôi theo và tin Chúa chỉ vì cái bụng, nên: “Khi vui thì vỗ tay vào, gian nan hoạn nạn thì lìa nhau ra”.
Đã có lúc, tôi tạo ra một vị Thiên Chúa theo ý mình, để rồi yêu cầu Ngài phải đáp ứng đúng như yêu sách mà tôi đã đặt ra! Khi không đạt được, tôi đã sẵn sàng bỏ Chúa để đi tìm đến với một vị thần nào đó…! Những lúc như thế, tôi thuộc hạng người “ba phải”.
Nhiều khi chính tôi chứ không phải ai khác! Khi hình ảnh và thái độ hèn nhát của quan Philatô đang ẩn hiện trong con người tôi, khi tôi sợ không dám bảo vệ cho sự thật, công lý. Không dám đứng về phía người nghèo để bênh vực họ. Nhiều khi tôi đã hùa theo “hiệu ứng đám đông” mà quên đi lẽ công bằng, tình yêu thương, bác ái với anh chị em. Có những lúc tôi đã nhắm mắt để nói “có” thành “không” và nói “không” thành “có”,nhằm vu vạ cáo gian cho anh chị em tôi. Những lúc như thế, tôi thật hèn nhát, vì tôi thuộc dạng người “sợ tiếng chửi, ăn mày tiếng khen…”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy bước vào Tuần Thánh và đi theo Chúa trên con đường khổ nạn với tâm tình của Mẹ Maria; của người môn đệ Đức Giêsu yêu mến; của các Phụ nữ Giêrusalem; của ông Simong; bà Veronica và ông Giuse Arimathia….
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và ban ơn giúp sức, để chúng con trung thành đi theo Chúa đến cùng trên đường thương khó, ngõ hầu chúng con cùng chết với Chúa để được cùng Ngài sống lại trong vinh quang. Amen.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Phụng vụ Lễ Lá là phụng vụ khai mở Tuần Thánh, một tuần lễ long trọng nhất trong năm Phụng vụ của Giáo Hội. Đây là tuần lễ Đức Giêsu thực sự thể hiện tình yêu cao vời của Ngài với người mình yêu là nhân loại: Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người yêu.
Trong Thánh Lể hôm nay, có hai biến cố quan trọng nhưng lại đối nghịch nhau. Trước Thánh Lễ, nghi thức rước lá mô tả Đức Giêsu ngồi trên con lừa con tiến vào thành Giêrusalem như một vị vua khiêm tốn, một Đấng Mêsia nhân hậu được các môn đệ và dân chúng tung hô chúc tụng: “ Hoan hô! Chúa tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!”( Mc 11:9) Nghi thức rước lá đã xác định Đức Giêsu là Vua, nhưng không phải như các vua trần thế khác.
Một con vật xem ra không đáng gì là con lừa con, nhưng nó lại là một con vật đã được tiên báo trước. Phúc Âm Nhất Lãm đã cho chúng ta thấy con vật đáng yêu ấy không phải tình cờ do ý muốn của Đức Giêsu hay do mệt mỏi mà Ngài cần đến nó, nhưnglà để làm trọn lời Kinh Thánh như tiên tri Dacaria đã viết: “ Này thiếu nữ Xion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” ( Dcr 9:9) Đức Giêsu và dân thành Giêsusalem đã thực hiện lời tiên báo ấy.
Nhưng sau khi nghe đoạn Tin Mừng nói về cuộc tiến vào Giêrusalem một các khải hoàn của Đấng Mêsia, chúng ta lại được nghe bài Thương Khó tường thuật về việc Đấng Mêsia khải hoàn ấy bị đưa ra tòa án và lãnh án tử hình trên thập giá. Một thoáng vinh quang để đi vào đoạn đường tủi nhục, cô đơn và cái chết. Tất cả đã đảo lộn.
Trước tiên là những người môn đệ yêu dấu: Người thì vì tiền đã bán đứt tình nghĩa thầy trò như Giuđa Iscariốt bằng một nụ hôn; người thì lúc còn ở với Thầy đã hăng hái thề sống chết với Thầy, nhưngtrong lúc hiểm nguy, vì sợ liên lụy,đã ba lần chối thầy như Phêrô. Các vua quan vì một chút quyền lợi đã chà đạp lên công lý, tuy biết người bị lên án là vô tội, nhưng không dám mạnh dạn lên tiếng bênh vực như Philatô. Các thượng tế, kinh sư và các kỳ mục hùa với nhau để đổi trắng thay đen. Đám đông đã theo Đức Giêsu suốt ba năm trời để nghe Ngài giảng dạy, thấy những việc lạ Ngài làm, và đã có những lần muốn tôn vinh Ngài làm thủ lãnh của họ, thế mà trong chốc lát đã biến bạn thành thù, biến người mình ngưỡng mộ thành tên tội phạm, đã a dua gió chiều nào theo chiếu ấy.
Là người Kitô hữu hôm nay, tôi cũng đã có mặt trong đám đông ngày xưa,khi tôi chưa mạnh mẽ tuyên xưng đức tin lúc gặp gian nan thử thách, chưa mạnh mẽ tranh đấu cho chân lý cho sự thật, còn nhẹ dạ chạy theo những đam mê tội lỗi, sống chà đạp lên lương tâm thánh thiện để làm những việc tổn hại đến tính mạng và nhân phẩm của người khác.. đó là bất trung, phản nghịch, bỏ vạ cáo gian,ghen ghét, bất công, giết người bằng lời nói và hành động. Khi tôi thấy tha nhân đói khát mà không cho ăn, thấy trần truồng mà không có áo mặc, thấy đau yếu,bị cầm tù mà không chăm nom, đã làm ngơ trước nỗi khổ oan sai của người khác. Cách đối xử như thế với anh em ngày hôm nay khác gì cách đối xử ngày xưa của dân Do Thái với Đấng Mêsia, vì Đức Giêsu đã nói: ““ Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.” ( Mt 25:45)
Đoạn Tin Mừng trong nghi thức rước lá và bài Thương Khó, có lẽ nói lên mặt tích cực và tiêu cực của đời sống Kitô hữu. Có thể hôm nay chúng ta hoan hô chúc tụng, nhưng ngày mai lại lại gào thét đóng đinh , đả đảo. Chúng ta đã hoan hô khi gia nhập Giáo Hội, trở nên con cái thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ trung thành với Chúa hay lại thay lòng đổi dạ như đám đông năm xưa?
.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
“Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!”
“Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (15,1-39):
1 Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giê-su lại và giải đi nộp cho ông Phi-la-tô.
2 Ông Phi-la-tô hỏi Người: “Ông là vua dân Do-thái sao?” Người trả lời: “Đúng như ngài nói đó.” 3 Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, 4 nên ông Phi-la-tô lại hỏi Người: “Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!” 5 Nhưng Đức Giê-su không trả lời gì nữa, khiến ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên.
6 Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. 7 Khi ấy có một người tên là Ba-ra-ba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. 8 Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. 9 Đáp lời họ yêu cầu, ông Phi-la-tô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?” 10 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. 11 Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba thì hơn. 12 Ông Phi-la-tô lại hỏi: “Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?” 13 Họ la lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” 14 Ông Phi-la-tô lại hỏi: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” 15 Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba, truyền đánh đòn Đức Giê-su, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
16 Lính điệu Đức Giê-su vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. 17 Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. 18 Rồi chúng bái chào Người: “Vạn tuế đức vua dân Do-thái!” 19 Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. 20 Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.
21 Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê. Ông là thân phụ hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giê-su. 22 Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ.
23 Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. 24 Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. 25 Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. 26 Bản án xử tội Người viết rằng: “Vua người Do-thái”. 27 Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (28 Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.)
29 Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: “Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, 30 có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!” 31 Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. 32 Ông Ki-tô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin.” Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.
33 Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. 34 Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” 35 Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a.” 36 Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Ê-li-a có đến đem hắn xuống không.” 37 Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. 38 Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. 39 Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.”
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (15,1-39):
2.1 Bài Thương Khó theo Tin Mừng Mác-cô mở đầu Tuấn Thánh mà cao điểm là cái chết thập giá và sự phục sinh vinh quang của Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. Dù chúng ta có suy niệm bao nhiêu giờ, chúng ta cũng không thể hiểu nổi nỗi đau của Đức Giê-su trên thập giá. Đức Giê-su chịu nỗi đau trên thân thể Người do những trận đòn của quân lính và chặng đường vác cây gỗ lên đồi Gol-go-tha, nhất là do hai chân hai tay bị đóng đinh vào thập giá. Đế quốc văn minh vào bậc nhất của nhân loại thời bấy giờ là Đế quốc La-mã đã có sáng kiến tạo ra cực hình khủng khiếp này để trừng trị những kẻ phản loạn và trọng tội. Nhưng Đức Giê-su Na-da-rét không phải là một trọng tội, càng không phải là kẻ phản loạn. Thế mà Người bị đóng đinh….
Nhưng nỗi đau thể xác dù có lớn đến mấy cũng không thể so sánh được với nỗi đau tinh thần, nỗi đau trong lòng của Đức Giê-su. Nỗi đau ấy vô cùng khủng khiếp, không thể tưởng tượng nổi. Đó là nỗi đau của người con phải bỏ lại người mẹ thân yêu. Đó là nỗi đau của người thầy bị các môn đệ bỏ rơi một mình vào chính lúc Người cần sự an ủi nhất. Đó là nỗi đau của Đấng ”đi tới đâu thì ban ơn giáng phúc tới đó” mà lại nhận được sự đáp trả bạc bẽo và bạo tàn của đám đông dân chúng và lãnh đạo tôn giáo như thế. Đó là nỗi đau của người Con được Cha giao sứ mạng cứu chuộc nhân loại mà lại bị Cha bỏ rơi đơn độc vào giờ phút quyết định!
2.2 Từ nỗi đau tột cùng trong thể xác và trong tâm hốn mà Đức Giê-su phải chịu trên thập giá, chúng ta hiểu được một phần nào hai sự thật bí nhiệm này:
Một là tội lỗi con người khủng khiếp như thế nào và
Hai là Tình Yêu của Thiên Chúa lớn lao vĩ đại như thế nào.
Lịch sử Ít-ra-en cũng chính là lịch sử cứu độ là những trang sử phản nghịch của dân và sự tha thứ của Thiên Chúa. Dân Ít-ra-en (cũ) là dân cứng đầu cứng cổ, vô ơn và bất trung triền miên. Ki-tô giáo hay dân Ít-ra-en mới cũng chẳng khá hơn.
Chỉ cần nhìn lại đời sống tôn giáo và tâm linh của mỗi người, chúng ta thấy ngay là lịch sử phản bội Thiên Chúa vẫn hằng ngày tái diễn. Chúng ta phản nghịch cùng Thiên Chúa bằng những tội chúng ta phạm. Chúng ta phản nghịch cùng Thiên Chúa bằng những thiếu sót, vì chúng ta không làm những điều tốt lành chúng ta phải làm.
