CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN – NĂM B
Lời Chúa: Cv 1,1-11; Ep 3,17-23; Mc 16,15-20
———-
-
Hẹn ngày sum họp (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Nắm Chắc Phần Hy Vọng(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
-
Thiên Đàng ở đâu? (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Mở mắt (Lm. Vũ Đình Tường)
-
Chuyển giao thông điệp cứu độ (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
-
Chúa sống trong con (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Chúa lên Trời, Ngài để lại “chúc thư” gì cho mỗi chúng ta? (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)
-
Thầy ở cùng anh em mọi ngày (Đỗ Công Minh)
-
Cõi vĩnh hằng (Trầm Thiên Thu)
-
Hướng về quê hương vĩnh cửu trên trời (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Lệnh truyền (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
-
Trở nên chứng nhân tình yêu (Lm. Xuân Hy Vọng)
-
Chúa lên trời mở chân trời mới (Lm. Nguyễn Xuân Trường)
-
Quê hương chúng ta ở trên trời (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
1. Quê Trời (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Ngước mắt nhìn Trời (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Chúa về Trời (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Có Chúa cùng hoạt động (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
5. Cùng ngước lên Trời (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
6. Hợp nhất (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
7. Chúa lên Trời, xin hướng lòng chúng con về Trời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. Hướng về Chúa Cha (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
9. Chúa Giêsu lên Trời (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10. Hãy đi, vì có Thầy ở cùng (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
11. Lễ Thăng Thiên (Lm. Dom. Trần Quang Hiền, SDB)
12. Khai mở trang sử mới của Giáo hội (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
13. Suy niệm Lễ Thăng Thiên. Năm B (Lm. Anthony Trung Thành)
14. Suy niệm Chúa Nhật 7 Phục sinh_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
15. Suy niệm Chúa Nhật Chúa Lên Trời_B (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
16. Chúa Thăng Thiên (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
17. Hai nhánh cuộc đời (Trầm Thiên Thu)
18. Chúa Giêsu hoàn thành sứ mạng và về Trời (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
19. Chúa đi dọn chỗ cho chúng ta (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
20. Chúa lên Trời – Ta vào đời (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
21. Liên kết trong Chúa (Lm. Vũ Đình Tường)
22. Quê hương (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
23. Khai mở giai đoạn mới (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
24. Thầy đi đâu? (JM. Lam Thy, ĐVD)
25. Chúa về Trời trao sứ mệnh loan báo Tin mừng cho Hội thánh (Lm. Đan Vinh)
26. Lễ Chúa Thăng Thiên_B (Lm. Antôn)
Lm. Jos DĐH.
Người đi trước, rước người theo sau, câu thành ngữ nhắc đến một điểm dừng, một điểm hẹn, dù nơi chốn và cái đích hạnh phúc chẳng lấy gì làm rõ ràng. Bậc sinh thành đi trước ta, anh chị em bạn bè đồng hành cùng ta, ai ai cũng cho ta kiến thức, kinh nghiệm, còn lãnh nhận, thu thập những ý tưởng đẹp, bài học hay từ cuộc sống này, thuộc về tự do của ta. Bậc làm cha mẹ không thể sống mãi với con cháu, nhưng có phải tính thiêng liêng vẫn bất tử: nợ ai một chút chớ quên, ơn ai một chút phải nên đáp đền. Nói về tình, ai cũng cần được thương yêu chăm sóc, lưu tâm đến lý, mọi người đều cần trang bị những kiến thức để sống, để tới điểm hẹn mà tiền nhân hằng chuẩn bị cho ta.
Nếu như ở đời, người ta quan niệm: nơi đâu có tự do ở đó có hạnh phúc, nên ta chẳng lạ gì, khi không ít người coi nước Mỹ là “thiên đường”, rất đáng du lịch, du học, tìm cách định cư. Đức Giêsu năm xưa gián tiếp xem “thiên đường” là tin mừng hạnh phúc: “ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ”. Dù được thiên đường hay được nước trời ở đời sau, với tâm trí phàm nhân, hơi xa vời, mọi người vẫn đang thao thức đầu tư công sức để đi tới nơi về tới chốn, được sum họp cùng gia đình dòng tộc ở thiên đường hôm nay và mai sau. Tâm tính tự nhiên, ai chẳng thích rõ ràng cụ thể: thích vui khỏe bình an, thích hạnh phúc bền vững, dù tâm trí và lòng dạ chúng ta chưa hiểu hết “tin và chịu phép rửa” như thế nào, mới đạt tới thiên đường thật ?
Thầy Giêsu hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài hứa hẹn ngày sum họp đoàn tụ, khi các học trò chu toàn việc loan báo tin mừng: “các con hãy đi khắp nơi rao giảng tin mừng cho mọi loài tạo vật”. Có phải Thầy Giêsu chính là cha là mẹ, là thầy, là anh cả đi trước, đã và đang dẫn đường chỉ lối để các học trò, để từng người trong chúng ta đi đến thành công, bằng việc vâng lệnh thầy truyền. Nếu các bậc tiền bối nói: lòng người hẹp hòi, phúc khó mà tới, lòng người trung hậu, phúc tự tìm về. Vâng, tự sức những ngư phủ sẽ chẳng làm “nên cơm cháo gì”, và rồi, điều kỳ diệu xảy ra ở “niềm tín thác” đầy hứa hẹn: “và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin, nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói được các thứ tiếng mới lạ….”.
Sum họp ngày lễ tết, gặp gỡ nhau mừng ngày nhận bằng cấp danh hiệu, chúng ta đã có cảm giác. Sum họp ngày ở bên Thầy Giêsu, sum họp với gia đình dòng tộc trên thiên quốc, người tín hữu chỉ cảm nhận bằng niềm tin. Chúng ta tin tổ tiên ông bà cha mẹ, các ngài vừa dạy vừa dỗ, vừa chuyển cầu đắc lực cho ta, hẳn chưa đủ, ngộ lỡ ta sử dụng tự do của mình “vô tội vạ” thì sao ? Mỗi người còn phải sống, phải nghiêm túc thực thi giới luật cơ bản: mến Chúa yêu người, hay tích cực hành động theo thánh ý Chúa với nén bạc riêng mỗi chúng ta đang có. Dù tin nhiều hay tin ít, kitô giáo chúng ta vẫn hướng tới ngày sum họp trên thiên quốc là hứa hẹn, là hy vọng quan trọng. Thực tế nơi cuộc sống hiện tại, nhiều người con vẫn đang âm thầm hy sinh không tiến thân vì nặng ơn cha nghĩa mẹ: lên chùa thấy phật muốn tu, về nhà thấy mẹ công phu chưa đền !
Kitô giáo chúng ta tuyên xưng niềm tin Đức Kitô, Đấng là Thầy là Chúa, Đấng đã chiến thắng thế gian, Ngài đi trước và sẽ rước các học trò và chúng ta cùng Ngài sum họp bên hữu Chúa Cha. Điều cần thiết và trọng tâm là ta đang sống tinh thần người môn đệ thế nào, ta có tin về sum họp thiên đường, chính là về quê hương thật, nơi có Ba Ngôi Thiên Chúa, có tổ tiên dòng tộc, có đại gia đình kitô giáo không ? Đức Giêsu hôm xưa chia tay các học trò, cuộc chia tay không có nước mắt, chắc không phải vì tình thầy trò cứng rắn theo kiểu nói ở đời: nước mắt đàn ông không tuôn thành dòng … Xét về lý, chỉ những ai đủ trưởng thành mới đáng gọi là nam thanh nữ tú, nên hiểu thế nào là tình ? câu trả lời sẽ là tất cả những ai mang trái tim bằng thịt đều “biết yêu và đáng được yêu”. Hẹn ngày sum họp, hẹn ngày tái ngộ, có phải là lời xã giao môi miêng hay không, tùy tự do nơi mỗi người chúng ta hôm nay đang thực hiện.
Có thể chúng ta không hiểu hết lý lẽ về tình yêu thương của Thầy Giêsu dành cho các học trò: “vậy sau khi nói với các học trò, Người lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha”. Nếu đọc tiếp đoạn tin mừng, suy tư thêm: “phần các ông, các ông đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”. Ta có thể nói, Thầy Giêsu đến trần gian, Thầy đã chiến đấu, chiến thắng thế gian, tất nhiên sứ mạng của Thầy sẽ còn tiếp tục quy tụ và hoàn thiện những kẻ tin cho đến ngày sau hết. Sum họp thiên đường mai sau, hay hạnh phúc quê trời hôm nay, không phải là lúc xã hội, hay thế giới sẽ khoác “cẩm bào cho Thầy Giêsu”. Mà là từng người trong mỗi gia đình nhân loại phải góp phần cải thiện bản thân để xứng đáng với niềm tin của mình hầu cùng nhau sum họp Đại gia đình thiên quốc. Amen.
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa cho cộng đoàn chúng ta biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển; là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng ta vào Nước Chúa, khiến chúng ta là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, trong sự hiệp nhất với nhau, như các chi thể trong cùng một thân thể, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô cho thấy: Là những chi thể của Đức Kitô, tất cả chúng ta đều được kêu gọi sống hợp nhất với nhau, mỗi người tùy theo công việc phục vụ mình đã lãnh nhận: Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tùy theo mức độ Đức Kitô ban cho. Vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, khi chúng ta cùng thông phần đau khổ với Người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Người đã được đưa lên các tầng trời, nhưng dưới đất, Người vẫn còn phải chịu bất cứ nỗi khổ cực nào mà chúng ta cảm thấy với tư cách là chi thể của Người: Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?, hay khi Người nói: Xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn. Vậy tại sao chúng ta không chịu khổ cực ở dưới đất như thế để được nghỉ ngơi với Người ở trên trời nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, khiến chúng ta được liên kết với Người?
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, trong khi chờ đợi điều Người đã hứa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại: Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa: Điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, nhờ ơn Chúa soi sáng, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cầu xin: Xin Chúa soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, là niềm hy vọng chắc chắn, Chúa dành cho hết mọi người, kể cả dân ngoại, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 46, vịnh gia đã kêu gọi: Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả. Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật lại: Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông. Đức Kitô đã lên trời vinh hiển: là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng ta vào Nước Chúa, khiến chúng ta là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Ước gì chúng ta biết hiệp nhất với nhau như các chi thể trong cùng một thân thể, khi chu toàn sứ vụ Chúa trao, và biết thông phần đau khổ với Đức Kitô, để được cùng Người hưởng vinh quang. Ước gì được như thế!
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Ai trong chúng ta sẽ có một lúc nào đó chạnh lòng tự hỏi: “Mình là ai, từ đâu đến và sẽ về đâu sau khi chết?”. Tại sao con người lại có mặt trên trần gian để một ngày nào đó phải chết? Chết là chấm dứt, là biến mất khỏi thế gian này, hay còn có một nơi nào đó để trở về?
Người Ai Cập cổ tin rằng kiếp sống sau là có thật. Vì thế trong những ngôi mộ huy hoàng, họ để lương thực, tiền bạc, vật dụng và tư trang theo người chết hy vọng có cái dùng trong kiếp sau. NgườiPhật giáo thì đốt vàng mã là để cho người đã khuất có thể sử dụng cho đời sau.
Đời sau mà con người hướng tới đó là thiên đàng, là nơi hạnh phúc và không còn khổ đau. Theo Kinh Thánh, thiên đàng là một nơi có thật, vượt quá mọi mơ ước, đẹp hơn tất cả những mộng ước đẹp nhất của chúng ta. Chúng ta hãy tưởng tượng một thế giới không có chiến tranh, bệnh tật, buồn lo hay sầu thương chi cả. Chúng ta hãy hình dung một thế giới không có đau khổ, già nua, hay chết chóc. Nơi đó, “Thiên Chúa sẽ lau khô mọi nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhứt đã qua rồi.” (Khải-huyền 21:4). Chúng ta sẽ thấy nơi ấy thật đáng sống, đáng là bến đợi cho cuộc đời chúng ta.
Nơi ấy, hôm nay Chúa Giê-su đã được rước về. Nơi đó chính là quê hương mà Đức Chúa Trời dànhsẵn cho những người tuân giữ giới răn Chúa. Vì chính Chúa Giê-su đã nói: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó (Ga 14:2-3).
Nhưng nơi đó không phải là một nơi chốn có giới hạn về không gian hay thời gian. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Thiên đàng là một trạng thái sống chứ không phải là một nơi chốn theo nhận thức của ngôn ngữ loài người.” “Thiên đàng là một lối sống, là mối quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là cuộc gặp gỡ Chúa Cha, diễn ra trong Chúa Kitô phục sinh, và hiệp thông với Chúa Thánh Thần.”
Như vậy, Thiên đàng hay Quê Trời sẽ là nơi gặp gỡ, là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Điều ấy mang lại cho chúng ta niềm tin tưởng, và gia tăng niềm tín thác. Vì qua cuộc đời khổ ải chóng qua này ta sẽ đến một bến bờ hạnh phúc viên mãn.
Nhưng điều mà Chúa Giê-su hứa ban hạnh phúc cho con người không chỉ là thiên đàng mai sau mà còn là thiên đàng tại thế khi ta sống theo thánh ý Ngài. Thiên Chúa sẵn sàng ban cho chúng ta một cuộc đời bình an và hạnh phúc nếu chúng ta luôn thuộc về Ngài thì ân sủng Thiên Chúa sẽ luôn ở cùng chúng ta.
Nếu hiểu thiên đàng là nơi ta gặp Chúa và ở lại trong Ngài, thì ngay hôm nay, nếu ta chọn Chúa mà tránh xa tội lỗi, chọn Chúa mà từ chối những niềm vui bất chính thì chúng ta đã sống trong hạnh phúc với Chúa.
Xin Chúa ban ơn để mỗi người chúng ta biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa ngõ hầu chúng ta được Chúa ban hạnh phúc đời này và gia nghiệp vĩnh cửu trên thiên đàng mai sau. Amen
Lm Vũđình Tường
Trước ngày về trời Đức Kitô chuẩn bị cho môn đệ ngày Ngài dời họ để về cùng Chúa Cha. Đức Kitô chuẩn bị bằng cách giúp họ dù xa cách Ngài họ vẫn có thể trực tiếp liên lạc và cảm thấy Ngày luôn đồng hành với họ. Đức Kitô đề nghị hai cách liên lạc. Thứ nhất là liên kết với Ngài như cành nho liên kết với thân nho để nhận sự sống từ thân nho. Cách thứ hai là thực hành giới luật yêu thương Ngài ban. Khi làm một trong hai công việc đó, môn đệ cảm nhận Đức Kitô kề bên. Sau đó, Đức Kitô còn ban cho các ông ơn nhận biết bằng cách mở mắt các môn đệ. Người đầu tiên nhận ơn đó chính là bà Magdala. Sáng sớm bà ra thăm mộ, gặp Ngài bà tưởng là người làm vườn. Bà nhận ra Đức Kitô khi Ngài gọi tên bà (Gioan 20,16). Kế đến Đức Kitô mở mắt hai môn đệ trên đường về quê. Các ông nhận ra Đức Kitô khi nhìn thấy các Ngài bẻ bánh, sau khi đã dâng lời chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Luca (24:30-32) thuật lại:
‘Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: ‘Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, lòng chúng ta chẳng bừng cháy lên sao?’
Sau đó Đức Kitô mở mắt cho Thoma khi ông đòi sờ tay vào vết thương nơi tay và cạnh sườn Đức Kitô. Thoma không dám sờ tay vào vết thương khi Đức Kitô hiện ra nhưng mắt đức tin ông mở ra, nhận biết Đức Kitô Phục Sinh và long trọng tuyên xưng; ‘Lậy Chúa, lậy Thiên Chúa của con Gn 20,28’. Ngày Đức Kitô về trời, Ngài cùng môn đệ đến ngoài thành Bethany, nơi đó Ngài từ giã các ông. Kinh Thánh không nhắc đến điều này, nhưng chúng ta có thể mường tượng ra cảnh Đức Kitô được cất lên cao, các môn đệ mắt mở to nhìn thân thể Đức Kitô cứ lên cao mãi, cao mãi, cho đến khi chỉ còn một chấm nhỏ trước khi mất hút vào bầu trời xanh thẳm.
Giã từ Đức Kitô nhưng các môn đệ không giã từ hình ảnh Đức Kitô về trời. Hình ảnh Chúa về trời in sâu trong tâm khảm các tông đồ và hình ảnh đó luôn cùng đồng hành với các ông trong mọi tình huống của cuộc sống. Các ông bắt đầu thực hiện điều Đức Kitô phán bảo:
‘Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo Mc. 16:15’.
Với các tông đồ thế giới các ông lúc đó rất hạn hẹp, có lẽ không ra khỏi những vùng Đức Kitô rao giảng. Và rồi thế giới đó lớn dần, lan toả ra đến những vùng lân cận và Tin Mừng được dân ngoại đón chào. Một lần nữa Thánh Thần Chúa mở mắt các ông. Tin Mừng Chúa không riêng cho một dân tộc nào nhưng cho mọi dân tộc. Như thế mới gọi là rao giảng cho ‘khắp tứ phương thiên hạ’.
Thánh Marcô ghi nhận các tông đồ vui mừng rao giảng khắp nơi. Nơi đâu cũng có kẻ đón chào, và nơi đâu cũng có kẻ chống đối. Nhân Danh Đức Kitô các môn đệ đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Các ông trừ ma quỉ, chữa bệnh và chuyển tải đến mọi người ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của yêu thương, tha thứ. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Gioan Tiền Hô, nhóm chống đối Tin Mừng dùng thủ đoạn gian manh, tâm tư độc hại, miệng lưỡi rắn độc, mong hại Môn Đệ Đức Kitô và những kẻ tin theo Ngài.
‘Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Mat 12:33’.
Môn đệ Đức Kitô được ban cho miệng lưỡi (lời) khôn ngoan để bác lại miệng lưỡi ( lời) độc hại, gian ác. Môn đệ Đức Kitô đến mang Tin Mừng, ban ơn lành cho mọi người. Trong hoàn cảnh gặp chống đối kịch liệt các ngài không chủ trương đả kích, gây chiến, nhưng khiêm nhường, âm thầm cầu nguyện nghe theo hướng dẫn của Thánh Thần Chúa.
Đức Kitô về trời, Ngài không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Môn đệ Đức Kitô, với con mắt đức tin, các ông nhận biết, cảm nghiệm Chúa luôn kề bên, cùng đồng hành với các ông. Đức Kitô hoàn thiện sứ mạng Chúa Cha trao phó. Ngài trao sứ mạng đó cho các môn đệ tiếp tục rao giảng về tình yêu Chúa cho muôn dân. Đức Kitô luôn đồng hành cùng các môn đệ, dù các ông không nhìn thấy Ngài bằng xương, bằng thịt nhưng luôn cảm thấy Ngài gần kề. Bất cứ khi nào các ông liên kết với Ngài trong tình yêu các ông nhận biết có Chúa luôn ở cùng. Là môn đệ Đức Kitô, mỗi chúng ta đều được trao ban tránh nhiệm mang Tin Mừng đến cho muôn dân. Chúng ta cùng khuyến khích, nâng đỡ nhau hoàn thành điều Đức Kitô phán bảo.
‘Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo Mc. 16:15’.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Đối với chúng ta hôm nay, gửi một lá thư từ Việt Nam đi Âu hay Mỹ là điều dễ như trở bàn tay, nhất là đối với thư điện tử, chỉ cần soạn thư vào điện thoại hay máy tính, rồi nhấn vào phím gửi… thế là bức thư sẽ được chuyển đi đến nơi ta muốn, trong một vài giây!
Thế nhưng vào thời trước đây, khi ngành Bưu chính Việt Nam chưa phát triển[1] chuyển một bức thư từ Bắc vào Nam là cả một hành trình đầy gian truân.
Chuyển giao sắc chỉ nhà vua
Hồi ấy, người lính trạm ở hoàng cung (nay gọi là bưu tá), sau khi tiếp nhận sắc chỉ của nhà vua, tức tốc lên ngựa phóng nước đại bất kể ngày đêm mưa nắng, để chuyển giao sớm hết sức có thể cho nhà trạm kế tiếp. Người lính ở nhà trạm nầy, khi vừa tiếp nhận sắc chỉ được mang tới, phải lập tức phóng ngựa lên đường không trì hoãn để chuyển giao cho nhà trạm tiếp theo…
Cứ thế, các lính trạm nối tiếp nhau phóng ngựa như bay, bất chấp nhọc nhằn gian khổ, băng qua nhiều chặng đường gian nan hiểm trở có lắm thú dữ hoành hành, để chuyển giao nhanh chóng sắc chỉ đến tay người nhận, dù phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.
Chuyển giao sứ điệp của Chúa Giê-su
Trước khi về trời, Chúa Giê-su long trọng trao cho các Tông đồ sứ mạng loan báo Tin mừng cho toàn thế giới. Ngài nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mác-cô 16, 15).
Tin mừng là thông điệp quan trọng bậc nhất vì có liên hệ mật thiết đến phần rỗi, đến số phận đời đời của nhân loại như lời Chúa Giê-su nói: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mác-cô 16, 16).
Tin mừng là một thông điệp vô cùng quý báu vì mang lại hoà bình và hạnh phúc cho toàn thế giới.
Tin mừng cũng là thông điệp khẩn cấp, cần phải loan truyền nhanh chóng và rộng rãi khắp nơi vì e rằng có rất nhiều người chết đi mà chưa kịp đón nhận được sứ điệp mang lại ơn cứu rỗi nầy.
Sau khi tiếp nhận sứ điệp Tin mừng, các tông đồ đã cống hiến toàn bộ cuộc đời còn lại của mình, chấp nhận vô vàn gian lao khổ ải, kể cả ngục tù, xiềng xích và cái chết, để chuyển giao Tin mừng cho người Do-Thái cũng như cho dân ngoại.
Kế đó, các cộng đoàn tín hữu tiên khởi, sau khi đón nhận Tin mừng do các tông đồ truyền lại, đã nỗ lực chuyển giao cho thế hệ tiếp theo dù phải trả bằng giá máu. Nhờ thế, sứ điệp Tin mừng của Chúa Cứu Thế đã được loan báo cho nhiều dân tộc khắp năm châu.
Chuyển giao Tin mừng là sứ mệnh cấp bách
Hôm nay, Chúa Giê-su và Hội thánh đã trao sứ điệp quý báu và quan trọng nầy tận tay chúng ta và thôi thúc chúng ta chuyển đi khắp thế giới: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo.”
Nắm trong tay thông điệp tối khẩn có liên quan đến vận mệnh đời đời của toàn thể nhân loại, ít nữa là vận mệnh của hơn 90 triệu đồng bào Việt Nam chưa biết Chúa đang sống quanh ta, nhưng dường như chúng ta còn uể oải chưa muốn lên đường làm trách nhiệm người “lính trạm” của Chúa Ki-tô.
Lạy Chúa Giê-su,
Hôm nay, nhiều người phải sống bất hạnh vì chưa được đón nhận niềm hạnh phúc do Tin mừng mang đến; nhiều dân tộc phải sống trong thù nghịch, trong cảnh huynh đệ tương tàn, vì không hề biết giải pháp đem lại hoà bình do Tin mừng cung cấp… đang khi Chúa vẫn thôi thúc chúng con truyền rao Tin mừng cho họ mà chúng con vẫn nhắm mắt làm ngơ!
Và nếu chung quanh chúng con có nhiều người chết đi mà chưa kịp đón nhận sứ điệp Tin mừng cứu độ vì sự chểnh mảng, thờ ơ của chúng con là những “người lính trạm” của Chúa… thì đến ngày phán xét, chúng con sẽ trả lời với Chúa sao đây?
Bông hồng nhỏ
Chúa Giêsu đã lên trời, Người ngự bên hữu Chúa Cha nhưng Người vẫn ở cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Người ra đi để dọn chỗ cho ta, một chỗ trong nhà Cha, dành một chỗ cho những ai khao khát được ở lại trong trái tim của Thiên Chúa.
Trước khi được rước lên trời, Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với nhóm Mười Một và căn dặn: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15). Đó là lệnh truyền của Người. Tin Mừng được rao truyền cho tất cả mọi loài thụ tạo, không loại trừ ai. Tình yêu cứu độ được ban cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu cho biết: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án” (Mc 16, 16). Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, tình yêu của Người lớn lao đến nỗi Người cho họ quyền tự do đón nhận tình yêu ấy, tự do tin vào Người hay là từ chối. Người luôn canh cánh một niềm yêu thương đối với những ai chưa được sống trong tình yêu của Người. Một khi đón nhận Tin Mừng, ta hãy trở nên người môn đệ của Chúa, sống và loan báo Tin Mừng cho mọi người. Đó là sứ mạng Chúa đã trao phó cho ta.
Các Tông đồ đã ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng (x. Mc 16, 20). Ta cũng sẽ thi hành sứ mạng ấy trong Thánh Thần Tình Yêu của Chúa, hãy để Chúa Phục Sinh sống trong tâm hồn ta, hoạt động trong ta. Ta có đủ bén nhạy với tác động của Thánh Thần Tình Yêu không? Hãy luôn xin Chúa ơn được nhạy bén với tác động ân sủng của Chúa Thánh Thần và trung thành với ân sủng Người ban. Có bao lần ta nhận ra lời mời gọi của Chúa nhưng vì lười biếng, vì chỉ lo nghĩ cho lợi ích của chính mình, ta đã giả điếc làm ngơ. Bao việc thiện ta đã bỏ qua vì ta không đủ quảng đại để cho đi. Ta có vui mừng khi nhận ra thánh ý Chúa, lời mời gọi tha thiết của Chúa và mau mắn thi hành hay ta than phiền khi được Chúa mời gọi yêu thương? Ta đã từng chán nản và không muốn thi hành lời mời gọi của Chúa. Có lẽ, Linh mục- nhạc sĩ Thái Nguyên đã cảm nghiệm sâu xa lời mời gọi của Chúa dành cho mình trong những ca từ sau đây: “Lời mời gọi của Chúa luôn gây xáo trộn đời con. Bao dự định riêng tư dường như mất hút trong đời. Con mong muốn thế này Chúa lại mong muốn thế kia. Con không sao hiểu được nhưng tin vào tình thương của Ngài” (Tâm tình xin vâng – Thái Nguyên). Quả thế, để thi hành ý muốn của Thiên Chúa, ta phải sẵn sàng bỏ đi ý riêng và những dự định của bản thân, biết hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình thương của Người. Bao lâu, ta chỉ sống cho ý riêng, ta chưa sống cho thánh ý Chúa. Ta cũng hãy cầu nguyện và tha thiết xin Chúa ơn cảm nếm được tình yêu Chúa dành cho chính mình. Một người con cảm nhận được bố mẹ thương mình thì nó sẽ đáp trả bằng cách sống thật ngoan. Một người con sau bao ngày quậy phá, một ngày, nó bỗng nhận ra tình thương bố mẹ dành cho mình, nó đã thay đổi từng ngày. Một khi nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương ta mới nhận ra tội lỗi của mình, ta mới bắt đầu thay đổi cuộc sống. Sám hối không gì khác hơn là biết từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Kitô như cách các môn đệ xưa đã nêu gương. Còn gì đẹp hơn những lời rao giảng mạnh mẽ của tông đồ Phêrô, của tông đồ Phaolô, và bao người môn đệ khác, vì các ngài cảm nếm tình yêu thương xót mà Chúa dành cho mình. Mỗi lần, ta rao giảng Lời Chúa bằng chính hành động bác ái với người khác, dù đó là một việc làm âm thầm hay công khai, sức mạnh của lời cầu nguyện hợp với việc làm ấy có sức lan tỏa mạnh mẽ.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã lên trời để dọn chỗ cho con. Để được lên trời với Chúa, con phải thi hành lệnh truyền mà Chúa đã trao: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16, 15). Xin cho con luôn khắc ghi lời mời gọi của Chúa và biết mở ra trước tác động của Chúa Thánh Thần, để Chúa sống trong con. Amen.
