Lời Chúa Năm A CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG

LỄ HIỆN XUỐNG

Lời Chúa: Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23

 

Mục lục

1. “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần…”  (ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)

2.  Ra đi tha thứ  (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Tặng Phẩm Chúa Thánh Thần (Lm.Jos Tạ Duy Tuyền)

4. Lên đường theo sự thúc đầy của Thánh Thần    (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, GP. Xuân Lộc)

5. Hơi ấm bình an  (Trầm Thiên Thu)

6. Ngôn ngữ toàn cầu.  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Chúa Thánh Thần  (Lm. Đaminh Xuân Trường, GP. Bắc Ninh)

8. Chúa Thánh Thần là Đấng Tác Sinh  (Jos. Vinc. Ngọc Biển) 

 



CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN…”

Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.

Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.

Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.

Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.

Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.

Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương”. Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.

Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.

Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô”. Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.

Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết”. Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”. Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.

Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.

Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.

Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ… Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.

Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.

Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…” Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành”. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.

Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.

Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.

Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.”

Về mục lục

RA ĐI THA THỨ

Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Hôm nay, Chúa Giêsu tóm tắt sứ mạng hành động đó qua 2 nhiệm vụ: Ra đi và Tha thứ.

Nhiệm vụ thứ nhất mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là RA ĐI: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nhận lãnh Chúa Thánh Thần là được sai đi. Chúa Thánh Thần là sức mạnh hành động. Người không thể bị giam hãm trong những căn phòng đóng kín cửa. Người không ưa thích những tâm hồn khép kín trong ủ rũ điêu tàn. Người đến đâu là mở tung cửa nhà ra đến đấy. Mở ra để đón lấy những luồn gió mới tươi mát. Mở ra để đón nhận mọi người đến với mình. Và nhất là mở ra để mình đến với mọi người. Một cuộc sống không giao tiếp sẽ trở nên nghèo nàn, tàn lụi. Một tâm hồn chỉ quy hướng về bản thân sẽ chẳng khác một vũng ao tù, ô nhiễm. Ra đi sẽ giúp ta nên phong phú, mạnh mẽ. Ra đi không phải là lang thang không mục đích, nhưng là đi đến những địa chỉ Thánh Thần muốn gửi ta đến. Những địa chỉ Thánh Thần muốn ta đến đó là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Người sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Người sẽ củng cố những tâm hồn nhút nhát. Người sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Người sẽ đổ tràn vào hồn ta nguồn nhựa sống mới giúp ta hăng hái lên đường.

Nhiệm vụ thứ hai mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là THA THỨ: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Tha thứ, hoà giải luôn là một vấn đề lớn của thế giới. Trên thế giới, những cuộc chiến tranh, chia rẽ, xung khắc xảy ra hầu như hằng ngày. Con người là bất toàn, nên sống chung là có bất đồng, xung khắc. Nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì có lẽ cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Người ta không thể sống một mình. Mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần, ở đây, ta phải nhìn vào Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô như tấm gương sáng chói. Người là tấm gương sáng về sự ra đi. Cuộc đời Người là một cuộc ra đi không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu, nhưng Người vẫn lên đường đi đến với mọi dân tộc, mọi đất nước. Người tiếp xúc với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chính kiến, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ. Người đi đến với cả những kẻ chống đối, bất hoà và thù nghịch với Người. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh, Người đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.

Ta hãy biết noi gương Đức Thánh Cha. Hãy biết ra đi, không chỉ là đi hành hương viếng nhà thờ để lãnh ơn toàn xá, nhưng còn là ra đi đến với những người bé nhỏ, nghèo hèn, những người bị bỏ rơi, những người kém may mắn ở đời, những người ta không ưa thích, những người chống đối ta, cả những người làm hại ta nữa. Nhất là hãy gieo rắc sự tha thứ. Tha thứ cho anh em để anh em cũng tha thứ cho ta, để chúng ta xứng đáng trở thành con Thiên Chúa. Đức Chúa Thánh Thần muốn đổi mới Giáo Hội. Nhưng việc đổi mới phải bắt đầu từ mỗi tâm hồn. Đức Chúa Thánh Thần sẽ canh tân bộ mặt thế giới, nhưng việc canh tân phải khởi đi từ mỗi con người. Ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhân ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Người.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới tâm hồn con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Đức Chúa Thánh Thần mời gọi bạn ra đi đến với người khác. Bạn có thường đi thăm viếng những người nghèo hèn, nhất là những người bạn không có cảm tình không?

2- Bạn có muốn tha thứ, làm hoà với người khác không? Bạn đã có cố gắng nào để làm hoà trong Năm Thánh?

3- Bạn nghĩ gì về việc Đức Thánh Cha xin lỗi?

4- Bạn có sẵn sàng để Đức Chúa Thánh Thần biến đổi bạn không?

Về mục lục

TẶNG PHẨM CHÚA THÁNH THẦN

Hãng tin Catholic News Service cho biết : Một trong rất nhiều khoảnh khắc thu hút sự chú ý của báo giới là lúc trao đổi quà lưu niệm giữa ĐTC Phanxicô và tổng thống Obama.

Tổng thống Mỹ tặng ĐTC một hộp đầy hạt giống các loại cây và rau được trồng  khu vườn của Nhà Trắng.

Ngoài ra, tổng thống Mỹ còn chuyển tới ĐTC món quà của tổ chức Thomas Jefferson’s Monticello. Đó là số hạt giống đủ để sản xuất vài tấn sản phẩm. Quà này sẽ được ĐTC giao lại cho bất kỳ tổ chức nhân đạo nào mà ĐTC chọn.

“Mòn quà là ghi nhận những nỗ lực của ĐTC khi gieo trồng những hạt giống hòa bình cho các thế hệ tương lai”. Phát ngôn viên Tòa Thánh cho biết như vậy.

ĐTC tặng lại tổng thống hai huy chương lớn bằng đồng, có hình một thiên thần- biểu tượng cho sự đoàn kết và hòa binh. “Vị thiên thân đang ôm ấp và bảo vệ trái đất trước sự lấn tới của con quái thú”. Vatican cho biết như vậy.

