LỄ HIỂN LINH
Lời Chúa: Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
——-
0. Bến Bờ An Vui (Lm. Giuse DĐH, Gp. Xuân Lộc)
1. Nhận biết và thờ lạy Chúa (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người (Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt)
3. Tìm gặp Chúa (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Văn hóa thần tượng (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Tư vấn (Lm. Vũ Đình Tường)
6. Lên đường tìm Chúa (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
7. Con đường gặp Chúa (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
8. Thiên Chúa – Một huyền nhiệm (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
9. Ánh sáng cho muôn dân (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
10. Cúi mình xuống (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Lễ vật dâng Chúa (Lm. Phạm Quốc Hưng)
12. Khát vọng tìm Chúa (Lm. Nguyễn Chánh)
13. Ánh sáng Lời Chúa (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
14. Ngôi sao đức tin (Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)
15. Cuộc hành trình đức tin (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
16. Thiên Chúa tỏ mình (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
17. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
18. Những ánh sao cuộc đời (Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên)
19. Tầm nhìn siêu phàm (Trầm Thiên Thu)
20. Các đạo sĩ và ngôi sao (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
1. Những ánh sao trong đời (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Niềm tin: Một chuyến đi (Gm. Giuse Vũ Duy Thống)
3. Ánh sao đạo đức (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
4. Thắp đèn cho ai? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Lên đường đi tìm Chúa tôi (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
6. Đấng tự biểu lộ (Lm Giuse Hoàng Kim Toan)
7. Hãy dõi theo vì sao đến thờ lạy Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. Tìm Thiên Tử (Trầm Thiên Thu)
9. Đơn sơ và thông thái (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10. Suy niệm lễ Hiển Linh_A (Lm. Anthony Trung Thành)
11. Thiên Chúa tỏ lòng thương dân ngoại (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
12. Thắp lên một ngọn nến (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
13. Lên đường trong hy vọng (Lm. Văn Hào, SDB)
14. Ánh sao (Lm. Trần Việt Hùng)
15. Ánh sao rực rỡ (AM. Trần Bình An)
16. Vì sao gọi là lễ Ba Vua? (JM. Lam Thy, ĐVD)
17. Hiển linh con người được giải thoát (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
18. Hài Nhi Giê-su tỏ mình cho muôn dân (P. Trần Đình Phan Tiến)
19. “Nguồn sáng chiếu soi u tối” (Lm. Uyen Nguyen)
20. Ánh sao đức tin (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
21. Tình Ngài một chút đủ vui một đời (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa )
22. Loại trừ Thiên Chúa, khoa học có thể đi đến giết người (Lm.JB. Nguyễn Minh Hùng)
23. Ánh sao dẫn đường (Dã Quỳ)
24. Là ánh sáng chiếu soi muôn dân (Lm. Đan Vinh)
25. Những ngôi sao giữa đời (Lm. Giuse Nguyễn)
26. Chúa Nhật lễ Hiển Linh_A (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
BẾN BỜ AN VUI
Chúa Hiển Linh ABC: Mt 12, 1-12
Lm. Giuse DĐH, Gp. Xuân Lộc
Trong tương quan xã hội, người ta che giấu được nhiều điều thầm kín, nhưng có hai thứ không thể là: say rượu và đang yêu. Trong kế hoạch làm việc, ai chẳng thao thức thành công, được sức mạnh tình người, tình bè bạn, phủ lấp cuộc đời mình. Hãy nâng cấp tình bạn, làm phong phú tình yêu, hãy xây dựng một tổ ấm hạnh phúc, chính là mơ ước đẹp, dù số đông vẫn ý thức: yêu thì khổ, không yêu thì lỗ ! Kiến thức, kinh nghiệm, vẫn đang là điều kiện, để ta chọn lựa quyết định khôn ngoan nhất cho hành trình phía trước của mình. Bạn tỉnh hay say, dồi dào nghị lực hay giới hạn, không quan trọng cho bằng bạn đang lắng nghe và sử dụng sự tự do của mình như thế nào ? Hành trình kiếm tìm hạnh phúc là thế đó: bạn sẽ không bao giờ đạt tới đích, nếu bạn cứ dừng lại và ném đá vào mỗi “con chó” bên đường, chỉ vì tiếng sủa của chúng !
Con đường tới vinh quang, hạnh phúc, có thể rất mông lung, và để đạt tới đích điểm thành công, ai cũng phải đầu tư công sức, phải nhạy bén trước những điều kiện ta đang có. Con đường đến Belem, con đường tới nhà thờ, chỉ là mong manh phận người, nếu thiếu tác động của tình yêu “chỉnh chu cõi lòng” cho Con Chúa ngự trị. Tình yêu được sánh ví như đôi giày, chiếc đẹp thì không mang vừa, chiếc đi vừa lại không đủ sắc nét, không đẹp nhất ! “Vua người Do-thái mới sinh hiện ở đâu” ? Mỗi người đều có sứ mạng dẫn đường, chỉ lối, vì niềm tin Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa hiện diện, chính là Thiên Chúa yêu thương. Dù không hiểu rộng biết sâu, ta vẫn có thể mường tượng được: công sức bỏ ra càng nhiều, bình an hạnh phúc càng lớn. Các đạo sĩ phát hiện sao lạ, các ông đã một lòng từ bỏ sự an toàn để lên đường tìm kiếm bình an hạnh phúc thật, đúng như câu thành ngữ: riêng rẽ, mỗi người chỉ là giọt nước, cùng nhau, tất cả sẽ là đại dương.
Bến bờ an vui không giới hạn thời gian, nơi chốn, phải chăng ngôi sao soi đường dẫn lối chỉ có ý nghĩa vào đêm tối, ban ngày các đạo sĩ phải sử dụng con tim và khối óc của chính mình ? Đến Belem triều bái “Vua mới sinh”, khác với đến Belem vì muốn được tăng thêm quyền lực. Bến bờ yêu thương, bến bờ an vui, bến bờ tình nghĩa, hay bến bờ hiệp thông, tất cả đang phản ánh một sự thật: sống mà thiếu đi cảm xúc, người ta chỉ tồn tại như chú “robot” mà thôi. Bến bờ an vui thật hư, thực tế hay mơ hồ, chỉ biết khi các đạo sĩ tìm đến Belem, các ông gặp Hài Nhi và hai ông bà, họ đã bái thờ “Vua mới sinh”, lòng các ông đầy tràn an vui hạnh phúc. Belem xưa nay: ánh quang, tình và nghĩa, vẫn lung linh nhiệm mầu, dù tình yêu có mùi vị, niềm vui bình an có ấm áp ngọt ngào, ba đạo sĩ hay người thánh thiện nhất, cũng không thể diễn tả đủ mùi vị, thơm ngọt, cho chúng ta được.
“Hỡi Belem đất Giuđa, không lẽ gì ngươi nhỏ bé nhất trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người sẽ chăn nuôi dân Israel, dân tộc của Ta”. Tình yêu khó hiểu, vui buồn khó đoán, dù mắt sáng tai thông, là thế. Bến bờ an vui, bến bờ hạnh phúc, chính là kết quả của niềm tin, các mục đồng, các đạo sĩ đã gặp, đã thấy, và đã hiểu: khi có niềm tin, tình yêu là bất tử, dù cuộc đời của ta chấm hết thì tình yêu vẫn còn đó. Thế mới rõ ràng: không phải cái gì sáng cũng là vàng, không phải ở cung điện nhà vua mới xuất hiện thái tử, ở nơi đâu có niềm tin, bình an và tình yêu sẽ ngự trị. Không phải xinh đẹp, cao sang quyền thế, mới là người có phúc; cũng phải vì tài giỏi, thông thái, đạo đức, các đạo sĩ đã nhìn thấy sao lạ ?
Con đường đến công danh sự nghiệp đâu phải là cánh cửa mở ra hạnh phúc, hạnh phúc cũng chẳng phải là chìa khoá dẫn tới bình an niềm vui, nhưng chắc chắn sức mạnh của tình yêu mới là câu trả lời cho khúc mắc. Thật trong lòng mới quý, giả trong tim mới đáng sợ, “các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp, đã thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người”. Thật như giả, giả như thật, vẫn là điều nhắc nhớ về trách nhiệm phải trả lẽ, trước thế hệ con cháu trước lời ăn tiếng nói của mình. Hành trình tìm kiếm “sao lạ”, tìm kiếm niềm vui bình an, của các đạo sĩ, của mỗi chúng ta hôm nay, vẫn đầy mạo hiểm và thách đố ! Nếu thiếu can đảm, nếu thiếu tình liên đới, hẳn các đạo sĩ đã bỏ cuộc, hoặc mất mạng bất cứ lúc nào, khi mà thế giới này vẫn đầy yêu quái tìm cách hãm hại chúng ta.
Trong gia đình, ngoài xã hội, đều xuất hiện những mục đồng hiền lành chất phát, có những đạo sĩ, đầy nghị lực kiên cường, nhưng không phải là thiếu Hêrôđê rất đáng sợ. Con đường nào đưa ta tới niềm vui bình an, đâu là mục đồng thật, đâu là đạo sĩ tốt, để xin trợ giúp, xin chia sẻ kinh nghiệm, nhằm chỉ dẫn ta tới gặp, xem và thờ lạy Hài Nhi Giêsu ? Thiên Chúa dùng các Thiên Thần tỏ mình cho các mục đồng, nhờ ánh sao chiếu soi cho các đạo sĩ, hẳn Thiên Chúa còn tỏ mình cho khắp muôn dân trên toàn thế giới bằng quyền năng và tình yêu của Ngài. Tin Hài Nhi là “Vua mới sinh”, tin Maria Giuse, là cha là mẹ Đấng Cứu Thế, mỗi người còn phải sống niềm tin Thiên Chúa đang ở giữa anh chị em mình. Chỉ khi tình yêu của ta quá nhỏ, mới có chuyện đổ thừa là Thiên Chúa quá xa vời nên ta không gặp, không thấy mà thôi. Amen.
.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Ngày lễ hôm nay được gọi là lễ “Hiển Linh”. Hiển Linh là việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người. Trong Cựu ước, Thiên Chúa thường “hiển linh” tức là tỏ mình cho con người thấy vinh quanh và quyền năng của Ngài, đồng thời Ngài gửi một thông điệp, một giáo huấn để giúp con người sống đạo đức và ngay lành.
Hài Nhi Giêsu tại Hang đá máng cỏ là Thiên Chúa. Ngài tỏ mình trong vinh quang rạng ngời. Ngôn sứ Isaia đã diễn tả Giêrusalem tràn ngập ánh sáng. Đây không phải là ánh sáng mặt trời, nhưng là vinh quang của Chúa tỏ hiện. Khi Chúa đến, Giêrusalem sẽ là trung tâm quy tụ muôn dân. Muôn sản vật quý hiếm sẽ tuôn đổ về đó để dâng kính Chúa là Vua muôn vua và là Chúa muôn loài. Xin lưu ý, lời ngôn sứ được nói trong bối cảnh lưu đày. Lúc đó, người Do Thái phải sống xa quê hương. Không còn Đền thờ. Không còn lễ tế. Lời ngôn sứ Isaia như một tiếng thét vui mừng và như lời hiệu triệu, làm nức lòng dân đang sống trong cảnh tha hương.
Với việc ba nhà đạo sĩ đến Belem theo chỉ dẫn của ngôi sao lạ, Thiên Chúa tỏ mình ra, không chỉ với người Do Thái, mà cho muôn dân. Ba nhà đạo sĩ từ phương Đông là tượng trưng cho cả nhân loại đang tìm kiếm Chúa. Họ đã tìm đến với Hài Nhi Giêsu và đã dâng của lễ. Những lễ vật họ dâng là vàng, nhũ hương, mộc dược là những biểu tượng nhằm tôn vinh Đức Giêsu là Thiên Chúa (hương), là Vua (vàng) và là Đấng Cứu độ (mộc dược để xức xác theo thủ tục của người Trung đông).
Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, và con người đón nhận Chúa bằng nhiều cách khác nhau. Bài Tin Mừng của lễ Hiển Linh cho chúng ta thấy có ba thể loại nhân vật:
Trước hết là Hêrôđê. Ông là một quận vương có uy quyền. Khi nghe ba nhà đạo sĩ nói về một vị vua mới sinh. Hêrôđê đã sinh lòng ghen tương. Ông cặn kẽ dò hỏi về ngày giờ các nhà đạo sĩ đã thấy ngôi sao lạ. Ông còn nói với họ: để trẫm cũng đi triều bái Người. Thực ra, Hêrôđê ghen tương và sợ mất ngai vàng. Ông chỉ làm ra vẻ quan tâm, nhưng thâm tâm ông muốn triệt hạ vị vua mới sinh, để ngai vàng của ông không còn bị đe dọa. Việc ông ra lệnh giết các trẻ từ hai tuổi trở xuống cho thấy dã tâm của ông.
Những nhân vật thuộc thể loại thứ hai là những người khôn ngoan tại Giêrusalem. Họ là những tư tế, luật sĩ và chuyên viên nghiên cứu Kinh Thánh. Những người này là những cố vấn của triều đình Hêrôđê. Khi được triệu tập, họ trả lời dễ dàng thông thạo. Họ trích dẫn ngôn sứ Mika nói về nơi Đấng Cứu Tinh sẽ sinh hạ. Tuy vậy, những kiến thức uyên thâm không giúp họ nhận ra Đấng Cứu độ đã đến trần gian. Sự thông thái của họ chỉ dừng lại ở lý thuyết và những bài học thuộc lòng, còn tâm hồn họ thì dửng dưng với những gì đang xảy ra.
Những nhân vật thuộc thể loại thứ ba là các nhà đạo sĩ. Họ cũng là những người uyên bác, và sự uyên bác ấy đã giúp họ nhận ra những dấu chỉ thời đại. Khởi đi từ những dấu lạ trong thiên nhiên vũ trụ, họ đã đón nhận thông điệp từ trời báo cho biết Đấng Cứu Thế đã sinh hạ. Họ đã lên đường, chấp nhận mọi vất vả gian nan, với ước mong gặp được vị vua mới sinh. Sau khi đã vượt qua những gian nan vất vả, khi gặp Hài Nhi Giêsu, họ chỉ đơn giản thờ lạy Người và lấy đó làm mãn nguyện, lên đường trở về. Khi sống ngay thẳng và chân thành, những mưu mô của Hêrôđê không thể làm họ mắc bẫy. Trái lại, họ luôn sáng suốt và kiên trung. Nhờ lời hướng dẫn của Sứ thần, họ đã lên đường về bằng một lối khác.
Sau khi đã “nhận diện” những nhân vật được nhắc tới trong Tin Mừng Thánh Matthêu, mỗi chúng ta hãy đặt câu hỏi: tôi giống nhân vật nào trong những nhân vật trên đây? Có thể tôi như Hêrôđê, mặc dù tin Chúa, nhưng chỉ chấp nhận những gì tạo cho mình sự dễ dãi, còn những gì khó khăn và đòi hỏi phải hy sinh thì tôi lại khước từ. Có thể tôi giống những những người khôn ngoan ở thành Giêrusalem, học biết Lời Chúa nhưng lại không tuân giữ những gì Chúa dạy. Và, thật là may mắn, nếu tôi giống như những nhà đạo sĩ, cất bước lên đường tìm Chúa và thờ lạy Người.
Thiên Chúa hiển linh, tỏ mình cho muôn dân. Ngày hôm nay, Ngài cũng đang tỏ mình qua Giáo Hội và qua mỗi người tín hữu. Ước chi mỗi chúng ta hãy là một ngôi sao dẫn đường cho đồng loại tìm về Chúa Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế và Đấng đã làm người để ở với chúng ta. Một cuộc sống thánh thiện, trung thực, ngay thẳng và yêu thương, chính là vì sao sáng giữa đêm đen trần gian, nhờ đó nhiều người biết Chúa và đến thờ lạy Người.
.
CHÚNG TÔI ĐÃ THẤY NGÔI SAO CỦA NGƯỜI
Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt
Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa Giêsu.
Có thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một biến cố… Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh. Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng.
Chúa Giêsu là ánh sáng. Một khi đến được với Chúa Giêsu, chính chúng ta được soi sáng và trở thành những ngôi sao dẫn đường cho người khác. Trong lịch sử đã từng có những vì sao sáng rực: thánh Phêrô, thánh Gioan, thánh Phaolô, thánh Têphanô, thánh Inhaxiô Antiôkia, thánh Âutinh, thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Phanxicô Assisi, thánh Phanxicô Xavier, thánh Têrêxa, thánh Anrê Dũng Lạc, thánh Philipphê Phan Văn Minh, thánh Matthêu Lê Văn Gẫm, thánh Anê Lê Thị Thành… Ngay trong thời đại chúng ta cũng không thiếu những vì sao: thánh Maximilianô Kolbe, chân phước Têrêxa Calcutta… Và ngôi sao sáng chói trong mọi thời đại: Mẹ Maria. Chung quanh chúng ta vẫn có những người đang đi tìm một ngôi sao dẫn đường. Chính chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi nhận lấy ánh sáng của Chúa để trở thành một ngôi sao, cho bạn bè, cho con cái, cho hàng xóm láng giềng. Có thể chúng ta chỉ là một ngọn đèn dầu, nhưng vẫn hữu ích cho một ai đó đi tìm nguồn sáng trong một đêm tăm tối.
Lạy Chúa Giêsu, Ánh Sáng thần linh giữa trần gian, luôn ban cho chúng con cũng như mọi người những ngôi sao dẫn đường.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Câu hỏi của cac đạo sỹ vẫn là câu hỏi của người đi tìm kiếm Chúa. Chúa đi tìm con nhưng sao con lại đi tìm Chúa. Dựa vào dấu chỉ nào mà con biết Chúa ở đâu để con đi đến?
Thiên Chúa đi tìm kiếm con người.
Như xưa trong vườn địa đàng, sau khi Adam Eva phạm tội bất tuân, họ đã thấy mình trần truồng và sợ hãi đi trốn. Chúa đi tìm con người từ dạo ấy.
Từ trời cao xuống thế, Chúa trở nên người, để mang lấy thân phận con người. Chúa nhờ thiên thần báo tin cho mục đồng, Người đã đến trong trần gian. Chúa đã dùng ngôi sao để báo hiệu vị vua mới sinh ra, các đạo sỹ lên đường tìm kiếm. Chúa đến như vị vua không ngai, nhưng mang hạnh phúc cho muôn dân. Chúa đến không uy quyền nhưng lại để giải thoát muôn dân khỏi tội. Chúa đến không nơi nương tựa nhưng lại trở nên nơi tựa nương cho những người đau khổ, nghèo khó, bệnh tật.
Chúa đi tìm con như ai đi tìm con chiên mất, như người đàn bà góa tìm đồng bạc bị rơi. Người chờ đợi con như người cha đứng trước ngõ đợi con trở về. “con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8, 5).
Tình yêu luôn là một thao thức luôn là một tìm kiếm, dù con người chẳng là chi, phàm nhân chẳng là gì. Chúa yêu thương con người phàm nhân chỉ vì Thiên Chúa là Tình yêu. Trong tình yêu của Chúa, con như ba đạo sỹ thao thức lên đường đi tìm Chúa.
Con đi tìm Chúa.
Như ba đạo sỹ, những dấu chỉ thật đơn giản, chỉ cho thấy Chúa đã đến và ở đâu đó trong cuộc đời con người. Chúa là “Đấng Khác”, nên con người mãi đi tìm Chúa để gặp được Chúa. Như con người ở giữa vũ trụ, những gì biết chỉ là hạt cát giữa đại dương. Những gì to lớn, xa xôi nhất, con người chưa biết. Những gì nhỏ bé nhất và gần nhất, con người cũng chưa tường tận. Mãi mãi con người vẫn không ngừng tìm kiếm.
Tìm kiếm Chúa, đôi khi thấy thật gần, nhưng lại thấy rất xa và có khi lạc hướng, như ngôi sao dẫn đường tự dưng biến mất. Con người đi tìm kiếm Chúa, đâu chỉ dựa vào kinh nghiệm, kiến thức của nhân loại. Người đi tìm Chúa còn đi tìm ngay trong chỉ dẫn nơi Lời cùa Chúa trong Thánh Kinh. Tìm Chúa bằng đời sống cầu nguyện, thinh lặng, gặp gỡ anh chị em, những người chung quanh, các sự kiện xảy ra trong lịch sử.
Chúa sẽ cho gặp, Chúa sẽ sai phái họ đi làm sứ giả cho Tin Mừng. Một Tin Mừng “Chúa đã sinh ra cho anh em”. Tin Mừng cả trên trời dưới đất đều hoan hỷ, chúc tụng Vinh Danh Thiên Chúa trên các tầng trời – Bình an dưới thế cho người lòng ngay.
Trở về với công việc của mình, một năm mới bắt đầu, một chặng đường mới mở ra, các đạo sỹ không về theo con đường cũ. Mỗi người cũng bắt đầu con đường mới, con đường theo Chúa chỉ dẫn. Tương lai thuộc về Chúa, hiện tai trên đường tìm – gặp Chúa. Luôn luôn Chúa đã giáng trần và hằng ở với con người.
Con xin tạ ơn Chúa.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Xu hướng thần tượng đến mê muội, cảm tính dẫn đến những hành vi lệch chuẩn cúi đầu “xì xụp” trước các thần tượng do đám đông nguỵ tạo không phải là chuyện ngày xửa ngày xưa hay là chuyện của số đông những người kém may mắn không được học hành hay không được tiếp cận với nền văn minh nhân loại mà vẫn như là chuyện của nhiều người hôm nay, kể cả nhiều người có vai vế, học vị cao ngoài xã hội và cả trong các tập thể tôn giáo. Điều tệ hại là đối tượng mà người ta thần tượng lại không phải là người tốt mà có khi là một thành phần bất hảo, lừa đảo , dâm ô đang dùng truyền thông để lừa gạt đám đông.
Điển hình như Khá Bảnh. Một chàng trai sinh năm 1993 nổi tiếng bởi những “giá trị lệch lạc” nhưng không hiểu sao, anh lại được rất đông người trẻ “thần tượng”. Những cô cậu học sinh cấp ba ùa nhau ra đón Khá Bảnh, chụp ảnh cùng thần tượng, biểu diễn “múa quạt” tập thể. Hò hét có, gọi tên có, chạy theo Khá Bảnh có – quang cảnh không khác gì câu chuyện người ta vẫn miêu tả về fan cuồng Kpop.
Cách đây không lâu các bạn trẻ Việt Nam đã đổ xô đi đón chào một thần tượng nhạc pop Hàn Quốc đến thăm Việt Nam. Có bạn đã sung sướng hôn lên chiếc ghế mà thần tượng của mình vừa ngồi. Thói tôn thờ ngẫu tượng này đa phần bị đám đông kích động lên thiếu sáng suốt và chỉ còn chạy theo đám đông.
Đây là hành vi được xem là thờ ngẫu tượng. Họ sùng bái phàm nhân như một vị thần linh ngang hàng với Thiên Chúa. Lợi dụng sự tôn thờ ngẫu tượng này nhiều người đã dùng truyền thông để đánh bóng tên tuổi của mình, lừa gạt người khác bằng những chuyện gọi hồn, đặt tay chữa bệnh, thậm chí nhắn tin cũng hết bệnh để trục lợi cho bản thân. “Thánh Kinh luôn nhắc nhở phải từ bỏ các ngẫu tượng… vì các ngẫu tượng là hão huyền nên ai thờ ngẫu tượng sẽ trở thành hão huyền” (GLHTCG 2112; x. Tv 115,4-5). Chúa Giêsu dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24b).
ĐTC Phanxicô cho rằng nguyên nhân con người chạy theo thờ ngẫu tượng là vì sự thiếu thốn như dân Do Thái đã từng thờ con bò vàng trong sa mạc. Nơi Sa mạc thiếu thốn và bất an – trong sa mạc không có gì hết – trong đó thiếu nước, thiếu thực phẩm và thiếu nơi trú ngụ. Sự bất an này làm nảy sinh ra nơi con người các âu lo về sức khoẻ, về tương lai, về công việc. Để trốn chạy sự bấp bênh – sự bấp bênh là sa mạc – bản tính con người kiếm tìm một tôn giáo “tự làm lấy” nhằm thoả mãn nỗi sợ hãi của mình.
Thực chất những con bò vàng hay các ngẫu tượng chỉ làm cho con người như thoã mãn nhu cầu hiện tại, còn sâu thẳm tâm hồn vẫn mất bình an và đầy lo âu thất vọng.
Hài Nhi sinh ra trong Đêm Cực Thánh chính là Ánh Sáng, là Lửa Trời mà các ngôn sứ đã tiên đoán trong Isa 60:1, “Giêrusalem! Hãy đứng lên! Hãy bừng sáng, bởi ánh sáng của ngươi đã xuất hiện. Vinh quang của Thiên Chúa [giờ đây] như bình minh chiếu tỏa rạng ngời trên ngươi”.
Ánh sáng nơi máng cỏ Belem như đang mời gọi chúng ta hãy từ bỏ bóng tối mà bước ra ánh sáng. Hãy mạnh dạn đến triều bái Người, vì chỉ có nơi Người mới có nguồn ơn cứu độ. Đừng tôn thờ những thần tượng là con người dễ dẫn dắt chúng ta đi vào bóng tối của tội lỗi, của thù hận và ghen tương. Hãy bái quỳ trước một mình Thiên Chúa mà thôi.
Ánh sáng nơi máng cỏ Belem đã mang lại niềm vui cho ba nhà đạo sỹ từ Phương Đông để họ can đảm bước theo ánh sáng để đến bái thờ hài nhi Giê-sthờ Phúc âm nói rằng khi gặp được hài nhi Giê-su thì họ đã đi đường khác mà về. Nghĩa là họ không còn đi con đường cũ đầy hiểm nguy và bóng tối của thù hận đe doạ. Họ đi đường mới, đường tình yêu ngập tràn ánh sáng và hy vọng.
Mừng lễ Chúa hiển linh chúng ta hãy xin ánh sáng của Ngôi Lời hằng hữu tiếp tục soi đường dẫn lối chúng ta đi trên con đường hành hương về lại với chính mình, với tha nhân, và với Chúa. Amen
.
Lm Vũđình Tường
Ba đạo sĩ Phương Đông đi tìm kiếm ấu Chúa; khi tìm gặp ba vị quì xuống bái lậy và dâng lễ vật. Tự nguyện quì gối trước người khác là dấu chỉ lòng thành, yêu mến. Ba đạo sĩ không phải chỉ quì gối trước ấu Chúa, nơi máng cỏ, mà còn tỏ lòng thành tâm yêu mến hết sức chân tình. Đó là dấu chỉ việc thờ lậy Đấng Cứu Thế. Ba vị đạo sĩ ra đi, tìm kiếm và trên đường đi, trước khi gặp Đấng Cứu Thế, các vị gặp nhiều trắc trở.
Việc ba vị đạo sĩ ra đi nhắc nhở chúng ta biết đời người là một chuyến đi, một hành trình. Mục đích cuộc đời Kitô hữu thật rõ ràng: Mến Chúa, yêu tha nhân. Điểm đến của Kitô hữu cũng mạch lạc: cuối đời được đón vào nhà Chúa. Con đường dẫn, đạt đến cùng đích, Thiên Chúa không áp đặt, nhưng để cho mỗi cá nhân tự do chọn lựa, và quyết định cuộc sống dương gian. Cuối đời người đó chịu trách nhiệm, trả lời trước Thiên Chúa, cho việc tự do chọn lựa lối sống riêng mình. Chọn lối sống tốt, yêu tha nhân, dẫn đến thành quả tốt, được Chúa yêu thương, đón nhận. Chọn sống bê tha, sa đoạ, thiếu yêu thương sẽ không được đón nhận bằng yêu thương. Bởi cuộc sống là một hành trình và hành trình nào cũng có cuối đường. Ba vị đạo sĩ chọn hành trình dẫn đến ánh sáng Thiên Chúa; trong khi Herod chọn sống theo í riêng dẫn đến con đường cụt, con đường tuyệt vọng. Ông ta cố vùng vẫy bằng cách giết chết trẻ em trong xứ, gây tang thương, sầu thảm, đau khổ cho chính ông và cho con dân nước ông. Hành trình nào cũng có những bất trắc, trở ngại, khó khăn và người chọn đi con đường đó phải có những quyết định khôn ngoan, dứt khoát. Chọn lối sống khôn ngoan sẽ tìm gặp bình an trong tâm hồn; chọn lối sống theo í riêng sẽ dẫn đến tai kiếp, người đời này nguyền rủa, gây tủi hổ cho con cháu, gia tộc và đời sau đau khổ triền miên.
Nhũng ai chọn theo ánh sáng chân lí của Thiên Chúa, sẽ được Thánh Thần Chúa soi sáng, hướng dẫn. Họ sẽ an vui trong cuộc sống, hưởng bình an Chúa ban cho tâm hồn, lòng họ thanh thản, đời họ vui tươi. Bước đi trong ánh sáng chân lí vẫn không tránh khỏi đau khổ, cám dỗ trần thế, cộng thêm tham vọng, dục vọng của kiếp người. Ba vị đạo sĩ khi đến vùng Judea, hỏi í kiến người trần thế, tìm gặp Herod. Chính lúc đó các ông lạc đường, ánh sao chỉ đường biến mất. Nhận biết các ông tìm hỏi lầm người, hỏi vào nhóm người sống trong tăm tối. Các ông dứt khoát bước ra ánh sáng và ánh sao soi đường xuất hiện. Khi vua Herod nghe tin vị vương quân vừa sinh ra trong vùng đất ông cai trị, thay vì vui mừng, đón tin vui; ông bối rối, lo lắng cho an toàn ngai vàng của mình. Để bảo vệ ngai vàng, ông ra lệnh quân lính giết chết hết trẻ trai trong vùng. The ông đó là khôn ngoan, giết lầm vẫn tốt hơn tha lầm. Với mọi người đó là mù quáng, bởi ông sống trong u mê, tối tăm, kiêu ngạo, nên không phân biệt được phải, trái. Hành động sát hại trẻ thơ dẫn ông lún sâu vào vùng tăm tối. Ba vị đạo sĩ, trái lại, sẵn sàng từ bỏ vùng tối tăm, bước ra ánh sáng. Ánh sao dẫn đường xuất hiện dẫn các vị đến vua ánh sáng và lòng các vị dạt dào niềm vui.
Xã hội hiện nay tâng bốc, ca tụng cái đẹp bề ngoài, sắc đẹp thân xác được ca tụng, bốc thơm. Vì thế nên cuộc sống có thi đua, cạnh tranh làm đẹp dẫn đến lơ là vẻ đẹp tâm hồn. Thiếu vẻ đẹp tâm hồn là thiếu chiều sâu trong cuộc sống. Thiếu chiều sâu trong cuộc sống, cuộc đời rất dễ bị ngã gục, khi phải trực tiếp đối diện với thánh đố trong cuộc sống. Đức Kitô xuống trần gian kêu gọi con người dành nhiều thời giờ tô điểm cuộc sống nội, tâm, làm tăng vẻ đẹp trong tâm hồn. Con đường dẫn đến hang Belem là con đường đơn sơ nhưng không nhơ nhuốc, nghèo mà không hèn, khiêm nhường, không nhút nhát, nơi hoang vắng nhưng đầy tình thương, tình người, là con đường dẫn đến bến bờ yêu thương. Những ai thành tâm đón nhận bước theo con đường khiêm nhường, đơn sơ đó sẽ tìm gặp Đức Chúa. Trái nghịch con đường đó là con đường Herod chọn bước theo và ông đã đi đến diệt vong. Đường lối Chúa khác đường lối tha nhân. Thiên Chúa tỏ mình ra trong cuộc sống đơn sơ, khiêm nhường, tràn ngập yêu thương. Sức mạnh của Chúa không thể hiện nơi quyền quí, cao sang nhưng khiêm hạ, đơn sơ, bình dân.
.
Bông hồng nhỏ
Đã bao giờ ta ao ước lên đường tìm Chúa chưa? Hôm nay theo chân các nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, ta được chứng kiến bao điều bất ngờ khiến ta phải suy nghĩ.
Theo dấu một ngôi sao, các nhà chiêm tinh lên đường đi tìm kiếm Đức Vua dân Dothái. Chắc chắn, hành trình mà các nhà chiêm tinh đã trải qua không thiếu những gian nan thử thách. Điều gì đã thôi thúc họ lên đường tìm kiếm? Đối với họ, ngôi sao báo hiệu những biến cố lớn lao. Họ đã lên đường với lòng say mê và hăm hở. Họ đã đến Giêrusalem, điều họ đang tìm kiếm khiến cho vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao (x. Mt 2, 1-2). Dường như chẳng ai mong chờ Đấng Kitô? Có lúc, ta thấy mình cũng giống như các kinh sư và thượng tế, khi được hỏi về Đấng Kitô, ta có thể trả lời ngay, trả lời một cách chính xác. Câu trả lời của ta có lẽ đã chỉ dừng lại trên những hiểu biết của ta. Thiên Chúa không muốn ta chỉ hiểu biết Ngài trên sách vở. Ngài đã đến làm người, đã nói ngôn ngữ của con người để giúp ta có thể hiểu Chúa, Ngài đã mang lấy trái tim của một con người để ta cũng biết dùng con tim để yêu mến Chúa. Tìm Chúa không chỉ dừng lại trên sách vở, lên đường tìm kiếm Chúa trong tâm trí và lên đường tìm Chúa nơi chính trong tâm hồn ta là việc ta cần thực hiện mỗi ngày. Đó là khi ta hăng say yêu mến Lời Chúa, sẵn sàng để Lời Chúa làm cho nội tâm ta được chuyển động, biết dành một cõi rất riêng tư để ở lại bên Chúa, để nghe Chúa nói với ta. Thiên Chúa vẫn nói với ta qua muôn nghìn cách khác nhau. Nơi những điều tầm thường bé nhỏ, Ngài đã nói với ta một cách thân tình khi dạy ta biết dừng lại để chiêm ngắm một bài học yêu thương lớn lao. Chẳng phải khi người chị em pha cho ta một ly nước mát đang khi ta đổ mồ hôi vì làm việc mệt nhọc, Chúa bày tỏ cho ta một tình yêu rất cụ thể và mời gọi ta cũng hãy bắt đầu đến với Chúa bằng những quan tâm nho nhỏ dành cho người khác như thế.
Những nhà chiêm tinh được gặp Hài Nhi Giêsu, điều đó nói lên điều gì? Thiên Chúa đã muốn đến và cùng tất cả mọi người và mỗi người. Ta có tìm gặp được Chúa nơi những người ta gặp gỡ không? Những thực hành đạo đức có giúp ta gia tăng lòng yêu mến Chúa và giúp ta đến gần với anh chị em của ta không? Tình yêu loại trừ sợ hãi. Hãy để tình yêu Chúa hướng dẫn và giúp ta vượt qua tất cả những khó khăn vượt quá sức ta. Hãy bền tâm và phó thác trong tình yêu của Chúa. Lên đường gặp Chúa đòi hỏi ta phải luôn luôn biết tìm kiếm, biết quan tâm và quan sát để nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa. Lên đường tìm Chúa là bắt đầu bằng những bước chân đầu tiên và mỗi ngày lại bắt đầu. Ta hãy tìm gặp Chúa nơi những người anh chị em đang sống với ta, trong những giây phút trầm mình trong thinh lặng và cầu nguyện, nơi những biến cố lớn nhỏ mỗi ngày. Mỗi ngày ta hãy tự hỏi mình rằng: “Thiên Chúa đã hiện diện như thế nào trong ngày sống của ta, nơi chính tâm hồn ta?”.
Lạy Chúa Giêsu! Các nhà chiêm tinh đã được hạnh phúc gặp Chúa mà thờ lạy. Xin giúp con biết không ngừng tìm gặp Chúa nơi những người anh chị em và trong tất cả cuộc sống của con. Xin Chúa dạy con biết tôn trọng cách thức người khác đến tìm gặp Chúa và cách Chúa đến với họ. Xin cho con nhận ra Chúa đang ở nơi tâm hồn con và nơi những người bên cạnh con. Amen.
.
Anna Cỏ May
Mục đích cuối cùng của đời người là gì? Đối với người Kitô hữu, mục đích cuối cùng là được gặp Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, hưởng hạnh phúc đời đời với Ngài. Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng đều được Thiên Chúa mặc khải và mời gọi họ đến với Ngài bằng những con đường khác nhau.
Con Thiên Chúa đã trở nên một trẻ nhỏ yếu đuối. Ngài mặc lấy xác phàm để sống với con người và để giải thoát con người khỏi tội lỗi. Ngài mời gọi con người đến gặp gỡ Ngài trong hoàn cảnh hiện tại của mình. Các nhà đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng mà đi tìm Chúa. Các Thượng tế và các Kinh sư được mặc khải bằng sự hiểu biết qua Kinh Thánh. Còn vua Hêrôđê, ông được mặc khải qua chứng tá của những người tìm đến với ông. Tất cả đều tìm gặp Chúa nhưng mỗi người có những thái độ và mục đích tìm kiếm khác nhau. Các đạo sĩ hăm hở đi tìm Chúa mà không quản ngại đường dài và khó khăn. Nhóm Kinh sư và Thượng tế được biết Đấng chăn dắt Itraen sẽ sinh ra ở Bêlem miền Giuđê nhưng lòng khô khan hững hờ, chỉ giẫm chân tại chỗ. Vua Hêrôđê lo sợ mất vương quyền nên tìm cách để biết nơi vua dân Dothái sinh ra để tiêu diệt. Như vậy, chỉ có các đạo sĩ đi đến cùng con đường gặp Chúa, một con đường không hề dễ dàng (x. Mt 2, 1-12). Chặng đường ấy luôn đòi hỏi họ phải kiên vững trong niềm tin. Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài cho một nhóm người. Ngài kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài và cho mọi người tự do quyết định đi trên con đường riêng của đời mình để đến với Ngài. Chỉ có những ai thành tâm thiện chí, đầy lòng tin, sự nhiệt thành và sẵn sàng từ bỏ danh vọng của trần gian mới có thể tới đích.
Trong cuộc sống hôm nay, có rất nhiều con đường: con đường dẫn tới yêu thương, con đường dẫn tới danh vọng, con đường dẫn tới hận thù… Mỗi người chúng ta phải chọn lựa cho mình một con đường. Bạn sẽ chọn con đường nào? Con đường nào cũng đầy chông gai và thử thách, và đích đến luôn ở cuối con đường. Hãy kiên trì như các đạo sĩ, bạn sẽ đến đích mà mình đang bước tới.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết đi tìm Chúa và ra khỏi nơi an toàn tự nhiên, sự ham muốn ích kỷ của mình để gặp Chúa và tôn thờ Ngài, vì Chúa là Đấng cứu độ duy nhất đời con. Amen.
.
Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng
Khi dạy giáo lý cho người lớn, nhất là các đôi bạn chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, tôi hay đặt câu hỏi:
– Yêu nhau lắm, phải không? Yêu đến mức lỡ ngày nào không gặp nhau, ta nhớ nhau như có ai xé lòng mình, đúng không?
– Yêu nhau lắm, tưởng như người này hòa trộn trong người kia, nhưng người kia nghĩ gì, bạn có biết không?
Mỗi người là một huyền nhiệm. Huyền nhiệm này lớn cho đến mức, dẫu là tình yêu lứa đôi, một thứ tình yêu tưởng như nên một trong nhau, vậy mà hai người vẫn cứ là hai thế giới xa nhau diệu vợi.
Đó mới thật là bí ẩn, là sự độc đáo của công trình tạo dựng. Đó mới thật là huyền nhiệm: không ai có thể lồng trong ai. Không bao giờ người này lại có thể hòa trộn trong người kia. Dù chúng ta đang yêu nhau đắm đuối, dù có khi được gọi là “nên một”, cũng không bao giờ lại có thể có bất cứ ai ở trong nhau đúng nghĩa.
Mỗi người là một huyền nhiệm. Huyền nhiệm này lớn cho đến mức, dẫu là tình yêu lứa đôi, một thứ tình yêu tưởng như nên một trong nhau, vậy mà hai người vẫn cứ là hai thế giới xa nhau diệu vợi.
Con người đối với nhau đã là huyền nhiệm, thì càng không lạ gì khi Thiên Chúa luôn luôn là huyền nhiệm của con người. Đó là chân lý. Đó là điều hiển nhiên.
Lễ Hiển Linh tức là lễ Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Đại diện cho dân ngoại là ba nhà đạo sĩ phương Đông. Ba ông nhận ra ánh sao trên bầu trời và vội vã lên đường đi tìm Con Thiên Chúa vừa giáng sinh.
Gọi là Thiên Chúa tỏ mình, nhưng sự tỏ mình qua một ánh sao vẫn cho thấy Thiên Chúa là một huyền nhiệm lớn lao vô cùng.
Dẫu ngôi sao trên bầu trời có lạ thường đến đâu, có sáng chói đến mức độ nào, thì sự tỏ mình ấy vẫn mù mờ, vẫn xa xăm đối với nhận thức của con người.
Bởi đó, chỉ có ai thao thức tìm kiếm Thiên Chúa, chỉ có ai trung thành sống đức tin mới có thể nhận ra Thiên Chúa đang tỏ mình với cuộc đời nói chung và cuộc đời của chính mình nói riêng.
Thiên Chúa đã tỏ mình, nhưng tự bản chất, Người là một huyền nhiệm. Để nhận ra sự tỏ mình của Thiên Chúa, mãi mãi vẫn cần một điều kiện. Điều kiện đó là lòng thao thức tìm kiếm Thiên Chúa và sống đức tin trung thành.
Có như thế, ta mới có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời ta dẫu là sướng vui hay hạnh phúc.
Nói đơn giản: Thiên Chúa vẫn đang hiện diện và luôn luôn tỏ mình, chỉ cần bạn thao thức tìm kiếm Người và trung thành sống đức tin, bạn sẽ nhận ra Người.
Ba nhà đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm và đã tin. Bạn cũng sẽ nhận ra Thiên Chúa tỏ mình bằng đời sống đức tin, bằng sự cầu nguyện, bằng tình yêu mà bạn hiến dâng cho Người.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay là ngày lễ Hiển Linh. Ngày xưa chúng ta quen gọi là lễ Ba Vua vì chúng ta chú trong vào việc các đạo sĩ đại diện cho dân ngọai đi tìm Chúa, còn lễ Hiển Linh nhằm nói lên việc Chúa tỏ mình ra cho dân ngọai. Như vậy, lễ Hiển Linh hôm nay được gọi là Lễ Giáng Sinh của dân ngọai. Các bài đọc đều nói lên tư tưởng chung : Đức Giêsu là ánh sáng soi cho muôn dân. Tiên tri Isaia tiên báo Giêrusalem sẽ được tỏa sáng, các dân sẽ lần bước tìm về sự sáng ấy (Bài đọc 1). Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy trở nên những vì sao trên vòm trời qua đời sống gương mẫu của mình (Bài đọc 2). Thánh Matthêu diễn tả Đức Giêsu là ánh sáng soi cho muôn dân, không trừ ai, kể cả dân ngọai, mà đại diệân của họ là các đạo sĩ (Bài Tin mừng).