CHÚA LÊN TRỜI, NGÀI ĐỂ LẠI “CHÚC THƯ”
GÌ CHO CHÚNG TA?
Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương
1/ Chúa lên Trời, niềm hy vọng chắc chắn?
Theo Giáo lý Hội Thánh công giáo, số 665 “Chúa Giê-su Ki-tô, là Đầu của Hội Thánh, đã đi trước chúng ta vào Nước vinh hiển của Chúa Cha, để chúng ta, là chi thể của Thân Thể Người, sống trong niềm hy vọng một ngày kia sẽ được vĩnh viễn ở với Người”. Quả thật, việc Đức Giê-su lên trời không phải hôm nay mới lên, mà khi Ngài sống lại đã lên ngự bên hữu Chúa Cha rồi.Nhưng tại sao hôm nay, chúng ta mới mừng biến cố vô cùng quan trọng này? Phải chăng Chúa có phương cách của Ngài là muốn hiện ra và đồng hành với các môn đệ sau khi Ngài chết. Đức Giê-su Phục Sinh đã đến và cùng đi với các Tông Đồ để củng cố đức tin yếu kém của các ông. Việc chưa tin và còn cứng lòng của các Tông Đồ sau biến cổ khổ nạn của Ngài, Đức Giê-su biết rõ hơn ai hết. Vì thế, sau khi Chúa Cha cho Đức Giê-su sống lại để giúp các ông hiểu rõ về chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giê-su.“Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình : trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa.” (Cv 1, 2-3)
Tuy nhiên, mặc dù sự hiện diện của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng chưa đủ để thuyết phục cho các Tông đồ và mọi người tin một cách chắc chắn. Cho nên, sau 40 ngày, Đức Giê-su đã thực hiện một điều kỳ lạ trước mặt các Tông Đồ: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” (Cv 1,9). Đức Giê-su lên Trời là Ngài được ngự bên hữu Chúa Cha. Ngài trở về nơi Ngài đã xuất phát. Ngài lên Trời để chỉ đường cho chúng ta đi theo. Ngài lên Trời để khẳng định và xác tín với mỗi chúng ta rằng: ‘Quê hương thiên đàng’ là có thật, nơi hưởng vui vẻ đời đời với Chúa là có thật. Ngài lên Trời để nhắn gửi với mọi người rằng là Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta.“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,2-3).
Quả thật, để chiếm được “chỗ ở” hay thiên đàng mà Đức Giê-su đã chuẩn bị cho chúng ta không phải không có khó khăn và gian nan, nghĩa là chúng ta phải chiến đấu để qua cửa hẹp, là phải biết từ bỏ tính mê nết xấu, là biết làm lành lánh dữ, là yêu thương tha thứ, là công bằng vị tha, là vui tươi dẫu có đau khổ và thử thách,…Do đó, nói như nhạc sĩ Hoàng Vân trong bài ca Hát về Cây Lúa hôm nay: “Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay.” Thật vậy, cuộc sống Thiên đàng mai sau sẽ được quyết định tuỳ thuộc vào cuộc sống hiện tại của mỗi chúng ta. Do đó, chúng ta cố sao để sống cho tốt, cho xứng đáng là hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi nơi và mọi lúc. Khi chúng ta sống tốt và yêu thương là chúng ta đang hưởng phúc thiên đàng nơi trần gian rồi. Câu chuyện sau đây phần nào giúp chúng ta hiểu rõ thế nào là hoả ngục, thế nào là thiên đàng.
Có một hiệp sĩ Samurai kia rất hung bạo. Ông tìm đến một thiền sư hỏi: Xin cho tôi biết thiên đàng, hỏa ngục là gì. Vị thiền sư nhìn thấy con người thô bạo của anh thì nói: Ta không thể dạy cho ngươi biết thiên đàng hỏa ngục là gì, vì ngươi hung bạo quá. Ngươi làm nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ của ngươi. Nghe vị thiền sư nói thế, chàng hiệp sĩ bừng bừng sát khí, rút gươm định chém vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư đưa tay cản lại mà nói: “Hỏa ngục là đó”. Nhận được bài học thực tế của vị thiền sư, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm trào dâng trong tâm hồn y. Y hiểu rằng vị thiền sư đã dám hy sinh cả mạng sống để dạy cho y bài học về hỏa ngục. Y từ từ xỏ gươm vào vỏ, rồi quỳ gối trước mặt vị thiền sư với tất cả tấm lòng thành và tỏ ý sám hối. Vị thiền sư đưa tay đỡ y dậy, nhìn sâu vào đôi mắt y mà bảo: “Thiên đàng là thế đó”.
2/ Mệnh lệnh hay ‘chúc thư’ của Chúa Giê-su trước khi Ngài lên trời?
Trước khi về Trời, Đức Giê-su đã để lại một “chúc thư” hay sứ vụ quan trọng cho các Tông Đồ nói riêng và mỗi chúng ta nói chung: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”(Mt 28,18-20). Sứ vụ này chính Đức Giê-su đã thực hiện, Ngài đã nêu gương. Nay trước khi Ngài lìa khỏi các Tông đồ, Ngài cũng muốn truyền lại sứ vụ đặc biệt này cho tất cả mọi người nhằm mở mang Tin Mừng của Nước Trời đến tất mọi hang cùng ngõ hẻm để hết thảy mọi người tin và được hưởng ơn cứu độ. Đây là ý muốn của Thiên Chúa, như Thánh Phaolô Tông Đồ dân ngoại đã nói: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (Tm 2,4). Thật vậy, sứ vụ Loan Báo Tin Mừng cho muôn dân là trách nhiệm của mỗi ki-tô hữu. Không ai có quyền chối từ sứ vụ đó khi trên mình mang danh là ki-tô hữu. Nói rõ hơn như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng là những ai đã chịu Bí tích Thánh Tẩy đều có trách nhiệm Loan Báo Tin Mừng hay truyền giáo. Chính Công Đồng Vaticanô II khẳng định rằng: “Hành trình lữ thứ của Giáo Hội tự bản chất là một cuộc truyền giáo” (AG 2)
Là ki-tô hữu, chúng được mời gọi dấn thân đi đến với tha nhân, vì đó là sứ mạng. Chính Thánh Phaolô đã cảm nhận: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14); hay “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Đúng là khốn, là buồn nếu mỗi ki-tô hữu không chịu Loan Báo Tin Mừng. Tuy nhiên, để sống sứ vụ truyền giáo hay loan báo niềm vui Tin Mừng, mỗi ki-tô hữu tiên vàn là người vui và bình an, là người có Chúa. Mà đã có Chúa thì phải có niềm vui. Nếu không có niềm vui thì sứ vụ loan báo Tin Mừng xem ra phản tác dụng. Đức Thánh Cha đã cảm nhận được điều đó hết sức thực tế như sau: Có những kitô hữu sống như chỉ có Mùa Chay mà không có Phục Sinh. (NVTM, số 6). Ngài nói tiếp: Cho nên, một nhà truyền giáo không thể lúc nào cũng giống như một người vừa đi đưa đám về. Chúng ta hãy phục hồi và gia tăng lòng nhiệt thành,“niềm vui ngọt ngào và an ủi của việc rao giảng Tin Mừng, ngay cả khi chúng ta phải gieo trong nước mắt […] Chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, là thế giới đang tìm kiếm, có khi trong lo âu, có khi trong hy vọng, nhận được Tin Mừng không phải từ nhà truyền giáo buồn rầu và chán nản, thiếu kiên nhẫn hoặc lo âu, nhưng từ thừa tác viên của Tin Mừng mà cuộc sống của người ấy tỏa sáng lòng nhiệt thành, là người đã nhận được niềm vui của Đức Kitô trong mình trước”.(NVTM, số 10)
3/ Đức Giê-su lên Trời nhưng Ngài vẫn ở với nhân loại cho đến tận thế, nghĩa là làm sao?
Đức Giê-su lên Trời, nhưng Ngài không bao giờ bỏ rơi các môn đệ nói riêng, và chúng ta nói chung. Điều đó được chứng thực qua lời nói của Ngài: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20). Nghĩa là làm sao?
Vì là hình ảnh hữu hình củaThiên Chúa là tình yêu, Đức Giê-su đã không nỡ lòng nào bỏ bê các Tông đồ và nhân loại lầm than. Dấu chỉ đó được cụ thể hoá qua những lời nói của Ngài đối với các môn đệ trước khi rời xa họ. Trước tiên, Đức Giê-su gửi Thánh Thần đến cho các Tông đồ. “Song, Thầy nói thật với anh em : Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em ; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em.” (Ga 16,7) Điều đặc biệt là Đức Giê-su muốn ban Thịt Máu của Ngài cho các môn đệ nói riêng và mỗi chúng ta nói chung. Chính câu nói “Thầy sẽ ở cùng anh em mỗi ngày cho đến tận thế” là ý muốn nói từ nay Ngài không thể hiện diện bằng xương bằng thịt như anh em đang thấy, nhưng Thầy sẽ hiện diện bằng cách thức khác, đó là Ngài trở nên Bí Tích Thánh Thể để nuôi sống mỗi người. Từ nay tấm bánh trắng và chén rượu nho, sau khi được truyền phép, tấm bánh trở nên Mình của Đức Giê-su, chén rượu trở nên Máu của Đức Giê-su. Từ nay, Ngài ở cùng nhân loại nơi các nhà tạm nơi các nhà thờ được thánh hiến. Nói cách thâm sâu hơn, khi chúng ta rước Mình Máu Người, chúng ta có Người hiện diện trong nhà tạm tâm hồn của chúng ta. Từ nay, chúng ta không còn cô đơn hay mồ côi nữa vì có Chúa Thánh Thần luôn ở cùng ta, đặc biệt, có Đức Giê-su là Bí Tích Thánh Thể ở bên cạnh ta nơi nhà chầu và nhất là ở trong cung lòng của mỗi chúng ta khi chúng ta rước Ngài. Bên cạnh đó, Đức Giê-su còn hiện diện nơi Lời Chúa, nơi những người nghèo, nơi những dấu chỉ yêu thương với anh em đồng loại.
Mầu nhiệm Đức Giê-su lên Trời không chỉ là niềm hy vọng chắc chắn về đời sống vĩnh cửu cho những ai có niềm tin vững chắc, mà mầu nhiệm này còn nhắc nhở chúng ta về bổn phận và trách nhiệm tiếp nối sứ vụ Loan báo Tin Mừng của những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, giúp người khác đi trên con đường Đức Giê-su đã đi. Đó là con đường về Trời. Đặc biệt, mầu nhiệm Chúa lên Trời không làm cho chúng ta mất Chúa, xa lìa đời đời, nhưng lời hứa của Chúa là “Thầy ở cùng các con mỗi ngày cho đến tận thế” đã làm cho chúng ta vui mừng hơn, có hy vọng tràn trề hơn và nhờ đó, chúng ta có sức mạnh và lòng nhiệt huyết để ra đi loan báo Tin Mừng cho mỗi anh chị em để chỉ đường cho nhiều người cùng về Trời với chúng ta. Amen.
Đỗ Công Minh
Cùng với tòan thể Giáo hội, hôm nay chúng con mừng lễ Chúa lên trời .
Chúa lên trời không phải là Ngài từ giã chúng con để đi về một nơi khác. Khái niệm “Trời” dễ làm con có cảm tưởng một nơi nào đó quá xa, ở đó Chúa dõi theo con người chúng con nơi trần gian. Và cũng trong suy nghĩ đó mà có nhiều người chúng con quên đi thực tại trần thế này, nơi Chúa trao cho con người sống và thống trị nó.
Có những người công kích và bài bác đạo Chúa, họ cho rằng người tín hữu là người sống trong ảo tưởng, chỉ mơ mộng chuyện trên mây trên gió mà không thấy được những việc cụ thể. Sống mà không lo cho hôm nay, chỉ lo tìm hư ảo mai sau. Mà cũng chính từ cách sống của chúng con đây dễ làm cho những người ngòai Kitô giáo ngộ nhận. Con cũng đã có lúc nghĩ như vậy. Con đã từng quên đi lời nhắc nhở của Thiên sứ:“Sao các ông còn đứng nhìn lên trời làm chi vậy ? ”.
Xin cho con trong cuộc sống luôn biết xây dựng nước trời từ chính hiện tại hôm nay, bằng những hành động sống lòng tin cụ thể. Không chỉ hướng về quê trời mà lãng quên bổn phận xây dựng trời mới đất mới ngay tại trần gian này .
Xin cho con luôn biết chuẩn bị cho ngày về trời như Chúa đã chuẩn bị trong suốt cuộc đời Người nơi dương thế. Đó chính là làm tròn bổn phận mình, sống cùng, sống với anh chị em đồng lọai; giúp nhau cùng thăng tiến cuộc sống hôm nay và luôn luôn vững tin rằng: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “, để đến ngày Chúa gọi, chúng con sẽ cùng dắt tay nhau về trời với Chúa và với anh chị em con. AMEN.
Trầm Thiên Thu
Con Chúa Thăng Thiên Hiển Vinh Chói Lọi
Chúng Con Lữ Khách Hy Vọng Tràn Đầy
Thiên Chúa – Đấng muôn trùng cao cả, Đấng ngự chốn vĩnh hằng, Đấng mang danh chí thánh – đã phán: “Ta ngự chốn cao vời và thánh thiện, nhưng vẫn ở với tâm hồn khiêm cung tan nát, để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ khiêm cung, và ban sinh lực cho những cõi lòng tan nát.” (Is 57:15) Đó là niềm an ủi khôn tả đối với tội nhân chúng ta.
Chúa Giêsu đã từng xác định với ông Nicôđêmô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.” (Ga 3:13) Không một phàm nhân nào xuất phát từ trời, chỉ một mình Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa, nhưng Ngài hứa cho chúng ta về trời NẾU trung thành tin Ngài và tuân giữ các giáo huấn của Ngài. Đó là diễm phúc cho chúng ta, nhưng chữ “nếu” rất quan trọng vì là điều kiện tuyệt đối.
Thiên Quốc là cõi vĩnh hằng, công dân Nước Chúa phải tinh tuyền, công chính. Là tín nhân, ai cũng khao khát được về trời với Chúa, thế nên ngay bây giờ phải cố gắng “đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác.” (Rm 12:21) Tuy nhiên, Thánh TS Thomas Aquino (1225-1274) xác định: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ. Nhận ra những ai là người mà chúng ta PHẢI TRÁNH, đó là phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.” Thực sự rất cần ơn phân định để biết những gì phải theo và phải tránh, nói theo khẩu ngôn là “liệu hồn.”
Muốn vào cõi vĩnh hằng – Nước Trời, thì phải vào cõi tạm – sống giữa đời. Phải thực sự can đảm mới đủ sức dấn thân và chiến đấu hết sức – trước tiên là “vật lộn” với chính mình, bởi vì có nhiều trách nhiệm và cũng có lắm đau khổ. Chính Chúa Giêsu cũng đã chịu nhiều đau khổ: sinh nơi hang đá, sống di trú, không có chỗ tựa đầu, cuối cùng là chết thê thảm với nhục hình thập giá.
Bất cứ ai là tin nhận và đi theo Ngài, chắc chắn không thể đi con đường nào khác hoặc đi lối tắt để có thể gặp Ngài nơi cõi vĩnh hằng. Thật vậy, trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã căn dặn chúng ta phải cố gắng gieo Hạt Lời Chúa mọi nơi: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Chúng ta không đơn độc, vì Ngài hứa cùng hành động và đồng hành với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Và còn hơn thế nữa, Ngài còn sai Đấng Bảo Trợ là Thần Chân Lý đến để dạy chúng ta những điều phải làm. (x. Ga 14:26) Như vậy thì không có gì phải lo sợ giữa cuộc đời này.
Chính Chúa Giêsu đã huấn luyện các tông đồ mà Ngài tuyển chọn qua tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông nhận biết Ngài vẫn sống và hoạt động sau khi đã chịu chết. Một hôm, chính Ngài truyền cho các tông đồ không được rời khỏi Giêrusalem, mà phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà họ đã nghe Ngài nói tới. Điều gì? Đó là: “Ông Gioan làm phép rửa bằng nước, còn họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.” (Cv 1:5) Ngày nay, Chúa Thánh Thần cũng vẫn tiếp tục và không ngừng hoạt động.
Cũng đã từng có những người hỏi Chúa Giêsu rằng có phải đó là lúc Chúa Giêsu khôi phục vương quốc Israel hay không. Nhưng Ngài xác định: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là CHỨNG NHÂN của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:7-8) Thời đó, người ta cứ tưởng Chúa Giêsu là một chính khách có thể đảo chính để khôi phục quốc gia Israel, nhưng mọi người đều lầm to. Thật vậy, có lần Ngài đã xác định trước mặt tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36)
Chúa Giêsu không thuộc về thế gian này nên Ngài không thu quân để đảo chính, và Ngài đã để cho người ta đóng đinh vào Thập Giá. Sau 40 ngày sống lại, Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ xong, Ngài lên trời trước mặt họ, và rồi có đám mây quyện lấy Ngài, khiến họ không còn thấy Ngài nữa. Đang lúc các ông còn đăm đăm ngước lên trời, nhìn theo phía Ngài đi, có hai người đàn ông mặc áo trắng xuất hiện và nói với họ: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11)
Một hiện tượng vô cùng lạ lùng, chưa thấy bây giờ nên các ông rất ngạc nhiên. Chúa Giêsu về trời và vĩnh viễn ở đó chứ không lên trời một thời gian như đi du lịch, cũng chẳng như Chú Cuội bám gốc đa bay lên cung trăng, hoặc như Táo quân cưỡi cá chép bay lên trời. Đó chỉ là huyền thoại, không có thật. Lại càng không phải như các phi hành gia bay lên cung trăng bằng phi thuyền. Đó chỉ là dạng lên trời không chính thức, họ lên trời nhưng không thể sống được nếu không có bình dưỡng khí. Họ phải trở lại trái đất trước khi hết dưỡng khí.
Ngạc nhiên rồi ngơ ngẩn. Các môn đệ ngạc nhiên khi thấy Thầy Giêsu bay lên trời. Họ cũng đã từng ngơ ngẩn khi thấy Thầy bị người ta giết chết, tưởng thế là hết, nhưng Thầy phục sinh và sống mãi. Hạnh phúc tràn ngập. Nay các ông càng ngơ ngẩn hơn vì Thầy đi rồi, một thoáng buồn thôi. Các tông đồ phải ra đi và vào đời, tất cả tín nhân chúng ta cũng phải vậy – dấn thân, vào đời, và hy vọng ngày về trời, gặp lại Chúa Giêsu.
Thông thường, cuộc chia tay nào cũng có phần lưu luyến, thường buồn hơn vui, nhưng khi cuộc chia tay với Chúa Giêsu lại không buồn mà lại hy vọng tràn trề. Ngài về trời là dấu chỉ chắc chắn chúng ta cũng được về trời. Hoàn toàn vui mừng. Thế nên Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.” (Tv 47:2-3) Alleluia!
Chúa Giêsu thăng thiên là về nơi Ngài đã xuất phát. Thánh Vịnh gia mô tả là “rộn rã tiếng hò reo, vang dội tiếng tù và, đàn ca kính mừng Ngài.” Tuy nhiên, cuộc sống đôi khi không êm đềm như thảm lụa, luôn cần động viên lẫn nhau: “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên tòa uy linh cao cả.” (Tv 47:8-9)
Sự khôn ngoan rất cần thiết, cần cho cả đời sống xã hội và tâm linh, trong mọi trường hợp. Sự khôn ngoan đó không như khôn ngoan bình thường, mà chính là Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em THẦN KHÍ KHÔN NGOAN để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người SOI LÒNG MỞ TRÍ cho anh em thấy rõ, đâu là NIỀM HY VỌNG anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là GIA NGHIỆP VINH QUANG phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là SỨC MẠNH TOÀN NĂNG đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời.” (Ep 1:17-20)
Nhờ khôn ngoan, chúng ta đón nhận nhiều điều quý giá khác từ Thiên Chúa. Vô cùng tuyệt vời! Nhưng có điều cần lưu ý: “Đức Khôn Ngoan là thần khí hằng yêu mến con người, nhưng không miễn thứ cho kẻ nói lời phạm thượng.” (Kn 1:6)
Thánh Phaolô kết luận bằng cách giải thích: “Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.” (Ep 1:21-23) Điều kỳ diệu tuyệt vời!
Trước khi “chia tay” với các môn đệ, Chúa Giêsu căn dặn: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Đó không chỉ là lời nhắn nhủ của “người ra đi” mà còn là mệnh lệnh – tức là điều phải thực hiện bằng mọi giá. Ngài vừa hứa hẹn vừa cảnh báo: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án.” (Mc 16:16) Đó không là lời hù dọa là hệ lụy tất yếu mà thôi.
Người ta được công chính hóa nhờ đức tin. Quả thật, đức tin quan trọng, tạo nên sức mạnh vô song, và tạo nên điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của loài người. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khỏe.” (Mc 16:17-18) Đã và đang có những người làm được như vậy, đó là tặng phẩm Thiên Chúa trao cho ai thì người đó phải biết sử dụng hợp lý. Ai cũng có một tặng phẩm – người được tặng phẩm này, kẻ được tặng phẩm khác, có người được vài tặng phẩm. Điều đó giống như kẻ được một nén, ba nén, năm nén, nhưng vấn đề không là được nhiều hay ít, mà là có sử dụng để làm sáng danh Thiên Chúa hay không. Vì thế, đừng ỷ sức mình hoặc tìm tư lợi.
Thánh sử Mác-cô cho biết: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16:19-20) Chúa Giêsu chia tay để về cõi vĩnh hằng, các tông đồ phải ra đi và vào đời, làm chứng về Đức Giêsu Kitô, Đấng chịu chết trên Thập Giá, phục sinh vinh thắng và lên trời vinh hiển.
Thánh Phaolô nói về phong cách sống chứng nhân giữa đời: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm.” (Rm 12:6-8) Mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi hoàn cảnh, với trình độ khác nhau, mỗi người là một các chi thể khác nhau nhưng vẫn chung một Nhiệm Thể Đức Kitô.
Tất cả các chi thể phải đồng tâm nhất trí, cùng phát triển và liên kết trong Nhiệm Thể Thánh – Giáo Hội: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.” (Ep 4:4-6)
Về phong cách, Thánh Phaolô cho biết: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.” (Rm 12:9-13) Thật hạnh phúc nếu chúng ta làm được như vậy, đồng thời cũng tôn vinh Thiên Chúa và làm vui lòng Ngài, bởi vì như vậy là chúng ta tuân giữ lời dạy của Ngài.
Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Ngài đã cho chúng con nhận biết Ngài qua Thánh Tử Giêsu và được hứa phần thưởng vĩnh sinh. Xin giúp chúng con sống nhân bản, hoàn thiện mỗi ngày để xứng đáng với tình yêu thương Ngài dành cho chúng con. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa và Dưỡng Phụ Giuse nâng đỡ, chở che và hướng dẫn chúng con không lạc hướng về Quê Hương đích thực, nhất là trong thời buổi nhiễu nhương ngày nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
HƯỚNG VỀ QUÊ HƯƠNG VĨNH CỬU TRÊN TRỜI
Lm Trần Bình Trọng
Việc Ðức Giêsu lên trời xem ra đã hoàn tất sứ mệnh của Người tại thế: sinh ra, lớn lên, chết đi và sống lại, nhưng thực ra Người vẫn hiện diện trong Giáo hội qua Thần trí của Người.
Theo Phúc âm thánh Luca, Ðức Giêsu: Ðược lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Mk 16:10). Sách Công vụ Tông Ðồ thì ghi: Người được cất lên ngay trước mắt các ông và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa (Cv 1:9). Còn thánh Phaolô thì bảo: Ðức Kitô trỗi dậy từ cõi chết và đặt ngự bên hữu Người (Chúa Cha) trên trời (Ep 1:20). Việc Chúa lên trời dạy ta nhiều bài học. Là người tín hữu, ta biết thế đứng của mình, điều gì mình phải tin, việc gì mình phải làm, tại sao ta được sinh ra ở trần gian này và phải đi về đâu, bởi vì Ðức Giêsu đã đi trước để dọn đường cho ta. Ðó là điều Giáo hội tuyên xưng trong kinh Vinh danh: Chúa ngự bên hữu Chúa Cha, xin thương xót chúng con, và còn tuyên xưng trong kinh Tin kính: Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha.
Vậy thì trời là gì? Theo quan niệm của dân gian Việt nam thì trời là bầu trời, khoảng không gian, giống như một vòm vô biên úp trên trái đất. Trời cũng được hiểu là quyền lực siêu nhiên trên trời cao, đóng vai trò tạo dựng, điều hành và thưởng phạt. Khi hiểu theo nghĩa này, thì người mình thường thêm từ ông vào trước và gọi là Ông Trời. Ông Trời đó của dân gian Việt Nam, một phần nào cũng là Thượng Ðế và là Thiên Chúa của người Kitô giáo. Theo Thánk kinh, thì trời vừa là hiện tượng tự nhiên, vừa mang ý niệm thần học. Người Do thái thời bấy giờ coi trời là nơi ngự trị của Thiên Chúa ở bên trên bầu trời. Còn Thiên Chúa giáo coi trời hay thiên đàng hoặc thiên đường là nơi hạnh phúc, chốn an nghỉ hay trạng thái của linh hồn người đã được công chính hoá, hay đã được thanh luyện khỏi tội lỗi. Thi sĩ Nguyễn Du đã đọc hay nghe nói về lẽ đạo của Thiên Chúa giáo hay sao, mà trong truyện Kiều, có viết: Biết đâu địa ngục, thiên đường là đâu.
Việc Chúa về trời hay về thiên đàng là dấu chỉ cho cùng đích của người tín hữu. Dẫu có luyến tiếc nhà cửa, tài sản và sự nghiệp thế gian, một ngày nào đó, ta sẽ phải rời khỏi trần thế. Mặc dù loài người được coi là trung tâm điểm của vũ trụ, con người vẫn phải tìm cứu cánh cho mình để có thể trở về nguồn gốc và cội rễ của mình. Nếu không thì đời sống con người ở trần gian sẽ mất ý nghĩa và sẽ qua đi như loài vật, cỏ cây và hoa lá.
Hôm nay mỗi người cần tự hỏi: Có bao giờ ta đã hướng lòng trí về trời, về những lí tưởng cao đẹp, vị tha và bác ái chăng? Việc hướng lòng trí về trời sẽ giúp cho lòng trí ta siêu thoát dần dần khỏi những sự vật trần thế, mặc dầu ta vẫn phải sử dụng những sự vật này hằng ngày. Việc hướng lòng trí về trời sẽ giúp ta nghĩ đến việc sửa soạn thanh toán sổ sách nợ nần với Chúa và tha nhân (Mt 25:19). Việc hướng lòng trí về trời phải giúp ta sửa soạn rời khỏi đời này dần dần về tâm trí để đối diện trước toà phán xét công minh. Ta cũng sửa soạn cho con cháu làm tăng triển mối liên hệ với Chúa và với anh chị em theo tình huynh đệ khi ta đã ra đi vĩnh viễn.
Mỗi tuần ta đã dành cho Nước trời được bao nhiêu thời giờ để đến nhà thờ dâng thánh lễ, đọc kinh, cầu nguyện. Ta đã làm việc cho Nước trời được bao nhiêu thời giờ trong việc phục vụ, việc từ thiện bác ái? Hay ta chỉ mải miết cặm cụi: bảy ngày một tuần với những sự việc trần thế? Có phải ta coi Nước trời là quá cao siêu, xa vời về thời gian cũng như không gian như trời cao đất thấp, cho nên ta đặt cùng đích của cuộc sống vào đời này cho xong chuyện? Trong Phúc âm Chúa nhắn nhủ ta: Trước hết hãy tìm kiếm nước Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những sự khác, Người sẽ ban sau (Mt 6:33).
