Các bài suy niệm Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên _A

1004

LỄ CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI

Lời Chúa: Cv 1, 1-11;  Ep 1, 17- 23;  Mt 28, 16-20

———

Mục lục

  1. Thầy Ở Cùng Các Con(Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2. Lời Hứa Của Thiên Chúa (Thiên San, MTG. Thủ Đức)
  3. Về trời lãnh triều thiên (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
  4. Đường về trời  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  5. Chúa về trời  (Jorathe Nắng Tím)
  6. Thầy ở với anh em  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  7. Mệnh lệnh yêu thương (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)
  8. Chúa lên trời đem hy vọng cho thế giới  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
  9. Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế  (Lm. Trần Bình Trọng)
  10. Điều kiện để thông truyền Lời Chúa  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
  11. Chúa Giêsu Kitô trở về trời  (Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
  12. Về quê  (Trầm Thiên Thu)
  13. Quê hương chúng ta ở nơi Đức Kitô (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  14. Quê thật trên trời  (Pr. Lê Hoàng Nam, SJ)
  15. Sao còn đứng nhìn trời  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

 

Mục lục

1. Chứng nhân của niềm vui (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Niềm hy vọng Nước Trời (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chúa Lên Trời, ta hãy mến yêu những sự trên trời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Cuộc trao ban  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

5. Ái mộ những sự trên trời (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

6. Ái mộ những sự trên trời- (PM. Cao Huy Hoàng)

7. Lễ Chúa Giêsu Lên Trời  (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

8. Hãy đi loan báo Tin mừng (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

9. Khai mở trang sử mới của Giáo hội  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

10. Sứ mạng truyền giáo của Giáo hội  (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

11. Hạnh phúc khi chia tay (Trầm Thiên Thu)

12. Suy niệm Lễ Chúa Thăng Thiên. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)

13. Truyền thống cổ võ nền văn hóa gặp gỡ  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

14. Chúa về Trời – Con vào đời  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

15. Hiệp nhất trong tin yêu (JM. Lam Thy, ĐVD)

16. Chốn quê mình ở đâu? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

17. Lễ Chúa Giêsu Lên Trời-  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

18. Trao quyền (Lm. Vũ Đình Tường)

19. Cùng loan Tin mừng với Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

20. Thiên tính của Chúa Giêsu  (P.Trần Đình Phan Tiến)

21. Hạnh phúc đời đời (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

22. Chúa về trời và sứ mạng của Giáo hội  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

23. Kết thúc là khởi đầu  (Lm. Giuse Nguyễn)

24. Hãy nên chứng nhân của Thầy (Lm. Đan Vinh – HHTM)

25. Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Lên Trời_A (Lm. Antôn)

THẦY Ở CÙNG CÁC CON

Chúa Thăng Thiên-A: Mt 28, 16-20

Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Mắt ngọc da ngà, mặt tươi như hoa: đó là nét đẹp trời phú, là của trời cho, từ xa xưa vẫn quan niệm như thế. Có công mài sắt có ngày nên kim. Dốt đến đâu, học lâu cũng biết. Cha ông ta thật tài tình, đã để lại cho hậu thế nhiều lời hay ý đẹp, có vần có điệu, trước cuộc sống đầy thách đố: tự do và chọn lựa nơi mỗi người. Mơ ước tài giỏi đức độ, thao thức trở nên người hữu ích, làm rạng danh gia đình, dòng tộc, dù ta đã nghe: hãy vui với phận mình, càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan. Ít nhiều gì, xung quanh ta vẫn có người hân hoan vì cầu được ước thấy, có người ở hoàn cảnh buồn chán, thất vọng: trâu trắng đi đến đâu mất mùa đến đó ! Ngoài số vốn tự nhiên ta có, kinh nghiệm còn mách bảo phải phối hợp, đầu tư, khoẻ dùng sức yếu dùng mưu: tâm trí khôn ngoan, con tim cháy bỏng yêu thương.

Để niềm vui ơn cứu độ đến khắp muôn nơi, Đấng phục sinh quy tụ các học trò, khai mở cho các ông về giá trị thật của tình yêu, niềm tin, tình hiệp thông cầu nguyện, dù khái niệm kẻ chết sống lại ai cũng lờ mờ. Bằng sự khôn ngoan ở đời, người ta sẽ nói ông Giêsu quả là với vẩn, hẹn gặp các học trò, song chẳng hỏi han tình hình, chẳng có ý gì là báo thù, phục quốc, không chỉ cách làm phép lạ, hay hé mớ tí gì về sự chết và sống lại ! Bằng niềm tin yêu, các học trò đã nghe điều cần thiết: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy…”. Tin, yêu, mới là khởi đầu cho ơn gọi theo Thầy và sống sứ vụ được ban: “các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…”. Khi chưa biết Chúa, chưa yêu Chúa, người ta nói: sinh tử có số, phú quý do trời. Khi gặp Chúa, tin Chúa, yêu Chúa, người ta sẽ hiểu, tại sao cần phải trở nên môn đệ, phải tuân thủ và sống sứ mạng yêu thương.

“Thầy ở cùng các con”, chính là niềm tin, là câu trả lời cho những thắc mắc, khó hiểu: tại sao Thầy không xuống khỏi thập giá, tại sao không thực thi công lý báo thù ? “Thầy ở cùng các con”, chính là sự hiện diện, là sự khôn ngoan, là sức mạnh của tình yêu, đúng, đẹp, với thánh ý Chúa Cha. Con người giới hạn vẫn cho rằng: sự nóng giận là bản năng, nhưng kiểm soát được nóng giận mới là bản lĩnh. Biết tỉnh thức, bình tĩnh, cảnh giác trước mọi tình huống, đó là khôn ngoan, nhưng biết quảng đại tha thứ, dám dấn thân vì tình yêu, mới đáng gọi là hiền nhân quân tử. Biết đích điểm tình yêu của Đấng phục sinh, là sống hiệp thông, là Thầy ở đâu trò ở đó, nghĩa là không phải chỉ có bản lĩnh, hay được gọi là quân tử, mà phải là chứng nhân của Tin mừng phục sinh.

“Thầy ở cùng các con”, đó là tin mừng, tin vui, được chia sẻ: Thầy chiến thắng đau khổ, sự chết, tất cả những ai tin Thầy, theo Thầy, cũng sẽ tìm thấy sự sống đời đời. “Mọi quyền năng trên trời dưới đất được ban cho Thầy, sự hiện diện của Đấng sống lại từ cõi chết, vẫn đang mở ra cho nhân loại một chân lý: thù hận không thể kết thúc, nếu tiếp tục hận thù báo oán, thù hận chỉ kết thúc khi tình yêu xuất hiện. Đấng phục sinh ở cùng các môn đệ, chia sẻ tình yêu, nhiệt huyết tông đồ, và sứ mạng loan báo tin mừng, nhân danh Ba Ngôi, đó là mầu nhiệm cứu độ sống động nhất nơi đức tin Kitô giáo. Trong đời sống tự nhiên, ai cũng phải học, phải hành, ai cũng có kinh nghiệm: mật ngọt chết ruồi. Trong tương quan yêu thương, niềm tin và tình hiệp thông, chính là sức mạnh của Đấng phục sinh đang biến đổi và liên kết mọi tâm hồn.

“Thầy ở cùng các con”, cũng là lời trấn an, là sự can thiệp cần thiết cho tất cả những ai có sự kết hiệp, cầu nguyện, với Đấng là Thầy là Chúa, là Đấng cứu độ: “mọi quyền năng đã được ban cho Thầy”. Không Tử dạy các học trò: làm việc đừng mong mọi việc suông sẻ, dễ thành công, vì sự việc dễ thành công, người ta cũng dễ sinh kiêu ngạo. Đấng phục sinh thì lưu ý các môn đệ về sự vâng phục đức tin: “hãy đi rao giảng cho muôn dân, hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Hạnh phúc sẽ chẳng tồn tại, và không bao giờ đến, với người không biết quý trọng những gì mình đang có. Sự sống đời đời, không thể đến với những ai tự phụ, cậy vào sức mình; Đức Giêsu đã từng nhắc nhớ về sự liên đới hiệp thông: “không có Thầy, các con không thể làm gì được. (Ga 15, 5)

Người ta có kể truyện ngụ ngôn “công lý báo thù” như sau: đàn vịt và đàn gà ăn chung một sân, vịt mẹ tấn công gà con, gà mẹ cũng trả thù là mổ lại vịt con ! Trong khi vịt con, gà con, cứ cạp cạp và chíp chíp, không biết phải né tránh cách nào, trước sự thù hận của vịt mẹ, gà mẹ. Mãi cho tới khi đầu gà con và đầu vịt con chày chụa, chúng mới hiểu đâu là:“hạnh phúc thật”, đâu là “công lý yêu thương”. Chỉ khi biết sống quảng đại, người ta mới nhận ra lý lẽ của yêu thương. Mỗi người có tự do để chọn lựa, để tin Đấng phục sinh đang hiện diện, đang mời gọi hãy tuân giữ và sống giới luật yêu thương. “Thầy ở cùng các con”, Thầy không muốn chúng ta bầm dập chầy chụa như chú gà chú vịt. “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, hãy tin và hãy sống niềm tin vì được Thầy yêu thương, hãy thực thi đức ái, hãy khao khát được sự sống đời đời với Thầy Giêsu. Amen.

Về mục lục

LỜI HỨA CỦA THIÊN CHÚA

Thiên San, MTG. Thủ Đức

Lịch sử cứu độ mở ra cho ta cái nhìn về dung mạo của Thiên Chúa. Từ khởi thủy, Thiên Chúa tạo dựng muôn loài muôn vật, con người  trong tình yêu thương vô vàn. Cả khi con người sa ngã phạm tội, Người cũng một lòng yêu thương. Người hứa sẽ ban Đấng cứu độ đến cho nhân loại. Hết lần này đến lần khác, Thiên Chúa bày tỏ tình yêu thương của Người cho nhân loại khi thực hiện lời hứa của Ngài. Đến thời viên mãn, Đấng cứu độ đã được ban cho nhân loại – Đức Giêsu Kitô. Người chính là Lời Hứa Cứu Độ.

Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người ở giữa nhân loại. Người rảo qua các làng mạc rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng. Người đi tới đâu là thi ân giáng phúc tới đó. Sau cùng, Người đã chịu chết trên cây thánh giá để làm giá chuộc tội cho nhân loại. Ba ngày sau, Người đã phục sinh như lời đã hứa. Sau đó, Người đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ và với đám đông dân chúng (x.1Cr 15, 1-8). Người đã lên trời trước sự chứng kiến của các môn đệ. Trước khi về trời, Người sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng, làm cho muôn dân trở thành môn đệ và đặc biệt Người đã để lại một lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).

Khi yêu nhau, ai mà chẳng muốn ở gần nhau. Thiên Chúa đến với nhân loại cũng bởi tình yêu. Hay nói đúng hơn, Thiên Chúa là tình yêu. Một Thiên Chúa vì yêu nên đi bước trước, vì yêu nên hiến thân mình làm giá chuộc tội, vì yêu mà ở với con người luôn mãi. Thiên Chúa trong Cựu Ước có vẻ còn xa với dân. Người phán với dân qua Môsê, qua các ngôn sứ. Thời Tân Ước, Thiên Chúa đã thực hiện một bước tiến thật xa, thu hẹp khoảng cách của mình với loài người khi ban cho nhân loại Con Một yêu dấu, Đức Giêsu Kitô. Người đã từ trời xuống ở với con người, chung chia kiếp người. Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hòa mình với nhân loại, sống với nhân loại. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2, 6).

“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Sau khi lên trời, tưởng chừng như Đức Giêsu đã chẳng còn ở với nhân loại, các môn đệ hết cơ hội gặp Thầy, nhưng lời hứa của Thầy Giêsu vẫn còn đó. Vậy Người ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế bằng cách nào? Một sự thật là cho đến nay, chúng ta, thế hệ con cháu đã chẳng còn được thấy Đức Giêsu như các môn đệ ngày xưa. Nhưng như đã hứa, sau khi về cùng Cha, Đức Giêsu đã ban Đấng Bảo Trợ đến với Hội Thánh. Nhờ Chúa Thánh Thần, đầu tiên là các môn đệ rồi đến chúng ta đã hăng hái ra đi mở rộng nước Chúa, làm cho muôn dân nhận biết Chúa. Có Chúa Thánh Thần ở cùng Hội thánh, chúng ta được đổi mới, được lớn lên, mạnh mẽ. Tuyệt vời trong sáng kiến tình yêu, Đức Giêsu đã ở lại với từng người chúng ta trong Bí tích Thánh Thể. Cho đến nay, lời hứa ấy vẫn được thực hiện.

Thiên Chúa luôn tỏ ra Ngài là Đấng trung tín. Ngài ban lời hứa và thực thi lời hứa đến cùng. Ngay từ đầu, Thiên Chúa Ba Ngôi đã ở với nhân loại. “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.” (St 1, 26). Ý định ấy khởi đi từ tình yêu của Ba Ngôi. Khi Đức Giêsu- Lời Hứa Cứu Độ đến với nhân loại, Người đã hòa mình, sống cùng, sống với nhân loại và chết cho từng người chúng ta. Người đã Ban Đấng Bào Chữa là Thánh Thần Thiên Chúa cho Hội Thánh để Người dẫn Hội thánh đến sự thật toàn vẹn. Cũng nhờ Thánh Thần Thiên Chúa, chúng ta tiếp nối sứ mạng Chúa trao trong từng ngày sống với tình yêu, nhận biết mọi người là anh chị em của nhau. “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” chưa bao giờ là lời hứa viển vông. Trong Bí tích Thánh Thể, nơi Lời và trong Chúa Thánh Thần, chúng ta nhận thấy sự hiện diện ở cùng của Thiên Chúa Ba Ngôi với nhân loại.

Chúa Giêsu ở trong Hội thánh, trong từng người chúng ta vì Người chính là Đầu còn chúng ta là chi thể. Đầu và chi thể hợp thành một thân thể duy nhất. Trong thân thể duy nhất ấy, chúng ta được mời gọi liên kết với nhau, nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong anh chị em. Quả là một thách đố cho ta khi ta được mời gọi nhìn thấy sự hiện của Chúa nơi những con người mỏng dòn yếu đuối, còn đó những cái khó thương. Quả thực, ta sẽ chẳng thấy khó khăn mấy khi nhìn thấy sự hiện diện của Chúa nơi những người ta yêu thương, quý mến. Nhưng sẽ thật khó để nhìn thấy Chúa nơi những người khó ưa, nơi một người chồng say xỉn, nơi một người vợ cờ bạc. Thật dễ  hiểu khi không ít lần ta hỏi Ngài: “Lạy Chúa! Chúa có ở trong những người này?”. Có. Bởi Chúa đến để ở cùng và ở với nhân loại, cứu những gì đã mất, cứu chữa những người tội lỗi. Điều chúng ta cần làm là mở lòng ra đón nhận, yêu thương và tha thứ, tôn trọng những con người khốn cùng đó. Chúa ở đó trong họ.Thiên Chúa tình yêu vẫn ở cùng nhân loại cho đến tận thế. Nếu ai trong chúng ta còn nghi ngờ về sự hiện diện của Ngài là bởi chúng ta còn chưa tin đủ, chưa gắn kết đủ với Ngài.

Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa vì tình yêu Chúa dành cho chúng con. Xin Chúa giúp chúng con mỗi ngày biết nhìn thấy sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa nơi cuộc đời này. Chúa đã chẳng bỏ chúng con mồ côi. Chúa ban Thánh Thần hướng dẫn chúng con, Chúa ban chính Mình và Máu Thánh Ngài cùng Lời hằng sống nuôi dưỡng chúng con. Chúa là Đầu để chúng con được là chi thể và Chúa là Cây để chúng con được là cành. Chúa và chúng con luôn liên kết với nhau, ở trong nhau. Xin giúp chúng con nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng dấu chỉ. Đặc biệt, xin giúp chúng con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi anh chị em để chúng con biết yêu thương, đón nhận, tôn trọng và tha thứ cho nhau. Chúng con tin rằng Chúa là Đấng tín trung, Ngài luôn giữ lời hứa. Amen.

Về mục lục

VỀ TRỜI LÃNH TRIỀU THIÊN

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền 

Nếu dịch cúm Vũ Hán chấm dứt hoàn toàn thì tôi nghĩ nhân loại phải có ngày tôn vinh các bác sỹ và nhân viên y tế. Họ là những con người đã hy sinh gác lại mọi sự riêng tư để ngày đêm chăm sóc bệnh nhân, dầu phải xa gia đình trong thời gian dài.

Họ là những thiên thần áo trắng đứng ở tuyến đầu phải chiến đấu với thần chết để bảo vệ các bệnh nhân của mình.

Họ là những thiên thần áo trắng phải hy sinh bản thân mình để bệnh nhân được sống.

Họ là những thiên thần áo trắng đã miệt mài ngày đêm phá bỏ gông cùm bệnh tật cho các bệnh nhân.

Tôi hỏi một bác sỹ thân quen rằng anh nghĩ gì khi lên đường cách ly gia đình để đến chăm sóc bệnh nhân. Anh trả lời rằng: lần đầu tiên mình đi chữa bệnh mà chưa biết phải chữa thế nào. Tụi mình buớc vào cuộc chiến với dịch bệnh như bước vào mê cung.

Cám ơn Chúa, sau 4 tháng nhiều nước trên thế giới đã gỡ bỏ cách ly và nhiều bác sỹ đã được trở về nhà. Nhìn hình ảnh họ nhảy múa ôm nhau khi hoàn thành sứ vụ mà lòng thật cảm kích và cùng vui mừng với họ. Họ đã hoàn thành sứ vụ được giao. Họ đáng được tôn vinh và ca ngợi mãi mãi.

Hôm nay chúng ta mừng Chúa về Trời. Mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa. Mừng Chúa đã hoàn tất cuộc đời trần thế của mình trong vâng phục thánh ý Chúa Cha là cứu độ trần gian. ChúaGiê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa đã bỏ ngai trời mà xuống thế làm người để chia sẻ cuộc sống con người và dẫn dắt con người tiến về quê trời, cuối cùng Ngài đã bằng lòng chịu chết để đền thay tội Adam đã bất tuân phục Thiên Chúa. Sự kiện Chúa về Trời cũng mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng sau những bể dâu cuộc đời chúng ta cũng có một bến bờ yên bình hạnh phúc là quê Cha trên Trời. Chúa về Trời cho chúng ta quyền hy vọng sẽ được lên trời với Chúa nếu biết đi trên con đường của Chúa. Con đường của hy sinh phục vụ. Con đường dấn thân cứu đời. Con đường sống vì lợi ích của tha nhân.

Con đường yêu thương đó là con đường dẫn chúng ta về quê trời. Một cuộc đời yêu thương sẽ giúp chúng ta xứng đáng nhận một phần thưởng to lớn trên quê trời.

Các bác sỹ xứng đáng được tôn vinh vì họ đã hoàn tất tốt sứ vụ của mình trong đại dịch. Người ky-tô hữu chúng ta cũng chỉ xứng đáng lãnh nhận triều thiên vinh quang khi chúng ta biết sống chứng nhân cho tình yêu trong cuộc sống hằng ngày. Người sống chứng nhân cho tình yêu thì luôn vui tươi và tận tuỵ trong bổn phận của mình. Người sống chứng nhân cho tình yêu thì luôn phục vụ mà không mong đền đáp. Người sống chứng nhân cho tình yêu thì luôn ra khỏi cái tôi của mình để sống có ích cho tha nhân.

Mỗi người sinh ra trong cuộc đời đều có một sứ mạng phải hoàn thành, một công việc để thi hành. Đó chính là bổn phận mà Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta khi bước vào trần thế. Xin cho chúng ta luôn biết kiên nhẫn chu toàn bổn phận Chúa trao. Xin cho chúng ta luôn theo gương Chúa Giê-su tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Xin đừng vì những đam mê trần thế là danh lợi thú mà bỏ bê bổn phận của người con với Cha trên trời. Xin Chúa giúp chúng ta biết hoàn tất sứ vụ cuộc đời của mình thật tốt đẹp để xứng đáng nhận phần ân phúc trong Nước Trời mai sau. Amen

Về mục lục

ĐƯỜNG VỀ TRỜI

L.m Giuse Hoàng Kim Toan

Con người của ta chẳng biết trời ở đâu, không biết làm sao mà về, và về thì con đường bao xa? Nhiều câu hỏi chẳng biết câu trả lời, vì con người hữu hạn còn trời vô biên và con người ở dưới thế làm sao biết trời. Chúa về trời và như cha Romano Guardini viết: “Trong Ba Ngôi Thiên Chúa có một con người”. Con người từ nay tuy còn dưới thế nhưng đã có mặt trên trời nơi Chúa Cha ngự trị, trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh thần.

Con đường về trời.

Một trong mối lo của con người thời nay theo Đức Hồng Y Fulton Sheen: “Trong các ngày xa xưa người ta âu lo về phần linh hồn mình. Ngày nay quan tâm chính yếu của con người là về phần xác. Mối nhọc lòng lớn nhất của ngày hôm nay là kinh tế, an ninh, sức khỏe, sắc đẹp, giàu có, tiếng tăm và tính dục. Đọc quảng cáo thời nay cho người ta ấn tượng là cái tai ương lớn nhất có thể ập xuống thân phận một người là bàn tay nhơ bẩn vì nhọ nồi, nước rửa chén hay ho khan ở ngực. Lo lắng quá đáng về an toàn thân xác là một chứng bệnh hoạn.” (Đường về trời, Fulton Sheen).

Lo về phần xác, nhưng phần xác cũng chịu nhiều yếu tố tác động. Ngày xưa lo lắng về bom hạnh nhân, ngày nay thêm mối lo chiến tranh sinh học, virus… Những thứ xem ra nhỏ bé nhưng làm thiệt hại về con người và kinh tế khủng khiếp. Lo lắng về thân xác, con người thời nay dễ bị các bệnh về thần kinh, lạm dụng thuốc an thần, mưu tìm khoái lạc chóng qua. Không điểm tựa dưới thế làm sao có thể đi về phía trời.

Càng lo lắng cho thân xác, con người càng rơi vào cô đơn, lạc lõng. Những ngày tháng cách ly cho thấy mọi giao tiếp đều trở nên nguy hiểm. Kinh nghiệm về sự sống con người  thật mong manh, những người chỉ lo cho phần xác mình tìm mọi cách vui thú hết thời gian nhưng vẫn thấy nhàm chán.

Con đường về trời cần nhận ra điều tất yếu đòi hỏi của linh hồn. Con người vốn dĩ không thể lấp đầy những khát mong trong đời sống thân xác, vì có một yếu tố linh hồn luôn thôi thúc họ cần đáp ứng. Con người vừa là “con” theo nghĩa thú tính vừa là “người” theo nghĩa cao thượng, phẩm giá cao quý. Giết chết Thiên Chúa trong tâm hồn để vui thú, khoái lạc nơi trần thế, con người đánh mất chữ “người” cao cả.

Đường về trời cần bắt đầu lại từ chữ “người”, mỗi ngày sống “người” hơn, bớt dần đi chữ “con”.

Đường về trời.

Tin Mừng trình thuật: “Ngôi hai Thiên Chúa xuống thế làm người”. Chữ “người” từ nay trong Chúa Giêsu, con người đã được thông phần vào thiên tính của Thiên Chúa. Con đường về trời đã bắt đầu từ nơi Chúa Giêsu Kitô, khi Chúa về trời.

Con đường về trời đã có một hướng đi rõ rệt và biết mình đi đâu và đã bắt đầu từ dưới thế này. Con người được biết rằng “Sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”. Ngoài bổn phận trần thế còn có một bổn phận khác quan trọng hơn, đó là bổn phận Nước Trời.

Người Kitô hữu xác tín đời mình luôn cần có Chúa, sẽ nhận ra chính mình ngày càng trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con chuyên chăm cầu nguyện, tìm kiếm Nước Trời, đặt cuộc đời mình trong bàn tay của Thiên Chúa. Chính Chúa mới là Đấng hoàn thành những khát mong sâu xa của con người, thánh Augustine viết: “Chúa đã tạo dựng chúng con cho Chúa, nên tâm hồn chúng con áy náy không ngừng cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa” (Tự thuật, Augustine).

Khao khát được sống được yêu thương đó là khao khát tự nhiên của con người; nhưng sự khao khát này cần bắt nguồn từ nơi Chúa Thánh Thần, xin đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa mến yêu. Thánh Augustine cầu xin Chúa: “Xin ban Chúa cho con, lạy Chúa, xin trả Chúa lại cho con. Này con yêu mến Chúa, nếu còn ít, thì chớ gì con yêu mến Chúa nhiều hơn. Con không thể đo lường cho biết tình yêu của con còn thiếu cái gì cho đầy đủ, để đời sống con chạy ôm lấy Chúa, cho đến khi con được ẩn nấp trong mầu nhiệm của nhan thánh Chúa.” (Tự Thuật, Augustine)

Trên con đường về trời, xin Chúa thắp lên lòng mến Chúa để chúng con thi hành mọi việc với lòng kinh mến Chúa.

Về mục lục

CHÚA VỀ TRỜI

Jorathe Nắng Tím

Núi trong Kinh Thánh là nơi Thiên Chúa tỏ mình, như hôm nào Đức Giêsu đã  “đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,1-2).

Khung cảnh “núi cao” trở lại trong Tin Mừng Matthêu, khi “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến” (Mt 28,16), nhưng lần này, Ngài sai các ông “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” và hứa ở cùng các ông “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).

Nhiều nhà chú giải đồng ý: đây chính là bối cảnh ở đó Đức Giêsu từ giã các môn đệ về trời, sau khi sai các ông đi loan báo Tin Mừng với năng quyền được chính Ngài trao ban.

Riêng thánh sử Luca thì một mình ngài lại có đến hai khung cảnh lên trời khác nhau: trong Tin Mừng của ngài thì Đức Giêsu dẫn các môn đệ “tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.” (Lc 24,50-51); còn Công Vụ các Tông Đồ thì Luca đặt biến cố lên trời của Đức Giêsu vào khung cảnh của bữa ăn (Cv 1,4), và khi Đức Giêsu lên trời  thì có “hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh” (Cv 1,10), như cố ý làm nổi bật biến cố phục sinh, ở đó cũng “có hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu” (Ga 20,12), và đề cao “bữa tiệc bẻ bánh” ở đó cộng đoàn Kitô hữu quy tụ cầu nguyện, làm chứng, và chờ ngày Đức Giêsu trở lại.

Dù được kể lại trong khung cảnh nào đi nữa, biến cố Đức Giêsu về trời đã mở sang một trang mới, với sự có mặt và dấn thân loan báo Đức Giêsu đã chết và đã sống lại của Giáo Hội. Nói cách khác, đây mới chính là khởi đầu của Giáo Hội, một Giáo Hội được sai đi, một Giáo Hội lên đường, một Giáo Hội luôn trên hành trình dong duổi với mọi người để làm chứng Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Chúng ta có thể ghi nhận ba điểm quan trọng ở thời điểm Đức Giêsu về trời, cũng là khởi điểm hành trình loan báo, làm chứng Đức Giêsu của Giáo Hội:

  1. Giáo Hội lên đường truyền giáo không biên giới với sức mạnh của Chúa Thánh Thần:

Sách Công Vụ các Tông Đồ ghi lại một cách chân thực, và dễ thương câu hỏi của các môn đệ với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, có phải là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?” (Cv 1,6).

Các môn đệ hỏi như thế, vì các ông thấy Thầy đã thực sự sống lại, nên các ông tin rằng việc giải phóng Ítraen khỏi tay người Rôma không còn là chuyện khó với Thầy mình, và ước mơ thầm kín mang tính chính trị lại một lần nữa trở về với các ông, cho đến khi Đức Giêsu khẳng định minh bạch chương trình của Ngài: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,7-8).