Theo bài Tin mừng hôm nay, các đạo sĩ bên phương Đông nhờ ánh sao chỉ đường đã đến Belem triều bái Chúa Hài Nhi. Công việc đi tìm kiếm không phải là dễ dàng, các vị đã gặp nhiều gian nan thử thách trên đường, nhất là khi ngôi sao vụt tắt lúc các vị tới Giêrusalem. Qua cuộc dò hỏi tìm kiếm, các vị lại được ngôi sao tái xuất hiện dẫn đường tới Belem và gặp Chúa Hài Nhi ở đó. Họ đã phủ phục thờ lậy Đấng Cứùu Thế và dâng cho Ngài ba thứ lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Thiên Chúa đã tỏ lòng ưu ái với dân ngọai, đã tỏ mình ra cho họ. Còn chính những người dân Chúa lại không được trông thấy, họ không thấy không phải vì Chúa kỳ thị họ, không muốn tỏ mình ra nhưng là vì họ không muốn thấy, lại còn chống đối nữa.
Chúng ta cũng là dân ngọai được Chúa tỏ mình ra cho chúng ta được biết. Chúng ta phải cảm tạ Chúa vì hồng ân này. Đồng thời chúng ta cũng có bổn phận phải làm cho người khác biết Chúa qua cuộc sống gương mẫu của chúng ta. Hãy thực hiện lời thánh Phaolô nhắn nhủ tín hữu Philipphê :”Aùnh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”. Những vì sao của chúng ta tuy phát ra ánh sáng yếu ớt, nhưng với ơn hỗ trợ của Chúa, chúng sẽ có sức tỏa sáng mạnh mẽ trước mặt người đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 60,1-6.
Mặc dầu phải sống cơ cực trong cảnh lưu đầy, bị kẻ thù áp bức, tương lai đen tối mù mịt, niềm hy vọng được giải thóat mờ nhạt dần, tiên tri Isaia lại có một giấc mộng rất lạc quan, theo đó, dân Chúa sẽ được trở về quê hương trong tiếng ca vui, mọi người nô nức góp sức trùng tu lại đền thờ Giêrusalem. Lúc đó đền thờ sẽ được rạng rỡ, sẽ trở thành ánh sáng thu hút muôn dân vì được hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên đó, và mọi người sẽ qui tụ về thành ánh sáng ấy cùng với vàng bạc, đá qúi, đồng thời loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa.
Trong thực tế, dân Chúa đã được giải thóat, trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ, nhưng giấc mơ của tiên tri Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu, là ánh sáng của trần gian. Giấc mở của tiên tri Isaia còn hướng về thời cánh chung, khi mọi sự được hòan tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Giêrusalem trên trời (Kh 21,9-27).
+ Bài đọc 2 : Ep 3,2-3a. 5-6.
Dân Do thái luôn hãnh diện là dân riêng của Thiên Chúa, dân riêng của Lời hứa. Họ tin rằng ơn cứu thóat chỉ được dành riêng cho họ, còn dân ngọai thì bị đẩy ra ngòai. Nhưng thánh Phaolô, cũng là người Do thái, không nghĩ như vậy ! Theo ngài, Thiên Chúa đã mạc khải cho ngài biết : ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ mọi người, không dành riêng cho ai. Ngày nay Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải cho các thánh Tông đồ và các tiên tri mầu nhiệm Đức Kitô, đó là : trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin mừng , các dân ngọai được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.
+ Bài Tin mừng : Mt 2,1-12.
Các đạo sĩ phương Đông, là những nhà chiêm tinh, thấy một ngôi sao lạ xuất hiện và với sự soi sáng của ơn trên, các vị biết có Đấng Cứu Thế đã ra đời và các vị đã lên đường triều bái Chúa Hài Nhi.
Có người cho rằng đây không phải là ngôi sao lạ mà chỉ là ngôi sao chổi tình cờ xuất hiện và có sự trùng hợp thôi. Nhưng nếu không lạ thì làm sao, trước khi Thiên Chúa Giáng sinh, tiên tri Mikêa đã viết trong Cựu ước :”Hỡi Belem Eprata, ngươi nhỏ nhất trong Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng cai trị trong Israel”(Mk 5,1). Các thầy tư tế được vua Hêrôđê triệu tập đến sau khi các đạo sĩ tới cũng xác nhận như thế (Mt 2,4-6) mà các đạo sĩ đã thấy NGÔI SAO “của Chúa bên phương Đông, nên đến thờ lậy”(Mt 2,2).
Nếu tiên tri Mikêa không được Thiên Chúa mạc khải, làm sao ông biết và nói trước đúng thời gian và địa điểm ?
Nếu đó chỉ là ngôi sao chổi tự nhiên thì tại sao nó lại hướng dẫn được các đạo sĩ từ phương Đông xa xăm đến tận nước Do thái ? Tại sao khi nó hướng dẫn các đạo sĩ tới Belem thì nó lại “biến” mất ? Tại sao nói lại tái xuất hiện và đi trước mặt cho đến ngay chỗ con trẻ sinh ra mới dừng lại ? Nếu là sự trùng hợp thì tại sao sự trùng hợp ấy lại được các đạo sĩ phương Đông biết trước mà đi tìm Chúa Cứu Thế ? Vì vậy, phải gọi là “ánh sao lạ Belem”.
Trên đường đi tìm Chúa Hài Nhi, các đạo sĩ cũng gặp thử thách, nhưng kiên trì tìm hiểu và Chúa đã cho các vị được tọai nguyện.
C.THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ánh sáng soi cho muôn dân.
I. CHUNG QUANH NGÀY LỄ HIỂN LINH.
- Tên ngày lễ.
Ngày xưa ta gọi lễ này là “Lễ Ba Vua” vì dựa vào việc 3 nhà bác học từ phương Đông đến triều bái Chúa Hài Nhi với ba thứ lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược, qua ba lễ vật này người ta cho rằng những vị này là thuộc hòang tộc và gọi họ là Vua. Gọi là Ba Vua vì chú trọng đến việc các vị đi tìm Chúa Hài Nhi, còn ngày nay chúng ta gọi là lễ “Hiển Linh” (Epiphania) vì chú trọng vào việc Thiên Chúa tỏ mình ra . Như vậy, Hiển Linh là việc Thiên Chúa biểu lộ mình ra cho dân ngọai, cho thế giới ngòai Do thái giáo.
Vì lễ Hiển Linh mừng kính việc Đức Giêsu tự tỏ mình cho thế giới dân ngọai, nên một số quốc gia mừng lễ này còn trọng thể hơn lễ Giáng Sinh. Thực thế, lễ Hiển linh là lễ Giáng sinh dành cho dân ngọai.
- Các đạo sĩ.
Đọc Tin mừng Thánh lễ hôm nay, chúng ta không thấy nói về vị vua nào cả, cũng không phải ba vua, mà chỉ thấy nói về các đạo sĩ (Magi) hay các nhà chiêm tinh. Ngày xưa ở Trung đông, nhất là tại Ba tư, các vị chiêm tinh, hoặc các đạo sĩ, là những người trí thức, thường làm cố vấn cho các vua và chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn. Vào thế kỷ thứ 4 và 5, truyền thống dân gian Tây phương tưởng tượng ra các nhà chiêm tinh là những vị vua. Đến thế kỷ thứ 7, tục truyền lại còn đặït tên cho họ là Melchior, Gaspard và Balthazar. Rồi đến thế kỷ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng cho tòan nhân lọai, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.
Các nhà chiêm tinh tin rằng mỗi ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được thần hóa. Do đó, khi khám phá ra một vì sao lạ, và khi đối chiếu với lời tiên báo trong sách Dân số :”Một vì sao xuất hiện từ nhà Gia-cóp, một vương trượng (vua) trổi dậy từ Israel”(Ds 24,17), các ông tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, bất chấp đường xa và nguy hiểm để thờ lạy Người.
Con số các đạo sĩ (chiêm tinh) là bao nhiêu chúng ta không biết rõ. Do chi tiết ba thứ lễ vật ở câu Mt 2,11 mà từ xưa truyền thống vẫn cho là có 3 vị đạo sĩ; thực ra gốc từ không xác định như thế, mà chỉ ở số nhiều (có thể hơn 3 mà cũng có thể dưới 3). Căn cứ vào câu 1 và 2 các nhà chú giải cho rằng các vị này xét về tinh thần thì là những con người có tâm hồn khát khao tìm kiếm chân lý (Đấng Cứu Tinh) nhưng các vị cũng là các nhà chiêm tinh nhìn các vì sao mà biết có vua mới ra đời.
- Lễ vật dâng Chúa Hài Nhi.
Thánh Matthêu viết :”Khi bước vào nhà và nhìn thấy Hài nhi cùng Đức Maria Mẹ Ngài, họ liền quì gối xuống tôn thờ Hài Nhi đọan mang các tặng vật ra gồm vàng, nhũ hương và mộc dược dâng lên Ngài”(Mt 2,11).
Ông Seneca ngày xưa cho biết rằng chẳng ai được vào chầu vua mà không có lễ vật. Các đạo sĩ cũng theo tập tục ấy, các vị đã dâng ba thứ lễ vật cao qúi xứng đáng với các vị vua và nó cũng có ý nghĩa tượng trưng đối với chúng ta ngày nay. Các vị đã dâng cho Chúa Hài Nhi :
a) Vàng.
Vàng là vua của mọi kim lọai xứng hợp với lễ vật con người dâng cho vua. Cũng vậy, Đức Giêsu là người “sinh ra để làm vua”, nhưng Ngài không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu, và Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập giá. Về vương quyền của Đức Giêsu, thánh Phaolô có viết trong thư gửi cho tín hữu Ephêsô :”Chúa Cha đã phục sinh Đức Kitô từ cõi chết và đặït Đức Kitô bên hữu Ngài trên thiên quốc. Đức Kitô cai trị trên vạn vật… Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới chân Đức Kitô” (Ep 1,20-22).
b) Nhũ hương.
Người xưa thường dùng nhũ hương trong việc thờ phụng. Hương và khói bay lên trời biểu tượng những lời ca tụng và cầu nguyện dâng lên các thần linh. Các Kitô hữu cắt nghĩa tặng vật nhũ hương tượng trưng cho thiên tính của Đức Giêsu. Khi nói về thiên tính Đức Giêsu, trong thư gửi cho tín hữu Do thái, thánh Phaolô đã diễn tả như sau :”Chúa Giêsu phản chiếu sự chói lọi vinh quang của Thiên Chúa và là hình bóng bản thể của Thiên Chúa; Ngài lấy lời quyền phép của mình để nâng đỡ vạn vật”(Dt 1,3).
c) Mộc dược.
Mộc dược là hương liệu để xông hay ướp xác người chết trước khi an táng. Vì chết là thân phận của con người, nên các Kitô hữu thường cắt nghĩa mộc dược được tượng trưng cho nhân tính của Đức Giêsu. Khi bàn về nhân tính của Đức Giêsu trong thư gửi cho tín hữu Philipphê thánh Phaolô nói :”Chúa Giêsu dù luôn mang bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài đã trở nên… như mọi người… Ngài hạ mình vâng phục đến nỗi chịu chết và chết trên thập giá” (Pl 2,6-8).
II. HIỂN LINH VÀ ÁNH SÁNG.
- Đức Giêsu là ánh sáng trần gian.
Trong bài khởi đầu sách Tin mừng thứ tư, thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là sự sáng :”Ở nơi Người vẫn có sự sống và sự sống là sự sáng của nhân lọai, sự sáng chiếu soi trong u tối và u tối đã không tiếp nhận sự sáng”(Ga 1,4). Và sau này, chính Đức Giêsu cũng xác định điều đó về Ngài :”Ta là sự sáng thế gian”(Ga 9,5).
Đức Giêsu là Anh sáng, ánh sáng huy hòang hơn cả mặt trời. Nếu mặt trời không phải là của riêng ai, thì Đức Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân tộc. Ngài mang ơn cứu độ đến cho muôn dân. “Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá để soi cho mọi người”.
Bởi thế, ngay sau khi giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn, Đức Giêsu cũng sớm tỏ mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.
Đức Giêsu là Ánh sáng chiếu soi cho thế gian đang sống trong u tối, nếu không có ánh sáng, nhân lọai sẽ không biết đường đi. Cho nên, cần phải có sự hiện diện của Ngài ờ trần gian để trần gian biết đường đi và khỏi bị vấp ngã.
Truyện : Có cần Đức Giêsu không ?
Trong ấn bản trên mạng của tuần báo Newsweek vào ngày 5 tháng 12 năm 2004, sau một cuộc thăm dò các độc giả về niềm tin vào Đức Giêsu. Khi được hỏi là liệu thế giới ngày nay sẽ trở nên tốt lành hay xấu hơn nếu như không hề có Đức Giêsu, thì
– 61% trả lời rằng : thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Đức Giêsu.
– 47% nói rằng : sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn nếu như Đức Giêsu không tồn tại nơi thế giới này (16% thì nói ngược lại, và 26 % thì cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Đức Giêsu).
– 63 % nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn.
– 58 % thì cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu không có Đức Giêsu.
– 59 % thì cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi.
– 38 % tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Đức Giêsu (Công giáo và dân tộc, số 1487-1488, th. 12/2004, tr 53).
- Chúng ta là ánh sáng thế gian.
Những người theo Chúa thì được Chúa soi sáng cho, nên cũng phải là ánh sáng mặc dù chỉ là ánh sáng phản chiếu :”Chính các con là ánh sáng cho trần gian”(Mt 5,14). Và nếu đã là ánh sáng thì phải chiếu tỏa ra như Chúa dạy :”Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người ở trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,15-16).
Vì Chúa tỏ mình ra cho muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa, và những người đã biết Chúa có bổn phận giúp cho lương dân nhận biết Chúa.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta cách giúp cho người khác biết Chúa, đó lá “Anh Sáng” :
– Hãy đưa cao Tin mừng như người ta nâng cao đuốc sáng để soi chiếu mọi vùng tối tăm.
– Cách sống của những người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho những người chung quanh. Đức Giêsu nói :”Sự sáng của các con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người”. Còn thánh Phaolô thì nói :”Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời”. Tuy ánh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, nhưng cũng làm nên một đóm sáng trong đêm tối được.
Truyện : Ngọn hải đăng.
Vào một đêm mưa bão, ngọn hải đăng bị mất điện tắt ngấm. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng :
– Ông đem tôi đi đâu vậy ?
Ông trả lời :
– Ta mang nhà ngươi lên sân thượng để chiếu sáng giúp tầu bè từ ngòai khơi biết đường trở về và cập bến an tòan.
Cây nến lại nói :
– – Nhưng tôi chỉ là cây nến nhỏ bé thế này thì tầu bè ở tận ngòai khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng của tôi được ?
Người phụ trách trả lời :
– Bây giờ ta chỉ cần nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta lo liệu.
Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa và trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể xử dụng thay bóng đèn điện. Aùnh sáng của nó có sức chiếu ra tận ngòai khơi, hầu giúp tầu bè dễ dàng định hướng để quay về cập bến an tòan.
Mỗi người chúng ta cũng là một cây nến nhỏ trong bàn tay Thiên Chúa quan phòng. Bổn phận của chúng ta là phải làm hết khả năng Chúa ban và phó thác kết quả cho Thiên Chúa định liệu. Về vấn đề này thánh Phaolô cũng đã dạy :”Tôi trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới là Đấng làm cho cây mọc lên”. Ngòai ra, người ta cũng thường nói :”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, hãy làm việc hết sức mình trước đã, rồi Chúa sẽ thêm sức cho sau. Trong mọi hòan cảnh, chúng ta cần thực hành câu châm ngôn sau :”Thà thắp sáng lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
III. HIỂN LINH VÀ NGÔI SAO.
- Ngôi sao dẫn đường.
Các đạo sĩ Đông phương đã đi tìm kiếm Đức Giêsu vì “Chúng tôi đã xem thấy ngôi sao của Ngài”, nhưng ngôi sao của Ngài là ngôi sao nào ? Có những người đã tìm hết cách để giải thích theo hiện tượng tự nhiên. Thực thì Chúa có thể dùng các hiện tượng tự nhiên vào các mục đích của Ngài. Song theo lối diễn tả của thánh sử thì khó có thể giải thích theo các hiện tượng tự nhiên được. Sao xuất hiện, dẫn đường, rồi biến đi, rồi lại hiện ra đến chỗ Hài Nhi ở thì dừng lại ở trên… Những hiện tượng tự nhiên mà làm việc đó thì cũng là quá sức tự nhiên vậy !
Chúng ta không biết ngôi sao nào đã dẫn đường các đạo sĩ, nhưng chắc chắn có một ngôi sao kèm với sự soi sáng và thúc đẩy các vị đi tìm Chúa Hài Nhi. Sự soi sáng của Chúa mới là chính yếu, còn ngôi sao chỉ là phụ thuộc để theo đó mà thi hành thánh ý Chúa. Phải biết nhìn trời mà nhận ra ý Chúa : các đạo sĩ đã biết nhìn lên bầu trời mà nhận ra ngôi sao lạ. Từ ngôi sao đó, các đạo sĩ đã nhận ra vị Cứu Thế. Đời người Công giáo cũng phải có lối sống đó :”Nhìn điềm thời đại” đểû đón nhận ra ý Chúa (x.Mt 16,14). Vậy tất cả những việc xẩy ra trong đời ta, dù lớn nhỏ, đều là ngôi sao điềm trời, cho nhận ra Thiên Chúa, ý Ngài.
- Đức Giêsu là ngôi sao Hy vọng.
Tiên tri Isaia đã nói :”Dân đang lần bước giữa tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng huy hòang; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”(Is 9,1).
Anh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang của địa đàng vụt tắt, nhân lọai mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian. Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề để ai phải thất vọng khi cậy trông nơi Ngài, thì chúng ta cũng đừng bao giờ để nỗi thất vọng nào chạm được đến chúng ta.
Bất kỳ ai cũng được hưởng ơn cứu độ. Dân ngọai cũng được vào Nước Trời. Ngày xưa, những người theo đạo Do thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do thái, nghĩa là có chịu phép cắt bì mới được cứùu rỗi. Sách Công vụ tông đồ cho thấy quan niệm ấy của họ :”Có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng :”Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo luật Maisen, thì anh em không thể được ơn cứu độ”(Cv 15,1). Ngày nay, nhiều người Kitô hữu cũng có quan niệm tương tự như thế. Nhưng tinh thần của bài Tin mừng hôm nay mạc khải một sự thật hòan tòan ngược với lại quan niệm ấy.
Đọc bài Tin mừng hôm nay, ta thấy những người Do thái – mặc dù đã biết Đấng Cứùu Thế sinh tại đâu – lại không thèm tìm kiếm Đức Giêsu mới sinh ra. Những người tìm kiếm Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy Ngài và dâng lễ vật cho Ngài lại là dân ngọai từ tận đâu đâu đến. Kinh Thánh còn cho ta biết người Do thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên cho người Do thái, nhưng vì họ từ chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối, nên đã được đem đến cho dân ngọai.
- Hãy theo ánh sao chỉ đường.
Các đạo sĩ khát khao được triều bái Chúa Hài Nhi, họ thành tâm đi tìm Chúa chứ không lừa đảo như Hêrôđê. Theo phong tục Á đông, họ đến để thờ lạy Đấng Cứu Thế mới sinh. Kính bái và thờ lạy thường được dành cho người mà ta coi là vĩ đại, cao trọng và quyền thế. Ta biết vua chúa thì thường sinh ra nơi cung điện huy hòang. Ở đây Chúa Cứu Thế chọn sinh ra nơi hang bò lừa, có thể là hôi hám, chứ không đẹp như ta thấy trang hòang trong các nhà thờ mùa Giáng sinh. Vậy thì làm sao các đạo sĩ có thể quì xuống thờ lạy một hài nhi mới sinh nơi hang bò lừa ? Đâu là cái dấu hiệu để các vị nhận ra Hài nhi mới sinh trong hang bò lừa là Đấng Cúu thế ? Theo Thánh Kinh thì cái dấu hiệu là ngôi sao lạ chỉ đường. Việc Đấng Cứu Thế giáng sinh tại Belem đã được tiên tri Mikêa loan báo cả ngàn năm trước. Vậy làm sao khi Đấng Cứu thế sinh ra , mà dân được chọn không nhận ra ? Lý do là vì họ mong đợi Đấng Cứu thế đến trong uy quyền vinh quang, nên khi Ngài chọn sinh ra trong hang bò lừa, họ không nhận ra Ngài.
Theo gương các đạo sĩ, chúng ta cũng phải lên đường đi tìm Chúa. Thật vậy, trong cuộc sống, nếu chúng ta thành tâm thiện chí thì chúng ta sẽ tìm được ngôi sao dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu. Tất cả những việc chung quanh ta cũng như trong tòan thế giới cũng là những ngôi sao nhắc nhở về Chúa, những biến cố xẩy ra hằng ngày cũng mang một sứ điệp nào đó của Thiên Chúa. Hãy chú ý lắng nghe, cởi mở tâm hồn và đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với chúng ta.
- Mỗi người cũng phải là một vì sao.
Thánh Gioan tông đồ nói :”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân lọai. Aùnh sáng chiếu soi trong bóng tối nhưng bóng tối không chấp nhận ánh sáng”(Ga 1,4-5). Nếu thế gian không chấp nhận Đức Giêsu là ánh sáng thì thế gian vẫn ở trong bóng tối ! Chúng ta phải làm sao cho thế gian chấp nhận được Đức Giêsu thì chúng ta phải soi sáng cho họ. Vì thế trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã khuyện :”Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).
Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Phaolô giải thích :”Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta , bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của chúng ta làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy (Lm Carôlô).
Trong đời sống xã hội hôm nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực, ví dụ ngôi sao nhạc Rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá…thôi thì lọan cào cào với các vì sao ! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao” !
Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng (x. Lc 17,10). Thời nay, chân phước Têrêsa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời của thế kỷ hai mươi.
Là Kitô hữu, chúng ta phải là những vì sao lấp lánh trên vòm trời. Chúng ta có thể trở thành ngôi SAO MAI chăng ? Sao mai chính là Kim tinh ở cách xa mặt trời 108 triệu cây số. Kim tinh tương đối gần mặt trời (nó xoay quanh mặt trời trong vòng 224,7 ngày), vì thế nó sáng hơn. Ta thấy nó mọc trước khi mặt trời mọc và lặn sau khi mặt trời lặn. Người xưa đã có thời lầm, cho đó là hai ngôi sao khác biệt : sao mai và sao hôm.
Anh sáng của SAO MAI (Kim tinh) thật là rực rỡ, làm cho người ta liên tưởng đến những gì đẹp đẽ mỹ miều nhất :”Đẹp như ánh Sao mai”. Đó là câu chúng ta vẫn thường nói. Và đặc biệt, Kim tinh, Ngôi Sao Mai đã được dùng để chỉ Đức Trinh Nữ Maria : Stella matutina (Đức Bà như ngôi sao mai sáng vậy). Nhiều bài ca kính Đức Mẹ đã tung hô Ngài bằng danh từ ấy : Bà là ai như hào quang Thiên Chúa, như mùa xuân không úa, như vì SAO MAI rạng, như chính cửûa thiên đàng.
Sang thế kỷ 21 này, Thiên Chúa vẫn còn muốn Hiển Linh nghĩa là muốn tỏ mình ra cho nhân lọai ở thế kỷ này. Chúa vẫn còn cần có những ngôi sao lạ chiếu sáng trên vòm trời của thế hệ này. Những ngôi sao lạ ấy là chính chúng ta.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Hành hương Đất Thánh, khi đến Bêlem thăm Vương cung Thánh đường Giáng sinh, ai cũng trầm trồ và ngạc nhiên.
Thánh đường nguy nga đồ sộ nhưng cửa chính lại rất thấp và hẹp, chiều cao chừng 1mét, chiều rộng chừng 80 phân nên chỉ đủ chỗ cho một người “chui” vào. Có lẽ khi xây dựng, tác giả muốn nói đến ý nghĩa tâm linh. Muốn bước vào bên trong Thánh đường nơi Chúa Giáng Sinh, thì dù là ai đi nữa, thuộc màu da, chủng tộc, tôn giáo nào, dù là đấng bậc nào trong xã hội, tất cả đều phải cúi mình xuống thấp mà đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường, cúi mình để thờ lạy Thiên Chúa.
Thiên Chúa làm người, làm một Hài Nhi nằm trong máng cỏ.Thiên Chúa hạ mình và Ngài thật gần gũi con người.
Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do-thái.Từ nay, con người có thể gặp Thiên Chúa không chỉ trong đền thờ Giêrusalem mà còn nơi máng cỏ nghèo hèn. Từ nay gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho tư tế mà còn cho những người bình thường như các mục đồng.
Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.Gặp gỡ Thiên Chúa không dành riêng cho dân tuyển chọn nhưng còn cho các đạo sĩ, những người từ phương Đông, những người không thuộc dân riêng của Thiên Chúa.
Như vậy, lễ Hiển linh là lễ Giáng sinh trọn vẹn, Thiên Chúa đến với con người, đến với tất cả mọi người.
Gaspar, Melchior và Balthasar là ba nhà Đạo Sĩ nổi tiếng ở Đông Phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bê-lem, xứ Giu-đê để thờ lạy Đấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.
“Thấy” và “đến” là hai động từ diễn tả cuộc hành trình của ba nhà Đạo Sĩ. “Thấy ngôi sao”, hành vi không chỉ đơn thuần là những xung động của giác quan mà còn bao hàm cả một quá trình suy tư, phân định để đi tới nhận thức: đây chính là “ngôi sao của Ngài”. Lời trần tình của các nhà đạo sĩ “chúng tôi thấy” và “chúng tôi đến”- nghe thật giản đơn và dễ dàng; thế nhưng, trong thực tế, họ đã phải trải qua biết bao gian nan, nguy hiểm, có lúc đã tưởng chừng như tuyệt vọng, mới có thể “đến để thờ lạy” Vị Vua mới sinh này.
Chúng ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bê-lem có Hài Nhi Giêsu để suy niệm về sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Đồng, các Đạo Sĩ với Đấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Đồng, các Đạo Sĩ tìm gặp được Chúa. Có các Thiên thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng thần linh chiếu sáng cho họ. Đức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.
Khi các Mục Đồng canh giữ chiên ở ngọn đồi Bê-lem, họ bỡ ngỡ vì vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa (Lc 2, 10-12). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Ma-đi-an và Ba-tư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá Bê-lem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ.
Các Đạo Sĩ tìm gặp Đấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Đối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba Đạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.
Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các Đạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Đến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các Đạo Sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Khôn Ngoan.
Chỉ có các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: “Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc” (Đức Cha Bùi Tuần).
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri… nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hê-rô-đê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các Mục Đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Đạo Sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.
Điều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các Đạo Sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.
Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong Hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Đồng và các Đạo Sĩ quỳ gối, có lẽ các Đạo Sĩ ghen với các Mục Đồng vì con đường của các Mục Đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho Hê-rô-đê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Đấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các Đạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua các Bí Tích, qua cuộc sống hàng ngày. Để gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
Lễ Hiển linh cho thấy niềm vui lớn lao của Giáo Hội sơ khai khi thấy dân ngoại sẵn sàng đón nhận Tin Mừng qua ánh sao, qua lời rao giảng của các Tông đồ, của những người làm chứng. Lời nói của các vị đạo sĩ gợi lên cho chúng ta một trách nhiệm: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Người“(Mt 2,2). Trách nhiệm ở đây chính là Kitô hữu có trở nên là ngôi sao sáng cho thế giới hôm nay chưa? Nếu xưa kia, Chúa dùng ngôi sao để dẫn đường cho những người thiện tâm biết đến thờ lạy Chúa thì ngày nay, không thiếu gì người đến được với Chúa là nhờ những ngôi sao sống động của các Kitô hữu. Đời sống, gương lành, nhân đức của các Kitô hữu làm cho họ trở nên những ngôi sao sáng. Ánh sáng đó tỏa ra qua những công việc hằng ngày, nhờ vậy người ta nhận biết Thiên Chúa hiện diện trong các Kitô hữu.
Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu cũng chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của mình có ánh sáng, phản chiếu ánh sáng đón nhận từ ơn Chúa ban và từ việc thực hành Lời Chúa trong đời sống hàng ngày.
.
Lm Phạm Quốc Hưng
“Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng Maria mẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược”
Một trong những câu tiếng Anh mà tôi thích hơn cả là “You can give without loving, but you can”t love without giving”. Tạm dịch là “Bạn có thể cho mà không yêu, nhưng bạn không thể yêu mà không cho”.
Mùa Giáng sinh là mùa chúng ta thấy rõ sự thật chứa đựng trong câu nói trên. Thật vậy, trong những ngày này người ta thường quan tâm đến việc mua sắm quà cáp tặng nhau. Các món quà tặng nhau có thể khác biệt từ những thứ đơn sơ như một lá thư, một cánh thiệp, một cú điện thoại chúc lễ, một phong bì với mấy tờ giấy bạc, một chiếc áo ấm, một chiếc quần tay hay đến những thứ mắc tiền như chiếc nhẫn kim cương, hoặc một chiếc xe mới. Giá trị vật chất của các món quà có thể khác nhau, nhưng mục đích của chúng thì giống nhau: chúng bày tỏ sự lưu tâm thương mến quý trọng của người cho dành cho người nhận.
Nếu việc trao tặng không phát xuất từ tình thương mà chỉ cốt để thỏa mãn các đòi hỏi của sự công bình, để cầu cạnh trục lợi hay dụ dỗ, thì người ta không gọi tặng phẩm là quà tặng nữa, nhưng là tiền công, là của hối lộ hay miếng mồi đặt bẩy.
Tương quan giữa Thiên Chúa và con người là tương quan yêu thương. Hơn nữa, Thiên Chúa chính là Tình Thương. Mọi việc Người làm cho nhân loại đều phát xuất từ tình thương vô biên của Người dành cho họ. Vì vậy, mọi sự con người đón nhận từ Thiên Chúa đều là những quà tặng tình thương và nhằm mục đích giúp chúng ta bước sâu hơn vào liên hệ yêu thương với Người.
Trong tất cả những quà tặng Thiên Chúa trao ban cho con người, Chúa Giêsu chính là món quà vượt trên tất cả. Ngài chính là món quà tự thân của Thiên Chúa dành cho nhân loại, nghĩa là Thiên Chúa đã trao ban chính mình Người cho nhân loại nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, như thánh Gioan viết : “Quả Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế (đó) đến đỗi thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời” (Jn 3:16).
Đó chính là một trong những ý nghĩa sâu xa nhất của lễ Giáng sinh.
Tình thương chỉ có thể đáp trả bằng tình thương. Nếu trong lễ Giáng sinh, chúng ta đã có dịp chiêm ngắm tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho loài người nơi Chúa Hài Đồng, thì hôm nay – lễ Hiển linh – chúng ta có dịp học hỏi với ba nhà Đạo sĩ mà ta thường gọi là ba Vua về sự đáp trả của con người trước quà tặng tự thân của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và những lễ vật mà Thiên Chúa muốn đón nhận từ con người chúng ta.
Theo Tin mừng thánh Matthêô, lễ vật ba Đạo sĩ dâng lên Chúa là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng là quý kim và là biểu tượng của hàng vương giả; nhũ hương là loại hương dùng trong việc thờ phượng Thiên Chúa và các bậc thần linh; và mộc dược là thước dùng trong việc tẩm liệm người chết.
Qua việc dâng tặng Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược, các Đạo sĩ đã thay mặt Hội thánh để tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ và là Vua Tình yêu, Đấng đáng được muôn loài suy phục và đáng được ngự trị trong tâm hồn từng người; Ngài chính là Thiên Chúa Chí Tôn đáng được mọi người thờ lạy với tình yêu tuyệt đối; và Ngài đã vì yêu thương chúng ta nên đã mắc lấy bản tính và thân phận con người của ta, nên giống chúng ta mọi sự chỉ trừ tội lỗi, và tột đỉnh của tình yêu hiệp nhất Thiên Chúa dành cho chúng ta nơi Chúa Giêsu chính là việc Ngài đã chia sẻ sự chết của ta.
Vàng, nhủ hương và mộc dược ở đây cho ta thấy địa vị siêu việt của Chúa Giêsu. Đồng thời, những lễ vật này cũng nhắc chúng ta nhớ đến phẩm giá cao trọng tuyệt vời của ơn gọi làm người Kitô hữu. Vì khi chịu phép Thánh tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào Chúa Kitô, được trở nên chi thể của Thân thể nhiệm mầu của Chúa là Hội thánh. Chúng ta được Chúa Kitô cho chia sẻ chính địa vị vương đế, tư tế và ngôn sứ của Người. Thánh Phêrô đã gọi chúng ta là “dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương nước thánh thiện, dân được chọn là sở hữu” của Chúa để ca ngợi vinh quang Chúa (1 Pet 2:9).
Qua việc mạc khải cho chúng ta biết những lễ vật ba Đạo sĩ – những người đại diện đầu tiên của Hội thánh – đã dâng tiến Chúa Hài đồng, Chúa muốn chúng ta cũng phải dâng tiến Chúa những lễ vật mà vàng, nhũ hương và mộc dược đã được chọn làm biểu tượng. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người vàng ròng là lòng mến yêu tuyệt đối dành cho Người qua việc sống trọn vẹn giới luật mến Chúa yêu người. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người nhũ hương của một đời sống được thấm nhuần bầu khí nguyện cầu mà đỉnh cao là hy lễ Thánh thể, khi chúng ta được nên một với Chúa Giêsu để dâng lên Thiên Chúa một động tác yêu mến tôn thờ cao trọng nhất. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Chúa mộc dược của một sự bỏ mình liên lỉ qua những hy sinh to nhỏ trong cuộc sống hàng ngày như một sự nối dài của cái chết hy sinh trên thập tự của Chúa Giêsu, để qua đó chúng ta được chia xẻ vinh quang phục sinh của Người.
Với tinh thần yêu thương hiệp nhất, cầu nguyện và hy sinh, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên giống cuộc sống của chính Chúa Kitô và làm thành một lễ vật sống động đẹp lòng Chúa. Đây chính là điều thánh Phaolô từng kêu gọi các tín hữu tiên khởi phải nỗ lực thực hiện : “Vậy hỡi anh em, nhân vì lòng thương xót của Thiên Chúa, tôi khuyên anh em: hãy hiến dâng thân mình anh em làm lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là sự thờ phượng thiêng liêng của anh em. Đừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương trí, mà biến hình đổi dạng, làm sao cho anh em thẩm định được ý định Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo” (Rm 12:1-2).
Chúng ta còn phải học với ba Đạo sĩ cách thức dâng tiến lễ vật lên Chúa Giêsu. Tin mừng hôm nay thuật rằng “Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng MariaMẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược” (Mt 2:11).
Khi ấy, Chúa Giêsu là một Hài Nhi mới sinh còn hoàn toàn tùy thuộc sự chăm sóc của Mẹ Maria. Chúa chưa thể tự mình đón nhận lễ của ba Đạo sĩ. Người muốn Mẹ Maria thay Người đón nhận lễ vật của các ông. Về phía ba Đạo sĩ, khi gặp Chúa Hài Nhi và phục bái Người thì các ông luôn gặp Chúa và phục bái Người bên cạnh Mẹ và có lẽ Chúa Hài Nhi đang ở trong vòng tay Mẹ. Chắc chắn lúc ấy các lễ vật của ba Đạo sĩ chỉ được Chúa đón nhận bằng một cách duy nhất : qua tay Mẹ Maria!
Đó là lý do tại sao các tín hữu đích thực của Chúa Kitô qua mọi thời đại luôn noi gương ba Đạo sĩ và làm theo ý Chúa khi biết nhờ Mẹ Maria để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và để tận hiến cho Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ day chúng con luôn biết sống đẹp lòng Chúa bằng tinh thần yêu thương bác ái, cầu nguyện và hy sinh, để xứng đáng với ơn gọi làm con Chúa, là Kitô hữu của mình. Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết nhờ Mẹ để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và tận hiến cho Chúa, như gương ba Đạo sĩ năm xưa. Amen.
.
Lm Nguyễn Chánh
1/ Nếu thử hỏi: Khát vọng sâu xa nhất của con người là gì?
Trước câu trả lời này ta thấy có những thái độ chọn lựa khác nhau: Sẽ có nhiều người nghĩ rằng tiền của, vật chất, địa vị, danh vọng, quyền lực, có khi ngay cả lạc thú, những thứ này sẽ là nguyên nhân khơi lên lòng ước muốn nơi họ. Từ xác tín mơ hồ đó, sẽ phát sinh những cách sống chỉ biết tôn thờ vật chất, tôn thờ quyền lực, cùng với những thứ giả dối khác…
Ngược lại, cùng một câu hỏi, nhưng ta lại thấy những tương phản với sự lựa chon theo chiều hướng duy vật trên. Đó là vẫn còn rất nhiều người xác tín rằng: Chúa chính là Đấng luôn đáp ứng cho những khát vọng sâu xa nhất trong cõi lòng con người. Đây chính là xác tín đúng nhất và sâu xa nhất.
Từ xác tín khiêm tốn trên, thực tế ta thấy rất nhiều tâm hồn trong cuộc sống họ không ngừng khao khát tìm gặp Chúa, cho dẫu họ phải hứng chịu nhiều thử thách cam go trong cuộc hành trình tìm Chúa.
Như vậy, cùng một câu hỏi, nhưng câu trả lời thì không giống nhau, luôn có sự tương phản với nhau. Bởi vì có những thái độ chon lựa khác nhau. Sự tương phản này chúng ta cũng tìm thấy nơi thái độ của các nhân vật trong trang Tin mừng hôm nay, khi Chúa sinh hạ tại Bêlem.
2/ Thái độ của Vua Hêrôđê, các Thượng tế, Luật sĩ và Dân chúng:
Đây là thái độ thờ ơ, không cần bận tâm trước một sự kiên vĩ đại là Vua Israel hạ sinh. Mặc dù Đấng Cứu Thế giáng sinh cách Giêrusalem không xa, hay sau khi đã tra cứu Kinh thánh và biết rằng tại Bêlem, miền đất Giuđa, Vị lãnh tụ của Israel ra đời. Đây là những yếu tố khách quan để Hêrôđê và mọi thành phần trong dân Israel nhận biết Chúa, tìm kiếm Chúa. Nhưng cũng vì quá mải mê với cách sống giàu sang, quá ham muốn với cuộc sống danh vọng và địa vị, nên những người này cảm thấy Đấng Cứu Thế cũng không cần thiết mấy so với những quyền hành và bổng lộc mà họ đang nắm trong tay. Vì thế họ cố tình không dò xét và tìm hiểu Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Vua Israel là Đấng Kitô.
3/ Thái độ của các nhà chiêm tinh:
Đó là thái độ ngược hẳn với Vua Hêrôđê, các Thượng tế, Luật sĩ và dân Israel. Các nhà chiêm tinh luôn kháo khát Đấng Cứu Thế. Vì qua sự thiện chí nghiên cứu thời giờ, tín hiệu, nhất là qua ánh sao lạ, họ đã biết Đấng Cứu Chuộc muôn dân đã hạ sinh. Vì thế, họ quyết tâm lên đường tìm Chúa cho bằng được.
Tuy nhiên, trong chặng hành trình kiếm tìm Đấng Cứu Thế, các nhà chiêm tinh cũng đã gặp không ít những khó khăn. Khó khăn về thời gian, đi mà không biết đến lúc nào mới gặp được Chúa. Khó khăn về địa lý, bởi vì đường xá xa xôi hiểm trở. Khó khăn về những dự định cho công việc tại quê nhà. Khó khăn về sức khoẻ, thời tiết. Và khó khăn lớn nhất đối vời các nhà chiêm tinh là ngôi sao lạ dẫn đường biến mất trong chặng hành trình họ đang tìm Chúa.
Cho dù có đối diện với rất nhiều khó khăn, hay có phải rơi vào những hiểm trở chông gai. Các nhà chiêm tinh vẫn cương quyết đi tìm Chúa cho đến cùng. Vì lúc này đối với các ông Chúa chính là tất cả. Và nơi Ngài sẽ đáp ứng cho tất cả những khắc khoải của con người.
Và rồi “kiên nhẫn đã thắng mọi sự”. Các nhà chiêm tinh đã gặp được Chúa. Cử chỉ các ngài sụp xuống thờ lạy Chúa, dâng vàng, nhũ hương và mộc dược, tất cả đều thể hiện niềm xác tín: Chúa là tất cả. Chúa là Đấng duy nhất để con người theo đuổi. Chúa là đối tượng duy nhất để đem niềm vui cho con người. Chúa là đối tượng duy nhất để con người tôn thờ và kính bái. Đây chính là thái độ đức tin của các nhà chiêm tinh. Nhờ thái độ đức tin kỳ diệu ấy, chúng ta đã thấy có sự biến chuyển cách sống nơi họ.
4/ Sau khi đã gặp được Chúa và thờ lạy Chúa.
Các nhà chiêm tinh ra về mang theo tâm trạng của những con người đang dâng trào niềm vui mới và cách sống mới. Niềm vui mới đã đem đến cho họ một chon lựa mới. Đó là phải sống theo đường lối mà họ mới nhận ra nơi Chúa. Đường lối mới là họ phải xa tránh và không đi trên lối mòn của con đường cũ, nhưng phải bước đi trên những nẻo đường mới của con người mới. Đây là kết quả của những thiện chí, thể hiện qua sự hy sinh và khao khát kiếm tìm Chúa nơi các nhà chiêm tinh. Những thiên chí của các nhà chiêm tinh đã được Chúa bù đắp bằng sự biến đổi đột ngột nơi bản thân các ngài. Sự biến đổi bằng ơn thánh của Chúa đã đem đến cho các nhà chiêm tinh niềm hạnh phúc thật sự, cũng như những khát mong Thiên Chúa xuất phát từ cõi lòng khiêm tốn chân thành nơi các ngài, đã được lắp đầy bằng ơn thánh Chúa đã tặng ban. Chắc chắn từ giây phút bất ngờ sau khi đã được biến đổi, sẽ là mốc điểm để các nhà chiêm tinh khởi sự bằng đời sống mới liên tục trong Đấng Cứu Độ trần gian.
5/ Khi con người cứ mải mê kiếm tìm
Khi con người cứ mải mê kiếm tìm và sống trong sự hưởng thụ thoả mãn nơi vật chất, tiền của, địa vị, danh vọng, lạc thú. Chắc chắn lối sống ấy không bao giờ đem lại ích lợi gì cho con người. Đó là một cuộc sống vô nghĩa. Đôi khi nó sẽ hướng hành động của con người đi đến tính ích kỷ, bất công, tham lam, tham ô, gian dối… Vì con người có thể dùng mọi thủ đoạn để đạt tới cách sống giả dối, luôn lệ thuộc những thứ mau qua của trần gian.