Khi suy gẫm về Mầu Nhiệm thứ hai trong chuỗi Mân Côi Năm sự Mừng: Thứ Hai thì ngắm Ðức Chúa Giêsu lên trời, Ta xin cho được ái mộ những sự trên trời. Vậy ta có ý thức được điều mình xin hay ta chỉ đọc kinh một cách máy móc? Và nếu ý thức được điều mình xin, ta có thực hành những điều mà ta ái mộ về Nước trời không? Vậy những sự trên trời là gì? Những sự trên trời là những giá trị Phúc âm: chân thật, công chính, thanh liêm, ngay thẳng, vị tha, bác ái.. Những sự trên trời là Tám mối Phúc thật: Phúc cho những ai thế nọ, thế kia .. vì nước Trời là của họ. Khi thánh Mạc-tin thành Tours gần chết trên giường bệnh, ngài nhìn thẳng lên, suy niệm về đường Chúa lên trời, để cho tư tưởng hướng về trời. Việc Chúa lên trời phải là dấu hi vọng cho người tín hữu ở trần thế. Ðó là điều mà thánh Phaolô bảo tín hữu Êphêsô: Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hi vọng anh em đã nhận được (Ep 1: 18).
Ngày lễ Chúa lên trời phải nhắc nhở cho ta về quê hương vĩnh cửu của ta ở trên trời. Trước khi về trời Ðức Giêsu hứa sẽ trở lại đón ta khi Người phán: Thầy đi và dọn chỗ cho chúng con rồi, Thầy lại đến đón chúng con về cùng Thầy, cốt cho Thầy ở đâu, các con cũng được ở đó (Ga 14:2-3). Và Chúa còn cầu nguyện cho ý hướng đó: Lậy Cha, đối với những kẻ Cha đã trao phó cho con, thì con muốn rằng, hễ con ở đâu, họ cũng được ở đó với con, để họ mục kích sự vinh hiển Cha đã ban cho con (Ga 17:24).
Lời cầu nguyện: xin cho được yêu mến những sự trên trời:
Lậy Ðức Giêsu, qua việc lên trời,
Chúa dậy con quê hương vĩnh cửu,
không phải ở tại đời này,
nhưng hệ tại vào đời sau.
Xin khơi dậy trong con một tâm hồn,
biết ái mộ và tìm kiếm những sự trên trời,
để mai sau con được đón vào thiên giới. Amen.
Thiên San
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu Phục sinh ban cho Nhóm Mười Một trước khi Người lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa. Theo lời ấy, khởi đầu là Nhóm Mười Một rồi biết bao thế hệ đã ra đi, hăng say rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, có Chúa cùng hoạt động và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ngài rao giảng.
Lược qua dọc dài lịch sử Giáo hội, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì sự lan tràn của dân Thiên Chúa. Từ một nhóm tông đồ nhỏ nhoi nay Giáo hội Chúa có mặt hầu như khắp năm châu. Đức Giêsu thật sự đã phục sinh và lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngày nay, Người vẫn tiếp tục đồng hành, ở lại với chúng ta qua các Bí tích, đặc biệt là qua Bí tích Thánh Thể như lời Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Người ban tràn đầy Thánh Thần cho những ai lãnh nhận bí tích Rửa tội, cách riêng là những ai được gọi. Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được bước đi trong Giáo hội, được gọi Thiên Chúa là Cha, được trở nên chi thể của Đức Kitô, được chia sẻ các chức vụ của Đức Kitô: tư tế, vương đế, ngôn sứ. Khi chúng ta thi hành các chức vụ trên nhất là chức vụ ngôn sứ, khi ấy, chúng ta đang thi hành lệnh truyền của Đức Kitô, giới thiệu Chúa cho muôn người.
Tiếp nối bước chân của các Tông đồ tiên khởi, cho đến ngày nay, có biết bao lớp người, bao vị tông đồ nhiệt tình, hăng say ra đi, thực thi lệnh truyền của Chúa Kitô. Các ngài là những thừa sai đến từ dòng Phanxicô, dòng Đa Minh, dòng Tên… Đối với Giáo hội Việt Nam, chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã gửi các vị thừa sai đến gieo hạt giống Tin Mừng trên đất Việt vào khoảng thế kỷ XVI, XVII. Trong số các thừa sai lúc bấy giờ, chúng ta đặc biệt nhớ đến Đức cha Francois Pallu (Đại diện Tông Tòa Địa phận Đàng Ngoài) và Đức cha Pierre Lambert de la Motte (Đại diện Tông Tòa Địa phận Đàng Trong). Các ngài là những thừa sai đến từ Pháp, được Đức Giáo Hoàng Alexandre VII bổ nhiệm làm Đại diện Tông Tòa vùng Viễn Đông vào ngày 08 tháng 06 năm 1658. Qua Đoản sắc Super Cathedram được Đức Giáo Hoàng Alexandre VII ký vào ngày 09 tháng 09 năm 1659, Giáo hội Việt Nam được khai sinh (x. Tiểu sử Đức cha Francois Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte). Nếu có cơ hội tìm hiểu hành trình truyền giáo của các ngài, chúng ta sẽ thấy được bao gian lao, vất vả, hiểu lầm các ngài đã trải qua cũng như tình yêu, lòng nhiệt thành mà các ngài dành cho công cuộc loan báo Tin Mừng.
Điểm qua một vài nét lịch sử của Giáo hội Việt Nam để chúng ta thấy được công việc của Chúa Thánh Thần thực hiện qua các vị thừa sai. Để tri ân công ơn của hai vị Đại diện Tông tòa tiên khởi, trong khóa họp tháng 04 năm 2019, Hội đồng Giám mục VIệt Nam đã chính thức xin mở án phong thánh cho các ngài. Tiếp nối gương sáng của các vị tiền bối, chúng ta, mỗi người qua ơn gọi và bậc sống của mình cũng hãy ra đi, thực thi lệnh truyền của Đức Giêsu Phục sinh, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Đó là lệnh truyền dành cho tất cả chúng ta, những kẻ tin vào Đức Giêsu. Người sẽ đồng hành cùng chúng ta như xưa nay Ngài đã đồng hành với các vị tiền bối, chỉ cần chúng ta can đảm ra đi. Bởi, thánh Phaolô Tông đồ đã quả quyết: Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10).
Lm. Xuân Hy Vọng
Anh chị em rất thân mến, chúng ta đã cùng Giáo hội hân hoan mừng đón Chúa Phục Sinh và giờ đây giống như mười một Tông đồ, có lẽ chúng ta lòng cũng buồn rười rượi, bịn rịn phải nói lời chia tay với Chúa Giê-su vì hôm nay Người lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Nhưng con thiết nghĩ nỗi buồn này được lấp đầy với niềm vui chan chứa, và ngôn từ chia tay này được thay thế bằng lời trấn an đầy xác tín của Chúa Giê-su Ki-tô với các môn đệ và với mỗi người chúng ta: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28, 20). Các bài đọc hôm nay chúng ta vừa nghe, đặc biệt trình thuật ngắn gọn của Thánh Sử Mác-cô về sự kiện Chúa Thăng Thiên cho chúng ta thấy: Mác-cô không đơn thuần thuật lại chuyện Đức Giê-su được đưa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, mà còn nhắn nhủ mỗi người chúng ta hãy nhớ “bài sai” của Chúa Giê-su gửi cho mọi người tin nhận vào Người rằng: “Các con hãy đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16, 15-16). Nói cách khác, mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi và được sai đi làm chứng nhân cho Chúa tình yêu trong mọi hoàn cảnh sống, mọi thời đại và mọi lãnh vực.
Trước tiên, chúng ta nên hỏi bản thân: ai là chứng nhân cho Thiên Chúa tình yêu? Và chứng nhân cho Chúa là người như thế nào? Thông thường, anh chị em nghe quý cha, quý sơ, quý thầy được nhận bài sai đi truyền giáo, phục vụ ở nơi này hay nơi khác, ở quê hương hay trên một vùng đất xa lạ nào đó, chứ ít ai nghe giáo dân được sai đi?!! Nghĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, nhưng chúng ta nên biết rằng: khi được chịu Bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên người thuộc về Chúa Ki-tô (Ki-tô hữu), người được thông phần vào sứ vụ tiên tri, tư tế và vương đế của Ngài; còn nữa, chúng ta cam kết từ bỏ mọi âm mưu đen tối của tội lỗi, ma quỷ và hứa sống tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa qua việc sống đức tin và làm chứng cho Chúa qua đời sống hằng ngày. Như vậy, chứng nhân cho Thiên Chúa tình yêu chính là mỗi một người Ki-tô hữu chúng ta, là những người được khắc sâu trong tâm khảm mình ấn tín thánh thiêng không bao giờ phai mờ, là người mặc lấy thánh danh Ki-tô hay là người mang tên Ki-tô hữu. Như bài đọc 1 trích trong sách Công Vụ Tông Đồ, Chúa Giê-su khẳng định: các tông đồ sẽ được lãnh nhận sức mạnh của Thánh thần khi Người ngự xuống trên các ông. Bấy giờ các ngài sẽ là chứng nhân của Thầy Chí Thánh Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri-a cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). Chứng nhân của Thiên Chúa tình yêu là người được Thánh thần thúc giục, nâng đỡ, ban sức mạnh, can đảm, quả quyết, dũng cảm ra khỏi con người yếu đuối, sợ sệt, nhút nhát của mình, vứt bỏ những thú vui trần tục, thói quen đam mê mà dám tuyên xưng vào Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao ban Con Một yêu dấu của mình để cứu độ con người tội lỗi (x. Ga 3, 16). Còn gì đẹp hơn, cao cả hơn tình yêu của một Thiên Chúa trao ban chính sự sống mình cho chúng ta dù chúng ta bất xứng, vô ơn!
Như vậy, anh chị em chúng ta phải khẳng định một điều: đã là người Ki-tô hữu, tất cả chúng ta đều là chứng nhân của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ta sẽ làm chứng cho ai và cho điều gì? Một câu hỏi dường như không cần thiết và có lẽ hơi dư thừa, nhưng nếu nhìn vào cuộc sống gia đình, lịch sử bản thân,những thăng trầm, và bước ngoặt lớn trong đời sống đức tin của mỗi người, chúng ta sẽ nhận ra: lắm lúc chúng ta không làm chứng cho Chúa tình yêu và cho Chân lý. Lý do thì ôi thôi vô số, hơn cả 1001 lý chứng để biện hộ, biện minh hay giải trình. Thay vì làm chứng cho Chúa Ki-tô đã yêu thương tôi, đã chết cứu chuộc tôi, tôi lại làm chứng cho “cái tôi”, cho “bản ngã” tự kiêu của mình. Thay vì làm chứng cho lòng thương xót, lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa dành cho tôi, tôi lại làm chứng cho sự cứng nhắc, hành vi lên án và ghen ghét đối với chính mình và đối với tha nhân. Thay vì làm chứng cho cử chỉ khoan dung, chờ đợi và vòng tay rộng mở của Chúa dành cho con người tội lỗi như tôi, tôi lại làm chứng cho lối suy nghĩ kết án, xua đuổi và tách biệt của mình đối với anh chị em trong cộng đoàn; và còn vô vàn nhiều điều khác mà đáng lẽ chúng ta phải làm chứng, nhưng vì sự yếu đuối, chúng ta đã nhiều lần thỏa hiệp với điều bất chính hoặc cho tư lợi cá nhân. Là con cái Chúa, chúng ta phải sống trong sự thật, làm chứng cho chân lý, nhưng lắm lúc chúng ta lại làm chứng gian. Chính vì nhận biết con người thật mỏng manh, yếu đuối và dễ sa ngã như vậy, thánh Phao-lô đã nhắn nhủ chúng ta qua bài đọc II, thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô: “Anh em được ban thần khí khôn ngoan và mạc khải để nhận biết Người. Xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh…” (Ep 1, 17-18). Lời nguyện xin của thánh Phao-lô cho tín hữu Ê-phê-sô cũng chính cho mỗi người Ki-tô hữu chúng ta. Thật không sai khi chúng ta nhận mình yếu đuối, nhưng với ơn Chúa, chúng ta trở nên can đảm làm chứng cho Ngài. Chẳng chút gì sai khi chúng ta nhận biết mình mù quáng trước lợi danh, tiền, tài, tình, tham vọng và đam mê, nhưng với Thần khí khôn ngoan, đôi mắt tâm hồn của chúng ta sẽ trở nên sáng suốt, can trường đứng về phía chân lý và làm chứng nhân cho tình yêu đích thật, làm chứng tá cho Thiên Chúa.
Anh chị em rất thân mến, chúng ta đã biết mỗi một người trong chúng ta được Thiên Chúa mời gọi trở nên chứng nhân cho tình yêu Chúa và cho chân lý. Tuy nhiên, sống trong một thế giới đầy chuyển biến như ngày nay, chúng ta phải sống chứng tá như thế nào? Một niềm vui an ủi chắc chắn cho các Tông đồ, cho Giáo hội và cho chúng ta, đó là: mặc dù Chúa Giê-su vinh hiển lên trời, nhưng Người luôn đồng hành, ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Bằng chứng cụ thể, mỗi ngày Ngài hiện diện qua bí tích Thánh thể, trao ban chính sự sống Người cho chúng ta. Trong mọi phút giây, những khi ta quỵ ngã vì phạm tội, Ngài đồng hành với chúng ta qua bí tích Giải hòa để ban ơn tha thứ và bình an cho ta. Khi ta ốm đau bệnh tật phần hồn cũng như phần xác, Ngài đỡ nâng và cảm thông với ta, v.v…Những cảm nghiệm này, tiên vàn các Tông đồ là nhân chứng hùng hồn nhất “…phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo” (Mc 16, 20). Trong đời sống mục vụ và truyền giáo ở xứ sở hoa anh đào này, con cũng được nhiều anh chị em chia sẽ: làm sao sống giữ vững đức tin ở đất nước phồn thịnh Nhật Bản này; làm sao sống chứng tá cho Tin Mừng và rao truyền Nước Chúa cho những người chưa tin nhận Chúa, v.v…Và câu chuyện đó luôn kết thúc bằng bốn chữ “khó lắm cha ơi”. Thật sự, bản thân con cũng đồng cảm với quý ông bà, anh chị em; nhưng cũng nên khẳng định một điều: “khó không có nghĩa là không thực hiện được”. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng bắt đầu làm chứng tá cho Chúa từ những việc làm bé nhỏ nhất, cử chỉ yêu thương, vị tha, sống hài hòa và hiệp thông với nhau. Và rồi từ tình yêu thương trong cộng đoàn dù bé nhỏ ấy sẽ như hương hoa lan tỏa khắp nơi. Hơn nữa, nếu chúng ta luôn tin tưởng rằng: chúng ta không ‘đơn thân độc mã’ sống chứng tá cho Tình yêu, nhưng các anh chị em khác đang cùng với ta và nhất là Chúa Ki-tô Phục Sinh luôn đồng hành, nâng đỡ ta trên bước đường trở nên nhân chứng Tình yêu như tâm tình trong một bài hát sinh hoạt “Phao-lô trồng, A-pô-lô tưới, Thiên Chúa sẽ cho mọc lên. Tôi trồng, anh tưới, Thiên Chúa cho bông lúa vàng”.
Với niềm tin xác tín vào Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa đã chịu chết cho nhân loại vì tình yêu. Và hôm nay Ngài lên trời, về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài luôn ở cùng chúng ta cho đến ngày tận thế, chúng ta xin Chúa giúp sức cho mỗi người biết ý thức, can đảm trở nên chứng tá cho tình yêu mà Ngài đã dành cho chúng ta.
Chung lời ngợi khen Chúa Con,
Hân hoan thờ kính sắt son một niềm.
Ứng viên của Chúa tình yêu
Nhiệt tâm, nhiệt huyết, đìu hiu xa rời,
Gần gũi, gắn bó đầy vơi
Nghị lực Thần khí, biển trời cậy trông.
Hoạt động hăng say vun trồng,
Ân sủng chan chứa tình nồng thánh ân
Người người chung sức tảo tần,
Ra đi làm chứng, xếp vần yêu thương. Amen.
CHÚA LÊN TRỜI MỞ CHÂN TRỜI MỚI
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Chúa Giêsu lên trời mở ra những chân trời mới cho chúng ta: Phận người không chỉ ở nơi đất thấp mà còn vươn tới tận trời cao. Đạo Chúa không chỉ giới hạn ở 1 quốc gia mà mở ra cho toàn thiên hạ.
- Phận người vươn tới trời cao. Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế làm người. Thế rồi, con người Giêsu đã chịu chết, sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là tin mừng vĩ đại cho loài người: Thân phận con người từ nay không dừng lại nơi đất thấp, mà vươn tới trời cao. Chúa mở ra cho toàn thể loài người một chân trời hy vọng được hưởng sự sống vinh quang đời đời trên trời. Phận người không phải là an nghỉ nơi huyệt mộ trong lòng đất, nhưng là vui sống hạnh phúc trên trời với Thiên Chúa. Phải chăng vì thế mà Chúa đã tạo dựng con người trong tư thế: Đầu đội trời, chân đạp đất. Sống nơi đất thấp, nhưng con người lại luôn hướng lên trời cao. Đất cho ta sinh sống, nhưng Trời mới cho ta lẽ sống.
- Đạo Chúa lan tỏa thiên hạ. Khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, thì Đạo Chúa mới chỉ giới hạn ở 1 quốc gia, nhưng khi Chúa lên trời, thì Đạo Chúa đã mở ra toàn thiên hạ khi Ngài truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” Như vệ tinh cần phải bay lên trời thì mới phủ sóng rộng toàn cầu, Chúa Giêsu lên trời cũng phủ sóng Tin Mừng khắp thế giới. Vệ tinh trên trời cần các thiết bị dưới đất tiếp nhận tín hiệu rồi truyền sóng, Chúa lên trời cũng cần các môn đệ của Ngài truyền sóng Tin Mừng, ra đi làm chứng nhân cho Chúa. Hãy ra đi lan tỏa Đạo Chúa khắp thiên hạ.
Và như thế, không phải đợi sau khi chết chúng ta mới được về trời với Chúa, mà ngay khi đang sống dưới đất chúng ta cũng đã được vui hưởng niềm vui Nước Trời khi loan báo và làm chứng Tin Mừng yêu thương. Bởi vì, đâu có tình yêu thương ở đó có Đức Chúa Trời. Amen.
QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA Ở TRÊN TRỜI
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời. Trong bài đọc I tác giả sách Công Vụ Tông Đồ miêu tả biến cố này như sau: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,9-11).
Có thể nói rằng đây là sự miêu tả bên ngoài của biến cố. Thánh Phaolô trong bài đọc II nói đến ý nghĩa ẩn dấu bên trong của biến cố này. Theo ngài, “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ep 1,22). Như thế, lễ Lên Trời cử hành sự đăng quang vinh hiển của Chúa Kitô như là Chúa của hoàn vũ.
1- Lên trời nghĩa là gì?
Trong biến cố này, lời nhắc nhở của hai thiên thần mặc áo trắng làm chúng ta nhớ đến những lời của những người vô thần thường nói với các Kitô hữu: “Sao các ông còn đứng nhìn trời?” Thật vậy, triết gia Hegel đã từng mỉa mai rằng: “Người Kitô hữu đã hoang phí những kho tàng quý báu ở dưới đất khi mải mê hướng về trời.” Karl Mark cũng cho rằng: “Các Kitô hữu đã phỏng chiếu lên trời những khao khát không được thỏa mãn của họ ở dưới đất này.” Vì thế, thánh lễ hôm nay thúc đẩy chúng ta suy tư về việc “hướng về trời.” Đây là một hạn từ được các bài đọc Kinh Thánh nói tới.
Triết gia Platon, một trong những người thầy vĩ đại nhất của nhân loại, đã nói về ý nghĩa thiêng liêng của trời. Ông để lại vũ trụ quan của mình qua dụ ngôn về cái hang. Platon hình dung loài người là một đoàn người tù nhân bị trói chặt trong một hang động u tối. Họ quay mặt vào vách tường ở dưới đáy động. Vì bị trói chặt, đám người không thể nhìn ra cửa hang, cũng không thể đi ra ngoài hang. Bên ngoài cửa hang là cả một thế giới được Platon cho là Chân, Thiện, Mỹ. Trong thế giới đó có vô số thứ tốt lành mà ông gọi là thế giới các Ý Tưởng (Ideas). Theo ông, tất cả các ý tưởng đều tuyệt đẹp, vĩnh cửu và bất biến. Các vị thần là những sinh linh hay siêu nhân có thể nhận biết tất cả những ý tưởng đó. Thương loài người bị cầm tù, các thần làm một bản sao một số ý tưởng để mang vào hang cho loài người xem. Chúng giống như những con rối hay búp bê, được làm bằng vật liệu nào đó, chúng thực là những con rối, nhưng không phải là cái thực của hình mẫu lý tưởng. Để cho mọi người trong hang nhìn thấy chúng, các thần đốt lửa đằng sau để chiếu bóng của con rối lên bức tường. Nhờ ánh sáng mà người ta thấy được bóng của các con rối.
Như thế, theo Platon, thế giới vĩnh hằng với các ý tưởng chân thiện mỹ, vĩnh cửu, là mẫu mực của mọi sự vật trong tự nhiên. Thế giới tự nhiên, vật chất với những con rối, đối tượng được các thần sao chép từ các ý tưởng. Thế giới của các cái bóng những con rối là hình ảnh về những sự vật khách quan theo cảm nhận chủ quan của con người. Platon nói rằng đây là điều kiện của con người chúng ta ở trong thế giới. Thế giới này chỉ là một hang. Những điều mà chúng ta tin rằng là thực chỉ là bóng của thực tại ở đằng kia, ở trên trời. Chúng là sự bắt chước của thực tại trên trời. Vì thế, cần phải thoát khỏi thân xác là ngục tù nhốt chúng ta trong thế giới vật chất với những ảo tưởng, để “thoát khỏi hang tối” mà nhận biết thực tại đích thực. Vì thế, Platon hiểu rằng trời là quê hương vĩnh cửu của con người, chứ không phải là một không gian địa lý nào đó xa xôi trong vũ trụ này. Trời có ý nghĩa hoàn toàn khác, ở ngoài không gian và thời gian. Ông gọi đó là “thế giới của các ý tưởng” hay thế giới bên kia.
Danh họa Raffaello đã tóm tắt một cách tuyệt hảo ý tưởng của Platon trong một bức tranh nổi tiếng gọi là “Trường Athens.” Trong đó, chúng ta thấy hai nhà triết gia vĩ đại cổ, một Platon và một Aristotes, đại diện cho hai thái độ đối lập nhau. Với bàn tay chỉ xuống dưới, Aristotes nói rằng thực tại là ở trên mặt đất và sự hiểu biết của chúng ta phải khởi đi từ những sự vật mà chúng ta thấy và đụng chạm; còn Platon với ngón tay chỉ lên trời lưu ý rằng thực tại ở trên cao, trên trời.
Ngày hôm nay, tất cả chúng ta ít nhiều là những người theo Aristotes, ai cũng có cái nhìn và chú ý đến trần gian. Chúng ta cần bổ túc bởi cái nhìn của Platon.
Nếu chúng ta sống tình yêu mang tính “platonist,” nghĩa là tình yêu này có tính thiêng liêng hơn, hướng thượng hơn và lý tưởng hơn, lúc đó, cả trong tình yêu, tình yêu của chúng ta có ý nghĩa hơn, có giá trị hơn. Bởi lẽ, chúng ta thấy rằng mối nguy hiểm lớn nhất là hạ giá tình yêu khi chỉ giảm thiểu nó ở trong phạm vi thuộc thể lý, cảm xúc và tính dục.
2- Sự khác biệt của Kitô giáo về trời
Có những đoạn Kinh Thánh xem ra như phác họa lại khuôn mẫu của Platon để nhìn các sự vật như được miêu tả từ dụ ngôn cái hang. Nhân vật trong bức tranh của Raffaello với ngón tay chỉ về trời chính là hình ảnh rất đẹp về thánh Phaolô khi ngài nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3,1-2).
Như vậy, Đức tin Kitô giáo có phải là một dạng cập nhật tư tưởng Platon chăng? Đức Giêsu đến không mang lại gì mới mẻ chăng? Không, chúng ta phải nói rằng có một sự khác biệt nền tảng; trời trong mạc khải Kitô giáo không phải là trời như Platon quan niệm. Kitô giáo không quan niệm thế giới theo sơ đồ không gian trên/dưới, hoặc trên cao/dưới thấp, nhưng với lược đồ thời gian hiện tại/tương lai. Khi chúng ta nói về trời, chúng ta không hiểu rằng đó là một không gian ở trên chúng ta, nhưng là một biến cố trước mặt chúng ta, hướng về biến cố đó chúng ta tiến bước. Biến cố này chính là sự trở lại vinh quang của Chúa Kitô, sự trở lại lần thứ hai (parusia) là “trời mới đất mới.”
Đó là lý do tại sao hai thiên thần nhắc nhở các Tông Đồ không hướng nhìn lên trời mà phải hướng về sự trở lại của Chúa Kitô: “Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” Liên quan đến điều này, thánh Phaolô nói: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Kinh Thánh nói rằng: “Vì trên đời này, chúng ta không có thành trì bền vững, nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai” (Hr 13,14).
Có ai đó sẽ nói: “Nhưng đâu có gì khác biệt?” Quả thật, có sự khác biệt lớn lao! Đối với cái nhìn của Platon, thế giới này không còn giá trị của nó. Thế giới này là một cái hang, nghĩa là một nhà tù. Nên ông dùng hai từ trong tiếng Hy Lạp khi nói: thân xác (soma) là một ngôi mộ (sema). Hãy chạy trốn, thoát khỏi thế giới này. Không có ơn cứu độ nơi thân xác và thế giới, nhưng chỉ khi con người rời khỏi thân xác và thế giới này mới có ơn cứu độ.
3- Hướng về sự trở lại của Chúa Kitô
Đối với người Kitô hữu không như thế, Kitô giáo không phải theo nhị nguyên luận như Platon. Thân xác không chỉ đơn giản là “phương tiện” hoặc là “tù ngục” cần phải trốn thoát. Thân xác con người được Thiên Chúa tiền định để tham dự vinh quang phục sinh với linh hồn. Sự phục sinh và sự lên trời của Đức Kitô minh chứng cho chúng ta chân lý này. Chúng ta được hạnh phúc “trong chính thân xác mình,” như đức tin đảm bảo điều đó cho chúng ta. Cuộc gặp gỡ với Chúa Đấng sẽ đến và “ra đi để được ở với Đức Kitô” (Pl 1,23), Người chính là “trời, là thiên đàng đối với người Kitô hữu chúng ta.”
Hơn nữa, nếu thế giới này thuộc về Thiên Chúa, được tạo dựng bởi Người, thì nó cũng được cứu độ (x. Rm 8,19), do đó, chúng ta không được tách khỏi vận mệnh thế giới, nhưng đóng góp để gìn giữ và xây dựng thế giới này đẹp hơn, tốt hơn và nhân bản hơn. Chúng ta có bổn phận phải làm cho những điều kiện sống ở đời này tốt hơn. Đức tin dạy chúng ta khi trông chờ Đức Kitô đến và hướng về tương lai không cho phép chúng ta an nhiên tự tại trong sự lười biếng hay bỏ bê bổn phận xây dựng xã hội trần thế. Thời gian được ban cho chúng ta để “làm điều thiện cho mọi người” (Gl 6,10) như thánh Phaolô dạy. Vì thế, “không được lãng phí những kho báu dưới đất khi hướng về trời.”
Nếu trời đối với chúng là “Chúa đến,” như thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức, bởi vì Người đang đến lúc này trong phép Thánh Thể, trong người nghèo, trong người đau khổ, cô đơn. Chúng ta hãy tỉnh thức để đón Chúa đến với cặp mắt không chỉ nhìn lên, nhưng còn phải biết nhìn xuống để nhận ra Chúa nơi anh chị em của mình. Amen!