Chúa Giê-su cũng tặng cho nhân loại một quà tặng vô giá là Chúa Thánh Thần. Ngài chính là sứ giả của hòa bình, của hiệp nhất yêu thương. Ngài là biểu tượng của hòa bình. Ngài là hạt giống của hòa bình được gieo vào nhân gian.

Chúa Thánh Thần là món quà vô giá vì Ngài là chính Chúa Ngôi Ba, là một trong Ba Ngôi hằng có đời đời.  Ngài hiện diện sống động trong hoàn vũ, trong mọi công trình tạo dựng đều có sự tác động của Ngài. Ngài cũng trở nên sống động nơi mỗi người nếu biết đón nhận Ngài và để cho Ngài hoạt động theo chương trình của Ngài.

Chúa Thánh Thần được ban cho Giáo Hội. Giáo Hội thông ban Chúa Thánh Thần đến cho các tín hữu. Các tín hữu có bổn phận làm cho ơn ban là Chúa Thánh Thần được sinh hoa kết trái trong chính đời sống hằng ngày của mình. Mỗi người tín hữu đều được lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong bí tích Rửa Tội và được lãnh nhận một cách tròn đầy qua bí tích Thêm sức. Nhờ đó mỗi người sẽ được Chúa Thánh Thần tác động trở nên chứng nhân cho Tin mừng.

Trong công trình tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp là nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Trong việc khai sinh Hội Thánh cũng nhờ Chúa Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ nên một con người mới, có khả năng canh tân thế giới. Chính nhờ Chúa Thánh Thần đã thổi tan những sợ hãi nơi các môn đệ để các ngài dấn thân rao giảng Tin mừng.

Thực vậy, các tông đồ là những người yếu đuối, đầy bất toàn, thế nhưng nhờ ơn Chúa Thánh Thần các ngài trở nên mạnh mẽ, can trường. Các ngài còn trở nên tác nhân chính để canh tân bộ mặt trái đất. Thử hỏi, nếu không có ơn Chúa Thánh Thần làm sao các tông đồ có thể chu toàn sứ vụ Chúa trao trong thời kỳ bách hại đầy nguy nan. Có những cuộc bách hại đẫm máu nhưng các ngài vẫn xác tín: “Máu của các thánh tử đạo sẽ trổ sinh muôn vàn các tín hữu”. Các ngài đã vượt qua nỗi sợ hãi để can trường làm chứng cho Tin mừng. Nhất là nhờ Chúa Thần Thần đã bù đắp những khiếm khuyết bất toàn nơi các Tông đồ để các ngài có đủ năng lực chu toàn sứ vụ Chúa Giê-su đã trao.

Hôm nay, mừng kính Chúa Thánh Thần là dịp nhắc nhở chúng ta về hồng ân cao quý này. Hãy biết đón nhận Chúa Thánh Thần. Hãy để Chúa Thánh Thần canh tân đổi mới cuộc đời chúng ta. Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng canh tân bộ mặt trái đất. Hãy cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để đổi mới trần gian. Ước gì mổi người chúng ta đều được Chúa Thánh Thần thánh hóa thành con cái Chúa thì cũng được Chúa Thánh Thần thúc đẩy ra đi loan báo tin mừng. Ước gì chúng ta cũng trở thành chứng nhân cho thế giới về tình yêu, sự hiệp nhất, bình an mà Chúa Thánh Thần sẽ mang đến cho trần gian. Amen

Về mục lục


LÊN ĐƯỜNG THEO SỰ THÚC ĐẨY CỦA THÁNH THẦN

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội từ những ngày đầu tiên cho đến nay, Giáo Hội của Đức Kitô đã trải qua biết bao thăng trầm, có những lúc mạnh mẽ đầy tràn sức sống và có sức lan tỏa đến các dân tộc, cũng có lúc tưởng rằng Giáo Hội như rơi xuống tận đáy vực thẳm của suy thoái vào thời Trung cổ khi các tệ nạn và lối sống trần thế chi phối Giáo Hội. Song, trải qua hơn 2000 năm, Giáo Hội đã vượt qua được những giai đoạn đen tối ấy, và còn phát triển vững mạnh, đó là nhờ sức mạnh và quyền năng của Chúa Thành Thần đã giúp Giáo Hội không ngừng sám hối và canh tân. Cũng vậy, vào những thế kỷ 18 – 20, Giáo Hội như bị hụt hơi trước sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, và sự cám dỗ mạnh mẽ của xã hội hiện đại, thì một lần nữa, với ơn Chúa Thánh Thần, Công Đồng Vatican thứ II như là một món quà của Chúa Thánh Thần được ban tặng cho Giáo Hội, để Giáo Hội như thay da đổi thịt trong thế giới mới này. Cho đến ngày nay, mặc dù có những đánh giá bi quan về đời sống của Giáo Hội, nhưng chúng ta cũng có thể thấy Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động mạnh mẽ không ngơi nghỉ trong Giáo Hội, từ các vị chủ chăn đến đời sống của các cộng đoàn, các nhóm tông đồ giáo dân trong Giáo Hội, giúp Giáo Hội có một sức sống và dấn thân mạnh mẽ hơn trong công cuộc đem Tin Mừng cho thế giới.

Các bài đọc trong ngày lễ hôm nay cho thấy Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa ban tặng, Ngài chính là Đấng canh tân đổi mới, ban sức sống mới cho Giáo Hội và cho nhân loại. Câu chuyện thuật lại trong sách Tông đồ Công vụ cho thấy các tông đồ sau khi chia tay với Chúa Giêsu khi Ngài lên trời, các ông đã cùng nhau chờ đợi lời hứa ban Thánh Thần. Mặc dù tin tưởng vào mệnh lệnh của Chúa, song các tông đồ dường như vẫn chưa thoát ra khỏi sự sợ hãi nhút nhát, các ông ở trong nhà và đóng chặt cửa lại. Lúc đó một luồng gió mạnh lùa vào nhà, mở tung tất cả các cánh cửa, và mở toang cánh cửa tâm hồn, rồi có những lưỡi như thể bằng lửa đậu xuống trên đầu các ông, và các ông được đầy tràn Thánh Thần. Hình ảnh này gợi nhớ lại hình ảnh ngày xưa Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê trên núi Sinai trong tiếng sấm và tiếng gió rung chuyển, Thiên Chúa đã ban cho dân Israel lề luật của Chúa, thì hôm nay, với sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần, Thánh Kinh muốn cho thấy Chúa Thánh Thần chính là Đấng canh tân lề luật, là Đấng làm cho luật của Tin Mừng trở nên luật của dân mới chính là chúng ta, và là sức mạnh thúc đẩy chúng ta vượt qua sợ hãi ngại ngần, để đem Chúa đến cho thế giới.