Thế mà Thiên Chúa không tiêu diệt hay trừng phạt chúng ta mà lại ra tay cứu độ chúng ta: ”Không có Tình Yêu nào lớn lao cho bằng Tình Yêu của người hiến mang sống mình vì người mình yêu” Thánh Gio-an đã nhận định rất chính xác.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (15,1-39):
3.1 Trước thập giá hay trước các nỗi đau trên thề xác và trong tâm hồn của Đức Giê-su Ki-tô, tốt nhất là chúng ta cúi đầu im lặng, chẳng nói gì hết. Vì chúng ta nói gì cũng bằng thừa. Thinh lặng và đấm ngực sám hối ăn năn.
3.2 Nhờ thập giá của Đức Giê-su, chúng ta có sức đón nhận mọi thập giá của cuộc đời một cách bình an và tin tưởng hơn. Chúa Trời tôi mà còn phải chịu cực hình như thế thì tôi có lý do gì để tránh né cực hình? Chúa Trời tôi mà còn phải chịu vùi dập như thế thì tôi có bị vùi dập bao nhiêu đi nữa cũng chưa là gì!
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (15,1-39):
Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Cha vì Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con để Người chịu đóng đinh thập giá để mạc khải Tình Yêu của Cha cho chúng con và để cứu chuộc chúng con.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa của chúng con, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã chịu đóng đinh thập giá để chuộc tội chúng con và mạc khải Tình Yêu của Cha cho chúng con.
Lạy Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã thông hiệp vào mầu nhiệm thập giá–phục sinh của Chúa Ki-tô. Xin Chúa thánh hóa chúng con và đem chúng con vào Huyền Nhiệm Tình Yêu của Thiên Chúa. Amen.
.
JM. Lam Thy
Thủ vĩ ngâm: HAI MẶT ĐỜI
Hai mặt cuộc đời nối tiếp nhau,
Thay đen đổi trắng thật là mau,
Khi thì trắng xóa như vôi vữa,
Lúc lại đen thui tựa mực tàu.
Lẻo mép hoan hô chưa dứt tiếng,
Quai mồm đả đảo tiếp liền sau,
Nhân tình thế thái là như thế,
Hai mặt cuộc đời nối tiếp nhau.
Suy niệm Lời Chúa trong Tuần Thánh, để tìm hiểu lòng dạ con người trong thời gian từ Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh quả thật rất khó khăn, chẳng khác gì câu ca dao VN: “Dò sông dò biển dễ dò, Đố ai lấy thước mà đo lòng người.” Trong Tuần Thánh, Giáo hội cử hành mầu nhiệm cứu độ mà Chúa Ki-tô đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng Người ở trần gian, từ lúc Người vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a đến cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người. Khởi đầu Tuần Thánh là Chúa nhật Lễ Lá, ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu là cuộc rước kiệu lá kính nhớ việc Chúa Ki-tô vào thành Giê-ru-sa-lem được dân chúng cầm cành lá thiên tuế và tung hô vang dậy. Phần thứ hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa.
Trong một Chúa nhật tưởng niệm hai mặt trái ngược nhau của lòng người đối xử với Đấng Cứu Độ: Ngày đầu tiên Chúa vào thành thì được dân chúng và trẻ con Do Thái hát hò, tung hô vang lừng để đón chào Đấng Mê-si-a như một vị vua: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mc 11, 9-10). Nhưng chỉ vài ngày sau đó, thì cũng vẫn đám đông ấy, mặt đằng đằng sát khí hô vang: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 15, 14). Hoan hô đó, và cũng đả đảo tức thì. Thế đấy! Có một nhận định có vẻ khó hiểu và khắc nghiệt: “Chúa nhật Lễ Lá và Thứ sáu Tuần Thánh phản ánh trung thực cuộc sống của Ki-tô hữu”. Tuy nhiên, bình tâm mà suy xét sẽ thấy nhận định ấy tuy khó hiểu và khắc nghiệt, nhưng lại rất chính xác. Nói cách cụ thể thì Chúa nhật Lễ Lá và Thứ sáu Tuần Thánh phản ánh đúng thực chất tâm trạng con người (nói chung), và cách riêng là các Ki-tô hữu.
Nhận định trên xem ra có vẻ khắc nghiệt thực sự, nhưng không xa sự thật chút nào. Cứ nhìn vào các Tông đồ tiên khởi thì đủ biết: Vì sao các ngài đi theo Đức Ki-tô? Vì tin tưởng Người chính là vị cứu tinh cho cuộc đời của mình và các ngài luôn sẵn sàng tuyên xưng niềm tin ấy. Cụ thể như Phê-rô khi nghe Đức Ki-tô hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” thì tuyên xưng liền: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16) và khi nghe Thầy tiên báo sẽ chối Thầy, thì ngay lập tức khẳng định chắc nịch: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”. Thực ra, cũng không chỉ có một mình Phê-rô đâu, mà “Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (Mt 26, 35). Như vậy thì chẳng phải là hoan hô đó sao? Nhưng đến khi Thầy gặp nạn thì “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26, 56), còn Phê-rô thì lẽo đẽo theo sau và chỉ cần một tớ gái nhà Cai-pha nói: “Bác này cũng đã ở với ông Giê-su người Na-da-rét đấy”, đã vội vàng thề độc tới 3 lần: “Tôi thề là không biết người ấy” (Mt 26, 71-74). Bỏ trốn hết, chối Thầy như vậy thì có khác gì đả đảo!
Ngày xưa thì như thế, ngày nay hẳn là còn hơn thế nữa là cái chắc. Vâng, tôi vừa mới hùa theo đám đông “hoan hô” một ông tổng thống, nhưng khi thấy ông tổng thống đó thất thế, bị phía đối lập phản đối, hạ bệ, tôi lại thấy cũng đúng, và cũng “đả đảo” liền. Đấy mới chỉ là nói về những sự kiện hữu hình xảy ra trên bình diện xã hội loài người, riêng về mặt tâm linh thì cũng “sêm sêm” (same same) và còn vượt trội nữa là khác. Trong khi tôi vừa ở toà hoà giải ăn năn sám hối về những lỗi phạm của mình, mới chỉ bước ra khỏi toà hòa giải vài bước, nếu gặp chuyện trái ý thì ngay lập tức nổi đoá văng tục liền (dù có thể chưa văng thành lời nói trên miệng, thì cũng thầm thĩ trong lòng); vừa mới rước lễ trong thánh lễ, ra khỏi nhà thờ gặp phải một “người bạn quấy rầy” thì lập tức “nộ khí xung thiên” bộc lộ bản chất thô lỗ ngay.
Ở Việt Nam tuy có gần 130.000 người chấp nhận cái chết chớ không chịu đả đảo Ki-tô (bước qua, đạp lên Thánh giá, bỏ Đạo), nhưng con số người sẵn sàng đạp lên Thánh giá (chớ đừng nói chỉ bước qua), sẵn sàng gỡ bỏ bàn thờ để chưng hình lãnh tụ (đả đảo Giê-su, hoan hô lãnh tụ), sẵn sàng ghi vào sơ yếu lý lịch là “không tôn giáo”… thì không hiểu còn đông gấp bao nhiêu lần? Ngay đến cả những người bề ngoài thi rất siêng năng đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, nhưng chỉ cần một người nghèo khó (một hành khất chẳng hạn) đến “quấy rầy” thì ngay lập tức “Không có gì hết! Cút đi chỗ khác!” Than ôi! “Ngày xưa Ta khát…, Ta đói…, Ta trần truồng… Ta đau yếu…, Ta ngồi tù…” thì ngươi đã đối xử với Ta như vậy đó (Mt 25, 42)! Vậy thì ai hoan hô, ai đả đảo? Hoan hô và đả đảo có cách xa nhau không?
Quả thật Lời Chúa “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu!” (Mt 7, 21) chẳng xa sự thật chút nào. Vậy mà cảnh “ngôn hành bất nhất” vẫn tồn tại hoài, miệng thì không ngớt tung hô Chúa, nhưng trong lòng thì lạnh tanh, chẳng một chút cảm xúc. Thậm chí, ngoài miệng nói một đàng, trong lòng nghĩ một nẻo (“Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không đao” – Truyện Kiều – Nguyễn Du). Vừa mới hoan hô, tung hô Chúa nơi Thánh đường, về tới khu xóm đã hiềm khích, đố kỵ, ghen ghét với người này nguời khác, thậm chí cả với người thân trong gia đình, như thế thì nào có khác gì đả đảo Chúa?
Chính vì thế, nên cần học cách “xoay cái nhìn ra khỏi cái ‘tôi’ của mình” (1), đồng thời “ra khỏi chính mình” (2) để khám phá người ở cạnh mình và nhận thấy Thiên Chúa nơi khuôn mặt của anh chị em. “Xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi” hoặc “ra khỏi chính mình” chính là làm theo lời dạy của Thánh Tông đồ dân ngoại: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật, vì đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại.” (Rm 13, 10). Tóm lại, khi bước vào Mùa Chay, người tín hữu cần xác định: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 19-20).
Xin hãy lắng nghe lời dạy của vị Cha Chung trong Sứ điệp Mùa Chay 2018: ”Nếu chúng ta nhìn vào thẳm sâu tâm hồn của mình và quanh chúng ta những dấu hiệu vừa nói trên đây (Những tiên tri giả, Một con tim nguội lạnh), thì Giáo Hội, là Mẹ và là Thầy của chúng ta, cùng với phương dược sự thật, nhiều khi là thuốc đắng, cống hiến cho chúng ta trong Mùa Chay này phương dược ngọt ngào là kinh nguyện, làm phúc bố thí và chay tịnh.
* Khi dành nhiều thời giờ hơn cho kinh nguyện, chúng ta sẽ để cho tâm hồn mình khám phá những gian dối bí mật chúng ta thường dùng để đánh lừa chính mình, để tìm kiếm sự an ủi trong Thiên Chúa là Cha và là Đấng muốn cho chúng ta được sống.
* Việc thực hành làm phúc bố thí giải thoát chúng ta khỏi sự ham hố và giúp khám phá tha nhân là anh chị em chúng ta: điều chúng ta sở hữu không phải chỉ là của chúng ta. Tôi ước mong việc làm phúc được biến thành lối sống đích thực của mỗi người! Tôi mong ước dường nào cho các tín hữu Ki-tô chúng ta theo gương các Tông Đồ và nhìn thấy qua sự kiện có thể chia sẻ thiện ích của chúng ta với người khác là một chứng tá cụ thể về tình hiệp thông mà chúng ta sống trong Giáo Hội.
* Sau cùng, việc chay tịnh giải tỏa bạo lực của chúng ta, và là cơ hội quan trọng để tăng trưởng. Một đàng chay tịnh cũng giúp chúng ta cảm nghiệm điều mà nhiều người khác đang thiếu thốn, thiếu những điều cần thiết và bị đói. Chay tịnh biểu lộ tình trạng tinh thần của chúng ta, đang đói khát lòng từ nhân và sự sống của Thiên Chúa. Chay tịnh thức tỉnh và làm cho chúng ta chú ý hơn đối với Thiên Chúa và tha nhân, thúc đẩy ý chí vâng phục Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể thỏa mãn sự đói khát của chúng ta.”