Việc Chúa về trời trước hết diễn tả vinh quang chiến thắng. Qua sự phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Người cũng chiến thắng những cám dỗ của thế gian nhằm lôi kéo Người từ bỏ thực thi ý định của Chúa Cha. Chúa Giêsu về trời, đem theo những dấu tích của cuộc khổ nạn (dấu đinh), như bằng chứng của sự hy sinh tự hiến để thánh ý Chúa Cha được nên trọn.
Việc Chúa Giêsu về trời đánh dấu sự hoàn tất của công trình cứu độ được thực hiện qua biến cố thập giá. Tuy vậy, sự hoàn tất này lại mở ra một gian đoạn mới trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã sang một trang mới kể từ biến cố phục sinh. Nhận được lệnh truyền của Chúa, các môn đệ đã hân hoan ra đi thi hành sứ vụ. Đây là một cuộc lên đường mới, đầy hứng khởi nhiệt tình. Việc Chúa được cất lên trời không làm cho các môn đệ u sầu buồn bã, trái lại các ông lại hân hoan vui vẻ, vì tin chắc có Chúa ở với mình. Từ nay, các ông được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, cùng với khả năng làm phép lạ mà chính Chúa đã ban cho các ông, như lời căn dặn trước khi Người về trời. Với lời “sai đi” của Chúa, lãnh vực truyền giáo không còn giới hạn trong xứ Palestina, nhưng đã mở ra những chân trời mới. Nước của Chúa không còn giới hạn ở những cột mốc lãnh thổ, nhưng lan rộng đến mọi nền văn hóa, đến mọi dân tộc. Chúa đã về trời. Cũng như trời rộng bao la mênh mông thế nào, thì vương quốc bình an mà Người đã khởi sự thiết lập cũng sẽ rộng lớn như vậy.
Chúa Giêsu đã nhập thể và mang lấy thân phận con người như chúng ta. Sau khi kết thúc cuộc đời trần gian, Người đã khải hoàn về thiên quốc. Việc Chúa Giêsu về trời cũng khẳng định với chúng ta, đất và trời từ nay không còn cách biệt nữa. Dưới đất này đã có trời, và trên trời cao đã có đất. Quả vậy, nếu định nghĩa trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, thì trong “cõi người ta” này, Thiên Chúa đang hiện hữu để chúc lành và dẫn dắt chúng ta bằng cánh tay yêu thương của Ngài. Nếu định nghĩa đất là nơi con người sinh sống, thì trên trời, hiện đã có một “Con Người” là Đức Giêsu, mẫu mực chung cho tất cả mọi người về cách sống cũng như về sự hy sinh vì tha nhân. Vì thế, liền sau khi Chúa Giêsu được cất lên, trong khi các môn đệ còn bỡ ngỡ lưu luyến, thì hai sứ thần đã nói với họ: “Hỡi người xứ Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Qua những lời này, các sứ thần muốn khẳng định với các ông rằng, các ông hãy quay về với bổn phận, vì tuy Chúa đã về trời, Người vẫn luôn hiện diện trên mặt đất này với các ông. Từ nay, mọi bước đường truyền giáo của các ông sẽ có Chúa đi cùng. Người hiện diện thiêng liêng, vô hình nơi trần gian, và Người sẽ trở lại trong vinh quang vào thời tận cùng của lịch sử. Chính vì vậy, “Người lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước” (Kinh Tiền tụng lễ Thăng Thiên).
“Quê Trời” là niềm mơ ước của con người thuộc mọi nền văn hóa, dù khái niệm về trời rất mông lung bàng bạc. Trong quan niệm dân gian của người Việt, “Trời” không chỉ là cái vòm màu xanh ở tít trên cao, nhưng là một “Đấng”, một “Ông”, một “Vị”. Nơi “Ông Trời” người ta tin tưởng cầu xin ơn phù trợ để mọi sự tốt lành: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm” (Ca dao). Trời cũng là nơi ở dành cho các anh hùng dân tộc, những người có công với nước, như trường hợp Thánh Gióng, sau khi đánh giặc Ân, cưỡi ngựa về trời.
Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: Quê trời là phần thưởng Chúa Cha dành cho người công chính. Hạnh phúc Nước trời là được chìm mình trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi, cùng với anh chị em mình. Đó là tình yêu vĩnh cửu, viên mãn, tồn tại muôn đời. Hạnh phúc Chúa Giêsu hứa ban không phải một thứ “bánh vẽ” xa vời, một thứ “thuốc phiện mê dân” ảo tưởng, Nước Trời đã hiện diện giữa trần gian, ngay ngày hôm nay, nơi cuộc đời của mỗi người chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận bằng con tim rộng mở và tấm lòng chân thành.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.
Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.
Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.
Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.
Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.
Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.
Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời.
Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.
Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.
Gợi ý chia sẻ:
1) Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?
2) Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật chất?
3) Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu nguyện này?
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ Thăng Thiên. Chúa về trời để dọn chỗ trước cho chúng ta, Đức Giêsu trao cho chúng ta sứ mạng làm chứng cho Ngài giữa thế gian và loan báo Tin Mừng cho các dân tộc.
Trước khi Chúa siêu thăng về trời, Ngài đã ra lệnh cho các môn đệ “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật “ ( Mc 16, 15 ). Chúa về trời là về với Thiên Chúa Cha. Chúng ta là con cái của Ngài.Chúng ta tin vào Ngài, chính Ngài đã nói :” Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sống lại “ và “ Ta đi để dọn chỗ cho các ngươi “. Do đó, đích đến của mỗi người Kitô hữu chúng ta là Nước Trời. Cuộc hành trình đức tin đi về quê trời là cuộc hành trình lâu dài, đòi hỏi phải kiên nhẫn, phải can đảm, vững mạnh, kiên quyết vượt thắng tội lỗi, đích đến là ở bên kia, là phía trước, thật gần nhưng cũng rất xa xôi.Nên, những bước chân gần gũi của chúng ta là đến với anh em ở mọi nơi, ở khắp cùng thế giới, những bước chân rao giảng Tin mừng, loan báo Đức Kitô. Phúc Âm mà chúng ta được Hội Thánh và chính Chúa sai đi là gieo rắc tình yêu.Tin mừng là chính Chúa yêu thương thế gian, yêu thương con người. Tin mừng là chính ai tin thì sẽ được lãnh nhận bí tích rửa tội, sẽ được cứu độ. Phúc Âm đó là Chúa ban cho chúng ta Lời để loan báo tình thương và ban cho chúng ta quyền năng làm phép lạ, và đến với mọi hạng người, không phân biệt bất cứ ai, bất cứ người nào bởi vì bất cứ ai tin cũng được Chúa đón nhận, được Chúa cứu độ.
Người Galilê xưa cứ nhìn lên trời để hy vọng dõi theo Chúa về trời. Thực tế là không chỉ nhìn lên trời, nhưng người Kitô hữu hãy hăng say đi loan báo Tin mừng, vì thế giới còn biết bao người chưa nhận biết Chúa đúng như lời Chúa nói :” Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt “. Chúa về trời, nhưng Ngài vẫn hiện diện với chúng ta, với nhân loại cho đến ngày tận thế.Chúa về trời, Ngài dùng miệng lưỡi của chúng ta để loan báo Tin Mừng, dùng đôi tay của chúng ta để giúp đỡ con người, để thi ân cho người khác, dùng đôi chân của chúng ta để đến với những con người nghèo khổ vv…Chúa về trời nhưng người vẫn luôn muốn :” Xin cho chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha “. Chúa về trời nhưng Ngài vẫn luôn mong ước :”…để những người Cha ban co Con cũng ở đấy với Con “ ( Ga 17, 24 ).
Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ trọng đại nhất của người Công giáo chúng ta. Chính vì thế, chúng ta có thể dùng hình ảnh của các vận động viện chuyền ngọn lửa thiêng trong một cuộc chạy tiếp sức để ngọn lửa được châm và cháy rực lên trong suốt cuộc thi đấu của Olympic hay một thế vận hội nào của thế giới.
Chúa Giêsu Phục Sinh trước khi về trời đã trao cho các môn đệ, cho Hội Thánh ngọn lửa đức tin, ngọn lửa của công cuộc truyền giáo, và các tông đồ, các môn đệ cùng tất cả Giáo Hội tiếp tục công việc cứu thế của Chúa cho đến ngày tận thế.
Đức Giêsu Kitô đã dạy các môn sinh của Ngài :” Các con là muối ướp cho đời, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó . Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là thành phố xây trên núi…Cũng thế, ánh sáng của các con phải chiếu sáng lên trước mặt thiên hạ, để họ nhìn xem những việc thiện chúng con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời “ ( Mt 5, 13-16 ).
“ Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay,Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển.Là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường rước chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời “. Amen. ( Lời nguyện Nhập lễ Thăng Thiên ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa về trời để làm gì ?
2.Sứ mạng Chúa trao cho Hội Thánh là gì ?
3.Lễ Thăng Thiên là lễ thế nào đối với chúng ta ?
4.Sống lại, Chúa đã ở với các môn đệ bao lâu ? Rồi Ngài đi đâu ?
5.Tại sao lại ví công cuộc truyền giáo giống như một cuộc chuyền lửa tiếp sức ?
.
Bông hồng nhỏ
Trước khi về trời, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra căn dặn các môn đệ của mình và ban cho các ông lệnh truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (Mc 16, 15). Lệnh truyền ấy đã hối thúc muôn tâm hồn miệt mài ra đi trên cánh đồng sứ vụ. Họ hăm hở ra đi truyền rao Tin Mừng. Từng thế hệ nối tiếp nhau, không có khó khăn hay gian khổ nào có thể cản bước tiến của họ, vì trong tâm hồn họ và bên cạnh họ luôn có Thầy Giêsu hiện diện.
Ta cũng là người môn đệ của Chúa, đã lãnh nhận hồng ân đức tin và được ơn cứu độ. Ta sẽ ra đi truyền rao Tin Mừng bằng cách nào đây?
Khi muôn người tông đồ của Chúa ra đi, can đảm đến những vùng đất truyền giáo xa xôi, họ mang ánh sáng của Tin Mừng đến cho những “người mù” chưa nhận biết Chúa; cũng có những tâm hồn không có cơ hội cất bước đến vùng truyền giáo, nhưng tâm hồn họ đầy tràn nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ rằng, một nữ tu dòng kín như Chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu lại trở nên một vị thánh bổn mạng cho các xứ truyền giáo. Cũng có những con người ngày đêm âm thầm gieo vãi hạt giống đức tin và Thiên Chúa vẫn không ngừng chúc lành cho những hạt giống ấy. Thầy Giêsu đã khẳng định rằng: “Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ…” (Mc 16, 17). Nếu như ta bắt đầu một công việc tốt lành nào đó và ý thức rằng ta đang làm trong tình yêu Giêsu, đang nhân danh Thầy mà thực thi tình yêu thì chắc hẳn chính Thầy sẽ chúc lành cho công việc ta làm. Từ những việc nhỏ nhặt nhất như cho một em bé ăn, chăm sóc một người bệnh, tiếp chuyện một người và nhiều việc không tên khác, nếu như ta đặt trọn tình yêu thì tình yêu chân thành của ta gửi đến họ, họ sẽ cảm nhận được.
Cũng vậy, khi ta sống cuộc đời mình với từng phút giây luôn ý thức có Chúa cùng hoạt động với ta thì quả thật là một niềm hạnh phúc lớn lao. Các Tông đồ cũng đã trải qua từng phút giây hạnh phúc tuyệt vời. “Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Đâu là dấu lạ sẽ kèm theo để xác nhận lời ta rao giảng đây? Đó chẳng phải là nụ cười hồn nhiên trong sáng của những bé thơ bên cạnh ta, hay đơn giảng chỉ là một ánh mắt tin tưởng của một bà cụ được ta dẫn qua đường, … Niềm vui và hạnh phúc chân thành ta trao ban sẽ còn lưu lại trong trái tim những người ta gặp gỡ. Không phải chính tài năng của ta đã đem lại cho họ điều đó nhưng là chính tình yêu Giêsu cháy bừng trong ta đã thắp lửa hạnh phúc cho họ.
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa đã lên trời nhưng Chúa vẫn còn ở lại với chúng con luôn mãi nơi Bí tích Thánh Thể. Xin cho con từng ngày đón nhận Chúa bằng cả tâm hồn mình và luôn dâng hiến chính mình cho Chúa. Lạy Chúa! Chúa đã muốn đến với con và cùng con đến với mọi người. Con tạ ơn Chúa! Amen.
.
Anna Cỏ May
Cuộc đời là cay đắng. Cuộc đời thật là chông gai. Cuộc đời như những cơn sóng có lúc vỗ mạnh dồn dập, có lúc gợn nhẹ và có lúc lặng lẽ, nhẹ nhàng thướt tha. Xưa kia các môn đệ chẳng phải trải qua những thăng trầm ấy khi sống cùng với Thầy sao?
Khi mới theo Thầy Giêsu, các môn đệ có những ước mơ hoài bão và dự tính cho tương lai. Trong khoảnh khắc Thầy Giêsu chưa đi vào cuộc Vượt Qua, các môn đệ có cuộc sống thân mật, vui vẻ cùng Thầy. Các ông được Thầy Giêsu yêu thương và nâng đỡ, được đồng bàn mỗi ngày. Mọi người xung quanh cũng vui và kính nể các ông. Thế rồi, giờ đã tới, Thầy Giêsu đi vào cuộc sóng gió, thì các môn đệ nhận thấy hoang mang, lo sợ và chạy tán loạn. Các ông không dám đối diện với sự thật đang diễn ra và bắt đầu khép mình lại trong bốn bức tường. Ngày ngày, các ông sống trong sự buồn rầu, bóng tối thì thỏa sức bao phủ, chiếm lấy tâm hồn và lòng trí các ông. Rồi, một luồn tia sáng chiếu soi căn phòng đã đánh tan bóng tối ấy. Ánh sáng ấy là sự sống của Thầy Giêsu. Từ lúc ấy, các ông bắt đầu tiếp xúc với Thầy trong nhịp sống xuất hiện bất ngờ và biến đi bất ngờ. Dầu là vậy, các môn đệ vẫn được Thầy Giêsu giảng dạy và khơi nguồn sức sống nơi tâm hồn, trái tim mỗi ngày. Thầy mời gọi các môn đệ hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. (x. Mc 16,15). Thầy Giêsu còn mời gọi các môn đệ hãy mở lòng ra, hãy sống lại và thoát ra khỏi sự u buồn, sợ hãi và hãy vui lên, ra đi loan báo Tin Mừng, loan báo mầu nhiệm Đức Kitô đã chết và đã sống lại vinh quang. Các môn đệ sẽ ra đi trong ân sủng của Thầy Giêsu là trừ được quỷ, nói những tiếng mới lạ cùng đặt tay trên những bệnh nhân. (x. Lc16,17-18). Sau khi nói những lời ấy nơi ngọn núi cao, Thầy Giêsu được các Thiên Thần rước lên trời. Còn các môn đệ lòng đầy hân hoan. Bên trong các môn đệ bây giờ đã có một tình yêu siêu thoát và tâm trạng nặng nề không còn là gánh nặng nữa. Những ngày qua, các môn đệ đã đi vào dĩ vãng thì từ nay các ông hướng tất cả tâm trí về sứ mạng của Thầy trao ban với một lòng tin yêu nhiệt thành; và được chứng kiến việc Thầy rước lên Trời như đã thôi thúc các môn đệ tìm kiếm những điều trên cao, nơi Thầy đang ngự bên hữu Chúa Cha.
Thầy Giêsu phải ra đi, phải về Trời thì Thầy mới sai Chúa Thánh Thần và chính Chúa Thánh Thần sẽ tác động nơi các môn đệ và hướng dẫn cho các ông. Đó cũng là những tâm tình và vẻ đẹp tình yêu của Thiên Chúa mà Hội thánh đã mừng lễ Thăng Thiên, lễ vui tươi và trông cậy. Nào, chúng ta hãy hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, cùng lắng nghe và thực hành sứ mạng của mình trong mỗi ngày sống như các môn đệ.
Lạy Chúa, xin cho con đừng u mê và mải mê trần thế mà cùng hướng lên Trời. Xin cho mỗi người chúng con thi hành sứ mạng là bổn phận hằng ngày một cách vui tươi, nhiệt thành. Nhờ đó, trong ngày sau hết chúng con cũng được rước lên Trời với Thầy. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Giê-su ngước mắt nguyện cầu,
Lạy Cha chí thánh, khấu đầu khấn van.
Những người Cha đã trao ban,
Kết đoàn hợp nhất, chung đàn chiên con.
Xin Cha gìn giữ chúng con,
Không ai bị mất, héo hon loại trừ.
Trừ ra môn đệ thoái hư,
Trọn lời Kinh Thánh, riêng tư phản Thầy.
Khi còn dưới thể tỏ bày,
Vui mừng phấn khởi, khi Thầy ra đi.
Những điều Con đã thực thi,
Từ Cha ban xuống, phát huy rạng ngời.
Chúng còn hiện diện trong đời,
Người ta ghét bỏ, một thời gian nan
Vì chúng không thuộc thế gian,
Xin Cha thánh hóa, ban tràn ân thiêng.
Chúa Giêsu tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha để xin cho chúng ta được ơn hợp nhất nên một. Chúa không cầu xin để cất nhắc con cái ra khỏi thế gian mà vẫn sống trong thế gian, nhưng không ai bị hư mất. Sống giữa thế gian là sống giữa một xã hội xô bồ. Chúng ta phải chiến đấu từng ngày với những cơn cám dỗ, những khó khăn và phải phấn đấu không ngừng.
Không ai có thể bảo đảm được rằng mình sẽ luôn đứng vững và sống thánh thiện. Cuộc đời mỗi ngày là một thách thức mới và những nhu cầu đòi hỏi mới. Ai có thể nói, tôi bấy nhiêu tuổi rồi, tôi vẫn kiên vững trong niềm tin, trong sạch trong việc làm, dịu hiền trong các cư xử, thật thà trong mọi lời nói và trong trắng trong tâm hồn. Hãy ý tứ! Chúng ta cần cầu nguyện luôn để được đứng vững trước mặt Chúa.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho chúng ta sống giữa thế gian mà không bị nhiễm tội thế gian. Chúa biết trước các môn đệ của Chúa sẽ phải đối diện với muôn vàn thách thức ở đời. Chúa không còn hiện diện bên cạnh để nâng đỡ và ủi an. Chúa đã xin Chúa Cha sai Thánh Thần Chân Lý đến để phù trợ. Chúa quan tâm đến sự hợp nhất giữa anh em, sự kiên trì trong niềm tin và bảo toàn trong sự thật. Chúa không cầu nguyện để họ khỏi bị đau khổ và bắt bớ nhưng cầu cho họ được sự kiên trì.
Giáo Hội Công Giáo cũng đã trải qua biết bao thăng trầm. Nhiều cuộc chia rẽ đưa đến phân biệt Giáo Hội Đông Phương và Tây Phương, ly giáo, Chính Thống Giáo, thệ phản Tin Lành có trên 700 Giáo phái khác nhau, rồi các nhóm riêng tư muốn tự lập trong Giáo Hội. Sự hợp nhất nên một rất quan trọng. Giáo Hội muốn hợp nhất nhưng con người lại không muốn. Ai cũng khư khư nghĩ mình là đúng nhất, tốt nhất và truyền thống nhất. Để rồi tự tách mình ra khỏi thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Chúng ta hãy nhìn về Chúa Kitô, Ngài chính là trung tâm điểm của thế giới.
Chúng ta cứ tiếp tục truyền rao lời chân lý của Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Mỗi người có cách rao giảng và sống lời Chúa riêng biệt. Truyện kể có một bà cụ già sống dưới chế độ vô thần đã viết thơ cho cháu ở Hoa Kỳ. Lá thơ nào bà cũng viết Phúc âm. Cháu nghĩ là lời khuyên của bà ngầm chứa điều gì. Sau đã nhận ra rằng bà có ý viết và cho người kiểm duyệt được đọc. Biết đâu lời Chúa sẽ thay đổi tâm hồn của họ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới hưởng thụ. Rất khó để nhận ra đâu là chân lý và đâu là sự dữ vì xã hội bị dẫn đi vào con đường tục hóa. Hãy cầu nguyện để chúng ta vững vàng trong niềm tin. Tiếp tục sống chứng nhân cho chân lý giữa dòng đời.
.
XIN HƯỚNG LÒNG CHÚNG CON VỀ TRỜI
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay mừng Chúa lên Trời, vâng, toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong… “. Và sau đó ” Người lên Trời” (x. Cvtđ 1, 1- 11).
Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải “có hai người mặt áo trắng đứng gần” (Cvtđ 1, 10) và nhắc nhở : “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?” (Cvtđ 1, 11). Sự kiện ấy cũng lôi kéo tâm hồn chúng ta lên với Chúa, làm chúng ta nhớ lại lời Chúa hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời và mong cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế.
“Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha“. Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông : “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất” (Cvtđ 1, 8 ). Từ đây nhiệm vụ được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.
Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha tặng ban, Ngài là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu “ đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa ” (Cvtđ 1, 4). Người nói với các ông : “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật ” (Mc 16, 15). Dựa trên lời Thầy, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép rửa cho họ, nói cho họ biết về Thiên Chúa để họ tin mà được cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô “cho đến tận cùng trái đất” (Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo, dẫu biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa lên Trời, và trở lại.
Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc : “Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy” ( Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962 ). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ : ” Chúa Giêsu lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa ” (Mc 16, 19).
Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, ” Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7 , 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.
Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.
Hướng về Mẹ Maria “Nữ Vương Thiên Ðàng”, chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Chúa Giê su lên trời đánh dấu một lịch sử mới của nhân loại. Từ nay, trong Chúa Ba Ngôi có một con người, như nhà thần học Romano Guardini đã nhận định. Dù con người vẫn đang sống dưới thế này, nhưng cuộc sống luôn được quy hướng về Chúa Cha, vì con người đã có mặt ở nơi Chúa Con đang ngự bên hữu Chúa Cha.
Cuộc sống luôn hướng về.
Con người tín thác vào Chúa luôn là con người “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian” (Ga 17, 16). Là một lữ hành trên hành trình về với Chúa Cha, nên con người tin Chúa luôn xác tín quê hương đích thực là trên trời.
Một hành trình sống trong trần gian không thuộc về thế gian, mời gọi người tín hữu “Tiên vàn mọi sự hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, các điều khác Người sẽ ban cho sau” (Mt 6, 33). Không quá mải mê trần thế mà quên mất thiên đàng, vì thiên đàng ở ngay trong trần thế khi xây dựng được sự công chính và trật tự, an sinh, bình an.
Xin Chúa giữ gìn.
Thế gian bị lên án là một thế gian của sự tham lam, hưởng thụ, kiêu căng, loại trừ Thiên Chúa, tranh giành sự sống của người khác, làm mất phẩm giá của con người… Một thế gian đầy bất công, giả dối, lường gạt và vơ vét… Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17, 15).
Đấng được Chúa Cha ban cho con người là Chúa Thánh Thần, Đấng giữ gìn con người tin vào Chúa Giêsu khỏi ác thần. Đấng làm cho người tín hữu được sáng tỏ trong chân lý, vững mạnh trong đức tin, sẵn sàng sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian.
Mưu chước của thế gian vô lường, người tín hữu dù là con cái sự sáng nhưng lại dễ bị mắc bẫy và thường thật thà lại thua thiệt, Chúa Giêsu trong câu truyện người quản lý bất lương nói: “Vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng” (Lc 16, 8)
Chúa hứa ban gấp trăm đời này và đời sau, có ý nghĩa gì cho cuộc sống người tín hữu, khi thường sống giữa những sự dữ? Sống lương thiện không dễ dàng! Ra đường thì nạn mãi lộ, đồng lương không bằng đồng lậu, ngay thẳng thì ra bên ngoài, không nịnh hót, bè phái thì không có chỗ dung thân… Chính vì những khó khăn như vậy, người Kitô hữu cần nhờ đến Chúa Thánh Thần soi dẫn và trợ lực. Đấng xoay chuyển sự dữ ra sự lành. Đấng làm cho mọi sự đều có thể, như Thánh Phaolô, ngài xác tín khi đương đầu với khó khăn: “Ơn Ta đủ cho ngươi” (2Cor 12, 9).
Hướng về và ở lại trong Chúa Cha qua đời sống kinh nguyện.
Đời sống kinh nguyện của người Kitô hữu khác hẳn với kinh nguyện khác. Trong mọi lời cầu nguyện đều ở trong Thiên Chúa, chứ không ở bên ngoài kêu cầu đến. Chúa Thánh Thần luôn hoạt động làm cho lời cầu nguyện được ở trong Chúa Giêsu và dâng lên Chúa Cha, Thánh Phaolô viết cho người tín hữu Galat: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! ” (Ga 4, 6).
Lời kinh nguyện dù đọc dưới hình thức cá nhân nhưng vẫn là kinh nguyện của cộng đoàn. Người tín hữu không đơn độc trên đường lữ hành về nhà Cha. Luôn có Chúa Giêsu là Đấng đồng hành, có Chúa Thánh Thần là sức mạnh hỗ trợ khi chân mệt gối mỏi. Cùng nhau tiến bước trong Chúa Thánh Thần, kết hợp cùng Chúa Giêsu. Kinh nguyện trở nên hơi thở cho đời sống, để sống dồi dào và sống vững mạnh trong niềm phó thác và trông cậy.
Cầu nguyện là ở trong Chúa, nên không chỉ là nguyện xin mà thường là tạ ơn. Những ơn lành mọi điều thiện hảo đều từ Chúa Cha ban cho, hết ơn này đến ơn khác, “tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa” (1Cor 15, 10). Tạ ơn như thế là hướng về nguồn cội của người tín hữu, đưa hoàn vũ này hướng về Chúa.
Chúa Giêsu về trời, mang theo con người nhân loại về cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Thánh Thần, con người được tham dự vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Xin cho chúng con sống sức sống vui tươi, mạnh mẽ, tươi trẻ trong Chúa để gắng làm cho xã hội đang sống được tốt hơn, con người sống hạnh phúc hơn, nhiều người nhận biết Chúa.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu.
Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.
Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Chúa Giêsu lên trời, những chữ lên trời bị chi phối bởi cách suy nghĩ có giới hạn của con người. Theo cách suy nghĩ đó, các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Con người đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Trời ở đây không phải là một khoảng không gian rõ rệt, nhưng là một tình trạng (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 659-667, 2794-2796) mà Chúa Giêsu đi vào trong đó để dẫn chúng ta theo.
Lên trời là giải thích theo ngôn ngữ bình dân của con người cho dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến của Thánh Kinh, trời là chỗ ở của thần minh, do đó cũng được dùng một cách tượng trưng để chỉ Thiên Chúa. Còn đất là nơi loài người cư ngụ. Ngày xưa khi Chúa Giêsu nhập thế thì gọi là ‘xuống trần’. Hôm nay Người trở lại với tình trạng vinh quang thì gọi là ‘lên trời’. “Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Eph 4,10). Vì vậy “lên trời” đối với Chúa Giêsu không phải là một hành động bay đến một nơi trên chốn bồng lai tiên cảnh đầy mây, nhưng đó là tình trạng Người đã lấy lại vinh quang. Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời nghĩa là sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ, Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần. Người chính là “vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (x. Dt 7,26), và đã vào chính cõi trời, để đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt 9,25). Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người (x. Pl 2,10-11).
Chúa Giêsu lên trời, điều đó dạy cho chúng ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trở về quê trời.
