CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH. NĂM C_2019

62

CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

Lời Chúa: Is 60,1-6;  Ep 3,2-3a.5-6;  Mt 2,1-12

———-

Mục lục

1. Hãy tỏa sáng  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tìm hạnh phúc  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Chúa Hiển Linh cần gì nơi ta?  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Ánh nến tỏa sáng trong gia đình  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

5. Hãy làm cho ánh sáng tỏa sáng  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Ánh sao cứu độ  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

7. Mục đồng và đạo sĩ (Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Chúa Nhật Lễ Hiển Linh (Lm. Phanxico Xavie Nguyễn Đình Quốc)

9. Suy niệm Chúa Nhật Hiển Linh  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Sao mai  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

11. Thành tâm  (Trầm Thiên Thu)

12. Vàng, nhũ hương và mộc dược của ta  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

13. Sao tình yêu  (JM. Lam Thy, ĐVD)

14. Bước theo ánh sao Giêsu (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

15. Chúa đến tỏ mình ra cho mọi dân tộc  (Lm. Giuse Trần Bình Trọng)

16. Thiên Chúa tỏ mình qua Con Chúa  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

17. Chúa tỏ mình ra  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

18. Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân  loại  (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

19. Tình yêu là ánh sáng  (Lm. Giuse Nguyễn)

20. Chúa Giêsu là ánh sáng cho muôn dân  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

21. Tính phổ quát của ơn cứu độ  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

22. Thiên Chúa không ẩn mình?  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

23. Những điều ThiênChúa mặc khải qua mầu nhiệm GiángSinh(Lm.Đaminh Trần Đình Nhi)

24. Chúa Hiển Linh  (Lm. JB. Nguyễn Minh Phương, CSsR)

25. Đi tìm Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

26. Hãy mở cửa  (Anna Cỏ May, Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

27. Cái tâm  (Lm. Thái Sơn)

28. Chúa Nhật Lễ Hiển Linh_C  (Lm. Antôn)

 

   .

HÃY TỎA SÁNG

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

“Ánh sáng” là chủ đề chính của Phụng vụ lễ Hiển Linh. Trước hết, đó là ánh sáng đến từ vinh quang của Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Nhập thể, và nhất là qua cuộc sinh hạ của Đấng Cứu thế, loài người được chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa, như Thánh Gioan đã khẳng định: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cự ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”(Ga 1,14). Quả vậy, Ngôi Lời là ánh sáng trần gian (x. Ga 8, 12). Ánh sáng ấy đã bừng lên giữa đêm đen của tội lỗi. Hãy đọc lại lời ngôn sứ Isaia trong lễ đêm Giáng sinh: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1). Hai mươi thế kỷ đã qua, Ánh sáng ấy đang tiếp tục bừng lên để đẩy lui thù hận ghen ghét nơi cuộc sống và nơi lòng con người.

Ngôn sứ Isaia kêu gọi Giêrusalem hãy đứng lên, hãy tỏa sáng. Giêrusalem là thủ đô của Do Thái, là trung tâm chính trị và văn hóa. Hơn thế nữa, Giêrusalem còn là Thành Thánh, là niềm tự hào của dân riêng đối với các dân ngoại xung quanh. Nơi đây có Thiên Chúa hiện diện để đồng hành với dân Người. Qua ngòi bút của vị ngôn sứ, Giêrusalem trở nên trung tâm của thế giới. Mọi dân mọi nước đều đổ dồn về đây, mang theo sự phú túc giàu sang. Muôn sắc màu văn hóa, các loại sản vật độc đáo đều hội tụ về đây để cung phụng Thiên Chúa và tuyên xưng Ngài là Chúa tể vô song. Ánh sáng của Thiên Chúa đã bừng lên trên Thành Thánh, để rồi Giêrusalem phản chiếu vinh quang của Ngài.

Điều mà ngôn sứ Isaia ngất ngây chiêm ngưỡng thuở xa xưa, nay được thực hiện qua việc các nhà đạo sĩ từ Đông phương đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Các ông được ngôi sao lạ chiếu soi và chỉ dẫn. Qua những dấu chỉ này, các ông đã “đọc” và “lắng nghe”  thông điệp mời gọi hãy đến Belem để phụng thờ Chúa các chúa và Vua các vua. Các ông đã chấp nhận một cuộc phiêu lưu, sẵn sàng rời bỏ nhà cửa, tiện nghi, để lên đường chì vì một ngôi sao xa tít tận chín tầng mây. Trong cuộc phiêu lưu này, đã có lúc các ông tưởng chừng như mất niềm hy vọng. Đó là khi đến Giêrusalem, các ông không còn thấy ngôi sao lạ nữa. Các ông đã tìm đến với những chuyên viên chú giải các lời sấm trong Kinh Thánh để có thể tiếp tục lên đường. Khi đến Belem, điều mà các ông nhìn thấy cũng chỉ là một Hài nhi mới sinh, cùng với cha mẹ Người. Trái tim và lý trí đã mách bảo các ông Hài nhi mới sinh là Đấng Cứu thế. Các ông đã thờ lạy Hài nhi và dâng những lễ vật, vừa là sản vật của địa phương mình, vừa là những biểu tượng diễn tả địa vị và sứ mạng của Hài nhi. Từ nơi thôn dã nghèo hèn, vinh quang Thiên Chúa đã tỏa sáng. Các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Cứu thế không với tư cách riêng tư, nhưng các ông đại diện cho mọi nền văn hóa, cho cả thế giới, đến phục quyền của Đấng là Vua vũ trụ và là Hoàng tử Hòa bình. Tên gọi của ngày lễ hôm nay là “Hiển Linh” muốn diễn tả vinh quang của Thiên Chúa tỏ hiện cho mọi dân tộc.

Tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Giáo Hội hiện hữu nơi trần gian như Ánh sáng muôn dân. Công đồng Vatican II đã khẳng định điều này. Cũng như Chúa Giêsu tỏa sáng vinh quang của Thiên Chúa qua sứ mạng của Người, Giáo Hội cũng phải tỏa sáng trong mọi hoàn cảnh xã hội, đồng thời loan báo Tin Mừng để giúp con người sống theo Sự thật, thoát khỏi tối tăm, vươn tới ánh sáng vĩnh cửu của Thiên Chúa. Giáo Hội tỏa sáng nơi trần gian, qua đời sống thánh thiện của các thành viên, qua những hoạt động bác ái, hòa giải, thân thiện và góp phần thăng tiến xã hội. Trong Giáo Hội và qua Giáo Hội, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục rao giảng, chúc lành, thánh hóa và hướng dẫn nhân loại vượt qua tối tăm để đạt tới ơn cứu rỗi. Thánh Phaolô khẳng định: nhờ nỗ lực loan báo Tin Mừng của mỗi thành viên trong Giáo Hội, “các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô” (Bài đọc II). Như thế giấc mơ của Vị Mục Tử nhân lành sẽ được thực hiện, tức là đưa mọi con chiên về đàn, để rồi “chỉ có một đàn chiên và một Mục tử” (x. Ga 10, 16).

Mầu nhiệm Giáng sinh được rất nhiều người thiện chí và yêu chuộng hòa bình đón chào nồng nhiệt. Tuy vậy, cũng còn nhiều người dửng dưng với việc Con Chúa đến trần gian. Tệ hơn nữa, có những người tìm cách ngăn cản hoặc làm biến dạng hình ảnh của Đấng Thiên sai. Chúng ta không ngạc nhiên trước hiện tượng này, vì ngay từ thuở ban đầu, vua Hêrôđê cũng đã giả danh lương thiện nhằm hủy diệt vị Vua mới ra đời. Thiên Chúa đã can thiệp để Hài nhi không rơi vào tay bạo chúa. Các đạo sĩ được cảnh báo để đi lối khác về nhà mình. Ngày hôm nay, dù bao phong ba bão táp, Thiên Chúa luôn gìn giữ Giáo Hội của Ngài.

Nhờ Bí tích Thánh tẩy, mỗi chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng của Chúa Kitô. Trong nghi thức cử hành Bí tích Thánh tẩy, vị linh mục chủ sự trao cho người chịu phép cây nến cháy sáng với lời căn dặn: “Con hãy luôn sống như con cái sự sáng, để được bền vững trong đức tin, khi Chúa đến, con xứng đáng ra nghinh đón Người với toàn thể các thánh trên trời” (Nghi thức Rửa tội).

“Anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Khi tuyên bố điều này, Chúa Giêsu muốn cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy tỏa sáng nơi lòng cuộc đời. Thực hiện được điều ấy, chúng ta sẽ góp phần đẩy lui tối tăm, làm cho vương quốc ánh sáng sớm được hiện hữu trên thế gian này.

Về mục lục

.

TÌM HẠNH PHÚC

Lm. Jos. DĐH.

Truyện ngụ ngôn “cú mèo và chim gáy”, kể lại một dự định tưởng rất vô tình, nhưng đầy ẩn ý: chim gáy phát hiện chị cú mèo sắp đi xa, nên chim gáy hỏi lý do và được cú mèo giãi bày tâm sự. Tôi phải đi sang hướng đông, ở đây ai cũng khó chịu tiếng kêu của tôi, sang bên đó, tôi nghĩ sẽ hạnh phúc hơn. Chim gáy cũng thiệt tình, em nghĩ chị phải thay đổi tiếng kêu, nếu không sang hướng nào chị cũng bị ghét bỏ. Thay đổi tâm tính của mình, cảm thông, đón nhận tật xấu của anh chị em mình, đằng nào cũng khó ; cuộc đời của cú mèo, đúng là mầu xám, mầu đen: đi cũng dở, ở lại cũng không xong ! Tìm kiếm hạnh phúc tốt hơn, không phải chỉ là thoát đói nghèo, cuộc đối thoại giữa chim gáy và cú mèo, tiền nhân chúng ta mô phỏng cuộc đời này còn nhiều khắc khoải: bình an, yêu thương, rất cần đến phép mầu can thiệp.

Đời người là một hành trình dài, ngắn, ai nào biết, cuộc đời luôn gọi mời ta mạnh dạn làm một chuyến phiêu lưu, thành công không thể tự nhiên mà có, hạnh phúc thu được không khi nào là chuyện tình cờ.  Vẫn biết rằng: cha mẹ sinh con trời sinh tính, nhưng đâu vì thế mà người ta chối bỏ công sức đầu tư của bậc sinh thành: dạy con từ thuở còn thơ ? Cũng không phải tự nhiên mà các Đạo sĩ từ Đông phương nhìn thấy “sao lạ”, rồi họ quyết tâm kiếm tìm sự thật, trong khi bầu trời bao la rộng lớn, bậc hiền tài thời nào cũng có. Đi tìm vinh hoa phú quý, củng cố quyền lực, hay lên đường vì mục đích riêng tư, đều tốn công sức, phải chấp nhận rủi ro, dù xác xuất thành công, gặp được hạnh phúc như ý lâu hay mau.

Mùa đông giá rét, là dịp thuận tiện cho việc mua bán áo len, áo ấm, mỗi độ tết đến xuân về, người ta lại nghĩ đến những bữa ăn đoàn tụ, nhưng hạnh phúc mà con người tìm kiếm thì không có mùa, có lúc, mà là trường kỳ phải nỗ lực vươn lên. Cũng không ít những người thắc mắc, vùng miền nào lý tưởng đáng sống, nơi đâu là nơi trú ngụ an vui không bất công không hận thù, hầu ta có thể di chuyển gia đình tới an hưởng phúc vinh ? Các Đạo sĩ mạo hiểm lên đường theo ánh sao lạ vì tư lợi, hay vì “cái tâm” của họ đã có “tầm cỡ” về ơn gọi: hãy can đảm, mạnh mẽ lên, hạnh phúc thật đang ở phía trước ? Dõi theo hành trình tìm kiếm của các Đạo sĩ, quả là có quá nhiều điều kỳ diệu, từ phương tiện thiếu thốn, hướng đi mờ mờ, ảo ảo vào ánh sao dẫn lối trong đêm đen…, cuối cùng, họ đã gặp, đã thấy, đã thành công, họ bái thờ “Vua mới sinh”.

Thiên Chúa Đấng giầu lòng thương xót, Ngài không đến trong hình ảnh một ông già râu dài tóc bạc, tay cầm đũa thần để ban phát bổng lộc theo “cơ chế” xin – cho. Thiên Chúa thông biết mọi sự, và quyền năng, Ngài có kế hoạch để mời gọi muôn dân thiên hạ đến tận hưởng “mầu nhiệm tình yêu”. Dân tộc Do-thái họ có truyền thống mạc khải từ các ngôn sứ, các Đạo sĩ có “sao lạ” chỉ đường dẫn lối, chúng ta hôm nay có chứng nhân đức tin từ các thánh tử đạo. Hướng tìm hạnh phúc tốt đẹp hơn, ở đâu, thời nào cũng cần phải có sự dấn thân của mỗi người, cộng tác với ơn ban rất phong phú, Đấng tác thành vạn vật đặt sẵn nơi tâm hồn con người “lời chỉ dẫn”.

Muốn được yêu, phải ý thức mình có trái tim bằng thịt, muốn hiểu “dấu lạ” ở Đông phương có liên hệ gì tới hạnh phúc đời người, các Đạo sĩ phải từ bỏ sự cầu toàn để lên đường, dù hiểm nguy, thách đố, có thể làm họ nản lòng, mệt mỏi ý chí quyết tâm. Tìm hạnh phúc, gặt hái thành quả tốt nhất, ai cũng phải lưu tâm, tỉnh trí, hầu nghe, hiểu, và biết kết hiệp với dấu chỉ của tình người, tình đồng loại. Nhờ tâm sáng, lòng ngay, các mục đồng nghe và hiểu được “Tin-mừng Giáng-sinh” mà các Thiên-thần loan báo, đã gặp được Hài nhi Giêsu, đã hoà hợp được niềm hạnh phúc trọn vẹn trong Ngôi Lời là Thiên Chúa. Các Đạo sĩ gặp được Vua người Do-thái vừa hạ sinh, họ được hồn an, được tâm trí sáng suốt, và nhận ra Hài nhi Giêsu chính là Thiên Chúa.

Lên đường tìm bằng cấp địa vị, lên đường tìm hạnh phúc ở đời này và đời sau, đã có sự khác biệt lớn rồi. Người ta sẽ hạnh phúc hơn, khi nhận ra Chúa nơi anh chị em mình, nếu chúng ta cùng đồng tâm hiệp lực như ba Đạo sĩ, mạnh mẽ và nói lên mục đích cuộc tìm kiếm Vua người Do-thái mới sinh hiện ở đâu ? Cuộc sống thật phong phú: đâu phải cứ trái đỏ là trái chín, đâu phải cứ thứ gì chói sáng đều gọi là vàng. Không phải cứ giầu có quyền lực là hạnh phúc, không phải những ai gặp được Chúa, hiểu được ý Chúa, là người tài giỏi, người có bằng cấp địa vị. Mầu nhiệm yêu thương được ban tặng cho nhân loại, Thiên Chúa không có ý định ban Nước trời cho riêng các mục đồng nghèo. Ngài không có ý ban dồi dào hạnh phúc hơn cho các Đạo sĩ ở phương xa, hạnh phúc thật là tuỳ tự do và ơn ban mỗi người đang sử dụng thế nào ? Ngôi Lời làm người, chính là Thiên Chúa đồng hành, hiện diện, lắng nghe, cảm thông chia sẻ thân phận bất toàn với chúng ta, biến đổi và nâng loài người lên địa vị làm Con Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA HIỂN LINH CẦN GÌ NƠI TA?

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Con người chúng ta thích sĩ diện nhưng lại bỏ quên đồng loại. Thích lễ hội nhưng bỏ qua công bình bác ái. Thích tiếng khen nhưng lại bàng quan với cái khổ của anh em. Thế nên, người xưa có câu:

“Sống thì chẳng cho ăn
Khi chết làm văn tế ruồi”.

Có một lần đi thăm bệnh nhân ở một vùng sâu miền núi. Bệnh nhân đauđã lâu và thấy trong nhà không có gì đáng giángoài con heo trong chuồng.Tôi hỏi chủnhàsao không bán con heo lấy tiền chữa bệnh cho bà, để conheo làm gì?
Chủnhà bảo: để con heo ấy phòng khi bà nó chết thì có cái mà mổ đểđãi khách?

Rồi ông nói tiếp: “Ở quê nhà nào cũng phải vậy cha ạ”.

Rồi ông kể: khi trong nhà có người già yếu bệnh nặng khó qua khỏi, con cháu trong nhà phải chuẩn bị trước một con heo nuôi trong chuồng. Nếu không nuôi heo kịp, có thể vay mượn heo của bà con họ hàng trong xóm mổ thịt trước, sau đó nuôi con heo khác trả nợ cũng được. Đâylà truyền thống mình không làm thì họ cười cho . . .!

Có lẽ người bệnh sẽ không vui khi người thân lo xa mà không lo gần. Bỏ hình mà bắt bóng nên chẳng có giá trị trên tình người.

Hôm nay nhân ngày lễ Ba Vua, tôi nhớ tới câu chuyện được kể rằng: có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏvới mùng mền? 

Quả thực, sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy lòngtrắc ẩn của tình người.Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi chúng ta cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng khổ nghèo đói. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và nơi chỗ nương thân. Chúa Hài Nhi Giêsu đã chạm đến cái cùng cực của thân phận con người. Từ đó, Chúa mời gọi chúng ta: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25, 40).

Và hôm nay Hài Nhi Giê-su vẫn đang giáng sinh nơi những mái gia đình có hoàn cảnh khó khăn và khổ đau.

Nơi đó có những con người đang thiếu thốn cái ăn, cái mặc, Chúa Hài Nhi đang mời gọi chúng ta hãy làm điều thiết thực là mang cơm ăn áo mặc hơn là những nhà hát ngàn tỉ hay những trung tâm tráng lệ, đền đài nguy nga.

Nơi đó có những con người đang đau khổ bởi đau ốm bệnh tật triền miên mà tiền thì lại thiếu. Chúa hài nhi đang mời gọi chúng ta hãy cúi xuống những mảnh đời bất hạnh ấy để cùng chung tay giúp họ vượt qua những lúc nguy nan.

Nơi đó có những người đang cô đơn ngay chính trong gia đình của mình, vì vợ chồng thiếu đối thoại và cảm thông, Chúa hài nhi đang mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà quan tâm tới nhau để chia sẻ gánh nặng cuộc đời cho nhau.

Nơi đó có những người đang ở tạm bợ nơi những khu nhà ổ chuột hay chỉ là phòng trọ chật hẹp đầy thiếu thốn, Chúa hài nhi đang mờ gọi chúng ta hãy tạo tình liên đới để không ai mặc cảm về những thiếu thốn của mình.

Vâng, Chúa đang hiển linh một cách cụ thể nơi những mái tranh nghèo đầy thiếu thốn. Chúa Hài Nhi đang mời gọi chúng ta đến triều bái Người, cùng dâng cho Người những phương tiện cuộc sống hơn là những đền đài nguy nga ngay giữa dân nghèo. Hãy sống thiết thực khi cho cơm, cho áo người nghèo hơn là những khu nhà cao sang lạnh vắng tình người. Hãy viếng thăm dân nghèo nơi chính mái tranh nghèo khó của họ hơn là đánh trống phô trương trong các ngôi nhà hội nghị máy lạnh xa hoa. .  .

Ước gì mỗi người chúng ta hãy là những đạo sĩ dám dấn thân bước tới với những gia đình khổ đau nơi những mái nhà đơn sơ , chật hẹp, thiếu thốn để niềm vui Chúa giáng sinh được mang đến cho mọi người. Amen

Về mục lục

.

ÁNH NẾN TỎA SÁNG TRONG GIA ĐÌNH

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Giữa ban ngày, chỉ cần một tấm bảng nhỏ vẽ mũi tên chỉ đường cũng đủ để giúp bộ hành tìm được hướng đi, nhưng giữa đêm đen, dù có cả một rặng núi sừng sững được sử dụng như tín hiệu chỉ đường, cũng không ai nhận thấy. Trong khi đó, chỉ cần một ánh sáng le lói giữa màn đêm cũng đủ để cho khách bộ hành tìm thấy mục tiêu cần tiến đến. Trong đêm tối, một đốm sáng nhỏ có khả năng dẫn đường chỉ lối hơn cả một ngọn núi cao.

Chính vì thế, khi Chúa Giê-su sinh ra tại Bê-lem, Thiên Chúa đã cho xuất hiện một ánh sao đặc biệt giữa bầu trời đêm để soi dẫn cho ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến gặp Chúa Cứu Thế. Nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ nầy, ba nhà chiêm tinh mới có thể tìm gặp Hài nhi Giê-su mới hạ sinh.

Hôm nay, Thiên Chúa muốn kêu gọi chúng ta trở nên ánh sao mới để dẫn đưa những người chưa nhận biết Chúa tìm đến với Ngài.

Từ lâu, Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ I-sai-a mà nói với chúng ta: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi mang ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất” (Is 49,6).

Chúa Giê-su cũng trao sứ mạng nầy cho các môn đệ: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ…” (Mt 5, 14).

Và Thánh Phao-lô tiếp tục kêu mời chúng ta: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Philip 2,15).

Xin được là ánh nến toả sáng trong gia đình

Trở nên ánh sáng soi dẫn bao người về với Chúa là một sứ mạng tuy cao trọng nhưng đầy khó khăn nên không ai muốn đảm nhận. Tuy vậy, là con cái Chúa, không ai được quyền thoái thác chối từ. Mấy câu thơ sau đây của thi sĩ Éliot sẽ khích lệ chúng ta:

          “Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng giữa trời,

          Thì hãy là ánh lửa trên non cao.

          Nếu bạn không thể là ánh lửa non cao,

          Xin hãy làm ánh nến toả sáng trong gia đình.”

Có lẽ chúng ta không dám làm ngôi sao sáng giữa trời, vì thấy mình yếu đuối và tội lỗi. Có thể chúng ta cũng chẳng dám mơ ước trở thành một ánh lửa non cao cho nhiều người từ phương xa nhìn tới. Vậy thì ít ra, xin cho mỗi người chúng ta cố sức trở thành một ánh nến toả sáng trong gia đình. Ánh nến nầy rất quan trọng vì “gần mực thì đen và gần đèn ắt phải sáng.” Ánh sáng của cuộc đời mẫu mực nơi người cha, người mẹ toả chiếu trên con cái chắc chắn sẽ làm cho con cái được nên người. Và ngay cả ánh sáng của con cái cũng có thể làm cho cha mẹ nên sáng.

Sự kiện sau đây minh chứng điều nầy:

Ngày 12 tháng 12 năm 1999, tôi ban bí tích Thánh tẩy cho hai em nhỏ. Người chị là Têrêxa Huỳnh thị Bích Hằng, mười lăm tuổi, còn người em là Maria Huỳnh thị Bích Nga, mười hai tuổi. Vì hai em mồ côi cha mẹ sớm, chẳng được học hành, nên được gia đình người cô ruột thương tình đem về nuôi.

Điều oái oăm là cô dượng của hai em tuy là người có đạo nhưng không mấy khi bước đến nhà thờ. Mỗi tối, gia đình nầy bán phở đến 12 giờ đêm. Hai người cháu cũng lo phục dịch đến giờ ấy.

Thế rồi từ ngày hai cháu được dẫn đến nhà thờ, được dạy cho biết Chúa và giáo lý… Nhờ ơn Chúa, hai cháu bỗng nhiên yêu mến Chúa cách nhiệt tình và yêu thích học giáo lý cách đặc biệt. Cứ mỗi ngày Chúa  nhật, hai cháu cảm thấy mừng vui rộn rã trong lòng vì được đến với Chúa. Lòng nhiệt thành của hai cháu đã làm bừng lên nhúm đức tin như tro tàn nguội lạnh trong lòng cô dượng. Thế rồi cô dượng cũng sốt sắng đến thờ phượng Chúa trong các ngày Chúa nhật, sau khi đã vắng bóng ở nhà thờ gần đến mười năm! Người cô nói với tôi: “Thấy hai cháu sốt sắng quá, thét rồi hai vợ chồng con cũng sốt sắng lây.”

Hai cháu đúng là hai ánh nến nhỏ trong gia đình đã chiếu soi cho cô dượng tiến đến gần Chúa hơn.

Vậy giờ đây chúng ta cùng cầu nguyện với Chúa Giê-su bằng lời thơ của thi sĩ Éliot:

                   “Lạy Chúa, nếu con không thể là ngôi sao sáng giữa trời,

                   Thì xin hãy là ánh lửa non cao.

                   Và nếu con không thể là ánh lửa non cao,

                   Xin cho con được làm ánh nến toả sáng trong gia đình.”

Về mục lục

.

HÃY LÀM CHO ÁNH SÁNG TỎA SÁNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tiếp liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ thứ II, Thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, Thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên Đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay. Trong khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Belem. Chính nơi đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ Phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Belem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà.

Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà Ba Nhà Đạo sĩ là những đại diện.

Epiphaino” có nghĩa là Thiên Chúa tự mặc khải trong nhân tính của Ðức Kitô, tự làm cho mình có thể trông thấy được. Cụ thể như dùng ánh sao đêm biểu lộ cho Ba Ðạo Sĩ biết, dẫn họ lên đường đến nơi Hài Nhi vừa mới sinh để nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế. Nếu lễ Giáng Sinh người ta nêu bật dấu ẩn của Thiên Chúa trong sự khiêm hạ với điều kiện là người, trong Trẻ Thơ Belem. Thì trong lễ Hiển Linh lại nêu bật việc Thiên Chúa tự tỏ mình, xuất hiện qua chính nhân tính.

Việc các Ðạo Sĩ đến tôn thờ Chúa Hài Nhi đã sớm được nhìn nhận như là ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Isaia có viết như sau: “Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên” (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.

Trong lễ Chúa Tỏ Mình, Giáo Hội đề nghị một văn bản rất ý nghĩa của ngôn sứ Isaia: “Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.” (Is 66, 1-3).