Ối! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thánh Linh cho chúng con để chúng con có đủ dũng khí “xoay cái nhìn ra khỏi cái ‘tôi’ của mình”, ngõ hầu được ”tái sinh bởi nước và Thánh Linh” (Ga 3, 5); đồng thời giúp chúng con tái khẳng định quyết tâm vững vàng đáp ứng hoạt động của Ơn Thánh được làm môn đệ của Chúa. Cúi xin Chúa ban ơn cho chúng con nhìn ra được lẽ sống còn của chúng con không phải là con đường tối ngày chỉ biết hoan hô và đả đảo người khác, mà là phải biết cùng chịu đả đảo (cùng chịu đóng đinh) với Đức Ki-tô để được cùng sống lại (được tôn vinh) với Người (”Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Người” – Rm 6, 8). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
——————————
Chú thích: (1) “Chúng ta học cách xoay cái nhìn ra khỏi cái ”tôi” của mình, để khám phá người ở cạnh chúng ta và nhận thấy Thiên Chúa nơi khuôn mặt của bao nhiêu anh chị em chúng ta. Đối với Ki-tô hữu, chay tịnh không hề có chiều kích duy nội tâm nào cả, nhưng cởi mở hơn đối với Thiên Chúa và những nhu cầu của con người, và biến tình yêu đối với Thiên Chúa cũng trở thành tình yêu đối với tha nhân (xc Mc 12, 31).” (Sứ điệp Mùa Chay 2011, số 3).
(2) “Tin Mừng không chỉ đơn giản là một ngôn từ, nhưng là một chứng từ yêu thương vô điều kiện và tín trung: đó là ra khỏi chính mình để đến gặp gỡ người khác, gần gũi với người bị cuộc sống làm thương tổn, là chia sẻ với người túng thiếu, là ở bên những ai đau yếu, già cả hay bị loại trừ.” (Sứ điệp Phục Sinh 2014). “Cách thứ hai, mỗi cộng đoàn Ki-tô hữu được kêu gọi ra khỏi chính mình để dấn thân vào đời sống của xã hội rộng lớn hơn mà mình cũng là thành phần, nhất là với những người nghèo và những người ở xa Giáo hội. Giáo hội tự bản chất là truyền giáo, Giáo hội không co cụm vào mình, nhưng được sai đến với mọi quốc gia và mọi dân tộc.” (Sứ điệp Mùa Chay 2015, số 2).
.
Lm Vũđình Tường
Nhìn vào lá cành người ta có thể học biết được nhiều điều. Dù không chuyên về thực vật học, nhìn vào lá cây, người ta cũng có thể biết được nhiều điều. Lá cây cho biết về thời tiết trong thời gian qua. Lá xanh, tươi tốt; mưa nhiều; lá khô, cằn cỗi, nắng hạn; lá rách tả tơi, cành cây sơ xác, bão tố vừa qua. Nhìn vào lá người ta còn có thể nói về tình trạng của cây. Lá xanh mát, tươi đẹp cây được chăm sóc cẩn thận, cắt tỉa đàng hoàng; lá cằn cỗi, già chát, cây thiếu nước, thiếu chăm sóc, lâu ngày không xén tỉa. Lá rỗ chằng, rỗ chịt cho biết cây bị sâu rầy phá hoại mà không ai chăm lo xịt thuốc sâu. Lá không những cần cho cây sinh sống, làm mát mắt, tạo sinh khí sống động cho khung cảnh mà còn sinh ích cho chim muông, sâu bọ và ngay cả cho con người dùng lá lợp nhà, che vách. Sau khi dùng xong lá bị vất rơi bên vệ đường.
Không phải ngẫu nhiên các trẻ em Do Thái bẻ cành lá đón Đức Kitô vào thành thánh Giêrusalem. Việc các em đón rước Đức Kitô cho biết ‘giờ của Ngài sắp đến’. Vinh quang của Ngài sắp được tỏ hiện. Đây cũng là điềm báo trước ‘giờ’ các nhà lãnh đạo Đền Thờ âm thầm hội họp quyết định thi hành dã tâm mượn tay nhà cầm quyền lợi dụng chức vụ có trong tay đưa ra bản án bất công, ra tay tiêu diệt người vô tội vì chỉ muốn làm vừa lòng các nhà lãnh đạo đền thờ. Họ sẵn sàng để tay dính máu hòng làm vừa lòng người khác.
Thánh Marcô nhắc đến nhiều địa danh Đức Kitô đi qua như Galilê, Bêthania hoặc núi cây dầu cho biết dân chúng tung hô, chúc tụng Ngài là Đấng Cứu Thế. Những nông dân, công nhân, dù không có học thức nhưng khi nói đến đức tin họ sáng suốt nhận định; trong khi những nhà lãnh đạo Đền thờ, lãnh đạo đất nước tự nhận mình là người có học thức, có bằng cấp lại trở thành người không nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và họ lại chống đối bằng cách ra tay giết chết, để tỏ ra nhóm họ có quyền sinh sát trong tay. Họ dùng luật hiện hành để thi hành bản án bất công nhưng pháp luật không thể làm gì được họ vì họ là kẻ cầm cán cân công lí, họ muốn cho cán cân nghiêng về bên nào thì bên đó thắng. Dân chúng đi trên đường may mắn cùng lúc Đức Kitô và các môn đệ Ngài tiến vào thành thành Giêrusalem và họ bẻ cành lá bên đường tung hô chúc tụng Đức Kitô- Hoan hô con Vua Đavít– Câu này chính là câu mà người mù từ lúc mới sinh ngồi bên vệ đường nghe tin Đức Kitô đi qua, anh lớn tiếng hô Hoan hô Con Vua Đavít, xin cứu đến con– Đức Kitô đã chữa sáng mắt anh. Người bên đường mắt sáng nhận ra Đức Kitô Luc 18,38; Anh đâu biết Đức Kitô đến cứu phần xác anh và cứu phần hồn nhân loại. Kẻ lãnh đạo hội đường tự nhận mắt sáng, họ nhìn thấy tiền buôn bán trong đền thờ nhưng tại tối mắt không nhìn thấy Đức Kitô. Họ mù quáng đến độ không nhìn ra Người mở mắt cho người mù đến nỗi chính người mù cũng thắc mắc làm sao Đấng mở mắt cho anh quyền phép thế mà các nhà lãnh đạo đền thờ lại không nhận ra Ngài. Thành thánh Giêrusalem là chặng đường cuối cùng của cuộc đời công khai rao giảng của Đức Kitô. Lúc 12 tuổi Ngài bắt đầu trả lời thắc mắc của các kinh sư và lãnh đạo đền thờ và họ đã kinh ngạc về giáo lí của Ngài. Hai mươi mốt năm sau cũng tại nơi đây họ kết án Ngài. Đối với các tông đồ Giêrusalem là nơi các Ngài khởi đầu hành trình rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh, khởi đầu cuộc đời truyền giáo cho muôn dân. Các tông đồ trên đường Emaus cũng nhận ra Đức Kitô Phục Sinh khi Ngài bẻ bánh trên đường họ đi về quê. Điều này cho biết Đức Kitô là đường và ai đi cùng đường sẽ nhận biết Thiên Chúa và cuối đường sẽ được vào chung hưởng vinh quang Phục Sinh với Ngài.
Chúa Nhật lễ Lá cho biết vương quyển của Đức Kitô. Đối với xã hội trần thế kẻ thuộc quyền tổ chức dân chúng đón chào vua chiến thắng vinh quang trở về. Đối với Đức Kitô dân chúng trên đường gặp Ngài họ vui mừng đón tiếp, dân lời ca chúc mừng, ngọi khen. Họ đâu biết rằng việc họ làm tác động bởi Thánh Thần Chúa đón tiếp vị vua cao cả sắp sửa chiến thắng tội lỗi, dẹp tan sự chết, đè bẹp chúng, bắt chúng nhốt vào ngục tối còn Đức Kitô bước ra khỏi ngục tối, khỏi mồ, sống lại vinh quang. Vương quyền của Đức Kitô là phục vụ, là hy sinh, là hiến thân cho người mình yêu để làm hoà với họ và đón nhận họ vào trong nước Chúa. Kitô hữu, môn đệ Đức Kitô, khi làm việc tông đồ cũng cần đi qua con đường đó, con đuờng dấn thân phục vụ có giá phải trả. Đức Kitô trả giá đó bằng chính mạng sống mình bằng vác thập giá, đổ máu mình ra; môn đệ Đức Kitô không phải đổ máu mình ra nhưng đổ mồi hôi và nước mắt làm chứng cho sự thật, đau khổ vì làm chứng cho công lí và bị thiệt hại và sống công bằng, nhân ái. Cái giá đó nhiều khi rất cao nhưng đâu sánh bằng được hưởng vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô. Vinh quang đó không mất mát trần gian nào có thể sánh bằng vinh quang Phục Sinh , sống muôn đời trong nhà Chúa Cha.
.