Như thế, sứ mạng của các môn đệ bây giờ là lên đường truyền giáo, con đường  không biên giới trên đó Tin Mừng “Đức Giêsu chịu đóng đinh, đã chết và đã sống lại” được loan báo cho mọi người, mọi nơi, mọi thời, nhưng các ông không lên đường một mình, không tự mình truyền giáo, nhưng chỉ có thể lên đường truyền giáo với ơn của Chúa Thánh Thần, chỉ có thể rao giảng Đức Giêsu với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Vì thế, Đức Giêsu đã minh bạch với các ông khi căn dặn: “Không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1,4-5).

  1. Giáo Hội là sự viên mãn của Đức Giêsu:

Trước khi về trời, Đức Giêsu đã chuẩn bị tất cả cho Giáo Hội. Ngài đã xin Chúa Cha ban cho Giáo Hội Chúa Thánh Thần; Ngài củng cố niềm tin của Giáo Hội qua lời hứa “ở lại với Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế” (x.Mt 28,19) để Giáo Hội tiếp tục thực hiện công trình cứu thế của Ngài, bởi “Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1, 23). Nói cách khác, Giáo Hội được Đức Giêsu tuyển chọn làm thân thể của Ngài, và Ngài là Đầu của thân thể đó, để Giáo Hội hoàn thành công trình cứu nhân loại đến mức viên mãn, là thánh ý của Chúa Cha, bằng loan báo cho mọi người Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ, để tất cả được đón nhận ơn Cứu Độ của Ngài hầu được hạnh phúc viên mãn trong Ngài.

  1. Đức Giêsu hoàn toàn tin tưởng Giáo Hội của Ngài:

Chúng ta có thể nói: lễ Thăng Thiên là lễ của Thiên Chúa đặt vào đôi tay con  người trọn vẹn trách nhiệm để tiếp tục thực hiện công trình của Ngài trên trần gian. Từ nay, mọi việc được trao cho con người, mọi việc đều được Thiên Chúa ký thác cho con người, vì Ngài tin tưởng con người và muốn con người cùng Ngài  thực hiện công trình cứu độ anh em mình. Một cách cụ thể, Ngài trao cho Giáo Hội, là tập thể những người đi theo Ngài sứ mạng này, và ở với họ, cùng với Thần Khí Tình Yêu, Sự Thật và Sức Mạnh của Ngài.

Vâng, đây chính là lúc bắt đầu thực hiện lời cầu nguyện của Đức Giêsu buổi tối thứ năm tuần thánh: “Tất cả những gì con có đều là của Cha, tất cả những gì Cha có đều là của con; và con được tôn vinh nơi họ. Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha. Lậy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con…” (Ga 17,10-11).

Cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta, những người con của Giáo Hội niềm vui biết mình được Đức Giêsu yêu thương, tin tưởng, khi trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho anh em ở khắp mọi nơi, mọi thời, và hạnh phúc được cùng Chúa Thánh Thần lên đường làm chứng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, Đấng Cứu Độ, Gia Nghiệp và Phần Thưởng đời đời cho những ai đi theo Ngài.

Về mục lục

THẦY Ở VỚI ANH EM

Bông hồng nhỏ

“Chúa về trời là niềm hy vọng sự sống đời sau, cho con dự phần vinh quang ngàn đời bằng cuộc sống hôm nay dựng xây thế giới. Chúa về trời là Thiên Đàng rộng mở từ nơi thế trần, từ nơi tâm hồn của mỗi người, bằng đón nhận tin yêu và sống tin yêu” (Khúc ca “Chúa Về Trời” – Lm. Thái Nguyên). Chúa Giêsu đã về trời nhưng Ngài không cách xa con người. Ngài vẫn ở với chúng ta như lời Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).

Chúa Giêsu Thánh Thể vẫn ở mãi với chúng ta, Ngài đến và cư ngụ nơi tâm hồn mỗi người. Có Chúa trong tâm hồn, cuộc đời chúng ta sẽ an vui và hạnh phúc. Cảm nhận sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Giêsu trong chính tâm hồn mình, trong cuộc sống với những biến cố buồn vui, chúng ta sẽ luôn nhận thấy mình là người được yêu. Chúng ta đã đón nhận tình yêu bao la của Chúa và sẽ không ngừng đáp trả tình yêu ấy bằng cách sống trong sự hướng dẫn của Thánh Thần Tình Yêu. Khi yêu ai, người ta rất muốn thực hiện tất cả những gì người yêu ao ước, cả những lời nhắn nhủ yêu thương.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nói cùng với các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 18-20). Chúng ta hãy mau mắn thi hành lệnh truyền của Chúa Giêsu bằng một đời sống đượm nồng tình yêu. Mỗi ngày, chúng ta hãy dành thời gian ở lại bên Chúa Giêsu, trong sự thinh lặng của tâm hồn, hãy lắng nghe, hãy để Lời lên tiếng. Lời Chúa sẽ dẫn chúng ta đi đúng đường để đến với Chúa Cha, đến với anh chị em và tìm thấy chính mình. Chấp nhận để cho Lời lên tiếng cũng đồng nghĩa với việc đón nhận ánh sáng của Lời, ánh sáng chiếu dọi vào nơi tăm tối của tâm hồn, Lời sẽ cho ta thấy sự thật về chính mình, về những ân huệ mình nhận được và cả những điều thiếu sót, những vấp ngã của chính mình. Lời sẽ làm cho chúng ta cất lên lời tạ ơn Thiên Chúa về những ân huệ mình nhận được cách nhưng không, và Lời cũng giục lòng ta sám hối về những tội lỗi đã phạm và ban ơn giúp ta can đảm canh tân đời sống. Chúng ta không chỉ nỗ lực sống thánh thiện nhưng còn có trách nhiệm giúp đỡ anh chị em mình sống thánh thiện nữa.

Để có thể giúp người anh chị em tuân giữ mọi điều Chúa Giêsu truyền dạy, chính ta phải là người đã thấm nhuần những lời dạy dỗ yêu thương của Chúa. Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương, Người luôn sửa dạy ta bởi vì Người yêu thương ta, bao bọc ta cả sau lẫn trước. Đây là lời khuyên nhủ dành cho ta: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? (Dt 12, 5-7). Quả thật, chúng ta là con Thiên Chúa, những đứa con được Người yêu thương, săn sóc và dạy dỗ.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã yêu con và hiến mình vì con. Dõi bước theo Ngài, con không sợ vấp ngã vì có Chúa vẫn hằng ở với con luôn. Chúa đã về trời để dọn chỗ cho con. Con biết rằng Chúa yêu con thật và con cần phải nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, sống trong sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa và con có bổn phận để giới thiệu Chúa cho anh chị em con, những người vẫn được Chúa yêu thương mà chưa được nhận biết Chúa. Con xin dâng lên Chúa công cuộc truyền giáo của Giáo hội, xin cho mỗi người Kitô hữu chúng con luôn để Lời Chúa soi sáng và đốt lòng chúng con yêu mến Chúa, yêu thương tất cả anh chị em. Xin cho lửa nhiệt tình truyền giáo cháy lên trong lòng chúng con. Amen.

Về mục lục

MỆNH LỆNH YÊU THƯƠNG

Anna Cỏ May   

Một người sắp đi xa, người ta thường nói những lời yêu thương cũng như ước muốn của mình hay để lại một vật gì đó mà ta thường gọi là bản di chúc cuối cùng và quan trọng cho người thân. Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi về trời, Ngài hẹn các môn đệ ở biển hồ Galilê. Tại đây, Ngài không để lại một mảnh đất hay một tài sản gì trực tiếp mà là một mệnh lệnh dẫn tới cuộc sống đích thực. Ngài nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).

Thư Êphêsô có đoạn viết: “Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh” (Ep 1,21-22). Chúa Giêsu đã được Chúa Cha trao những quyền hành dưới đất cũng như trên trời. Giờ đây, Ngài chia sẻ và mời gọi các môn đệ thông hiệp với Ngài qua lệnh truyền yêu thương của Ngài. Các ông sẽ thực hiện các điều ấy trong sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Họ sẽ không còn sống cho chính mình nhưng là sống cho thánh ý Chúa Cha. Họ chẳng còn nhìn thấy Thầy bằng con mắt người phàm nhưng bằng đôi mắt đức tin. Chính Thánh Thần sẽ giúp họ nhận thấy Thiên Chúa ở trong mình (x. 1Ga 3,24). Trong một bài giảng, Thánh Phêrô Kim Ngôn đã nói: “Bạn hãy nghe lời Chúa Kitô xin: Hãy nhìn xem, hãy nhận thấy nơi Ta, chính thân xác của các con, chi thể các con, ruột gan, xương cốt, máu huyết của các con” (x. Kinh sách mùa PS). Các môn đệ sẽ tiếp tục thực hiện sứ mạng của Thầy là ra đi rao giảng Tin Mừng và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Tất cả những ai đã chịu phép rửa sẽ trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, sau khi nói những lời ấy, Ngài về trời. Ngài đi về trời để tiếp tục thực hiện điều Ngài muốn dành cho các môn đệ. Ngài đã từng nói với các môn đệ: “Vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3).

Là môn đệ của Chúa khi đã chịu phép Rửa tội, chúng ta đã thi hành lệnh truyền yêu thương của Chúa thế nào? Nhìn vào thực tế, chúng ta đều nhận thấy nơi bản thân nhu cầu yêu và được yêu. Vậy sao chúng ta không thử làm điều ấy trước cho người khác? Vì chính lúc chúng ta cho đi thì chúng ta mới được lãnh nhận và điều gì chúng ta muốn từ người khác thì chúng ta phải làm trước cho họ. Đây là dịp thuận tiện cho chúng ta thực hiện tình yêu thương ấy cho chính mình và cho người khác. Mọi người đang cần tình yêu, cần sự chia sẻ nỗi đau trong đại dịch Covid 19. Đừng chần chừ nữa, hãy mau lên đường như Chúa Giêsu mời gọi “hãy ra đi loan báo Tin Mừng yêu thương”.

Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, xin soi lòng mở trí cho chúng con thấy rõ đâu là mệnh lệnh đích thực mà Chúa Giêsu mời gọi chúng con mỗi ngày. Nhờ đó, chúng con mau mắn thi hành và sẵn sàng bước đi trên con đường dẫn tới nơi ở mà Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

CHÚA LÊN TRỜI ĐEM HY VỌNG CHO THẾ GIỚI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 Con thuyền không bến

Một chiếc thuyền lênh đênh giữa đại dương bao la, hết ngày này qua ngày khác, hết đêm này lại đêm kia, thuyền cứ trôi nổi bồng bềnh trên sóng nước mà không hướng về một bờ bến nào hoặc không có bến nào để neo đậu… thì số phận con thuyền đó bi đát biết dường nào!

Thế giới hôm nay cũng có lắm mảnh đời có chung số phận như con thuyền không bến này. Người ta sống mà chẳng biết mình sống vì mục đích gì, chết rồi sẽ ra sao… Họ thấy cuộc sống thật vô nghĩa và phi lý… Cuộc đời của họ như thuyền trôi lênh đênh, không mục đích, không định hướng, không tương lai, không hy vọng… Đời họ như những con thuyền không bến!

Khi đề cập đến sự vô nghĩa và phi lý của cuộc đời, người ta không thể nào bỏ qua hai nhân vật hàng đầu trong trường phái triết học hiện sinh, sau đây:

– Thứ nhất, ông Albert Camus, sinh năm 1913 tại Algérie, năm 27 tuổi, đến sống tại Pháp. Ông vừa là triết gia, là nhà văn nổi tiếng, nhà biên kịch trứ danh. Ông cho rằng cuộc sống con người hoàn toàn vô nghĩa và phi lý, vì thế, dù đạt được nhiều thành công trong xã hội, ông vẫn sống trong tuyệt vọng và cho rằng: “Tuyệt vọng là thực tại sâu xa nhất của con người [1]”.

– Thứ hai, ông Jean Paul Chartre, sống cùng thời với Albert Camus, là triết gia hàng đầu trong trường phái triết học hiện sinh, đồng thời cũng là nhà văn nổi tiếng của Pháp trong thế kỷ 20. Theo ông, cuộc sống con người là thừa thãi, vô nghĩa, phi lý, hoàn toàn phi lý…

Khi con người sống không định hướng, sống mà không biết mình sống vì mục đích gì, đời người rồi sẽ đi về đâu, chết rồi sẽ ra sao…  người ta cảm thấy cuộc đời vô nghĩa, phi lý, thừa thãi, không đáng sống… thì bấy giờ, việc tự kết liễu cuộc sống mình là một sự giải thoát. Triết gia Albert Camus cũng nhận định như thế, ông nói: “Chết là sự giải thoát”, giải thoát con người khỏi cuộc sống vô lý, thừa thãi này…

Chính vì thế, có nhiều người trên thế giới đã tự tử và ngay tại những đất nước có nền kinh tế phát triển và giàu mạnh như Hàn Quốc, Nhật Bản… số người tự tử cũng đã lên đến mức báo động.

Sống như thuyền không bến thì bi đát biết bao!

Cuộc phục sinh và lên trời của Chúa Giê-su đem lại hy vọng cho thế giới

Chúa Giê-su là Thiên Chúa xuống thế làm người và đã sống trọn vẹn thân phận con người.

Ngài đã đi đến tận cùng của đau khổ khi bị hành hình như một tội đồ gian ác nhất và chịu chết tủi nhục trên thập giá.

Ngài đã cảm nếm sự cô đơn cực độ khi hấp hối trên thập giá lại còn bị người đời ghét bỏ, gièm pha và cảm thấy dường như ngay cả Chúa Cha cũng từ bỏ mình.

Ngài đã đi vào ngõ cụt của đời người khi trở thành một thi hài không còn sự sống và chịu mai táng trong trong mồ.

Thế rồi, nhờ quyền năng Chúa Cha, Ngài đã sống lại và lên trời vinh hiển.

Qua việc phục sinh và lên trời vinh hiển, Chúa Giê-su khai mở cho nhân loại một con đường tiến vào thiên đàng hồng phúc, nơi không còn đau khổ, tang thương, chết chóc nhưng tràn đầy hoan lạc và bình an. Thế là từ đây, đời người không phải như những con thuyền không bến, mà có một bờ bến tuyệt vời là thiên đàng, là chốn hạnh phúc thiên thu vạn đại đang chờ đón họ.

Nhờ sự lên trời vinh hiển, Chúa Giê-su cho thấy cuộc đời rất đáng sống vì những chuỗi ngày ở trần gian là những bậc thang dẫn đưa nhân loại tiến đến quê trời.

Hướng lòng về thượng giới

Biến cố Chúa Giê-su lên trời hướng lòng trí chúng ta về quê hương đích thực của mình trên thiên quốc và thúc đẩy chúng ta phấn đấu để đạt tới mục tiêu cao quý này. Thánh Phao-lô trong thư Cô-lô-xê kêu gọi chúng ta: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, thì hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới…” (Col 3,1-2).

Lạy Chúa Giê-su,

Sự phục sinh và lên trời vinh hiển của Chúa đã đem lại cho đời người một hướng đi, đó là tiến về thiên quốc, đã mang lại cho đời sống con người một ý nghĩa cao đẹp, đã khơi lên trong lòng người niềm hy vọng mai đây được vui sống hạnh phúc trên thiên đàng.

Xin cho chúng con hôm nay luôn hướng lòng về thượng giới, cố gắng sống tốt lành thánh thiện để mai sau, được cùng nhau sum họp bên Chúa trên thiên quốc.

[1] Ý tưởng được trình bày trong tác phẩm: “Kẻ xa lạ” và “Huyền thoại Sisyphe” của Albert Camus

Về mục lục

THẦY Ở CÙNG CÁC CON MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ

 Lm Trần Bình Trọng

Những lời giã từ thường đầy tràn ý nghĩa và sâu đậm tâm tình. Người ra đi thường nói cho người ở lại những gì là quan trọng nhất, muốn cho người ở lại ghi nhớ để thi hành và có thể giúp ích cho người ở lại.

Thường thì người ta tưởng chết là một việc chia ly giã từ. Tuy nhiên việc từ giã giữa Chúa Giêsu và các môn đệ không phải là việc Chúa chịu chết trên thánh giá, mà là việc Chúa lên trời. Ta có cảm tưởng rằng việc Chúa về trời là việc kết thúc đời sống và công việc của Chúa ở trần gian để từ giã các môn đệ. Thực ra thì không hẳn là thế. Khởi đầu Phúc âm thánh Mát-thêu có ghi lại khi Ðấng Cứu thế sinh ra, người ta đặt tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1:23). Còn khi kết thúc Phúc âm, thánh Mát-thêu lại chép: Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28:20). Vậy làm sao Chúa có thể ở lại với loài người sau khi đã về trời cả hồn lẫn xác?

Khi còn tại thế Chúa Giêsu bị giới hạn trong thân xác của Người. Ðiều đó có nghĩa là khi Chúa rời bỏ Nadarét để đi giảng dạy ở những miền đất khác tại Palétin thì Mẹ Maria, thánh Giuse và người hàng xóm thấy vắng bóng Chúa. Sau khi về trời, Chúa đi vào vinh quang của Người trong một chiều hướng mới để Người có thể hiện diện với loài người trong một chiều hướng siêu nhiên và trong ý nghĩa thiêng liêng.

Nếu cho rằng về trời theo quan niệm địa lí bình dân như trời cao đất thấp, thì ta có thể nghĩ rằng việc Chúa về trời là ở xa loài người. Quan niệm về trời xa như vậy là rối đạo. Một đàng Chúa về trời chấm dứt sự hiện diện hữu hình của Người tại thế. Và đó là một kinh nghiệm đau lòng cho các tông đồ. Ðàng khác việc lên trời không có nghĩa là Chúa đem con đi bỏ chợ, với ý định bỏ rơi loài người. Chúa luôn ở với loài người bằng lời Chúa trong Thánh kinh. Trước khi về trời Chúa lập Bí tích Thánh thể để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người, hiện diện với loài người trong phép Thánh thể cho tới ngày tận thế. Ðể tiếp tục Bí tích Thánh thể, Chúa còn lập chức linh mục để truyền phép Mình thánh. Chúa lại thiết lập Giáo hội là thân thể Ðức Kitô, là sự viên mãn của Người (Ep 1:23) để làm máng chuyển ơn cho loài người. Và Chúa sai Thánh thần xuống trên các tông đồ và người tín hữu như là sợi giây kết hợp, là nguồn sức mạnh, là sự cậy trông và là niềm vui và an ủi cho loài người: ‘Thày ra đi thì có lợi ích cho anh em. Thật vậy, nếu Thày không ra đi, Ðấng Phù trợ sẽ không đến với anh em’ (Ga 16:7).

Như vậy việc Chúa lên trời xem ra là cuộc giã từ thì chỉ là cách thế đưa tới một sự hiện diện khác của Chúa: thân mật hơn, phổ quát và bền vững hơn. Bằng sự hiện diện như vậy, ta có thể kêu cầu đến Chúa bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào: ngày cũng như đêm. Ta không cần làm hẹn xem Người có nhà hay không vì Chúa luôn ở đó chờ đợi ta. Ta cũng không cần gõ cửa để xin gặp Người. Trước mặt Chúa, mọi người đều bình đẳng. Ta không cần nhường chỗ cho ai quan trọng hơn để họ gặp Chúa trước rồi mới đến lượt ta. Ðêm nằm trằn trọc khó ngủ, ta có thể lặp đi lặp lại thầm thĩ nhiều lần lời kêu cầu vắn tắt như: Chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và cảm tạ Chúa hoặc Xin thương xót con, Chúa ơi, hoặc lời cầu nguyện chúc tụng nào khác mà ta ưa thích, hoặc lặp đi lặp lại mấy câu hát vắn tắt, cho tới lúc nào thiếp ngủ đi mà ta không hay biết. Ðiều nên tránh là không nên lặp đi lặp lại những lời than thân trách phận có tính cách tiêu cực trong khi cầu nguyện như: Lạy Chúa, con khổ quá đi thôi. Như vậy càng làm cho mình khó ngủ. Lập đi lặp lại những tư tưởng hướng thượng là cách thế đánh lạc đầu óc đang suy nghĩ những chuyện vẩn vơ.

 Chúa ở lại với loài người là một thực tại siêu nhiên. Còn cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa hay không lại là chuyện khác. Sống trong ơn nghĩa với Chúa bằng cách xa tránh tội lỗi và tuân giữ giới răn Chúa sẽ đưa ta đến việc cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa rồi, ta có tiềm lực nội tại để đối đầu với những giờ phút cô đơn. Kết quả của việc Chúa hiện diện trong ta là tâm hồn và đời sống ta được phản ảnh bởi sự hiện diện của Chúa trong lời nói, cách ăn ở cũng như cách sống của ta. Ðược phản ảnh bởi sự hiện của Chúa rồi, ta lại mang sự hiện diện của Chúa trong ta đến với tha nhân. Ðó chính là việc làm chứng cho đức tin, việc ta giới thiệu Chúa đến với tha nhân.

 Lời nguyện xin Chúa ở lại trong tâm hồn và đời sống:

Lạy Chúa Giêsu, con xin tạ ơn Chúa đã chọn sinh ra làm người,

và hứa ở lại với loài người cho đến tận thế.

Xin Chúa luôn ở lại với con bằng lời Chúa, Mình Thánh Chúa,

Thần Khí của Chúa và ơn thánh Chúa.

Xin cho con biết loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn

để con có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa

trong tâm hồn và đời sống con. Amen.

Về mục lục

ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRUYỀN THÔNG LỜI CHÚA

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Lời thiên thần: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? ”.

Đó là cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa yêu thương, luyến tiếc, nhưng hình như pha chút hoảng hốt. Thầy đang ở trước mắt, tự dưng lại được cất lên tức khắc.

Lời thiên thần thúc giục đủ quyền lực cắt đứt tất cả mộng mị, đưa các môn đệ của Chúa Giêsu về lại thực tế.

Độc đáo của lễ Thăng thiên là đây. Mừng Chúa về trời không chỉ ngước mắt nhìn trời. Ngược lại, phải nhìn xuống, phải quay về thực tế của cuộc đời.

Quay về để từ hôm nay, biết làm cho những lối đường trần thế thành đường dẫn đến trời cao.

Nghĩa là luôn giữ mình thanh sạch, sống trong ơn nghĩa Chúa qua từng hành động, suy tư, tương quan.. . từ những bổn phận, công tác, việc làm đến giờ phút nguyện cầu, và mọi việc đạo đức khác.

Đời sống trong sự tốt lành cũng là cách để thực hiện lời trăn trối của Chúa: “Hãy đi giảng dạy muôn dân làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.

Đời sống tốt là bước đầu của truyền giáo. Không thể trở thành nhà truyền giáo mà đời sống bê bối, mang đầy tiếng tăm.

Ngày lễ Chúa về trời hàng năm cũng là ngày Quốc tế Truyền thông. Giữa một thế giới mà truyền thông như cánh rừng, đủ mọi thứ thượng vàng hạ cám, thì ngày Quốc tế Truyền thông của Hội Thánh càng là dịp để Kitô hữu khẳng định chỗ đứng không chỉ thanh sạch mà còn thánh thiện của mình.

Để khi tham gia truyền thông, dù là người đưa hay nhận thông tin, ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, phụng sự Lời Chúa, phụng sự uy danh Chúa, để theo khả năng mà trao cho thế giới một Thiên Chúa cứu độ trong yêu thương.

Hơn nữa, đời sống tốt là nội lực, là sức đề kháng giúp ta ngăn ngừa mọi nhơ nhớp, mọi thứ tội lỗi do những kiểu truyền thông phục vụ ma quỷ gieo rắc.

Đức Thánh Cha Phanxicô, trong nhiều bài giảng, nhắc đến tội nói hành, nói xấu, vu khống.

Cũng vậy, qua kinh nghiệm mục vụ, các linh mục hoàn toàn đồng ý với Đức Thánh Cha. Các ngài đều nhận thấy tội nói hành, nói xấu, vu khống là tội người ta phạm nhiều. Đó là thứ tội phổ biến trong đời sống cá nhân và thế giới ngày nay.

Không chỉ nói xấu, vu khống trên môi miệng, người ta tiến xa hơn khi không ngần ngại sử dụng phương tiện truyền thông để lăng mạ, chửi bới nhau.

Những lời lẽ trên truyền thông đôi lúc tục tĩu, thô bỉ, sống sượng, tàn ác.. . Thậm chí nó còn cho thấy con người mất hết nhân tính. Có khi nó hàm chứa cả những mưu toan quyền lực, vụ lợi đầy tha hóa, đầy sự dữ.. .

Ngày xưa, khi nói xấu, vu khống, cùng lắm, chỉ trong một không gian thật nhỏ. Bây giờ, người ta đưa lên mạng internet, có sức lôi cuốn cả thế giới vào cuộc chứ không phải vài cá nhân.

Từ đó, ta mới thấy truyền thông hiện đại có sức mạnh đến mức độ nào. Nếu nó nâng ai, người đó sẽ cao ngất, nhưng nếu ai trở thành nạn nhân của nó, cuộc sống người đó trở thành thương tật, tàn phế.. .

Người ta đã và vẫn chứng kiến, quá nhiều lần, truyền thông thay vì nối kết, đã bị biến thành nguồn cội chia rẽ, bất hòa, hận thù, chinh chiến. Vì thế, không lạ gì khi nghe Đức Giáo Hoàng nói mạnh: “Ở đâu có vu khống, ở đó có ma quỷ”.

Trước một cánh rừng truyền thông dày đặc như thế, đời sống và lương tâm tốt lành của Kitô hữu là điều kiện phải đặt trên hàng đầu.

Vâng lệnh Chúa ra đi truyền giáo, chúng ta dùng mọi phương tiện, mọi khả năng để vinh Chúa giữa thế giới, nhưng phải luôn luôn tỉnh thức để mình không bị lôi vào thứ truyền thôngphục vụ ma quỷ, mang đầy chết chóc.

Hơn nữa, khi một thế giới bị thống trị quá nhiều bởi sự dữ, thì mỗi Kitô hữu càng phải đẩy mạnh việc truyền thông Lời Chúa, để góp phần làm lành mạnh hóa môi trường của đời sống hôm nay.

Xin Chúa huấn luyện chúng ta thành tông đồ mới cho thế giới mới để luôn luôn là những nhà thông truyền Lời Chúa, vinh danh Chúa cách hết sức nhiệt thành, hiệu quả và đúng đắn.

Về mục lục

CHÚA GIÊSU KITÔ TRỞ VỀ TRỜI

Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Hằng năm Giáo Hội Công Giáo mừng lễ Chúa Giêsu Kitô trở về trời sau khi ngài sống lại từ cõi chết được 40 ngày tính từ ngày Chúa Nhật lễ Phục sinh. Vì thế lễ Chúa Giêsu về trời luôn luôn vào ngày thứ năm trong tuần.

Theo Kinh Thánh thuật lại nơi sách Công vụ các Tông đồ 1,1-11:

: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” 9 Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.10 Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh11 và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.“( CV 1,7-11).

Trên ngọn núi Sinai Thiên Chúa hiện xuống ban truyền 10 điều răn làm căn bản cho đức tin vào Thiên Chúa, và sự tương quan liên kết giữa Thiên Chúa với con người và ngược lại. Trong ý nghĩa đó, núi Sinai là nơi chốn của lòng suy niệm về Thiên Chúa.

Từ trên ngọn núi vùng Galilea Chúa Giêsu phục sinh trở về trời bên Đức Chúa Cha sau quãng đời 33 năm sinh sống trên trần gian đã hoàn thành sứ mạng rao truyền tình yêu ơn cứu độ Thiên Chúa cho con người. Ngọn núi Chúa Giêsu về trời là nơi chốn phản tỉnh ôn nhớ lại đời sống, lời giảng dạy và công việc Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện trên trần gian.

Từ trên ngọn núi Chúa Giêsu trở về trời, các Tông đồ, Hội Thánh được chính Chúa Giêsu Kitô sai đi truyền giáo:“ Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế,“ (Mt 28, 18-20.)