Ðây là một lời mời hướng tới Giáo Hội Chúa Kitô và hướng tới từng người trong chúng ta, mời gọi ta ý thức hơn về sứ mệnh và trách nhiệm của mình đối với thế giới trong việc làm chứng và đem ánh sáng mới của Tin Mừng đến khắp thế gian. Trong số mở đầu Hiến chế về Giáo Hội có viết: “Ánh sáng muôn dân là chính Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội bằng việc rao truyền Phúc âm cho mọi tạo vật” (LG, 1). Tin Mừng là ánh sáng không được dấu đi, nhưng để trên giá. Giáo Hội không phải là ánh sáng, nhưng nhận ánh sáng của Chúa Kitô, tiếp nhận nó để được soi chiếu, và phổ biến ánh sáng đó ra với tất cả sự rạng ngời của nó. Và đây là điều cũng phải xảy ra trong cuộc sống cá nhân…

Các thượng tế tại Giê-ru-sa-lem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy, sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc Ba Nhà Đạo Sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nazareth mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm: “Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Ðức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng” (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô (Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải (là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô sẽ cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.

Giáo Hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Ngài đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta dõi theo ánh sao cùng ba nhà Đạo Sĩ đến chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người trong khiêm hạ và nghèo khó, nhất là đón nhận chính Hài Nhi ấy là Ánh Sáng và là Chúa Kitô vào trong chúng ta, để chúng ta có sống là sống chính sự sống của Người, và lấy các tâm tình, tư tưởmg và hành động của Người làm tâm tình, tư tưởng và hành động của chúng ta. Như thế, mừng Giáng Sinh là biểu lộ niềm vui, sự mới mẻ, ánh sáng mà biến cố Giáng Sinh này đã đem lại trong toàn cuộc sống chúng ta, để chúng ta cũng là những người đem niềm vui, sự mới mẻ đích thật, và ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Amen.

Về mục lục

.

ÁNH SAO CỨU ĐỘ

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  

Mỗi năm mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta cũng như người Do Thái xưa nhìn lên trời để mong gặp được ngôi sao la, ngôi sao năm nào  đã dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ đến gặp Hài Đồng Giêsu nơi Hang đá Bêlem.

Ba nhà đạo sĩ nói :” Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông “ ( Mt 2,2 ). Hài Nhi Giêsu la Thiên Chúa đã mặc xác phàm, hóa kiếp làm người, nhập thể trong cung long trinh khiết của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, rồi người đã chấp nhận được sinh ra nơi cảnh nghèo nàn trong Hang đá máng lừa. Theo các nhà chiêm tinh thời xưa, mỗi khi một nhân vật vĩ đại sinh ra thì nó thường được tiên báo bằng sự xuất hiện của ngôi sao lớn trên bầu trời. Nên, các nhà chiêm tinh thường dõi theo, nghiên cứu để hiểu vị nào đã sinh ra ở đời. Khi nhìn thấy ngôi sao lạ, ba nhà đạo sĩ phương Đông đã nhận ra Hài Nhi vừa mới sinh ra thật là Vua cứu thế, mà dân Do Thái hằng trông đợi.

Quả thực, dân Do Thái đã trông đợi Đấng cứu thế từ bao năm qua.Bởi vì, dân tộc của họ bị Đế quốc La Mã đô hộ, đàn áp. Dân chúng tản mác khắp bốn phương trời, họ luôn mong chờ một vị vua đến giải thoát họ khỏi sự thống trị của người La Mã, đồng thời quy tụ dân Israen tản mác khắp nơi về…Tuy nhiên, Đấng cứu thế là Chúa Giêsu khỏi phải như họ mong ước theo trí hiểu biết của họ. Đức Giêsu được ví như một vì sao xuất hiện từ nhà Giacóp :” Một vì sao xuất hiện từ Giacóp…” ( Ds 24,17 ) .Ngôn sứ Mikha cũng đã tiên báo :” Hỡi Bêlem, E1pratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israen “ ( Mk 5,1 ). Vâng, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đản sinh làm người. Dân Do Thái đã bao năm chờ đợi người. Nhưng khi chúa sinh ra, mọi người đều lãnh đạm, thờ ơ, không nhận biết người. Các Kinh sư, Biệt Phái, các Thượng tế càng không ngó ngàng tới Chúa. Đặc biệt Hêrôđê vì ích kỷ, vì địa vị nhỏ nhen đã đang tâm lừa dối các nhà đạo sĩ và ác tâm tiêu diệt Hài Nhi Giêsu. Chỉ có ba nhà đạo sĩ khi thấy ngôi sao lạ xuất hiện, họ đã hăng hái lên đường, hăm hở lên đường, quyết đi tìm Đấng Cứu Thế và rồi cuộc phiêu lưu đi tìm vua Giêsu, gặp trăm ngàn khó khăn trắc trở, họ vẫn kiên trì tìm gặp Hài Nhi.Họ đã khôn khéo làm cho Hêrôđê tin họ, và rồi họ đã không trở lại gặp Hêrôđê nữa khi họ đã gặp được Hài Nhi Giêsu. Khi gặp được Hài Nhi Giêsu nơi Hang đá Bêlem, họ đã vui mừng, quỳ phủ phục thờ kính vua dân Do Thái, đồng thời dâng kính Hài Nhi những báu vật của phương Đông: vàng, nhũ hương, mộc dược. Ba nhà đạo sĩ đại diện cho lương dân đã triều bái vua Giêsu đến nỗi sau này có lần chúa Giêsu  đã nói :” Từ Phương Đông, phương Tây có nhiều người đã được mời dự tiệc với Abraham.Isaac,Giacóp tre6mn nước trời “.

Lễ Chúa Hiển Linh là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại. Lễ này ngày nay trên thế giới có nhiều nước mừng rất lớn. Lễ Giáng Sinh mừng việc Chúa tự tỏ mình ra đặc biệt cho người Do Thái, thì Lễ Hiển Linh mừng việc Chúa tự tỏ mình ra đặc biệt đối với dân ngoại. Vì thế, lễ này là lễ của chư dân.

Lễ Hiển Linh cũng là lễ truyền giáo. Nếu Đức Giêsu phải được rao giảng cho mọi người, mọi nước, mọi dân thì việc rao giảng ấy cũng phải được chúng ta tiếp tục. Đức Giêsu thiết lập Nước Trời tại trần gian để xây dựng nên một vương quốc mới, một thế giới mới:” Thế giới hòa bình, chân lý, công bình.Thế giới mới beo sống chung với dê, với bò, trẻ con chơi với hổ, với rắn độc vv…”.Thế giới mới ấy chúng ta phải rao giảng.Đó là Tin Mừng mà chúng ta phải loan báo cho mọi người, cho thế giới.Đó là sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ mình ra cho nhân loại, cho lương dân.Xin ban thêm đức cho chúng con để chúng con can đảm loan báo Tin Mừng  của Chúa cho nhiều người, để chúng con đem Chúa đến với muôn dân và để chúng con làm cho nhiều người nhận biết Chúa . Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Lễ Chúa Hiển Linh xưa thường được gọi là lễ gì ?

2.Ba nhà đạo sĩ từ đâu lên đường đi tìm gặp Chúa ?

3.Ba nhà đạo sĩ mang theo những gì để triều bái Hài Đồng Giêsu?

4.Tại sao Hêrôđê lại tìm giết Hài Nhi Giêsu ?

5.Ba nhà đạo sĩ có trở lại gặp Hêrôđê không ?

Về mục lục

.

MỤC ĐỒNG VÀ ĐẠO SĨ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng vụ cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh.

Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.

Gaspar, Melchior và Balthasas là ba nhà đạo sĩ nổi tiếng ở Ðông phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bêlem, xứ Giuđêa để thờ lạy Ðấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.

Chỉ có hai hạng người đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem. Đó là các mục đồng và những nhà đạo sĩ.

Ðức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.

Khi các mục đồng canh giữ chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì vẽ đẹp của thiên thần: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Ðấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Ðavit, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa” (Lc 2,10-12). Còn các đạo sĩ ở bên kia xứ Mêđia và Ba tư nghiên cứu bầu trời, đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến hang đá tìm gặp Hài Nhi.

Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các mục đồng và các đạo sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Ðó là các mục đồng và các đạo sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.

Các mục đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Ðêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng.Thiên Thần cho biết, Ðấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong hang đá Bêlem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Ðấng Chăn Chiên của họ.

Các đạo sĩ là những người thông thái đi tìm gặp Ðấng Cứu Thế. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Ðối với khoa học và tôn giáo, họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba đạo sĩ làm cho họ lên đường khám phá. Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Ðối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các đạo sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Ðến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các đạo sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Ðạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng khôn ngoan.

Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: “Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc” (Ðức Cha Bùi Tuần).

Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri…nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hêrôđê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các mục đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các đạo sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.

Ðiều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các đạo sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.

Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Ðó là một cử chỉ khiêm nhường. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Ðấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, có lẽ các đạo sĩ ghen với các Mục đồng vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn (Ðức Cha Fulton Sheen).

Các Đạo sĩ là những người thông thái, học thức, được mọi người trong đất nước mình nhìn nhận khả năng. Chính nhờ kiến thức, tính toán mà họ có thể khám phá ra Ngôi Sao dẫn đưa họ đến tận hang đá. Nhưng một khi đặt chân đến Giêrusalem, những con người khoa học này không còn cậy dựa vào kiến thức của mình nữa: họ dò hỏi các luật sĩ và tiến sĩ Luật, các nhà chuyên môn về Kinh Thánh là chính Mạc Khải của Thiên Chúa. Cũng thế, kiến thức của chúng ta không đủ để giải thích tất cả: như các đạo sĩ, cần phải lắng nghe các ngôn sứ, cả thời xưa lẫn thời nay, để nhờ họ mà có thể nhận biết khuôn mặt thật của Thiên Chúa và tình yêu Ngài mang đến cho mọi loài thụ tạo (Jean Luc Muller, Église en fêtes, Tequi, 1990, tr. 51-59. Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ). Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Ðức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.

Các Thượng tế, các Kinh sư thông hiểu Thánh kinh, họ cắt nghĩa cho Hêrôđê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Ðấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ.

Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.

Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh kinh, qua Giáo hội, qua các Bí tích, qua cuộc sống hàng ngày. Ðể gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Đình Quốc

Kính thưa quí ông bà cùng anh chị em 

Trong thần thoại Hy Lạp, có một vị thần vì thương nhân loại đã lấy lửa từ trời đem xuống thế gian, nhờ đó con người thoát khỏi sự tăm tối. Đó chính là Prômêthê.

Khi nhận thấy con người trần trụi. Làm thế nào để con người sống được ở giữa thế gian? Con người sẽ sống thế nào trước các con vật: Hổ, báo, voi, sói, sư tử…? Và rồi phải đương đầu với nắng mưa, bão tố,… biết bao tai họa khôn lường? Và vị thần này, liền băng ngay lên bầu trời cao, xa tít tắp, đến tận cỗ xe của thần Mặt Trời Hêliôx, lấy lửa của thần Mặt Trời châm vào ngọn đuốc của mình đem xuống trần gian, trao cho loài người. Và từ đó, thế gian, mặt đất lúc nào cũng rực cháy ngọn lửa của Prômêthê ban cho. Con người thoát khỏi cảnh sống tối tăm, giá lạnh. Ngọn lửa trở thành bạn thân thiết, người bảo vệ chắc chắn nhất, một vũ khí mạnh nhất của loài người. Ngọn lửa hơn hẳn bộ lông dày, hàm răng sắc, cặp móng nhọn. Và với ngọn lửa, con người từ thế hệ này qua thế hệ khác, tạo dựng cuộc sống ngày càng văn minh hạnh phúc.

Prômêthê đã lấy ngọn lửa, báu vật của các vị thần đem trao cho loài người. Việc làm đó khiến thần Dớt, chúa tể của các vị thần và người trần, căm tức. Thần Dớt phải trừng phạt loài người để cho Prômêthê biết rằng: Thần Dớt là một người có quyền lực, rằng sự hy sinh tận tụy của Prômêthê cho cuộc sống của loài người là vô ích. Tuy loài người trở thành bất tử nhờ ngọn lửa của Prômêthê, nhưng tội ác và tại họa cùng với biết bao điều xấu xa, điên đảo cũng trở thành người bạn đường bất tử của loài người. Vì lẽ đó, loài người chẳng thể có được cuộc sống đạo đức, văn minh, hạnh phúc như Prômêthê mong muốn. Thần Dớt phải trừng phạt Prômêthê để cho loài người biết cái giá phải trả cho hành động táo tợn, phạm thượng, dám cướp đoạt báu vật thiêng liêng độc quyền của thần thánh là đắt đến như vậy. Những kẻ nào nuôi giữ tấm lòng thương yêu loài người, bằng ham muốn thay đổi số phận loài người hãy lấy đó làm gương.

Thần Dớt ra lệnh bắt Prômêthê giải đến một đỉnh núi cao chót vót trong dãy núi Côcadơ, xiềng chặt Prômêthê vào đó. Prômêthê bị đày đọa, ban ngày dưới cái nắng cháy da, ban đêm dưới sương tuyết rét buốt thấu xương. Chưa hết, ngày ngày thần Dớt còn sai một con đại bàng đến mổ bụng ăn buồng gan của Prômêthê. Thần Dớt tưởng rằng dùng những cực hình đó, Prômêthê sẽ phải khuất phục quy hàng mình, phải từ bỏ lòng thương yêu loài người và thái độ chống đối đầy kiêu hãnh và thách thức đối với Dớt và thế giới thần linh. Nhưng Prômêthê trước sau như một, không hề run sợ. Và thật kỳ diệu và lạ lùng, ban ngày con ác điểu ăn đi bao nhiêu thì ban đêm buồng gan của Prômêthê lại mọc lại bấy nhiêu, nguyên vẹn, không hề có dấu vết của một tổn thương.

Kính thưa quí ông bà cùng anh chị em, Hài Nhi Giêsu, không đánh cắp ngọn lửa từ trời mà Ngài chính là Ngôi Lời Thiên Chúa, là “ánh sáng bởi ánh sáng” đã đến cư ngụ giữa thế gian. Ngài đã đem lửa từ trời xuống thế gian như lời Ngài nói: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49). Ngọn lửa của tình yêu thương từ cung lòng Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngài mong muốn mỗi người hãy đi thắp lên cho người khác ngọn lửa yêu thương. Ngài đã đem ánh sáng xuống trần để xua tan đêm tối, phá tan băng giá lòng người. Thế nhưng con người đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng. Và thánh Gioan Tông Đồ đã nói: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Trong đêm Giáng Sinh, nơi hang đá Bêlem, giữa đêm đông giá rét, muôn vật im lìm, thì trên thinh không muôn vàn thần thánh ca hát và báo tin cho các mục đồng, đang say giấc nồng, là những con người nghèo hèn, bé mọn đến thờ lạy Hài Nhi. Đó là điều Chúa muốn: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Hôm nay, Hài Nhi Giêsu tỏ mình ra cho muôn dân qua điềm lạ ánh sao. Đó là điều mà tiên tri Isaia đã tiên báo: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” (Is 60, 1-3).

Một ánh sao bừng sáng giữa bầu trời đêm thì không chỉ một ai đó nhìn thấy mà mọi người đều thấy nếu ngước mắt lên trời. Trong thư viết cho dân thành Êphêxô, thánh Phaolô đã tiết lộ cho họ biết một “mầu nhiệm”, đó là Thiên Chúa đã trao sứ mạng cho ngài đem ân sủng của Tin Mừng phân phát cho tất cả các dân. Nhờ Tin Mừng này, mọi dân tộc đều trở thành “đồng một thân thể” với nhau và với Đức Giêsu Kitô, hơn nữa họ trở nên “đồng thừa tự” để hưởng gia tài của Đức Giêsu và “đồng thông phần” với lời hứa cứu độ của Ngài.

Cùng một ánh sao mọi người đều thấy nhưng phản ứng của mỗi người mỗi khác. Các “đạo sĩ” là những nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Do niềm tin có phần mê tín rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh sao và tìm đến với Hài Nhi. Còn dân thành Giêrusalem, là những người đã được tiên báo từ ngàn xưa nhưng đã hoàn toàn im lặng, dù đã được nhắc nhở, “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Các Thượng tế và Kinh sư dựa vào Kinh Thánh mà biết chính xác nơi Hài Nhi mới sinh, biết nhưng không muốn ra đi. Còn vua Hêrôđê, muốn ra đi, “khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”, nhưng đó chỉ là một âm mưu. Đến để tiêu diệt chứ không phải thờ lạy.

Muôn dân đã ra đi, đại diện là ba nhà “đạo sĩ”, lần bước theo ánh sao và đến với Hài Nhi. “Họ vào nhà,…, liền sấp mình thờ lạy Người”. Còn chúng ta, được ánh sáng Lời Chúa soi dẫn, có tiến bước, hay chỉ ngồi ì trong bóng tối của tội lỗi? Có muốn bước ra ánh sáng, bước theo ánh sáng để hưởng ơn cứu độ, hay để cho muôn dân tiến bước vào Nhà Chúa? Còn chúng ta thì bị loại ra ngoài. “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13, 28-29). Xin Chúa cho chúng ta luôn tìm thấy ánh sáng chân lý của Chúa, nhìn thấy ánh sao dẫn lối chỉ đường, bước đi trong ánh sáng và bước theo ánh sáng để được vào Nhà Chúa vui hưởng ơn cứu độ, bình an và hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT HIỂN LINH

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Bài Tin mừng hôm nay nói cho chúng ta biết rằng khi Chúa Giêsu giáng sinh trong hang đá Belem thì có một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời.

Hẳn là đã có nhiều nguời thấy ánh sao lạ, nhưng tại sao chỉ có mấy đạo sĩ đã nhận ra đó là “tín hiệu” loan báo Chúa Cứu thế giáng sinh.

Con trẻ sinh ở Bêlem hẳn nhiều ngườt đã thấy hoặc đã biết, nhưng chỉ có mấy đạo sĩ nhận ra rằng trẻ sơ sinh đó chính là Con Thiên Chúa làm nguời. Bởi thế họ quỳ xuống dâng lễ vật và thờ lạy. Tại sao thế?

KẺ THẤY NGƯỜI KHÔNG

Đứng trước cùng một sự kiện mà có kẻ thấy người không, kẻ tìm ra ý nghĩa người không. Vậy thì làm sao mà cắt nghĩa được sự khác biệt đó?

Nguyên nhân gây ra khác biệt là do một bên nhìn bằng con mắt thường một bên nhìn bằng đức tin. Bên nhìn bằng con mắt thường thì chỉ thấy những việc thông thường, còn bên nhìn bằng con mắt đức tin thì nhờ đức tin mà khám phá ra được thực chất và ý nghĩa ở bên trong.

 Một buổi trưa hè nóng bức, thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.

Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giơ thấy được.

Sự vật thay đổi diện mạo và ý nghĩa tùy theo cách nhìn và mức độ quan sát của mỗi người. Cùng một giọt máu nếu nhìn bằng mắt thường thì chỉ thấy màu đỏ, còn quan sát bằng kính hiển vi thì có thể đếm được hồng cầu và bạch cầu. Đức tin cũng giống như một thứ kính hiển vi. Nó giúp cho người ta thấy rõ hơn, lớn hơn, thật hơn. Bởi thế đức tin là một sự khám phá, một cái nhìn tinh tế theo chiều sâu, một thứ ánh sáng cực mạnh dọi vào sự vật giúp ta nhìn thấy tận bên trong. Chính vì các đạo sĩ có lòng tin nên đã nhận ra Con Thiên Chúa trong khi những người khác chỉ thấy một trẻ thơ.

KINH NGHIỆM NỘI GIỚI 

Như vậy thì đức tin có phải là cái gì hoàn toàn chủ quan không? Người tin có phải chỉ là một người bị ám ảnh bởi một đối tượng do chính mình tưởng tượng ra?

Đức tin thật ra không hoàn toàn khách quan mà cũng không hoàn toàn chủ quan.

Không hoàn toàn khách quan vì những điều người tín hữu tin không thế cân, đong, đo, đếm được. Không thế chứng minh bằng lý luận như một bài toán hay một định luật khoa học, không thế viết thành công thức đưa vào máy điện toán để kiểm chứng. Tin là một xác tín cá nhân chỉ chắc chắn cho chính người tin.

Nhưng đức tin cũng không hoàn toàn chủ quan vì không phải chỉ có một người tin nhưng hằng bao nhiêu tỷ người thuộc các thế hệ cùng tại. Và những người tin này đều lành mạnh, tỉnh táo, sáng suốt, trong đó có biết bao nhiêu nhà bác học hàng đầu của thế giới. Ở thế kỷ XIX, trong số 432 nhà bác học lớn đã có tới 357 Kitô hữu.

Thực ra đức tin là một thứ kinh nghiệm nội giới độc đáo có tính riêng tư. Kinh nghiệm này, mình thấy rõ, thấy thật, mình cảm nghiệm được, nhưng hầu như không thế truyền đạt giải thích cho người khác, chỉ mình mình biết. Trong lãnh vực tôn giáo, mỗi người phải cảm nghiệm cho mình bằng tâm hồn. Tự chúng, những thực tại tôn giáo không thế chứng minh được, lý lẽ nào cũng chỉ là gợi ý có tính thuyết phục tương đối. Vì thế mới cần đến chứng tá đời sống. Chính đời sống sẽ biện minh cho những gì không thế giải trình bằng lý luận.

Đức tin cũng giống như cảm hứng và cái nhìn của nghệ sĩ. Nghệ sĩ hơn người ở chỗ cảm thấy cái đẹp, nhìn thấy cái đẹp, nhận diện được cái đẹp ở những nơi, vào những lúc mà người thường chẳng thấy gì cả. Không thể nói người nghệ sĩ bịa đặt ra một cái gì thực ra không có, nhưng phải nhìn nhận rằng tâm hồn không có tính nghệ sĩ là tâm hồn thiếu nhạy bén. Người có đức tin giống nghệ sĩ ở chỗ tâm hồn cởi mở, nhạy cảm nên nắm bắt, lĩnh hội được cái vô hình. Tâm hồn người tín hữu bắt trúng tần số.

Toliver một nhà truyền giáo ở miền Tây Trung Hoa có lần gặp hai viên chức cao cấp đồng thời cũng là những Kitô hữu nhiệt thành. Một trong hai người kể rằng: trong một cuộc oanh kích, ông ta, bà vợ và đứa con gái nhỏ 6 tuổi không tìm được nơi trú ẩn, nên phải nấp dưới gầm bàn ăn. Bom nổ ngay bên, nên họ chỉ còn biết cúi đầu cầu nguyện. Khi qua cơn nguy biến, đứa bé nhìn lên thấy ảnh Chúa Giêsu, em nói:

– Ba ơi, Chúa Giêsu là nơi trú ẩn an toàn nhất, phải không ba?

LÒNG THÀNH VÀ ƠN THÁNH 

Bởi đâu người có đức tin lại có một cái nhìn thấu suốt như vậy? Có điều kiện nào để con người có thể có được một đức tin trong sáng như thế hay không?

Thưa có. Đó là sự thành tâm thiện chí, sự ngay thật khiêm tốn trong tâm hồn. Thiếu những điều kiện đó đức tin khó có thể nảy sinh.

Tuy nhiên dầu có tất cả những điều đó cũng vẫn chưa đủ. Còn cần có tác động của Thiên Chúa trong tâm hồn. Nguồn mạch chính của đức tin là ơn Chúa. Đức tin trước hết là một hồng ân.

Chúng ta tin. Nhưng chính Thiên Chúa làm cho chúng ta có thể tin. Chính Ngài mở lòng mở trí chúng ta để chúng ta thấy và hiểu. Đức tin là một cuộc hiển linh: Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta được thấy Ngài. Chính Ngài rọi ánh sáng vào lòng chúng ta và rọi ánh sáng trên mọi sự để chúng ta có thể thấy. Lời thánh vịnh 39 thật có ý nghĩa: “Trong ánh sáng của Chúa chúng con nhìn thấy ánh sáng”. Mọi ánh sáng đều bắt ngưồn từ nơi Thiên Chúa.

Như vậy người tín hữu là người đã nhận được ánh sáng của Thiên  Chúa và nhìn thấy mọi sự trong và nhờ ánh sáng của Thiên Chúa.

Cũng như các đạo sĩ, người tín hữu đã được Thiên Chúa mở lòng mở trí, đã bắt được ánh sáng của Thiên Chúa, đã được đưa vào thế giới mới của Ngài. Phải gọi ơn này là gì? Gọi là ơn trời biển thì cũng chưa nói được gì về cái phúc của mình. Hãy tri ân và đừng bao giờ coi thường phúc đó. Trái lại hãy sống trọn niềm tin của mình, thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống giống như các đạo sĩ. Sau khi khám phá ra Chúa, cuộc đời họ đã biến đổi hoàn toàn và cuộc sống của có thật nhiều niềm vui.

Có một cậu bé muốn đi gặp Chúa Giêsu. Để chuẩn bị cho cuộc hành trình, cậu bỏ vào giỏ mấy chiếc bánh và hai chai sữa tươi. Và cậu bé lên đường, lòng vui tươi hớn hở. Mới đi được mấy dãy phố, cậu chợt thấy một bà cụ già đang ngồi trên một chiếc ghế đá ở công viên. Cậu thấy mỏi chân nên quyết định ngồi nghỉ một chút bên cạnh bà lão. Cậu lấy một chai sữa tươi ra, định uống cho đỡ khát.

Nhưng nhìn sang, thấy bà cụ run lập cập, có lẽ vì đói quá chăng. Cậu liền lấy bánh lẫn sữa ra mời bà. Bà cụ nhận tất cả với một nụ cười cảm động và biết ơn. Ôi nụ cười mới đẹp làm sao? Thế là hai bà cháu mải mê ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ với nhau mãi.

Buổi chiều, khi cậu bé trở về nhà, bà mẹ thấy con rất vui liền hỏi:

– Hôm nay con có chuyện gì mà vui thế?

Cậu hớn hớ khoe:

– Mẹ có ngờ được không? Hôm nay con đã  cùng ngồi ăn trưa với Chúa Giêsu. Người có nụ cười thật đễ thương mẹ ạ!

