CHÚA NHẬT LỄ LÁ_A
Lời Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mt 26,14–27,66
———
- Vác Thập Giá Mình Mà Theo Chúa(Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Vượt Qua Thử Thách (Thiên San, MTG. Thủ Đức)
- Tình Thầy Giêsu (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Cùng đi Giêrusalem (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Dâng Người giọt lệ (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Đứng vững niềm tin (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
- Chúc tụng (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
- Bạn chọn thái độ nào? (Lm. Phê rô Nguyễn Văn Hương)
- Hai sắc thái của mầu nhiệm Vượt Qua (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
- Ý nghĩa cuộc đời (Trầm Thiên Thu)
- Những tủi nhục của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn (Lm. Inhaxio Tr. Ngà)
- Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta (Phanxico Xavie Trần Đức Tuân)
- Xin vâng theo thánh ý Chúa (Lm. Trần Bình Trọng)
- Chẳng lẽ con sao (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
- Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật Lễ Lá_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Một niềm tín trung (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Tình yêu đáp lại hận thù (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Cái chết của lương tâm (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Tình yêu thanh khiết (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
5. Con đường Thập giá (Lm. Đaminh Trần Quang Hiền, SDB)
6. Triết lý khổ đau (Trầm Thiên Thu)
7. Bóng tối và niềm tin (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
8. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ (Lm. Gioan Trần Văn Hào, SDB)
9. Suy niệm Chúa Nhật Lễ Lá. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)
10. Những mâu thuẫn qua cuộc thương khó của Chúa Giêsu (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
11. Bản án bất công (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
12. Niềm vui – Thập giá – và ơn cứu độ (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
13. Ngài cưỡi lừa vào thành (Tiến sĩ Trần Mỹ Duyệt)
14. Từ Thập giá đến Thánh giá (P. Trần Đình Phan Tiến)
15. Con đường Thập giá- (JM. Lam Thy, ĐVD)
16. Giờ chiến thắng vinh quang (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
17. Sức mạnh của Thánh giá (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
18. Tất cả vì yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
19. Chúa vào thành Giêrusalem (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
20. Vua tình yêu đăng quang (AM. Trần Bình An)
21. Cùng chết với Đức Kitô để cùng sống lại với Người (Lm. Giuse Nguyễn)
22. Con đường vào vinh quang ngang qua Thập giá (Lm. Đan Vinh)
VÁC THẬP GIÁ MÌNH MÀ THEO CHÚA
Bông hồng nhỏ
Bước vào hành trình Thương Khó của Thầy Giêsu, ta bắt gặp hình ảnh một người Kyrênê, tên là Simôn đang vác thập giá của Thầy Giêsu (x. Mt 27,32). Một người lạ từ miền quê lên, tình cờ bị quân lính bắt vác thập giá đỡ Đức Giêsu. Các môn đệ của Chúa đâu cả rồi mà lại để một người lạ vác thập giá cho Thầy mình? Khi nêu ra điều kiện phải có để trở thành môn đệ Thầy Giêsu, chẳng phải Người đã nói rõ: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Hình ảnh người môn đệ vác thập giá theo chân Chúa gợi cho ta nhiều suy nghĩ về hành trình làm môn đệ của Thầy Giêsu.
Khi Thầy Giêsu bị bắt, các môn đệ bỏ chạy hết, chỉ có một người vẫn theo Thầy xa xa. “Ông Phêrô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao (Mt 26, 58). Trong bữa tiệc Vượt Qua, Thầy Giêsu đã tiên báo tất cả các môn đệ sẽ vấp ngã vì Thầy. Ông Phêrô liền quả quyết rằng dù tất cả có vấp ngã thì ông vẫn không bao giờ vấp ngã. Thầy Giêsu cho ông hay, nội đêm nay, khi gà chưa kịp gáy thì ông đã chối Thầy ba lần. Ông vẫn không tin vào lời tiên báo của Thầy, còn quả quyết mạnh mẽ hơn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy (x. Mt 26, 30-34). Sau đó, ông đã vấp ngã như lời Thầy tiên báo. Ông không tin vào lời Chúa nói hay ông quá tự tin vào chính mình? Nếu dựa vào sức riêng, ta cũng sẽ gục ngã như vậy. Trong vườn Ghếtsêmani, đang khi Thầy cầu nguyện kêu xin thống thiết thì các môn đệ ngủ vùi. Thầy Giêsu mời gọi: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26, 41). Vì thiếu cầu nguyện, các môn đệ đều vấp ngã. Thiếu cầu nguyện, ta cũng sẽ vấp ngã mà vẫn tưởng mình đứng vững!
Đang khi ông Simôn người xứ Kyrênê vác thập giá cho Chúa thì Phêrô (vốn là người quả quyết sẽ chết vì Thầy) thì nay đang ngồi đâu đó mà khóc lóc thảm thiết vì đã chối Thầy. Khi Thầy bị bắt, các môn đệ bỏ chạy hết thì chẳng còn ai để vác thập giá mà theo Chúa. Có chăng, các ông – mỗi người đang phải vác thập giá của mình: đó là nỗi đau khổ tuyệt vọng của Giuđa khi nhận ra mình đã phản bội mà bán Thầy; đó là những giọt nước mắt thống hối ăn năn của Phêrô khi bắt gặp ánh mắt Thầy Giêsu quay lại nhìn mình, khi ông vừa chối Thầy ba lần; đó là nỗi thất vọng, sợ hãi của các môn đệ khi bỏ Thầy mà chạy thoát thân. Nhưng nếu như chỉ vác thập giá mình mà thôi thì chưa đủ, nếu không muốn nói là chẳng được ích gì? Tại sao thế? Trong lời dạy của Thầy Giêsu, người mời gọi các môn đệ hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa. Như thế, theo Chúa, trở thành môn đệ đích thực của Chúa thì ngoài việc phải dám từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày thì cần có thêm điều kiện tiên quyết là bước theo Chúa. Nếu không bước theo sau Chúa, không cùng chịu hiến tế với Chúa thì thập giá của người môn đệ chỉ là thập giá nặng vai, nhưng nếu biết hiến dâng đời mình cho Chúa thì thập giá sẽ trở nên thánh giá. Mỗi một đau khổ trong đời sống, mỗi một lần vấp ngã vì Thầy, nếu ta biết quay trở về với Chúa, can đảm vác thập giá mình theo sau Chúa thì cuộc sống của ta sẽ trở nên một bàn thờ, trên đó ta hiến dâng cho Chúa đời mình với tất cả những yếu đuối và lầm lỡ, những hy sinh gian khổ hay bất cứ điều gì ta có. Ông Simôn người Kyrênê đã vác thập giá theo sau Chúa, ông trở thành khuôn mẫu cho tất cả những ai muốn bước theo Chúa.
Lạy Chúa Giêsu! Con nguyện xin Chúa ban ơn cho con ơn trở thành môn đệ của Chúa, mỗi ngày biết vác lấy thập giá đời mình mà theo Chúa, để được cùng với Chúa dâng lên Thiên Chúa Cha của lễ hiến tế. Để cuộc đời của con không rơi vào tăm tối vì bao lần vấp ngã, nhưng được nhìn thấy ánh mắt xót thương Chúa đang quay lại nhìn con, cho con lại được cùng Chúa vác lấy thập giá để lên đồi Canvê với Chúa. Amen.
Về mục lục
VƯỢT QUA THỬ THÁCH
Thiên San, MTG. Thủ Đức
Suốt cuộc đời, ai có thể tránh được những khó khăn, thử thách? Thật ra, những khó khăn, thử thách vẫn có đó bên ta nhưng điều quan trọng là trước những khó khăn thử thách vẫn thường xảy ra ấy, chúng ta đã làm gì và đâu là thái độ ta thường có? “Chúa Giêsu Kitô, tuy là Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được vị trí ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người về mọi phương diện, ngoại trừ tội lỗi. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá.” (x. Pl 2, 6-8). Ngước nhìn lên Chúa Giêsu trên thánh giá, chúng ta học được bài học của sự tự hủy vì yêu thương.
Bước vào Chúa nhật lễ Lá, Giáo hội cho chúng ta cử hành nghi thức tưởng niệm việc Chúa Giêsu bước vào thành Giêrusalem với tiếng hò reo vang dậy của dân chúng. Khi bước vào Thánh lễ, chúng ta được nghe đoạn Tin Mừng về cuộc Thương Khó của Chúa. Vinh quang trần thế mau qua là thế! Lòng người đổi thay là thế! Mới hôm nay đây rải lá, tung hô đón Người vào thành thánh nhưng ngày mai lại buông lời kết án, đòi đóng đinh Người vào thập giá. Chúng ta có nhìn thấy đâu đó hình ảnh của mình nơi những nhân vật xuất hiện trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu? Thiết nghĩ, chẳng phải chỉ một mình Chúa Giêsu gặp khó khăn thử thách trong biến cố này. Có thể nói, tất cả mọi người có mặt trong biến cố của Chúa đều gặp thách đố, mỗi người một kiểu: Có nhiều kẻ đã vấp ngã!
Đầu tiên là thách đố đối với các môn đệ. Theo Thầy bấy lâu, họ quen nghe những lời tung hô ca tụng của dân chúng dành cho Thầy của mình. Không ít lần, họ cảm thấy phổng hết mũi vì bao lời tung hô thiên hạ dành cho cả Thầy và trò. Dẫu không ít lần, họ gặp thất bại khi bị chống đối đến nỗi họ chỉ muốn xin thầy cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những kẻ chống đối. (x. Lc 9, 54). Nhưng nói cho cùng, lần này, đứng trước Cuộc Khổ Nạn của Thầy, họ mất hết hy vọng. Thử thách đối với họ quả là quá lớn. Không lớn sao được khi Thầy của mình bị bắt đem đi đóng đinh. Mười hai môn đệ thề sống chết với Thầy nhưng có ai đi trọn con đường? Kẻ này bán Thầy, kẻ kia chối Chúa, tất cả đều bỏ trốn hết. Thế mới biết, phận người thật yếu đuối trước khó khăn, thử thách.
Dân chúng thì sao? Dân chúng thì đông vô kể. Chúng ta chẳng thể biết, trong đám đông đứng lên đòi đóng đinh Thầy Giêsu hôm nào, có ai đã từng mang ơn Thầy, từng được Thầy chữa lành bệnh tật. Nếu có thì điều đó thật là điều đau đớn cho Thầy Giêsu. Đám đông dân chúng không gặp thách đố sao được khi giới cầm quyền liên tục phản đối Chúa Giêsu, không ít lần quyết định sẽ trục xuất bất cứ ai tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Kể cũng tội nghiệp. Họ chỉ biết chọn gió chiều nào theo chiều ấy. Bởi đó, khi quan Philatô ngỏ ý muốn tha Chúa Giêsu thì họ lại nghe lời xúi dục của giới cầm quyền mà xin tha Baraba. Chọn lựa đối với họ thật không dễ, nhiều người trong đám đông còn chẳng có quyền để chọn lựa.
Những người Pharisêu, biệt phái và kinh sư cũng chẳng tránh được những thử thách. Họ đã vấp ngã. Phải chăng, thử thách lớn nhất mà họ gặp phải chính là Đức Giêsu. Đức Giêsu là khó khăn, thách đố lớn nhất họ gặp phải. Những việc làm, những lời nói của Chúa Giêsu xem ra trái với đức tin và truyền thống theo cái nhìn của họ. Mặc dù, Đức Giêsu đã không ít lần khẳng định rằng, các việc Người thực hiện làm chứng Người là ai và từ đâu đến. Họ bị đặt trước những thách đố ngày càng gia tăng, những cuộc đối thoại giữa họ và Đức Giêsu ngày càng căng thẳng, nhất là khi Chúa Giêsu công khai nhận mình là Con Thiên Chúa. Xem ra điều này đi ngược với đức tin vào một Thiên Chúa duy nhất của họ. Không ít lần, nhóm Pharisêu đã giận điên lên vì những giáo huấn và việc làm của Đức Giêsu. Dân chúng dường như đã bỏ rơi họ mà chạy theo Đức Giêsu. Họ không ghen ghét sao được. Thế rồi, họ quyết định khử trừ Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu có gặp khó khăn thách đố không? Câu trả lời là “có”. Ngài gặp nhiều khó khăn, thách đố hơn ai hết. Không thách đố sao được khi các môn đệ bỏ đi hết, kẻ “chối từ”, người “bán đứng”. Không thách đố sao được khi chén đắng Cha trao quá lớn. Với bản tính nhân loại, khi phải đối iện với cái chết gần kề, Đức Giêsu cảm thấy tâm thần xao xuyến, đau đớn đến đổ mồ hôi máu. Người cảm thấy cô đơn khi không tìm được một sự chia sẻ của các môn đệ. “Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy” (Mt 26, 38); Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối.” (Mt 26, 40-41). Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cho mình khỏi uống “chén này” nhưng sau khi cầu nguyện, cuối cùng Người đã thưa lên rằng: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42).
Lạy Chúa, chẳng có ai trong chúng con tránh được những khó khăn, thách đố. Những khó khăn thách đố ấy có thể đến từ chính con người của chúng con, nó có thể đến từ người bên cạnh, từ hoàn cảnh sống… Như Chúa đã vui lòng đón nhận với sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha, xin giúp chúng con biết thay đổi cái nhìn của mình trước khó khăn thách đố vẫn thường xảy đến, để tất cả trở nên phương thế giúp chúng con sống gần với Chúa hơn. Khi chúng con biết kết hợp những đau khổ của bản thân để cùng chia sẻ với những đau đớn của Ngài trong Cuộc Thương Khó, chính là khi chúng con được cùng Chúa chia sẻ cuộc sống này. Xin Chúa thêm ơn giúp sức để chúng con lớn lên, mạnh mẽ hơn qua những khó khăn thách đố. Xin đừng để chúng con bị vấp ngã vì chúng, nhưng khi đã lỡ vấp ngã, xin giúp chúng con biết cùng Chúa đứng lên. Amen.
TÌNH THẦY GIÊSU
Tuần Lễ Lá-A: Mt 26, 14-27, 66
Tiến trình: tre già măng mọc, có công mài sắt, có ngày nên kim; thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu. Từ xa xưa vẫn ngầm nói tới một quy luật: mọi thứ trên đời phải trả giá bằng công sức, tiền của, riêng tình yêu, người ta phải trả giá bằng trái tim rỉ máu, đôi khi phải cả mạng sống. Tình bạn vô cùng đẹp, nếu gặp sự khó bạn bè xuất hiện, trong khi người khác họ mặc kệ, dửng dưng. Trong tình yêu, âm thanh dễ nghe nhất, giai điệu tuyệt vời nhất, chính là điều chất chứa trong tim, họ dành cho nhau vượt lên trên những đòi hỏi của tự nhiên. Tình bạn, tình yêu, tình vợ chồng, theo tuần tự rất đẹp, luôn phản ánh một đòi hỏi lớn dần lên, cao siêu hơn, trách nhiệm to hơn. Nơi nào có tình yêu nơi đó có sự sống. Nơi nào đáng sống nhất, hạnh phúc thật, hẳn có nhiều điều tốt đẹp, dù ta không nhìn rõ, không tường tận hết, nhưng trái tim ta sẽ mách bảo.
Đích đến ở đời đâu phải ta già hay trẻ, giầu nghèo, tài cao đức rộng, tiếng tăm lừng lẫy, chính xác là ta được hạnh phúc. Đỉnh cao của đời người tín hữu, chắc không phải là hành hương “đất thánh”, là được viếng toà thánh Vatican. Cũng không phải được sống theo diễn tiến phụng vụ tuần thánh, mà cả một cuộc đời tự nguyện sống mầu nhiệm tử nạn và phục sinh với Thầy Giêsu. Mang thân phận người, Thầy Giêsu đầy tâm trạng khi đi Giêrusalem, các học trò thì hoảng loạn, dân chúng tung hô vạn tuế Con Vua Đavít, song lại đòi đóng đinh Vua Giêsu ! Mất tiền mất của, không mất, được ơn, đủ tình Giêsu, có tất cả ! Tình cha mẹ đối với con cháu, tình bạn bè, tình vợ chồng, tình thầy với trò, có bình an hạnh phúc không, cứ liên đới hiệp thông cùng Thầy Giêsu, hẳn sẽ có đáp án.
Tình đẹp, tình ngọt ngào, tình chuẩn mực, ai chẳng mê ? Tình Giêsu, tình Thầy ra đi chịu chết, chịu đóng đinh, ai chẳng sợ chẳng khiếp ? Hoa đẹp thơm, hoa tươi thắm, có ngày tàn, tình say đắm, có ngày tan, duy tình Thầy trò: là cao cả, không đắm, không say, cũng không tàn, đừng nghi ngờ. Chúng ta tìm đâu ra Người Thầy vĩ đại: biết trước đứa học trò phản bội, chối Thầy, bỏ Thầy, tham sống sợ chết, nhưng Thầy không dập tắt, không loại trừ ? Tìm nơi nao để có Vị Thầy đủ bình tĩnh, nhẫn nại, trước đám đông: vô ơn bạc nghĩa, nay tung hô, mai đả đảo ? Tìm đâu ra Người Thầy hoàn hảo, vì yêu, sẵn lòng vâng phục thánh ý Chúa Cha: “nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha” ! Tình Thầy Giêsu đã tỏ ra cho các học trò, đang minh chứng cho từng hoàn cảnh nơi chúng ta: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn cứu độ được trao ban cho nhân loại.
Tình Thầy Giêsu, tình Thầy yêu thương phục vụ, tình Thầy quảng đại bao dung, để rồi tình Thầy nhận lại trái đắng, nhận lấy tình sầu, tình buồn, tình bất công ! “Ông Phêrô thề và chối rằng: tôi không quen biết ông ấy” ! “Dân chúng đồng thanh đáp: đóng đinh nó vào thập giá” ! Tình Thầy Giêsu sẽ sống động mãi trong liên đới cầu nguyện, sẽ vĩ đại trước hoạt động “lòng Chúa xót thương”: tình thật khởi đi từ Thầy Giêsu, yêu thật, là kết quả từ khổ đau thập giá Đức Kitô. Tình Thầy trò nào đã hết, đã phôi phai, không, nhất định là không, tình Thầy trò Giêsu rất rõ ràng: yêu là yêu cả tội lỗi, cả phúc đức, bao gồm cả quá khứ của họ. Ở đời vẫn nói: im lặng là vàng, im lặng là đồng ý, im lặng để cơn giận dữ tan biến, chứ không không phải im lặng để chờ đợi lời xin lỗi. Thầy Giêsu im lặng để mở ra cơ hội sống cho các học trò, cho giới lãnh đạo tôn giáo, cho đám đông: tình Thầy sẽ không đưa ai vào ngõ cụt, có chăng họ tự đưa nhau vào đường cùng ngõ cụt.
Tình Thầy Giêsu không chỉ thu phục bằng dấu lạ: no đủ cơm bánh, thể xác được lành mạnh, số câm điếc được nghe Tin-mừng; mà còn là phép lạ biến đổi tâm tính bằng tình yêu Thánh Thần: “đúng người này là Con Thiên Chúa”. Tình Thầy Giêsu vẫn đang phản ánh một sự thật: “dù có phải đối diện với nguy hiểm, con cũng liều chết cùng Thầy”. “Thưa Thầy có phải con không” ? Hứa cho nhiều, hiểu biết nhiều, và được thương yêu nhiều, nhưng rồi lại quên, lại tự an ủi vì mang thân phận yếu đuối ! Vâng, chỉ nơi tình Thầy Giêsu mới đủ bao dung tha thứ, mới đủ thật lòng nói lời thưa vâng: uống cạn chén Chúa Cha trao. Tình Thầy Giêsu vượt qua đau khổ thập giá, tình Thầy Giêsu sống lại từ cõi chết, minh chứng Thầy đã yêu đến cùng, đã tha thứ, đã làm phát sinh sự sống mới nơi những ai tín thác vào tình Thầy Giêsu. Tình Thầy Giêsu sẽ còn nhiều điều hạnh phúc mới, trong tin yêu mới, của mỗi cá nhân sống cầu nguyện, hiệp thông. Tất cả là hồng ân, tất cả đều có cơ hội: cảm nhận tình đẹp nhất là tình Giêsu. Tình bao dung phóng khoáng nhất là tình yêu Thiên Chúa. Tình vĩ đại nhất là tình Thầy, tự hiến thân mình chịu chết và sống lại để cứu độ nhân loại. Xin Tình Thầy Giêsu, cho chúng con được thông phần vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Thầy, đến trọn đời trọn kiếp. Amen.
Lm. Jos DĐH.
Chứng kiến đám đông gào thét vì sung sướng bởi những thành quả tốt đẹp khoa học mang lại cho con người ; tưởng tượng về một số đông đang la hét phản đối vì quyền lợi bị xâm phạm, không xa lạ gì với chúng ta hôm nay. Người tài được kính trọng, người đức độ được nể phục, là điều hết sức tự nhiên, dù thời xưa hay hôm nay, tất cả như muốn nói lên lời cám ơn, biết ơn những vị khôn ngoan đã đầu tư công sức, đã tập luyện để “thành nhân”. Đúng là tài cao đức rộng sống ở đâu, ở thời đại nào, cũng được mộ mến. Lý tưởng của bậc làm cha mẹ là phải học tập cho mình, phải thực hành giáo dục gương sáng cho con cháu: gieo gì gặt nấy ; gieo yêu thương, gặt nhân đức. Các đấng bậc phải trải qua năm tháng gục ngã vì tội lỗi, rồi được tha thứ, được nâng đỡ dậy. Các ngài mới đủ khả năng chỉ cho con cháu kinh nghiệm, thế giới vạn vật này chính là một tấm gương: ta nhăn mặt với chúng, chúng sẽ nhăn mặt lại ta, ta mỉm cười với nó, nó sẽ mỉm cười với ta.
Phụng vụ tuần thánh mời gọi các tín hữu cùng Đức Giêsu đi Giêrusalem, đi vào trọng tâm của tin tưởng mến yêu. Đức Giêsu tiến về Giêrusalem thực thi sứ mạng cứu độ, vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Người kitô hữu chúng ta đi vào tuần thương khó với Chúa Giêsu để thể hiện niềm tín thác, hiệp thông, đi sâu hơn nữa vào đời sống cầu nguyện, sống đức tin kitô giáo. Tại Giêrusalem, tại nhà thờ, hoặc bầu khí gia đình, hay cụ thể hơn là đền thờ tâm hồn, đều có Đức Giêsu, và có đau khổ thập giá, dù thời gian, hoàn cảnh địa lý xưa nay không giống nhau. Con cháu bất hiếu với cha mẹ ông bà, học trò phản thầy, anh chị em ganh tỵ vì quyền lợi không được như ý… Cảnh Giuđa bán Thầy, Phêrô chối Thầy, các môn đệ bỏ Thầy, từ xa xưa vẫn bị xem là hèn nhát. Tuy nhiên, mỗi người, mỗi tâm hồn sẽ phản ánh một sự thật về sự trung tín, mà chúng ta không thể sống như người thiếu hiểu biết.
Ngày hôm nay, nhân loại vẫn có rất nhiều lời chân tình: “đừng người con nào hỏi cha mẹ đã làm gì cho con” ? Đừng ai nghi ngờ Chúa Giêsu còn có hành trình đi Giêrusalem không ? Hãy hỏi ta có sẵn sàng và tin tưởng cùng với Thầy Giêsu vượt qua đau khổ để tới vinh quang không ? Tại sao Chúa Giêsu không ngăn cản đám đông dân chúng đừng trải áo, đừng tung hô “vạn tuế Con Vua Đavít”, vì Ngài đúng thật là Thiên Chúa cứu độ mà nhân loại hằng mong chờ. Và có bao giờ ta tự hỏi: tôi là gì mà Chúa phải chịu đau khổ, chịu chết vì tôi không ? Bằng sự tự do và kinh nghiệm bản thân, mỗi người dễ dàng quả quyết rằng: tôi được hạnh phúc như hôm nay là nhờ cha mẹ ông bà yêu thương hướng dẫn, giáo dục. Đức Giêsu vẫn sẵn lòng đi cùng nhân loại tiến về Giêrusalem thiên quốc là vì yêu, vì muốn cứu từng người trong chúng ta.
Hành trình đi Giêrusalem hôm xưa, có các học trò, có đám đông đã từng chứng kiến phép lạ, có các luật sĩ biệt phái, và có người chỉ a-dua theo, nhiều người trong đó được nghe giảng dạy, được ơn ban của Đức Giêsu. Hành trình hôm nay, Đức Giêsu vẫn là Thầy là Chúa, vẫn chịu đau khổ, vẫn bị tội lỗi của nhân loại đóng đinh, và Chúa vẫn đang nhắc nhớ người thánh thiện, người tội lỗi, hãy nhìn lên thập giá mà sám hối, ăn năn, hầu được dự phần vào mầu nhiệm cứu độ. Cùng đi Giêrusalem, cùng tin tưởng cậy trông Chúa, nhưng mỗi người có cùng để Chúa biến đổi tâm tính, tội lỗi của mình, để cùng chết và sống lại với Chúa không ? Ở trên thập giá năm xưa, Chúa Giêsu nhìn các học trò đầy tình yêu thương, Chúa Giêsu nhìn Philatô, nhìn những người làm khổ Chúa, nhìn cả nhân loại tội lỗi chúng ta hôm nay nữa ! Nhận biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ trần gian mới là khởi đầu, tin tưởng, sám hối, và sống giáo huấn của Chúa, bao giờ cũng là những bước kế tiếp đầy khó khăn mà ta phải bày tỏ niềm tin.
Hành trình đi Giêrusalem hôm nay, có thể ta không mưu mô như Philatô, không phải ngây ngô như các học trò nhút nhát sợ chết, cũng không phải là đối tượng thiên hạ hay mỉa mai: bạc như dân, bất nhân như lính, mau thay lòng đổi dạ ! Nhưng dù ở vị trí nào trong xã hội, hẳn chúng ta cũng chỉ là tội nhân đáng thương trước ơn gọi làm thần dân của Chúa mà thôi. Nếu đi cùng Chúa tiến về Giêrusalem, cùng Chúa bước vào tuần thương khó, chắc chắn ta vẫn được gọi là môn đệ, dù ta “lặng nhìn Chúa không biết thân thưa”, ta vẫn có những giây phút tuyệt vời vì được Thầy Giêsu ngắm nhìn, như Ngài từng nhìn và giúp các học trò của Ngài sống tốt nhất với sứ mạng của mình. Xin Chúa Giêsu chịu đau khổ thập giá, hiện diện và đi với con cái nhân loại tội lỗi là tôi là bạn ; xin cùng đi suốt, đi hoài, trợ giúp con cái Chúa vượt qua hành trình trần thế này cách trọn vẹn. Amen.
Bông hồng nhỏ
Trong cuộc Thương Khó của Thầy Giêsu, có rất nhiều giọt nước mắt đã rơi xuống: đó là giọt lệ thống hối ăn năn của môn đệ Phêrô khi ông nhận ra mình vừa chối Thầy ba lần; đó là giọt nước mắt đầy hối hận của môn đệ Giuđa trong nỗi đau đớn dày vò và tuyệt vọng vì đã bán Thầy. Còn có rất nhiều giọt nước mắt đã và đang rơi xuống trước cái chết của Thầy Giêsu.
Mới ngày nào, các môn đệ, đặc biệt là nhóm Mười Hai đã cùng Thầy Giêsu rảo bước khắp các làng mạc thôn xóm. Được chia sẻ những thao thức và tình yêu của Thầy, lòng các ông đã được bừng cháy, tâm hồn các ông phấn khởi hân hoan. Người ta tôn vinh Thầy, người ta cảm phục quyền năng của Thầy. Từ trong thâm tâm, các ông đều đang chất chứa những tham vọng và ước muốn về địa vị và quyền lực. Các ông có hiểu và cảm thấu những tâm tư và thao thức của Thầy ngay giờ này? Giờ mà Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, bị các kỳ mục và các kinh sư loại bỏ, bị giết chết; giờ mà người chủ chiên bị đánh và đàn chiên sẽ tan tác; giờ mà Con Người bị những người mà mình yêu thương phản bội; giờ Con Người sẽ được giương cao trên thập giá để thực thi thánh ý Chúa Cha và yêu nhân loại cho đến cùng.
Thầy Giêsu đã báo trước: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26, 31). Nghe vậy, ông Phêrô liền quả quyết: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26, 33). Ông tin tình yêu mà ông dành cho Thầy đủ mạnh để vượt qua tất cả những gian nan khốn khó. Thầy Giêsu bảo ông: “Thầy bảo thật anh: nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần” (Mt 26, 34). Ông Phêrô đáp lại: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26, 35). Đó là lòng nhiệt thành của ông. Thầy bị bắt rồi, ông vẫn theo Thầy xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao (x. Mt 26, 57-58). Ông đã không bỏ Thầy như các anh em khác, dù lo sợ nhưng vẫn âm thầm dõi bước theo Thầy. Người ta hỏi ông, khẳng định ông là môn đệ của Thầy Giêsu, giữa lúc đó ông đã thề thốt mà chối Thầy. Tiếng gà vừa gáy, ông mới sực nhớ lời Thầy đã tiên báo rằng ông sẽ chối Thầy ba lần. Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết (x. Mt 26, 69-75). Ông nhớ đến lời của Thầy. Trong nỗi đau vì đã chối Thầy, ông nhận ra Thầy luôn là người hiểu rõ ông, hiểu rõ con người yếu hèn nơi ông. Thầy biết ông sẽ vấp ngã, sẽ phản bội nhưng vẫn chọn ông làm trưởng các Tông đồ. Thầy vẫn yêu thương ông, dù biết trước ông sẽ chối Thầy đến ba lần. Lời Thầy không làm cho ông tuyệt vọng nhưng cho ông nhận ra yếu đuối của chính mình. Trong sự vấp ngã đau thương, ông nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho mình. Rồi đây, ông sẽ đứng lên để vững bước theo Thầy. Trên con đường của người môn đệ, chắc chắn chúng ta cũng sẽ ngã nhiều lần như Phêrô, và cũng có thể sẽ ngã nhiều lần hơn thế, đau đớn hơn thế, nhưng điều quan trọng là chúng ta có can đảm để tiếp tục bước theo Thầy trên đường thập giá hay không? Có một người môn đệ cũng đã vấp ngã, đã phản bội Thầy, đó là Giuđa. Khi thấy Người bị kết án thì anh hối hận, anh trả hết bạc cho các thượng tế và kỳ mục để chuộc lại lỗi lầm. Thế nhưng, họ mặc kệ anh. Biết rằng không thể làm thay đổi ý định giết Thầy Giêsu của các thượng tế và kỳ mục, Giuđa vô cùng tuyệt vọng và đã ra đi thắt cổ (x. Mt 27, 3-5). Đau đớn và tuyệt vọng đã làm cho anh không còn thấy niềm hy vọng được tha thứ. Anh không tin vào tình thương của Thầy hay không thể tự tha thứ cho chính mình? Khi tội lỗi làm chúng ta ngã quỵ trong đau thương, chúng ta hãy vững tin vào tình thương bao la của Thiên Chúa, tin vào tình thương mà Thầy Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa Giêsu để được Người nâng đỡ, ủi an. Chính Người đã chết để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy dâng Người giọt lệ sầu thống hối và nhận lấy niềm tin và hy vọng từ chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Nơi Người, chúng ta sẽ được đón nhận tình thương bao la của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu! Tội lỗi thường làm cho chúng con ngã quỵ và vây kín chúng con trong bóng đêm của nó. Mỗi ngày, xin cho con biết chạy đến bên Chúa Giêsu Thánh thể, để nhờ ơn Chúa, con biết chân thành sám hối về các tội lỗi con đã phạm, để trong tình thương của Chúa, con dám đối diện với nỗi đau và gánh lấy sức nặng của tội; để khi “được cùng chịu đóng đinh với Chúa Kitô vào thập giá, con cũng được sống lại với Người”. Xin Chúa Giêsu nhận lấy giọt nước mắt thống hối của con và biến nó thành nước mắt của vui mừng và hy vọng. Amen.
Anna Cỏ May
Trong các chương trình âm nhạc, khi các ca sĩ hay những người chơi âm nhạc xuất hiện thì thường có hai phản ứng: hoặc là mọi người vỗ tay hoan hô chào đón cách nồng nhiệt hoặc là ném “đá”. Tại sao chúng ta lại có phản ứng như vậy?
Khi Đức Giêsu và các môn đệ vào thành Giêrusalem, dân chúng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại nhặt nhành lá mà rải lên đường đi và reo hò vang dậy: “Hoan hô Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (x. Mt 21,8-9). Dân chúng đã từng chứng kiến quyền năng của Đức Giêsu qua rất nhiều phép lạ, nhất là qua sự sống lại của anh Ladarô. Từ đó, họ hy vọng Ngài sẽ đem lại cho họ một cuộc sống sung túc trong danh vọng tiền tài, không còn thiếu của ăn của để. Ngay cả các môn đệ, các ông vẫn luôn mong ước điều đó. Nhưng sau khi vào thành Giêrusalem, mọi sự đã thay đổi từ cái hôn của Giuđa – kẻ nộp Thầy với ba mươi đồng bạc. Trong vườn Dầu, các môn đệ bỏ chạy hết. Đám quân lính đến bắt Ngài không mất chút sức lực nào. Ngài đi vào cuộc thinh lặng. Ngài thinh lặng trước những lời tố cáo phỉ báng của các thượng tế và những người Pharisêu. Họ tố Ngài là kẻ chống lại Lề Luật, chống lại Đền Thờ và chống lại niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Dân chúng cũng đồng tình với giới lãnh đạo và đồng thanh kết án Đức Giêsu. Mặt khác, dân chúng nhìn thấy người mà mình từng đặt hy vọng bây giờ không còn gì nữa mà chỉ còn một sự đau khổ và nhục nhã. Bên cạnh đó, thượng tế Caipha cũng đã nói: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,50). Dân chúng đã nghe theo những ai có lợi thế hơn lúc này. Chỉ còn số ít ngậm ngùi trong giọt lệ khóc than với Thầy. Như vậy, dân chúng đón rước Đức Giêsu khi họ nhìn thấy vinh quang uy quyền của Ngài, nhưng lại dễ chối từ Ngài bởi lời tố cáo của người khác và cũng bởi vì nhìn thấy thực tại của Ngài giờ đây không còn có ích cho họ nữa.
Nếu chúng ta không tỉnh thức, chúng ta cũng sẽ rơi vào thái độ của dân chúng lúc bấy giờ. Trong cuộc sống hiện nay, chúng ta không chỉ phải đối diện với bệnh dịch mà còn bị thử thách đức tin. Đã có nhiều người cho rằng Thiên Chúa đang giáng phạt con người qua bệnh dịch này, khiến cho nhiều người mất đi niềm tin vào lòng thương xót và nguồn cậy trông vào sự tha thứ của Thiên Chúa. Là người Kitô hữu, chúng ta càng không thể đánh mất đức tin mà bấy lâu nay chúng ta đã đang cố gắng gìn giữ và xây dựng. Trên thánh giá, Đức Giêsu trong một thân xác đau đớn, hơi thở yếu dần, đã thưa với Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Chúng ta hãy vững tin vào Thiên Chúa mà chạy đến tựa nép bên Ngài. Vì Ngài đã nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11).
Lạy Chúa giàu lòng thương xót, xin thương chúng con trong cơn thử thách về thể xác cũng như tinh thần. Để nhờ ơn Chúa đỡ nâng, chúng con biết cùng nhau vượt qua và tiến về ngôi nhà duy nhất là Nước trời. Amen.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thầy trò đến núi Cây Dầu,
Giê-ru-sa-lem, đối đầu công khai.
Sai hai môn đệ hôm mai,
Đến làng trước mặt, quản cai hỏi nhờ.
Thầy cần lừa mẹ bây giờ,
Dùng xong gởi trả, cậy nhờ tựa nương.
Lời xưa ứng nghiệm tỏ tường,
Si-on thiếu nữ, bên đường tung hô.