Trên đỉnh núi cây dầu thuộc khu phố cổ Jerusalem, các tín hữu Chúa Giêsu Kitô thuở ban đầu đã dùng một hang động tụ họp mừng nhớ kỷ niệm Chúa Giêsu về trời. Vào năm 387 một người Roma đạo đức tên là Poimenia đã dâng cúng cho xây dựng một nhà nguyện trên đó. Ngôi nhà thờ này bị quân BaTư dưới thời Chosrau II. năm 614 xâm chiếm tàn phá.

Trong dòng thời gian thế kỷ 7. một ngôi nhà thờ khác được xây dựng mới lại trên nơi đó, trong đó có dấu vết bàn chân Chúa Giêsu còn in trên mặt đất. Có lẽ ngôi nhà thờ này dưới thời Kalifat Al-Hakim năm 1009 đã bị tàn phá.

Đạo binh Thập Tự đã xây dựng lại trên tầng trệt của ngôi nhà nguyện ngày nay vào năm 1150, có dấu vết chân Chúa Giêsu Kitô sâu lõm khắc bằng đá hình chữ nhật trên nền nhà nguyện.

Người Hồi giáo dưới sự lãnh đạo của Saladin sau khi chiếm Jerusalem đã biến ngôi nhà nguyện này thành Moschee Hồi giáo – thánh đường Hồi giáo vào năm 1187.

Vào thế kỷ 1. sau Chúa giáng sinh Giáo hội thời sơ khai mừng lễ Chúa Giêsu Kitô trở về trời chung với lễ mừng Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lý do có sự liên hệ sát gần giữa hai biến cố trọng đại sống lại và sai gửi Chúa Thánh Thần xuống.

Tuy nhiên lễ mừng Chúa Giêsu trở về trời trong suốt dọc thế kỷ 4. được dần phát triển trở thành một ngày lễ riêng biệt như trong bản tường thuật của một người hành hương tên là Egiria năm 383-384 đã nói đến phụng vụ ngày lễ này ở Jerusalem.

Trong kinh Tin kính ngày nay chúng ta đọc tuyên xưng có câu tuyên tín: „ Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha“.

Lời tuyên xưng đức tin này đã có sớm từ thời xưa, như nơi các vị Giáo phụ Polykarpo thành Smynra, vịn tử đạo Justino và Giáo phụ Ireneus thành Lyon.

Lời Tuyên xưng Chúa Giêsu trở về trời bên Giáo Hội Roma có từ thời Công đồng Nicaea năm 325 và Công đồng Niceno-Konstantino năm 381:

„ Ngài sống lại ngày thứ ba như lời Thánh kinh.,và lên trời Ngài ngự bên hữu Đức Chúa Cha và sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng tận.“

Từ năm 379 lễ Đức Chúa Giesu trở về trời, hay còn gọi là lễ Chúa Giêsu thăng thiên được mừng kính trọng thể 40 ngày sau lễ Đức Chúa Giêsu sống lại, và 10 ngày trước lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Lễ Đức Chúa Giêsu Kitô về trời như những lễ mừng Chúa Giêsu sống lại và lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống là những ngày lễ thay đổi ngày tháng theo từng năm.

Lễ mừng kính Chúa Giêsu Kitô về trời theo phụng vụ Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội Chính Thống giáo, và Giáo hội Anh giáo là ngày đại lễ.

Theo tập tục đạo đức xa xưa, ba ngày trước lễ Chúa Giesu về trời là ba ngày rước kiệu cầu nguyện cho mùa màng được mưa thuận gío hoà, được mùa hoa trái, cầu bình an cho mọi người. Tập tục này có từ thế kỷ 4. trong Giáo hội Công gíao. Đến thế kỷ 7. dưới thời Đức Giáo Hoàng Gregor cả tập tục này được lan truyền rộng rãi trong khắp cả Giáo Hội Công Giáo hoàn cầu. Nhưng từ 1969 theo luật cải tổ Phụng vụ, tập tục rước kiệu cầu mùa bị bãi bỏ. Tuy nhiên một số nơi vùng thôn quê, hay trong khuôn viên nhà Dòng, tập tục đạo đức này vẫn còn được duy trì hằng năm vào ba ngày trước lễ Chúa Giêsu trở về trời.

Vào ngày mừng lễ Chúa Giesu lên trời trong dân gian theo văn hóa xã hội xưa nay bên các nước Âu Châu và Mỹ Châu có tục lệ mừng tưởng nhớ đến những người cha gia đình.

Tục lệ này có nguồn gốc từ bên xã hội Hoa Kỳ. Bà Louisa Dodd năm 1910 đã kêu gọi thành lập phong trào tưởng niệm tưởng nhớ đến những người cha đã hy sinh chiến đấu bỏ mình trong trận chiến nội chiến 1861-1865 bên Hoa Kỳ.

Năm 1924 Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đã đưa ra lời công nhận và khuyên nên dành ngày lễ mừng tưởng nhớ đến những người cha gia đính ở nơi những tiểu bang đất nước Hoa Kỳ. Năm 1974 Tổng Thống Richard Nixon đã ấn định chính thức là ngày lễ nghỉ vào Chúa Nhật thứ ba trong tháng Sáu.

Mỗi xã hội đất nước tùy theo phong tục tập quán mừng ngày nhớ ơn các người cha cách khác nhau và vào thời điểm ngày tháng cũng khác nhau. Nhưng tựu trung để nhớ đến công ơn sinh thành hưỡng dục và lòng hy sinh của các người cha gia đình, như tập tục ngày hiền mẫu nhớ biết ơn các người mẹ.

Mừng lễ Chúa Giêsu về trời, như các Thánh Tông đồ xưa, con người chúng ta hướng lòng trí tâm hồn về trời, nơi Thiên Chúa ngự, nơi Chúa Giêsu Kitô về đó trước dọn chỗ cho chúng ta sau này cũng được về sống, khi con đường hành trình đời sống trên trần gian chấm dứt.

Trời là quê hương đích thật của con người chúng ta.

Về mục lục

VỀ QUÊ

Trầm Thiên Thu

 

Chúa Về Thiên Quốc Sáng Ngời Vinh Hiển

Con Ở Thế Trần Kiên Vững Chứng Nhân

Thật thú vị với Việt ngữ, đúng như người ta ví von: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam.” Thật vậy, người ta chỉ nói LÊN trời, TỚI trời, hoặc VÀO trời, vì người ta không xuất phát từ trời. Nhưng Chúa Giêsu nói VỀ trời, vì Ngài xuất phát từ Trời, từ Chúa Cha: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.” (Ga 14:28)

Và theo lẽ thường, người ta chỉ có thể VỀ nơi thân thương thuộc về mình – về nhà, về quê. Những nơi khác không dùng động từ VỀ, mà chỉ TỚI hoặc ĐẾN (rồi ĐI chứ không ở lại). Thế mà chúng ta cũng được Thiên Chúa cho phép VỀ trời với Ngài, dù chúng ta không xuất phát từ trời, và chỉ là phận bụi thân tro. Quả thật, đó là điều kỳ diệu và ngoài sức tưởng tượng của chúng ta – không chỉ là phàm nhân mà là tội nhân.

Sự kiện trọng đại Chúa Giêsu lên trời là dịp tốt để tín nhân tái khẳng định tín điều mà mình không ngừng tuyên xưng: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, LÊN TRỜI ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng.” Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta vô ích, hão huyền, nghĩa là chúng ta chỉ là những kẻ hoang tưởng, thế nhưng Chúa Giêsu đã thực sự sống lại và lên trời. Chúng ta không mơ hồ, mà rất chắc chắn, chắc chắn tới mức tuyệt đối.

Thật vậy, Chúa Giêsu lên trời là để minh chứng và xác định lời hứa Ngài đã nói trước: “Thầy đi DỌN CHỖ cho anh em thì Thầy LẠI ĐẾN và ĐEM anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:3) Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa. Đó là động lực để chúng ta có thể khước từ mọi thứ phù vân ở đời tạm này.

Ôi, kỳ diệu vô cùng! Thiên Chúa mà hóa thành Con Người, Con Người mà là Thiên Chúa, vừa hữu hình vừa vô hình. Chắc chắn chẳng hề có bất cứ thần linh nào như vậy. Chỉ có Thiên Chúa của chúng ta như vậy mà thôi, độc nhất vô nhị. Thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển.” (1 Tm 3:16) Tạ ơn Chúa đã cho chúng ta nhận biết và vững tin vào Thánh Danh Đức Giêsu Kitô.

Trong sách Công Vụ, Thánh Luca viết như một cách giải thích: “Thưa ngài Thêôphilô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.” (Cv 1:1-5) Chúa Giêsu về trời, nhưng rồi Ngài lại gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, đồng hành và hoạt động với chúng ta mọi nơi, mọi lúc. Bởi vì Ngài không để chúng ta mồ côi hoặc cô độc giữa cuộc sống trần gian nhiêu khê này.

Chắc chắn tư tưởng loài người không cao hơn mặt đất, có hơn cũng chỉ bằng ngọn cỏ lè tè. Thật vậy, tầm nhìn phàm nhân không vượt qua cái bóng của mình, thế nên khi nghe Đức Giêsu nói vậy, những người đang tụ họp ở đó tưởng rằng Ngài sắp sửa khôi phục vương quốc Israel. Nhưng lầm to! Ngài xác định: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:7-8)

Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn nhìn nhau rồi nhìn theo hút Ngài, chẳng hiểu thế là thế nào. Nhưng rất tuyệt vời!

Trong khi các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11) Lời giải thích này cho chúng ta biết chắc rằng Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai vào một lúc nào đó, bất kỳ thời điểm nào mà chúng ta không thể biết được, có thể là ngày mai hoặc hôm nay, thậm chí là ngay bây giờ. Vì thế, dù là ai cũng phải sẵn sàng và tỉnh thức. Không chỉ vậy, với mỗi người còn là cái chết, vì tử thần có thể đến bất cứ lúc nào, không ai có thể ngờ được. Tử thần lúc nào cũng cầm lưỡi hái đứng ngay bên chúng ta!

Trần gian là một hành trình, cuộc đời con người – cả hữu thần và vô thần – là một cuộc lữ hành trần gian, cuộc vượt khổ hải, nhưng cũng là hành trình đức tin – hành trình tiến về Quê Trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho chúng ta. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.” (Tv 47:2-3) Niềm vui khôn tả, và quá đỗi lớn lao!

Phàm nhân chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm phu tục tử theo gợi ý của Thánh Vịnh gia: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả.” (Tv 47:6-9) Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta thể hiện bằng khả năng riêng mình mà thôi, nghĩa là thành tâm thiện chí.

Nhận biết Thiên Chúa là niềm hạnh phúc lớn lao, nhận biết Ý Ngài và vui mừng làm theo là niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Quả thật, chấp nhận và làm theo Ý Chúa là điều không dễ chút nào, vì chúng ta thường chỉ muốn “được như ý” mà thôi. Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu.” (Ep 1:17-19a) Tất cả là hồng ân, còn chúng ta chỉ tay trắng, bất tài và vô dụng.

Và rồi Thánh Phaolô giải thích thêm: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.” (Ep 1:19b-23)

Đức Giêsu Kitô được Chúa Cha trao ban mọi thứ, nhưng Ngài không giữ riêng cho mình, mà Ngài lại muốn chia sẻ với chúng ta, làm cho chúng ta được viên mãn với Ngài, dù chúng ta không chỉ là phàm nhân mà còn là những tội nhân hoàn toàn bất xứng. Hồng ân nối tiếp hồng ân, chúng ta chẳng có gì mà dám vênh vang tự đắc.

Thật tuyệt vời khi niềm hạnh phúc như điệp khúc cứ lặp đi lặp lại trong cuộc đời mỗi tín nhân chúng ta, miệt mài ngày tháng trên suốt hành trình về trời. Không hạnh phúc sao được, bởi vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi quá nhiều, minh nhiên nhất là chúng ta được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, nhất là cũng sẽ được về trời, chung hưởng niềm hạnh phúc vĩnh viễn.

Trình thuật Mt 28:16-20 (≈ Mc 16:14-18; Lc 24:36-49; Ga 20:19-23) cho biết: Hôm đó, cả mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Bản tính nhân loại là thế, tận mắt thấy bao phép lạ mà vẫn chưa đủ tin. Vả lại, họ cứ tưởng Đức Giêsu là chính khách, Ngài sẽ giành quyền cai trị Israel từ bọn thực dân Rôma. Khi đó, Đức Giêsu đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28:18) Có lẽ nghe Ngài nói vậy thì họ càng có lý mà cho rằng Chúa Giêsu đang làm chính trị thật, như vậy thì điều họ nghĩ không hề sai. Thế nhưng lại không phải vậy, Ngài không bao giờ làm chính trị, và Phúc Âm cũng không là bản cương lĩnh chính trị.

Rồi Ngài nói với các môn đệ: “Anh em hãy ĐI và LÀM cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, DẠY bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28:19-20a) Ngài biết sắp đến giờ về cùng Chúa Cha, nên Ngài căn dặn cặn kẽ, tỉ mỉ. Ngài về trời nên Ngài truyền cho chúng ta phải vào đời để làm chứng sống động về Ngài. Điều đó vừa là một tặng phẩm, vừa là một mệnh lệnh, vừa là một đặc ân, và cũng vừa là một trọng trách. Không thể không thi hành. Chắc chắn như vậy!

Lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên thế gian là một lời hứa đầy niềm an ủi: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20b) Lời hứa đó đã được chứng tỏ rõ ràng qua Bí tích Thánh Thể, một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Biết rõ chúng ta phàm hèn yếu đuối nên Chúa Giêsu rất “tội nghiệp” chúng ta, như có lần Ngài đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi.” (Ga 14:8) Và lời hứa đó lại được thực hiện ngay lập tức: Ngài về trời rồi gởi Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta. (Ga 14:16) Thánh Thể và Thánh Thần luôn đồng hành với chúng ta trên suốt Hành Trình Về Trời. [Những mẫu tự T luôn kỳ diệu: Thánh Thể, Thánh Thần]

Mở và Kết là hai “đầu mối” quan trọng đối với mọi vấn đề, cả cụ thể và trừu tượng. Chính Thiên Chúa là Alpha và Omega. Tương tự, Hành Trình Về Trời được khởi đầu từ điểm SINH và kết thúc ở điểm TỬ. Hành trình đó có thể là “con đường” dài hoặc ngắn, không ai biết; “con đường” đó có thể rộng hoặc hẹp, ai chọn đường hẹp thì tốt hơn đường rộng, càng thênh thang càng dễ chết, thậm chí có thể chết yểu, chết trước kỳ hạn, và “chết” ngay khi còn thở, còn sống. Chết như vậy thì vô cùng nguy hiểm!

Vì thế, chính Chúa Giêsu đã khuyên những ai thực sự muốn được trường sinh bất tử: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7:13-14) Không chỉ đơn giản như vậy, người ta còn phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp.” (Lc 13:24) Rất “ngược đời,” nhưng phải dám “lội ngược dòng” hoặc “sống ngược” như vậy thì mới mong “xuôi” về vĩnh cửu.

Sống là thở, rất đơn giản. Nhưng vẫn luôn phức tạp mặc dù đó là sự sống về thể lý. Sự sống tâm linh còn nhiêu khê gấp bội. Thánh nữ Faustina Kowalska so sánh: “Như bệnh tật được đo bằng nhiệt kế, sốt cao cho chúng ta biết là bệnh nặng, đời sống tâm linh cũng vậy, đau khổ là nhiệt kế đo tình yêu Chúa trong linh hồn.” (Nhật Ký, số 774) Chắc hẳn đó là điều rất khó đối với bản chất phàm nhân, thế nhưng người ta vẫn có thể chấp nhận nếu cố gắng hiểu theo triết lý sống của Thiên Chúa và nhìn theo cách nhìn của Ngài.

Lạy Chúa Cha hằng hữu, chúng con vui mừng khi nhận biết dấu chứngbảo đảm sự sống vĩnh hằng mà chúng con cố gắng chiến đấu để đạt được: Chúa Giêsu phục sinh và về trời. Con Chúa ra đi vì ích lợi cho chúng con, xin ban Ngôi Ba để chúng con được biến đổi, can đảm làm chứng về Thiên Chúa Ba Ngôi. Xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình để xứng đáng với Giá Máu Cứu Độ của Con Chúa. Xin Chúa cũng thanh lọc không khí, phá tan mọi thứ dịch bệnh – thể lý và tinh thần, để thế giới được sống bình an trong sự quan phòng của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA Ở NƠI ĐỨC KITÔ

Lm. Jos. DĐH.

Con cóc là cậu ông trời, hễ ai đụng đến là trời đánh cho. Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống, trời ơi hỡi trời”. Từ những câu vè, những khái niệm dân gian về trời-đất, ít nhiều cho thấy tiền nhân chúng ta đã sớm có thao thức về thực tại tự nhiên và siêu nhiên rồi. Làm sao để được gọi là con cháu của ông trời, làm sao hiểu nổi quy luật: sinh bệnh lão tử, và tìm đâu ra người đủ đức đủ tài để chỉ giúp ta đón nhận lấy một chút hạnh phúc quê trời ! Đứa trẻ sẽ đau khổ biết bao khi phải sống xa cha mẹ, người chưa trưởng thành thật nguy hiểm nếu vội bước chân vào trường đời, kẻ làm thợ sẽ gây thiệt hại đến uy tín, sao kể hết, nếu như hiểu sai ý thầy làm trệch ý chủ !

Đấng phục sinh dư biết các học trò còn mơ hồ về mọi mặt, Chúa quá hiểu sự giới hạn và các ông còn nặng tính thế trần tới mức độ muốn Thầy làm vương làm tướng. Nói theo kiểu thế gian: con chị có đi, con dì mới lớn, hiểu theo phạm vi siêu nhiên, phải trở nên môn đệ Đức Kitô, hẳn sẽ đủ tự tin để nói: qua thập giá, mới đến vinh quang. “Vua trần và Vua Trời” khác nhau. Đấng phục sinh cho các môn đệ, cho nhân loại cảm nhận niềm vui thật: Thầy đã thắng thế gian, nhưng không phải bằng sức mạnh binh đao dũng tướng, mà bằng đau khổ thập giá theo thánh ý Chúa Cha. Các môn đệ dù chưa trưởng thành, chưa thấm nhuần được hết những bài học Thầy truyền đạt, nhưng ít nhiều các ông đã được nghe, được an ủi đến trí lòng hết sức cần thiết: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy, …”

Quê hương ta có phải là nơi “chôn nhau cắt rốn không” ? Nơi nào được no bụng có phải đó là tổ quốc không ? Quan niệm chung về hạnh phúc, về quê hương thật của người kitô hữu là Đức Kitô, là Nước Trời, nơi mà Đấng phục sinh đã có lần nói các học trò, với chúng ta: Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Lời Ngài hôm nay vẫn đang sống động với nhân loại: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy, vậy, các con hãy đi và nhân Danh Ba Ngôi làm phép rửa cho họ, dạy họ tuần giữ những điều Thầy đã truyền cho các con”. Quê hương, tổ quốc, gia đình, hay Nước trời, Thiên đàng, đều mang nghĩa thân thương, đoàn tụ xum họp một nhà, một Đại gia đình, một niềm tin yêu duy nhất, nơi mà người tín hữu hằng mơ ước được cư ngụ trong Đức Kitô hiệp thông.

Quê hương ta ở trong Đức Kitô Giêsu, ở nơi vương quốc ngập tràn tình liên đới yêu thương, hạnh phúc. Dù hiện tại chúng ta chỉ cảm nghiệm bằng đức tin, bằng sự bình an của Đấng phục sinh: tin, và tuân giữ lời Thầy Giêsu, người môn đệ sẽ đủ ơn, đủ sức mạnh, đủ hiểu, thế nào là “Thầy sẽ cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Quê hương của ta ở trên trời, nơi mà Đức Kitô qui tụ các môn đệ, các học trò, trong tình tương thân tương ái, một đại gia đình gồm tất cả những ai vượt thắng đau khổ, chu toàn bổn phận của người môn đệ theo Đức Kitô, sống giáo huấn Đức Kitô. Ở vương quốc trần gian: ở địa vị giầu sang, mùi mẫm hơn là được ở lâu đài tình ái, ở trong túp lều tranh với hai trái tim vàng không phai, đều mang dáng dấp đẹp, lời thơ ngọt ngào dễ nghe, còn có hạnh phúc bền vững đến đâu, vẫn bị coi là hên xui, mơ hồ.

Kinh nghiệm của người xưa cho rằng: có những thứ quý đến độ, người ta phải cúi mình xuống mới cảm nhận đủ giá trị thật của chúng, mới kiểm chứng được hết nét đẹp và tinh tuý của nó. Ở đời không ít trường hợp nhiều bằng cấp, tri thức dồi dào hơn người, nhưng họ phải thú nhận là họ thực sự bất hạnh ở cả nơi gia đình và xã hội, phải chăng họ còn thiếu điều nhỏ bé gì đó, chưa đủ khiêm tốn chẳng hạn ! Thánh sử Matthêu hôm nay nói là có một số các môn đệ còn hoài nghi, có phải các ông còn lăn tăn về tính xác thực việc Thầy sống lại, Thầy thất bại, chịu chết, sao Thầy lại nói là toàn quyền trên trời dưới đất ? Dù tin yêu Thầy Giêsu nhiều hay ít, dù thiếu khiêm tốn trong tương quan tình Thầy trò, Thầy vẫn chịu đau khổ, chịu chết, sống lại, minh chứng về tình yêu cứu độ, về quê hương thật, dành cho những ai trở nên môn đệ của Ngài. Người kiêu căng, kẻ tội lỗi, người thánh thiện, đức độ, có tự do để cúi mình sám hối hay không là tuỳ mỗi người.

Đấng phục sinh muốn nói nhiều với các môn đệ, với chúng ta hôm nay, nhưng gián tiếp Ngài cho chúng ta một chân lý: không có đau khổ thập giá, không có vinh quang hạnh phúc thật. Không có quê hương là chùm khế ngọt ở trần gian này theo nghĩa tương đối, hẳn cũng không mấy ai quan tâm, tìm kiếm quê hương thật của ta ở đâu ? Không có tình yêu vâng phục của Thầy Giêsu, cùng lắm người ta chỉ biết tình yêu đôi lứa, tình yêu cha mẹ với con cháu là cùng. Không có Chúa Giêsu chịu tử nạn phục sinh, làm sao các môn đệ và chúng ta là học trò có Chúa Thăng Thiên, làm sao các môn đệ và chúng ta đủ xác tín: quê hương thật của chúng ta ở nơi Đức Kitô, trong Đức Kitô. Amen.

Về mục lục

QUÊ THẬT TRÊN TRỜI

Pr. Lê Hoàng Nam

Sau một khoảng thời gian sống tại thế, thực thi những việc lành phúc đức, bị giết chết và đã sống lại, Đức Giêsu trở về Trời, là nơi Ngài đã ở trước đó. Các thánh sử đã nói về sự kiện này rất vắt tắt, ngắn gọn và hết sức bình thường, chứ không mô tả nó theo một cách thức hùng tráng và ly kỳ như những thước phim hay truyện cổ mà ta vẫn đọc. Tuy nhiên, nếu dành giờ suy nghĩ trong tâm tình cầu nguyện, ta sẽ thấy ẩn chứa nơi biến cố này những ý nghĩa hết sức thâm thúy và cả một lời mời gọi không thể cưỡng lại được.

Đức Giêsu về Trời. Ngài là con người đầu tiên được trở về nhà, kể từ khi tổ tiên loài người phạm tội. Ngày Adam và Eva bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng, cửa Thiên Quốc cũng đóng kín bấy lâu nay. Kể từ đó đến nay, không một con người nào được phép trở lại chốn hạnh phúc miên viễn ấy. Hậu duệ của họ phải sống một kiếp tha hương không bến đỗ, lây lất chỗ này chỗ kia. Đức Giêsu, trưởng tử của mọi loài, là con người đầu tiên mở toang cánh cửa đã bị niêm phong ấy. Đã đành đấy là nhà của Ngài trước khi giáng thế, nhưng lúc ấy, Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, mang bản tính Thiên Chúa, chứ không phải một Đức Giêsu có xương có thịt vừa là Thiên Chúa, vừa là con người như lúc này.

Khi Đức Giêsu bước vào cổng Thiên Đàng, Ngài đã mang theo cả bản tính con người về cùng Cha với mình. Từ đó, Ngài khơi lên trong chúng ta một niềm hy vọng lớn lao là một ngày nào đấy, chính chúng ta cũng sẽ được bước vào nơi ấy, nơi ngập tràn hào quang và ánh sáng nhiệm mầu của Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu về Trời, không phải để tìm về chốn an nhàn cho riêng mình, nhưng như chính lời Ngài nói: Ngài đi là để dọn chỗ cho mỗi người chúng ta để mai ngày, chúng ta cũng có một chỗ đứng bên cạnh Ngài. Cuộc hội ngộ khi ấy sẽ chẳng bao giờ tan.

Hình ảnh Đức Giêsu bước vào Thiên Đàng gợi cho chúng ta nghĩ đến cuộc khải hoàn quang vinh. Sở dĩ có được khoảnh khắc này, chính là nhờ Ngài đã can đảm đương đầu với thế lực sự dữ với tất cả sức mạnh từ niềm tín thác vào Cha. Ngài đã hiên ngang tiến thẳng vào tâm điểm của bóng tối để đánh đổ tất cả mọi âm mưu và quyền lực của tử thần. Ngài đã dũng cảm vác thập giá lên đồi cao và Ngài đã biến cây thập giá ấy thành vũ khí chiến đấu bất bại. Từng vết sẹo trên thân thể Ngài là dấu tích của một tình yêu bao la khôn kể xiết.

Giờ đây, Ngài về với Cha, Ngài hân hoan kể cho Cha biết là Ngài đã yêu Cha và thực thi những lời Cha truyền như thế nào, rằng Ngài đã có kinh nghiệm sống trong kiếp phàm nhân đầy ngang trái ra sao. Trong kiếp sống ấy, Ngài đã nỗ lực không ngừng để trao ban tình thương và âm thầm phục vụ người khác. Ngài đã không ngớt lời chia sẻ về Cha dấu yêu của mình cho bao người Ngài gặp gỡ. Ngài đã làm những phép lạ để trợ giúp những người nghèo, người bệnh, người bị xã hội bỏ rơi. Những gì Cha muốn Ngài làm, Ngài đã hoàn thành cách xuất sắc. Và giờ đây, nơi cung lòng ngọt ngào của Cha, Ngài vui hưởng niềm an vui thần nhiệm.

Một ngày nào đó, khi ta phải đối diện với Chúa Cha, ta cũng sẽ có cùng một thái độ như Giêsu chứ? Ta sẽ hân hoan chạy đến bên Ngài, khoe với Ngài những vết thương, là những chiến tích trong cuộc chiến đấu trường kỳ của ta, hay ta sẽ cúi đầu xuống, hổ thẹn vì đã chưa một lần dám chịu đau chịu khổ vì chân lý của Ngài? Chúa gửi ta đến trần gian này là để ta chiếu rọi ánh sáng của Chúa cho thế gian đầy tăm tối, để ta ướp mặn trần đời nhạt nhẽo này. Ta có chu toàn điều ấy không, hay chính chúng ta cũng bị bóng tối âm u của thế gian phủ lấp, và chính cuộc sống của chúng ta còn lạnh lùng và băng giá hơn cả người khác?

Sống trên đời này, chẳng bao giờ ta thấy mình không bị lôi vào những cuộc chiến nội tâm: chiến đấu giữa thiện và ác, giữa lòng quảng đại với sự ích kỷ, giữa việc cho đi và thu vén… Thay vì noi gương Đức Giêsu, ta dường như thấy mình thích thỏa hiệp nhằm mưu cầu thỏa mãn cho bản thân, hơn là đương đầu, chịu mang thương tích vì chân lý. Ngày nào đó, khi về với Cha, ta có gì tốt đẹp để khoe với Ngài không? Ta có dành sẵn món quà nào đó Ngài thích để tặng cho Ngài không?