Trong khi đó, bà lão cũng chậm rãi trở về nhà, lòng chan chứa một niềm bình an. Cậu con trai lớn của bà hỏi thăm ngay từ cửa:

– Mẹ ơi, sao hôm nay mẹ có vẻ vui thế nhỉ?

Bà cụ móm mém trả lời:

– Này, con có ngờ được không? Hôm nay mẹ đã cùng được ngồi ăn trưa với đức Giêsu. Người trẻ hơn mẹ tưởng nhiều con ạ!

Xin chúc các bạn một năm mới tràn đầy hồng ân và luôn được gặp Chúa trong cuộc đời. Amen.

Về mục lục

.

SAO MAI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Be-lem thuộc xứ Giu-đa,
Đêm thâu lặng lẽ, Chúa Cha quan phòng.
Bao năm mòn mỏi cầu mong,
Ngôi Con xuống thế, từ lòng Mẹ yêu.
Lều tranh vách đá cô liêu,
Đêm đông lạnh giá, thiên triều giáng lâm.
Mùi tanh hôi hám âm thầm,
Hạ sinh Con Chúa, thương tâm nghèo hèn.
Trời quang sao lạ đêm đen,
Ba nhà Đạo Sĩ, mon men bóng mờ.
Phục mình kính lạy tôn thờ,
Hiến dâng của lễ, đơn sơ vàng ròng.
Nhũ hương mộc dược tình trong,
Tỏa hương thơm ngát, trong lòng thánh nhân.
Tràn đầy tỏa sáng hồng ân,
Trở về chốn cũ, canh tân cuộc đời.
Hê-rô-đê ác rối bời,
Âm mưu sát hại, Vua Trời giáng lâm.
Nhỏ nhen ganh ghét tiểu tâm,
Mưu thâm ác độc, âm thầm giết oan.

Ngày Lễ Giáng Sinh, Chúa đã tỏ mình ra cho các mục đồng là những kẻ khó nghèo. Hôm nay Lễ Hiển Linh, Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ khôn ngoan. Họ đã dõi theo sao mai rạng chiếu tìm đến bên Chúa Hài Nhi. Các nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ngôi sao lạ và họ đã đọc được dấu chỉ của trời cao. Họ đã nhất tâm đi tìm. Họ được diễm phúc gặp gỡ, bái kính và thờ lạy Vua Vũ Trụ, dưới hình hài một trẻ hài nhi bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ.

Thái độ của các nhà đạo sĩ là tâm tình của những con người chân thành. Họ tìm và gặp được Chúa. Họ thành kính dâng Chúa những lễ vật để tỏ lòng thành kính. Sau khi gặp được Chúa, các nhà đạo sĩ đã được biến đổi. Họ trở nên con người mới và tâm hồn họ đầy hoan lạc. Các nhà đạo sĩ quyết tâm xa lìa danh vọng trần thế. Họ đã tránh mưu kế thâm độc và nham hiểm của Hêrôđê. Họ đã tìm đường khác âm thầm trở về quê mình.

Trong khi thái độ của Vua Herôđê và dân quân thì khác hẳn thái độ của các đạo sĩ. Họ cũng nhận biết ngôi sao lạ xuất hiện và hiểu được Kinh Thánh loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, nhưng họ sợ sệt và ganh tị. Hêrôđê đầy uy quyền, sức mạnh và của cải đầy dư. Ông chỉ lo cho sự an toàn và ngôi báu của mình. Đấng Cứu Thế xuất hiện sẽ khuấy động cuộc sống an toàn của ông. Đôi khi chúng ta cũng giống như Vua Hêrôđê, chúng ta sợ đến gần Chúa. Chúng ta sợ phải từ bỏ những của cải, chức quyền và danh lợi thú. Chúng ta muốn kính nhi viễn chi và giữ khoảng cách với Chúa để khỏi phải phiền hà và bị quấy rầy. Có nghĩa là chỉ giữ đạo trung dung vừa phải để khỏi bị loại. Theo Chúa, chúng ta cần sống đạo trong tình yêu.

Chúa đã yêu thương chúng ta hết mình qua cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại. Hãy bước đến gần Chúa và ngước nhìn lên thánh giá, nơi Chúa chịu đóng đinh. Nay Chúa không dùng sứ thần hay ngôi sao lạ để dẫn đường. Chúa muốn dùng chính chúng ta là những người đã được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta hãy đem ánh sáng và niềm vui đến cho mọi người. Chúng ta hãy làm nhân chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày.

Về mục lục

.

THÀNH TÂM

Trầm Thiên Thu

Thánh sử Gioan minh định về Đấng Cứu Thế: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:9-11). Đấng đó chính là Hài Nhi Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, sinh bởi Đức Nữ Trinh Maria tại hang đá miền Belem năm xưa. Nhưng nhân loại vô cùng tồi tệ vì từ khước tiếp nhận Ngài bằng nhiều cách – ngày xưa theo kiểu xưa, ngày nay theo kiểu nay.

Thiên Chúa không cần gì, vì Ngài có mọi sự, Ngài chỉ cần tấm lòng. Thật vậy, tấm lòng rất quan trọng: “Hãy suy tưởng ngay lành về Đức Chúa và thành tâm kiếm tìm Người” (Kn 1:1). Con người phàm phu tục tử cũng vẫn luôn cần tấm lòng dành cho nhau, dù cho có thể tấm lòng đó không được người khác đón nhận nhưng chúng ta vẫn phải chân thành. Trịnh Công Sơn gọi đó là “gió cuốn đi” (Sống trong đời sống cần có một tấm lòng…).

Những người trung niên trở lên chắc còn nhớ ngày xưa gọi là Lễ Ba Vua – chú ý tới “đối tác” là các khách đến thăm viếng, nhưng ngày nay gọi là Lễ Hiển Linh – chú ý tới chủ thể (chính Thiên Chúa hiển vinh). Tuy nhiên, thật ra không chỉ có 3 vị mà nhiều vị, và họ cũng không phải là các Quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia, các hiền nhân từ Đông phương đi tìm “nhân vật đặc biệt” mà họ nhận biết, họ miệt mài đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn tới hang đá Belem để diện kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài. Chính Ngôi Hai đã hóa thành nhục thể, làm người, để đồng lao cộng khổ với số kiếp con người của chúng ta. Quả thật, đó là cách độc đáo Chúa dùng để cho muôn dân nhận biết Ngài là Thiên Chúa.

Dựa vào Phúc Âm thứ nhất – Tin Mừng theo Thánh sử Mátthêu, và các nghiên cứu về lịch sử tôn giáo, chúng ta thấy có các chi tiết và các điểm khác biệt từ câu chuyện về ba đạo sĩ. Qua đó, chúng ta thấy có 4 điểm chính:

– Họ là người Ba Tư đến từ vùng đất bán thần thoại Shir (liên quan Trung quốc cổ đại) với cuộc hành trình dài.

– Có hàng chục đạo sĩ chứ không chỉ có ba người đã viếng thăm Hài Nhi Giêsu. Phúc Âm theo Thánh Mátthêu không xác định số người, chỉ đề cập ba người tiến dâng lễ vật cho Hài Nhi Giêsu.

– Ba đạo sĩ được mô tả là hậu duệ của Seth, con trai thứ ba của Ông Tổ Adam. Theo quy ước, người ta đồng ý gọi tên của ba đạo sĩ là Balthasar, Gaspar và Melchior.

– Họ thuộc một giáo phái có niềm tin vào việc cầu nguyện thầm lặng. Họ đã chờ đợi rất lâu để có thể nhận thấy Ngôi Sao Lạ xuất hiện, và họ tin đó là dấu hiệu báo về một Thiên Tử.

Họ không phải là vua chúa hoặc quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia hoặc hiền nhân, và đến từ Đông phương xa lắc xa lơ, miệt mài đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường đến tận Belem để diện kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài.

Đó là một hành trình đức tin kỳ diệu. Họ tìm kiếm Thiên Chúa, và họ đã gặp được Thiên Chúa. Đúng như ngôn sứ Isaia cho biết: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên” (Is 55:6). Những người thành tâm thì sẽ dễ dàng quyết tâm.

QUYẾT TÂM LÊN ĐƯỜNG

Quyết tâm là điều quan trọng để có thể làm bất cứ việc gì. Các hiền nhân quyết tâm ra đi nhưng chưa biết sẽ đến đâu và trong thời gian bao lâu, một hành động không dễ chút nào. Lòng thành của họ đã được Thiên Chúa đền đáp bằng cách cho xuất hiện Ánh Sao Lạ để dẫn đường cho họ.

Từ mấy ngàn năm trước, Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con, và nay lời hứa đó đã ứng nghiệm trọn vẹn: Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng nhân loại.

Tất cả chúng ta đều là tội nhân, những kẻ nô lệ tội lỗi, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được Đức Giêsu đến giải thoát, tháo gỡ mọi gông cùm của tội lỗi, đưa ra khỏi bóng đêm của ma quỷ, đặc biệt là chúng ta được thừa nhận “thực sự là con cái của Thiên Chúa” (1 Ga 3:1-2; Rm 8:16), và ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60:1-2). Ôi, niềm hạnh phúc lớn lao quá!

Thật vậy, chúng ta không chỉ được giải thoát và trở nên con cái Thiên Chúa, mà còn được Ngài quan tâm, chăm sóc và nâng niu: “Con trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông” (Is 60:4). Vì thế, chúng ta không còn buồn vì thoát khỏi “vòng kim cô” của ma quỷ, tất nhiên không thể không vui cười hớn hở, với bộ mặt rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, vui như ngày hội và vui như tết – tết tâm linh.

Tại cánh đồng hoang vu Belem kia, Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối năm xưa lại chính là Tân Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng Đức Chúa. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:6).

Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để PHỤC VỤ chứ KHÔNG ĐƯỢC ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32), Ngài “đến để TÌM và CỨU những gì đã mất” (Lc 19:9), và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào” (Ga 10:10). Cách hành động của Vua Nghèo quá “ngược đời”, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí là không muốn hiểu! Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, và Ngài nói “toạc móng heo” luôn: “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi” (Is 55:8). Một sự thật minh nhiên bất biến.

Tuy nhiên, triều đại của Vua Nghèo vẫn “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72:7), để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” (Tv 72:11). Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, Ngài luôn THEO SÁT đồng bào, Ngài luôn TẬN TỤY với đám dân nghèo, Ngài cương quyết BẢO VỆ công lý, bảo vệ sự thật. Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ” (Tv 72:12-13). Ai cũng có nhân vị, thế nên nhân phẩm và nhân quyền phải được tôn trọng, kể cả sự sống, bởi vì tội nhân cũng là thụ tạo của Thiên Chúa và là con cái của Ngài.

Khi các hiền nhân từ Đông phương thấy Ánh Sao Lạ, họ biết có một đại nhân vừa xuất hiện, thế là họ quyết tâm và mau mắn lên đường, không quản ngại đường xa hiểm trở, mong tìm cho ra đại nhân kia. Và rồi ánh sao dẫn đường đã dừng lại trên một hang chiên lừa hẻo lánh thuộc miền Belem.

Khi nhìn thấy cảnh tượng như vậy, nếu là chúng ta thì có lẽ chưa chắc muốn bước vô, thậm chí có thể kéo nhau quay đi hướng khác cho nhanh, có thể “chạy mất dép” chứ chẳng là giả thuyết đâu! Thế nhưng các đạo sĩ không ngần ngại bước vô. Họ là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu có nữa. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô Chú “nhìn thấy thương”, nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu ngơ” chẳng biết ất giáp gì, có lẽ mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với “mắt chữ O, miệng chữ A”, nhưng họ vẫn KHÔNG HỀ THẤT VỌNG và TIN THẬT rằng Trẻ Sơ Sinh kia là “dị nhân” mà họ muốn tìm gặp, rồi họ bước vào triều yết Hàn Vương và kính chào Hàn Phu Thê. Thật khó tin, y như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện thật. Mà không chỉ vậy, các đạo sĩ còn dâng những lễ vật quý báu nhất mà họ đã chuẩn bị và đem theo.

Ngày nay, chúng ta không thấy cảnh Hàn Gia lúc đó nhưng chúng ta được học biết đó là mầu nhiệm, và chúng ta đã tin. Giả sử tận mắt chứng kiến thì chắc chúng ta chưa chắc dám tin Em Bé Giêsu chính là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm người. Thế thì chúng ta may mắn lắm, bởi vì Thánh Phaolô cho biết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô” (Ep 3:2-3). Thật là đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ của Người” (Ep 3:5). Thánh Phaolô giải thích: “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:5-6).

Một lần nữa, chúng ta lại thật may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, nên “một thân thể” và “cùng chia sẻ” với Thiên Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều cần phải thực hiện điều tiếp theo, đó là sẵn sàng, quyết tâm và hành động. Hành động bằng cách nào? Vào đời và ra khơi…

QUYẾT TÂM VÀO ĐỜI – RA KHƠI

Chúa Giêsu là Thiên Vương, theo cách gọi của phàm nhân thì Đức Maria là Mẫu Hậu và Đức Thánh Giuse là Phụ Vương – dù ngài là Dưỡng Phụ. Sắp lâm bồn mà tìm không ra chỗ trọ, Chồng đành đưa Vợ ra “cánh đồng hoang”, may còn có cái hang để chui vào. Không người thân thích, không ai giúp đỡ. Chồng vất vả lo cho Vợ từ A đến Z. Thật khổ, nhưng Chồng không ngại chi, cứ lặng lẽ làm luôn tay. Vợ sinh xong, được Mẹ tròn Con vuông là mừng húm rồi. Sau đó lại được đám mục đồng ghé thăm, rồi thêm mấy đạo sĩ ghé thăm. Cũng đỡ tủi thân và được an ủi phần nào nơi đất khách quê người. Thế nhưng chuyện đời chưa hết, bộ phim “cảnh khổ” vẫn chưa kết thúc!

Thời gian đó là lúc vua Hêrôđê trị vì. Ông ta được đám người lạ vào hỏi thăm: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:1-2). Nghe vậy, Hêrôđê tá hỏa, choáng váng, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Ông ta sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi, ông ta liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, hỏi cặn kẽ xem Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen sẽ ra đời” (Mt 2:6). Thế là vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi rõ ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, phái họ đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2:8). Mưu sâu kế độc chứ chẳng tốt lành gì!

Họ nghe nhà vua nói thế thì tưởng ông này tốt bụng, họ an tâm ra đi mà không hề biết vua Hêrôđê “khẩu Phật, tâm xà”, mưu kế thâm độc, chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn năng” của mình mà thôi. Thời nay cũng có nhiều kẻ theo “sách lược” của Hêrôđê. Kinh tởm! Rồi các hiền nhân tiếp tục đi theo ngôi sao và được dẫn đến tận nơi. Khi thấy ngôi sao dừng lại, thế là “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là cô Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (Mt 2:11). Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Ôi, hay quá chừng luôn. Thật tuyệt vời!

Sau khi “nựng” Bé Giêsu và trò chuyện với Song Thân của Bé, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, họ bất ngờ vì biết mưu độc của gã Hêrôđê, và họ đã tìm lối khác mà về xứ mình. Các hiền nhân đã nỗ lực tìm gặp “dị nhân” Giêsu cho bằng được, gặp rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, sẵn sàng ra khơi mặc dù gió to sóng lớn. Họ tránh ác nhân Hêrôđê là cách hành động tích cực và sống tốt.

Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân. Theo Thánh GH Phaolô VI “chính trị là một dạng bác ái cao nhất”. Đức ái là một dạng sống tốt, là chia sẻ yêu thương và những gì mình có – vật chất hoặc tinh thần. Kinh Thánh cho biết: “Những điều tôi đã thành tâm học hỏi được, xin truyền đạt hết, không dè sẻn chi. Tôi không hề giấu giếm của cải phong phú của Đức Khôn Ngoan” (Kn 7:13).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương các hiền nhân Đông phương xưa, không ngừng miệt mài tìm Ngài, và can đảm hành động vì Ngài. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn sáng soi chúng con suốt hành trình trần thế, thúc giục chúng con mau mắn thi hành đúng Thánh Ý Ngài mọi lúc, mọi nơi. Lạy Mẹ Maria và Thánh Giuse, xin nguyện giúp cầu thay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

VÀNG, NHŨ HƯƠNG VÀ MỘC DƯỢC CỦA TA

Lm. Bosco Dương Trung Tín

Chúng tôi đã thấy Ngôi Sao của Người xuất hiện bên phương đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,2).

Việc Ba nhà Đạo Sĩ làm như thế có chính đáng không?

Với Ngôi Sao dẫn đường, Ba Nhà Đạo Sĩ đã tới hang Bê-lem, họ thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, họ liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.(x.Mt 2, 11).

VÀNG tỏ ý Hài Nhi Giê-su là VUA.

NHŨ HƯƠNG tỏ ý Hài Nhi Giê-su là CHÚA.

MỘC DƯỢC tỏ ý Hài Nhi Giê-su sẽ chịu nạn chịu chết.

Quả thực, Đức Giê-su là VUA, là CHÚA và Ngài sẽ chịu nạn chịu chết để cứu độ nhân loại, nên việc làm của Ba Nhà Đạo Sĩ thật là chính đáng và phải đạo. Thế nhưng, Sau khi gặp được Hài Nhi Giê-su, theo lời báo mộng của Thiên Thần, Ba Nhà Đạo Sĩ, lẳng lặng về đường khác mà không báo cho vua Hê-rô-đê biết. Hậu quả là toàn thể các bé trai từ 2 tuổi trở xuống trong thành Bê-lem và các miền phụ cận đều bị cơn giận của Hê-rô-đê giết chết.

Việc nghe lời Chúa hơn nghe lời người phàm, dù là ông vua của Ba Nhà Đạo sĩ như thế có đúng không?

Nếu Ba Nhà Đạo Sĩ báo cho vua Hê-rô-đê biết thì chỉ một mình Hài Nhi Giê-su chết thôi. Nhưng nếu Hai Nhi Giê-su bị giết lúc đó thì kế hoạch cứu độ nhân loại của Thiên Chúa không thực hiện được, nó bị thất bại ngay từ trong trứng nước. Các trẻ em, dù có bao nhiêu em bị giết cũng không cứu độ được ai. Phải đợi đến 30 năm sau, khi Đức Giê-su rao giảng Tin Mừng và chịu chết trên thập giá, mới đem ơn cứu độ cho nhân loại trong đó có các trẻ bị giết, được gọi là Các Thánh Anh Hài.

Như thế, việc nghe lời Chúa hơn nghe lời người phàm của Ba Nhà Đạo Sĩ là đúng. Phải sợ Thiên Chúa hơn là sợ người phàm. Điều này chính Đức Giê-su đã nói: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục” (x.Mt 10,28).

Và hai thánh Phê-rô và Gio-an cũng đã tuyên xưng rõ ràng rằng: “Nghe lời các ông hơn hay nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không?” (x. Cv 4, 19). Câu hỏi cũng là câu trả lời, phải nghe lời Thiên Chúa hơn lời người phàm, mới phải lẽ.

Thế nhưng, trong cuộc sống hiện tại, chúng ta lại sợ người phàm hơn sợ Thiên Chúa. Ta hãy coi lại thái độ sống của mình.

Trong tám mối phúc thật, mối phúc thứ tám nói rằng: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (x. Mt 5,10).

“Sống công chính” là sống làm sao?

Có thể nói mối phúc này tóm lại các mối phúc trước đó. Nghĩa là những ai có tâm hồn nghèo khó; những ai sống hiền lành; những ai sầu khổ; những ai biết xót thương người; những ai có tâm hồn trong sạch; những ai xây dựng hòa bình, đó là những người sống công chính.

Đức Giê-su giải thích: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (x.Mt 5, 11-12).

Vậy, khi vì Chúa, những ai có tâm hồn nghèo khó; những ai sống hiền lành; những ai sầu khổ; những ai biết xót thương người; những ai có tâm hồn trong sạch; những ai xây dựng hòa bình mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống, thì đó mới là người có phúc và có phần thưởng lớn lao ở trên trên trời.

Ta nên nhớ, Chúa nói phần thưởng ở trên trời chứ không phải ở dưới đất. Ở dưới đất, ta chỉ có bị sỉ vả, bách hại và vu khống khi sống công chính thôi. Đó chính là phần thưởng của ta khi sống công chính ở đời này đấy. Nên, khi bị sỉ vả, bách hại và vu khống, ta đừng có kêu, cũng đừng có than trời trách Chúa. Ta mà kêu, mà than mà trách thì ta chẳng được công phúc gì ở trên trời đâu; có mang thêm tội thì có. Cái tội không tin vào Chúa, cái tội không trông cậy vào Chúa. Cái tội KHI QUÂN phạm thượng.

Nhưng, trước khi dám chịu bách vì sống công chính, ta phải sống mối phúc thứ 4 là: “Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (x.Mt 5,6). Vì trước khi làm, trước khi sống, thì phải có lòng khao khát đã. Khao khát nghĩa là lòng muốn, ước muốn. Nghĩa là ta ao ước muốn nên người công chính; muốn sống công chính. Đây là sức mạnh tinh thần phải có, để ta có thể công chính và có thể chịu đựng và vượt qua khi bị sỉ vả , bách hại và vu khống.

Lòng khao khát đó như đói ăn, khát uống vậy. Khi đói thì ta phải ăn, để sống, nhưng không phải cái gì ta cũng ăn. Ta ăn cơm, ăn bánh, ăn rau củ, ăn thịt, ăn cá chứ không ăn cây, ăn đất hay ăn sách vở. Uống cũng vậy, khi khát thì ta uống nước, uống sữa, uống trà, uống nước trái cây chứ không uống xăng, uống dầu hay uống nước mắm.

Để sống đức tin và lo cho sự sống đời đời của ta, ta cũng cần có những món ăn tinh thần, đó chính là những điều chính đáng, phải lẽ. Vậy đâu là điều chính đáng, phải lẽ; đâu là điều không chính đáng, không phải lẽ ? Ta hãy xem.

Điều chính đáng, phải lẽ.   Điều không chính đáng, không phải lẽ.

Thờ lạy một Thiên Chúa.      Thờ lạy cái gì đó ngoài Thiên Chúa.

Tạ ơn Chúa.                Không tạ ơn ai.

Cầu nguyện.                Không cầu nguyện.

Đến Nhà thờ.               Không đến nhà thờ.

Tham dự thánh lễ Chúa Nhật.  Không tham dự thánh lễ Chúa Nhật.

Thảo kính cha mẹ.      Không thảo kính cha mẹ.

Vâng lời cha mẹ.         Không vâng lời cha mẹ.

Không giết người.       Giết người.

Kết hôn.                      Ly hôn.

Không trộm cắp.         Trộm cắp.

Nói thật.                      Nói dối.

Nói thẳng, nói thật.     Nói hành, nói xấu.

Chân thành, chân thật.  Giả hình, giả bộ.

Việc tốt.                      Việc xấu.

Thương xót.               Không thương xót.

Yêu.                           Ghét.

Tha thứ.                    Không tha thứ.

Siêng học.                 Lười học.

Chuẩn bị.                  Không chuẩn bị.

Khiêm nhường.        Kiêu ngạo.

Nghe lời Thiên Chúa.    Nghe lời người đời.

Sợ Thiên Chúa.             Sợ người đời.

vv…………….      Và     vv…………………….

Quả thực, chúng ta là những con người yếu đuối và giới hạn, như thánh Phao-lô nói, những việc không chính đáng, không phải lẽ, ta không muốn nhưng ta lại làm; còn những điều chính đáng, phải lẽ ta muốn nhưng ta lại không làm. Bởi đó, khi ta muốn, ta ước ao những điều chính đáng, phải lẽ là ta đã có phúc rồi và khi làm mà bị sỉ vả, bách hại và vu khống nữa thì ta càng có phúc và sẽ lãnh được phần thưởng bội hậu ở thiên đàng. Ta mà làm những việc không chính đáng và không phải lẽ thì ta sẽ vô phúc thôi và sẽ bị phạt ở đời sau đấy.

Có thể nói ước ao sống công chính và những điều phải lẽ và dám hy sinh chịu sỉ vả, bách hại và vu khống là VÀNG, là NHŨ HƯƠNG và là MỘC DƯỢC của ta. Là VÀNG, vì nó sẽ nên phần thưởng cho ta sau này. Là NHŨ HƯƠNG, vì nó sẽ là của lễ của ta dâng tiến Chúa. Và là MỘC DƯỢC, vì nó sẽ ướp con người và cuộc đời của ta, làm cho ta công chính và thánh thiện.

Vậy ta hãy có lòng ước ao những điều chính đáng và phải lẽ, để ta trở thành người có phúc và được Chúa ban cho thỏa lòng. Và ta cũng hãy vì Chúa mà sống công chính, dù có bị người đời sỉ vả, bách hại và vu khống. Ta sẽ là người có phúc và sẽ lãnh được phần thưởng trọng hậu ở trên trời.

Về mục lục

.

SAO TÌNH YÊU

Lam Thy

Lễ Hiển Linh trước đây gọi là Lễ Ba Vua vì căn cứ vào ba của lễ qúy giá các Đạo Sĩ Đông phương dâng lên Chúa Hài Nhi: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược (Mt 2, 11). Vào thời đó, ba lễ vật này rất qúy, chỉ có trong các hoàng tộc; vì thế nên lúc đầu, người ta tưởng phái đoàn đến thờ lạy Chúa Hài Nhi gồm có Ba Vua và gọi lễ này là Lễ Ba Vua. Sau này, khoa khảo cổ tiến bộ, người ta tìm hiểu kỹ hơn và nhận ra phái đoàn gồm có các nhà “Thông thái” hay “Đạo sĩ” hoặc “Chiêm tinh” (dịch từ chữ ‘Magi’ là danh từ của người Ba Tư thời đó để chỉ những người tài giỏi, thông thái được chọn vào hàng tư tế, hoặc cố vấn cho các triều vua).