Ngược lại, khi con người biết khiêm tốn kiếm tìm chính Chúa là nguồn hy vọng của con người. Chắc chắn cuộc kiếm tìm ấy sẽ mang đến cho con người một cuộc sống lý tưởng cao đẹp. Một cuộc sống đã được Chúa đổi mới bằng ơn thánh. Một cuộc đời luôn có ” Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” hiện diện trong mỗi hoàn cảnh. Một cuộc sống mà Chúa sẽ hướng dẫn mỗi người phải hành động như thế nào cho phù hợp với ý Chúa. Đó là một cách sống luôn tôn trọng sự thật, luôn quý trọng công bình, luôn tôn trọng quyền lợi của cá nhân và tập thể, luôn biết xây đắp bình an và gieo rắc công bình cho mọi người và mọi nơi đang cần sự công bình.
Lạy Mẹ Maria! Xin Mẹ giúp chúng con luôn tin tưởng rằng, Đức Giêsu Kitô Con Mẹ, là Đấng luôn đem lại lý tưởng cao đẹp cho con người, luôn bù đắp cho những khát vọng sâu xa nhất trong cõi lòng con người. Xin Mẹ hướng dẫn đời sống chúng con, luôn là cuộc lên đường để tìm Chúa không ngừng. Nhờ vậy đời sống chúng con sẽ được biến đổi thật sự, khi đã gặp được Đức Kitô Đấng muôn dân mong đợi, như các nhà chiêm tinh trong bài Tin mừng hôm nay. Amen.
.
Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Vào lúc 1 giờ kém 12 phút sáng ngày 1/9/85, nhà hải dương học nổi tiếng Robert Ballard chợt phát hiện trên màn sóng vị trí của chiếc tàu Titanic bị chôn vùi dưới làn nước xanh thẳm của Bắc Đại Tây Dương cách đây ¾ thế kỷ.
Khi xác tàu được tìm thấy thì cũng là lúc tất cả những con số thống kê liên quan đến chiếc Titanic đã được đưa ra ánh sáng. Sau đây là một vài số liệu được ghi nhận:
– Chiều dài của chiếc tàu là 269 mét
– Chi phí cho việc đóng tàu là 178 triệu đô la (tính theo thời giá hiện nay)
– Thời gian sử dụng là 5 ngày
– Từ lúc đụng băng trôi cho đến khi chìm hoàn toàn là 2 giờ 40 phút
– Tổng số hành khách và thuỷ thủ là 2223; số người sống sót: 706
Vé hạng nhất là 705 đô la
Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là số ống nhòm dành cho hai người trực tại vọng gác là zêrô. Chính con số zêrô này mà người ta không thấy được xa, không phát hiện sớm được tảng băng trôi để rồi tai hoạ đã ập tới.
Cuộc đời con người như một chiếc tàu ngoài khơi, đang hướng đến bến bờ của bình an và hạnh phúc. Nếu không thấy xa phía đàng trước, nếu không có những phương tiện giúp định vị thì rồi những giòng xoáy, bão lốc, hay băng trôi sẽ nhận chìm nó. Cần thiết biết bao những chiếc ống nhòm. Cần biết bao một tia sáng soi chiếu để thấy được hướng đi, đích tới, và trở ngại phải vượt qua.
Vấn đề là trong đời sống tâm linh đâu là ánh sáng soi chiếu đường đi? Cái gì có tác dụng như những chiếc ống nhòm giúp ta thấy xa trên hải trình ngàn dặm đây?
Tôi chợt nhớ đến bài hát Alleluia của Cha Thành Tâm với lời nhạc “Alleluia, Lời Chúa dẫn soi con đường đi,” và trong bài Lắng Nghe Tiếng Chúa của Nguyễn Duy mà lời nhạc sau đây đã mang lại cho tôi một chìa khoá: “Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước…”
Thế ra trong cõi mù tối của tâm linh hay giữa sóng cả ba đào đang hoành hành dày xéo, Lời Chúa sẽ là phương thế dẫn đường soi lối giúp người ta đến với bến bờ. Đoạn Tin Mừng trong Chúa Nhật Lễ Hiển linh là một lời xác nhận cho chân lý đó.
Ba nhà đạo sĩ trong cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa của cuộc đời, đương đầu với biết bao khó nhọc: băng qua đồi, leo qua núi, vượt qua cả vùng hoang dại của sa mạc Trung đông với khí hậu khắc nghiệt, ngày thì nóng cháy da, đêm lại lạnh thấu xương. Địa đã không lợi mà thiên cũng chẳng thời. Một ánh sáng sao dẫn lối thì nay lại biến mất. Lạc lối. Mù mờ. Không còn phương hướng. Chẳng biết mình phải đi về đâu.
Không thất vọng bỏ cuộc, các ông vẫn dò hỏi tìm tòi. Cuối cùng, may thay, người ta đã chỉ cho các ông nơi cần đến.
Điểm đáng chú ý là không phải những kinh sư, ký lục hay thượng tế đã trả lời cho sự tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ, nhưng là Kinh Thánh. Chính Thánh Kinh đã chỉ cho giới lãnh đạo Do Thái, và qua họ, nói cho ba người từ phương đông biết chân lý và ý nghĩa cuộc đời nằm ở nơi đâu. Từ Kinh Thánh, các đạo sĩ biết được rằng “Nơi Bêlem, thuộc đất Giuđa sẽ xuất hiện vị cứu tinh, Đấng sẽ chăn dắt Israel.” Và họ đã tiếp tục lên đường, nhắm hướng Thánh kinh đã chỉ mà tiến bước, để rồi cuối cùng tìm ra lẽ sống, thấy được giá trị và ý nghĩa cuộc đời mình nơi một con người có tên Giêsu.
Đúng là “Lời Chúa sáng soi con đường đi,” “Lời Chúa đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.” Nhưng thử hỏi tôi đã biết lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho đời mình chưa? Tôi có hay đọc Kinh Thánh để tìm hướng đi giữa những giong tố của cuộc sống? Nhưng, tôi đã có cuốn Kinh Thánh chưa đã chứ?
E rằng lắm khi bỏ ra năm chục, một trăm để mua đôi giày, chiếc áo sao dễ quá, nhưng để mua một cuốn Thánh Kinh hay những sách báo đạo đức giá 10 đồng sao không dễ chút nào. Nhiều lúc xem phim, nghe nhạc 2, 3 giờ liền mà chẳng thấy mệt mỏi gì, nhưng đọc các sách nhà đạo 5, 10 phút sao thấy ngại ngùng khó khăn quá.
Nếu ý thức và thái độ như thế, làm sao tâm hồn tôi có thể vượt qua được sóng ngàn, tránh khỏi các băng trôi để tiến đến bến bờ bình an được.
Không nhình vào Lời Chúa để rồi nhờ ánh sáng từ đó dẫn lối chắc chắn thuyền đời tôi sẽ lênh đênh bất định, nếu không muốn nói là dễ bị chìm đắm trước những phong ba của cuộc đời.
Nhưng nếu tôi quyết tâm từ nay sẽ lắng nghe tiếng Chúa hơn qua Thánh Kinh, sẽ tìm đọc lời Ngài qua các sách báo thiêng liêng đạo đức, và sẽ suy tư học hỏi ý Ngài qua mọi biến cố hằng ngày, thì chắc chắn tự đáy tâm hồn sẽ vang lên khúc hát hạnh phúc: “Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước. Lời Ngài được chất ngất niềm vui, trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.”
.
Lm Giuse Vũ Thái Hòa
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay theo thánh Matthêu về “lễ Ba Vua” (ba thánh sử khác không tường trình biến cố này), chúng ta không thấy nói về vị vua nào cả, cũng không phải ba vua, mà chỉ thấy nói về “các nhà chiêm tinh”! Ngày xưa ở Trung Đông, nhất là tại Ba-tư, các vị chiêm tinh, hoặc đạo sĩ, là những người trí thức, thường làm cố vấn cho các vua và chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn. Vào thế kỷ thứ 4 và 5, truyền thống dân gian Tây phương tưởng tượng ra các nhà chiêm tinh là những vị vua. Đến thế kỷ thứ 7, tục truyền lại đặt tên cho họ: Melchior, Gaspard và Balthazar. Rồi đến thế kỷ thứ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng cho toàn nhân loại, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.
Các nhà chiêm tinh tin rằng mỗi ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được thần hóa. Do đó, khi khám phá ra một vì sao lạ, và khi đối chiếu với lời tiên báo trong sách Dân Số: “Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp (nhà Đavít), một vương trượng (vua) trổi dậy từ Israel”(24:17), các ông tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, bất chấp đường xa và nguy hiểm để đến thờ lạy người.
Khi đến Giê-ru-sa-lem là thủ đô Do-thái, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của tân vương. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, hỏi tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân, và được biết Đấng Kitô sinh ra ở Bêlem dựa theo lời tiên báo trong sách Mi-kha: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (5:1). Hài Nhi mới sinh ra chính là vị Cứu Tinh (Mê-si-a) mà Israel đã mong chờ từ lâu.
Khi tìm được Vua Hài Nhi, họ sấp mình bái lạy Người và dâng tiến Người vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba lễ vật tượng trưng: vàng nói rằng Người là vua, vì vàng là kim loại quý dùng để dâng cho vua; nhũ hương nói rằng Người là Thiên Chúa vì người ta xông hương để tôn kính các thần thánh; mộc dược, hương liệu được dùng để liệm người chết, nói lên nhân tính của Người. Các Kitô hữu nhìn nhận nơi Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai được mong đợi (vàng), Con Thiên Chúa (nhũ hương), Đấng hiến dâng mạng sống trên thập giá (mộc dược).
Các vị chiêm tinh này đại diện cho các dân ngoại đã nhìn nhận vương quyền của Hài Nhi ngay từ lúc Người mới chào đời. Họ cũng đại diện cho những người thành tâm thiện chí tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa. Với những bước dọ dẫm và với sự kiên trì, cuối cùng họ đã gặp được Thiên Chúa và dâng cho Người những thứ quý giá nhất.
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta hãy dùng ít phút để suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, vược xa trí tưởng tượng của con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Nhưng Con Thiên Chúa ở trong một máng cỏ nghèo nàn. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người không phải qua bề ngoài nghèo hèn bằng con mắt nhân loại, nhưng bằng con mắt đức tin.
Cách đây hơn 2000 năm nay, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ. Từ đó, Người muốn mỗi người chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh (“Các con là ánh sáng cho trần gian” -Mt 5:14) để dẩn dắt tha nhân đến với Thiên Chúa, như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2:15)
Ước gì mỗi người chúng ta là một ngôi sao đức tin, được chiếu tỏa bởi tình thương và bác ái trong đời sống thường nhật của chúng ta.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
TỪ MỘT VÌ SAO LẠ…
Có ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ:
Thái độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)
Khi phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem để tìm “Đức Vua dân Do Thái”.
“Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc nào đó.” (William Barclay).
Lịch sử cho thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy cũng có sự chờ mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới”, (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng đã viết: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này, phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)…
“Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.” (William Barclay).
“Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt.2,2).
Họ bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm tin vào “Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra” là hoàn toàn chân thật và họ đã dâng lên Hài Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa nhất dành cho Đấng Cứu Thế.
“Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài người” (William Barclay).
Thái độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.
“Con vua thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa”.
Vua nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau này. Nên khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.
Lịch sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con trai ông ta”.
Một con người đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.
Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.
Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì của các thượng tế và kinh sư.
“Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt. 2,4-6).
Các thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối với họ.
Họ đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay đổi con đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan tâm đến.
… ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ
Ở quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước vào nhà anh, không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không đến đâu.
Ở quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này không chỉ xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng bàn với anh ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói: “Này là mình ta…”, rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: “Này là máu ta…”. Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn …Sau này, anh mất chức. Nghe nói có một người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: “Là một người Công Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức nào đó không?”.
Đã hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời gọi con người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với nhân loại”. Tình yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con người cần có thành tâm thiện chí để đến với Ngài.
Thành tâm thiện chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ của Thiên Chúa (khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với Thiên Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy Chúa hết lòng (dâng lễ vật) và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con đường khác trở vể quê hương).
Xem đó, chúng ta thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành cho con người.
Nếu không, tiền, tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những chướng ngại vật, những rào cản tách con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.
Chúng ta có thể tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những thượng tế và biệt phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh ấy ở trong chính ta.
Tôi nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.
Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy, bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê rợn và chỉ trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn thẳng vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi đâu biền biệt.
Một bà tiên hiền lành đã thương tình muốn cứu chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và trao cho cô một “viên ngọc dẫn đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình không có điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.
Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối. Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những sợi tơ vàng óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô không biết phải đi đâu nữa.
Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con vật vẫn còn đó. Nó đứng im.
Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.
Con dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày tháng đi theo “viên ngọc dẫn đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn… rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.
Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng trước mặt.
Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và biến mất.
Nếu Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ.
Cuộc hành trình này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh. Không có tình yêu thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ đoàn tụ yêu thương.
Lạy Chúa,
Xin cho mọi người nhận ra một vì sao lạ:
-“Vì sao Thánh Giá”
tỏa sáng muôn nơi,
khắp mọi phương trời,
dẫn đưa con người,
về miền đất hứa:
-“Thế giới đệ huynh
anh em một nhà,
Thiên Chúa là Cha.” Amen.
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Ngày xưa người ta quen gọi lễ Hiển Linh là lễ Ba Vua, sở dĩ vậy vì trong Tin Mừng đọc trong Thánh Lễ hôm nay, ba nhà đạo sĩ tìm kiếm để bái yết hài nhi Giêsu.
Ba nhà đạo sĩ là những người trổi trang về kiến thức uyên bác; họ có thể đọc dấu chỉ thiên nhiên để nhận ra sự xuất hiện của những người đặc biệt. Từ ngữ “vua” được dùng trong “ba vua” là để chỉ người trổi trang hơn người khác về phương diện nào đó.
Qua biến cố mục đồng tới viếng hài nhi, người ta nhận ra Thiên Chúa đã tỏ mình cho những người Do Thái nghèo nhưng có tâm hồn mở rộng sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa. Với biến cố ba nhà đạo sĩ đi viếng hài nhi, Giáo Hội nhận ra Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Người Do Thái cho rằng họ là dân được tuyển chọn, còn các dân tộc khác là dân ngoại. Với biến cố Đức Giêsu và việc các dân tộc khác đón nhận Tin Mừng, người ta nhận ra rằng tất cả mọi dân tộc đều thuộc về Thiên Chúa, tất cả các dân tộc đều được Thiên Chúa yêu thương như dân tộc Do Thái. Hôm nay với trình thuật các đạo sĩ tìm kiếm và bái lạy Đức Giêsu, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa cũng mặc khải cho dân ngoại. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại như Ngài đã từng yêu thương dân tộc Do Thái. Mọi dân tộc đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc, mọi con người, chứ không phải chỉ riêng dân tộc Do Thái.
Kitô hữu phải là người cảm nghiệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, và đặc biệt cho chính mình. Kitô hữu cũng phải là người sống bình an và hạnh phúc, vì ý thức mình là tạo vật được Thiên Chúa yêu thương. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm, và không chỉ vậy, còn mời gọi mọi người vào chia sẻ sự sống vĩnh cửu hạnh phúc với Thiên Chúa. Một khi phần nào cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và bình an hạnh phúc, Kitô hữu thấy mình phải chia sẻ niềm vui này, tin mừng này cho những người anh em của mình chưa biết Đức Giêsu, ngõ hầu họ cũng có niềm vui này. Bản chất Kitô hữu là rao giảng Tin Mừng, làm cho muôn dân được nghe, hiểu và sống đáp trả tình yêu Thiên Chúa.
Ngày nay nhiều người “dị ứng” với từ ngữ truyền giáo, vì từ ngữ này gợi lên nơi người ta ấn tượng rao giảng để kéo người khác bỏ đạo của họ để theo Kitô giáo. Nếu có ý hướng như vậy, người ta mang nặng tính phe phái và giành giựt nhiều hơn là chia sẻ tin mừng. Một Kitô hữu đúng nghĩa phải là người muốn chia sẻ tin mừng với người khác, vì mình nghĩ rằng biết Đức Giêsu là điều rất tốt và ích lợi cho mọi người. Tuy nhiên, Kitô hữu phải là người luôn tôn trọng người khác, tôn trọng tự do và tín ngưỡng của tha nhân; nếu ai đó đón nhận Tin Mừng, thì đó là vì chính họ thấy sự thật, họ cũng được bình an và hạnh phúc hơn khi trở thành Kitô hữu.
Khi một Kitô hữu muốn rao giảng tin mừng, họ phải tự vấn chính mình: “niềm tin vào Đức Giêsu mang gì lại cho tôi? Tin vào Đức Giêsu, có làm cho tôi sống bình an và hạnh phúc hơn không? Nếu tin vào Đức Giêsu Phục Sinh không giúp gì cho tôi, thì tại sao tôi lại muốn làm cho người khác trở thành Kitô hữu như tôi?” Lời mời gọi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh đòi Kitô hữu phải xét lại niềm tin của mình, lối sống của mình. Nếu đời sống của tôi không là đời sống toát lên nét tươi vui của một người hạnh phúc, thì làm sao tôi có thể rao giảng tin mừng được! Nếu tôi sống u buồn thất vọng, tôi là phản chứng cho Tin Mừng Phục Sinh. Tôi phải sống sao, để đời sống của tôi không trở thành phản chứng.
Kitô hữu là người có Chúa Kitô nơi mình, là người bạn của Đức Giêsu Kitô, là người muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cách sống của Đức Giêsu Kitô phải là cách sống của mỗi Kitô hữu. Kitô hữu phải là người có cùng chọn lựa với Đức Giêsu Kitô, phải biết yêu thương con người hôm nay như chính Đức Giêsu đã yêu, phải là người yêu đến cùng anh em mình, người thân mình, những người mình gặp gỡ, và thậm chí cả những kẻ không ưa và ghét mình. Đức Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài, Kitô hữu cũng phải tha thứ cho những người làm hại họ.
Kitô hữu phải là người trung thành như Thiên Chúa là Đấng Thành Tín. Thiên Chúa không bao giờ phản bội, và Kitô hữu cũng không bao giờ được phản bội ai. Không làm hại ai. Chỉ muốn điều tốt cho tha nhân, chỉ tìm lợi ích cho người khác chứ không làm hại họ, đó phải là cách sống của Kitô hữu. Có được như vậy, nhiều người sẽ ngạc nhiên và sẽ tìm hiểu niềm tin của Kitô hữu; để rồi nếu họ muốn họ có thể chia sẻ niềm tin Kitô hữu, để họ cũng được bình an và hạnh phúc như những Kitô hữu. Kitô hữu phải là men trong bột, phải là ánh sáng cho thế gian. Kitô hữu tuy có cùng nỗi bận tâm và gian nan như bất cứ con người nào sống trên đời, nhưng ánh sáng đức tin đã soi sáng cho họ, giúp họ tuy sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1.Bạn có muốn người khác có cùng niềm tin với bạn không? Tại sao?
- Nếu không tin vào Đức Giêsu, bạn có được như hiện tại không? Tại sao?
- Phải rao giảng thế nào để con người ngày nay dễ đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu Kitô?
.
TÌM GẶP THIÊN CHÚA GIỮA LÒNG ĐỜI
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chính những Lời Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm chúng ta.
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người,” thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)
Bấy giờ “nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2, 4-6)
Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.
Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Thánh vịnh 119, câu 105)
Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? – Ở nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ !
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường… Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: “Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình.”
Qua dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người. (xem Mt 25, 31-46)
Khi chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Phaolô ra tay bách hại các môn đệ của Người dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đamát và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: “Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Phaolô hết sức kinh hoàng: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Có tiếng từ trời đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ”. (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng chính là Chúa Giêsu nên người thường nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt lời nầy: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (I Cr 6, 15).
Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta. Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người.
.
Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
Lễ Hiển linh trước tiên là lễ của niềm vui. Niềm vui đó được diễn tả trong bài đọc thứ I: Đứng lên, bừng sáng lên, hỡi Giêrusalem! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi” (Is 60,1). Mặc dù dân Israel đang sống trong chốn lưu đày, nhưng ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày được hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến. Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.
Trên thực tế, dân Dothái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Phải tới 8 thế kỷ sau, giấc mơ của Isaia mới được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu – Đấng Cứu Tinh nhân loại. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
Lễ Hiển Linh không chỉ là niềm vui cho dân tộc Dothái, mà còn là niềm vui cho toàn thể nhân loại, vì hôm nay, kỷ niệm lại việc Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại.
Theo quan niệm của Đông Phương, mỗi một vì sao lạ xuất hiện trên bầu trời, là dấu chỉ của một nhân vật quan trọng sắp ra đời. Ba nhà đạo sĩ (vẫn quen gọi là ba vua) mặc dù không bàn hỏi, không hẹn hò từ trước, và họ cũng không hề biết đến những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế trong Thánh Kinh, nhưng vì cùng khao khát đi tìm chân lý, nên họ đã nhất quyết lên đường theo ánh sao lạ đi tìm “Vị Cứu Tinh”.
Qua việc Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ chứng tỏ rằng: Ngôi Hai Thiên Chúa không đến trong thế gian vì một số người hay vì một dân tộc, nhưng vì tất cả các dân tộc trên trần thế này.
Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu là: khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Dothái lại tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường, hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quí giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau này, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, lsaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái trong nhà thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8,11-12).
Nhờ có ánh sao soi đường mà ba vua có thể tìm được đến nơi Hài Nhi Giêsu đang ở. Cũng như người đi biển, để định vị được bờ, người ta phải cần đến ngọn đèn hải đăng. Điều đó cho thấy, ánh sáng chỉ đường thật quan trọng biết bao trong đời sống thường ngày của chúng ta. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta có nhận ra những ánh sao đó trong cuộc đời mình hay không?
Đối với một số bạn trẻ, “ngôi sao” của họ là những diễn viên điện ảnh, ca sĩ, cầu thủ… để đến nỗi, họ quên cả việc ăn – uống – ngủ – nghỉ để chạy theo những thần tượng của mình. Cụ thể là những cơn sóng hâm mộ ca sỹ, diễn viên Hàn Quốc mới đây khiến chúng ta không khỏi hốt hoảng khi chứng kiến những hình ảnh những fan hâm mộ khóc thét, ngất xỉu, đổ máu, cấp cứu… trong một số buổi biểu diễn.
Hồi tháng 7.2012 vừa qua tại Tp. Hồ Chính Minh, một cô gái trẻ, vì mê muội nhóm nhạc Hàn Quốc nên khi ban nhạc này tới Việt Nam biểu diễn, cô nằng nặc đòi đi xem. Người bố không đồng ý, cô đã dõng dạc tuyên bố: “Con cần ban nhạc ấy hơn gia đình!”. Câu trả lời của cô gái khiến ông bố chết điếng cả người… Thực ra, bản chất của việc thần tượng, yêu mến một ca sĩ, diễn viên không phải là xấu nhưng nếu quá đà, không biết tiết chế thì sẽ trở thành không tốt.
Đối với người khác, “ngôi sao” của cuộc đời họ là tiền tài, danh vọng, địa vị, chức quyền. Mặc dù vẫn biết những thứ đó chỉ là phương tiện, nhưng trong thực tế, họ lại để cho “phương tiện” đó chi phối tất cả tư tưởng cũng như hành động của mình…
Trong cuộc đời con người, có biết bao ngôi sao bên cạnh mà dường như chúng ta không hay biết. Những ngôi sao đó có thể không chói sáng như chúng ta tưởng, nhưng lại giúp ích cho cuộc đời chúng ta biết bao nhiêu. Những ngôi sao đó là những người thân trong gia đình, là thầy cô, bè bạn… và tất cả những ai đã cùng đồng hành với chúng ta trên hành trình của cuộc đời. Nhưng thử hỏi, đã bao giờ chúng ta nhìn nhận họ là những ánh sao để mà biết ơn, để mà trân trọng? Đã bao giờ, chồng nói với vợ rằng: Em là ánh sao của cuộc đời anh! Đã bao giờ, con cái nói với cha mẹ rằng: Cha mẹ chính là ánh sao của cuộc đời con hay chưa? Hay chúng ta chỉ nhìn ra những lầm lỗi, những thiếu sót của nhau đã chỉ trích, để lên án?
Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta: hãy trở nên ngôi sao để dẫn đưa người khác đến cùng Chúa. Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương. Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng ; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Khi ý thức mình là ánh sao, chúng ta cũng cần biết rằng: chúng ta chỉ là người dẫn dắt người khác đến với Chúa; là phương tiện chỉ đường, chứ chúng ta không phải là điểm đến cuối cùng.
Là ánh sao, chúng ta còn có bổn phận phải giữ cho bản thân mình luôn luôn sáng. Vì nếu sao mà không sáng, thì sẽ chẳng có ích lợi gì, cũng như muối mà không mặn thì chỉ có cách đổ ra ngoài đường để người ta chà đạp lên mà thôi.
Cầu chúc cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta, biết trở nên những ánh sao cho người khác nhờ đời sống chứng tá của mình. Như thế, cuộc đời này sẽ đầy ắp những ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa và tình đồng loại. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Một Ngôi Sao Soi Rạng Ngời Hang Đá
Ba Đạo Sĩ Đến Thờ Lạy Chúa Con
Sách Tôbia cho biết: “Một ánh sáng rạng ngời sẽ chiếu soi khắp mười phương đất; từ viễn xứ, người trăm họ kéo đến với ngươi. Và dân cư tận chân trời góc biển sẽ tới hát mừng danh thánh Chúa, tay bưng lễ vật dâng tiến Vua Trời. Muôn thế hệ sẽ làm cho ngươi hoan hỷ, và tên ngươi, thành được Chúa chọn, sẽ lưu truyền hậu thế đến ngàn năm.” (Tb 13:13)
Bê-lem thuộc Giuđê, bé nhỏ, nhưng chợt hóa thành nơi tràn ngập ánh sáng kỳ diệu – ánh sáng của Hồng Ân, của Đức Tin, của Yêu Thương, của Lòng Thương Xót, của Hòa Bình, của Chân Lý, của Hạnh Phúc, của Sự Sống, của Vĩnh Cửu, của Công Lý, của Tự Do,… Bê-lem bé nhỏ mà vĩ đại vì là nơi Thiên Chúa chọn để Đấng Thiên Sai giáng sinh làm người.
TẦM NHÌN TỪ XA
Ánh Sao Lạ là dấu Thiên Chúa dùng để tỏ cho mọi người nhận biết, cụ thể là các nhà chiêm tinh. Họ không chỉ thông thạo khoa học trần gian, mà họ còn có khả năng siêu phàm với tầm nhìn tâm linh. Có nhiều ngôi sao, nhưng họ nhận thấy có một ngôi sao lạ lùng, rất đặc biệt hơn các ngôi sao khác, với loại ánh sáng khác thường. Họ đã đi tìm và đã gặp được Đáng mà họ muốn biết, Đấng ấy chính là “ánh sáng cho nhân loại” và “chiếu soi mọi người.” (Ga 1:4 và 9)
Ánh Sáng Ngôi Lời đã chiếu sáng và tỏa lan khắp nơi. Ngôn sứ Isaia hân hoan mời gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” (Is 60:1-2) Ánh bình minh xua tan bóng đêm đen, ánh sáng tiêu diệt bóng tối. Đó là ánh sáng vĩnh cửu, ánh sáng đến từ Thiên Chúa.
Đấng Thiên Sai là Chúa Cứu Thế Giêsu. Ngài đã giáng sinh làm người, và Con Người đó là Ánh Sáng, là Ngôi Lời, là Thiên Chúa tạo thành muôn vật hữu hình và vô hình. Ánh sáng Chúa chiếu vào cái gì thì cái đó cũng sáng lên, và phải trở thành “ánh sáng cho thế gian.” (Mt 5:14) Nhờ đó, “chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước,” đồng thời “đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” (Is 60:3-4) Thật là kỳ diệu!
Thật khổ sở khi ở trong bóng tối, mất tầm nhìn. Những người chỉ bị đau mắt mà khỏi thì cũng vui lắm rồi, huống chi người mù, họ mà được khỏi mù thì hẳn là rất hạnh phúc. Vì chúng ta chưa bị mù nên không thể cảm nhận trọn vẹn niềm vui sướng của người-mù-được-sáng-mắt, chỉ cảm nhận phần nào. Ngôn sứ Isaia nói: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.” (Is 60:5-6) Ở trong bóng tối tội lỗi thì thật đáng sợ, thoát khỏi bóng tối đó thì thật tuyệt vời.
Với lòng khiêm cung kính cẩn, Thánh Vịnh gia đại diện chúng ta mà cầu xin qua lời thân thưa: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” (Tv 72:1-2) Ai chân thành tin tưởng cầu xin thì sẽ được, chắc chắn Ngài đại lượng ban cho.
Quả thật, và đúng y như vậy, bởi vì Ngài là Vua Công Lý đến để thi hành Thánh Luật của Đức Chúa một cách triệt để, không sai một chi tiết nhỏ nào. Thánh Vịnh xác định: “Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.” (Tv 72:7-8) Chỉ một mình Thiên Chúa làm chủ mọi thứ – vô hình và hữu hình.
Từ xa tới gần, từ thôn quê tới thành thị, khắp nơi đều được hưởng bình an. Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự. Khắp nơi đều rộn rã tiếng reo vui, vì từ nay mọi người được sống trong hòa bình và công lý, được phục hồi cả nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, được Thiên Chúa giành lại những gì đã mất: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn, từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.” (Tv 72:12-13)
Mỗi người có công việc riêng theo kế hoạch tiền định của Thiên Chúa, tất cả đều quy về Ngài. Thánh Phaolô cho biết: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.” (Ep 3:2-3) Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được khởi đầu thực hiện từ khi Đấng Emmanuel đến ở cùng và chia sẻ gian lao với kiếp người của chúng ta. Tuy là phàm nhân nhưng chúng ta vẫn thực sự diễm phúc, vì được Thiên Chúa xót thương vô cùng.
Với kinh nghiệm “xương máu” về tình trạng mù-được-sáng-mắt và hạnh phúc khi được cứu độ, Thánh Phaolô giải thích rõ ràng: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được CÙNG THỪA KẾ GIA NGHIỆP với người Do-thái, CÙNG LÀM THÀNH MỘT THÂN THỂ và CÙNG CHIA SẺ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3:5-6) Ba thứ “cùng hưởng” đó thực sự là hạnh phúc lớn lao đối với chúng ta.
Quả thật, đang là là người bị “mất trắng”, đang ở trong tình trạng không mà lại có, đang là tội nhân mà thành con cái, lại còn được chia sẻ và thừa kế mọi thứ thì đúng là niềm vui mừng quá lớn lao, niềm hạnh phúc khôn tả xiết. Điều không dám ước mơ mà có thật, được thật.
THẤY RÕ ĐIỀU GẦN
Các nhà chiêm tinh có khả năng nhìn từ xa mà thấy rõ như ở gần. Tầm hiểu biết xuyên thấu kỳ lạ. Đó là tầm nhìn của niềm tin. So với các nơi khác, miền Bê-lem chỉ nhỏ bé thôi, thế nhưng lại quan trọng, vùng Bê-lem tối tăm mà chợt sáng ngời, chốn Bê-lem tầm thường mà bỗng trở nên Ngai Tòa của Chúa Tể Càn Khôn. Thực sự lạ lùng quá đỗi, không thể tưởng tượng nổi!
Trình thuật theo Thánh sử Mát-thêu cho biết sự kiện khác, sau sự kiện Con Chúa giáng sinh: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi thăm: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2:2) Họ hỏi rất chân thành chứ không hề có ý gì khác.
Thế nhưng chỉ mới nghe hỏi vậy thôi mà vua Hê-rô-đê đã bối rối, hồn xiêu phách lạc, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Kẻ nhát đảm thì hay sợ hãi, nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời y như những gì họ đã biết: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2:5-6) Lúc đó có lẽ con cáo già Hê-rô-đê bạt vía kinh hồn vì hoảng sợ. Kẻ giá áo túi cơm thì thường tham quyền cố vị, vì thế mà lo sợ người khác hơn mình, rồi tính toán mưu thâm kế độc.
Thật thế, bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” (Mt 2:8) Đúng là cáo già, miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm, ra vẻ nhân từ mà xảo quyệt, bằng mặt chứ không bằng lòng!
Kẻ ngu dốt mà thâm độc và có quyền thì vô cùng nguy hiểm. Lão Hê-rô-đê mưu mô vì sợ người khác “chạm” đến cái ngai vàng của mình, vì cái ghế đó liên quan quyền lực và lợi lộc. Thời nay cũng chẳng thiếu những dạng người hoặc bóng dáng như gã Hê-rô-đê. Họ là ai? Có lẽ ai cũng có thể trả lời. Họ là những kẻ có mặt người mà dạ thú, chỉ sợ mất chức, mất quyền, tìm mọi cách “cố thủ” để bảo vệ “chiếc ghế” chứ chẳng vì ý tốt lành là phục vụ người khác. Loại người Hê-rô-đê ngày nay còn độc ác và nguy hiểm hơn chính Hê-rô-đê ngày xưa. Thế nên luôn phải tỉnh táo để có thể nhận biết chân tướng của họ mà tránh cho xa. Câu nói của tiền nhân thật chí lý: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào.” Biết mà làm như không biết trước những kẻ khoác lác, đó là khôn.
Khi nghe nhà vua nói thế, có lẽ các nhà chiêm tinh cũng tưởng nhà vua thật lòng nên ra đi tìm kiếm điều họ muốn biết tỏ tường. Lạ thay, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi rồi mới dừng lại. Họ rất vui mừng khi trông thấy ngôi sao. Và rồi khi đến nơi cần đến, họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Cô Maria, và họ liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Các ông này thành kính quá, con mắt đức tin của họ “sáng” quá, thế nên họ mới tin nhận Hài Nhi Giêsu là Ánh Sáng Thật, là Thiên Chúa Thật. Đúng vậy, Hài Nhi Giêsu chính là Vị Cứu Tinh duy nhất của nhân loại chúng ta.
Cuối cùng, Thánh Mát-thêu cho biết rõ ràng: “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.” (Mt 2:12) Cách mô tả đơn giản nhưng vẫn cho thấy sự khôn ngoan và sự mau mắn của mấy nhà chiêm tinh khi họ tuân theo gợi ý của Chúa. Hê-rô-đê mưu mô, nhưng các nhà chiêm tinh vẫn có đủ mưu lược để đối phó.
Lạy Thiên Chúa, xin mở con mắt đức tin để chúng con có được tầm nhìn tâm linh đúng Thánh Ý Ngài, để chúng con có thể nhận ra Ngài nơi tha nhân, nhất là nơi những con người hèn mọn nhất. Xin giúp chúng con thanh lọc tâm trí để thanh sạch từ trong tư tưởng, không nhiễm độc ác ý như Hê-rô-đê, để chúng con đủ miễn nhiễm với sự dữ và được gặp Chúa nơi Hang Đá của cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Hài Đồng, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
CÂU HỎI GỢI Ý
1-. Đâu là bối cảnh văn chương của trình thuật này. Mt muốn song đối chúa Giêsu với ai trong Tin Mừng thời thơ ấu của ông?
2-. Cộng đoàn sơ khai có đã vấn đề về xuất xứ, dòng dõi của Chúa Giêsu không? Xem Ga 7,40-42.
3-. Mt trích dẫn sấm ngôn Mica 5 với ít nhiễu thay đổi. Thay đổi này có lợi điểm gì và dụng ý thần học nào?
4-. Mt và Lc, ai trong hai tác giả giúp ta xác định chắc hơn ngày giờ giáng sinh của Chúa Giêsu?
5-. Truyền thống nói gì về con số, danh tánh, địa vị, xuất xứ của các đạo sĩ? Những quyết đoán như thế dựa trên cơ sở nào?
6-. Niềm hy vọng một vì vua xuất thân từ xứ Giuđê phải chăng chỉ phổ biến trong Thánh Kinh và tại Palestin?
7-. Phải chăng ngôi sao là một hiện tượng thiên văn? Là hình ảnh văn chương nói về ánh sáng chiếu dọi trong ngôi nhà chào đời của một vĩ nhân? Là ánh quang thường đi theo các cuộc thần hiện? Hay nó liên hệ với một cái gì khác?
8-. Đối với Mt, lễ vật của các đạo sĩ có ý nghĩa biểu tượng như truyền thống đã hiểu không?
CHÚ GIẢI
Nếu tách riêng gia phả (Mt 1, 1-17) là một thứ nhập đề ra thì Tin Mừng thời thơ ấu trong Mt gồm có năm giai thoại được trình bày quy chiếu với 5 bản văn Cựu ước: việc hoài thai Chúa Kitô cách đồng trinh (Is 7,14), cuộc kính bái của các đạo sĩ (Mca 5, 1-3), việc trốn sang Ai-cập (Hs 11, 1), cuộc tàn sát hài nhi vô tội (Gr 31, 15) và việc trở về Nadarét với câu trích dẫn bí ẩn bảo là lấy từ sách ngôn sứ: “Người sẽ được gọi là Nazarêô”).
Vì ở chỗ khác, Mt cũng gộp các lời của Chúa Kitô thành 5 bài giảng dài có cùng một công thức kết luận (“Và xảy ra là khi Chúa Giêsu đã nói xong các lời này, thì … ” 7,28 ; 11, 1 ; 13, 53; 19, 1 ; 26, 1), nên có kẻ phỏng đoán tác giả Tin Mừng thứ nhất đã chủ ý bắt chước tác giả Ngũ thư.
Hơn nữa, người ta đã khám phá được nhiều trùng hợp giữa thời thơ ấu của Chúa Giêsu theo như Mt kể, với thời thơ ấu của Môisen trong sách xuất hành và văn chương Midrash (văn chương chú giải Cựu ước của các giáo sĩ Do thái. Chú thích của người dịch). Việc chào đời của hai vị cứu tinh Israel được loan báo do một giấc mộng (Mt 1, 20). Trong các huyền thoại liên quan tài Môisen, việc mặc khải trong giấc mộng được xảy ra cho Pharaon (Targum Giêrusalem (tên gọi bản dịch Cựu ước sang tiếng Aram sau thời lưu đày), Sử ký Môisen), cho Myriam (Sử ký Môisen), cho amram (Josèphe) và do một sấm ngôn (Mt 1, 22: Sử ký MS, Josèphe). Cái tin chào đời ấy gây nỗi lo sợ cho Hêrôđê và triều đình một bên, cho Pharaon và thần dân bên khác (Mt 2, 3: Sử ký Môisen, Josèphe). Như Hêrôđê hỏi ý kiến các ký lục, Pharaon cũng bàn bạc với các nhà chiêm tinh (Mt 2, 4: Josèphe, Sử ký Môisen, Targum Giêrusalem). Cả hai bạo chúa đều ra một sắc lệnh tàn sát trẻ thơ, nhưng hai đứa bé họ muốn giết lại thoát khỏi cách lạ lùng (Mt 2, 16- 18; Josèphe, Sử ký Môisen, Targum Giêrusalem). Trong cả hai trường hợp, nhà giải phóng tương lai, sau khi trốn khỏi quê hương, được trời loan báo là có thể về lại quê nhà vì “những kẻ tìm hại tính mạng hài nhi đã chết” (Mt 2,20; Xh 4,19).
Chính trong bối cảnh văn chương ấy, hiển nhiên đầy tính cách giả tạo mặc dầu có ý -nghĩa thần học sâu xa, mà ta phải đặt trình thuật các đạo sĩ kính bái Chúa Hài đồng (Mt 2, 1-12).
TẠI BÊLEM XỨ GIUĐÊ
Các Tin Mừng thời thơ ấu (Mt 1 -2 và Lc 1 -2) không ngừng quả quyết Chúa Kitô thuộc dòng dõi Đavít và đã sinh tại Bêlem.
a- Dầu gia phả theo Lc 3,23-38 thế nào chăng nữa, thì ý nghĩa của nó về điểm này quá rõ ràng, và Mt 1 , 1 cũng nói minh nhiên: “Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, Con Đavít, con Abraham”: Thế nhưng ta cần thêm các chứng từ minh bạch khác. Chẳng hạn Giuse được trình bày như kẻ “thuộc nhà Đavít” (Lc 1, 38), “thuộc nhà và dòng họ Đavít” (2,4). Dacaria tung hô quyền lực cứu độ mà Chúa đã cho dấy lên “trong nhà Đavít” (1, 69). Sau cùng, thiên sứ loan báo cho Maria biết Giavê ban cho trẻ sắp sinh “ngai báu Đavít tổ tiên Người” (1, 32).
Suốt cuộc đời công khai, Chúa Giêsu cũng thường được kêu cầu như con Đavít bởi những người mù thành Giêricô (Mt 20, 30 ; Lc 18,35), bởi thiếu phụ xứ Cana (Mt 15,22), bởi đám đông ngày lễ lá (Ml 2 1 ,9. 15 ; Mc 11, 10) và lúc chữa lành người câm bị quỷ ám (Mt 12, 23 ; x. Cv 13, 23 ; Rm 1, 3 ; 2 Tm 2, 8 ; Dt 7, 13tt).
b- Sự kiện sinh ra tại Bêlem có liên hệ chặt chẽ với việc Chúa Giêsu thuộc dòng dõi Đavít. Chính tác giả của Lc 2 đã giải thích như thế: Giuse và Maria phải về thành Bêlem là do yêu cầu đăng ký hộ khẩu tại nguyên quán. Lời thiên sứ loan báo việc sinh hạ ấy cho mục đồng cũng nhấn mạnh rõ ràng Cứu Chúa đã chào đời “trong thành Đavít” (Lc 2, 11). Mt thì chỉ xác nhận sự kiện, mà các thượng tế và ký lục trong dân đều biết rằng đã được ngôn sứ Mi-ca tiên báo (cc. 5- 6).
Và mặc dầu người ta không còn tìm thấy đâu khác trong Tân ước một lời khẳng định liên quan đến việc Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem, niềm tin của cộng đoàn sơ khai về điểm đó vẫn không nhiễm chút nghi ngờ. Tin Mừng thứ 4 có lần tóm tắt thành quả rao giảng của Chúa Giêsu dịp lễ Lều Trại như sau:
“Trong dân chúng, có người nghe các điều ấy thì nói \: “Hẳn thật Ngài là Đấng Ngôn sứ”. Kẻ khác rằng: “Người là Chúa Kitô”. Nhưng có kẻ lại bảo: “Dễ chừng Chúa Kitô đến từ Galilê sao? Kinh Thánh lại đã không nói là: Chúa Kitô thuộc dòng giống Đavít và đến từ Bêlem làng quê Đavít đó ư?” (Ga 7, 40-42).
Giả sứ đã có một vài do dự về điểm này giữa các Kitô hữu, thì không lẽ nào Giavê ghi lại mà chẳng cải chính các luận điệu giải thích đó, những lợi giải thích xem ra chẳng biết rằng Chúa Giêsu thật sự thuộc nhà Đavít và đã sinh hạ tại Bêlem.
SẤM NGÔN CỦA MICA
Đúng y như thể văn đặc biệt của các chương đầu Mt, mà ta đã ghi nhận lúc nãy, giai thoại các đạo sĩ kính bái hoàn toàn được xây dựng chung quanh sấm ngôn của Mica (5, 1).