Biến cố Đức Giêsu về Trời nhắc nhớ chúng ta một điều hết sức quan trọng, mà nhiều khi vì quá bận rộn với việc mưu sinh nên chúng ta hay quên, đó là: ngôi nhà thật sự của chúng ta không phải ở dưới thế này, nhưng là ở trên kia, nơi cung lòng của Thiên Chúa. Chúng ta sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Hành trình tại thế chỉ là một cuộc hành hương tạm bợ, là một cuộc hồi hương về đất hứa. Nơi thế gian này, ta vừa được thử thách, vừa được tôi luyện qua những cuộc chiến lớn nhỏ diễn ra trong cuộc sống và nội tâm của mình.

Cánh cổng Thiên Đàng đã được Người Anh Cả Giêsu dùng giá máu và cây thập giá mở toang. Người Anh ấy vẫn hằng dõi mắt theo chúng ta, trợ giúp chúng ta, khuyến khích chúng ta hăng hái lên đường làm chứng cho tình yêu Chúa, đón nhận lấy hết tất cả những đau thương mà cuộc đời mang đến vì danh nghĩa môn đệ của ta. Có một chỗ đã được dọn sẵn cho ta trên Thiên Đàng rồi, ta có đủ niềm tin và hy vọng để phấn đấu, tìm đến chỗ đó không? Điều đó tùy thuộc vào việc ta có những vết thương ở tay, ở chân, ở cạnh sườn để khoe với Chúa Cha, như Đức Giêsu đã làm không.

Ước gì chúng ta luôn biết kêu xin Chúa để Người ban ơn cho chúng ta, giúp chúng ta hướng nhìn về Trời mà thẳng tiến!

Về mục lục

SAO CÒN ĐỨNG NHÌN TRỜI

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong bài đọc I, một thiên thần nói với các môn đệ: “Hỡi người xứ Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1, 11).

Đây là một dịp để chúng ta làm sáng tỏ một lần cho tất cả khái niệm “thiên đàng” hay “trời” mà chúng ta nói đến có ý nghĩa gì. Trong quan niệm của hầu hết mọi người, nói đến trời là nói đến nơi cư ngụ của Thần Linh. Ngay cả Kinh Thánh cũng sử dụng ngôn ngữ theo nghĩa không gian này: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 14).

Nhưng với sự ra đời của kỷ nguyên khoa học, tất cả những ý nghĩa tôn giáo này được áp dụng cho từ “trời” hôm nay bị khủng hoảng. Các tầng trời là không gian mà trong đó hành tinh của chúng ta và toàn bộ thái dương hệ di chuyển, và không có gì khác. Có lẽ tất cả chúng ta đều nghe lời tuyên bố của phi hành gia Liên Xô, sau khi trở về từ chuyến đi của mình vào không trung: “Tôi đã bay vào không trung một thời gian dài và tôi không hề gặp thấy Thiên Chúa ở đâu cả!”

Do đó, thật là quan trọng để cố gắng làm sáng tỏ những gì mà chúng ta hiểu khi nói: “Lạy Cha chúng con ở trên trời” hoặc khi nói rằng có ai đó “đã lên thiên đàng.” Trong những trường hợp này, Kinh Thánh tự thích nghi với cách nói thông thường. Đó cũng là điều mà ngay cả trong kỷ nguyên khoa học, chúng ta vẫn nói rằng mặt trời “lên” và mặt trời “lặn.” Nhưng Kinh Thánh biết rõ và dạy rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, trên thiên đàng, trên trái đất và trong tâm hồn mọi người. Như thế, khi nói “Chúa ở trên trời” có nghĩa là Người “ở trong ánh sáng không thể tới gần được; ” như “trời cao hơn đất thế nào” thì Người cách xa chúng ta như vậy.

Chúng ta, những Kitô hữu, cũng đồng ý rằng khi nói về trời như là nơi ở của Thiên Chúa, chúng ta hiểu nó như một trạng thái của sự hiện hữu hơn là một nơi chốn. Nếu chúng ta nói về Thiên Chúa, thật là vô lý khi nói rằng Người ở “trên” hay “dưới, ” “lên” hay “xuống” theo nghĩa đen. Do đó, chúng ta không nói trời không tồn tại mà chỉ vì chúng ta thiếu các phạm trù để có thể diễn tả nó một cách đầy đủ và tương xứng, nên mới nói như thế. Chẳng hạn, khi chúng ta yêu cầu một người mù bẩm sinh mô tả cho chúng ta các màu sắc khác nhau: màu đỏ, màu xanh, hay xanh lam… Anh ấy không thể nói với chúng ta bất cứ điều gì bởi vì anh không có nhận thức được màu sắc như chúng ta nhận thức qua cặp mắt của chúng ta. Điều này giống như những gì liên quan quan đến “trời” và cuộc sống vĩnh cửu đối với chúng ta, nó ở ngoài không gian và thời gian.

Trong ý nghĩa mà chúng ta vừa nói, việc chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là gì? Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong Kinh Tin Kính: “Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Và Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết.”

Như thế, Chúa Kitô đã lên trời có nghĩa là Người “ngồi bên hữu Chúa Cha, ” nghĩa là, như một con người, Người đã bước vào thế giới của Thiên Chúa; Người đã được đặt làm Đức Chúa và là đầu của mọi sự, như thánh Phaolô nói trong bài đọc II.

Đối với chúng ta, “lên thiên đàng” hay về “thiên đàng” có nghĩa là bước theo và “sống với Chúa Kitô” (x. Pl 1, 23). Thiên đàng của chúng ta là Đấng Kitô Phục Sinh cùng với những ai mà chúng ta sẽ “làm nên” một “thân thể” trong ngày phục sinh của chúng ta. Đôi lúc chúng ta ước ao có ai đó trở về từ thiên đàng để bảo đảm với chúng ta rằng thiên đàng thật sự tồn tại chứ không phải là một ảo tưởng đạo đức. Nhưng điều đó không xảy ra. Có một Người, nếu chúng ta biết nhận ra Người – đã từ trời đến với chúng ta mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể, để bảo đảm cho chúng ta và làm mới lại lời hứa của Người, đó là Đấng Phục Sinh.

Những lời của các thiên thần nói: “Hỡi người xứ Galilê, sao còn đứng nhìn trời? ” cũng ẩn chứa một lời khiển trách: chúng ta không nên chỉ “đăm đăm nhìn trời” và suy đoán những điều xa xăm, nhưng tốt hơn chúng ta phải sống trong sự chờ đợi Người trở lại, bước theo Người, rao giảng Tin Mừng cho đến ngày tận thế, cải thiện cuộc sống hiện tại trong thế giới này.

Chúa Giêsu đã lên trời nhưng Người không xa rời trái đất. Người không còn hiện diện hữu hình với chúng ta nữa, nhưng Người hiện diện một cách vô hình với chúng ta. Như Người đã hứa với chúng ta trong Tin Mừng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Nên mừng lễ Chúa Giêsu lên trời mang lại niềm vui và hy vọng cho chúng ta cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Amen!

Về mục lục

 

CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM VUI

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Trong Mùa Phục sinh, lời cầu nguyện của Giáo Hội trong Phụng vụ luôn diễn tả niềm vui. Đó là niềm vui tái sinh, làm cho người tín hữu trở nên con người mới trong Chúa Giêsu Phục sinh. Đó cũng là niềm vui vì có Chúa Phục sinh đang hiện diện, là nguồn mạch sức sống, ân sủng và bình an. Niềm vui của cộng đoàn Giáo Hội và của mỗi người tín hữu không dừng lại khi Mùa Phục sinh kết thúc, nhưng còn được tiếp tục và dàn trải trong suốt cuộc đời. Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy trở nên những nhân chứng của niềm vui thiêng liêng thánh thiện ấy.
 
Trình thuật về việc Chúa Giêsu lên trời trong sách Công vụ Tông đồ được đề nghị cho cả ba năm A,B,C. Bởi lẽ đây là biến cố để lại nơi các môn đệ dấu ấn quan trọng. Đó là lần cuối cùng các ông được gặp gỡ Chúa ở trần gian. Cuộc tiễn đưa này, vừa lưu luyến bịn rịn, vừa vui mừng và hy vọng. Các ông đã được chuẩn bị trước cho cuộc chia tay này bằng các lời giáo huấn của Chúa. Các ông cũng được Chúa hứa sẽ ban Thần Chân lý, Đấng bảo trợ để soi sáng và hướng dẫn các ông. Về phần các ông, Chúa trao phó sứ mạng quan trọng và rõ ràng: “Anh em hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Khởi đi từ Giêrusalem, là thành thánh và là thủ đô của Do Thái giáo, lời chứng về Đấng Phục sinh đi đến với Samari là một dân tộc có nhiều thù nghịch với người Do Thái, rồi từ đó đến với mọi mọi nơi trên thế giới. Hai mươi thế kỷ đã qua, khởi đi từ nhóm mười một người dân chài người Galilêa, ánh sáng Tin Mừng đã được tỏa lan đến mọi nền văn hóa trên khắp địa cầu, đến với mọi quốc gia, mặc dù còn những thù nghịch, nghi kỵ hay mặc cảm thành kiến.
 
Tác giả sách Công vụ Tông đồ còn kể lại, sau khi dặn dò các môn đệ, Chúa Giêsu “được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người”. “Đám mây” mà tác giả nói tới ở đây là biểu tượng vinh quang của Thiên Chúa. Đây cũng là hình ảnh nói lên sức mạnh và quyền năng của Đấng Tối cao. Đức Giêsu lên trời là tiến vào vinh quang vĩnh cửu của Chúa Cha. Người kết thúc cuộc đời trần thế khi hoàn thành sứ mạng cứu thế. Chúa Giêsu về trời mang theo nhân tính của Người, và cùng với nhân tính ấy, cả nhân loại hy vọng cũng sẽ được về trời với Người. Nói cách khác, qua biến cố Đức Giêsu về trời, chúng ta là những con người cũng hy vọng sẽ được về trời vinh quang với Chúa, vì Chúa mang trong mình bản tính nhân loại giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
 
Bài Tin Mừng Thánh Mátthêu tiếp tục diễn tả lệnh truyền của Chúa cho các môn đệ: “Anh Em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đây cũng là một cách diễn tả khác của lệnh truyền hãy trở nên chứng nhân của Chúa giữa trần gian. Việc phát triển cộng đoàn tín hữu khởi đi từ những chứng nhân khả tín của mỗi cá nhân, nhờ đó nhiều người nhận ra giáo huấn của Chúa và gia nhập Giáo Hội của Người.
 
“Hỡi các người Galilê, sao còn đứng đó nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Chúng ta không cử hành lễ Thăng Thiên như sự ly biệt buồn bã u sầu. Trái lại, chúng ta mừng lễ này với niềm vui vì tin rằng Đấng Phục sinh đang tiếp tục hiện diện thiêng liêng và vô hình giữa cuộc sống của chúng ta. Giáo Hội diễn tả niềm vui ấy qua Kinh Tiền tụng lễ Thăng Thiên: “Người lên trời, không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước”.
 
Như các tông đồ đã xuống núi sau khi chứng kiến Chúa Giêsu lên trời, mỗi tín hữu chúng ta cũng đi vào lòng cuộc đời để làm chứng cho Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu không còn hiện diện thể lý như trước đây, thì nay Người hiện diện nơi cuộc sống thấm đượm niềm vui của người tín hữu. Vì thế, họ được mang danh Kitô hữu. Nhờ được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu có can đảm và nghị lực để trở thành những chứng nhân cho Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương con người và để cứu chuộc trần gian. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy xác tín điều đó. Vị Tông đồ dân ngoại đã cầu xin cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng chúng ta đã nhận được, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú chúng ta được chia sẻ và đâu là quyền lực vô biên Chúa đã tỏ cho chúng ta thấy (Bài đọc II). Khi xác tín những điều trên, cuộc sống của chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui mừng hân hoan.
 
Lễ Chúa Giêsu lên trời không phải là kết thúc, nhưng là khởi đầu một chặng đường mới, chặng đường của chứng nhân. Mỗi chúng ta hãy lên đường, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa, như Người đang mời gọi chúng ta.

Về mục lục

.

NIỀM HY VỌNG NƯỚC TRỜI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.

Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.

Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.

Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.

Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.

Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.

Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.

Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
  2. Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
  3. Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?

Về mục lục

.

CHÚA LÊN TRỜI, TA HÃY MẾN YÊU NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, Chúa lên Trời, chúng ta hướng tâm hồn lên với Chúa, và trông đợi Người lại đến như lời đã hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy ái mộ những sự trên Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả chứa đựng trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong… “. Và sau đó ” Người lên Trời ” (x. Cvtđ 1, 1- 11).

Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, “đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha“. Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Chúa từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông : ” Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất “(Cvtđ 1, 8 ). Thế là nhiệm vụ từ đây được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.  

Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha ban xuống, là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu “ đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa ” (Cvtđ 1, 4 ). Người nói với các ông : “các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28, 19 ). Căn cứ vào lời của Chúa Giêsu, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, nói cho thế gian biết về Nước Thiên Chúa và ơn cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô ” cho đến tận cùng trái đất “(Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo dù biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa Giêsu lên trời, và trở lại.

Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Chúa Giêsu đã và sẽ luôn sống trong Giáo hội như lời Người đã hứa : ” Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 20 ). Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc : ” Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy ” ( Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962 ). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.

Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ : ” Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu… “.

Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, ” vinh quang của Đầu ” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác ” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, ” Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7 , 25). Từ tòa cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha cho chúng ta, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.

Chúa Giêsu Vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời. 

Hướng về Mẹ Maria “Nữ Vương Thiên Ðàng”, chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu. Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC TRAO BAN

Anna Cỏ May

Mừng Chúa lên trời, cả trần hoan cất tiếng ca. Có lẽ Chúa Giêsu cũng rất vui, nhưng trước khi được rước về trời, Ngài đi thực hiện lời hứa với các môn đệ. Ngài đã hứa sẽ gặp các môn đệ ở Galilê. Ngài chỉ định cho các môn đệ đến đó chờ đợi Ngài.

          Các môn đệ đã thực hiện điều đó, các ông đến và chờ đợi Ngài. Chúa đến với họ như một người từ phía nào tới, chứ không phải từ trời xuống, khiến cho mấy môn đệ hoài nghi. Chắc hẳn, chúng ta sẽ thắc mắc tại sao mười một môn đệ là người thường ở gần Chúa, được nghe và thấy việc Ngài làm mà sao vẫn hoài nghi khi thấy Thầy. Có lẽ, trong số đó có người ở bên cạnh Chúa nhưng không để ý và không ở lại với Thầy nên Thầy có chút lạ thường thì liền hoài nghi.

          Khi thấy các môn đệ như vậy, Ngài tiến đến gần và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”(Mt 28,18-20). Lúc này đây, Ngài tỏ mình ra cho các môn đệ biết Ngài là chủ vũ trụ. Và đây cũng không phải là lúc dạy dỗ nữa mà là sai các môn đệ ra đi lên đường làm nhân chứng cho Ngài ở trần gian. Những gì Chúa Cha trao cho Ngài thì nay Ngài trao lại cho các môn đệ. Ngài không còn ở thế gian nhưng các môn đệ vẫn tiếp tục thực hiện việc Ngài làm và đem tình yêu đến cho mọi người. Chúa Cha đã trao ban cho Chúa Giêsu quyền trên muôn loài vũ trụ. Ngài là Đấng trung gian, là con đường đến với Chúa Cha, là vị thẩm phán quyết định mọi sự và là Đấng công lý và hòa bình. Quyền năng ấy, Ngài ủy thác trao ban cho các môn đệ. Ngài kêu gọi các môn đệ: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, là đưa muôn dân đến bước đầu của niềm tin, của ơn cứu độ; “làm phép rửa nhân danh Chúa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, để khắc ghi cho họ ấn tín đức tin và là cánh cửa vào của Nước Trời; “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”, vì có đức tin mà họ không thực hiện thì nào được ích gì. Chúa Giêsu trao quyền cho các môn đệ không có nghĩa là Ngài không còn ở bên các môn đệ nữa. Ngài vẫn ở cùng và ở mãi cho đến ngày tận thế. Ngài luôn đồng hành và gia tăng sức mạnh cho các môn đệ trên hành trình sứ mạng.

          Ngày nay, Hội Thánh tiếp nối sứ mạng của các môn đệ và chúng ta đang được mời gọi tham dự vào việc thờ phượng Thiên Chúa, loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người. Chúng ta hãy lên đường ra đi làm chứng cho Chúa trong niềm tin: “Chúa ở cùng chúng ta”. Chúng ta hãy vui mừng vì Ngài về trời chứng thực Ngài là con Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện đúng và trọn vẹn theo ý Chúa Cha. Ngài cũng không ngừng chuyển cầu ý nguyện cho chúng ta. Chúng ta hãy tôn vinh, ca tụng Ngài mãi mãi qua việc thực thi ý Ngài.

          Lạy Chúa Giêsu, Ngài về trời nhưng không để chúng con sợ hãi, bơ vơ và mồ côi. Ngài đã trao tặng những quyền năng của Ngài cho chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận hồng ân Ngài trao, để mau mắn lên đường đem tình yêu đến cho mọi người. Amen.

Về mục lục

.

ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI

Bông Hồng Nhỏ

Cuộc sống vốn dĩ không bình yên như ta mong đợi. Khi nhịp sống thường ngày bị đứt đoạn bởi những biến cố khiến ta không dễ vượt qua, ta chỉ mong cho qua khỏi cái tao đoạn khó khăn này. Những khó khăn cứ ập tới, khó khăn này chưa kịp đối mặt thì khó khăn khác đã đến như những đợt sóng vỗ liên hồi. Ta như chiếc thuyền không người lái, như cái nón không quai chòng chành trước gió.

Theo Thầy Giêsu, dù cuộc sống có lúc tưởng chừng như không thể vượt qua nhưng ta vẫn vững tin vào tình yêu Chúa. Bởi, Thầy chẳng bao giờ để chúng ta mồ côi.

Mới ngày nào, Thầy gọi các ông nơi biển hồ Galilê. Mối tình đầu ấy chắc hẳn vẫn còn khắc ghi trong tâm hồn bốn môn đệ đầu tiên. Thầy đã chọn và gọi các ông dù cho các ông chỉ là những con người yếu đuối, những ngư phủ ít học và suốt ngày chỉ biết bám biển mà sống. Hay dù chỉ là một Mátthêu tội lỗi bên bàn thu thuế… Tất cả các ông dù mỗi người có một quá khứ rất riêng nhưng chính Thầy đã chọn từng người và dành cho mỗi người một tình yêu không đổi dời.

Có mối tình nào đẹp hơn tình yêu Giêsu. Tình yêu ấy không dừng lại ở những điểm hẹn yêu thương nhưng tiến xa hơn thế, đẹp hơn thế nữa đó là: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20). Chúa Giêsu hẹn các Tông đồ đến Galilê, không còn ở biển hồ sóng vỗ nhưng lên núi. Tất cả những gì Thầy nhận được nơi Chúa Cha, Thầy đã ban tặng cho các ông rồi. Thầy đã sống lại và hiện diện trước mặt các môn đệ. Mười một môn đệ cùng đi tới nơi đã hẹn. Khi thấy Thầy, các ông bái lạy Người nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi. Tại sao vậy?

Phục sinh là một mầu nhiệm và bởi thế, dù đã được thấy Thầy tận mắt, được nghe lời Thầy nói nhưng các ông vẫn hoài nghi. Chỉ dùng lý trí làm sao chấp nhận nổi, nhưng khi đã được ơn đức tin và từ chính kinh nghiệm yêu Thầy, các ông mới có thể đón nhận được mầu nhiệm cao vời ấy. Có mấy ông còn hoài nghi bởi tình yêu các ông dành cho Thầy chưa đủ lớn nhưng không vì thế mà Thầy không yêu thương các ông. Thầy vẫn đến gần, ân cần trao ban lệnh truyền: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (x. Mt 28, 18- 20a). Thầy không nại vào những yếu đuối của chúng ta mà cất đi ơn thánh, nhưng đi từ những yếu đuối ấy, Thầy bày tỏ tình yêu nhưng không đến cùng. Thầy luôn bên cạnh chúng ta vì Thầy yêu chúng ta.  Chính trên ngọn núi ấy, Giêsu đã trở về cùng Chúa Cha. Người lên trời trước mắt các ông. Các ông đăm đăm hướng nhìn trời, lòng hoan hỉ và cảm tạ Thiên Chúa. Rồi một ngày, các ông cũng được chung phần với Thầy trên nhà Cha dấu yêu.

“Năm sự Mừng: Thứ hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu lên trời.  Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.” Lời kinh Mân Côi nhắc nhở mỗi chúng ta hướng lòng về quê thiên đàng. Nơi ấy, quê hương vĩnh cửa dành cho những ai nhiệt tâm sống Lời Chúa. Chúa Giêsu đã đi dọn chỗ cho chúng ta. “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở.” (Ga 14, 2). Tin tưởng vào tình yêu Chúa, chúng ta hãy nỗ lực canh tân đời sống, sống chứng nhân Tin Mừng giữa những biến cố của cuộc đời. Ước chi mỗi người Kitô hữu chúng ta luôn ý thức và cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình. Sứ mạng rao giảng Tin Mừng vẫn thôi thúc mỗi chúng ta ra đi đến với muôn dân, mang con tim của tình yêu Chúa đến với muôn người.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã lên trời nhưng Chúa vẫn ở mãi với chúng con. Đến với Bí tích Thánh Thể, chúng con được Chúa nâng đỡ và bổ sức thiêng. Xin cho chúng con biết chạy đến cùng Chúa để được Chúa yêu thương. Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi chúng con, dù cho chúng con yếu đuối và bất xứng. Xin Chúa đổi mới tâm hồn chúng con để chúng con biết hướng lòng về quê thiên đàng, ái mộ những sự trên trời và tránh khỏi cái nhìn hạn hẹp vì những phù vân chóng qua. Xin chúa thương ấp ủ chúng con trong bóng cánh của Ngài. Amen.

Về mục lục

.

ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI-

PM. Cao Huy Hoàng

 “Thứ hai thì gẫm: Đức Chúa Giêsu Lên Trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”

Những sự ở trên trời là những sự gì thì chỉ có người ở trên trời mới biết. Hồng Phúc thay! Chúa Giêsu, người ở trên trời, xuống thế làm người, rao giảng cho con người trần gian biết có một cuộc sống mới, có một cuộc sống thiêng thánh, cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… cuộc sống ấy ở trong Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Để có thể tin được rằng: có một cuộc sống khác với cuộc sống trần gian nầy, và để có thể biết được chuyện ở trên trời, thì chỉ có con người khiêm cung chấp nhận và vâng phục mạc khải từ trời, rồi sống mạc khải ấy mới thấu hiểu được.

Chúa Lên Trời, Chúa Thăng Thiên là cách nói diễn tả hình ảnh không gian mà các Tông đồ chứng kiến (Cv 1,9-11). Thực ra, phải nói là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, về với cuộc sống, với thế giới, nơi Ngài đã xuất phát để đi làm nhiệm vụ cứu thế… Sau khi sống lại Chúa Giêsu đã nói với bà Maria Madalena việc “về với Cha”,: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

Như vậy các biến cố tử nạn, Phục sinh và về cùng Chúa Cha đã nằm trong hoạch định ngàn đời của Thiên Chúa, trong đó, Lên Trời hay lên cùng Cha là đích điểm của Mầu Nhiệm Vượt Qua: Qua tử nạn, đến Phục sinh; qua Phục sinh ở trần gian, đến việc “Về Với Thiên Chúa Cha” trong đời sống Thiên Chúa vĩnh cữu. Và không chỉ về với Cha, mà còn tham dự vào quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa Cha trong Nước Ngài. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô còn xác quyết uy quyền của Chúa Giêsu là vương quyền, là Vua Vũ Trụ: “Đến thời viên mãn, Thiên Chúa qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ga 1,10), và là Vua Lịch Sử Cứu độ: “Thiên Chúa đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Kitô và đặt người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ga 1,22).

Lên trời là về cùng Chúa Cha và ái mộ những sự ở trên trời, chính là yêu mến, khát khao cho chính mình cũng được về với Thiên Cha trong vương quốc Chúa Giêsu. Để hiểu cho thấu mầu nhiệm vượt qua nơi Chúa Giêsu, và giải thích được như thế, chắc chắn người ấy đã kết hiệp với Chúa Giêsu cách chí thiết để sống mầu nhiệm vượt qua của chính mình: Được Thiên Chúa sinh ra trong đời, vượt qua sự ràng buộc, sự nô lệ của tội lỗi nhờ ơn tái sinh nơi giếng nước rửa tội; vượt qua những rào cản là những hấp dẫn của “những sự dưới đất”, đồng thời chấp nhận mất mát là tử nạn với Đức Kitô; vượt qua cuộc tử nạn hằng ngày để phục sinh tại thế nhờ cuộc sống siêu thoát và kết hiệp; và cuối cùng, chờ ngày vượt qua đời tạm nầy mà lên trời, mà về cùng Thiên Chúa Cha trong cuộc sống vĩnh cửu.

Thực tế là một thách đố to lớn đối với đời sống vượt qua của Kitô hữu công giáo, ở mọi thời, nhất là thời nầy, khi giá trị các sự ở dưới đất nầy đang nổi loạn đòi chiếm ưu thế trong đời sống các gia đình: tiện nghi vật chất thẩm định giá trị nhân bản nên phải đua đòi cho bằng chị, bằng em; người người khôn ra đang thụ hưởng những hiệu quả của một nền văn minh mà không cần nghĩ đến hậu quả thì ta dại gì mà phải khép mình trong lời mời gọi của Tin Mừng!

Buổi sáng thật tĩnh lặng, may ra nếu có, thì cũng chỉ mấy phút trong giờ kinh nguyện ngắn ngủi, sau đó là chuyện cơm áo gạo tiền làm cho cả ngày đời phải loay xoay toàn chuyện dưới đất. Thiết nghĩ, Chúa Giêsu biết rõ cái căn tính phàm phu tục tử trong mỗi con người, nên Ngài đã bàn giao công cuộc cứu thế vĩ đại của Ngài cho Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ.

Tưởng là Chúa Thánh Thần không nói gì, làm gì, nhưng Ngài đang nói tất cả, kể cả đối với những người đang cố quên sự hiện diện của Ngài; Ngài đang làm tất cả, kể cả đối với những người tránh né sự hướng dẫn, chỉ đạo, hay sự can thiệp tài tình của Ngài. Ngài soi sáng cho chúng ta việc “phải làm”. Ngài không soi sáng cho chúng ta việc “thích làm”. Cho dù có đôi khi ta vẫn đọc kinh “cúi xin Chúa sáng soi” trước những công việc ta thích làm cho danh ta cả sáng, hoặc cho “những sự dưới đất” được thành công, thì Chúa Thánh thần khôn ngoan vẫn dẫn dắt chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của sự dối trá trong lòng mình. Nhờ Ngài, mà thực tế thách đố kia không còn đáng lo ngại nữa, và đời sống tín hữu thật sự cảm nghiệm được ơn Ngài tác động-sáng soi hướng dẫn đời mình hướng về “những sự trên trời”, “ái mộ những sự trên trời”, chắc ăn hơn.

Và chỉ khi nào thực sự “ái mộ những sự ở trên trời”, thì có thể nói, chúng ta mới thực hiện nỗi lời di chúc của Chúa Giêsu : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,18-20)

Đây không phải là lời di chúc để thừa hưởng một quyền bính, nhưng là một chuyển giao đặc nhiệm quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa Cha: qui tụ mọi loài dưới quyền thủ lảnh của Chúa Giêsu Kitô, để mọi loài chung hưởng Tình Yêu vô biên và ơn cứu chuộc vĩ đại hơn tội lỗi con người. Nhiệm vụ đặc biệt ấy không chỉ trao ban cho các tông đồ, mà còn cho tất cả chúng ta hôm nay: Giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người để họ đón nhận chính Ngài qua bí tích rửa tội và dạy họ tuân giữ mọi điều răn của Ngài để được về với nguồn cội yêu thương và hạnh phúc vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” đồng nghĩa với việc anh em tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền để họ thấy mà ngợi khen Cha ở trên trời, vì gương sáng là lời giảng dạy tốt nhất.