Nhiều người cho rằng lần tỏ mình đầu tiên của Đấng Cứu Thế là Đêm Giáng Sinh nơi hang đá Bê-lem (qua nhạc ca tưng bừng cũng như lời loan báo mầu nhiệm Giáng Sinh của các thiên thần, quy tụ mục đồng và chiên lừa tới thở hơi ấm và triều bái Người); đồng thời – qua vì Sao Tinh Yêu diệu kỳ – soi đường dẫn lối 3 nhà đạo sĩ từ phương Đông đem vàng hương, mộc dược tới bái kiến nữa. Thực ra, ngay từ khi mới hình thành bào thai trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria, Đức Giê-su Thiên Chúa đã tỏ mình ra khiến một bào thai mới được 6 tháng (Gio-an Tiền Hô) đã nhảy lên mừng rỡ trong bụng người chị họ Ê-li-za-bet, cùng với lời chúc mừng của người chị họ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 2, 42-45).

Cũng không ít người cho rằng Chúa chỉ tỏ mình ra cho 3 nhà đạo sĩ, còn đối với dân Do Thái (cụ thể là dân thành Giê-ru-sa-lem) và nhất là vua-sát-thủ-Hêrôđê thì không có được vinh dự đó. Thực ra, Chúa đã tỏ mình ra cho tất cả mọi người, nhưng vấn đề đặt ra là khi thấy dấu chỉ hiển linh đó, thì con người có tin hay không và đón nhận như thế nào mà thôi. Các đạo sĩ là dân ngoại tin như vậy chỉ vì một ánh sao, còn “dân nội” Do Thái, nhất là đám thượng lưu trí thức tư tế và luật sĩ có sách Thánh và thuộc Thánh Kinh làu làu, lại không nhận ra Chúa vừa giáng sinh. Thánh sử Gio-an đã chua chát thốt lên “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 10-11). Họ đã cứng lòng không tin từ lần tỏ mình đầu tiên cho đến biết bao nhiêu lần khác trong suốt 33 năm Ngôi Lời làm người, để cuối cùng đóng đinh treo Người trên thập giá cho đến chết.

Còn Hê-rô-đê thì sao? Khác với đa số cho rằng Hê-rô-đê không tin, riêng kẻ viết bài này nghĩ rằng ông ta đã tin lời ba vị đạo sĩ, nên mới “Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.” (Mt 2, 3-4). Nếu không tin thì có cần như thế không? Bình thường, khi nghe hỏi “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?”, ai cũng nghĩ rằng đó là chuyện hoang đường, vì đối với xã hội loài người, làm gì có người mới sinh ra đã là vua? Nhưng Hê-rô-đê thì lại tin rằng thực sự đã có một ông vua mới sinh, và vì mới sinh đã là vua nên tất nhiên phải là một vị vua quyền lực thượng đẳng có thể làm cho bạo chúa trở thành kẻ trắng tay. Vậy phải bằng mọi cách trừ khử ngay lập tức từ trong trứng nước kẻ đã dám đe doạ ngai vàng của mình sụp đổ.

Tất yếu cơn thịnh nộ của hung thần sát thủ sẽ vô cùng khủng khiếp, hàng loạt hài nhi đã bị tru diệt thẳng tay. Thế đấy! Từ vua quan đến sĩ thứ của một dân được coi là “hàng nội 100%” đã đón tiếp Đức Vua Hoà Bình như vậy đó. Và có lẽ cũng vì thế, nên vì tình yêu bao la không phân biệt nội hay ngoại, Thiên Chúa đã dùng vì Sao Tình Yêu để “tỏ mình cho dân ngoại”. Ba vị đạo sĩ, bằng sự hiểu biết của mình, đã được chiêm ngắm vì Sao đó, và với tâm đia ngay thẳng bộc trực, đã vô tình chọc giận hung thần Hê-rô-đê; nhưng mặt khác lại chứng tỏ cho thiên hạ (kể cả Hê-rô-đê) biết thực sự đã có một vị Con Trời và là Ông Trời thật, giáng trần. Ngày xưa vẫn gọi vua là Thiên tử (con Trời), mà vị Vua ấy sinh tại Do Thái nên mới gọi là Vua Do Thái, chớ thực ra vị Vua ấy không phải là Vua Do Thái theo cách hiểu hạn hẹp của Hê-rô-đê (nói chung là của loài người). Người là Vua, mà còn là Vua trên hết các vua trần gian nữa, bởi “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36).

Con người luôn có niềm tin, có tin thì mới sống được. Chính vì thế, nên cần phải xét xem niềm tin đó được thể hiện như thế nào. Tin có một vị vua mới sinh sẽ làm mất ngôi vị độc tôn của mình như Hê-rô-đê, để rồi trở thành kẻ sát nhân máu lạnh khủng khiếp. Tin rằng vì vua ấy sẽ làm đảo lộn sinh hoạt xã hội dân Do Thái, để rồi hoang mang lo sợ và cách này cách khác tiếp tay cho hung thần Hê-rô-đê giết chết đối tượng mà mình đã tin; hay nên tin rằng đó là vị Vua Công Chính, là Cứu Chúa sinh ra để cứu độ nhân loại như 3 vị đạo sĩ phương Đông? Đặt giả thử nếu 3 vị đạo sĩ cũng bán tín bán nghi như dân Do Thái, thì ánh sao lạ có lôi cuốn được hay không? Chắc chắn đó phải là 3 chiêm tinh gia (biết ngắm sao, biết xem sao) đã tìm hiểu, đã biết và đã tin, và chỉ có như thế thì mới không quản gian lao vất vả, cất công mang vàng hương mộc dược lặn lội từ phương Đông tới để được triều bái Người.

Tỏ mình ra cho một dân (dân “nội” đàng hoàng) đã luôn miệng huênh hoang kêu “Lay Chúa! Lạy Chúa!” để khoe khoang về niềm tin của mình, nhưng thực chất trong lòng thì rỗng tuếch. Đừng trách chi tầng lớp bình dân của dân nội (Do Thái), mà ngay cả đến hàng ngũ trí thức, lãnh đạo chỉ chuyên “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” như đám thượng tế, kinh sư cũng cách này cách khác cố tình không nhận ra dấu chỉ tỏ mình của Con Thiên Chúa. Hoá cho nên Thiên Chúa đã dùng ngôi Sao Tình Yêu Bê-lem để “tỏ mình ra cho dân ngoại”. Vương quốc của Vương Nhi Giê-su không bó gọn trong phạm vi Do Thái, mà là “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3, 6). Như vậy thì ngôi sao Bê-lem đã báo Tin Mừng về mầu nhiệm Tinh Yêu được thực hiện khi “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại” và đó chính là dấu chỉ mầu nhiệm Giáo hội trong tương lai.

Cách đây hơn 20 thế kỷ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tỏ mình ra và được đón tiếp bằng nhiều cung cách: 3 nhà đạo sĩ, các mục đồng tới tung hô triều bái, thậm chí đến cả động vật như chiên lừa cũng tới để thở hơi ấm cho Vương Nhi Giê-su; nhưng vua quan sĩ thứ của Do Thái thì lại hoang mang lo sợ cho địa vị của mình mà lùng giết Hài Nhi. Tưởng chừng như thế thì không còn lý do gì để Thiên Chúa tỏ mình ra nữa, nhưng không, hoàn toàn không, Thiên Chúa vì tình yêu, vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại bằng nhiều hình thức, nhiều dấu chỉ. Thiên Chúa đã tỏ mình ra với loài người, với thế giới qua vẻ đẹp của vũ trụ, qua những khám phá, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, qua rất nhiều phép lạ cứu chữa những bệnh nhân, kể cả những người tội lỗi. Không những thế, Người còn tỏ mình ra qua những cử chỉ, những thái độ thành tâm thiện chí của con người, những tấm lòng bác ái, những tổ chức từ thiện trên khắp mặt đất. Chính những điều Thiên Chúa “mạc khải” cũng là chứng tích của việc Thiên Chúa tỏ mình ra.

Chúa vẫn đi tìm con người hơn là con người đi tìm Chúa. Và con người ngày nay đã đón tiếp vị Cứu Chúa như thế nào so với thời điểm tỏ mình ra đầu tiên của Người? Cũng có đủ trạng thái không thua gì ngày xưa: Tuy Giáo hội của Chúa đã lan toả khắp năm châu bốn biển, nhưng tỉ lệ những người tin vẫn là thiểu số so với dân số thế giới; vẫn còn nhiều những dân ngoại (kể cả dân nội “marque déposée” – nhãn hiệu trình toà – đàng hoàng) hoang mang lo sợ, nhưng lại thờ ơ trước những dấu chỉ, những biến cố mình chứng sự hiện diện của Chúa trên trần gian. Rồi cũng còn rất nhiều những sát-thủ-Hêrôđê-thời-đại cách này cách khác lùng giết Hài nhi Giê-su, đóng đinh Cứu Chúa trên thập ác. Ôi chao! Nhiều, nhiều lắm những nạo phá thai, huỷ diệt trứng, tinh trùng, làm cho chết êm dịu, rồi thì cướp của giết người, tranh bá đồ vương, khủng bố, đánh bom tự sát giết hại thường dân…

Ôi! Lạy Chúa Hài Đồng! Như ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ 5 thế kỷ trước khi Chúa tỏ mình ra tại Bê-lem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi” (Is 60, 1), chúng con biết chắc chắn rằng “ánh sáng của chúng con đã đến rồi” không chỉ bằng vì Sao Tình Yêu Bê-lem, mà bằng chính Ngôi Lời nhập thể và nhập thế làm người cứu chuộc chúng con thoát vòng tội lỗi, để có thể chiến thắng sự chết. Không chỉ cách đây hơn 2000 năm, mà hàng ngày, hàng giờ, Chúa vẫn luôn tỏ mình ra ngay tại cung lòng chúng con, trong gia đình, khu xóm, giáo xứ cũng như trên đất nước chúng con và trên toàn thế giới.

Ôi! Lạy Chúa! Ánh Sáng Tình Yêu vẫn luôn chiếu toả chúng con, hiềm một nỗi là chúng con vẫn chưa thực sự cảm nghiệm được mầu nhiệm ấy, để được như ngôi Sao Bê-lem hiển linh Tình Yêu của Chúa, mà thực hành Lời Chúa dạy: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5, 15-16).

Ôi, Lạy Chúa! Con ước ao được là một vì sao thật nhỏ bé (nhưng là bản sao trung thực nhất của Sao-Tình-Yêu-Bêlem) ở ngay trong gia đình con, để dẫn đường chỉ lối cho con cháu của con biết tìm về Chính lộ: nơi đang sáng tỏ mầu nhiệm Giáng Sinh trong mầu nhiệm Giáo hội. Và nếu con còn một chút sức lực nào đó, xin cho con được làm một vì sao bé nhỏ trong khu xóm, trong giáo xứ của con nữa. Xin Chúa thương ban Thần Khí cho con để con có thể làm tròn trách vụ một vì sao Ki-tô hữu trong thời buổi nhiễu nhương, vàng thau lẫn lộn này. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

BƯỚC THEO ÁNH SAO GIÊSU

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Ngày lễ Hiển Linh là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra với con người. Thiên Chúa đến ở với con người và mời gọi con người đến với Ngài. Ngài mời gọi con người bằng những dấu chỉ trong cuộc sống. Đứng trước những dấu chỉ ấy, mỗi người phản ứng mỗi khác. Nhưng trên hết, Chúa muốn mỗi người đón nhận và lên đường đi theo sự chỉ dẫn của Ngài.

Ba thái độ khác nhau

Trong bài Tin Mừng theo thánh Matthêu ngày lễ Hiển linh nổi lên ba thái độ khác nhau của con người đứng trước lời mời gọi của Thiên Chúa qua dấu chỉ ngôi sao lạ.

Các kinh sư và biệt phái đọc Kinh thánh và đã nhận ra ngôi sao là dấu chỉ về việc Chúa tỏ mình ra, nhưng các ông không lên đường để tìm gặp Hài nhi. Các ông tự hào về sự hiểu biết của mình và dừng lại thoả mãn với lý trí. Các ông không gặp được thực tại cụ thể và sống động của một Thiên Chúa đầy tình thương. Cái biết của các ông đã trở nên vô dụng.

Vua Hêrôđê tìm hỏi về ý nghĩa dấu chỉ mà ngôi sao lạ xuất hiện và ông đã được giải nghĩa. Ông đã lên đường để tìm kiếm hài nhi, nhưng không để gặp gỡ một Thiên Chúa sống động, mà là để chống lại Thiên Chúa. Ông tìm gặp Thiên Chúa nhưng không phải để tìm gặp sự thật, không phải để trải nghiệm sự sống dồi dào nơi Thiên Chúa; nhưng để ông tìm kiếm bản thân, củng cố địa vị, duy trì quyền lực. Sự nhận biết như thế chỉ đẩy ông vào vực thẳm của tăm tối, của hận thù, của tan vỡ.

Các đạo sĩ nhận được dấu chỉ và các ông đã lên đường đi theo dấu chỉ. Các ông đã gặp Hài nhi, gặp được Thiên Chúa.

Vì sao lại có những thái độ khác nhau như vậy

Các kinh sư và biệt phái là những người có đạo, đọc Kinh Thánh thường xuyên nhưng họ không thực sự khao khát được gặp Chúa. Họ khao khát khám phá tri thức và bằng lòng với lối sống thực tại nên họ không lên đường đi tìm Chúa.

Hêrôđê  khao khát quyền lực và danh vọng chứ không khao khát Thiên Chúa, không khao khát chân lý và sự thật, nên ông sẵn sàng tìm giết Hài nhi, tàn sát Chân lý để củng cố địa vị quyền lực của mình.

Các đạo sĩ là những người khao khát chân lý, khao khát Thiên Chúa và dám lên đường để đi tìm chân lý, nên các ông đã tìm đến với Hài Nhi.

Thái độ cần phải có trong đời sống kitô hữu

Muốn là Kitô hữu thực thụ, người tín hữu cần có một tâm hồn khao khát Chúa, khao khát chân lý, khao khát sự thật.

Chỉ với một tâm hồn luôn khao khát Thiên Chúa người ta mới có thể nhận ra được những dấu chỉ Chúa gửi đến trong cuộc sống; người ta mới nhạy bén nhận ra lời mời gọi nhỏ nhẹ của Thiên Chúa. Cũng ngôi sao ấy, nhưng chỉ những tâm hồn khát khao gặp gỡ Thiên Chúa như các đạo sĩ mới nhận ra lời mời gọi đến gặp Hài nhi mới hạ sinh.

Nhưng nguyên khao khát Chúa thôi chưa đủ. Một thái độ luôn sẵn sàng lên đường đi tìm gặp

Chúa là điều tối cần thiết. Các đạo sĩ không ngồi chờ thụ động. Thấy ánh sao lạ, họ quyết tâm lên đường ngay để thực hiện cuộc tìm kiếm. Đối với họ, lên đường không là điều đơn giản. Họ phải ngưng công ăn việc làm, bỏ dở nhiều dự định, dấn thân vào xứ lạ, vượt sa mạc mênh mông khô cằn, đi nhưng chưa biết chắc địa chỉ mình đến.

Có lúc như tuyệt vọng: ngôi sao biến mất. Dầu vậy họ đã không nản lòng. Họ cứ tiếp tục lên đường và lòng kiên trì đã đưa họ tới đích. Họ đã gặp Thiên Chúa ở một nơi không phải cao sang, không phải cung vàng điện ngọc, nhưng là nơi máng cỏ, nơi hang đá giá lạnh; không phải là một ông hoàng nhưng là một hài nhi bé nhỏ; không phải vua chúa quan quyền vây quanh nhưng là hai người thường dân quê mùa cùng với lũ trẻ chăn chiên chăn bò. Chỉ có thái độ dám lên đường như các đạo sĩ, chúng ta mới gặp được Thiên Chúa.

Sự gặp gỡ Thiên Chúa sống động sẽ biến đổi đời sống chúng ta

Khi gặp được Chúa rồi, các nhà chiêm tinh đã được biến đổi trong đời sống nên các ông lên đường trở về theo lối khác.

Cuộc gặp gỡ Hài nhi, gặp gỡ Thiên Chúa đã đem lại cho các đạo sĩ một cuộc đời mới. Đời họ đã chuyển sang một hướng khác. Họ không đi về hướng cũ có sự truy lùng của Hêrôđê. Họ đã không về với con đường đầy hận thù, chia rẽ, quyền lực, danh vọng… Nhưng họ đi về với một con đường khác. Con đường có sự hiện diện của Thiên Chúa, con đường của niềm vui và bình an sâu thẳm trong tâm hồn.

Hôm nay đây, nếu ta thực sự gặp gỡ Thiên Chúa, Người cũng sẽ dẫn ta đi sang một lối mới. Đó là lối về bình an. Một sự đổi mới thực thụ sẽ diễn ra trong ta. Để rồi nhờ đó, ta có thể trở nên ánh sao sáng giữa những người đang sống xung quanh ta. Nhờ ánh sao đức tin trong tâm hồn ta mà người chưa biết Chúa có thể tìm đường đến với Chúa.

Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta. Nếu chúng ta khao khát Ngài, sẵn sàng lên đường tìm kiếm Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ gặp Ngài. Sự gặp gỡ Thiên Chúa sẽ cho chúng ta một cuộc sống mới, cuộc sống bình an thực thụ ngay giữa cuộc sống đầy giông tố của ngày hôm nay.

Lạy Chúa, xin soi sáng lòng trí con. Xin thúc đẩy con lên đường rời xa cuộc đời cũ để con được sống cuộc đời mới trong bình an của Chúa.

Về mục lục

.

CHÚA ĐẾN TỎ MÌNH RA CHO MỌI DÂN TỘC

Lm Trần Bình Trọng

Khi các hiền sĩ nhờ ngôi sao lạ dẫn đường đến viếng thăm Ðấng Cứu thế mới sinh tại Bêlem, thì lời ngôn sứ Isaia được thực hiện: Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha, tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa (Is 60:6). Họ từ bên đông, có lẽ từ xứ Ba tư hay Ả rập tìm đến Giêrusalem để viếng thăm Vua mới sinh của người Do thái và kính bái Người. Có thể họ phải đi cả tháng trời mới tới Giêrusalem, rồi đến Bêlem để thăm viếng và triều bái Vua mới sinh. Rồi họ dâng cho Ðấng Cứu thế mới sinh: vàng, nhũ hương và mộc dược. Do ba lễ vật này mà truyền thuyết cho là ba vị, chứ đoàn người đến thăm có thể đông hơn là con số bộ ba.

Câu truyện các hiền sĩ và ngôi sao lạ đã khơi dậy tính tò mò của loài người mà chưa được cắt nghĩa một cách thoả đáng. Theo truyền thuyết, người ta gọi họ là ba Vua với ba mầu da khác nhau: một ông da trắng, một ông da đen, ông kia da vàng tượng trưng cho các chủng tộc trên mặt đất thời bấy giờ. Thời nay những nhà chú giải Thánh kinh coi họ là những nhà thiên văn học, nhà thông thái hay hiền triết. Dĩ nhiên người ta có thể nghiên cứu và đặt giả thuyết về các hiền sĩ và ngôi sao lạ. Tuy nhiên người ta không được quên rằng phần thiết yếu của câu truyện là việc các hiền sĩ đi tìm Ðấng Cứu thế mới sinh và  Ðấng Cứu thế tỏ mình ra cho họ.

Vua Hêrôđê khi nghe tin Ðấng Cứu thế mới sinh thì bối rối, lo ngại vì sợ mất ngai vàng. Còn các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng vì họ cậy họ có sẵn kho tàng Thánh kinh. Họ cho rằng nếu Ðấng Cứu thế xuất hiện thì tự nhiên họ phải biết chứ không cần đi tìm kiếm. Thái độ tự mãn đó đã làm họ mù quáng, không nhận ra ngôi sao lạ để đi tìm Chúa.

Ngày lễ mừng cuộc gặp gỡ đầu tiên đó được gọi là lễ Hiển linh, có nghĩa là việc Ðấng Cứu thế bày tỏ mình ra cho dân ngoại. Theo quan niệm Do thái cổ xưa, thì tất cả những dân không thuộc dòng dõi Do thái, đều là dân ngoại. Trong bài trích sách ngôn sứ Isaia, vị ngôn sứ nhìn thấy trước mặt, một thành Giêrusalem mới có tính cách thiêng liêng và phổ quát, mà chư dân sẽ đến để được chia sẻ ánh vinh quang. Như vậy Ðấng Thiên sai đến không những tỏ mình cho người Do thái, mà còn cho dân ngoại qua các nhà đạo sĩ như là vị Cứu tinh các dân tộc. Chúa Cứu thế đến để thiết lập một Giáo hội cho mọi dân tộc. Do ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Giáo hội mở cửa cho tất cả những ai muốn gia nhập. Theo nghĩa này thì Giáo hội thuộc mọi chủng tộc, màu da và ngôn ngữ. Cũng theo nghĩa này thì Giáo hội có thể được ví như một vườn hoa gồm trăm hoa đua nở dưới muôn vàn màu sắc. Và đó là vẻ đẹp của Giáo hội.

Trong ngày lễ Hiển linh, ta cảm đội ơn Chúa đã tỏ mình ra cho dân ngoại vì một thời ta cũng là dân ngoại. Ta cũng cảm tạ Thiên Chúa đã kêu gọi ta gia nhập Nước Chúa ở trần gian qua nước rửa tội. Vương quốc mà Chúa hứa cho dân trong đạo cũ bây giờ được mở rộng ra cho các dân tộc muốn vào và ơn cứu độ được hứa cho dân riêng thì bây giờ được đến với các dân tộc. Như vậy Ðấng Cứu thế đến không phải để cứu chuộc một dân tộc, Người còn là Ðấng Cứu tinh của mọi dân nước.

Ðược rửa tội từ nhỏ, ta cũng có thể có thái độ tự mãn, giữ đạo một cách máy móc, theo thói quen hình thức mà không tiếp tục đi tìm Chúa và học hỏi về đạo Chúa. Sự thực thì ta vẫn phải đi tìm Chúa, để khám phá ra sự hiện diện của Người xung quanh ta và trong đời sống ta. Ta vẫn phải tìm hiểu lời Chúa và thánh ý Chúa và đường lối của Chúa. Việc đi tìm Chúa phải là một tiến trình kéo dài suốt cả cuộc sống. Mặc dầu Chúa đã đến trong lịch sử loài người, và ta đã tin và tiếp nhận Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, ta vẫn phải tiếp tục đi tìm Chúa. Ðừng cậy mình theo đạo gốc kẻo mà mất gốc. Ðừng tưởng mình sinh ra là người công giáo nghĩa là chịu phép Rửa tội từ nhỏ mà không cần tiếp tục đi tìm Chúa, tìm sự công chính và tìm sống theo đường lối của Chúa, kẻo làm mất Chúa nghĩa là mất đức tin vào Chúa.

Cũng như các nhà đạo sĩ quan sát ngôi sao lạ bằng mắt và bằng tâm hồn mới có thể ra đi tìm Chúa, ta cũng cần quan sát và ghi nhận những dấu chỉ của thời đại, những biến cố xẩy ra trong vủ trụ như bão táp, lụt lội, động tất, hoả hoạn, chiến tranh và những biến cố trong đời ta như bệnh tật, đau yếu, tai nạn bằng mắt và bằng tâm hồn, để tìm ra thánh ý Chúa, xem Chúa có dùng những biến cố hay những dấu chỉ nào, để nói với ta điều gì không? Ðiều đó có nghĩa là ta không nên để cho những biến cố, những dấu chỉ qua đi một cách tình cờ mà không rút ra bài học nào. Khi một biến cố hay dấu chỉ của thời đại qua đi một cách ngẫu nhiên là tại những lí do như ta là người vô tâm vô trí, hoặc tâm hồn ta đầy ắp những chướng ngại vật như lo lắng, kiêu căng, tự phụ, tham lam, ích kỉ, ghen tương, thù oán, khiến ta coi như không có gì xẩy ra.

Cũng như đoàn hiền sĩ tìm thấy Ðấng Cứu thế mới sinh không phải ở trong cung điện nhà vua, không phải trong khách sạn, không phải ở thủ đô Giêrusalem, nguy nga và tráng lệ, nhưng trong một làng nhỏ ở hang chiên lừa sập sệ, hôi hám, ta cũng có thể tìm thấy Chúa ở những nơi, những người và những hoàn cảnh mà ta ít hi vọng gặp Chúa. Ta có thể tìm gặp Chúa ở những nơi tồi tệ nhất và những người khốn cùng nhất: người nghèo đói, người đau yếu, người khốn cùng. Và Chúa cũng có thể dùng những nơi tồi tệ nhất, những người khốn cùng nhất đế nói với ta điều gì đó.

Lời nguyện xin cho được tiếp tục đi tìm Chúa để phụng thờ:

Lạy Chúa hài nhi mới sinh!

Khi ba Vua đi tìm Chúa để phụng thờ,

họ được ngôi sao lạ dẫn lối chỉ đường

đến hang đá máng cỏ Bêlem.

Xin dạy con biết thành tâm đi tìm Chúa

tại những nơi chốn hay những sự vật

mà người đời không ngờ Chúa có ở đó

và xin cho con được nhận ra sự hiện diện của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA TỎ MÌNH QUA CON CHÚA

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Hôm nay, chúng ta cử hành Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, hay Lễ Ba Vua. Từ cổ xưa, Giáo Hội gọi lễ này là “Lễ Ánh Sáng” để nói rằng Con Thiên Chúa ra đời là Ánh Sáng cho muôn dân. Ngày nay, phụng vụ gọi lễ này là lễ Chúa Hiển Linh. Từ “hiển linh” được dịch từ tiếng Hy Lạp là Epiphania, có nghĩa là sự tỏ mình ra, sự bày tỏ vinh quang. Quả thật, việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người là biến cố Thiên Chúa tỏ mình ra với nhân loại. Người bày tỏ tình yêu, ơn cứu độ và vinh quang Thiên Chúa cho muôn dân qua Ba Vua. Bởi thế, Lời Chúa hôm nay nói về việc Hài Nhi Giêsu tỏ mình cho Ba Vua, đồng thời mời gọi chúng ta cũng lên đường như Ba Vua để thờ lạy Người.

1- Đấng Cứu Độ của muôn dân

Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại qua nhiều cách khác nhau. Như thánh Phaolô nói: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1).