Một chi tiết khác Bài Đọc một thuật lại : sau khi lãnh nhận Thánh Thần, các tông đồ được một ơn đặc biệt, đó là ơn ngôn ngữ, nói các thứ tiếng khác nhau mà người nghe vẫn có thể hiểu, các tông đồ ngay lập tức đứng lên rao giảng về Chúa Giêsu cho mọi người khiến họ vô cùng ngạc nhiên về sự thông thái của các ông, và ngay hôm đó, đã có hàng ngàn người tin theo Chúa Giêsu. Điều này cho thấy, nếu như ngày xưa vì sự kiêu ngạo của con cháu ông Noe khiến cho người ta không còn hiểu nhau nữa và họ bị chia rẽ, thì nay, Chúa Thánh Thần là Đấng quy tụ muôn dân nên một, để từ đây họ không còn phân biệt ngôn ngữ hay chủng tộc, tất cả gắn bó với nhau bằng tình yêu của Chúa Kitô, và đều nói chung một ngôn ngữ của Tin Mừng, để mọi người từ đây sẽ là chứng nhân của Đức Kitô và tình yêu của Ngài cho thế giới.

Thực ra các tông đồ đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngay từ ngày Chúa Phục sinh hiện ra với họ, nhưng hôm nay, có thể nói rằng, đó là ngày Giáo Hội chính thức khai trương và đánh dấu một chặng đường mới trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Chúng ta còn nhớ vào chiều ngày Phục sinh, khi các tông đồ còn bị cái chết của Chúa Giêsu ám ảnh, họ sống trong sợ hãi, lúc đó Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện ra ban cho các ông sự bình an, và Ngài thổi hơi ban cho các ông sức sống của Chúa Thánh Thần. Cũng liền sau đó, Chúa cũng trao cho các ông một sứ mạng: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em… Anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, anh em cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại. Điều này cho thấy sứ mạng của các tông đồ cũng là sứ mạng phát xuất từ Thiên Chúa Cha, sứ mạng này là đem tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đến cho thế giới. Sống trong một thế giới gian dối hận thù, thì các môn đệ của Chúa sẽ phải là những người xây dựng hòa bình và tha thứ, sống trong một thế giới bất công và lừa lọc, thì các môn đệ Chúa sẽ phải là những người loan truyền chân lý cứu độ và vun đắp sự công bằng và công lý.

Đó cũng là điều mà Thánh Phaolô muốn chỉ dạy cho chúng ta : Không ai có thể nói rằng Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí. Điều đó có nghĩa rằng để nhận biết Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài, để đón nhận và tôn vinh Đức Giêsu là Chúa, thì cần phải có ơn của Chúa Thánh Thần soi sáng. Chính Thánh Thần mở lòng chúng ta, uốn nắn, chuẩn bị tâm hồn để chúng ta có thể tin và đón nhận Đức Giêsu làm chủ cuộc đời của mình. Cũng chính Chúa Thánh Thần làm cho đời sống các tín hữu trở nên phong phú, để mỗi người dù có khác nhau về màu da hay chủng tộc ngôn ngữ, thì chúng vẫn có chung một Thiên Chúa, một Thánh Thần và vẫn có chung một người mẹ là Giáo Hội. Vì tất cả chúng ta dù có khác biệt về địa vị hay tuổi tác, dù khác biệt về chủng tộc, thì tất cả đều như những chi thể làm nên một thân thể duy nhất của Chúa Kitô là Giáo Hội, cùng nhau loan truyền Tin Mừng của Chúa Kitô và đem tình thương cứu độ của Ngài đến tận cùng cõi đất.

Thưa quý OBACE, mừng lễ Chúa Thánh Thần, phải là dịp để chúng ta nhận ra sự hiện diện soi sáng của Thánh Thần trong cuộc đời và còn phải làm mới, làm sống động ơn Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã đón nhận trong ngày lãnh Bí tích Rửa tội, đặc biệt trong ngày lãnh Bí tích Thêm sức.

Thực ra Chúa Thánh Thần vẫn đang hiện diện, đang hoạt động mạnh mẽ trong đời sống của Giáo Hội cũng như trong đời sống của mỗi tín hữu. Vì nhờ Thánh Thần, chúng ta mới có thể yêu mến, tin và đón nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhờ có Thánh Thần chúng ta mới có thể dâng lên Thiên Chúa việc tôn thờ và cầu nguyện đẹp lòng Chúa, nhưng cụ thể hơn hết, Chúa Thánh Thần vẫn soi sáng hướng dẫn cuộc đời của mỗi người. Ơn soi sáng ấy giúp ta giải gỡ những khó khăn, giúp chúng ta biết sống cho phải đạo, nhưng nhiều khi chúng ta lại coi những việc soi sáng ấy chỉ như là sự may mắn, mà không nhận ra sự can thiệp của Thánh Thấn. Thánh Thần là Đấng canh tân đổi mới, là đấng sửa lại mọi sự trong ngoài chúng ta, vì thế chính Ngài giúp chúng ta từ bỏ quá khứ tội lỗi, cùng những thói quen nếp sống không tốt, để sống và thực hành nếp sống của người tín hữu.

Lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trong ngày Thêm Sức, đồng thời chúng ta trở thành những con người trưởng thành trong đức tin, lãnh nhận nhiệm vụ trở thành chiến sĩ, sứ giả loan báo Tin Mừng của Chúa trong đời sống thường ngày. Chúng ta không thể để uổng phí ơn của Thánh Thần, trái lại phải sử dụng tối đa Ơn Thánh Thần, như nguồn trợ lực, như vũ khí thiêng liêng để sống chu toàn ơn gọi làm người Công Giáo, để chiến đấu với những lôi kéo của ma quỷ, dục vọng thế gian, và những lối sống tầm thường của nó.

Một cám dỗ ngày nay người tín hữu thường gặp, đó là người ta chấp nhận một lối sống tầm thường, không cố gắng để vươn lên. Lối sống tầm thường này kéo người tín hữu trôi theo dòng chảy của thế gian, sống một cuộc sống không cố gắng, không vươn lên, không mục đích, để mình trôi dạt theo dòng chảy của xã hội. Cuộc sống tầm thương nó còn khiến người tín hữu chấp nhận thỏa hiệp, bắt tay với sự dữ, sự ác, bắt tay với gian dối để đạt mục đích, đặc biệt nhiều bạn trẻ đang bị lôi kéo bởi cám dỗ này.

Để thoát ra khỏi dòng chảy này, chúng ta đã có ơn Sức Mạnh, Ơn Khôn Ngoan của Thánh Thần. Đừng sợ hãi, vì Thánh Thần hằng ban sức mạnh cho chúng ta, với sức mạnh vô địch của Thánh Thần, chúng ta sẽ không sợ nghịch cảnh nào, với Ơn Soi sáng và Khôn Ngoan, Thánh Thần sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm gì và làm thế nào để chúng ta có thể sống đúng với tư cách là con Thiên Chúa con Hội Thánh. Cũng đừng quên Ơn Đạo Đức và Ơn Kính Sợ Thiên Chúa, vì với ơn này, Thánh Thần giúp chúng ta trở nên những người con ngoan thảo của Thiên Chúa, luôn sống đẹp lòng Chúa.

Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Maria đã hiện diện cùng với các tông đồ để cầu nguyện và chờ đợi Thánh Thần, xin Mẹ cũng hiện diện bên chúng ta, giúp chúng ta noi gương Mẹ, mở rộng tâm hồn và sẵn sàng để cho Thánh Thần hoạt động và sử dụng cả con người chúng ta theo ý Chúa. Amen.