Thực vậy, thời đại nầy người ta không tin người rao giảng, người ta có thể tin người sống lời rao giảng của mình. Vì thế, đòi hỏi tinh thần thoát tục và gương sống “ái mộ những sự trên trời” đối với những chứng nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Và không nên trách cứ ai, nếu họ dựa vào tiêu chuẩn “dính bén với các sự dưới đất” mà đánh giá cao thấp giá trị của người tông đồ Chúa hôm nay.

Có thể nói việc “dính bén với các sự dưới đất” của một chứng nhân gây nên việc phản tác dụng truyền giáo cách nguy hiểm, vì không những làm cho người ta không tin vào cuộc sống mới trong Nước Thiên Chúa, mà còn là cái cớ để người ta tin vào cuộc sống hiện tại này hạnh phúc hơn: cứ lao mình vào những chuyện dưới đất, như người rao giảng chuyện trên trời đã lao. Ôi thật nguy hiểm và thiệt hại cho công cuộc của Chúa Giêsu nếu chúng ta không sống tinh thần của Ngài trước khi loan báo Ngài cho mọi người.

Mừng Chúa Giêsu Lên Trời, một cơ hội cho mỗi tín hữu tự kiểm lại lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, tự kiểm lại lòng khát khao với cuộc sống vĩnh cửu đời sau, tự kiểm lại mức độ dính bén với các sự dưới đất, và nhất là tự kiểm lại hiệu quả làm chứng cho Chúa Giêsu, cho Nước Thiên Chúa của mình trong cuộc đời.

Mẹ Maria chắc chắn là mẫu gương “ái mộ những sự trên trời” hơn cả và loài người chúng con. Mẹ cũng là mẫu gương “chứng nhân Chúa Kitô” thật sống động vì lòng Mẹ luôn hướng về Nước của Thiên Chúa. Xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con sống mầu nhiệm vượt qua của đời mình, nhờ kết hiệp với cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, noi gương Mẹ chí thánh -cho chúng con xứng đáng hưởng hạnh phúc trong Vương Quốc của Chúa Giêsu, con chí ái của Mẹ- cho cuộc sống chúng con thực sự trở nên lời rao giảng Thiên Chúa cho mọi người. A-men.

Về mục lục

.

LỄ CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI

Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

            Chúa Giêsu sống lại là một mầu nhiệm khó hiểu, khó tin. Chúa lên trời càng là mầu nhiệm khó khiểu, khó tin hơn. Vì xưa nay chưa ai tự mình có khả năng đưa thân xác nặng nề bay bổng lên trời cao được. Nhưng sự gì con người làm không được, thì Thiên Chúa làm được. Đúng thế, cách đây gần 2000 năm, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng mình bay bổng về trời.

  1. Thánh kinh tả cảnh Chúa về trời như sau: Sau khi sống lại 40 đêm ngày, Ngài dẫn 11 tông đồ và 1 số đông tín hữu khác lên núi cao, ở đó Ngài phán một câu chứng tỏ Ngài đầy uy quyền: “Ta đã được mọi quyền trên trời dưới đất”.

            – Và trước khi Chúa về trời, Chúa Giêsu truyền lệnh cho các tông đồ tiếp tục công việc của Ngài ở trần gian: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, và làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

            – Ngài còn an ủi, khích lệ các tông đồ: “Thầy không để chúng con mồ côi. Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Nói đoạn, Ngài từ từ bay bổng lên trời, cho tới khi mây che không còn thấy Ngài nữa. Mắt họ dán lên trên trời cao, như nuối tiếc, như ước mong. Họ cứ đứng ngẩn người, cho tới khi hai Thiên Thần hiện ra bảo họ: “Hỡi người xứ Galilêa, các người còn đứng nhìn trời làm chi?”. Lúc đó, họ mới hoàn hồn. Họ trở về nhà tiệc ly để cầu nguyện và chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống.

  1. Nhưng tại sao Chúa về trời?

            – Chúa về trời, hay về thiêng đàng là nơi Chúa ngự, là nơi vĩnh phúc, là nơi các Thiên Thần và các thánh hưởng nhan Chúa.

  1. Người tín hữu sống đạo là theo Chúa. Nhưng làm sao theo Chúa về thiên đàng?

            – Muốn được về thiên đàng với Chúa, chúng ta phải giữ giới răn Chúa: Một chàng thanh niên đến hỏi Chúa: “Làm sao để được sống đời đời?”. Chúa trả lời: “Hãy tuân giữ giới răn Chúa…giữ giới răn Chúa sẽ hạnh phúc thiên đàng”.

            – Muốn được về thiên đàng, ta phải theo Chúa: “Chúa Giêsu đã phán: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Ai tin Thầy không đi trong tối tăm, không bước đi trong sai lầm, sẽ sống mãi ngàn năm”.

            – Muốn được vào thiên đàng, ta phải trung thành với Chúa: Chúa Giêsu đã từng dạy: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu độ”.

            Kẻ chạy đua trong vận động trường, muốn đoạt giải thưởng phải cố gắng từ đầu và “nước chót” càng phải cố gắng hơn. Thiên đàng cũng dành cho những kẻ cố gắng và cố gắng đến cùng.

            Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài nói với các tông đồ: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho chúng con”. Nhưng muốn dành được một chỗ trên nước trời, chúng ta phải tuân giữ giới răn Chúa, chúng ta phải đi theo Chúa, và phải trung thành với Chúa đến cùng.

            Lạy Con Một Chúa, Đấng cứu độ chúng con đã lên trời, xin cho chúng con sau này cũng được về trời với Chúa.

Về mục lục

.

HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!

Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14:26; 16:12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2:4).

Đối với Ki-tô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Ki-tô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.

Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giê-su, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Ki-tô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).

Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ – chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ – chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ – sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ – sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Ki-tô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Ki-tô Giê-su, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Tê-rê-xa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’

Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.

Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thương. Xin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để – vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương – con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. A-men.

Về mục lục

.

KHAI MỞ TRANG SỬ MÓI CỦA GIÁO HỘI

Lm. GB. Trần Văn Hào

gợi ý từ bài suy niệm của  Keith Witfield

 “Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” ( Mc 16,20)

Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.

Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng rất sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố Chúa về trời, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn trước đây. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người, trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).

Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa mới ‘rời bỏ’ các ông. Sự ra đi nào cũng để lại những sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại ‘ngập tràn niềm vui’. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý hóa giải những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình  đừng có lo lắng. Các ông sẽ không mất Ngài, nhưng Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.

Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thần Khí. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện cách tròn đầy. Các tông đồ ngắm nhìn Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về ‘Đấng sẽ đến’. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các học trò của Chúa Giêsu thâm tín rằng Thầy của họ đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Giêsu, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực của tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha mang đến cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:

-Đức Giêsu lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Dt 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

-Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng với Chúa Cha (1Ga 2,1).

-Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).

-Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết : “Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).

Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách Tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.

Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ đầy tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các Ngài một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.

Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.

Về mục lục

.

SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Xưa cũng như nay, Giáo Hội luôn quan tâm đến sứ mạng truyền giáo, bởi xác định đây là bản chất của Giáo Hội. Mất yếu tố này, chúng ta mất đi căn tính, hay nói đúng hơn, không phải là người Công Giáo đúng nghĩa, bởi lẽ đã là người Công Giáo, thì việc truyền giáo là của chúng ta, thuộc về chúng ta, vì thế, không lẽ gì chúng ta thờ ơ với sứ vụ này được!

Sứ mạng này được khởi đi từ Thiên Chúa Cha khi sai Con Một của mình xuống trần gian để loan báo về Nước Trời cho muôn dân và cứu độ nhân loại; bắt nguồn từ lệnh tryuền của Đức Giêsu cho các môn đệ trước khi về trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20); lệnh truyền đó đã được tiếp diễn trong suốt dọc dài lịch sử từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay và mãi về sau.

  1. Đức Giêsu ra đi, các Tông đồ, môn đệ tiếp bước

Lúc sinh thời, đã có lần Đức Giêsu mặc khải: “… tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi” (Ga 7, 29); khi sắp chia tay các Tông đồ để đi chịu chết chuộc tội thiên hạ, thấy các ông buồn bã vì sắp phải chia ly, kẻ đi người ở, Ngài đã củng cố niềm tin của họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1); Ngài căn dặn và an ủi thêm: “Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 2-3); Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã báo trước giây phút Ngài sẽ về cùng Cha của Ngài, Ngài nói:“Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

Qua lời dạy của Đức Giêsu, nhất là biến cố về trời của Ngài, Đức Giêsu mặc khải mà chúng ta biết, chúng ta có một nơi ở khác, nơi ở đó là một nơi tràn đầy hạnh phúc vì được diện kiến Thiên Chúa. Niềm tin này cũng được thánh Phaolô nói nhắc đến: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Ðức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3, 20). Còn gì hạnh phúc cho bằng, khi Nước Trời là cùng đích của ta, nơi đó, chúng ta sẽ được sung mãn nguồn tình yêu, và không bao giờ sợ mất nữa, nơi mà: “trộm cướp không thể lấy mất và mối mọt không thể gặm nhấm”.

Cuối cùng, Đức Giêsu đã được cất lên trời trước mắt các ông, để như lời Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã để lại cho các Tông đồ, môn đệ lệnh truyền của Ngài, để các ông ra đi loan báo và làm chứng nhân cho Ngài đến tận cùng trái đất, hầu mọi người sẽ được lên nơi mà Đức Giêsu đã mặc khải: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20).

Như vậy, sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ và môn đệ đã xuống núi để ra đi thi hành lệnh truyền đó của Đức Giêsu, bắt đầu từ Giêrusalem và đến tận cùng trái đất…

  1. Truyền giáo là bản chất của chúng ta

Nếu trước kia, Đức Giêsu truyền lệnh cho các Tông đồ và môn đệ lên đường loan báo Tin Mừng cứu độ, thì hôm nay, cũng cùng lệnh truyền đó, Ngài trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân.

Câu nói nổi tiếng của Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô cũng phải là nỗi thao thức của tất cả chúng ta:“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! ” (1Cr 9, 16); và, lệnh truyền của Đức Giêsu năm xưa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15), vẫn mãi là một lời mời gọi, luôn thôi thúc, mang tính mầu nhiệm và cấp thiết cho Giáo Hội cũng như mọi thành phần, qua mọi thời, mọi nơi.

Vì thế, ở bất cứ nơi đâu, ngoài việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, mỗi người phải thể hiện vai trò ngôn sứ mà mình đã lãnh nhận ngày chịu Phép Thánh Tẩy bằng và qua hành động. Trong nhiều cách thế, có lẽ là trở nên những chứng nhân của những lời loan báo là điều quan trọng và có tính khả tín.

Cách thức này đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI nói đến trong Thông điệp “Evangelii Nuntiandi”, ngài nói: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” số 41).

Thật vậy, truyền giáo và làm chứng chẳng khác gì như hai mặt trên một bàn tay, nên không thể nói rằng: tôi chỉ nói, loan báo về Chúa còn việc tôi sống là chuyện khác!

Trong thế giới ngày nay, con người dần mất đi cảm thức về tâm linh, từ đó như một hệ quả, họ sống trong sự thất vọng, bởi khám phá ra trong cuộc sống có nhiều điều không thỏa lấp được nỗi khát vọng thâm sâu trong tâm hồn của con người. Vì thế, là người kitô hữu trong thế giới hôm nay, chúng ta phải là những chứng nhân của niềm hy vọng, khi mang trong mình tràn đầy cảm nghiệm về Thiên Chúa. Thánh Phêrô cũng đã nói đến vai trò chứng nhân của niềm hy vọng, ngài nói: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).

Ngoài ra, làm chứng cho Chúa trong một xã hội đang dần mất đi tinh thần liên đới, trách nhiệm với nhau, là một tiêu điểm trong xã hội hôm nay mà chúng ta phải quan tâm, bởi lẽ, con người ngày nay họ luôn bị vô cảm, dửng dưng và ích kỷ, không muốn liên lụy đến bản thân. Thực trạng cho thấy: “không thiếu những cái đầu lớn, nhưng bên cạnh đó lại quá nhiều trái tim nhỏ”; hay “không thiếu gì cái đầu nóng, nhưng lại có trái tim lạnh”. Là kitô hữu, chúng ta được mời gọi dấn thân trong môi trường đang trở nên xa lạ đối với cuộc sống con người. Khi tiến bước và trở nên chứng nhân như thế, mỗi chúng ta trở nên một hình ảnh của Đức Giêsu hiền hòa, nhân hậu, bao dung, liên đới và sẵn sàng tha thứ cho mọi người. Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta: “ngửi thấy mùi chiên”.

Lạy Chúa Giêsu, lệnh truyền của Chúa khi xưa cho các Tông đồ, môn đệ cũng chính là lệnh truyền cho mỗi chúng con ngày hôm nay. Xin Chúa ban cho chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng tình thương. Tin Mừng cứu độ đến cho hết mọi người. Amen. 

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC KHI CHIA TAY

Trầm Thiên Thu

Sao lại hạnh phúc khi chia ly? Lẽ thường thì không, nhưng với sự kiện Chúa Giêsu về trời thì đúng là như vậy!

Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời và dưới đất (Mt 28:18), nhưng Ngài lại tự hạ đến tột cùng, bị sỉ nhục, bị khinh miệt, và bị coi không bằng tên gian ác khét tiếng Baraba. Thế nhưng Ngài vẫn có bản lĩnh của một người công chính. Không phải cứ đa số là đúng. Tìm cách hạ bệ người khác là chứng tỏ mình yếu kém!

Thế nào là quyền lực và bản lĩnh? Chúng ta hãy suy tư hai ý tưởng này:

  1. Người có quyền lực nhất là người có thể kiềm chế các thói hư tật xấu của mình, chứ KHÔNG phải là người độc đoán và áp chế người khác.
  2. Người có bản lĩnh nhất là người dám chê trách chính mình chứ KHÔNG phải là người chê cười và chỉ trích người khác.

Chúa Giêsu bị giết chết, người đời coi đó là thất bại, là “chấm hết”, thế nhưng Ngài đã sống lại hiển vinh, và rồi trở về trời với Chúa Cha – nơi Ngài đã xuất phát: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13).

Mừng lễ Chúa Thăng Thiên không chỉ là kính mừng Chúa Giêsu lên trời mà còn là dịp tái khẳng định tín điều mà chúng ta vẫn tuyên xưng: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, LÊN TRỜI ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng”. Thánh Phaolô cho chúng ta biết rằng nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chì là trống rỗng và vô ích, và như vậy chúng ta chỉ là những người hoang tưởng, thế nhưng Ngài đã thực sự sống lại và lên trời.

Lễ Thăng Thiên là một “cuộc chia tay” – Thầy trò đôi ngả, nhưng cuộc chia ly này không buồn thảm hoặc tuyệt vọng, mà tràn trề hy vọng và hạnh phúc. Tại sao Ngài về trời, và Ngài về trời làm gì? Để minh chứng và xác định lời hứa mà chính Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3). Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa!

Quả thật là kỳ diệu, Thiên Chúa mà hóa thành Con Người, Con Người mà là Thiên Chúa, vừa hữu hình vừa vô hình. Chắc chắn chẳng một thần linh nào như vậy. Chỉ có Thiên Chúa của chúng ta như vậy mà thôi, độc nhất vô nhị, duy nhất và tuyệt đối. Thánh Phaolô đã nói: “Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển” (1 Tm 3:16).

Chữ phải có ý nghĩa. Chữ nghĩa thật kỳ diệu. Người ta chỉ nói LÊN trời, TỚI trời, hoặc VÀO trời, vì người ta không xuất phát từ trời. Nhưng Chúa Giêsu nói VỀ trời, vì Ngài xuất phát từ Trời và từ Chúa Cha, Đấng ngự trên trời: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28). Người ta chỉ có thể VỀ nơi mà mình đã từng ở, còn nơi mình chưa ở thì không thể dùng động từ VỀ. Thế mà chúng ta cũng được Ngài cho phép VỀ trời với Ngài, dù chúng ta không xuất phát từ trời, dù chỉ là bụi tro xuất phát từ đất. Ôi, thật là vô cùng kỳ diệu!

Trong sách Công Vụ, Thầy thuốc Sử gia Luca đã viết: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:1-5). Chúa Giêsu về trời, nhưng rồi Ngài lại gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, đồng hành và hoạt động với chúng ta mọi nơi, mọi lúc, bởi vì Ngài “không để chúng ta mồ côi” (Ga 14:18).

Quả thật, tư tưởng loài người không cao hơn ngọn cỏ dại, tầm nhìn không vượt qua cái bóng của mình, thế nên khi nghe Đức Giêsu nói vậy, những người đang tụ họp ở đó tưởng rằng Ngài sắp sửa khôi phục vương quốc Ít-ra-en. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8). Vừa dứt lời, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn nhìn nhau rồi nhìn theo hút Ngài, chẳng hiểu ất giáp chi cả!

Ngay khi các ông còn đăm đăm tròn mắt nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Lời giải thích này cho chúng ta biết chắc rằng Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai vào một lúc nào đó, bất kỳ thời điểm nào mà chúng ta không thể biết được, thậm chí có thể là ngày mai hoặc hôm nay. Vì thế mà ai cũng phải sẵn sàng và tỉnh thức. Không chỉ vậy, với mỗi người còn là cái chết, vì tử thần có thể đến bất cứ lúc nào, không ai có thể ngờ được!

Kiếp phàm nhân là một chuyến đi, mỗi ngày tiến gần hơn một chút tới “miền cát bụi”. Cuộc đời Kitô hữu là cuộc lữ hành trần gian, là hành trình đức tin, và cũng là hành trình về trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho những ai tin nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).

Vâng, trên cả tuyệt vời bởi vì niềm vui quá lớn, nỗi mừng khôn tả xiết. Nhưng chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm nhân mà thôi: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành với khả năng riêng của mỗi người – nén vuông hay tròn, to hay nhỏ, dài hay ngắn cũng không thành vấn đề, quan trọng là phải sinh lời theo khả năng của chính mình.

“Cái tôi và sự hiểu biết tỷ lệ nghịch với nhau. Hiểu biết càng nhiều, cái tôi càng bé; hiểu biết càng ít, cái tôi càng to” (Albert Einstein, 1879-1955). Dẹp được “cái tôi” là có thể nên thánh, ai khôn ngoan thì làm được, chưa khôn ngoan thì hãy cầu xin. Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1:17-19a). Nhận biết Thiên Chúa là niềm hạnh phúc lớn lao, nhận biết Ý Ngài và vui mừng làm theo là niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Quả thật, chấp nhận và làm theo Ý Chúa là điều không dễ chút nào, vì chúng ta thường chỉ muốn “được như ý” mà thôi!

Để chúng ta khả dĩ hiểu rõ ràng, Thánh Phaolô giải thích: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:19b-23). Đức Kitô được Chúa Cha trao ban mọi thứ, nhưng Ngài không giữ riêng cho Ngài, mà Ngài lại muốn chia sẻ với chúng ta, muốn làm cho chúng ta cũng được sống viên mãn với Ngài, dù chúng ta không chỉ là phàm nhân mà còn là những tội nhân hoàn toàn bất xứng.

Thật là kỳ diệu, vì niềm hạnh phúc như điệp khúc cứ lặp đi lặp lại trong cuộc đời chúng ta, cả ngày lẫn đêm, trên suốt hành trình về trời. Không hạnh phúc sao được, bởi vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi quá nhiều, minh nhiên nhất là chúng ta được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, đặc biệt là cũng sẽ được về trời để tận hưởng cuộc sống trường sinh với Ngài.

Thánh ký Mátthêu cho biết rằng, một hôm có mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Bản tính nhân loại là thế, tận mắt thấy bao phép lạ mà vẫn chưa đủ tin, miêng nói tin nhưng bụng vẫn ngờ vực. Vả lại, họ cứ tưởng Đức Giêsu là chính khách, Ngài sẽ giành quyền độc lập cho Ít-ra-en từ bọn thực dân Rôma. Khi đó, Đức Giêsu đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Có lẽ nghe Ngài nói vậy thì họ càng cho rằng Chúa Giêsu đang làm chính trị thật, điều họ nghĩ không sai. Thế nhưng lại không phải vậy, Chúa Giêsu không bao giờ làm chính trị, và Phúc Âm cũng không là bản cương lĩnh chính trị.

Tuy nhiên, cuộc sống không ai lại không liên quan chính trị vì sự ác luôn đối đầu với sự lành. Bảo vệ công lý, chân lý và hòa bình là một dạng hoạt động chính trị. Đại đế Napoléon nhận định: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt”.

Người Công giáo là người mang hai “quốc tịch”, trước tiên là công dân của Nước Trời, và sau đó là công dân của một đất nước tại thế gian này. Trên đường lữ hành trần gian, với tư cách là công dân một đất nước, người Công giáo cũng tuân hành theo luật định của đất nước đó: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ” (Rm 13:1-3). Tuy nhiên, có một nguyên tắc mà không một người Công giáo tốt nào dám vi phạm: luật pháp trần gian đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa và Giáo Hội.

Mục đích của Chúa Giêsu hoàn toàn khác, không phải là làm chính trị để tranh giành quyền lức ở thế gian này. Đây là ước muốn của Ngài: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20a). Tức là Ngài bảo mỗi chúng ta phải vào đời. Chúa Giêsu biết sắp đến giờ phải trở về cùng Chúa Cha, nên Ngài căn dặn kỹ lưỡng. Ngài về trời nên Ngài bảo chúng ta vào đời để làm chứng về Ngài. Đó vừa là một tặng phẩm vừa là một mệnh lệnh, vừa là một đặc ân vừa là một trọng trách.

Trước khi về trời, lời cuối của Chúa Giêsu trên thế gian là một lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20b). Lời hứa đó đã được chứng tỏ rõ ràng nhất là Bí tích Thánh Thể, một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Biết rõ chúng ta yếu đuối nên Chúa Giêsu rất “tội nghiệp” chúng ta, Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14:8). Và lời hứa đó lại được thực hiện ngay lập tức: Ngài về trời rồi gởi Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta (Ga 14:16). Thánh Thể và Thánh Thần luôn đồng hành với chúng ta trên suốt Hành Trình Về Trời.

Phàm sự gì cũng có “mở” và “kết”. Tương tự, Hành Trình Về Trời được khởi đầu từ điểm SINH và kết thúc ở điểm TỬ. Hành trình đó có thể là “con đường” dài hoặc ngắn, không ai biết; “con đường” đó cũng có thể rộng hoặc hẹp, nhưng ai chọn đường hẹp thì tốt hơn đường rộng, càng thênh thang càng “dễ chết”, có thể “chết yểu”, “chết” trước kỳ hạn, “chết” ngay khi còn đang sống. Chết như vậy thì thật là nguy hiểm! Vì thế, chính Chúa Giêsu đã khuyên những ai thực sự muốn được trường sinh vĩnh phúc: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Không chỉ đơn giản như vậy, người ta còn phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp” (Lc 13:24). Cách nói rất “ngược đời”, nhưng phải dám “ngược” như vậy thì mới mong “xuôi” về vĩnh cửu.

Chúa Giêsu đã nhập thế và đau khổ đến tận cùng bảng số. Những người muốn về trời thì cũng không thể không đau khổ – cách này hay cách khác. Thánh nữ Faustina so sánh: “Như bệnh tật được đo bằng nhiệt kế, sốt cao cho chúng ta biết là bệnh nặng, đời sống tâm linh cũng vậy, đau khổ là nhiệt kế đo tình yêu Chúa trong linh hồn” (Nhật Ký, số 774). Đây là điều rất khó đối với bản chất phàm nhân, nhưng người ta có thể chấp nhận nếu cố gắng hiểu theo cách hiểu của Chúa và với tầm nhìn của Ngài.

Lạy Thánh Phụ, Chúa Giêsu trở về trời là dấu bảo đảm về sự sống vĩnh hằng mà con phải không ngừng cố gắng chiến đấu để khả dĩ đạt được. Xin mau ban Chúa Thánh Thần để đổi mới chúng con, làm cho chúng con can đảm làm chứng về Chúa Ba Ngôi. Xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình để xứng đáng lãnh nhận những gì Ngài đã hứa ban. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CHÚA THĂNG THIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Biến cố Đức Giêsu lên trời là một biến cố lịch sử. Vì biến cố này đã diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định, có sự chứng kiến của nhiều người và đã được sách Cộng Vụ Tông Đồ và các sách Tin mừng ghi lại. Bài đọc I cho chúng ta biết, sau thời gian thi hành nhiệm vụ ở thế gian, Ngài chịu nạn chịu chết, sống lại và hiện ra với nhiều người. Hôm nay, trước mặt các Tông đồ, Ngài được cất nhắc lên trời (x. Cv 1, 1-11). Cũng trong khung cảnh đó, bài Tin mừng cho chúng ta biết, theo lời hẹn trước, Mười một Tông đồ đã đến Galilê gặp Đức Giêsu. Trước khi lên trời, Ngài trao cho các ông sứ mạng loan báo Tin mừng (x. Mt 28,18-20).

Qua biến cố trên và qua những lời nhắn nhủ của Đức Giêsu, chúng ta thử hỏi: Biến cố Đức Giêsu lên trời nói gì với mọi người chúng ta hôm nay?

  1. Biến cố Đức Giêsu lên trời khẳng định cho chúng ta rằng: Có Thiên Đàng.

Có đời sau, có Thiên đàng là niềm tin căn bản của người Kitô chúng ta. Niềm tin này luôn được củng cố bởi Kinh Thánh.

Chính Đức Giêsu đã khẳng định: Ngài bởi thượng giới (x. Ga 8,23), Ngài tự trời mà xuống (x. Ga 6, 38). Ngài nói với Matha rằng: “Ta là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Ta thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: “Tôi bảo thật anh: Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43); Ngài nói với các Tông đồ: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”(Ga 14,2-3). Ngài khuyên nhủ mọi người rằng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6, 19-20); “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).

Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn chứng minh cho chúng ta về sự hiện diện của Thiên đàng: Trong dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó cho chúng ta biết: ông La-da-rô chết và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham (x. Lc 16, 18 – 31). Trong dụ ngôn những nén bạc: người đầy tớ tài giỏi và trung thành được vào hưởng niềm vui của chủ anh (Mt 25,21). Trong bài Tin mừng nói về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 41- 45) cũng cho chúng ta biết về phần thưởng của kẻ lành là được “thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn từ thuở tạo thiên lập địa”

Trong bài đọc II hôm nay, thánh Phaolô cho chúng ta biết: Đức Kitô đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được làm chúa muôn loài muôn vật: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,22-23). Ngài còn nói: “Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).

Tóm lại, tin vào sự sống lại, tin vào Thiên đàng là đức tin căn bản mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Và, biến cố Đức Giêsu lên trời một lẫn nữa củng cố đức tin của chúng ta.

  1. Biến cố Đức Giêsu lên trời giúp chúng ta sống niềm hy vọng sẽ được lên Thiên Đàng

Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn cho hết thảy mọi người được lên Thiên đàng. Bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Nhưng, Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người. Vì vậy, để được lên Thiên đàng, xin được nêu lên một số cách thế mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hiện sau đây: Đó là những kẻ tin và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu đã trả lời với ông Nicôđêmô rằng: “Tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,3); Đó là những người đi theo con đường thơ ấu thiêng liêng của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Nghĩa là họ trở nên như trẻ nhỏ, vì nước trời là của những ai giống như chúng (x. Mt 19,14); Đó là những ai thực hiện tám mối phúc thật (x. Mt 5,1-12), chẳng hạn như: Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ; Đó là những người tình nguyện sống khiết tịnh vì Nước Trời như các linh muc, tu sĩ (x. Mt 19,12) và những người từ bỏ mọi sự trần gian vì danh Chúa (x. Mt 19, 27-29); Đó là những người tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với Chúa (x. Mt 21,31-32), như người trộm lành (x. Lc 23,39-43), như Augustinô, như Maria Madalêna…; Đó là những người biết làm việc từ thiện, bác ái (x. Mt 6, 20; Mt 25,31-46); Đó còn là những người biết dọn mình xứng đáng để ăn uống Mình và Máu Thánh Chúa, vì “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”(Ga 6,54)…

Tóm lại, ai cũng có thể được lên Thiên đàng. Nhưng để được lên Thiên đàng cần thực hiện những điều Đức Giêsu chỉ cho như vừa nêu trên, và duy trì tình trạng đó, đặc biệt trong giờ kết thúc cuộc đời này. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nói rất rõ rằng: “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ ‘nhìn thấy Ngài’ mặt đối mặt” (Số 1023); “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy không trọn vẹn, dù không được chắc chắn sự cứu rỗi đời đời, phải trải qua sự thanh tẩy sau khi chết, cũng sẽ đạt được sự thánh khiết cần thiết để bước vào sự vui thoả của Thiên Chúa” (Số 1054).