Trời không phải là một nơi chốn xác định, là một không gian vật lý có thể cân đo đong đếm. Nhưng trời là Thiên đàng, là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, là chính Thiên Chúa Ba Ngôi.Lên trời không phải là bay bổng lên không gian, nhưng là chuyển đổi cấp độ sự sống, là bước vào sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa. Lên trời không phải là vắng mặt, là xa cách nhưng lại là một hiện diện vô cùng phong phú, vô cùng mãnh liệt, ở bên cạnh tất cả mọi người, ở mọi nơi và ở mọi thời.
Chúa Giêsu lên trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người và như thế đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô. Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Chúa Giêsu lên trời, đưa mọi người về trời với Người vì chúng ta là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người. Thánh Phaolô trong bài đọc II (x.Ep 1,17-23) đã nói, Giáo hội là Hiền thê của Chúa Giêsu, Người là đầu và chúng ta là những chi thể. Khi Chúa Giêsu về trời là mỗi người cũng được chia sẻ thần tính của Người, đi vào một tình trạng kết hợp hoàn toàn mới mẻ với Người. Điều này không phải chỉ xảy ra sau khi ta chết, nhưng có thể thực hiện ngay trong đời sống trần thế như đời sống của nhiều tín hữu đã chứng minh: thánh Phaolô được đưa lên tầng trời thứ ba (x. 2Cr 12,2). Nhiều vị thánh như Phanxicô Assidi, Gioan Thánh Giá, Catarina de Sienna… cảm nghiệm trời trong những lần xuất thần; còn thánh Têrêsa Calcutta lại thấy trời giữa lòng xã hội với những con người khốn khổ, bệnh tật.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.
Chúa Giêsu lên trời, mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ.Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa Giêsu lên trời, hướng chúng ta đến cái nhìn lên trời cao và cái nhìn về trần thế.
– Hướng lên trời cao để biết rằng quê hương vĩnh cửu của ta ở trên trời, nơi đó có Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha, để ta biết “ái mộ những sự trên trời” và biết sống niềm hy vọng một ngày nào đó sẽ được trở về với nguồn cội của mình là thiên đàng vĩnh phúc.
– Hướng về trần thế để biết chu toàn bổn phận xây dựng cuộc sống trong giây phút và hoàn cảnh hiện tại của mỗi người, để biết thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa đã trao phó với một thái độ tin tưởng là có Chúa luôn đồng hành.
Nếu bám vào một thứ vật chất nào đó, như những người nghiện ma túy, rượu bia, phim đồi trụy hay tìm thỏa mãn dục vọng, người ta có thể cảm thấy sung sướng như được lên trời trong giây lát. Nhưng đó không phải là trời thật sự vì chúng làm cho người ta bất an, lệ thuộc, tàn tạ, chết chóc. Còn khi vượt lên trên những vật chất, tham vọng, dục vọng, để gắn bó mật thiết với Chúa, chúng ta sẽ được Người chuyển thông sự sống kỳ diệu, hạnh phúc vô biên, niềm vui vô tận, quyền năng lạ lùng. Lúc đó chúng ta cảm thấy mình lên trời với tâm trí nhẹ nhàng, thanh thoát.
Lễ Chúa Giêsu lên trời, Giáo Hội chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội phát triển rất nhanh. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.
Chủ đề của Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông xã hội năm 2018 là “Tin giả và một nền báo chí vì hòa bình: Sự thật sẽ giải thoát anh em!”. Tin giả là những thông tin sai lạc dựa trên những dữ liệu không tồn tại hoặc bị bóp méo để lừa dối và thao túng độc giả. Tin giả thường dẫn đến việc làm mất uy tín của người khác, trình bày những người ấy như kẻ thù, thậm chí như ma quỷ, và nung nấu lòng căm thù họ. Tin giả là một dấu chỉ của thái độ thiếu khoan dung, quá nhạy cảm, kiêu căng và thù hận.
Chứng kiến tình hình tin giả đang lan rộng trong một thế giới chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi sự thay đổi nhanh chóng các kỹ thuật truyền thông, ĐGH Phanxicô muốn đưa ra một sứ điệp để cộng tác với mọi người trong nỗ lực ngăn chặn sự lan rộng của tin giả, đồng thời tái khám phá phẩm giá của báo chí cũng như trách nhiệm của các nhà báo trong việc truyền đạt sự thật.
Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho vi khuẩn giả dối là luôn biết thanh lọc mình trong sự thật. Theo Kitô giáo, sự thật không chỉ là điều được đưa ra ánh sáng sau khi bị che giấu, mà là nơi chúng ta có thể dựa vào để cuộc đời của ta không bị sụp đổ. Và nơi đó chính là Đức Kitô, như lời Ngài xác định: “Ta là sự thật” (Ga 14, 6). Và sự thật này sẽ cho ta được tự do: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32). Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho vi khuẩn giả dối chính là kết hiệp với Đức Kitô và thực hiện Lời Ngài.
Các nhà báo có trách nhiệm và sứ mạng rất lớn trong việc bảo vệ tin tức. Sứ mạng này đòi hỏi họ phải luôn ý thức rằng: Thông tin cho người khác chính là đào tạo người khác, vì thế các nhà báo phải luôn quảng bá sự thiện, tạo ra lòng tin, mở đường cho sự hiệp thông và hoà bình.
Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.
Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại.
Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Có một vấn nạn không dễ gì lý giải: địa điểm Chúa lên trời thực sự ở đâu, Ga-li-lê-a hay Giê-ru-sa-lem, hai địa điểm cách nhau tới vài trăm cây số? Tác giả Lu-ca khảng định rất rõ ràng: tại Giê-ru-sa-lem, địa điểm đó gần Bê-ta-ni-a (Lc 24, 47.50; Cv 1, 4-12), trong khi Mát-thêu lại xác định: một ngọn núi miền Ga-li-lê-a (Mt 28, 16). Tôi đã đặt câu hỏi này cho hướng dẫn viên chuyến hành hương Đất Thánh năm 2005, giáo sư Coffele của đại học UPS và nhận được câu trả lời: ‘truyền thống’ luôn xác định là Giê-ru-sa-lem (lúc đó chúng tôi đang viếng đền thờ Thăng Thiên, do người Hồi Giáo quản lý, có cả tảng đá in vết chân Chúa khi Ngài cất lên trời!) Điều đó cho thấy, khi Kinh Thánh đề cập tới bất cứ biến cố nào thì điều quan trọng nhất cần lưu tâm vẫn là nội dung của sứ điệp hơn là chính sự kiện. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng không nằm ngoài nguyên tắc đó. Về biến cố Đức Giê-su phục sinh thăng thiên thì chỉ có Lu-ca mới tường thuật cách tương đối chi tiết, trong khi các tác giả khác, hoặc không đề cập gì (Gio-an, Mát-thêu), hoặc chỉ thoáng qua mà thôi (Mác-cô).
Tin Mừng Mát-thêu hôm nay, thay vì mô tả chính biến cố Chúa về trời thì chỉ đơn giản ghi lại những lời căn dặn và trăn trối đầy tâm huyết cuối cùng Chúa gửi gắm tới các môn đệ thân yêu trước khi xa rời họ vĩnh viễn.
Trong giờ phút ly biệt chấm dứt cuộc hiện diện trần thế, Đức Giê-su long trọng công bố Vương Quốc Người chính là quyền lực yêu thương của thập giá đã được vĩnh viễn xác lập và bao trùm: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”; đồng thời Người căn dặn các môn đệ ở lại, và truyền cho họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Như vậy Thăng Thiên trước hết phải được hiểu như một mệnh lệnh ‘ra đi’ để mở rộng vương quốc Ki-tô. Chúa về trời là để tạo điều kiện cho các môn đệ có thể tự do lên đường. “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em hơn” (Ga 16, 7). Chúa về trời là để vương quốc tình yêu của Ngài được mở rộng tới mọi nơi, tới mọi cõi lòng. Hướng nhìn của biến cố ‘Chúa lên trời’ không phải là không gian vũ trụ vô tận, mà là đi sâu vào niềm tin bên trong tâm hồn con người. “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?” (Cv 1, 11) Sự hùng vĩ và huy hoàng của ‘lên trời’ không phải là một thứ ánh sáng chói lòa của tinh tú hay mây trời, nhưng là “anh em nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em… anh em là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Như vậy việc mừng ‘Chúa lên trời’ đối với các Ki-tô hữu sẽ đồng nghĩa với việc xác định lại niềm tin vào quyền lực tình yêu của Thầy Giê-su, và khảng định lại quyết tâm mở rộng vương quốc đó tới mọi tâm hồn và cho tới tận cùng trái đất. Do đó Thăng Thiên chính là một biến cố nội tâm sâu xa nhất, một đòi hỏi khắt khe nhất của niềm tin.
“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, lời trăn trối tâm huyết làm sao chính vào lúc hình bóng Thầy Giê-su lặng lẽ bị mây trời che khuất. ‘Xa mặt thì cách lòng’, thói thường vẫn thế… Đức Giê-su thì khảng định ngược lại, khi ‘các ông không còn thấy Người nữa’ thì lại là lúc Người ‘cận lòng’ và gần gũi thắm thiết với từng môn đệ hơn bao giờ hết. Thậm chí sự gần gũi thắm thiết này còn được hiện thân hóa bằng cả một nhân vật kỳ diệu được Người sai phái đến: Thần Khí – Đấng Bảo Trợ – Thần Chân lý. Các môn đệ mừng vui là phải bởi vì ‘Chúa về trời’ đâu phải là mất mát, là xa cách. Các ông được lợi, lợi rất nhiều, nhiều tới mức sung mãn nhất: họ được sở hữu Thầy Giê-su cách trọn vẹn và vĩnh viện, qua sự hiện diện phong phú tột cùng của Thánh Thần đổ tràn vào tâm hồn. “Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em…” (Ga 14, 17). Câu Đức Giê-su nói với tông đồ Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29) đang lộ rõ nội dung cụ thể, phong phú và thâm sâu nhất của nó, có giá trị cho hết mọi thời, tới tận thời đại chúng ta hôm nay.
Mừng Chúa Thăng Thiên là như thế; không phải mừng vì Đức Ki-tô được vinh thăng, mà thực chất là mừng cho người môn đệ là mỗi chúng ta được cất nhắc lên cách kỳ diệu. Niềm vui đó ta có được không phải vì chăm chú nhìn lên trời, cho dầu đó là thiên đàng đi nữa, để mà mơ ước và chờ đợi, nhưng vì đi xâu vào nội tâm, nơi Thần Khí Đức Ki-tô Giê-su hiện diện và tác động, để nghiệm thấy tình yêu mạnh mẽ của Người, và sẵn sàng để cho tình yêu đó thúc đẩy ta lên đường công bố niềm vui phục sinh cho mọi tạo vật.
“Hãy đi vì có Thầy luôn ở cùng!”
Lạy Chúa Thăng Thiên vinh hiển, con xin được ca ngợi Chúa đã lên trời trong âm thầm lặng lẽ hơn là trong hoành tráng phô trương. Con cảm tạ Chúa đã ra đi vĩnh viễn để niềm tin con tập trung hơn vào Thần Khí đã được Người sai đến và đang ngự trị trong thâm sâu cõi lòng con. Do đó xin cho con luôn xác tín rằng: Chúa hằng ở cùng con, và sức mạnh tình yêu của Thần Khí Người luôn thôi thúc con lên đường. A-men.
.
Lm. Dom. Trần Quang Hiền
Câu hỏi thắc mắc mà con người ngày nay luôn phải đối diện đó là: Tôi sinh ra ở đời này để làm gì? tôi sẽ về đâu sau cái chết? chắc hẵn ai trong chúng ta cũng muốn mình được bình an, hạnh phúc, được chết lành và được phần thưởng thiên đàng sau khi chết. Nhưng ai có thể bảo đảm cho ta rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau? Lời Chúa tuần này Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn… nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.
Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta , đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi…. để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.
Lễ Chúa Thăng Thiên muốn nhắn gởi cho chúng ta một thông điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.
Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết sống và đem Đức Kitô đến với hết tất cả mọi người đang vác thập giá để họ cũng biết biến thập giá thành thánh giá như Đức Kitô, để mai sau cũng được lãnh nhận phần thưởng vinh phúc đời sau mà Chúa hứa ban cho những ai trung tín bước theo Ngài. Amen.
.
KHAI MỞ TRANG SỬ MỚI CỦA GIÁO HỘI
Lm. GB. Trần Văn Hào
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)
Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.
Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng rất sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố Chúa về trời, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn trước đây. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người, trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).
Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa mới ‘rời bỏ’ các ông. Sự ra đi nào cũng để lại những sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại ‘ngập tràn niềm vui’. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 và chương 14 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Chúa trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý hóa giải những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình là đừng có lo lắng. Các ông sẽ không mất Ngài, nhưng Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.
Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thần Khí. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện cách tròn đầy. Các tông đồ ngắm nhìn Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về ‘Đấng sẽ đến’. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các học trò của Chúa Giêsu thâm tín rằng Thầy của họ đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Giêsu, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực của tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha mang đến cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:
+ Đức Giêsu lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Dt 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.
+ Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng với Chúa Cha (1Ga 2,1).
+ Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).
+ Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết : “Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).
Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách Tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.
Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các Ngài một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.
Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.
.
SUY NIỆM LỄ THĂNG THIÊN. NĂM B
Lm. Anthony Trung Thành
Đức Giêsu đã từng ở trên trời trước khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài lại lên trời. Nước Trời cũng là quê hương của mỗi người chúng ta. Vậy, chúng ta phải làm gì để được lên Trời?
- Đức Giêsu đã lên trời
Thật vậy, Đức Giêsu đã về trời. Sau khi sống lại, Ngài nói với bà Maria Mađalêna đi báo tin cho các Tông đồ rằng: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Sau đó, Ngài đã về trời thực sự. Tin mừng hôm nay cho biết: “Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.”(Mc 16, 19). Sách công vụ Tông đồ cũng khẳng định: “Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.” (Cv 1,9).Vì thế, sự kiện Đức Giêsu lên trời là sự kiện lịch sử, là niềm tin của mỗi người kitô hữu chúng ta. Niềm tin đó được chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh; chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.”
- Nước Trời cũng là quê hương của chúng ta
Ở trần gian này, mọi người chúng ta đều có một quê hương, đó là nơi chúng ta sinh ra. Nhưng quê hương ở trần gian này chỉ là “quán trọ”, là nơi tạm bợ. Nước Trời mới là quê hương thật của chúng ta, là nơi chúng ta được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu.Thánh Phaolô đã nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Vì thế, ngày lễ hôm nay không những chúng ta mừng kỷ niệm Đức Giêsu lên trời mà còn nhắc nhở chúng ta nhớ tới Nước trời là quê hương thật của chúng ta để chúng ta chuẩn bị cho ngày được hưởnghạnh phúc viên mãn đó.
- Chúng ta phải làm gì để được lên Trời.
Để được lên Trời, chúng ta cần chuẩn bị hành trang. Hành trang đó được thể hiện qua những việc làm cụ thể sau đây:
Thứ nhất, phải luôn sống gắn bó với Chúa, gặp gỡ Chúa qua đời sống hằng ngày.Mặc dầu Đức Giêsu đã lên Trời nhưng Ngài vẫn ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến Tận thế. Ngài hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau: Ngài hiện diện cách thiêng liêng mọi nơi mọi lúc; Ngài hiện diện qua Giáo hội nơi các vị đại diện của Ngài ở trần gian này : Đó là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, các linh mục; Ngài hiện diện qua Lời Chúa được viết lại trong cuốn Kinh Thánh; Ngài hiện diện qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể; Ngài hiện diện qua những người nghèo khó; Ngài hiện diện khi chúng ta họp nhau cầu nguyện…Vì thế, muốn được lên Trời cần phải sống gắn bó với Chúa, gặp gỡ Chúa mọi nơi mọi lúc : qua Lời Chúa, qua Giáo hội, qua các Bí tich, qua người nghèo khổ và qua đời sống cầu nguyện.
Thứ hai, phải biết chu toàn bổn phận hằng ngày.Đó là bổn phận làm người, bổn phận làm con Chúa,bổn phận của đấng bậc mình. Đó là bổn phận vợ chồng, cha mẹ, con cái, giáo dân, tu sĩ, linh mục, giám mục, giáo hoàng. Đó là bổn phận học sinh, giáo viên, công nhân, bác sĩ… Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nói : “Bổn phận là giấy để vào được Nước Trời”(ĐHV Số 27).
Thứ ba, phải biết loan báo Tin mừng.Trước khi về trời, Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”(Mc 16,15).Không phải ai cũng có thể loan báo Tin mừng trực tiếp như các nhà truyền giáo, nhưng ai trong chúng ta cũng có thể loan báo Tin mừng gián tiếp bằng đời sống chứng tá của mình. Đặc biệt trong thời đại ngày hôm nay, chúngta cũng có thể loan báo Tin mừng bằng truyền thông. Trong thông điệp ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 52, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người phải truyền thông sự thật và biết ngăn chặn các “tin giả”. Ngài nói : “Trong một thế giới truyền thông và kỹ thuật số thay đổi nhanh chóng hôm nay, chúng ta đang chứng kiến sự lan tràn của cái được gọi là ‘tin giả’. Điều này buộc ta phải suy nghĩ, và đó là lý do tại sao trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông năm nay, tôi quyết định trở lại với vấn đề sự thật, là điều đã được các vị tiền nhiệm của tôi lặp đi lặp lại, bắt đầu từ Đức Phaolô VI, trong Sứ điệp năm 1972 với chủ đề: ‘Truyền thông xã hội phục vụ Chân lý’. Bằng cách này, tôi muốn góp phần vào sự dấn thân chung nhằm ngăn chặn sự lan rộng của tin giả và tái khám phá phẩm giá của báo chí và trách nhiệm cá nhân của các nhà báo trong việc truyền thông sự thật.”Từ thông điệp của Đức Giáo Hoàng trên đây cho chúng ta thấy, khi chúng ta góp phần ngăn chặn ‘tin giả’ và biết truyền thông sự thật cũng là cách thức truyền giáo cho người hôm nay. Vì làm như thế là chúng ta đang làm chứng cho Sự Thật, mà Sự Thật là chính Chúa như lời Đức Giêsu đã từng nói : “Ta là sự thật” (Ga 14,6).
Thứ tư, phải biết sống bác ái yêu thương. Vì trong ngày phán xét, mỗi người chúng ta sẽ chịu phán xét về bổn phận yêu thương. Vị Thẩm phán sẽ dựa vào việc ta làm hay không làm đối với những kẻ bé mọn để thưởng hay phạt chúng ta. Ngài đồng hóa Ngài với những kẻ bé mọn. Ngài nói với những kẻ lành rằng : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.”(Mt 25,34-36). Còn đối với những kẻ dữ, Ngài nói : “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.”(Mt 25, 41-43).
Khi biết chuẩn bị như thế, hạnh phúc Nước Trời sẽ ở trong tầm tay của chúng ta. Ngược lại, nếu không biết chuẩn bị thì chúng ta có nguy cơ mất hạnh phúc Nước Trời.
Người ta kể rằng : Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng: Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp: Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.
Người quản gia nói: Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi: Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói: Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được! (Sưu Tầm)
Thái độ thiếu khôn ngoan của nhà phú hộ trong câu chuyện trên đây cũng có thể là thái độ của mỗi người chúng ta. Vậy ngày lễ hôm nay mỗi người chúng ta tự hỏi : tôi có bao giờ nói về Nước Trời không ? Tôi có chuẩn bị hành trang cho chuyến đi cuối cùng này không ?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã về Trời sau khi chu toàn bổn phận trần thế. Xin cho mỗi người chúng con biết chuẩn bị cho ngày về Trời với Chúa bằng cách chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình nhất là bổn phận loan báo Tin mừng. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH_B
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Phụng vụ lời Chúa hôm nay hướng về biến cố Chúa Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha sau khi hoàn tất công việc cứu độ nhân loại qua sự chết và sự Phục Sinh của Người. Ơn cứu độ có tính phổ quát, Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người. Vì thế trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc của Người là rao giảng Tin mừng cho muôn dân: “Anh em hày đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin mừng x cho mọi loài thụ tạo”. Vì thế, qua bài Tin mừng, chúng ta thấy viễn tượng Truyền Giáo của giáo hội.
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay giáo hội muốn chúng ta xác tín vào sự sống đời sau, vào quê hương Nước Trời, hạnh phúc Thiên Đàng là nơi các Thánh được hưởng hạnh phúc trong Thiên Chúa, nơi dành riêng cho những người được Thiên Chúa ân thưởng: “Trời là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà, là quê hương của ta” (GLHTCG 2795). Quê trời là nơi vĩnh cửu, diễm phúc mà con người hướng tới trong khi chu toàn trách nhiệm xây dựng và phát triển quê hương trần gian (GLHTCG 373).
Như thế theo sách GLHTCG, thì Thiên Đàng là quê hương vĩnh cửu của chúng ta, nhưng trần thế là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Quê hương Thiên Đàng tùy thuộc vào cuộc hành trình trần thế của người Kitô hữu. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng, thì có lẽ là không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn nhiệm vụ của mình ở đời này, thực hành lời Chúa, sống bác ái yêu thương, giúp đỡ những người nghèo khổ… Bài đọc 1, sách Cv đã ghi lời sứ thần: “Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng đó mà nhìn trời”. Các thiên thần nhắc các tông đồ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, đó là việc ra đi loan báoTin mừng cho muôn dân để tất cả mọi loài thọ tạo đều được hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Thiên đàng là mục đích tối hậu và là sự hoàn thành các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng vinh phúc tuyệt hảo và vĩnh viễn (GLHTCG 1024). Như thế, Thiên đàng là mục đích, cứu cánh của con người, nơi mà tất cả chúng ta phải hướng tới là quyết tâm phấn đấu đạt được quê hương nước Trời. Nếu kết thúc cuộc sống trần gian chúng ta không đạt được Thiên đàng, thì chúng ta là người bất hạnh nhất. Chúa Giêsu đã có lần nói: “Lời lãi cả thế gian này, mà thiệt mất linh hồn thì được ích lợi gì”.
Ngày nay trong một xã hội văn minh, kinh tế thị trường, của cải vật chất phong phú, người ta chủ trương hưởng thụ, tục hóa, muốn loại bỏ Thiên Chúa, không tin có sự sống đời sau… Họ không muốn ngước mắt nhìn trời vì quá mỏi cổ, vì mải mê thực tại trần gian: tiền tài, danh vọng, địa vị, thú vui vật chất. Họ muốn xây dựng một thiên đàng tại thế. Nhiều người kitô hữu hôm nay cũng có thái độ vô thần, thờ ơ bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, có thái độ duy vật coi của cải trần gian là mục đích cuộc đời, chết là hết!
Biến cố Chúa lên trời là câu trả lời cho con người trong xã hội hôm nay: chúng ta sẽ được lên trời hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời trong nhà Cha nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa và thực thi lời Chúa.
Những ngày sống lữ hành trần gian là để đi vào Nước Trời, chúng ta phải cố gắng phấn đấu đạt cho bằng được, luôn đi tới đích. Đường vào Nước Trời thiên niên vạn nạn. Kinh thánh nói: “Người ta phải dùng sức mạnh, và chiếm lấy Nước Trời. Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ”. Tất cả mọi thành công, hạnh phúc trên đời đều phải trả giá rất mắc, đòi hỏi nhiều cố gắng, công lao, vất vả…
Mừng lễ Chúa Thăng Thiên nhắc nhở chúng ta: luôn hướng về quê hương thật là Nước Trời và sống đạo thật tốt để sau này được về nhà Cha hưởng hạnh phúc Thiên đàng. Đồng thời mời gọi chúng ta đi sâu vào thế giới loan báo Tin mừng cho mọi người bằng cuộc sống chứng nhân, bằng cuộc sống lương thiện, cuộc sống tốt đẹp của mình trong xã hội hôm nay.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT CHÚA LÊN TRỜI_B
Lm Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay cộng đoàn chúng ta họp nhau trong ngôi thánh đường này để mừng trọng thể lễ Chúa Thăng Thiên. Đây cũng là ngày Giáo Hội dành làm “Ngày truyền thông thế giới”. Khi chọn ngày lễ này làm ngày truyền thông, Giáo Hội muốn nhắc nhở từng người chúng ta ý thức hơn đến việc loan truyền cho mọi người Tin Mừng Phục Sinh, một Tin Mừng vĩ đại nhất qua mọi thời đại và có khả năng biến đổi cuộc sống của những ai tin nhận.
- Không chỉ hôm nay, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy trong suốt những tuần lễ vừa qua, dưới nhiều hình thức khác nhau, phụng vụ lời Chúa cũng đã luôn mời gọi chúng ta phải lên đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô.
Ngay trong Chúa Nhật Phục Sinh, Maria Mađalêna đã là người đầu tiên loan báo cho hai môn đệ Phêrô và Gioan về sự kiện ngôi mộ trống, dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Rồi tám ngày sau, vào Chúa Nhật II Phục Sinh, trong lần hiện ra với các tông đồ có cả Tôma, chính Đấng Phục Sinh đã truyền cho các tông đồ “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Kế đến, trong Chúa Nhật III, Tin Mừng Luca còn thuật lại cho chúng ta việc Đấng Phục Sinh hiện đến với các tông đồ khi đó đang tụ họp cùng với hai môn đệ vừa từ làng Emmaus trở về. Và cả lần này, Đấng Phục Sinh cũng giao cho các ông sứ mạng “nhân danh Người rao giảng sự thống hối… bắt đầu từ Giêrusalem” (Lc 24, 47). Ngài còn nhấn mạnh: “Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 48). Còn trong Chúa Nhật IV, chúng ta đọc được tâm sự của Đức Kitô, Vị Mục Tử nhân lành: “Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn” (Ga 10,16a).
Được gia nhập vào đoàn chiên duy nhất của Đấng Phục Sinh như cành nho liên kết với thân nho, từng người chúng ta cũng được mời gọi sinh hoa trái bằng đời sống bác ái yêu thương. Nhờ đó, ngày càng có nhiều người tin nhận Đấng Phục Sinh. Đó chính là giáo huấn của lời Chúa trong Chúa Nhật V Phục Sinh. Còn trong Chúa Nhật vừa qua, Đức Kitô xác định rõ với từng người chúng ta: “Chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái” (Ga 15,16). Và hôm nay, trước khi chấm dứt giai đoạn hiện diện hữu hình của mình với các môn đệ, một lần nữa, Đấng Phục Sinh đã giao cho các tông đồ sứ mạng: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”.
Như vậy, loan báo Tin Mừng Phục Sinh không còn là một điều mà chúng ta muốn làm hay không tuỳ thích, nhưng là một sứ mạng, một bổn phận bắt buộc cho tất cả những ai muốn xưng mình là Kitô hữu. Ý thức điều đó, Công đồng Vatican II, trong Sắc lệnh về truyền giáo, số 2 đã nói: “Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo”. Giáo Hội phải loan truyền cho mọi người về Tin Mừng Phục Sinh, vì từ đây, Đấng Phục Sinh không còn hiện diện hữu hình với chúng ta nữa. Chúa lên trời, không phải là Ngài không còn hiện diện với con người nữa, nhưng là hiện diện với một cách thức mới, hiệu quả hơn, như lời Ngài đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Lịch sử Giáo Hội đã bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn mở ra cho muôn dân. Đó cũng là một trong những lý do khiến Giáo Hội chọn ngày lễ hôm nay làm ngày “Truyền thông thế giới”. Từ đây, Giáo Hội có nhiệm vụ truyền thông cho thế giới về Tin Mừng Phục Sinh, Tin Mừng của Tình yêu và Sự sống, Tin Mừng của niềm Hy vọng.
- Sách Công vụ Tông đồ thuật lại, sau khi Đức Giêsu Phục Sinh về trời, đang lúc các môn đệ vẫn còn ngước mắt lên trời, thì thiên sứ đã nhắc các ông: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn trời…”. Các tông đồ không được phép đứng đó mãi nhìn trời. Các ông phải trở về với cuộc sống hiện tại để làm chứng cho Đấng Phục Sinh.