Nhà ngôn sứ, đương thời với Isaia, dã mô tả trong 4, 11- 13 các mưu đồ vô hiệu của chư dân (ở đây là Assiri) nhằm chống lại Sion. Từ câu 14 đến đầu chương 5, Mica hát mừng vinh quang tương lai của triều đại Đavít. Ông đối chiếu dáng nhỏ bé của Ephrata, nơi xuất thân một Đavít mới, với thành lũy Sion kiên cố vĩ đại (Bet Gader: 4,14):
Phần ngươi, hỡi (Bêlem) Ephrata,
nhỏ bé nhất trong hàng bộ lạc Giuđa,
chính tự nơi ngươi sẽ xuất hiện cho Ta
vị có mệnh thống lĩnh Israel;
nguồn gốc của Người lên đến thời xa xưa
lên tại những ngày thuở trước.
Vì vậy Giavê sẽ bỏ rơi chúng
cho đến ngày sinh nở người nữ phải sinh con.
Bấy giờ số sót anh em người sẽ trở về
với con cái Israel.
Người sẽ đứng lên, Người sẽ chăn dắt đoàn chiên Người.
Chúng sẽ được an cư, vì từ đây Người sẽ mở rộng uy quyền
cho đến tận cùng bờ cõi (Mca 5, 1- 3).
Việc đề cập đến “người nữ phải sinh con” và sự tương đồng hiển nhiên với sấm ngôn về Emmanuel (Is 7) đã đặt sấm ngôn này của Mica trong viễn tượng cánh chung luận thiên sai Đứng trước sự đe dọa của Assyri, nhà ngôn sứ an ủi dân chúng hãy hy vọng vào Đấng giải phóng tương lai thuộc nhà Đavít, Đấng mà ông mô tả là sẽ dựa xây một triều đại thanh bình, hùng mạnh và phổ quát.
Thánh Mt gán việc giải thích bản văn Mica theo ý nghĩa thiên sai và địa dư cho các thượng tế và ký lục: được Hêrôđê bàn hỏi, các ông này đã chỉ định thành Bêlem. Thật vậy, bản Targum hiểu đoạn văn này nói về Đấng Messia và Bêlem: Hỡi Bêlem Ephrata, quá nhỏ bé không đáng kể vào số thành có nghìn dân thuộc nhà Giuđa, chính từ ngươi sẽ xuất thân Đấng Messia thống trị trên nhà Israel, Đấng mà tánh danh đã được chỉ định từ nguyên thủy, từ những ngày xa xưa.
Và chính tại Bêlem thuộc Giuđa mà các truyền kỳ giáo sĩ được góp nhặt trong tập Berachoth (II,5) của Talmud Giêrusalem (bộ chú giải các bản văn pháp luật Ngũ thư) và trong tập cha Rabbatì (I,16) – cho rằng Đấng Messia sẽ chào đời.
Thánh Mt đưa vào bản văn Mica (c.6) một vài thay đổi hơi lạ lùng. Ephrata (Bêlem Ephrata) trở thành Giuđa (Bêlem, đất thuộc Giuđa), để phân biệt rõ hơn thành này với một thành khác trùng tên ở Galilê, trong chi tộc Dabulon. Còn hình dung từ nhỏ bị tác giả Tin Mừng minh nhiên phủ nhận. Như thế, câu trích dẫn của Mt có giải thích Mica ở đâu mà hai bản văn không trùng hợp nhau hoàn toàn. Mica đã nói Bêlem “quá nhỏ bé không đáng kể vào số các thành nghìn dân”, tuy nhiên Đấng Messia vẫn từ đó xuất hiện. Còn Mt lại bảo “Hẳn ngươi không phải là nhỏ nhất trong hàng bộ lạc Giuđa: vì tự ngươi sẽ xuất hiện …”. Làm vậy, ông đã giải thích cách chính xác ý nghĩa sấm ngôn của bản văn. Rồi, phần đuôi của câu trích dẫn (“kẻ sẽ chăn dắt Israel dân Ta”), mượn ở 2Sm 5, 2, nhấn mạnh tính cách đệ nhị Đavít, một tính cách tương hợp hoàn toàn với Đấng Messia thiên hạ mong chờ.
THỜI VUA HÊRÔĐÊ
Ngày giờ giáng sinh của Chúa Giê-su, mà ta không thể xác định dựa vào Luca (2, 1) vì những điểm mập mờ quanh vụ kiểm tra dân số của Quirinius, có thể ước tính dựa vào những chỉ dẫn của Matthêu.
Nhờ Josèphe, ta biết khá chắc rằng Hêrôđê mất vào khoảng lễ Vượt qua 750 kể từ ngày lập thành (Roma) (năm thứ 4 trước công nguyên) và năm đó, đại lễ trúng vào ngày 12 tháng 4 của chúng ta bây giờ. Như vậy, việc giáng sinh của Chúa Giêsu phải xảy ra trước thời biểu đó. Nhưng thuộc bao lâu?
Cái ấy còn tùy khoảng cách giữa lúc Chúa Giêsu sinh ra với lúc các đạo sĩ đến, và giữa lúc họ đến với khi nhà vua băng hà.
Thế mà Hêrôđê ngã bệnh nặng và rời hẳn Giêrusalem để đi Giêricô vào tháng 9 hay tháng 10- 749. Và vì Hêrôđê xem ra còn mạnh khỏe lúc các đạo sĩ đến Giêrusalem, nơi ông dĩ nhiên đang ở, nên phải bảo rằng họ đến đấy trước tháng 10 năm 749.
Ngoài ra, giữa lúc Chúa Giêsu chào đời và lúc các đạo sĩ đến, ta không thể đặt một khoảng thời gian dài hơn 2 năm (Mt 2,16) hoặc ngắn hơn 40 ngày. Quả vậy, 40 ngày sau khi Hài nhi sinh ra, mẹ Người đã đến trình diện tại Đền thờ để làm lễ tẩy uế (Lc 2, 22 ; Lv 12, 2- 8): chắc hẳn bà đã nghĩ rằng không nên làm việc này – với lại thực tế không có thời giờ – sau khi các đạo sĩ đã ra đi và Giuse đã nhận được lệnh trốn sang Ai-cập. Đàng khác, ta không thể đặt lễ tẩy uế sau lúc trở về từ Ai-cập vì như thế phải tính ít nhất là 6 hoặc 8 tháng giữa lúc Hêrôđê băng hà và lúc Arkhêlàô bắt đầu lên ngôi (Mt 2, 22).
Thành thử Chúa sinh ra trễ lắm là vào tháng 8 năm 749, có lẽ trước đó một chút. (Như vậy trong kỷ nguyên Kitô giáo, được Denys le Petit đặt ra, có tính trễ 4 hoặc 5 năm, vì ông này đã gọi năm 754 là năm 1 sau Chúa Kitô).
NHỮNG ĐẠO SĨ TỪ PHƯƠNG ĐÔNG ĐẾN
Chỉ dẫn ngắn ngủi này, mà thánh Mt cho rằng đầy đủ đối với độc giả của mình, đã tạo nên nhiều phỏng đoán trong truyền thống Kitô giáo về sau.
Các chứng từ cổ xưa nói rất khác nhau về con số các đạo sĩ. Đôi lúc 2 (bích họa trong ngôi mộ thánh Phêrô và thánh Marcellin tại Roma), 3 thạch mộ còn giữ tại bảo tàng viện Latran), 4 (nghĩa địa thánh nữ Domitille tại Roma) và ngay cả 8 (một bình cổ tại bảo tàng viện Kircheriano). Các truyền thống Syria và Amlênia thì tính tới 12. Tuy nhiên con số 3 ưu thắng hơn cả, có lẽ vì tương ứng với 3 phẩm vật vàng, nhũ hương, mộc dược, hoặc vì người ta lấy đó như là đại diện của 3 chủng tộc Sem, Cam, Giaphet.
Tên của họ, mà nay gọi là Melchior, Gaspar, Balthasar, xuất hiện lần đầu tiên trong một thủ sao vô danh tại ý thế kỷ thứ IX và trong một thủ sao tại Paris thế kỷ VII (dưới hình thức Bithisarea, Melichior và Guthaspa). Nhưng nhiều tác giả, thuộc những vùng khác, lại đưa ra những tên hoàn toàn khác biệt.
Địa vị vua chúa của họ, hoàn toàn thiếu nền tảng lịch sử hình như đã được gán ghép do một lối giải thích Tv 72, 10 quá theo mặt chữ: “Vua chúa Tarsis và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật Vua chúa Saba và Seba sẽ đem tiều cống lại chầu”. Tertullien, mà người ta thường trưng thế giá để bênh vực cho truyền thống này, không bảo họ là vua, nhưng “như vua chúa” (fere reges; Adv. Marcion 3,13 (PL 2,367). Xem Adv. Jud. 9 (PL 2,659). Chẳng bao giờ họ xuất hiện với những biểu hiệu vương quyền trong nghệ thuật Kitô giáo cổ thời cả, nhưng chỉ với một chiếc mũ kiểu Phrygie và ăn vận như các nhà quý tộc Ba tư.
Sự khác biệt chứng từ cũng gặp lại trong vấn đề xuất xứ của họ. Nhiều người cho rằng họ từ Ba tư đến, kẻ khác lại bảo từ Babylon, Ả-rập hoặc ngay cả Ai-cập và Ethiopie. Tuy nhiên, có lẽ về vấn đề này ta có bằng chứng xác thực hơn. Thật vậy, một chỉ dẫn lịch sử quý giá về thời Constantin đã xác nhận tính cách cổ xưa của truyền thống cho rằng các đạo sĩ xuất phát từ Ba Tư. Đó là một bức thư chung của công đồng Giêrusalem năm 836; bức thư thuật lại rằng năm 614, lúc binh sĩ Ba Tư của Cosroas II tàn phá tất cả các nơi thờ tự tại Palestine, họ đã tôn trọng giữ nguyên thánh đường Bêlem do Constantin xây, vì thầy bức tranh khảm đá ở mặt tiền trình bày các đạo sĩ ăn vận trông như người đồng hương của họ (x. H.Vincent và F.M.Abel, Bethléem, le sanetuaire de la Nativité, Paria, Gabalda, 1914, tr. 128).
Nếu phải thừa nhận rằng các đạo sĩ trong Tin Mừng là người Ba Tư, thì ta có thể đưa thêm một điều nữa, liên quan đến địa vị của họ. Các đạo sĩ Ba Tư, từ khởi thủy, chẳng liên hệ gì với các tay ảo thuật gia Ai Cập, các chiêm tinh gia Canđê, hay cách chung với những kẻ làm nghề phù thủy cả. Trong sách Catha và Avesta – kinh thánh của Nhị nguyên giáo Ba Tư (Mazdéisme) – magavan và mogu có nghĩa là “người dự phần vào ân huệ ” (= học thuyết nhị nguyên giáo) và tương đương với nhung kẻ theo giáo lý của Zarathustra”. Theo Herodote (Histoire I, 101), họ là một trong những chi tộc trước kia ở vùng Médie, cùng với thời gian, làm thành một giai cấp tư tế chuyên việc phụng thờ Ahura Mazda; trong giai cấp này, học thuyết nhị nguyên đã được giữ gìn khá tinh tuyền. Tất cả các đạo sĩ chẳng phải là tư tế, nhưng mọi tư tế đều phải thuộc về chi tộc này. Đó là một giai cấp hiền nhân, có ảnh hưởng lớn trên các hoàng đế Assyri, Canđê và Mêđi. Trong số các sĩ quan đi theo Nabuchodonosor khi ông chiếm thành Giêrusalem, Gr 39, 3.13 có kể tên một Sereser nào đó vốn là Rab-Mag, nghĩa là Thủ lãnh các Đạo sĩ.
Tôn giáo của Zarathustra cho thấy có nhiều điểm tương đồng lý thú với tôn giáo Môisen và cụ thể hơn với niềm hy vọng thiên sai của Cựa ước. Zarathustra đã dạy rằng có hai nguyên lý vĩnh cửu (Ahura Mazda, nguyên lý thiện, và Anra Mainyu, nguyên lý ác); giữa hai bên có một cuộc chiến trường kỳ nhằm tranh ngôi bá chủ thế giới, một cuộc chiến sẽ chấm dứt với chiến thắng vĩnh viễn của thiện trên ác. Chiến thắng ấy được thành tựu đặc biệt nhờ một Đồng minh – saushyant – Đấng sẽ là “chân lý nhập thể” và sẽ sinh ra bởi một trinh nữ “mà chẳng người đàn ông nào đã đụng đến”.
Ý niệm Đồng minh ấy dĩ nhiên có sau thời Zarathustra, vốn sống vào thế kỷ VI trước Chúa Kitô. Thành ra nó có thể là hậu quả phát sinh do ảnh hưởng của những niềm hy vọng và tư tưởng tôn giáo nơi dân tộc Do thái khi họ bị lưu đày tại Babylon. Nhưng, ngay trong giả thuyết ít chắc chắn hơn cho rằng ý niệm ấy – tàn dư của mặc khải nguyên thủy – có trước những cuộc liên lạc với người Do thái, thì nỗi mong chờ vị Đồng minh đó cũng đã có thể đồng hóa với niềm hy vọng thiên sai. Do đấy, người ta đã có thể cho rằng Đấng Messia- Đồng minh sẽ là một ông vua Do thái.
VUA DÂN DO THÁI
“Vua dân Do thái mới sinh hiện ở đâu?” (c.2). Câu hỏi ấy, được các đạo sĩ phương Đông lặp đi lặp lại trên các ngã đường chật hẹp của Giêrusalem, hẳn vang dội bên tai người Do thái như một lời châm biếm chua cay tàn bạo. Và người ta hiểu rằng nó gây bối rối cho ông vua Hêrôđê đa nghi.
Tuy nhiên, sự kiện họ loan báo đã nằm giữa lòng hy vọng của dân tộc Hy bá, một niềm hy vọng vốn đã được gieo rắc rộng rãi bên ngoài biên giới địa dư xứ Palestine. Thánh Kinh, được dịch sang Hy Ngữ 2 thế kỷ trước Chúa Kitô, đã phổ biến trong thân thế giới niềm hy vọng về một vì vua sẽ đến từ Giuđê. Các sử gia Rôma viết về cuộc chiến tranh Do thái năm 70 đã cho biết niềm tin mù quáng của người Giuđê vào các sấm ngôn đó là nguyên nhân chủ yếu khiến họ cuồng nhiệt đấu tranh. Chính các sử gia này cũng tin, nhưng cho rằng sấm ngôn ấy đã được Vespasien và Titus hoàn thành. Tacite viết:
“Lắm người tin tưởng vào điều đã được phán trong sách xưa của các tư tế, cho rằng vào thời này Đông Phương sẽ nắm chủ quyền, và nhiều kẻ đến từ Giuđê sẽ thống trị thế giới. Các sấm ngôn ấy chỉ về Vespasien và Titus. Thế nhưng đám bình dân, theo dục vọng thông thường của con người ưa giải thích hạnh phúc đoan hứa ấy trong chiều hướng thuận lợi cho mình, lại đã không chịu tin vào thực tế, ngay cả với bằng chứng của nghịch cảnh ” (Hist. 5, 13).
Còn Suétone thì bảo:
“Trong toàn cõi Đông Phương có lan truyền một niềm tin xa xưa cho rằng nhiều kẻ xuất thân từ Giuđê sẽ thống trị thế giới Người Do thái, vì giải thích sấm ngôn theo chiều hướng thuận lợi cho họ, đã nổi loạn đứng lên. Thật ra sấm ngôn này quy clúếu hoàng đế Rôma” (Vespasien). (Vespas… 4. Sử gia và tư tế do thái Flavius Josèphe cũng nói tương tự: F.J. 6,54).
Câu hỏi của các đạo sĩ nằm đúng trong chiều hướng của niềm tin phổ biến khắp Đông Phương này vậy.
NGÔI SAO
Đây là yếu tố siêu phàm của trình thuật. Các đạo sĩ lên đường bởi vì “đã thấy ngôi sao của Người mọc lên” (c.2).
Phải tuyệt đối gạt bỏ mọi lối đồng hóa ngôi sao này với một hiện tượng tự nhiên nào đó. Việc giao hội giữa Mộc tinh với Thổ tinh, như Képler đã nghĩ, hoặc sự xuất hiện của một sao chổi đều không phù hợp với tính thuật Mt chút nào. Đấy là một ngôi sao họ đã thấy bên Đông Phương, nhưng rồi không hiện ra nữa cho tới Giêrusalem. Một ngôi sao mà, từ Giêrusalem đến Bêlem, di chuyển dần theo hành trình của họ, và dừng lại trên ngôi nhà có Hài nhi (c.9). Nếu chấp nhận lịch sử tính chính xác của Mt cho đến trong chi tiết, thì nhất định phải thừa nhận tính cách ngoại nhiên của vì sao này.
Ngược lại, nếu cùng với vài người công nhận, mà không động tới một phán quyết dứt khoát của Giáo Hội, rằng ta đang đứng trước một yếu tố giải thích (élément midrashique) đã được đưa vào với một chủ ý giáo huấn, thì nguyên việc hiểu biết chủ ý ay của tác giả đủ dẫn đến một lối giải thích thần học chính xác về bản văn. Trong mọi trường hợp, việc nghiên cứu yếu tố này của trình thuật được kể là quan trọng nhất.
Phải nói ngay rằng ngôi sao của các đạo sĩ chẳng ăn nhập gì với hình ảnh văn chương về ánh sáng chiếu dọi trong ngôi nhà chào đời của một vĩ nhân. Thành ra đó không phải là thứ hiện tượng đã xảy đến lúc Môisen sinh hạ (x. Sota 12; Rabbah Ex. v.v…). Ta lại càng không nên đối chiếu sự kiện này với hiện tượng ánh sáng mặt trời tăng lên 48 lần ngày Isaac sinh ra (x. Pesiqtha Rabbathi 42. Lời được gán cho giáo sĩ Chanina ben Lêvi: “Ngày Isaac sinh ra, Thiên Chúa đã tăng ánh sáng mặt trời lên 48 lần so với ánh sáng thông thường”), hay với hiện tượng ánh sáng thường đi theo các cuộc thần hiển hay thiên sứ xuất hiện. Sau cùng, ở đây không nên nghĩ đến những điềm thiên văn đã đưa tới những quyết nghị tiêu trừ con trẻ tại Rôma, như Suétone đã làm chứng (x. chương 94 trong Vita Augustini và chương 36 trong Vita Neronis).
Ngược lại, đem đồng hóa ngôi sao của các đạo sĩ với ánh sáng thiên sai Isaia loan báo, như một vài người đã làm, thì tự nhiên hơn: Nhà ngôn sứ đã loan báo thế này:
Dân đi trong tăm tối
đã thấy một ánh sáng lớn;
trên những kẻ ở xứ âm u
một ánh sáng đã rạng ngời …
Vì một trẻ đã sinh ra cho ta,
một con trai được ban xuống cho ta,
vai Người đỡ lấy quyền bính. (Is 9, 1. 5; x.60, 1- 6).
Hiển nhiên bản văn này nói đến ánh sáng theo nghĩa ẩn dụ Đề tài ánh sáng thiên sai, nằm đầy trong văn chương Cựu ước chính lục cũng như ngoại thư, đã đóng một vai trò quan trọng trong hai trình thuật Tin Mừng về thời thơ ấu của Chúa Kitô. Nhưng trong ấy ánh sáng đó bao giờ cũng đồng hóa với Đấng Messia. “Nói cách khách ngôi sao Giacóp mà Balaam đã từng tiên báo hình như luôn luôn được nhân cách hóa (Ds 24,17). Nó không bao giờ là một hiện tượng không khí, như trong trường hợp của các đạo sĩ. Giáo sĩ Aqiba áp dụng bản văn Ds 24,17 này vào Bar Koseba (một thủ lãnh kháng chiến Do thái trong cuộc nổi loạn năm 132-135. Tên của ông có nghĩa là “con của ngôi sao”. Chú thích của người dịch). Di chúc 12 tổ phụ, trong hai dịp, đã xem ngôi sao mà người ta nói đến trong sách Dân số – đúng là một ngôi sao, mặc dầu được so sánh với mặt trời – như là chính con người Đấng Messia (x. Test. Lêvi 18, 3: PG 2,1067 và Test.Juda 24, 1 : PG 2, 1083). Đối với các tu sĩ Qumrân, thì chính vị Tôn sư công lý (mai tre de la Justice) là người hoàn thành sấm ngôn Balaam. (x. Tài liệu Damas, cột VII dòng 18- 21).
Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng có một tương quan giữa giai thoại ngôi sao và sấm ngôn Balaam.
Các sấm ngôn thời danh (Ds 22, 1- 24, 25) của ông thầy bói Đông phương này, được vua Moab triệu tới để chúc dữ cho Israel (Ds 23,7), chỉ có thể hiểu được nếu ta biết quan tâm đến văn thể riêng của các thầy bói, một văn thể mô tả các biến cố tương lai với những từ ngữ chiêm tinh học rút từ nhận xét, quan sát về Hoàng đạo (Zodiaque: vòng tròn có 12 công nằm 12 chòm sao mà mặt trời như phải xoay quanh trong vòng 12 tháng). Những sấm ngôn Balaam chắc chắn có liên hệ với những lời chúc phúc của Giacóp (St 49), vốn cũng thuộc về văn chương chiêm tinh của các thầy bói.
Lời Giacóp chúc lành cho Ruben mở đầu bầng câu: “Con là con đầu lòng của ta và tinh hoa khí lực của ta, có thừa kiên dũng, có thừa uy năng; sôi sục như nước …” (St 49, 3- 4); câu này làm ta liên tưởng đến chòm sao Aquarius (chòm sao Bảo mình trong Hoàng đạo) mà tên trong tiếng Babylon gu-la có nghĩa là khổng lồ và thường được trình bày như người vác một thùng nước có hai vòi chảy ra.
Lời chúc lành cho Giuse với những ám chỉ về bò mộng, cung tên, quyền mục tử Israel làm ta liên tưởng tới các chòm sao Kim ngưu, sao Rua, sao Liệp hộ.
Nhưng nhất là lời chúc lành cho Giuđa mà phần đầu buộc ta nghĩ’ đến chòm sao Sư tử:
Giuđa là một sư tử con;
Phanh xong mồi sống, con lại đi lên, hỡi con;
nó thu mình, nó phục xuống như sư tử đực,
tựa sư tử cái: nào ai bắt nó dậy được?
Phủ việt sẽ không rời khỏi Giuđa
và quyền trượng khỏi giữa chân nó
cho đến khi nào lâm trào đấng nắm vương trượng,
Đấng muôn dân bái phục vâng lời (St 49, 9- 10).
“Những lời trên rõ ràng hứa đế vị cho dòng dõi Giuđa, không nghi ngờ được, Enciso viết. Nhưng dòng dõi ấy được mô tả dưới hình dạng chòm sao Sư tử. Vũ trụ học Assyri đã biết tới chòm sao này dưới tên Ur-gu-la có nghĩa là sư tử cái; và phía bắc của chòm sao có một sao khác người ta thường gọi là Leo minor, trong tiếng Assyri là Urmah hay sư tử đực. Thế của con vật trong chòm sao đã phát sinh thành ngữ: nằm như sư tử đực và sư tử cái (St 49,9). Và có lẽ chính cái vị trí cao hơn của sao Leo minor đã là nguồn gốc của công thức: “Hỡi Giuđa, con của sư tử phanh xong mồi sống, con lại đi lên, hỡi con”. Trong ngực của sư tử có ngôi sao Regulus, mà người thời xưa đã từng gọi là vua. Có lẽ ngôi sao này được ám chỉ qua hình ảnh vương trượng mà Giuđa lúc ngồi kẹp giữa hai chân” (x. Encisoviana, La estrella de Jesus, trong Por leo senderos de la Biblia. Madrid-buenos Aires (Editions Studium), 1957, t.II, tr. 157).
Trong sấm ngôn Balaam có quy tụ 3 lời Giacóp tiên đoán về Ruben, Giuse và Giuđa với những biểu hiệu tinh tú của họ: vua, vương trượng, bò mộng, sư tử, thùng nước, mũi tên:
Giavê Thiên Chúa của nó hằng ở với nó
và nơi nó vọng lên tiếng hoan hô Vua cả.
Thiên Chúa đem nó ra khỏi Ai Cập.
Đối với nó, Ngài tựa như thể sừng trâu.
Này một dân chỗm dậy như sư tử cái
vươn mình lên như sư tử đực:
nó sẽ không nằm trước lúc say mồi:
và uống cho đã huyết người nó giết (Ds 23, 21-22. 24)
Nó thu mình, nó nằm xuống
như sư tử đực, tựa sư tử cái:
ai nào bắt nó dậy được (Ds 24, 9).
Tôi thấy một điều – nhưng không phải cho lúc này,
Tôi ngắm một sự – nhưng không phải gần bên:
Một ngôi sao, tự Giacóp, trở thành thủ lĩnh,
một vương trượng nổi lên, tự Israel.
Người đập vào màng tang Moab… (Ds 24,17)
(sư tử, vương trượng, ngôi sao sẽ gặp lại trong các hình ảnh biểu tượng của Khải huyền 5, 5; 2, 26- 28).
Từ những điều vừa nói, ta thấy các lời chúc lành của Giacóp và tiên tri của Balaam đều thuộc một loại thể văn: thể văn các điềm triệu tương quan với Hoàng đạo. Nhưng trong tư tưởng chiêm tinh đông phương, vương quyền và sao đi song song với nhau trong chòm sao sư tử, hay đúng hơn trong ngôi sao chiếu giá lòng chòm sao ấy, ngôi sao người ta biết đến dưới cái tên Regulus. Điều này giải thích tại sao các đạo sĩ – là những người có lẽ biết rõ những lời tiên đoán của Giacóp và Balaam – lại tự nhiên nói về ngôi sao của vua dân Do thái, như thể một điều ai ai cũng rõ.
Giai thoại của các đạo sĩ như vậy cống hiến cho ta một bằng chứng nữa về sự quan phòng ân cần của Thiên Chúa, Đấng thích ứng với bẩm tính khuynh hướng riêng của những kẻ Ngài muốn cứu độ. Đối với mục đồng là hạng người đơn sơ, sẵn sàng chấp nhận dễ dàng cái siêu nhiên, Ngài phái vài thiên sứ đến loan báo cho họ biết Chúa Giêsu đã chào đời. Ngài kêu mời các giáo sĩ tại Giêrusalem, vốn chăm chăm chú chú vào mặt chữ của lề luật, hãy nghiêng mình khảo cứu những sấm ngôn tiên báo ngày Ngài xuất hiện, và điều đó nhân câu hỏi các đạo sĩ đặt ra. Ngài thức tỉnh lương tâm của Hêrôđê, con người dửng dưng trước vấn đề tôn giáo nhưng lại mẫn cảm trước nguy cơ mất vương quyền, bằng cách cho ông biết cái tin ông lo sợ, tin tức về một vì vua Do thái sinh bên ngoài lâu đài của ông. Sau cùng, đối với các đạo sĩ đang trông chờ sự xuất hiện của đấng Messia-Đồng minh, Đấng mà cuộc đời, theo họ, gắn liền với vận hành của một vì sao, Ngài cho xảy ra hiện tượng lạ lùng ấy, hiện tượng mà các người có óc khoa học sẽ vô vọng tìm cách khám phá bản chất. Thật vậy, hiện tượng đó đâu phải là đối tượng của những định luật thiên văn khô khan, cứng nhắc, song là đối tượng của định luật thần thiêng, khôn tả của tình yêu ân cần của Thiên Chúa.
VÀNG, NHŨ HƯƠNG VÀ MỘC DƯỢC
Giai thoại các đạo sĩ kết thúc với việc họ kính bái Hài nhi: Họ thấy Hài nhi cùng Maria mẹ Người (c. 11).
Kể ra lạ lùng khi sách thánh (St 3,15; Is 7; Mca 5) cũng như các truyền kỳ giáo sĩ liên quan tới việc sinh hạ Đấng Messia chỉ chú trọng đến mẹ Người mà bỏ quên ông cha. M.J. Lagrange nhấn mạnh: “Tuy nhiên nếu do đó mà kết luận có sinh hạ đồng trinh thì thật là gượng ép. Do thái giáo rất lúng lúng khi gọi tên cha Đấng Messia; dễ dàng hơn khi nói úp úp mở mở đến mẹ của Người mà gia phả xem ra không mấy quan trọng bằng.”
“Và họ phục mình xuống yết bái Người; đoạn mở tráp báu, họ dâng Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược” (c. 11)
Câu này làm ta nhớ lại cuộc viếng thăm linh đình trọng thể của nữ hoàng Saba đối với vua Salomon và những lễ phẩm xa hoa của bà:
“Bà mang đến Giêrusalem vô số của cải, lạc đà tải hương trầm, vàng khối cùng ngọc quý … Bà đã dâng cho vua một trăm hai mươi tạ vàng, một số lượng hương trầm lớn và nhiều ngọc quý … ; người ta chưa hề thấy có hương trầm nhiều như hương trầm nữ hoàng Saba đã dâng cho vua Salomon” (1V 10, 2. 10 ; x.2 Sk 9, 1 .9).
Vẻ xa hoa tráng lệ quá khứ ấy là một điềm triệu cho thời thiên sai. Còn hơn Giêrusalem của Salomon, Giêrusalem thiên sai sẽ thấy tuôn về mình vô số của cải chư dân, dăc biệt của cải miền Saba:
Dân Saba hết thảy kéo lại,
họ tải đến vàng với trầm hương
và cao rao những lời ngợi khen Giavê (Is 60,6).
Quy tụ về Giêrusalem, những của cải ấy sẽ được mang đến dâng cho vua thiên sai, Salomon mới, Đấng trổi vượt vinh quang hơn tổ tiên mình.
Vua chúa Tarsis và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật
Vua chúa Saba và Sêba sẽ đem triều cống lại chầu;
Vâng, hết thảy vua chúa sẽ bái lạy Người,
tất cả muôn dân sẽ làm tôi Người …
Người sẽ thọ, và thiên hạ hiến cho Người vàng Seba
(Tv 72, 10- 11. 15).
Chắc chắn là với thần học ám chỉ Cựu ước của ông, Mt coi việc tiến dâng của các đạo sĩ như là dấu hoàn thành các sấm ngôn thiên sai. Về phương diện ấy, chi tiết các của lễ không quan trọng bằng ý nghĩa của chúng. Sách các Vua nói đến hương liệu, vàng, ngọc quý; Isaia vàng và nhũ hương; còn Mt vàng, nhũ hướng và mộc dược.
Mộc dược này làm ta nghĩ đến mộc dược Nicôđêmô sẽ dùng để xức xác Chúa Giêsu (Ga 19, 39). Bởi đấy trong truyền thống đã phát xuất cách giải thích biểu tượng, như ta thấy nơi thánh Irênê (Adv. haer. 3, 9, 2 : PG 7, 870) và trong câu thơ tóm tắt thời danh của Juvencus: thuở, aurum, mynham, regique, hominique, deo que dong tèrunt.
Là kế tử của các người ngoại đầu tiên được mời đến chiêm bái Đấng Messia mới sinh, chúng ta không nên thừa nhận cách lạnh lùng tước hiệu Messia của Người. Việc tôn thờ của ta còn phải kèm theo của lễ quảng đại là tất cả con người chúng ta.
(Bài của Salvator Munoz Iglesias, Assemblées du Seigneur 12)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1-. Thế giới còn chìm trong tối tăm. Nhiều người đã lên đường đi tìm một Cứu Chúa, hoặc một Giêsu nào đó mà họ có lần nghe nói. Giáo Hội chúng ta, xưa nay hãnh diện về sứ mệnh phổ quát của mình, có thể mặc khải Chúa Kitô cho họ không?
2-. Các đạo sĩ đã gặp một hài nhi trần trụi nghèo nàn: Tại Giêrusalem, Thành vinh quang, hình như chẳng có gì. Chúa Kitô chỉ tỏ mình dưới những dấu hiệu khiêm tốn. Không có gì ở Giêrusalem bởi vì tại đó thiếu vắng đức tin. Còn trong Giáo Hội chúng ta thì sao? Đức tin chúng ta có đủ để tỏ bày Cứu Chúa cho trần gian không?
3-. Để chống lại việc Thiên Chúa tỏ uy quyền dưới hình dáng một trẻ thơ, có một ông vua ích kỷ và tàn bạo, đó là Hêrôđê. Vì không am hiểu Kinh Thánh, ông tưởng rằng chỉ cần dùng biện pháp điều tra, âm mưu, bạo lực là đủ để bẻ gãy được dự định của Chúa Quan phòng đang đe dọa ông; nhưng ông sẽ bị các đạo sĩ chơi xỏ, bị Thiên Chúa vạch trần âm mưu và rồi bị loại khỏi lịch sử. Ông không thể nào ngăn cản Chúa Giêsu chiến thắng và hiển trị. Thời đại này vẫn có những hạng Hêrôđê tương tự, nhưng bàn tay Thiên Chúa bao giờ cũng mạnh hơn. Đó là niềm xác tín và hy vọng của Kitô hữu.
4-. Chư dân đáp lại tiếng kêu mời của Thiên Chúa, Đấng dùng ngôi sao triệu tập họ, dùng các bản văn ngôn sứ soi sáng họ và giữ gìn họ khỏi vô tình phản bội Ngài. Sứ mệnh của họ không phải là lui lại Do thái giáo lỗi thời, nhưng là trở về ngã khác bằng con đường Giao ước mới.
5-. Ngày xưa các đạo sĩ đến với Chúa Kitô từ những vùng xa xôi sâu thẳm. Ngày nay mọi dân tộc đều có Chúa Kitô ở giữa mình, nhờ Giáo Hội và Thánh Thể, cho dù chung quanh họ còn nhiều miền đất lương dân. Cuộc du hành Chúa đòi họ không phải là đi ra khỏi biên giới để đến Thánh địa, nhưng là quảng đại đón nhận mọi chân lý đức tin.
6-. Vàng dâng cho Vua, trầm hương cho Tư tế, mộc dược cho Thân xác hy sinh. Vàng của đức tin, trầm hương của đức cậy mộc dược của đức mến. Vàng của việc lành, trầm hương của lời cầu nguyện, mộc dược của hy sinh.
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Ngày lễ hôm nay được gọi là “Lễ Hiển linh”. Tên gọi này có nghĩa “Chúa tỏ mình”, “Chúa hiện ra” hoặc Chúa tỏa sáng vinh quang của Ngài cho mọi người thấy. Một chủ đề được nhấn mạnh trong các Bài đọc Lời Chúa, nhất là Bài đọc I trích sách ngôn sứ Isaia, đó là ánh sáng. Đây không phải là ánh sáng mặt trời, mà là ánh vinh quang của Chúa. Ngài tỏ bày vinh quang của Ngài cho muôn dân được thấy. Khi tỏ ánh sáng cho muôn dân, Chúa muốn chúng ta đón nhận ánh sáng đó, và đến lượt mình, trở nên ánh sáng như những vì sao tỏa rạng trong giữa trần gian.
Chủ đề “Ánh sáng” cũng đã được nhắc tới trong thánh lễ Đêm Giáng sinh. Chúa Giêsu sinh hạ, như ánh sáng bừng lên giữa đêm tối. “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Đám người sống lầm than trong đêm tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1). Đức Giêsu là trung gian của lịch sử. Những ai đón nhận Người là đón nhận ánh sáng. Những ai tuân giữ giáo huấn của Người là can đảm chấp nhận thoát ra khỏi bóng tối của ích kỷ, để sống chan hòa yêu thương. Vì lý do này, mà ngày sinh nhật của Đức Giêsu được cử hành vào ngày 25-12 dương lịch hằng năm, thay thế vào ngày lễ kính thần mặt trời của người La mã cổ xưa. Cũng nhằm mục đích tôn vinh Đức Giêsu là ánh sáng thế gian, mà truyền thống của Giáo Hội từ xa xưa vẫn cử hành thánh lễ Giáng sinh vào lúc nửa đêm.
Với sự kiện “Hiển linh”, Đức Giêsu tỏ mình cho dân ngoại. Ba nhà đạo sĩ là những người đại diện cho mọi dân tộc đang thành tâm tìm kiếm chân lý. Các ông đã theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ, bỏ quê hương xứ sở, lên đường tìm cho bằng được vị vua mới sinh. Lý trí và trái tim mách bảo các ông, Hài nhi mới sinh là Thiên Chúa làm người. Các ông đã sấp mình cung kính thờ lạy.
Khi mừng lễ Lễ Hiển linh, Giáo Hội khẳng định với chúng ta: Đức Giêsu là Ánh sáng chiếu soi trần gian. Người cũng là Đấng Cứu độ muôn dân. Cái chết của Người trên thập giá đã đem ơn hòa giải cho mọi người, mọi nơi, mọi thời. Giáo Hội hôm nay tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu, trở nên ánh sáng muôn dân để đem cho nhân loại ơn cứu rỗi. “Ánh sáng muôn dân – Lumen Gentium” là tựa đề một văn kiện quan trọng của Công đồng Vatican II, tức là Hiến chế tín lý về Giáo Hội. Qua văn kiện này, Giáo Hội giới thiệu với thế giới hôm nay bản chất và sứ mạng của mình, đó là trở nên ánh sáng giữa đời, như Đức Giêsu, đồng thời, dẫn đưa mọi người về với Thiên Chúa, là nguồn sáng đích thực. Tự bản chất, Giáo Hội không có khả năng tỏa sáng. Ánh sáng mà Giáo Hội có được, là ánh sáng đến từ Đức Kitô, vì Giáo Hội là thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô.
Trước Công nguyên khoảng 700 năm, ngôn sứ Isaia đã loan báo: vào thời Chúa can thiệp, Giêrusalem sẽ tỏa sáng huy hoàng. Muôn dân sẽ quy hướng về thánh đô. Mọi nguồn phong phú cũng tuôn đổ về đó. Giêrusalem chính là hình ảnh của Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa bao gồm mọi nền văn hóa, mọi chủng tộc, mọi quốc gia. Đức Giêsu được tôn vinh trong mọi nền văn hóa, mọi quốc gia. Ngày sinh của Người cũng được cả thế giới nhắc đến và đón chào, như biểu tượng của hòa bình và hòa giải các dân tộc. Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Trong Đức Kitô, các dân ngoại cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Bài đọc II).
Nhờ bí tích Thanh tẩy, mỗi chúng ta được chia sẻ ánh sáng của Đức Kitô. Cây nến vị linh mục chủ sự nghi thức Thanh tẩy trao cho chúng ta, đã nói lên điều ấy. Vị chủ sự căn dặn chúng ta: Con hãy nhận lấy ánh sáng Đức Kitô. Hãy sống như con cái sự sáng. Hãy giữ tâm hồn mình thánh thiện cho đến ngày ra trước tòa Chúa trong ngày sau hết. Sứ mạng của người tín hữu là trở nên ánh sáng giữa cuộc đời. Chúa Giêsu đã tuyên bố “Tôi là ánh sáng trần gian” (Ga 8,12), đồng thời Người cũng nói với chúng ta: “Các con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14). Qua những lời này, Chúa muốn chúng ta nên giống như Người và cùng chung một sứ mạng với Người. Đây không phải là ánh sáng trí tuệ, cũng không phải là ánh sáng khôn ngoan theo kiểu người đời, nhưng là sự thánh thiện, bao dung nhân hậu và kiến tạo hòa bình. Nhiều người có thói quen than vãn trước những bất công, gian dối, lừa lọc và đau khổ, nhưng lại chẳng làm gì để giảm bớt những điều xấu trong xã hội xung quanh. Người Kitô hữu, thay vì hằn học than vãn, hãy cố gắng thắp lên những ngọn nến trong đêm, hy vọng phần nào xua tan lạnh lẽo, của cuộc đời. Những ngọn nến ấy là lương tâm ngày thẳng, lòng nhân hậu bao dung, tình liên đới bác ái, thiện chí sống hài hòa. Như ánh sao ngày xưa đã dẫn các đạo sĩ đến thờ lạy Chúa, mỗi chúng ta hãy cố gắng để trở nên ánh sáng trong cuộc đời, qua những nghĩa cử tốt lành, để nhờ đó, nhiều người nhận ra chúng ta là con của Cha trên trời, và họ cùng với chúng ta đến thờ lạy tôn vinh Thiên Chúa.
.
Gm. Giuse Vũ Duy Thống
(LÀM NỤ HOA TRẮNG – Trg. 13)
Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính của những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng chỉ biết bàn ra.
Nhưng giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất dài và rất xa ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến đi với những đặc tính tiêu biểu:
1) Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem “triều bái Vua dân Do Thái mới sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng được: Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ là những người thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.
Khởi điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Tương tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên Chúa dành cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên đường khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ hành.
2) Niềm tin: một chuyến đi biết chấp nhận những thử thách
Là hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp không ngơi nghỉ của con người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những thử luyện được xem là những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ là chuyện “thức lâu mới biết đêm dài” để con người chứng minh sức bền tin tưởng tháng năm, mà còn là chuyện “lửa thử vàng gian nan thử đức” trong những lúc Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc “ba Vua toan mất hướng, ánh sao bỗng vụt lặn”. Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm mưu chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm chí còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư trong dân.
Đêm Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó của Iran chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa thành phố. Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an mà tại Bêlem chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se lòng.
Thử thách đối với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những thử thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin không thử thách: niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào.
3) Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm tin không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng hành, không chỉ vì lý do “càng đông càng vui” mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con người thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện buông mình chịu khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương nhau quá trời đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo “Đạo yêu nhau”, tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
“Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ nhau, nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn sát thê lương, “giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”. Con đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước.
Giống như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại, dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình của Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng thời, giống như hình ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm nay: ở bước truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
.
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
- Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
- Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Có một anh mù đến nhà cậu bạn chơi. Khi trời tối, anh muốn về nhà, người bạn liền thắp một chiếc đèn lồng, đưa cho anh rồi bảo: “Ngoài trời tối rồi, anh cầm cái đèn này đi cho sáng nhé”.
Anh mù nghe vậy tức giận nói: “Sao cậu lại nói vậy. Rõ ràng ai cũng biết tôi bị mù. Tôi cầm đèn lồng để soi đường không phải để người đời cười nhạo sao?”.
Người bạn nhẹ nhàng giải thích: “Anh hiểu lầm ý của tôi. Vì tôi nghĩ giờ này rất nhiều người cũng đi trên đường. Anh cầm đèn lồng, người khác có thể nhìn thấy anh, vì vậy sẽ không thể đụng vào anh được”.
Anh mù nghĩ một lát rồi nói: “Ừ, cậu nói có lý. Cảm ơn nhé! Tôi về đây”.
Hóa ra thắp đèn sáng không hẳn cho mình mà còn cho người khác. Ở đâu đó trong một góc khuất có ánh đèn sáng sẽ làm cho khách bộ hành an tâm. Ở đâu đó có ngọn hải đăng sẽ làm cho người đi biển biết hướng về bình an.
Nếu hiểu rằng mỗi người là một ánh sao thì cuộc đời chúng ta cũng cần được thắp lên để mang lại bình an hạnh phúc cho tha nhân. Ở tuổi thiếu niên chúng ta vẫn hát với nhau về một niềm mơ ước rằng:
“Đếm ánh sao đêm tôi gọi người,
Hồng xanh xanh hồng xanh xám xanh.