Lm. Gioakim Trần Minh Dũng
Hôm nay Giáo Hội cử hành Lễ Lá khởi đầu cho Tuần Thánh là tuần trọng đại nhất trong năm phụng vụ. Hôm nay chúng ta thấy có hai phần rõ rệt: Phần đầu Kiệu Lá ca ngợi hoan hô tôn vinh Đức Giêsu là con Vua Đavid, Đấng Nhân Danh Chúa mà đến. Phần hai là đọc Bài Thương Khó Đức Giêsu, nói đến cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Cả hai phần xem ra như mâu thuẫn đối ngịch nhau, vì một bên là tôn vinh, một bên thì hạ bệ, tất cả đều phơi bày trong ý muốn và hành động của loài người, đại diện là người Do Thái. Họ đã hoan hô tôn vinh Đức Giêsu Con Thiên Chúa như thế nào? Họ tôn vinh Đức Giêsu là Vua và hành động tôn vinh đi kèm là trải áo, lót lá trên đường để cho Ngài tiến về Giêrusalem, tay cầm lá phất phới, miệng reo vang (hoan hô Con Vua Đavid, hoan hô Con Vua Đavid) vạn tuế, vạn vạn tuế. Họ reo vui trong sự ngộ nhận. Vì họ tưởng rằng thời đại trị vì của Đức Giêsu được lên ngôi và thời đại thống trị của đế quốc La Mã sẽ phải chấm dứt từ đây. Người Do thái sẽ đứng lên lật đổ người La Mã và thống trị lại họ. Israel sẽ giành lại quyền độc lập và tự do cho dân tộc, một dân tộc của Thiên Chúa mà bấy lâu nay đã làm nô lệ, tôi đòi cho kẻ ngoại bang. Vì thế mà họ đã ủng hộ hết mình cho những anh em của mình là người Do thái đang tiến lên Giêrusalem. Các môn đệ của chúa Giêsu cũng hòa chung. Với một niềm vui như thế, cũng có những ý nghĩa như những người đồng bào của mình. Thế rồi mọi sự hoàn toàn bị đảo ngược, xoay chiều không theo như ý nghĩ của họ, không đáp ứng được những khác vọng mà họ đã mong đợi. Đức Giêsu lên Giêrusalem không phải để giải phóng người Do Thái thoát khỏi ách thống trị của người La Mã, mà lên Giêrusalem để chịu trói, chịu đánh đòn và chấp nhận cái chết của thân xác. Đó cũng là viễn cảnh của phần hai trong ngày Lễ Lá hôm nay. Sau khi dân chúng thất vọng về khải hoàn của Đức Giêsu lên Giêrusalem thì sự gì đã xảy ra cho Ngài? Một tình huống bị đảo ngược trong những người Do Thái. Ngày hôm trước họ giơ cao tay hoan hô Ngài là Vua dân Do Thái thì cũng những cánh tay đó ngày hôm nay đá đảo Ngài, miệng thét to “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào Thập Giá đi”. Và những người ủng hộ cho việc đóng đinh giết Chúa là những Kinh Sư, Luật Sĩ và Phái Pharisêu. Với những lí do sau đây: Đó là những ước mơ về một vị Vua Do Thái theo ý của họ đã bị thất bại. Đó là những con người đã nhiều lần bị Đức Giêsu vạch trần lối sống vụ hình thức đạo đức giả, nhiều lần bị Đức Giêsu công kích thật nặng nề “Khốn cho các ngươi”. Nhiều lần họ phải đỏ mặt xấu hổ trước dân chúng. Chính vì thế mà nhiều lần họ muốn tẩy chay tiêu diệt Chúa Giêsu nhưng chưa có cơ hội. Cuối cùng cơ hội giết Chúa cũng đã đến, thời gian đã mãn giờ phải đến lúc Chúa Giêsu Con Thiên Chúa hoàn tất chương trình cứu độ nhận loại phải được xảy ra tại Giêrusalem theo thánh ý của Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá bắt nguồn từ tội lỗi của loài người từ lòng dạ độc ác của loài người trong dân Do Thái. Họ kết án Đức Giêsu với hai thế lực tôn giáo và chính trị. Về mặt tôn giáo thì những người Do Thái tin rằng Người phạm thượng vì dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, vậy là ngang hang với Thiên Chúa, phải bị xử ném đá. Nhận lí do kết án Ngài không đủ mạnh, không thuyết phục, không xử được Chúa Giêsu theo ý muốn của luật Tôn Giáo. Vậy là họ đã chuyển Đức Giêsu qua vụ án chính trị, Họ đưa Đức Giêsu lên tòa án Quan Tổng Trấn Philatô người của Đế Quốc La Mã đang thống trị dân Do Thái, với tội danh của Đức Giêsu là dám tự xưng mình là Vua dân Do Thái. Tố cáo Ngài là kẻ phản loạn, muốn đứng lên lật đổ Vương quyền Cezar, và sau khẩu cung thì Quan Tổng Trấn thấy Đức Giêsu chẳng có tội gì đáng phải bị kết án, ông ta rửa tay nói lên chính quyền La Mã không liên can đến vụ án này, nhưng trước sức ép của nhiều người Do Thái buộc Đức Giêsu phải bị xử tử theo luật Rôma là bị đóng đinh vào Thập Giá. Trên Thập Giá Đức Giêsu chịu khổ hình độc ác của loài người, và đây cũng là lúc Chúa Giêsu đã chiến thắng, chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã hoàn tất. Lúc này Ngài mới thật sự là Vua, Vua trên toàn cõi địa cầu, Vua Trên Trời và dưới đất. Một vị Vua không ngự trị trên Ngai Vàng, không cơ chế như kiểu trần thế, không có binh quyền, không gươm đao giáo mác, không ngựa xe, đại pháo, mà là một vị Vua trong cõi lòng của mỗi người, là Vua trong tâm hồn của những người công chính, Vua của những người biết lắng nghe Lời Chúa là Vua trên những ai luôn sống trong niềm tin với lòng cậy trông và phó thác.
Hôm nay Chúa Nhật Lễ Lá Giáo hội chuẩn bị cho chúng ta bước vào Tuần Thánh bằng một sự đối nghịch của hai phần trong Phụng Vụ như thế là muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn lại chính mình và nhìn lên tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu. Nhìn lại chính mình để thấy lòng người yếu đuối đầy tội lỗi dễ đổi trắng thay đen, sống trong tham vọng, ích kỉ và độc ác. Nhìn lên Thiên Chúa để thấy được một tình yêu bao la, một lòng thương xót tha thứ vô bờ bến, một tấm lòng bao dung quảng đại, hiền lành khiêm tốn.
Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết nhìn nhận được như thế để chúng con dám đi theo đường Chúa, đi là từ bỏ mình, dám quên mình để nghĩ đến người khác, dám đem yêu thương vào nơi thù nghịch, dám mạnh mẽ đem an lành vào nơi tranh chấp, dám can đảm tha thứ cho kẻ xúc phạm và dám loan Tin Mừng cho người chống đối. Lạy Chúa xin giúp chúng con và tăng thêm nghị lực cho chúng con, để mỗi người chúng con sống xứng đáng là Môn Đệ của Chúa mỗi ngày trong suốt cuộc đời. Amen.
.
VÀO TRONG VINH QUANG NGANG QUA THẬP GIÁ
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mc 11,1-11:
(1) Khi Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, gần làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ (2) và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và đem nó về đây. (3) Và nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay”.(4) Các ông ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền tháo dây lừa ra. (5) Mấy người đứng đó nói với các ông: “Các anh tháo lừa ra làm gì vậy?” (6) Hai ông trả lời như Đức Giê-su đã dặn. Và họ để mặc các ông. (7) Hai ông đem con lừa về cho Đức Giê-su, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức Giê-su cỡi lên. (8) Nhiều người cũng trải áo họ xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. (9) Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! (10) Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (11) Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn xem mọi sự và vì giờ đã muộn, Người đi ra Bê-ta-ni-a cùng với Nhóm Mười Hai.
- Ý CHÍNH:
Phụng vụ Lễ Lá hôm nay gồm hai phần: Rước Lá (x Mc 11,1-11) và Thánh Lễ với Tin Mừng về cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su (Mc 14,1-15,47)
– Phần thứ I (Mc 11,1-11): Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Thiên Sai, được dân chúng đi theo và hoan hô như đón mừng một ông Vua khải hoàn vào thành để lên làm vua. Nhưng Đức Giê-su lại không đáp ứng khát mong một ông Vua trần thế của dân Do Thái: Thay vì ngồi trên mình ngựa chiến oai phong khải hoàn vào thành, thì Người lại chọn ngồi trên lưng con lừa hiền lành như ông Vua Mục Tử hòa bình khiêm hạ.
– Phần thứ II (Mc 14,1-15,47): Đức Giê-su là Tôi Tớ đau khổ của Đức Chúa. Người đến không đòi được hầu hạ, nhưng đã rửa chân hầu hạ các môn đồ và chấp nhận con đường “qua đau khổ thập giá để vào trong vinh quang phục sinh” theo ý Chúa Cha. Người đã biểu lộ một tình yêu tột đỉnh khi lập phép Thánh Thể biến bánh rượu trở thành Mình Máu Người, làm lương thực nuôi dưỡng Đức Tin của các tín hữu, và hy sinh mạng sống đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống đời đời cho loài người.
- CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Núi Ô-liu: hay Núi Cây Dầu, nằm về phía Đông thành Giê-ru-sa-lem. Tại đây Đức Giê-su đã trải qua giờ phút hấp hối trước khi bị bắt (x. Mc 14, 26-50), và sau khi sống lại, Người đã ban huấn lệnh cuối cùng trước khi lên trời tại núi này (x. Cv 1,12). + Một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ: Đức Giê-su dùng lừa con thay vì lừa mẹ, vì nó chưa bị ai cỡi, nên xứng đáng được Đức Giê-su sử dụng trong nghi thức trọng đại là lên ngôi vương quyền khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem. + “Chúa”: “Chúa” hay “Chúa thượng” (Ky-ri-os) và Đức Chúa (A-do-nai), là hai tước hiệu dành để kêu cầu Thiên Chúa và Đấng Thiên Sai. Khi tự gán cho mình tước hiệu “Chúa Thượng” (x. Tv 110,1-7), Đức Giê-su muốn nói với người Do Thái rằng: Tuy là “Con Đa-vít”, Người vẫn cao trọng hơn Đa-vít và có trước ông (x. Mt 22,43-45). Thánh Phao-lô cũng đã tuyên xưng: “Đức Giê-su là Chúa” (Rm 10,9). Tước hiệu “Ky-ri-os” (“Chúa Thượng”), ám chỉ quyền tối cao của Đức Ki-tô ngang hàng với Thiên Chúa (x. Pl 2,10).
– C 4-8: + Nhiều người trải áo họ xuống mặt đường… Chặt nhành lá ngoài đồng mà rải: Bên Cận Đông, dân chúng thường trải áo hay chặt cành lá trải trên đường để tỏ lòng tôn kính Đức Vua hay vị tướng chiến thắng từ mặt trận trở về (x 2V 9,13). Ở đây, dân chúng đón rước Đức Giê-su như một ông vua Mê-si-a. Họ hy vọng Người đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế Quốc Rô-ma.
– C 9-11: + Hoan hô!: hay Ho-san-na. Chữ này bắt nguồn từ chữ: Ho-si-a-nah” nghĩa là “Xin ban ơn cứu độ” (x. Tv 118,25-26). Còn lời tung hô: “Ho-san-na!”, nghĩa là “Hoan hô!” hay “vạn tuế!”. (Mt 21,9). + Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta: Vị Thiên Sai mà dân Do thái đang mong chờ theo các Ngôn sứ tiên báo thuộc hoàng tộc Đa-vít, có sứ mệnh tái lập vương quyền của vua Đa-vít.
4. CÂU HỎI: 1) Trong Tin Mừng đọc trước khi rước lá, Đức Giê-su đã làm gì để biểu lộ vai trò Thiên Sai thực sự của Người, thay vì làm Đấng Thiên Sai trần thế như dân Do Thái mong đợi, Người lại làm Đấng Thiên Sai Mục Tử hiền hòa như thánh ý Thiên Chúa? 2) Bài Thương Khó trong Thánh Lễ chứng minh Đức Giê-su chính là Ngươi Tôi Tớ Đau Khổ Của Đức Chúa qua những sự kiện gì? 3) Thời Cựu Ước và Tân Ước có những sự kiện nào đã xảy ra trên quả núi Ô-liu này? 4) Tại sao Đức Giê-su lại cưỡi lừa con thay vì lừa mẹ khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem? Người đã thực hiện như lời tuyên sấm của vị Ngôn Sứ nào? 5) Khi tự xưng là “Chúa” trong câu “Thì cứ nói là Chúa cần đến nó”, Đức Giê-su muốn ám chỉ điều gì về thân thế của Người? 6) Qua sự kiện hai môn đệ thấy mọi việc xảy ra đúng như lời Đức Giê-su đã nói trước cho thấy Người là ai? 7) Khi trải áo choàng xuống mặt đường để đón rước Đức Giê-su đi qua, dân chúng thể hiện lòng tin thế nào về Người? 8) Hô-san-na nghĩa là gì? 9) Tại sao dân chúng mới hoan hô Đức Giê-su “chúc tụng Triều đại vua Đa-vít”, nhưng mấy ngày sau họ lại đòi quan Phi-la-tô đóng đanh Người vào thập giá?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!”(Mc 11,9).