Cũng thế, là một kitô hữu, chúng ta không chỉ đọc kinh, tham dự các nghi lễ phụng vụ ở nhà thờ, chúng ta phải trở về nhà, đối diện với mọi vất vả trong cuộc sống thường ngày như những người khác. Các bậc phụ huynh vẫn phải vất vả làm lụng, ngược xuôi buôn bán, các em nhỏ cũng phải bận rộn với việc học hành các kiến thức văn hoá, xã hội… tắt một lời, trước mắt mọi người, mỗi người chúng ta vẫn phải sinh hoạt, lo toan mọi điều trong cuộc sống như bất cứ một người nào. Tuy nhiên, ngay giữa cuộc sống đó, chúng ta vẫn có thể thông truyền Tin Mừng Phục Sinh, loan báo cho mọi người biết rằng sau cuộc sống hiện tại này, còn có một quê hương vĩnh cửu trên trời, nếu chúng ta giữ mình không gian dối, lừa đảo, không tham lam bất chính, luôn chung thuỷ trong đời sống gia đình.
Thủ lĩnh của một bộ tộc đau nặng, đang hấp hối trên giường bệnh. Ông cho gọi ba người con có thể kế vị ông đến và nói:
– Một trong ba chúng con sẽ kế vị ta. Vậy các con hãy leo lên đỉnh núi thiêng của chúng ta và mang về cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn.
Người thứ hai đem về một viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi:
Món quà quý của con đâu?
Anh ta điềm tĩnh trả lời:
– Khi leo lên tới đỉnh núi, con nhìn thấy phía bên kia núi một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, suối nước dồi dào, cây cối xanh tươi, dân chúng có thể sống sung túc hơn ở bên này.
Vị tù trưởng nói:
– Con sẽ nối nghiệp ta. Con đã đem về cho bộ tộc một món quà vô giá đó là một tương lai tốt đẹp, một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Sống ở trần gian này, con người chỉ biết rất mù mờ về cuộc sống mai sau. Cứ nhìn vào những cách bày tỏ lòng hiếu thảo đối với người đã chết của các tôn giáo thì sẽ thấy điều đó. Chỉ khi con người leo lên đến đỉnh núi của cuộc đời là cái chết, lúc đó họ mới thấy được cuộc sống tương lai. Không ai biết trước cuộc sống sau khi chết, chỉ mình Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa từ trời xuống, mới mạc khải cho chúng ta thấy rõ quê hương thực sự của chúng ta mà thôi. Quê hương đó không phải ở trần gian này.
Việc Chúa Phục sinh lên trời nhắc nhở chúng ta về một chân lý căn bản và một bổn phận quan trọng. Chân lý đó là quê hương đích thật của chúng ta là ở với Thiên Chúa, và bổn phận của chúng ta là phải sống yêu thương, chia sẻ niềm tin với người khác, xây dựng cuộc sống hôm nay tốt đẹp, để ngày sau, cùng được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn trên quê trời.
Như vậy việc Chúa lên trời dạy chúng ta rằng ngoài cuộc sống đời này, còn có một cuộc sống khác. Đó mới chính là quê hương của chúng ta; nơi đó gọi là trời hay thiên đàng. Trời hay thiên đàng là tình trạng con người sống hạnh phúc hoàn toàn, không còn đau khổ; vĩnh viễn không hề bị tiêu diệt. Trời hay thiên đàng là nơi con người trở nên Thần Thánh, chung sống với Thiên Chúa và những người đã sống tốt cuộc đời mình ở trần gian.
.
Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Bốn mươi ngày sau Chúa Phục Sinh là ngày thứ năm sau Chúa Nhật thứ sáu phục sinh. Như vậy lễ Chúa Thăng Thiên đúng ra đã được cử hành vào ngày thứ năm vừa qua, nhưng ở một số nơi lễ này được dời vào Chúa Nhật để tín hữu có dịp tham dự và hiểu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người.
I. Khỏi bốn mươi ngày Ngài Lên Trời
Truyền thống Giáo Hội vẫn cử hành lễ Chúa Lên Trời bốn mươi ngày sau lễ Chúa Phục Sinh. Truyền thống này theo sát trình thuật sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa…. Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv.1, 3.9).
Bốn mươi ngày, là thời gian các tông đồ còn có thể nhìn thấy Đức Giêsu, có thể cùng ăn cùng uống với Ngài, còn được Ngài dạy bảo như những ngày nào. Trong thời điểm ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ cũng vẫn còn u mê, vẫn còn tưởng Ngài sẽ khôi phục nước Israel theo nghĩa phàm trần. Đức Giêsu vẫn tiếp tục kiên trì dạy dỗ những người học trò như thể “chậm hiểu” đối với con người ngày nay, nhưng thật sự những gì Đức Giêsu đề cập rất khó hiểu vì các tông đồ đâu có những khái niệm trước như những tín hữu hôm nay đã được nghe đi nghe lại nhiều lần.
Đức Giêsu “lên trời” ngay trước mắt các tông đồ (Cv. 1,9). Điều này đã xảy ra tại vườn dầu (Cv. 1,12). Bao nhiều lần Đức Giêsu hiện ra cho các tông đồ, và rồi Ngài lại biến đi trước mắt các ông. Những lần đó không có sách nào nói Ngài lên trời cả, chỉ coi Ngài hiện ra và Ngài lại đi thôi, và rồi Ngài sẽ lại thăm viếng các tông đồ khi các tông đồ cần và Ngài muốn. Sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay diễn tả rất cụ thể và rõ ràng về biến cố Đức Giêsu lên trời.
II. Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế
Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu không nói Đức Giêsu lên trời, mà lại nói Đức Giêsu ở lại mãi với con người: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28,20). Theo thánh Matthêu, Đức Giêsu là Emmanuel, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa ở với con người (Mt. 1,23). Nếu Đức Giêsu là Đấng qua Ngài Thiên Chúa ở với con người, thì đâu có khi nào Đức Giêsu rời con người nữa. Thiên Chúa không ở xa con người, nhưng ở gần thật gần con người, một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Tin Mừng theo thánh Matthêu cũng cho thấy Đức Giêsu đã nói: “nơi nào có hai hay ba người họp nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở đó, giữa họ” (Mt.18, 20). Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Yoan cũng có những tư tưởng tương tự: “ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga.14, 23). Đức Giêsu ở với các tông đồ, ở với những người nhờ lời các tông đồ mà tin vào Đức Giêsu.
Ý niệm Đức Giêsu ở với con người, hàm chứa niềm tin Đức Giêsu “đang sống” một cách nào đó. Đây không chỉ là “đang sống” theo nghĩa những người còn đang sống tưởng nhớ tới Ngài, nhưng thật sự Ngài vẫn đang sống độc lập và khách quan đối với tư tưởng của con người. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang sống và ở với con người bất chấp con người có biết hoặc ý thức điều đó hay không.
III. Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa
Một số người khi đọc tới đây có thể đã nói: “Kinh Thánh mâu thuẫn; như vậy biết tin thế nào đây, một đàng nói lên trời một đàng nói vẫn ở dưới thế”! “Phải chăng Kinh Thánh không đáng tin”. Thật sự trong Kinh Thánh có nhiều điều bị người ta nói “không lô gích và phản khoa học”, chẳng hạn trong Sáng Thế Ký nói “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St. 2, 7). Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng làm gì có tay mà nặn, làm gì có hơi thở mà thổi hơi vào hình đất đó. Khoa học cho thấy con người hình thành qua tiến trình tiến hóa.
Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng. Ngài ở khắp mọi nơi. Không có gì hiện hữu ngoài Ngài. Ma quỷ cũng luôn hiện diện trước Ngài, không thể tránh được Ngài. Nếu ai thù hận ghen ghét Ngài, thì sẽ muôn đời khổ vì không thể trốn đâu được với Ngài. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, nên không có tay phải tay trái, không có bên phải bên trái. Những cách diễn tả như vậy, đó là cách diễn tả “nhân hình” về Thiên Chúa. Khi người ta nói “Thiên Chúa ở trên trời”, thì không có nghĩa Thiên Chúa ở trên trời thăm thẳm mà không ở dưới đất này, nhưng có nghĩa, Thiên Chúa là Đấng cao vời siêu việt, vượt quá sức hiểu và tưởng tượng của con người. Thiên Chúa là Đấng cao vượt trên con người như trời cao hơn đất: Thiên Chúa ngự trên trời. Như vậy khi một số tác giả diễn tả Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, không có nghĩa đen hoàn toàn như vậy, nhưng phải hiểu là Đức Giêsu được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Công Nghị Do Thái đã hiểu theo nghĩa này, nên đã đồng thanh kết án tử hình Đức Giêsu: là người mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa: phạm thượng (Mc.14, 62-64). Khi nói Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng không có nghĩa rằng Đức Giêsu ở xa con người, rời bỏ con người, nhưng có nghĩa, Ngài được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa làm người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Đức Giêsu nói: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 20). Bạn có thấy câu này mâu thuẫn với khẳng định “Chúa Lên Trời” không? Tại sao bạn nói mâu thuẫn hoặc không mâu thuẫn?
- Trong Kinh Thánh, những chỗ nào đề cập đến việc “Chúa lên trời”? Theo ý bạn, “lên trời” trong từ ngữ “Chúa Lên Trời” phải được hiểu như thế nào?
- Ở đâu trong Kinh Thánh dùng từ ngữ “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”? Theo bạn, từ ngữ “ngự bên hữu Thiên Chúa” phải được hiểu như thế nào, vì Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, đâu có bên phải bên trái?
.
Trầm Thiên Thu
CHÚA VỀ THIÊN QUỐC SÁNG NGỜI VINH HIỂN
CON Ở THẾ TRẦN KIÊN VỮNG CHỨNG NHÂN
Thật kỳ diệu, như được Thiên Chúa đã “mặc định”, có nhiều thứ trái ngược mà không đối lập, giống như dạng bổ túc lẫn nhau vậy: Xuôi – Ngược, Phải – Trái, Trên – Dưới, Dọc – Ngang, Nam – Nữ, Trẻ – Già, Cao – Thấp, Nắng – Mưa, Trời – Đất,…
Đất trời có tám hướng, mười phương. Cuộc đời có nhiều hướng, như cây có nhiều nhánh, chủ yếu là hai nhánh chính – như hình Thập Giá: hướng lên với Thiên Chúa (nhánh dọc) và hướng đến với tha nhân (nhánh ngang). Sống theo “chiều ngang” để xoay theo “chiều dọc” – mục đích cuối cùng: VỀ TRỜI.
Sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu vinh hiển về trời, còn chúng ta phải hiên ngang vào đời để loan báo Tin Mừng về Đức-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh, làm chứng về Tình Yêu Vô Biên của Thiên Chúa, về Lòng Thương Xót bao la của Ngài. Chúa Giêsu về trời là bảo chứng chắc chắn chúng ta cũng sẽ được về trời. Với niềm hy vọng dạt dào đó, chúng ta có thể can đảm và kiên trì vượt biển-đau-khổ-trần-gian để cặp Bến Bình An Thiên Quốc.
Sách Công vụ Tông đồ (trình thuật Cv 1:1-11), Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông đồ mà Ngài đã tuyển chọn qua tác động của Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy NGÀI VẪN SỐNG SAU KHI ĐÃ CHỊU KHỔ HÌNH: Trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Trời. Đó là Ngài củng cố niềm tin cho những người còn tại thế. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã hứa: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:2-3). Để chúng ta an tâm, Ngài còn xác định: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
NHÁNH DỌC – HƯỚNG THƯỢNG
Phụng Vụ Mùa Phục Sinh sử dụng sách Công Vụ rất nhiều, Giáo hội muốn chúng ta biết công việc của các tông đồ làm sau khi đã đủ tin vào Thầy Giêsu. Kinh Thánh cho biết:
Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là “ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó tò mò hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Chắc là các ông cũng muốn “thơm lây” gì đó, vì con người vẫn nuôi hy vọng “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Nhưng Chúa Giêsu thản nhiên: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).
Vừa nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, khiến các ông chưng hửng và ngơ ngẩn. Lúc đó có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Ui da, sao thế nhỉ? Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, ngơ ngác hướng về phía Ngài vừa bay đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1:11). Chúa Giêsu đã đến thế gian và đã về trời thật, rồi Ngài chắc chắn sẽ lại đến – tái lâm trong Ngày Tận Thế.
Chắc hẳn các môn đệ buồn lắm vì Sư Phụ đi xa rồi, và cũng có thể “trách yêu” là sao Thầy đi mà không nói trước. Quá đỗi bất ngờ! Các ông cũng có thể buồn vì từ nay không còn Sư Phụ thì không biết xoay xở thế nào. Con người là thế! Đại Sư Giêsu biết lắm, thế nên Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần để đủ tự tin mà hành động vì Chúa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Tất nhiên, Ngài hứa gì thì luôn thực hiện đúng – đúng chi tiết từng phẩy, từng chấm.
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Ngài không còn nhân tính mà chỉ còn thiên tính. Ngài ẩn hiện thoăn thoắt, vì không còn lệ thuộc thân xác. Nay Ngài lại về trời, nghĩa là chúng ta cũng chắc chắn sẽ được sống lại và về trời với Ngài – mục đích cuối cùng của kiếp người. Vì thế, Thánh Vịnh gia mời gọi chúng ta cùng hợp xướng: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Đồng thời, chúng ta “hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!” (Tv 47:7). Thật vậy, “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu”, nên chúng ta phải “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ”. Tất nhiên những gì là tuyệt vời nhất thì phải được dành cho Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:9), toàn năng và toàn trí.
Sự vui mừng là biểu hiện có Chúa trong tâm hồn, nghĩa là chúng ta đang được Chúa Thánh Thần không ngừng tác động, được tràn đầy ơn Thánh Linh, đủ can đảm đi giữa bầy sói mà không hề run sợ… Thật tuyệt vời!
NHÁNH NGANG – DẤN THÂN
Lời nói phải được chứng mình bằng việc làm, không thể khác hơn. Mến Chúa thì phải yêu người, không thể nói suông, nếu không chỉ là “bà con ruột” với nhóm Biệt Phái. Đức ái là nhánh ngang của Thập Giá, như đôi tay dang rộng choàng lấy mọi người, bất kể đó là ai – quen hay lạ, bạn hay thù.
Rất chân thành, Thánh Phaolô xác định: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (Ep 4:1a). Tự nhận là “tù nhân của Chúa” nên Thánh Phaolô không ngại nói: “Tôi khuyên nhủ anh chị em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh chị em. Anh chị em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh chị em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4:1b-3). Ai cũng được Thiên Chúa kêu gọi, mỗi người mỗi trách nhiệm, mỗi người một loại “nén”, vấn đề là dùng những “nén” đó bằng cách nào và với mục đích gì. Không ai có quyền tự mạo nhận rằng “nén” của mình “có giá” hơn “nén” của người khác. Trước mặt Thiên Chúa, mọi người đều bình đẳng, chẳng ai hơn ai. Tại sao? Bởi vì ai cũng là tội nhân mà thôi!
Bình đẳng ư, bằng nhau ư? Đúng vậy! Lý do minh nhiên: “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34). Vả lại, như Thánh Phaolô nói: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh chị em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Ep 4:4). Đặc biệt là “chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa” (Ep 4:5). Thế thì sao không bình đẳng? Đúng là “chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”, nhưng “mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho” (Ep 4:7). Đó là điều mầu nhiệm, trí tuệ loài người không thể phân tích hoặc giải nghĩa thấu tình đạt lý đúng mức, chỉ tương đối mà thôi.
Rất lạ với cách dẫn chứng của Thánh Phaolô: “Có lời Kinh Thánh nói: Ngài đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Ngài đã ban ân huệ cho loài người” (Ep 4:8). “Đám tù” đó là chúng ta chứ còn ai trồng khoai đất này nữa, vì chúng ta đều là những tử tù được Đức Kitô chịu chết để giải thoát chúng ta khỏi chốn-lao-tù-tội-lỗi-trầm-luân. Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Ngài đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Ngài đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Ep 4:9-10). Hai động thái trái ngược là “lên” và “xuống”, nhưng hai động thái đó đều do chính Đấng-đã-chết-và-sống-lại thực hiện.
Ôi, Thánh Ý Thiên Chúa quá đỗi mầu nhiệm: “Chính Ngài đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4:11). Vì thế mà tạo nên xã hội, cộng đoàn, nhóm,… Ai cũng làm giám đốc thì lấy ai là công nhân? Ai cũng làm tổng thống thì lấy ai là nhân dân? Nếu vậy, ơn gọi “làm nhỏ” có khi còn quan trọng hơn ơn gọi “làm lớn” đấy. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai MUỐN làm người đứng đầu thì PHẢI làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9:35). Ngài luôn bảo người ta “làm nhỏ” chứ không khuyên ai “làm lớn”, nhưng người ta lại luôn thích làm ngược lại. Con người bướng bỉnh và ngang tàng, khoái “đi ngược chiều” lắm. Thế nên cần cảnh giác cao độ và cố gắng chấn chỉnh. Chớ có khinh suất hoặc ảo tưởng!
Thánh Phaolô giải thích: “Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới SỰ HIỆP NHẤT TRONG ĐỨC TIN và trong SỰ NHẬN BIẾT CON THIÊN CHÚA, tới TÌNH TRẠNG CON NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH, tới TẦM VÓC VIÊN MÃN CỦA ĐỨC KITÔ” (Ep 4:12-13). Đó là cả một chu-trình-vào-đời của bất kỳ ai. Nói dễ, làm khó. Luôn phải tự thúc giục cả ngày cả đêm!
Chính Chúa Giêsu trao “bài sai vào đời” cho mọi người khi Ngài nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án” (Mc 16:15-16). Rất rõ ràng, rất rạch ròi! Ai thật và ai giả cũng được Ngài nói trước: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18). Có Chúa và nhân danh Chúa thì có thể làm được những việc “khác thường”, và đó là “phép lạ” Chúa làm qua những người thành tín.
Trình thuật Tin Mừng của Thánh Máccô cho biết: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:19-20). Và cho đến ngày nay, nhiều người cũng đã và đang “vào đời” như thế: Nói về Chúa, sống chứng nhân, sống gương mẫu, làm việc tốt, tha thứ cho người ghét mình, nghĩ tốt về người khác, rao truyền Tình Yêu Chúa, thực thi Lòng Chúa Thương Xót,…
Chúa Giêsu về Trời, chúng ta muốn về Trời thì phải vào đời. Hai nhánh cuộc đời phải luôn gắn kết với nhau. Chắc chắn như vậy. Một trong những “nhánh nhỏ ra khơi” là sống theo lời khuyên thấu tình đạt lý của Thánh Mark khổ tu:
“Anh em HÃY đọc hiểu những lời Thánh Kinh bằng hành động; ĐỪNG ham hố ngôn từ rồi hợm mình vì những ý tưởng lý thuyết suông. Các công việc là điều cần thiết và được Thiên Chúa minh nhiên an định, nhưng chúng ta NÊN dứt bỏ các công việc không hợp giờ giấc và dành ƯU TIÊN cho việc cầu nguyện, nhất là NÊN dứt bỏ những công việc đòi hỏi chi tiêu quá đáng hoặc sinh được quá nhiều của cải dư thừa.
Ai biết vì Chúa mà tự hạn chế và loại bỏ những của cải dư thừa của họ bao nhiêu, người ấy càng giữ tâm trí khỏi bị xao lãng bấy nhiêu… để dành chỗ cho việc cầu nguyện tinh tuyền và chứng tỏ một niềm tin chân thành nơi Chúa Kitô. Còn ai vì kém đức tin hoặc vì một yếu đuối nào khác mà không làm được điều ấy thì ít nhất cũng hãy THỪA NHẬN thực trạng, TỐ CÁO sự ấu trĩ của mình, và HÃY hết sức vươn lên”.
Hôm nay cũng là Ngày Hiền Mẫu hoặc Ngày Thân Mẫu (Mother’s Day, Chúa Nhật thứ hai trong Tháng Năm), không chỉ chúc mừng những người mẹ mà quan trọng là cầu nguyện cho họ, nhưng người đã hy sinh cả đời vì con cái.
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành, xin ban thêm cho chúng con ba đức đối thần (tin, cậy, mến) và các đức đối nhân để chúng con làm hành trang vào đời theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài. Xin giúp chúng con kiên trì sống theo mệnh lệnh của Đức Kitô để có thể hân hoan về Trời mai sau. Chúng con cầu xin nhân danh Đại Sư Phụ Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
† Thánh ca CHÚA VỀ TRỜI – CON VÀO ĐỜI:
† Ca khúc về MẸ
- Tạ Ơn Mẹ (Lam Phương) https://www.youtube.com/watch?v=9cNcSZjIQ-M
- LÒNG MẸ (Y Vân) https://www.youtube.com/watch?v=vcStPX6ScZk
.
CHÚA GIÊSU HOÀN THÀNH SỨ MẠNG VÀ VỀ TRỜI
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Con người khi đối diện với khó khăn vượt quá sức mình thường tìm đến thần linh. Thần linh như một cứu cánh để giúp con người vượt qua phong ba. Thế nên theo dòng lịch sử rất nhiều những câu chuyện huyền thoại được dựng nên kể về những vị thần dạy người ta trồng trọt, chống lại thiên nhiên, chống lại sự dữ, và sau khi hoàn thành sứ mệnh họ bay về trời.
Ở Việt Nam không ai mà không biết đến câu chuyện về Thánh Gióng. Truyện Thánh Gióng được kể rằng: “Cậu bé Gióng được sinh ra do một lần người mẹ nghèo làng Gióng ra đồng, thấy vết chân to lớn lạ thường nên ướm thử, không ngờ về nhà thụ thai. Mười hai tháng sau, bà sinh một bé trai khôi ngô tuấn tú, nhưng thật kỳ lạ là lên ba mà cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân đang xâm lấn nước ta. Thế giặc mạnh nên vua rất lo, truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm kiếm người tài cứu nước. Cậu bé nghe thấy tiếng loa, liền cất tiếng nhờ mẹ mời sứ giả tới nhà. Gặp sứ giả, cậu bé bảo: “Ông về tâu vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Được lời, sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ vội về bẩm báo với nhà vua.
Chuyện càng lạ hơn nữa khi từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng chẳng no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ. Mẹ cậu bé phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con trong làng thì mới lo đủ cho cậu. Khi giặc Ân đến chân núi Châu Sơn (Tiên Du, Bắc Ninh) thì cũng là lúc sứ giả đem kiếm, áo giáp và ngựa tới cho cậu bé. Cậu bé vươn vai thoắt biến thành một tráng sỹ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sỹ mặc giáp, cầm kiếm và nhảy lên mình ngựa. Ngựa sắt bỗng chuyển động, miệng hý vang. Tráng sỹ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác. Roi sắt gẫy, tráng sỹ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc.
Sau khi diệt giặt Ân, Gióng bay đến chân núi Sóc Sơn, cởi giáp, bỏ kiếm, rồi cả người và ngựa cùng thăng thiên. Từ đó dân gian mới có câu:
… Làng Phù Đổng có một người
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ
Những ngờ oan trái bao giờ
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân…”.
Hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày Chúa Giê-su vinh thăng về Trời sau khi hoàn thành sứ mạng cứu độ trần gian. Đây không phải là một huyền thoại được dựng nên để thỏa mãn lòng người, mà là một sự kiện lịch sử. Một sự kiện xảy ra cách đây hơn 2000 năm đã được biết bao thế hệ tiếp nối nhau làm chứng và loan truyền. Giáo Hội luôn loan tin rằng Chúa Giê-su sau khi hoàn tất việc cứu độ trần gian, Ngài đã được đưa lên trời trước sự chứng giám của các môn đệ. Ngài vinh thăng về trời như một cuộc khải hoàn sau cuộc chiến thắng diệu kỳ là đánh bại sự chết, để từ nay con người không còn chết nữa mà cái chết sẽ mở ra một sự phục sinh trong vinh quang với Đức Giê-su.
Sứ điệp Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một Quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đầy đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.
Nhưng để về Trời thì con người con người phải biết hoàn thành sứ mạng trần gian là làm chứng cho Chúa. Làm chứng bằng lời nói luôn nói về Chúa và về tin mừng cho anh em. Làm chứng bằng việc dựng xây thiên đường hạ giới ngập tràn tình yêu. Làm chứng bằng đời sống chọn Chúa , chọn giá trị Nước Trời hơn là những vinh hoa phú quý trần. Dẫu chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao đồng tiền đến nỗi bán rẻ nhân phẩm của mình, thì người tín hữu phải sống sao cho nhân loại thấy còn một nhu cầu cao quý hơn vật chất chính là tìm kiếm Nước Trời.
Ước mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen
.
Lm. I-nha-xi-ô Trần Ngà
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh Chúa trên khắp hoàn cầu, chúng ta hân hoan mừng Chúa Giê-su lên trời vinh hiển. Sự kiện Chúa lên trời chứng tỏ cho chúng ta biết trần gian chỉ là quán trọ còn quê thật của chúng ta ở trên thiên quốc.
Chúa Giê-su lên trời để dọn chỗ cho chúng ta như lời Ngài nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 3).
Chết là bước vào đời sống mới
Có người cho rằng: Chết là hết, không có sự sống đời sau, không còn gì hết.
Tuy nhiên, theo giáo huấn của Hội thánh Công giáo: Chết không phải là chấm dứt nhưng là bắt đầu một cuộc sống mới.
Đời nầy và đời sau là hai giai đoạn của một cuộc sống
Hôm nay, con lăng quăng ngo ngoe trong vũng nước, nhưng mai đây nó sẽ hoá thành muỗi, giã từ vũng nước và bay sang môi trường khác.
Hôm nay, con sâu còn nằm yên trong tổ kén; mai đây, nó hoá bướm bay lượn đó đây.
Hôm nay, hạt lúa bị chôn vùi trong bùn đất, tưởng sẽ mục nát đi, ai ngờ mấy tháng sau nó hoá thành bụi lúa sum suê mang nhiều bông hạt…
Con lăng quăng mạt hạng kia, con sâu tí ti hèn hạ kia hay hạt lúa bé nhỏ kia… còn có đời này và đời sau, không lẽ con người là tác phẩm tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại chỉ có đời này mà chẳng có đời sau?
Thực ra, hôm nay, con người ở trọ trên mặt đất, nhưng mai đây sẽ từ giã nhà trọ trần gian để bước vào một thế giới khác.
Như thế, chết không phải là bị tiêu diệt, nhưng là biến đổi. Thánh Phaolô viết:“Chúng ta sẽ không chết, nhưng hết thảy chúng ta sẽ được biến đổi… vì chưng cái hư hoại nầy sẽ mặc lấy bất hoại, đồ chết dở nầy sẽ mặc lấy trường sinh bất tử” (I Cor 15, 51. 53).
Chúa Giê-su dạy có sự sống đời sau
Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giê-su về cuộc sống đời sau, Chúa Giê-su khẳng định là có. Ngài dạy rằng có “những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần” (Lc 20, 36).
Trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giê-su cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì “phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25,46). Như thế, Chúa Giê-su khẳng định không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài “muôn đời muôn kiếp.”
Ngoài ra, Chúa Giê-su còn báo cho ta biết có sự sống đời sau khi đoan hứa rằng: “Anh em hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-2).
Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giê-su còn lấy cả cuộc đời của Ngài để minh chứng có cuộc sống đời sau.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su chứng tỏ có sự sống đời sau
Sở dĩ Chúa Giê-su nộp mình chịu khổ nạn, chịu chết trên thập giá cách đau thương tủi nhục là để đền tội và chết thay cho muôn dân, nhờ đó nhiều người được hưởng hạnh phúc mai sau trên thiên đàng.
Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng, hoả ngục, con người chết rồi là hết, và sau khi chết, ai cũng chỉ còn là tro bụi như ai… thì cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su là hoàn toàn vô ích; cái chết đau thương của Chúa Giê-su trên thập giá chẳng mang lại lợi ích gì cho bất cứ ai. Chẳng lẽ Ngôi Hai Thiên Chúa lại chịu khổ nạn và chịu chết cách vô ích sao?
Chính vì để mang lại cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau cho muôn người, Chúa Giê-su đã không ngại nộp mình chịu chết để cứu muôn người được sống. Điều nầy chứng tỏ cuộc sống mai sau hoàn toàn có thực.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa lên trời là để dọn chỗ cho chúng con, để bày tỏ cho chúng con biết đời này chỉ là quán trọ và đời sau mới là chốn định cư muôn thuở muôn đời.
Xin cho chúng con luôn bước theo đường lối Chúa, tức là sống theo lệnh Chúa truyền, nhất là tuân giữ cho trọn luật yêu thương, để mai đây được đoàn tụ vĩnh viễn với Chúa trên thiên quốc.
.
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển
Khi sai Con của mình xuống trần gian, Thiên Chúa Cha đã có một kế hoạch đầy yêu thương dành cho nhân loại. Mục đích của kế hoạch ấy chính là quy tụ muôn người về một mối trong Nước Trời. Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã loan báo về Nước Trời và triều đại của Thiên Chúa; chiêu mộ và huấn luyện các môn đệ; thiết lập Giáo Hội… ; và cuối cùng, Ngài đã chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa Cha. Khi đã kết thúc cuộc sống tại thế, Ngài được Thiên Chúa Cha ân thưởng vinh quang trên Nước Trời.
Nhưng, trước khi về trời, Đức Giêsu đã chuyển trao cùng một sứ vụ ấy cho các môn đệ, để các ông tiếp tục loan báo về Nước Thiên Chúa cho mọi người.
- Chuyển giao sứ vụ cho các môn đệ
Giờ đã điểm, Đức Giêsu đã hẹn: “Mười một môn đệ đi tới Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã hẹn với các ông” (Mt 28,16).
Khi các môn đệ thấy Đức Giêsu, chẳng ai bảo ai: “Các ông phục lạy Ngài” (Mt 28,17).
Khi phục lạy như thế, các môn đệ muốn bày tỏ sự hiểu biết của mình về Đức Giêsu. Vì khi phục lạy ai thì nơi người ấy phải tôn nhận uy quyền với người mình phục lạy.
Hành vi này chúng ta cũng đã thấy nơi ba nhà Đạo Sĩ khi gặp được hài Nhi Giêsu, các ông đã phục lạy và tôn nhận vương quyền của Ngài (x. Mt 2,11). Hay như những người bị bệnh mà được Đức Giêsu chữa lành, trong số đó phải kể đến người phong hủi được lành sạch (x. Mt 8,2). Hôm nay, đứng trước sự huy hoàng của vinh quang phục sinh nơi Đức Giêsu, và hơn thế nữa, các ông nhận thấy mọi quyền năng, vinh quang và danh dự được trao ban cho Đấng Phục Sinh, vì vậy, các ông đã phục lạy Ngài.
Tiếp theo, Đức Giêsu đã tiến lại gần họ và phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân” (Mt 28,18). Qua lệnh truyền này, Đức Giêsu chính thức chuyển trao sứ vụ của Ngài cho các môn đệ là những người sẽ tiếp bước trong tương lai.
Vì thế, sau khi nhận lãnh, các ông có trách nhiệm loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Như một lời trấn an trước nghĩa vụ quan trọng mà các ông vừa nhận được, ĐỨc Giêsu đã nói:”Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20).
Tuy nhiên, dù về trời, nhưng Đức Giêsu vẫn hiện diện cách vô hình, và sứ vụ của các môn đệ luôn luôn có sự đồng hành của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Điều này đã xác tín mạnh mẽ về sự hiện diện của Đức Giêsu với sứ vụ của các môn đệ. Đây là niềm vui mừng và động lực mạnh mẽ để các ông ra đi thi hành sứ vụ.
Sau những giây phút chứng kiến cảnh huy hoàng cũng như lãnh nhận sứ vụ, các ông hân hoan trở về để cùng nhau xây dựng và phát triển Giáo Hội. Nhất là loan báo triều đại Thiên Chúa đã đến gần, kêu gọi mọi người sám hối và lãnh nhận phép rửa để được cứu độ.
- Chúa lên trời – ta vào đời
Cùng một sứ vụ mà Đức Giêsu đã trao phó cho các môn đệ, hôm nay, Ngài cũng trao phó cho mỗi người chúng ta.
Lời thiên thần nhắc các môn đệ: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?” (Cv 1,11) cũng là lời nhắc nhở mỗi người chúng ta.
Chúa lên trời là niềm hy vọng cho chúng ta, vì Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta: “Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu, các con sẽ ở đó với Thầy”. Thánh Phaolô cũng đã xác tín khi nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
Tuy nhiên, chúng ta không chỉ giữ niềm hy vọng ấy cho riêng mình. Chúng ta cũng không chỉ dừng lại ở việc tin vào lời Đức Giêsu đã truyền dạy, nhưng chúng ta cũng phải loan báo cho nhân loại về niềm hy vọng và niềm tin mà chúng ta đã nhận được. Để qua đó: chúng ta hãy đi “và làm cho muôn dân thành môn đệ” (Cv 1,11).
Nhưng, điều quan trọng, đó là chúng ta loan báo Tin Mừng bằng cách nào?
Lời Đức Giêsu hôm nay đã vạch ra cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta kế hoạch truyền giáo để cho có hiệu quả như:
Trước tiên là: “Hãy đi giảng dạy muôn dân”. Lời rao giảng rất cần thiết, vì như thánh Phaolô đã nói: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Tuy nhiên, nếu chỉ rao giảng không thôi thì chưa đủ, mà lời rao giảng quan trọng và hùng hồn nhất là bằng đời sống của người loan báo. Chính lời nói và hành động ăn khớp với nhau làm nên sự thống nhất nơi người môn đệ, và như thế, lời loan báo mới khả tín, đáng tin và đem lại niềm hy vọng cho người nghe.
Thứ đến là: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Qua lệnh truyền này, Đức Giêsu cho thấy: Ba Ngôi chính là nội dung và cùng đích của lời rao giảng. Mọi hành vi khi thi hành sứ vụ loan báo Lời Chúa phải quy hướng về Ba Ngôi như là nguồn cội. Tách ra khỏi điểm tựa này, chúng ta sẽ bị rơi vào trạng thái vô định mất phương hướng.
Tiếp theo là: “Giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”. Người môn đệ chỉ là người được sai đi để quy tụ muôn dân về với Đấng đã sai mình. Vì thế, không phải nhân danh cá nhân của mình để phô trương tài cán công lao của bản thân, mà ngược lại, phải trung thành loan báo chính lời của Thầy Giêsu. Chỉ khi nào chúng ta loan báo Lời Chúa cách trung thực, thì bản thân người loan báo mới cảm nhận được hạnh phúc và người nghe mới thấy được niềm hy vọng.
Mặt khác: nội dung của lời rao giảng chính là: “Loan báo về một Vị Thiên Chúa nhân từ, giàu long thương xót với hết mọi người. Ngài đến để yêu họ và yêu đến cùng, nên đã chết thay cho nhân loại để nhân loại được sống và sống dồi dào”. Vì thế, trước, trong và sau khi loan báo, chúng ta hãy: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em chúng ta như chính mình”. Làm được điều đó, lời rao giảng của chúng ta mới thành công, nếu không, mọi lời rao giảng chỉ như chiếc phèng la điếc tai thiên hạ mà không có kết quả.
Cuối cùng, trong mọi biến cố của cuộc đời, nhất là mọi thăng trầm của công cuộc loan báo Tin Mừng, chúng ta an vui và vững bước vì có Đức Giêsu luôn ở cùng để bảo vệ, nâng đỡ như lời Ngài đã phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Hôm nay cũng là ngày Giáo Hội chọn làm ngày quốc tế truyền thông. Khi chọn như vậy, Giáo Hội đề cao vai trò của truyền thông trong việc chuyển tải sứ điệp Tin Mừng. Vì thế, chúng ta hãy biết tận dụng và chắt lọc khi sử dụng những phương tiện truyền thong như: ti vi, báo đài, điện thoại, Internet và các mạng xã hội toàn cầu để loan báo Lời Hằng Sống cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa về trời là niềm hy vọng cho chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con luôn hướng lòng lên trời, để ái mộ những sự trên trời. Ngõ hầu mai ngày chúng con cũng sẽ được hưởng trọn vẹn niềm vui Nước Trời. Amen.
.
Lm Vũđình Tường
Mấy tuần qua Phúc âm nhắc đi nhắc lại lời Đức Kitô mời gọi hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Liên kết với Đức Kitô để qua Đức Kitô, Kitô hữu được liên kết với Chúa Cha. Đức Kitô về cùng Chúa Cha, thường được biết đến như là lễ mừng Đức Kitô về trời. Dù Đức Kitô về cùng Chúa Cha, tình liên kết Chúa dành cho Kitô hữu không gặp bất cứ ngăn trở nào. Kitô hữu vẫn có thể liên kết với Đức Kitô qua tình yêu Ngài. Điều này không có chi lạ bởi chính tình yêu Chúa liên kết Kitô hữu nên một. Đức Kitô ở trần gian hay về cùng Chúa Cha, tình yêu Chúa dành cho nhân loại không thay đổi. Liên kết trong tình yêu Chúa để được trổ sinh hoa trái, không phải hoa trái thường, mà là hoa trái có phẩm chất đặc biệt, cùng phẩm chất hoa trái khi Ngài còn ở trần thế bởi hoa trái đó trổ sinh nhờ vào tình yêu Đức kitô.
Thứ hai, liên kết với Đức Kitô để mối giây liên kết liên tục đón nhận ân sủng Chúa, tránh cô đơn khi gặp nguy khó. Ai cũng có người thân và bạn thân, tuy nhiên trong rất nhiều trường hợp người thân đó bó tay, dù ước ao, mong muốn nhưng không đủ khả năng giúp đỡ, hoàn cảnh không cho phép. Đức Kitô Phục Sinh là Đấng duy nhất có khả năng vượt mọi rào cản, cấm đoán hay hàng rào hạn chế bởi Ngài không bị ảnh hưởng bởi điều kiện không gian và thời gian. Vì thế liên kết với Đức Kitô sẽ luôn nhận được ơn Chúa dù trong hoàn cảnh tồi tệ nhất, Ngài cũng hiện diện, kề bên, cùng dìu ta đi.
Thứ ba, liên kết với Đức Kitô sẽ nhận được ơn can đảm và sức mạnh nội tâm để vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Chính Đức Kitô đã trải qua cảm nghiệm cô đơn, môn đệ sợ hãi bỏ chạy, một mình Ngài đối diện với thập giá. Giờ phút kinh hoàng cuối đời của Ngài là giây phút cô đơn. Nó thể hiện trong câu nói ‘linh hồn Thầy lo buồn đến nỗi chết’. Nó thể hiện trong lời than: không thể cùng thức với Thầy được một giờ sao? Thức để làm chi? Thức để liên kết với Chúa trong cầu nguyện; liên kết với Chúa để tránh được cơn cám dỗ. Sa ngã vì thiếu kiên tâm cầu nguyện, vì tự tin vào khả năng riêng mình, vì đời sống cầu nguyện nghèo nàn. Môn đệ vì mệt mỏi, nửa tỉnh, nửa mê và đã bỏ chạy khi Thầy bị bắt. Dẫu thế tình yêu Chúa dành cho các ông không thay đổi.
Thứ tư, liên kết với Đức Kitô để cảm nghiệm Đức Kitô luôn giữ trọn lời thề. Lời Ngài hứa chắc chắn sẽ được thực hiện cách tốt đẹp, hoàn hảo. Đức Kitô hứa, Ngài sẽ thực hiện. Làm sao, thời gian nào do Ngài quyết định.
Thứ năm, mục đích cuối cùng và là mục đích chính và là việc cao cả của việc liên kết. Bởi liên kết với Đức Kitô sẽ được liên kết với Chúa Cha. Liên kết một cách vững bền cùng mối liên kết Đức Kitô dành cho Chúa Cha. Điều này được thực hiện bởi nhờ Đức Kitô liên kết với Chúa Cha trong mọi sự. Vì thế qua Đức Kitô mà Kitô hữu được kết liên với Chúa Cha. Chúng ta biết điều này qua lời cầu của Đức Kitô. Đức Kitô cầu xin Chúa Cha liên kết Kitô hữu trong Ngài để tất cả được nên một trong Chúa.
Lậy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, đệ họ nên một như chúng ta. Gn 17,11
Thứ sáu, liên kết cùng Đức Kitô sẽ vượt thắng, tránh được hãm hại của ác thần bởi chính Chúa Cha ban ơn bảo vệ giúp Kitô hữu chống lại ác thần. Ác thần ghét Kitô hữu vì Kitô hữu sống nơi trần thế nhưng không thuộc về trần thế, lòng luôn hướng về quê thật là nước trời. Vì không thuộc về chúng nên chúng tìm cách ám hại. Sa đoạ, hay sa chước cám dỗ bởi đời sống cầu nguyện nghèo nàn, bởi liên kết với Chúa một cách hời hợi, mở cửa cho ác thần lợi dụng, hãm hại.
Cuối cùng liên kết cùng Đức Kitô để cuối cuộc lữ hành trần thế cũng sẽ được liên kết, chung sống trong nhà Chúa. Đức Kitô đi trước mở đường chuẩn bị đón nhận Kitô hữu vào trong nhà Chúa. Kitô hữu được thánh hiến trong sự thật để trở thành chứng nhân đích thực, sống động trong Đức Kitô, loan bố Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô, Người hiến thân chịu khổ hình chết, ban sự sống trường sinh cho nhân loại. Vì thế châm ngôn của Kitô hữu tóm gọn trong thánh lễ với lời Chúc tụng:
Chính nhờ Người với Người và trong Người mà mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời.
.
Lm. Jos. DĐH.
Có những niềm vui vỡ oà, nước mắt cứ rơi, mà tuôn rơi hoàn toàn vì sung sướng. Tại phòng cách ly ở sân bay, rất nhiều cuộc chia tay: đi định cư, đi đoàn tụ gia đình, đi du học, dù tương lai rực sáng đầy hứa hẹn, ấy vậy mà lệ vẫn trào tràn đến khó hiểu. Khóc hay cười, vui hay buồn, đó có phải là cảm xúc chung của những ai mang trái tim bằng thịt, trái tim biết rung nhịp yêu thương ? Cuộc sống có khổ đau, có hạnh phúc, có những lúc đi xa, có những ngày đoàn tụ, có nước mắt nụ cười, không làm chúng ta ngạc nhiên, bởi vì tương quan yêu thương của chúng ta với gia đình, quê hương, bao giờ cũng quan trọng. Vì chưa khôn ngoan, hay do chưa đặt tình yêu vào việc bổn phận, nhiều người đang sống theo một lập trình cứng ngắc, họ thường bị xếp vào loại rô-bốt không hồn ; nếu làm việc tuỳ hứng, không lưu tâm đến kết quả, lại bị suy xét là kẻ thiếu trách nhiệm.
Tình yêu thương giữa Đấng phục sinh và các học trò, không phải là có hay không, nhiều hay ít, dù các môn đệ lúc đó chưa hiểu cảnh biệt ly rồi sẽ ra sao, nhưng các ông có quyền hy vọng vào tình yêu của Đấng đã sống lại từ cõi chết. Thông thường, chúng ta vẫn cho rằng người khôn ngoan là người biết tận dụng thời giờ, công sức của mình cách hiệu quả nhất ; người cơ hội là người biết đối phó theo từng hoàn cảnh: gió chiều nào theo chiều đó. Người môn đệ theo Đức Kitô, ngoài việc sống có kỷ luật, làm việc có khoa học, có mục đích, họ còn phải sống đức yêu thương, hiệp thông. Không biết nhờ kinh nghiệm, hay do muốn khích lệ con cháu sống lạc quan hơn, cha ông chúng ta có câu: trai khôn lắm nước đái, gái khôn lắm nước mắt.
Sinh ra làm người, ai cũng có gia đình, có quê hương tổ quốc, sinh ra trong Hội thánh, người tín hữu luôn được ý thức quê hương thật phải là nơi không còn đau khổ, là nơi hạnh phúc. Mừng Chúa về trời, trở về quê hương, là dịp để người kitô hữu xác thực rõ hơn về ơn gọi làm môn đệ Đức Kitô, ơn gọi đặc biệt không có chia tay, không có nước mắt, ơn gọi thuần tuý là tình yêu và hiệp thông. Về trời, về bên Chúa Cha, không phải như một quan chức “mãn nhiệm”, không phải như vận động viên hết tuổi thi đấu, Đức Giêsu cho thấy: có một quê hương thật. Tuy chúng ta không còn thấy Đấng phục sinh hiện diện cách hữu hình, nhưng tình yêu và sứ mạng mới của Đức Kitô lại rõ ràng cụ thể nơi những ai đang sống tinh thần môn đệ của Ngài. “Các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng các phép lạ kèm theo”.
Quê hương mà hôm nay Đức Giêsu trở về có phải là vương quốc không phân biệt giai cấp, không còn cảnh giầu nghèo bổng lộc nhiều hay ít, không còn quy định: con vua thời lại làm vua ? Khác với truyền thống: tre già măng mọc, con chị nó đi, con dì nó lớn, Đức Giêsu không cắt đặt, bổ nhiệm, một vài đối tượng theo cảm tính, thay mặt Ngài lên làm vua làm chúa. Đức Giêsu đưa ra lệnh truyền: “các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ”. Tất cả những ai tin và ở trong Đức Giêsu đều trở thành kitô hữu, trở nên môn đệ, được gọi là thần dân của Nước Trời, của quê hương thật, nếu họ cùng hiệp thông và sống giáo huấn của Đức Kitô.
Quê hương là gì hả mẹ, mà cô giáo dạy phải yêu, quê hương là gì hả mẹ, ai đi xa cũng nhớ nhiều. (Đỗ Trung Quân). Nhà thơ dạt dào tình cảm, ông đặt lời yêu và nỗi nhớ nơi tình mẹ con, tình thầy trò, ông đã thành công, đã mang lại nhiều cảm xúc cho nhiều đối tượng, dù tác giả chỉ hướng độc giả tới quê hương trần gian. Hôm nay đây và mai sau, người kitô hữu chúng ta còn hướng tới quê hương thật, hạnh phúc thật, và còn mơ ước đạt tới quê hương thật. Đức Giêsu hôm xưa không hỏi, không mong các học trò trả lời quê hương thật là gì, Ngài cũng không nói quê hương thật chỉ có tình yêu và nỗi nhớ. Dù có hứa hẹn về phép lạ cho những người đã tin: “nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói được các thứ tiếng mới lạ”. Tuy nhiên đời sống và sứ mạng tông đồ của những người tin luôn là một khám phá mới, thế nào là quê hương thật.
Chúa về trời, hay Chúa về quê hương thật, là cuộc chiến thắng thế gian, là vinh quang của Đấng Kitô, nhưng cũng là niềm tin, là khởi đầu, là mệnh lệnh lên đường cho tất cả những ai muốn được là môn đệ Đức Kitô. Tình yêu thật, quê hương thật, hạnh phúc thật, chỉ rõ ràng khi mỗi người tín hữu: tin và sống trọn vẹn với tình hiệp thông mà từng giây phút trong ngày chúng ta hằng tuyên xưng: nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Chúa thăng thiên, Chúa trở về quê hương thật, sự ly biệt hôm đó cho thấy người đi kẻ ở không có nước mắt, tất cả như muốn nói tình yêu không có xa mặt cách lòng, không vô cảm, tình yêu thật sẽ tồn tại và sống động khi các học trò tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Amen.
.
Lm Trịnh Ngọc Danh
Qua thời gian hơn một tháng, chúng ta đã mừng lễ Phục Sinh của Đức Kitô, đã ca tụng Đức Kitô là ánh sáng thế gian, đã thắp lên cây nến phục sinh bằng những tiếng hát Alleluia, đã nghe các chứng nhân thuật lại những lần hiện ra của Đấng Phục sinh. Cây nến phục sinh rồi sẽ cất đi, những bài hát alleluia sẽ ít được nghe hơn. Đúng là lễ Thăng Thiên có một chút u buồn và luyến tiếc: “ Hỡi những người Galilê, sao còn đứng đó nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến như các ông đã thấy Người lên trời.” ( Cv 1: 11) . Thôi, đừng đứng đó mà tiếc nuối, u sầu! Hãy trở về thực tại với nhiệm vụ mới.
Ngày Đức Giêsu được rước lên trời, không phải là ngày chấm dứt nhiệm vụ ở trần thế để về nơi Ngài đã ra đi. Sau một thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dựng môt nền móng đạo đức dựa trên tình yêu và bác ái công bằng và sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh, được vào trong vinh quang của Chúa Cha với quyền cai trị vũ trụ, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Đức Giêsu lên trời, đánh dấu sự kết thúc giai đoạn thi hành sứ vụ ở trần thế và mở ra một giai đoạn mới qua vai trò của Giáo Hội đưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh thần, một giai đoạn chuyển tiếp giữa thế giới hữu hình và vô hình, từ một vùng đất nhỏ hẹp với một thế giới rộng lớn, từ một dân tộc với một cộng đồng nhân loại.
Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài hết hiện diện nơi trần gian, nhưng là một sự thay đổi. Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như trước kia, nhưng hiện diện bằng quyền năng, bằng Thánh Thần và bằng sự quan phòng. Ngài không còn bị lệ thuộc về không gian và thời gian.
Sự kiện Đức Giêsu lên trời chứng tỏ cho chúng ta thấy được mục đích của cuộc hành trình trên dương thế của chúng ta sẽ đi về đâu. Ngoài trái đất, còn có một thế giới linh thiêng, ngoài cuộc sống trần gian chóng qua còn có cuộc sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu về trời cho chúng ta một niềm hy vọng vào cuộc sống mai sau như lời Ngài đã nói: Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy.Ngài về trời nhưng Ngài không để con người mồ côi. Ngài hứa sẽ ban Đấng Phù trợ đến và quyền năng để cùng con người hành động và lướt thắng trở ngại.
Nhưng để được ở với Thầy,được vào trời mới, đất mới, thì việc trước tiên chúng ta phải làm là hoàn tất những công việc được giao phó. Nhiệm vụ đó là loan báo Tin Mừng, làm chứng về tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người. Con người là cánh tay nối dài của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người.Vì thế, trước khi về trời, Ngài đã truyền lệnh cho các môn đệ: “ Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” ( Cv 1: 8)
Việc Thầy Giêsulên trời không làm cho các môn đệ buồn sầu, chán nản; ngược lại, các ông lại vui mừng phấn khởi vì các ông tin rằng có Chúa cùng đồng hành và cùng hoạt động với họ. Các ông được trang bị sức mạnh của Chúa Thánh Thần, cùng với khả năng làm những dấu lạ như sẽ trừ được qủy, nói được những tiếng mới lạ, sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, cũng chẳng sao, và nếu đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được khỏe mạnh.
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời cũng là dịp Giáo hội nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho hết mọi người, mọi nơi. Chúa sẽ cùng đồng hành, cùng hoạt động với chúng ta. Chúa Giêsu, sau khi hoàn tất nhiệm vụ ở trần gian, Ngài đã về trời. Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng phải nổ lực hòan tất nhiệm vụ Chúa đã giao phó cho hết mọi người, mọi nơi bằng chính cuộc sống của mình “ cho đến tận cùng trái đất” để rồi chúng ta cũng sẽ được rước lên trời trong vinh quang của Thiên Chúa.
.
Lam Thy
Suy niệm Lời Chúa lễ Chúa thăng thiên (CN VII.PS-B: Cv 1, 1-11; Ep 1, 17-23. Mc 16, 15-20), thấy tình hình các môn đệ bộc lộ tinh thần hoang mang lo lắng, cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi” (Cv 1, 10). Tâm trạng băn khoăn đó khiến kẻ viết bài này bỗng nhớ lại bữa Tiệc Ly, khi Đức Giê-su nói với các môn đệ về vấn đề Người phải chịu khổ hình chết treo trên thập giá đến ngày thứ ba thì sống lại và đi về với Chúa Cha trên thiên quốc. Không chỉ người Do Thái thắc mắc và được Đức Ki-tô trả lời “Nơi tôi đi, các người không thể đến được”; mà còn khiến ông Phê-rô tò mò: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức Giê-su trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga 13, 33-36).
Lời tiên báo của Đức Giê-su đã trở thành hiện thưc: Tháng 8 năm 64, hoàng đế Nero bắt đầu bách hại Đạo Chúa, Phê-rô bị bắt và bị kết án đóng đinh ở Rô-ma. Vào khoảng tháng 10/64, đang khi chạy trốn để tránh khỏi nhục hình, ngài đã gặp Chúa Giê-su và hỏi: “Lạy Chúa, Chúa đi đâu?” (“Quo vadis, Domine?”), Chúa Giê-su trả lời: “Thầy vào thành Rô-ma để chịu đóng đinh một lần nữa”). Hiểu được ẩn ý của Chúa, Phê-rô đã quay trở lại thành Rô-ma để chịu kết án (chịu hình phạt “đóng đinh ngược” và tử nạn vào khoảng tháng 12/64 – Giáo hội ấn định lễ kính vào ngày 28/12; mãi tới năm 248, Giáo hội quyết định chính thức lễ kính 2 thánh Phê-rô và Phao-lô vào ngày 29/6).
Tâm trạng Thánh Phê-rô cũng là tâm trạng chung của các Tông đồ và rộng ra là của các Ki-tô hữu, của loài người. Nếu có khác chăng là khác ở cách ứng xử. Như Thánh Tô-ma thì cũng dịp này ngài hỏi lại Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 5); nhưng đến sau Phục Sinh, ông vẫn không tin Thầy mình đã sống lại (“nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không có tin” – Ga 20, 25), chỉ đến tám ngày sau đó, Người hiện ra và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27), Tô-ma mới thực sự tin. Riêng Thánh Phê-rô tuy có hay thắc mắc, nhưng khác người ở một điểm là trong lòng nghĩ sao thì nói ra như vậy, không hề giấu giếm, che đậy. Và nhất là khi được Thầy giải thích thì ngay lập tức Thánh Phê-rô tin tưởng và làm theo Lời dạy của Người.
Xin được trở lại với các bài đọc hôm nay: Bài đoc 1 (Cv 1, 1-11) tường thuật mầu nhiệm thăng thiên: Đức Giê-su Ki-tô dặn bảo các Tông đồ xong, thì Người được cất lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Tâm trạng các môn đệ hẳn nhiên là hoang mang lo sợ, bởi Người Thầy – mà cho đến giờ phút này các ông vẫn còn bán tín bán nghi (“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” – Mt 28, 17) – lại một lần nữa nói một cách khó hiểu. Vừa mới nói “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, thì ngay lập tức “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” Cái mâu thuẫn của hiện tượng này khiến các Tông đồ cứ mải miết “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”.
Tâm lý thông thường của con người là vậy, cũng chẳng có gì đáng trách. Sống bằng và sống với giác quan: phải nhìn thấy tỏ tường (thị giác), nghe thấy rõ ràng (thính giác), sờ mó cầm nắm được (xúc giác), biết được mặn nhạt (vị giác), ngửi được mùi hương (khứu giác). Do đó, Thầy vừa nói Thầy sẽ ở với mình cho đến ngày tận thế, thì ngay sau đó Thầy lại đi mất hút, bảo sao khỏi ngỡ ngàng, hụt hẫng, nếu không muốn nói là lo sợ, đau đớn, buồn rầu. Chính vì thế nên các ngài chỉ lo nhìn theo bóng Thầy, với tâm trạng vừa hoài nghi, vừa chán nản, chẳng còn tin tưởng vào đâu đựoc nữa. Niềm tin lại một lần nữa bị thử thách, quên mất những điều Thầy vừa truyền dạy. Cũng vì biết rõ con người là thế, nên Thiên Chúa đã phải sai thiên sứ đến cảnh tỉnh: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 11).