Vua ngươi nhân ái bước vô,
Ngồi lưng lừa mẹ, chở đồ kéo lê.
Đoàn dân trải áo bên lề,
Nhành cây trải lối, Chúa về Sa-lem.
Mọi người thành phố ra xem,
Hoan hô chúc tụng, rước đem vào thành.
Tầng trời tuôn đổ ơn lành,
Con Vua Đa-vít, nhân danh Chúa Trời.
Tiên tri nhân đức cao vời,
Xuất thân làng nhỏ, gọi mời dấn thân.
Na-gia-rét đó vọng ngân,
Ngôi Hai Thiên Chúa, thế nhân cứu đời.
Bước vào Tuần Thánh là thời gian quan trọng nhất trong lịch phụng vụ. Chúng ta sẽ tưởng niệm sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bắt đầu Tuần Thánh với sự kiện Ngài vào thành Giêrusalem. Dân chúng hoan hô đón chào. Nhiều người chặt cành là vẫy chào và có nhiều kẻ trải áo xuống đường đón rước Chúa trong tiếng tung hô: Hoan hô con Vua Đavít.
Chỉ sau vài ngày, những tiếng tung hô đã trở thành những tiếng gào thét. Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá. Sau hơn 2000 năm, tiếng gào thét vẫn còn vang vọng nơi nơi. Hãy tha Baraba và giết Giêsu. Giữa thế giới trần tục hôm nay, thiên hạ vẫn lên tiếng ủng hộ những kẻ làm điều ác. Họ vẫn cứ giơ tay ủng hộ những phong trào vô luân. Nhiều người đồng ý ủng hộ những phong trào phá thai, chiến tranh, đồng tình luyến ái, tự do sống chung…Nhiều người vẫn muốn giết Chúa Giêsu, loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Những biểu tượng thánh giá bị gỡ bỏ, những dấu hiệu tôn giáo bị cấm cản.
Nhiều người muốn tha Baraba để rồi khỏi phải nghe những lời khuyên dạy về đạo đức luân lý. Họ coi những lời khôn ngoan dạy bảo của Chúa như lỗi thời không còn thích hợp với đời sống văn minh tiến bộ. Họ muốn chính họ là chủ cuộc đời trong mọi chọn lựa. Thật lạ lùng, đám đông theo Chúa, họ đã nhận lãnh biết bao hồng ân, đã chứng kiến biết bao phép lạ và đã nghe biết bao bài giảng của Chúa. Rồi trong giây phút quan trọng, họ đã quay mặt làm ngơ và giơ tay đả đảo. Họ phỉ báng nhạo cười và thách thức Chúa. Ôi, thật bạc bẽo chua cay!
Chúa cũng còn chút an ủi, một số những bạn bè thân cận âm thầm bước theo sau. Đặc biệt là các con gái thành Giêrusalem. Họ không dám lên tiếng bênh vực cho Chúa cách công khai, nhưng cảm thông và âm thầm chịu đựng.
Theo Chúa, chúng ta phải có sự chọn lựa chính xác. Chúng ta không thể làm tôi hai chủ. Chọn Chúa hay chọn Baraba. Nhiều khi chúng ta muốn trung dung và không có thái độ dứt khoát. Chọn Chúa là chọn con đường thập giá. Có thánh giá là có hy sinh và có đau khổ. Qua thập giá sẽ đưa chúng ta đến vinh quang.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Với Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào Tuần Thánh, là tuần cao điểm của năm phụng vụ, để cử hành và tưởng niệm cuộc Khổ nạn và Phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu, Chúa chúng ta. Nếu chúng ta để ý, chúng ta thấy Phụng vụ của Lễ Lá có sự mâu thuẫn:
Trước thánh lễ, đó là nghi thức rước lá: nghi thức diễn tả thái độ vui mừng và nồng nhiệt của dân Do Thái đón tiếp Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem: họ cầm lá trong tay, rồi còn lấy áo mình trải cho Chúa Giêsu đi, một cử chỉ rất nồng nhiệt như chào đón một vị vua hay Đấng Cứu Thế.
Tuy nhiên, khi bước vào thánh lễ, các bài đọc lại diễn tả toàn là những sự đau khổ của Chúa Giêsu, đặc biệt trong bài Thương Khó.
Đây là sự tương phản mà Giáo Hội có dụng ý muốn diễn tả qua Phụng vụ này để làm nổi bật sự mâu thuẫn của thái độ hay thay đổi của con người. Sự mâu thuẫn này bắt nguồn từ lòng dạ của con người, từ trái tim của mỗi người chúng ta: mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, mâu thuẫn trong thái độ sống, giữa lời tuyên xưng niềm tin và đời sống cụ thể.
Sự thay lòng đổi dạ này là sự kiện lịch sử đã xảy ra trong vụ án Giêsu, mà Giáo Hội truyền lại cho chúng ta để chúng ta khám phá ý nghĩa của nó và giúp chúng ta sống tốt đức tin mình hơn.
1- Thái độ của người Do Thái
Trước hết, thái độ và lòng dạ của dân Do Thái: Đây là thái độ mâu thuẫn và bất nhất của họ đối với Chúa Giêsu: chỉ trong mấy ngày trước, khi Chúa vào thành Giêrusalem, họ vui mừng, tung hô, hò reo, tôn vinh Chúa là Con Vua Đavít, nhưng sau đó mấy ngày, chính họ là những người hô to: “Đóng đanh nó đi, giết nó đi.” Đó là thái độ bất nhất!
2- Thái độ mâu thuẫn của các môn đệ
Thứ đến là thái độ của các môn đệ, trong đó có thái độ của Phêrô, một môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu, trước đó, ông hùng hổ dám tuyên bố với Chúa rằng ai đến bắt Chúa thì phải bước qua xác ông. Vậy mà chỉ sau đó một thời gian ngắn, một cô gái hỏi: “Ông có phải là môn đệ Đức Giêsu không?” Phêrô đã chối đành đạch ba lần rằng: “Tôi không biết Người ấy.” Ôi người nhát đảm quá!
Một Giuđa mới ngày hôm trước ngồi ăn với Chúa, gần gũi với Chúa, thầy thầy, con con, nhưng ngày hôm sau, ông đã bán rẻ Chúa với giá 30 đồng bạc. Ông dùng nụ hôn là nghĩa cử yêu mến để làm dấu cho người ta bắt Chúa. Bên ngoài đạo đức, bên trong là dao găm, nham hiểm! Đồ hai mặt!
3- Thái độ của những người lãnh đạo tôn giáo
Họ là những Luật Sỹ, Kinh Sư hay thuộc nhóm Pharisêu. Họ duy lề luật, cứng nhắc, thành kiến và khó thay đổi trong xác tín, niềm tin của mình. Trước sứ điệp mới mẻ của Chúa Giêsu, họ không chỉ không đón nhận mà còn tìm mọi cách để chống đối Chúa Giêsu. Chính họ là những người đã gây nên vụ án của Chúa Giêsu. Họ là những người đạo đức giả, chạy theo bề ngoài, nhưng tâm địa đầy độc ác và gian thâm.
Tuy nhiên, khi suy niệm cuộc khổ nạn Chúa Giêsu, chúng ta không phải chỉ tưởng nhớ những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng khi suy niệm những thái độ sống của những nhân vật trên, chúng ta được mời gọi liên hệ đến mình, soi bóng mình trong đó. Cử hành là liên hệ với đời sống chúng ta.
Nếu hiểu như thế, khi suy ngắm những mâu thuẫn của những người Do Thái và các môn đệ đối với Chúa Giêsu, chúng ta cũng khám phá ra chính chúng ta cũng có những thái độ tương tự như thế đối với Chúa. Sự mâu thuẫn luôn có mặt trong cuộc đời và trong đời sống đức tin của mỗi người.
Mới ngày hôm qua chúng ta đọc kinh, xem lễ đạo đức lắm, nhưng hôm nay đã chối Chúa rồi.
Mới hôm qua hứa với Chúa sẽ không phạm tội, nhưng hôm nay đã phạm tội rồi.
Ở trong nhà thờ chúng ta sốt sắng tuyên xưng Chúa là Vua, Đấng Cứu Độ, nhưng ra khỏi nhà thờ, chúng ta lại sống như những người vô đạo, lừa lọc, gian dối với anh chị em mình…
Nhưng chúng ta có thể chọn theo một trong ba thái độ sau:
Thái độ thứ nhất là tuyệt vọng : Giống như Giuđa, biết mình phạm tội, nhưng ông đã tuyệt vọng trong tội lỗi, và ông đã đi thắt cổ tự tử. Đó là thái độ tuyệt vọng trước tội lỗi của mình và đánh mất niềm tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Thái độ đó đưa đến bế tắc, tự tử.
Thái độ thứ hai là cố tình ở lỳ trong tội : Những người lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ, là những người trực tiếp gây ra án chết của Chúa Giêsu, nhưng sau khi Chúa phục sinh, họ vẫn cố tình ở lỳ trong tội, không chấp nhận sám hối, không biết ăn năn để trở về với Chúa.
Thái độ thứ ba là sám hối : Đó là thái độ của Phêrô, ngài ý thức tội của mình, khóc lóc, sám hối, và khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi của mình, xin Chúa tha thứ, nhờ đó, từ kinh nghiệm về tội lỗi và sám hối, ông đã trở thành người đứng đầu trong Giáo Hội và hướng dẫn cộng đoàn, nhờ thái độ khiêm tốn và sám hối của mình.
Như thế, tuyệt vọng, ngoan cố, ở lỳ trong tội, hay là sám hối trở về, trong ba thái độ đó, anh chị em chọn thái độ nào? Câu trả lời là tùy thuộc vào quyết định của anh chị em trước mặt Chúa trong Tuần Thánh này. Amen!
HAI SẮC THÁI CỦA MẦU NHIỆM VƯỢT QUA
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài là người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Ngài đón nhận Thập giá tủi nhục thất bại, và đã biến đổi Thập giá thành nguồn ơn cứu độ, tình thương tha thứ cho nhân loại tội lỗi.
Phụng vụ bước vào Tuần Thánh với khởi đầu là Chúa Nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Thương khó, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó.Việc cử hành hôm nay mang hai sắc thái có vẻ nghịch nhau : mới mừng cuộc khải hoàn của Chúa Kitô, rồi lại cảm thông nỗi thống khổ của Người. Phụng vụ hôm nay kết hợp hai khoảnh khắc trái ngược nhau; cuộc chào đón Đức Giêsu vào Giêrusalem và thảm kịch Thương khó; lễ hội “Hosanna” và những tiếng la ó lặp đi lặp lại “Đóng đinh nó vào thập giá!”; cuộc khải hoàn và sự thất bại bề ngoài qua cái chết trên thập giá.
Bài Thương khó kể lại từng chặng đường đau thương của Đấng Cứu Thế. Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Thầy. Giuđa chỉ điểm bắt Thầy bằng một nụ hôn giả dối. Các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Thầy. Chúa Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Họ khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào da thịt. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để rồi thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thơ, mau kiệt sức và chóng chết. Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền!. Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Ngài như thế.
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).
Cuộc khải hoàn rước lá của Chúa Giêsu là một dấu chỉ của chiến thắng vinh quang chung cuộc. Việc kiệu lá cho thấy rõ ý nghĩa đích thực của đau khổ và thập giá. Tương tự trong sự kiện “biến hình” trên núi Tabo: Chúa Giêsu cho ba tông đồ thoáng thấy vinh quang thần tính. Khi xuống núi, Ngài ra lệnh cho ba tông đồ phải bảo mật cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết, nghĩa là cho đến khi ý nghĩa của biến cố được tỏ bày. Cũng chính ba tông đồ thân tín chứng kiến cơn hấp hối của Chúa ở vườn Cây Dầu. Sau Phục sinh, Chúa Kitô cũng giải thích cho hai môn đệ trên đường Emmau: “Đức Kitô không phải chịu đau khổ như thế rồi mới vào vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26).
Như vậy ngay từ Lễ Lá, hai sắc thái, hai cục diện của mầu nhiệm Vượt Qua được trình bày rõ ràng. Lễ Lá trình bày hai cục diện theo thứ tự đảo ngược : vinh quang trước, khổ nạn sau. Nhưng thứ tự đó biểu lộ thực chất của mầu nhiệm Vượt Qua. Mầu nhiệm Vượt qua cơ bản là một mầu nhiệm đạt tới vinh quang và sự sống. Sự chết chỉ là bước đi qua, là phương tiện để đạt tới mục đích là vinh quang Phục Sinh. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Chúa Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Chúa Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng.
Trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền. Tình yêu ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh.
Bước vào Tuần Thánh, chúng ta cùng theo Chúa Giêsu trên con đường Thập giá.
Theo Chúa không chỉ khi gặp may mắn, thành công, bình an mà còn chấp nhận khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại.
Theo Chúa không là con đường “xuôi chèo mát mái” hoàn toàn hạnh phúc an lành, mà còn là con đường chọn lựa quyết liệt với những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực thế gian.
Theo Chúa Giêsu là đi con đường thập giá vừa lên dốc, vừa nhiều ổ gà ổ voi và vừa là con đường một chiều. Con đường ấy hẹp chứ không thênh thang theo những trào lưu dễ dãi, giả dối, ích kỷ, hận thù, bạo lực… nên cần phải sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung.
Tuần Thánh, cùng đi vào hành trình thương khó của Chúa, chúng ta gặp thấy nhiều tình huống tăm tối của “nhân tình thế thái” như vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình Yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh đối với Chúa Cha và lòng xót thương với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Cảm nếm và thông phần với nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng vẫn luôn nhận ra lòng xót thương nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài theo Tin Mừng kể lại. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta càng yêu Thập giá của Chúa hơn, yêu thập giá của mình hơn và kính trọng thập giá của người khác hơn.
Theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là một thách đố lớn trong bối cảnh thời nay. Xác tín rằng, có Chúa cùng đồng hành, Ngài luôn thấu hiểu nâng đỡ, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên hành trình theo Ngài. Nếu can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
Trầm Thiên Thu
Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa
Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua
Cuộc đời không là cuộc dạo chơi, mà là cuộc đấu tranh – khó nhất là chiến đấu với chính mình, vượt qua “cái tôi” tồi tệ của mình. Và người ta vẫn nói rằng “đời là bể khổ.” Khổ đủ thứ, khổ mọi chiều – ngang, dọc, trên, dưới, cao, thấp, dài, ngắn.
Người ta chỉ thở dài chứ không thở ngắn. Thở dài thườn thượt vì khổ, biết là khổ mà chẳng ai định nghĩa được thế nào là khổ một cách chính xác và thỏa mãn nhất. Theo cách tương đối, có thể tạm hiểu với công thức giản lược: Đau khổ = Ưu sầu + Nước mắt. Tất nhiên phải “trừ” loại nước mắt vui mừng, dù hai loại nước mắt đều có vị mặn. Người ta dễ dàng lấy vạt áo lau khô những “giọt mặn” rỉ ra từ đôi mắt, nhưng rất khó xóa “vết mặn” khỏi trái tim mình. Thật vậy, sướng hay khổ còn do mỗi người có khái niệm riêng. Có những triết lý dễ hiểu, có những triết lý khó hiểu, thậm chí là không thể hiểu: Triết lý sống động của Thập Giá. Đó cũng là loại triết lý của sự đau khổ rất đặc biệt.
Chân phước Charles de Foucauld phân tích chí lý: “Trên thế giới đau thương này có một niềm vui mà các thánh và các thiên thần trên thiên đàng không được hưởng – đó là được cùng đau khổ với người yêu dấu của chúng ta. Dù cuộc sống có gian truân đến đâu, chuỗi ngày thê lương của chúng ta có lê thê đến mấy,… chúng ta cũng đừng bao giờ rời xa chân Thập Giá trước khi Chúa muốn. Thầy Chí Thánh thật nhân lành đã cho chúng ta, những tâm hồn yêu mến Thập Giá, được cảm nghiệm sự ngọt ngào của nó, nếu không phải luôn luôn, thì ít ra là vẻ đẹp và sự cần thiết của nó.”
Là con người, chắc chắn chẳng ai chờ đợi niềm đau nỗi khổ, thế nhưng đau khổ vẫn luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố gắng hiểu suốt cả đời. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa quả. Chúa không khiến nó mọc lên trên những cành quá yếu ớt để chịu nổi nó.” Còn Elbert Hubbard nói: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Vì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống.” Ý tưởng thâm thúy. Chính đau khổ lại khiến người ta nên khôn, một sự thật vô cùng kỳ lạ!
Cuộc sống đời thường cho thấy rằng những con người có cách sống tốt đẹp là những người từng bị thất bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và họ đã tìm được con đường ra khỏi vực sâu, thoát khỏi đường hầm. Những con người này có lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời, chính cuộc đời đã làm cho họ biết cảm thông, biết quan tâm chia sẻ và yêu thương sâu sắc. Rõ ràng không phải tự nhiên mà có, nhưng phải phấn đấu không ngừng – tức là gian nan, vất vả, đau khổ,…
Quả thật là kỳ diệu đối với triết lý đau khổ. Cái xui có sần sùi nhưng là cái bùi nhùi chùi bóng cuộc đời. Kinh Thánh cho biết rằng hung tin dồn dập, nhưng ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21) Mặc dù đau khổ đến tột cùng, nhưng “ông Gióp KHÔNG hề phạm tội cũng KHÔNG buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1:22) Hai cái “không” của ông thật tuyệt vời. Ai hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản, bình an, bình lặng nhưng êm đềm.
Như để tự an ủi để vượt qua đau khổ, người ta thường nói: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm.” Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu theo góc độ nào đó về Chúa Giêsu, Đấng nhập thể làm người. Kinh Thánh cho biết cuộc đời Ngài đầy đau khổ ê chề, thế nhưng Ngài vẫn có được khoảnh khắc huy hoàng là được thiên hạ tung hô lúc Ngài cưỡi trên lưng lừa khi vào Thành Giêrusalem. Và giờ của Ngài đã đến!
Hôm nay, Giáo Hội sử dụng bài ca thứ ba trong các Bài Ca của Người Tôi Trung, tuy ngắn gọn mà súc tích: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.” (Is 50:4-5) Vẫn giữ được lòng trung tín trong lúc đau khổ như vậy thì không dễ chút nào, đức tin phải thực sự mạnh mẽ lắm.
Trong đại dịch hiện nay, mỗi chúng ta đều cần có đức tin như vậy để không bị chi phối, không bị hoảng loạn, biết sống liên đới và nâng đỡ nhau, không suy diễn lệch lạc gây ảnh hưởng xấu tới đức tin chân chính Kitô giáo.
Có điều kỳ diệu là nỗi đau khổ không làm người ta yếu đuối mà lại làm tăng sức chịu đựng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is 50:6-7) Thật là kỳ diệu, những người không có niềm tin Kitô giáo chắc chắn không thể hiểu được, và sẽ cho những người chịu đau khổ là những người điên khùng.
Trong khi đau khổ tột cùng, Thánh Vịnh gia đã thốt lên: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Thách thức quá lớn, khoảng cô đơn quá rộng, thật ê chề nhục nhã quá đi!
Người ta cảm nhận chí lý: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí.” Điều đó như một quy luật muôn thuở, giống như định mệnh vậy. Đau khổ này chồng lên đau khổ khác: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.” (Tv 22:17-20) Không còn gì để mất nữa, khốn khổ tột cùng, lo sợ run cả người, nguyện cầu không ngừng, thế nhưng vẫn chẳng nghe động tĩnh gì. Trong cơn đại dịch hiện nay, cả thế giới cũng đang có cảm giác như vậy!
Tuy nhiên, dù có thế nào thì vẫn một niềm tín thác, vẫn xưng tụng Thiên Chúa, vì đó là mục đích sống của tín nhân: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Israel tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:23-24) Và chẳng có gì tách tín nhân ra khỏi Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô. (Rm 8:39)
Sống nhờ hơi thở cầu nguyện. Cầu nguyện cũng là dưỡng chất tâm linh. Cầu nguyện mà không nghe động tĩnh gì, đó là dấu chỉ chắc chắn rằng Chúa đang xót thương. Lại thêm một điều kỳ diệu. Muốn hiểu được triết lý này thì cần phải có niềm tin Kitô giáo. Với người ngoài Kitô giáo hoặc vô thần, họ cho đó là “bùa mê, thuốc lú,” ai tin như vậy đều bị họ coi là dại dột, là dốt nát, là ngu xuẩn hoặc điên rồ. Nhưng cái dại đó lại là cái khôn kỳ diệu.
Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2:6-7) Chúa Giêsu không chỉ tự nguyện như vậy, mà còn hơn thế nữa: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:8) Đúng là mầu nhiệm, do đó mà khó hiểu. Tuy nhiên, “khó hiểu” chứ không phải là “không thể hiểu.” Nghĩa là vẫn có thể hiểu – hiểu bằng đức tin và đức mến.
Dù là dạng tình yêu nào thì cũng cần “chất” đau khổ, có đau khổ mới chứng tỏ tình yêu chân chính. Đại văn hào Victor Hugo nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong tình yêu.” Chết mà là sống. Người đời mà còn nhận định được như vậy thì kỳ lạ thật!
Sự đau khổ luôn có giá trị nhất định và thực sự độc đáo. Gian nan dẫn đến thành công, đau khổ đưa tới vinh quang. Tương tự, sự chết là đường dẫn tới sự sống, là cửa ngõ mở lối vào cõi trường sinh. Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Ai tin nhận Ngài sẽ được sống đời đời. (Ga 3:16; Ga 6:47)
Khi Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem cũng là lúc Ngài bắt đầu đi vào cõi đau khổ, rồi từ “biên giới” đầy gian khổ là Vườn Dầu tiếp tục dẫn tới “cửa ải” sự chết là Núi Sọ, thế nhưng từ Núi Sọ “chết chóc” ấy lại dẫn tới cửa sự sống là Nước Trời. Một bản đồ lòng vòng như mê cung nhưng lại thú vị và hấp dẫn, có biết bao người mong được sử dụng loại bản đồ này, và nhiều người đã đạt được mục đích – các thánh nhân, đặc biệt là các vị tử đạo. Lối hẹp mà hóa đường rộng, vị cay đắng trở thành vị ngọt ngào.
Dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, chuyện gì đến cũng sẽ đến. Đó là điều tất yếu của cuộc đời. Ngày Chúa Giêsu được người ta tiếp đón và chúc tụng nhưng Giáo Hội sử dụng bài thương khó – bộ phim trĩu nặng u buồn.
Một người trong Nhóm Mười Hai, Giuđa Ítcariốt, đành lòng bán Thầy mình để lấy một số tiền. Từ lúc đó, gã cố tìm dịp thuận tiện để nộp Thầy mình. Vật chất và tiền bạc có ma lực cực mạnh khiến người ta mù quáng, không còn đủ lý trí sáng suốt để phân biệt đâu là phải – trái. Ma lực đó khó cưỡng lại, nên nhiều người chết vì nó!
Vào ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu xem Ngài muốn họ dọn Tiệc Vượt Qua ở đâu. Ngài dặn dò họ kỹ lưỡng từng chi tiết.
Hoàng hôn buông xuống. Thời điểm quan trọng. Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Đang tiệc vui, bỗng dưng Ngài bảo có người sẽ nộp Ngài. Các môn đệ ngạc nhiên và buồn lắm, họ hỏi nhau để biết ai là thủ phạm. Không ai biết. Ngài nói: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26:23-24) Giuđa chột dạ nhưng vẫn giả nai: “Thầy ơi, chẳng lẽ con sao?” Và Ngài xác nhận là đúng, không sai!
Cũng trong dạ tiệc đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” (Mt 26:26) Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt 26:27-28) Đây là giây phút linh thiêng và xúc động, nhưng lại có nỗi buồn khi Ngài bảo: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.” (Mt 26:29) Buồn thật. Và nỗi buồn đó như đang thấm vào mỗi chúng ta trong đại dịch Corona này!
Hát thánh vịnh xong, Thầy trò cùng ra núi Ôliu. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các ông về nhiều điều cần thiết, vừa cảnh báo vừa trăn trối. Nghe Thầy nói đích danh mình là sẽ chối Thầy ba lần. Ông Phêrô nói chắc: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” (Mt 26:35) Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Nhưng rồi điều gì đến vẫn cứ đến. Sự thật là sự thật, và lời tiên báo cũng ứng nghiệm.
Bước vào Vườn Dầu – Ghếtsêmani, Ngài bảo mọi người ở lại, chỉ dẫn theo Phêrô và hai người con ông Dêbêđê đi theo. Ngài bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến cực độ nên phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26:38) Ngài đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Nhân tính thật yếu đuối, nhưng Ngài vẫn quyết tuân phục Ý Cha cho đến cùng, không theo ý riêng.
Khi trở lại chỗ ba đệ tử, Ngài thấy họ ngủ say, và Ngài nói: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy CANH THỨC và CẦU NGUYỆN, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:40-41) Cuộc chiến tâm linh thật khó khăn, nhưng không thể không chiến đấu.
Nói xong, Ngài lại đi cầu nguyện lần thứ hai: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” (Mt 26:42) Rồi Ngài quay lại, thấy các môn đệ vẫn đang ngon giấc, mắt họ nặng trĩu. Có lẽ họ thấm mệt vì có chút men và trời đã quá khuya. Phàm nhân là thế. Ngài để cho các ông ngủ mà đi cầu nguyện lần thứ ba, cũng với lời như trước. Rồi Ngài đến chỗ các môn đệ, đúng lúc kẻ nộp Ngài vừa tới. Giờ G đã điểm!
Tỏ ra tất thản nhiên và lịch sự, Giuđa đến chào và hôn Thầy, nhưng đó không là dấu yêu thương mà là dấu “chỉ điểm” cho những kẻ ác bắt Thầy. Phêrô nóng gáy nên rút gươm chém đứt tai Man-khô, đầy tớ của thầy thượng tế. Nhưng Chúa Giêsu chữa lành cho gã và bảo Phêrô không nên dùng vũ khí. Họ liền ập tới bắt trói Ngài. Thấy vậy, các môn đệ tá hỏa và chạy trốn, có kẻ mất dép, có kẻ tuột cả áo. Ai cũng nói mạnh, nhưng cũng chỉ lẻo mép nói suông. Phàm nhân yếu đuối và hèn nhát lắm, đúng là “nói trước bước không qua.”
Những kẻ thủ ác bắt Đức Giêsu và điệu đến thượng tế Cai-pha. Phêrô đi theo xa xa, đến tận dinh thượng tế, rồi vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.
Chúa Giêsu im lặng dù người ta chất vấn đủ thứ. Bởi vì có nói với họ thì cũng như nước đổ lá môn, nói với cục đá còn hơn. Cuối cùng, vị thượng tế hống hách nói: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63) Nghe chừng đạo đức lắm vì ông ta dám “nhân danh Chúa” mà tra xét. Lúc này Chúa Giêsu phải lên tiếng: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” (Mt 26:64) Như giọt nước làm tràn ly, vị thượng tế liền xé áo mình ra và bảo Đức Giêsu nói phạm thượng, rồi ông ta hỏi mọi người nghĩ sao, họ liền đồng thanh: “Hắn đáng chết!” Cố chấp và đồng lõa, thật đáng sợ!
Rồi có kẻ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài, kẻ khác tát Ngài, họ toa rập với nhau lăng mạ Ngài.
Cuộc đời có những điều tất yếu, chuyện gì sẽ đến rồi cũng đến. Phêrô được Thầy báo trước, nhưng cũng không thể vượt qua chính mình. Thiên hạ thấy ông nên bàn tán xì xầm, ông sợ nên không dám nhận mình là người quen với Đức Giêsu, và còn thề độc là không hề quen với người đang bị hành hạ bên trong kia. Và rồi có tiếng gà gáy, ông sực nhớ lời Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Mt 26:34) Ông ra ngoài và bật khóc. Có lẽ từ đó, ông rất sợ tiếng gà gáy mỗi sáng, nhưng chắc cũng phải cảm ơn con gà trống.
Theo thông lệ mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn phóng thích một người tù, tuỳ ý dân. Khi ấy có một tù nhân khét tiếng là Baraba. Người ta đồng ý thả hắn và cương quyết giết Đức Giêsu. Philatô thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngài, thế nhưng vì địa vị chức tước mà ông làm ngơ công lý, vợ ông bảo đừng nhúng tay vào vụ xử vụ này, và ông “ngây thơ” đi rửa tay để chứng tỏ mình vô can. Rất rõ nét thói giả hình, sự hèn hạ và khốn kiếp.
Quả thật, chính Philatô đem Đức Giêsu vào trong dinh và tập trung cả cơ đội quanh Ngài. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng, chúng khạc nhổ vào Ngài và lấy cây sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, cho Ngài mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Mọi thứ diễn tiến đúng quy trình của những kẻ mặt người mà lòng dạ ma quỷ.
Dọc con đường lên Núi Sọ, chúng gặp một người Kyrênê tên là Simôn, chúng bắt ông vác thập giá của Ngài, vì thấy Ngài yếu sức, sợ Ngài không thể đến nơi xử tử. Những người nói mạnh hứa chắc, những người tín cẩn, những người được chữa lành, những người được ăn no nê, họ ở đâu lúc dầu sôi lửa bỏng thế này? Tại sao chỉ thấy một mình ông Si-môn ngoại giáo vác đỡ Thập Giá cho Ngài? Cuộc đời là thế, con người là vậy ư?
Khi đến Núi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống. Sau khi đóng đinh Ngài vào thập giá, chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, rồi ngồi canh giữ Ngài. Hôm đó, cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp ở hai bên.
Ngay cả những kẻ qua người lại cũng buông lời nhục mạ và thách thức Ngài. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục thi nhau chế giễu Ngài vì họ tưởng mình đã hành động đúng với cảm giác hả hê chiến thắng. Thậm chí một tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng không tiếc lời sỉ vả và thách thức Ngài. Vào hùa với nhau làm việc xấu, thật tồi tệ!
Thật kỳ lạ, trời đang nắng mà bỗng dưng tối sầm từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (12 giờ trưa tới 15 giờ). Vào giờ thứ chín, trong nỗi cô đơn, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: “Êli, Êli, lêma xabácthani – lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46) Người ta cứ tưởng Ngài gọi ông Êlia, rồi một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Ngài uống. Rồi Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Sự tĩnh lặng như tấm màn phủ xuống…
Và ngay thời điểm đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, rồi đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ bất ngờ trỗi dậy. Thấy động đất và các sự lạ, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và phải thú nhận: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54; Mc 15:39; Lc 23:47) Ít ra cũng biết chân nhận như thế, muộn còn hơn không. Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, dù người ta cố ý bóp méo cũng không thể.
Ngẫu nhiên mà kỳ lạ: chữ Thắng và chữ Thua cùng vần T. Ở đời cũng vậy, có khi cứ tưởng Thắng mà hóa Thua, nhưng có khi thấy Thua mà lại Thắng. Và chuyện gì sẽ đến cũng lại đến. Ước gì mỗi chúng ta đều như những chiếc lá luôn xanh biếc đức tin, luôn khiêm hạ và chân thành đón nhận Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, khi vui đã đành, khi buồn mới thực sự có giá trị. Đau khổ làm cho cuộc đời có ý nghĩa lạ lùng lắm.
Trong thời gian này, chúng ta phải “chay” mọi thứ vì đại dịch Corona, thực sự là nỗi khổ niềm đau, nhưng là dịp tốt để chúng ta xét mình, biết thiếu hay thừa cái gì mà kịp thay đổi cho hợp ý Chúa.
Lạy Thiên Chúa chí thiện, trong lúc hoạn nạn này chúng con mới cảm nhận giá trị của đau khổ, biết thân phận con người mong manh mà thêm tín thác vào sự quan phòng của Ngài. Xin ban Thánh Linh để chúng con có thể hiểu được triết lý của Thập Giá, nhờ đó mà cố gắng đi xuyên qua đau khổ và luôn hướng về Ngài. Xin giúp chúng con đủ sức chịu đau khổ với Đức Kitô để được sống lại với Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRƯỚC KHI BƯỚC VÀO CUỘC KHỔ NẠN
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi suy niệm về những đau buồn tủi nhục của Chúa Giê-su, chúng ta thường hướng về những cực hình Ngài phải chịu trong cuộc thương khó, mà ít khi nghĩ tới những đau thương, tủi nhục mà Ngài gánh chịu trong suốt ba năm thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng.
Giờ đây, chúng ta hãy điểm qua một vài nỗi buồn đau, tủi nhục thấm thía nhất mà Chúa Giê-su phải chịu trong thời gian này.
- Bị coi là người mất trí
Nỗi đau, nỗi nhục thứ nhất mà Chúa Giê-su phải chịu là bị ngay cả những người ruột thịt và cũng là những người thân yêu gần gũi nhất… xem Ngài là người mất trí, mất trí nặng đến nỗi phải “đi bắt Ngài về nhà” (Mc 3,20-21).
Chúng ta chỉ là người phàm, tầm thường kém cỏi mà còn thấy đó là một niềm đau, một nỗi nhục không chịu đựng nỗi, còn Chúa Giê-su, Ngài là Thiên Chúa thông minh thượng trí, đầy quyền năng phép tắc mà lại bị người thân thuộc của mình hiểu lầm như thế thì nỗi đau của Chúa lớn đến độ nào!
- Bị đồng hương phẫn nộ và hành hung
Nỗi nhục thứ hai mà Chúa Giê-su phải chịu cũng xảy ra ngay tại quê nhà. Vào ngày Sa-bát, khi rao giảng trong hội đường Na-da-rét, dân chúng không hài lòng vì Chúa Giê-su đề cập đến một số sự kiện mà họ không thích nói tới… Thế là sóng gió nổi lên, “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.” Họ đứng dậy, người thì nắm áo, kẻ nắm tay, người lôi, kẻ đẩy, kẻ khác buông lời phỉ báng nặng nề… Họ xô đẩy Ngài khỏi hội đường… Chưa hả giận, họ còn lôi kéo Ngài ra khỏi thành… Cũng chưa hả giận, “họ tiếp tục lôi kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực, (cho Ngài phải nát thịt tan xương…) nhưng rồi Ngài băng qua giữa họ mà thoát thân.” (Lc 4, 28-29).
- Bị coi là người bị quỷ ám, là kẻ điên khùng
Nỗi nhục thứ ba, dù Chúa Giê-su là Thiên Chúa quyền năng, đến trần gian để đẩy lui quyền lực của Sa-tan, thế mà “các kinh sư ở Giê-ru-sa-lem cho rằng Ngài bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám”… Họ cho rằng Ngài chẳng tài cán, đạo đức gì, chỉ “dựa thế tướng quỷ mà trừ quỷ” (Mác-cô 3, 22. Lc 11,15).
Những người Do-thái khác cũng nói thẳng với Chúa Giê-su: “Chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám” (Ga 8, 48. 52).
Và khi Chúa Giê-su bày tỏ cho dân chúng biết Ngài là mục tử nhân lành sẵn sàng hiến mạng vì đoàn chiên thì nhiều người Do-thái lại nói: “Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ta làm chi! (Ga 10,19).
Xúc phạm như thế là quá đáng! Đau buồn thay, nhục nhã thay!
- Suýt bị ném đá
Nỗi nhục thứ tư là Chúa Giê-su suýt bị người Do-thái ném đá. Qua Tin mừng thứ tư, thánh Gioan thuật lại sự kiện này hai lần: Một lần, khi giảng trong sân Đền Thờ rằng Ngài hiện hữu trước khi có Áp-ra-ham, “họ liền lượm đá để ném Ngài. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ” (Ga 8,59).
Lần khác, khi Ngài tỏ cho dân chúng biết Ngài và Thiên Chúa Cha là một, người Do-thái lại lấy đá để ném Chúa Giê-su” (Ga 10,30-31. 11,8)
- Bị người Do-thái mưu toan giết hại
Nỗi đau thứ năm là Chúa Giê-su bị người Do-thái mưu toan ám hại. Người Do-thái “tìm cách giết Đức Giê-su, vì cho rằng Ngài phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình… tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa” (Ga 5,18).