- CÂU CHUYỆN:
1) HOAN HÔ ĐẢ ĐẢO CHỈ LÀ NHẤT THỜI:
WINSTON CHURCHILL, cố thủ tướng Anh Quốc, đã chia sẻ kinh nghiệm riêng của ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô ủng hộ của dân chúng không phải là bằng chứng của sự thành công thực sự. Xưa kia, có một lần sau khi nói chuyện với một cử tọa khoảng 10 ngàn người hiện diện và được hoan hô, một người bạn đã hỏi: “Thưa thủ tướng, ngài không cảm thấy xúc động khi có tới 10 ngàn người đã đến nghe ngài nói chuyện sao?” Churchill trả lời: “Không thực sự là như thế. Một trăm ngàn người sẽ đến nhìn khi tôi bị treo lên”.
Hôm nay bắt đầu Tuần Thương Khó bằng việc cử hành việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá là “quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi vì sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người”.
2) TRÁNH ĐỪNG HÙA THEO ĐÁM ĐÔNG:
Có một cậu bé đang đi trên lề đường bỗng dừng lại, ngửa mặt lên trời. Một vị giáo sư đi tới, thấy thế cũng ngạc nhiên dừng lại và ngước nhìn lên trời theo. Rồi một bà đứng tuổi đi ngang qua cũng nhìn lên trời như vậy; Và một người, rồi một người nữa… Lúc cậu bé cúi xuống, quay qua quay lại, cậu thấy cả chục người lớn đứng chung quanh cũng đang ngửa mặt nhìn lên trời. Cậu rất ngạc nhiên lên tiếng hỏi: “Ủa! Các ông các bà cũng bị chảy máu cam giống như cháu sao?”.
Hiện tượng nói trên là căn bệnh “hùa theo đám đông”. Thấy người khác làm thì mình cũng làm theo, bất chấp lề luật, bất chấp tội lỗi: nam nữ sống “góp gạo thổi cơm chung” tại nhà trọ nhiều công nhân và sinh viên xa nhà đến ở trọ; chuyện phá thai nơi những bà mẹ trẻ mang thai ngoài ý muốn; chuyện buôn gian bán lận để kiếm lời; chuyện hối lộ và tham nhũng để mau được việc và giữ được chiếc ghế đang ngồi…; Chuyện nói tục, chửi bậy, nói dối, của người Việt nam hôm nay. Đám đông làm bậy đã khiến nhiều trẻ em và người thiếu hiểu biết không còn ý thức về tội lỗi.
3) TÌNH NGUYỆN CHẾT THAY CHO EM:
Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung với nhau trong cùng một căn nhà. Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và kính sợ Thiên Chúa. Còn đứa em lừa lọc, gian manh, và phạm đủ thứ tội ác như cướp của, giết người… Người anh khuyên răn mãi mà thằng em vẫn không chịu thay đổi tính nết. Một đêm kia, thằng người em chạy về nhà quần áo dính đầy máu. Nó tự thú với người anh: “Em đã phạm tội giết người”. Vài phút sau căn nhà đã bị cảnh sát bao vây và không cách nào trốn thoát được. “Em không có ý giết nó”, người em sợ hãi nói, “Em cũng không muốn chết”. Ngay lúc ấy có tiếng cảnh sát gõ cửa. Người anh liền cởi quần áo mình đang mặc cho thằng em, và mặc lấy bộ quần áo đang dính đầy vết máu của nó. Sau đó cảnh sát xông vào nhà còng tay người anh, và giam lại chờ ngày ra tòa. Sau cùng, người anh đã bị kết án tử hình chết thay cho em mình.
Qua câu chuyện trên, chúng ta hiểu được phần nào về tình yêu tột cùng của Chúa Giêsu, dù vô tội nhưng Người đã sẵn sàng chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho chúng ta.
4) SỰ CHIẾN THẮNG CỦA CÂY THÁNH GIÁ:
CONSTATIN vào năm 23 tuổi, đã được quân sĩ Rô-ma đóng tại York tôn lên làm Hoàng Đế nối ngôi vua cha là Constantius. Để được lòng quân dân trong toàn Đế quốc, Constantin phải chiến thắng kẻ thù là Maxentius.
Ngày 28 tháng 10 năm 312, ông đến sông Tiber, khúc sông có cây cầu Milvian ở về phía Bắc Rô-ma, quân của Maxentius đã ngăn chận không cho quân của Constantin vượt qua con sông Tiber. Đêm hôm đó Constantin đã xem thấy một cây thập tự sáng chói trên bầu trời, dưới cây thánh giá có hàng chữ: “Với dấu này, ngươi sẽ chiến thắng” (In hoc signo, vinces). Sáng hôm sau trước khi giáp mặt chiến đấu với quân địch, ông đã ra lệnh cho toàn quân lập tức sơn hình cây thánh giá trên mũ của họ. Nhờ cây thánh giá hỗ trợ mà quân của Constantin đã can đảm xông lên và đã toàn thắng quân thù. Sau đó vào năm 313, Hoàng Đế Constantin sau khi lên ngôi đã ký sắc lệnh Milan, hủy bỏ cuộc bắt đạo Công giáo và cho mọi người trong nước được tự do tin theo đạo.
Hoàng Đế Constantin đã nhờ cây thánh giá nên đã thắng trận. Con chúng ta hôm nay nhờ ai để chiến thắng ba thù là ma quỷ thế gian và xác thịt? …
- SUY NIỆM:
Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay gồm hai phần vui buồn đan xen: Trong phần đầu lễ chúng ta cùng đi rước Chúa Giê-su khải hòan vào thành Giê-ru-sa-lem (x Mc 11,1-10). Phần thứ hai là thánh lễ với bài Thương Khó (x Mc 14,1-15,47). Từ đó chúng ta rút ra nhiều bài học về sự tin yêu Chúa?
1) Cùng theo Chúa trong cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem:
Trong giờ phút này, chúng ta hãy chiêm ngắm cảnh tượng Đức Giê-su đang long trọng tiến vào thành Giê-ru-sa-lem. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con. Có nhiều người đã trải áo và rải cành cây trên lối đi để tỏ lòng tôn kính. Những tiếng reo hò vang dậy: Tung hô Đức Giê-su là Vua Thiên Sai, thuộc dòng dõi Đa-vít, là Đấng đến để giải thoát Ít-ra-en. Đức Giê-su im lặng để dân chúng tung hô hầu ứng nghiệm lời tuyên sấm: “Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Dcr 9,9).
2) Cùng theo Chúa đi con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” như ý Chúa Cha:
– Sau những giây phút tưng bừng náo nhiệt cuộc rước, chúng ta được nghe bài thương khó: Chúa Giê-su hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua, để mang lại ơn cứu độ cho loài người. Quả thực, Ngài là Vua, nhưng là Vua Mục Tử: “Đến không đòi được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Ngài đã chọn con đường cứu thế theo thánh ý Chúa Cha là “qua đau khổ vào trong vinh quang”, qua cuộc Tử Nạn để vào mầu nhiệm Phục Sinh.
– Trong tuần Thánh, chúng ta hãy năng chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa khi nghe ngắm nguyện mười lăm sự thương khó, khi suy niệm chặng đàng Thánh Giá… để chọn đi theo con đường hẹp leo dốc, đường thánh giá của Chúa Giê-su.
3) Cần tránh xúc phạm đến hình ảnh Chúa qua tha nhân:
– Gai nhọn trên đầu Chúa và đinh nhọn đóng thâu qua chân tay Chúa, roi đòn quất lên mình Chúa tượng trưng cho các sự thù hận và vu cáo bất công mà các đầu mục Do Thái đã làm. Chúa đã qua giờ phút lo buồn đổ mồ hôi máu trong vườn Giết-sê-ma-mi khi nghĩ đến tội của các môn đệ, Phê-rô chối không biết Thầy, Giu-đa phản bội bán Thầy vì ham tiền và dùng cái hôn để nộp Thầy.
– Còn chúng ta thì sao? Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của hoạ sĩ người Hòa Lan REMBRANDT thế kỷ 17, là bức họa “Ba Cây Thập Tự”. Khi chiêm ngưỡng tác phẩm này, hầu như ai cũng đều bị thu hút nhìn vào trung tâm của bức tranh: Ở giữa hai cây thập giá của hai kẻ bất lương, thập giá của Đức Giê-su vượt lên cao hơn. Dưới chân thập giá của Chúa là cả một rừng người, trên mặt ai nấy đều lộ vẻ căm thù oán hận, trong đó có cả khuôn mặt của nhà danh họa tác giả của bức tranh … Qua đó ông muốn nói rằng: Mọi người chúng ta không ai là không dính líu vào tội đã đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá.
4) Phải làm gì để phục vụ Chúa trong anh em?
– Ngày nay chung quanh chúng ta không thiếu những người bệnh tật đau khổ là hiện thân của Chúa Giêsu đã bị đau khổ. Họ là những người mắc bệnh nan y không tiền chữa trị, những người bị khích bác vu khống đi tù cách bất công, những người đau khổ què quặt, đui mù, câm điếc không cơm ăn áo mặc và không chốn nương thân… Họ là hiện thân của Chúa Giê-su bị bỏ rơi trên cây thập giá và đang mong được mỗi tín hữu chúng ta an ủi và giúp đỡ tận tình.
– Chúng ta có thể làm gì? Tuy khả năng giới hạn, nhưng chúng ta vẫn có thể cảm thông với người đau khổ noi gương các phụ nữ xưa đã gặp gỡ khóc thương Chúa trên đường thánh giá; Chúng ta có thể nâng đỡ họ như ông Si-mon vác đỡ thập giá cho Chúa; Có thể an ủi họ như bà Vêrônica trao khăn cho Chúa lau mặt; Có thể lên tiếng bênh vực họ như người trộm lành bên hữu Chúa; Có thể cảm thông với sự đau khổ của họ như Mẹ Ma-ri-a môn đệ Gio-an và các bà đạo đức đã can đảm đứng dưới chân thánh giá nhìn lên Chúa; Có thể giải thoát họ khỏi sự đau khổ như hai môn đệ đã tháo đinh và cất xác Chúa xuống khỏi thập giá…
– Mỗi ngày chúng ta hãy cùng chết với Chúa bằng việc trừ khử các thói hư bằng việc xét mình ăn năn trong giờ kinh tối; Tham dự tuần tĩnh tâm Mùa Chay tại nhà thờ; Dọn mình xưng tội để được sống lại thật về phần linh hồn; Năng rước lễ mỗi ngày để được kết hiệp mật thiết và hy vọng sẽ được sống hạnh phúc với Chúa như Chúa đã hứa với người trộm có lòng hối cải: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng” (Lc 23,43).
- THẢO LUẬN: Để góp phần kiến tạo Vương Quốc yêu thương và an bình của Đức Giê-su, chúng ta phải làm gì để xua trừ các tệ nạn sì-ke ma túy, cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm, cướp giật… ra khỏi môi trường ta đang sống?
- NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã chia sẻ tấm bánh cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no cơm ấm áo.
Vì Chúa đã lo buồn trong Vườn Cây Dầu, xin cho các bạn trẻ đương đầu với những nghich cảnh trong cuộc sống.