Quả thế, Trong Cựu Ước Thiên Chúa đã tỏ mình cho loài người qua công trình sáng tạo, qua các trung gian con người. Thiên Chúa ban Lề Luật cho con người qua Môsê. Thiên Chúa ký kết giao ước với loài người qua tổ phụ Ápraham. Thiên Chúa ban Lời Chúa và giáo huấn của Người qua các tiên tri.

Đến thời Tân Ước, thời kỳ viên mãn, Thiên Chúa mạc khải mình qua Chúa Con, Ngôi Lời nhập thể và được sinh ra bởi Đức Maria. Người là Thiên Chúa thật và là người thật. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa hiện diện một cách hữu hình và trực tiếp với nhân loại. Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát của nhân loại. Đúng như lời ngôn sứ tiên báo: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã nhìn thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Mt 4,16). Bởi thế, ai thấy Chúa Giêsu Kitô là nhìn thấy Chúa Cha. Ai tin vào Chúa Giêsu thì sẽ được ơn cứu độ.

Thời xưa, người Do Thái quan niệm rằng chỉ có Dân riêng mới được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nhưng qua biến cố Hiển Linh này, Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Ơn cứu độ Chúa Kitô mang lại là phổ quát, cho hết mọi người không loại trừ một ai.

2- Theo ánh sao chỉ đường

Khi nhận ra “ngôi sao lạ” xuất hiện, Ba Vua từ Phương Đông đã lên đường tìm đến Bêlem để triều bái Người (Mt,2,7). Hành trình Đức Tin của họ chắc chắn gặp nhiều khó khăn và thử thách. Như ngạn ngữ nói: “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.” Dù đường đi khó vì ngăn sông cách núi, nhưng Ba Vua đã không ngại núi e sông, không nản chí sờn lòng. Dưới sự hướng dẫn của ngôi sao chỉ đường, họ đã vượt qua tất cả để đến gặp Đấng Cứu Thế. Khi gặp Chúa Hài Đồng, họ dâng lên Chúa vàng, nhũ hương, mộc dược. Các Giáo Phụ giải thích rằng những tặng phẩm này mang nhiều ý nghĩa: “Dâng hương để nhận Người là Chúa, dâng vàng để nhận Người là Vua, và dâng mộc dược để loan báo Người sẽ chết” (thánh Phêrô Kim Ngôn). Tuy nhiên, ngày nay ba tặng phẩm này được giải thích theo nghĩa khác: vàng tượng trưng cho đức tin vào thiên tính của Đấng Thiên Sai; nhũ hương tượng trưng cho đức cậy là lời cầu nguyện như hương trầm bay lên để tôn vinh Chúa; mộc dược tượng trưng cho đức mến là sự hy sinh và sự từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa.

Một chi tiết đáng quan tâm được thánh Mátthêu ghi lại: sau khi đã gặp Đấng Cứu Thế, họ không trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nhưng đã đi lối khác mà về xứ mình (Mt 2,12). Chi tiết này mang ý nghĩa biểu tượng. Nghĩa là sau khi họ đã gặp Chúa Giêsu, họ đã thay đổi hướng đi, thay đổi suy nghĩ, từ bỏ con đường cũ, và đi vào con đường mới; họ có tầm nhìn mới, suy nghĩ mới và cuộc sống mới. Những ai gặp Chúa đều có sự biến đổi tận căn như thế.

3- Những ánh sao cho con người hôm nay

Bài học trước hết mà chúng ta học được từ mẫu gương của Ba Vua đó là lòng khát khao, hy sinh và dấn thân trong việc tìm kiếm Thiên Chúa. Nếu không có khát khao và dấn thân tìm Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ gặp Chúa.
Cũng như Ba Vua đã nhìn thấy ngôi sao lạ và họ đã lên đường tìm vị Cứu Tinh, chúng ta có Lời Chúa như là ánh sao dẫn đường chúng ta đi gặp gỡ Thiên Chúa.

Cũng như Ba Vua, chúng ta hãy dâng cho Chúa Hài Đồng những lễ vật: vàng là lòng mến của chúng ta; trầm hương là lời cầu nguyện sốt sắng, lòng biết ơn dâng lên Chúa để tạ ơn Người; và mộc dược chính là sự hy sinh, cố gắng phục vụ của chúng ta cho Người.

Cũng như Ba Vua, sau khi gặp Chúa, họ thay đổi đời sống, chúng ta cũng được mời gọi thay đổi lối sống cũ, mặc lấy con người mới và sống theo hệ giá trị Tin Mừng.

Ngày hôm nay, nhiều người vẫn còn đang sống trong bóng tối lầm lạc, chưa nhận biết và tôn thờ Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ. Chúng ta được mời gọi trở thành những “ánh sao dẫn đường” đưa họ đến với Chúa như Lời Chúa dạy: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14); “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15).

Lạy Chúa, Chúa đã tỏ mình ra cho Ba Vua nhận biết và đến thờ lạy Chúa qua ánh sao lạ dẫn đường, xin cho chúng con luôn tin nhận và tôn thờ Chúa là Đấng Cứu Độ của muôn dân. Đồng thời, xin biến đổi chúng con thành những ánh sao dẫn đường cho người khác đến gặp và tôn thờ Chúa như Chúa đáng được tôn thờ. Amen!

Về mục lục

.

CHÚA TỎ MÌNH RA

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Lễ hiển linh là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa thường tỏ mình qua bão tố ầm vang hoặc sấm chớp chói lòa, nhưng đến thời Tân ước, Thiên Chúa lại tỏ mình dưới dạng một hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ.

Khi giáng sinh làm người, đầu tiên Ngài tỏ mình cho các chú mục đồng ở Belem, rồi tỏ mình ra cho cụ già Simêon, cho bà Anna trong đền thờ, và Chúa còn tiếp tục tỏ mình ra dưới nhiều hình thức khác nhau.

Chúng ta thấy, đối với các chú mục đồng, những người ít học, thì Chúa sai các thiên thần đến báo tin, để họ nhận biết Đấng cứu độ. Còn đối với các nhà trí thức, thì Chúa dùng ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối. Nhờ ơn Chúa soi dẫn, các nhà đạo sĩ ở Phương đông đã cất công lên đường tìm kiếm vị Vua mới sinh. Mặc dù Chúa tỏ mình ra với nhiều hình thức như thế, ấy thế mà có những người lại không gặp được Chúa.

Chẳng hạn như: các đại giáo trưởng, các luật sĩ ở Giêrusalem, những người này họ am tường về Thánh Kinh. Họ trả lời cho vua Hêrôđê, cho Ba đạo sĩ rõ ràng Đấng Cứu Thế sinh tại Bê-lem. Nhưng họ không lên đường, họ chỉ biết Chúa trên lý thuyết, trong sách vở mà không hành động, thành ra họ không gặp được Chúa.

Vua Hê-rô-đê, bạo vương này khi hay tin Hài Nhi Giêsu sẽ là thủ lãnh dân Do thái, ông lo sợ lung lay đến ngai vàng của mình, nên ông muốn tìm Chúa không phải để triều bái, nhưng là để sát hại. Vì thế, ông không gặp được Chúa.

Cho nên, không phải cứ có đạo là gặp được Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải nỗ lực học hỏi Thánh kinh, suy niệm Lời Chúa mỗi ngày.

 Cũng như ba nhà đạo sĩ năm xưa, khi ngôi sao  lịm tắt, các ông đã vào Giêrusalem hỏi thăm.  Nhờ lời Kinh thánh chỉ điểm, các ông tiếp tục lên đường và cuối cùng gặp được vua người Do thái mới sinh.

Có thể nói, Ba đạo sĩ là những người gương mẫu trong việc đi tìm kiếm Chúa,  bởi các Ngài có tâm hồn thiện chí. Là những tâm hồn thiện chí, luôn khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm Chúa. Ba đạo sĩ không tìm kiếm Chúa sinh ra không khách sạn giàu sang, nhưng tìm gặp Chúa nơi cánh đồng Belem, sinh ra trong hang bò lừa nghèo khó. Ba đạo sĩ không đi tìm Chúa ở thành Giêrusalem nguy nga tráng lệ, nhưng họ tìm thấy Chúa nằm trong máng cỏ thiếu thốn mọi tiện nghi.

Anh chị em thân mến,

Ba đạo sĩ không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Ngày  nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là những ánh sao, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Ngài.

Nếu nhân loại hôm nay còn đi trong bóng tối của gian dối, hận thù, thiếu vắng tình thương, Thì chúng ta hãy là ánh sao sáng trong đời sống công bình, chiếu sáng đức thương yêu và toả ánh sáng ấm áp tình người.

Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui,  bình an và hy vọng.

Qua những làn ánh sáng tình thương, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên Chúa là ánh sáng chân thật. Ba đạo sĩ sau khi được gặp Hài nhi Giêsu, họ được mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, mà qua đường mới trở về xứ sở mình.

 Ước mong sao cuộc đời chúng ta sau khi đã biết, đã tin, đã gặp được Chúa rồi, thì cần phải từ bỏ đường xưa lối cũ, mà đi vào con đường mới. Con đường mới được trải bằng tâm tình khiêm tốn, yêu thương. Con đường mới của hi sinh phục vụ. Và  con đường mới siêng năng đi tham dự thánh lễ và tham gia các việc đạo đức.

Ngày xưa, Ba đạo sĩ khi gặp được Chúa, họ đã sụp lạy và dâng tiến lễ vật: Vàng, Nhủ Hương và mộc Dược. Thái độ sụp lạy đó, là thái độ của đức tin. Họ tuyên xưng rằng: Hài nhi bé nhỏ nằm đó, không phải là người bình thường, mà là Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta.

Hôm nay đến với Chúa, chúng ta có mang lễ vật gì mừng sinh nhật Chúa không?. Chắc chắn Chúa không đòi chúng ta dâng cho Ngài những lễ vật nặng giá trị vật chất, nhưng Chúa muốn chúng ta dâng cho Ngài tấm lòng Vàng nồng nàn tình mến, những hương kinh nguyện cầu thiết tha, và mộc dược của những hi sinh đau khổ…. Từng ngày. Cùng với đức tin của Ba đạo sĩ năm xưa, giờ đây kính mời anh chị em cùng đứng lên tuyên xưng đức tin. Amen.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA TỎ MÌNH RA CHO NHÂN LOẠI

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

          Lễ hôm nay là lễ “Hiển linh” mà ngày xưa gọi là Lễ Ba Vua. “Hiển linh” là biểu lộ thần tính. Điều mà Giáo hội kính nhớ và vui mừng cử hành là việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến và tỏ mình ra cho nhân loại.

          Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia tiên báo là ánh sáng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên Israel và các dân tộc sẽ hướng về ánh sáng ấy mà cất bước. Lời sấm ấy đã được ứng nghiệm, vì Con Thiên Chúa đã giáng thế, sinh ra tại Bêlem, các đạo sĩ đã đại diện cho các dân ngoại mà tìm đến và thờ lạy Ngài.

          Bài Tin mừng kể lại cho chúng ta sự kiện các đạo sĩ Đông phương tới Bêlem để tìm kiếm và thờ lạy Chúa Cứu thế. Thánh Matthêu nêu ra cho chúng ta những thái độ khác nhau của từng hạng người trước việc Chúa Cứu thế tỏ mình ra : kẻ chấp nhận, người từ chối. Việc Chứa Cứu thế tỏ mình ra cho các đạo sĩ nói lên lòng thương yêu đặc biệt của Thiên Chúa đối với dân ngoại.

          Chúng ta cũng là dân ngoại đã được Thiên Chúa tỏ mình ra, nhưng vẫn còn phải tiếp tục tìm gặp Ngài qua Thánh Kinh, qua Giáo hội và qua các biến cố trong đời sống thường ngày. Để đáp lại tình thương ấy, chúng ta phải cố gắng trở thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời (bài đọc 2) để soi dẫn cho những ai chưa biết Chúa tìm đến gặp Ngài, qua cuộc sống tràn đầy tình thương và phục vụ của chúng ta trong thế giới hôm nay.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          +  Bài đọc 1 : Is 60,1-6.

          Mặc dầu phải sống cơ cực trong cảnh lưu đầy, bị kẻ thù áp bức, tương lai đen tối mù mịt, niềm hy vọng được giải thoát đã mờ nhạt dần, tiên tri Isaia lại có một giấc mộng rất lạc quan, theo đó, dân Chúa sẽ được trở về quê hương trong tiếng ca vui, mọi người nô nức góp sức trùng tu lại đền thờ Giêrusalem. Lúc đó đền thờ lại được rạng rỡ, sẽ trở thành ánh sáng thu hút muôn dân vì được ánh hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên đó, và mọi người sẽ qui tụ về thành ánh sáng ấy cùng với vàng bạc, đá quí, đồng thời loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa.

          Trong thực tế, dân Chúa đã được giải thoát, trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ, nhưng giấc mơ của tiên tri Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn trong Đức Giêsu, là ánh sáng của trần gian. Giấc mơ của tiên tri Isaia còn hướng về thời cánh chung, khi mọi sự được hoàn tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Giêrusalem trên trời (x. Kh 21,9-27).

          Bài đọc 2 : Ep 3,2-3a.5-6.

          Dân Do thái luôn hãnh diện là dân riêng của Thiên Chúa, dân riêng của Lời hứa. Họ tin rằng ơn cứu thoát chỉ được dành riêng cho họ, còn dân ngoại thì bị đẩy ra ngoài. Nhưng thánh Phaolô, cũng là người Do thái, không nghĩ nghư vậy ! Theo ngài, Thiên Chúa đã mạc khải cho ngài biết : Ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ mọi người, không dành riêng cho ai. Ngày nay Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải cho các thánh Tông đồ và các tiên tri mầu nhiệm Đức Kitô, đó là : trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ lời Thiên Chúa hứa.

          Bài Tin mừng : Mt 2,1-12.

          Các đạo sĩ Đông phương, là những nhà chiêm tinh, thấy một ngôi sao lạ xuất hiện và với sự soi sáng của ơn trên, các vị biết có Đấng Cứu thế đã ra đời, và các vị đã lên đường triều bái Chúa Hài nhi.

          Có người cho rằng đây không phải là ngôi sao lạ mà chỉ là ngôi sao chổi tình cờ xuất hiện và có sự trùng hợp thôi. Nhưng nếu không lạ thì làm sao, trước khi Giáng sinh, tiên tri Mikea đã viết trong Cựu ước :”Hỡi Belem Eprata, ngươi nhỏ nhất trong Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng cai trị trong Israel”(Mk 5,1). Các thầy tư tế được vua Hêrôđê triệu tập đến  sau khi các đạo sĩ tới, cũng xác nhận như thế (Mt 2,4-6) mà các đạo sĩ đã thấy NGÔI SAO của Chúa bên phương Đông, nên đến thờ lậy (Mt 2,2).

        Nếu tiên tri Mikea không được Thiên Chúa mạc khải làm sao ông ấy biết và nói trước đúng thời gian và địa điểm ? Nếu đó chỉ là “ngôi sao chổi” tự nhiên, thì tại sao nó lại hướng dẫn được các đạo sĩ từ phương Đông xa xăm đến tận nước Do thái. Tại sao khi nó hướng dẫn các đạo sĩ đến Giêrusalem thì nó lại “biến” mất ? Tại sao nó lại tái xuất hiện và “đi trước mặt cho đến ngay chỗ con trẻ sinh ra mới dừng lại” ? Nếu là sự trùng hợp thì tại sao sự trùng hợp ấy lại được các đạo sĩ phương Đông biết trước mà đi tìm Chúa Cứu thế ? Vì vậy, phải gọi là “Aùnh sao Belem”.

          Vì thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức Do thái ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

I. HIỂN LINH VÀ NGÔI SAO LẠ.

  1. Ý nghĩa ngôi sao lạ.

          Theo quan niệm của người Đông phương. Sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ đến một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn chiêm tinh học với các khoa tử vi.

          Hôm nay Giáo hội kể lại biến cố ba nhà thông thái đến triều bái Chúa Hài nhi . Magi có nghĩa là những nhà khoa học kinh nghiệm (Nature Scientist), họ là những chiêm tinh gia và những nhà thiên văn. Họ đến từ phương Đông, dĩ nhiên họ không phải là người Do thái. Và chỉ hỏi có hai câu : Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người.

          Có nhiều người cho rằng có lẽ các khoa học gia này đã nhìn thấy sao chổi và đi theo. Nhưng năm 1603, nhà toán kiêm thiên văn Johannes Képler giải thích theo tài liệu cho thấy vào năm Chúa Giáng sinh có một hiện tượng bất bình thường xẩy ra giữa các vì sao. Ôâng nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng : bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng quay sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.

          Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ tìm ra Chúa Hài nhi ? Nhưng điểm muốn nhấn mạnh ở đây, là tại sao các nhà thông thái biết chắc chắn là vua Do thái đã sinh ra. (Chúng ta biết rằng các nhà khoa học không bao giờ hấp tấp kết luận một cách hồ đồ). Phải chăng các ngài đã được Thiên Chúa mạc khải ? Đúng thế ! Ngôi sao trên bầu trời Belem đã dẫn các đạo sĩ Đông phương trải qua một cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông đến nơi Con Trẻ mà các ông muốn tìm kiếm.  Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mạc khải cho. Cũng chính ngôi sao  đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là Vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.

  1. Ý nghĩa ngày lễ.

          Như vậy, lễ Hiển linh là một ngày lễ cách mạng. Đức Kitô được mạc khải như là Đấng Cứu độ, không phải là của một nhóm người được chọn, nhưng của tất cả mọi dân tộc. Đức Giêsu đã bẻ gẫy rào cản lớn tồn tại giữa dân Do thái và dân ngoại. Trên thực tế, sứ điệp của Đức Giêsu, người Anh Cả của toàn thể vũ trụ, đã vượt qua tất cả những rào cản của bộ tộc, họ hàng. Lễ Hiển linh là một ngày lễ đẹp, bởi vì ngày lễ này đưa mọi người lại với nhau.Bấy giờ, tất cả mọi người đều được chia sẻ cũng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng một thân thể”.

II. HIỂN LINH VÀ ÁNH SÁNG

  1. Đức Giêsu và ánh sáng.

         Trong bài khởi đầu sách Tin mừng thứ tư, thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là ánh sáng:”Ở nơi Người vẫn có sự sống và sự sống là sự sáng của nhân loại, sự sáng chiếu soi trong u tối và u tối đã không tiếp nhận sự sáng”(Ga 1,4). Và sau này chính Đức Giêsu cũng xác định điều đó. Cho nên, cần phải có sự hiện diện của Chúa ở trần gian  để trần gian biết đường đi và khỏi bị vấp ngã.

          Trong ấn bản trên mạng của tuần báo Newsweek vào ngày 5 tháng 12 năm 2004, sau một cuộc thăm dò các độc giả về niềm tin vào Chúa Giêsu. Khi được hỏi là liệu thế giới ngày nay sẽ trở nên tốt lành hay xấu xa hơn nếu như không hề có Chúa Giêsu, thì

– 61% trả lời rằng : thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu.

          – 47% nói rằng :  sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại nơi thế giới này. (16 % thì nói ngược lại, và 26% thì cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu).

          – 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn, và 58% thì cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu. 59% thì cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi và 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu.

                             (Báo Công giáo và dân tộc, số 1487-1488, tr 53).

  1. Chúng ta và ánh sáng thế gian.

         Những người theo Chúa thì được Chúa soi sáng, cho nên cũng phải là ánh sáng mặc dù chỉ là ánh sáng phản chiếu:”Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt 5,14) Và nếu đã là ánh sáng thì phải tỏa ra như Chúa dạy:”Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,1516).

          Aùnh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, nhưng cũng làm nên một đốm sáng trong đêm tối và nếu như đốm sáng chiếu soi thì có thể làm cho bầu trời tối tăm trở nên sáng rực. Cuộc sống gương mẫu của chúng ta chỉ rất nhỏ, rất mờ nhạt trong cộng đoàn, nhưng nó cũng làm cho cộng đoàn trở nên chứng tá lớn cho xã hội chưa nhận biết Chúa.

Truyện : Ánh sáng ở vận động trường.

          Một bữa nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước 100.000 người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa kỳ. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và  ønói:”Bây giờ xin các bạn đừng sợ ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.

          Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dầy đặc. Ôâng John Keller nói tiếp:”Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên : Đã thấy”. Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên : “Đã thấy”.

          Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích :”Aùnh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tối tăm của nhân loại y như vậy”.

          Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh :”Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.

          Ông Keller kết luận:”Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”(Lẽ sống, 143)

          Các đạo sĩ phương Đông đã nhờ ngôi sao lạ của “Vua dân Do thái sinh ra” tức Hài Nhi Giêsu, mà đến được Be lem và gặp được Hài nhi Giêsu cùng Mẹ Người là Bà Maria. Cũng thế, 86 triệu người Việât nam nói riêng và hàng trăm triệu người châu Á nói chung sẽ chỉ nhận ra Đức Giêsu là Cứu Chúa nếu mỗi người công giáo Việt nam là một SAO dẫn đường chỉ lối cho họ.

          Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta  là con người thời nay trông chờ (và tin tưởng) các chứng  nhân hơn là các thầy dạy, vì có nhiều thầy dạy lại dạy một đàng mà sống một nẻo, thậm chí sống ngược lại những điều họ giảng dạy, chẳng khác gì các Biệt phái và Pharisêu thời Chúa Giêsu. Trong cụ thể, chỉ khi người Kitô hữu sống tinh thần Bát phúc, sống yêu thương, trách nhiệm, công bình, thanh liêm, hy sinh, phục vụ tha nhân và ích chung thì mới thành SAO trên bầu trời và trong cộng đồng con người được.

  1. Mỗi người là một ánh sao.

          Thánh Gioan tông đồ nói:”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Aùnh sáng chiếu soi trong bóng tối nhưng bóng tối không chấp nhận ánh sáng”(Ga 1,4-5). Nếu thế gian không chấp nhận Chúa Giêsu là ánh sáng thì thế gian vẫn ở trong bóng tối. Chúng ta phải làm sao cho thế gian nhận được Chúa Giêsu thì chúng ta phải soi sáng cho họ. Vì thế, trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô tông đồ đã khuyên:”Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).

         Tại sao chúng ta, các Kitô hữu là những ngôi sao ? Thánh Phaolô tông đồ giải thích:”Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trongchúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác hơn, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,8). Cho nên cách sống yêu thương của chúng ta  làm cho người khác nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời đêm tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy (Carolô).

          Trong đời sống xã hội hôm nay có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực, ví dụ ngôi sao nhạc rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá, thôi thì loạn cào cào với các vì sao ! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao” !

          Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng, chỉ làm theo nhiệm vụ của mình. Thời nay, chân phước Têrêsa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là vì sao chiếu sáng trên vòm trời thế kỷ 20.

          Là Kitô hữu, chúng ta phải là những vì sao lấp lánh trên vòm trời. Chúng ta có thể trở thành SAO MAI được chăng ? Sao mai chính là Kim tinh ở cách xa mặt trời 108 triệu cây số. Kim tinh tương đối gần mặt trời (nó xoay quanh mặt trời trong vòng 224,7 ngày) vì thế nó sáng hơn. Ta thấy nó mọc trước khi mặt trời mọc và lặn sau khi mặt trời lặn. Người xưa đã có thời lầm, cho đó là hai ngôi sao khác biệt : sao mai và sao hôm.

          Ánh sáng của SAO MAI (Kim tinh) thật là rực rỡ, làm cho người ta liên tưởng đến những gì đẹp đẽ mỹ miều nhất:”Đẹp như ánh sao mai”. Đó là câu chúng ta vẫn thường nói. Và đặc biệt, Kim tinh, Ngôi sao mai đã được dùng để chỉ Đức trinh nữ Maria : Stella matutina (Đức Bà như Ngôi Sao mai sáng vậy). Nhiều bài ca kính Đức Mẹ đã hoan hô Ngài bằng danh từ ấy : Bà là ai như hào quang Thiên Chúa, như mùa xuân không úa, như vì SAO MAI rạng, như chính cửa thiên đàng (Hoàng Diệp).

Sang thế kỷ 21 này, Thiên Chúa vẫn còn muốn Hiển linh, nghĩa là muốn tỏ mình ra cho nhân loại thế kỷ này. Chúa vẫn cần những ngôi sao lạ chiếu sáng trên vòm trời thế hệ này. Những ngôi sao ấy là chính chúng ta.

III. HIỂN LINH VÀ QUÀ TẶNG.

          Những nỗ lực của các đạo sĩ không bị từ chối. Thánh Matthêu cho biết sau khi rời khỏi Giêrusalem thì bấy giờ “ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại”. Và sau khi đã gặp thấy Hài Nhi và thân mẫu là Maria, “họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(Mt 2,11).

        Các Giáo phụ thường giải thích các lễ vật dâng Chúa Hài nhi theo nghĩa tượng trưng : Vàng chỉ Hài nhi là Vua; nhũ hương chỉ thần tính, và mộc dược chỉ nhân tính. Có người lại giải thích ý nghĩa ba lễ vật đó như sau : Vàng ám chỉ đức tin, thể hiện qua thái độ phục bái suy tôn, nhũ hương ám chỉ đức cậy, thể hiện qua tâm tình cầu nguyện sốt sắng; mộc dược ám chỉ đức mến, thể hiện qua những hy sinh khiêm nhường phục vụ tha nhân.

Truyện : Món quà của Artaban.

          Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện, nhan đề The Other Wise Man (còn một nhà đạo sĩ khác nữa), kề về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Aáu Vương. Thế nhưng trên đường đến gặp ba vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc Artaban đã trở nên già nua và nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.

          Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay, câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính cho ông biết đây chính là Vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt , Artaban cảm thấy trái tim như tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artaban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:”Này Artaban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ ta. Khi ta đói ông đã cho ta ăn, ta khát, ông đã cho ta uống, ta trần trụi ông đã mặc áo cho, ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 50-51).

          Như thế, lễ Hiển linh nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị Vua trên các Vua. Và câu chuyện “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của các đạo sĩ, bởi vì món quà của chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, nhũ hương và mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân.  Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ  không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artaban:”Hãy đến đây, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…(x. Mt 25,34-35).