Vì thế, “Đức Giê-su không muốn đi lại trong miền Giu-đê, vì người Do-thái tìm giết Ngài” (Ga 7,1. 8,40). Và khi Chúa Giê-su cho La-da-rô sống lại, các thủ lĩnh Do-Thái quyết định giết Chúa Giê-su (Ga 11,53).
Ngoài ra, Chúa Giê-su còn bị người Do-thái phê phán, chê trách, khinh dể… liệt Ngài vào “phường mê ăn tham uống, bạn bè của quân thu thuế và người tội lỗi (Lc 7,31-34), bị các luật sĩ, biệt phái dò xét, bắt bẻ đủ chuyện, bị lên án là vi phạm luật ngày Sa-bát, không rửa tay trước khi ăn, không ăn chay…
Lạy Chúa Giê-su,
Chưa có ai trong chúng con phải chịu nhiều đau buồn, tủi nhục trong đời như Chúa. Con người phàm hèn như chúng con dù có bị đồng loại sỉ nhục vẫn còn dễ chịu hơn nhiều so với Chúa là Đấng cao cả, là Chúa tể càn khôn… lại bị con người hèn mọn, chỉ đáng là tro bụi trước mặt Ngài khinh chê, phỉ báng, loại trừ…
Vì yêu thương chúng con, Chúa chấp nhận tất cả mọi buồn đau, tủi hổ… để đền tội cho chúng con và để cứu chuộc chúng con. Chúng con hết lòng thờ lạy, cảm tạ tình yêu bao la vô bờ của Chúa.
VÌ YÊU, CHÚA ĐÃ CHẾT CHO CHÚNG TA
Phanxicô Xavie Trần Đức Tuân
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta bắt đầu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ, là tuần lễ ghi lại các biến cố cuối cùng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế ở trần gian.
Từ lúc Chúa vào thành Giêrusalem hôm nay, đến cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Tuần thánh cũng nhắc cho mỗi người chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối, mỏng dòn, bất toàn, yếu hèn và tội lỗi của mình.
Trong cuộc sống của con người, có lẽ không có gì làm cho chúng ta sợ hãi cho bằng cái chết. Cái chết là con đường chung cho mọi người. Không ai có thể chạy trốn khỏi cái chết. Tuy nhiên, khi đối diện với cái chết, mỗi người có một thái độ khác nhau. Các thánh tử đạo đã can đảm đối diện với cái chết để làm chứng cho Chúa. Và đặc biệt cái chết của Đức Giêsu. Có thể nói đây là cái chết tuyệt vời, cái chết đem lại sự hoà giải, sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho mỗi người chúng ta. Chúa đã chết để mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Trên hết, cái chết của Đức Giêsu là một cái chết tự nguyện hiến thân cho người mình yêu. Trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy buồn rầu, xao xuyến, “và mồi hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). Giữa nỗi kinh hoàng, khủng khiếp của con đường thập giá, Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha cho mình: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26,39). Nhưng cuối cùng tình yêu đã chiến thắng. Với một tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Cha và một lòng thương xót vô biên dành cho chúng ta: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”.
Như thánh Phaolô tông nói: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Đức Giêsu, ngay giữa những đau khổ cùng cực nhất trên thập giá, trong hơi thở cuối cùng đã lên tiếng cầu xin cho chính những kẻ vừa hành hạ, đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Đôi khi chúng ta cũng đã đóng đinh Chúa vào thập giá, đó là những lúc chúng ta lơ là trong bổn phận, làm ngơ trước những nghèo khó đơn côi.
Tình yêu của Đức Giêsu còn thể hiện qua ánh mắt đầy thương xót Ngài dành cho Phêrô. Dù Chúa biết là ông sẽ chối Ngài. Một tình yêu hoàn toàn vị tha, quên cả nỗi đau khổ của mình đang gánh chịu, để luôn dành trọn tâm trí của mình cho người khác. Đó là tình yêu của Đức Giêsu đã dành cho mỗi người chúng ta.
Vì yêu, Chúa đã chịu người đời phỉ báng chê cười. Vì yêu, Chúa đã trở nên nghèo khó để chúng ta được giàu có. Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Vì yêu Chúa đã chịu khổ nạn và chết trên thập giá, xin cho chúng con cũng biết chết đi cho con người tội lỗi, chết đi cho những đam mê, hận thù, ghen ghét để chúng con chỉ biết sống cho Chúa và cho tha nhân.
Lạy Chúa, vì yêu Chúa đã tự hiến mình trong bí tích Thánh Thể để nuôi sống chúng con, xin cho chúng con luôn biết khao khát và chạy đến với Thánh Thể Chúa, để chúng con tìm được nguồn sức mạnh và vững bước trên đường về quê trời. Amen.
Lm Trần Bình Trọng
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Lá để giúp người tín hữu nhớ lại một biến cố của việc Ðức Giêsu khởi hành vinh quang vào đền thờ Giêrusalem.
Việc dân chúng đón rước Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem là một vinh quang vắn vỏi trong cuộc đời trần thế của Người. Dân chúng cầm cành lá tung hô Con vua Ðavít: Hoan hô Con vua Ðavít! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Thiên Chúa (Mt 21:9). Họ tỏ ra nhiệt thành trong việc đón tiếp Người, vì họ hi vọng rằng Người sẽ thiết lập cho họ một vương quốc trần thế, có tính cách quốc gia dân tộc.
Mặc dầu dân chúng nhiệt liệt đón tiếp Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem, và tung hô Người làm vua, họ đã nhắm sai mục đích. Ý đồ của họ là muốn Người làm vua trong nước họ để giúp họ đánh đuổi dân đô hộ là người La mã, khiến cho đất nước họ trở nên giầu có và hùng mạnh, hầu có thể vươn lên hàng bá chủ hoàn cầu. Tuy nhiên khi họ nhận ra Ðức Giêsu không thích hợp với quan niệm họ sẵn có về đấng cứu thế, họ sẵn sàng đóng đinh Người. Vì thế mới có một biến cố khác theo sau là biến biến cố khổ hình, đónh đinh trên thập giá. Ðó là lý do tại sao hôm nay khi Giáo hội mừng việc Chúa khải hoàn vào thành Giêrusalem, Giáo hội cho đọc bài Phúc âm về sự thương khó và khổ nạn của Chúa.
Người ta thường nghe khi vua chúa hay tướng lãnh đời xưa thắng trận trở về trong ngày vinh quang thì cưỡi voi, cưỡi ngựa vào thành với vẻ oai phong lẫm liệt. Còn Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chọn cưỡi trên lưng lừa. Lừa là con vật hiền lành, dễ chịu khuất phục. Bằng việc dùng lừa để làm phương tiện đi vào thành, Ðức Giêsu muốn nói lên ý muốn vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha. Như người đầy tớ làm theo ý chủ, Ðức Giêsu đồng hoá với người tôi tớ trung thành của Giavê, được sai đến để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Như người đầy tớ đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu, và không che mặt khi người ta mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 50:6), Ðức Giêsu cũng chịu để cho người ta khạc nhổ vào mặt và đấm đánh (Mt 26:67) rồi chế giễu (Mt 27:31). Mặc dầu Người là Thiên Chúa, nhưng đã vâng phục thánh ý Chúa Cha, mặc lấy thân phận làm người, chịu khổ hình, tử nạn trên thập giá để làm giá cứu chuộc loài người. Như vậy mục đích và sứ mệnh của Chúa cứu thế là làm theo thánh ý Chúa Cha: Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha (Mt 26:39). Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê giới thiệu về Ðức Giêsu nhu sau: Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thánh giá (Pl 2:8).
Hôm nay mỗi người nên tự hỏi xem ta đã sống theo thánh ý Chúa như thế nào? Tin theo Chúa nhưng ta vẫn có thể sống theo ý riêng khi ta muốn đạo giáo phải thế nọ thế kia, thay vì cố gắng sống theo đường lối của đạo giáo, khi ta muốn đạo giáo thay đổi cho phù họp với những ước muốn, những khuynh hướng và sở thích cá nhân của mình.
Giáo hội đang bắt đầu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong lịch sử ơn cứu độ, cũng là tuần lễ quan trọng nhất trong niên lịch phụng vụ của Giáo hội. Trong Tuần thánh Giáo hội cử hành những màu nhiệm cứu chuộc mà Ðức Kitô đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Người tại thế, từ lúc vào thành Giêrusalem trong ngày lễ Lá đến cuộc khổ nạn và phục sinh của Người.
Trong Tuần thánh người tín hữu suy niệm về một trong những chiều hướng của đức tin: sự thương khó, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Tuần thánh là lúc người tín hữu suy niệm về kinh nghiệm sống đức tin của mình. Tuần thánh là lúc chỉ cho ta thấy những yếu điểm và tội lỗi của mình. Ta có thể giống như Phêrô và Giuđa chăng? Nếu trung thực với lòng mình, ta phải nhận có lúc ta giống Giuđa khi ta phạm tội, từ khước ơn Chúa. Có lúc ta giống Phêrô khi không dám bày tỏ đức tin, sợ bị liên lụy, bị tẩy chay, hay có khi ta không dám tỏ ra mình là người công giáo, sợ bị chê cười, nhạo báng. Ðức Kitô sắp bị nộp mình chịu chết vì tội lỗi loài người gồm tội riêng ta. Ta có thể và sẽ làm gì để đền đáp tình yêu Chúa?
Lời nguyện xin cho được tìm sống theo thánh ý Chúa:
Lạy Chúa, đường lối Chúa là đường khôn ngoan chính trực.
Con không biết Chúa muốn con làm gì và đi theo đường nẻo nào.
Xin Chúa soi sáng để con biết tìm ra ý Ngài
qua lời cầu nguyện, việc lắng nghe và ghi nhận.
Xin ban cho con lòng can đảm và kiên trì sống theo thánh ý Chúa.
Ðể như Mẹ Maria và Thánh Giuse với lời xin vâng khi sứ thần truyền,
con được vững tâm tiến bước với tâm hồn bình an. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu
Các thượng tế muốn giết Đức Giêsu, nhưng không tìm được cơ hội.
Nay cơ hội đã đến với sự tiếp tay của chính người môn đệ Đức Giêsu.
Anh Giuđa đã đến gặp các thượng tế và đề nghị nộp Ngài cho họ.
Chúng ta mãi mãi không biết hết và biết rõ những động cơ nào
đã thúc đẩy Giuđa làm chuyện kinh khủng ấy.
Giuđa, người được gọi, được chọn, được tuyển lựa,
sau một đêm thức trắng cầu nguyện của Thầy Giêsu (Lc 6, 12).
Và anh đã đáp lại, đã bỏ gia đình, nghề nghiệp, để đi theo.
Giuđa đã rong ruổi theo Thầy ngay từ đầu, chia sẻ đói no, thành công thất bại…
Không yêu thì làm sao đi theo được lâu như thế.
Giuđa, người được tin cậy và giao giữ quỹ cho cả nhóm (Ga 12, 6).
Vì là người trong nhóm Mười Hai, thuộc nhóm môn đệ thân cận,
Giuđa đã được nghe hầu hết các bài giảng hay nhất,
được chứng kiến các phép lạ lớn lao nhất của Thầy Giêsu.
Giữa anh và Thầy Giêsu hẳn đã có một sự thân thiết nào đó.
Điều gì đã diễn ra nơi trái tim của Giuđa?
Điều gì đã khiến tất cả phút chốc bị đổ vỡ không sao hàn gắn?
Chắc không phải chỉ vì ba mươi đồng bạc, một số tiền.
Phải chăng vì Giuđa thất vọng và nóng ruột
khi thấy Thầy Giêsu quá hiền từ, cả trong lối sống lẫn lời giảng,
chẳng có vẻ gì là một Đấng Mêsia sắp giải phóng dân tộc khỏi quân Rôma?
Phải chăng khi Giuđa nộp Thầy cho các thượng tế,
anh định cài Thầy vào thế phải hành động quyết liệt hơn, phải tự giải thoát mình?
Dù gì đi nữa thì chuyện Giuđa làm là không thể biện minh được.
Anh đã can dự vào cái chết của Thầy Giêsu.
Không thể phong tặng anh hùng cho Giuđa
vì bảo rằng nhờ anh mà chúng ta có được ơn cứu độ.
Giuđa đã phạm tội nghiêm trọng đến nỗi Thầy Giêsu phải đau đớn nói:
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn” (c.24).
Dầu vậy tội của Giuđa đã được Thiên Chúa dùng cho chương trình cứu độ.
Thiên Chúa là Đấng có thể biến điều dữ thành điều lành.
“Kẻ đã chấm chung một đĩa với Thầy là kẻ sẽ nộp Thầy” (c. 23).
Kẻ đồng bàn thân thiết với Thầy lại là người phản bội.
Ngay cả những môn đệ khác cũng hỏi Thầy Giêsu: “Có phải con không?”
Có phải con là người đang phản bội Thầy không?
Lúc nào chúng ta cũng có thể hỏi Chúa Giêsu cùng câu hỏi đó.
Dù mỗi ngày chúng ta cùng chia sẻ một bàn tiệc với Chúa trong Thánh Lễ,
chúng ta vẫn có thể rơi vào tội của Giuđa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT LỄ LÁ_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta tưởng niệm cuộc Tử Nạn sinh ơn Cứu Độ của Đức Giê-su Ki-tô.
Is 50:4-7
Bài Đọc I trích từ tác phẩm của I-sai-a đệ nhị cho chúng ta thoáng thấy dung mạo của người công chính chịu đau khổ, dưới những đường nét của người tôi trung của Đức Chúa, bị nhạo báng, khinh bỉ mà không đối kháng, nhưng trọn một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.
Pl 2:6-11
Tiếp đó, chúng ta gẫm suy mầu nhiệm tự hạ và tôn vinh của Đức Giê-su qua bài thánh thi Ki-tô học được thánh Phao-lô ghi lại trong thư gửi tín hữu Phi-lip-phê. Đây là bằng chứng đáng chú ý về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi.
Mt 26:14-27:66
Và sau cùng, theo chu trình Phụng Vụ Năm A, chúng ta đọc và suy gẫm bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
BÀI ĐỌC I (Is 50:4-7)
Bản văn này cho chúng ta dự phần vào niềm tin tưởng của vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Vì luôn lắng nghe Thiên Chúa, chăm chú vào lời Ngài, suy niệm mỗi ngày, vị ngôn sứ không thoái thác sứ mạng của mình là đem niềm an ủi đến cho những người bất hạnh. Ông đã không nhận được bất kỳ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại, những xúc phạm và nhục hình. Ông đã bị đánh đòn, tra tấn (bị giật râu là một hình phạt rất nhục nhã), ông đã nhận những khạc nhổ vào mặt, được xem như cử chỉ khinh bỉ tột cùng, như nhiều đoạn văn Cựu Ước làm chứng.
Nhưng người tôi trung này đã đặt niềm tin tưởng của mình vào Đức Chúa. Ông đã “trơ mặt như đá,” nghĩa là “kiên vững không hề chuyển lay”. Thánh Lu-ca nói với chúng ta “Đức Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem” (Lc 9:51) chấp nhận bước vào con đường Thương Khó của Ngài, nghĩa là Ngài thu hết can đảm của mình và kiên vững trong ý định của mình.
1. Văn mạch
Bài ca được trích dẫn hôm nay là bài ca thứ ba trong số bốn bài ca được gọi “các bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), vị ngôn sứ cuối thời kỳ lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ IV tCn.
“Người Tôi Trung” được phác họa chân dung lúc thì dân Ít-ra-en, lúc thì một nhân vật đặc thù lãnh nhận một sứ mạng đặc biệt. Nhân vật này được hiểu vừa tập thể vừa cá nhân vì hai hình ảnh này được đan vào nhau trong nhiều đoạn.
Người Tôi Trung này hành xử với thái độ dịu dàng và khiêm tốn (bài ca thứ nhất). Thiên Chúa giao phó cho ngài trách nhiệm giải phóng dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai), ngài gặp phải những bách hại và sỉ nhục (bài ca thứ ba), ngài cam chịu một cái chết ê chề nhục nhã, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư).
Ở đây, có một khúc quanh quan trọng của Mặc Khải. Cho đến lúc đó, những viễn cảnh thiên sai đều tập trung vào một dung mạo của vị vua vinh hiển, hậu duệ Đa-vít, ngài sẽ đem lại sự công chính và nền hòa bình. Ấy vậy, vào lúc này không còn vua. Thể chế vương quyền Đa-vít đã bị chìm lấp trong cơn bão táp của thời cuộc, đền thờ Sa-lô-mon bị phá hủy, phần lớn dân cư Giê-ru-sa-lem bị lưu đày. Đây là thời giờ thích hợp để loan báo sứ điệp mới. Khoa sư phạm Thiên Chúa, qua những trực giác ngôn sứ, đã tiến một bước vĩ đại. Những sấm ngôn thời xưa không vì thế mà bị hủy bỏ (Đấng Mê-si-a rõ ràng vẫn thuộc hậu duệ Đa-vít), nhưng những viễn cảnh mới để lộ cho thấy “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” sẽ can thiệp, “Đấng được Đức Chúa xức dầu” sẽ thi hành sứ mạng, khởi đầu sứ mạng không huy hoàng rực rỡ, trong dáng vẻ thất bại bên ngoài, đau khổ và cái chết, trước khi đạt được vinh quang.
2. Vị ngôn sứ khiêm hạ
Dường như phải nhận ra ở nơi người tôi trung hiền lành và khiêm hạ này chính là vị ngôn sứ I-sa-ia đệ nhị. Được Thiên Chúa giao phó trọng trách an ủi những người lưu đày bất hạnh chán nãn tuyệt vọng, ông không trốn tránh công việc bội bạc này. Ông đã cố làm cho họ hiểu ý nghĩa của những thử thách của họ, kêu gọi họ hoán cải, hứa ban ơn giải thoát cho họ. Ông gặp phải thái độ thờ ơ lãnh đạm, nghi nan ngờ vực, và tính khí hung hăng của những kẻ mà nỗi đắng cay do thời gian lưu đày dài lâu đã khiến họ trở nên bực tức phẩn nộ.
3. Người công chính bị bách hại
Qua những đau khổ mà mình phải chịu, vị ngôn sứ mặc lấy dung mạo của “Người Công Chính” hoàn hảo. Bản văn mang cung giọng thời thiên sai. Đức Giê-su sẽ đích thân thực hiện sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho Ngài trong sự vâng phục hoàn hảo. Chính Ngài sẽ đem Tin Mừng đến cho những người nghèo khó, những kẻ khốn cùng. Như vị ngôn sứ vô tội, Ngài sẽ đón nhận và cam chịu những lăng nhục, khinh bỉ, nhục hình trong tâm tình cảm tạ mà không hề run sợ, “vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn.”
Bài ca thứ ba này cho chúng ta cảm thấy trước bài ca thứ tư thống thiết về Người Tôi Trung chịu đau khổ sẽ được đọc vào Thứ Sáu Tuần Thánh.
BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)
Bài Đọc II trích từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-li-phê là một bài thánh thi gồm sáu khổ thơ: ba khổ thơ đầu vạch lại ba giai đoạn về việc Đức Giê-su tự hạ mình, và ba khổ thơ sau, theo chiều hướng ngược lại, vạch lại ba giai đoạn về việc Chúa Giê-su được Chúa Cha tôn vinh.
Thật là ngạc nhiên khi gặp thấy trong một bức thư chan chứa giọng điệu nồng nàn nhưng khá quen thuộc, những cảm xúc như trào dâng ra từ ngòi bút. Chúng ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay thánh nhân chỉ trích dẫn bài thánh thi Ki-tô học của Giáo Hội tiên khởi. Dù sao đây là một chứng liệu đáng chú ý, một trong những chứng liệu cổ xưa nhất về Ki-tô học, nhất là một lời chứng có giá trị đầu tiên (trước cả Tựa Ngôn của thánh Gioan) về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su.
1. Ba giai đoạn của việc tự hạ (2: 6-8)
1)- Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa, không từ bỏ bản tính thần linh, nhưng vinh quang được gắn chặt vào đây.
2)- Ngài hủy bỏ chính mình mà mang lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như phàm nhân, nghĩa là chia sẻ mọi sự yếu đuối của họ (ngoài trừ tội lỗi).
3)- Ngài tự hạ mình hơn nữa khi chấp nhận vâng lời cho đến chết tủi nhục trên thập giá.
2. Ba giai đoạn của việc tôn vinh (2: 9-11)
1)- Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài và ban cho Ngài “danh hiệu” vượt lên trên mọi danh hiệu. “Danh hiệu” được hiểu theo nghĩa tuyệt đối, nghĩa là “danh hiệu” này được ban cho chỉ duy một mình Ngài, chính là “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” như được chỉ ra ở phần sau: Danh mà truyền thống Do thái dùng để chỉ Danh khôn tả của Thiên Chúa. “Danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” vì thế được định vị thậm chí trên tất cả mọi triều thần: “Quyền Thần”, “Tổng Thần” vân vân
2)- Thiên Chúa muốn muôn loài muôn vật phụng thờ Đức Giê-su: “Để khi nghe tên Giê-su, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống”. Đó không phải vì nhân danh Giê-su (vì tên này khá phổ biến trong dân Do thái), nhưng vì Danh Đức Giêsu bất khả phân với Danh Đức Chúa, như khổ thơ trước đó vừa mới chỉ ra.
Kiểu nói: “Trên trời dưới đất và trong địa ngục”, chỉ ra toàn thể vũ trụ, chứ không chỉ nhân loại phải phụng thờ Đức Giê-su. Đây là một đề tài mà chúng ta sẽ gặp lại trong sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: ‘Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!’” (Kh 5: 13).
3)- Cuối cùng Thiên Chúa ban tặng cho Đức Giê-su quyền tối cao hoàn vũ, nghĩa là tước hiệu “Chúa”. Vì các Ki-tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Ki-tô danh hiệu này mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, đây là nét đặc trưng của lời tuyên xưng đức tin tiên khởi. Thánh Phao-lô nhiều lần nhấn mạnh tính chất thần linh ở nơi danh hiệu này, cũng như thánh Lu-ca trong Công Vụ Sứ Đồ.
Phần cuối của bài thánh thi xác định “để Thiên Chúa Cha được vinh quang”. Chính đó cũng là một nét thần học xứng đáng được nhấn mạnh: tôn vinh Đức Giê-su là tôn kính vinh quang của Thiên Chúa Cha. Phụng vụ Ki-tô giáo sẽ theo nghĩa này: “muôn ngàn lời chúc tụng Đức Ki-tô, tôn vinh Đức Chúa Cha”.
3. Mẫu gương phải noi theo
Thánh Phao-lô quý mến cộng đoàn tín hữu Phi-lip-phê mà thánh nhân đã thiết lập vào năm 49-50 và là cộng đoàn đầu tiên trên đất Châu Âu. Phi-lip-phê là một thành phố quan trọng của miền Ma-kê-đô-ni-a, được gọi theo tên vua Phi-lip-phê, phụ hoàng của đại đế A-lê-xan-đê, người xâm chiếm miền này vào năm 360 tCn.
Khi viết cho cộng đoàn tín hữu Phi-lip-phê, thánh nhân đang bị giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô. Thánh nhân mong ước những Ki-tô hữu Phi-lip-phê thân yêu của mình biết sống trong sự hiệp nhất và đặc biệt trong sự khiêm hạ sâu xa theo mẫu gương của Đức Giê-su.
TIN MỪNG (Mt 26: 14-27: 66)
Tin Mừng hôm nay là “Bài Thương Khó Đức Giê-su theo Tin Mừng Mát-thêu”. Như các tác giả Tin Mừng khác, thánh Mát-thêu dành một chỗ rộng lớn cho bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô trong sách Tin Mừng của mình. Như vậy, chúng ta có lời chứng cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã hiểu biến cố Tử Nạn không là một sự cố xấu hổ và nhục nhã mà biến cố Phục Sinh đã xóa đi, nhưng trái lại là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Sự thách đố của Thập Giá đã được các Kitô hữu tiên khởi đảm nhận, bất chấp điều kỳ chướng đối với người Do thái vốn ưa thích những điềm thiêng dấu lạ, bất chấp điều ngu xuẩn trong cái nhìn tự hào là khôn ngoan của người Hy lạp, và bất chấp một cái gì hoàn toàn ngược với lẽ khôn ngoan bình thường.
Trung thành với viễn cảnh Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu cho thấy cuộc Thương Khó của Đức Giê-su ứng nghiệm Kinh Thánh khi trích dẫn minh nhiên hay mặc nhiên vô vàn những lời Kinh Thánh.
Giu-đa phản bội (26: 14-15)
Việc Giu-đa phản bội Thầy mình được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Cả ba đều nhấn mạnh rằng Giu-đa là “một người trong Nhóm Mười Hai”, việc xác định này nêu bật tính bỉ ổi hành động phản bội của hắn. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất mô tả cuộc mặc cả của Giu-đa: “Tôi nộp ông ấy cho quí vị, thì quí vị muốn cho tôi bao nhiêu”. Trong khi đó tại thánh Mác-cô và thánh Lu-ca chính các thượng tế đề nghị cho hắn tiền. Như vậy, thánh Mát-thêu nhấn mạnh trách nhiệm của tên phản bội và chuẩn bị bài tường thuật về cái chết của hắn mà chỉ mình thánh ký tường thuật (27: 3-10). Thánh Mát-thêu cũng là thánh ký duy nhất kể ra giá thương lượng giữa hai phía là “ba mươi đồng bạc”, tức giá mua bán một nô lệ (x. Xh 21: 32). Qua số tiền này, thánh Mát-thêu nhằm cho thấy rằng Kinh Thánh đang được ứng nghiệm. Theo ngôn sứ Da-ca-ri-a chính với số tiền ô nhục này Ít-ra-en đã dùng để tẩy chay vị mục tử nhiệm mầu mà Chúa đã gửi đến cho họ (Dcr 11: 11). Sự ám chỉ này khó mà thoát khỏi những người Kitô hữu gốc Do thái, vốn am tường Kinh Thánh.
Bữa ăn từ biệt (26: 17-19)
Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men là hai ngày lễ đi đôi với nhau; lễ Vượt Qua diễn ra một ngày, lễ Bánh Không Men kéo dài bảy ngày. Nhưng từ lâu cả hai ngày lễ này trở thành một ngày đại lễ. Khi thánh Mát-thêu nói: “ngày thứ nhất trong tuần bánh không men”, thánh ký chỉ rõ lễ Vượt Qua. Trước khi bắt đầu tường thuật việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, thánh Mát-thêu gợi lên lễ Bánh Không Men, để loan báo rằng Đức Giê-su sẽ là bánh mới, hoàn toàn tinh tuyền, của lễ Vượt Qua mới.
Lễ Vượt Qua phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; con chiên sát tế trong sân Đền Thờ phải được ăn mừng trong thành đô. Đức Giê-su là một nhà giảng thuyết lưu động không nơi cư ngụ: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu qua đêm”. Các sách Tin Mừng đều tường thuật rằng khi chiều xuống, Đức Giê-su ra khỏi thành (Mc 11: 19), hoặc đến Bê-ta-ni-a (Mt 21: 17 và Mc 11: 19), hay đi ra núi Ô-liu (Lc 22: 39) để qua đêm. Hơn nữa, Ngài và các môn đệ đều là những người Ga-li-lê đến mừng lễ ở Giê-ru-sa-lem được xem đất khách quê người. Vì thế các môn đệ lo lắng hỏi: “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.
“Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca xác định “một người mang vò nước”. Thật kỳ lạ, thánh Mát-thêu lại thích vô danh hơn.
“Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy”. Động từ “ăn mừng” hay “cử hành” chưa nói lên hết sắc thái tinh tế của bản văn. Theo nguyên văn, động từ “làm” hay “thực hiện” ở đây có một nét nghĩa rất mạnh để chỉ hành vi sáng tạo. Đức Giê-su sắp sáng tạo một lễ Vượt Qua đặc biệt, lễ Vượt Qua của Ngài.
Loan báo sự phản bội (26: 20-25)
Cả bốn tác giả Tin Mừng đều tường thuật lời loan báo này: “một người trong anh em sẽ nộp Thầy”; tất cả đều nhấn mạnh nghi thức đồng bàn, chia sẻ cùng của ăn thức uống giữa Đức Giê-su và ông Giu-đa. Theo quan niệm của người xưa, một cử chỉ như vậy nói lên lời cam kết “đồng sinh đồng tử”, “đồng hội đồng thuyền”. Như vậy, nêu bật sự bỉ ổi của hành vi phản bội.
Đức Giê-su tế nhị không nêu đích danh ai. Khi không nêu đích danh ai, Ngài thử kêu gọi lần sau cùng để đánh thức tiếng lương tâm người bạn đồng hành này nhớ lại những ngày tháng Thầy trò sống chung với nhau mà hồi tâm chuyển hướng.
Bầu khí trở nên ngột ngạt. Ấy vậy, Đức Giê-su trong những tình thế nghiêm trọng, thích gợi lên tước hiệu thiên sai “Con Người” của mình, dưới tước hiệu này Ngài thu nhận mầu nhiệm con người của Ngài. Sự kiện Ngài bị nộp là nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa đã được Kinh Thánh loan báo, tuy nhiên điều ấy vẫn không giảm thiểu đi tí nào trách nhiệm của kẻ phản bội. Số phận y rất tồi tệ và ngay bây giờ y biết là tội phản bội của mình đã bị Thầy biết rồi. “Khốn cho kẻ đã nộp Con Người…”. Đây không là lời nguyền rủa; chúng ta không thể nào tưởng tượng rằng Ngài có thể thốt lên những lời nguyền rủa như thế vào giờ phút Ngài sắp đổ mình để chuộc muôn người; nhưng đúng hơn đây là một ghi nhận đáng buồn. Đức Giê-su đã không bao giờ nguyền rủa ai. Có những lần Ngài đã đe dọa khi loan báo những trừng phạt: “Khốn cho các ngươi…”, nhưng đây không là những lời nguyền rủa, nhưng là những lời cảnh báo.
Trong khi các môn đệ khác buồn rầu hỏi: “Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?”, thì Giu-đa đành lòng hỏi Đức Giê-su một cách giản dị: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?”; hắn đã mất đi sự kính trọng đối với Thầy rồi, vì chỉ xem Thầy mình chỉ là một kinh sư như bao nhiêu kinh sư khác, hắn muốn dứt tình đoạn nghĩa với Thầy.
Thiết lập bàn tiệc Thánh Thể (26: 26-29)
Tại thánh Mát-thêu, như tại thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, Đức Giê-su mừng lễ Vượt Qua Do thái với các môn đệ Ngài; qua việc thiết lập Thánh Thể, Ngài sắp biến đổi lễ này thành lễ Vượt Qua Ki-tô giáo. Có cả sự tiếp nối lẫn sự đoạn tuyệt, cả sự song đối lẫn cái mới tận căn.
Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm cuộc giải thoát Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập; nhờ máu con chiên được bôi trên khung cửa, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Ngài nên đã không đánh chết họ.
Đức Giê-su loan báo cuộc giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ của tội lỗi bởi máu Ngài đã đổ ra cho “muôn người được tha tội”. Về phương diện lịch sử, cuộc giải thoát khỏi Ai-cập đã hình thành nên dân Ít-ra-en là dân Chúa chọn và cuộc tuyển chọn này đã được thánh hiến trên núi Xi-nai, bởi Giao Ước Cũ. Nhờ cuộc hiến dâng mình và máu của Ngài được chia sẻ cho hết mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Thiên Chúa mới và Giao Ước Mới được đóng ấn trong máu Ngài. Trong bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Như vậy, nếu khung cảnh vượt qua soi sáng việc biến đổi cử hành xưa, sự kiện bữa ăn này cũng là bữa ăn từ biệt mặc khải tất cả khía cạnh đau thương: Đức Giê-su sắp từ giã những môn đệ thân thiết của Ngài, những người mà Ngài đã yêu thương, những người mà Ngài ủy thác sứ mạng truyền đạt sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; Ngài gặp thấy phương tiện được ở với họ, khi thiết lập quà tặng của riêng Ngài này mà các môn đệ có thể tái hiện luôn mãi, như những người nối tiếp sự nghiệp của Ngài.
Thánh Mát-thêu cũng nhấn mạnh giá trị “cánh chung” của bàn tiệc Thánh Thể. Bàn tiệc này là một sự tham dự trước bàn tiệc thiên quốc: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày, Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy”. Đời sống mai hậu thường được biểu thị như một bàn tiệc; rượu như một trong những dấu chỉ của “niềm vui thời thiên sai” và niềm vui muôn đời của thế giới hậu lai. Đây là một trong những ý nghĩa của phép lạ Ca-na, tiên trưng phép lạ Thánh Thể. Nước hóa thành rượu tương xứng với rượu hóa thành máu. Sự đối xứng đáng ngạc nhiên của phép lạ nước hóa thành rượu và phép lạ rượu hóa thành máu này.
Thánh Phê-rô sẽ chối thầy (26: 30-35)
Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: “Hát thánh vịnh xong…”. Chủ yếu từ thánh vịnh 113 đến thánh vịnh 118, mà người dự tham dự hát sau bữa ăn (người ta ngâm rồi một trong những thánh vịnh này trong bữa ăn). Như vậy chúng ta khẳng định rằng bữa ăn từ biệt của Đức Giê-su đúng là một bữa ăn vượt qua.
Trên đường (đêm trăng tròn), Đức Giê-su báo trước cho các môn đệ Ngài họ sẽ bỏ rơi Ngài. Thánh Mát-thêu, luôn bận lòng quy chiếu đến Kinh Thánh, nên trích dẫn dụ ngôn người mục tử của ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Dcr 11: 4-17, 13: 7). Nhưng ngay lập tức Chúa Giê-su an ủi các ông; Ngài loan báo với họ Ngài sẽ gặp lại họ ở Ga-li-lê sau khi Ngài sống lại. Đối với những người sắp chịu cơn thử thách và sa ngã, Đức Ki-tô tinh tế cho họ hiểu rằng Ngài sẽ bỏ qua chuyện đó, thế nên Ngài hẹn gặp họ rồi. Sau khi phân ly, sẽ có hội ngộ; đàn chiên sẽ được quy tụ lại.
Thánh Phê-rô đầy nhiệt huyết cải lại. Đức Giê-su dứt khoát trả lời: nội đêm nay, thánh nhân sẽ chối Thầy ba lần. Thánh Phê-rô cam kết trung thành với Thầy và các môn đệ khác cũng vậy.
Hoạt cảnh này rất là người. Khi để cho câu chuyện này được ghi lại trong các sách Tin Mừng, các Tông Đồ chứng tỏ sự khiêm tốn của mình. Mặt khác, một hoạt cảnh như thế cho thấy Đức Giê-su làm chủ và thấy trước các biến cố. Ngài biết điều gì sắp xảy ra, như Ngài biết Ngài sắp đi đâu.
Cơn hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni (26: 36-46)
Trên triền đồi Ô-liu có một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni, ở đó Đức Giê-su cùng với các môn đệ lui vào; nhưng Ngài tách riêng họ mà cầu nguyện một mình. Ngài cảm thấy buồn rầu và xao xuyến (động từ Hy lạp: “xao xuyến”, chứa đựng ý tưởng đau đớn cùng cực). Không cảm thấy yên tâm, Đức Giê-su đem theo với Ngài “thánh Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê”, tức là thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan. Đây là ba môn đệ đã được chứng kiến cuộc Biến Hình của Ngài. Vào lúc đó khi cho họ thị kiến về vinh quang của Ngài, Ngài đã chuẩn bị cho họ quang cảnh về sự yếu đuối của Ngài vào buổi chiều tối bi thảm này. An ủi mà họ đem đến cho Ngài không gì ngoài sự hiện diện, vì các môn đệ đều ngủ thiếp đi. Thánh Lu-ca nói một cách bao dung: “Các ông đang ngủ vì buồn phiền”.
“Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện”, tức là Chúa Giê-su mặc lấy thái độ vâng phục, khiêm hạ và thiết tha. Trong Tin Mừng không gặp thấy ở đâu Đức Giê-su cầu nguyện thiết tha đến như thế.
Đức Giê-su khẩn cầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này”. Chén là một hình ảnh Kinh Thánh để chỉ một sự thử thách, một vận mệnh đau khổ. Chúng ta không loại trừ rằng chén gợi lên chén máu lễ tế xóa tội (máu tế vật được đựng trong chén và tưới trên bàn thờ).
“Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”. Đức Giê-su không phó mặc cuộc chiến nội tâm mà đối tượng là vâng phục hay không vâng phục thánh ý Cha Ngài; Ngài là một với Cha Ngài; chỉ có một ý muốn duy nhất của Thiên Chúa, chỉ có một kế hoạch duy nhất của Thiên Chúa. Nỗi xao xuyến cùng cực của Đức Ki tô nhắm đến phương thế mà ý muốn duy nhất này phải được thực hiện. Cơn hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni không phải không nhắc nhớ cơn thử thách trong hoang địa ở đó cuộc tranh luận nội tâm nhắm đến cách thế Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng của mình (x. Lc 4: 12).
Ba lần Chúa Giê-su trở lại bên các môn đệ của Ngài. Sự kiện vị Thiên Chúa làm người tìm sự nương tựa vào những anh em nhân loại của mình trong nỗi buồn phiền vô tận thật cảm động biết bao. Ngoài ra, Chúa Giê-su không muốn để mặc các môn đệ Ngài, vì họ cũng sắp trải qua sự thử thách và niềm tin của họ sẽ bị lung lay.
Lần thứ ba, Ngài không đánh thức các ông. Ngài biết từ nay Ngài sẽ không thể tin cậy vào các ông.
Đức Giê-su bị bắt (26: 47-56)
Giu-đa biết rất rõ nơi này; hắn biết rằng Đức Giê-su thường đến đây. Thánh Mát-thêu nhắc lại thêm một lần nữa Giu-đa là “một người trong Nhóm Mười Hai”, để nhấn mạnh cử chỉ bỉ ổi và thói giả hình ở nơi nụ hôn của hắn. Kẻ phản bội được hộ tống bởi đám đông được trang bị gươm giáo gậy gộc, mà các thượng tế và kỳ mục sai đến; vì thế, cốt là những người lính canh Đền Thờ, và những thành phần bất hảo đã nhặt những gậy gộc trên đường.
Những người này được sai đi bắt Đức Giê-su lại không biết Ngài, hơn nữa, vào đêm tối, họ có nguy cơ bắt nhầm người. Giu-đa đã cho họ một dấu hiệu: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!”. Theo lẽ thường tình, một môn đệ thường chào “thầy mình” theo cách này; nhưng lần này, Giu-đa đã cho nụ hôn của mình một ý nghĩa khác: sự phản bội.
Đức Giê-su trả lời hắn: “Này bạn”. Cách xưng hô này đượm vẻ trách cứ nhưng nhẹ nhàng không công phẫn: “Bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi”. Tin Mừng Mát-thêu trích dẫn hai lần biểu thức trách cứ khởi đầu với: “Này bạn” như ông chủ vườn nho trả lời cho một người trong những người thợ làm vườn nho giờ đầu tiên: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20: 13), hay vua trả lời cho khách mời dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới: “Này bạn, làm sao bạn vào đây…” (Mt 22: 12).
Tiếp đó, thánh Mát-thêu nêu lên một người môn đệ chém đứt tai tên đày tớ của thượng tế. Nhờ thánh Gioan, chúng ta biết người môn đệ này là thánh Phê-rô, và nhờ thánh Lu-ca, chúng ta biết đó là tai phải (những phần thân thể ở bên phải được xem như cao quý hơn ở bên trái).
Đức Giê-su quở trách cách sử dụng bạo lực, Ngài không muốn các môn đệ Ngài bắt chước nhóm Nhiệt Thành; nhưng Ngài còn muốn cho họ hiểu rằng dù Ngài là chủ tể của mọi biến cố và nếu Ngài muốn các đạo binh thiên quốc có thể bảo vệ Ngài, nhưng Ngài tự ý nộp mình. Ở nơi sự phục tùng bên ngoài của Ngài, một ý định bao la được phơi bày ra, ý định ấy vượt quá mọi nhân vật của tấn thảm kịch.
“Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết”. Trước những người xét xử Ngài, Đức Giê-su sẽ không có bất kỳ một người biện hộ nào, bất kỳ nhân chứng nào để bênh vực cho Ngài, Ngài một thân một mình tiến bước vào cuộc Tử Nạn. Tuy nhiên hai môn đệ mon men theo Ngài từ xa xa cho đến dinh thượng tế Cai-pha, là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Và thánh Gioan sẽ hiện diện dưới chân thập giá.
Đức Giê-su trước thượng hội đồng (26: 57-68)
Đức Giê-su bị điệu đến trước Cai-pha, vị thượng tế đương nhiệm, có quyền tối thượng của Ít-ra-en. Chính quyền Rô-ma đã để cho người Do thái quyền độc lập tôn giáo và vài quyền điều hành. Vị thượng tế là lãnh tụ hàng giáo sĩ và là người chủ tọa Thượng Hội Đồng. Thượng Hội Đồng này gồm có: các thượng tế (vị thượng tế đương nhiệm, các vị thượng tế mãn nhiệm và các tư tế có trách nhiệm thường hằng trong Đền Thờ), các kỳ mục (những quý phái giáo dân, những người giàu có, những người đứng đầu các gia đình thế giá) và các kinh sư (những tiến sĩ luật, phần lớn giáo dân, thuộc tầng lớp trung lưu hay khiêm hạ. Họ được dân chúng kính trọng và đa số họ là những người Pha-ri-sêu).
Thượng Hội Đồng thường hội họp ở Đền Thờ, nhưng vào đêm này, khuôn viên Đền Thờ đóng cửa; vì thế Thượng Hội Đồng nhóm họp trong tư dinh thượng tế Cai-pha. Số thành viên Thượng Hội Đồng tổng cộng 70 người, không tính vị thượng tế chủ trì hội nghị. Số người tối thiểu để buổi họp này có thể tiến hành là hai mươi ba thành viên. Chắc chắn phiên tòa xét xử Đức Giê-su có hơn số người này.
Đức Giê-su cần thiết phải ra trước tòa án Do thái. Giả như Ngài đã bị giao nộp liền ngay vào chính quyền Rô-ma, Ngài sẽ được liệt vào số phận của những người kháng chiến, vì thế sẽ được vinh dự người ái quốc. Lời tuyên trước tiên đến từ giáo quyền Ít-ra-en để làm mất uy tín của Đức Giê-su.
Thánh Mát-thêu nêu bật trò cười của phiên xử: “Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình”. Cuối cùng hai nhân chứng được đưa ra để xuyên tạc lời nói của Đức Giê-su. Trước đây Đức Giê-su đã nói: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2: 19), bây giờ, những chứng nhân tố cáo cố ý bóp méo lời Ngài: “Tên này đã nói: ‘tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa…’”.
Sau khi giữ thinh lặng, Đức Giê-su long trọng khẳng định phẩm chất Thiên Sai của Ngài. Khi bị hạ nhục, Ngài công bố tính chất siêu việt của mình; Ngài tự nhận mình là “Con Người”. Đối với những kẻ tự phụ xét xử Ngài, Ngài công bố rằng chính Ngài là vị thẩm phán đích thật sẽ đến trên mây trời, mặc lấy uy quyền của chính Thiên Chúa.
Bấy giờ, vị thượng tế bằng cử chỉ đóng kịch xé áo mình ra. Chung chung, việc xé áo là dấu chỉ tang chế. Nhưng vị thượng tế không có quyền xé áo để tang cho bất kỳ ai, dù cha hay mẹ đi nữa (Lv 21: 10); ông phải dành cử chỉ này cho những việc công nghiêm trọng, nhất khi thực hiện chức năng xét xử của mình, ông phải công bố sự phẩn nộ của mình.
Lời tuyên án của Thượng Hội Đồng chỉ lời kết án về phương diện đạo đức, lời nói phạm thượng: “Hắn đáng chết!”. Chính quyền Rô-ma đã lấy đi quyền thi hành án tử khỏi tòa án Do thái này. Ngay từ phiên xử đầu tiên này, Đức Giê-su chịu những lời nhục mạ bỉ ổi.
Làm thế nào chúng ta biết được những chi tiết và những diễn biến của phiên họp Thượng Hội Đồng này? Chẳng có gì là khó cả. Giữa những thành viên Thượng Hội Đồng có những người thiện cảm với Đức Giê-su, như ông Giô-xép thành A-ri-ma-thê và có thể ông Ni-cô-đê-mô. Vả lại, sau này, theo lời chứng của sách Công Vụ, một đám đông tư tế đón nhận đức tin vào Đức Giê-su (Cv 6: 7).
Thánh Phê-rô chối thầy và hối hận (26: 69-75)
Như các môn đệ khác, thánh Phê-rô đã chạy trốn vào lúc bắt Đức Giê-su. Đoạn, như thánh Gioan, ông đổi ý và cả hai cùng theo Ngài xa xa khi những người lính gác dẫn Đức Giê-su đi.
Trong khi thánh Gioan quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế, còn thánh Phê-rô thì ở bên ngoài sân trong ở đó những lính canh đã nhóm một bếp lửa để sưởi ấm vì trời lạnh.
Cả bốn Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh thánh Phê-rô chối Thầy. Vị lãnh tụ Giáo Hội đã để cho tình tiết chẳng có gì là vinh dự này truyền lại cho thế hệ sau và chỉ mình thánh nhân mới có thể cho những chi tiết, điều này thật đáng lưu ý. Sự khiêm hạ của thánh nhân, sự day dứt sâu xa về sự sa ngã của mình được diễn tả ngay tức khắc bởi những dòng nước mắt thảm thiết. Phải chăng mẫu gương của ông có thể là một bài học vào giờ của những cuộc bách hại đó sao? Thánh Phê-rô khiến chúng ta cảm động vì ngài là một vị thánh rất là người.
Nỗi tuyệt vọng của ông Giu-đa (27: 1-10)
Dường như một phiên tòa khác nữa đã xảy ra sau phiên tòa ban đêm. Thánh Mát-thêu nói: “Trời vừa sáng”. Theo luật, phiên tòa thứ hai này cần phải có. Khi bản án nghiêm khắc đã được tuyên án, hội đồng cần thời gian suy nghĩ. Theo pháp luật, kỳ hạn này phải là hai mươi bốn tiếng. Phải chăng thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô đã rút ngắn kỳ hạn này? Tất cả mọi biến cố đều được rút ngắn. Phiên tòa thứ hai này phải khẳng định hay giảm khinh, nhưng không được nghiêm khắc hơn. Đối với trường hợp Đức Giê-su, những thành viên Thượng Hội Đồng khẳng định lời tuyên án đầu tiên. Nhưng không có quyền thi hành án tử, họ giao nộp kẻ họ kết án cho chính quyền Rô-ma. Quả thật, phiên tòa tôn giáo được chuyển sang phiên tòa chính trị. Nếu chỉ vì tội phạm thượng chống lại Thiên Chúa Ít-ra-en, viên tổng trấn không thể tuyên án án tử hình Ngài được. Vì thế, một phiên tòa khác nữa bắt đầu.
Giữa phiên tòa Do thái và phiên tòa Rô-ma, thánh Mát-thêu đưa vào tình tiết mà chỉ mình thánh ký tường thuật: Giu-đa treo cổ tự tử. Thánh Lu-ca nêu lên điều này trong sách Công Vụ, vào lúc chọn Mát-thi-a thay thế cho kẻ phản bội: những chi tiết khác biệt đáng kể. Thánh Lu-ca không xác định đây phải chăng là tai nạn hay tự tử (Cv 1: 18-19).
Xem ra Giu-đa đã không lường được những hậu quả hành động phản bội của mình. Khi biết Thượng Hội Đồng kết án Thầy mình và giao nộp cho quan tổng trấn Phi-la-tô, hắn hối hận đến mức hoàn toàn tuyệt vọng. Hắn ném đồng tiền vào Đền Thờ rồi đi treo cổ tự tử.
Thánh Mát-thêu cho thấy sự việc này ứng nghiệm lời Kinh Thánh khi trích dẫn bản văn Giê-rê-mi-a (Gr 18: 2-12) được phối hợp với bản văn Da-ca-ri-a (11: 12-13): “Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Ít-ra-en đã đặt khi đánh giá Người. Và họ lấy số bạc đó mà mua Thuở Ruộng Ông Thợ Gốm, theo những điều Thiên Chúa đã truyền cho tôi”.
Tình tiết này được sử dụng như chuyển tiếp giữa hai phiên tòa; nhưng về phương diện thời gian, nó không được định vị vào lúc này. Các thượng tế không thể vừa có mặt tại dinh Phi-la-tô vừa ở tại Đền Thờ với Giu-đa.
Đức Giê-su trước Phi-la-tô (27: 11-14)
Quan tổng trấn Phi-la-tô đại diện chính quyền Rô-ma. Ông có một dinh cư ở miền Giu-đê. Thật ra, kể từ năm thứ sáu sau Công Nguyên, A-kê-la-út, con và kế vị Hê-rô-đê đại đế, bị chính quyền Rô-ma truất quyền cai trị miền Giu-đê. Chính quyền Rô-ma lo sợ những phong trào phản loạn dấy lên ở Giê-ru-sa-lem hay trong miền.
Dinh thự quen thuộc của các tổng trấn Rô-ma là thành Xê-da-rê duyên hãi, thành phố lớn mới và thoáng mát. Nhưng vào những ngày đại lễ, đặc biệt lễ Vượt Qua có đông đảo dân chúng từ khắp nơi về mừng lễ, thì vị tổng trấn có mặt ở Giê-ru-sa-lem. Đó là lý do tại sao vị tổng trấn có mặt vào lúc đó ở Thành Thánh. Vì thế, Đức Giê-su mới có thể đối mặt trực diện với quan tổng trấn Rô-ma này.
Ngay tức khắc, quan tổng tra hỏi Đức Giê-su trên bình diện chính trị: “Ông là vua dân Do thái sao?”. Chỉ duy tham vọng này, chính quyền Rô-ma mới có thể kết án tử Ngài, và đây là bản án mà Phi-la-tô sẽ truyền viết trên một tấm bảng đóng vào thập giá trên đầu Ngài: “Người này là Giê-su, vua dân Do thái”.
Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài nói đó”. Đức Giê-su tránh trả lời trực tiếp: thay vì trả lời với đại từ ngôi thứ nhất, thì lại là đại từ ngôi thứ hai, nhưng câu trả lời này không kém phần khẳng định; Ngài đã trả lời theo cùng cách như vậy cho Giu-đa khi Giu-đa hỏi Ngài: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” “Chính anh nói đó”.
Qua câu trả lời của mình, Đức Giê-su muốn cho Phi-la-tô hiểu: “Tôi đích thật là vua, nhưng không như ông nghĩ”.
Các thượng tế và các kỳ mục tố cáo Ngài trước chính quyền Rô-ma. Những lời tố cáo này được thánh Lu-ca tường thuật: “Tên này sách động…ngăn cản nộp thuế cho hoàng đế Xê-da…lại còn xưng mình là Mê-si-a, là vua nữa” (Lc 23: 1-5). Nhưng Đức Giê-su im lặng khiến quan tổng trấn rất đổi ngạc nhiên. Chung chung những bị cáo, không có luật sư, tự mình biện hộ cho mình. Việc Phi-la-tô ngạc nhiên có thể bày tỏ sự bối rối trước mầu nhiệm của can phạm này mà người ta đã giao nộp cho ông và nhân phẩm của người này thì thật khác thường.
Ân xá vào dịp lễ Vượt Qua (27: 15-25)
Theo tập tục Do thái vào dịp lễ Vượt Qua, người ta phóng thích một tù nhân, chắc chắn để tưởng nhớ cuộc giải thoát khỏi Ai-cập mà người ta tưởng niệm vào ngày này. Phi-la-tô biết tập quán này; ông đề nghị cho dân chúng chọn giữa tên sát nhân khét tiếng và Đức Giê-su.
Chúng ta có thể ngạc nhiên về quyền được ban cho dân chúng; đây không là trường hợp ngoại lệ. Ở Rô-ma, trong những cuộc giác đấu ở hý trường, việc dân chúng quyết định tha hay giết buộc hoàng đế phải chuẩn theo. Trong truyền thống Do thái, chúng ta gặp thấy việc dân chúng được dự phần vào sự quyết định được kể ra nhiều lần như vụ án của bà Su-san-na và hai kỳ mục trắc nết.
Việc Ba-ra-ba được phóng thích nêu bật những trách nhiệm khác nhau: trách nhiệm của Thượng Hội Đồng xúi dục dân chúng chống lại Đức Giê-su; trách nhiệm của dân chúng để cho mình bị thao túng nên chọn tên sát nhân khét tiếng hơn Đức Giê-su; cuối cùng, trách nhiệm của Phi-la-tô, ông đã quá tin nên đã trù tính dân chúng sẽ bênh vực Đức Giê-su, nhờ đó ông thoát mình khỏi việc lên án một người vô tội. Nhưng ông đã không lường trước cuộc vận động của các thượng tế, cho dù ông biết rằng chính chỉ vì ghen tuông mà người ta đã nộp Ngài cho ông. Nhưng Phi-la-tô nhượng bộ dân chúng; ông muốn lấy lòng dân địa phương, đồng thời muốn tránh bị tố cáo lên chính quyền Rô-ma và về phương diện chính trị, bị xem là nhu nhược trước một kẻ tự cho mình là “vua dân Do thái”.
Như vậy, quan tổng trấn đưa ra quyết định sau cùng, và chính ở nơi hình phạt Rô-ma mà Đức Ki-tô bị kết án: đóng đinh vào thập giá, chứ không hình phạt Do thái: ném đá.
Tuy nhiên, trong câu chuyện này, thánh Mát-thêu tường thuật hai sự kiện xem ra chỉ là phụ, qua đó thánh ký muốn ghi nhận rằng lương dân, chứ không phải dân Do thái, đã nhận ra Đức Giê-su vô tội: bà vợ của Phi-la-tô, được báo trong giấc mộng, không muốn chồng mình kết án một người công chính. Mặt khác, chính Phi-la-tô rửa tay để nói rằng ông không nhúng tay vào máu của người vô tội này. Rõ ràng thánh Mát-thêu quy trách nhiệm về cái chết của Đức Giê-su nhiều hơn cho dân Do thái và các vị lãnh đạo của họ.
Đức Giê-su chịu đánh đòn (27: 26)
Đánh đòn tự nó là một hình phạt, tội nhân khó sống sót qua trận đòn. Đánh đòn xem ra cũng đã là một biện pháp đi trước việc đóng đinh vào thập giá; nó làm cho nạn nhân kiệt sức vì mất nhiều máu và vì thế rút ngắn cơn hấp hối rất đau đớn của nạn nhân trên thập giá.
Đức Giê-su bị nhục mạ (27: 27-31)
Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho quân lính thi hành án lệnh. Ấy vậy, chúng ta đã nhấn mạnh rồi, quân lính Rô-ma rất có ác cảm với dân chúng, nhất là những lần chúng phải đối đầu với dân chúng trong những cuộc bạo loạn. Đây là dịp để chúng trút ác tâm của chúng trên tên Do thái này được trao vào tay chúng. Tất cả quân lính ở dinh thự quan tổng trấn tụ lại để chế nhạo Đức Giê-su. Hoạt cảnh thật hung tợn và tàn nhẫn.
Chúng kết một vòng gai nhọn rồi đội trên đầu Ngài; chúng khoắc cho Ngài một tấm áo choàng đỏ, chắc chắn áo choàng của quân đội Rô-ma mặc khi thắng trận, điều này lại càng nhục mạ Ngài thêm nữa.
Đường Thập Giá (27: 32-44)
Cuộc hành hình chỉ có thể diễn ra ở bên ngoài thành: khuôn viên thành là đất thánh không thể bị vấy bẩn bởi những thi thể tội nhân được. Đồi Sọ gần với cửa tây Giê-ru-sa-lem.
Dù đoạn đường tương đối ngắn mà Đức Giê-su phải đi qua vai mang thập giá, nhưng Ngài yếu nhược bởi những cư xử thô bạo, vì thế quân lính trưng dụng một người qua đường, ông Si-mon người Ky-rê-nê, để vác đỡ thập giá với Ngài.
Khổ hình thập giá là sáng kiến của người Rô-ma. Xi-xê-ron mô tả khổ hình này là “cái chết kinh khiếp nhất và tàn bạo nhất”. Người Rô-ma dành việc hành hình này chỉ cho tầng lớp hạ lưu nhất: những người nô lệ. Ta-sít gọi nó “khổ hình của những kẻ nô lệ”.
Sau khi đã đóng đinh tay chân Ngài vào thập giá, “chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau”. Điều này phù hợp với luật Rô-ma: áo quần nạn nhân thuộc những lý hình. Đồng thời sấm ngôn của Tv 22 được ứng nghiệm: “Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (Tv 22: 19).
“Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một bên phải, một bên trái”. Điều này tăng thêm sự nhục mạ đối với Đức Giê-su: Ngài bị liệt vào hàng những kẻ gian phi.
Ở dưới chân Đồi Sọ, có một con đường dẫn đến Giê-ru-sa-lem. Chỗ hành hình này được chính quyền nhắm đến: cảnh tượng những nạn nhân hấp hối trong đau đớn phải có hiệu quả ngăm đe đối với khách bộ hành. Đó là lý do tại sao các thánh ký nêu lên những lời thóa mạ của những người qua đường.
Trên thập giá, Đức Giê-su chịu những lời nhục mạ của ba loại người: người Do thái qua đường nhận ra Ngài; các thành viên Thượng Hội Đồng đến chứng kiến cuộc hành hình; sau cùng hai tên gian phi. Thánh Mát-thêu không nói về “người trộm lành” mà thánh Lu-ca nêu lên trong bài tường thuật của mình.
Như vậy, Đức Giê-su thật sự bị bỏ rơi và thật sự phó nộp vào tay những kẻ thù Ngài.
Đức Giê-su chết trên thập giá (27: 45-50)
“Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất”. Việc bầu trời trở nên sầm tối vào giữa trưa thường xảy ra vào mùa xuân. Thánh ký đọc thấy ở đây một dấu chỉ, mà lối phóng dụ của ông diễn tả: cái chết của Đức Giê-su trên thập giá có một tầm mức hoàn vũ.
Chúng ta không thể không nghĩ đến sấm ngôn của A-mốt, gợi ra ngày của Chúa là ngày tang chế của người con một: “Trong ngày ấy, Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt trời tối sầm giữa lúc ngày đang sáng…Ta sẽ làm cho đất này chịu tang như người ta chịu tang đứa con một và kết cục của nó như một ngày cay đắng” (Am 8: 9-10).
Những sấm ngôn khác (Giô-en, Xô-phô-ni-a, vân vân) loan báo rằng ngày Chung Thẩm đi kèm theo những dấu chỉ vũ trụ (bóng tối, trận động đất, vân vân). Nhưng đây phải là ngày thịnh nộ. Thậm chí nếu giờ Đức Giê-su chết, theo mức độ nào đó, là giờ xử án rồi, nhưng thay vì giờ thịnh nộ lại là giờ tha thứ và xót thương.
“Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con”. Đây là tiếng kêu tuyệt vọng của người Công Chính đau khổ trong Tv 22: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị người đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: ‘Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giãi gỡ đi nào!’”.
Đức Giê-su lập lại tiếng kêu của Người Công Chính bị người đời khinh bỉ. Sau khi đã nhận biết bị người đời bỏ rơi, Ngài cảm thấy chơ vơ cô quạnh tuyệt mức, ngay cả Cha Ngài đã bỏ mặc Ngài.
Thánh ký đã trích nguyên văn tiếng A-ram, tiếng mẹ đẻ của Đức Giê-su: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”. Ấy vậy, chúng ta biết rằng theo truyền thống Do thái, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để giới thiệu Đấng Mê-si-a cho những tín hữu. Lời đùa cợt thì dể dàng và ác tâm: Ông Giê-su hấp hối này còn tin mình là Đấng Mê-si-a, hắn ta gọi ông Ê-li-a!
“Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm”. Cử chỉ này được hiểu tốt hơn trong bản văn của Gioan ở đó Đức Giê-su vừa nói: “Tôi khát”. Thánh Mát-thêu ngụ ý rằng một người đưa ra lời chế nhạo: “Khoan đã, để xem ông Ê-li-a có đến cứu hắn không”.
Cả bốn thánh ký đều đã giữ lại sự cố này vì Kinh Thánh soi sáng cho nó. Chúng ta đọc ở Tv 69 lời phàn nàn của một tôi trung, nạn nhân vì lòng nhiệt thành của mình đối với Đức Chúa: “Chúa biết rõ con bị người chửi mắng, lại mang vào thân tủi hổ với nhục nhằn; những kẻ thù con Ngài nhìn thấy cả. Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời. Nỗi sầu riêng mong người chia sớt, luống công chờ, không được một ai; đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu! Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69: 20-22).
Theo thánh Mát-thêu, Đức Giê-su không uống giọt giấm nào, Ngài “kêu lên một tiếng lớn, rồi trút linh hồn”.
Tiên báo về một thế giới mới (27: 51-54)
Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất liệt kê danh sách về những dấu chỉ lạ lùng này, đi kèm theo cái chết của Đức Giê-su.
Nét đặc trưng thứ nhất có ý nghĩa nhất: bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới đất. Đây là bức màn giăng lối vào tiền sảnh, hoặc bức màn phân cách thánh điện với phần cực thánh mà chỉ vị thượng tế mới có thể vào, một năm một lần để thực hiện nghi lễ Xá Tội. Dù bức màn nào đi nữa, ý nghĩa cũng là một: lối vào Thiên Chúa từ nay được mở ra cho hết mọi người, việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn độc tôn cho dân Ít-ra-en: cái chết của Đức Giê-su trải rộng cho hết mọi người. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa, đã thôi đóng vai trò của mình; đền thờ đích thật của Thiên Chúa sẽ là thân thể phục sinh của Đức Giê-su, như chính Ngài đã loan báo.
“Đất rung đá vỡ”. Hình ảnh khải huyền mà thánh Mát-thêu mượn ở nơi những sấm ngôn liên quan đến Ngày của Chúa ở đó thế giới phải rung chuyển. Được Kinh Thánh nuôi dưỡng, thánh ký nhận ra ở nơi cái chết của Đức Giê-su ứng nghiệm các sấm ngôn này.
“Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được chỗi dậy”. Thánh Mát-thêu nghĩ đến Is 26: 19 và Đnl 12: 2-3. Các vị thánh Cựu Ước, nhờ hy tế cứu chuộc của Đức Ki-tô, vào thánh thánh, tức là Giê-ru-sa-lem trên trời. Đây là “thị kiến thần học chứ không lịch sử”. Vả lại, thánh ký cẩn trọng xác định “Sau khi Chúa chỗi dậy”. Chính chỉ biến cố Phục Sinh mới đem lại thành quả tròn đầy cho hiến tế của Đức Ki-tô.
Tại thánh Mát-thêu, những dấu chỉ vũ trụ này khiến các lính canh và viên đại đội trưởng Rô-ma kinh khiếp, trong khi tại thánh Mác-cô chính thái độ của Đức Giê-su làm xúc động một mình viên đại đội trưởng.
“Quả thật ông này là Con Thiên Chúa”. Chắc chắn viên đại đội trưởng đã nghe trong đám đông những tiếng xì xầm: “Người này cho mình là con Thiên Chúa”; ông lập lại diễn ngữ này, dù không nắm bắt hết tầm mức của nó, nhưng qua những gì ông đã chứng kiến, ông tin chắc rằng tội nhân này là một người công chính đặc biệt. Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng này là dấu hiệu tiên báo cuộc hoán cải của thế giới lương dân; đây là lời chứng đầu tiên về tính phổ quát mà bức màn trướng Đền Thờ xé ra làm đôi loan báo.
Các Thánh nữ (27: 55-56)
Thánh ký trích dẫn đích danh ba trong số những người phụ nữ trung thành này, từ đằng xa, họ chứng kiến cơn hấp hối của Đức Giê-su.
1. Trước hết, bà Ma-ri-a Mác-đa-la, người mà Đức Giê-su đã trừ bảy quỷ, từ đó, bà đã luôn luôn theo Ngài để phục vụ Ngài.
2. Bà Ma-ri-a, mẹ của các ông Gia-cô-bê hậu và ông Giô-xếp, hai người anh em họ của Chúa.
3. Bà mẹ các con ông Dê-bê-đê (ông Gia-cô-bê và ông Gioan). Như vậy, không chỉ thánh Gioan hiện diện dưới chân thập giá, nhưng mẹ của thánh nhân cũng có mặt.
Sự hiện diện của các bà ở đây rất quan trọng vì lời chứng của các bà sẽ bổ khuyết cho lời chứng của nhóm Mười Hai vào những thời điểm mà các ông không có mặt. Các bà đã theo Đức Giê-su từng bước trên con đường thập giá, chứng kiến cái chết của Ngài trên thập giá và cuộc mai táng của Ngài. Các bà là những người đầu tiên chứng kiến ngôi mộ trống, dấu chỉ đầu tiên cuộc Phục Sinh của Ngài, và là những người đầu tiên gặp gỡ Đấng Phục Sinh và nhận sứ mạng của Đấng Phục Sinh là ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các ông.
Mai táng đức Giê-su (27: 57-61)
Theo tập quán Rô-ma, để tính ngăm đe có hiệu quả tốt, thi hài của tội nhân phải bị phơi bày trong nhiều ngày. Luật Do thái thì hoàn toàn khác: không được để mặt trời lặn trên thi thể của tội nhân. Đnl 21: 22 xác định, “xác nó không được để qua đêm”. Mặt khác, nếu không có ai can thiệp, thi hài của Đức Giê-su có nguy cơ bị ném vào một hố chung cùng với thi thể của hai tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài. Cuối cùng, theo cách tính của người Do thái, buổi chiều bắt đầu ngày sa-bát, ngày người ta kiêng cữ mọi công việc.
Vì thế, phải vội vã, vì thời gian gấp rút. Ấy vậy, gần nơi hành hình có một ngôi mộ trống. Chính nơi ngôi mộ này mà ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê, chủ nhân của ngôi mộ này và là môn đệ của Đức Giê-su, nghĩ đến việc mai táng Đức Giê-su. Trong khi Đức Giê-su còn sống, ông không dám bày tỏ sự thiện cảm của mình, vì ông là một thành viên Thượng Hội Đồng. Lúc này, ông can đảm đứng ra xin Phi-la-tô được tháo thi thể Đức Giê-su khỏi thập giá để mai táng. Quan tổng trấn chấp thuận.
Trước những biến cố này, chúng ta không thể không nghĩ đến lời của Đức Giê-su: “Nếu hạt giống không mục nát đi…nó không sinh nhiều hoa trái”. Ngày khi Đức Giê-su vừa tắt thở, những dấu chỉ kiểm chứng lời này: một lương dân công bố tính siêu việt của Ngài, dân chúng đến xem ra về vừa đấm ngực ăn năn (thánh Lu-ca kể sự kiện này), một người môn đệ thầm lặng vượt lên trên nỗi sợ hãi của mình, đích thân đến xin Phi-la-tô thi thể Đức Giê-su và mai táng.
Vì thế, Đức Giê-su, vị sứ giả nghèo khổ này, trước đây vài ngày, thân thể Ngài đã được xức dầu thơm hảo hạng, nay an nghỉ trong ngôi mộ của nhân vật giàu có, đã được đục sẵn trong núi đá và hoàn toàn mới, như thử những dấu hiệu vinh dự này báo trước việc Ngài đi vào trong vinh quang của mình.
Thực tế, ngôi mộ của những người giàu có là một căn phòng ở giữa có một ghế dài để đặt thi thể, bên ngoài có một phiến đá lớn lấp cửa mộ. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a, mẹ của ông Giô-xếp, “quay mặt vào mồ” quan sát việc mai táng. Chính hai bà này vào sáng sớm ngày thứ nhất sẽ là những người đầu tiên chứng thực ngôi mộ trống.
Như vậy, ngày đau thương hoàn tất một cách trang nghiêm, giữa những tấm lòng lòng trung thành và yêu mến.
Lính canh mồ (27: 62-66)
Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất kể ra việc canh mồ. Ngôi mộ phải được canh giữ theo lệnh Phi-la-tô, đó là chuyện thường tình. Nhưng đàng này lại là sáng kiến của các thượng tế, điều này xem ra hy hữu. Người ta tự hỏi phải chăng vào thời thánh Mát-thêu biên soạn Tin Mừng sự tranh cãi giữa những người Do thái và những Ki tô hữu vẫn còn dai dẳng, những người Do thái buộc tội những người Ki-tô hữu đã trộm xác Đức Ki-tô để phao tin đồn là Ngài đã sống lại. Cuộc tranh cãi phải nhắm đến câu hỏi phải biết ai chịu trách nhiệm canh gác ngôi mộ.
Ba tấn thảm kịch
Ba tấn thảm kịch chồng chéo lên nhau trong cuộc Thương Khó của Đức Giê-su: trước hết, tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối, rồi đến tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người, sau cùng tấn thảm kịch của tội lỗi.
1. Dân Ít-ra-en từ chối
Đức Giê-su đã không ngừng công bố một sứ điệp khó khăn; Ngài đã phá đổ những thành kiến, lên án chủ nghĩa duy luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, đoạn sự thù hận đã liên kết với nhau chống lại Ngài. Những người lãnh đạo tôn giáo đã không chấp nhận nhận ra ở nơi Ngài Đấng Mê-si-a, vì Ngài không đáp ứng hình ảnh mà họ tự mình tưởng nghĩ ra. Việc họ kiên tâm tiêu diệt Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ suy tính: Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết, nhưng do việc làm của họ, dân Ít-ra-en, dân được ký thác Lời Hứa, đã thôi không còn nữa.
2. Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người
Khi đón nhận kiếp phàm nhân như chúng ta, Đức Giê-su đã chấp nhận thân phận tử biệt sinh ly của chúng ta. Ngài đã đảm nhận vận mệnh con người trong mọi chiều kích đau khổ khủng khiếp. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến Ngài phải hứng chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài sống. Số phận này ở trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18-19). Đây là cử chỉ yêu thương tận mức, Đức Giê-su đã muốn thuộc vào số những người bị tra tấn, những người bị hành hình, những người tử đạo, ngỏ hầu những ai phải chết trong những đau đớn cùng cực nhất, và những ai phải chịu đau khổ về thể lý cũng như luân lý, đều gặp thấy ở nơi cuộc Thương Khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Cũng phải ghi nhận rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có muôn vàn ân phúc. Ở đâu có những đau khổ được liên kết với Ngài, ở đó Ngài sẽ ban muôn vàn ân sủng.
3. Tấn thảm kịch của tội lỗi
“Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Đức Giê-su cho cái chết của Ngài ý nghĩa này.
Tuy nhiên, lời này đưa chúng ta vào mầu nhiệm: “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc”. “Người cứu chuộc” (goel) là người phục hồi phẩm giá cho một thành viên trong gia tộc phải lâm vào cảnh bần cùng, và chuộc lại nếu người ấy phải sa vào vòng nô lệ vì nợ nần. Đây là ý nghĩa đặc biệt của từ Hy-bá mà chúng ta dịch “Đấng Cứu Chuộc”.
Dù được Kinh Thánh soi sáng, biết bao vấn đề gợi lên trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Thiên Chúa rất mục tốt lành, Thiên Chúa-Tình Yêu, Ngài đã không muốn nhân loại một mình phải gánh chịu mọi hậu quả tội lỗi của mình. Ngài đã sai Con Ngài đến để chia sẻ gánh nặng tội lỗi và xóa đi mọi vết nhơ của tội. Đó là lý do tại sao Thánh Giá là “vinh quang” của Thiên Chúa, như thánh Gioan nói.