Vì Chúa đã bị kết án bất công, xin cho chúng con dám can đảm lên tiếng bênh vực công lý.
Vì Chúa đã bị xỉ nhục và nhạo cười, xin cho các phụ nữ và thiếu nhi được tôn trọng nhân phẩm.
Vì Chúa đã chịu vác cây thập giá nặng nề, xin cho những bệnh nhân nhận được sự đỡ nâng.
Vì Chúa đã bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà nhân hậu thắng thói hung tàn bạo lực.
Vì Chúa đã dang tay chịu chết trên thập giá, xin cho đất được nối lại với trời, con người biết nối lại mối dây yêu thương hiệp nhất với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui hân hoan, xin cho chúng con sẵn sàng chấp nhận gian khổ để vượt qua mà vào trong vinh quang sau này.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
THÁI ĐỘ CỦA CHÚA GIÊSU KHI TRẢI QUA CUỘC THƯƠNG KHÓ
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Is 50:4-7; Pl 2:6-11; Mc 14:2 – 15:47)
Chúng ta bắt đầu Tuần Thánh bằng Lễ Lá, tưởng niệm Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Vua bình an. Tuy nhiên thuật lại cuộc Thương khó của Chúa vẫn là điều cốt yếu của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Cuộc Thương khó của Chúa Giê-su diễn biến thế nào hầu như chúng ta ai cũng biết cả. Chúng ta thuộc từng chi tiết đã xảy ra, từ Bữa Tiệc ly qua việc Chúa cầu nguyện trong Vườn Dầu, rồi Người bị bắt, bị tra khảo trước mặt các thượng tế, trước tổng trấn Phi-la-tô. Chúa bị kết án chịu đóng đinh thập giá. Tiếp theo là con đường thập giá đưa Chúa tới cái chết tàn bạo trên đồi Can-va-ri-ô. Vậy Chúa Giê-su đã đón nhận đau khổ và cái chết với thái độ nào? Chúng ta có hai bài đọc, Cựu Ước và Tân ước, mô tả thái độ ấy, đồng thời cũng dạy chúng ta biết phải đón nhận đau khổ với cùng một cách như Chúa đã chịu đau khổ.
Trước hết qua bài đọc trích sách I-sai-a nói về Người Tôi Tớ Trung Thành của Thiên Chúa đã chịu sỉ nhục phỉ báng, chúng ta biết được Ngài đã phản ứng như thế nào. Đây là những hành vi của đám thù địch chống lại Người Tôi Trung: chúng đánh đập Ngài, giật râu Ngài, nhạo cười và phỉ nhổ Ngài. Tất cả đều là những hành vi khiến người bình thường như chúng ta đều có thể nổi giận và phản ứng một cách mất bình tĩnh. Tuy nhiên chúng ta nhớ rằng Người Tôi Trung ám chỉ Chúa Giê-su cũng là người giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ việc phạm tội. Vậy chúng ta hãy xem Người Tôi Trung phản ứng thế nào: Người “đưa lưng cho kẻ đánh” mình, “đưa má cho kẻ giật râu” mà không che giấu mặt mũi, không “tránh né” những lời nhạo cười và phỉ nhổ. Sự phản kháng của Chúa Giê-su, Người Tôi Trung, là thái độ chủ động cam chịu, “không hổ thẹn, trơ mặt chai như đá”, vì Người luôn nghĩ tới một lợi ích cao cả hơn, đó là để chuộc lại tội lỗi chúng ta, tội lỗi Người không hề phạm.
Thêm vào những cách phản ứng của Người Tôi Trung trong Cựu Ước, bài đọc trích thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-líp-phê cho chúng ta thấy động lực nào đã giúp Chúa Giê-su trút bỏ vinh quang và địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, để xuống thế làm người phàm, sống như chúng ta và cuối cùng đã “hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Còn động lực nào nữa ngoài tình yêu! Đúng vậy, vì yêu thương chúng ta là bạn hữu nên Người đã sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để chuộc tội chúng ta.
Giờ đây chúng ta thử nhìn vào cuộc Thương khó của Chúa Giê-su do thánh Mác-cô tường thuật, để thấy Chúa đã phản ứng thế nào qua từng chặng đường Thương khó. Khi khải hoàn vào thành Giê-su-sa-lem, Chúa Giê-su không nghênh ngang như ông vua trần gian, nhưng giữ thái độ khiêm nhu dịu dàng của vị Thái Tử Hòa Bình, thay vì cưỡi ngựa oai hùng thì Chúa chỉ ngồi trên mình lừa, con vật của dân dã tượng trưng cho sự bình an và khiêm tốn. Trong bữa ăn tại nhà ông Si-môn tật phong ở Bê-ta-ni-a, Chúa đã ưu ái bênh vực hành động của người phụ nữ xức dầu thơm lên chân Chúa. Cùng lúc ấy, tên phản bội Giu-đa đi gặp các thượng tế để mặc cả tiền công hắn nộp Người cho họ. Nhưng Người vẫn không ngăn cản hay vạch mặt chỉ tên hắn là vì Người yêu thương hắn, mong hắn nghĩ lại mà từ bỏ tội ác. Trong Bữa Tiệc Ly, một lần nữa Chúa cố tế nhị đánh động lương tâm của Giu-đa. Chúa thất bại, nhưng Người cũng không đối xử cạn tàu ráo máng với hắn, vẫn tôn trọng quyền tự do của hắn. Tại Vườn Dầu, Chúa Giê-su cam nhận sự cô đơn trong tâm hồn, sự thờ ơ của ba tông đồ đi theo Người, không nặng lời trách móc họ, mà chỉ nhẹ nhàng nhắc bảo họ hãy thức dậy vì kẻ nộp Người đã đến gần. Một lần nữa khi phải đối mặt với tên phản phúc dùng lời chào và cái hôn giả dối để nộp Người cho kẻ thù, Người vẫn bình tĩnh dù cho tâm hồn tan nát. Rồi khi phải đối chất với các thượng tế và công nghị, Chúa Giê-su vẫn hòa nhã trong lời nói cử chỉ. Nhưng lúc bị dồn vào cái án chết, Chúa lại can đảm không chối bỏ căn tính của mình là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Khi bị đám thủ hạ thượng tế thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh đập, Chúa sẵn sàng “đưa lưng đưa má” cho chúng đánh đập phỉ nhổ. Người còn phải chịu đựng hơn cả Người Tôi Trung được I-sai-a nói đến bội phần. Việc Phê-rô chối Chúa càng làm cho Người cay đắng thêm, nhưng Chúa vẫn chấp nhận sự yếu đuối của ông. Trước mặt tổng trấn, Chúa chỉ trả lời vắn tắt “Ông nói đúng!” rồi không nói gì thêm nữa. Sau khi Người bị kết án, ta không nghe Người phát biểu gì cả cho đến trước giờ chết khi Người phó mình trong tay Chúa Cha.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta đã thấy, đã nghe, đã hiểu về cách Chúa nhẫn nhục trong cuộc Thương khó. Bây giờ là lúc ta suy nghĩ, tâm sự và chia sẻ với Chúa. Người mong ta lắm thay!
.
KHỔ NẠN CỦA CHÚA LÀ HY VỌNG CỦA CHÚNG TA
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Chúa Nhật Lễ Lá là ngày đầu tiên của Tuần Thánh, khởi đầu cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu dẫn đến cái Chết của Chúa trên thập tự để cứu chuộc muôn dân. Và Chúa đã sống lại đem hy vọng cho loài người.
Cuộc Khổ Nạn, Cực Hình, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Chúa là những mấu nút kết hợp tất cả chúng ta lại với nhau thành một Giáo Hội với những thần dân là Kito Hữu trong Tuần Thánh Này.
Tin Mừng thánh Mác Cô hôm nay cho chúng ta thấy những ngày giờ cuối cùng đầy khổ nạn của chúa Giêsu nơi trần thế. Đây là câu chuyện với những tình tiết tương phản nhau, không thể không đánh động tâm trí chúng ta. Tuần Thánh là thời gian đặc biệt để chúng ta suy gẫm nhiều điều được thể hiện qua những biến cố đã xẩy ra cho chúa Giêsu. Chúng ta cũng khám phá ra không chỉ những đặc tính của những kẻ đã cố tình làm nhục, kết án và giết Chúa trước đây, mà cả những gì đang và sẽ giết Chúa. Cái vòng luân lưu giữa những thói hư tật xấu, khủng bố, bạo lực, tàn ác, hận thù, oán ghét, nghi kỵ, ghen tương vẫn đang tiếp tục đóng đanh Chúa nơi những người anh chị em huynh đệ của mình, trong gia đình, ngoài cộng đồng, xã hội quê hương mình và cả nhân loại hiện nay.
ĐIỂM ĐẶC THÙ CỦA CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU
Theo Mac Cô (Mc 11: 1-10) thì cuộc vào thành Jerusalem của chúa Giêsu đã được làm cho bớt vẻ trọng thể đi nhiều. Theo thông lệ khách hành hương thường đi bộ vào Jerusalem, trừ vua chúa mới cưỡi súc vật, mà là những con vật oai phong như ngựa, lại có đoàn rước đi theo để chứng tỏ mình là đấng quyền uy cao trọng. Chúa Giêsu thì lại khác, cũng cưỡi một con vật, nhưng không phải là ngựa quí hùng dũng oai phong mà chỉ là một con lừa con mà người ta dùng để chở đồ.
Chúa Giesu ngồi trên lưng lừa đi vào thành Jerusalem như một ông vua, nhưng không phải “để được phục vụ mà là để phục vụ” (Mat.20: 28). Nước của Người không phải nước ở trần thế, được tạo dựng bằng quyền lực hung dữ, mà vì lòng trắc ẩn thương yêu, đồng cảm và hết lòng xả thân phục vụ mọi người. Con lừa chính là hình ảnh mà tiên tri Zechariah đã nói trước đây cả 5 thế kỷ: “Hỡi con cái Zion ! Hãy vui lên, hãy reo hò vang lên. Hỡi con cái Jerusalem! Trông kìa, Vua các người đang đến, trong khải hoàn vinh quang nhưng khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…”
Qua cách mô tả của Mac cô về cuộc khổ nạn của chúa Giêsu thì vẻ mặt Chúa Giêsu như buồn rầu lo lắng vì bị bạn bè và các môn đệ bỏ rơi. Chúa đã cam chịu. Chúa không thèm trả lời Giuda là kẻ phản bội Chúa, cũng như Philato khi ông ta chất vấn Chúa. Tổng trấn Philatô đã không cương quyết cứu Người với tư cách một quan Toàn Quyền, đại diện của La Mã, dù biết Chúa vô tội.
Thánh Mac Cô, qua toàn thể Tin Mừng, đã làm nổi bật sự thất bại cay đắng của các môn đệ là đã không an ủi nâng đỡ Chúa Giêsu, lại chẳng hiểu gì ý nghĩa những việc đang xẩy ra cho thầy mình. Một môn đệ trẻ lúc Chúa bị bắt, vì quá sợ hãi đã chạy trốn vào đêm tối không kịp mặc áo quần. Môn đệ này chính là hình ảnh các môn đệ, lúc khởi đầu đã bỏ gia đình bạn bè bà con để theo Chúa. Bây giờ gặp lúc nguy khốn thì bỏ mọi sự, bỏ cả Chúa để thoát thân.