Ngôi sao xanh chính là anh đó,
Ngôi sao vàng đó của chị đây.
Không có ngôi sao nào là ngôi sao đen.”
Chúng ta mơ ước mình là một ánh sao. Ánh sao thì có đủ màu. Ánh sao thì luôn tỏa sáng. Không bao giờ có ánh sao đen. Nếu ý thức mình là những vì sao trên trời, chúng ta phải sống cuộc sống của những vì sao: thoải mái trong một không gian mênh mông và chiếu tỏa ánh sáng ra chung quanh tùy theo sức sáng mình có. Đất đáthì sống cuộc đời chật hẹp, tăm tối, kèn cựa nhau, nhưng những vì sao thì sống thanh thoát, vừa thi đua tỏa sáng vừa tôn trọng sự sáng của nhau.
Hành trình Ba Vua đến gặp hài nhi Giê-su cũng cần một ánh sao dẫn lối. Tuy hành trình cũng có lúc bế tắc vì không có ánh sao nhưng với sự kiên nhẫn họ đã vượt qua. Họ từng lần mò trong thành phố nhưng chỉ gặp những người chỉ đường đầy toan tính, vụ lợi. Họ thất vọng vì giữa thủ đô lại thiếu một ánh sao thanh thoát tô thêm vẻ đẹp cho bầu trời. Nhưng họ không bỏ cuộc. Họ tiếp tục lần mò trong bóng đêm của thế giới đầy tội ác. Và rồi sự kiên trì đã được đền đáp. Ánh sao lại xuất hiện dẫn họ đến triều bái Hài Nhi mới giáng sinh nơi hang đá Belem.
Cuộc đời hôm nay vẫn có những người đang đi tìm chân lý, tìm lẽ sống. Có rất nhiều người đang mong mỏi có một ánh sao dẫn lối đưa đường cho họ. Họ cần nơi người tín hữu hãy sống thanh thoát như những vì sao không bon chen ngụp lặn trong bóng tối tham lam, ghen ghét, lừa đảo. Họ cần người tín hữu tỏa sáng giữa bầu trời ích kỷ này một ánh sáng bác ái vị tha.
Vâng giữa một thế giới mà bóng tối của thù hận, ghen ghét, tham lam, lừa đảo và hưởng thụ thì rất cần một ánh sao sáng giúp con người biết nhìn nhận nhau là anh em để rồi biết sống kính trọng và yêu thương nhau hơn. Giữa một thế giới đang khao khát gương sáng cũng đòi hỏi người ky-tô hữu hãy tỏa sáng phúc âm để mang tình yêu và hy vọng cho nhân gian.
Ước gì từng người chúng ta hãy trở thành ánh sao sáng để xóa tan bóng đêm của tội lỗi. Xin đừng vì ích kỷ và đam mê mà dập tắt ánh sáng tình thương nơi họa ảnh Thiên Chúa là con người chúng ta. Amen.
.
Lm Giacobe Tạ Chúc
Một lối gọi bình dân cho ngày lễ hôm nay: Lễ Hiển Linh, hay lễ ba vua, lễ Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại. Theo Thánh Ma-thê-o, đây là ba nhà thông thái, đạo hạnh, làm nghề chiêm tinh. Họ thấy có ánh sao lạ xuất hiện. Lập tức, các nhà đạo sỹ cất công lên đường để đi tìm Hài Nhi vừa mới sinh ra.
Một hành trình mạo hiểm, và không ít nguy nan. Họ lên đường, cất công đi, băng rừng vượt suối, và sẵn sàng đón nhận bao hiểm nguy đang rình rập. Có một chút gì đó rọi chiếu vào tận sâu trong tâm hồn. Theo Thánh sử Ma-thê-ô, ba nhà đạo sỹ này, xuất thân từ những con người sáng giá, thế giá, họ giàu có, và là những người dân ngoại thuộc những miền đất xa xôi. Theo Thánh Luca thì, khi Chúa sinh ra, Thiên Thần báo tin cho những mục đồng, những con người nghèo khổ và khiêm nhu. Hai cách diễn tả cho thấy, rõ ràng Tin mừng trong ngày lễ hôm nay, muốn giới thiệu mầu nhiệm nhập thể, cách phổ quát hơn, không chỉ đóng khung trong con cái thuộc dân được tuyển chọn, mà Ngôi Lời nhập thể đã đi đến với những vùng ngoại biên, điển hình là ba nhà đạo sỹ. Một hành trình dài và vất vả, ánh sao lúc ẩn lúc hiện, như dòng đời lắm lúc đục trong. Những bước chân mỏi mòn theo thời gian, nhiệt huyết của những nhà đạo sỹ cũng gặp lắm những trái ngang, và cay nghiệt. Đành tạm dừng chân ở Giê-ru-sa-lem, và họ dò hỏi Vua Hê-rô-đê: “Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?”. Bí quá thì đành liều, họ đâu biết lòng dạ của ông vua này, kinh thành một phen húa vía, một cuộc hội nghị nhanh chóng được xác lập. Và theo lời Tiên tri Mi-kê-a (TK 8 TCN), thì tại Bê-lem, một làng nhỏ trong đất Giu-đê-a, là nơi hạ sinh của Đấng Cứu Thế. Sau những lời căn dặn hết sức chu đáo của Hê-rô-đê, họ tiếp tục cho một hành trình hơn 9 cây số ở phía trước. Dấu chỉ ánh sao lúc này lại xuất hiện, ba nhà đạo sỹ cứ thế từng bước theo ánh sao đi đến thờ lạy Chúa Hài Đồng.
Cuộc ra đi của các nhà đạo sỹ có điều gì đó nhắc nhở cuộc Xuất hành ra khỏi đất Ai-cập của dân Do thái. Bốn mươi năm cũng những lần ra đi, tìm về miền đất hứa, họ ra đi mà dòng lệ trào tuôn rơi. Hay cũng giống như hành trình đức tin của Tổ phụ Ab-ra-ham, Thiên Chúa gọi ông và sai ông đi, đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết Thiên Chúa là Đấng trung tín và luôn giữ lời hứa. Đi tìm Chúa, là một nổ lực không bao giờ yên nghỉ. Nếu như, các đạo sỹ không cất công lên đường, thì sẽ chẳng có những giây phút sung sướng, đến nghẹn ngào khi họ gặp thấy Hài Nhi và thân mẫu là Đức Maria. Tìm thì sẽ gặp, và gõ thì sẽ mở cho, đáp lại những tấm chân tình của các vị khách lặn lội từ những nơi xa xôi hẻo lánh, Thiên Chúa đã cho họ gặp thấy Chúa, qua dấu chỉ của ánh sao, qua lời Chúa từ trong thánh kinh, mà các nhà đạo sỹ đã truy tầm.
Lạy Chúa, chúng con tìm Chúa từ rạng đông cho đến lúc hôn hoàng, chính đức tin dẫn lối chúng con đi, mặc dù những đêm đen như chẳng còn đèn, những khi bình minh, nhưng bị che phủ bởi những áng mây đen. Xin cho mỗi tâm hồn luôn được chiếu rọi bởi những vì sao, và cũng xin ơn Thánh gạn đục khơi trong, cho con mắt thể xác và tâm hồn, để chúng con tìm đến thờ lạy Chúa, và tiến dâng lên, những lễ vật : Vàng, Nhũ hương, Mộc dược, tượng trưng cho niềm tin của mỗi người trong chúng con, Amen.
.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Hiển Linh thường được hiểu là Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại. Đấng tỏ bày cũng là Đấng tự biểu lộ ra cho con người, cho con người được biết Người là ai? Và cho con người tham dự vào mầu nhiệm Thiên Chúa.
Trong trình thuật với Môi sê:
Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao? “14 Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Người phán: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.” (Xh 3, 13 – 14)
Danh là người, cho biết danh là cho biết người. Cho biết danh còn là bày tỏ ước muốn thiết lập tương quan: một tương quan nhận biết người để gọi tên, một tương quan để đối thoại và xa hơn nữa là một tương quan sống thân tình với nhau.
Thiên Chúa ngỏ lới với nhân loại, Thiên Chúa muốn thiết lập một tương quan với con người, không chỉ là tương quan để gọi tên, cũng không chỉ là để đối thoại, nhưng Người còn đi xa hơn nữa làm cho bạn bất ngờ: Người muốn ngỏ lời sống thân tình với bạn.
Thiên Chúa đã đi bước trước trong Tình Yêu của Người để ngỏ lời với bạn. Khi Môisê hỏi về Danh Xưng của Thiên Chúa, Môisê xin biết danh xưng ấy để dân của ông có thể kêu cầu và ông có thể nói Người là ai cho họ. Thiên Chúa đi xa hơn ước muốn của ông, cũng như của nhân loại, Người muốn sống thân tình với con người, chung chia hạnh phúc cũng như chia sẻ đắng cay với con người. Dường như trong tình Yêu Thiên Chúa đã đi quá xa làm cho con người bất ngờ, con người chỉ dám xin được biết Người là ai để gọi Danh kêu cầu, Người lại muốn cùng đi với con người.
Trong sự kiện truyền tin.
Một lần nữa sứ thần Gabriel giới thiệu về Thiên Chúa làm người với danh xưng Giêsu: “Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su” (Lc 1, 30).
Thiên Chúa tự thông ban chính mình, chính nhờ việc thông ban chính mình, con người mới có thể đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lễ Ba Vua biểu trưng cho việc nhân loại đến tìm gặp Chúa qua chỉ dẫn của lý trí và nhờ gặp Chúa mới có thể tiếp cận chân lý vẹn toàn.
Tại Bêlem, thật bất ngờ cho Môisê và cho toàn thể nhân loại, Người đã nhẹ nhàng đến trước cửa nhà bạn, gõ cửa, và chờ đợi bạn mở cửa. Tình yêu ấy bất ngờ hơn thế nữa, khi Người chấp nhận bạn ngay cả khi bạn từ khước không mở cửa, con người có thể khước từ Tình Yêu Thiên Chúa và Thiên Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho con người.
Lịch sử chối từ ấy đã diễn ra trong lịch sử của nhân loại. Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa, Lời mạc khải cuối cùng, trọn vẹn và dứt khoát đã chịu đóng đinh trên Thập Giá, chết như một người tử tội. Quyền năng thể hiện bằng tha thứ, và tha thứ cho đến cùng.
Thiên Chúa đã ngỏ Lời và đang đứng đợi, nếu bạn nhận ra Người để gọi Người, như Đức Giêsu đã dạy gọi lên :”Abba” Cha ơi, bạn đang là người hạnh phúc. Hạnh phúc ngay cả những lúc bạn sống chưa xứng đáng làm con, bởi vì Người đã đón nhận bạn từ muôn thưở, khi bạn chưa biết Người, chưa gọi Danh Người và đang khi chống lại Người. Người đang chờ đợi bạn.
Mở lòng ra như mở bảo tráp của tâm hồn mình: Vàng – Mộc dược – Nhũ hương, tất cả chỉ đến lòng tin – cậy – mến. Dâng tất cả cho Hài Nhi Giêsu, để được tiếp nhận Người là Đấng tự biểu lộ, trong con người thật và là Thiên Chúa thật.
Danh xưng Người ngỏ cho bạn là Danh Xưng vượt trên hết mọi danh xưng mà bạn có thể khám phá và gặp gỡ. Như khi mặc khải cho Môisê Danh Người là “Giavê”, Thiên Chúa muốn ngỏ lời mời gọi ông và dân tộc của ông đi vào huyền nhiệm của Người. Bạn cũng được Thiên Chúa mời gọi đi vào huyền nhiệm Thiên Chúa ở giữa loài người là Chúa Giêsu.
.
HÃY DÕI THEO VÌ SAO ĐẾN THỜ LẠY CHÚA
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ thứ II, Thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, Thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên Đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay. Trong khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Belem. Chính nơi đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ Phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dạo, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Belem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà.
Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà Ba Nhà Đạo sĩ là những đại diện.
“Epiphaino” có nghĩa là Thiên Chúa tự mặc khải trong nhân tính của Ðức Kitô, khiến người khác có thể trông thấy mình được được. Cụ thể như dùng ánh sao đêm biểu lộ cho Ba Ðạo Sĩ biết, dẫn họ lên đường đến nơi Hài Nhi vừa mới sinh để nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế. Nếu lễ Giáng Sinh người ta nêu bật sự dấu ẩn của Thiên Chúa trong sự khiêm hạ với điều kiện là người, trong Trẻ Thơ Belem. Thì trong lễ Hiển Linh lại nêu bật việc Thiên Chúa tự tỏ mình, xuất hiện qua chính nhân tính.
Việc các Ðạo Sĩ đến tôn thờ Chúa Hài Nhi đã sớm được nhìn nhận như là ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Isaia viết như sau: “Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên” (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.
Trong lễ Chúa Tỏ Mình, Giáo Hội đề nghị một văn bản rất ý nghĩa của ngôn sứ Isaia : ” Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.” (Is 66,1-3). Ðây là một lời mời hướng tới Giáo Hội Chúa Kitô và hướng tới từng người Kitô hữu, mời gọi chúng ta ý thức hơn về sứ mệnh và trách nhiệm truyền giáo của mình đối với thế giới trong việc làm chứng và chiếu sáng Tin Mừng khắp thế gian.
Trong số mở đầu Hiến chế về Giáo Hội có viết: “Ánh sáng muôn dân là chính Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội bằng việc rao truyền Phúc âm cho mọi tạo vật” (LG, 1). Tin Mừng là ánh sáng không được dấu đi, nhưng để trên giá. Giáo Hội không phải là ánh sáng, nhưng nhận Ánh Sáng Chúa Kitô, tiếp nhận để được soi chiếu, và phổ biến Ánh Sáng đó ra với tất cả sự rạng ngời của nó. Và đây là điều cũng phải xảy ra trong cuộc sống cá nhân…
Các thượng tế tại Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy, sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc Ba Nhà Đạo Sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nazareth mà nhân loại khát đang mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm : ” Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Ðức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng” (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô (Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại) , và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô sẽ cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.
Giáo Hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Ngài đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta hãy dõi theo ánh sao cùng ba nhà Đạo Sĩ đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người trong khiêm hạ và nghèo khó, nhất là đón nhận chính Hài Nhi ấy là Ánh Sáng và là Chúa Kitô vào trong chúng ta, để chúng ta có sống là sống chính sự sống của Người, và lấy các tâm tình, tư tưởmg và hành động của Người làm tâm tình, tư tưởng và hành động của chúng ta. Như thế, mừng Giáng Sinh là biểu lộ niềm vui, sự mới mẻ, ánh sáng mà biến cố Giáng Sinh này đã đem lại trong toàn cuộc sống chúng ta, để chúng ta cũng là những người đem niềm vui, sự mới mẻ đích thật, và ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Cuộc đời con người là một cuộc tìm kiếm không ngừng. Có nhiều thứ để tìm kiếm, chung quy lại chỉ là để mình cảm thấy hạnh phúc, thế nhưng có thể cả đời không tìm thấy, hoặc thấy loại này rồi lại tìm loại khác. Chắc hẳn các đạo sĩ cũng không ngoài mục đích đó, nhưng họ đã đạt được mục đích, và hạnh phúc của họ có thật, nhãn tiền: gặp được chính Đấng Cứu Thế.
Các chi tiết và các điểm khác biệt từ câu chuyện về ba đạo sĩ được dựa vào Phúc Âm thứ nhất – Tin Mừng theo Thánh sử Matthêu. Qua đó, chúng ta thấy có mấy điểm chính như sau:
– Họ là những người Ba Tư, đến từ vùng đất bán thần thoại Shir (liên quan Trung quốc cổ đại), họ có một cuộc hành trình dài.
– Có hàng chục đạo sĩ chứ không chỉ có ba người, và họ đã viếng thăm Hài Nhi Giêsu. Phúc Âm theo Thánh Matthêu không xác định số người, chỉ đề cập ba người tiến dâng lễ vật cho Hài Nhi Giêsu.
– Ba đạo sĩ được mô tả là hậu duệ của Seth, con trai thứ ba của Nguyên Tổ Adam. Theo quy ước, người ta đồng ý gọi tên của ba đạo sĩ là Balthasar, Gaspar và Melchior.
– Họ thuộc một giáo phái có niềm tin vào việc cầu nguyện thầm lặng. Họ đã chờ đợi rất lâu để có thể nhận thấy Ngôi Sao Lạ xuất hiện, và họ tin đó là dấu hiệu báo về một Thiên Tử.
Như vậy, họ không phải là vua chúa hoặc quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia, họ đến từ Đông phương xa lắc xa lơ, miệt mài đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường đến tận Belem để diện kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài. Lễ này ngày xưa gọi là lễ Ba Vua, ngày nay gọi là lễ Hiển Linh.
Qua Kinh Thánh, chúng ta biết rằng Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, làm người, ở giữa loài người, cùng chia sẻ mọi “nỗi đời” với thân phận phàm nhân của chúng ta. Quả thật, đó là “độc chiêu” mà Thiên Chúa đã sử dụng để tỏ mình ra cho muôn dân. Sự khiêm nhường tột cùng của Ngài dạy chúng ta phải cố gắng sống đơn sơ và giản dị.
Ba đạo sĩ đã kiên nhẫn chờ đợi và miệt mài đi tìm Đấng họ mong đợi – và họ gặp. Họ nhắc nhở chúng ta cũng phải kiên trì và nỗ lực vượt qua mọi gian khó mới có thể gặp được Thiên Chúa. Ngài chính là cùng đích và hạnh phúc đích thực đối với các Kitô hữu.
TÌM THIÊN TỬ
Đi theo ánh sao để làm gì? Tất nhiên là để gặp được chính Thiên Tử. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con, và giờ đây lời hứa đó đã ứng nghiệm: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).
Tất cả chúng ta là phàm nhân, ai cũng là tội nhân, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được chính Con Thiên Chúa đến tháo gỡ mọi gông cùm của tội lỗi, “vòng kim cô” của ma quỷ, và được phục hồi quyền làm con cái của Thiên Chúa, vì thế ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60:1-2).
Ôi, thật là diễm phúc biết bao! Tại sao? Bởi vì chúng ta không chỉ được giải thoát khỏi bóng tối tội lỗi và trở nên con cái Thiên Chúa, mà chúng ta còn được Ngài quan tâm, chăm sóc và nâng niu: “Con trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông” (Is 60:4). Và vì thế, chúng ta không thể không vui cười hớn hở, mặt mày rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, mừng như ngày hội và vui như tết.
Thật kỳ diệu, kỳ diệu tới mức nhiệm mầu, bởi vì Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem kia lại chính là Thái Tử của Thiên Hoàng, là Tân Vương Nhi. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:6). Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để phục vụ chứ không được ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32), Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19:9), và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào” (Ga 10:10). Cách làm của Vua Nghèo quá “ngược đời”, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí là không muốn hiểu! Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, như Ngài đã nói “toạc móng heo”: “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi” (Is 55:8).
Vương Nhi thuộc vương tộc Đa-vít, nhưng Ngài là Hàn Vương. Tuy nhiên, triều đại của Ngài lại “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72:7), để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” (Tv 72:11). Vương Nhi Giêsu là Vua của các vua, là Chúa của các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, luôn theo sát đồng bào, luôn tận tụy với đám dân nghèo, cương quyết bảo vệ công lý và chân lý – vì theo Ngài, chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát nhân loại (x. Ga 8:32). Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ” (Tv 72:12-13).
Từ Đông phương, các nhà hiền triết đã thấy Ánh Sao Lạ, họ biết ngay rằng có một “dị nhân” vừa xuất hiện, thế là họ không quản ngại đường xa hiểm trở, mau mắn và quyết tâm lên đường tìm cho ra “dị nhân” kia. Và ánh sao dẫn đường đã dừng lại trên một hang chiên lừa hẻo lánh bốc mùi hôi tanh. Điều kỳ lạ là họ đã tin Trẻ Thơ Giêsu là Đấng họ mong đợi, không hề thắc mắc hoặc nghi ngờ.
Nếu là chúng ta, chưa chắc chúng ta đã muốn bước chân vào, thậm chí có thể kéo nhau quay về cho nhanh, thậm chí có thể “chạy mất dép” chứ chẳng chơi đâu! Các đạo sĩ là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu có nữa. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô Chú “nhìn thấy thương”, nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu ngơ” chẳng biết ất giáp gì, có lẽ mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với “mắt chữ O, miệng chữ A”. Còn các đạo sĩ kia, họ vẫn không hề thất vọng, họ liền bước vào triều yết Hàn Vương và kính chào Hàn Phu Thê. Y như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện hoàn toàn có thật. Không chỉ tin và bái phục, họ còn dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã chuẩn bị và đem theo.
Ngày nay, chúng ta được dạy cho biết đó là mầu nhiệm, không thấy cảnh Hàn Gia lúc đó nên chúng ta đã tin. Giả sử chúng ta tận mắt chứng kiến thì chắc gì chúng ta tin Em Bé Giêsu kia chính là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm người. Như vậy là chúng ta may mắn lắm. Thánh Phaolô viết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô” (Ep 3:2-3). Thật đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ của Người” (Ep 3:5). Thánh Phaolô giải thích: “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:5-6).
Và một lần nữa, chúng ta lại thực sự may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, được nên “một thân thể” và “cùng chia sẻ” với Thiên Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều phải “xắn tay áo lên và hành động” một cách cụ thể chứ không nói suông.
THẤY THÁNH TỬ
Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể và nhập thế, tôn danh Ngài là Giêsu Kitô. Ngài là Thiên Vương, do đó Đức Maria trở thành Mẫu Hậu và Đức Thánh Giuse là Phụ Vương – mặc dù ngài là Dưỡng Phụ. Sắp lâm bồn mà tìm không ra chỗ trọ, Chồng đành đưa Vợ ra “cánh đồng hoang”, may còn có cái hang để chui vào. Không người thân thích, không ai giúp đỡ. Chồng vất vả lo cho Vợ từ A đến Z. Chồng không hề than thở, chỉ âm thầm hành động. Vợ sinh xong, được Mẹ tròn Con vuông là mừng lắm rồi. Sau đó lại được đám mục đồng ghé thăm, rồi thêm mấy đạo sĩ ghé thăm. Cũng đỡ tủi thân và được an ủi phần nào nơi đất khách quê người. Hạnh phúc giản dị mà tuyệt vời. Thế nhưng chuyện đời chưa hết, bộ phim mang tên “hành tình gian khổ” còn kéo dài nhiều tập…
Kinh Thánh cho biết thời đó đương triều của ác vương Hêrôđê. Ông được mấy nhà chiêm tinh vào hỏi thăm xem Đức Vua của dân Do Thái mới sinh hiện ở nơi nào. Họ còn cho biết rằng họ đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, và họ muốn đến bái lạy Người (Mt 2:1-2).
Nghe vậy, vua Hêrôđê tá hỏa tam tinh, choáng váng, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi nên liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời chính xác là tại Bêlem, miền Giuđê, và họ dẫn chứng sách ngôn sứ “nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen sẽ ra đời” (Mt 2:6). Vốn thâm độc, vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, phái họ đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2:8). Loài quỷ sứ mà mang cánh thiên thần. Giả hình rất tinh vi!
Các đạo sĩ nghe nhà vua nói thế thì an tâm ra đi, vốn dĩ chân thật nên họ không hề biết vua Hêrôđê “khẩu phật, tâm xà”, mưu mô và thâm độc, chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn năng” của mình thôi! Các đạo sĩ tiếp tục đi theo ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, dẫn đường họ đến tận nơi. Ngôi sao dừng lại, “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là cô Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (Mt 2:11). Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.
Hang đá Belem lúc đó chắc là rộn rã lắm. Sau khi “nựng” Bé Giêsu và trò chuyện với Song Thân của Bé, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Các đạo sĩ đã nỗ lực tìm gặp “dị nhân” Giêsu cho bằng được, gặp rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, họ tránh “ác nhân” Hêrôđê là cách hành động tích cực và sống tốt. Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” – như thế vẫn là tiêu cực, mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân.
Thiên Tử Giêsu không có nghĩa là “con trời” như các ông vua ngày xưa tự xưng hoặc những người mạo nhận (lập giáo phái này nọ…), mà Ngài là Thánh Tử của Thiên Chúa Cha. Có điều chắc chắn rằng bất cứ ai tin vào Ngài sẽ được cứu độ, và bất cứ ai noi gương các đạo sĩ mà thành tâm tha thiết tìm Thiên Tử thì thấy Thánh Tử.
Lạy Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, xin giúp chúng con luôn thể hiện lòng thành qua cách sống thường nhật, dù bình thường nhưng không tầm thường, không ngừng tìm kiếm Ngài và can đảm hành động vì sự thật. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn soi đường dẫn lối chúng con suốt hành trình trần thế, để chúng con sống đúng Tôn Ý Ngài trong từng hơi thở. Lạy Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, xin thương nguyện giúp cầu thay. Chúng con cầu xin nhân Danh Đấng Emmanuel, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thiên Chúa đã làm người, đã sinh ra trong hình hài một trẻ thơ, với cha mẹ là Giuse và Maria. Đó là Tin Mừng Giáng Sinh. Vĩnh cửu đã đi vào trong thời gian.Vô hạn đã trở thành hữu hạn.Trời đã nối với đất và đất đã gặp gỡ trời!
Sau các mục đồng Do thái, đến lượt các Đạo sĩ phương Đông được mạc khải về Chúa Hài Đồng Giêsu. Các đạo sĩ, có lẽ là các nhà Chiêm tinh học Babylon hoặc Ba Tư đã vất vả vượt đường xa, lặn lội tìm kiếm nơi Hài Nhi giáng sinh để bày tỏ lòng yêu mến đối với một Vị Vua của nhân loại vừa ra đời. Kiến thức uyên thâm cùng với lòng khao khát tìm kiếm đã thúc đẩy các vị, từ những phương hướng khác nhau, cùng đi tới trong một ý hướng để tiến dâng lễ vật với tấm lòng thành.
Ðức Cha Fulton Sheen đã gọi các mục đồng các đạo sĩ những người đơn sơ và những người thông thái.
Khi các mục đồng canh giữ chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì vẽ đẹp của thiên thần: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Ðấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Ðavit, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa” (Lc 2,10-12).
Còn các đạo sĩ ở bên kia xứ phương Đông, nghiên cứu bầu trời và thấy một ngôi sao lạ xuất hiện. Họ theo ánh sao tìm đến hang đá Bêlem gặp Hài Nhi: “Bấy giờ, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2,9-12).
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các mục đồng và các đạo sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Ðó là các mục đồng và các đạo sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các mục đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Ðêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Ðấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong hang đá Bêlem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Ðấng Chăn Chiên của họ
Các đạo sĩ tìm gặp Ðấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Ðối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba đạo sĩ làm cho họ lên đường khám phá. Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Ðối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các đạo sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Ðến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các đạo sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Ðạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng khôn ngoan.
Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc (Ðức Cha Bùi Tuần).
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri… nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hêrôđê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các mục đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các đạo sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.
Ðiều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các đạo sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.
Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Ðó là một cử chỉ khiêm nhường. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Ðấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, có lẽ các đạo sĩ ghen với các mục đồng vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Ðức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.
Các Thượng tế, các kinh sư thông hiểu Thánh kinh, họ cắt nghĩa cho Hêrôđê rất chính xác nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Ðấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ.
Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.
Phúc âm Luca nói đến người đơn sơ và người thông thái: “Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. – Cha đã trao cho Con mọi sự. Không ai biết Con là ai, ngoài Cha ra; cũng không ai biết Cha là Đấng nào, ngoài Con, và những người được Con muốn tỏ cho biết”. (Lc 10, 21-22). Chúa Giêsu ngợi khen Cha trên trời, vì đã giấu những bí ẩn của Người đối với kẻ thông thái mà lại tỏ ra cho ai đơn sơ. Xem ra có vẻ nghịch lý, nhưng điều này tỏ lộ sự khôn ngoan của Thiên Chúa.“Những người nhỏ bé, đơn sơ” là dấu hiệu cho thấy rõ ràng về việc cứu rỗi của Thiên Chúa.Những người đơn sơ theo Thánh Kinh là những người hiểu hơn ai hết tình cảnh của mình. Họ tìm Thiên Chúa với niềm phó thác và biết rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi một ai trong sự thất vọng. Tuy nhiên, nói như trên không có nghĩa là “những người khôn ngoan và thông thái” bị loại ra khỏi lối vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Điều mà “những con người khôn ngoan”cần phải biết là họ chỉ có thể hiểu được Thiên Chúa – Đấng Vô hình bắt đầu từ những gì đơn sơ nhất. Sự khôn ngoan, thông thái và niềm kiêu hãnh vì có “đầy kinh nghiệm cuộc sống” hay vì mãn nguyện với “thẩm quyền trí tuệ và thần học”đã ngăn cản nhiều người khám phá kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, kìm giữ bước chân họ trong “khung trời riêng”của mình mà không hội nhập vào sự năng động của ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang đến (x.donboscoviet.net).
Các đạo sĩ thông thái có đủ khiêm nhường để đến gặp gỡ và thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các mục đồng và đạo sĩ thật có phúc như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy bảo thật các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe” (Lc 10,24).
Thiên Chúa từ trời cao đã làm người trần thế và làm một Hài Nhi để ta có thể gặp được Ngài. Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã trở nên một trẻ thơ bọc tã, nằm trong máng cỏ, để cho ta có thể gần gũi Ngài. Lễ Giáng Sinh và lễ Hiển Linh chính là lễ hội những cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa đến với con người và con người nhận biết Ngài nơi Hài Nhi Giêsu. Chỉ có người đơn sơ và người thông thái với đức khiêm nhường mới gặp được Người.Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh kinh, qua Giáo hội, qua các Bí tích, qua cuộc sống hàng ngày. Ðể gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
.
Lm. Anthony Trung Thành
Trước Đức Giêsu 700 năm, tiên tri Isaia đã tiên báo rằng: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”(x. Is 9,1). Vào thời Đức Giêsu, Thánh Gioan Tông đồ lại nói về Người rằng: “Ở nơi Người vẫn có sự sống và sự sống là sự sáng của nhân loại, sự sáng chiếu soi trong u tối và u tối đã không tiếp nhận sự sáng”(Ga 1,4). Thánh Gioan còn cho biết thêm: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.”(x. Ga 1,9). Sau này, chính Đức Giêsu cũng đã khẳng định rằng: “Ta là sự sáng thế gian”(x. Ga 9,5). Như vậy, Đức Giêsu chính là Sự Sáng, là Ánh Sáng. Chính Ngài là niềm chờ mong của dân tộc Do thái cả hàng ngàn năm về trước. Nay sự xuất hiện của Ngài đã đáp ứng niềm hy vọng của họ. Ngài không chỉ đem ánh sáng đến cho dân tộc Do thái mà còn đem ánh sáng đến cho toàn thể nhân loại. Cụ thể, khi Ngài sinh ra, Ngài đem ánh sáng đến cho các mục đồng, đại diện cho những người nghèo. Họ được vinh dự nhận thấy ánh sáng. Ngài đem ánh sáng đến cho các nhà chiêm tinh bằng ngôi sao lạ xuất hiện từ phương trời đông phương. Các nhà chiêm tinh là đại diện cho các dân các nước. Ai cũng có quyền lợi được hưởng ánh sáng của Đức Giêsu. Bởi vì, những ai đón nhận thì được trở nên con Thiên Chúa. Thánh Gioan nói: “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” (x. Ga 1,12).
Chúng ta được đón nhận ánh sáng Đức Giêsu trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Trong nghi thức rửa tội cho người lớn, sau khi người đỡ đầu nhận lấy cây nến được thắp từ cây nến phục sinh, rồi trao cho người tân tòng, chủ sự mời gọi: “Ông (bà, anh, chị, em, con) đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô, ông (bà, anh, chị, em, con) hãy luôn sống như con cái sự sáng, để được bền vững trong Ðức Tin. Khi Chúa Kitô đến, ông (bà, anh, chị, em, con) xứng đáng ra nghinh đón Người với toàn thể các Thánh trên trời.” Còn trong nghi thức rửa tội cho trẻ nhỏ, chủ sự thắp nến từ cây nến phục sinh rồi trao cho cha mẹ hoặc người đỡ đầu và mời gọi: “Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô. Anh chị em là những bậc làm cha mẹ và người đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom, tức là lo lắng cho (các) trẻ nhỏ này đã được Chúa Kitô soi sáng, luôn luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong đức tin. Nhờ đó khi Chúa đến, chúng được ra nghinh đón Người với toàn thể các thánh trên trời.”
Sau ngọn nến của Bí tích Rửa tội, tùy từng lứa tuổi và điều kiện, người kitô hữu được lãnh nhận ánh sáng của Đức Giêsu qua các Bí tích khác, qua Lời Chúa, qua giáo huấn của Hội Thánh và qua đời sống cầu nguyện.
Nhưng chúng ta không chỉ đón nhận ánh sáng mà còn có nhiệm vụ phải thắp sáng để soi dẫn cho những người xung quanh. Đức Giêsu nói: “Chính các con là ánh sáng cho trần gian”(x. Mt 5,14). Ánh sáng đó phải được thắp lên và đặt trên đế cao để soi sáng cho những người khác. Ngài nói: “Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người ở trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”(x. Mt 5,15-16). Sau này, chính Thánh Phaolô cũng mời gọi các kitô hữu rằng: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời” (x. Pl 2,15).
Vậy, chúng ta hãy chiếu sáng những gì?
Nơi nào có oán ghét hận thù, chúng ta hãy đem ánh sáng tình thương; nơi nào có khinh khi nhục mạ, chúng ta hãy mang ánh sáng thứ tha; nơi nào có mâu thuẫn bất đồng, chúng ta hãy đem ánh sáng của sự hòa giải; nơi nào có giả dối sai lầm, chúng ta hãy đem ánh sáng chân lý; nơi nào có hoài nghi ngờ vực, chúng ta hãy đem ánh sáng đức tin; nơi nào có nản chí sờn lòng, chúng ta hãy gieo ánh sáng của niềm hy vọng; nơi nào có bóng tối mây mù, chúng ta hãy khơi nguồn ánh sáng; nơi nào có u sầu buồn bã, chúng ta hãy đem lại ánh sáng an vui. (x. Lời cầu, kinh sáng, Thứ 7, Tuần II).
Dù xã hội đầy dẫy bóng tối, chúng ta cũng không được nản chí, sờn lòng nhưng hãy mạnh dạn chiếu sáng, bắt đầu bằng những hành động nhỏ nhất. Có ai đó đã nói rằng: “Thà thắp sáng lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.”
Để kết thúc, chúng ta nghe câu chuyện ý nghĩa sau đây được Mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại : Ở Úc Châu có một người thổ dân (Aborigine) sống trong một hoàn cảnh thật thảm thương. Ông ta đã cao niên rồi. Từ bao năm tháng ông chỉ một thân một mình cô đơn trong túp lều tối tăm xiêu vẹo. Lần đầu tới thăm ông, tôi đề nghị:
– Ðể tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường chiếu lại cho ông.
Ông ta hờ hững nói:
– Tôi đã quen sống như vậy rồi.
Nhưng tôi bảo ông:
– Tuy vậy, ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.
Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ, đẹp nhưng phủ đầy bụi bẩn.
Tôi hỏi ông:
– Có bao giờ ông thắp đèn này không?
Ông ta trả lời với giọng chán ngán:
– Nhưng thắp đèn cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu. Tôi sống ở đây đã lâu rồi mà chẳng hề trông thấy một ai cả.
Tôi hỏi ông:
– Nếu như các nữ tu đến thăm ông thường xuyên, ông có bằng lòng thắp đèn lên không?
Ông vui vẻ đáp:
– Dĩ nhiên rồi.
Từ hôm đó, các nữ tu của chúng tôi quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Cũng từ đó, ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp căn lều cho sạch sẽ hơn.
Ông còn sống thêm hai năm nữa, Trước khi chết ông nhờ các nữ tu nhắn tin cho tôi, ông nói:
– Xin nhắn với mẹ Têrêsa bạn tôi rằng, ngọn đèn mà mẹ đã thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Ðó chỉ là một việc nhỏ, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã chiếu lên và vẫn còn tiếp tục sáng mãi.
Ước gì, hằng ngày chúng ta biết thắp lên những ngọn nến tương tự như vậy. Đó là những ngọn nến của tình thương, thứ tha, hòa giải, chân lý, đức tin, hy vọng và an vui. Để nhờ đó, ánh sáng Hiển Linh của Chúa đến được với mọi người. Amen.
.
THIÊN CHÚA TỎ LÒNG THƯƠNG DÂN NGOẠI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Một buổi trưa, các em lương dân thuộc các nhà trọ đến nhà thờ chơi chung với các em trong xứ. Đến giờ viếng Chúa, các em thiếu nhi vào nhà thờ, còn các em các tôn giáo bạn đứng ngoài cửa tò mò nhìn vào. Một em thiếu nhi hỏi : Thưa cha, mấy bạn này không có đạo, các bạn có được vào viếng Chúa không? Cha xứ trả lời : Các con phải mời các bạn vào với các con, vì các bạn ấy cũng là con của Chúa, và Chúa cũng là Chúa của các bạn ấy. Em thiếu nhi ngạc nhiên : Thật vậy hả cha?
Suy nghĩ của các em thiếu nhi cũng giống suy nghĩ của nhiều người có đạo và của người Do Thái xưa, họ nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ dành riêng cho người Do Thái hoặc cho người có đạo mà thôi, còn người khác bị loại ra ngoài.
Lễ Chúa Hiển Linh hôm nay cho thấy Thiên Chúa không hề giới hạn tình thương và ơn cứu độ của Ngài cho một dân nào hoặc một người nào. Thiên Chúa muốn tất cả mọi người, mọi dân đều nhận được ánh sáng Tin Mừng và tình thương cứu độ của Ngài. Câu chuyện các nhà đạo sĩ Phương Đông tìm đến với Hài Nhi Giêsu muốn nói lên điều đó. Đối với dân Do Thái, họ được các tổ phụ, các ngôn sứ loan báo từ rất lâu về Đấng Cứu Thế sẽ giáng trần. Còn với dân ngoại, Thiên Chúa lại dùng các dấu chỉ của vũ trụ thiên nhiên để dẫn họ đến với Chúa Giêsu và ơn cứu độ.
Thiên Chúa luôn để cho tình yêu của Ngài tuôn đổ trên người Do Thái cũng như dân ngoại. Tuy nhiên, chỉ những ai thành tâm thiện chí tìm kiếm Ngài và tin nơi Ngài, kẻ ấy mới có thể được gặp được Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ. Tin Mừng hôm nay thuật lại những phản ứng khác nhau của những người được nghe tin vui Giáng Sinh. Trước hết là vua Herode và các nhà thông thái, khi các nhà chiêm tinh đến hỏi : Vua người Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người bên phương Đông và chúng tôi đến triều bái Người. Nghe tin này, vua Herode và triều thần không vui, nhưng bối rối và lo lắng. Họ bối rối lo lắng vì họ sợ Hài nhi này sẽ trở thành kẻ tranh giành quyền lực, địa vị của họ, việc Vua người Do Thái hạ sinh là điều họ không mong đợi.
Nhà vua triệu tập các thượng tế và kinh sư để hỏi về nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh, những người này đã chỉ một cách chính xác lời Kinh Thánh : Tại Belem, đất Giuda. Tuy nhiên, cả nhà vua và các thượng tế, luật sĩ sau khi nghe biết về vị trí Đấng Kitô hạ sinh, họ không lên đường, không tìm kiếm, không quan tâm. Các thượng tế và luật sĩ nghĩ rằng, ơn cứu độ đương nhiên thuộc về dân Do Thái, vì thế, họ không cần cố gắng để tìm kiếm, khám phá. Các thượng tế và luật sĩ đã ở lì trong tình trạng khô khan, chai cứng của tâm hồn, khiến cho tin vui Giáng Sinh không lay động được tâm hồn họ. Còn vua Herode thì đón nhận tin mừng này với sự ghen tị vì sợ Đấng Cứu Thế sẽ giành chỗ của ông. Vì thế, ông đã lên một kế hoạch, một âm mưu đen tối để tìm cách loại trừ Đấng Cứu Thế ra khỏi thế giới.
Trái lại, các đạo sĩ là những người dân ngoại, họ có một thái độ thành tâm thiện chí bước vào hành trình tìm kiếm đức tin, tìm Đấng Cứu Thế. Những đạo sĩ này tuy không được sự chỉ dẫn rõ ràng của các ngôn sứ, nhưng họ đã dựa vào các dấu chỉ của thiên nhiên để nhận ra Thiên Chúa. Thánh Matthew cho thấy hành trình tìm kiếm của họ đã trải qua rất nhiều khó khăn, thử thách. Nhìn thấy ánh sao lạ xuất hiện, họ tin rằng một Quân Vương đã xuất hiện, họ đã dám bỏ lại tất cả : gia đình, nhà cửa ruộng vườn để lên đường. Họ ra đi cũng có những lúc phấn khởi hăng say, song cũng có những lúc dường như rơi vào tối tăm mù mịt, mất phương hướng, vì không thấy ánh sao dẫn đường. Những lúc như vậy, các đạo sĩ không buông xuôi thất vọng, nhưng đã dùng những phương thức tự nhiên để tìm kiếm Chúa, họ vào hỏi thăm nơi cung điện của Herode, vì nghĩ rằng : Vua thì phải được sinh ra trong cung điện.
Những lúc tăm tối, Thiên Chúa lại dùng ánh sao để khích lệ, nâng đỡ đức tin còn non yếu của họ, Ngài cũng từng bước thanh luyện đức tin và cái nhìn của họ về Đấng Cứu Thế. Các đạo sĩ đã thấy ngôi sao dừng lại nơi Hài Nhi ở, họ vui sướng vô cùng. Khi bước vào, điều họ nhìn thấy không phải là một cung điện sang trọng lộng lẫy, những con người mà họ gặp không phải là ông hoàng bà chúa, nhưng lại là một khung cảnh rất đỗi bình dị. Thấy Hài Nhi, họ liền sấp mình thờ lậy Người. Chi tiết này cho thấy một bước nhảy vọt trong đức tin của các đạo sĩ. Nếu như trước đây họ còn hình dung Vua người Do Thái sẽ là một hoàng tử giàu sang trong cung điện của Herode, thì nay họ chỉ thấy Hài nhi trong một khung cảnh nghèo nàn và đã sấp mình thờ lậy Người. Sấp mình thờ lậy là thái độ tin nhận, tôn thờ Hài Nhi như là một vị Thiên Chúa.
Thái độ tiếp theo, họ dâng cho Chúa những lễ vật là tài sản quý giá nhất : vàng, nhũ hương và mộc dược. Họ không còn giữ cho riêng mình điều gì, cũng không nghĩ gì đến hành trình trở về, họ không cần biết tương lai sẽ như thế nào. Tin Mừng ghi lại : Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình. Sau khi đã gặp được Đấng Cứu Thế, các đạo sĩ đã được biến đổi, họ tiếp nhận một tinh thần mới và con người mới. Họ không quay trở lại với con đường của thế gian và những mưu mô chính trị của Herode, nhưng đã quyết tâm để sống một lối sống mới và đi một con đường mới.