Bài Thương khó theo Tin Mừng thánh Mátthêu khởi đầu bằng sự phản bội của Giuđa, một trong mười hai tông đồ. Giuđa đã được Chúa gọi, nuôi dưỡng và dạy dỗ. Vì tham tiền bạc mà ông đã phản bội Thày mình. Không chỉ có Giuđa, chúng ta còn thấy một số kỳ lão, người biệt phái, luật sĩ và đám đông dân chúng cũng đua nhau tố cáo Chúa. “Hội chứng đám đông” đã khiến những người này hăng hái và liên kết lại với nhau để vu khống cho Chúa đủ điều. Các môn đệ hằng ngày thân thiết và hăng hái với Thày, lúc này xem ra cũng yếu đuối, run sợ, thậm chí còn chối Thày như trường hợp Phêrô.
Đối lại với một Giuđa phản bội và một đám đông dân chúng đang bừng bừng căm giận, Chúa Giêsu vẫn khiêm tốn và trung thành. Người chấp nhận đi cho đến cùng chặng đường sứ mạng Thiên sai. Người không dùng bạo lực để đối lại với bạo lực. Cuộc xét xử bất công của Công nghị Do Thái đã lên án người vô tội. Chúa Giêsu đã chết trên thập giá để đền thay cho tội lỗi loài người. Người đã đau khổ cho con người hạnh phúc, đã chết cho con người được sống.
Hai bài đọc (Bài đọc I và bài đọc II) đều nhắc đến hình ảnh người Tôi tớ Trung thành trong đau khổ. Giáo Hội Kitô đã nhận ra Người Tôi tớ đau khổ mà ngôn sứ Isaia tiên báo nơi Đức Giêsu Kitô. Người đã mang trên thân mình những đau khổ của cả nhân loại mà không than van (Bài đọc I). Người đã “hủy mình ra không” để trở nên thân phận tôi đòi (Bài đọc II). Đức Giêsu chấp nhận tất cả những điều đó, vì vâng lời Chúa Cha và vì yêu thương nhân loại. Người cũng làm gương cho chúng ta, để rồi, trong cuộc sống còn nhiều gian nan thử thách này, chúng ta biết vác thập giá đời mình và vác thập giá cho nhau.
Hai mươi thế kỷ sau cái chết của Đức Giêsu, Giáo Hội Kitô vẫn không ngừng tôn vinh cây thập giá, như cờ hiệu chiến thắng và như biểu tượng tình yêu. Khi tham dự phụng vụ hôm nay, mỗi người được mời gọi suy tư về thái độ sống của mình. Nghi thức làm phép lá và kiệu lá nhắc chúng ta, cuộc thương khó của Chúa vẫn đang diễn ra nơi những người đau khổ, nghèo hèn, bệnh tật, bị áp bức và thiệt thòi bất công trong xã hội hôm nay. Chúa đang đi qua cuộc đời này. Có những người đón tiếp Chúa, nhưng cũng có những người dửng dưng trước việc Chúa đi ngang qua cuộc đời họ, thậm chí có những người từ chối Chúa và gạt Người ra bên lề cuộc sống. Tiếng gọi của Chúa là tiếng gọi khiêm tốn, đôi khi bị lấn át bởi biết bao âm thanh hỗn tạp của “biển đời” đầy bon chen và giành giật. Vì thế, để lắng nghe lời của Người, chúng ta phải trút bớt khỏi tâm hồn những toan tính, tham vọng. Chúa thường tâm sự với những ai biết chuyên tâm cầu nguyện và những tâm hồn thích sống trong lắng đọng nội tâm. Ngày lễ Lá giúp chúng ta tự vấn lương tâm: chúng ta đón Chúa với tâm tình nào? Phải chăng là dửng dưng như một số người dân thành Giêrusalem năm xưa? Hoặc như một số người nhiệt thành tung hô Chúa, nhưng rồi sau đó thay lòng đổi dạ, giơ tay tố cáo Chúa và xin Philatô đóng đinh Người trên thập giá? Lời Chúa hôm nay vừa nêu cao hình ảnh Đức Giêsu như một Tôi tớ tín trung của Thiên Chúa, vừa mời gọi chúng ta hãy noi gương Người, trung thành và kiên vững trong đời sống đức tin.
Sau khi tham dự Lễ Lá, chúng ta sẽ mang theo một vài cành lá đã được làm phép về nhà. Cành lá này nhắc lại điều chúng ta đã hát: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Cành lá này cũng nhắc chúng ta về lòng trung thành với Chúa trong đời sống. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu là sống và làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Người muốn chúng ta hãy là chứng nhân loan báo sự chết và phục sinh của Người cho đến tận cùng thế giới. Người muốn mỗi chúng ta cũng biết hy sinh cho nhau, để cuộc sống này trở nên nhân ái và công bình hơn. Người còn muốn chúng ta hãy tiếp nối sứ mạng của Người xây dựng Nước Trời, một công trình được thực hiện ngay ở đời này và sẽ hoàn thành khi Người lại đến trong vinh quang. Trong suốt Tuần Thánh này, chúng ta hãy liên kết mật thiết với Chúa trong lời cầu nguyện.
Mỗi khi cử hành Hy lễ Tạ ơn, chúng ta được đón nhận những hoa trái của cuộc thương khó Đức Giêsu. Người ban cho chúng ta không chỉ Mình và Máu Người, mà còn sự kết hợp mật thiết với Chúa Cha. Người đã khởi đầu nơi chúng ta một cuộc sống quảng đại và sự liên kết tiến tới sự thân tình trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha của Người.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
- Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
- Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Trong chuyến thăm vùng biển Vũng Áng, Hà Tĩnh, chứng kiến cảnh chết chóc tràn bờ, Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt đã viết:
“Khi chứng kiến tất cả đời sống của họ cũng như đi thăm tất cả các bờ biển, tôi cảm thấy đau xót, có thể nói là một cảnh chết chóc. Tôi vào một nhà nghỉ khá lớn của Hà Tĩnh thấy khách vắng hoe, chả thấy khách đâu cả. Rồi đi ra bãi biển thấy thuyền nằm chất đống ở đó, có những con thuyền chỉ còn đậy những tấm vải y hệt như những thân thể bị liệt thì đúng là một cảnh chết chóc. Ở bờ biển không có một sinh vật nào cả, trên bãi cát không có một con dã tràng nào. Tôi thấy ở các bãi biển đều có những con vật nhỏ li ti như con dã tràng, con cua, con ốc thì bãi biển này hoàn toàn chết hết rồi, không còn một tí gì là sự sống nữa. Khi chúng tôi xuống biển, tất cả mọi người đều hết sức đề phòng để cho nước biển không được dính vào chân. Họ kéo thuyền thật cao trên bãi cát, xong rồi thì có thể bước lên bờ để chân mình khó có thể dính nước biển… Cả một sự chết chóc như vậy”.
Cái chết ấy cho tới hôm nay vẫn chưa sống lại. Làng chài vẫn trống vắng. Nước thải độc hại vẫn tràn lan. Nguyên nhân cá chết vẫn chưa ai thực lòng nhận lỗi. Điều tệ hại là cái chết về lương tâm và luân lý khiến chẳng ai quan tâm khắc phục hậu quả để mang lại môi trường trong sạch cho vạn vật sinh sống. Con người vì lợi ích cá nhân vẫn tiếp tục hủy hoại môi trường sống và gián tiếp giết chết sự sống con người.
Khi lương tâm con người đã chết thì người ta đâu còn hổ thẹn về việc mình làm. Người ta càng không cắn rứt lương tâm khi gây nên những cái chết cho anh em. Người ta cũng bàng quan trước nỗi bất hạnh của anh em. Người ta sống theo chủ nghĩa “mackeno” để rửa tay nói mình vô tội trong những cái chết oan khiên mà đáng lý với quyền hạn và trách nhiệm chúng ta có thể bảo vệ, nhưng chúng ta đã làm ngơ cho sự ác lên ngôi.
Hôm nay khởi đầu Tuần Thánh chúng ta cũng có dịp nhìn lại một cái chết của lương tâm, của luân lý, của lý trí, của chính trị thời Chúa Giê-su. Từ dân chúng cho tới quan quyền. Từ người thất học cho tới thành phần ưu việt đều nhân danh công lý để giết hại người vô tội. Lương tâm và luân lý của họ đã chết nên họ lấy mục đích mà biện minh cho phương tiện: “thà một người chết thay cho cả dân được nhờ”. Lý trí đã bị quyền lợi lấn át để rồi chỉ còn thấy cái gì có lợi thì ủng hộ, bất lợi thì đạp đổ. Nhất là cả một hệ thống chính trị đã không còn bảo vệ công lý và còn làm ngơ cho sự dữ hoành hành khi Philato rửa tay và nói: “Ta vô can về chuyện người này”.
Kính thưa, quý OBACE,
Nhìn vào cái chết của Chúa Giê su xét theo tính nhân loại thì Ngài là nạn nhân của thái độ nhu nhược và thoả hiệp chính trị giữa Pha-ri-sêu và Philato. Ngài là nạn nhân của thói ghen tỵ, độc ác và nham hiểm của những kẻ có chức, có quyền. Ngài cũng là nạn nhân của đám đông dân chúng chỉ tìm kiếm nơi Ngài ân huệ, bổng lộc, và khi Ngài không đáp ứng những ước vọng của họ, họ liền quay lại, giơ tay ủng hộ cho án tử hình Ngài.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bóng tối của lòng người. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người công chính, lương thiện vẫn bị hãm hại bởi những cái chết của lương tâm, của luân lý . . . Biết bao người đã để cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nỗi sẵn sàng chà đạp và lường gạt anh em của mình. Biết bao người chỉ vì lòng tham, chỉ vì tính ghen tỵ, chỉ vì thói tự mãn kiêu căng vẫn đang tìm cách làm hại cuộc đời của nhau. Bao lâu chúng ta còn nuôi dưỡng những ý đồ bất chính, những thủ đoạn lừa gạt, những ích kỷ nhỏ nhen là bấy lâu vẫn còn đó những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ và loại trừ.
Bước vào tuần thương khó ước mong mỗi người chúng ta hãy rà xét lại lối sống của mình để ăn năn thống hối về lời nói, việc làm của mình, dù là vô tình hay hữu ý đã và đang gây đau khổ cho người khác. Nguyện xin Đức Giê su, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng ta ban ơn tha thứ và giúp chúng ta chỉnh sửa lại lối sống của mình cho xứng với lòng ăn năn sám hối. Xin cho chúng ta can đảm sống cho sự thật và làm chứng cho sự thật. Xin đừng vì nhu nhược mà để cho sự dữ hoành hành và người lương thiện lại chìm đắm trong oan khiên của dòng đời. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “ba thập giá”. Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật lung linh trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét…giữa nét đau khổ của hai tử tội, hận thù của đám đông là dung mạo Đấng Chịu Đóng Đinh hiền hòa chan chứa tình thương.
Tuần Thánh bắt đầu từ Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Khổ nạn, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó. Việc cử hành hôm nay với hai nhịp tương phản, mang hai sắc thái nghịch nhau : người Do thái tung hô Chúa Cứu Thế, ngập tràn tiếng reo vui, sau đó họ đòi lên án tử hình Người và cuộc thương khó đầy máu nước mắt.
Ôi nhân tình thế thái, sao mau đổi trắng thay đen!
Màu đen sự dữ, màu trắng tinh khôi bàng bạc trong bức tranh “ba thập giá” và cuộc thương khó.
- Sắc đen sự dữ
Chìa khóa để đọc tất cả những sự vô lý, bất công, phi đạo đức trong vụ bắt và xét xử Chúa Giêsu là: quyền lực của tối tăm. Bốn sách Tin Mừng đều kể rằng Chúa Giêsu bị bắt ban đêm. Matthêu, Maccô và Gioan kể một đám người mang gươm giáo gậy gộc do các thượng tế, kỳ mục, Pharisêu sai đến. Thánh Luca lại nói có cả các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục ở trong bọn người mang gươm giáo gậy gộc. Trong đêm tối, đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì giới lãnh đạo cao nhất của dân Do thái đã hội họp tại nhà thủ lãnh của họ, sai thuộc hạ đi bắt Chúa Giêsu theo sự hướng dẫn của Giuđa, người môn đệ phản Thầy. Họ ngồi chờ để kết án ngay trong đêm.Phiên họp ban đêm này do chính Caipha, chủ tịch Thuợng Hội Đồng chủ sự. Thánh Matthêu kể: “Các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình” (Mt 26,59). Họ dùng chứng gian vu khống và xuyên tạc chụp mũ để kết án tử hình Đức Giêsu (Mt 26,60-61; Mc 14,59).
Trong bộ phim 12 giờ cuối cùng của Chúa Giêsu, nhà đạo diễn đã hoạ lại hình ảnh của đêm tối vườn Cây Dầu. Đó là đêm tối của đức tin và cũng là đêm tối của lòng người.
Bộ phim bắt đầu với cảnh Chúa Giêsu đưa các môn đệ lên núi cầu nguyện vào một đêm đen như bao đêm khác.Thế nhưng, đêm nay khác hẳn mọi đêm. Bóng tối của sự dữ phủ kín, bóng đêm của quyền lực Satan bao trùm. Đêm nay, bóng tối của sự dữ hoành hành. Đêm nay, quyền lực của Satan như muốn thống lãnh thế gian. Con người đã toa rập với Satan để giết hại Con Thiên Chúa. Đêm tối vườn Cây Dầu chỉ còn lại một mình Chúa cô đơn.
“Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các Thượng tế và nhóm Pharisiêu; họ mang theo đèn đuốc khí giới…” (Ga 18,3). Người ta phải sử dụng đèn, đuốc…chứng tỏ họ đang ở trong bóng tối. Họ sử dụng khí giới tức là tựa vào sức mạnh và quyền lực thế gian. Với những từ ngữ này, Thánh Gioan giới thiệu họ như là biểu tượng của sức mạnh thế gian và quyền lực bóng tối. Giữa bóng đêm của vườn Cây Dầu thấp thoáng những khuôn mặt hung tợn với gươm giáo gậy gộc, xâu xé tấm thân đơn độc của Chúa Giêsu. Bóng tối như tiếp tay cho những hành động lén lút, bắt giữ bất minh. Màn đêm đó cũng che kín lý trí của những người tham dự phiên tòa bóng tối. Tất cả mọi chứng cứ kết án đều nằm trong vòng tròn gian dối. Mọi sự vật lúc này như nhuốm một màu đen đồng lõa cho sự dữ. Màu đen của những tâm hồn đen tối che lấp luôn cả màu đen của bóng đêm âm u. Đây là đêm của hận thù. Đây là giờ của bóng tối. Đây là thời điểm của xấu xa ngự trị. Không ai còn có thể nhận ra được ánh sáng chân lý trong màu đen của ác tâm.
Và trong các giờ kế tiếp, bóng tối càng bao trùm. Chúa Giêsu càng lẻ loi cô độc hơn.
Kể từ khi Giuđa bước ra khỏi phòng Tiệc Ly thì trời tối đen. Giuđa lẩn vào bóng đêm với đôi tay đen đúa nhận lấy những đồng bạc là giá máu của Thầy mình. Thánh Gioan trình bày, Giuđa rõ ràng thực hiện công việc này dưới tác động của Satan. Khi Giuđa rời phòng Tiệc Ly, “lúc đó, trời đã tối” (Ga 13,30). Trời tối bên ngoài chưa quan trọng. Ở đây, trời tối trong tâm hồn Giuđa. Đối với Gioan, Giuđa trong hành động nộp Chúa Giêsu đã thật sự là hiện thân của quyền lực bóng tối, đối lại với Chúa Giêsu là ánh sáng tinh tuyền.
Giuđa khoác lên trái tim màu đen của tội lỗi qua nụ hôn phản bội.Từ đó, bóng tối của sự dữ đã bao trùm lên Thượng Hội Đồng từ Thượng tế Caipha đến các Luật sĩ và Kỳ mục. Bóng tối như đồng lõa và biện minh cho mọi âm mưu thâm độc của những người đại diện cho lề luật.
Những mảng đen được tô đậm lên trên bức tranh Tình Yêu Giêsu, không phải bằng những nét vẽ dịu dàng, những nét chấm phá đặc sắc nhưng là những vết màu ngoằn nghèo, vô lối. Tình Yêu Giêsu lúc này đang bị tàn phá theo từng vết đen xấu xa của đám đông. Bóng tối đã làm tất cả mờ ảo trong điên cuồng. Mọi âm mưu đã được trù tính cẩn mật. Mọi lý lẽ độc dữ đã được hoạch định. Mọi hành vi được thực hiện ngay trong bóng tối của thần chết. Cứ thế, từng mảng đen tội lỗi như được dịp trút hẳn xuống Đức Giêsu, như muốn nhuộm đen toàn bộ cuộc đời và tình yêu của Ngài bằng mọi cách và mọi phương tiện. Ngài bị cho là đồ mê ăn uống, là phường tội lỗi. Ngài bị liệt vào hàng trộm cướp, hàng nô lệ cùng đinh. Ngài bị xem là phường gian dối, tiên tri giả. Ngài bị kết án là quân nói lộng ngôn, phạm thượng. Ngài bị xử tử vì bị gán cho việc kích động phản loạn. Đám đông dân chúng, từ những tên đầy tớ mạt hạng đến những bậc vị vọng, từ những người quen biết đến cả khách thập phương không từ chối điều gì để bôi đen con người Đức Giêsu. Ngài đã bị nhúng xuống bùn nhơ của sự khinh miệt, phỉ báng. Ngài đã bị đày đọa tận cùng của kiếp làm người.(x. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin, trang 252-253).Tình Yêu Giêsu đã bị tội lỗi nhân loại nhuộm đen màu tăm tối. Cuộc đời Chúa Giêsu đã bị dã tâm con người hủy hoại trong bóng đêm của sự bêu riếu, sỉ nhục và cái chết trần trụi thương đau. Nào ai có thể tin vào con người tàn tạ như thế! Còn ai có thể trông cậy vào con người yếu đuối bất lực này!!!
- Sắc trắng thanh khiết
Tưởng chừng như bức tranh cuộc đời của Đức Giêsu chỉ là một vệt đen khiếp đảm với những ẩn tình vô lối mà nhân loại áp đặt lên chân dung Ngài. Nhưng thật nhẹ nhàng và linh động, Tình Yêu Giêsu như ngọn bút tài hoa đã gợi mở những nét vẽ thật diễm tuyệt. Tình Yêu sáng lên một màu trắng tinh khôi và mênh mang huyền ảo của trái tim thanh khiết trao ban đến tận cùng.
Tình Yêu ấy không mang một chút bợn nhơ của hận thù chia cắt nhưng lóng lánh sắc màu hồng tươi của Tình Yêu phục hồi và giải thoát. Tình Yêu ấy chấp nhận tất, dâng hiến tất cả để xóa đi mặc cảm tội lỗi của con người, cho con người cái nhìn mới của Thần Khí, cái nhìn của Thiên Chúa trong một tổng thể toàn vẹn và đưa con người đến với Tình Yêu sung mãn tuyệt hảo của Thiên Chúa. (x.sđd trang 254-255).
Màu đen sắc tối của con người đã được Tình Yêu Giêsu làm cho trắng tinh và trả lại sự trong sáng trong Sự Thật. Ngài đã đáp trả lại tất cả mọi bất công và hận thù bằng lòng bao dung tha thứ. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Đức Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Đức Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng.
- Trắng đen trong lòng người.
Tiến bước theo Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người, thấy sự tráo trở thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen của nhân tình thế thái, chúng ta thấy bàng bạc một màu đen của những ý đồ xấu xa, những manh tâm gian ác và những hành vi tội lỗi thấp hèn và thấy sáng lên tình yêu thanh khiết của Đấng Cứu Độ.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những sắc tối của lòng người. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người công chính, lương thiện lại là nạn nhân của bất công, gian dối và tham lam. Biết bao người đã để cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nổi sẵn sàng chà đạp và lường gạt nhau. Biết bao người vì lòng tham, vì tính ghen tương đố kỵ,vì thói tự mãn kiêu căng vẫn đang tìm cách làm khổ nhau và làm hại đời nhau. Bao lâu lòng người còn chất chưa những ý đồ bất chính, những thủ đoạn lừa lọc, những ích kỷ nhỏ nhen, bấy lâu vẫn còn đó những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ và bị loại trừ.
Con người thời nay vẫn nhân danh hạnh phúc của riêng mình để kết án tử cho người khác, nhất là các thai nhi vô tội. Họ giết người vô tội không cần bản án, không cần thẩm phán hay quan toà. Tử tội thai nhi đã bị giết, chỉ vì một bà mẹ không muốn sinh con. Cả xã hội từ ông bà, cha mẹ, họ hàng và các người hành nghề lương y đã sẵn sàng giết chết sự sống của một sinh linh không có khả năng tự vệ. Biết bao cha mẹ đã viện ra nhiều lý do để loại trừ những đứa con của mình cách dửng dưng vô cảm.
Điều ác và sự thiện cũng chỉ là sự khác biệt của hành động rút gươm “hãy xỏ gươm vào bao, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52). Khi tất cả mọi lưỡi gươm được cất vào vỏ, sự thiện và thiên đàng đang ở giữa lòng thế giới. Khi thanh gươm được rút khỏi bao, nhân loại đang đắm chìm trong hỏa ngục của chính mình. Con người luôn muốn hành xử tất cả theo lối quyền uy và bạo lực của bóng tối. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dùng một phương cách kỳ lạ để cho con người thấy đâu là sự thật nhân loại cần hướng về. Qua Ngài, những cơn cuồng nộ của sự dữ, những bão táp của nhục hình, những tiếng thét hận thù như bị cuốn vào một lực hút vô hình của Tình Yêu thanh khiết. Sức của của tình yêu nơi Chúa Giêsu đã thâu tóm mọi sự xấu xa độc dữ của nhân loại và hóa giải tất cả để biến nên những giá trị mới của hiền lành, khiêm nhường và khoan dung.(x.sđd trang 258-260).
Chúa Giêsu không quỵ lụy, không riên xiết trong cuộc khổ nạn, nhưng Ngài luôn kiên cường và nhẫn nại để mời gọi và mở ra cho nhân loại một cái nhìn về chân lý, về tình yêu, về một Thiên Chúa yêu thương đến cùng. Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền.
Ánh Sáng Tình Yêu chính là Ánh Sáng Phục Sinh. Ánh Sáng ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh. Tin và bước theo Chúa Giêsu, chúng ta được tháp nhập vào tình yêu thanh khiết của Ngài, nhờ đó cuộc sống luôn có niềm vui bình an và hạnh phúc. Thánh Gioan đã đi trọn cuộc khổ nạn cùng với Chúa Giêsu và đã viết những lời thật đẹp, thật ý vị về Tình Yêu Chúa Giêsu: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo”. (1Ga 4,10-12).
.
Lm. Đaminh Trần Quang Hiền
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhác, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
.
Trầm Thiên Thu
Không ai thích đau khổ, nhưng không ai lại không đau khổ, và cũng chẳng có ai tránh được đau khổ. Chúa Giêsu còn chịu đau khổ tới tột độ thì chẳng ai thoát đau khổ ở đời này. Cái gì cũng có triết lý riêng, chắc chắn đau khổ có triết lý đặc biệt mà phàm nhân không thể hiểu nổi.
Tâm lý gia Elisabeth Kübler-Ross (1926-2004, người Mỹ gốc Thụy Sĩ) nói: “Những con người đẹp nhất là những người từng bị đánh bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và đã tìm được đường ra khỏi vực sâu. Những người này có lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời, cuộc đời đã làm họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng và quan tâm yêu thương sâu sắc. Người đẹp không tự nhiên mà có”.
Cuộc đời cho chúng ta thấy rằng những con người đẹp nhất (đẹp đúng nghĩa chứ không là đẹp ngoại hình) là những người từng bị đánh bại, từng chịu đau khổ, từng phải tranh đấu, từng chịu mất mát, nhưng họ đã tìm được con đường ra khỏi vực sâu để thoát thân – tức là họ đã đi xuyên qua đau khổ. Những con người này có lòng cảm kích, sự nhạy bén và thấu hiểu đối với cuộc đời, chính cuộc đời đã làm cho họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng và biết quan tâm yêu thương tha nhân một cách sâu sắc. Như vậy, “người đẹp” không thể tự nhiên mà có.
Ôi, loại triết-lý-sống luôn thâm sâu và! Và quả thật, chính nỗi đau khổ lại có sức mạnh kỳ diệu khả dĩ làm cho người ta nên khôn ngoan đích thực. Cụ Ngô Tất Tố đã đặt vấn đề: “Ai nên khôn không khốn một lần?”. Tương tự, cụ Phan Bội Châu đưa ra giả thuyết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Hai câu nghi vấn cũng là hai câu xác định, hai câu hỏi cũng là hai câu trả lời. Đó là dạng “nghi vấn xác định”.
Về tâm linh, Thánh Phanxicô Assisi thổ lộ: “Tôi hy vọng rất nhiều về cái hay, cái tốt. Vì vậy mà tất cả đau khổ đều là dễ thương”. Như vậy có nghĩa là cái hay và cái tốt đều xuất hiện sau đau khổ. Và thật kỳ lạ, văn thi sĩ Clive Staples Lewis (1898-1960, Anh quốc) xác định: “Thiên Chúa thầm thì với chúng ta khi chúng ta vui, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta đau khổ”.
Sự đau khổ thật là mầu nhiệm. Thật vậy, cũng như tình yêu, có lẽ chẳng ai định nghĩa thỏa đáng về sự đau khổ, bởi vì đau khổ có nhiều dạng và nhiều mức độ. Thiết tưởng có thể đơn giản hóa để dễ hiểu theo phương trình: Đau khổ = Ưu sầu + Nước mắt. Tất nhiên phải “trừ” loại nước mắt vui mừng, dù hai loại nước mắt đều có vị mặn. Rất dễ dàng lấy vạt áo lau khô những “giọt mặn” rỉ ra từ khóe mắt, nhưng lại rất khó xóa “vết mặn” khỏi trái tim mình.
Thật vậy, sướng hay khổ còn do mỗi người có khái niệm riêng. Có những triết lý dễ hiểu, có những triết lý khó hiểu, thậm chí là không thể hiểu: Triết lý Thập Giá – tức là triết lý về sự đau khổ. Thảo nào Chúa Giêsu thường xuyên nhắc nhở người ta phải vác thập giá hằng ngày và tìm cách đi vào cửa hẹp.
Trong cuộc sống đời thường, chẳng ai ưa thích gì nỗi khổ, thế nhưng đau khổ vẫn luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố gắng hiểu suốt cả đời. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa quả. Chúa không khiến nó mọc lên trên những cành quá yếu ớt để chịu nổi nó”. Những người chịu đau khổ hẳn là những người mạnh mẽ, vì Chúa biết họ đủ sức nên mới để cho họ chịu đau khổ như vậy. Thật vậy, Elbert Hubbard giải thích: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Vì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống”. Chính lúc chịu đau khổ lại là lúc người ta sống viên mãn, thật kỳ lạ vô cùng!
Triết lý đau khổ thật kỳ diệu, đúng là sự mầu nhiệm. Kinh Thánh cho biết rằng mặc dù đối mặt với các hung tin dồn dập, nhưng ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và chân thành cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Đặc biệt là dù đau khổ cùng cực, nhưng “ông Gióp KHÔNG hề phạm tội cũng KHÔNG buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (G 1:22). Hai cái “không” của ông Gióp trên cả tuyệt vời. Hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản!
Người đời cũng có cách nói thú vị: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm”. Có lẽ đó là cách “tự an ủi” của người đời. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu theo góc độ nào đó về Chúa-Giêsu-làm-người. Cuộc đời Ngài đầy đau khổ ê chề, thế nhưng Ngài vẫn có khoảnh khắc huy hoàng là được thiên hạ tung hô lúc Ngài cưỡi trên lưng lừa trên đường tiến vào Thành Giêrusalem. Và chắc chắn không ngoài Thánh Ý Chúa Cha.
Ngày Lễ Lá, Phụng vụ Lời Chúa được Giáo hội sử dụng là bài ca thứ ba trong các “Bài Ca của Người Tôi Trung”, ngắn gọn mà ý nghĩa: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:4-5). Quả thật, đó là điều không dễ, nhưng vẫn giữ được lòng trung tín ngay trong lúc chịu đau khổ!
Thật là kỳ lạ, đau khổ không làm người ta yếu đuối mà lại như loại “nước tăng lực” làm tăng sức chịu đựng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” (Is 50:6-7). Ôi, thật là mầu nhiệm, những người không có niềm tin Kitô giáo chắc chắn không thể hiểu được, và có thể họ sẽ cho những người chịu đau khổ là những người điên khùng.
Tác giả Thánh Vịnh than thở: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: ‘Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!’ ” (Tv 22:7-9). Thách thức quá lớn, khoảng cô đơn quá rộng, nỗi nhục nhã quá ê chề!
Người ta thường nói: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Điều này không khác quy luật muôn thuở, giống như định mệnh vậy. Đau khổ này cứ tiếp tục chồng chất lên đau khổ khác: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa” (Tv 22:17-20). Không còn gì để mất nữa, khốn khổ tột cùng, lo sợ run cả người, nguyện cầu không ngừng, thế nhưng vẫn chẳng nghe động tĩnh gì!
Tuy nhiên, dù có thế nào thì vẫn một lòng tín thác, vẫn xưng tụng Thiên Chúa, vì đó là mục đích sống: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ít-ra-en tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:23-24).
Cầu nguyện là lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Cầu nguyện mà không nghe động tĩnh gì, đó là dấu chỉ chắc chắn rằng Chúa đang xót thương. Lại thêm một điều kỳ diệu. Muốn hiểu được triết lý này, đòi hỏi phải có niềm tin Kitô giáo. Với người ngoài Kitô giáo hoặc vô thần, họ cho đó là “bùa mê, thuốc lú”, ai tin như vậy đều bị họ coi là dại dột, là dốt nát, là ngu xuẩn hoặc điên rồ.
Thánh Phaolô phân tích: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6-7). Chúa Giêsu không chỉ tự nguyện như vậy, mà còn hơn thế nữa: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:8). Thật đúng là mầu nhiệm, do đó mà khó hiểu quá. Tuy nhiên, chỉ là “khó hiểu” chứ không phải là “không thể hiểu”.
Trong cuộc sống đời thường, người ta cũng nhận thấy rằng tình yêu nào cũng cần có “chất” đau khổ, có đau khổ mới chứng tỏ tình yêu chân chính. Như một lời xác định, đại văn hào Victor Hugo nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Chết mà là sống. Lạ thật, người đời mà còn nhận định được như vậy đấy!
Chắc chắn đau khổ có giá trị nhất định và rất độc đáo. Gian nan là nhịp cầu dẫn tới thành công, đau khổ là nhịp cầu dẫn tới vinh quang. Cũng vậy, sự chết là con đường dẫn tới sự sống, là cửa ngõ bước vào cõi trường sinh: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi). Còn Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:9-11).
Khi Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem là lúc Ngài đi vào cõi đau khổ, và từ “biên giới” đầy gian khổ ở Vườn Dầu lại tiếp tục dẫn tới “cửa ải” sự chết nơi đỉnh đồi Can-vê. Nhưng từ nơi Can-vê “chết chóc” ấy lại dẫn tới cửa sự sống là Nước Trời. Một bản đồ lòng vòng như mê cung nhưng lại thú vị và hấp dẫn, có bao người khao khát sử dụng loại bản đồ này, và đã có nhiều người đạt được mục đích sống đó: Các thánh nhân, đặc biệt là các vị tử đạo.
Đời là thế. Chuyện gì đến sẽ đến – dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, dù to hay nhỏ. Đó là điều tất yếu của cuộc sống. Bài thương khó hôm nay là một bộ phim buồn khiến lòng người trĩu nặng…
Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đành lòng bán Thầy mình để lấy một số tiền. Từ lúc đó, gã cố tìm dịp thuận tiện để nộp Thầy mình. Vật chất và tiền bạc có ma lực cực mạnh khiến người ta mù quáng, không còn đủ lý trí sáng suốt để phân biệt đâu là phải hay trái. Ma lực đó rất khó cưỡng lại!
Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu xem Ngài muốn họ dọn Tiệc Vượt Qua ở đâu. Ngài dặn dò họ kỹ lưỡng từng chi tiết.
Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Đang tiệc vui, bỗng dưng Ngài bảo có người sẽ nộp Ngài. Các môn đệ tá hỏa tam tinh và rầu thúi ruột, họ hỏi nhỏ nhau xem ai là thủ phạm. Chẳng ai biết. Ngài nói: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26:23-24). Giu-đa nhột gáy, nhưng vẫn giả nai: “Thầy ơi, chẳng lẽ con sao?”. Ngài xác nhận là đúng!
Cũng trong bữa ăn đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26:26). Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26:27-28). Đây là lúc thật linh thiêng và xúc động, nhưng lại có nỗi buồn khi Ngài bảo: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26:29).
Sau khi hát thánh vịnh xong, Thầy trò cùng ra núi Ô-liu. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các ông về nhiều điều cần thiết, vừa cảnh báo vừa trăn trối. Nghe Thầy nói đích danh mình là sẽ chối Thầy ba lần. Ông Phêrô nói chắc: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26:35). Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Nhưng rồi… điều gì đến vẫn cứ đến!
Vào vùng đất Ghết-sê-ma-ni, Ngài bảo mọi người ở lại, chỉ dẫn theo Phêrô và hai người con ông Dê-bê-đê đi theo. Ngài bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến cực độ nên phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy” (Mt 26:38). Ngài đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:39). Nhân tính thật yếu đuối, nhưng Ngài vẫn quyết tuân phục Ý Cha cho đến cùng.
Ngài trở lại chỗ ba đệ tử ruột, ôi thôi, họ lăn ra ngủ khò. Ngài nói với Phêrô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:40-41). Phêrô còn ngái ngủ, chỉ biết gãi đầu thôi. Ngại ghê đi!
Rồi Ngài lại đi cầu nguyện lần thứ hai: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26:42). Ngài quay lại, thấy các môn đệ vẫn đang ngon giấc, mắt họ nặng trĩu. Có lẽ họ thấm mệt vì có chút men và trời đã quá khuya. Ngài để mặc các ông ngủ mà đi cầu nguyện lần thứ ba, cũng với lời như trước. Rồi Ngài đến chỗ các môn đệ, đúng lúc kẻ nộp Ngài vừa tới!
Giu-đa tỏ ra lịch sự đến chào và hôn Thầy, nhưng là để “chỉ điểm” cho những kẻ thủ ác bắt Thầy. Phêrô nóng gáy lấy gươm chém đứt tai Man-khô, đầy tớ của thầy thượng tế. Nhưng Chúa Giêsu chữa lành cho gã và bảo Phêrô cất gươm đi. Họ ập tới bắt trói Ngài. Thấy vậy, các môn đệ tá hỏa và bỏ của chạy lấy người, có kẻ mất dép, có kẻ tuột cả áo xống mà chạy tồng ngồng đi trốn. Nói thì mạnh lắm, cuối cùng cũng chỉ “lẻo mép”. Phàm nhân yếu đuối và nhát đảm quá!
Họ bắt Đức Giêsu và điệu đến thượng tế Cai-pha. Phêrô đi theo xa xa, đến tận dinh thượng tế, rồi vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.
Họ chất vấn Đức Giêsu đủ điều, nhưng Ngài vẫn im lặng. Vì có nói với họ thì cũng như nước đổ lá môn, nói với đầu gối còn hơn. Cuối cùng, vị thượng tế nói: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63). Nghe chừng đạo đức lắm vì ông ta dám “nhân danh Chúa” mà tra xét. Lúc này Đức Giêsu mới lên tiếng: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mt 26:64). Như giọt nước làm tràn ly, vị thượng tế liền xé áo mình ra và bảo Đức Giêsu nói phạm thượng, rồi ông ta hỏi mọi người nghĩ sao, họ liền đồng thanh: “Hắn đáng chết!”.