Chúng ta thử nhớ lại những biến cố của Tuần Thánh đầu tiên này. Từ căn phòng Chúa ở đến vườn Gethsemane, từ phiên tòa Philato đến đồi Golgotha, từ thập tự giá đến ngôi mộ trống, Chúa Giêsu đã làm đảo lộn toàn thể thế giới. Người dạy cho chúng ta biết quyền lực thực sự chỉ thấy ở nơi nào có tinh thần phục vụ và lòng quảng đại đối với tha nhân; sự cao cả với lòng khiêm tốn; ước vọng yêu thương và công chính. Đó là những điều sẽ được Thiên Chúa chúc lành và khuyến khích.
CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA VÀ SỰ TRUNG THÀNH
Thánh Mac Cô kể rằng, lúc ấy chúa Giêsu đang ở làng Betania và đến thăm ông Simon bị bệnh cùi, một người đàn bà đến mang theo một bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm đắt tiền, đập bể bình rồi trịnh trọng đổ lên đầu Chúa (Mc 14: 3-9). Mùi thơm lan tỏa khắp nhà, mọi người lúc đó tỏ vẻ bất bình vì cử chỉ phung phí của bà này. Chúa Giêsu đọc được ý của họ, bèn nói đỡ cho bà ta là “bà đã biểu lộ một hành động trung thành và yêu thương thực sự”. Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Bà này đã xức dầu lên người tôi để chuẩn bị cho ngày ướp xác” (Mc 14: 8). Vì lý do đó, chúa Giêsu đã hứa là “bất cứ nơi nào mà Tin Mừng được loan truyền đến thì câu chuyện này của bà cũng sẽ được kể lại để mọi người nhớ đến bà”. (Mc 14: 9). Người đàn bà này, không kể Đức Maria mẹ Chúa Giêsu, sẽ là người duy nhất được tôn vinh cao cả.
Trong khi các đệ tử và tông đồ Chúa tỏ ra thất bại rõ ràng vì phản bội và bỏ chạy thì người đàn bà vô danh này đã chứng tỏ chí cương quyết, lòng quả cảm, yêu thương và trung thành. Một gương sáng đáng ghi nhớ! Mặc dù bà ta không hiểu rõ hoàn toàn ý nghĩa việc làm có tính ngôn sứ và biểu trưng của bà ta, cũng như thời điểm của hành động của bà, nhưng bà ta đơn giản chỉ ước muốn biểu lộ cho Chúa biết là bà ta thực sự quan tâm, để ý đến Chúa và yêu mến Chúa thật tình.
Đó phải chăng là điều mà mỗi người chúng ta được mời gọi để thực hành trong Tuần Thánh này một cách đặc biệt! Phải chăng là yêu Chúa Giêsu và chú ý đến Người xuyên suốt qua những biến động bi thảm cuối cùng của bản hòa tấu cuộc đời của Chúa nơi dương thế này, giữa tất cả những tổn thương, thất bại và bội phản của chính chúng ta trong cuộc sống! Cuộc sống của chúng ta phải giống như bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm quí giá của người đàn bà đã đổ ra tràn lan trên Chúa trong những giờ phút cuối cùng của đời Người nơi dương thế này.
ĐÔI LỜI KẾT: AI ĐÂY, NẾU KHÔNG PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ ĐÃ BỊ KẾT ÁN?
Lúc kết thúc đoạn đường Thánh Giá tại đấu trường Colosseum ở Rome vào đêm thứ Sáu Tuần Thánh năm Thánh 2000, Thánh Gioan Phaolo II đã nói những lời rất cảm động nhưng đầy mãnh lực:
“Ai đây, nếu không phải là đấng cứu thế đã bị kết án, có thể hiểu một cách đấy đủ và trọn vẹn nỗi đau khổ của những người bị kết tội một cách bất công?
“Ai đây, nếu không phải là Vua Trời Đất bị khinh miệt và nhục mạ, có thể đáp ứng được những chờ mong của biết bao nhiêu người cả nam lẫn nữ đang sống trong vô vọng và mất nhân phẩm?
“Ai đây, nếu không phải là Con Thiên Chúa, có thể biết được nỗi buồn rầu và cô đơn của biết bao nhiêu người không có tương lai đang sống rải rắc trên khắp mặt địa cầu ?”
Đó là Đấng Cứu Thế, vị cứu chuộc nhân loại mà chúng ta đang có. Ngài là đấng thực sự thấu hiểu những điều kiện nhân tính của chúng ta. Ngài đồng hành cùng chúng ta và chia sẻ, cảm thông với chúng ta những sầu muộn, cô đơn và khổ đau của chúng ta. Chúng ta đã đáp trả lại loại tình yêu lạ lùng ấy và tình liên đới hiệp nhất thực sự ấy như thế nào? Chúa Nhật Lễ Lá là ngày mở đầu Tuần Thánh Chúa Chịu Nạn, mời gọi chúng ta chấp nhận điều mà thánh Phao Lồ gọi là “Thái Độ của Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2: 6-11) trong khi Chúa chịu nạn và chịu chết. Hãy trút bỏ mọi ưóc muốn tư lợi và ích kỷ, mọi sợ hãi và nhu cầu riêng tư của mình vì lợi ích của tha nhân….
Chớ gì chúng ta có thể vươn tới để hàn gắn những vết thương của những kẻ đau khổ, an ủi những kẻ thất vọng ở quanh ta mặc dù bản thân chúng ta là những kẻ phản bội và chối Chúa.
Trong lúc những nghi lễ phụng vụ của Tuần Thánh diễn ra thật cảm động thì chúng ta có được những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống với niềm vui và hy vọng, mặc dù bị phụ rẫy, xỉ nhục và đau khổ. Trong chiều hướng đó, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sẽ trở thành lý do để chúng ta Hy Vọng và có những giây phút tràn đầy hồng ân khi chúng ta đi tìm kiếm Nước Chúa trong đời sống chúng ta, cho dù sự tìm kiếm đó đơn độc và đau thương.
Tuần Thánh quả là một nguồn an ủi và một xác tín rằng chúng ta không phải là những kẻ cô đơn. Chúa đã cứu chúng ta và hàng ngày đang đồng hành với chúng ta.
.
Lm. Anthony Trung Thành
Một trong những điểm nổi bật và làm rơi nước mắt của bao nhiêu người khi xem bộ phim về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đó làcảnh bạo lực. Người Do Thái dùng bạo lực một cách khủng khiếp đối với Đức Giêsu. Họ bắt Ngàiphải vác thập giá. Họ đánh đòn Ngài. Họ khạc nhổ vào mặt Ngài. Họ bắt Ngài đội mạo gai. Họ đóng đinh chân tay Ngài vào thập giá. Họ còn lấy lưỡi gươm đâm thấu cạnh sườn Ngài thấu cả trái tim. Người Do thái thời bấy giờ quả thật là quá tàn nhẫn với Đức Giêsu Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Xem cảnh bạo lực đó, có lẽ không ai không trách móc người Do thái sao họ lại làm như thế với Đức Giêsu? Nhưng nếu để ý thì chúng ta vẫn thấy những cảnh bảo lực người ta gây nên cho Đức Giêsu vẫn được tái diễn lại nơi các Tông đồ và các môn đệ của Ngài suốt 2000 năm qua. Và ngày hôm nay, bạo lực vẫn còn tái diễn lại trong các gia đình, nơi học đường, nơi mỗi môi trường sống của xã hội hôm nay.
Thật vậy, trong số các Tông đồ, chỉ có Thánh Gioan bị bỏ vào vạt dầu sôi không chết, còn 11 vị khác đều chịu chết vì đạo, nghĩa là các Ngài đã phải chịu cảnh bạo lực trước khi chết. Rồi suốt 2000 năm qua, vô vàn vô số các kitô hữu đã phải chịu nhục hình vì Chúa. Chỉ riêng ở Việt Nam chúng ta, với gần 300 năm bách hại đạo, có khoảng 150 ngàn kitô hữu chịu chết tử vì đạo, trong số đó đã có 117 vị thánh đã được phong hiển thánh và 1 vị được phong chân phước. Sau đây là hình khổ mà các vị tử đạo Việt Nam phải chịu: 1 vị chịu bá đao, tức là bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng; 4 vị chịu lăng trì, tức là bị chặt chân chặt tay trước khi chém đầu; 6 vị chịu thiêu sinh, tức là bị thiêu sống; 75 vị chịu xử trảm, tức là bị chém đầu; 22 vị chịu xử giảo, tức là bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết; 9 vị chịu chết rủ tù, tức là bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.
Ngày hôm nay, người ta vẫn dùng bạo lực để bạch hại các kitô hữu đây đó trên thế giới. Người ta không chỉ dùng bạo lực đối với các kitô hữu mà người ta còn dùng bạo lực để giải quyết mọi vấn đề giữa con người với nhau trong gia đình, nơi trường học, nơi các cơ quan công quyền và nơi mọi môi trường sống.
Trước hết, bạo lực trong gia đình: Theo thống kê của Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Việt Nam cho thấy trong 5 năm trở lại đây, số vụ bạo lực gia đình được ghi nhận khoảng 20.000 vụ/năm. Chỉ riêng trong năm 2015 có 31 phụ nữ, 7 trẻ em bị người thân giết hại. Số liệu báo cáo của các tổ chức phi chính phủ năm 2014 cũng cho thấy cứ 2-3 ngày lại có một người bị giết liên quan đến bạo lực gia đình, mà nạn nhân đa phần là phụ nữ và trẻ em (theo www.rfa.org).Xin nêu lên một số vụ nổi cộm như: Bố tẩm xăng đốt hai con gái tại Hải Phòng; con giết cha tại Đăk Nông; giết chồng để đi theo người tình tại Lâm Đồng; đâm chồng 18 nhát rồi vứt xác xuống sông tại Thái Nguyên; cha giết 2 con rồi tự sát tại Nam Định; chồng đánh vợ gẫy 8 xương sườn, chấn thương sọ não tại Hạ Long (Theo phununews.vn).
Thứ hai, bạo lực ở học đường: Theo số liệu thống kê đầu năm 2015 của Bộ GD&ĐT, trong một năm học, toàn quốc xảy ra khoảng 1.600 vụ học sinh đánh nhau ở cả trong và ngoài phạm vi nhà trường, tương đương khoảng 5 vụ đánh nhau trong một ngày. Nguyên nhân xẩy ra bạo lực có đôi khi không đáng là gì. Chẳng hạn: Vì viết sai chính tả, một học sinh lớp 1 bị cô giáo đánh tím mặt; vì thiếu 5 nghìn đồng “nộp tô”, một nam sinh cấp 2 bị đánh hội đồng dã man; 6 nam sinh bị giáo viên đánh chỉ vì một cái ghế gãy; 6 nữ sinh lớp 9 Trường THCS Quỳnh Long đánh 2 nữ sinh Trường THCS Quỳnh Thuận, Quỳnh Lưu, Nghệ An bằng dép, tát và đối phương dùng chân đạp liên tiếp vào người đối phương như phim hành động (theo dantri.com).