          Lễ Hiển linh thách thức tâm hồn chúng ta cởi mở tâm hồn của mình ra. Khi biết cởi mở tâm hồn, là bắt đầu biết sống. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta, nhưng người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta  chia sẻ chính bản thân chúng ta cho người khác. Và nếu nhờ được biết Đức Giêsu, mà chúng ta có khả năng mở kho tàng của tâm hồn mình ra, và chia sẻ cho người khác, thì chính chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú hơn.

IV. HIỂN LINH VÀ TÌM KIẾM.

          Đối với các nhà bác học Đông phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh thánh:”Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel”(Ds 24,17). Vì vậy, khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Giacóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình, cho thế giới u minh.

          Ba nhà bác học đã đến từ quốc gia xa xôi, để thần phục Hài nhi Giêsu trong khi các đại giáo trưởng, các luật sĩ Do thái (Mt 2,4) họ có không phải chỉ một ngôi sao đêm lấp lánh trên nền trời, mà họ có cả một thư viện, đầy sách vở. Họ có Thánh kinh mà họ mang trên ngực, chít trên đầu. Họ am hiểu các tiên tri về Chúa Cứu thế. Họ biết nhưng họ không thấy, hay không muốn thấy. Chúa sinh ra cách đó có 8 cây số, các thiên thần ca hát trên không trung, các mục đồng lao nhao rủ nhau đi thờ lạy. Nói chung, cả dân tộc Do thái và nhân loại không nhìn thấy ngôi sao và cũng không để tâm nghiên cứu tìm hiểu.

        Ngày nay cũng như cách nay hơn 2000 năm, mọi người phải cố gắng tìm ra Chúa. Phải cố gắng tìm gặp Chúa qua các biến cố của đời sống hôm nay. Hơn nữa, suốt đời sống đạo của chúng ta là một cuộc tìm kiếm Chúa không ngừng. Do đó, những ai tự mãn cho rằng mình đã gặp được Chúa qua cái nhãn hiệu công giáo bên ngoài, qua việc lãnh nhận các phép bí tích như một cái máy không hồn, qua việc học hỏi giáo lý sơ sài, để rồi không chịu khó nhờ vào các biến cố thực tế của đời sống để gặp Chúa, yêu Chúa qua anh em thì mãi mãi họ chẳng những không tìm thấy Ngài mà còn mất Ngài nữa.

          Chúng ta vừa là người tìm kiếm vừa là ánh sao soi cho người khác đi tìm kiếm Chúa. Cuộc đời của chúng ta  bên kẻ khác chỉ có nghĩa khi nào sự hiện diện của chúng ta  là một lời mời gọi, dẫn đưa người khác cùng với chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta chỉ sống trọn vẹn ý nghĩa đời con Chúa khi cuộc sống của chúng ta là một ánh sao dẫn lối cho anh chị em chúng ta đến với Chúa.

         Sách Tin mừng nói:”Ba nhà đạo sĩ sau khi thờ lạy Chúa, dâng lễ vật, họ nhận được mộâng báo đừng trở lại với Hêrođê, họ đi qua đường khác, trở về xứ sở mình”(Mt 2,12). Ba nhà đạo sĩ sau khi thờ lạy Chúa, đã được soi sáng, đã không trở về với Hêrôđê, tượng trưng cho dục vọng, tham ô, tội lỗi, mà đã qua đường khác, nghĩa là đã thay đổi nếp sống và trở về làm tông đồ. Làm chứng tá, rao giảng Tin mừng khắp nơi, không phải ở Đông phương mà ở cả Tây phương. Tục truyền rằng Ba vua đã qua giảng đạo tận Tây Đức và hiện nay có mộ ba vị ấy ở thành Cologne, trên bờ sông Rhin ở Tây Đức.

          Đó cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta cũng là dân ngoại, nhưng được Chúa hiển linh, được ngôi sao của Chúa hướng dẫn thì nay chúng ta cũng phải trở nên ngôi sao hướng dẫn kẻ khác đến với Chúa, bằng lời nói, bằng việc làm, và cả cuộc sống chúng ta.

        Trong công đồng Vatican II, có một vị Hồng y da đen Phi châu đã nói với các nghị phụ khi bàn đến lòng đạo đức sa sút ở các nước Tây phương rằng, một ngày nào đó, Chúa sẽ dùng chúng tôi để rao giảng Tin mừng lại cho các nước Tây phương. Đó không phải là sự kiêu hãnh, mà là một bổn phận sau khi đã được ơn hiển linh, như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2:”Nhờ Tin mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một bản thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô”(Ep 3,6) (Hồng Phúc).

          Người ta nói : có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt. Không, không có ai là ngôi sao xấu. Tất cả đều là ngôi sao tốt. Trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng, một vai trò nào đó. Vì thế, không ai được tự ti mặc cảm, chán nản thất vọng. Cũng không ai được tự tôn tự phụ, huênh hoang…Chúng ta hãy sống thực sự là một con người, hơn nữa, thực sự là một người con Chúa.

          Trong ngày lễ Hiển linh, chúng ta cảm đội ơn Chúa đã tỏ mình ra cho dân ngoại vì chúng ta một thời cũng là dân ngoại. Cái thái độ và mục đích của các đạo sĩ trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa khiến ta cần tìm hiểu và học hỏi. Họ chân thành tìm Chúa để thờ lạy Người chứ không giả hình như vua Hêrôđê. Hêrôđê khi nghe Đấng Cứu thế mới sinh thì bối rối sợ hãi vì sợ mất ngai vàng. Còn các nhà thông thái thì nhửng nhưng vì họ cậy họ có sẵn kho tàng Kinh thánh. Họ cho rằng nếu Chúa Cứu thế xuất hiện  thì tự nhiên họ phải biết chứ không cần đi tìm kiếm. Cái thái độ tự mãn đó làm họ mù quáng không nhận ra ngôi sao lạ để đi tìm Chúa.

Ba Vua đã được hân hạnh đến triều bái Chúa Hài nhi, dâng lễ vật cho Ngài. Chúng ta cũng lưu ý rằng lúc Ba vua đang thờ lạy và dâng lễ vật thì có Mẹ Maria ở đó. Chắc Mẹ Maria đã nhận lấy những lễ vật ấy và nói vài lời cảm ơn các ông thay cho Chúa Giêsu. Chúng ta hãy dâng lên Mẹ những tâm tình của chúng ta trong ngày lễ hôm nay :

Lạy Mẹ, cuộc đời của con cũng là cuộc hành trình đi tìm Chúa. Aùnh sáng Chúa vẫn luôn dẫn lối chỉ đường cho con. Đó chính là những lời của Chúa trong Thánh Kinh. Chúa đang dẫn con từng bước qua lời dạy của Giáo hội như một ánh sao đặc biệt. Các đạo sĩ đã nhận ra Chúa, vì họ đã nỗ lực tìm kiếm. Con cũng muốn noi gương các vị đạo sĩ, luôn quên mình bất chấp mọi khó khăn đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Con quyết tâm mỗi ngày nhận ra Chúa nơi anh em con, nhất là nơi những người nghèo khó bệnh tật. Đây không phải là chuyện dễ làm ! Xin Mẹ thương giúp con. Con sợ lòng kiêu căng và sự tự mãn làm con ra mù tối đến nỗi không gặp được Chúa như Hêrôđê và các luật sĩ xưa. Nhưng con chân thành chạy đến với Mẹ. Xin Mẹ thương giúp đỡ con”(Đan Vinh).

Về mục lục

.

TÌNH YÊU LÀ ÁNH SÁNG

Lm. Giuse Nguyễn

Những hình ảnh liên quan đến Lễ Chúa Hiển Linh được nhắc đến trong Tin Mừng trước hết là ánh sao lạ, là dấu chỉ để “mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông” cất bước lên đường. Đến đâu họ cũng không biết, chỉ biết hôm nay nó đã mất dấu ở Giêrusalem khiến họ phải vào triều đình hỏi thăm nhà vua. Phải chăng đó là dấu chỉ của “ánh sao liên hoàn”, các đạo sĩ trở thành ánh sao để biết đâu vua Hêrôđê cũng sẽ lên đường tìm kiếm “Đức Vua dân Do Thái mới sinh” ?

Hình ảnh tiếp theo là“mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông” mà chúng ta gọi nôm na là Ba Vua. Có một cái gì đó thôi thúc họ lên đường sau khi nhận ra điềm lạ ánh sao. Có lẽ cũng có nhiều nhà chiêm tinh quan sát hiện tượng thiên văn này, nhưng chỉ có Ba Vua lên đường. Truyền thuyết còn cho có thêm vị vua thứ tư, nhưng đến muộn vì dọc đường ông đã can thiệp vào những tình huống bất ngờ xảy ra, đều là để giúp đỡ những mảnh đời khó khăn.

Tuy nhiên, nhân vật chính yếu để ngôi sao lạ hiện trên bầu trời báo hiệu cho mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến bái lạy chính là Hài Nhi Giêsu, “Đức Vua dân Do Thái mới sinh”, “Ánh sáng cho muôn dân”, Đấng mà tiên tri Isaia nói đến trong bài đọc I: “Đứng lên, bừng sáng lên, Giêrusalem hỡi, vì ánh sáng của ngươi đến rồi” (Is 60, 1).

Ánh sáng đã đến, ánh sáng vẫn chiếu soi cho nhiều người tìm về ánh sáng thật. Tuy nhiên không phải ai cũng thấy và bước theo ánh sáng đó, mà chỉ những người lòng ngay, đối tượng các thiên thần loan báo trong đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Ba Vua hôm nay đại diện cho những người thiện tâm, những kẻ lòng ngay. “Ánh sáng soi bừng lên cho kẻ lòng ngay”.

Ánh sáng đó chính là tình yêu thương. Tình yêu thương đã vụt sáng trên bầu trời đêm đông để báo hiệu cho các mục đồng chăn chiên “Một Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ”. Tình yêu thương đã dẫn đường cho Ba Vua lên đường tìm kiếm. Tình yêu đã đến thế gian, Thiên Chúa đã làm người, khiêm nhường, bé nhỏ trong hình hài của một trẻ thơ, nhưng đã là tất cả cho nhân loại chúng ta, vì nhờ Ngài mà chúng ta được hạnh phúc. Cung cách sống của Đức Giêsu làm chiếu tỏa tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời nhân loại. Để qua bao thời, nơi nào có tình yêu, nơi đó có ánh sáng của Thiên Chúa, nơi đó là ngôi sao lạ.

Tình yêu nhiều khi rất đơn giản trong cuộc đời nhưng lại là một ánh sao rất sáng cho nhiều người. Trong vụ tai nạn kinh hoàng ở Long An chiều 02/01/2019 một anh xe ôm đã gác sang mọi chuyện, quăng chiếc xe cà tàng của mình vào quán cà phê ven đường để cùng với một số người đưa các nạn nhân đi cấp cứu, thậm chí anh còn lên tận bệnh viện Chợ Rẫy. Nhìn cách anh lo lắng cho sự an nguy của các bệnh nhân, ai cũng nghĩ anh là người nhà của các nạn nhân, đến khi hỏi ra thì: “Tui thấy người đi đường gặp nạn thì đưa vào bệnh viện thôi”. Đến gần 19h cùng ngày, khi thấy các nạn nhân được bệnh viện chăm sóc ổn, anh mới sực nhớ mình còn cậu con trai học lớp 1 chưa ai đón. Anh tính đón xe buýt về, nhưng sờ túi áo chẳng còn đồng bạc nào. Cuối cùng may mắn được xe cấp cứu cho quá giang. Phóng viên hỏi anh tên gì, ở đâu, làm nghề gì? Anh trả lời rất đơn sơ, mộc mạc: “Tui, Lợi, xe ôm ở Long An”. Rõ ràng:“Ánh sáng soi bừng lên cho kẻ lòng ngay”.

Tình yêu đó đôi khi là một hy sinh rất “khủng” (theo ngôn ngữ của các bạn trẻ ngày nay). Tôi dường như chết lặng trước bài báo “Chàng trai cụt chân bế bồng, lau dọn cho cụ già xa lạ” được đăng trên VN Expess ngày 10/11/2018. Một chàng trai quê Bình Định bị cụt chân sau 1 tai nạn giao thông ra Vĩnh Phúc học nghề xăm nghệ thuật. Cậu phát hiện bên cạnh lớp học của mình có một cụ ông neo đơn nằm trên giường với rác thải, phân, nước tiểu đã nhiều ngày. Với sức trẻ và tình yêu của một thanh niên, cậu đã vượt qua nỗi kinh tởm của mùi hôi thối, sự ghê sợ bởi những việc cực nhọc để dọn dẹp vệ sinh, bồng bế ông cụ đi tắm rửa, lau dọn nhà cửa sạch sẽ cho ông cụ. Không phải một ngày, mà trong thời gian suốt khóa học. Ánh sáng đó được lan tỏa để khi cậu về quê, đã có những người tiếp tục công việc của cậu.

Tình yêu đó là sự đánh đổi cả cuộc đời. Báo chí thống kê những số phận thay đổi nhờ lòng tốt của những người xa lạ, trong đó có đứa bé nỗi tiếng bởi những hình ảnh được đăng tải trên mạng xã hội. Cuối năm 2017, một tài xế đã quay lại cảnh 1 đứa bé dân tộc bị cụt chân, trần truồng đang đùa giỡn một mình giữa trời rét lạnh và đăng lên mạng xã hội. Một gia đình thành đạt ở Sài Gòn với 2 đứa con và người vợ đang mang thai đã lặn lội ra tận Thanh Hóa để đưa em vào Sài Gòn chữa bệnh. Sau khi mẹ em qua đời, gia đình đã nhận em làm con nuôi. Để làm điều đó họ phải gác sang chuyện mua Tivi đời mới và ô tô đắt tiền, phải đánh đổi cả một đời cho một tình yêu mà họ đã trót mang.

Năm Gia Đình 2019, Giáo hội “đồng hành với những gia đình gặp khó khăn”. Nghĩa là làm cho ánh sáng bừng lên trên những gia đình đó, đem tình yêu thương thực sự bằng sự cảm thông, nâng đỡ, giúp đỡ cụ thể trong khả năng và bằng cả tấm lòng.

Nhờ ngôi sao lạ mà các nhà đạo sĩ đã lên đường tìm gặp Hài Nhi Giêsu, dù trong cuộc hành trình có những lúc họ gặp khó khăn khi ngôi sao biến mất, khi người khác muốn hãm hại… Nhưng với tấm lòng thành, ngôi sao lại xuất hiện, kẻ xấu không thực hiện được dã tâm…

Tình yêu của Thiên Chúa vẫn hiện diện trong cuộc đời. Ánh sáng vẫn còn chiếu tỏa quanh ta. “Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao!” Tình yêu đó nhiều khi gặp nhiều thách đố, đánh đổi để ta trở thành ánh sao lạ chỉ đường cho người khác tìm về với Chúa, nhưng ánh sáng sẽ không bao giờ tàn lụi khi ta còn ánh sáng của Giêsu. Hãy sống trọn vẹn tình yêu để trở thành ánh sáng cho muôn dân tìm về Thiên Chúa.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG CHO MUÔN DÂN

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Có một ni cô chia sẻ: “Sau thời gian du học từ nước ngoài về, tôi trở thành một giảng viên tại trường Phật học của thành phố HCM. Một lần tham dự cuộc thi các nữ tu của thành phố, tôi chỉ đoạt giải ba còn các sơ của các dòng đoạt giải nhất và nhì. Sau cuộc thi này, tôi muốn tìm hiểu xem cuộc sống trong cộng đoàn của các sơ Công Giáo như thế nào, tôi đã đến thăm một nhà dòng. Từ đó, tôi trở nên thân quen, có cảm tình quý mến và thường đến thăm các sơ. Lâu ngày, trong tôi cứ có một câu hỏi: Tôi đi dạy về Phật mà chưa cảm nhận được sự hiện diện của Phật bao giờ, nhưng khi gặp các sơ, mặc dù các sơ chưa bao giờ trực tiếp nói về Chúa hay mời tôi theo đạo, nhưng tôi đã thấy Chúa nơi đời sống và các việc làm của các sơ. Tôi đã chủ động xin các sơ nói về Chúa cho tôi và tôi đã tin Chúa, đã được rửa tội. Từ khi bỏ nhà chùa, tôi trở về cuộc sống với hai bàn tay trắng nhưng tôi có Chúa. Hiện nay tôi sống trong một căn nhà nhỏ và nuôi mấy em mồ côi tàn tật, tôi trang trải cuộc sống nhờ chăn nuôi mấy con gà con heo, nhưng cuộc sống thật vui và có ý nghĩa”.

Hôm nay mừng lễ Chúa Hiển Linh, Giáo Hội muốn cho thấy Thiên Chúa là ánh sáng muôn dân, là Đấng yêu thương tất cả nhân loại, Ngài tỏ mình ra không chỉ cho riêng Israel, mà còn cho tất cả dân ngoại. Những ai thành tâm thiện chí đi tìm Chúa, Chúa sẽ cho gặp Ngài và Chúa sẽ biến đổi họ nên những môn đệ của Chúa. Thiên Chúa đã dùng vũ trụ thiên nhiên, dùng lời Kinh Thánh và những người khác để dẫn đưa dân ngoại đến gặp Chúa. Câu chuyện ba nhà đạo sĩ Phương Đông kể lại hành trình đức tin của các ông và cách thức Thiên Chúa dùng để tỏ mình cho muôn dân.

Các đạo sĩ là những người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý. Thiên Chúa đã đáp lại sự khao khát tìm kiếm của các ông, Ngài đã cho một dấu lạ từ thiên nhiên đó là một ngôi sao xuất hiện. Qua dấu chỉ là một ánh sao lạ, đã thôi thúc các đạo sĩ bỏ lại đằng sau tất cả: gia đình, người thân, nhà cửa để lên đường bước vào một hành trình mới, hành trình tìm kiếm Đức Vua dân Do Thái. Họ mang theo không chỉ những báu vật, mà còn là niềm khao khát được gặp Ngài.

Dấu chỉ của thiên nhiên vốn giới hạn, các đạo sĩ có lúc đã không còn nhìn thấy ánh sao dẫn đường. Tuy nhiên, các ông không thất vọng, nhưng bằng hết khả năng các ông đã tìm kiếm thông tin về Vị Vua mới sinh. Có lẽ theo suy nghĩ thông thường của các ông, khi nói đến Vua đương nhiên phải được sinh ra trong một cung điện nguy nga lộng lẫy, chăn ấm nệm êm. Vì thế, các ông đã vào tận cung điện của vua Hêrôđê để hỏi: “Vua người Do Thái mới sinh ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Người”.

Vua Hêrôđê và cả Giêrusalem khi nghe tin này đã không hân hoan vui mừng nhưng bối rối, xôn xao, lo sợ. Những người này sợ rằng Vị Vua mới sinh sẽ trở thành người lật đổ ngai vàng, chiếm quyền của họ. Vì thế, họ đã để cho cái ác nổi lên trong lòng và điều khiển hành động của họ. Vua Hêrôđê cho triệu tập các thầy thượng tế và kinh sư để dò hỏi thông tin về Vua dân Do Thái, không phải vì thiện chí muốn tìm kiếm Ngài, nhưng tìm cách để loại trừ Ngài. Các thượng tế và kinh sư cho biết: “Theo Kinh Thánh Ngài sẽ sinh ra tại Bêlem miền Giuđêa, như lời các tiên tri đã nói: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa…ngươi là nơi lãnh tụ chăn dắt Israel ra đời”.

Khi được chỉ cho như thế, các đạo sĩ tin vào lời các thượng tế và kinh sư và nhất là tin vào lời Kinh Thánh, họ phấn khởi lên đường. Ngôi sao họ đã thấy ở Phương đông lại dẫn đường cho họ, đến tận nơi Hài Nhi ở và dừng lại tại đó. Trông thấy ngôi sao, họ rất đỗi vui mừng. Chi tiết này cho thấy dấu chỉ thiên nhiên là bước khởi đầu đưa con người tìm kiếm Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể dùng nhiều những con người khác nhau để chỉ cho chúng ta biết Thiên Chúa và nhất là Kinh Thánh sẽ chỉ cho con người thấy và nhận ra Thiên Chúa.

Điều đáng tiếc là các thượng tế và luật sĩ tỏ ra rất thuộc Kinh Thánh, nhưng họ lại không làm theo lời Kinh Thánh. Họ chỉ cho các đạo sĩ biết là Vua người Do Thái mới sinh tại Bêlem đất Giuđa, nhưng họ không lên đường tìm kiếm. Vua Hêrôđê khi nghe các thượng tế và luật sĩ chỉ cho biết nơi Vị Vua mới sinh, ông không muốn chấp nhận Ngài. Ông tìm cách để loại trừ Ngài, vì ông sợ Ngài sẽ làm phiền cho ông, sẽ ảnh hưởng đến quyền bính và lợi lộc của ông. Vì thế, Hêrôđê căn dặn các đạo sĩ: “Các vị hãy đi dò hỏi cho tương tận về Hài nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi để tôi cũng đến triều bái Người”.Hêrôđê đã bộc lộ cái ác của ông: “Khi không thấy các đạo sĩ trở lại, ông đã ra lệnh giết tất cả các trẻ em trong vùng từ hai tuổi trở xuống”.Hành động này cho thấy, khi con người từ chối đón nhận Thiên Chúa, thì cái ác sẽ xâm nhập tâm hồn và chi phối hành động của họ.

Các đạo sĩ là những con người thành tâm thiện chí, họ đã được Thiên Chúa dẫn dắt trên hành trình đức tin để đưa đến gặp gỡ Ngài. Có những lúc Thiên Chúa thử thách họ, để cho hành trình đức tin của họ có lúc rơi vào tăm tối vì ánh sao đã biến mất, có những lúc họ phải tự dò dẫm để tìm một hướng đi. Nhưng cuối cùng Thiên Chúa đã dùng lời Kinh Thánh để dẫn họ đến gặp gỡ Ngài. Các đạo sĩ bước vào nhà, họ thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Các đạo sĩ đã thể hiện một thái độ đức tin sâu xa khi gặp Hài Nhi, các ông đã tin Ngài là Thiên Chúa và quỳ gối thờ lạy. Các đạo sĩ đã tin Hài Nhi bé nhỏ trong tay bà Maria là chính Vua dân Do Thái, là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi. Các đạo sĩ đã thể hiện niềm tin này bằng việc dâng cho Chúa kho tàng mà các ông đã mang theo trong suốt hành trình, đó là lòng khao khát yêu mến và những của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược.

Cuộc gặp gỡ với Hài Nhi Giêsu là cuộc gặp gỡ của Đức tin, nhờ đó các ông đã hoàn toàn được biến đổi. Kinh Thánh ghi lại thật vắn gọn: “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại với Hêrôđê nữa, nên đã theo đường khác mà trở về xứ mình”.Các đạo sĩ đã không trở lại với những con người gian ác, không quay lại con đường tăm tối trước đây nữa, nhưng đã chọn đi một con đường khác, một lối sống khác, đó là con đường và lối sống của những con người đã được Thiên Chúa biến đổi.

Những con người đón nhận được ánh sáng của Thiên Chúa chắc chắn sẽ được biến đổi để trở nên con cái sự sáng và còn trở thành những người chiếu tỏa ánh sáng của Chúa đến cho anh chị em chung quanh. Tiên tri Isaia hôm nay đã cất lên những lời hân hoan vui mừng vì Chúa đã mở ra một viễn cảnh tươi sáng cho Giêrusalem: “Hãy đứng lên, hãy bừng sáng lên Giêrusalem, vì vinh quang của Đức Chúa đã chiếu tỏa trên ngươi… tất cả các dân đang kéo đến với ngươi, quy tụ về bên ngươi…tất cả đều vang lời tán dương Thiên Chúa”.

Thưa quý OBACE, Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta đem ánh sáng lòng thương xót của Chúa đến với anh chị em lương dân. Thiên Chúa có thể dùng nhiều cách như qua những sự lạ lùng trong vũ trụ để giúp họ nhận biết Ngài. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn muốn dùng chúng ta trở thành trung gian, thành cầu nối, đưa các anh chị em lương dân đến với Chúa. Đây là trách nhiệm, là sứ mạng của tất cả mỗi chúng ta. Để thực thi sứ mạng này, Chúa muốn mỗi người Công Giáo trở thành một dấu chỉ đường, là ánh sao soi dẫn cho người khác tìm đến với Chúa. Chúng ta sẽ chỉ cho mọi người thấy và nhận ra Thiên Chúa qua cách sống tốt lành, trong sáng của mỗi người, qua tình yêu và lòng thương xót chúng ta dành cho nhau và cho mọi người.

Để được như vậy, chúng ta phải có ánh sáng, phải đón nhận được ánh sáng từ chính Thiên Chúa qua Tin Mừng của Ngài, phải gặp được Chúa, tin vào Chúa và để cho Chúa biến đổi cuộc đời và nếp sống của chúng ta. Chúng ta cũng phải tìm đến với Chúa mỗi ngày qua Thánh Lễ, gặp Chúa trong Bí Tích Thánh Thể và để cho Lời Chúa biến đổi bản thân, lúc đó chúng ta mới có thể trở thành những dấu chỉ chính xác đưa người khác đến với Chúa. Xin cho các Kitô hữu luôn ý thức nhiệm vụ của mình trở thành người đem Chúa đến cho mọi người và đem mọi người đến với Chúa. Amen.

Về mục lục

.

TÍNH PHỔ QUÁT CỦA ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Kế hoạch của Thiên Chúa là muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu độ (x.1Tm 2,3-4). Thánh Tông đồ dân ngoại đã khẳng định về tính phổ quát của ơn cứu độ rằng: “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Eph 3,5-6). Họp mừng lễ Hiển linh hay là lễ Chúa tỏ mình cho muôn dân, Hội Thánh muốn khẳng định với chúng ta rằng ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, mọi thời, mọi hoàn cảnh, đồng thời cảnh báo chúng tránh xa thái độ cao ngạo độc quyền chân lý, và mặt khác dạy chúng ta cần tích cực sẻ chia cho tha nhân kho tàng ân sủng mình đã lãnh nhận theo khả năng và hoàn cảnh của mình.