Sau đó, kẻ thì khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài, kẻ lại tát Ngài, rồi họ nguyền rủa và lăng mạ Ngài đủ thứ. Mỗi chúng ta cũng đã từng “khạc nhổ” hoặt “tát” vào tha nhận – cách này hoặc cách nọ, và đó là sỉ nhục chính Chúa Giêsu!
Tương tự, chuyện gì sẽ đến cũng lại đến. Phêrô được Thầy báo trước, nhưng cũng không thể vượt qua chính mình. Thiên hạ thấy ông nên bàn tán xì xầm, ông sợ nên không dám nhận mình là người quen với Đức Giêsu, và còn thề độc là không hề quen với người đang bị hành hạ bên trong kia. Và rồi có tiếng gà gáy, ông sực nhớ lời Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần”. Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết. Chắc hẳn từ đó, ông rất sợ tiếng gà gáy sáng, nhưng ông cũng phải cảm ơn tiếng gà gáy đó.
Kinh Thánh cho biết rằng vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý dân. Khi ấy có một người tù khét tiếng tên là Ba-ra-ba. Người ta đồng ý thả Ba-ra-ba và cương quyết giết Đức Giêsu. Phi-la-tô thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngài, thế nhưng vì địa vị chức tước mà ông làm ngơ với công lý, vợ ông bảo đừng nhúng tay vào vụ xử vụ này, ông đi rửa tay để chứng tỏ mình vô can. Nhưng đó chỉ là giả hình, hèn nhát!
Thật vậy, chính Phi-la-tô đem Đức Giêsu vào trong dinh và tập trung cả cơ đội quanh Ngài. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng, chúng khạc nhổ vào Ngài và lấy cây sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, cho Ngài mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.
Trên đường, chúng gặp một người Ky-rê-nê tên là Si-môn, chúng bắt ông vác thập giá của Ngài, vì thấy Ngài yếu sức, sợ không đến nơi hành hình. Những người nói mạnh hứa chắc đâu cả rồi? Những người tín cẩn của Đức Giêsu đâu cả rồi? Những người được Đức Giêsu chữa lành đâu cả rồi? Những người được Đức Giêsu cho ăn no nê đâu cả rồi? Sao chỉ có mình ông Si-môn ngoại giáo vác đỡ Thập Giá cho Ngài? Cuộc đời là thế thật sao?
Khi đến Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống. Đóng đinh Ngài vào thập giá xong, chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, rồi họ cứ ngồi lì đó mà canh giữ Ngài. Cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái.
Điều đáng buồn là những kẻ qua người lại đều nhục mạ và thách thức Ngài. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài vì họ tưởng mình đã hành động đúng và hả hê chiến thắng! Thậm chí một tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng không tiếc lời sỉ vả và thách thức Ngài.
Bỗng dưng bóng tối bao phủ cả mặt đất từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (12 giờ trưa tới 3 giờ chiều). Vào giờ thứ chín, trong nỗi cô đơn quá lớn, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni – lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46). Người ta cứ tưởng Ngài gọi ông Ê-li-a, rồi một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Ngài uống. Rồi Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn!
Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy. Thấy động đất và các sự lạ, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và phải thú nhận: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27:54). Ít ra cũng phải như thế, muộn cũng còn hơn không!
Và sự thật mãi là sự thật, dù người ta cố ý bóp méo thế nào thì cũng không thể biến hóa cách nào khác. Thắng và Thua đều cùng vần T. Sự đời lạ lắm, có những khi cứ tưởng Thắng mà hóa Thua, nhưng có khi thấy Thua mà lại là Thắng. Và chuyện gì sẽ đến cũng lại đến! Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ. Đúng là như thế!
Ước gì mỗi chúng ta đều như những chiếc lá luôn xanh biếc màu đức tin, luôn khiêm nhường vẫy chào đón Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, trong lúc vui đã đành, trong lúc buồn mới thực sự có giá trị. Được như vậy là đã hiểu được triết lý của sự đau khổ rồi đấy!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban Thần Khí để con có thể hiểu được triết lý của sự đau khổ, thông suốt triết lý của Thập Giá, nhờ đó con đủ sức vững bước theo chân Ngài đi xuyên qua mọi đau khổ. Xin giúp con can đảm cùng chết với Đức Kitô để xứng đáng được phục sinh vinh quang với Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của con. Amen.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
(Phỏng theo bài suy niệm của giáo sư Peter Feldmeier)
Bước vào tuần thánh, chúng ta tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên Thập giá. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng cuối cùng họ đã trở mặt. Tất cả đã đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm.
Giêrusalem, thành phố của những đối nghịch
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình lên Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là kinh thành có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là chốn biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là thành phố của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó họ đã trở mặt, lòng chất đầy phẫn nộ và sự căm thù. Giuđa thì bán đứng vị tôn sư khả kính. Trò phản thầy cách gian ác và tàn nhẫn. Các đầu mục tôn giáo thì quá quỷ quyệt đã dàn dựng một phiên tòa giả dối. Riêng các môn sinh nghĩa thiết nhất lại vội quên thầy của mình. Họ ngủ vùi trong mệt mỏi và cuối cùng đã lặng lẽ tháo lui. Phêrô thì quá khiếp hãi đã thẳng thừng chối bỏ vị tôn sư đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo nguyên ngữ Aram, có nghĩa là ‘con của cha’. Họ đã chọn để xin tha một người ‘con’ với quá khứ đặc kín tội ác, và đòi kết án người ‘Con’ duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai tội lỗi của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Niềm tin kiên định nơi Đức Giêsu
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của Thập giá là một chứng tá và cũng là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời xưa. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau: “ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau…, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị Tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở: “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập gía như cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm nơi Chúa Giêsu. Kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là ‘Thiên Chúa đã tôn vinh Người và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa’.
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập gía. Đức Giêsu đã hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ cho đến chết và chết trên Thập gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là Ađam đã sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu – Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa liên kết với nhau. Chúa Giêsu là Ađam mới, và cũng là người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, tình trạng sống kiếp nô lệ, và tiến nhận cái chết để giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi suy gẫm việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên Thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước những gì sẽ xảy ra. Nếu quả như thế và Đức Giêsu không thể có một sự chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Chúa trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu lại tuôn đổ đến mức thảm thiết như vậy? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) :“ Cha ơi, nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài vẫn phải thét gào một cách não nuột: “Cha ơi, sao Cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy rằng, vì Đức Kitô đã tự hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của Thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Song, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi trần gian, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan tác trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế chưa, khi chúng ta bị mất hết, bị nhấn chìm trong bóng tối của khiếp hãi? Khi gặp những bầm dập cay đắng, khi bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào chán chường hay tuyệt vọng…, chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và ở trên Thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta đang gặp phải.
Kết luận
Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Đức Giêsu đi vào lộ trình lên Giêrusalem, để thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trong trình thuật Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách đấng Mê-si-a, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Mác-cô và Lu-ca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!… Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân” (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10:3; 1:14; 1Sm 25:23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức Giê-su tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18:36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết ‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; A-bra-ham sát tế I-xa-ác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức Giê-su khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3:14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể nào khác được!
Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! A-men.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ LÁ. NĂM A
Lm. Anthony Trung Thành
Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay có thể chia thành hai phần: Phần thứ nhất là nghi thức làm phép và rước lá; Phần thứ hai là thánh lễ như thường lệ nhưng nội dung các bài đọc mang vẻ trầm buồn, nhất là bài thương khó kể lại cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
Phần thứ nhất, nghi thứ làm phép và rước lá. Trong phần này của chúa nhật năm A, chúng ta nghe đọc đoạn Tin mừng theo Thánh Mathêu, tường thuật lại việc Đức Giêsu vào thành thánh Giêrusalem. Quang cảnh rất hoành tráng. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Dân chúng đón tiếp một cách nồng hậu. Tin mừng cho biết: “Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mt 21,8-9). Có thể nói, đây là một cuộc khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem của Đức Giêsu, toàn dân ủng hộ, không thấy một sự chống đối nào.
Phần thứ hai, phụng vụ cho chúng ta nghe ba bài đọc liên quan đến cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
Bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, đây là bài ca thứ ba về người tôi tớ đau khổ. Tác giả cho biết, người tôi tớ bị bách hại, phỉ nhổ, tra tấn và bỏ rơi nhưng vẫn nhịn nhục, chịu đựng, trung thành và tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa: “Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi…” (x. Is 50, 6-7).
Bài đọc II, trích thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô cho chúng ta biết Đức Giêsu chính là người tôi tớ mà tiên tri Isaia tiên báo: “Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người.” (x. Pl 2, 6-11)
Bài Thương khó được Thánh Mathêu tường thuật lại cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Đây là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Qua cuộc khổ nạn này, Ngài đã để lại cho chúng ta nhiều bài học cao quý, xin được đơn cử một số bài học sau đây:
Bài học thứ nhất: Sự can đảm, quảng đại, hy sinh vì người khác. Ngài đã chấp nhận muôn vàn đau khổ vì yêu thương nhân loại chúng ta. Đây là bằng chứng của một tình yêu cao quý. Vì,“không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Bài học thứ hai: Sự tha thứ. Ngài tha thứ cho Giuđa là kẻ nộp Ngài. Ngài tha thứ cho Phêrô là kẻ chối Ngài. Ngài tha thứ cho các môn đệ là những người thân tín nhưng đã bỏ trốn khi Ngài gặp nạn. Ngài tha thứ cho kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá. Ngài tha thứ cho kẻ trộm cướp bên phải và cho anh ta được vào Thiên đàng với Ngài ngay ngày hôm ấy.
Bài học thứ ba: Sự vâng phục Thánh ý Thiên Chúa Cha. Khi cảm thấy khó có thể vượt qua nỗi cô đơn, đau khổ, Đức Giêsu không tránh né nhưng phó thác và vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi thì xin vâng Ý Cha.” (Mt 26,39 và 42). Đúng như Thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc II: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,8)
Ngoài ra, khi suy niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu còn giúp chúng ta hiểu hơn về ý nghĩa của đau khổ, từ đó chúng ta biết can đảm hơn để vác thập giá của mình và sẵn sàng nâng đỡ thập giá của tha nhân.
Ở Bỉ, trong trận thế chiến thứ nhất, một trận đánh khốc liệt vừa xảy ra. Trong một nhà thờ đã được biến thành nhà thương, hàng trăm thương binh nằm la liệt. Bàn thờ được biến thành bàn mổ. Thiếu thốn thuốc men, người ta phải giải phẫu các thương binh mà không có thuốc tê hay gây mê. Một thương binh đang được giải phẫu, trong một khắc đồng hồ, anh ta phải chịu “tử đạo”, tay nắm chặt, mồ hôi đầm đìa, nhưng không một lời than trách hay rên la.
Sau khi hoàn tất ca phẫu thuật, bác sĩ hỏi anh : “Tại sao anh có thể chịu đựng được như thế ? ”
Anh trả lời: “chính vì tôi đã nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh. Ngài đã chết không một tiếng rên la vì tội lỗi nhân loại. Cho nên, tôi cũng không thể than khóc vì những đau khổ mà tôi có thể chịu để đem lại hạnh phúc tự do cho người khác. ”
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn để chịu chết trên cây thánh giá vì yêu thương nhân loại chúng con. Xin cho mỗi người chúng con cũng biết chấp nhận những đau khổ trong cuộc sống để cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại. Amen.
.
NHỮNG MÂU THUẪN QUA CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Hôm nay, Giáo Hội hoàn vũ cử hành long trọng biến cố Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Trên hành trình ấy có các môn đệ, những người phụ nữ đã theo Ngài từ lâu, và cả những người đã từng chịu ơn hoặc vì hiếu kỳ nên đi theo Ngài.
Cuộc vào thành của Đức Giêsu lần này cũng như các diễn biến trước và sau đó có nhiều điều lạ thường. Thật vậy, trong cuộc đời sứ vụ, từ lời nói đến hành động của Ngài nhiều khi hàm chứa những sự mâu thuẫn đối với cuộc sống và con người đương thời, cho nên họ không thể hiểu được, và vì thế, dẫn đến cái chết của Đức Giêsu.
- Sự mâu thuẫn từ phía Đức Giêsu
Người ta thường nói: “Mâu thuẫn thì có thể sẽ làm sáng tỏ chân lý tốt”.Thật vậy, trong công cuộc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến sự mâu thuẫn này.
Trước tiên, về những lời dạy mang tính mâu thuẫn: ví dụ như khi nói về sự tự hủy, Ngài đã dùng hình ảnh hạt lúa mục nát để sinh bông hạt mới; hay“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (x. Ga 12, 24-25); về sự khiêm nhường, Ngài phán: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11); khi đi dự tiệc, hãy chọn chỗ rốt hết, để được người ta mời lên chỗ danh dự (x. Lc 14, 7-10); vì “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52); về sự hối cải, Ngài nói: cả triều thần Thiên Quốc “… ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15, 7); về sự từ bỏ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).
Tiếp theo, Đức Giêsu đã nói và áp dụng sự mâu thuẫn đó vào chính mình như sau: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại” (Lc 9, 22);“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32); và Ngài đã sống sự mâu thuẫn ấy khi dân chúng tôn mình làm vua thì lại bỏ chốn và khi dân chúng không tôn thì lại vào thành như vị vua; rồi lạ lùng trong tiến trình “đăng quang”: Ngài là Vua, tiến vào thành của mình, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con vẫn còn theo mẹ (x. Dc 9,9). Là Vua, nhưng không có vương miện, chỉ có vòng gai; không có vương trượng, chỉ có cây sậy; không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhuốc nhơ; không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê; không thống trị bằng sức mạnh, chỉ có phục vụ trong yêu thương cho đến chết và chết trên thập giá vì yêu.
Như vậy, những sự mâu thuẫn đến lạ lùng của Đức Giêsu đều nhằm làm toát lên sự vâng lời tuyệt đối của Ngài với Thiên Chúa Cha và vì yêu thương, cứu độ con người. Cả cuộc đời, con người và sứ vụ của Đức Giêsu đều muốn lộ hiện một vị Thiên Chúa là Tình Yêu.
- Sự mâu thuẫn từ phía dân chúng
Ở đời có câu: “Dò sông dò biển dễ dò – Mấy ai lấy thước mà đo lòng người”. Thật vậy, khi sống bên Aicập, dân Israel ngày đêm cầu khấn danh Đức Chúa, xin Người đến cứu họ khỏi ách nô lệ tủi nhục cơ cùng, Đức Chúa nhận lời và đã cho Môisê dẫn dân ra khỏi Aicập, thoát khỏi cảnh áp bức bạo tàn. Nhưng chẳng bao lâu, họ gặp có chút thử thách, nhưng họ đã than trách Chúa, và nhớ những củ hành, củ tỏi bên Aicập. Tệ hơn nữa, đã đúc bò vàng để thờ lạy thay Đức Chúa, Đấng đã cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Đây chính là sự mâu thuẫn do sự bất trung của dân với Đức Chúa.
Sang thời Đức Giêsu cũng vậy, trong giai đoạn này, những người Dothái đã chứng kiến các phép lạ của Đức Giêsu làm, nào là chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, cho người chết sống lại, và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng… Vì thế, họ tâm phục Đức Giêsu, nên khi vào thành, dân chúng đã tung hô Ngài là con vua Đavít, là Vua Israel. Và như là sự tất yếu, họ đã chặt cành lá lót đường và trải áo mình để Đức Giêsu đi qua. Cuộc diễu hành rầm rộ làm nao lòng những nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị thời bấy giờ. Tuy nhiên, vẫn những người đã tôn vinh, chúc tụng Đức Giêsu hôm nào, thì chẳng bao lâu sau, họ đã toa dập với thế lực sự ác để làm chứng gian hại Ngài và hô vang: hắn đáng chết; đóng đinh nó vào thập giá…
Sự thật đã rõ, họ cung chúc Đức Giêsu chỉ vì hy vọng Ngài làm Vua để thống lãnh theo kiểu trần gian, đánh đông dẹp bắc, giải thoát họ khỏi ách thống trị của Đế Quốc và nhiều khi theo Chúa chỉ vì cái bụng, vì những ân huệ, bổng lộc thức thời… Và, họ đã bị thất bại khi không được Đức Giêsu đáp ứng những yêu sách đó, vì thế, họ đã sẵn sàng giơ tay ủng hộ án tử cho Đức Giêsu.
Đây là sự mâu thuẫn lòng dân với con người và sứ vụ của Đức Giêsu.
- Hai sự mâu thuẫn dẫn đến hệ quả khác nhau
Thật vậy, sự mâu thuẫn trong lời giảng dạy, lối sống và hành động của Đức Giêsu thể hiện rõ nét sự vâng phục, khiêm nhường, tự hạ, yêu thương và cứu chuộc con người.
Như vậy, mâu thuẫn nơi Đức Giêsu làm cho con người được kết hiệp mật thiết hơn với Thiên Chúa và tha nhân để đạt được tình trạng tự do và hạnh phúc thực sự khi đã loại trừ cái tôi ích kỷ, tự phụ, kiêu căng để hướng tha.
Còn sự mâu thuẫn của những người Dothái thì hoàn toàn khác:
Khác là chỉ vì cái bụng của họ, do ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo hay những mục đích tầm thường rẻ tiền.
Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa hay Đức Giêsu cũng chỉ vì cái bụng. Hoặc chỉ vì danh vọng, chức quyền, lợi nhuận cá nhân hay tập thể, chứ không phải vì yêu mến, tin tưởng, phó thác.
Sự mâu thuẫn này nơi dân Dothái lộ hiện rõ bản chất thực dụng hay ý đồ đen tối của họ. Vì thế, dẫn đến sự đối đầu. Đức Giêsu không đối đầu với họ, nhưng tự họ trở nên bất ổn nên dẫn đến hệ quả là khước từ Thiên Chúa để thờ bò vàng, rồi đến lượt Đức Giêsu, họ tìm cách loại Ngài ra khỏi môi trường và cuộc sống của họ.
- Người kitô hữu sống sự mâu thuẫn của Tin Mừng
Ngày hôm nay, chúng ta đang sống trong một xã hội không mấy chân thực. Đời sống đạo đức bị đảo lộn rất nhiều. Phong tục tập quán tốt dần dần được thay thế bằng những trào lưu tục hóa, nhất thời… Đây chính là sự mâu thuẫn luân thường đạo lý trong xã hội.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó trong xã hội những chuyện:“Chân lý thuộc về kẻ mạnh”; vẫn còn đó những chuyện thỏa hiệp, toa rập để cho hận thù, chia rẽ lên ngôi; vẫn còn đó những chuyện vì miếng cơm manh áo, vì lợi nhuận cá nhân, củng cố chức quyền mà sẵn sàng bất chấp bán rẻ lương tâm để cho lương tháng được nhiều. Những người có lương tri và đạo hạnh lại là mối đe dọa của sự bất công, suy đồi và gian dối.
Nếu chúng ta thuộc về những thành phần như thế, ấy là lúc chúng ta làm cho những vết thương của Đức Giêsu tiếp tục rỉ máu, và cuộc thương khó của Đức Giêsu không ngừng tái diễn, khiến Ngài phải đau khổ, tủi nhục đắng cay và ngay cả cái chết qua những hành vi, lựa chọn sai lầm và tàn nhẫn của con người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết can đảm lựa chọn cho mình sự mâu thuẫn của Chúa, để trong cuộc sống của chúng con toát lên vẻ đẹp của sự vâng phục, khiêm nhường và yêu thương như Chúa vì hạnh phúc và ơn cứu độ của con người. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Ngày hôm, Phụng vụ cho chúng ta thấy “ Đức Giêsu mạc khải Ngài là Đấng Thiên Sai. Tuy nhiên, Ngài là Đấng Thiên Sai đem an bình, hòa giải, Đấng Thiên Sai giầu lòng thương xót chứ không phải là Đấng Thiên Sai mang sự chinh chiến “. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đem hòa bình cho nhân loại, nhưng thực tế, người Do Thái cứng lòng,đặc biệt những vị lãnh đạo tôn giáo, các Kinh sư, Biệt phái và Pharisêu lúc đó đã căm thù, ghen ghét Ngài vì Ngài không đi theo đường lối của họ…Do đó mới có bản án bất công…
Đọc Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng của Thánh Gioan chúng ta hiểu được thế nào sự can đảm của Đức Giêsu khi Ngài tiến vào Giêrusalem, vào Giêrusalem đồng nghĩa với việc chấp nhận cái chết. Chúa Giêsu phải can đảm sâu xa, mạnh mẽ khi tiến về Giêruasalem vào dịp lễ Vượt Qua. Ngài can đảm đến dộ anh hùng như Tin Mừng của Thánh Gioan giải thích :” Sắp đến lễ Vượt Qua, và rất nhiều người đi Giêrusalem…Họ đang tìm Đức Giêsu…và hỏi han nhau “ Bạn nghĩ thế nào, bạn nghĩ sao ? Chắc Ngài chẳng đến dự lễ đâu !”. Bọn tư tế và biệt phái đã ra lệnh : bất cứ ai biết Đức Giêsu ở đâu thì phải báo cáo ngay để họ bắt Ngài “ ( Ga 11,55-57 ). Chính vì thế, mọi người đều có quyền lo ngại cho Đức Giêsu khi Ngài cứ tiến vào thành Giêrusalem. Vậy, ý nghĩa sâu xa về việc Đức Giêsu đi vào Giêrusalem và cách thức dân chúng tung hô, đón tiếp Ngài ? Chúng ta hãy lắng nghe thánh Gioan diễn tả :” Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cỡi lên nó, đúng như lời Kinh Thánh dạy : Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây Vua ngươi đến, Ngài đang cỡi trên một chú lừa con “ ( Ga 12, 14-15 ). Chúa tiến vào thành, dân chúng trải áo trên đường, trẻ con, người lớn cầm trên tay những cành lá thiên tuế và reo lên :” Hosanna! Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Hoan hô Vua Israen ! “ ( Ga 12,13 ). Thánh Gioan lại kết thúc bài mô tả bằng cách khác thường :” Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã được tôn vinh, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho Ngài “ ( Ga 12, 16 ).
Giacaria đã loan báo trước Đấng Mêsia sẽ cưỡi lừa tiến vào Giêrusalem. Giờ đây Chúa Giêsu đang thực hiện lời tiên báo của Giacaria. Ngài xác nhận Ngài là Đấng Mêsia và Ngài mạc khải cho biết sứ mệnh thiên sai của Ngài.Đức
Giêsu đã được dân chúng tung hô, reo hò mừng rỡ và sau đó, chính đám đông lại la hét, kết án Chúa Giêsu dù Ngài không có tội tình nào ! Dân chúng không hiểu biết gì chỉ nghe lời xúi giục của những lãnh đạo, các tư tế, thượng tế, ký lục , kỳ mục để hò hét, chống đối và lên án Chúa Giêsu. Phiên tòa được mở ra một cách vội vã dù rằng ai cũng biết Chúa Giêsu chẳng hề có tội gì. Thẩm phán của phiên tòa là ông Philatô, công tố viên là các thượng tế và kỳ mục, còn bị cáo là Chúa Giêsu. Dân chúng dự phiên tòa bất công này đều là những người được mua chuộc. Phiên tòa thật kỳ cục, là người công chính, thánh thiện lại bị xử như một tên tội đồ. Thay vì, tòa án phải tìm kiếm, phải bảo vệ sự thật nhưng thực tế vì ganh ghét, tỵ hiềm, hận thù, tư lợi, các thượng tế, kỳ mục đã toa rập cáo gian Chúa Giêsu . Vì sợ mất chức, mất quyền hành, mất địa vị, Philatô dù biết rõ Chúa Giêsu vô tội nhưng ông không dám bảo vệ Chúa. Bởi vì Philatô đang ngồi trên tòa xét xử thì bà vợ sai người đến nói với ông :” Ông đừng nhúng tay vào vụ người công chính ấy, vì hồi hôm, tôi phải khổ nhiều trong mộng vì người ấy “ ( Mt 27, 19 ) và “ Bởi ông đã biết là vì ganh tị mà họ đã nộp Ngài “ ( Mt 27, 18 ). Philatô hoàn toàn im lặng, đồng lõa với sự gian dối, không hề bênh vực Chúa Giêsu. Philatô đã lấy nước lã rửa tay trước mặt dân và nói :” Ta vô tội về máu người này; các người tự liệu lấy “ ( Mt 27, 24 ). Chính vì tư lợi và ghen ghét, Philatô đã bóp chết sự thật.Ông đã hèn nhát, vô liêm sỉ khi im lặng trước lời vu cáo của dân chúng. vÀ dân chúng đã bất công la hét, kết án, cáo gian, vu khống cho Chúa Giêsu.
Thật vậy, tòa án và bản án bất công đã được gán ghép cho Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã im lặng vì yêu thương nhân loại và chấp nhận ý định của Thiên Chúa để cứu rỗi nhân loại, cứu độ con người.
Vâng, con người muôn thời vẫn còn những chuyện như thời Chúa Giêsu. Mỗi lần con người đó kỵ, hận thù, hiềm khích, đặt điều, nói xấu và kết tôi nhau là con người lại gán cho nhau những bản án bất công.
Hôm nay chúng ta cũng đang đón mừng một Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Độ. Ngài muốn đi sâu vào tâm hồn chúng ta một cách đặc biệt trong Tuần Thánh này. Chính Đức Giêsu , Đấng Cứu Thế đang hiện diện giữa chúng ta ngay lúc này, tại đây khi chúng ta bắt đầu nghi thức rước lá.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Vạn tuế Đức Vua của Israen ! Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa Giêsu đi vào thành thánh Giêrusalem để làm gì ?
2.Ngài đi bằng gì vào Giêrusalem ?
3.Dân chúng đã làm gì ?
4.Philatô có dám bênh vực Chúa Giêsu không ? Tại sao ?
5.Tuần Thánh nói gì cho chúng ta ?
.
NỀM VUI – THẬP GIÁ – VÀ ƠN CỨU ĐỘ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Với Chúa nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm của Năm Phụng Vụ, trong tuần này chúng ta dõi theo hành trình thương khó của Chúa Giêsu, chết và sống lại.
Niềm vui
Hoan hô Thái Tử nhà Đa-vít! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! (Mt 21,9)
Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm phép kiệu lá, tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng rủ nhau ra mà đón : “Đông đảo dân chúng trải áo xuống mặt đường , một số khác lại chặt cành chặt lá rải lên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vạng dậy : “Chúc tụng Đấng Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô Chúa trên các tầng trời” (Mt 21,8-9). Giờ đây mỗi người cầm cành lá trong tay vừa đi vừa hát “Hoan hô…” thấy thật là vui.
Đám đông dân chúng đón rước Chúa lúc đó hân hoan, ngợi khen, chúc tụng. Đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành biến cố năm xưa hôm nay. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trong xã hội. Người thấu hiểu và cảm thông cảnh lầm than khốn khổ của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương thể xác cũng như tâm hồn và tỏ lòng từ bi đối với họ.
Đúng như lời ngôn sứ I-sai-a nói : “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Đó là tình thương cao cả của Chúa Giêsu, Người đã mang tình thương ấy đi vào thành Giêrusalem. Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.
Thập giá
Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, bỗng sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm, những lời của Tiên tri Isaia, bài tường thuật của thánh sử Mátthêu, và những bài đọc phụng vụ khác dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu. Isaia mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Is 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” Giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (Mt 27,46). Nơi bài đọc II, thánh Phaolô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua: Chúa Giêsu, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự” (Phil 2, 6- 8).
Một vị Vua cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực tiến vào thành Giêrusalem là Chúa Giêsu. Người không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Người vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã tiên báo (x. Is 50,6); Người vào để chịu đội mão gai và mặc áo choàng đỏ, vương quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười; Người vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá; Người vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy Thập giá trên mình, mang vào mình sự ác, cùng với sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế và cả tội chúng ta nữa. Với lòng từ bi và tình thương của Thiên Chúa, Người lấy máu mình mà tẩy rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ.
Sống Tuần Thánh
Bước vào Tuần Thánh, Giáo hội cùng với con cái mình dõi theo Chúa Giêsu trên hành trình tiến lên đồi Canvê với Thập giá và sự sống lại của Người. Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân của Chúa Giêsu hầu mang lại sự sống cho con người
Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rong ruổi trên khắp nẻo đường, với lòng tin, Người đã chọn gọi 12 người đơn sơ để họ ở với và tiếp tục sứ mạng yêu thương của Người. Trong Tuần Thánh chúng ta sống trọn vẹn cuộc hành trình này. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thi hành sứ mạng yêu thương ấy.
Người không sống cách thụ động tình thương dẫn đến hy sinh, hoặc như một định mệnh không thể tránh được; Người không che giấu được sự xao xuyến sâu xa của một con người trước cái chết dữ dằn, nhưng phó thác hoàn toàn nơi Chúa Cha. Chúa Giêsu tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết, để chứng tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Thánh Phaolô cảm nghiệm được rằng, trên Thập giá, Chúa Giêsu “đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Mỗi người chúng ta có thể nói: Người đã yêu thương tôi và đã phó nộp mình vì tôi.
Nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chúng ta khám phá ra những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của chính cá nhân mình nói riêng. Chúa Giêsu, dù vô tội, đã nhận mang lấy vào thân điều mà con người không thể chịu được như : sự bất công, sự dữ, tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối cùng là sự chết. Trong Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến cho con người ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống.
Mỗi năm, với Tuần Thánh, Giáo Hội bước vào trong Mầu nhiệm Vượt Qua, Mầu nhiệm tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể công bố cho thế giới bằng lời nói và bằng những việc làm tốt của những con cái mình rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là Chúa, Người là Chúa của thời gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người; Người là Ðấng Cứu Thế! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna!
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy xin với Mẹ là Ðấng đã theo Chúa Giêsu Con Mẹ trong suốt chặng đường dẫn tới Canvê trong đức tin, giúp con cái Mẹ vác thập giá với niềm thanh thản và yêu thương bước theo Chúa, để đạt được niềm vui của lễ Phục Sinh. Amen.
.
Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt
Có thể nói, trong suốt 3 năm miệt mài, vất vả rao truyền lời chân lý, chữa lành bao kẻ tật nguyền, thực hiện bao phép lạ vỹ đại, hôm nay là ngày Chúa Giêsu được vinh hiển nhất, được tôn kính trọng vọng nhất. Dân chúng đứng chật hai vệ đường, người người vui mừng reo hò. Họ tung hô vạn tuế và không ngừng ca tụng: “Hoan hô con Vua Ðavít. Chúc tụng Ðấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9). Lòng sùng mộ và yêu kính của dân chúng bấy giờ đã khiến họ hành động một cách hết sức đặc biệt. Họ cởi áo ngoài trải đường như một tấm thảm kéo dài trên đường Ngài đi qua. Và họ cầm trên tay ngành vạn tuế để vẫy chào Ngài khi Ngài đi qua chỗ họ. Thánh Kinh kể lại, số người theo tung hô Ngài mỗi lúc một thêm đông, đến độ khiến các Pharisiêu phải ghen tị.
Quan sát đám rước hôm đó, có một chi tiết có thể khiến chúng ta phải dừng lại để suy nghĩ. Ðó là Chúa Giêsu không cỡi trên voi, trên ngựa, hoặc không ngồi trên kiệu mà tham dự cuộc khải hoàn này, nhưng Ngài lại ngồi trên lưng một con lừa con. Thánh Mátthêu ghi: “Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các anh hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các anh hãy mở dây và dẫn về đây cho thầy” (Mt 21:2). Làm thế, Ngài đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh: “Hãy nói với thiếu nữ Sion rằng, này vua các ngươi đang ngự đến, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con, là con lừa mẹ” (Mt 21:5).
Cỡi lừa con để khải hoàn vào thành Giêrusalem. Chúa không cỡi voi hay cỡi ngựa, cũng không ngồi trên kiệu vì Ngài không muốn làm các thiếu nữ Sion phải hoảng sợ. Ngài không muốn bất cứ ai nhìn Ngài bằng cái nhìn đầy kinh ngạc, hoảng hốt và sợ hãi. Vì cỡi voi thì đòi nhiều người phục dịch. Ngồi kiệu cũng phải có kẻ khiêng. Ngồi trên lưng ngựa tuy đơn giản hơn ngồi trên mình voi hay trên kiệu, tuy nhiên, ngồi trên lưng ngựa vẫn là hình ảnh của những kẻ anh hùng, những kẻ chiến thắng nên có quyền kiêu hãnh và cũng khiến nhiều người phải sợ hãi, nể phục. Ngài không muốn tạo cho mình một hình ảnh của kẻ có quyền, không muốn bất cứ ai phải bắt buộc theo và miễn cưỡng mến Ngài. Ngài cũng không dùng sức mạnh của kẻ thắng trận để khống chế và thu phục nhân tâm. Những hình ảnh liên quan đến sức mạnh, quyền lực vì thế đều bị Ngài từ chối. Ngài chỉ muốn một mình đơn sơ ngồi trên lưng một con lừa con, nhỏ bé để tiến vào thành. Một hình ảnh nói lên vẻ thanh bình, đơn sơ, nhẹ nhàng, và tự nhiên. Và đó chính là Ngài, con chiên Thiên Chúa, Ðấng cứu độ trần gian.
Nhưng dù đơn sơ ngồi trên lưng lừa, Ngài vẫn là vua chứ không phải chỉ là con Vua Ðavít như người ta đã chúc tụng Ngài. Danh Ngài đáng được vang vọng chúc tụng trên các tầng trời, vì Ngài là Chúa tạo thành vũ trụ. Cả nhân loại phải phủ phục dưới chân Ngài và trước nhan Ngài. Mọi đầu gối, như Thánh Phaolô đã viết, trên trời, dưới đất và trong lòng đất phải quì gối trước mặt Ngài. Việc Ngài chọn ngồi trên lưng một con lừa con là như nói trước với chúng ta về những gì mà Ngài sẽ làm trong Bữa Tiệc Ly khi hạ mình khiêm hạ rửa chân cho các môn đệ. Khi để bọn lý hình hành hạ và chế diễu. Khi chấp nhận bản án bất công. Và khi bị đóng đinh chết treo trên thập tự giá.
Làm sao tâm trạng của một người mang trong mình hình ảnh chiến thắng hiển hách, ngồi trên lưng một con chiến mã, ngồi trên lưng một con voi, hay ngồi trong một cái kiệu sang trọng tiến lên giữa tiếng tung hô, lại có thể chấp nhận được việc quì gối xuống, bưng chậu nước đến và quì trước mặt các môn đệ của mình để rửa chân cho chúng.
Làm sao một vị đại tướng, một hoàng đế uy nghi trên lưng ngựa dạo qua rừng người hôn hô vang dội lại có thể chấp nhận chịu cảnh trao nộp, chịu đánh đòn, chịu khạc nhổ vào mặt, chịu đội mão gai, chịu xét xử bất công, và chịu đóng đinh chết trần truồng trên thập giá mà không một lời than van, trách móc.
Phải đơn sơ, nhân từ, và hiền hậu: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11:29). Ngồi trên lưng ngựa, lưng voi, hay kiệu sang trọng thì không dễ cúi mình xuống được. Nhất là trong tư thế của kẻ có quyền, kẻ chiến thắng. Cũng không dễ chấp nhận thua thiệt, không dễ đón nhận nhục nhã, không dễ vâng phục thiên ý. Chúa đã dùng con lừa để làm phương tiện di chuyển hôm đó để nói với mọi người rằng, Ngài xứng đáng với tất cả mọi lời chúc tụng. Ngài chính là vua. Ngài là vua chiến thắng. Nhưng trên hết, Ngài là một vị vua nhân từ. Vua thái bình. Vua của tâm hồn con người. Và vì thế, Ngài đã cỡi lừa con mà không cỡi chiến mã.