Thứ ba, bạo lực tại các đồn công an: Những năm gần đây người ta thường đồng hóa công an với côn đồ. Bởi vì, công an giả dạng côn đồ hay côn đồ được công an bảo kê để đi đánh người dân. Mặt khác, nhiều người dân được mời đến trụ sở công an, rồi bị đánh cho đến trọng thương, thậm chíbị đánh cho đến chết: Vụ 5 công an dùng nhục hình gây chết người ở Phú Yên ; Nam SinhTu Ngọc Thạch (14 tuổi, học sinh lớp 9) bị công an đánh chết tại trụ sở công an xã Vạn Long, huyện Vạn Ninh, Tỉnh Khánh Hòa…
Ngoài ra, bạo lực còn xảy ra nơi mọi môi trường chúng ta đang sống: trên đường đi, nơi làm việc, nơi quán ăn nhậu, nơi quán cà phê…Chẳng hạn như: Bảo vệ dân phố sát hại bé trai 6 tuổi ở Sài Gòn; nam thanh niên sát hại người tình tại Royal City – Hà Nội; bé trai 6 tuổi tử vong với nhiều vết thương trên người ở Quảng Bình; nam thanh niên bị đâm chết khi đi dự đám cưới tại Nghĩa Đàn, Nghệ An; nam thanh niên giết người vì đèn pha xe mấy dõi vào mặt ở Nghĩa đàn…(theo kenh14.vn).
Chúng ta phải có thái độ nào trước bạo lực? Chúng ta hãy học gương của các Tông đồ, các thánh Tử đạo và đặc biệt gương của Đức Giêsu, các Ngài không bao giờ chủ trương bạo lực, các Ngài còn lên án bạo lực và khi đứng trước bạo lực mà con người gây ra cho các Ngài, các Ngài vẫn bình tĩnh và chấp nhận theo thánh ý Thiên Chúa. Với Đức Giêsu, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin cất cho con khỏi chén đắng này, nhưng đừng theo ý con một làm theo ý Cha”.Thái độ của Đức Giêsu trước bạo lực cũng được diễn tả trong bài đọc I hôm nay: Người tôi tớ đau khổ ở đây chính làNgài; Ngài chấp nhận sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn; Ngài nhịn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống lại bạo lực;đặc biệt, Ngài tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa là Đấng sẽ đến giải thoát mình.
Còn chúng ta thì sao?Chúng ta có chủ trương bạo lực không?Hãy xét lại thái độ sống của chúng ta đối với những người thân trong gia đình, với bà con làng xóm láng giềng, với bạn bè và đồng nghiệp nơi chúng ta làm việc và với mọi người chúng ta gặp gỡ. Có khi nào chúng ta dùng bạo lực để giải quyết các vấn đề không? Chồng có dùng bạo lực đối với vợ không? Vợ có dùng bạo lực đối với chồng không? Cha mẹ có dùng bạo lực với con cái không? Con cái có dùng bạo lực đối với cha mẹ không? Anh chị em có dùng bạo lực đối với nhau không?
Hãy quyết tâm: Không được gây ra bạo lực; không được dùng bạo lực để chống lại bạo lực; hãy xây dựng sự hòa thuận trong gia đình và các mối tương quan bằng cách sống hiền lành và khiêm nhường.
Thánh Phanxico Salesio có bẩm tính rất nóng nảy, họ hàng bè bạn ai cũng biết thế …
Một hôm, có người đến Toà Giám Mục Annecy để thăm thánh nhân. Trong câu chuyện trao đổi hai bên, ông ta nhiều lần lớn tiếng cãi vã, đấm bàn đấm ghế, chỉ trích phê bình và mắng nhiếc thánh nhân thậm tệ. Thế nhưng, thánh Phanxicô vẫn cứ ngồi nghe cách thinh lặng, thỉnh thoảng lại nhã nhặn mời ông khách xơi trà, hút thuốc. Trước những câu nói nặng nề xấc láo, thánh nhân vẫn đáp lại bằng những lời lẽ hết sức dịu dàng, khiến ông khách qúy bắt đầu cảm thấy thẹn thùng rồi từ từ rút lui.
Người anh của thánh nhân ngồi ở phòng sau chăm chú theo dõi câu chuyện hai bên. Khi người khách vừa ra khỏi cổng, ông phóng ngay ra phòng thánh nhân và lạ thay…. Phanxicô vẫn tươi cười bình tĩnh! Ông liền nói:
– Nè, chú Phanxicô, xưa nay chú tính nóng như lửa, sao độ này lại hiền từ nhịn nhục đến thế? Tôi ở phòng sau nghe lão ta nói mà sốt ruột lộn gan, muốn nhào ra đánh một trận cho vỡ mặt hắn ra. Ðồ lếu láo mất dạy!
– Anh à, ai cũng có máu Adong cả. Em cũng bực tức xung giận lắm, nhưng em cố gắng theo gương Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Cứ mỗi dịp như vừa rồi, em lại tập thêm được một chút ít bằng cách tự bảo: này hỡi Phanxicô, hãy đậy kỹ vung, đừng mở, đừng nói gì ráo! Cuối cùng em thấy rằng: lấy một giọt mật, bắt được cả bầy ruồi; chứ lấy cả thùng giấm, chẳng tóm được một con. (Trích: chuyện ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận kể)
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường xin uốn lòng chúng con nên giống Chúa.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Sau 40 ngày chay thánh, hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm sự thương khó, tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta suy niệm cuộc đời của Chúa Giê-su trong những ngày cuối cùng của Người. Tất cả lời nói, hành động và việc làm của Người trong tuần thánh này đều có chung một mục đích nói lên và diễn tả tình yêu cao vời của Thiên Chúa đối với chúng ta, trong kế hoạch cứu độ nhân loại. Chúa nhận và chịu tất cả những sự thương khó và chết sỉ nhục trên thập giá vì yêu thương chúng ta.
Nghi thức hôm nay có hai phần: kiệu lá và Thánh lễ. Phần kiệu lá nêu cao vương quyền của Chúa Giêsu, đồng thời giúp chúng ta sống lại cảnh Người khải hoàn vào thành Giêrusalem để hoàn tất công cuộc cứu độ, và được dân chúng hoan hô đón rước nồng nhiệt, vì họ tưởng Người đến để lãnh đạo họ và giải phóng họ khỏi sự xâm lăng và đàn áp của đế quốc La mã. Nhưng sau đó họ biết Người là một Vua hiền hòa và khiêm tốn, đến mang ơn cứu độ và giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi, cho nên vì thất vọng và tức giận, họ thay đổi thái độ lên tiếng kết án, chung lời phỉ báng, cùng đánh đập, bắt Người vác và đóng đinh Người trên thập giá.
Ông bà anh chị em thân mến. Lời Chúa trong Lễ Lá hôm nay phơi bày và cho chúng ta thấy sự thay đổi tâm dạ con người, từ sự đồng thanh hoan hô đến lời đả đảo, phỉ báng Chúa; từ sự tâng bốc, đưa Chúa lên ngai vua đến sự hạ bệ, đóng đinh và treo Chúa trên thập giá. Đặc biệt qua Bài Thương Khó, chúng ta biết và cảm nghiệm những giờ phút kinh hoàng căng thẳng và cô đơn sau cùng của Chúa. Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín xin đi với Chúa, nhưng không lâu sau đó, họ đã ngủ say để Chúa một mình. Môn đệ Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc, giá của một người nô lệ, bằng một nụ hôn lừa dối. Phêrô đã chối và thề không quen biết Thầy 3 lần trước một đầy tớ gái. Các môn đệ khác sợ hãi bỏ chạy trốn, để Thầy một mình với những người độc ác và với đám đông cuồng nộ, gào thét: “Đóng đinh nó đi.” Họ đã coi Chúa Giêsu ngang hàng hay tệ hơn cả Baraba là một tên phiến loạn giết người.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể cảm nghiệm được những đau khổ phần xác và tinh thần thật đáng kinh sợ mà Chúa Giêsu đã chịu trong giờ sau hết. Thứ nhất là đau khổ về thân xác. Chúa bị đánh đập, vả tát vào mặt, bị roi quất vào thân mình. Người bị đội mão gai nhọn đâm vào máu chảy xuống mặt. Đôi bàn tay của Chúa bị bầm tím đâm xuyên thâu bởi những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân của Người bị quân lính đóng đinh xuyên qua cây gỗ. Thân mình của Người đã bị lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Và đau khổ thứ hai là về tinh thần. Chúa đã bị người ta khạc nhổ vào mặt, bị sỉ nhục, nhạo báng và khinh khi. Khi bị đóng đinh treo trên thập giá, Chúa đã bị kẻ qua, người lại phỉ bang và nhục mạ. Chúa đã chết, một cái chết cô đơn và tủi nhục trên thập giá. Nhưng ba ngày sau đó, Người đã kết thúc kế hoạch cứu độ bằng việc sống lại. Chúa đã phục sinh. Người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, đem ơn cứu độ muôn đời cho nhân loại chúng ta.
Ông bà anh chị em thân mến. Mỗi năm tôi phải thú nhận tự hỏi tại sao Chúa phải nhận chịu những sự thương khó và chết trên thập giá một cách sỉ nhục như vậy? Và mỗi năm tôi nghĩ rằng tôi hiểu thêm một ít, nhưng cuộc thương khó, khổ nạn của Chúa vẫn là một mầu nhiệm. Phải thú nhận tất cả chúng ta có những trăn trở và khó hiểu về những đau khổ của chính chúng ta. Nhưng là những Ki-tô hữu chúng ta tin Chúa đã nhận, chịu khổ hình và chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại, như Người đã nói “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng chết cho người mình yêu thương.” Đó là lý lẽ của một con tim yêu thương và nhân từ. Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giê-su, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), và được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giê-su là một hành trình của ân sủng tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho nhân loại chúng ta. Đó là một an ủi vì biết rằng Thiên Chúa muốn chúng ta tiến tới an bình và hạnh phúc. Thiên Chúa có thể biến đổi những đau khổ trở nên những điều tốt, điều lành.
Chúng ta cầu xin trong Tuần Thánh này biết nhận ra và cảm nghiệm được tình yêu cao siêu của Chúa Giêsu Kitô trên Thánh Giá, để chúng ta luôn trung thành với Vua Giêsu, và cam đảm sống lời Chúa dạy, trở thành chứng nhân cho Chúa. Chúng ta nhận biết, muốn trở thành môn đệ chân chính của Chúa, chúng ta phải vác thập giá và đi theo con đường Chúa đã đi. Xin Chúa giúp chúng ta cùng chết với Chúa, tránh xa những gương xấu của dân chúng xưa, biết hy sinh, quảng đại và chấp nhận, chịu nhiều khó khăn, đau khổ và thiệt thòi, để sống cho Chúa, vì Chúa đã thương yêu và hy sinh hoàn toàn cho chúng ta, và để chúng ta cùng được sống lại vinh quang với Người. Cầu chúc tất cả mọi người một Tuần Thánh sốt sắng, trong ân sủng tình yêu của Chúa Giê-su Ki-tô.
.