Về mục lục

HƠI ẤM BÌNH AN

Trước khi chịu khổ nạn, Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14:16-17a). Chúa hứa thì chắc chắn Chúa ban, nhưng bổn phận của chúng ta vẫn phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!”.
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, được tôn xưng với nhiều danh hiệu: Thần Khí Sự Thật, Thánh Linh, Thánh Thần, Linh Khí, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ, Đấng Thánh Hóa, Đấng Canh Tân,… Ngài xuất hiện qua hình chim bồ câu, lửa, nước, và gió.
Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, vì Ngài là Thần Khí Sự Sống. Ngài quan trọng đến nỗi mà Chúa Giêsu đã xác định: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” (Mc 3:29; Lc 12:10). Mọi tội đều được tha, nhưng tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì mãi mãi không được tha, nghĩa là “mắc tội đời đời”.
Nói tới Chúa Thánh Thần, chúng ta quen nhắc tới “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Chúa. Cách nói quen thuộc đó do quan niệm của Kinh Thánh cho rằng số 7 là con số kỳ diệu. Chúng ta cũng nói Chúa Thánh Thần có sứ vụ thánh hóa, Ngài luôn tác động trong mỗi người, và chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 3:16).
Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng trong cuộc đời của mỗi chúng ta, nhưng chúng ta lại thường xuyên quên lãng Ngài. Như lời nhắc nhở, trong các giờ phụng vụ, Giáo hội luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến và thánh hóa mọi sự ngay từ đầu để có hiệu quả đúng theo Ý Chúa.
Như lời Đức Kitô đã hứa trước khi Ngài về trời, khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2:1-4). Thật vậy, mỗi người đều có khả năng riêng, người được ơn này, kẻ được ơn khác, không ai giống ai, không ai là bất tài vô dụng. Đó là ơn Chúa Thánh Thần, nhưng ơn đó không phải để ích kỷ hoặc kiêu căng, mà là để làm vinh danh Thiên Chúa.
Tại Giê-ru-sa-lem lúc đó có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về, nhưng ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục lắm. Đó là hiện tượng “nói tiếng lạ”, nhưng ai cũng hiểu. Các tông đồ chỉ là những người ít học, làm đủ các ngành nghề, chẳng học ngoại ngữ bao giờ, thế mà nay thông minh đột xuất, nói ngoại ngữ như gió, họ thấy nhãn tiền chứ chẳng phải chỉ nghe đồn. Lạ quá chừng!
Các tông đồ “nói tiếng lạ” không phải để lòe bịp, khoe khoang hoặc ý đồ gì khác, mà chỉ “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11). Thấy và nghe vậy, ai cũng sửng sốt, có những người phân vân vì không hiểu như vậy nghĩa là gì, nhưng cũng có những người lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13).
Ngày nay cũng vậy, khi thấy “sự lạ” hoặc thấy người khác có “cái lạ” (theo nghĩa tích cực về tâm linh), có người khâm phục và tạ ơn Chúa, nhưng cũng có người gièm pha, chê trách, ghét bỏ,… Có thể họ không nói ra bằng lời, nhưng động thái của họ đã “bật mí” tâm địa của họ. Đây là phương diện cần lưu ý và cẩn tắc!
Ơn Chúa luôn chan hòa và kỳ diệu, chúng ta cầu nguyện mà không thấy “được như ý” nên chúng ta tưởng Chúa không ban, nhưng thực ra Ngài ban cho chúng ta cái khác có lợi cho chúng ta hơn, vì “Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự” (1 Ga 3:20). Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1 Cr 1:24 -25). Tất cả đều là hồng ân, do đó mà chúng ta phải biết tạ ơn, tự nhủ và thân thưa: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Trí óc phàm nhân chúng ta không thể đủ sức hiểu sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Tác giả Thánh Vịnh xác nhận: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24). Không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được trò trống gì, thậm chí là chết ngay lập tức. Thiên Chúa là sự sống, Thánh Thần là hơi thở, có Thiên Chúa thì chúng ta nên mới hoàn toàn như “sinh vật lạ”, nhưng chắc chắn rằng thiếu Thiên Chúa thì chúng ta không thể nào sống nổi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này. Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 104:29-31).
Ước gì mỗi chúng ta đều nhận thức sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa, đồng thời khả dĩ định hướng sống rạch ròi: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).
Các tông đồ là những người nhát đảm, sợ sệt, đã từng bị Thầy Giêsu trách là “kém tin” (Mt 6:30; Mt 14:31; Mt 16:8; Mt 17:20; Lc 12:28), nhưng sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên can đảm, mạnh dạn, dám ăn dám nói chứ không “bỏ của chạy lấy người” như trước. Đa số các ông đã tử đạo để minh chứng niềm tin vào Đức Kitô. Một Saolê hung hăng và tàn bạo bắt đạo Chúa đã trở thành một Phaolô “mềm như bún” và nhiệt thành rao truyền Đức Kitô sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Rất nhiều các thánh trong lịch sử Kitô giáo đã cho thấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi các ngài.
Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Cô-rin-tô: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa. Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” (1 Cr 12:3-7). Điều đó chứng tỏ sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã tác động: Người nhút nhát thành can đảm, người yếu đuối thành mạnh mẽ, người dốt nát thành thông minh, người khờ dại thành khôn ngoan,…
Thánh Phaolô căn dặn: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí” (1 Cr 12:12-13).
Vâng, Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng. Chúng ta hãy hiệp ý cầu xin với cả Giáo hội qua bài Ca Tiếp Liên: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Ðấng ban ân huệ, Ðấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!…”.
Quả thật, “nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội”, vì thế mà chúng ta phải không ngừng “xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường, ban cho ơn bảy nguồn, được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời” (Ca Tiếp Liên).
Được như thế thì thật diễm phúc cho chúng ta, vì chúng ta chỉ là phàm nhân cát bụi, tội lỗi ngập đầu. Chúng ta càng diễm phúc hơn vì dù chỉ là những tội nhân khốn kiếp mà được phục hồi cả “bộ ba” là nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền nhờ Máu và Nước cứu độ tuôn trào từ Ngồn Mạch Lòng Thương Xót từ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta được Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta và hứa ban hồng phúc trường sinh với Ngài trên Thiên Quốc, vì chính Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, muốn rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó (Ga 14:3). Đúng là còn hơn là diễm phúc hoặc đại phúc!
Chúa Giêsu về trời để dọn chỗ cho chúng ta (Ga 14:2), vì ích lợi của chúng ta (Ga 16:7), nhưng vì quá đỗi yêu thương chúng ta nên Ngài sợ chúng ta mồ côi (Ga 14:18), thế nên Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần ở hẳn trong mỗi chúng ta (Ga 14:16), và lời hứa đó được thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần, sau khi Chúa Giêsu về trời được 10 ngày.
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19). Một lời chúc tuyệt vời, vì đó là “hơi ấm” mà ai cũng cần, cả trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Không vui sao được vì Thầy đã sống lại đúng như Thầy đã nói trước. Tưởng Thầy chết là “chấm hết”, nào ngờ Thầy vẫn “nguyên si”. Sung sướng quá chừng!
Có lẽ các ông sướng rơn nên chả nói được gì. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21). Một hệ lụy tất yếu. Sướng thì sướng nhưng phải có trách nhiệm, và không được ích kỷ, nghĩa là phải chia sẻ niềm vui đó cho người khác.
Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23). Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiếp tục thể hiện Lòng Thương Xót một cách cụ thể: Bí tích Hòa giải. Đúng như Ngài đã từng bảo ông Phêrô khi ông hỏi Ngài về mức độ tha thứ: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22). Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa tình yêu, với Thánh Tâm ngùn ngụt Lửa Yêu, nên Ngài dạy chúng ta bao dung chứ đừng “bung dao”, phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi mình” (Mt 5:44). Như thế mới thực sự là thực hành Lòng Thương Xót và “mới được trở nên con cái của Chúa Cha” (Mt 5:45), nếu không thì chúng ta chẳng có công cán chi, chẳng hơn người thu thuế và người ngoại đạo (Mt 5:46-48).
Để có thể hành động đúng như Chúa Giêsu mong muốn thì chúng ta phải thực sự can đảm, muốn can đảm thì phải có ơn Chúa Thánh Thần, muốn có ơn Chúa Thánh Thần thì phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!”. Thật vậy, không có Thiên Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được (Ga 15:5).
Chúng ta được sai đi như chiên vào giữa bầy sói, vì thế chúng ta phải “khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16), tức là cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Thánh Phêrô đã căn dặn mỗi chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8).
Bồ câu hiền lành và thân thiện với mọi người, là biểu tượng hòa bình (hoặc bình an). Lửa có tính “nhiệt” (nóng, dương), nước có tính “hàn” (lạnh, âm). Âm dương hòa quyện Đất Trời. Gió làm hạ nhiệt. Lửa, gió và nước là những thứ rất mềm, nhưng lại “cứng” hơn mọi thứ khác, và không ai có thể cắt đứt được. Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi Ngài đã hành động thì không một sức mạnh nào có thể cưỡng lại. Ngoài ra, lửa có một đặc điểm khác là càng chia sẻ càng thêm nhiều, chứ không giảm bớt. Thật kỳ diệu!
Lạy Thiên Chúa, xin luôn luôn tuôn đổ nguồn ơn Chúa Thánh Thần để chúng con đủ sức hoàn thiện như Ngài mong muốn, nhờ đó chúng con mới có thể sống dồi dào, sống chứng nhân một cách sống động và hiệu quả. Xin Chúa ban “hơi ấm bình an” để chúng con trở nên khí cụ hòa bình ở mọi nơi và mọi lúc, xin ban Ngọn Lửa Thánh Thần để “thiêu đốt” và “uốn nắn” chúng con theo Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

Về mục lục

NGÔN NGỮ TOÀN CẦU

1. Câu chuyện Tháp Babel

Sách Sáng Thế 11,1-9 kể câu chuyện về Tháp Babel.

Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau: Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.

Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng đó, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.

Hình ảnh tháp Babel mượn từ các tháp Ziggurat miền Lưỡng Hà: tháp vuông, nhiều tầng, càng cao tầng nhỏ lại. Những tháp này xây trong khu vực đền thờ với mục đích tôn giáo là để bắt liên lạc với thần trên cao bằng dâng lễ vật và làm bệ để thần lên xuống với con người. Ngày nay còn có nhiều di tích về các tháp này. Tác giả Thánh kinh mượn hình ảnh các tháp Ziggurat để cắt nghĩa tại sao loài người lại chia rẽ và phân tán, từ đó dạy bài học tôn giáo. Babel bởi động từ balal (làm cho lộn xộn). Tác giả dùng hình ảnh xây tháp Babel để chỉ tội cộng đồng của con người, muốn dựa vào sức lực và tài năng của mình để chống lại Chúa, gạt bỏ Chúa mà tự quyết định cho mình. Trong Cựu ước, Babel là kinh đô của một đế quốc hùng mạnh tượng trưng cho sự kiêu căng.

2. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất

Một khi con người đã loại bỏ Chúa, tự nhiên chia rẽ và phân tán với đồng loại. Kiêu căng gây chia rẽ. Thiên Chúa là duy nhất và là giềng mối hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể được tái lập bởi và quanh Thiên Chúa. Ngày Hiên Xuống, Thánh Thần sẽ hiệp nhất nhân loại quanh Đức Kitô Phục Sinh (Cv 2,1-11). Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành. Thánh Thần là nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, gần nhau, và giúp Giáo Hội trở thành Giáo Hội của mọi dân tộc.

Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh. Bài đọc 1, sách Công vụ kể: Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội họp. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đậu xuống trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.

Trong thời gian lễ Ngũ Tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các Tông đồ nói tiếng của mình. Họ ngạc nhiên, sửng sốt, thán phục và bàn tán cùng nhau: Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa?

Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo mà mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Có được như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguồn sức sống mãnh liệt. Chúa Thánh Thần là sự trẻ trung của Giáo hội. Chúa Thánh Thần là năng lực đổi mới thế giới. Ngài như luồng gió cường tráng. Ngài như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động.

Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các Tông đồ, chúng ta nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần dùng đã liên kết và tạo nên sự cảm thông. Đó chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu. Thiếu vắng Ngài, thiếu vắng tác động của Ngài là thiếu vắng tình yêu, chúng ta không thể hiểu biết nhau, không thể xích lại gần nhau và không thể cảm thông với nhau. Khi đó hận thù sẽ bùng nổ.

Chương 17, Tin mừng Gioan là lời cầu nguyện đẹp nhất trong toàn bộ Kinh thánh mà Phụng vụ Lời Chúa đọc trong tuần lễ này, trong đó Chúa Giêsu với tư cách là Thượng tế, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người đã dâng Chúa Cha lời khấn nguyện. Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha tôn vinh Ngài qua cái chết và sự sống lại của Ngài. Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và cầu nguyện cho những ai tin vào Ngài được hiệp nhất trong yêu thương. Chúa Giêsu không cầu xin cho họ có sức mạnh, vì sức mạnh thường đưa con người vào nguy cơ ỷ lại chính mình, kiêu căng tự mãn. Chúa Giêsu cũng không cầu xin cho họ có quyền lực vì quyền lực dễ đưa con người vào hố sâu tham vọng, tham vọng thống trị, tham vọng giàu sang và nhiều tham vọng khác. Khi cầu nguyện cho Giáo hội, Chúa Giêsu không xin cho Giáo hội được phát triển bằng sức mạnh và quyền lực, nhưng Ngài chỉ xin cho tất cả được hiệp nhất trong Ngài và hiệp nhất với nhau, để Ngài ở đâu thì họ cũng được ở đó và để họ được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là thần Chân Lý và Sự Thật, gìn giữ Giáo hội trong tình thương, hiệp nhất Giáo hội trong Chân Lý và thánh hiến Giáo hội trong Sự Thật.

3. Ngôn ngữ tình yêu

Vào năm 1887, một người Ba Lan tên là Zamenhof, đã tạo ra và cổ động cho một thứ ngôn ngữ quốc tế. Ông ước mong mọi người có thể sử dụng ngôn ngữ ấy một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ quốc tế này đến nay vẫn giậm chân tại chỗ. Thế giới vẫn còn tràn ngập những hận thù và chiến tranh. Không đạt kết quả vì người ta không sử dụng thứ ngôn ngữ của tình yêu và không đặt tình yêu làm nền tảng cho mọi mối liên hệ.

Tình yêu chân chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Tình yêu là một thứ ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được. Tình yêu không chỉ được nói bằng lời, bằng tiếng. Tình yêu còn được nói bằng thái độ, bằng cử chỉ, bằng việc làm và bằng cả cuộc sống đong đầy tình bác ái huynh đệ.

Một ánh mắt thông cảm, một cử chỉ thân thiện, một việc làm giúp đỡ, ngôn ngữ tình yêu dễ hiểu dễ gần nhau. Ngôn ngữ này giúp con người hiểu được nhau và hiểu được chính Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu nên ai yêu thương thì gặp được Thiên Chúa.

Rất nhiều khi nhờ những hành động bác ái yêu thương mà những kẻ tội lỗi biết đường ăn năn trở về cùng Chúa. Người thời nay không còn tin vào những lý thuyết đẹp, những lời nói hay, những hứa hẹn xa vời thực tế. Những lý thuyết đẹp phải được kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời nói hay chỉ có giá trị khi đi đôi với những việc làm tốt. Vì thế, muốn làm chứng cho Chúa, người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời sống đạo gương mẫu không phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ. Nhưng nhất là phải gương mẫu trong cách ăn nết ở.

Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt chia sẽ câu chuyện thật cảm động: Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam ninh. Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là sau 20 năm hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình”. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình”. Nhờ tấm gương sống đạo của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa. Những anh em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.

Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, hiềm khích. Đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, nghi kị. Hãy nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Vì ngôn ngữ của tình yêu chính là ngôn ngữ tạo được sự cảm thông và bất cứ ai cũng có thể hiểu được.

Máy vi tính là phát minh hiện đại của con người. Máy cũng có một thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin và trao đổi liên lạc với nhau nhanh chóng.

Trong đời sống, con người dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việt Nam… cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay từ thuở sơ sinh ai cũng có, ai cũng biết. Đó là ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả mọi người đều hiểu được cả.

Ngôn ngữ tình yêu phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhạy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự sống một con người. Qua ngôn ngữ tình yêu, mối liên lạc tình người được xây dựng từ cha mẹ tới con cái, con người với nhau trong đời sống.

Ngôn ngữ tình yêu không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ Nho, chữ Thái lan, chữ Ả rập… cũng không bằng những dấu hiệu chương trình lý luận toán học như ngôn ngữ của máy vi tính. Ngôn ngữ tình yêu từ bẩm sinh đã nằm ẩn sâu trong trái tim tâm hồn mỗi người. Ai ai cũng có chương trình ngôn ngữ đó và đều có thể sử dụng được chương trình này.

Dù là tiếng mẹ đẻ, ta cũng cần phải học, phải mài giũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phải học cách sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm.

Những sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng gây ra. Cần phải điều chỉnh lại cách sử dụng sao cho đúng. Trong ngôn ngữ tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này sai lỗi là do con người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ tình yêu. Khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình hoặc là muốn sử dụng sai của riêng mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không còn truyền đi tín hiệu thông tin, không hiểu nhau được nữa.

Những sai lầm đó là do thiếu tình liên đới với nhau, do chỉ chú ý tìm quyền lợi riêng tư cho mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hòa và tình liên đới trong cuộc sống.

Ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các thánh Tông đồ đã tìm ra được ngôn ngữ chung cho cả nhân loại. Ngôn ngữ tình yêu do Chúa Thánh Thần mang đến và ghi khắc trong tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được Tin mừng ơn cứu độ của Chúa Giêsu và đến với nhau rồi cùng nhau tìm về với Thiên Chúa. Ngôn ngữ Thánh Thần kiến tạo một gia đình, mọi người là anh em con một Cha trên trời.

Chúa Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ này khác gì là “tiếng mẹ đẻ” của con người : ngôn ngữ tình yêu – ngôn ngữ của toàn cầu.

Kinh Thánh đã được dịch ra hơn hai ngàn ngôn ngữ. Chúng ta còn cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu, đó là ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu, để chúng con luôn nói với nhau bằng ngôn ngữ của Ngài, ngôn ngữ yêu thương và hiệp nhất. Amen.

Về mục lục

CHÚA THÁNH THẦN

Có một phóng viên đã đặt câu hỏi với một chuyên viên Kinh Thánh như sau: Nếu nhờ khoa học tiến bộ, người ta sáng chế ra được một máy quay phim ngược thời gian. Máy này có thể thu lại tất cả hình ảnh và lời giảng dạy của Chúa Giêsu cách đây hơn 2000 năm. Vậy bộ phim ấy có khả năng thay thế được bốn sách Tin Mừng hay không? Nhà chuyên viên trả lời: Không thể được, bởi vì đức tin không phải do mắt thấy tai nghe, nhưng là do ơn Chúa Thánh Thần tác động.

Thực vậy bọn biệt phái ngày xưa đã từng nhìn thấy Chúa, nghe lời Chúa giảng, chứng kiến những việc Chúa làm thế mà họ không những không tin mà còn thù ghét và cuối cùng đã đóng đinh Chúa vào thập giá. Còn các tông đồ mặc dù đã theo Chúa, nhưng cũng chỉ thực sự có đức tin và dám sống chết cho Ngài sau biến cố tử nạn và phục sinh nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động trong ngày lễ Ngũ Tuần. Vậy Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông đồ, Giáo Hội và người tín hữu như thế nào?

Trước hết Chúa Thánh Thần đổi mới các tông đồ. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và phán: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu nhắc lại công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa được diễn tả bằng hình ảnh: sau khi nắn đất sét thành người, Ngài đã thở hơi ban sự sống để nó trở thành người sống. Qua việc thở hơi trên các tông đồ, Chúa Giêsu muốn làm một cuộc sáng tạo mới. Ngài ban Chúa Thánh Thần để biến đổi các ông nên những con người mới, có đủ khả năng chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Sách Tông đồ công vụ cho hay trong ngày lễ Ngũ Tuần, người ta thấy một cơn gió lốc ùa vào nhà các tông đồ đang ở và có cái gì giống hình lưỡi của lửa xuất hiện trên đầu mọi người và lập tức các ông được đổi mới. Trước kia các ông u mê dốt nát thì nay các ông được thống suốt giáo lý của Chúa. Trước kia các ông nhát đảm sợ hãi thì nay các ông được can đảm, sẵn sàng rao giảng Tin Mừng, tuyên xưng đức tin và chấp nhận chịu khổ cực và chịu chết vì danh Đức Kitô.

Tiếp đến Chúa Thánh Thần đổi mới Giáo Hội. Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và không ngừng tác động để canh tân Giáo Hội tuỳ theo nhu cầu thời đại, chẳng hạn như Augustinô, Đôminicô, Phanxicô, Ignatio, Têrêsa… nhờ các ngài Giáo Hội vượt qua được những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất. Và gần đây hơn, Công đồng Vatican II cũng được coi là một lễ Hiện Xuống mới vì Công đồng này mà Giáo Hội có dịp nhìn lại mình để lau sạch những tì vết và bụi bặm do lịch sử để lại, đồng thời đổi mới Giáo Hội về nhiều phương diện để nhờ đó đi sát với Tin Mừng mà vẫn thích nghi với một thế giới không ngừng biến động và tiến bộ hơn.

Sau cùng Chúa Thánh Thần đổi mới mỗi người chúng ta. Thực vậy ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục tác động nơi các tín hữu, tuy âm thầm, nhưng không kém phần hậu quả. Vậy chúng ta phải làm gì?