Người đời vẫn thường nói: Có tin thì mới theo và có theo thì mới biết tỏ tường để niềm tin được củng cố vững vàng hơn. Các Tông đồ đã tin vào Đức Giê-su Ki-tô nên khi được mời gọi thì lập tức đi theo, bỏ cả cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp. Cứ nhìn vào hình ảnh anh chàng thanh niên giàu có, thì đủ hiểu đức tin quan trọng như thế nào. Anh ta muốn theo Đức Ki-tô, nhưng vì vẫn chưa tin tưởng cho lắm nên khi nghe Người bảo về bán hết của cải chia cho người nghèo thì ỉu xìu như mèo bị cắt tai, bỏ đi một nước. Và vì thế “Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mt 19, 16-24).
Đến như các Tông đồ đã tin mới đi theo Thầy, vậy mà ròng rã 3 năm theo Thầy đi khắp đó đây, chứng kiến biết bao nhiêu việc làm và nhất là những phép lạ chứng tỏ Thầy là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, thậm chí còn tuyên xưng, còn đấm ngực thề không chối Thầy, vậy nhưng đến cơn thử thách thì lại hoài nghi, lại nửa tin nửa ngờ, lại chối Thầy tới 3 lần trong một đêm (Mc 14, 66-71). Hoá cho nên mới có vụ một Tô-ma khi nghe Thầy nói: “Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” thì thắc mắc liền: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 4-5). Thêm một Phi-líp-phê đặt một câu hỏi bộc lộ rõ tâm trạng chưa tin tưởng Thầy mình là Con Thiên Chúa, nên khi nghe Thầy nói: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” Phi-líp-phê mới thưa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” (Ga 14, 6-7).
Ở Việt Nam xưa có câu “nhìn lên chẳng bằng ai, nhìn xuống cũng còn chán vạn kẻ không bằng mình”, ý nói nhìn lên thì thấy thua kém nhiều người dễ sinh thất vọng, nhưng nhìn xuống thì lại được an ủi vì thấy còn nhiều người thua kém mình. Nòi cách khác, đây là một châm ngôn sống: Có nhìn lên thì cũng cần nhìn xuống. Nhìn lên thấy thua kém sẽ hun đúc chí tiến thủ (chớ đừng thất vọng), nhìn xuống để mà sống (tránh khỏi thất vọng). Nhưng nếu cứ nhìn lên hoài thì chắc chắn từ thất vọng sẽ đi tới tuyệt vọng, hết sống nổi; mà giả thử cứ nhìn xuống không thôi, thì sẽ trở thành tự kiêu tự mãn, rồi cũng không thoát khỏi tội đầu tiên trong 7 mối tội đầu (kiêu ngạo). Trường hợp các Tông đồ cứ mải miết nhìn lên mãi với nỗi thất vọng Thầy đã bỏ đi, thì liệu các ngài sẽ ra sao? Thiên sứ đã can thiệp đúng lúc, nhắc nhở các ngài đừng nhìn lên trời nữa mà hãy nhìn xuống (nơi các ngài đứng là trên đỉnh núi), để thấy được còn biết bao nhiêu sinh linh đang trông chờ được như các ngài (một cách khéo léo nhắc nhở các ngài nhớ lại Lời Thầy truyền dạy mà đến với muôn dân).
Rõ ràng là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Người được cất lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng như thế không có nghĩa là Người rời bỏ các môn đệ – những bạn hữu của Người – mà là “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nghe Lời dạy này, không phải chỉ các Tông đồ tiên khởi nghĩ rằng Chúa Giê-su sẽ ở cùng các ngài một cách cụ thể như thời gian trước khi bước vào cuộc khổ nạn; mà ngay đến cả chúng ta hiện nay cũng vẫn cho rằng đó chỉ là lời an ủi suông. Chúng ta đã quên mất một điều là khi suy niệm về Thánh Kinh, cần chú ý đến cả hai phương diện: “nghĩa chiểu tự” và “nghĩa thiêng liêng”. Trong “nghĩa thiêng liêng” lại cần chú ý đến “nghĩa ẩn dụ”, “nghĩa luân lý” và “nghĩa loại suy” (xc. Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” ” (1).
Vâng, hãy nhìn lên dõi theo con đường Giê-su, cố gắng hiểu cho được việc làm của Đức Ki-tô (nghĩa chiểu tự: biến cố “thăng thiên”); để từ đó tin vào mầu nhiệm cứu chuộc (nghĩa ẩn dụ) qua Lời Chúa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 1-4). Và hãy nhìn xuống bản thân mình cùng với anh em mình để mà thực thi sứ vụ do chính Người Thầy Chí Thánh truyền dạy trước khi về trời (nghĩa luân lý). Chỉ có như thế mới mong vươn tới cứu cánh Nước Trời (nghĩa loại suy) là mục đích cuối cùng của hành trình thực thi sứ vụ một Ki-tô hữu.
Tuy nhiên, cũng rất cần phải ghi nhớ lời dạy của ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI: “Như thế, muốn tái khám phá hành động qua lại giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh, điều chủ yếu là phải nắm chắc việc bước từ chữ viết qua tinh thần. Đây không phải là một bước tự động, tự phát; đúng hơn, cần phải vượt quá (transcended) chữ viết: “lời Chúa không bao giờ đơn thuần là một với chữ viết trong bản văn. Muốn nắm được lời của Người, phải có một sự vượt quá (chữ viết) và một diễn trình tìm hiểu, được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong của toàn bộ tác phẩm, và do đó, phải trở thành một diễn trình sống.” (“Tông huấn Lời Chúa”, mục “Cần phải vượt quá “chữ viết”). Như vậy, có thể nói mầu nhiệm thăng thiên nhắc nhở mọi Ki-tô hữu 2 điều: 1- Chúa Giê-su về trời – 2- Chúng ta phải làm sao để được về trời với Chúa, vì đấy mới là quê hương đích thực. Vâng, hãy nhìn lên và cầu nguyện để hiểu được mầu nhiệm thăng thiên, và hãy nhìn xuống để sống Lời Chúa cách cụ thể với mục đích tối hậu là chiếm hữu và giúp anh em cùng chiếm hữu Nước Trời. Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỉ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.
———————————
Chú thích: (1) Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, PHẦN MỘT: LỜI CHÚA – Mục “Nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng” (số 37) đã giải thích rõ ràng: “Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng thời các giáo phụ và thời trung cổ, mọi hình thức chú giải, kể cả hình thức chiểu tự, cũng đều được tiến hành trên căn bản đức tin, mà không nhất thiết phải phân biệt giữa nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng. Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria,/ Moralis quid agas, quo tendas anagogia” (Chữ đen nói tới việc làm; Ẩn dụ nói về đức tin; Luân lý nói tới hành động; Loại suy nói về số phận ta).” (xc thêm GL/HTCG số 115, 116 và 117).
.
LOAN BÁO TIN MỪNG CHO HỘI THÁNH
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mc 16,15-20.
(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”. (17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này cũng được mạnh khỏe. (19) Nói xong, Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
- Ý CHÍNH:
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông đồ tiếp tục sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, để ai tin và chịu phép rửa thì được trở nên con Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu độ của Chúa Giê-su. Còn những kẻ không tin thì sẽ bị kết án là bị loại khỏi Nước Trời. Chúa còn hứa hỗ trợ các tông đồ bằng việc ban quyền làm phép lạ Sau đó Chúa Giê-su đã được rước lên trời. Còn các Tông đồ thì đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi với sự trợ giúp của Người.
- CHÚ THÍCH:
– C 15-16: +Anh em hãy đi: Lệnh truyền này chỉ được công bố sau biến cố Phục Sinh cho thấy: mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. +Khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người lại trao sứ mạng phổ quát “loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. +Loan báo Tin Mừng: Theo Hy ngữ, Tin Mừng ( Eu-ag-ge-li-on) là một “tin vui, tin mừng”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một là “chính Tin Mừng được Đức Giê-su công bố. Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người. +Cho mọi loài thọ tạo: Mọi loài thọ tạo mang ý nghĩa cánh chung, nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa sẽ biến đổi mọi tạo vật nên Trời Mới Đất Mới vào ngày Tận Thế (x. Kh 21,1). +Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép Rửa là nhận ơn tha tội và ơn tái sinh để nên con người mới và nên dưỡng tử của Thiên Chúa. Nhờ đó họ sẽ được sống đời đời.+ Còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Nhưng kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su, nên bị khô héo và sẽ bị quăng vào lửa hỏa ngục đời đời (x. Ga 15,5-6). +Còn những người không tin Đức Giê-su nhưng không do lỗi của họ thì có được ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh hồn. Chỉ những kẻ cố tình theo phe ma quỷ làm điều gian ác và không chịu hồi tâm sám hối thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục. Vì hỏa ngục được lập ra để dành cho ma quỷ và những kẻ đi theo chúng (x. Mt 25,41).
– C 17-18: +Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Đức Giê-su lại trao quyền làm các dấu lạ cho các ông. +Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm 65), Thánh Mác-cô đã nghe biết các phép lạ do các Tông đồ thực hiện. Chẳng hạn: Vào lễ Ngũ Tuần, các ông đã được đầy ơn Thánh Thần, bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống trên gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông đồ (x. Cv 5,12). Tông đồ Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). Còn tông đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Lýt-ra (x. Cv 14,8-10); Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay và cắn mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo ông đã mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
– C 19-20: +Chúa Giê-su được rước lên trời: Như Ê-li-a thời Cựu Ước đã “lên trời trong cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác Chúa Giê-su cũng được rước lên trời trên các tầng mây, và từ nay Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa. +Và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh (x Đn 7,13-14), được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18; Ep 1,21-22).
+ Thiên Đàng là gì? Thiên Đàng ở đâu? Ta phải làm gì để được lên Thiên Đàng?:
** Thiên Đàng hay Địa Đàng (Hy ngữ là Pa-ra-dei-sos) có nghĩa là Hoa viên hay vườn đầy hoa tươi cỏ lạ (x St 2,8). Địa đàng là một khu vườn hoan lạc nơi mà con người được sống trong hạnh phúc. Nhưng nguyên tổ lòai người là ông Ađam và bà Evà đã liên kết với nhau phạm tội kiêu ngạo, cãi lệnh Chúa mà ăn quả cây bị cấm, nên hai ông bà đã bị đuổi ra khỏi Địa đàng, bị lọt vào trần gian là thung lũng đầy nước mắt, gai góc và đau khổ (x. St 3,7.16-19). Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến khôi phục lại tình trạng nguyên thủy cho con người (x. St 3,15). Ngài sẽ biến nơi đau khổ lưu đầy này thành Thiên đàng hoan lạc và hạnh phúc như thuở ban đầu (x. Ed 36,35 ; Is 51,3).
+ Ra đi rao giảng khắp nơi: Các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giê-su, đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). + Có Chúa cùng hoạt động với các ông…: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Người ban Thánh Thần cho Hội thánh để tha tội cho người ta giống như Người đã làm (x Ga 20,21-22). Người cũng hứa ban cho Hội thánh làm được những việc lớn hơn Người là đi rao giảng cho các dân tộc nhờ Thánh Thần (Ga 14,12).
- CÂU HỎI: 1) Mầu nhiệm Phục Sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mệnh được sai đi? Các Tông đồ được Chúa sai đến với những ai? 2) Tin Mừng Đức Giê-su có những nghĩa nào? 3) Phải có những điều kiện nào để được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su? 4) Những ai chắc chắn sẽ bị kết án sa hỏa ngục? Những người chưa có đức tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành có được hưởng ơn cứu độ không? 5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông những quyền nào? 6) Trước khi về trời, Đức Giê-su đã trao sứ mệnh loan Tin Mừng cho các Tông đồ kèm theo những dấu lạ nào? 7) Lời Chúa phán về các dấu lạ kèm theo lời rao giảng của các Tông đồ đã ứng nghiệm thế nào thời Giáo Hội Sơ Khai? 8) Thời Cựu Ước, ngôn sứ nào được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Chúa Giê-su thăng thiên khác với việc mông triệu của Đức Ma-ri-a ra sao? 9) Một người lương dân luôn ăn ngay ở lành mà chết thì có được hưởng ơn cứu độ không? 10) So sánh lời Chúa Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”(x Mt 28,19) với Lời Chúa được ghi trong sách Công Vụ “Hãy nên chứng nhân của Thầy…” (x Cv 1,8) giống và khác nhau ra sao? 11) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su còn ở với Hội thánh nữa không? 12) Từ đây, Chúa Thánh Thần được ban cho Hội thánh để làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Chúa Giê-su được rước lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19):
- CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA NIỀM TIN VÀO MỘT CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG ĐỜI SAU:
Một vị Tù trưởng của một bộ tộc Phi Châu đau nặng gần chết. Ông cho gọi ba người con có khả năng nắm giữ chức vụ tù trưởng của ông đến bên giường và nói:
– Một trong ba người chúng con sẽ kế vị ta. Để biết xem ai xứng đáng, các con hãy lên đỉnh núi thiêng của bộ tộc chúng ta tìm mang về một linh vật nào quý giá nhất.
Mấy ngày sau người con thứ nhất trở về mang theo một bức tượng bằng vàng ròng.
Người con thứ hai cũng mang về một viên ngọc to quý có giá trị lớn.
Còn người con thứ ba thì trở về với hai bàn tay không.
Ngạc nhiên, viên tù trưởng hỏi anh ta: “Linh vật quý giá nhất con mang về đâu?”
Anh ta bình tĩnh trả lời:
– Thưa cha. Khi leo lên tới đỉnh núi thiêng và đi tìm kiếm báu vật như cha căn dặn, thì con đã khám phá ra phía sau rặng núi thiêng có một rặng núi khác. Con vượt qua thì đã tìm thấy một miền đất mới rất phì nhiêu mầu mỡ, có suối nước trong, cây cỏ xanh tươi với nhiều loài thú sinh sống. Theo con nghĩ nếu bộ tộc chúng ta sống ở miền đất này thì sẽ trở nên hùng cường.
Nghe vậy viên tù trưởng rất vui và nói:
– Cha rất mừng khi đã tìm ra người thừa kế chức vị tù trưởng bộ tộc là con. Con đã đem về cho chúng ta báu vật vô giá chính là niềm hy vọng vào một tương lại tươi đẹp về một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Không ai biết trước cuộc sống của mình ra sao sau khi chết. Chỉ mình Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, mới mạc khải cho chúng ta biết quê hương thực sự của chúng ta là nước trời đời sau: Một Trời mới Đất mới như sau: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” (Kh 21,1-4).
2) THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?
Ngày 5-9-1961, Liên Xô đã phóng một phi thuyền mang theo một người lên không gian và bay được ba vòng chung quanh trái đất. Sau đó trong một cuộc phỏng vấn, Tổng Bí thư Krouchev đã nói với ký giả của tờ New York Time của Mỹ như sau: ” Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung là: YOURI GARARINE. Anh ta đã đi vòng quanh quả địa cầu mà chỉ trông thấy những bóng đen dầy đặc, không thấy Thiên đàng ở đâu cả. Sau đó chúng tôi lại gửi một thám tử khác lên: GERMAN TITOV. Chúng tôi đã bảo anh ta: “Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa thấy Thiên đàng vì chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho kỹ”. Titov đã trẩy đi, rồi trở về và anh xác nhận lời tuyên bố của Gagarine là sự thật: “Hư vô! Chỉ có Hư vô!” Rồi sau đó Krouchev kết luận: “Vì thế chúng tôi không tin có đời sau”.
Đó là cái nhìn của một người vô tín theo chủ nghĩa duy vật. Cái nhìn đó không phải là cái nhìn của người có đức tin như chúng ta.
Trong kinh Tin Kính các tín hữu chúng ta cũng tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su và cuộc sống Thiên đàng, về một Nước Trời hằng sống như sau: “Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”.
3) THIÊN ĐÀNG Ở NGAY TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƯỜNG:
Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này! hay “Ở kia kìa! , vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17,20-21).
Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trời đất gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường. Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mở ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.
4) TRUYỀN GIÁO LÀ THẮP LÊN NGON ĐÈN YÊU THƯƠNG TRONG LÒNG NGƯỜI:
Mẹ Têrêxa Can-quýt-ta vốn là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy những người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ờ ngoài lề đường. Sau khi chết xác liền bị quẳng vào đống rác như một con vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình sống chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người sống đói khát không đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày. Mẹ Tê-rê-sa đã lăn xả vào việc phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: “Ô, cây đèn đẹp quá”. Ông già nói: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa”. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa liền đề nghị: “Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không?” Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn cháy sáng ấm áp trong căn lều. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đến thăm mọi người và được mọi người đến thăm. Cuộc đời của ông đã vui trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng và mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ đi soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận ra nhau là anh em.
- SUY NIỆM:
1) Đức Giê-su nhiều lần nói đến trời cao: Trời hay Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Chẳng hạn : Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện với Thiên Chúa Cha là Đấng ngự trên trời (x. Mt 6,9) ; Người cũng dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16.45).
2) Đức Giêsu đã từ trời mà đến: Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống để rồi lại trở về trời (x. Ga 3,13 ; 6,62). Người là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, là bánh đem lại sự sống cho thế gian (Ga 6,33).
3) Đức Giê-su đã được rước lên trời: Sau khi sống lại, Đức Giê-su tuyên bố Người đã được ban “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (x. Mt 28,18), “Người là vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (x. Dt 7,26), và đã vào chính cõi trời, để giờ đây đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt 9,25). Qua hình ảnh được rước lên trời, Chúa Phục Sinh sẽ không còn hiện ra với các tông đồ như trong thời gian 40 ngày qua. Từ đây, Người sẽ hiện diện cách thiêng liêng, không bị lệ thuộc vào thời gian và không gian như Người đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
4) Niềm hy vọng lên Trời của chúng ta: Chúa Giê-su lên trời là để dọn chỗ cho các môn đệ và Người sẽ trở lại lần thứ hai để đem họ về với Người (x. Ga 14,2-3). Thiên đàng là nơi trú ngụ của Thiên Chúa mà thánh Phao-lô đã cảm thấy vui thoả khi được chiêm ngắm những thực tại khôn tả (x 2 Cr 12,4); Là Vương Quốc dành cho những người công chính được hưởng hạnh phúc muôn đời (x. Mt 25,34.46). Đây là Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập ở trần gian và sẽ phát triển cho tới tầm mức viên mãn vào ngày Tận Thế khi Người tái lâm, trở lại lần thứ hai trong uy quyền vinh quang. Thiên Đàng còn là nơi dành cho tội nhân có đức tin vào Chúa Giê-su và có lòng sám hối cậy trông vào lòng thương xót của Đức Giê-su, như kẻ trộm lành cùng chịu chết với Chúa trên cây thập giá khi xưa (x. Lc 23,43).
5) Để được vào Thiên đàng với Đức Giê-su sau này, các tín hữu phải làm gì ngay từ hôm nay?
-MỘT là tin Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và được tái sinh bởi nước và Thánh Thần trong phép rửa tội.
-HAI là phải ăn năn sám hối tội lỗi, từ bỏ các đam mê bất chính và quyết tâm chừa cải các thói hư tật xấu.
-BA là phải sống giới răn yêu thương là mến Chúa yêu người bằng cách năng nghĩ đến tha nhân, khiêm tốn phục vụ, quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người bệnh tật nghèo đói để trở nên môn đệ đích thực của Đức Giê-su.
-BỐN là phải đi con đường hẹp và leo dốc, từ bỏ ý riêng mình để vâng phục ý Thiên Chúa, sẵn sàng vác thập giá là các tai nạn gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
-NĂM là phải biết dùng của cải vật chất Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân hầu mua lấy Nước Trời đời sau.
-SÁU là phải chu toàn sứ mệnh tông đồ truyền giáo, nghĩa là làm chứng cho Chúa bằng đời sống gương sáng ngay từ trong gia đình và ra ngoài xã hội.
- NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng con mừng đại lễ Thăng Thiên. Chúng con thật vui mừng và hãnh diện tuyên xưng Chúa chính là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa. Chúa lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa để mở đường về trời cho chúng con, để dọn chỗ cho chúng con và đến ngày tận thế Chúa sẽ trở lại để đem chúng con lên trời với Chúa. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Quê hương chúng con ở trên trời, nơi đó chúng con sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con”, để dù đang sống giữa thế gian, nhưng chúng con không thuộc về trần gian. Xin cho chúng con biết dùng của cải đời này để sắm cho mình kho báu thiêng liêng trên trời, bằng việc chia sẻ cơm bánh cho những người đói khát, quần áo cho những kẻ rách rưới, chữa lành các bệnh nhân đau liệt, thăm viếng an ủi những người đau khổ thể xác cũng như tâm hồn, giúp tội nhân ăn năn sám hối trở về với Chúa… như kinh “thương người” đã dạy.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Tuần này, cùng với mọi người sống trên đất nước Hoa kỳ này, chúng ta mừng Ngày Hiền Mẫu hay Ngày Của Mẹ. Một ngày thật đặc biệt để ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục “bao la như biển Thái bình” của người mẹ trong gia đình. Xin chân thành chúc mừng những người mẹ hiện diện trong nhà thờ hôm nay một ngày thật vui. Xin Chúa, qua lời cầu bầu của Hiền Mẫu Maria và Thánh cả Giuse, ban nhiều ơn lành xuống cho tất cả các bà mẹ.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hay còn gọi là lễ Chúa Thăng Thiên. Sau khi đã hoàn tất sứ mệnh cứu chuộc nhân loại mà Thiên Chúa Cha đã trao phó, và sau khi đã trao sứ mệnh này lại cho các môn đệ tiếp tục như chúng ta nghe trong bài Tin mừng, Chúa Giê-su từ biệt họ lên trời trở về Thiên Đàng với Thiên Chúa Cha.
Sách Tông đồ Công vụ diễn tả sự kiện lên trời của Chúa một cách linh động và có thể hình dung một cách dễ dàng, nhưng không làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn, đó là biết được sự gì xảy ra sau khi “đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.” Đám mây cho chúng ta biết sự thăng thiên còn có những sự kiện mà bây giờ chúng ta chưa hiểu biết, lãnh hội hết được. Thật vậy, Lời Chúa luôn chứa đựng nhiều việc lạ lùng, nhiều mầu nhiệm cho đến khi chúng ta tự đối diện, tự chứng kiến và kinh nghiệm. Nhưng những thư của thánh Phao-lô và các sách khác trong Tân ước đã cố gắng diễn tả nhiều lần cho chúng ta biết những gì sau đám mây đó. Thí dụ Bài đọc hai hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su được Thiên Chúa Cha “đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau.” Có nghĩa là Chúa Giê-su cao trọng nhất và trên hết mọi loài. Dù là Con Thiên Chúa và là một con người nhưng Chúa Giê-su đang ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang đời đời. Sự vinh quang hạnh phúc vĩnh cửu này vượt trên hết mọi sự mà chúng ta chứng kiến ở đời này và hy vọng sẽ được chia sẻ với Ngài đời sau trên Thiên đàng.
Sự kiện Chúa lên trời củng cố niềm xác tín của chúng ta về Quê Trời, Nước Chúa hay Thiên đàng và cũng là ước mơ của người Ki-tô hữu chúng ta. Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta Thiên đàng là phần thưởng Chúa Cha dành cho người công chính. Vì thế, ngày lễ hôm nay không những mừng kỷ niệm Chúa Giêsu lên trời mà còn nhắc nhở chúng ta về hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên đàng. Để được hưởng hạnh phúc Thiên đàng, chúng ta cần phải chuẩn bị hành trang. Hành trang đó được thể hiện qua những việc làm cụ thể sau đây.
Thứ nhất, chúng ta phải luôn sống gắn bó với Chúa. Mặc dầu Chúa Giêsu đã lên Trời nhưng Ngài vẫn ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúa hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau. Ngài hiện diện qua Giáo hội nơi các vị đại diện của Ngài ở trần gian, đó là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, các linh mục. Chúa hiện diện qua Lời Chúa được viết lại trong cuốn Kinh Thánh. Trong Thánh lễ, chúng ta đọc và suy niệm Lời Chúa. Lời Chúa là sự sống và là ánh đèn soi hành trình đức tin của chúng ta về Quê Trời. Chúa hiện diện qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể để chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa, và để Chúa ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Ngài. Chúa hiện diện qua những người nghèo khó. Ngài hiện diện khi chúng ta họp nhau cầu nguyện và thờ phượng. Vì thế, muốn được hưởng hạnh phúc Thiên đàng, chúng ta cần phải sống gắn bó với Chúa, gặp gỡ Chúa.
Thứ hai, chúng ta phải biết chu toàn bổn phận Ki-tô hữu như làm gương sáng, hy sinh phục vụ và quảng đại để xây dựng và làm sáng danh Chúa và để Nước Chúa lan rộng khắp nơi. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Người Tôi Tớ của Chúa, đã nói: “Bổn phận là giấy ‘thông hành’ để vào được Nước Trời” (ĐHV Số 27).
Thứ ba, chúng ta phải biết loan báo Tin mừng.Trước khi về trời, Chúa Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15). Chúng ta loan báo Tin mừng bằng đời sống chứng tá của mình, trung thành với đức tin, với Giáo hội, với ơn kêu gọi, và can đảm sống giáo huấn Lời Chúa và Giáo hội dù phải hy sinh, chịu thiệt thòi và đau khổ.
Thứ tư, chúng ta phải sống bác ái yêu thương. Vì trong ngày phán xét, mỗi người chúng ta sẽ chịu phán xét về bổn phận yêu thương. Vị Thẩm phán sẽ dựa vào việc chúng ta làm hay không làm đối với những kẻ bé mọn để thưởng hay phạt chúng ta. Ngài đồng hóa Ngài với những kẻ bé mọn.
Nếu chúng ta biết chuẩn bị như thế, hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời sẽ ở trong tầm tay của chúng ta. Ngược lại, nếu không biết chuẩn bị thì chúng ta có nguy cơ mất hạnh phúc Nước Trời.
Có câu truyện được kể sau đây. Một thương gia giàu có, đầy quyền thế danh vọng bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Công nhân và thân nhân ai nấy đều bỡ ngỡ và rất xúc động. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của thương gia giàu có này. Nhân công tranh cãi và thắc mắc hỏi nhau: “Ông chủ sẽ đi về đâu?” Mấy người nói: “Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.” Người tổng giám đốc thì nói: “Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời” Tất cả mọi nhân công đều ngạc nhiên hỏi: “Làm sao ông tổng giám đốc biết là ông chủ không lên trời?” Ông tổng giám đốc trả lời: “Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước, thành phố hay chỗ sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình đề cập hay nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!”
Thái độ thiếu khôn ngoan, lạnh nhạt và thờ ơ của người thương gia giàu có trong câu chuyện trên đây cũng có thể là thái độ của mỗi người chúng ta. Chuáng ta chuẩn bị thật nhiều tiền, thời giờ để đi du lịch, nghỉ hè ở những nơi đẹp, tiện nghi và thoải mái. Vậy trong ngày lễ hôm nay mỗi người chúng ta tự hỏi: “Tôi có bao giờ nói, đề cập đến hay nghĩ gì về Thiên đàng, Nước Trời không?” “Thiên Đàng có phải là niềm ước mơ của tôi không?” “Tôi có chuẩn bị gì không?”
Chúa Giê-su về trời sau khi đã chu toàn sứ vụ trần thế. Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết chuẩn bị cho hạnh phúc Nước Trời bằng cách chu toàn những bổn phận của mình, nhất là bổn phận loan báo Tin mừng.
Một lần nữa, xin chúc tất cả các bà mẹ, trong Ngày Của Mẹ hôm nay, một ngày thật vui mừng và tràn đầy ơn lành của Chúa.
.