Chúa là vua nhân từ, hiền dịu chứ không phải là vua quyền uy, độc tài, và hà khắc. Ngài thương yêu tất cả. Ngài mong mọi người hãy đến với Ngài, để học cùng Ngài, vì Ngài “hiền lành và khiêm nhường”. Làm như vậy, chúng ta mới dễ mở rộng lòng mình đón nhận mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh mà Ngài đã thực hiện vì chúng ta và cho chúng ta.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Vâng kính thưa quý vị, thưa các bạn Lễ Lá đến cho chúng ta điều gì ? Thưa, Lễ Lá đến cho chúng ta hai điều :
- Một là : Sự tung hô chúc tụng giả dối của thế nhân.
- Hai là: Kết thúc hành trình thi hành sứ vụ cứu chuộc của Đức Kitô nơi trần thế.
Lễ lá cho chúng ta tâm hồn chuẩn bị đón chờ “TUẦN THƯƠNG KHÓ” của Đức Kitô, được gọi là “TUẦN THÁNH “. Tuần Thánh là Tuần đầy “ bi thương “ của Ngôi Lời làm Người, Tuần tưởng niệm “cái chết”, hay nói cách khác , chính là Tuần mà Đấng Cứu Thế thi hành “sứ vụ Cứu Chuộc” của Người.
Vâng , Tuần lễ cao điểm của Phụng Vụ Thánh. Được gọi là “TAM NHẬT VƯỢT QUA”.
Bài Thương Khó theo thánh Matthuê hôm nay ( Mt 26, 14 – 27, 66) không trình thuật chi tiết “dân chúng” tung hô Chúa Giêsu, như Tin Mừng thánh Gioan sẽ được đọc trong Tứ Sáu Tuần Thánh.
Như chúng ta biết , sau khi Chúa Giêsu cho Lazaro sống lại, người ta ( dân chúng )muốn suy tôn Người lên làm Vua, nhưng, những người thủ lãnh dân Dothai ( đạo và đời) thì rất “ ghét” Chúa Giêsu.
Một mặt họ cho rằng, Người sẽ thống trị họ theo nghĩa đen, một mặt, họ sợ người đời sẽ nghe theo Chúa Giêsu sẽ bỏ họ, tất yếu “bổng lộc quyền thế” phút chốc tiêu tan. Như vậy, danh lợi của họ bấy lâu nay trở thành mây khói. Theo đó, “âm mưu” giết Chúa Giêsu là tất yếu.
Chi tiết Tin Mừng trình thuật thật rõ ràng, diễn tiến sự việc không thiếu mạch lạc, vì vậy, Lễ Lá thường suy niệm ngắn gọn.
Hôm nay, con xin chia sẻ hai ý chính nêu trên.
- Một là: Sự tung hô giả dối của thế nhân.
Tại sao , khi thấy Chúa Giêsu làm cho Lazaro sống lại, người ta không nhận ra chỉ có Thiên Chúa mới làm được điều đó. Không thể một phàm nhân nào có thể làm được như vậy. họ nghĩ rằng , họ có thể “lên án“ rồi giết đi một Con Người đã cho kẻ chết sống lại, thì Người ấy làm sao “để” cho họ thỏa mãn điều mà họ muốn làm.
Nhưng, Thiên Chúa đã chọn Thập giá, để biến đổi thành Thánh Gía. Thập giá là bản án của kẻ có tội. Thiên Chúa không dung “Thánh giá để biến đổi nên Thập giá”, mà là dùng Thập giá để biến đổi nên Thánh giá.
Thánh Gía phải từ Thập giá, chứ Thánh giá không từ sự “vạn tuế” của dân chúng. Thiên Chúa không đem đến Thánh giá mà không có Thập giá. Chúng ta hiểu được cụ thế qua sự việc “tung hô” Con vua Đavit hôm nay. Nếu , người ta tung hô Người, thì người ta phải tôn thờ Người. Nhưng, người ta lại loại trừ Người.
Người đem đến cho họ một “ơn giải” thoát không phải là “sự tung hô” của họ, mà là “THẬP GIÁ”. Thập giá biểu tượng của sự ô nhục, sự đền tội của tội nhân, giá phải trả cao nhất của nhân loại tội lỗi. Cực hình nầy, người Dothai đã nghĩ ra để xử phạt con người có tội.
Bản thân Thập giá là “tội ác” phải đền bù. Đó là sự “trừng phạt” của thế nhân đối với nhân thế. Như vậy, Đức Kitô, Đấng vô tội phải được tung hô theo kiểu của thế gian, được đưa lên ngai vàng, nhưng, họ lại đưa Người lên Thập giá. Để từ đây, Thập giá không còn là phương tiện trừng phạt nữa, mà là phương tiện “yêu thương”. Chúa Giêsu đã xóa bỏ Thập giá trong lịch sử loài người, để mang lại một Thánh giá vinh quang, trong bài Tin Mừng nêu khá chi tiết về sự nhục nhã, cũng như về sự đau khổ trên hành trình Thập giá, đến Núi Sọ Golgotha. Sự mạ lỵ, sự đánh đòn, sự chịu đội mão gai, sự khạc nhổ , sỉ vả, sự cáo gian, sự vác thập giá, sự đóng đinh, sự chịu uống giấm chua mật đắng, sự chịu lưỡi đòng đâm thủng nương long ,Máu và Nước chảy ra. Chịu môn đệ chối từ, bội phản và bán rẻ ba mươi đồng bạc.
Rõ ràng chúng ta thấy, Chúa Giêsu phục sinh Lazaro, thì nơi Người sự chết không thể xuất hiện. Nhưng, để biến đổi mầu nhiệm Thập Gía trở nên Thánh giá là một sứ vụ cứu chuộc của Người. Vì, một người chưa chết, thì không thể được gọi là phục sinh.
Mầu nhiệm Phục Sinh không đơn thuần chỉ là một sự “biến hóa” giữa cái chết và sự sống nơi một con người mà thôi. Nhưng, sự phục sinh cho thấy chính Người là Thiên Chúa trời đất đến trong thế gian. Sự làm cho kẻ khác phục sinh hay sự Phục Sinh nơi Chúa Giêsu, chính là mầu nhiệm cho xác loài người ngày sau sống lại của Thiên Chúa.
Đọc bài Thương Khó của Chúa Giêsu, chúng ta không dừng lại nơi những thất bại của nhân thế, mà là suy tưởng đến mầu nhiệm toàn thắng của Thiên Chúa qua mầu nhiệm Thập giá, vì rõ ràng là “ mầu nhiệm khổ hình sinh ơn cứu độ” của Thiên Chúa qua đức Kitô- Giêsu.
Một Thiên Chúa duy nhất đem đến cho con người sự yêu thương và hoàn hảo, đó là mầu nhiệm từ thập giá đến Thánh giá của Chúa Giêsu. Vâng, đó là giá trị vĩnh cửu, chứ không phải sự tôn vinh của người đời hôm nay, ngày mai lại tuyên bố “đóng đinh vào thập giá” “ Đóng đinh nó đi… đóng đinh nó đi …”.
- Hai là : Sự kết thúc hành trinh sứ vụ cứu chuộc của Đức Kitô.
Chúng ta thấy, trên Thập giá, Chúa Giêsu nói : “ Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ nhầm không biết …” ( Lc 23, 34), vâng, chỉ duy nhất thánh Luca ghi lại câu nầy.
Là Thiên Chúa, trong thân phận làm Người để cứu chuộc loài người, nỗi đau thương quá sức chịu đựng, Người phải thốt lên : “ Ê loi, ê loi lam masa bac ta ni..” Nghĩa là : “ Lạy Cha, là Chúa Trời con, sao Cha nỡ bỏ con …” ( Mt 27, 46), ( Mc 15, 34).
Vâng, kết thúc một hành trình đầy đau thương, có thể nói sức người không chịu đựng nỗi. Nhưng, chính Ngôi Lời đã vượt qua. Cuối cùng là sự ” tha thứ ”, tha thứ, đó là kết thúc hành trình cứu chuộc của Đức Kitô dành cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ tội lỗi cho chúng con, qua cuộc khổ hình sinh ơn cứu độ, chính là mầu nhiệm phục sinh từ Chúa là nguồn yêu thương cho chúng con, vì Người là Nguồn Sống và làm cho chúng con được sống./. Amen.
.
JM. Lam Thy
Tuần Thánh mở đầu bằng Lễ Lá,
Vui trong gang tấc, đã buồn đau.
Nhân tình thế thái luôn thay đổi,
Lòng dạ con người chẳng khác đâu.
Đả đảo hoan hô thường nối tiếp,
Tôn vinh hạ bệ gắn liền nhau.
Con đường Thập Giá là như vậy,
Chịu khổ trước, rồi hưởng Phúc sau.
Giáo Hội ấn định Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá dành để tưởng niệm Chúa Giê-su Ki-tô vào thành Giê-ru-sa-lem để hoàn tất Mầu nhiệm Vượt Qua. Ngày lễ hôm nay gồm 2 phần chính: Phần đầu là cuộc rước kiệu lá kính nhớ Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mt 21, 1-10); phần thứ hai là Thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa. Có một nhận định xem ra có vẻ khó hiểu và khắc nghiệt: “Giữa Chúa nhật Lễ Lá và Thứ sáu Tuần Thánh phản ánh cả cuộc đời Ki-tô hữu”. Tuy nhiên, bình tâm mà suy xét sẽ thấy tuy khó hiểu và khắc nghiệt, nhưng lại rất chính xác. Nói cách cụ thể thì Chúa nhật Lễ Lá và Thứ sáu Tuần Thánh phản ánh đúng thực chất tâm trạng con người (nói chung), và cách riêng là các Ki-tô hữu.
Chúa nhật Lễ Lá dân chúng Do thái hoan hô, chúc tụng Chúa Ki-tô rất nồng nhiệt, bằng những lời lẽ tưởng chừng như chân thành nhất (“Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.” – Mt 21, 9); vậy mà chỉ mấy ngày sau, cũng chính những người hoan hô ấy lại hò reo: “Đóng đinh nó vào thập giá!” Thậm chí khi Tổng trấn Phi-la-tô thấy không cứu vãn được tình thế, đã lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” thì đám đông còn gào thét như thách thức: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27, 24-25). Thế đấy! Thì ra giữa hoan hô và đả đảo chỉ là một khoảng cách rất mong manh, mong manh còn hơn cả một “sợi tóc”.
Nhân nói đến “sợi tóc” chợt nhớ đến truyện ngắn “Sợi Tóc” của Thạch Lam (trong Tự Lực Văn Đoàn – tiền chiến). Truyện “Sợi Tóc” thuật lại câu chuyện của một nhân vật tên Thành tự thuật tâm trạng của mình trong một lần định chôm (ăn cắp) ví tiền của bạn. Từ ý định nảy sinh khi thấy bạn để nhiều tiền trong ví (bóp), đến những toan tính, những kế hoạch tiến hành, và cả đến những dự phòng rủi ro khi bị phát giác, đều được Thạch Lam miêu tả rất tinh tế và tỉ mỉ. Cuối cùng thì Thành không thực hiện ý đồ ăn cắp, và ngạc nhiên tự hỏi “tại sao mình vẫn còn là người lương thiện?”. Thành nghĩ: “Tôi cảm thấy một cái thú khoái lạc kỳ dị, khe khẽ và thầm lặng rung động trong người, có lẽ là cái khoái lạc bị cám dỗ, mà cũng có lẽ là cái khoái lạc đã đè nén được sự cám dỗ.” Cái “khoái lạc bị cám dỗ” chính là cái “ác tâm” muốn chiếm đoạt tiền của người khác; còn “cái khoái lạc đã đè nén được sự cám dỗ.”chính là cái “thiện tâm”; như tác giả kết luận: “ranh giới giữa cái ‘thiện’ và cái ‘ác’ chỉ là một ‘sợi tóc’ mong manh, không hơn không kém”. Quả thật ranh giới giữa cái “thiện” và cái “ác” ở cuộc đời này rất mong manh, mong manh như một sợi tóc.
Đến như khoảng cách giữa hoan hô và đả đảo thì cũng chẳng khác gì. Hôm nay hoan hô, ngày mai đả đảo; sáng mới hoan hô, chiều đã đả đảo; thậm chí vừa mới hoan hô đấy, lại đả đảo liền, lập trường cứ xoay như chong chóng. Lại phải chua xót nhắc lại ở đây: nhân tình thế thái là thế, xưa hay nay cũng vậy thôi. Đó mới chỉ là nói về những sự kiện hữu hình xảy ra trên bình diện xã hội loài người, riêng về mặt tâm linh thì còn hơn thế nữa kia. Trong khi vừa ở toà hoà giải ăn năn sám hối về những lỗi phạm của mình, mới chỉ bước ra khỏi toà vài bước, nếu gặp chuyện trái ý thì ngay lập tức nổi đoá văng tục liền (dù có thể chưa văng thành lời nói trên miệng, thì cũng thầm thĩ trong lòng!); vừa mới rước lễ trong thánh lễ, ra khỏi nhà thờ gặp phải một “người bạn quấy rầy” (hành khất) cứ liên lỉ quấy rối (xin tiền), hoặc những cảnh trái tai gai mắt; thì lập tức biểu lộ “nộ khí xung thiên” ngay.
Ôi chao! Nhiều, nhiều lắm những cảnh vừa mới tuyên xưng đức tin, tôn vinh Thiên Chúa, thì ngay lập tức đã chối bỏ. Như thế thì chẳng phải cái ranh giới giữa hoan hô và đả đảo còn mong manh hơn cả sợi tóc đó sao? Cứ nhìn vào các Tông đồ tiên khởi thì đủ biết: Vì sao các ngài đi theo Đức Ki-tô? Vì tin tưởng Người chính là vị cứu tinh cho cuộc đời của mình. Cụ thể như Phê-rô khi nghe Đức Ki-tô hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” thì tuyên xưng liền: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 16) và khi nghe Thầy tiên báo sẽ chối Thầy, thì ngay lập tức khẳng định chắc nịch: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”. Thực ra, cũng không chỉ có một mình Phê-rô đâu, mà “Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (Mt 26, 35). Như vậy thì chẳng phải là hoan hô đó sao? Nhưng đến khi Thầy gặp nạn thì “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26, 56), còn Phê-rô lẽo đẽo theo sau và chỉ cần một tớ gái nhà Cai-pha vặn hỏi đã vội vàng chối “Tôi thề là không biết người ấy.” (Mt 26, 74) không chỉ một lần mà tới ba lần trong một đêm. Bỏ trốn hết, chối Thầy như vậy thì có khác gì đả đảo?
Ngày xưa thì như thế, còn ngày nay hẳn là còn hơn thế nữa là cái chắc. Ở Việt Nam tuy có gần 130.000 người chấp nhận cái chết, chớ không chịu đả đảo Ki-tô (bước qua hoặc đạp lên thánh giá, bỏ đạo), nhưng con số người sẵn sàng đạp lên thánh giá (chớ đừng nói chỉ bước qua), sẵn sàng gỡ bỏ bàn thờ để chưng hình lãnh tụ (đả đảo Giê-su, hoan hô lãnh tụ), sẵn sàng ghi vào sơ yếu lý lịch là “không tôn giáo”… thì không hiểu còn đông gấp bao nhiêu lần? Ngay đến cả những người bề ngoài thi rất siêng năng đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, nhưng chỉ cần một người nghèo khó (một hành khất chẳng hạn) đến “quấy rầy” thì ngay lập tức “Không có gì hết! Cút đi chỗ khác!” Than ôi! “Ngày xưa Ta khát…, Ta đói… ” thì ngươi đã đối xử như vậy đó! Vậy thì ai hoan hô, ai đả đảo? Hoan hô và đả đảo có cách xa nhau không?
Chúa nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh và kỷ niệm việc Chúa Giê-su được tung hô, nhưng đồng thời Chúa nhật Lễ Lá cũng còn được gọi là Chúa nhật Chịu Nạn (Chúa Giê-su bị đả đảo). Trong một Chúa nhật tưởng niệm hai mặt trái ngược nhau của cuộc đời. Ôi! Lạy Chúa! Con vẫn nhớ như in trong lòng Lời Chúa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu!” (Mt 7, 21). Vậy mà con vẫn cứ hoài “ngôn hành bất nhất”, miệng thì không ngớt tung hô Chúa, nhưng trong lòng thì lạnh tanh, chẳng một chút cảm xúc. Thậm chí, ngoài miệng nói một đàng, trong lòng nghĩ một nẻo (“Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không đao” – “Kiều” – Nguyễn Du). Con vừa mới hoan hô, tung hô Chúa nơi thánh đường, về tới khu xóm con đã hiềm khích, đố kỵ, ghen ghét với người này nguời khác, thậm chí cả với người thân trong gia đình, như thế thì nào có khác gì con đả đảo Chúa?
Ối! Lạy Chúa! Xin cho chúng con học và làm theo lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô trong bài giảng Chúa Nhật Lễ Lá ngày 20/3/2016: “Con đường của Thiên Chúa hành động rất khác với cách của chúng ta. Ngài tự hủy vì chúng ta, còn chúng ta lại thật khó để quên mình dù chỉ một chút. Ngài đến để cứu độ chúng ta, chúng ta được gọi để chọn đường lối của Ngài, con đường phục vụ, trao ban, quên mình. Chúng ta được mời gọi hãy đi con đường này bằng cách hướng mắt về Thập giá, về “ngai vàng của Chúa”, để học biết tình yêu tự hạ để cứu độ và ban sự sống, học biết để chúng ta có thể từ bỏ những ích kỷ, từ bỏ thói tìm quyền lực và danh vọng. Khi tự hạ mình, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta đi theo con đường của Chúa. Chúng ta hãy ngước nhìn lên Ngài, khấn xin ơn để học biết mầu nhiệm đau khổ mà Chúa Giê-su đã gánh lấy cho chúng ta. Và trong thinh lặng, chúng ta hãy chiêm ngưỡng mầu nhiệm này trong Tuần Thánh.” (nguồn: Vatican.net)
Ôi! “Lạy Chúa, con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường, mão gai nào hẳn sâu trên trán. Lạy Chúa, Thánh Giá nào Ngài vác trên vai, đau thương nào phủ kín tâm tư, đường tình đó Ngài dành cho con. ĐK: Lạy Chúa, xin cho con bước đi theo Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài, Thập Gía trên đường đời con đi. Lạy Chúa, xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang.” (TCCĐ “Con đường Chúa đã đi” của Văn Chi).
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Đức Giê-su gọi giờ tử nạn là giờ Ngài được tôn vinh: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh (Gioan 13, 31)
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị vác thập giá và cuối cùng là cái chết thảm thương ô nhục trên đồi Can-vê!
Vậy vinh quang của Chúa Giê-su ở đâu? Vì sao Chúa Giê-su gọi đây là giờ Ngài được tôn vinh?
Đối với người không am hiểu, cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng rất oanh liệt và vinh quang.
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng hận thù bằng lòng bao dung
Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng trước những thượng tế, kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man tàn bạo… Chúa Giê-su vẫn không may may oán hận! Ngài chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Ngài nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu họ bằng trái tim khoan nhân… Rồi vì sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, Ngài tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23, 34). Đó là tâm tình đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời nầy.
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng tính khiếp nhược và lòng tham sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường
Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giê-su cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Ngài không bị khuất phục bởi cái chết. Ngài đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Ngài đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng đau đớn thể xác và đau khổ tinh thần
Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giê-su đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp nhất cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng tính khiếp nhược của phận người.
Qua cách thức Chúa Giê-su đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Ngài lùi bước; không một đe doạ nào làm cho Ngài khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Ngài nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Ngài …
Ngài thắng được bản năng tham sinh úy tử; Ngài vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Ngài thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác… Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giê-su chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giê-su đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô,
Chúa vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ đớn hèn khiếp nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng nhưng giúp chúng con kiên cường chiến đấu chống lại tội lỗi và thói hư, để mai ngày được khải hoàn vinh quang như Chúa.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Kể từ sau ngày 11.9.2001, hàng năm, ngày này trở thành ngày giỗ của trên 3.000 nạn nhân bị khủng bố giết hại tại tòa Tháp đôi Trung tâm Thương mại Quốc tế ở New York của Mỹ.
Ngày này cả nước Mỹ hướng về biến cố đau thương này, cử hành nghi thức tưởng niệm long trọng vừa như tưởng niệm các nạn nhân, vừa như nhắc nhau nhớ mãi sự kiện lịch sử nhói lòng bởi những bàn tay bất nhân, đêm ngày chỉ biết nhuộm máu đồng loại.
Có thể nói, từ ngày đó cho đến nay, người Mỹ giảm thiểu bình an. Dù rằng Mỹ rất mạnh về kinh tế, nỗi bậc về vũ khí và quân sự… dư sức đem quân đi đánh quốc gia của người khác, nhưng tại Mỹ, dân chúng vẫn thắp thỏm, hoang mang, bởi khủng bố có thể đe dọa bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu.
Bạn cứ nghĩ mà xem, con người ta sống mà cứ phải cảnh giác, cảnh giác, cảnh giác… thì bình an ở đâu. Thiếu vắng bình an sẽ là đau khổ, sẽ là sợ hãi, sẽ là tăm tối. Bình an không còn trong lòng người, không còn bảo đảm cho nơi mình phải sống, không còn là cứu cánh cho cuộc đời nhiều gai góc, chắc chắn cuộc sống sẽ khó khăn hơn, lòng người nhiều chao đảo, chới với hơn.
Có thể nói, hai tòa tháp đôi ấy là biểu tượng của nền văn minh hiện đại của nhân loại, biểu tượng của sự khôn ngoan, là sức mạnh vững vàng, là niềm kiêu hãnh của con người… Vậy mà chỉ trong nháy mắt, hai tòa tháp khổng lồ biến thành đống gạch vụn, vùi lấp trong lòng nó đến hơn 3.000 sinh mạng cùng biết bao nhiêu của cải khác.
Nói với bạn về biến cố 11.9.2001 trong những ngày tuần Thánh, những ngày đặc biệt tưởng nhớ Chúa Kitô Thánh Giá, tôi muốn làm một so sánh, chẳng phải lớn lao gì, nhưng đủ để thấy sức mạnh vạn năng của Tình yêu Thiên Chúa trong những gì tầm thường nhất, nhỏ bé nhất.
Cứ ngước nhìn Thánh Giá mà xem, bạn sẽ thấy ở đó một hình tượng thảm khốc: một người chết gục đầu, chết trần trụi, không đủ một tấm áo che thân; thân xác gắn chặt vào những chiếc đinh oan nghiệt; chết tức tưởi, chết ô nhục, thân xác thâm bầm đầy thương tích, lồng ngực mở rộng, trái tim bị đâm thủng, gai nhọn cài nát đầu, chết đơn độc treo giữa trời và đất…
Người đó là ai? Là Thiên Chúa làm người. Nhưng tất cả sao chỉ là là đau đớn ê chề. Tưởng chừng chỉ là thất bại?
Thánh Giá – đó là phương tiện của tội lỗi, phương tiện của sự chết, người ta dùng nó để giết người, và loài người dùng nó để giết chết Chúa của mình.
Bạn cứ nhìn và sẽ thấy, cây Thánh Giá thật là yếu ớt, mong manh, nhỏ bé.
Nhưng không: không thất bại! Không yếu ớt! Đối người tin, đó lại là sức mạnh lớn lao của tình yêu, của ơn cứu chuộc.
Từ một dụng cụ độc ác, đê hèn, loài người nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu biến nó thành dấu chứng của tình yêu lớn khôn cùng: tình yêu vâng phục đối với Chúa Cha, tình yêu dâng hiến cho nhân loại.
Nếu chỉ nhìn bằng ánh mắt phàm trần, so với công trình lớn lao của nhân loại, Thánh Giá có đáng gì đâu. Nhưng sức mạnh của Thánh Giá là sức mạnh ngàn đời.
Văn minh của loài người dẫu lớn đến đâu, niềm kiêu hãnh; sự khôn ngoan của họ dẫu mạnh cách mấy; những công trình trần thế dẫu có nguy nga, dẫu được coi là xây dựng vững vàng, nhưng chỉ một hành vi phá hoại mà thôi, tất cả tan biến như bọt biển. Chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô mới muôn đời tồn tại.
Hay dẫu thế gian này có qua đi, dẫu cả loài người có tàn hơi, kiệt sức, hay nền khoa học hiện đại này được con người ca tụng là phát triển rực rỡ, một ngày nào đó cũng sẽ là tro bụi. Tất cả chỉ là tạm bợ, là hư nát. Chỉ có Thánh Giá được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới, là cây gỗ duy nhất đáng để chúng ta tôn thờ.
Dẫu cho bất kỳ thời đại nào, con người có thù nghịch với Thánh Giá, Thánh Giá vẫn còn đó. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Hội Thánh và lịch sử nhân loại, người ta đã bắt bớ, bách hại Hội Thánh, cố tình đặt mối hận thù với Thánh Giá Chúa Kitô, Thánh Giá không vì thế mà mất đi, Hội Thánh không vì thế mà lụng bại.
Trái lại, Thánh Giá vẫn còn đó, muôn đời là dấu chứng của tình yêu, của lòng thương xót vô cùng mà Thiên Chúa dành cho loài người, và Hội Thánh của Chúa Kitô vẫn mãi mãi là dấu chỉ của ơn cứu độ, mà từ nơi Thánh Giá, Thiên Chúa ban cho trần gian.
Thánh Phaolô đã đúc kết những suy nghĩ của mình trong những dòng chữ ngắn gọn, nhưng đầy ý nghĩa:
“Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta, là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa…. Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Chúa Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ… Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1, 18- 25).
Do những lời trên của thánh Phaolô cho phép ta có quyền nói mạnh rằng: Thiên Chúa đã dùng chính cái mà con người cho là điên rồ, là yếu đuối để lật đổ chính sự không ngoan và mạnh mẽ của họ.
Thế mới hay: tất cả chỉ là tạm bợ, còn Thánh Giá Chúa Kitô được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới. Thánh Giá, cây gỗ duy nhất mà muôn đời chúng ta tôn thờ.
Dẫu cho thời gian có qua đi, vạn vật có qua đi, thì Thánh Giá vẫn còn mãi như dấu chỉ và sức mạnh của tình yêu mà Thiên Chúa không ngừng yêu thương con người.
Ta hãy ngước nhìn Thánh Giá để biết ơn Thiên Chúa, và cảm tạ tình yêu lớn lao của Người. Vì “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 8, 16).
Chính tình yêu làm nên ơn cứu độ. Thiên Chúa yêu cho đến mức, ngay chính người Con Duy Nhất của mình, Người cũng chẳng tiếc, để tất cả được trao ban cho ta.
Yêu trần gian đến thế, cho nên mọi sáng kiến đều nhằm một mục đích duy nhất là chuộc trần gian về với mình: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian , không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 8, 17).
Bạn thân mến, để kết thúc những gì bạn và tôi vừa suy niệm, một lần nữa ta hãy ngước nhìn Thánh Giá và học nơi đó bài học của yêu thương và tha thứ, bài học lớn lao của sự chấp nhận và hy sinh – chấp nhận tan biến để mưu cầu lợi ích cho anh chị em và dám hy sinh để biết từ bỏ những gì cản trở ta vươn lên trong việc thực hiện yêu thương. Ngước nhìn Thánh Giá, bạn và tôi còn học nơi đó tất cả lòng khiêm nhu, khó nghèo, vâng phục… Và chính nơi Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được sức mạnh và sự nâng đỡ để tiếp tục vác thập giá đời mình bước đi với Chúa Kitô trên con đường thương khó.
.
Lm. Jos. DĐH.
Cha mẹ thương con biển hồ lai láng, cha là núi, mẹ là sông, công cha nghĩa mẹ, ơn thầy…, đó là những câu danh ngôn đã từng đụng chạm đến tâm tư của người biết yêu và được yêu. Những người làm con sẽ không bao giờ cảm thấy bất ngờ vì được ấp ủ nơi vòng tay người mẹ ; con cái thành đạt, có mấy ai còn chú ý tới lời người xưa: con hơn cha nhà có phúc. Sự nông cạn của con cháu về việc sống đạo hiếu, chúng dễ lầm tưởng là cứ cho tiền, cho quà, là chúng đã đền đáp ơn nghĩa sinh thành. Sự vô tình đáng tiếc của bậc làm cha mẹ là dám hy sinh chịu đựng gian khổ, để con được giầu sang phú quý, cho dù con cháu có hơi vô tình vô tâm.
Chính vì muốn con tim lên tiếng, người thanh niên thanh nữ vẫn biểu lộ bằng hành động: thương nhau cau sáu bổ ba ; thương nhau tam tứ núi cũng trèo. Không thể vô tình mà người Do-thái xưa kia đã lấy áo trải xuống đường, tay cầm nhành lá, miệng hoan hô Con Vua Đavít, tâm tư thì chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Chắc chắn Đức Giêsu không muốn người ta hoan hô Con Vua Đavít bằng môi miệng, hoặc chúc tụng Đấng đang ngự đến như một phong trào thiếu tính bền vững. Đám đông Do-thái hôm xưa và người Kitô hữu chúng ta hôm đều có cơ hội đạt tới hạnh phúc đời đời. Theo Đức Giêsu vào Giêrusalem, hay đi vào tuần thương khó với Đức Kitô, nhất định phải có lập trường vững chắc nơi Đức Giêsu là tình yêu, là Thầy là Đấng cứu độ trần gian.
Đau khổ rắc rối ở đời này, không phải là điều xa lạ, bị ghét bỏ, hiểu lầm, chúng ta đã từng đối diện, nhưng chết vì đau bệnh, chết vì tai nạn nghề nghiệp, chẳng ai gọi là chết anh hùng. Đức Giêsu không có tham vọng biến tất cả cái chết ở đời này thành cái chết anh hùng, nhưng là hãy theo Ngài để biết chết đi cho tội lỗi của mình để có sự sống đời đời. Đức Giêsu vào thành Giêrusalem là vì yêu, Ngài để dân chúng mộ mến tung hô, cũng vì yêu, dù Ngài ý thức sẽ không mua lấy hư danh như người đời: được tiếng khen, ho hen chẳng còn. Vì yêu, Đức Giêsu đến trần gian, vì yêu, Đức Giêsu ý thức sẽ vâng phục thánh ý Chúa Cha, vượt qua khổ đau thập giá để nên ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Đau khổ về tinh thần hay thể xác đều đáng sợ, thông thường người ta vẫn xem đau khổ tinh thần sẽ “nhức nhối hơn”. Đức Giêsu cho chúng ta thấy Ngài phải đối diện với sự bội phản của môn đệ, bán Thầy, chối Thầy, tìm lối thoát thân. Nếu theo lý luận của người đời, Đức Giêsu đủ khôn ngoan để sa thải Giuđa ngay từ ban đầu. Đức Giêsu có thể dùng uy quyền hạ gục kẻ xấu, xuống khỏi thập giá, thiết lập vương quốc trần gian. Tất cả vì yêu không tính toán, trong bữa tiệc Vượt Qua, Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể, trao ban Mình Máu Ngài làm của ăn của uống cho các học trò.
Tại bữa ăn Vượt Qua, Đức Giêsu không oán phạt các học trò vì tội phản Thầy, qua đó, Ngài cho thấy bài học tha thứ vô cùng cao quý: không có đức tính nào vĩ đại hơn tình yêu không hận thù. Tại vườn Cây Dầu, Đức Giêsu đã cho các môn đệ cảm nhận Ngài cũng sợ đau khổ, sợ chết vì mang thân phận con người. Ngài đã cầu nguyện: “lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý Con muốn, một theo ý Cha”. Tại cuộc sống hôm nay, tình yêu vâng phục luôn là mời gọi cho tất cả những ai tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, hãy thông hiệp và sống mầu nhiệm tử nạn phục sinh với Đấng hằng yêu thương ta.
Người xưa có câu: tương tư chẳng ốm cũng sầu, con ruồi đậu mép chẳng đau cũng buồn. Tội nhỏ, tội to, cũng là hành vi đóng đinh Chúa ; tìm lối thoát thân vì sợ mất mạng sống, hay bỏ Thầy, chối Thầy, vì niềm tin Thầy là Chúa đã phai nhạt đều đáng chết. Đức Giêsu đau khổ vì đức tin hời hợt của đám đông Do-thái nay tung hô mai đả đảo, dù tình yêu của Ngài không dừng lại nơi dân chúng hôm đó. Đức Giêsu sẽ còn lấy Máu của Ngài để rửa sạch tội lỗi cho chúng ta, Ngài tiếp tục tha thứ quảng đại bao lâu ta còn do dự về tình yêu Chúa.
Lịch sự Việt Nam có nói đến một vị anh hùng dám khoác áo cẩm bào hy sinh mạng sống mình cứu minh chủ và nghĩa quân đang bị giặc Minh vây hãm. Tình yêu của Lê Lai năm xưa tại núi Chí Linh đã giải cứu được nghĩa quân Lam Sơn khỏi phải chết thê thảm. Vì yêu Đức Giêsu chịu đau khổ thập giá, chịu chết, không phải vì nghĩa lớn cho cuộc nổi dậy của một số môn đệ sau này như khởi nghĩa Lam Sơn. Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu vâng phục, tình yêu cứu độ mà con người không thể hiểu bằng ngôn ngữ lý luận. Tinh yêu của Chúa sẽ không chỉ dừng lại ở dân tộc Do-thái, ở khổ đau thập giá, hay ở nơi thất bại chết chóc. Tất cả vì yêu, Chúa Giêsu hướng muôn dân trên khắp địa cầu tự do tin nhận Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ trần gian, hãy đến với Ngài để được sống đời đời. Amen.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Cuộc hành trình của Chúa Giêsu vào Giêrusalem lần cuối được đón tiếp long trọng. Dân chúng đứng vệ đường cầm những nhành lá tung hô con vua Đavit. Bản chất của những chiếc lá biểu lộ phồn vinh và hạnh phúc. Người đón Chúa có thể mang hai lòng mong đợi khác nhau: Một niềm mong đợi Chúa đến để mang lại sự phồn vinh, hạnh phúc về kinh tế, lập một vương quốc mới; phần khác niềm mong đợi như Chúa đã hứa: Giờ Con Người được tôn vinh, Giờ con người được kéo lên cùng Chúa.
Mong đợi theo suy nghĩ của con người.
Bước cùng theo Chúa trên con đường lên Giêrusalem, nơi mà người Do Thái nghĩ rằng gần Thiên Chúa nhất, nơi kỷ niệm ngày Chúa đưa dân ra khỏi đất Ai Cập. Hôm nay người Kitô hữu cũng đi theo con đường lên dốc này. Con đường lên đến gần Thiên Chúa dường như vượt sức của con người. Xưa kia Adam – Eva cũng muốn bằng Thiên Chúa, lên tới Thiên Chúa, nhưng con đường lựa chọn của Adam đã bị Satan lôi theo hướng đi của chúng và mọi ước mơ bị đổ bể.
Con người ngày nay cũng bị lôi kéo như thế, họ muốn bằng Thiên Chúa, làm ra những kiệt tác sáng tạo, có thể bay xa, tiếng nói đi cùng trời cuối bể… Song song những thành tựu đó lại cũng có những vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học, vũ khí vi trùng, ít hơn nữa những công nghệ vi phạm đến sự sống con người… Con người muốn độc lập với Thiên Chúa, tự mình quyết định cho vận mệnh.
Con người như kéo Thiên Chúa về phe mình hoặc tìm cách loại trừ Ngài để tự do làm điều dữ, lực cuốn hút này cũng mạnh như đã thấy đám đông hét to lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
Một nền văn hóa loại trừ, rác thải đang là vấn đề của con người thời nay. Bất cứ điều gì và ngay cả con người cũng có thể coi như cặn bã, rác thải, cần loại bỏ, hơn là chữa trị, tái sử dụng..