Câu chuyện Chúa tỏ mình cho các đạo sĩ cho thấy, Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Những ai thành tâm thiện chí tìm kiếm Chúa, sẽ được gặp Chúa và ai được gặp Chúa sẽ được Thiên Chúa biến đổi nên những con người mới. Thánh Phaolô cũng đã chia sẻ với cộng đoàn Epheso về tình thương đặc biệt Chúa đã ban cho ông và cộng đoàn, đó là được nhận biết Đức Giêsu và Tin Mừng của Người. Màu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí để mặc khải cho cho các tông đồ. Màu nhiệm đó chính là màu nhiệm Thiên Chúa ban cho dân ngoại được thừa hưởng ơn cứu độ cùng với người Do Thái. Thiên Chúa đưa dân ngoại về, để làm nên một dân và một thân thể của Chúa, cùng được chia sẻ gia nghiệp Nước Trời như Chúa đã hứa.
Đa số chúng ta là những người được biết Chúa từ truyền thống gia đình và chúng ta nghĩ rằng mình biết nhiều về Thiên Chúa và Tin Mừng của Ngài. Thực ra, nhiều tín hữu chỉ biết về Chúa Giêsu, chỉ nghe nói về Ngài, nhưng chưa bao giờ tìm kiếm Ngài và cũng chưa được gặp Ngài. Chúng ta an phận với một số điều giáo lý được học khi còn nhỏ, giống như các thượng tế và luật sĩ trong câu chuyện, mà không chú ý đến việc đào sâu khám phá và tìm kiếm đức tin của mình, không thiết tha để tìm gặp Thiên Chúa. Vì thế, đời sống đạo của chúng ta thiếu trưởng thành, thiếu hiểu biết về Thiên Chúa và nhất là, vì không tìm gặp Thiên Chúa, nên chúng ta không được biến đổi, không có một lối sống phù hợp.
Thiên Chúa muốn cho mọi dân được hưởng ơn cứu độ, Ngài muốn mỗi chúng ta trở thành ánh sao sáng để mọi người nhìn vào có thể nhận ra Thiên Chúa đang ở trong chúng ta, qua đời sống và hành động của chúng ta, sẽ dẫn họ đến gặp Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng đang muốn dùng mỗi gia đình, như là nơi chiếu tỏa lòng thương xót của Chúa cho các thành viên trong gia đình và cho mọi người chung quanh. Thế giới, xã hội ngày nay dường như dư thừa sự ác và bạo lực, nhưng lại thiếu thốn nghèo nàn lòng xót thương. Vì thế, mỗi người, mỗi gia đình Công giáo cần phải trở thành máng chuyển tình thương của Chúa cho anh chị em cách cụ thể, qua lời nói, việc làm yêu thương của chúng ta dành cho nhau. Chúng ta phải sống và cư xử với mọi người sao cho mọi người được cảm thấy an tâm, an toàn, được yêu thương, đón nhận và được cảm thông khi gặp gỡ, tiếp xúc và khi sống cùng với chúng ta.
Cầu chúc cho mỗi người trở thánh ánh sao của lòng thương xót Chúa chiếu tỏa cho những người chung quanh, đặc biệt các anh chị em lương dân, giúp họ nhận ra Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a hôm nay được vang lên như một thôi thúc, một lời mời gọi tha thiết, giục chúng ta phải toả sáng: “Hãy đứng lên, bừng sáng lên! … Kìa bóng tối bao trùm mặt đất và mây mù phủ lấp chư dân…” (Is 60,1-6).
Hôm xưa, Thiên Chúa đã nhờ ngôi sao lạ để soi đường dẫn lối cho các nhà chiêm tinh ngoại giáo đến thờ lạy Chúa hài nhi tại Bê-lem, thì hôm nay, Ngài cũng cậy nhờ chúng ta như những ánh sao Bê-lem mới để dẫn đưa muôn dân về với Chúa (Mát-thêu 2, 1-12). Chúa Giê-su dạy: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,14.16).
Thánh Phao-lô kêu gọi: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Philip 2,15).
Biết bao người còn đang chìm trong bóng tối, vì thế, trở nên một ngọn đèn, một ánh sao trong đêm tối là điều rất quan trọng.
Nếu chúng ta không thể là “ánh sáng cho trần gian” như lời Chúa Giê-su truyền dạy hoặc không thể là “ngôi sao trên vòm trời” như lời thánh Phao-lô mời gọi, thì ít nữa, chúng ta cũng phải là một “ngọn nến” nhỏ trong gia đình, trong khu xóm của chúng ta.
Cùng nhau thắp nến
Một ngọn nến nhỏ không toả sáng nhiều, nhưng nhiều ngọn nến dần dần được đốt lên sẽ làm sáng tỏ cả một không gian rộng lớn. Việc tốt của một người chưa có ảnh hưởng bao nhiêu, nhưng việc tốt của nhiều người sẽ mang lại ảnh hưởng lớn.
Trong đêm vọng phục sinh, sau nghi thức làm phép lửa và nến phục sinh, đang khi cả nhà thờ chìm trong bóng tối… ánh nến phục sinh trong tay linh mục chủ tế từ cuối nhà thờ từ từ tiến lên, tiến lên… Rồi ánh lửa này được thắp cho vài cây nến nhỏ của các em lễ sinh. Và các ngọn lửa từ tay lễ sinh lại truyền qua cho những người kế cận và cứ tiếp tục như thế. Thế rồi chỉ trong chốc lát, cả nhà thờ bừng sáng trước hàng trăm ngọn nến lung linh.
Nếu chúng ta để cho ánh lửa của yêu thương và việc tốt bừng cháy lên trong đời mình, rồi để cho lửa ấy tiếp tục lan sang những người kế cận… thì hy vọng một ngày không xa, cả phố phường làng mạc sẽ được bừng sáng.
Mỗi ngày làm một việc tốt
Hằng ngày, các phương tiện truyền thông như báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình… đề cập đến nhiều thứ “bóng tối” đang bao trùm xã hội. “Bóng tối” của khủng bố, của chiến tranh, bạo lực, của nạn buôn người, của ma tuý, mại dâm, của văn hoá đồi truỵ, của thực phẩm độc hại… Nhìn đâu cũng thấy tệ nạn. Đạo đức suy sụp, luân lý suy đồi…
Trước tình hình đó, người thì quy trách cho các nhà lãnh đạo yếu kém; người khác thì đổ lỗi cho thế lực này, cho tổ chức kia; người thì phê phán các cơ chế đã làm phát sinh những tệ nạn đó… Thế là người ta đua nhau nguyền rủa “bóng tối” mà không tìm cách thắp lên một ngọn đèn. Nếu ai cũng cứ ngồi nguyền rủa bóng tối mà chẳng ai chịu thắp đèn thì “bóng tối” ngày càng lan rộng, càng dày đặc thêm.
Tại sao chúng ta không quyết tâm thắp lên một “ngọn nến nhỏ” cho gia đình hay thôn xóm mình, thay vì ngồi khoanh tay nguyền rủa “bóng tối”? Mỗi người hãy thắp lên nơi mình một ngọn nến ngay từ ngày hôm nay.
Mỗi ngày hãy thắp ngọn nến của mình lên bằng cách làm một việc tốt, như mỉm cười chào hỏi người hàng xóm khó thương, ủi an người gặp khó khăn gian khổ, thăm người già yếu bệnh tật… Nay một việc tốt, mai một việc tốt, mỗi tháng có đến 30 việc tốt, mỗi năm có 365 việc tốt thì thật tuyệt vời!
Nếu chúng ta nhẫn nại thắp nến hằng ngày như thế, chắc chắn, bóng tối sẽ bị đẩy lùi, ánh sáng sẽ toả lan, gia đình và làng xóm sẽ an vui hạnh phúc.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp mỗi người chúng con quyết tâm làm một việc tốt mỗi ngày. Đó là bổn phận của người tín hữu vốn là ánh sáng trần gian. Đó là lễ vật cao đẹp mà Chúa ưa thích và chờ đợi nơi chúng con mỗi ngày. Đó cũng là ánh nến nhỏ mà chúng con cần phải thắp lên để đẩy lùi bóng tối đang bao phủ phố phường, thôn xóm chúng con.
Xin cho chúng con biết thắp lên một ngọn đèn còn hơn là nguyền rủa bóng tối.
.
John.W.Martens
Văn Hào, SDB chuyển ngữ
“Vua người Do Thái mới sinh ra ở đâu?”(Mt 2,2).
Mùa hè năm trước, gia đình tôi thực hiện một chuyến đi xuyên quốc gia bằng xe hơi, khởi hành từ Minnesota, nước Mỹ đến Vancouver, nước Canada. Mục đích của chuyến đi xa, là chúng tôi sẽ chở về nhà chiếc ghế dài để lưu giữ làm kỷ niệm. Đây là chiếc ghế do ông cố của tôi đã tự đóng lấy, khi ông mới đến định cư tại Canada. Chúng tôi coi đó như vật kỷ niệm của gia đình, kỷ vật đầu tiên ông cố tôi để lại. Hồi đó, ông cố của tôi đã khá lớn tuổi, không thể cáng đáng vườn tược, nên công việc chính của ông, là ở nhà giữ cháu. Và để trông coi những đứa trẻ chơi ngoài sân, ông đã tự đóng lấy cái ghế để ngồi.
Chúng tôi lên đường và dự trù lái xe khoảng hai tiếng, nhưng bất ngờ tôi sực nhớ đã để quên giấy thông hành ở nhà. Thế là chúng tôi phải quay ngược về, làm cho chuyến đi mất thêm bốn giờ lái xe. Đây là một sự cố đáng tiếc xảy ra ngoài mong muốn. Cuộc hành trình của chúng tôi còn xảy ra nhiều chuyện trục trặc khác nữa không lường trước cũng giống như vậy. Tuy nhiên, vì chuyến đi có mục đích, nên những bất trắc xảy ra cũng chẳng hề hấn gì, khi chúng tôi đã đến nơi, và đạt được mục đích mong muốn.
Ngay gần cổng ngôi nhà mà chúng tôi đến, chiếc ghế cũ kỹ vẫn còn đặt ở đó. Nó đã được chế tạo gần 90 năm rồi. Cái ghế đó không giống ai. Nó rất giản dị, mộc mạc, cũng chẳng được đóng bằng đinh cái đinh nào. Nhưng, chúng tôi rất trân trọng gìn giữ chiếc ghế, vì nó liên quan đến những kỷ niệm thân thương nhất trong gia đình tôi. Từ bối cảnh gia đình ấy, con đường khai dẫn đến tương lai của chính chúng tôi được mở ra. Chúng tôi đã lái xe một quãng đường khá dài để trân trọng mang chiếc ghế về nhà, lưu giữ nó như một kỷ vật quý báu.
Theo Tin Mừng Matthêu, các nhà đạo sỹ biết họ sẽ thực hiện một cuộc hành trình dài để đi về đâu, và họ biết “con trẻ” mà họ sẽ kiếm tìm là ai? Vì vậy, họ hỏi “Vua người Do Thái mới sinh ra ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao lạ khi nó mọc, và chúng tôi đến để triều bái, dâng lễ phẩm cho Ngài”. Cha Raymond E. Brown S.S nhắc cho chúng ta biết rằng, vượt xa những thực tại lịch sử nơi cuộc hành trình của ba vị đạo sĩ, Tin mừng Matthêu còn vén mở cho chúng ta thấy những thực tại linh thiêng sâu xa hơn. Kinh Thánh của người Do Thái đã tiên báo về thực tại đó, và đây là lúc khải thị cho thế giới lương dân biết về sự tỏ hiện thần linh của chính Đức Giêsu Đấng Messia, Đấng mà người Do thái vẫn luôn được nhắc đến, và họ vẫn mãi mòn mỏi đợi chờ.
Tuy nhiên, dọc suốt quãng đường dài từ Ba Tư, Babylon hay Ả Rập, chúng ta hỏi xem các vị đạo sĩ đã trải nghiệm điều gì khi họ đặt chân đến Bêlem? Cuộc hành trình vất vả, dài đằng đẵng có làm cho họ nản lòng muốn quay trở về hay không? Matthêu không đặt chú tâm vào cuộc hành trình khá gian nan đó, và Thánh ký chỉ muốn nhấn mạnh rằng, cuối cùng các vị đạo sĩ đã đến, đã gặp gỡ được Hài nhi Giêsu, đã khám phá ra nguồn mạch ơn cứu độ.
Tuy nhiên, khi đến Belem, họ vẫn còn thiếu một cái gì, nên đã đến với Hêrôđê để hỏi ông ta. Điều họ thiếu, chính là nội dung mạc khải đã được công bố từ lâu cho người Do Thái, như Tin Mừng Matthêu trình thuật lại, được trích dẫn qua lời các ngôn sứ Mi 5,1 và Sam 5,2: “Hỡi Bethlem, đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Guiđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel sẽ ra đời”.
Riêng đối với ba vị đạo sĩ, “khi họ thấy ngôi sao lạ lại xuất hiện, họ rất vui mừng. Bước vào nhà, họ gặp thấy con trẻ cùng với Maria thân mẫu Ngài. Họ quỳ gối tiến dâng phẩm vật, rồi họ mở tráp, lấy ra vàng, mộc dược, nhũ hương để dâng kính”. Nếu lên đường ngập tràn trong hy vọng, thì những thất vọng và lo âu sẽ được hóa giải hoàn toàn, khi chúng ta đã đạt đến đích của cuộc hành trình.
Họ sẽ trở về nhà cẩn trọng hơn, vì đã được báo mộng đừng trở lại với Hêrôđê. Chúng ta sẽ không sai, khi kỳ vọng rằng con người của họ sẽ được biến đổi khi trở về, bởi vì họ đi về mang theo một ánh sáng mới. Chúng ta so sánh ba vị đạo sĩ với Hêrôđê, hai hình ảnh hoàn toàn tương phản. Hêrôđê cũng biết Kinh Thánh. Ông ta cũng muốn gặp vua người Do Thái mới sinh, nhưng lộ trình mà Hêrôđê gợi ra chỉ là con đường chìm trong tăm tối và tuyệt vọng. Hài nhi Giêsu, đã trở nên như một mối đe dọa đối với quyền lực và ngai báu của ông ta. Giêsu là niềm hy vọng cho con người và cho thế giới, nhưng niềm hy vọng đó đã bi Hêrôđê hủy diệt và bóp chết ngay từ trong tâm hồn chai cứng của ông ta.
Có lẽ, các nhà đạo sĩ đã phải đối diện với những câu hỏi được đặt ra: tại sao họ lại phải vất vả đi khá xa như thế, đến tìm Hài Nhi mới sinh để làm gì? Tại sao họ lại đi theo ánh sao lạ? …Để trả lời, chúng ta có thể tóm kết rất giản đơn: Con đường mà họ đã đi qua để đến Belêm là “con đường của hy vọng”. Đây là con đường không phải chỉ dành riêng cho họ, mà cho mọi người. Cha Brown suy tư tiếp về cuộc hành trình ấy: “Nơi ba vị chiêm tinh, Matthêu nhìn ra sự hiện thực lời hứa của chính Đức Giêsu. “Tôi nói cho các ông biết, nhiều người từ đông sang tây sẽ được ngồi đồng bàn với Abraham, Isaac và Giacóp trong Nước Trời” (Mt 8,11). Cuối cùng, các vị đạo sĩ là chuẩn mẫu để chúng ta cùng bắt chước, cùng dấn bước trên một lộ trình thật sự. Lộ trình đó không phải dẫn chúng ta đi xa, xa mãi, nhưng là lối bước đưa dẫn chúng ta trở về nhà với Chúa. Đây chính là Thiên Chúa, Đấng đã mang lấy thân phận con người và đến cư ngụ giữa chúng ta trong dáng dấp của một thơ nhi bé bỏng, nhưng chính thơ nhi đó sẽ chỉ cho chúng ta con đường về nhà của mình.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Các nhà Đạo Sĩ Đông Phương,
Thấy ngôi sao lạ, tìm đường hướng đi.
Dõi theo dấu chỉ thích nghi,
Khi mờ khi tỏ, khi thì biến tan.
Tìm tòi dò hỏi vua quan,
Vua người Do-Thái, thiên ban nơi nào.
Be-lem thành nhỏ biết bao,
Dân thành bối rối, lao xao nghi ngờ.
Họp bàn giáo trưởng mong chờ,
Hê-rô-đê sợ, kính thờ Chúa ta.
Gởi lời nhắn gởi ba hoa,
Các ngài tìm thấy, đến nhà báo tin.
Ánh sao xuất hiện ngước nhìn,
Dẫn đường bước tới, niềm tin sáng ngời.
Trong hang máng cỏ diệu vời,
Hài Nhi cuốn tã, rạng ngời cao sang.
Cúi mình thờ lạy thiên nhan,
Nhũ hương, mộc dược, thỏi vàng tiến dâng.
Thiên Thần mộng báo đỡ nâng,
Ba nhà Đạo Sĩ, xin vâng đổi đường.
Đêm Giáng Sinh, Chúa Hài Nhi đã tỏ mình ra cho các mục đồng là những kẻ đơn sơ và chân thành. Lễ Hiển Linh, Chúa lại tỏ mình ra cho các nhà Đạo Sĩ Đông Phương. Các đạo sĩ là những người ngoại đạo đã lần theo dấu của ánh sao tìm đến hang Belem để tôn thờ Chúa. Các đạo sĩ cũng lần bước đi tìm kiếm, đã có lúc họ tưởng như lạc mất dấu chỉ. Nhưng với sự quyết tâm, họ đã dò tìm, hỏi han và thật tình tìm đến với Chúa.
Họ không quản ngại đường xa, mệt mỏi và đói khát. Ròng rã kiếm tìm dấu lạ trên bầu trời. Ngôi sao lạ xuất hiện như mời gọi lôi cuốn họ đi và đi mãi. Đây không phải là sự ngẫu nhiên tình cờ, nhưng là một sự kiếm tìm chân thành. Họ không biết nhiều về Kinh Thánh, Họ không biết sự loan báo của các tiên tri về Đấng Cứu Thế. Họ cũng không là con dân được tuyển chọn. Họ ra đi vì sự khao khát nội tâm. Ý chí thôi thúc từ bên trong tâm hồn của họ. Họ tìm tới. Các Đạo Sĩ đã gặp được Chúa.
Trong cuộc lữ hành dù đường xa, họ còn mang theo những lễ vật dâng tiến. Họ đã dâng Chúa của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Của lễ quý giá mang ý nghĩa của sự hiến dâng cùng với tấm lòng thành. Chúa đón nhận của lễ họ dâng. Chúa cũng muốn đón nhận họ vào trong gia đình của con dân Ngài.
Chúng ta thấy thái độ của các nhà đạo sĩ rất chân thành. Trong khi đó, thái độ của Vua Hêrôđê, các thầy thượng tế, tư tế và con dân ở Belem lại thờ ơ với dấu sao lạ. Họ biết sao lạ xuất hiện, nhưng họ không muốn tìm hiểu. Họ học biết Kinh Thánh, biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại Belem. Họ biết nơi Chúa sinh gần cận bên, nhưng mọi người đều xem thường việc Chúa viếng thăm. Họ không muốn ngẩng mặt lên để nhìn dấu lạ từ trời mà chỉ cúi xuống tìm những sự trần thế. Họ đã bỏ mất cơ hội quý báu để gặp gỡ Thiên Chúa làm người. Và thế là cuộc lỡ này kéo theo cuộc lỡ khác. Sau cùng họ đã chối từ Chúa và chính họ giơ tay hô xin giết đi, giết đi, đóng đinh nó vào thập giá. Họ đã không gặp được Chúa.
Dõi theo bước chân của các nhà đạo sĩ, chúng ta hãy ngước mắt nhìn lên và tìm kiếm những sự trên cao. Cùng rảo bước tìm về bên Chúa như các nhà đạo sĩ để tôn thờ và dâng hiến lễ vật. Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội để đến và gặp gỡ Ngài. Chúa Kitô chính là ánh sáng đến trong đêm tối. Tiếp nhận ánh sáng là tiếp nhận chính Chúa Kitô. Chúng ta sẽ được bước đi trong ánh sáng cứu độ của Chúa. Ước chi ánh sáng của Chúa được tiếp tục tỏa lan tới cùng bờ cõi trái đất.
.
AM Trần Bình An
Sao chổi Halley, tên được đặt chính thức là 1P/Halley một sao chổi được đặt tên theo nhà thiên văn học người Anh Edmund Halley, có thể nhìn thấy cứ mỗi 75 đến 76 năm.
Theo ghi chép thì những người đầu tiên phát hiện thấy sao chổi Halley là hai nhà thiên văn học người Trung Quốc, họ đã phát hiện thấy dấu hiệu của một ngôi sao di chuyển với tốc độ rất lớn vào năm 239 trước Công nguyên. Sao chổi Halley cũng là sao chổi đầu tiên được phát hiện trong lịch sử thiên văn.
Khi sao chổi Halley trở lại vào năm 164 tCN và 87 tCN, có lẽ nó được lưu ý trong các ghi ghép của người Babylon, nay được lưu trữ tại Bảo tàng Anh quốc ở London. Lần xuất hiện nổi tiếng nhất của Halley xảy ra không bao lâu trước cuộc xâm chiếm nước Anh năm 1066 của đội quân William. Người ta nói rằng Wiliam đã cảm thấy ngôi sao chổi báo trước sự thành công của ông. Dù sao thì sao chổi ấy đã được đưa vào Thảm thêu Bayeux để tôn vinh William.
Một lần xuất hiện khác của sao chổi Halley vào năm 1301, có lẽ đã truyền cảm hứng cho họa sĩ người Italy Giotto di Bondone vẽ bức tranh ngôi sao Bêlem trong “Ba đạo sĩ chiêm bái Chúa” theo từ điển Bách Khoa Britannica.
Tuy nhiên, các nhà thiên văn trong những thời đại này mỗi người xem sao chổi Halley là một sự kiện riêng. Các sao chổi thường được xem là điềm báo thảm họa hoặc biến cố.
Ngay cả khi Shakespeare viết vở kịch “Julius Caesar” vào khoảng năm 1600, đã viết rằng, các sao chổi là điềm báo: “Khi những kẻ ăn mày chết gục, không có sao chổi nào xuất hiện cả; chính bầu trời báo hiệu sự ra đi của hoàng tử.”
Edmond Halley xuất bản cuốn “Toát yếu Thiên văn học Sao chổi” vào năm 1705, lập danh mục những gì ông tìm thấy từ việc nghiên cứu số liệu lịch sử 24 sao chổi, xuất hiện gần Trái đất từ năm 1337 đến 1698. Ba trong số những quan sát này dường như rất giống nhau về quỹ đạo và những thông số khác, khiến Halley đề xuất rằng, đó chính là một sao chổi đến viếng Trái đất nhiều lần.
Sao chổi đó xuất hiện vào năm 1531, 1607 và 1682. Halley đề xuất rằng chính sao chổi đó có thể trở lại Trái đất vào năm 1758. Ông đã không sống đủ lâu, để chứng kiến sự trở lại của nó. Ông qua đời vào năm 1742, nhưng khám phá của ông đã truyền cảm hứng cho những người khác lấy tên của ông đặt cho sao chổi đó. Lần gần đây nhất nó xuất hiện là vào năm 1986 và dự đoán nó sẽ trở lại vào năm 2061. (ngaynayngayxua, Trước công nguyên phát hiện sao chổi Halley nổi tiếng)
Dẫu khoa thiên văn chưa khẳng định sao chổi Halley là ngôi sao Bêlem, nhưng biết đâu đó chính là ánh sao đã dẫn dắt ba vị Đạo sĩ đến chiêm bái Hài Nhi Giêsu, như danh hoạ Giotto di Bondone đã cảm hứng vẽ bức tranh “Ba đạo sĩ chiêm bái Chúa.” Tin Mừng Matthêu hôm nay thuật lại ba Đạo sĩ theo ánh sao lạ, tìm đến chiêm bái Hài Nhi. Đến Giêrusalem thì ngôi sao biến mất, các vị vào nhờ nhà vua Herôđê chỉ giúp. Sau khi đến bái lạy Hài Nhi, ba vị Đạo sĩ được báo mộng về lối khác tránh vị hôn quân khát máu.
Ánh sao dấu chỉ
Ngôi sao lạ là dấu chỉ cho ba Đạo sĩ khao khát tìm Chúa Cứu Thế. Tuy sáng vằng vặc giữa trời đêm, nhưng chỉ những ai thành tâm, thiện chí, mới nhìn thấy, mới có thể thấu hiểu được đó là dấu chỉ vĩ đại “Đấng Emmanuel, Thiên Chúa Ở Giữa nhân loại.”
Dưới thiên hình vạn trạng, dấu chỉ có thể là hiện tượng thiên nhiên như ngôi sao lạ, động đất, sóng thần, có thể tin vui, tin buồn, có thể tình huống, hoàn cảnh éo le, khó khăn, thành công, thuận lợi, hay thất bại, trớ trêu. Dấu chỉ cũng có thể là chính thái độ của tha nhân gần gũi, hay xa lạ. Tất cả đều có thể là điều Chúa muốn gửi đến, nhắn nhủ, cảnh báo, hay hướng dẫn những ai thiện tâm, tích cực hướng thượng. Biết nhìn lên, thoát khỏi những phù phiếm thế gian, để tận tình tìm hiểu Thánh Ý Chúa chỉ dạy.
“Cảnh sắc bầu trời thì các ông biết cắt nghĩa, còn thời điềm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi.” (Mt 16, 3) Thiếu thiện chí tìm sự thật, thì làm sao thấu hiểu được công trình cứu độ của Đấng Thiên Sai? Làm sao nhận được Thánh Ý Chúa lặng lẽ gửi đến qua dấu chỉ?
Ánh sao rực rỡ“Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở.” Dấu chỉ này chứng tỏ cho mọi người, tất nhiên cả dân ngoại, nhận biết rằng, Hài Nhi là Ngôi Sao cực kỳ rực rỡ vô song, muốn tỏ mình cho mọi người. Người không phải là một đại minh tinh hay một super star nhất thời, mau chìm vào lãng quên như dàn sao Hollywood lẫy lừng.
Ngôi sao Hài Nhi âm thầm, lặng lễ giáng thế, chẳng cần truyền thông loan tải ầm ĩ, chẳng cần chiêng trống rềnh rang. Chỉ có các ngôn sứ tiên báo và bấy giờ chỉ có thiên thần hân hoan ngợi ca trên trời. Dẫu vậy, riêng những tâm hồn bé mọn, chân chất, đơn sơ, như các mục đồng, thành tín, chân thật, cung kính, như ba Đạo sĩ, mới được mời gọi đến chiêm bái Hài Nhi, trong khi thiên hạ đều dửng dưng, hờ hững chẳng đoái hoài đến Người. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 11)
Ánh sao dẫn đường
Sau khi vâng lời thiên thần báo tin, các mục đồng vội vã lên đường đến bái lạy, chiêm ngưỡng Hài Nhi.“Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.” (Lc 2, 17-18) Ba Đạo sĩ sau khi bái lạy và dâng lễ vật cho Hài Nhi, nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. Hẳn nhiên, họ không đem Tin Mừng đến cho vua Hêrôđê bất chính, bất nhân, mà đem đến những ai thành tâm muốn tìm đến Hài Nhi.
Như thế các mục đồng và ba Đạo sĩ đều trở nên những ánh sao nhỏ, Tuy chỉ sáng lung linh, nhưng cũng có thể dẫn đường cho những ai ao ước, yêu mến chân lý, sự thật và sự sống viên mãn.
“Mất để được, chết để sống, từ để gặp. Ba Đạo sĩ liều hiểm nguy, chế nhạo; Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui, Goretti liều mạng sống.” (Đường Hy Vọng, số 8)
Lạy Chúa Hài Đồng, xin soi sáng dẫn đường chúng con luôn tìm thấy Chúa, nguồn ánh sáng cứu độ, cho chúng con luôn gặp Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, để canh tân chúng con, biến cải chúng con thành ngôi sáng đến với tha nhân.
Kính xin mẹ Maria, Ngôi Sao sáng giữa đêm đen thế gian, xin luôn chỉ đường cho chúng con tìm thấy Chúa, cho chúng con khỏi lạc bước, xa Chúa. Kính xin Mẹ gìn giữ chúng con luôn mãi trong tình yêu của Chúa. Amen.
.
JM. Lam Thy
Trong một cuộc mạn đàm nhân dịp nghỉ lễ Giáng Sinh, một ông bạn già đặt câu hỏi: Trước đây ở Việt Nam thường gọi Chúa nhật kỷ niệm 3 vị đạo sĩ phương Đông tới viếng Chúa Hài đồng Giê-su là lễ Ba Vua, mãi về sau này mới gọi đó là lễ Chúa Hiển Linh. Tại sao lại gọi 3 nhà “đạo sĩ” là ba vua? Tìm hiểu trong Thánh Kinh thì được biết: Nguồn gốc Lễ Ba Vua tới viếng hang đá Bê-lem xuất phát tù Cựu Ước. Bài đọc 1 hôm nay (Is 60, 1-6) là một minh họa: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (Is 60, 3). Thánh vịnh 72 (câu 10-11) cũng trình thuật: “Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự.” Như vậy, đến viếng Hài Nhi Giê-su có đủ các thành phần, từ hàng vua chúa tới dân chúng và cả các sinh vật.
Theo sách Thánh Kinh tiếng La-tinh thì câu trình thuật sự kiện 3 nhà đạo sĩ phương Đông tới triều bái Hài Nhi Giê-su được viết là: “Cum autem natus esset Jesus in Bethlehem Judæa in diebus Herodis regis, ecce Magi ab oriente venerunt Hierosolymam” (Mt 2, 1). Trước đây, khi chưa có Kinh Thánh tiếng Việt, nên gọi nôm na tiếng “Magi” là “Vua” và gọi lễ này là “lễ Ba Vua”. Còn vì sao không phải là 4 hay 5 vua mà chỉ có 3 vua? Căn cứ theo nhãn giới của ngôn sứ Isaia trong Bài đọc 1 (Is 60, 1-6), nếu đọc cả chương 60 của sách này thì thấy rõ chỉ có 3 sắc dân được trình thuật, mà cũng vì lễ vật tiến dâng thì thấy liệt kê có 3 món mà chỉ có các nhà quyền quý (vua chúa) mới sử dụng, đó là: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược. Như vậy thì gọi họ là ba vua là phải lẽ. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là nhãn giới của Giáo hội đã nhìn họ như hình ảnh sống động của những ai có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những tấm lòng thiện hảo, tốt lành. Và phải chăng niềm khát khao tìm kiếm chân lý đó chính là nguồn cội của một đức tin chính đáng?
Sau này, ban Dịch thuật Kinh Thánh Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dịch câu tiếng La-tinh nêu trên là: “Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem.” (Mt 2, 1). Chữ “Magi” được dịch là “nhà chiêm tinh” thay vì “nhà vua”. Nguyên nghĩa tiếng “Magi” là: Người có hiểu biết sâu rộng và chín chắn: nhà thông thái, bác học, hiền sĩ; nhà chiêm tinh. Ngoài ra, ở Ba Tư thời cổ “Magi” được gọi là “thầy Tư tế” (người lo việc phụng tự có khả năng hiểu biết siêu nhiên). Việt Nam dịch “Magi” là: nhà vua, nhà đạo sĩ, nhà chiêm tinh, nhà bác học, nhà thông thái, Trước Công đồng Va-ti-ca-nô II, phổ biến nhất ở VN là “lễ Ba Vua” (vì có 3 nhân vật thuộc hàng vương giả từ Phương Đông nhờ biết xem sao – chiêm tinh – lại rất am hiểu sấm truyền về Thánh Kinh Cựu Ước, nên mới nương theo vì sao lạ, không quản ngại đường xá xa xôi, đến triều bái Hài Nhi Giê-su).
Cũng vi gọi là lễ Ba Vua là chú tâm vào người đến triều bái thuộc hàng vương giả, có thể làm cho người đọc, người nghe chỉ chú ý đến “ba vua” mà lơ là đối tượng chính yếu được chiêm bái là Chúa Hài Đồng, nên sau Công đồng Va-ti-ca-nô II, muốn cho mọi người hiểu rõ sở dĩ muôn dân muôn nước (mà đại diện là 3 nhà chiêm tinh, các mục đồng…) đến triều bái Vua Tình Yêu giáng trần, chính là nhờ ánh sáng của vì Sao Chân Lý chiếu tỏa hào quang Thiên Chúa; nên Ủy ban Dịch thuật của HĐGMVN dịch là “Hiển Linh” ( 顯 靈 : bày tỏ sự linh thánh, thiêng liêng). Từ đó, trong lịch Phụng vụ thường xuyên ghi là lễ “Chúa Hiển Linh”. Thông dụng hơn, nhiều người gọi cách nôm na đó là lễ Chúa “Tỏ Mình Ra”.
Nhiều người cho rằng lần tỏ mình đầu tiên của Đấng Cứu Thế là Đêm Giáng Sinh nơi hang đá Bê-lem (qua nhạc ca tưng bừng cũng như lời loan báo mầu nhiệm Giáng Sinh của các thiên thần, quy tụ mục đồng và chiên lừa tới thở hơi ấm và triều bái Người), đồng thời – qua vì Sao Tinh Yêu diệu kỳ – soi đường dẫn lối 3 nhà đạo sĩ từ phương Đông đem vàng hương mộc dược tới bái kiến nữa. Thực ra, ngay từ khi mới hình thành bào thai trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria, Đức Giê-su Thiên Chúa đã tỏ mình ra khiến một bào thai mới được 6 tháng (Gio-an Tiền Hô) đã nhảy lên mừng rỡ trong bụng người chị họ Ê-li-za-bet, cùng với lời chúc mừng của người chị họ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 2, 42-45).
Cũng không ít người cho rằng Chúa chỉ tỏ mình ra cho 3 nhà đạo sĩ, còn đối với dân Do-thái (cụ thể là dân thành Giê-ru-sa-lem) và nhất là vua-sát-thủ-Hêrôđê thì không có được vinh dự đó. Thực ra, Chúa đã tỏ mình ra cho tất cả mọi người, nhưng vấn đề đặt ra là khi thấy dấu chỉ hiển linh đó, thì con người có tin hay không và đón nhận như thế nào mà thôi. Các đạo sĩ là dân ngoại tin như vậy chỉ vì một ánh sao, còn “dân nội” Do-thái, nhất là đám thượng lưu trí thức tư tế và luật sĩ có sách Thánh và thuộc Thánh Kinh làu làu, lại không nhận ra Đức Chúa vừa giáng sinh. Thánh sử Gio-an đã chua chát thốt lên: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 10-11). Họ đã cứng lòng không tin từ lần tỏ mình đầu tiên cho đến biết bao nhiêu lần khác trong suốt 33 năm Ngôi Lời làm người, để cuối cùng đóng đinh treo Người trên thập giá cho đến chết.
Còn Hê-rô-đê thì sao? Khác với đa số cho rằng Hê-rô-đê không tin, riêng kẻ viết bài này nghĩ rằng ông ta đã tin lời ba vị đạo sĩ, nên mới “Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.” (Mt 2, 3-4). Nếu không tin thì có cần như thế không? Bình thường, khi nghe hỏi “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?”, ai cũng nghĩ rằng đó là chuyện hoang đường, vì đối với xã hội loài người, làm gì có người mới sinh ra đã là vua? Nhưng Hê-rô-đê thì lại tin rằng thực sự đã có một ông vua mới sinh, và vì mới sinh đã là vua nên tất nhiên phải là một vị vua quyền lực thượng đẳng có thể làm cho bạo chúa trở thành kẻ trắng tay. Vậy phải bằng mọi cách trừ khử ngay lập tức từ trong trứng nước kẻ đã dám đe doạ ngai vàng của mình sụp đổ. Tất yếu cơn thịnh nộ của hung thần sát thủ sẽ vô cùng khủng khiếp, hàng loạt hài nhi đã bị tru diệt thẳng tay. Thế đấy! Từ vua quan đến sĩ thứ của một dân được coi là “hàng nội 100%” đã đón tiếp Đức Vua Hoà Bình như vậy đó. Và có lẽ cũng vì thế, nên vì tình yêu bao la không phân biệt nội hay ngoại, Thiên Chúa đã dùng vì Sao Tình Yêu để “tỏ mình cho dân ngoại”.
Ba vị đạo sĩ bằng sụ hiểu biết của mình, đã được chiêm ngắm vì Sao đó, và với tâm đia ngay thẳng bộc trực, đã vô tình chọc giận hung thần Hê-rô-đê; nhưng mặt khác lại chứng tỏ cho thiên hạ (kể cả Hê-rô-đê) biết thực sự đã có một vị Con Trời và là Ông Trời thật, giáng trần. Ngày xưa vẫn gọi vua là Thiên tử (con Trời), mà vị Vua ấy sinh tại Do thái nên mới gọi là Vua Do-thái, chớ thực ra vị Vua ấy không phải là Vua Do-thái theo cách hiểu hạn hẹp của Hê-rô-đê (nói chung là của loài người). Người là Vua, mà còn là Vua trên hết các vua trần gian nữa, bởi “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36).
Con người luôn có niềm tin, có tin thì mới sống được. Chính vì thế, nên cần phải xét xem niềm tin đó được thể hiện như thế nào. Tin có một vị vua mới sinh sẽ làm mất ngôi vị độc tôn của mình như Hê-rô-đê, để rồi trở thành kẻ sát nhân máu lạnh khủng khiếp; tin rằng vì vua ấy sẽ làm đảo lộn sinh hoạt xã hội như dân Do-thái, để rồi hoang mang lo sợ và cách này cách khác tiếp tay cho hung thần Hê-rô-đê giết chết đối tượng mà mình đã tin; hay nên tin rằng đó là vị Vua Công Chính, là Cứu Chúa sinh ra để cứu độ nhân loại như 3 vị đạo sĩ phương Đông? Đặt giả thử nếu 3 nhà đạo sĩ cũng bán tín bán nghi như dân Do-thái, thì ánh sao lạ có lôi cuốn được hay không? Chắc chắn đó phải là 3 chiêm tinh gia (biết ngắm sao, biết xem sao) đã tìm hiểu, đã biết và đã tin, và chỉ có như thế thì mới không quản gian lao vất vả, cất công mang vàng hương mộc dược lặn lội từ phương Đông tới để được triều bái Người.
Tỏ mình ra cho một dân (dân “nội” đàng hoàng) đã luôn miệng huênh hoang kêu “Lay Chúa! Lạy Chúa!” để khoe khoang về niềm tin của mình, nhưng thực chất trong lòng thì rỗng tuếch. Đừng trách chi tầng lớp bình dân của dân nội (Do-thái), mà ngay cả đến hàng ngũ trí thức, lãnh đạo chỉ chuyên “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” (Mt 23, 2) như đám thượng tế, kinh sư cũng cách này cách khác cố tình không nhận ra dấu chỉ tỏ mình của Con Thiên Chúa. Hoá cho nên Thiên Chúa đã dùng ngôi Sao Tình Yêu Bê-lem để “tỏ mình ra cho dân ngoại”. Vương quốc của Vương Nhi Giê-su không bó gọn trong phạm vi Do-thái, mà là “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3, 6). Như vậy thì ngôi sao Bê-lem đã báo Tin Mừng về mầu nhiệm Tinh Yêu được thực hiên khi “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại” và đó chính là dấu chỉ mầu nhiệm Giáo Hội trong tương lai.
Cách đây hơn 20 thế kỷ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tỏ mình ra và được đón tiếp bằng nhiều cung cách: 3 nhà đạo sĩ, các mục đồng tới tung hô triều bái, thậm chí đến cả động vật như chiên, bò, lừa cũng tới để thở hơi ấm cho Vương Nhi Giê-su; nhưng vua quan sĩ thứ của Do-thái thì lại hoang mang lo sợ cho địa vị của mình mà lùng giết Hài Nhi. Tưởng chừng như thế thì không còn lý do gì để Thiên Chúa tỏ mình ra nữa; nhưng trái lại, Thiên Chúa vì tình yêu, vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại bằng nhiều hình thức, nhiều dấu chỉ. Chúa đã tỏ mình ra với loài người, với thế giới qua vẻ đẹp của vũ trụ, qua những khám phá, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, qua rất nhiều phép lạ cứu chữa những bệnh nhân, kể cả những người tội lỗi. Không những thế, Người còn tỏ mình ra qua những cử chỉ, những thái độ thành tâm thiện chí của con người, những tấm lòng bác ái, những tổ chức từ thiện trên khắp mặt đất.
Chúa vẫn đi tìm con người hơn là con người đi tìm Chúa. Và con người ngày nay đã đón tiếp vị Cứu Chúa như thế nào so với thời điểm tỏ mình ra đầu tiên của Người? Cũng có đủ trạng thái không thua gì ngày xưa: Tuy Giáo Hội của Chúa đã lan toả khắp năm châu bốn biển, nhưng tỉ lệ những người tin vẫn là thiểu số so với dân số thế giới; vẫn còn nhiều những dân ngoại – kể cả dân nội “marque déposée” (nhãn hiệu trình toà) đàng hoàng – hoang mang lo sợ, nhưng lại thờ ơ trước những dấu chỉ, những biến cố mình chứng sự hiện diện của Chúa trên trần gian. Rồi cũng còn rất nhiều những sát-thủ-Hêrôđê-thời-đại cách này cách khác lùng giết Hài nhi Giê-su, đóng đinh Cứu Chúa trên thập ác. Ôi chao! Nhiều, nhiều lắm những nạo phá thai, huỷ diệt trứng, tinh trùng, làm cho chết êm dịu, rồi thì cướp của giết người, tranh bá đồ vương, khủng bố, đánh bom tự sát giết hàng loạt dân vô tội… vô cùng khủng khiếp!!!
Ôi! Lạy Chúa Hài Đồng! Ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ 5 thế kỷ trước khi Chúa tỏ mình ra tại Bê-lem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi.” (Is 60, 1). Chúng con biết chắc chắn rằng “ánh sáng của chúng con đã đến rồi” không chỉ bằng vì Sao Tình Yêu Bê-lem, mà bằng chính Ngôi Lời nhập thể và nhập thế làm người cứu chuộc chúng con thoát vòng tội lỗi, để có thể chiến thắng sự chết. Không chỉ cách đây hơn 2000 năm, mà hàng ngày, hàng giờ, Chúa vẫn luôn tỏ mình ra ngay tại cung lòng chúng con, trong gia đình, khu xóm, giáo xứ cũng như trên đất nước chúng con và trên toàn thế giới. Ánh Sáng Tình Yêu vẫn luôn chiếu toả chúng con, hiềm một nỗi là chúng con vẫn chưa thực sự cảm nghiệm được mầu nhiệm ấy mà thực hành Lời Chúa dạy: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời;” (Mt 5, 15-16), để được như ngôi Sao Bê-lem hiển linh Tình Yêu của Chúa.