Ơn cứu độ là dành cho tất cả mọi người. Ngôn sứ Isaia loan báo cảnh huy hoàng rực rỡ của Giêrusalem và chư dân Đông Tây, sẽ tay bế tay bồng dìu nhau đến thờ lạy, ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa (x.Is 60,3-5). Thiên Chúa là Đấng công bình và đầy tình lân ái. Người tỏ mình cho mỗi người mỗi cách khác nhau tuỳ theo khả năng và hoàn cảnh của họ. Chúa công bình vì Người tỏ mình cho tất cả mọi người, chẳng trừ một ai. Chúa lân ái nên Chúa tỏ mình bằng nhiều cách thế để mỗi người theo mỗi hoàn cảnh có thể gặp được Người.

Với những người chăn chiên cừu, vốn ít học nhưng đơn sơ chất phác, thì lời loan báo của vị Thiên Sứ cùng với tiếng hát của đoàn cơ binh Thiên Thần trong ánh sáng huy hoàng quả là một sứ điệp không gì bằng. Dòng lịch sử minh chứng cho ta sự thật này: Chúa Kitô, Mẹ Maria thường hiện ra với những người thôn quê, nghèo hèn nhiều hơn là với những người trí thức, học cao, hiểu rộng hay chốn thị thành. Với các nhà đạo sĩ Đông phương, thì sự xuất hiện một ánh sao lạ trên bầu trời hẳn là một lời mời gọi thiết thực với những “chuyên gia thiên văn”. Còn với các kinh sư, các Thượng tế Do thái giáo, thì thử hỏi có gì quan trọng cho bằng Thánh Kinh. Chúng ta chớ quên việc họ thường mang Lời Chúa được ghi trên các dải vải đính ở tay áo. Thế thì một duyên cớ để họ đọc lại lời của Ngôn sứ Mikêa: “Phần người, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa. Vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mk 5,1), quả là một lời mời gọi hay nói cách khác, là một sự tỏ mình của Thiên Chúa cách tuyệt vời cho họ. Rồi với Vua Hêrôđê, một vị vua trần thế vốn tham quyền cố vị, thì câu hỏi của các nhà đạo sĩ Đông phương: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu?” đúng là một sự tỏ mình của Thiên Chúa cách đúng đối tượng.

Thiên Chúa luôn tỏ mình ra với mọi người theo cách thức Người chọn, phù hợp với từng người theo từng hoàn cảnh, số phận khác nhau của họ. Như thế, ta có thể nói là bất cứ ai cũng đều có thể tìm gặp chân lý, đều có thể tìm đến cội nguồn hạnh phúc vĩnh cửu theo khả năng, hoàn cảnh của mình. Giáo lý Công Giáo khẳng định rằng ngoài phép rửa bằng nước còn có phép rửa bằng máu và bằng lòng mến. Thánh Công đồng Vatican II dạy chúng ta: “Vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho tất cả mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh cứu độ của Đức Kitô, tham dự bằng cách nào thì chỉ có Chúa biết mà thôi” (MV số 20). Ơn cứu độ là dành cho muôn dân, vì thế chúng ta có thể rút ra một vài hệ luận như tất yếu như sau:

Không được phép độc quyền chân lý: Chân lý không thuộc riêng một ai, một tập thể nào. Khi ta độc quyền chân lý cách này cách khác là khi ta tự biến mình thành ngẫu tượng. Cần phải bỏ dần thái độ cao ngạo tự tôn của một thời quá khứ khi ta đồng hoá mọi niềm tin, tôn giáo khác ta đều là lầm lạc, là ma quỷ, bụt thần… Cần phải minh định rằng “không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Chúa Kitô” (x.Ga 14,6). Tuy nhiên cũng cần cảnh giác thái độ tự tôn cho rằng “ngoài Giáo Hội thì không có ơn cứu độ”, một thái độ thiếu tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” (x.Ga 3,8). Khi ta có thái độ độc quyền chân lý là lúc ta tưởng như mình đã nắm trọn vẹn chân lý và hữu ý hay vô tình ta đã rơi vào chước cám dỗ của Satan ngày xưa khi cám dỗ tổ tiên loài người: Cứ ăn trái cấm này đi thì hai ông bà sẽ nên như Thiên Chúa, biết được điều lành điều dữ (x. St 3,5).

“Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” (Ga 6,45). Thiên Chúa tỏ mình cho mỗi người mỗi cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên để nhận biết Thiên Chúa, phần phía con người cũng cần có sự đáp trả cân xứng. Một vài thái độ đáp trả cần có đó là:

Một tâm hồn biết lắng nghe: đây là thái độ khiêm nhu chân thành, luôn khao khát tìm về chân, thiện, mỹ. Người có tâm hồn biết lắng nghe là người có tấm lòng thành trước những những gì là chính đáng, là phải đạo. Các nhà đạo sĩ Đông phương và những người mục tử thôn dã lúc bấy giờ là những người có tấm lòng thành. Tấm lòng thành ở đây được hiểu như là sự hướng thượng và hướng thiện. Quân vương Hêrôđê chắc chắn không có tấm lòng thành. Các thượng tế, kinh sư ở thành Giêrusalem lúc bấy giờ thì ta không dám quả quyết nhưng chắc chắn họ thiếu động thái lên đường, ra đi.

Một động thái lên đường, ra đi: Khi đã nhận ra tiếng nói của chân lý toàn thiện, tình yêu vĩnh cửu, thì cần phải lên đường, ra đi. Chân lý toàn thiện, tình yêu vĩnh cửu đòi hỏi chúng phải ra đi khỏi cái vị thế hiện tại. Không một ai ở trần gian này có thể nắm được tình yêu vĩnh cửu hay chân lý toàn thiện. Tất thảy đều ở phía trước, chính vì thế cần phải lên đường, ra đi. Các thượng tế và kinh sư ở thành Giêrusalem năm nào dù đã thoáng nhận ra Ánh Sáng cứu độ nhưng vì họ đã không lên đường nên không thể gặp được Đấng Cứu Thế. Trái lại khi nhận được dấu chỉ mời gọi, các đạo sĩ Đông phương và các mục tử đã biết lên đường, ra đi. Ra đi là chấp nhận từ bỏ. Lên đường là chấp nhận hy sinh và gian khó. Có một cái khó mà không dễ gì vượt qua hay từ bỏ, đó là những tập tục hay truyền thống mang tính nhân loại. Chúng dễ nhận ra sự thật này nơi nhiều người biệt phái, luật sĩ, tư tế thời Chúa Giêsu, khi Người công khai rao giảng tin mừng.

Chân lý đã thực sự hoàn hảo và đầy đủ nơi Chúa Kitô, Đấng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (x.Col 1,15; Dt 1,1-2). Nhưng chúng ta, dù là giáo dân hay giáo sĩ, dù là thần học gia hay “xứng với bậc tông đồ” thì cũng chỉ nhận biết chân lý kiểu như thấy trong tấm gương đồng. “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1.Cor 13,12).

Ra khỏi tháp ngà tự mãn cho rằng đã nắm được trọn vẹn chân lý, ra khỏi tháp ngà độc quyền chân lý là cách thế tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Hiển linh, Chúa tỏ mình cho muôn dân cách thiết thực, hữu hiệu và khả tín. Không ngừng kiếm tìm và đón nhận chân lý là một thái độ khiêm nhu vừa có tính giải thoát và tính truyền giáo. Sự thật không chỉ giải thoát chúng ta, mà còn có sức cuốn hút những tâm hồn thiện chí. Và như thế sự thật sẽ làm cho chúng ta xích lại gần nhau, làm cho chúng ta nên một bằng cách thánh hiến chúng ta, nghĩa là làm cho chung ta thuộc về Thiên Chúa (x.Ga 17,17).

Mừng mầu nhiệm Chúa Hiển Linh, ước gì chúng ta mãi luôn nuôi dưỡng cái tấm lòng thành nơi chúng ta bằng thái độ khiêm nhu biết lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần. Lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần không chỉ trong Thánh Kinh, trong các cử hành Phụng vụ, trong lời dạy của Hội Thánh…mà còn trong các biến cố lịch sử, trong các nét đẹp thánh thiêng nơi các niềm tin, tôn giáo ngoài Công Giáo, nơi các nghĩa cử cao đẹp của những người chưa tin hay chưa nhận biết Thiên Chúa. Lắng nghe không phải để đứng nhìn mà để can đảm lên đường tìm kiếm và đón nhận chân lý. Sự thật toàn vẹn luôn ở phía trước, vì có đó nhiều điều ngay các Tông đồ vẫn chưa thấu hiểu. Chính Thánh Thần là Đấng sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự thật toàn vẹn (x.Ga 16,12-13). Người là Đấng đang mãi hoạt động cho đến ngày Đức Kitô lại đến trong vinh quang. Không ai có thể trao ban điều mình không có. Tích cực tìm kiếm và đón nhận chân lý là tiền đề tất yếu để ta chia sẻ cho tha nhân hồng ân cứu độ.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA KHÔNG ẨN MÌNH?

Lm JB Nguyễn Minh Hùng

Trong lễ Hiển Linh, Hội Thánh suy tôn mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình. Dù vậy, qua nhiều mạc khải của Kinh Thánh, ta vẫn thấy, Đấng tỏ mình là Đấng ẩn mình.

Từ đời đời, Thiên Chúa vẫn là thực tại khó hiểu nhất của loài người. Dẫu Người đã tỏ mình, Người vẫn đang tỏ mình, thì đối với giới hạn của lý trí, ta vẫn không thể biết hết về Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn ẩn mình đối với mọi nỗ lực suy tư của ta.

Chính bài Tin Mừng của lễ Hiển Linh, dù là câu chuyện lý thú, vẫn lộ rõ những nghịch lý về sự tỏ mình và ẩn mình của Thiên Chúa. Bởi nội dung của Tin Mừng trong lễ Chúa Hiển Linh, vừa diễn tả một Thiên Chúa tỏ mình, vừa trình bày một Thiên Chúa ẩn mình:

– Ba đạo sĩ là những người ngoại giáo. Với họ, chỉ một ánh sao trên bầu trời, dù sao ấy có lạ, có sáng đến đâu, vẫn chỉ là một sự tỏ mình còn đầy ẩn mình. Từ một ánh sao lạ, để nhận ra Thiên Chúa, các đạo sĩ chắc chắn đã phải có một đi vô cùng quả cảm.

Đúng hơn, Thiên Chúa cần trái tim, cần tấm lòng của con người. Với trái tim luôn rộng mở về phía chân lý, với tấm lòng đơn thành, luôn sẵn sàng đón nhận tình yêu, đón nhận chân lý, thì dù việc Thiên Chúa tỏ mình có mịt mù đến đâu, con người vẫn có thể khám phá, vẫn có thể lãnh hội.

Chỉ bằng một ánh sao đơn lẻ trên bầu trời, ba nhà đạo sĩ đã lên đường, mang theo trong tâm tư một lời hỏi: “Vua người Do thái mới sinh, hiện đang ở đâu?”. Tấm lòng chân thành và trái tim rộng mở của họ đã được Chúa đón nhận. Chúa đã tỏ mình. Qua hình hài một bé thơ bọc tã, Chúa cho họ biết, Người là Thiên Chúa của những ai đơn sơ, khiêm cung. Người yêu thích những tâm hồn bé nhỏ khi họ đối diện với Người.

Đúng hơn, trước khi dâng lên Chúa những lễ vật, ba đạo sĩ đã dâng lên Chúa cõi lòng đầy thành tâm, đầy hướng thiện, đầy niềm khao khát. Họ đi đường bằng những nẻo đường trên thế gian để tìm gặp Chúa. Nhưng thực ra, họ đã đến với Chúa trước khi họ gặp Chúa bằng con đường của đức tin, của sự khám phá chân lý, của tâm hồn mềm mỏng để Chúa tự do uốn nắn.

Thánh Kinh cho biết, ngay khi gặp Chúa, các đạo sĩ tôn thờ Người. Thực ra, nơi họ, đức thờ phượng đã ngập đầy từ lâu. Chính vì chân thành thờ phượng Đấng mình tin, các đạo sĩ được Chúa mở ra trong lòng họ cả một chân lý cứu độ. Đó là Thiên Chúa luôn thể hiện chính mình, và trao ban mình cho nhân loại trong những cái đơn hèn nhất, giản dị nhất, khiêm cung nhất. Đáp lại, những ai luôn biết hạ mình, chân thành, khiêm nhường cũng sẽ dễ dàng đến cùng Chúa, dễ dàng đón nhận Chúa và lãnh nhận ơn Chúa cứu độ.

Nghịch lý về một Thiên Chúa cao sang, quyền phép, đáng chúc tụng và vinh danh trên các tầng trời, lại là một Thiên Chúa lặn sâu trong kiếp người đến nỗi nghèo khó, bé bỏng, trần trụi, chìm khuất. Chắc chắn, không phải chỉ các đạo sĩ, nhưng còn là mỗi chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ có thể gặp Chúa ở cung điện, ở những gì trí thức, khoa bản. Chúng ta khó lòng gặp Chúa nếu tâm hồn mình còn đầy gai góc, đầy kiêu căng, đầy tham vọng.

– Còn Hêrôđê, chỉ với một lời hỏi: “Vua người Do thái mới sinh, hiện đang ở đâu?”, đã làm cho cả triều đình của ông hốt hoản. Thánh Mathêu viết: “Hêrôđê bối rối”, và “cả Giêrusalem cùng (bối rối) với nhà vua”.

Trong cơn hốt hoản, nhà vua triệu tập các đại giáo sĩ, các luật sĩ và những người am hiểu Kinh Thánh để tham khảo ý kiến. Nhưng khi đã xác định mạc khải của Chúa từ xa xưa qua sứ điệp tiên tri Mika: “Hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi nhỏ bé hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi người sẽ xuất hiện một thủ lãnh, người đó sẽ chăn nuôi Israel, dân tộc của Ta” (Mk 5, 1; Mt 2, 6), lẽ ra triều đình Hêrôđê và hàng lãnh đạo đạo đời của Dothái phải vui mừng khôn xiết mới đúng. Đàng này ngược lại: Họ lên đường tìm cách tiêu diệt Đấng Cứu Thế của muôn dân.

Nghịch lý là thế: Hóa ra, chỉ những người ngoại giáo, và ở rất xa, đã nhận ra Thiên Chúa. Còn những kẻ hằng tự hào mình là dâng riêng của Chúa, là những người nắm giữ Kinh Thánh, hiểu biết Kinh Thánh, ôm trọn mạc khải và luôn chủ trương giữ chặt chẽ lề luật của Chúa, lại không hề hay biết điều gì đã xảy ra.

Đến khi được Thiên Chúa ưu ái tỏ mình, – không phải bằng ánh sao, nhưng bằng thế giá của con người (đó là được chính các đạo sĩ loan báo), bằng thế giá của Lời Chúa trong Kinh Thánh, và không chỉ ngay trên chính quê hương, mà còn ngay bên cạnh hoàng triều của mình – thì nỗ lực tỏ mình của Thiên Chúa không thể có cơ hội tồn tại và phát triển trong lòng những kẻ mang dã tâm, đầy tham vọng, và bạo tàn.

Chúa không thể tỏ mình, thì nội tâm của những kẻ không đón nhận mầu nhiệm tỏ mình, mãi mãi Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa ẩn mình.

Lý thú là ở chỗ đó. Nghịch lý là ở chỗ đó. Đúng hơn, chính nghịch lý về sự tỏ mình và ẩn mình của Thiên Chúa đã gây lý thú và có sức lôi kéo người đọc và suy niệm.

Đó không là một lý thú để cười, để mừng vui. Nhưng để bất cứ ai, một khi đã nhận ra, đều phải giật mình thản thốt và suy nghĩ: Vì sao Thiên Chúa ẩn mình chứ không tỏ mình cho hết mọi người?

Thực ra, một khi Chúa tỏ mình, thì tỏ mình cho tất cả, không trừ ai. Điều còn lại là người được tỏ mình phải có thái độ nào, phải có lối suy nghĩ nào, phải có tâm hồn muốn đón nhận hay không đón nhận.

Thiên Chúa ẩn mình không phải do chính Thiên Chúa, nhưng do con người muốn loại trừ Thiên Chúa. Thực tế, từ đời sống của thế giới, đến từng cá nhân, nếu ở đâu có kẻ muốn loại trừ Thiên Chúa, ở đó khuôn mặt tàn độc của Hêrôđê có cơ hội hiện hình.

Đó là những kẻ chủ trương chiến tranh, chủ trương giết chóc, chủ trương phá hoại hòa bình… Đó là những thói bóc lột, thói mạnh được yếu thua, thói gian xảo trong mọi tương quan từ chánh trị, giáo dục, y tế, công nghiệp, nông nghiệp đến tương quan giữa cá nhân với cá nhân…

Còn chúng ta, các Kitô hữu, cũng phải thay đổi đời sống để sống tình yêu tỏ mình của Thiên Chúa mà chấm dứt lòng dạ xấu, không nuôi sự hận thù, không tìm lợi cho bản thân, chấm dứt sự ganh ghét nhau, chấm dứt sự thiếu thành thật khi tương quan cùng nhau…

Hơn ai hết, các Kitô hữu hãy luôn ý thức: Thiên Chúa ẩn mình là do thái độ sống bất xứng của chúng ta.

Về mục lục

.

NHỮNG ĐIỀU THIÊN CHÚA MẶC KHẢI

QUA MẦU NHIỆM GIÁNG SINH

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 60:1-6;  Ep 3:2-3a, 5-6;  Mt 2:1-12)

Câu chuyện ba vua từ phương Đông đến bái lạy Chúa Hài Đồng thật là sống động.  Nhưng chính sự sống động ấy có thể khiến chúng ta không mấy để ý tới ý nghĩa đích thực của ngày lễ mà chúng ta gọi là Lễ Hiển Linh.  Hiển Linh nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta biết Người là Đấng nào, làm gì và có mối tương quan với chúng ta thế nào.  Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày những điểm mặc khải ấy.  Mặc khải thứ nhất được ngôn sứ I-sai-a mô tả trong bài đọc 1 là:  Thiên Chúa chiếu tỏa vinh quang của Người trên Giê-ru-sa-lem, để nhờ ánh sáng vinh quang ấy, muôn dân được cứu độ.  Mặc khải thứ hai là về mầu nhiệm Đức Ki-tô:  trong Đức Ki-tô và nhờ Tin Mừng, hết mọi người không trừ ai đều được thừa hưởng ơn cứu độ.  Đặc biệt bài Tin Mừng kể lại câu chuyện Chúa Hài Đồng tỏ mình ra cho mấy nhà chiêm tinh phương Đông để đánh dấu đây là ngày Thiên Chúa bắt đầu làm cho khắp cả hoàn cầu nhận biết ơn cứu độ của Người.

Trong Cựu Ước, Giê-ru-sa-lem được coi là nơi quy tụ muôn dân nước trên địa cầu, để mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại được thể hiện sống động.  Sự hiện diện của Thiên Chúa tại Giê-ru-sa-lem biến nó trở nên Thành Thánh và lôi kéo mọi dân tộc đến với Thiên Chúa.  Do đó, Giê-ru-sa-lem nghiễm nhiên là trung tâm ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, khi ánh sáng ơn cứu độ xuất hiện nơi thành này.  Để diễn tả ánh sáng ơn cứu độ đến trần gian, khởi đầu từ Thành Thánh, ngôn sứ I-sai-a không cầm được nỗi vui mừng nên ngài hô lớn:  “Đứng lên, bừng sáng lên, Giê-ru-sa-lem hỡi, vì ánh sáng của ngươi đến rồi.  Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi”.  Chúng ta cứ tưởng tượng mà xem:  một Giê-ru-sa-lem mặc dù ở trên núi cao, nhưng vẫn chìm trong bóng tối tội lỗi và sự chết, giờ đây bừng sáng vì ơn cứu độ của Thiên Chúa chiếu tỏa.  Ánh sáng của vinh quang Thiên Chúa tại Giê-ru-sa-lem lôi cuốn mọi người khắp nơi tiến về.  Ngôn sứ đã lấy hình ảnh người người tuôn về thành đô và làm cho nó trở nên trù phú, thịnh vượng nhất địa cầu, để nói lên tính cách phong phú và đầy tràn của ơn cứu độ. Hiểu Giê-ru-sa-lem là trung tâm ơn cứu độ, chúng ta có thể áp dụng cho Giáo Hội, một Giê-ru-sa-lem Mới.  Cũng như Giê-ru-sa-lem, Giáo Hội phải hoàn thành sứ mệnh của mình, là dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội phải lôi kéo mọi người đến lãnh nhận ơn cứu độ và tạo nên một Ít-ra-en Mới gồm những người công chính.

Nếu bài đọc 1 giới thiệu Giê-ru-sa-lem, hoặc Giáo Hội của Chúa Ki-tô, như là trung tâm ơn cứu độ, thì suy niệm của thánh Phao-lô qua đoạn thư Ê-phê-xô quả thực giúp chúng ta hiểu rằng cốt lõi và tột đỉnh của việc Thiên Chúa tỏ mình ra chính là qua mầu nhiệm Đức Ki-tô.  Theo thánh Phao-lô, mầu nhiệm này từ trước đến giờ vẫn được giấu kín, “nhưng nay Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người”.  Mầu nhiệm Đức Ki-tô là chìa khóa giúp chúng ta hiểu biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.  Quả thực Chúa Ki-tô là một “mầu nhiệm” vì Người vừa là động lực, vừa là tác nhân của việc cứu độ.  Là động lực, vì Chúa Ki-tô là tình yêu thúc đẩy Thiên Chúa cứu chúng ta;  là tác nhân, vì Người đã xuống thế làm người, rao giảng Tin Mừng, rồi chịu chết trên thập giá để chuộc tội nhân loại.  Tuy nhiên vị tông đồ dân ngoại còn cho chúng ta thấy đây là mầu nhiệm đem lại ơn cứu độ phổ quát, chứ không phải cho riêng dân Do-thái.  Cho nên ngài đã tóm tắt mầu nhiệm ấy như sau:  “Trong Đức Ki-tô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”.  Nói khác đi, theo kế hoạch của Thiên Chúa, hết mọi người dù không phải là người Do-thái cũng đều được mời gọi hãy tin vào Chúa Giê-su, bằng cách tiếp nhận và sống Tin Mừng cứu độ.

Mặc dù câu chuyện mấy nhà chiêm tinh nói về một cuộc tìm gặp Đấng Cứu Độ, nhưng nó còn nhấn mạnh rằng đây là một thời điểm quan trọng trong lịch sử cứu độ:  Hiển Linh là ngày Thiên Chúa bắt đầu kêu gọi các dân tộc hãy đến lãnh nhận ơn cứu độ.  Thánh Phao-lô gọi ngày này là ngày Thiên Chúa “đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Con yêu quý của Người”.  Thánh Vịnh thì ca ngợi ngày này vì “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân”.  Nếu có dịp, chúng ta hãy đọc lại bài giảng của thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng, trong Các giờ kinh Phụng vụ, lễ Hiển Linh.

Sống sứ điệp Lời Chúa

Để giúp sống sứ điệp Lời Chúa, chúng tôi xin phép trích dẫn một đoạn trong bài giảng của thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng:  “Chúng ta biết rõ rằng những điều nói trên  đã được thực hiện khi một ngôi sao dẫn đường cho ba nhà chiêm tinh.  Từ nơi xa xôi, các ngài đã được gọi đến nhận biết và thờ lạy Đức Vua cai trị trời đất.  Ngôi sao này khích lệ chúng ta noi theo gương vâng phục:  tức là nỗ lực sống theo ơn thánh, ơn mời gọi mọi người đến với Đức Ki-tô.  Anh em thân mến, trong cuộc tìm kiếm này, tất cả anh em phải giúp đỡ lẫn nhau để nhờ đức tin chân chính và các việc lành phúc đức mà đạt tới Nước Thiên Chúa, trong đó anh em sẽ rạng rỡ như con cái ánh sáng”.  Nào, cùng ba nhà chiêm tinh, chúng ta hãy đến với Đức Ki-tô!

Về mục lục

.

CHÚA HIỂN LINH

Lm. JB Nguyễn Minh Phương

Nơi mỗi người ít nhiều cũng có những tâm tình tôn giáo.Tuy nhiên, không phải ai cũng đón nhận Thiên Chúa là Đấng tối cao trong lòng họ.

Phần mình, người tín hữu cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa qua thiên nhiên diệu kỳ, qua dòng lịch sử nhân loại và tôn giáo, và nhất là qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể.

I. QUA THIÊN NHIÊN

Thánh Mátthêu đề cập đến ánh sáng của Thiên Chúa đã bừng lên qua hiện tượng ánh sao. “Chúng tôi thấy ngôi sao của Người xuất hiện” (Mt 2, 2).

Theo ánh sao chỉ dẫn, các nhà chiêm tinh đã lên đường tìm kiếm Đức Vua của dân Do Thái. Rất có thể, ba nhà chiêm tinh chưa hình dung ra ngôi vị Thiên Chúa nơi Hài Nhi Giê-su. Có chăng, họ mới mường tượng về một vị vua mới ra đời và họ phải đến triều bái theo nghi thức ngoại giao. Nhưng dù sao, sự hiện diện của ba nhà chiêm tinh bên máng cỏ Bê-lem cũng đủ nói lên phép ứng cử ngay lành và thiện chí khát khao kiếm tìm chân lý và sự thật nơi các ngài.

Thiên Chúa đã dùng hiện tượng thiên nhiên (ánh sao), đã dùng ngôn ngữ, cách sử thế của con người (vị vua) để từng bước tiệm tiến mạc khải về Người cho nhân loại.

Đời người được tiếp xúc với môi trường thiên nhiên: ánh bình tỏa rạng báo hiệu một ngày mới, mặt trời lên chiếu sáng và mang lại hơi ấm, ánh trăng soi tạo cảnh sắc cho đêm, ngọn gió mát thổi đến mang lại hơi thở cho sự sống làm thanh thỏa lòng người, hạt mưa rơi làm phát sinh mầm sống mới…Tất cả những hiện tượng thiên nhiên ấy như đang nhắc nhở cho con người ý thức về bàn tay quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.