Sự phồn vinh và hạnh phúc giả tạo của con người xây dựng trên những thân phận của những người nghèo, những người thấp cổ bé họng, Phúc Âm nhắc đến họ là những con người phận nhỏ. Con đường lên Giêrusalem của Chúa, bị gài đặt những âm mưu sát hại. Người cầm quyền đưa ra một thứ bánh vẽ: “thà một người bị chết còn hơn toàn dân bị giết” (Ga 11, 50). Câu nói này ám chỉ đến Chúa Giêsu như một người nổi loạn, vì thế cần loại trừ, tống giam, để chính thượng tế, kinh sư, kỳ lão trong dân khỏi rơi vào tay trừng trị của Đế quốc Roma. Chúng ta cũng thấy những tình cảnh tương tự như thế trong những sự kiện như Formosa, dân oan, bán đứng người dân để đổi lấy lợi ích cá nhân.… Số phận của những con người vô tội bị sát hại cho lòng tham, sự ích kỷ, lợi ích cá nhân của một số người.
Cần có một lực kéo con người lên.
Thập giá, Con Người vô tội bị treo trên đó, nhưng cũng là Con Người giang hai tay ôm rộng mọi người để kéo lên khỏi những lực hút của sự dữ.
Nơi Chúa Giê su, sự vâng phục của Ngài, tỏ bày một Thiên Chúa xuống tận cùng của kiếp nhân sinh để kéo con người lên: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta… Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53, 4-5).
Con người cần loại bỏ nơi mình tính kiêu căng và học bài học khiêm nhường nơi chính Chúa, mới có thể xây dựng hòa bình, bình an đích thật trên trái đất. Hãy đặt tay mình vào bàn tay Chúa, Chúa kéo con người lên, cho đôi tay tinh tuyền, cho trái tim rộng mở, đặt con người vào đúng hướng khi phát triển khả năng của mình, để phục vụ sự sống.
Khi tung hô “ Hoan hô con Vua Đavit ! Chúc tụng Đấng nhân Danh Chúa ngự đến!”, câu tung hô đó cần khởi sự với tất cả lòng yêu mến Chúa, nhận ra việc Chúa đến giải thoát con người ra khỏi chốn tội lỗi, những sự xấu của con người. Từ cõi lòng yêu mến Chúa, để tuân giữ các giới răn, nghe Lời Chúa đem ra thực hành, một khao khát không nguôi tìm kiếm Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc duy nhất cuộc đời mình. Tiếng tung hô đó, sẽ rung động các tầng trời từ một rung động nhỏ bé của một trái tìm, yêu mến Chúa và tha nhân, hết lòng hết sức, hết cả trí khôn.
Nào ta cùng lên núi Chúa, như một niềm hân han cùng Chúa vào thành, với tâm tình Thánh vịnh 24: “Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người? Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối. Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng. Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người, tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp. Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào. Đức Vua vinh hiển đó là ai? Là Đức Chúa mạnh mẽ oai hùng Đức Chúa oai hùng khi xuất trận.” (Tv 24, 3 – 8).
Vào thành cùng Chúa, xin cho chúng con giữ vững niềm tin cây, yêu mến, để có tay sạch, lòng thanh, theo Chúa lên đỉnh đồi Calvê, được đổi mới trong Người.
.
AM. Trần Bình An
Người ta ví Napoléon chuẩn bị cho ngày đăng quang của mình kỹ như cho cuộc chiến của ông. Tất cả các công việc chuẩn bị được giao cho tướng quân Ségur, kiến trúc sư Percier, Fontaine, nhà thiết kế Jean Baptiste Isabey, những con người tài ba nhất thời bấy giờ.
Trước khi được trao quyền, Napoléon cho tiến hành những cuộc diễu hành hàng tiếng đồng hồ khắp Paris một cách rầm rộ, hoành tráng với sự tham gia của quân đội do thống chế Murat dẫn đầu nhằm thể hiện quyền uy tối cao.
Buổi lễ đăng quang Napoléon lên ngôi Hoàng Đế diễn ra tại Nhà thờ Đức Bà Notre-Dame de Paris vào ngày 02/12/1804, trong gần 6 tiếng đồng hồ thật long trọng, xa hoa. Hoàng Đế Napoléon đã nhận Vương Miện từ tay Đức Giáo Hoàng Pius VII, rồi tự tay đặt lên đầu mình, cùng vòng nguyệt quế bằng vàng ròng giống hoàng đế thời La Mã. Ông trở thành Hoàng đế Napoléon I, và phong bà Joséphine làm Hoàng hậu. Tiếp đó, ngày 26/5/1805, tại nhà thờ thành phố Milano, Napoléon tự phong làm vua nước Ý và vua xứ Lombardy. (Wikipedia)
Hoàng đế Napoléon sang trọng lên ngôi với chi phí cao ngất trời, thế nhưng triều đại Napoléon lại chết yểu, không tồn tại được hơn một trăm ngày! Hôm nay, Đức Giêsu chẳng tiền hô, hậu ủng, đơn giản cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, công khai đăng quang Vua Tình Yêu đến muôn đời, đông đảo dân hoan hỉ đón chào.
Lễ đăng quang của Đức Giêsu bắt đầu từ Người được dân chúng cung nghinh, rước vào Giêrusalem, rồi bị bắt, kết án và cực hình, kết thúc bằng cuộc tử nạn khốc liệt trên thập giá ở đỉnh Núi Sọ.
Khởi đầu lễ đăng quang
“Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ.” Khiêm nhu và nhân ái, Đức Vua Giêsu chân chất, chẳng cẩm bào, chẳng vương trượng, cũng chẳng bạch mã, nhưng được dân chúng hoan hỉ, tôn vinh, nghênh đón.
Chỉ vì Người là Vua Tình Yêu, xả kỷ vị tha, chí ái, chí nhân, yêu thương thần dân, ban mọi sự, từ Lời Hằng Sống, đến những hồng ân, cho người nghèo đói được no thoả, chữa lành thương tật, hồi sinh những tâm hồn chết trong sự dữ. “Hoan hô con vua Đavit! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!” Đức Vua chẳng ban huấn từ, nhưng điều thiết yếu, sự thật, thì đã được dân chứng thực, xác nhận: “Đấng nhân danh Chúa mà đến.”
Khốc liệt lễ đăng quang
Nhưng thần dân được yêu thương và phục vụ, bỗng dưng trở nên bạc bẽo như vôi, bất nhân, bất nghĩa, bất tín, bất trung. Mau chóng phản bội, hùa theo thế lực sự dữ, cả thế quyền lẫn thần quyền, nhất loạt trở mặt chống đối, vu oan cáo vạ, phỉ báng, kết án Đức Vua nhân từ, khoan dung, độ lượng, đầy lòng thương xót.
Đức Vua vẫn âm thầm, lặng lẽ, cô đơn, cứ tiếp tục rộng rãi cho đi cả danh dự, nhân phẩm, thể diện, thậm chí hy sinh cả nhân tính lẫn thiên tính, nhẫn nhục, chịu đựng mọi bất công, thù hằn, đòn vọt, lăng nhục, khổ nạn, như Isaia đã tuyên bố: “Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.” (Is 50, 6)
Kết thúc lễ đăng quang
Thê thảm hơn nữa, các môn đệ đồng loạt bỏ rơi vị Thầy nhân ái đáng kính. Kẻ tham tiền phản bội, bán rẻ Thầy, người tham sanh uý tử, cởi áo chạy trốn, kẻ tâm phúc còn hèn nhát chối Thầy đến ba lần. Lúc này, Đức Vua chí ái hoàn toàn cô đơn, lẻ loi, khốn cùng như con chiên bơ vơ giữa bầy sói khát máu. Người vẫn vâng theo Thánh Ý, chấp nhận cho đi cả mạng sống của mình.
Chịu hành hạ, đánh đòn, vác thập giá, rồi chịu đóng đinh vào thập giá, nhục nhã chết trần truồng trên Núi Sọ, Đức Vua chí ái đã biểu lộ tột đỉnh Tình Yêu, khi kết thúc lễ đăng quang. Người chấp nhận gánh lấy tội lỗi của cả loài người, đổ máu, hiến mạng để giao hoà, cứu chuộc con người được trở về với cội nguồn, Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng cao cả. “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” (Ga, 15, 13)
Thánh Phaolô cảm nghiệm lễ đăng quang đặc biệt của Đức Vua Tình Yêu: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2, 8-9)
“Trong giờ Tử Nạn, Chúa đem theo những Tông Đồ Ngài yêu thương riêng: Phêrô, Gioan, Giacôbê. Con sợ Chúa thương không?” (Đường Hy Vọng, số 699)
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn chúng con trung thành theo Người, mặc dầu chúng con vẫn còn yếu đuối, hèn nhát, khiếp hãi trước các thử thách khắc nghiệt, trước quyền lực đen tối của sự dữ. Nhưng xin Chúa cứu giúp, đừng để chúng con sa ngã, bất trung, phản nghịch.
Kính xin Mẹ đồng hành cùng chúng con theo Chúa trên đường khổ nạn, để chúng con dám chết đi những thói hư tội lỗi, để được sống lại con người mới, nhờ ơn cứu chuộc Đức Giêsu Kitô. Amen.
.
CÙNG CHẾT VỚI ĐỨC KITÔ ĐỂ CÙNG SỐNG LẠI VỚI NGƯỜI
Lm. Giuse Nguyễn
40 thanh niên Công giáo người Ấn Độ đã khởi hành chuyến hành hương đi đàng Thánh Giá với quãng đường dài 400 km từ hôm 01/04/2017 và đã kết thúc vào ngày 04/04/2017 vừa qua. Đây không chỉ là một cuộc thử thách sức lực thể chất mà thôi, mục tiêu chính cuả cuộc “hành hương” là “Đổi mới tinh thần và chia sẻ tin mừng của Chúa Kitô”.
Chúng ta vừa nghe bài thương khó của Đức Giêsu Kitô theo trình thuật của thánh Matthêu. Tuy không kéo dài đến 4 ngày với quãng đường 400 km, mà chỉ đứng yên một chỗ trong một khoảng thời gian chưa đầy nửa giờ, nhưng đối với chúng ta cũng là một thử thách, một chuyến hành hương.
Sau khi nghe cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy đặt ra mục tiêu cho mình là “Đổi mới tinh thần và chia sẻ Tin mừng của Chúa Kitô”. Để có thể làm được điều đó, chúng ta phải cùng chết với Đức Kitô để được cùng sống lại với Ngài. Sự sống lại chính là việc đổi mới cuộc đời chúng ta, và khi được đổi mới, chắc chắn chúng ta sẽ vui mừng để chia sẻ với người khác về niềm vui đó.
Hãy đặt mình vào vị trí của một vài nhân vật trong cuộc thương khó Đức Giêsu, xem họ đã “sống – chết” với Ngài như thế nào để chúng ta có được một vài tâm tình làm động lực “đổi mới tinh thần và chia sẻ tin mừng của Chúa Kitô”.
I. NHỮNG NGƯỜI LIÊN QUAN ĐẾN CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA ĐỨC GIÊSU
Theo tường thuật của Tin mừng, có nhiều người liên quan đến cuộc thương khó của Đức Giêsu, trong số đó phải kể đến một số Luật sĩ, Biệt phái, Pharisêu và các Thượng tế là những người đã có âm mưu tiêu diệt Đức Giêsu vì tầm ảnh hưởng của Ngài. Cộng tác với họ, đứng về “phe cánh tả” còn có vua Hêrôđê, tổng trấn Philatô, quân lính, và nhất là Giuđa Iscariô, một trong 12 Tông đồ của Ngài. Đứng về “phe cánh hữu”, những người có mặt trong cuộc thương khó của Đức Giêsu để than khóc, tiếp giúp hoặc ít ra là không muốn Ngài phải bị như vậy là các Tông đồ, ông Simon vác đỡ thánh giá Chúa, bà Vêrônica, những phụ nữ đạo đức, và nhất là Đức Maria. Những người “trung dung”, nghĩa là những người bàng quan, đứng bên ngoài để nhìn hoặc hùa theo đám đông cũng hiện diện trong cuộc thương khó này. Đó là dân chúng và hai tên gian phi.
II. HAI KHUÔN MẶT ĐỂ SUY GẪM TRONG NĂM GIA ĐÌNH 2017
Những nhân vật kể trên ít nhiều cũng đã liên quan hoặc nhìn thấy cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Trong năm Gia đình 2017 với chủ để chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân, chúng ta hãy cùng nhau khám phá 2 khuôn mặt với 2 tính cách có liên quan đến đời sống nói chung và gia đình kitô hữu nói riêng.
- Giuđa Iscariô
Để diễn tả tính cách của Giuđa, trong tác phẩm “từ trên Thánh Giá nhìn xuống” được Linh mục Carôlô Hồ Bặc Xái dịch từ tiếng Việt đã viết: “Giuđa là một con người nhiều tham vọng, muốn có một địa vị cao. Anh rất hồ hởi khi thấy Chúa Giêsu làm phép lạ nên đã đi theo Người. Có lẽ anh tự nhủ: “Với quyền làm phép lạ như vậy, chắc hẳn Đức Giêsu sẽ kéo hết mọi người về với Người. Dân chúng sẽ tôn Người làm vua. Người sẽ đánh đuổi quân Rôma xâm lược. Còn mình là một trong số những kẻ thân tín của Người. Nếu mình chu toàn trách nhiệm quản lý cho Người thì mình sẽ còn được đặt làm Bộ Truởng Tài chính. Rồi mình sẽ giàu sang, quyền thế. Ôi sung sướng biết bao!” Tắt một lời, Giuđa là một con người ham mê tiền bạc và danh vọng, ông theo Đức Giêsu cũng chỉ vì mục đích đó. Cuộc thương khó của Đức Giêsu cũng là hậu quả những toan tính của Giuđa để ông có đạt được mục đích của mình.
Ham mê tiền bạc và danh vọng, làm mọi cách để có những điều đó cũng chính là một trong những nguyên nhân làm cho gia đình không hạnh phúc. Hơn thế nữa, cũng chính tiền bạc, giàu sang, quyền lực đã che mờ đi hạnh phúc đời sau, và vì thế họ không còn nổ lực sống đạo nữa.
- Mađalêna
Cũng trong tác phẩm “từ trên Thánh Giá nhìn xuống” con người của Mađalêna được diễn tả một cách ngắn gọn: “Trong thành Mađalêna, người ta không khen ngợi cô, trái lại còn nói xấu cô vì cô sống buông thả, tội lỗi, lại còn lôi kéo nhiều người đàn ông vào đường tội lỗi”. Nói thế cũng đủ biết Mađalêna là người như thế nào.
Cũng chính lối sống tội lỗi, buông thả, đắm mình trong những đam mê dục vọng đã làm đổ vỡ biết bao gia đình.
III. CÙNG CHẾT VỚI ĐỨC KITÔ ĐỂ CÙNG SỐNG LẠI VỚI NGÀI
Hình ảnh của Giuđa và Madalena hoàn toàn trái ngược nhau. Giuđa có một quá khứ tốt với nét nổi bật nhất là Tông Đồ của Đức Giêsu, nhưng kết cục cuộc đời ông là một cái chết thê thảm vì ông đã không đạt được mục đích của mình. Giuđa đã không cùng chết với Chúa nên ông đã chết mãi mãi
Ngược lại Madalena có một quá khứ không tốt đẹp, nhưng nhờ nhận ra một tình yêu chân thật, nhận ra Đức Giêsu là Đấng được sai đến để thực hiện tình yêu đó, nên cô đã dấn thân theo Ngài và đã được sự sống mới. Madalena đã cùng chết với Chúa qua việc chôn lấp những tội lỗi của mình nên cô đã được sống lại với Ngài trong đời sống mới.
Bước vào Tuần Thánh, một lần nữa mỗi người chúng ta hãy xét lại những điều làm ảnh hưởng đến đời sống đức tin, nhất là đời sống gia đình từ hình ảnh của Giuđa và Madalena.
Có khi nào tôi bất chấp tất cả, kể cả những điều sai trái, tội lỗi để có tiền bạc, chức vụ và những điều thuận lợi trong cuộc sống không? Có khi nào vì lo kiếm tiền, vì công danh sự nghiệp mà tôi quên gia đình nhỏ bé của tôi không? Có khi nào vì gia đình nghèo khổ mà tôi đã đành đoạn từ bỏ người bạn đời và những đứa con để ra đi tìm kiếm hạnh phúc khác không?…
“Phải chăng đôi khi tôi cũng có phần nào giống như Madalena buông mình tìm kiếm thú vui nhục dục: nói chuyện tục tĩu, xem sách báo phim ảnh khiêu dâm làm những việc ô uế…?” Có khi nào vì ham mê nhục dục thể xác mà tôi đã không tôn trọng người bạn, người yêu của tôi không?…
Giuđa đã không nhìn thấy cái sai của mình, mà chỉ bất mãn vì mình không đạt được mục đích. Madalena đã biết mình sai nên hối hận và sửa đổi cuộc sống. Mỗi người chúng ta đều có những sai lỗi. Hãy tận dụng những ngày trong Tuần Thánh này để ăn năn sám hối và mau chóng đến với tòa giải tội xưng thú lỗi lầm để được ơn tha tội.
Khi chúng ta nhận ra tội lỗi của mình, chúng ta quyết tâm chừa bỏ là lúc chúng ta đang chết với Đức Kitô. Khi Đức Kitô sống lại, Ngài cũng ban cho tôi sự sống mới, thể hiện qua việc tôi được sống trong ân nghĩa của Chúa, và làm những việc lành phúc đức để bù đắp lại những tháng ngày bội nghĩa vong ân.
“Lạy Chúa, xin cho con bước đi với Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa, xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang.”
.
CON ĐƯỜNG VÀO VINH QUANG NGANG QUA THẬP GIÁ
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1A. TIN MỪNG KIỆU LÁ: Mt 21,1-11
(1) Khi thầy trò đến gần thành Giê-ru-sa-lem và tới làng Bết-pha-ghê, phía núi Ô-liu, Đức Giê-su sai hai môn đệ (2) và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh tháo dây ra và dắt về cho Thầy. (3) Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng. Người sẽ gởi lại ngay. (4) Sự việc đó xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ: (5) Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. (6) Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giê-su đã truyền. (7) Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giê-su cỡi lên: (8) Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. (9) Đám đông, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô Con vua Đa-vít ! Chúa tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa ! Hoan hô trên các tầng trời”. (10) Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: “Ông này là ai vậy ?” (11) Đám đông trả lời: “Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy”.
1B. TIN MỪNG TRONG THÁNH LỄ: Mt 27,11-54
- Ý CHÍNH PHỤNG VỤ CN LỄ LÁ:
Phụng vụ CN Lễ Lá gồm hai phần:
Phần đầu lễ, bài Tin Mừng diễn tả cuộc khải hoàn của Đức Giê-su như một ông vua ngồi trên lưng lừa khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, giữa những tiếng hoan hô tưng bừng của mọi người: ” Hoan hô con Vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời”.
Nhưng rồi Tin mừng trong thánh lễ thuật lại buổi xử án Đức Giêsu và cuộc khổ hình Người phải vác cây thập giá lên Núi Sọ, chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp như một kẻ tội đồ. Người vô tội nhưng đã chịu hình phạt thập giá đau thương nhục nhã của một tử tội để đền tội thay cho mọi người chúng ta.
- CHÚ THÍCH:
– C 1-6: + Thầy trò đến gần Giê-ru-sa-lem: Theo Tin Mừng Gio-an (x Ga 12,1), sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su tới Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khỏang gần 3 cây số vào buổi chiều, và thầy trò đã đến ở trọ qua đêm tại Bê-ta-ni-a trong nhà ba chị em Mác-ta Ma-ri-a và La-da-rô. + Tới làng Bết-pha-ghê: Giữa Bê-ta-ni-a và Giê-ru-sa-lem có làng Bết-pha-ghê, nằm dưới chân núi Ô-liu về phía Đông. + Sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó…: Câu này nói lên tính siêu việt nơi con người Đức Giê-su: Ngài có cái nhìn thấu suốt không gian thời gian, thấu suốt tâm can con người (x. Mt 9,4; Lc 7,39-40). + Một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu mới nói đến con vật là lừa mẹ và lừa con. Còn ba Tin Mừng kia chỉ nói đến một con lừa tơ chưa một lần sử dụng, như dành riêng cho công việc linh thánh này. + “Chúa cần đến chúng”: Chủ lừa chắc là chỗ quen biết trước nên Đức Giê-su căn dặn môn đệ trả lời như vậy. Từ “Chúa” ở đây ám chỉ ông chủ lừa này đã tin Người là Đấng Thiên Sai.
– C 7-9: + Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường: Dân chúng ở đây phần lớn là những người từ xứ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Họ nghỉ trong các quán trọ trên đường vào Thành, hoặc tạm trú trên sườn núi Cây Dầu. Những người này phấn khởi ra đón vị Vua Thiên Sai mà họ hy vọng sẽ giúp họ chống lại ách thống trị của ngoại bang. Họ lấy áo lót đường và chặt cành cây Ô-liu trải trên lối đi để bày tỏ lòng trọng kính Đức Giê-su như một vị Vua Thiên Sai theo phong tục Cận Đông thời bấy giờ. + Con vua Đa-vít: Dân chúng đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, là “Con Vua Đa-vít” khi họ thấy Người làm cho hai người mù được sáng mắt (x. Mt 20,30), và truyền cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại (x. Ga 11,45). Đó là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Is 29,18-19; 25,7-9). + Hoan hô: Dân chúng nô nức theo sau và phấn khởi hoan hô Người bằng lời hoan hô được ghi trong Thánh Vịnh 118 (x. Tv 118,25-26).
- HỎI ĐÁP:
– HỎI 1: Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mấy lần trong đời của Người ?
ĐÁP: Đọc Tin Mừng Mát-thêu, ta có cảm tưởng Đức Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần duy nhất trong cuộc sống trần gian. Nhưng thực ra, Người đã lên Đền thờ ít là 5 lần quan trọng: Lần 1 khi mới sinh được 40 ngày (x. Lc 2,22-24). Lần 2 năm 12 tuổi, trẻ Giê-su theo cha mẹ lên Đền thờ (x. Lc 2,42). Lần 3,4,5: Trong gần 3 năm rao giảng Tin Mừng, mỗi năm Đức Giê-su đều lên Đền thờ dự lễ Vượt Qua (x. Ga 2,13; 5,1; 12,12), và vào nhiều lễ khác (x. Ga 7,10.14; 10,22-23).
– HỎI 2: Tại sao Người không cưỡi ngựa mà lại dùng lừa ?
ĐÁP: Đức Giê-su ngồi trên lừa con chưa mang ách và chưa ai cưỡi cho thấy Người là Đấng Thiên Sai. Vì lừa mẹ ám chỉ dân Do thái đã từng mang ách của Luật Mô-sê (x. Cv 15,10), còn lừa con ám chỉ dân ngoại chưa từng mang ách, giờ đây sẽ được mang ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Đức Ki-tô (x. Mt 11,29-30). Người cưỡi trên mình lừa thay ngựa để nói lên sự khiêm tốn và hiếu hòa của Vua Thiên Sai. Bên Do thái, các bậc vua chúa quan quyền thường dùng lừa thay vì dùng ngựa. Như hoàng tử Áp-sa-lon đã chết thảm khi đang cưỡi lừa (x. 2 Sm 18,9).
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5).
- CÂU CHUYỆN:
1) ĐƯỜNG CỨU ĐỘ “QUA ĐAU KHỔ VÀO TRONG VINH QUANG” CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
Vào một ngày Chúa Nhật nọ, BOB lái xe đưa vợ đi mua sắm một số đồ cần dùng. Hai vợ chồng bàn nhau vào một tiệm cầm đồ bình dân để tìm mua hàng rẻ. Bà chủ tiệm chỉ cho họ một số hàng quá hạn cần thanh lý. Bà vợ của BOB cầm lên xem một cây Thánh giá đã cũ, rồi ghé tai chồng nói nhỏ: “Đây là cây Thánh giá bằng bạc đắt tiền mà sao bà chủ tiệm lại để giữa các món hàng rẻ tiền này ?” Sau đó, hai vợ chồng đã mua được cây Thánh giá ấy với giá chỉ một đôla ! Về đến nhà, BOB liền mang cây Thánh giá ra lau chùi sạch sẽ. Một lát sau, cây Thánh giá cũ kia đã trở nên bóng lộn và giá trị đã tăng lên cả trăm đôla ! Rồi BOB trân trọng đặt cây Thánh giá kia lên bàn. Sau đó cậu con trai của BOB đi học giáo lý về. Cậu chăm chú nhìn cây Thánh giá và tự nhiên hai giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má. BOB rất ngạc nhiên trước thái độ của con trai và hỏi cậu nguyên nhân tại sao khóc như thế ? Bấy giờ cậu bé trả lời như sau: “Thưa ba, hôm nay ở nhà thờ con học giáo lý về cây Thánh giá của Chúa Giê-su. Con biết Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại, nên đã sẵn lòng chịu chết trên cây Thánh giá, để đền tội thay cho chúng ta. Vì thế khi nhìn thấy cây Thánh giá này, con liền nghĩ đến tình thưong của Chúa thật quá lớn lao, và dù con đã cố kìm nén lại mà tự nhiên nước mắt cứ chảy ra !”.
2) MỖI NGƯỜI CHÚNG TA ĐỀU THAM PHẦN VÀO VIỆC ĐÓNG ĐANH ĐỨC GIÊ-SU:
Danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đã để lại nhiều bức tranh nổi tiếng, trong đó nổi tiếng nhất là bức tranh “Ba cây thập giá”.
Chiêm ngưỡng tác phẩm, hầu như ai cũng chú ý vào ba cây thập giá ở trung tâm: giữa hai cây thập giá của hai tên gian phi, thập giá của Chúa Giê-su đã nổi bật. Dưới chân thập giá là một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ sự hận thù ganh ghét… tác giả như muốn nói rằng: mọi người đều tham phần vào việc đóng đinh Chúa Giê-su trên cây thập giá.
Khi quan sát đám đông, người ta thấy một gương mặt dường như bị mất hút trong bóng tối, nhưng chỉ cần một vài nét cũng đủ để các nhà chuyên môn nhận ra đó là khuôn mặt của tác giả bức tranh là danh hoạ Rembrandt.
Tại sao giữa đám đông đằng đằng sát khí thảm sát Chúa Giê-su, mà Rembrandt lại chen thêm khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất có lẽ là do ý thức về tội lỗi của ông. Rembrandt như muốn thú nhận rằng: Chính ông do tội lỗi của mình cũng đã cùng với mọi người khác tham phần vào việc hành hạ và treo Chúa Giê-su trên cây thập giá.
3) TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊ-SU TRỔI VƯỢT HƠN TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI ĐỜI:
Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta xem ra còn quyến luyến với tình cảm gia đình nên nói với đạo sĩ: “Vợ con của con rất thương yêu con, nên chắc sẽ không bằng lòng cho con thoát tục theo thầy đâu”.
Nghe vậy, vị đạo sĩ muốn chứng minh cho anh chàng biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ năng chết giả. Sau khi thực tập thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy về nhà áp dụng kỹ thuật chết giả này. Quả thật, anh ta đã áp dụng tuyệt vời bài học chết giả bằng việc nhắm mắt xuôi tay và ngừng thở, nhưng vẫn nghe được tiếng khóc than của vợ con và người thân.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng tang quyến. Sau giây phút tưởng niệm người quá cố, ông bảo với vợ con đang khóc thương người thân mới chết như sau: “Tôi có bí quyết để cứu sống anh này, nếu có ai đó sẵn sàng chết thế cho anh thì anh sẽ sống lại”.
Bấy giờ anh chàng giả chết rất ngạc nhiên khi nghe từng người trong gia đình anh nêu ra các lý do để từ chối chết thế cho anh. Sau cùng anh lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe người vợ nghĩa thiết của anh đã tóm lại quyết định của mọi người như sau: “Tôi nghĩ là không ai đồng ý chết thay cho chồng tôi đâu. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể sống được ! “.
- SUY NIỆM:
1) ĐẠO CÔNG GIÁO LÀ ĐƯỜNG VÀO VINH QUANG NGANG QUA THẬP GIÁ:
Người tín hữu Công giáo là người chấp nhận đi trên Con Đường của Chúa Giê-su là “Sự Thật và là Sự Sống”. Là đòi phải bỏ đi ý riêng của mình để vâng theo ý Thiên Chúa muốn như lời cầu của Chúa Giê-su với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu được, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng đừng theo ý con mà xin vâng ý Cha”, và như Người đã dạy các môn đệ: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”. Mỗi người tín hữu chúng ta cần ý thức rằng: Đi Con Đường Giê-su không được dừng lại trong cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem với cành lá, quần áo trải thảm trên đường, và với đám đông hoan hô… nhưng phải trung thành theo Chúa trên đường thập giá, kết thúc trên Núi Sọ, chịu chết ô nhục giữa hai tên trộm cướp như một kẻ đại gian đại ác.
– Đường lên Giê-ru-sa-lem mọi người đều đi theo Chúa, đều là môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội Chúa như Giu-đa bán Thầy, Phê-rô chối bỏ Thầy. Còn những người khác thì hèn nhất bỏ trốn…
2) TÔN VINH CHÚA GIÊ-SU LÀ VUA THIÊN SAI:
– Bài Tin Mừng khi rước lá thuật lại việc Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem như một vị Vua Thiên Sai, được dân chúng theo sau hoan hô như đón mừng một ông vua khải hoàn vào thành, hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Gia-ca-ri-a. Vào thời Đức Giê-su, nhiều người Do thái đang chờ mong Đấng Thiên Sai đến để đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi nước Do thái và thiết lập một Triều Đại Mới, giống như triều đại vua Đa-vít và vua Sa-lô-mon xưa. Nhưng thực ra sứ mệnh của Đức Giê-su không phải như dân Do thái đang trông đợi. Người là Đấng Thiên Sai nhưng là một ông Vua “Mục Tử tốt lành, hiền hậu và khiêm nhường”. Người đã không xưng vương trong cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, nhưng xưng mình là Vua trước mặt Tổng Trấn Phi-la-tô, khi hai tay đang bị trói, thân thể bị đòn đánh tan nát không còn hình tượng người như trước, khi phải đứng trước tòa án như một tội nhân. Danh hiệu Vua của Chúa Giê-su chỉ được ghi bằng dòng chữ viết tắt “INRI”, nghĩa là: “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái”, khi bị treo trên cây thập giá.
– Đức Giê-su chính là Vua nhưng không phải như một ông Vua trần tục, đòi người khác phải hầu hạ mình, nhưng là ông Vua Mục Tử Tốt Lành, hiền hậu và khiêm nhường:
+ Người biết đàn chiên, yêu thương mọi con chiên và chăm sóc từng con chiên một, nhất là đi tìm kiếm những con đi hoang, băng bó những con bị thương tích, âu yếm vác chúng trên vai để đưa về đàn. Người yêu thương đàn chiên Hội Thánh và yêu đến tột cùng, nên đã thiết lập bí tích Thánh Thể để ở với Hội Thánh mãi mãi và trở nên của ăn của uống nuôi dưỡng Hội Thánh. Người nêu gương khiêm nhường cho các tín hữu chúng ta, để mời gọi chúng ta hãy học nơi Người sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
+ Người là Vua không ngồi trên ngựa chiến và ham mê quyền lực, đòi người khác hầu hạ, nhưng ngồi trên con lừa khải hoàn vào thành Gie-ru-sa-lem. Người đến không nhằm kết án và trừng phạt tội nhân, nhưng để yêu thương, sẵn sàng thứ tha cho những tội nhân thực lòng sám hối ăn năn. Người là Vua Mục Tử chiến đấu với sói dữ để bảo vệ đàn chiên, sẵn sàng chịu chết để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Còn chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ làm gì để đáp lại tình thương vô biên của Vua Giê-su?
3) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ CỦA VUA GIÊ-SU:
Một số việc các tín hữu chúng ta nên thực hiện để trở thành môn đệ của Chúa Giê-su và xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Trời đời sau:
+ Luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha: Khi gặp rủi ro, bệnh tật và những điều trái ý cực lòng, chúng ta hãy vâng theo ý Chúa Cha. Tránh đi coi bói toán, tin vào bùa phép và các thứ mê tín khác… Hãy xin Chúa thêm sức mạnh giúp chúng ta chấp nhận những đau khổ không thể tránh khỏi, coi đau khổ gặp phải như phương thế đền tội mình và góp phần cứu rỗi anh em.
+ Siêng năng cầu nguyện: Lý do Tông đồ Phê-rô sa ngã và hèn nhát chối Thầy ba lần là vì đã quá tự tin vào sức riêng hơn là tin cậy vào ơn Chúa giúp, đã ăn uống no say nên dễ chiều theo tính mê xác thịt, nhất là đã không chịu tỉnh thức và cầu nguyện như Thầy.
+ Tránh cố tình phạm tội như Giu-đa, vì sẽ trở thành cứng lòng và bị Chúa Giê-su trách: “Khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn”.
+ Sẵn sàng tha thứ cho những kẻ có lỗi với mình, như Chúa đã tha thứ cho ông Phê-rô bằng ánh mắt nhắc nhở sau khi ông đã phạm tội chối Thầy ba lần; Hãy cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ thù ghét làm hại mình noi gương Người đã xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm khốn mình, vì họ không biết việc họ làm.
+ Luôn giữ thái độ bình tĩnh và dùng tình thương hoán cải kẻ thù, noi gương Chúa Giê-su đã tỏ thái độ lịch sự, tế nhị khi môn đệ Giu-đa đến hôn mặt để nộp Người cho kẻ thù.
+ Kiên nhẫn chịu đựng khi bị khích bác, noi gương Chúa Giê-su đã im lặng chịu đựng trước những lời hò hét đả đảo của đám đông cuồng nộ.
+ Hãy có lòng sám hối và tin yêu Chúa noi gương kẻ trộm lành trên cây thập tự. Anh đã trách bạn rằng: “Mi chịu cùng một án, mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, bị như thế này là đích đáng, vì xứng với tội ta đã làm. Còn ông Giê-su này đâu có làm điều gì xấu?” Rồi anh quay sang cầu xin Chúa Giê-su: “Lạy ông Giê-su. Khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng”. Chúa Giê-su đã phán: “Ta bảo thật. Ngay hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta”.
+ Sau cùng, mỗi người chúng ta cần bỏ đi lòng ganh tỵ những ai hơn mình, để tránh phạm tội ác như các đầu mục dân Do Thái đã tìm giết Chúa Giê-su do lòng ganh ghét, đố kỵ với sự thành công của Người.
- THẢO LUẬN:
Trước đau khổ thập giá gặp phải do bản thân, người khác và do hoàn cảnh tự nhiên gây ra, chúng ta phải ứng xử thế nào để thể hiện đức tin vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su?
- NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong những ngày Tuần Thánh này: Vì Chúa đã lấy thịt mình mà nuôi dưỡng chúng con, xin giúp chúng con năng nhớ đến những người nghèo khó để nhường cơm xẻ áo cho họ. Vì Chúa đã xao xuyến buồn sầu trong vườn Cây Dầu, xin giúp chúng con sẵn lòng chấp nhận chén đắng gặp phải trong cuộc sống. Vì Chúa đã bị kết án bất công, xin giúp chúng con dám lên tiếng bênh vực công lý. Vì Chúa đã chịu xỉ nhục nhạo cười, xin giúp chúng con biết nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân. Vì Chúa đã vác cây thập giá nặng nề, xin giúp những ai đang đau khổ trên giường bệnh, biết sẵn sàng vác Thánh giá mà theo chân Chúa. Vì Chúa đã bị lột áo và chịu đóng đinh tay chân vào thập giá, xin giúp chúng con biết đóng đinh tính xác thịt mình vào thập giá Chúa. Vì Chúa đã giang tay chịu chết trên thập giá, xin giúp chúng con biết luôn cầu nguyện điều tốt cho tha nhân. Vì Chúa đã phục sinh vinh quang, xin cho chúng con biết đón nhận mọi sự xảy đến cho mình với niềm cậy trông phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa… Nhờ đó, sau này chúng con hy vọng sẽ được tham phần vào hạnh phúc với Chúa trong Nước Trời muôn đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.