  1. Biến cố Đức Giêsu lên trời mời gọi chúng ta thực thi bổn phận loan báo Tin mừng.

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại rằng: Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng. Ngài nói như sau: “Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng. Thiên Ðàng không có nơi cho người cùng khổ.”

Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng.”

Sau giấc mơ ấy, biết bao nhiêu người cùng khổ, cô đơn đã được chăm sóc và chết êm ái trong vòng tay yêu thương của Mẹ Têrêxa Calcutta và các nữ tu của Mẹ. Thế rồi, cùng đi với Mẹ Têrêxa lên Thiên Đàng là một đội quân đông đảo, họ là những người cùng khổ, cô đơn, những người bị bỏ rơi bên lề xã  hội. Thật đúng như ai đó đã nói: “Không ai lên thiên đàng một mình.” Đó là bài học cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay. Để lên Thiên đàng, không phải chỉ lo cho chính mình mà còn phải giúp cho người khác nữa, bằng việc chu toàn bổn phận truyền giáo. Bổn phận đó đã được Đức Giêsu đề cập đến trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.”(Mt 28,19).

Nhưng phải loan báo Tin mừng như thế nào? Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc rao giảng, rao giảng lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện (x. 2Tm 4,2), để có thể nói được như Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc cầu nguyện, hy sinh như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã làm. Đặc biệt, chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng một đời sống thấm nhuần Giáo huấn của Đức Giêsu trong gia đình, trong giáo xứ và ngoài xã hội. Đối với gia đình: vợ chồng luôn sống đúng với những lời cam kết trong Bí tích Hôn Phối bằng cách biết yêu thương chung thủy, giúp đỡ nhau phần hồn phần xác; cha mẹ biết tôn trọng sự sống, sinh sản và giáo dục con cái theo đức tin Công giáo; con cái kính trọng, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ, ông bà. Tất cả mọi thành viên trong gia đình biết siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích. Đối với giáo xứ: các thành viên luôn biết chu toàn những bổn phận mà Giáo xứ đề ra như tham gia các sinh hoạt chung của giáo xứ, đóng góp công của xây dựng giáo xứ, sống tình liên đới với mọi người xung quanh. Đối với xã hội: hãy luôn ý thức sống tinh thần truyền giáo nơi mỗi môi trường sống của mình bằng đời sống công bằng, bác ái, yêu thương.

Ước mong rằng, nhờ lời rao giảng, nhờ lời cầu nguyện và đặc biệt nhờ đời sống chứng tá của chúng ta nhiều người sẽ biết Chúa, biết tìm đến với Giáo hội để biết con đường tới Thiên đàng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lên trời và sẽ trở lại đón chúng con. Xin cho chúng con luôn xác tín mạnh mẽ  vào sự sống đời sau, biết sống niềm hy vọng và thực hiện những điều Chúa chỉ cho để được lên Thiên đàng. Đồng thời, xin cho mỗi chúng con luôn biết chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Amen.

Về mục lục

.

TRUYỀN THỐNG CỔ VÕ NỀN VĂN HÓA GẶP GỠ

 Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giêsu “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục Sinh (x. Mc 16, 19-20; Cv 1,1-11).

Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu việc Người trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (x. Ga 3,13). Lễ này nói lên việc nhân tính của Người tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (x. Ga 16,28; 17,5). Nó đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Chúa Giêsu ở trần gian và khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Vào chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha” trong thân xác vinh quang của Người rồi. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Luca, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giêsu dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, củng cố niềm tin của các môn đệ, hoàn tất việc giảng dạy và sai các ông đi rao giảng Phúc Âm.Với biến cố thăng thiên, Chúa Giêsu không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20) theo phương cách mới – theo quyền năng của Chúa Thánh Thần, với tư cách là Chúa của vũ trụ (x. Pl 2,10-11). (x.Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN).

Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ. Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

Chúa lên trời vì Người đã từ trời xuống: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Mầu nhiệm Chúa lên trời minh chứng cho nguồn gốc thần linh của Đức Kitô. Người không phải là phàm nhân được tôn lên hàng thần thánh. Người chính là Thiên Chúa có từ đời đời và mọi sự, mọi loài nhờ Người mà được hiện hữu. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa…Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).

Chúa lên trời với cung cách hiện diện mới, trao sứ vụ cho các Tông đồ và Giáo hội tiếp nối sứ mạng loan báo Tin mừng yêu thương.

  1. Hiện diện mới

Chúa Giêsu đã tiên báo với các môn đệ : “Thầy đến cùng Chúa Cha”. Lời này được lập lại 7 lần trong khung cảnh tiệc ly (x.Ga 14, 12.28; 16, 5.10.28; 17,11.13), đến nỗi trong số các môn đệ tự hỏi lời nói đó có ý nghĩa gì (Ga 16,17). Đối với Chúa Giêsu, Người không đi đến một nơi nào khác, nhưng Người đến với một người, đó chính là Chúa Cha. Chúa Giêsu coi cuộc sống ở trần gian và những hoạt động của mình như một hành trình đi đến với Chúa Cha, như một cuộc về trời với Chúa Cha. Khi hiện ra với Maria Madalena, Chúa Phục Sinh nói: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em (Ga 20,17). Như thế, Gioan không kể về việc “lên cùng Chúa Cha” như một “nơi chốn”, Người không đến một nơi chốn (trời), nhưng đến với một người, đó chính là “Cha của Người và cũng là Chúa của anh em”.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt.Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới. Các lời nguyện và Kinh Tiền Tụng của lễ Thăng Thiên cũng chứa đựng ý nghĩa này: “Người lên trời không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối, nhưng vì là đầu và là Thủ Lãnh, nên Người đã đi trước, để chúng con là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.

Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. 

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23).  Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa.Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người.Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

2. Trao Sứ Vụ

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. 

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

3. Truyền Thông nền văn hóa gặp gỡ yêu thương

Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Các Tông Đồ lên đường truyền giáo, cộng đoàn Giáo Hội được thiết lập và những bước chân không mệt mỏi của người loan báo Tin Mừng đã làm nên lịch sử Giáo Hội.

Có truyền giáo là có truyền thông, và bởi vì có truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1Ga1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo.Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.

Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngày nay các phương tiện truyền thông hiện đại, vốn là một phần thiết yếu của cuộc sống, cách riêng đối với những người trẻ” (Sứ điệp Truyền thông 49).

Trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông xã hội 51, Đức Thánh Cha Phanxicô đã so sánh công việc truyền thông như những chiếc máy xay, hằng ngày “xay ra” những thông tin để cung cấp “lương thực bổ dưỡng” cho người khác. Muốn xay ra được những “thức ăn bổ dưỡng” như thế, truyền thông phải mang tính xây dựng, cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và loại bỏ định kiến với người khác, hầu giúp mọi người có cái nhìn thực tế và tin tưởng đối với thế giới. Truyền thông phải truyền cảm hứng cho người-tiếp-nhận-thông-tin biết tìm đến với các thông tin tích cực, có trách nhiệm và cung cấp những câu chuyện mang “tin vui” đích thực.Câu chuyện sẽ mang “tin vui” đích thực khi chuyển tải được niềm hy vọng, ngay cả khi kể lại những sự kiện chất chứa nhiều thất bại cay đắng, vì biết rằng Đức Kitô vẫn hiện diện nơi các sự kiện ấy. “Tin vui” ấy chính là Đức Kitô, Đấng đã thực hiện lời hứa “Ta ở với ngươi” của Thiên Chúa.

Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.

Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.

Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” (Sứ điệpTruyền thông 50).

Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và tích cực loan báo tin vui bình an yêu thương.

Về mục lục

.

CHÚA VỀ TRỜI – CON VÀO ĐỜI

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Chúa về trời và con vào đời, là một ý tưởng hay, khi con người vẫn còn tại thế, Chúa Giê su luôn cầu nguyện cho: “Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.” (Ga 17, 13 – 15)

Nỗi nhớ

Người Kitô hữu sống trong trần gian này là một khởi sự tiến về quê hương đích thật của mình. Đó là quê hương của mình, một quê hương, chính Chúa Giê su đã ban tặng khi Người về trời, ngự bên hữu Chúa Cha.

Niềm tin mộc mạc đó xác tín điều Chúa hứa: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 3 – 4).

Nỗi nhớ hoài hương luôn thổn thức con tim người lữ hành trần thế. Một nỗi nhớ không nguôi, hằng khao khát Người ơi!

Đường về trời.

Con người vốn sinh ra ở dương thế, được sinh ra và lớn lên, sinh sống và chết đi cũng ở trái đất này, hoặc mai sau có định cư ở một hành tinh nào khác vẫn thuộc về thế giới này, làm sao biết đường về trời?

Câu hỏi cơ bản đó, Thánh Toma cũng hỏi Chúa Giê su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? (Ga 14, 5).

Câu hỏi rất lý thú, vì ai chẳng mong về trời, ngay cả những người lương dân, khát mong của họ cũng là ra khỏi kiếp nhân sinh mà đến nơi ở mới, không khổ đau, không còn chết, thoát vòng luân hồi…

Đường nào về trời?

Con người có thể dùng máy bay, bay cao trên trời, nhưng vẫn cần đáp xuống một nơi nào đó họ muốn đến. Con người có thể dùng phi thuyền để lên cao hơn, xa hơn, nhưng vẫn cần trở về trái đất. Câu hỏi vẫn còn đó, trời ở đâu? Con đường nào dẫn đến trời?

Có thể làm dập tắt khát mong về trời được không, khi không biết đường về trời? Chắc chắn là không thể dập tắt, dù muốn dù không, Thiên Chúa cũng đã đặt vào trong con người sự khát mong về vĩnh hằng, bất tử. Thánh Augustine đã nhận ra: “Chính Chúa thúc giục con người tìm sự vui thỏa trong việc ngợi khen Ngài, vì Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Chúa.”

Về Trời.

Chỉ có người từ trời xuống mới biết đường về trời. Trong câu truyện với Nicôđêmô, Chúa nói với ông: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.” (Ga 3, 13). Chỉ có một con đường về trời và gười dẫn đường là Chúa Giêsu Kito6.

Nơi bắt đầu con đường về trời.

Khởi đầu hành trình về trời bắt đầu từ ngay nơi trần thế này chứ không phải ở đời sau. Giữa những bộn bề lo âu, những thử thách gian nan, những cám dỗ trần tục, những thú vui chóng qua đời này và cả những ảo tưởng về hạnh phúc, con người vẫn băn khoăn con đường về trời đích thật. Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6, 33 – 34)

Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.

Chúa đã về trời, nơi đó con người đã thấy mình nơi Thiên Chúa trong Chúa Giêsu. Người mang hai bản tính về trời: Thiên Chúa – con người. Bởi vậy, khi con người tự nhiên không thể vươn tới Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã mang lấy chính bản tính con người, trở thành con người giữa nhân loại để tỏ bày cho con người và nhìn đến từng người mà thông ban chính mình Thiên Chúa.

Con người chỉ có thể nhận biết mình là ai và đi về đâu khi họ nhận biết về Thiên Chúa, như thánh Augustine cầu nguyện: “Lạy Chúa! Xin cho con biết Chúa, để cho con biết con”.

Thiên Chúa tự thông ban chính mình nên con người mới có thể gặp gỡ và cầu nguyện, rồi nhận ra chính mình. Linh mục Romano Guardini đã cảm nghiệm: “Thiên Chúa nhìn con người có nghĩa là là Ngài ban cho từng người một khuôn mặt độc đáo. Tôi là tôi nhờ Ngài nhìn tôi. Sức sống của linh hồn tôi được cưu mang từ cái nhìn của Thiên Chúa yêu thương. Đây là một điều cao trọng vô cùng, một huyền nhiệm sinh phúc. Thiên Chúa là Đấng âu yếm nhìn chúng ta: nhờ cái nhìn của Ngài, mọi sự hiện hữu, nhờ cái nhìn của Ngài, tôi hiện hữu, tôi trở thành chính mình” (R. Guardini- Thiên Chúa hằng sống, tr. 37-39).

Chúa về trời. Xin cho chúng con nhận ra mối phúc lớn nhất cuộc đời của mỗi chúng con đã được khởi sự ngay ở đời này để được về trời cùng Chúa. Tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính làm thỏa cơn khát của chúng con về ở lại trong Chúa.

Về mục lục

.

HIỆP NHẤT TRONG TIN YÊU

JM. Lam Thy

Suy niệm Lời Chúa Chúa nhật VII/PS-A, nếu chỉ đọc bài Tin Mừng (Mt 28, 16-20) thì không thấy tác giả trình thuật biến cố thăng thiên, mà chỉ trình thuật Lời Đức Giê-su sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Để được rõ hơn phải suy niệm bài đọc 1 (Cv 1, 1-11) và bài đọc 2 (Ep 1, 17-23). Bài đọc 1 trích dẫn Lời tựa sách Công vụ Tông đồ (Cv 1, 1-5) và biến cố Thăng thiên (Cv 1, 6-11). Đặt tâm trạng mình vào tâm trạng các Tông đồ cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”, kẻ viết bài này bỗng băn khoăn tự hỏi “Trời ở đâu?” Chợt nhớ đến một truyện cổ (Truyện “MẶT TRỜI XA GẦN” trong Cổ Học Tinh Hoa – Quyển thượng). Truyện kể rằng:

Một hôm Đức Khổng Tử ra chơi ngoài đồng, thấy 2 đứa trẻ cãi nhau, hỏi tại sao, thì 1 đứa nói rằng: “Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở gần ta hơn, và buổi trưa ở xa ta hơn”. Nó lý luận: “Mặt trời lúc mới mọc to như cái bánh xe, đến giữa trưa nhỏ như cái bát ăn, thì chẳng phải xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là gì?” Còn một đứa cãi: “Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, và buổi trưa ở gần ta hơn”. Nó lý luận: “Lúc mặt trời mới mọc thì mát mẻ, đến giữa trưa thì nóng nực, đó chẳng phải gần ta mới nóng, xa ta mới mát là gì?” Đức Khổng Tử nghe nói không giải quyết được ra làm sao. Hai đứa bé cười bảo: “Thế thì cho ông là người đa tri thế nào được” (Liệt Tử). Một nhà thông thái bậc thầy như Khổng Tử mà còn “bó tay.chấm.com” đến nỗi bị trẻ chê không phải là người biết nhiều (đa tri), huống hồ là bàn dân thiên hạ bình thường!

Chính vì thế, Thiên Chúa mới phải ”dùng sự bất toàn của con người để công bố Lời Toàn năng, dùng miệng lưỡi nhơ uế của con người để nói Lời Chí thánh”. Nói cách khác, với sự bất toàn của con người, nếu không được vén tấm màn che bí mật ra thì mãi mãi vẫn ở trong u tối, không thể hiểu được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm. Không hiểu biết thì làm sao mà mộ mến, tin yêu? “Vô tri bất mộ” là điều tất nhiên thôi. Vì thế, Thiên Chúa phải mạc khải (vén tấm màn lên) để con người hiểu rõ, mà muốn mạc khải thì phải làm sao để con người nhìn thấy tận mắt họ mới tin (“Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng.” (1Sm 16, 7)

Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Vâng, hiện tượng “Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.” (Mc 16, 19) đã được diễn ra rất cụ thể trước mắt tất cả mọi người hiện diện, cũng chỉ cốt để họ tin rằng Đức Giê-su đã chết, đã sống lại và lên trời. Rõ ràng Thiên Chúa thương yêu loài người như con cái, Người luôn luôn muốn đến với con cái để thể hiện tỉnh yêu vô bờ bến đó. Khốn nỗi loài người lại bất toàn, u mê tăm tối, không hiểu ra được ý nghĩa cao quý vô song đó. Vì thế, tấm màn che phủ bí mật cần phải được vén lên, được mở ra (mạc khải). Quả thật “mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người”, nên chi con người cần phải đáp trả tình yêu vô lượng đó, mà cách đáp trả vẹn toàn nhất chính là niềm tin, là đức tin vậy. Vâng, “Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” (Thánh Au-gus-ti-nô).

Còn một điểm nữa khi suy niệm bài Tin Mừng hôm nay khiến phải lưu tâm. Đó là trong khi các thánh sử đều tường thuật sơ qua việc Chúa lên trời, thì chỉ có thánh Lu-ca trong sách Tông Đồ Công Vụ có tường thuật thêm một chi tiết rất đáng để suy niệm, đó là “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 9-11).

Các Tông đồ đã được “thực mục sở thị” mầu nhiệm thăng thiên của Thầy mình, cũng tức là đã được củng cố đức tin vững vàng về mầu nhiệm Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, xuống thế làm người, chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người, đã sống lại và thật sự lên trời vinh hiển. Những việc làm, những Lời dạy của Thầy đã là hiện thực 100%. Vậy thì còn “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” làm chi nữa, bởi chính Thầy đã dạy “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20). Lời thiên sứ “Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” cũng đã được Thầy nhắn nhủ từ trước: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 2-3). Người còn nói rất rõ chính Người sẽ đến: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.” (Mt 25, 31).

Biến cố Chúa lên trời chỉ là một cách Thiên Chúa mạc khải cho con người dễ hiểu mà thôi. Còn thực chất trời không phải là một không gian cố định nào và kể từ khi Chúa phục sinh thì Người không còn bị giới hạn bởi thân xác phàm tục nữa, mà là cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người còn ở khắp mọi nơi “cả trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ nữa”. Như vậy là đã rõ, trời không phải là ở chỗ này hay chỗ kia, ở trên cao hay dưới thấp, mà là ở khắp mọi nơi. Chúng ta vẫn thường nói khi con người sống thánh thiện là đã nên thánh giữa đời, lên thiên đàng ngay ở trần gian này. Và quả thật chỉ có như thế thì mới có “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20) được.

Vấn đề quan trọng không phải là cứ đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy, để mà tiếc nuối, hoặc để mà thắc mắc xem trời ở đâu và Thầy lên trời sẽ cư ngụ chỗ nào (kiểu như những con người ở thế kỷ XXI này thắc mắc); mà là hãy nhớ lại lời Thầy đã truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (Mt 28, 19). Vì thế, nên “Các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Sở dĩ các Tông đồ tiên khởi làm được như vậy, chính là nhờ các ngài đã có một lòng tin sắt đá vào Thầy của mình, bởi “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” (Mc 16, 17-18).

Có thể kết luận, khi Thiên Chúa đến với con người bằng con đường mạc khải, thì tại sao con người lại không đến với Thiên Chúa bằng con đường đức tin? Vâng, chính đức tin là con đường giúp con người tìm gặp Thiên Chúa để khám phá ra một số ‘con đường giúp nhận biết Người. Những con đường này còn được gọi là “bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa”, không theo nghịa bằng chứng khoa học tự nhiên, nhưng theo nghĩa những “luận chứng đồng quy và có sức thuyết phục”, giúp con người biết chắc có Thiên Chúa.” (Giáo lý HTCG, điều 31). Đồng thời với việc tin và hành động, người Ki-tô hữu còn phải sống chứng tá bằng cách sống cụ thể trong tin yêu và hiệp nhất với anh em trong Chúa Ki-tô Phục Sinh. Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Chúa, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách chân thực. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình thật hùng hồn trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu, thậm chí có nhiều khi con còn hoài nghi cả chính mình về một niềm tin con đã chọn cho đời mình! Vậy mà con lại luôn miệng chia sẻ niềm tin ấy cho mọi người, khiến người nghe cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ trên môi miệng, những lời giả dối… Thật chẳng khác “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, ). Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHỐN QUÊ MÌNH Ở ĐÂU?

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Có ai đó nói rằng: “Người ta có thể ở trăm nơi nhưng quê thì chỉ một. Người ta có thể đi đến khắp chốn nhưng ga khởi hành thì chỉ một – chốn quê mình” 

Quê hương hai tiếng gọi nồng ấm yêu thương và cũng rất linh thiêng trong lòng mỗi người. Dù quê hương giầu có hay nghèo nàn người ta vẫn yêu quê hương, vẫn tự hào về nơi mình đã sinh ra. Thế nên, trong giao tiếp khi gặp nhau lần đầu, người Việt thường có câu hỏi thăm: “Anh, chị quê ở đâu?”. Câu hỏi cũng là lời chào, chào bằng một câu hỏi, biểu cảm, thân tình. Câu chào để khởi đầu câu chuyện từ quê hương của nhau, của kỷ niệm, của tự hào và hạnh phúc. . .
Vậy quê hương là gì mà trân quý vậy?

Thưa, Quê hương là từ để mỗi khi nhắc tới ta lại được vé trở về tuổi thơ với chân trần đi rong chơi khắp xóm, hay lon ton dép đứt cố đua với anh chị đón mẹ đi chợ về.
Quê hương là cánh đồng lúa xanh thơm mùi cỏ, mùi bùn; là cánh đồng lúa vàng rụm và tiếng ếch kêu đêm đêm. Nơi đó có cánh diều tuổi thơ êm ả thanh bình.

Quê hương cũng gọi là “Quê nhà” là từ gợi cho những ai đi xa nỗi thao thức trở về để xà vào lòng mẹ, để nằm đong đưa chiếc võng tre. Chỉ cần nghe hai tiếng quê hương nơi mỗi người đều xót xa nhớ nhung như câu ca dao xưa:

“Chiều chiều ra trước ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”,

Chúa Giê-su cũng có một quê hương. Ngài cũng nhớ da diết quê ấy. Ngài mong từng giờ được về quê ấy sau những ngày tháng tha hương nơi lữ thứ trần gian. Ngài cũng rất tự hào khi nói về chốn ấy. Chốn ấy bình an, hạnh phúc. Chốn ấy không có khổ đau chỉ có niềm vui hạnh phúc của Chúa Cha yêu Chúa Con mãi mãi.

Điều hạnh phúc là chốn ấy cũng là quê hương của mỗi người chúng ta. Vì chúng ta đều là con Chúa nên cũng cùng được thừa tự gia tài trên trời với Chúa Giê-su.

Hôm nay Chúa về Quê Trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Ky-tô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang Phục Sinh của Chúa sẽ mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho kiếp người chúng ta.

Hôm nay chúng ta mừng Chúa về Trời. Mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa. Mừng Chúa đã hoàn tất cuộc đời trần thế của mình trong vâng phục và thi hành thánh ý Chúa Cha một cách trọn vẹn. Sứ vụ của Chúa đến trần gian giúp con người đánh bại tử thần, và mang lại quyền làm con cái Thiên Chúa cho con người. Sự kiện Chúa về Trời cũng mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng sau những bể dâu cuộc đời chúng ta cũng có một bến bờ yên bình hạnh phúc là quê Cha trên Trời. Chúa về Trời cho chúng ta quyền hy vọng sẽ được lên trời với Chúa nếu biết đi trên con đường của Chúa. Con đường của hy sinh phục vụ. Con đường dấn thân cứu đời. Con đường sống vì lợi ích của tha nhân.

Cuộc đời của mỗi con người đều gắn với một sứ mạng phải hoàn thành, một công việc để thi hành. Đó chính là bổn phận mà Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta khi bước vào trần thế. Xin cho chúng ta luôn biết kiên nhẫn chu toàn bổn phận Chúa trao. Xin cho chúng ta luôn theo gương Chúa Giê-su tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Xin đừng vì những đam mê trần thế mà bỏ bê bổn phận của người con với Cha trên trời. Amen

Về mục lục

.

LỄ CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI-

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Lễ Chúa Giêsu lên trời là một trọng những lễ trọng nhất của năm phụng vụ. Do đó, lễ Chúa Thăng Thiên mang một ý nghĩa quan trọng và có một chiều kích lớn lao đối với Giáo Hội. Lễ Chúa Thăng thiên có thể được mường tượng như một cuộc đua tiếp sức giữa các vận động viên trong một thế vận hội hay một Sea games nào đó. Các vận động viên chuyền gậy từ vận động viên này tới vận động viên khác vv…Đây là hình ảnh và sứ mạng Chúa Giêsu Phục sinh giao cho các môn đệ và chúng ta làm chứng cho Ngài giữa thế giới và rao giảng, loan báo Tin Mừng cho các dân tộc.

Lễ Chúa Giêsu lên trời cho chúng ta hay Chúa Phục Sinh không còn hiện diện trước mặt các môn đệ một cách hữu hình nữa, Ngài có mặt cách vô hình.Bởi vì, khi Phục Sinh, Chúa đã hiện ra và ở với các môn đệ bốn mươi đêm ngày để chứng minh cho các môn đệ rằng Ngài đã sống lại khải hoàn.Giờ đây Ngài về cùng Cha và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, Chúa Phục Sinh vẫn luôn đồng hành với các môn đệ, với Giáo Hội “ mọi ngày cho đến tận thế “.Đây là bảo chứng niềm tin cho các môn đệ, cho cả Giáo Hội. Chúa truyền lệnh, trao sứ vụ rao giảng và lời hứa ở cùng Giáo Hội luôn mãi, minh chứng Chúa Phục Sinh luôn tin tưởng vào các môn đệ, tin tưởng Giáo Hội trong sứ mạng loan truyền Lời Chúa và giúp các môn đệ, giúp Giáo Hội củng cố niềm tin và hy vọng đạt được Nước Thiên Chúa. Ngài sai các môn đệ :” Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Các con là những chứng nhân cho Thầy “.

Vâng, cách đây 2017 năm, Chúa Phục Sinh đã chuyền cho các môn đệ, các tông đồ chiếc gậy tượng trưng cho công cuộc cứu độ và công việc truyền giáo của Ngài. Các môn đệ có sứ mạng tiếp tục chuyền cây gậy cho những người khác và cho chính chúng ta. Nên, thao thức của các môn đệ cũng chính là thao thức của mỗi người chúng ta là thực hiện điều Chúa truyền. Tin Mừng các môn đệ, Giáo Hội và mỗi người chúng ta phải loan báo, đó là rao giảng Chúa đã Phục Sinh. Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi nhân loại, tội lỗi thế gian, nhưng nay Ngài luôn sống và lên trời, Ngài mở ra cho nhân loại, cho chúng ta một viễn tượng vinh quang mai sau. Ngài hướng mỗi người chúng ta và nhân loại về Nước Thiên Chúa : là Nước cùng đích chúng ta phải tới mai sau.

Chúa Thăng Thiên mở ra cho chúng ta, cho nhân loại một lối sống mới :” sống ở đời nhưng chúng ta phải hướng về Quê Trời, là nơi ở vĩnh viễn cho chúng ta “. Hướng về trời, nhìn lên cao sẽ giúp nhân loại, giúp mỗi người chúng ta vượt thắng, đẩy lui những tình cảm thấp hèn, những sự xấu xa của thế gian, ma quỷ, để hướng về Thiên Chúa, hướng về một tình yêu tuyệt đối, tình yêu cao cả, tình yêu vô biên là chính Đức Giêsu Phục Sinh. Tình yêu cao vời giúp chúng ta hướng trọn về Chúa, hướng về Quê Trời. Tuy nhiên, khi hướng về trời, chúng ta không quên được những thực tại trần thế, không quên sứ mạng, bổn phận Chúa Phục Sinh trao phó là rao giảng Tin Mừng tới tận cùng thế giới với tất cả lòng nhiệt thành, hăng say vì biết rằng lúc nào Chúa Phục Sinh cũng đồng hành với chúng ta.

Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa :” Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được; nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài để cho người ta chà đạp lên nó.Cũng thế, các con là ánh sáng cho thế gian, là thành phố xây trên núi, nên không thể dấu kín được…Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ, để họ nhìn xem việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” ( Mt 5, 13-16 ).

Lạy Chúa, Xin sai Thánh Thần đến để giúp chúng con nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện, đang đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1.Chúa về trời để làm gì ?
2.Chúa giao cho các môn đệ và cho chúng ta sứ mạng gì ?
3.Hướng về trời, nhưng chúng ta có được sao nhãng những bổn phận ở trần gian không ?
4.Bổn phận ở trần gian của chúng ta là gì ?

Về mục lục

.

TRAO QUYỀN

Lm Vũđình Tường

Sau khi hoàn tất mọi sự trên trần thế Đức Kitô về trời, đoàn tụ cùng Chúa Cha. Truớc khi về trời Đức Kitô trao toàn quyền cho các môn đệ, thánh sử Mathew 28,16-20 tóm gọn những lời nhắn nhủ trên trong năm câu cuối cùng trong phúc âm của ngài. Lời nhắn nhủ cuối cùng trở thành nguồn sống cho các tông đồ và những ai đặt niềm tin vào Đức Kitô. Giáo Hội coi lời nhắn nhủ trên là sứ mạng của các Kitô hữu, sống, tin và loan truyền niềm vui Phục Sinh cho toàn thể nhân loại. Kitô hữu được mời gọi trở thành tông đồ hoạt động và hướng dẫn, giúp những người chưa biết Đức Kitô trở thành tông đồ hoạt động để họ tiếp tục công việc loan báo Tin Mừng cho muôn thế hệ. Họ sống niềm vui Phục Sinh và yêu thương nhau để qua đó người ta nhận biết khuôn mặt Đức Kitô trần thế qua các môn đệ Ngài.

Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất. vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Mt 28,18

Lời nhắn nhủ đầu tiên thật rõ ràng khi Đức Kitô loan báo cho các tông đồ là Ngài có toàn quyền trên trời, dưới đất và sai các tông đồ ra đi huấn luyện những người tin theo thành tông đồ. Sứ mạng này không dành riêng cho một dân tộc nào, và cũng không có giới hạn thời gian. Sứ mạng loan báo cho toàn thể nhân loại và chấm dứt vào ngày tận cùng của vũ trụ. Ngày lễ Đức Kitô về trời được coi như ngày ra trường của các tông đồ. Các ông được chính Đức Kitô giáo huấn, chỉ bảo và nay Ngài về trời các ông chính thức đảm nhiệm công việc loan báo Đức Kitô Phục Sinh. Nguồn vui chung cho cả nhân loại. Đức Kitô về trời nhưng Ngài không để các ông mồ côi, Ngài sai Thánh Thần Chúa xuống hướng dẫn, chỉ bảo thêm cho các ông trong cánh đồng truyền giáo.

Kitô hữu được mời gọi giúp các người có lòng chân thành trở thành tông đồ Chúa. Để làm được công việc đó họ được chia sẻ quyền năng Chúa ban. Khi thực thi quyền năng Chúa ban họ không được tự í muốn làm gì thì làm nhưng phỏng theo cách Đức Kitô thực hiện quyền năng của Ngài. Không còn cách nào tốt hơn để tỏ lòng trung thành, quí mến Đức Kitô bằng cách thực hiện việc xử dụng quyền năng Chúa ban theo cùng cách Đức Kitô thực hiện khi Ngài sống nơi trần thế. Để làm được điều trên Kitô hữu cần liên kết mật thiết với Đức Kitô bởi Ngài là nguồn sống, là sự sống của Kitô hữu. Liên kết với Đức Kitô để sống theo Ngài và giúp người khác nhận biết Ngài. Nguồn sống Đức Kitô trao ban không phải tự mình Ngài mà chính là nguồn sống của Ba Ngôi Thiên Chúa và đây cũng là công thức thanh tẩy của Kitô hữu khi em bé lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy em được thanh tẩy trong một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Đây là công thức thanh tầy hoàn vũ của các Kitô hữu. Lãnh nhận bí tích trên chúng ta trở thành con cái trong đại gia đình Chúa, trở thành anh chị em trong Đức Kitô.

Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dậy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em c.19

Mặc dù về cùng Chúa Cha Đức Kitô không để các Kitô hữu mồ côi, Ngài sai Thánh Thần Chúa xuống hướng dẫn, chỉ bảo các Kitô hữu trong cánh đồng truyền giáo và trong cuộc sống hàng ngày của các tín hữu. Lời hứa ở cùng các Kitô hữu được tiên tri Isaiah loan báo hàng ngàn năm trước về việc Đức Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai với tên là Emmanuel có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đức Kitô nhắc lại lời tiên tri loan báo xưa Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel Is 7,14

Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế Mt 28.20

Mừng lễ Đức Kitô về trời là mừng mầu nhiệm Thiên Chúa cùng lúc ngự bên hữu Chúa Cha, đồng thời cũng luôn đồng hành với các Kitô hữu trong cuộc sống của mỗi người.

Về mục lục

.

CÙNG LOAN TIN MỪNG VÓI CHÚA GIÊSU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng hôm nay cho biết đang khi Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ để lên trời thì Ngài lại hứa ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế. Làm sao vừa lên trời xa cách các môn đệ lại vừa ở lại mãi với các ông được?

Xin mượn một thí dụ để giải thích điều nầy: Nếu tôi chỉ có một quả cam và tôi muốn phát cho một ngàn người hiện diện trong nhà thờ nầy, mỗi người một quả, thì điều đó không thể thực hiện được.

Nhưng nếu tôi có một điều khôn ngoan, chẳng hạn điều tôi học được từ Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì!” rồi tôi đem “phân phát” điều khôn ngoan đó cho cả ngàn người ngồi nơi đây, thì mỗi người đều có thể nhận được nguyên vẹn một điều khôn ngoan y như nhau.

Thế đó, nếu chỉ có một đơn vị vật chất hữu hình (như một quả cam) thì ta không thể đem ban phát cho nhiều người, mỗi người một đơn vị được; nhưng trái lại, điều gì thiêng liêng không lệ thuộc vật chất thì ta có thể đem “phân phát” cho nhiều người và ai cũng được lãnh nhận trọn vẹn món quà đó như nhau.  

Tương tự như thế, khi Chúa Giê-su lên trời, chính là lúc Ngài chấm dứt sự hiện diện trong thân xác hữu hình để trở nên Đấng vô hình, thì Ngài không còn bị lệ thuộc vật chất, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, nên Ngài có thể hiện diện trong tâm hồn mọi tín hữu và mỗi người đều có Ngài hiện diện trọn vẹn trong bản thân mình.

Chúa Giê-su ở với chúng ta để làm gì?

Là để đồng hành với chúng ta trên hành trình rao giảng Tin mừng như lời Ngài mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ… hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. (Mt 28, 19-20) Như thế, hôm nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngài qua chúng ta.

Nhưng có người tự nghĩ rằng: Bản thân tôi yếu kém mọi bề, làm sao tôi có thể tham gia vào sứ mạng cứu độ của Chúa Giê-su được? Xin hãy tin rằng điều này có thể được nếu chúng ta biết tựa nương vào Chúa.

Lúc mới lên năm, tôi được cắp sách đến trường để học những con chữ đầu tiên. Cô giáo đầu đời của tôi là một nữ tu. Vì tôi không thể tự mình viết được bất cứ chữ gì, nên Dì nắm lấy bàn tay nhỏ bé của tôi, để bàn tay bé xíu của tôi nằm gọn trong bàn tay của Dì và như thế, Dì kèm cho tôi viết nên những con chữ đầu đời.

Hôm nay Chúa Giê-su đang ở trong mỗi người chúng ta như lời Ngài phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ngài tha thiết kêu mời chúng ta hợp tác với Ngài trong việc loan Tin mừng và cứu độ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)

Còn rất nhiều người chưa nhận biết Tin mừng của Chúa Giê-su. Tâm hồn họ là những trang giấy trắng. Chúa Giê-su rất muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé yếu đuối của chúng ta để viết lên trong tâm hồn họ những trang Tin mừng về Thiên Chúa là Cha yêu thương, về mọi người là anh em một nhà, về tình huynh đệ không biên giới… Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Điều quan trọng là chúng ta có bằng lòng để cho Ngài thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài qua chúng ta hay không.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa khao khát cho nhân loại được cứu độ và Tin mừng được thấm nhập vào tâm hồn mọi người, và Chúa muốn thực hiện khát vọng đó qua những người phàm yếu đuối như chúng con.

Xin giúp chúng con biết hiến dâng đời mình cho Chúa toàn quyền sử dụng, biết đặt bàn tay nhỏ bé của mình nằm gọn trong lòng bàn tay Chúa, để Chúa viết nên những trang Tin mừng trong tâm hồn nhân loại.

Về mục lục

.

THIÊN TÍNH CỦA CHÚA GIÊSU

P. Trần Đình Phan Tiến

Khởi đi từ bài dọc I hôm nay ( Cv 1, 1- 11), chúng ta thấy Thiên Tính của Chúa Giêsu thật rõ ràng , minh bạch đến độ không ai có thể so sánh, biện minh, hay chối từ nữa. Một Thiên Tính duy nhất, người được rước lên trời trước mặt các tông đồ. Chúa Giêsu không bày tỏ Thiên Tính khi Người Phục Sinh, nhưng , Người bày tỏ Thiên Tính khi chịu phép Rửa tại Sông Giodan, Biến Hình trên Núi Tabor. Nhưng, Thăng Thiên là mầu nhiệm bày tỏ Thiên Tính rõ nhất, bởi vì, không một phàm nhân nào thể hiện được điều đó. Qua mầu nhiệm Thăng Thiên chúng ta tin vào mầu nhiệm Chúa Giêsu có hai bản tính, một là Nhân Tính, hai là Thiên Tính. Mầu nhiệm Giáng Sinh không ai nhìn thấy, ngoại trừ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Người, thánh Cả Giuse , Dưỡng Phụ của Người, thì không ai nhìn thấy. Mầu Nhiệm Phục Sinh mở ra , không ai nhìn thấy, vì , mầu nhiệm Phục Sinh chưa tiết lộ phần Thiên Tính của Chúa Giêsu, Con Chí của Thiên Chúa.

Theo đó, chúng ta thấy, Mầu nhiệm Phục Sinh là Người bày tỏ hoàn toàn phần hữu hình, Mầu nhiệm Phục Sinh còn liên quan hoàn toàn đến sự hữu hình của Người. Để minh chứng sự hiển nhiên phần Nhân Tính, tức sự hữu hình của Chúa Giêsu. Vì vậy mầu nhiệm Phục Sinh đi liền với mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Giêsu, vì khi sống lại, Người biểu lộ trọn vẹn phần Nhân Tính của Người, dù giây phút Người Phục Sinh không thụ tạo nào được chứng kiến. Điều nầy nói lên , khi  Chúa Giêsu Người đã hoàn tất mầu nhiệm” Đau Khổ”, tức cái chết để cứu chuộc nhân loại, thì không còn thế lực nào làm chủ Người được nữa.

Từ giây phút Phục Sinh đến lúc trở về Trời, hôm nay, tức Mầu Nhiệm Thăng Thiên , Chúa Giêsu hoàn toàn làm “chủ” khi xuất hiện nơi nầy, nơi khác, không còn thế lực nào làm chủ Người được. Vì vậy, chúng ta thấy được phần Thiên Tính của Chúa Giêsu ngay khi Người từ cõi chết sống lại, yếu tố nầy thật quan trọng đem lại cho chúng ta một niềm kính tin sùng mộ, bởi vì không một thụ tạo nào làm được như vậy. Có thể nói sau khi Phục Sinh, Người bày tỏ Thiên Tính của Người bởi Thiên Chúa mà ra, nên chi sự xuất hiện của Người trong thời gian nầy là sự sự xuất hiện của một Ngôi Vị Thiên Chúa Nhập Thể làm Người để cứu chuộc loài người trọn vẹn cả Nhân Tính và Thiên Tính.

Tin Mừng (Mt 28 , 16 -20) hôm nay là Tin Mừng Lễ Thăng Thiêng, bậc lễ ngang bằng với Lễ Giáng Sinh và Phục Sinh, bởi vì là Lễ trọng, (Lễ Họ) Lễ cầu cho giáo dân, (chỉ khác là không có tuần bát nhật ). Thánh Matthuê không ghi lại chi tiết Thăng Thiêng của Chúa Giêsu, cũng như bốn thánh sử, không thánh sử nào ghi chi tiết mầu nhiệm Thăng Thiên. Thánh Marco ghi : “ Nói xong, Đức Giêsu được đưa lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa “. ( Mc 16, 19). Còn thánh Luca ghi : “ Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên Trời.” ( Lc 24, 51).

Như vậy, Thăng Thiên là mầu nhiệm siêu nhiên thuộc về Thiên Tính của Đấng Cứu Thế làm Người Giêsu – Kitô, cũng như mầu nhiệm Phục Sinh thuộc về Thiên Tính hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Nhưng , khác với Phục Sinh, sau mầu nhiệm Thăng Thiêng Người không còn hiện diện hữu hình nơi trần thế. Tuy nhiên, Người vẫn hiện diện trong Thiên tính hoàn toàn với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. ( Mt 28, 20b). Có thể nói,  Thăng Thiên là mầu nhiệm Phục Sinh hoàn tất, Alleluja !

Như vậy, thư Epheso, thánh Phaolo cho chúng ta biết Đức Giêsu- Kitô được siêu tôn trên tất cả mọi quyền lực, chính là Thiên Tính nơi Người. (Ep, 1, 17 -23)

Theo đó, Thăng Thiên là một mầu nhiệm được các chứng nhân tiên khởi là các môn đệ của Chúa Giêsu. (Cv 1, 1- 11). Vâng, bốn con số một của sách Công Vụ Tông Đồ là đoạn Thánh Kinh ghi lại và làm chứng mầu nhiệm lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Ngôi Lời làm Người Giêsu- Kitô. Đồng thời minh chứng Thiên Tính nơi Người trong Nhân Tính của một Đấng Cứu Độ duy nhất./. Amen

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ hoàn hoàn uy quyền Thần Tính của Chúa cho chúng con trong mầu nhiệm Thăng Thiên, là Người biểu lộ sự uy quyền trong Thiên Chúa . Xin cho chúng con biết thần phục suy tôn Người trong mọi biến cố cuộc đời, trong mọi nghịch cảnh, vì Người hằng ở cùng chúng con cho đến tận thế. Amen.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI

Lm. Jos. DĐH.

ai nói ngược nói xuôi, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Câu thành ngữ đó có phải chỉ nhằm khích lệ động viên hay còn có ý nhắc nhớ hãy tự tin cho hành trình phía trước ? Đích đến thành công hạnh phúc đúng là mơ ước của con người, lý tưởng đó điểm hẹn đó, đối tượng nào chẳng bị thu hút, vì vậy mà ý chí vững chắc như “kiềng ba chân” không phải là chuyện nhỏ trong đời ta. Chia sẻ cho người thân bạc tiền thì không khó, truyền lại kiến thức và kinh nghiệm cho họ sẽ phức tạp hơn, chỉ giúp anh chị em mình ổn định về đời sống tinh thần thật không hề đơn giản ! Hiểu về niềm vui hạnh phúc ở hiện tại đã là quá khó đối với các tông đồ, hôm nay Thầy Giêsu còn có ý định hướng dẫn các học trò của Ngài hiểu và sống sứ mạng tông đồ ở phía trước.

Hạnh phúc vì được no ấm về đời sống vật chất, đời sống tinh thần, hoặc tin yêu, nhớ tới đấng bậc sinh thành đã an nghỉ, vẫn là điều người ta có thể thấy và cảm nhận được. Xưa các tông đồ và hôm nay chúng ta, để hiểu: “Thầy đã được toàn quyền trên trời dưới đất,….”, tất cả chỉ thấy, cảm nhận được ý nghĩa và lời dạy đó bằng niềm tin yêu. Tiền nhân chúng ta cho rằng: khi một người sống hết mình vì người khác, thì cũng đồng nghĩa với việc người đó đã quên đi chính bản thân mình. Đức Giêsu không đợi đến lúc thầy trò ly biệt mới bày tỏ lời nói việc làm yêu thương, Ngài cũng không chờ đợi tới biến cố “Thăng Thiên”, mới chia sẻ sứ mạng loan báo Tin mừng cho các học trò, hạnh phúc Nước Trời là gì.

Đức Giêsu đã thật sự quên mình để diễn tả niềm vui hạnh phúc đời đời cho các học trò, Đức Giêsu đã tự nguyện chết đi và sống lại để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Hạnh phúc đời đời đã đến với các môn đệ từ khi các ông hiểu biết và sống niềm tin Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Ơn cứu độ đã đến với tất cả những ai đang sống đức yêu thương và tuân giữ mọi điều Thầy Giêsu truyền dạy, niềm vui và ơn ban sẽ hiện thực mãi trong Đấng Kitô. Cha ông có để lại kinh nghiệm: nhà nghèo mới biết con thảo, nước loạn mới biết tôi trung. Đức Giêsu không cần ta phải là con nhà nghèo, cũng không đợi chiến tranh loạn lạc mới hé mở thế nào là hạnh phúc thật, Ngài sẽ hiện diện như một phần thưởng cho những ai sống giới luật yêu thương.

Chúa Thăng Thiên hay Chúa về trời là cách diễn tả Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó ; lên thiên đàng hay tận hưởng vinh quang phục sinh cũng là hạnh phúc đời đời dành cho những ai đi con đường của Thầy Giêsu. Nước trời hay thiên đàng, ta không cảm nhận được bằng lý trí, tai mắt tự nhiên, ta không thấy không thể nghe, nhưng bằng yêu thương và lòng mến, ta sẽ tin Nước Trời là nơi có sự hiện diện của Chúa, là cùng đích mà Chúa hứa ban. Khác với ở thế giới hiện tượng, với xã hội trần thế, họ nghĩ phải có ba thứ cơ bản để đạt danh vọng địa vị: thứ nhất hậu duệ, thứ hai tiền tệ, thứ ba quan hệ.

Trong tương quan yêu thương, người ta vẫn gọi đó là những âm giai đầy phức tạp của tình cảm, vì có người chỉ gặp một lần đã bén duyên, và họ mất cả đời người cũng không thể quên ; có những người gặp hoài, gặp mãi, thế nhưng không có gì để nhớ, để yêu… Theo Đức Giêsu, là học trò của Đức Giêsu, không chỉ để nhớ hay để quên, mà là được trở nên sứ giả của tình yêu thương, được tỏa chiếu hồng ân cứu độ Thiên Chúa ban. Các tông đồ không hiểu biến cố Chúa về trời, thì các ông cũng được an ủi với lời hứa: “Thầy sẽ ở cũng các con mọi ngày cho đến tận thế”, nếu các ông tuân giữ lệnh Thầy Giêsu truyền. Người Kitô hữu chúng ta hôm nay chưa hiểu hạnh phúc đời đời là gì, ít nhiều chúng ta cũng được mời gọi tin và sống giáo huấn của Đức Giêsu, trở nên môn đệ của Ngài.

Ca dao có câu: công cha nghĩa mẹ cao vời, nhọc nhằn chẳng quan suốt đời vì ta. Đạo làm con, phải sống hiếu sống thảo với đấng bậc sinh thành, đạo làm người không thể quên nghĩa trước tình sau, đạo làm con Chúa và Hội thánh ta không thể quên nguồn gốc tổ tiên là Nước Trời. Điều hệ trọng trong “đạo” không phải là yêu nhiều hay yêu ít, giữ lề luật từ thuở nào, mà là trong tương quan ta có yêu thương, có sống thuận sống hòa giữa anh chị em mình đến đâu ? Lệnh truyền của Chúa, không hệ tại ơn gọi làm giáo sĩ tu sĩ hay giáo dân, nhưng là do mỗi người đã nhân danh tình yêu Ba Ngôi thế nào, và sống niềm tin sự hiện diện của Thầy Giêsu đang đong đầy ơn ban cho ta là sự thật đến mức nào. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA VỀ TRỜI VÀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Ai có dịp đến phi trường có thể dễ dàng chứng kiến những cảnh ngậm ngùi chia tay nhau, kẻ ở người đi lưu luyến. Dù là chia tay nhau để đi Mỹ, di du học, vẫn không thể che dấu được những giọt nước mắt của những người thân thương dành cho nhau.

Hôm nay, Chúa Giêsu và các tông đồ, sau bao năm gắn bó, đã phải chia tay nhau, cuộc chia tay này dù lưu luyến, nhưng lại tràn đầy niềm vui và hy vọng. Thày trò chia tay nhau không phải là dấu chấm hết, nhưng chỉ là kết thúc một giai đoạn đã qua và mở ra một giai đoạn mới với sứ mạng mới và tinh thần mới.

Chúa về trời sau khi đã hoàn tất sứ mạng Thiên Chúa Cha trao phó. Là một vị Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chấp nhận từ bỏ địa vị cao sang của mình để mang thân phận con người và bước vào cuộc sống trần gian. Ngài mang lấy trong mình tất cả những giới hạn, yếu đuối và đau khổ của con người, chấp nhận cái chết đau đớn nhục nhã vì yêu mến Thiên Chúa và để cứu chuộc nhân loại. Thiên Chúa đã dùng quyền năng để làm cho Chúa Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, tiêu diệt tử thần và ma quỷ, và nay, Ngài trở về trong vinh quang khải hoàn của một vị Thiên Chúa. Chúa về trời không phải là từ bỏ con người, nhưng để chuẩn bị chỗ cho mỗi chúng ta, Ngài đi trước mở đường để dẫn chúng ta theo sau. Chúa về trời để khẳng định cho chúng ta về niềm hy vọng, về quê hương đích thực của mỗi chúng ta là Nước Trời chứ không phải ở trần gian này.

Chúa về trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện trên trần gian này nữa, nhưng chỉ là thay đổi cách thức hiện diện mà thôi. Ngài thay đổi từ việc hiện diện hữu hình bằng xương bằng thịt đến hiện diện thiêng liêng bằng tình yêu và quyền năng. Sách Công Vụ đã diễn tả khẳng định này khi nói: Người được cất lên ngay trước mặt các ông và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Thánh Kinh vẫn dùng hình ảnh mây bao phủ để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa, nay sách Công Vụ cũng dùng hình ảnh đám mây quyện lấy Ngài để diễn tả Chúa Giêsu trở về với thế giới thần linh của Ngài. Chúa Giêsu vẫn hiện diện trước mắt chúng ta, chúng ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt thịt, nhưng vẫn có thể thấy Ngài bằng con mắt đức tin.

Chúa về trời để mở ra một giai đoạn mới, một sứ mạng mới cho Giáo Hội. Tin Mừng Matthew kể lại: Chúa Giêsu hẹn gặp các tông đồ trên một ngọn núi, khi đến nơi, thấy Ngài, các ông đã bái lậy Ngài. Điều đó chứng tỏ các tông đồ đã hoàn toàn thay đổi cái nhìn về Thầy Giêsu. Ngài không chỉ là vị Thầy trước đây, mà còn là Thiên Chúa, Đấng ngự nơi cao. Vì thế, thái độ của các tông đồ là quỳ xuống bái lậy Ngài, nhìn nhận Ngài là chính Thiên Chúa.

Trong giây phút long trọng này, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ cũng là Giáo Hội, một sứ mạng hết sức quan trọng và cấp bách: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mệnh lệnh này, Giáo Hội đón nhận trực tiếp từ Chúa Giêsu, để bắt đầu ra đi đến với muôn dân. Giáo Hội có trách nhiệm phải nói cho muôn dân về Chúa Giêsu để họ cũng tin nhận Người là Thiên Chúa, Đấng nắm giữ toàn quyền trên trời dưới đất. Giáo Hội cũng có trách nhiệm làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa qua việc lãnh nhận phép rửa nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, sống theo đường lối và giáo huấn của Người.

Giáo Hội luôn tin tưởng, thi hành sứ mạng cao cả mà Chúa Giêsu trao phó, trong niềm xác tín rằng, Giáo Hội không làm việc một mình, nhưng trong sự hiện diện và trợ giúp của Chúa Giêsu như lời Ngài hứa: Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế. Quả thật, Chúa Giêsu vẫn ở với Giáo Hội qua Lời của Ngài, qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí tích này, Chúa Giêsu ở lại một cách sống động và cụ thể để nâng đỡ, thông ban sức sống và tăng cường sức mạnh cho Giáo Hội trên hành trình loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu còn hiện diện trong và qua chính con người của các tông đồ và các thừa tác viên của Giáo Hội, đồng thời trợ giúp các ngài chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Đặc biệt hơn nữa, Chúa Giêsu còn liên tục ở lại với Giáo Hội qua Thánh Thần được ban tặng cho các tông đồ và cho toàn Giáo Hội để soi sáng và hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội.

Sống và làm việc vì Nước Trời và hướng về quê hương đích thực là Nước Trời, đó là điều mỗi người phải luôn ghi nhớ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn chúng ta sao lãng bổn phận trần thế nhưng muốn ta trước hết phải chu toàn bổn phận và sứ mạng tại trần gian. Sách Công Vụ kể lại: Đang lúc các ông còn nhìn lên trời theo phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các ông thấy Ngài lên trời. Thiên Chúa không muốn các môn đệ của Chúa sống lơ lửng trong ngây ngất, cũng không mơ mộng, nhưng phải trở về Giêrusalem, tức là trở về với cuộc sống hiện tại, thực tế, thường ngày để đương đầu và giải quyết nhưng vấn đề của cuộc sống.

Lời sứ thần cũng căn dặn các môn đệ trở về cuộc sống nhưng đừng bao giờ quên Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang. Vì thực tế đã có nhiều người sống và lao đầu vào công việc như thể không có Chúa hiện diện trong cuộc đời, trong công việc của mình. Có nhiều người sống như thể không có ngày mai, vì thế, họ rơi vào tình trạng sống vội, sống cuồng, sống ảo và sống buông thả. Có người khác không nghĩ đến ngày cuộc sống của mình sẽ phải chấm dứt, ngày Chúa trở lại để đòi lại sự sống và cuộc đời mà Ngài đã trao gửi nơi mỗi người. Quan trọng hơn nữa, nhiều người quên rằng: Chúa sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, thưởng công cho người lành, người tốt và loại trừ kẻ dữ kẻ xấu, vì thế, họ không biết chuẩn bị cho tương lai chung cuộc của đời mình, không tích góp cho mình công phúc trước mặt Chúa và anh em.

Lễ Chúa Giêsu lên trời còn được chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội phát triển mạnh nhờ mạng lưới Intrenet. Chúng ta được mời gọi sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại để phục vụ cho Tin Mừng, loan báo về Chúa Giêsu cho mọi người. Vì thế, dù làm chủ một địa chỉ facebook hay một trang báo, trang mạng, chúng ta cũng phải sử dụng với một lương tâm ngay thẳng, trong sáng, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và nhu cầu thông tin chính đáng của con người, qua đó giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người.

Chúng ta cũng phải mạnh mẽ lên án và tẩy chay những trang mạng bẩn, những báo đài nói dối, nói láo, xuyên tạc, vu khống người khác. Nhiều người dễ dàng tin vào các đài, các trang mạng này hơn là tin vào sự giải thích trình bày của Giáo Hội. Giữa một rừng thông tin ngược xuôi, tốt xấu, mỗi người cũng cần biết gạn lọc và phân định, tìm hiểu thông tin mặt phải, mặt trái, nhiều chiều để rút ra sự thật. Nhiều trang báo đài ngày nay phục cho mục tiêu chính trị, đảng phái, chứ không nhằm cung cấp thông tin khách quan. Có những kênh truyền hình nhắm điều khiển dư luận, lái sự quan tâm của dư luận, khiến cho nhiều người hiểu sai lệch vấn đề, vì thế, hãy hết sức cẩn thận cân nhắc trước các thông tin của các kênh, các trang mạng báo đài này.