Tiếc rằng, đang hưởng thụ hồng ân Chúa qua thiên nhiên nhưng không ít người lại tỏ ra vô ơn phủ nhận Thiên Chúa. Xem ra, những gì hưởng thụ miễn phí thì người lại không biết trân trọng nguồn gốc.

Mong sao, mỗi hiện tượng thiên nhiên đều là một câu hỏi để người ta tìm về cội nguồn sự sống. Xa hơn nữa, họ tìm về Đấng Tạo Hóa. Về điều này, người tín hữu phải nêu gương trước tiên với những khắc khoải gặp gỡ Ngôi Lời Nhập Thể. Lịch sử là những ghi nhận diễn biến tôn giáo nơi con người.

II. LỊCH SỬ

Kể từ ngày thảm họa tội lỗi làm mất đi vẻ đẹp nguyên tuyền Thiên Chúa ban cho con người, dân Chúa rơi vào cảnh lầm than “bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân” (Is 60, 2).

Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn dõi theo con người và không để họ rơi vào vô vọng. Khi tình thương đã đến đỉnh điểm, Thiên Chúa cho bừng lên ánh sáng, vinh quang của Người “như bình minh chiếu tỏa” (Is 60, 1) chiếu soi lòng người.

Ngày ấy, để gặp gỡ Thiên Chúa, dân Chúa đi về phía ánh sáng, vua chúa trần gian phải hướng về ánh bình minh (x Is 60, 3). Từ muôn nơi, con trai, con gái của Thiên Chúa quy tụ loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa, cùng làm nên một cộng đoàn dân thánh: mặt mày rạng rỡ, lòng dạ hớn hở tưng bừng…

Ánh sáng bừng lên, bình mình đã ló dạng, Thiên Chúa đã đi vào lịch sử loài người nhưng trong thực tế rất nhiều người vẫn còn thơ ơ lãnh đạm, thậm chí khước từ Người. Ước mong sao, người tín hữu cảm nhận được ánh sáng chúa đang chiếu soi tâm hồn của họ, cảm nhận được ánh bình minh của Chúa đang là những tia sáng hy vọng hướng dẫn cuộc đời họ, trở nên dấu chứng niềm tin cho nhân loại.

III. NGÔI LỜI NHẬP THỂ

Lịch sử cứu độ là cả một lịch sử khát khao Đấng Cứu Thế. Vậy mà Cứu Thế đã đến nhà mình nhưng người nhà không đón nhận (x.Ga 1,10-14). Sao thế?

– Sự cực đoan nơi con người: Khi nghe các nhà chiêm tinh nói về vị vua dân Do Thái ra đời, vua Hê-rô-đê đã cho triệu tập các kinh sư và các thượng tế để trao đổi. Về lý thuyết, tất cả họ đều biết rất rõ Vị Lãnh Tụ chăn dắt It-ra-en sẽ ra đời tại Bê-lem. Trong lòng tin, thì Vị Lãnh Tụ này không khớp kinh nghiệm của họ nên họ khó chấp nhận một sự tương phản. Bê-lem nhỏ bé không thể sánh với Giê-ru-sa-lem. Bê-lem không thể là nơi sinh ra của một vị vua được.

Sự tự phụ nơi con người: Về kiến thức tôn giáo, những kinh sư và những thượng tế là những người thông thái, là những bậc thầy trong dân Do Thái, nhưng về lòng tin thì xem ra họ mới chỉ biết một mớ lý thuyết chứ chưa hề biết về Thiên Chúa nhập thể làm người. Thế mới hay, sự duy lý đã khóa chặt con người trước mạc khải của Thiên Chúa: người có đạo chưa chắc đã có Chúa; người có Chúa rồi sẽ có đạo..

– Lòng gian ác: Thông tin về một vị vua Do Thái ra đời đã làm cho vua Hê-rô-đê run sợ về sự an nguy ngai vàng của ông. Từ đó, mọi sự tiếp đón của ông đối với những nhà chiêm chiêm tinh chỉ là trò giả hình, gài bẫy, mưu đồ giết hại Hài Nhi Giê-su; bằng chứng là sau đó ông đã hạ lệnh giết sách các hài nhi từ hai tuổi trở xuống. Rõ ràng lòng dạ độc ác của con người đã ngăn lối họ đến với Thiên Chúa.

Chúa đã đi vào trần gian và mang tên Giê-su nhưng sự cực đoan, tự phụ và lòng gian ác đã khép kín tâm hồn người ta, ngăn bước họ đến với Chúa. Thánh Phao-lô kinh nghiệm Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải mầu nhiệm: “Trong Đức Ki-tô và nhờ Tin Mừng các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người DoThái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Chúa hứa” (Ep 3, 5).

Như thế, nhờ Chúa Thánh Thần Thiên Chúa đã tỏ mình nơi Đức Kitô. Trong Đức Kitô, muôn dân được hiệp nhất. Ước mong người tìn hữu mở lòng đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, xin Người dẫn đến Chúa Giê-su. Nơi Chúa Giê-su, tất cả mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ bày.

KẾT :  Thiên Chúa đã đến trần gian và từng buớc tiệm tiến tỏ mình cho nhân loại qua lịch sử, qua thiên nhiên, nhất là qua Ngôi Lời Nhập Thể.

Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng đã tôn trọng sự tự do nơi con người và con người đã sử dụng tự do để thuận theo hoặc khước từ Người.

Cách riêng người tín hữu sẽ chọn lựa đi về phía ánh sáng để thờ lạy Chúa là chân lý và sự thật. Tin vui cứu độ phải được loan báo cho toàn dân.

Về mục lục

.

ĐI TÌM CHÚA

Bông hồng nhỏ

Hôm nay mừng lễ Chúa Hiển Linh, ta được chiêm ngắm hình ảnh ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem để thờ lạy Đức Vua dân Do thái mới sinh. Họ không biết “Đức Vua dân Do thái mới sinh hiện ở đâu” (x. Mt 2, 2) nên mới đi tìm kiếm, dò hỏi. Họ đi theo ngôi sao của Người, ngôi sao đã xuất hiện bên phương Đông và muốn đến bái lạy Người (x. Mt 2, 2). Chúa Giêsu đã sinh ra cho ta, cho cả nhân loại. Ta có nhất tâm tìm kiếm Chúa không và ta có biết Người ở đâu không? Vua Hêrôđê rất bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao khi nghe tin ấy. Chúa đến mang bình an nhưng sao lòng người lại hoang mang? Chúa Giêsu vẫn ở với ta qua những người bên cạnh ta. Ta đã thấy chân dung dịu hiền của Chúa qua người mẹ ngày đêm chăm sóc ta, qua tình thương âm thầm của cha, qua sự chăm sóc ân cần của anh chị và nơi sự tử tế của bạn bè, và ngay cả nơi sự cộc cằn của người bạn khó tính. Chúa Giêsu mời gọi ta yêu thương tất cả mọi người, không phải vì họ làm hài lòng ta, không phải vì ta thấy họ dễ thương. Chúa dùng những con người cụ thể để chỉ cho ta thấy tình thương bao la của Chúa, để ta được thánh hóa nhờ họ. Các nhà chiêm tinh đã nghe Vua Hêrôđê nhắn nhủ, dặn dò, dù đó chỉ là sự giả dối của vua nhưng qua đó các nhà chiêm tinh cũng biết được Bêlem là nơi họ phải tới. Thiên Chúa là Đấng quan phòng, Người yêu ta theo cách Người muốn, dù có lúc ta chẳng hiểu được và có khi ta chạy trốn Người.

Thiên Chúa dùng vì sao lạ dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đi tìm gặp Vua Giêsu. Ta có thấy ánh sáng của vì sao mà Thiên Chúa dùng để dẫn đường cho ta không hay đã bao giờ ta trở nên một vì sao dẫn người khác đến với Chúa? Đó vừa là lời mời gọi và cũng là lời chất vấn dành cho ta. Được Chúa yêu thương và được cảm nhận cách cụ thể tình yêu của Chúa, ta cũng hãy dâng tiến Chúa tình yêu của ta. Có nhiều khi ta ao ước trở thành niềm vui cho người thân yêu, là chỗ dựa, là sự nâng đỡ, là sự lắng nghe. Ở bên họ, ta hiện diện trọn vẹn cả con người với tâm hồn, lý trí và tự do bởi ta biết Chúa đang ngự nơi người đó và Chúa đang chờ đợi ta. Lòng ta được thôi thúc mạnh mẽ, lòng ta vui mừng hân hoan như khi các nhà chiêm tinh nhìn thấy ngôi sao. Như các nhà chiêm tinh lúc đó, ta cũng vào nhà để được nhìn thấy Chúa Giêsu, để dâng Chúa những của lễ. Chắc hẳn, của lễ đẹp lòng Chúa nhất là chính tâm hồn nhiệt tâm tìm kiếm Chúa nơi ta.

Lạy Chúa Giêsu là Vua của con! Bây giờ Chúa đang đến với con nơi hình ảnh một hài nhi bé nhỏ, đơn sơ. Chúa đang nhìn con và tỏ cho con biết Chúa luôn hiện diện nơi những người bé nhỏ, khó nghèo, yếu đuối. Chúa chờ con đến thờ lạy, yêu mến. Xin thôi thúc, lôi kéo, cuốn hút con đến gần Chúa; xin giúp con yêu Chúa chân thành để con tim con mở rộng đón nhận người anh chị em, để tâm hồn con tha thiết chia sẻ tình yêu của Chúa với người anh chị em. Con tạ ơn Chúa và chúc tụng Chúa muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

HÃY MỞ CỬA

Anna Cỏ May

Chúng ta thường tự hỏi và hỏi người khác: Làm sao để tôi biết Chúa và làm thế nào để tôi ở với Ngài? Những câu hỏi này thường xuất phát từ một trái tim khao khát muốn biết và muốn yêu Chúa. Chính Thiên Chúa đã đặt để sự khao khát ấy nơi mỗi người. Vì lòng khao khát đó mà những nhà chiêm tinh vượt bao gian nan để tìm Chúa.

Các nhà chiêm tinh ở Phương Đông là những người ngoại giáo. Các ông đã được Thiên Chúa soi sáng, báo tin về việc Hài Nhi mới sinh qua ánh sao lạ. Các ông nhận thấy ngôi sao lạ ấy không phải là một dấu chỉ về một vị vua bình thường nhưng là một vị vua rất đặc biệt. Từ đó, các ông biết rõ, cùng với sự trống rỗng trong lòng và cả sự khao khát muốn biết vị vua ấy là ai, và nhất là sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, các ông đã lên đường tìm kiếm. Các ông ra đi theo ánh sao lại mà không biết rằng trên hành trình sẽ gặp nhiều khó khăn? Trong tay các ông không có một bản đồ hay một chỉ dẫn nào từ người khác. Các ông vừa đi vừa hỏi về Đức Vua Do thái mới sinh. Cuối cùng, các ông đã đến nơi Hài Nhi sinh và đã hết sức mừng rỡ. Các ông đã được thấy Hài Nhi với thân mẫu Người trong hang lừa. Hang lừa đầy mùi hôi hám nhưng ấm áp tình yêu thương, đầy tình người. Các ông nhận ra vị vua hòa bình là Hài Nhi Giêsu, liền sấp mình thờ lạy, dâng các lễ vật cao quý tỏ lòng tôn kính (x. Mt 2, 10-12).

Thiên Chúa đã dùng ngôi sao lạ để giúp các nhà chiêm tinh nhận biết mà đến với Hài Nhi Giêsu. Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hằng tỏ lộ cho mọi người nhận biết về tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu. Ngài đến và nói với mỗi người qua những lời giảng của vị linh mục, một lời cầu nguyện hay lời kinh tiếng hát của ai đó. Chúa đến và ở kề bên chúng ta qua người anh chị em, bạn bè, hàng xóm hay người xa lạ. Chúa đến ngay cả trong những người tội lỗi cần chúng lòng xót thương và tha thứ. Chúa ở với chúng ta qua từng biến cố hằng ngày: vui hay buồn, thành công hay thất bại. Và hơn thế nữa, Chúa đang ở trong chính là những nỗi đau khổ của mình và của người khác. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không nhận biết và nghe tiếng Chúa vì chúng ta quá bận tâm và lệ thuộc vào những tạm bợ của trần gian.

Khi xưa, các nhà chiêm tinh phải ra đi tìm Chúa. Ngày nay, Chúa đã đến với chúng ta nhưng chúng ta chẳng mở cửa ra đón tiếp Ngài (x. Ga 1, 11). Ngài đến với chúng ta bằng chính con người của mình qua Bí tích Thánh Thể nhưng nào ai nhận ra Ngài. Phúc cho những ai kiên nhẫn bền chí tìm cách đón Ngài vào nhà mình thì sẽ được quyền trở nên con Thiên Chúa, hưởng cuộc sống hạnh phúc trong Nước Trời. Điều cốt yếu và hệ tại là ở nơi chúng ta. Chúng ta có thật sự khao khát muốn rước Ngài vào nhà không? Chúa vẫn luôn đứng đó chờ chúng ta mở cửa cho Ngài vào.

Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã mãi yêu thương và trao ban chính Con Một của Chúa cho chúng con. Xin cho chúng con biết nhận ra và mau mắn mở của đón rước Con Ngài vào nhà. Vì chỉ có Chúa là hạnh phúc đích thật của cuộc đời con. Amen.

Về mục lục

.

CÁI TÂM

Lm. Thái Sơn

Chuyện kể rằng, lúc rảnh rỗi Tô Đông Pha thường đến thăm thiền sư Giác Ấn và cùng bàn luận về Phật pháp. Mỗi lần như vậy, Tô Đông Pha đều bị thiền sư Giác Ấn gạn vấn đến bế tắc, bởi đối đáp chẳng thông.

Có lần Tô Đông Pha đến chơi, sau vài ly trà, Tô Đông Pha hỏi thiền sư: “Ngài xem tôi giống ai?” Thiền sư trả lời không cần suy nghĩ: “Ông ngồi giống Phật”.

Sau đó, thiền sư hỏi Tô Đông Pha: “Ông xem tôi giống ai”. Tô Đông Pha cũng trả lời không cần suy nghĩ: “Ngài ngồi giống đống phân”, vì Tô Đông Pha thấy thiền sư to mập mạp.

Nghe vậy, thiền sư lặng thinh không nói gì tiếp tục uống trà. Tô Đông Pha cho là lần này mình đã làm cho vị thiền sư cứng miệng, tỏ vẻ đắc thắng ra về. Vừa về đến nhà thì gặp Tô tiểu muội, Tô Đông Pha đem chuyện rồi kể cho cô em, và cho là mình thắng cuộc.

Nghe xong, cô em cười nói: “Anh đã thất bại nặng nề rồi anh ơi. Anh không nên khoe là mình thắng mới phải”. Rồi cô phân giải: “Thiền sư tâm như Phật, nên ngài nhìn cái gì cũng là Phật hết, còn anh thuộc tâm xấu xa. nên anh nhìn cái gì cũng xấu cả”.

Lúc đó, Tô Đông Pha mới sực tỉnh. Ừ, cái tâm của mình có thế thật, có trọng trách đấy nhưng vẫn còn nhiều lỗi lầm. Ôi buồn quá… (Sưu tầm).

Thưa các bạn!

Chỉ tại cái tâm, nếu tâm tốt thì sinh ra hành động tốt, nếu tâm xấu thì hành động xấu.

Dưới ánh sáng Lời Chúa lễ Hiển Linh (Mt 2,1-12) làm sao ta có thể nhận ra dấu chỉ của Thiên Chúa nơi các biến cố thời đại, và cách nào để gặp gỡ được Ngài trong cuộc đời?

Thiết tưởng, đó là người có “cái tâm” giống như cái tâm của các Đạo Sĩ, và khác hẳn “cái tâm” của vua Herode. Trước hết, xin chia sẻ về vua Herode:

Khi Chúa Giêsu ra đời tại Bêlem, vua không biết gì cả, ông chỉ “bận tâm” cho ngai vàng của mình, ông không “quan tâm” điều gì đang diễn ra chung quanh.

Hơn nữa, vua Herode càng không “lưu tâm” hay chẳng “chú tâm” đến việc tìm kiếm Thiên Chúa là Đấng cứu độ xuống thế làm người. Có thể nói, vua Herode là người “vô tâm”.

Khi nghe tin “vua người Do thái mới sinh ra” thì vua Herode bối rối, có thể gọi là người “rối tâm”, không “yên tâm”, và vua bí mật mời các Đạo Sĩ đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao xuất hiện, rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng:

Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2,8). Đây không phải là thái độ chân thực, nên có thể gọi ông là người không “thực tâm”.

Chưa hết, khi biết các Đạo Sĩ đã đi lối khác, không trở về báo lại cho vua Herode nữa, nên ông đã nổi giận, và sát hại điên cuồng các trẻ nhỏ từ hai tuổi trở xuống, nên có thể gọi ông là kẻ “manh tâm” hay “ác tâm”.

Thưa các bạn!

Tiếp theo, xin chia sẻ một vài cảm nghiệm đức tin về các Đạo Sĩ.

Các Đạo Sĩ là những người ngoại giáo từ phương Đông xa xôi đến triều bái Đức Giêsu Hài Nhi. Nên không thể không nói họ là những người “nhiệt tâm” tìm kiếm Thiên Chúa.

Trên đường tìm kiếm, có ánh sao dẫn đường, cũng có lúc ánh sao bị vụt tắt, làm cho mất phương hướng, không biết đi đường nào, nhưng các ngài kiên trì kiếm tìm, nên có thể gọi họ là những vị “kiên tâm”.

Khi ánh sao lại xuất hiện dẫn các Đạo Sĩ đến nơi Chúa sinh ra, thì các ngài dâng hiến những gì quý báu như vàng, nhũ hương và mộc dược thể hiện sự trân trọng nhất. Nên gọi các ngài là những người “hảo tâm”.

Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình (Mt 2,12). Nên có thể gọi họ là những người có “lương tâm” và sống “thiện tâm”…

Thưa các bạn!

Để nhận ra và gặp được Thiên Chúa trong cuộc đời, có lẽ “bạn & tôi” đừng bận tâm đến việc đời quá, nhưng cần quan tâm hay lưu tâm đến việc Chúa hơn nữa.

Để nhận ra và gặp được Thiên Chúa trong cuộc đời, có lẽ “bạn & tôi” cần có tấm lòng ngay thẳng, và không để rối tâm. Đặc biệt, không trở nên manh tâm hay ác tâm.

Để nhận ra và gặp được Thiên Chúa trong cuộc đời, có lẽ “bạn & tôi” cần có cái tâm nhiệt thành (nhiệt tâm) và ý chí kiên trì (kiên tâm) để đứng vững trước mọi khó khăn thử thách.

Để nhận ra và gặp được Thiên Chúa trong cuộc đời, có lẽ “bạn & tôi” cần sống rộng lượng, quảng đại với mọi người (hảo tâm) biết nâng đỡ, chia sẻ với hoàn cảnh khổ cực.

Để nhận ra và gặp được Thiên Chúa trong cuộc đời, có lẽ “bạn & tôi” cần thực thi tiếng lương tâm, ngay thẳng, chân thật, làm lành tránh dữ (thiện tâm)…

Ước gì, “bạn & tôi” cần tránh xa thói Herode và biết học hỏi các Đạo Sĩ để có cái tâm bình an, hầu có thể nhận ra Chúa trong mọi hoàn cảnh và gặp được Ngài trong mọi thời đại. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH_C

Lm. Antôn

Lễ kính Chúa Hiển Linh hôm nay là một ngày lễ lâu đời nhất trong Giáo hội, có trước cả lễ Giáng sinh.  Theo cổ truyền Lễ Hiển linh bao gồm 3 sự kiện: thứ nhất là sự thăm viếng và thờ lạy của 3 vị đạo sĩ, thứ nhì là sự kiện Chúa chịu phép rửa tại sông Jođan, và thứ ba là phép lạ Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana.  Thế nhưng, người Công giáo chúng ta mừng kính Lễ Chúa Hiển Linh hôm nay qua sự kiện các nhà đạo sĩ bên phương Đông lên đường đi tìm Đấng Cứu Thế đã được sinh ra nơi trần thế.  Họ đã theo sự hướng dẫn của ngôi sao trên bầu trời, vượt qua những khó khăn và thử thách, tìm đến Belem và nhận ra hài nhi nằm trong máng cỏ khó nghèo chính là Đấng Cứu Thế mà họ đang tìm kiếm. Họ đã sấp mình thờ lạy và dâng lễ vật.  Sau khi đã thành công, họ trở về nhà bằng con đường khác, hoàn thành cuộc hành trình đi tìm Đấng Cứu Thế của mình.

Lễ Chúa Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra, do đó ý nghĩa chính của ngày lễ là sự mạc khải của Thiên Chúa cho mọi người biết lời hứa của Chúa từ xưa đã được thực hiện, Ngôi Hai Thiên Chúa đã được sinh xuống trần, Hài nhi Giêsu nằm trong máng cỏ chính là Đấng cứu thế.  Việc Chúa sinh ra nơi trần thế là đem bình an, tình yêu và ơn cứu độ đến cho nhân loại, được loan báo cho mọi người biết dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời các ngôn sứ loan báo từ nhiều thế kỷ trước, Gioan Tiền hô loan báo và kêu gọi mọi người chuẩn bị khi Người sắp xuất hiện, đạo binh thiên thần ca hát và ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời.  Tuy nhiên chúng ta thấy không phải ai cũng gặp.

Có những người không gặp Chúa dù biết rõ những chỉ dẫn về Người.  Thứ nhất là những Pha-ri-sêu và luật sĩ.  Họ đọc, nghiên cứu và hiểu biết Thánh Kinh.  Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm vua Hê-rô-đê: “Vua người Do thái sinh ra ở đâu?”,  họ đã trả lời với vua một cách rõ ràng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”  Thế nhưng họ đã không gặp được Chúa, vì họ từ chối không muốn lên đường tuy họ sống gần nơi Chúa sinh ra. Họ không gặp Chúa vì họ khinh thường nơi Chúa sinh ra.  Họ chỉ chú ý tới đời sống của họ, không chú ý đến cuộc sống con người hay tìm những dấu chỉ trong cuộc sống.

Và người thứ hai không gặp Chúa đó là vua Hê-rô-đê.  Ông vua này muốn tìm Chúa và biết được Người đã được sinh ra ở đâu, ông còn có những phương tiện nhưng không gặp được Chúa.  Ông không gặp Chúa, vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa, mà vì quyền lợi, danh vọng của ông.  Ông tìm Chúa không phải để thờ lạy nhưng để tiêu diệt.  Ông tìm Chúa không phải để làm theo ý Chúa, nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông.  Vì thế Chúa đã vượt tầm tay của ông.

Chúng ta thấy những người xem ra giàu có nhất, gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có nhiều phương tiện nhất đã không gặp được Chúa.  Trái lại, những nghèo hèn, thiếu thốn phương tiện, xa xôi cách trở lại được gặp Chúa. Đó là các mục đồng và đặc biệt là ba nhà đạo sĩ mà Tin mừng hôm nay đề cập đến. Họ đã gặp Chúa vì họ đã can đảm và sốt sắng lên đường.  Họ kiên trì vượt qua những khó khăn, trở ngại và hăm dọa, nhưng họ được chỉ dẫn đi đúng con đường và gặp được Chúa.

Trước hết, chúng ta thấy ba đạo sĩ dù không biết lời tiên tri loan báo, không thuộc Kinh Thánh, những khi thấy ngôi sao lạ xuất hiện, họ đã lên đường ngay tức khắc.  Họ lên đường với tinh thần tuân phục theo ơn Chúa soi sáng, dẫn đường. Họ lên đường với lòng khao khát chấp nhận gian khổ. Họ lên đường với lòng cương quyết vượt qua khó khăn, dù khi ánh sao biến mất họ vẫn không nản chí, quyết tâm dò hỏi cho ra.  Khi đến nơi, họ tưởng sẽ gặp một ông hoàng bà chúa bên cạnh hoàng tử mới sinh ra, như chỉ thấy hai ông bà Maria và Giuse trong hoàn cảnh đơn sơ, bơ vơ và nghèo khó.  Nhưng họ đã được Thánh Thần soi sáng nên đã nhận ra đó chính là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế và đã quì xuống thờ lạy, rồi sau đó quảng đại dâng cho Người những lễ vật quí báu. Đây chính là thực chất của lòng xác tín.  Tin không phải là nhìn thấy bằng con mắt thể xác, như bằng đôi mắt tâm hồn.

Sau đó là những mục đồng.  Chúng ta thấy họ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực.  Họ tìm Chúa chứ không tìm bản thân mình.  Họ tìm Chúa để thỏa lòng mong ước khao khát chân lý, chứ không để thỏa mãn những mong ước riêng tư của mình.  Họ tìm Chúa để tôn kính thờ lạy, chứ không phải để xin ơn cá nhân hay để có những giây phút vui thích.  Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, ẩn dưới hình dạng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh tồi tàn của chuồng bò hôi hám.

Ngày hôm nay, Chúa vẫn tỏ mình ra cho mọi người, và cuộc hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng là một cuộc hành trình đi tìm Chúa.  Chúng ta chỉ gặp được Chúa nếu chúng ta noi gương ba đạo sĩ biết dấn thân lên đường, vâng theo thánh ý Chúa, can đảm thực hiện những điều Chúa dạy, sống bác ái, hy sinh và quảng đại, đặc biệt là giới răn mến Chúa, yêu người, có lòng cương quyết vượt qua những khó khăn, trở ngại và trung thành trong cuộc hành trình đức tin. Chúng ta sẽ gặp được Chúa nếu chúng ta có tấm lòng đơn sơ chân thực, tấm lòng khao khát và xác tín để có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những hoàn cảnh khó khăn thử thách.

Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta một niềm xác tín vào Chúa.  Xin chỉ cho chúng ta biết đường lối và thánh ý Chúa trong cuộc sống, cảm nghiệm được tình yêu và sự đồng hành của Chúa trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta hôm nay.

Về mục lục

.