Việc thứ nhất là hãy tạo cho mình một bầu khí thinh lặng nội tâm, tránh đi những lo toan thái quá về vật chất đời thường như cơm áo gạo tiền. Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa trước còn những sự khác, Ngài sẽ ban cho chúng ta sau. Việc thứ hai là phải chăm chỉ lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và tham dự nghi thức bẻ bánh, như hai môn đệ làng Emmaus ngày xưa. Việc thứ ba là phải đồng tâm nhất trí, chuyên tâm cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ trong đó có Đức Mẹ Chúa Giêsu và với những anh em của Ngài. Nhờ đó, mà cuộc đời và bản thân chúng ta mỗi ngày một đổi mới.

Về mục lục

CHÚA THÁNH THẦN LÀ ĐẤNG TÁC SINH

Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò của Ngài là Đấng soi sáng, thánh hóa, đổi mới, Đấng ban sự bình an, niềm vui, can đảm, khôn ngoan, lo liệu, hiểu biết, đạo đức, kính sợ Chúa…

Như vậy, Ngài là hồn sống, hơi thở của Giáo Hội. Không có Ngài, Giáo Hội như mất đi sức sống, sinh động và trở nên trống rống. Đức Thượng phụ Athenagoras, Giáo chủ Constantinople đã nói: “Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ.  Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo Hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”.

Để làm sáng tỏ vai trò của Chúa Thánh Thần, các bài đọc trong thánh lễ hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về Ngài.

  1. Vài trò của Chúa Thánh Thần qua ba bài đọc

Khởi đi từ bài đọc I trích trong sách Cv 2, 1-11, tác giả cho thấy: đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ vẫn đang tụ họp quanh Đức Maria để cầu nguyện liên lỉ và chờ mong điều Đức Giêsu đã hứa trước đó. Và, đúng như lời Đức Giêsu đã loan báo, Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa để hiện xuống trên Đức Mẹ và các môn đệ. Như một sự tác sinh, lập tức, tất cả được tràn đầy Thánh Thần.

Ngay sau đó, như một đặc ân của Chúa Thánh Thần, các môn đệ từ một người ít học, nhà quê, nhát đảm, sợ sệt, nay trở nên thông thái và nói được những tiếng mới lạ, khiến mọi người đổ về hành hương đền thờ Giêrusalem nhân dịp lễ Ngũ Tuần đều nghe các môn đệ nói được tiếng bản xứ của mình. Cứ thế, các ông tiếp tục can đảm, hăng say ra đi mọi nơi để loan báo và làm chứng về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại để cứu độ nhân loại.

Sang bài đọc II, 1Cr 12,3b-7.12-13, thánh Phaolô nhắc đến đặc sủng của Chúa Thánh Thần được ban xuống cho mỗi người tùy theo nhu cầu của họ. Tuy nhiên, sự đa dạng của ơn Chúa Thánh Thần trên mỗi người là khác nhau, nhưng đều chung quy một điểm, đó là hiệp nhất trong đa dạng để phục vụ cho Lời của Đức Giêsu hầu sinh ích cho cộng đoàn tín hữu.

Qua bài đọc này, thánh Phaolô nhắc các tín hữu Côrintô phải luôn hiệp nhất trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, để cùng nhau xây dựng nhiệm thể Đức Kitô trong mầu nhiệm thân thể Ngài là Hội Thánh.

Sang bài Tin Mừng, Ga 20,19-23, thánh Gioan làm toát lên sứ mạng được sai đi rao giảng Tin Mừng của các môn đệ; đồng thời, ngài cũng cho thấy căn nguyên sự sống và hoạt động của các môn đệ là do Chúa Thánh Thần.

Thật thế, sau khi ban bình an cho các ông, ngay lập tức, Đức Giêsu đã trao ban cho các ông Chúa Thánh Thần và kèm theo là quyền tha tội. Tại sao thế? Thưa! Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, Đấng đổi mới và nguồn mọi sự bình an. Khi con người nhận được ân sủng của Ngài và khi tội lỗi được tẩy xóa, thì ắt được bình an, chan chứa niềm vui và hy vọng.

Như vậy, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chính là ngày Giáo Hội được khai sinh, và cũng là ngày Giáo Hội lên đường để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình.

Hiểu như thế, thì ngày lễ hôm nay cũng là ngày lễ Hiện Xuống nơi mỗi người chúng ta. Bởi vì: nếu xưa kia các môn đệ đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng như thế nào, thì hôm nay, mỗi tín hữu cũng đón nhận cùng một Chúa Thánh Thần và cùng một sứ vụ như các ngài khi xưa.

  1. Sứ mạng của Giáo Hội hôm nay

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, tiếp theo, qua Bí Tích Thêm Sức, mỗi người đón nhận Ngài cách dồi dào, phong phú để thi hành chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế cách triệt để hơn trong vai trò là thành phần chi thể trong thân thể mầu nhiệm Giáo Hội, có Đức Giêsu là Đầu.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, là dịp mời gọi mỗi người chúng ta nêu cao ý thức về sự tinh tuyền, trong trắng của ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để tâm hồn chúng ta trở về tình trạng: “nhân chi sơ, tính bổn thiện”, hầu sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Hôm nay cũng là dịp để chúng ta làm mới lại đặc sủng của Chúa Thánh Thần ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, qua đó, chúng ta hiểu được Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa và can đảm, sẵn sàng loan báo cũng như làm chứng cho Lời Chúa.

Khi đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ loại bỏ được những thứ mà thánh Phaolô cho là hành động do xác thịt như: “dâm bôn, ô uế, phóng đãng,  thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái,  ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5,19-21). Khi loại trừ được những thứ đó, chúng ta sẽ lãnh nhận được những hoa trái của Chúa Thánh Thần như: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23).

Đạt được điều đó, mỗi người chúng ta sẽ là khí cụ hữu dụng của Chúa Thánh Thần trên và trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội hôm nay.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến vì chúng con cần Ngài. Amen.

 Về mục lục

 

 

Exit mobile version