Ôi! “Kìa trông huy hoàng vì Sao, chiếu soi gần xa khắp miền, nào hỡi mục đồng dạy mau. Chớ lo chi, hãy bình yên. Này đây ta báo tin Vui Mừng, giờ đây trong chốn hang lừa, đã sinh ra chính Vua Muôn Trùng. Mau đến Bê-lem kính thờ… ” (TCCĐ “Kìa Trông Huy Hoàng”). Ôi! Lạy Chúa! Con ước ao được là một vì sao thật nhỏ bé (nhưng là bản sao trung thực nhất của Sao Tình Yêu Bê-lem) ở ngay trong gia đình con, để dẫn đường chỉ lối cho con cháu của con biết tìm về Chính lộ: nơi đang sáng tỏ mầu nhiệm Giáng Sinh trong mầu nhiệm Giáo Hội. Và nếu con còn một chút sức lực nào đó, xin cho con được làm một vì sao bé nhỏ trong khu xóm, trong giáo xứ của con nữa. Xin Chúa thương ban Thánh Linh cho con để con có thể làm tròn trách vụ một vì sao Ki-tô hữu trong thời buổi nhiễu nhương, vàng thau lẫn lộn này. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
.
HIỂN LINH CON NGƯỜI ĐƯỢC GIẢI THOÁT
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Theo chú thích trong cuốn Christian Community Bible của hai tác giả Bernard Hurault và Louis Hurault thì ‘vào thời kỳ các sách Tin Mừng được biên soạn, văn chương Do Thái thích đưa ra những truyện tường thuật lại thời thơ ấu của các người hùng trong Kinh Thánh: truyện ông Áp-ra-ham, truyện ông Mô-sê vừa được viết xong. Tương truyền rằng một ngôi sao đã báo cho vua Pha-ra-ô biết một vị cứu tinh của người Híp-ri sắp chào đời, do đó nhà vua quyết định giết tất cả các bé trai, nhưng Mô-sê đã được cứu thoát. Trong giới Ki-tô hữu cũng vậy, có những chuyện dân gian thuật lại các mẩu chuyện về thời thơ ấu của Chúa Giê-su mà Tin Mừng không hề ghi chép. Chính trong bầu khí này mà tác giả Mát-thêu mượn lại một số truyền thuyết. Đây là cơ hội cho ông nói rõ, như trong một lời tựa của sách Tin Mừng, sứ mạng của Chúa Giê-su là thế nào’ (Xem ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’ Tân Ước, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006, trang 30).
Câu chuyện ‘Các nhà chiêm tinh đến bái lạy đức Giê-su Hài Nhi’, mà ta quen gọi là biến cố hiển linh hay xưa hơn nữa là sự kiện ‘Ba Vua tới thờ lạy’, được Mát-thêu tường thuật ngay sau đoạn Giu-se được báo mộng về việc Ma-ri-a thụ thai, ‘sẽ sinh một con trai’ và ông sẽ ‘đặt tên cho con trẻ là Yê-su-a’ (Mt 1:18-25). Như thế khi thuật lại truyền thuyết này, tác giả hầu như muốn nêu lên ý tưởng Hài Nhi Giê-su chính là một Mô-sê mới: nhân vật chính mình đã từng là ‘người được cứu thoát’ của Thiên Chúa, và sau này sẽ trở thành cứu tinh của cả một dân tộc. ‘Được cứu’ như Mô-sê, Hài Nhi Giê-su thể hiện nơi mình ước vọng của toàn thể nhân loại, nhưng đồng thời Người cũng là Thiên Chúa Cứu Độ, đúng với cái tên Yê-su-a thiên sứ đã báo trước. Nhân tính và Thiên tính gặp gỡ và kết hợp trọn vẹn nơi Trẻ Thơ Bê-lem là thế; nhân tính Người hiện thân cho nhân loại ‘được cứu thoát’, trong khi thiên tính lại biểu lộ ‘Thiên Chúa tích cực cứu độ’. Ngôi sao định mệnh của Người quả là độc đáo, và đã được nhiều nhà chiêm tinh nhận ra, ‘chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương đông’: ngôi sao chỉ rõ giải thoát và được cứu thoát đã gặp gỡ nhau, và cả hai đều được thể hiện cách trọn vẹn. Khi điều đó được thực hiện tức là nhân loại đã có một số phận mới; lịch sử nhân loại đã hoàn toàn bị đảo lộn. Các nhà chiêm tinh (hay đạo sĩ) cất công lên đường tìm tới bái lạy Hài Nhi chính vì điều này. Đối với họ Hài Nhi phải là một nhà vua vĩ đại, một vị lãnh tụ mới… như các ngôn sứ đã từng nói đến về đấng Mê-si-a: “vì ngươi là nơi, hỡi Bê-lem, vị lãnh tụ chăm dắt Ít-ra-en dân ta sẽ ra đời”.
Như vậy, sự kiện hiển linh (các chiêm tinh gia theo dấu ngôi sao lạ đến bái lạy Hài Nhi Giê-su) đâu phải là hành vi chỉ hiển thị thiên tính cứu độ, mà cả cái nhân tính được cứu thoát cũng được hiển thị nữa. Chẳng vậy mà ngay sau đó tác giả Mát-thêu đã tường thuật tỉ mỉ việc các anh hài bị giết hại còn Hài Nhi thì trốn thoát được qua Ai-cập, rồi ở đó an toàn cho tới khi được gọi về, “Ta đã gọi con ta ra khỏi Ai-cập”. Tương tự như Mô-sẽ không chỉ được sách Xuất Hành giới thiệu như vị cứu tinh oai hùng đưa dân Híp-ri vượt qua Biển Đỏ trở về Đất Hứa, mà còn cho thấy ngài là đứa bé ‘được vớt lên khỏi nước’… trốn chạy an toàn qua Ma-đi-an, rồi được sai trở lại Ai-cập với sứ mệnh giải thoát (Xh 2-3). Giống như các người chăn chiên ngoài đồng, khi các nhà chiêm tinh “vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người”, họ không chỉ bái lạy một Thiên Chúa giáng trần, mà vì ‘thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng’ vì biết rằng ơn cứu độ của mình và của toàn nhân loại đang được thực hiện cách trọn vẹn và dứt khoát, trong hình hài của Hài Nhi nhỏ bé.
Hiển linh sẽ không có ý nghĩa gì và chẳng làm ai mừng rỡ nếu chỉ là một sự biểu dương uy quyền, cho dầu đó là quyền uy của Thiên Chúa. Hiển linh của Hài Nhi Bê-lem làm cho hết mọi người mừng rỡ, vì quả thật ‘các nhà chiêm tinh là những tư tế được kính nể của đạo Da-ra-thu-sơ-tra, lại còn là những nhà thiên văn học và thầy bói toán. Ở đây các ông đại diện cho những tôn giáo không biết đến Kinh Thánh’ (xem tác phẩm trích dẫn trên, trang 31). Hài Nhi Yê-su-a hiển linh một Thiên Chúa Cứu Độ đồng thời một loài người được trọn vẹn cứu thoát (trong đó có cả chúng ta – các Ki-tô hữu, nhưng đồng thời cũng bao gồm luôn cả các kẻ tội lỗi, những người vô thần nữa?) Hiển Linh do đó phải khơi nguồn một niềm vui mừng và hy vọng lớn lao cho toàn thể nhân loại. Có lẽ đó là lý do Giáo Hội Chính Thống Đông Phương luôn dành cho ngày lễ này một sự trang trọng lớn lao trong việc cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh!
Lạy Hài Nhi với thân mẫu là Ma-ri-a, xin cho con được sấp mình cung kính bái lạy, không phải vì sợ sệt hay kính nể, nhưng vì mừng rỡ và sướng vui. Xin cho con nhận ra trong ngôi sao của Hài Nhi, số mệnh của chính mình đã được ấn định: vì cho dầu con có là ‘ngôi sao xấu số’ tới đâu, thì nó cũng đã là ‘ngôi sao được cứu rỗi’ nhờ ‘Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Xin cũng hiển linh điều này cho hết thảy mọi người, để niềm vui Giáng Sinh được bùng nổ trên khắp cõi trần gian. A-men.
.
HÀI NHI GIÊSU TỎ MÌNH CHO MUÔN DÂN
P. Trần Đình Phan Tiến
Ba nhà đạo sĩ, hay ba vua, hay ba nhà chiêm tinh là cách nói, cách gọi khác nhau về Ba người từ Phương Đông đã đến triều bái Đức Kitô – Hài Nhi.
Vâng, nói đến những từ ngữ được dùng để chỉ ba nhân vật đến triều bái Chúa Giêsu Hài Đồng, đều đúng hết. Bởi vì, “ đạo sĩ ” có nghĩa là: “ người học đạo” nghĩa là người chuyên tâm nghiên cứu chân lý, để tìm ra sự thánh thiện, sự an lành. Từ “Ba vua “ có ngĩa là : Những người nầy là những người đại diện cho muôn dân, cho nhân loại muôn thế hệ, họ là những người “đầu tiên” ngoại giáo , tức bên ngoài dân tộc Israel, đến thờ lạy “ Đấng Cứu Thế “, như vậy, họ xứng đáng được gọi là “ vua “ . Từ ngữ “ chiêm tinh “ nói đến công việc cụ thể của họ, họ là những chiêm tinh gia từ Phương Đông. Nơi mà chưa biết Thiên Chúa như dân tộc Dothai. Từ đó, chúng ta thấy, từ xa xưa, những con người chưa được Thiên Chúa mạc khải, thì họ cũng biết khao khát chân lý và đi tìm chân lý, đó là khoa chiêm tinh. Họ nghiên cứu những vì sao trên bầu trời, tinh tú để mong đợi, để khát khao ơn cứu độ.
Như vậy, suy đến chúng ta thật là hạnh phúc, vì được Thiên Chúa mạc khải và biểu lộ vinh quang và ơn cứu độ cho chúng ta qua các vị tiền bối đó.
Chúng ta thấy, quang cảnh Giáng Sinh thật là im lặng, không một chút nô nức của loài người, chỉ có các mục đồng là những người thức đêm canh súc vật của mình, và các thiên sứ từ trời.
Nhưng, hôm nay đây, Thiên Chúa biểu lộ ánh vinh quang từ sự Nhập Thể của Người cho muôn dân, muôn nước. Thiên Chúa thật “ âm thầm “ thật nhẫn nại, thật nhân từ. Thiên Chúa đến với nhân loại, ở với nhân loại và để tỏ lộ tình yêu cho nhân loại như vậy, đến độ chính dân tộc được Thiên Chúa tỏ mình ra cho biết trước, gọi là “ dân riêng “ cũng ngỡ ngàng không tin. Họ, nghĩ rằng Thiên Chúa uy quyền tuyệt đối không thể sinh ra nghèo hèn, yếu ớt, lạnh lẽo về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Vì vậy, hơn hai ngàn năm qua họ không chấp nhận chân lý nầy.
Vâng, kính thưa quý vị, vì lẽ đó, hôm nay đây Thiên Chúa, qua Hài Nhi GIÊSU đẽ tỏ mình ra cho muôn dân, muôn nước. Lễ Hiển Linh , là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại , đại diện là Ba Đạo Sĩ.
Chúng ta thấy hai hình ảnh tương phản rõ nết, chính yếu trong đoạn Lời Chúa hôm nay là : Ba nhà Đạo sĩ và ( tiểu vương ) Herode.
Một bên là nhiệt tâm tìm kiếm “Đấng Cứu Thế” , một bên là âm mưu để bách hại. Một bên, nhờ khoa chiêm tinh học, mà xác định và tin rằng “Đấng Cứu Thế “ xuất hiện
Như vậy, qua công việc của khoa chiêm tinh học , người ta cũng được Thiên Chúa mạc khải. Người ta tin và tìm đến. Minh bạch đến nỗi có một “ ngôi sao “ dẫn đường.
Lễ Ba Vua tưởng chừng không “ quan trọng “ lắm, nhưng, kỳ thực thật là quan trọng. Điều nầy nói lên sự “ làm chứng “ về Đấng Cứu Thế. Không phải để dân tộc Dothai bất tín, bất trung “ độc quyền “ Thiên Chúa theo cách của họ.
Thiên Chúa yêu thương nhưng không độc quyền, từ bi nhưng không nhu nhược, hiền lành , nhưng không yếu thế, ẩn dật nhưng không cô đơn, thương xót nhưng không bị mua chuộc.
Nhìn sang nhân vật Herode, chúng ta thấy , một phàm phu tục tử, từ “ bụi đất “ mà cao ngạo. Từ phàm hèn nhân thế, là loài được tạo dựng, dược sinh ra trong nhung lụa sang giàu. Bất tài trong cai trị, nhu nhược với ngoại bang. Thân thụ tạo , nhưng không khiêm tốn, sự tiên báo về Đấng Cứu Thế có trong Thánh Kinh từ ngàn xưa, nhưng vẫn ngạo mạn. Bề ngoài, thì “ thơn thớt nói cười. Bên trong nham hiểm, giết người không dao “.
Vâng, đó là nhân vật Herode, herode ngày nay cũng không thiếu, đó là hình bóng của satan.
Ba nhà đạo sĩ là những người chân thật, họ đi tìm Hài Nhi GIÊSU để bái lạy, để suy tôn Đấng Cứu Thế. Chúng ta thấy sự uy quyền nhẫn nhịn đến vô cùng của một Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người.
Một điểm đáng lưu ý là : ngay cả tại Bethlem, nơi Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, mà Thánh Kinh đã tiên báo từ ngàn xưa, ngay tại miền đất Giuda, nhưng , người cai trị là Herode chẳng hề hay biết, nhưng, ba nhà đạo sĩ từ Phường Đông lại tìm đến thờ lạy. Như vậy, Thiên Chúa không bao giờ tỏ mình ra cho kẻ ác, mà chỉ tỏ mình cho người thiện tâm.
Từ đó, suy ra, khi chúng ta thấy những kẻ ngạo mạn xem thương Thiên Chúa là chính vì lý do nầy. Vì , không phải tự phàm nhân nhận ra , biết được Thiên Chúa, mà là phải được Thiên Chúa mạc khải cho.
Đúng như câu mà các Thiên Sứ đã tung hô ngày Chúa Giáng Sinh:
“ Vinh Danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm “.
Vâng, chỉ có những ai có tâm hồn thiện tâm, họ mới được nhìn xem Thiên Chúa.
Chúng ta thấy, lễ vật để bái thờ Hài Nhi GIÊSU của ba nhà chiêm tin là : Vàng- Nhủ Hương và Mộc Dược. Tượng trưng uy quyền của Hài Nhi, sự tôn thờ của muôn dân, muôn nước đối với Hài Nhi, và sau cùng là “ơn cứu độ”.
Vâng, chúng ta cùng với ba nhà đạo sĩ hiệp thông sự thờ lạy và chúc tụng ấy với tất cả lòng thành kính và tôn thờ.
Lạy Hài Nhi GIÊSU,. Chúa đã tỏ minh ra cho muôn dân, muôn nước, hầu cho họ nhận được sự tôn thờ trong chân lý và tinh yêu. Chúng con cầu xin nhờ Người mà muôn loài được tạo thành và cứu chuộc./. Amen.
.
Lm Uyen Nguyen
Thông thường, điều gì xuất hiện, sẽ có người hay biết, cho dù con số biết không lớn. Dẫu vậy, dù ít người biết, nhưng qua trải nghiệm, rồi cũng sẽ có thêm nhiều người biết. Nhất là những điều xuất hiện tự thân đầy phẩm chất vượt tầm cỡ! Điều như vậy, có một không hai, chỉ là Giáng Sinh, cuộc sinh hạ Giêsu nơi hang đá Bêlem, từ hai ông bà Maria và Giuse, vào một đêm đông lạnh căm, trên cánh đồng cô quạnh Bêlem!
Đã rõ về con số người hay biết tuy không lớn, dẫu chỉ ít oi, cũng đủ nói lên tính chất đại diện chứng kiến và chứng thực tuyệt đối. Khi đã nói như vậy, người ta thầm nhớ đến ĐGS khi đi rao giảng, Người cũng thích ‘con số ít’, chọn biệt riêng ba tông đồ theo bên Người trong những trường hợp đặc biệt. Như những lần mà ba tông đồ cùng với Người đi vào phòng em bé vừa đã chết để đánh thức sống dậy, ba người được dẫn riêng lên núi Tabor chứng kiến cuộc biến hình, ba người đi cầu nguyện riêng với Người khi đã vào vườn Giếtsêmani!
Chúa Nhựt hôm nay cũng nói đến con số ba đại diện cho cả vùng thênh thang chìm lỉm trong ‘u tối’ mà nguồn sáng xuất hiện rất hào phóng soi chiếu thông tin. Đó là dành cho ba đại diện là ba nhà chiêm tinh, gốc Phương Đông, chỗi dậy lần tìm đến Bêlem, đến với Con Người vừa mới chào đời trong ánh sao lạ tin báo xuất hiện. Các nhà chiêm tinh thường tin rằng mỗi con người sinh vào đời, định mệnh và danh giá được gắn kết với mỗi vì sao, tầm cỡ hay không, tùy vào kích cỡ và cường độ ánh sao phát sáng!?
Matthêu, trong đoạn TM trích đọc hôm nay, tường thuật cho người đọc biết được những điều như vậy, ngài viết: “Khi ĐGS ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương đông đến Giêrusalem”( c.1). Bất chấp nẻo đường hành trình vạn dặm, không màng gian nan, cheo leo hiểm nguy, ba nhà chiêm tinh lên đường. Khi họ tiếp cận Giêrusalem, ánh sáng sao bỗng vụt biến. Các ông rơi vào tăm tối mất hướng. Tiến vào yết kiến Hêrôđê đang trong triều đình, như là cách khôn ngoan tìm ra ánh sáng soi đường theo phương án đối phó, họ vào triều yết và hỏi vua Hêrôđê: “Đức vua Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người suất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”( c.2). Khi còn ở quê hương, họ là những con người được mệnh danh là ‘lầm lũi trong vùng u tối’, giờ đã gặp được ánh sáng hướng dẫn đến kinh đô ánh sáng! Thực ra ở đây, sao chẳng sáng mà cũng đang trong u tối đồng bộ! Bởi lẽ Hêrôđê đã không thấy có dấu gì sẵn sàng hay biết điều đã xảy ra. Để biết, ông cho vời các thượng tế, kinh sư đất nước ông, đến triều yết tra vấn! Các kinh sư và tư tế đền thờ cũng chẳng hơn gì, chẳng có gì là sẵn sàng và hiểu cơ sự. Tất cả cũng chỉ dẫn ra được những lời trong sách ghi chép mang tính tiên tri, ở vào một thời cách mấy trăm năm về trước. Nhưng đối với ba nhà chiêm tinh, từ các thông tin đó, cũng là những gì hữu ích cung cấp ánh sáng còn hơn vẫn chỉ toàn trong mù mờ u tối. Đó là những gì mà theo lời họ trình bày, đáp lời tra vấn của vua họ: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách Ngôn Sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân ta sẽ ra đời”(c.6). Chính những lời Kinh Thánh này của Do thái không ngờ đã giúp đỡ các nhà chiêm tinh vơi đi nỗi niềm nhọc nhằn lộ hành, cho niềm tin thêm chất kiên cường, và những gì, họ đã dự đoán từ nơi quê hương riêng tư của nhau, dẫn bước họ lên đường đi tìm vì vua vừa xuất hiện vô cùng vĩ đại, cũng được xác định thâm tín.
Qua đó, dựa vào vài chi tiết trong tường thuật, mỗi người ngày nay, về phần mình, có thể rút ra được điều gì quý giá áp dụng cho cuộc hành trình để gặp gỡ ĐKT. Với ba nhà chiêm tinh, ánh sáng sao tỏa chiếu rực rỡ, là điều quý giá cần thiết? Ánh sáng sao đó có thật xuất hiện nơi vũ trụ hay chỉ là ánh sáng xuất hiện từ nơi tâm linh dành cho ai hằng biết liên lỉ nghiền ngẫm, tra cứu, lên đường đi tìm kiếm mới có được? Ở đây điều có thể xác định cách quả quyết chính là những gì là sự thật xuất phát từ ĐGS khi đi rao giảng đã quả quyết: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho. Anh em cöù xin thì seõ ñöôïc, cöù tìm thì seõ thaáy, cöù goõ cöûa thì seõ môû ra cho”( Mt 7,7). Thực vậy, ba nhà chiêm tinh không làm theo như thế, theo điều ĐGS nói như trên sau này, chắc các ông cũng chẳng gặp được điều gì!? Ở đây, điều thiết yếu là thái độ chuyên cần, bền bỉ, chăm chú vào mục tiêu theo đuổi với triển vọng, ‘điều gì đã sẵn’ ắt là phần thưởng của hành động, là kết quả đền đáp trọng hậu. Điều đã sẵn ở đây chính là ý tiên thiên nhiệm mầu của THIÊN CHÚA muốn cho mọi người nhận biết Ngài, gặp gỡ Ngài, tính chất hào phóng của Ngài. Con người kiên tâm gõ cửa, ắt cửa sẽ mở. Đó cũng là tâm tình và thái độ minh họa mô phạm của ba nhà chiêm tinh, một cuộc đời tìm tòi, cả khi bước đầu khởi sự lên đường theo ánh sao dẫn đường không ngại gian lao, cũng như rất nỗ lực vượt qua giai đoạn được xem là bế tắc ở chính tại kinh thành Giêrusalem, khi ánh sáng sao soi đường vụt biến.
Ở đây, trong câu chuyện của Luca, còn phát hiện thêm một điều hệ trọng khác: người của TC là những đối đầu của TC. Tâm tình và thái độ này được bọc lộ chính ở những con người như Hêrôđê và các thượng tế, kinh sư. Trực tiếp và chính diện, tiên thiên là vua Hêrôđê, vị lãnh tụ toàn dân Do Thái. Ngay cuộc gặp gỡ với ba nhà chiêm tinh, vốn dĩ độc ác tham quyền, ông đã nảy sinh trong tâm hồn ý sát hại con trẻ vừa mới sinh để bảo vệ ngai vàng, cụ thể được xem là tài sản bảo đảm không thể thiếu giữ lấy vinh sang phú quý, uy quyền, sự vun thân, cứu cánh an toàn cho sinh mệnh trần thế. Lối sống thực dụng ngày nay trong nhân loại không loại trừ sự tương đồng với quyết tâm này của Hêrôđê. Với các thượng tế và kinh sư, ngay ở đây bây giờ thì chưa có động tĩnh gì, nhưng sau này chính họ cũng trở nên là những người bảo thủ quyền lợi tư riêng để quyết định đương đầu với Đấng hôm nay là con trẻ trong một tương lai liên quan mật thiết với ba mươi năm về sau: họ sẽ đồng thanh đứng lên vu khống, kết tội và lên án tử với hình phạt đóng đinh trên cây thập giá nhân danh gìn giữ chính thống luật Mosê và sự thánh thiện, vẹn toàn đền thờ. Điều này xảy ra không chỉ do tư lợi của bản thân, mà còn bởi, từ khởi đầu, họ đã phạm phải lỗi lầm lớn: là việc thiếu tỉnh thức chờ đợi, thiếu sẵn sàng miệt mài để tâm theo dõi những gì đã, sẽ diễn ra được tiên báo nơi Kinh Thánh Cựu Ước.
Lạy ĐGS là TC nhân lành, Người đã dạy con luôn bền gan tìm gặp Người. Xin nâng đỡ và ban cho con đức bền gan để con biết xem thường những gì khác ngoài theo đuổi tư thế sẵn ở mọi khi trên đường, dù phải gian lao, vì để tìm gặp Chúa.
.
Lm Trịnh Ngọc Danh
Một biến cố trọng đại xảy ra tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, đó là biến cố Đức Giêsu ra đời. Các mục đồng thì được thiên sứ hiện ra báo tin. Họ đã đến chiêm ngắm và thờ lạy. Là dân ngoại, mấy nhà chiêm tinh từ phương đông lại khám phá ra vì sao của Đức Vua Dân Do thái vừa mới sinh ra,và họ đã lên đường tìm về Giêrusalem để bái lạy; trong khi đó, vua Hêrôđê và cả thành Giêrusalem thì không hay biết gì, dù trong sách ngôn sứ đã chép: “Phần người, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời.”
Cuộc hành trình của ba nhà thông thái về Giêrusalem để bái lạy Vua dân Do thái nói lên niềm khát vọng kiếm tìm chân lý và sự cứu độ. Qua thiên nhiên, họ đã nhận ra ánh sao xuất hiện nơi họ đang sống là dấu hiệu của Vua dân Do thái. Thiên Chúa bằng cách này hay cách khác vẫn tỏ hiện cho con người sự hiện diện và hành động của Ngài. Chỉ những ai bền chí, tin tưởng cố tìm đến Ngài, Ngài sẽ tỏ hiện cho họ. Ba nhà chiêm tinh là những người dân ngoại nhưng qua thiên nhiên, họ đã nhận ra ánh sáng, trong khi đó các nhà lãnh đạo Do Thái có Kinh Thánh, lại không nhận ra.
Ngày lễ Hiển Linh cho chúng ta thấy: Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa không dành riêng cho một số người hay một dân tộc nào, nhưng là cho hết mọi người. Ngài mặc khải và mời gọi người Do thái và dân ngoại cùng chia sẻ như nhau về ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Thiên Chúa được mang đến cho hết mọi người, vì tất cả mọi người đều là những chi thể của Thân Thể Đức Kitô. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêxô cũng đã khẳng định: “ Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.”( Ep 3:5)
Lễ Hiển Linh đã phá vỡ bức tường ngăn cách giữa người Do thái và dân ngoại, phá vỡ những thành kiến, mặc cảm giữa người đã tin và người chưa tin Thiên Chúa.
Vì sao đã hướng dẫn các nhà thông thái đến với Hài Nhi Giê su, thì nhiệm vụ của những ai đã đón nhận ánh sáng đức tin cũng phải hướng dẫn chính mình và những người chưa nhận biết Thiên Chúa vượt qua đêm tối để tìm về với ánh sáng.
Một hôm, sư phụ ngạc nhiên nghe thấy tiếng la lối, cãi vã trong sân nhà mình. Hỏi ra thì được biết có một trong những đệ tử của mình đang có mặt trong cuộc cãi vã đó. Ông cho gọi đệ tử ấy vào và hỏi lý do. Đệ tử nọ thưa: “Thưa thầy, có một nhóm học giả đến thăm thầy. Con bảo với họ rằng thầy không có thời giờ cho những người mà đấu óc chỉ ngập đầy những sách vở và tư tưởng, nhưng thiếu sự khôn ngoan. Họ chính là những người, do lòng tự phụ , đã tạo ra những giáo điều và bao sự chia rẽ cho người ta ở khắp nơi.” Thầy mỉm cưới nhận xét: “ Đúng lắm, đúng lắm! Nhưng hãy nói cho ta về phần con. Không phải do lòng tự phụ muốn tỏ ra mình khác với các học giả ấy mà con đã gây ra sự xung đột và chia rẽ này sao?
Ba nhà chêm tinh đã mau mắn đi theo ánh sao dẫn đường, nhưng trên đường đi, cũng đã có lúc họ lạc mất ánh sao. Họ mất phương hướng và đi trong tăm tối. Họ đã phải dò la, tìm hỏi; và nhờ Kinh Thánh, họ lại thấy ánh sao xuất hiện. Họ vui mừng và đã đến được với Hai Nhi. Trong cuộc sống của người Kitô hữu, tuy đã đón nhận được ánh sao đức tin, nhưng cũng có lúc mất phương hướng, mất đức tin. Phải qua cộng đoàn và Tin Mừng để tìm lại ánh sao ấy. Cuộc hành trình của ba nha chiêm tinh cũng là cuộc hành trình đức tin của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Sau khi đã tìm gặp được Hài Nhi, mấy nhà chiêm tinh đã tìm con đường khác mà về; cũng thế, khi đức tin đã được chiếu sáng, chúng ta cũng phải tìm con đường khác mà đi. Con đường ấy là từ bỏ những nếp sống cũ để sốn theo Tin Mừng là yêu thương phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
.
TÌNH NGÀI MỘT CHÚT ĐỦ VUI MỘT ĐỜI
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Hãy trông lại, chỉ một giây thôi. Hãy ban Lời, chỉ một câu thôi. Chúa đã từng dựng nên đất trời. Tình Ngài một chút đủ vui một đời”. Ca từ của một bản thánh ca đã làm tôi ngây ngất một thời. Bỗng giật mình vì Chúa đã tỏ mình cho muôn dân. Lời Chúa phán truyền cho nhân loại đã nên trọn hảo nơi chính Đấng làm người, Giêsu Kitô (x.Dt 1,1-2). Hội Thánh cử hành Lễ Hiển Linh cũng là để khẳng định rằng Thiên Chúa đã tỏ mình cho muôn dân, bất phân màu da, chủng tộc, quốc tịch, niềm tin, phận vị hay vai vế. Các mục tử, hầu chắc là Do thái giáo tại cánh đồng Bêlem và ba vị đạo sĩ Đông phương như là đại diện cho toàn thể nhân loại. Chúa đã tự tỏ mình, thế mà vẫn còn đó rất nhiều người chưa nhận ra. Tất cả đều có lý do. Phải chăng là do ở những cách thế Chúa tỏ mình khiến nhiều người khó tiếp nhận? Nào ta cùng xem thử những cách thế Chúa thường dùng để hiển linh hay tự tỏ mình ra cho loài người chúng ta.
- Vũ trụ thiên nhiên và các dấu chỉ thời đại: Tác giả Thánh Vịnh không chút do dự khi xác nhận: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa. Không trung loan báo việc tay Người làm…” (Tv 19). Thánh Tông đồ dân ngoại đã khẳng định với dân thành Roma: “Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (Rm 1,20).
Khi đi rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô cũng đã mời gọi người đương thời vốn biết luận suy các dấu chỉ thiên nhiên để biết tiết thời nắng mưa hay xuân hè thì cũng phải biết nhìn các hoạt động của Người để nhận ra triều đại Thiên Chúa đang đến (x.Lc 21,29-31). Tin Mừng thánh Matthêu trong thánh Lễ Hiển Linh hôm nay tường thuật ba nhà đạo sĩ Đông phương đã nhờ ánh sao lạ mà nhận ra sứ điệp của Thiên Chúa.
- Lời Thiên Chúa mạc khải qua Thánh Kinh: “Thưở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Là Kitô hữu, chúng ta dễ dàng chân nhận kho tàng mạc khải là Thánh Kinh. Tuy nhiên trong niềm tin Công giáo chúng ta còn nhìn nhận vai trò giải thích Thánh Kinh một cách chính thức và Tông Truyền của Hội Thánh mẹ.
Sau khi ánh sao lạ vụt tắt, ba nhà đạo sĩ đã vào thành Giêrusalem cầu cứu thì vua Hêrôđê đã cho vời các Trưởng Tế và luật sĩ đến để hỏi xem Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Nhờ lời Kinh Thánh, họ đã trả lời với Hêrôđê: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách Ngôn sứ có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2, 5-6).
Song song với nguồn mạc khải là Thánh Kinh thì Hội Thánh Công giáo còn tin nhận một nguồn mạc khải khác đó là Thánh Truyền. Đó là những gì Chúa Kitô truyền dạy cho các Tồng đồ mà không được ghi lại trong Kinh Thánh. Nói như Thánh Tông đồ Gioan: “Còn nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu ghi lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21,25). Đó là “việc lưu truyền Lời Chúa sống động được thực hiện trong Chúa Thánh Thần, là việc Chúa Cha truyền thông chính mình, nhờ Ngôi Lời và trong Chúa Thánh Thần; việc này vẫn tiếp diễn và tác động trong Hội Thánh” (GLHTCG số 79) (Tự Điển Công Giáo trang 314).
Thiên Chúa đã tỏ mình ra nghĩa là Người đã mạc khải chính Người, chương trình và ý định của Người cho nhân loại chúng ta. Người đã tỏ mình ra qua các công trình của Người theo dòng lịch sử là vũ trụ thiên nhiên, là các biến cố thời đại. Người đã tỏ mình ra qua Thánh Kinh, qua Đấng là Ngôi Lời, qua truyền thống đức tin của Hội Thánh do các Tông đồ truyền lại. Thế nhưng để nhận ra Thiên Chúa cũng như chuơng trình và ý định của Người thì còn cần một yếu tố có tính quyết định về phía con người đó là tấm lòng thành của một lương tâm ngay chính.
Biết bao người thời các đạo sĩ Đông phương vẫn có thể nhìn thấy ánh sao lạ, biết bao người thời vua Hêrôđê như các Thượng tế, các Kinh sư đều thông thuộc Thánh Kinh và ngay cả hôm nay cũng biết bao người đã nghe, hiểu lời giảng dạy của Hội Thánh, tiếp cận cách thời sự các dấu chỉ thời đại qua mạng lưới viễn thông, thế mà họ vẫn chưa nhận ra hay không nhận ra Thiên Chúa. Tất thảy chỉ vì họ đang thiếu tấm lòng thành như ba nhà đạo sĩ năm xưa. Rất có thể vì họ chưa có một lương tâm trong sáng và ngay lành.
“Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Sự trong sạch của tâm hồn ở đây không hạn hẹp ở việc giữ lòng thanh sạch, khỏi mọi vương vấn tà dâm. Một tâm hồn trong sạch, thiết nghĩ phải là một tâm hồn biết nhạy bén với điều hay, lẽ phải, với những điều tốt đẹp và sự thiêng thánh. Một tâm hồn trong sạch là tâm hồn biết tự do với những thiện hảo thế trần. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này khi khẳng định với các biệt phái rằng không phải giữ nghi lễ rửa chén bát, tay chân mà nên trong sạch nhưng khi biết đem những gì bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho chúng ta (x.Lc 11,37-41). Để có một tâm hồn trong sạch như thế, chắc chắn ta cần phải thanh luyện không ngừng để thoát khỏi những quyến luyến bất chính, từ bỏ tội ác, quyết tâm xa lánh chước cám dỗ đồng thời luôn tích cực dệt xây lòng hướng thượng và chí cầu tiến. “Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5,6). Tình Ngài một chút, đủ vui một đời. Gặp Người một chút, hạnh phúc cả đời.
.
LOẠI TRỪ THIÊN CHÚA, KHOA HỌC CÓ THỂ ĐI ĐẾN GIẾT NGƯỜI
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Nhà bác học Newton, là một nhà vật lý học nổi tiếng. Với việc phát minh ra kính viễn vọng, ông trở thành người đầu tiên trong nhân loại có thể nhìn và quan sát vũ trụ.
Sau khi nhìn thấy mọi huy hoàng rực rỡ và vẻ đẹp diệu kỳ của cả một thế giới bao la mênh mông bên ngoài trái đất thông qua công trình mới của mình, Newton đã thốt lên: Tôi thấy Thiên Chúa ở đầu kính viễn vọng của tôi.
Có phải Newton thấy Thiên Chúa bằng mắt thường qua viễn vọng kính? Không phải. Nhưng vũ trụ mà ông thấy được bằng tất cả sự hùng vĩ của nó, cho phép ông khẳng định: có Thiên Chúa!
Với ông, cũng như với những nhà khoa học chân chính, phải có một bàn tay thần diệu, một bàn tay đẹp tuyệt đối mới có thể tạo nên một vũ trụ lộng lẫy, huy hoàng đến độ quá sức tưởng tượng đến vậy.
Newton vừa là một người Công giáo, vừa là một nhà khoa học. Là người thông thái, ông làm khoa học, nghiên cứu khoa học, nhưng không tách khoa học ra khỏi đức tin của mình. Khoa học của ông là khoa học của đức tin.
Càng khám phá chân lý khoa học, càng nhận biết vẻ đẹp của thế giới, của vũ trụ, ông càng nâng cao đức tin, càng nhìn thấy Thiên Chúa mà mình tin, càng nhận ra sự tốt đẹp vô cùng của Người. Ông xác tín, Người là Thiên Chúa lộng lẫy, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa vĩ đại…
Mừng lễ Chúa Hiển linh, Hội Thánh công bố việc Thiên Chúa tỏ mình. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã tìm cách tỏ mình cho loài người. Người không ngừng bày tỏ chính mình qua nhiều cách thế, từ những mạc khải tự nhiên đến siêu nhiên, để con người nhận biết Người.
Có một câu giáo lý về mạc khải tự nhiên mà từ thưở nhỏ, chúng ta đều học: “Hỏi làm sao ta nhận biết Thiên Chúa – Thưa khi nhìn xem trời đất muôn vật và trật tự lạ lùng trong vũ trụ, ta liền biết có Thiên Chúa là Đấng tạo thành và an bài mọi sự”.
Trong lễ Hiển linh, chúng ta nhìn ngắm chân dung ba nhà đạo sĩ theo hướng của mạc khải tự nhiên này.
Ba đạo sĩ là những người nghiên cứu khoa học. Cũng tương tự như nhà bác học Newton, nhờ quan sát vũ trụ, ba đạo sĩ nhận thấy một ngôi sao lạ trên bầu trời. Nhờ đọc được ý nghĩa trong ánh sáng lạ lùng của một ánh sao, cả ba đều khám phá ra dấu chỉ về một Thiên Chúa quyền năng, một Thiên Chúa vĩ đại, một Thiên Chúa là chủ tể mọi loài, mọi sự. Cả ba tức tốc lên đường tìm kiếm. Qua bao khổ nhọc cho một hành trình, họ đã gặp Đức Chúa của lòng mình.
Trên thế giới, qua bao nhiêu thời, đâu chỉ có ba đạo sĩ hay Newton mới là những nhà khoa học. Trải qua lịch sử, đã có tầng tầng lớp lớp những người làm khoa học.
Nhờ khoa học, những người làm khoa học chân chính củng cố đức tin của mình, giúp bản thân nhận ra Thiên Chúa. Nhưng chắc chắn số này không nhiều, nếu không muốn nói là rất ít.
Nhất là thời đại hôm nay, không chỉ không thêm gì cho đức tin, mà nhiều người làm khoa học, còn nhân danh khoa học loại trừ Thiên Chúa. Cũng vì thế, thế giới dường như trở nên thế giới vô thần. Càng ngày người ta càng đẩy xa Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình.
Khi làm khoa học mà không có đức tin, không có Thiên Chúa, thứ hoa học ấy sẽ dễ dàng quay ngược trở lại giết chết con người. Chẳng hạt các loại vũ khí tàn độc. Chẳng hạn những trái bom nguyên tử như những lò sát sinh vĩ đại, hay những tội ác giết người của y khoa. Chẳng hạn những cách thức tiêu diệt môi trường, và mọi hình thức hủy diệt sự sống…
Nhưng bởi đâu mà ba đạo sĩ và cả những nhà khoa học chân chính lại có thể nhận ra Thiên Chúa trong công tác nghiên cứu khoa học của mình? Bởi họ có một tâm hồn khiêm nhường, một ý thức hướng thiện, một tấm lòng đơn sơ.
Thiên Chúa tỏ mình cho tất cả mọi người, không trừ ai. Nhưng chỉ có những người đơn sơ, khiêm nhường và hướng thiện mới có thể nhận ra Người.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn đang tỏ mình cho thế giới, cho từng người chúng ta. Chẳng hạn: qua một biến cố nào đó của cuộc đời mình, qua lòng tốt của anh chị em, qua sự đạo đức của người bên cạnh, qua biết bao nhiêu hoàn cảnh, bao nhiêu những suy tư… mà ta có thể nhận ra Thiên Chúa tỏ mình.
Thế giới vẫn đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần… Thế giới vẫn đầy dẫy những người học rộng, nghiêng cứu giỏi, hoạt bát, tinh ranh… Nhưng trong số họ, nhiều người thuộc nòi giống Hêrôđê. Họ tìm kiếm, nhưng lại cho kết quả là loại trừ sự sống, giết hại đồng loại, tẩy chay Thiên Chúa.
Họ không bao giờ nhìn thấy bất cứ một ánh sáng nào của lòng tin, của con đường đi về hạnh phúc trường cửu… Dòng dõi của Hêrôđê kiêu ngạo cho tới muôn đời, vẫn không tìm thấy Thiên Chúa, vẫn sống trong u tối, vẫn là những kẻ ngu dốt dù họ đầy những tri thức thực nghệm…
Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người khôn ngoan, khiêm tốn, đó là một dấu chỉ để nhận ra Thiên Chúa. Dù ngôi sao có sáng, nhưng lòng các đạo sĩ còn sáng hơn ánh sao. Họ đã lên đường, đã vượt qua bao nhiêu gian lao, đã đối mặt bao nhiêu mạo hiểm. Họ đã đến hang Bêlem, đã quỳ trên nệm rơm bái thờ Thiên Chúa.
Ánh sáng của tâm hồn, ánh sáng của lòng tin cho chúng ta gặp Chúa. Chúng ta hãy bắt chước các đạo sĩ: Chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Nhưng cũng như các đạo sĩ, chúng ta tin, đó là Đấng Cứu Chúa của mình.
Hãy cùng các đạo sĩ, chúng ta tiến dâng lễ vật là tấm lòng, là tình yêu của chúng ta. Chúng ta quyết tâm thờ phượng Chúa và yêu thương cả thế giới này. Đó là thế giới mà Chúa Hài Nhi yêu thương. Người đến đế cứu nó, để làm cho nó sống.
Mừng lễ Hiển Linh, suy niệm lại việc Chúa tỏ mình, chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta một tình yêu nồng nàn, một đức tin đơn sơ, một cõi lòng mềm dẻo sẵn sàng để Chúa uốn nắn thành những con người biết tha thiết đi tìm Chúa qua tất cả mọi thời gian sống, nơi mọi hoàn cảnh, mọi biến cố của đời mình.
.
Dã Quỳ
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, ít nhiều cũng có những cuộc hành trình. Có những lúc ta lên đường để thăm viếng một người thân, hay có khi ta đi xa để lo một công việc…Đôi lần ta còn thực hiện những chuyến đi quan trọng để tìm kiếm chân lý hay trở về với đời sống tâm linh… Hành trình nào cũng khiến chúng ta cần có sự chuẩn bị và đích đến rõ ràng. Nếu như chưa biết đường, ta rất cần tấm bản đồ hay sự hướng dẫn cụ thể… Hôm nay, Tin Mừng thuật cho chúng ta hành trình của các nhà chiêm tinh, một hành trình dài, gian khó và có mục đích, đó là “Hành trình tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu- Đấng Kitô mới sinh.” Vậy nhờ đâu họ có thể tìm đến đúng địa chỉ và gặp được đúng nhân vật mà họ kiếm tìm?
Ba nhà chiêm tinh là những người ở phương Đông xa xôi, đã lên đường tìm kiếm Hài Nhi Giêsu. Nhờ ánh sao lạ dẫn lối, các ngài đã tìm đến Belem, nơi Đức Maria, thánh Giuse và Hài Nhi Giêsu đang trú ngụ “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.” (Mt 2,9) Tỉnh thức và trung thành với ánh sao sáng dẫn đường; can đảm và dấn thân bước vào hành trình đầy mạo hiểm, ba nhà chiêm tinh đã đến tận nơi Hài Nhi ở. Họ vào phủ phục trước con trẻ mà trong Người, họ nhận ra là Vua dân Do thái, là Con Thiên Chúa mới sinh. Họ đã dâng tiến lên Người những lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược là lễ vật xứng hợp dâng kính vị Vua. Họ đã dâng lên Hài Nhi Giêsu tất cả tấm lòng chân thành, khao khát tìm Người, và vì thế, trong và qua Hài Nhi, Thiên Chúa hiển vinh đã thương tỏ mình cho họ.
Lòng tràn ngập niềm vui vì đã tìm thấy và bái lạy “Đức Vua dân Do thái mới sinh.” Giờ đây, các nhà chiêm tinh trở về quê hương xứ sở của mình. Họ dự tính sẽ quay lại báo cho Hêrôđê biết về Hài Nhi và cũng trở về bằng con đường cũ họ đã đi đến. Thế nhưng, Thiên Chúa đã tính cho họ cách khác. Trong giấc mơ, họ được báo rằng sự sống của họ và của cả Hài Nhi đã bị nguy hiểm từ khi họ gặp Hêrôđê- người dặn dò và mong họ trở lại. Vì thế, “họ đã đi lối khác mà về xứ sở mình.”(Mt 2,12)
Như thế, phải chăng không có cùng một con đường để cho tất cả mọi người khám phá ra sự hiện diện của Hài Nhi Giêsu và yêu mến tôn thờ Người? Cũng là con đường ấy, nhờ ánh sao dẫn lối, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến nơi và triều bái Đấng Kitô. Nhưng Hêrôđê, các thượng tế và kinh sư dù am tường Kinh Thánh và biết rõ nơi Hài Nhi sinh ra, thế mà họ đã không lên đường đến thờ lạy Người. Trái lại, vì lòng kiêu căng ích kỷ, họ đã tìm kiếm chỉ để sát hại Người. Ba nhà chiêm tinh khi đã gặp gỡ Hài Nhi Giêsu, họ biết lắng nghe, thay dự định, đổi lối đi, rời bỏ con đường quen thuộc để bước trên con đường mới và chắc chắn đó là con đường không biết trước. Họ cần phải chú ý nhiều hơn, điều chỉnh lại phương cách, suy nghĩ, sự nhận định và cách xử thế của họ. Bây giờ, họ khởi hành trong tâm tình mới, với trạng thái an bình vì có Ngôi Sao Sáng là chính Đức Kitô ở trong họ, soi đường dẫn lối cho họ.
Thật vậy, Thiên Chúa vẫn không ngừng tỏ mình ra và lôi kéo tất cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Con đường đến với Chúa Kitô là con đường đưa tới hạnh phúc và dẫn về Nước Trời. Thế nhưng đây không phải là con đường thênh thang chúng ta ưa thích, mà là “Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.“( Mt 7,14) Trên con đường này, chính Chúa Kitô là ánh sao chỉ đường dẫn lối và đồng hành cùng ta. Những người cùng đi bên cạnh ta là anh em, là con cùng một Cha. Những người ấy cần được đón tiếp, không bị xét đoán nhưng cần được giúp đỡ tận tình và phục vụ, tha thứ. Những người ấy phải được yêu thương cho đến cùng, vì dấu chỉ mà Chúa Giêsu nhắc nhớ ta là “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13,35)
Mừng Lễ Chúa Hiển Linh, mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi hăng hái bước theo ánh sao Lời Chúa, ánh sao trong các biến cố cuộc đời và nhất là ánh sao Chúa Giêsu Kitô, để đến thờ lạy, dâng lên Người trọn vẹn tâm hồn, thân xác và cuộc đời của ta. Đồng thời, nhờ ánh sáng của Chúa hướng dẫn và đổi mới, ta được trở nên ánh sao nhỏ: Ánh sao của tình yêu thương, ánh sao của niềm hy vọng, ánh sao của lòng tin tưởng, ánh sao của cảm thông và bác ái… sẽ là những ánh sao thiết thực nhất, chiếu sáng rõ để dẫn lối cho nhiều bạn bè, anh chị em xung quanh nhận ra sự hiện diện của Chúa Kitô, tin yêu và tôn thờ Người là Thiên Chúa thật để được hưởng ơn cứu độ. Đây cũng là sứ mệnh và trách nhiệm của từng người Kitô hữu Việt Nam chúng ta hôm nay: trách nhiệm Truyền Giáo. Để rồi một ngày, chúng ta sẽ thực sự hạnh phúc ca lên rằng: “Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Người.”
Lạy Hài Nhi Giêsu Kitô, xin chiếu dãi ánh sáng của Chúa vào tâm hồn và cuộc đời chúng con, để chúng con đủ sức vững bước, vượt qua cõi đời tăm tối này. Và xin Chúa cho chúng con biết ý thức ơn gọi truyền giáo của mình, để tất cả nhân loại chúng con được gặp gỡ Chúa và được cứu độ. Amen.
.
LÀ ÁNH SÁNG CHIẾU SOI MUÔN DÂN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 2,1-12
(1) Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem (2) và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. (3) Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu? (5) Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: (6) “Phần ngươi hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa. Ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa. Vì ngươi là nơi Vị Lãnh Tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. (7) Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin qúi ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho Trẫm, để Trẫm cũng đến bái lạy Người”. (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại xuất hiện dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người. Rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
- Ý CHÍNH: NHỜ ÁNH SAO DẪN ĐƯỜNG, DÂN NGOẠI ĐÃ TÌM THẤY CHÚA.
Khi Đức Giê-su giáng sinh tại Bê-lem, có mấy đạo sĩ từ phương Đông đã theo ngôi sao lạ đi tìm Đấng Cứu Thế. Nhờ ánh sao dẫn đường và sau khi vượt qua nhiều trở ngại, cuối cùng các ông đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế. Các ông đã biểu lộ đức tin bằng thái độ sụp lạy và tiến dâng lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Sau đó, các ông vâng lời thiên thần để theo con đường khác trở về quê hương.
- CHÚ THÍCH:
– C 1-2: +Vua Hê-rô-đê: Đây là Hê-rô-đê Đại Vương, một con người đa nghi, độc ác và tham quyền cố vị, băng hà vào năm 4 sau Công Nguyên (x. Mt 2,15). Phân biệt với Hê-rô-đê An-ti-pa hay Hê-rô-đê Con, kế vị vua cha cai trị xứ Ga-li-lê. Hê-rô-đê Con cũng độc ác không kém vua cha. Chính ông đã ra lệnh chém đầu Gio-an Tẩy Giả và có lần đã xét xử Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn của Người. +Mấy nhà chiêm tinh: Cũng gọi là đạo sĩ, đến từ phương Đông (x. Ds 23-24). Đây là những nhà thông thái, am tường khoa chiêm tinh. Dựa vào 3 lễ vật họ dâng mà người ta quả quyết có 3 vị. Truyền thuyết dân gian còn kể tên 3 vị ấy: Melchior da trắng ; Gaspar da vàng ; Balthaza da đen để nói lên rằng: Ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, màu da hay tiếng nói, không chỉ riêng cho dân Do Thái.
– C 5-6: +Họ trả lời: “Tại Bê-lem.”..: Có một sự đối nghịch về thái độ đối với Đấng Cứu Thế giữa dân Do Thái và lương dân: Các thượng tế và kinh sư là những người dựa vào Kinh Thánh biết rõ nơi sinh của Hài Nhi Cứu Thế là Bê-lem, nhưng lại thờ ơ. Đang khi dân ngoại vất vả đi tìm Người. +Thành Bê-lem: Là một thị trấn nhỏ thuộc miền núi xứ Giu-đê, cách Giê-ru-sa-lem 10 cây số về phía Nam. Bê-lem này là quê hương của vua Đa-vít (x. 1 Sm 16,1 tt).
– C 7-8: +Hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện: Vì Hê-rô-đê muốn biết đích xác tuổi của Hài Nhi Cứu Thế và đã ra lệnh cho quân lính giết các trẻ nam tại Bê-lem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống.
– C 9-10: +Ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại xuất hiện dẫn đường cho họ: Đây là một ngôi sao có những đặc tính khác thường như: Lúc ẩn lúc hiện, lúc đi trước dẫn đường và lúc thì dừng lại… do Thiên Chúa ban, để trợ giúp các nhà chiêm tinh đi tìm Hài Nhi Cứu Thế.
– C 11-12: +Họ vào nhà: Chắc chắn sau đêm Chúa giáng sinh, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a không tiếp tục cư ngụ tại cánh đồng Bê-lem vì thiếu các tiện nghi tối thiểu mà đã vào thị trấn Bê-lem thuê một căn nhà ở tạm.+ Sấp mình bái lạy Người: Các đạo sĩ biểu lộ đức tin Hài Nhi là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. + Lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến: Các nhà chiêm tinh dâng lên Hài Nhi ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược, là đặc sản của quê hương các ông. Vàng tượng trưng đức tin, nhũ hương tượng trưng đức cậy và mộc dược tượng trưng đức mến. Theo các giáo phụ thì Vàng ám chỉ tước vị Vua, nhũ hương chỉ tước vị Tư Tế, mộc dược ám chỉ cuộc tử nạn và mai táng bằng dầu thơm sau này. + Đi lối khác về xứ mình: Hê-rô-đê không thể chống lại quyền năng, tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Những ai chống lại Thiên Chúa sớm muộn cũng sẽ thất bại và chuốc lấy hậu quả tai hại cho mình mà thôi.
- CÂU HỎI: 1) Phân biệt Hê-rô-đê Đại Vương khác với vua Hê-ro-đê An-ti-pa thế nào trong sự đối xử với Đức Giê-su và về sự gian ác quỷ quyệt? 2) Các nhà chiêm tin trong Tin Mừng có phải là vua không? Vì sao người ta gọi là 3 vua và theo truyền thuyết thì tên ba vị là gì và mang ý nghĩa như thế nào? 3) Các thượng tế và kinh sư Do thái dựa vào đâu mà nói nơi sinh của Đấng Cứu Thế là Bê-lem? So sánh giữa thái độ của các nhà thông thái của dân Do thái và của các đạo sĩ ngoại giáo trước việc Đấng Cứu Thế ra đời như thế nào? 4) Hê-rô-đê hỏi về ngày giờ ngôi sao lạ xuất hiện để làm gì? 5) Các đạo sĩ biều lộ đức tin thế nào khi gặp Hài Nhi Cứu Thế? 6) Ý nghĩa tượng trưng của ba lễ vật các đạo sĩ dâng là gì? Các giáo phụ giải thích ba lễ vật như thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2,11).
- CÂU CHUYỆN:
1) CHIẾU SÁNG LÀ SỰ CẢM THÔNG VÀ SẴN SÀNG GIÚP ĐÕ THA NHÂN CÁCH CỤ THỂ:
Có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: “Tại sao các đạo sĩ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏ, mà để Chúa phải nằm trong máng rơm lạnh lẽo như vậy hả mẹ ?”
Một tấm lòng và một sự quan tâm thực sự đến nhu cầu của tha nhân. Cô bé cảm nhận được nhu cầu của cuộc sống thực tế đời thường. Sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy được tâm tư và sự cảm thông của lòng em gái này. Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi chúng ta cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng khổ nghèo đói chung quanh chúng ta. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và một chỗ để nương thân. Hài Nhi Giêsu đã chạm đến cái cùng cực nghèo khó của thân phận con người. Từ đó, Chúa mời gọi chúng ta: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25, 40).
2) CHIẾU SÁNG ĐỨC ÁI LÀ BIẾT CHO NGƯỜI NGHÈO QUẦN ÁO CÒN TỐT.
Một buổi chiều nọ, anh con trai thấy một người hành khất áo quần rách nát đứng xin trước cổng nhà. Anh ta liền vào nhà rồi lấy ra một bộ quần áo cho người ăn xin. Bộ đồ này đã cũ và bị rách toạc một miếng ngay tại đầu gối, nên từ lâu anh này không thèm mặc. Nhận được bộ đồ cũ, người hành khất mừng và cám ơn rối rít, vì tuy cũ nhưng nó cũng còn tốt hơn bộ quần áo ông ta đang mặc. Sau đó lão hành khất liền mặc ngay bộ đồ mới vào người. Còn anh thanh niên thì cảm thấy vui vì nghĩ mình đã làm được một việc thiện cho người nghèo.
Mấy tháng sau, một hôm người hành khất kia lại đến xin. Lần này ông ta mặc bộ đồ lành lặn và còn mới. Chàng thanh niên thấy ông lão mặc bộ đồ màu sắc giống như bộ đồ của mình liền hỏi: “Sao ông có bộ đồ mới thế kia ?” Lão hành khất liền tươi cười trả lời: “Thì đây cũng là quần áo của anh đó ! Số là cách đây một tuần, khi tôi mặc bộ quần áo anh cho hôm trước, đến xin thì gặp ba anh. Thấy tôi mặc bộ đồ rách, ông cụ hỏi ai cho. Tôi trả lời là một anh ở trong nhà ông. Ông im lặng rồi vào nhà đem ra bộ đồ tôi đang mặc đây và nói: “Xin lỗi ông, lần trước con tôi đã lấy lộn bộ đồ rách bỏ đi mà cho ông. Hôm nay tôi thay nó để biếu ông bộ đồ tốt này”.
Sau khi người hành khất ra về, chàng thanh niên lập tức vào nhà tìm cha và cằn nhằn tại sao ông lại đem cho bộ đồ mà anh vẫn còn đang sử dụng. Bấy giờ người cha liền tươi cười nói rằng: “Con ơi, cha rất vui khi thấy con biết thương người và cho người nghèo quần áo để mặc. Nhưng cha biết con còn nhiều quần áo không sử dụng đến mà tại sao con không cho ? Lần sau nếu cho ai thứ gì, thì con nên cho những gì còn dùng được. Chứ nếu cho họ bộ đồ đã rách thì họ làm sao có thể mặc được hả con ?”
- SUY NIỆM:
1) XIN THÌ SẼ ĐƯỢC; TÌM THÌ SẼ GẶP; GÕ THÌ SẼ MỞ:
Khi hay tin Đấng Cứu Thế mới ra đời, thái độ của các người có liên quan như thế nào?
– Các mục đồng nghèo khó: đang chăn giữ đoàn chiên ở vùng phụ cận Be-lem đã mau lên đường đi tìm kiếm Hài Nhi Cứu Thế dựa theo dấu chỉ mà sứ thần đã cho họ biết. Vua Hêrôđê và hoàn cung nghe tin đã đi tìm nhưng không phải để triều bái Người như ông đã nói với các đạo sĩ, mà là để giết hại Người. Còn dân thành Giêrusalem thì hoảng hốt, thay vì vui mừng trước tin Đấng Cứu Thế đã ra đời. Còn các thượng tế và luật sĩ có sự hiểu biết Lời Chúa trong Kinh Thánh, có thể chỉ đường cho các đạo sĩ hãy tìm Đấng Cứu Thế tại Be-lem, nhưng chính họ lại không thiết tha đi tìm. Chỉ có các vị đạo sĩ khi nhìn thấy ngôi sao lạ bên trời Đông, đã vội vã chuẩn bị lễ vật và lên đường tìm kiếm. Các ngài đã trải qua nhiều nỗi vất vả và trắc trở và cuối cùng đã tìm thấy Hài Nhi Cứu Thế. Họ đã sụp lạy, dâng tiến lễ vật và nghe lời sứ thần mộng báo, họ đã chọn đi theo con đường khác trở về quê hương mà không quay lại với con đường gian ác của vua Hê-rô-đê muốn tìm giết hại Hài Nhi mới sinh.
– Các vị đạo sĩ: chỉ có một dấu hiệu mơ hồ là ánh sao lạ trên bầu trời, nhưng họ đã can đảm ra đi và kiên trì tìm kiếm, nên đã được Chúa trợ giúp vượt qua những gian nan để tìm thấy Hài Nhi Cứu Thế, rồi tin thờ Người và được hưởng ơn cứu độ của Người ban cho. Ngày nay cũng có rất đông anh chị em lương dân đang miệt mài nghiên cứu tìm kiếm sự thật trong các lãnh vực: khoa học, kỹ thuật, triết lý, nghệ thuật…, đang cố gắng tu tập để nên tốt hơn dựa theo ánh sáng giới hạn là các điều thiện hảo nơi các tôn giáo ngoài Kitoo giáo, hay đang tận tâm lo bảo về môi trường trái đất ngày một an toàn tốt đẹp hơn. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa vẫn đang đồng hành với họ mà họ không hay biết. Xin cho họ sớm nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong trật tự lạ lùng nơi vũ trụ, và giúp họ sớm nhận biết Chúa Giê-su là “sự thật toàn vẹn, sự sống đời đời và là đường duy nhất dẫn đưa loài người lên trời gặp Thiên Chúa”.
– Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta: Nguyên việc tin thờ Chúa tại nhà thờ, nghe Lời Chúa giáo huấn là điều cần, nhưng chưa đủ để chúng ta nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúa đòi chúng ta còn phải luôn đi tìm kiếm Chúa và thực thi thánh ý của Ngài qua việc học sống Lời Chúa trong Thánh Kinh, và qua các dấu chỉ của thời đại. Rồi khi đã tìm gặp Chúa, chúng ta còn phải chu toàn sứ vụ làm cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Chúa đến để ban ơn cứu độ cho mọi người, nhưng không phải mọi người đều được cứu độ, mà chỉ những ai tin Đấng Cứu Thế Giê-su và đi theo con đường của Người.
2) TRỞ NÊN ÁNH SAO LẠ DẪN ĐƯỜNG CHO LƯƠNG DÂN TÌM GẶP CHÚA:
Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
– Là ngôi sao là phải chiếu sáng: Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu cũng chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ có ánh sáng, phản chiếu ánh sáng đón nhận từ ơn Chúa ban và từ việc thực hành Lời Chúa trong Thánh Kinh.
– Phải chiếu ánh sáng tin yêu: Tin yêu Chúa và tin yêu tha nhân. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu để sẵn sàng tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối của chia rẽ thù hận, bất hoà bè phái. Tin yêu là ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi nhau, con người trở nên thân thiện với nhau, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng sống hơn.
– Phải chiếu ánh sáng công bình, bác ái: Tin Chúa được biểu lộ bằng sự tôn trọng sự công bình trong cuộc sống. Yêu Chúa phải được thể hiện qua lối sống bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức thánh thiện. Một người chỉ mong tìm kiếm vật chất tiền bạc sẽ luôn sống trong bóng tối tuyệt vọng và cô đơn tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng thánh thiện mới đủ sức phá tan những bóng tối tội lỗi gian ác ấy và mới làm cho thế giới ngày một an hòa hạnh phúc và vui tươi.
– Phải chiếu sáng hy vọng ơn cứu độ của Chúa: Niềm hy vọng vào một “Trời Mới Đất Mới” cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng đời sau giúp chúng ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này, để “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
3) ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ CỦA CHÚA:
Thế giới hôm nay đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chính qua ánh sáng ấy, mọi người trên thế giới sẽ nhận biết và tin yêu Chúa.
– Muốn tìm thấy Chúa đòi ta phải hy sinh: Các đạo sĩ phải ra khỏi nhà, sẵn sàng đón nhận bất ngờ trong cuộc sống: Họ nghĩ Đấng Cứu Thế phải là con của nhà vua, phải sinh ra tại kinh thành hoa lệ, nên họ đã đến thủ đô Giê-ru-sa-lem vào hoàng cung mà hỏi: “Vua Do thái mới sinh hiện ở đâu ?” Nhưng Hài Nhi Cứu Thế lại không sinh ở nơi giàu có sang trọng, mà tại một cái hang chiên bò hôi tanh, trong hình hài một trẻ thơ mới sinh yếu đuối bọc trong tã và nằm trong máng cỏ nghèo hèn.
– Muốn tìm thấy Chúa đòi ta phải dấn thân đi tìm: Các Thượng tế và kinh sư biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế là thành Bê-lem, nhưng lại không đi tìm, đang khi các đạo sĩ dù chỉ suy đóan mơ hồ, nhưng họ lại quyết tâm lên đường tìm kiếm, nên cuối cùng họ đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế.
– Muốn tìm thấy Chúa đòi ta phải chuẩn bị tinh thần: Khi đi tìm Chúa, các đạo sĩ đã chuẩn bị lễ vật để mang theo là các đặc sản từ quê hương như: vàng, nhũ hương và mộc dược để làm lễ vật dâng tiến Hài Nhi. Những lễ vật này chỉ là những biểu hiệu của lễ vật thiêng liêng là đức Tin, đức Cậy và đức Mến. Khi dâng vàng, các đạo sĩ cũng tuyên xưng vương quyền của Hài Nhi Giê-su. Dâng nhũ hương, các ngài nhận Hài Nhi là tư tế của Giao Ước Mới; Dâng mộc dược là các ngài đề cao mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đấng Thiên Sai sau này.
– Rồi khi gặp được Chúa, đòi ta phải đổi mới đời sống: Sau khi gặp Chúa, các đạo sĩ đã nghe lời sứ thần mộng báo, để không quay lại với vua Hê-rô-đê độc ác, nhưng đã chọn đi đường khác trở về quê hương mình. Đây cũng là bài học cho chúng ta: Một khi đã có đức tin, đã gặp được Chúa là nguồn Chân Thiện Mỹ, chúng ta phải dứt khoát với quá khứ tội lỗi gian ác, để quyết tâm sống theo con đường tin yêu là khiêm tốn phục vụ noi gương Chúa Giê-su.
- THẢO LUẬN:
1) Bạn có khi nào cảm phục một ai đó trong số các nhà khoa học gia, nghệ sĩ, diễn viên điện ảnh, thầy cô hay bạn bè ngoại giáo không ? 2) Ngày nay bạn có thấy Chúa tiếp tục tỏ mình ra nơi những người lương hay không ? 3) Bạn sẽ làm gì để trở thành ngôi sao lạ dẫn đường cho các bạn bè ngoại giáo tìm thấy Chúa và tin theo Người ?
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng con mừng ngày Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà các đạo sĩ là đại diện. Các vị này tuy chỉ thấy một ánh sao lạ, mà đã nhận biết Đấng Cứu Thế ra đời. Các ngài đã vất vả tìm kiếm Chúa và sau nhiều gian lao vất vả, đã gặp được Người. Nhờ đức tin, các ngài đã nhận ra Hài Nhi nghèo hèn chính là Vị Vua Cứu Thế, nên đã khiêm nhường sấp mình bái lạy và dâng tiến lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược.
– LẠY CHÚA. Biết bao lần chúng con đến nhà thờ nhưng đã không gặp được Chúa. Đạo con giữ mới chỉ là những thói quen; Lễ con dâng chỉ là những lời kinh sáo rỗng nhàm chán; Của cải con cho người nghèo chỉ là những thứ đồ hư vất bỏ… Nhưng con lại tưởng mình đạo đức thánh thiện và đang làm chứng cho Chúa. Ước gì hôm nay con nhận ra những thiếu sót của mình, để của lễ con dâng phải là thứ vàng đức tin quý giá, là nhũ hương của đức cậy khiêm nhu, là mộc dược của lòng hy sinh mến Chúa nồng nàn. Hy vọng Chúa sẽ vui nhận, và ban muôn hồng ân cho chúng con. Để khi gặp được Chúa, như các vị đạo sĩ xưa, chúng con sẽ tránh xa những thói gian ác lọc lừa, biết làm theo những Lời Chúa dạy, biết sống hiệp nhất xin vâng và phục vụ để sau này cùng được về quê trời hưởng hạnh phúc với Chúa đời đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Từ điển Công Giáo của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam định nghĩa: “Hiển Linh là sự tỏ ra cách linh thiêng”. Ban đầu nó được Giáo hội dùng để mừng sinh nhật của Đức Giêsu vì Người là Thiên Chúa lại xuất hiện trong thân phận con người, Ngài đã “tỏ ra cách linh thiêng”. Về sau Lễ Hiển Linh còn mang ý nghĩa về biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, vì đó là lúc Chúa Cha chính thức giới thiệu Chúa Con cho nhân loại. Ở Tây phương, lễ Hiển Linh nhấn mạnh đến việc ba hiền sĩ đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, mang ý nghĩa Ngôi Lời tỏ mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba hiền sĩ. Lời tổng nguyện ngày hôm nay cho chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của lễ này: “…Hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa…”. Nhờ ánh sáng của ngôi sao mà ba hiền sĩ đã đến được hang đá Bêlem để thờ lạy Hài Nhi Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa.
Vì vậy ý nghĩa chính yếu của lễ Hiển Linh là Thiên Chúa muốn bày tỏ Thần tính của Ngài cho nhân loại chúng ta. Thần tính đó được thể hiện qua hình hài của một trẻ thơ theo như lời loan báo của sứ thần trong đêm Giáng sinh: “Hôm nay Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa vít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 11-12). Trong thành vua Đavit ngày đó, tháng đó, năm đó có bao nhiêu trẻ sơ sinh? Làm sao biết được! Lại phải đi tìm xem trẻ nào nằm trong máng cỏ? Quả thực như một trò chơi tìm mật thư. Sự xuất hiện của ngôi sao lạ trên bầu trời đêm đông năm ấy chính là chìa khóa cho “những người thiện tâm” lên đường đi tìm vua dân Do Thái mới sinh. Nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ ấy mà họ đã tìm gặp Vua Giêsu.
I. NHỮNG NGÔI SAO GIỮA ĐỜI
Đích điểm của ngôi sao là Hài Nhi Giêsu: “Bấy giờ ngôi sao họ dã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại” (Mt 2, 9). Tất cả những ai giúp người khác nhìn thấy được tình yêu trong cuộc đời đều là những ngôi sao. Họ là ánh sáng để cho người khác nhận thấy sự hiện hữu của Thiên Chúa, vì Ngài là Tình yêu.
- Những con người biết sẻ chia
Nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trong mùa Giáng Sinh chính là ông già Noel. Hình ảnh tiêu biểu của ông già Noel là một ông già mặc bộ đồ màu đỏ viền trắng, thắt lưng da đen, đội chiếc nón đỏ với chòm râu dài trắng, bộ mặt hóm hỉnh, tồn tại trong nhiều văn hoá, đặc biệt ở các nước phương Tây. Truyền thuyết cho rằng ông già Noel sinh sống tại Bắc Cực với những người lùn. Ông dành đa số thời gian để chuẩn bị quà, đồ chơi cho trẻ em với sự giúp đỡ của những chú lùn. Vào dịp Giáng Sinh, ông nhận được rất nhiều thư của trẻ em khắp thế giới. Và mỗi đêm Giáng Sinh, ông lại bắt đầu cuộc hành trình của mình với cỗ xe kéo bởi tám con tuần lộc để mang quà và đồ chơi cho các thiếu nhi.
Ông già Noel chỉ là truyền thuyết, nhưng qua đó muốn chuyển tải thông điệp của mầu nhiệm Giáng Sinh là việc Thiên Chúa tặng cho con người món quà quý giá nhất, chính là Con Một của Ngài.
Trong đêm Giáng Sinh vừa rồi, sau khi biểu diễn 2 điểm ở Hà Nội, trên đường đi ăn tối, khi đi ngang qua góc đường, ca sĩ Mỹ Tâm thấy có một sân khấu dựng tạm, các bạn trẻ đứng trên sân hát mà không một bóng người xem. Cô đã kêu người bạn của mình quay xe lại. Đến nơi, cô ca sĩ nổi tiếng này mới biết đó là sân khấu của các bạn khiếm thị hát để kêu gọi quyên góp cho những trẻ em nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, nhưng khổ nỗi không ai đến xem!
Nhiều bài báo đã viết: “Khi biết bạn ca sĩ đứng trên sân khấu thích bolero, Mỹ Tâm đã yêu cầu hát bài Sầu tím thiệp hồng và phải nhìn điện thoại hát theo lời. Thậm chí, Mỹ Tâm chấp nhận hát theo tông nam và hát hơi với để bạn trai hát đúng tông và thoải mái. Sau khi hát xong, Mỹ Tâm còn thăm hỏi và kêu gọi mọi người cùng ủng hộ đóng góp các bạn trẻ kém may mắn. Và đoạn đường từ không một bóng người đến khi Mỹ Tâm xuất hiện đã nghẹt cả đoạn đường. Nhiều khán giả còn yêu cầu Mỹ Tâm hát thêm 1 bài nhưng cô đã từ chối: “Sân khấu của người ta, mình hát kỳ lắm”. Sau đó, cô lại không ngại yêu cầu mọi người hãy ủng hộ và còn chỉ thùng quyên tiền để mọi người giúp các bạn trẻ”.
Hành động của Mỹ Tâm đã đem đến món quà Giáng Sinh thật ý nghĩa cho chàng trai khiếm thị và nhiều người khác. Người ta đã gọi cô là “Bà già Noel”. Cô là “ngôi sao” cả nghĩa đen và nghĩa bóng, vì cô là ca sĩ nổi tiếng, hơn thế nữa, còn cho người khác thấy tình yêu đích thực là biết sẻ chia.
- Những con người biết đến với người khác
Trong lịch sử 13 hoàng triều Mãn Thanh của Trung Quốc, triều đại Khang Hy được xem là triều đại bình yên nhất. Khang Hy là một vị vua anh minh, sáng suốt trong đường lối trị nước và thương yêu dân chúng như con của mình. Một điều hết sức đặc biệt nơi vị hoàng đế này là thích đến với dân chúng trong bộ dạng của thường dân, nhờ vậy mà ông biết được nội tình của đất nước để thẳng thừng ra tay trừng trị bọn tham quan, ô lại, nhũng nhiễu làm hại dân lành; biết được hoàn cảnh của dân chúng để đáp ứng những nhu cầu chính đáng của họ…
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là một vị lãnh đạo gần gũi với dân chúng. Từ khi còn là Hồng Y Bergoglio của đất nước Argentina, Ngài thường xuyên đến thăm dân chúng ở những khu ổ chuột. Khi làm Giáo hoàng, Ngài cũng ưu tiên cho những người nghèo, những người vô gia cư, những tù nhân, những người tị nạn. Vì vậy Ngài thường xuyên với những hạn người này.
Mùa Giáng Sinh năm nay, Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, Giám mục Giáo phận Xuân Lộc cũng làm một việc chưa có tiền lệ, Ngài chia sẻ niềm vui Giáng Sinh với anh chị em công thương ở chợ Long Khánh – Đồng Nai vào ngày 23/12/2016. Đức Cha đến thăm từng gian hàng kể cả những gian hàng tươi sống, tanh hôi để thăm hỏi, chúc mừng Giáng Sinh và tặng quà đến các tiểu thương Công giáo cũng như không Công giáo. Sự hiện diện của Ngài làm cho chợ Long Khánh hôm đó bừng lên niềm vui nhờ tiếng cười của các tiểu thương được gặp gỡ vị Giám mục đại diện của Chúa.
Những ai biết đến với người khác, nhất là những phận người đau khổ về nhiều mặt, họ sẽ làm cho những người đó đón nhận được tình yêu thương, khi đó họ trở thành “ngôi sao” vì họ cho người khác thấy Tình Yêu vẫn còn hiện diện trong cuộc đời.
II. ĐỂ TRỞ THÀNH ÁNH SÁNG
Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Các Đạo Sĩ không cất bước lên đường vì họ đã thấy một ngôi sao, nhưng thực ra họ thấy ngôi sao bởi vì họ đã cất bước lên đường”. Tâm hồn họ luôn mở ra cho những điều thiện hảo, lòng họ luôn hướng đến những thực tại cao cả ở trên trời. Nhờ những thao thức tốt lành đó mà họ được ánh sáng hướng dẫn để họ tìm gặp Hài Nhi Giêsu.
Vì vậy muốn gặp được Ánh Sáng, mỗi người chúng ta cũng phải có những thao thức tốt lành, phải biết sống cho những điều thiện hảo. Chính lúc đó chúng ta sẽ được ánh sáng Chúa soi dẫn để lên đường tìm gặp ơn cứu độ; và cũng chính lúc đó chúng ta trở thành ánh sáng để xua đi những đêm tối trong cuộc đời.
- Trong gia đình
Những bậc phụ huynh càng phải có trách nhiệm hướng dẫn cho con cái mình “lên đường” để tìm kiếm ơn cứu độ. Chắc chắn trong hành trình tìm kiếm ơn cứu độ đó, có lúc gia đình sẽ đi trong đêm tối do khủng hoảng kinh tế, do những đam mê riêng tư làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, do những hiểu lầm… Nhưng gia đình nào vẫn còn trung thành với giờ kinh hôm chung với nhau, thì đó chính là ánh sáng để giúp gia đình đó thoát được những đêm tối, vì trong giờ kinh hôm sẽ có những giây phút sám hối để biết mình sai mà sửa đổi.
Gia đình Kitô hữu còn trở thành ánh sáng khi gia đình họ là địa chỉ của sự chia sẻ về nhiều thứ trong khả năng của họ. Điều đó chỉ có được nơi một gia đình biết đến với người khác khi có người đau yếu bệnh tật, khi có những dịp hiếu hỷ, khi có những gì cần giúp đỡ; biết chủ động bảo vệ môi trường bằng việc thu gom rác thải, khai thông cống rãnh, quét dọn đường xá sạch đẹp… dù đó không phải là phần đất của mình…
- Nơi các bạn trẻ
Sống trong xã hội hôm nay các bạn trẻ vừa khó lại vừa dễ trở thành ánh sáng. Nếu các bạn không có một lý tưởng cao cả, không có ý thức để tránh những tư tưởng độc hại, những lối sống sai trái… thì chắc chắn chính các bạn đang đi trong đêm tối. Còn nếu người trẻ Công giáo biết tự hào về niềm tin của mình, biết tích cực sống cho niềm tin đó đúng với những gì Đức Giêsu đã giảng dạy và Hội thánh hướng dẫn thì chắc chắn các bạn đang bước đi theo một ánh sáng rực rỡ. Khi các bạn biết cống hiến sức lực, khả năng của mình vào những điều tốt lành như những hoạt động bác ái xã hội, những vui chơi giải trí lành mạnh, tham gia những phong trào hữu ích… thì các bạn đang góp phần làm cho cuộc đời này thêm tươi sáng. Một truyền thống tốt đẹp mà các bạn trẻ ngày hôm nay đang dần đánh mất đi chính là việc không biết đến với người khác, kể cả bà con họ hàng. Hãy giữ truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam bằng cách lên đường đến với những người xung quanh, nhất là những trong bà con họ hàng.
Thiên Chúa đã tỏ Thần tính của Ngài và nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ dẫn lối chỉ đường cho ba hiền sĩ đến gặp gỡ. Chúng ta đang lên đường để tìm kiếm vinh quang đó nhờ đức tin hướng dẫn. Xin Chúa cho đức tin của chúng ta ngày càng lớn mạnh.
Chúng ta được mời gọi trở thành ánh sáng khi biết sống chia sẻ với mọi người, khi biết lên đường để gặp gỡ tha nhân. Xin Chúa cho cuộc đời chúng ta thực sự là ánh sáng.
Đặc biệt, xin cho mỗi gia đình chúng ta cũng rực lên ánh sáng của Chúa khi trong gia đình chúng ta vang lên những lời kinh nguyện, và sáng lên tình yêu thương chân thành với nhau và với mọi người xung quanh.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh. Hiển linh có nghĩa là tỏ ra cho biết ý nghĩa về một mầu nhiệm hay bí mật gì. Như vậy, Chúa Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra, qua sự nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, cho loài người trần thế biết tình yêu và ơn cứu độ của Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết ba nhà đạo sĩ Phương đông đã vượt qua một hành trình dài và nguy hiểm tìm đến Be-lem để gặp Chúa Giê-su Hài nhi đang nằm trong máng cỏ nghèo hèn với Đức Maria và thánh Giuse. Các ông đã được ngôi sao chỉ lối dẫn đường, và đã nhận ra Hài nhi trong máng cỏ chính là Đấng Cứu Thế, vì thế các ông đã quì thờ lạy và dâng những của lễ quí lên cho Chúa.
Cuộc hành trình đi tìm gặp Chúa của các đạo sĩ đã để lại cho chúng ta một bài học rất quí giá. Chúng ta có thể so sánh cuộc hành trình này của các đạo sĩ với sự kiện chúng ta đi tham dự Thánh lễ, hay cuộc hành trình đức tin của chúng ta nơi dương thế về Quê Trời. Bài học quí giá mà các đạo sĩ để lại cho chúng ta là bài học về đức tin. Nếu chúng ta đặt câu hỏi “Thế nào là đức tin? Đức tin là gì?” thì có lẽ một số người chúng ta không biết câu trả lời, hay chỉ có thể đưa ra những tư tưởng hay định nghĩa trừu tượng. Nhưng nếu đặt câu hỏi cách khác “Người có đức tin thường có thái độ nào?” hay “Hành trình Đức tin đích thực là gì?” thì chúng ta có thể trả lời khá dễ dàng, rõ ràng và cụ thể hơn. Cuộc hành trình của các đạo sĩ tới Be-lem tìm gặp Chúa Cứu Thế giúp chúng ta nhận rõ ra thái độ đức tin đó, hiểu rõ hơn cuộc hành trình đức tin của chúng ta nơi dương thế, đồng thời cũng giúp chúng ta hiểu biết ý nghĩa sâu sa hơn về sự kiện chúng ta đi tham dự Thánh lễ, để nhận được nhiều ơn ích và mật thiết với Chúa hơn.
Thái độ thứ nhất trong cuộc hành trình của những người có đức tin là lòng khao khát và tìm kiếm. Thời Chúa Giê-su, trong khi mọi người đều thờ ơ, lãnh đạm với Lời Chúa và mải miết với công việc làm ăn của mình, thì chỉ có các nhà đạo sĩ có lòng khao khát và chờ đợi Đấng Cứu Thế. Chúng ta thấy thái độ của các đạo sĩ khác với thái độ của mọi người trong thành Be-lem, bận rộn với vật chất, của cải, tiền bạc, và nhất là khác với Hê-rô-đê mải mê theo đuổi danh vọng, giàu sang và quyền lực. Đấng Cứu Thế sinh ra cách Giê-re-sa-lem không xa, nhưng mọi người không hay biết, ngủ mê trong bóng tối. Kinh thánh đã tiên báo về Đấng Cứu Thế mà họ không đọc hay thờ ơ, lãnh đạm. Sự việc xảy ra, thì Hê-rô-đê mới vội triệu tập các giáo trưởng và luật sĩ để dò hỏi. Bài học đầu tiên có thể rút ra là: không khao khát thì không bao giờ thấy.
Giai đoạn hay thái độ thứ hai là phải lên đường thực hiện cuộc tìm kiếm, hay phải lái xe đi đến nhà thờ để tham dự Thánh lễ, và để thực hiện cuộc tìm kiếm Chúa. Khao khát không thì chưa đủ, vì ngồi yên để chờ mà không đứng lên chuẩn bị để hành động thì không phải là khao khát thật. Chúng ta thấy các đạo sĩ không ngồi chờ thụ động. Thấy ánh sao lạ, họ quyết tâm lên đường ngay để thực hiện cuộc tìm kiếm. Trái lại, các giáo trưởng và luật sĩ biết rất rõ lời tiên báo trong Kinh thánh, và cả địa điểm Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra, và địa điểm đó lại gần và có phương tiện đi đến, nhưng họ đâu có nhúc nhích, lên đường.
Chúng ta thấy sự tương phản, trái ngược giữa hai thái độ trên cho thấy đức tin không phải là một ước mơ vẩn vơ hay một tư tưởng suông, thụ động. Trái lại, tin là hành động, là thực hiện, là lên đường.
Thái độ thứ ba là không bỏ cuộc khi gặp gian nan, thử thách hay khó khăn. Chúng ta thấy trong suốt hành trình, các đạo sĩ đã gặp không biết bao nhiêu khó khăn. Nhưng thử thách lớn nhất đối với họ xảy ra khi ngôi sao dẫn đường biến mất. Dầu vậy, họ đã không nản lòng cứ tiếp tục lên đường, và lòng kiên trì của họ đã đưa họ tới cùng đích. Khi đối diện với tình cảnh khó khăn trong cuộc sống, chúng ta có thái độ như thế nào với Chúa, và đã hành động ra sao? Hành trình đức tin đòi hỏi sự trung kiên, trung thành và kiên trì.
Thái độ thứ ba là nhận ra Thiên Chúa qua những tấm màn che lấp, hay qua những sự kiện khác với dự đoán của chúng ta. Chúng ta thấy khi tới bên máng cỏ, các đạo sĩ chỉ thấy một hài nhi, một trẻ sơ sinh yếu hèn. Họ tưởng gặp một Ấu nhi nằm trên giường vàng nệm bạc, hay nệm êm, chăn ấm như chúng ta, nhưng chỉ thấy hài nhi quấn khăn nằm trong máng cỏ, trong hang bò lừa, cô tịch giữa mùa đông giá lạnh. Họ tìm một Thiên Chúa vinh quang nhưng chỉ gặp một hài nhi nghèo khó. Họ tưởng gặp một công chúa và hoàng tử đứng bên cạnh, nhưng chỉ thấy hai ông bà nhà quê nghèo khó, đơn sơ. Nhưng họ đã được Thánh Thần soi sáng, nên đã nhận ra đó chính là Con Thiên Chúa, và họ quì xuống thờ lạy, rồi mở “kho tàng” dâng cho Ngài những lễ vật quí giá, chỉ để dành dâng tiến cho các bậc quyền quí. Khi chúng ta gặp Chúa, được Chúa ban ơn hay ngự trong tâm hồn chúng ta, chúng ta có dâng lên cho Chúa sự gì không? Có quí giá không? Hay của dự thừa? Và đây là thực chất của đức tin. Tin không phải chỉ là nhìn thấy bằng con mắt thể xác, nhưng bằng đôi mắt tâm hồn. Nếu chúng ta nhìn tấm bánh trắng trong Thánh lễ sau khi truyền phép bằng con mắt thể xác thì cũng chỉ là tấm bánh trắng mà thôi, nhưng nếu chúng ta nhìn bằng con mắt tâm hồn, đức tin, thì chúng ta mới thấy sự hiện diện của Chúa trong Tấm Bánh này.
Thái độ thứ tư cuối cùng là để cho cuộc đời biến đổi. Chúng ta thấy, sau khi từ Be-lem ra về, các đạo sĩ đã không trở lại với Hê-rô-đê mà về bằng con đường khác. Đời họ đã chuyển sang một hướng khác, một con đường khác. Cuộc gặp gỡ với Hài nhi Giê-su đã đánh dấu một khúc quanh quan trọng vừa bất ngờ vừa quyết chí. Nếu không có cuộc biến đổi hay đổi đời kèm theo cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hay đã được Chúa ngự trong tâm hồn trong Thánh lễ, thì tin chỉ là một thái độ hời hợt bên ngoài, chứ không phải là một đức tin đích thực, hay không phải là một niềm xác tín đưa tới phó thác và dấn thân, đưa tới hy sinh và phục vụ, đưa tới bác ái và quảng đại, đưa tới khiêm nhường và trung kiên, đưa tới tốt lành thánh thiện hơn.
Ông bà anh chị em thân mến. Những giai đoạn và thái độ nói trên không thể thiếu nơi người có và sống đức tin chân chính, và trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta nơi dương thế về Quê Trời. Xin Chúa Giê-su Thánh Thể mà chúng ta sẽ lãnh nhận vào tâm hồn, biến đổi cuộc đời, và giúp chúng ta biết noi gương các đạo sĩ trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa nơi trần gian, để chúng ta sống trong an bình và ân sủng của Chúa, và đến được đích điểm là quê thật Nước Trời.
.