Mỗi người chúng ta mang trên mình sứ mạng loan báo Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Xin cho chúng ta nhiệt thành và trung thành với sứ mạng Chúa trao dù lúc thuận hay lúc nghịch, dù người ta có muốn nghe hay không muốn, chúng ta vẫn trung thành nói về Chúa Kitô cho thế giới. Amen.

Về mục lục

.

KẾT THÚC LÀ KHỞI ĐẦU

Lm. Giuse Nguyễn

Diễn đàn Suy Nghiệm với mục đích quan sát- lắng nghe- suy ngẫm- trải nghiệm- sáng tạo về cuộc sống có một bài viết mang tên: “Kết thúc là khởi đầu”. Trong bài viết có đoạn: “Hãy đặt niềm tin vào vào sự kết thúc bởi đơn giản một điều, sự kết thúc là một bước khởi đầu mới mẻ. Hãy lao mình vào dòng chảy của thời gian, trong đó có sự kết thúc lẫn khởi đầu, đó chính là sự khám phá thế giới và khám phá chính mình một cách đích thực”.

Khi nghe lại đoạn kết thúc Tin mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp hình ảnh của những chương mở đầu trong “Tin Mừng về thời niên thiếu” do Matthêu viết. Khi các nhà Đạo sĩ đến từ phương Đông, đại diện cho những người đầu tiên của dân ngoại đón nhận ơn cứu độ đến Belem, “Họ vào nhà, thấy hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (Mt 2, 11a). Cũng với thái độ đó, “mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy” (Mt 28, 16-17).

Qua hình ảnh “Kết thúc là khởi đầu” trong Tin Mừng Matthêu, tôi nhận ra được 2 sứ điệp:

  1. Muôn dân thờ lạy Chúa

Sứ điệp đầu tiên là hình ảnh “muôn dân thờ lạy Chúa”. Không phải Thiên Chúa muốn biểu dương quyền lực của Ngài, nhưng là thái độ của con người nhận ra đâu là Đấng đem lại hạnh phúc đích thực cho họ; hay nói cách khác họ “ngộ” ra được, họ nhận biết được cùng đích của cuộc đời mình.

  1. Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ

Sứ điệp thứ hai xuất phát từ sứ điệp đầu tiên. Để muôn dân đến thờ lạy Chúa, các môn đệ phải “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”.

Qua hai sứ điệp này cho tôi 2 thái độ sống: Tin và loan báo niềm tin. Tin vào Đức Giêsu Kitô là Đấng chẳng những dạy cho tôi sống tốt, mà còn cho tôi được hạnh phúc đời đời, dẫn tôi đến nguồn ơn cứu độ vì Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống”. Loan báo niềm vui, hạnh phúc mà tôi đang có cho mọi người, chỉ cho anh chị em tôi thấy con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực, nhất là anh chị em lương dân.

  1. Tin vào Đấng được sai đến

Mừng lễ Chúa Giêsu về trời hôm nay là dịp để tôi suy niệm kỹ lưỡng hơn về thái độ sống đức tin của tôi. Hình ảnh Ba Vua trong những chương khởi đầu, cũng như hình ảnh các môn đệ trong chương kết thúc Tin Mừng Matthêu khiến tôi suy nghĩ mình đang “bái lạy” điều gì trong cuộc sống hôm nay?

Sách Các Vua quyển thứ hai (5, 15-19) kể về việc Ông Naaman là một viên tướng chỉ huy của quân đội Aram (một quốc gia ngoại giáo) sau khi được Êlisa chữa lành bệnh phong, ông đã quay trở lại để tuyên xưng niềm tin của mình: “Nay, tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel” (2V 5, 15b). Hơn thế nữa, ông làm một việc mà nhiều người thắc mắc. Ông đã xin với Êlisa “Xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa” (2V 5, 17). Ông đã giải thích lý do tại sao xin đất của Israel: “Khi ông chủ tôi vào điện của thần Rimmôn để sụp xuống lạy, và khi ông ấy vịn vào cánh tay tôi, thì tôi cũng phải sụp xuống lạy trong điện của thần Rimman cùng lúc với ông. Xin Đức Chúa tha thứ điều ấy cho tôi tớ Ngài” (2V 5, 18). Nhưng trong thâm tâm của ông, vẫn chỉ thờ phượng một mình Đức Chúa đang hiện diện trượng trưng nơi phần đất mà ông mang về trừ Israel và đang đặt một cách trang trọng trong nhà ông.

Hình ảnh của ông Naaman rất thực tế trong hoàn cảnh sống đạo của chúng ta ngày hôm nay, có thể gọi là đầy dẫy những khó khăn thử thách. Như ông Naaman vì hoàn cảnh mà ông vẫn phải cử hành những nghi lễ tôn kính tà thần, nhưng thực sự con người của ông đã suy phục một mình Đức Chúa. Ngày hôm nay vẫn còn rất nhiều người mặc dù tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, vẫn muốn suy phục quyền lực của Ngài, nhưng vì “hoàn cảnh” mà họ vẫn chưa thể công khai niềm tin của mình, vì bắt buộc mà họ có những hành động đàn áp, bắt bớ những người tin… Đó là một trong những lý do giải thích cho việc tại sao những người chống đối Thiên Chúa, những người xúc phạm đến những giá trị linh thánh vẫn bình an, mạnh khỏe. Vì tận thâm tâm của họ đã tin kính Ngài, vẫn sợ bị Ngài trừng phạt… nhưng vì nhiều lý do mà họ phải hành động như vậy. Chúng ta tin chắc một điều đến một ngày nào đó, những con người có niềm tin âm thầm cũng sẽ được giải phóng.

Từ đó chúng ta suy nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta, những con người được tự do thờ phượng Chúa, được công khai niềm tin của mình… thì chúng ta phải biết trân quý và làm cho nó được hoàn hảo trong từng thái độ sống của chúng ta, vì chúng ta còn có bổn phận sống đức tin thay cho những con người không được thờ phượng Chúa cách công khai.

  1. Ra khỏi chính mình để loan báo Tin Mừng

Từ việc tin vào Đấng Phục Sinh, người môn đệ còn có sứ mạng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trờ thành môn đệ” (Mt 28, 19). Như vậy để “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, thì người môn đệ của Đức Giêsu phải cất bước ra khỏi chính mình.

Trong dịp hội ngộ mừng 20 năm tái lập 2 Giáo hạt Bạc Liêu – Cà Mau, một linh mục đã sống tại vùng Minh Hải từ những thập niên 80 đã chia sẻ: “Trong những lúc khó khăn về mọi mặt nhưng những cán bộ Truyền giáo vẫn hăng say loan báo Tin mưng và sống gần gũi, yêu thương nhau… Trong thời buổi xem ra thuận lợi về mọi mặt, thì những cán bộ Truyền giáo “xem ra” không còn nhiệt huyết như ngày xưa”. Cha giải thích theo tư tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô là vì “người ta có quá nhiều pháo đài”.

Quả thật chính những pháo đài đó đã cản trở việc loan báo Tin Mừng, để người ta chỉ lo “giữ đạo” cho riêng mình.

Những “pháo đài” này trước nhất là chính tội lỗi của con người. Đành rằng thời nào cũng có ma quỷ và vì vậy không phải bây giờ mới có tội, mà tội đã có từ thời ông bà nguyên tổ. Nhưng ma quỷ ngày hôm nay “tiến bộ” hơn nhiều, nó làm cho con người không còn ý thức về tội nữa, và đó là tội đáng sợ nhất của con người. Nó làm cho con người thường xuyên tiếp cận với dịp tội, và vì vậy họ sẽ mất ý thức.

Hôm nay là ngày quốc tế truyền thông. Nó là dịp để chúng ta suy nghĩ về những phương tiện truyền thông. Tất cả những tiến bộ khoa học kỹ thuật đều do Chúa ban như dụng cụ để loan báo Tin Mừng, nhưng người ta đã sử dụng sai mục đích để nó trở thành khí cụ của ma quỷ. Có người đã chia sẻ với tôi: “Trục trặc trong đời sống gia đình hôm nay phần lớn là do những chiếc điện thoại thông minh”. Vì nó quá thông minh theo kiểu thế gian nên nó đã đưa con người đến chỗ mất đi hạnh phúc.

Pháo đài thứ hai mà con người đang bị ràng buộc chính là sự an toàn cho bản thân mình. Để mình được an toàn trong công việc, trong chức vụ, trong tiền bạc, trong tình cảm…, con người đã làm mọi cách để che chắn, bảo vệ cho mình bằng những nhóm người, những thế lực theo kiểu thế gian, trong đó có quyền lực và tiền bạc. Chính vì vậy mà con người bị bao phủ bởi những toan tính riêng tư, không thoát ra được để đem niềm vui đến cho người khác mà chỉ tìm mọi cách để người khác đem niềm vui cho mình.  

Để thoát khỏi những “pháo đài” này, trước hết con người phải chấp nhận sự thật, để “sự thật sẽ giải phóng anh em”. Sự thật đó là mình yếu đuối để phải biết khôn ngoan, thận trọng trong tất cả mọi sự, đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng. Ngày hôm nay phải đề phòng với những phương tiện truyền thông, đừng để nó trở thành khí giới của ma quỷ; đừng để những điều kiện thuận lợi Chúa ban như khả năng, công việc, tiền bạc, bạn bè… trở thành chiếc thòng lọng để xiết chúng ta đến ngạt thở.

Kế đến phải biết ra khỏi chính mình để đến với người khác vì niềm vui thực sự của Tin Mừng phải được chia sẻ. Thể hiện của việc ra khỏi chính mình là biết hy sinh thời giờ, sức lực, khả năng và mọi sự cho những người mình có trách nhiệm, cho những ai tìm đến với mình, và hơn thế nữa là phải chủ động để thực hiện việc đến với người khác.

Biến cố về trời là kết thúc giai đoạn ở trần gian của Đức Giêsu, nhưng nó lại mở ra một trang Tin Mừng  mới cho những môn đệ của Ngài, để họ biết tin tưởng vào ơn cứu độ mà Đức Giêsu đã từ trời xuống loan báo; đồng thời mời gọi họ hãy bắt đầu thực hiện sứ điệp của Đức Giêsu để cũng biết đem Tin mừng đó cho muôn dân. Để có thể đem Tin mừng cho muôn dân, đòi hỏi người môn đệ phải biết ra khỏi “pháo đài” của tội lỗi, của sự an toàn cho chính mình để dám dấn thân trong cuộc sống hôm nay.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức mạnh để con tin tưởng và bước theo Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh; xin ban ơn can đảm để con dám ra khỏi chính mình để làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Amen.

Về mục lục

.

HÃY NÊN CHỨNG NHÂN CỦA THẦY

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20:

(16) Mười một Môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”. (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi người cho đến tận thế.

  1. Ý CHÍNH:

Sau khi sống lại, Chúa Giê-su đã hiện ra nhiều lần để chứng minh cho các môn đệ thấy Người đã thực sự từ cõi chết sống lại. Nhưng lần này trước khi về trời, Đức Giê-su hiện ra lần cuối với Nhóm Mười Một trên một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Người không chứng minh Người đã sống lại như các lần trước, nhưng trao sứ mệnh rao giảng Tin Mừng phổ quát cho Hội Thánh qua Nhóm Mười Một môn đệ như sau: “Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng truyền cho các ông tiếp tục dạy cho các tín hữu phải tuân giữ các huấn luyện của Người và hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 16-17: +Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai bây giờ mất Giu-đa phản bội, nên chỉ còn mười một người (x. Mt 10,1-4; 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Vâng lời dạy của thiên thần nhắn cho các môn đệ qua hai phụ nữ và sau đó chính Chúa Giê-su cũng nhắc lại khi hiện ra với hai bà này vào sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10). Ga-li-lê là trung tâm truyền giáo của Đức Giê-su trong thời gian Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời. + Đến ngọn núi: Tin Mừng không xác định là núi nào. Còn sách Công Vụ Tông Đồ cho biết là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng là nơi Thiên Chúa mặc khải cho các Ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 19,20; 1 V 19,8-14). Trong Tin Mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giê-su cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn đệ trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). (17) + Khi thấy Người, các ông bái lạy: Các môn đệ thấy Chúa Giê-su Phục Sinh và biểu lộ niềm tin bằng việc sấp mình bái lạy Người. Hành động này tương tự như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11); Người phong cùi bái lạy xin Đức Giê-su chữa lành (x. Mt 14,33); Người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy xin Đức Giê-su chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa xem ra bất nhất và khó hiểu. Thực ra, lúc này khi sắp từ giã Chúa Giê-su sắp về trời thì mọi môn đệ đều đã tin, và không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng các trình thuật hiện ra khác đều nói đến sự nghi ngờ, và đều đã được Người đánh tan sự nghi ngờ ấy. Ở đây, Chúa Giê-su đánh tan sự hoài nghi khi cho biết Người đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Do câu này mà nhiều người nghĩ rằng sự hoài nghi ở đây là nhắm nói tới sự hoài nghi của cộng đoàn nói chung, vì từ đây các tín hữu sẽ không còn thấy Chúa Phục Sinh hiện ra nữa. Sự hoài nghi này từ nay sẽ được Lời Chúa trong Thánh Kinh đánh tan. Do đó, các tín hữu phải dựa vào Lời Chúa và quyền năng của Người để củng cố đức tin. Nhờ vậy đức tin của họ mới được chúc phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20,29).

– C 18-19: + Đức Giê-su đến gần: Đến gần là hành động ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giê-su Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Lúc khởi đầu việc rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã từ chối nhận quyền Sa-tan hứa ban cho Người mọi nước trên thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây, sau khi đã vâng phục thánh ý Chúa Cha để đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, Người đã được Chúa Cha ban mọi quyền năng trên trời dưới đất, để ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giê-su để đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội Thánh phải nhân danh Người mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Làm cho người ta trở thành môn đệ Chúa Ki-tô gồm cả việc rao giảng Tin Mừng. Để chu toàn việc này, các môn đệ phải cho họ lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đặt người dự tòng trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

C 20: + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Việc đào tạo người ta nên môn đệ Chúa phải được tiếp tục sau khi đã chịu phép rửa, bằng lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). Chính vì thế mà các Tông đồ phải hướng dẫn muôn dân tuân giữ các giới răn của Chúa. Đây là Dân của Giao Ước Mới phải sống theo Luật Mới do Chúa Giê-su công bố và các Tông đồ có nhiệm vụ phải truyền đạt. + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện mãi trong Hội Thánh để hỗ trợ, giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho đến tận thế. Vì Người chính là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23).

  1. CÂU HỎI:

1) Tại sao chỉ còn Mười Một môn đệ có mặt khi Chúa lên trời ? 2) Tại sao các môn đệ lại họp mặt tại miền Ga-li-lê ? 3) Chúa lên trời trên quả núi nào ? 4) Tại sao các môn đệ bái lạy Đức Giê-su khi thấy Người xuất hiện ? 5) Tại sao Tin Mừng nhắc đến thái độ hoài nghi của các môn đệ vào lúc này ? 6) Tại sao trước khi lên trời Chúa Giê-su tuyên bố mình được trao toàn quyền trên trời dưới đất ? 7) Mệnh lệnh thâu nạp môn đồ khắp muôn dân và công thức rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi trong câu này chính xác đến mức độ nào, vì trong sách Công Vụ, Hội Thánh sơ khai mới chỉ nói tới công thức rửa tội “nhân danh Chúa Giê-su” mà thôi (x. Cv 2,38; 10,48) ?

ĐÁP CÂU 7:

Thực ra, từ ban đầu Hội Thánh sơ khai đã ban phép rửa « nhân danh Đức Giê-su » như sách Công Vụ thuật lại lời của ông Phê-rô : « Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội » (Cv 2,38; 10,48).

Còn lời Chúa Giê-su truyền cho các môn đệ « làm phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi » trước khi lên trời trong Tin Mừng Mát-thêu hôm nay (Mt 28,19) cũng chính là lời của Chúa Giê-su. Tuy nhiên mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chỉ được sáng tỏ dần dần nhờ ơn Chúa Thánh Thần ban, qua kinh nghiệm sống và rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh. Về sau Hội Thánh đã đưa giáo lý về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi vào công thức phụng vụ phép rửa: « Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần » thay thế công thức « nhân danh Chúa Giê-su » đã có từ thời sơ khai. Khi Tin Mừng Mát-thêu được hoàn thiện (vào khoảng năm 70-80), công thức rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi được đưa vào lệnh truyền của Chúa Phục Sinh cho các môn đệ trước khi Người lên trời như bài Tin Mừng Mát-thêu thuật lại.

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18b-20).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA

JUNE là một bé gái 5 tuổi có khuôn mặt đẹp như thiên thần và rất lanh lợi. Cha mẹ em đều là nhà giáo có lòng đạo đức. Mẹ thường đem em đi theo mỗi khi bà có việc ra ngoài nhà. Một hôm, hai mẹ con dắt nhau vào bưu điện thành phố. Khi bà mẹ đang lo gửi thư bảo đảm cho một người thân, thì bé June chạy chơi loanh quanh gần đó để xem người ta làm việc. Bấy giờ một ông lão ngồi gần đó trông thấy em bé kháu khỉnh dễ thương, liền bắt chuyện làm quen. Ông nói: “Này bé kia, mái tóc của cháu đẹp lắm ! Sao cháu lại có mái tóc đẹp đến thế nhỉ ?” Cô bé liền vui vẻ trả lời: “Thưa ông, mẹ cháu dạy: Chúa đã ban mọi sự tốt đẹp cho cháu và cháu phải cám ơn Chúa nhiều lắm đó !” Nói xong em nhìn thẳng vào mặt ông lão, nhoẻn một nụ cười thật dễ thương và hỏi: “Thế ông đã được Chúa ban cho điều gì tốt đẹp chưa ? Ông có đươc Chúa ban ơn cứu độ không ?”.

Ông lão kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ của cô bé. Ông ngẩn người suy nghĩ giây lát rồi đáp: “Chưa đâu, cháu ạ”. Em bé liền nói: “Thế thì ông phải đến xin Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ ban cho ông được trở thành con của Chúa, và ông sẽ được Chúa làm cho trở nên một người mới xinh đẹp lắm đó !” Nói xong, bé vội chạy về phía mẹ đang vẫy gọi ở lối bên kia.

Ít tuần sau, ông lão tìm đến một nhà thờ xin học giáo lý dự tòng. Về sau ông cho biết: chính câu nói đơn sơ của bé gái hôm ấy đã đánh động tâm hồn vốn chai lì của ông, và luôn ám ảnh khiến ông không thể nào quên được. Cuối cùng ông đã quyết định phải xin theo đạo để được trở nên con Chúa và được đổi mới tốt đẹp như em bé đã nói.

Câu nói của một bé gái tuy đơn sơ nhưng đã có sức mạnh khiến một người già cứng lòng phải suy nghĩ và quay về với Chúa. Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta có dám biểu lộ đức tin trước mặt người khác không ? Có dám nói về Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa để họ tin Chúa và đi theo làm môn đệ Người hay không ?

2) HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG LÀ KHI ĐƯỢC SỐNG TRONG TÌNH THƯƠNG:

Có rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã làm phát sinh nhiều hậu quả không hay: người có đạo thì bị lung lay bối rối khi có một vài khoa học gia nói rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên kia cả; người không có đạo thì nghĩ: Có lẽ nước trời là một thế giới nằm đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná giống như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện khôi hài do một cha thừa sai kể lại:

Sau một tuần giảng đại phúc thật sốt sắng tại một vùng đất nọ, các cha khuyên nhủ được một ông cụ ngoại đạo gia nhập đoàn chiên Chúa. Thấy cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan, nên các cha tích cực khuyên bảo: “Ông đã theo đạo rồi, bà cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên thiên đàng gặp lại nhau nữa chứ.” Nghe thế cụ bà hốt hoảng trả lời, “Không được đâu, suốt đời ổng đã hành hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng còn phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết mất.”

Thiên đàng sẽ chẳng có chút gì hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc chính là hoa trái của tình yêu phát xuất từ trái tim, từ trong lòng mỗi người, trong gia đình chúng ta đang cư ngụ hay ở nơi chúng ta làm việc, chứ không phải là một nơi chốn nào đó trên trời cao, như lời Chúa Giê-su: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này! Hay ở kia kìa!” . Vì này, Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,20-21)..

3) HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG CHÍNH LÀ MÁI ẤM GIA ĐÌNH:

Có nhà hoạ sĩ kia mơ ước mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế gian. Nhưng anh ta không biết phải vẽ cái gì để bức tranh chứa đựng hình ảnh, màu sắc và nội dung đẹp nhất thế gian. Chàng đã đến hỏi một vị linh mục xem trên thế gian này có điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời !”

Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô dâu sắp lên xe hoa về nhà chồng, và được cô trả lời: “Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời !”

Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ chiến trường. Nghe hỏi về điều nào đẹp nhất thì anh đã trả lời: “Bình an là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp tuyệt vời nhất !”

Ba câu nói của ba con người– vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ– đã làm cho chàng hoạ sĩ phân vân: không biết phải vẽ gì để bức tranh của anh diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và sự bình an.

Đang suy nghĩ miên man, anh đã về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm nghiệm được tình yêu trong thái độ ôm hôn chân thành của người vợ hiền. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta trở nên ấm áp và bình an lạ lùng. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội đến phòng vẽ bắt tay vào việc vẽ tranh, và sau khi đã hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho bức tranh ấy là: “Mái Ấm Gia Đình.”

Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể diễn tả về hạnh phúc Thiên đàng đời sau. Mái ấm gia đình cũng chính là lời chứng hùng hồn nhất mà chúng ta có thể trình bày về ơn cứu độ của Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa.

4) LÀM CHỨNG CHO CHÚA LÀ SỐNG YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ NHƯ MẸ TÊ-RÊ-SA:

Dù chỉ là một nữ tu sáng lập đơn côi ban đầu, đến nay mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã làm nên phép lạ cho dòng Thừa Sai Bác Ái của mẹ lên đến con số 4000 nữ tu, 450 sư huynh và hàng ngàn người ngoại giáo ngày đêm xuôi ngược tiếp tục công việc nhân ái của mẹ, với 600 cơ sở trong 126 quốc gia trên thế giới. Từ ngày thành lập từ năm 1950 đến nay mỗi năm nhà dòng của mẹ đã giúp nuôi 50.000 gia đình nghèo, dạy dỗ cho 20.000 trẻ em và săn sóc cho 90.000 người mắc bệnh phong cùi trong các bệnh viện tư ở 10 quốc gia. Các trẻ em mồ côi mà mẹ đã nuôi dạy từ hơn nửa thế kỷ đến nay đã lên đến con số nhiều không kể hết.

Ngày mẹ qua đời, tổng thống pháp Jacques Chirac đã gởi một bức điện với lời lẽ phân ưu như sau: “Từ tối hôm nay thế giới đã có ít Tình Yêu hơn, ít lòng Trắc Ẩn hơn và ít Ánh Sáng hơn”. Mẹ Têrêsa quả là một chứng nhân anh dũng. Mẹ không chỉ tin đạo mà còn sống đạo để làm chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa cho con người thời đại hôm nay.

  1. SUY NIỆM:

1) ƯỚC VỌNG LÊN TRỜI CỦA LÒAI NGƯỜI:

Con người từ xưa đến nay đều khát khao được bay lên trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, đã leo lên quả khí cầu bay lên trời được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên của Liên-xô đã bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin đã bay lên mặt trăng. Hôm nay, Hội Thánh mừng lễ Chúa Giê-su lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ được Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm sống trên trần gian, giờ đây Người từ cõi chết sống lại, rồi “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).

2) MẦU NHIỆM CHÚA THĂNG THIÊN:

Tin Mừng Mát-thêu hôm nay kể lại việc Chúa Phục Sinh đã giáo huấn các tông đồ lần cuối cùng, rồi sai các ông đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,20). Sách Công Vụ cũng ghi lại lời Chúa Phục Sinh truyền cho các môn đệ: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b). Rồi Ngài lên Trời trước mắt các ông và có đám mây rước Người lên, khuất mắt các ông.

Điều mà Tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, không phải là việc Chúa Giê-su được đem lên trời như thế nào mà là sứ vụ mà Người trao cho các môn đệ là thay Người đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân, trở thành chứng nhân của Người đến mọi nơi mình đang hiện diện và cho mọi dân tộc. Các Tông đồ đã đón nhận lời mời của Chúa Giêsu với niềm tin tưởng hân hoan. Tin vào Chúa Giê-su, Đấng đã qua cuộc khổ nạn vào trong vinh quang phục sinh, rồi lên trời và đến ngày tận thế sẽ tái lâm để phán xét chung nhân loại. Tin Chúa Thánh Thần đã được Chúa Giê-su hứa ban để giúp các tông đồ thi hành sứ vụ làm chứng cho Chúa đến tân cùng trái đất. Khi thi hành sứ vụ này, các môn đệ và các tín hữu hôm nay cũng phải đón nhận những chống đối, đau khổ, tù đày và có thể còn bị giết hại như lời Chúa Giê-su tiên báo: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15,18-19).

3) CHÍNH ANH EM HÃY LÀ CHỨNG NHÂN CHO THẦY:

Hơn bao giờ hết cuộc sống đã có không ít những khó khăn đang đặt ra cho mỗi người chúng ta. Những khó khăn đó đã làm cho chúng ta quên đi đời sống chứng nhân của mình. Nhiều tín hữu hiện nay vẫn có thái độ ích kỷ khi chỉ quan tâm lo kiếm tiền bạc, địa vị và quyền hành cho bản thân, mà chưa ý thức sứ vụ loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Chúa.

Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm chứng nhân cho Người. Vậy thế nào là làm chứng nhân cho Chúa ?

– Thực ra, Chúa không đòi chúng ta phải làm điều quá sức như: Phải lập những dòng tu mới hay xây dựng những cơ sở từ thiện như Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã làm. Điều Người chờ đợi nơi chúng ta là làm chứng cho Người bằng lối sống yêu thương, quên mình, phục vụ.

– Làm chứng là mở tai để lắng nghe, mở trí khôn để suy niệm và mở tay ra để thực hành Lời Chúa, vì Lời Chúa chính là ánh sáng và là sức mạnh giúp chúng ta góp phần làm vinh danh cho Chúa và cứu rỗi tha nhân.

– Làm chứng là mở miệng để nói về Chúa Giêsu cho những người thành tâm muốn nghe.

Con người thời nay thường thích nghe các chứng nhân hơn là thầy dạy. Mà nếu họ có nghe thầy dạy là do thầy dạy đó cũng là chứng nhân. Anh em lương dân cũng chỉ sẵn sàng tin điều chúng ta rao giảng khi họ nhìn thấy lối sống yêu thương quên mình phục vụ của chúng ta.

4) CỤ THỂ CHÚNG TA PHẢI LÀM CHỨNG CHO CHÚA NHƯ THẾ NÀO?

Trong tác phẩm “Hương rượu mới”, tác giả thuật lại về giờ phút cuối cùng của cha mình và gương sáng làm việc tông đồ của một nữ tu như sau: “Bấy giờ cha tôi đang hấp hối trên giường bệnh. Trong khi tôi chỉ biết ngồi nhìn cha với tâm trạng chán nản thất vọng, thì một nữ tu Công giáo với dáng người nhỏ nhắn đã bước vào phòng. Chị đi vòng qua bên kia giường cha tôi đang nằm, cầm lấy tay ông đưa lên vỗ nhè nhẹ. Sau đó chị hỏi: “Bác có nghe cháu nói không ?” Ông cụ gật đầu. Đoạn chị nói với ông: “Trước đây bác đã tin Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế chưa ?” Ông cụ lắc đầu. Chị nữ tu liền nói: “Bây giờ bác có muốn tin Chúa không ?” Ông cụ đáp: “Dạ có”. Thế là chị yêu cầu ông lặp lại theo mình: “Lạy Chúa Giê-su, con nhận Chúa chính là Đấng Cứu Thế của con. Xin Chúa ban cho con được làm môn đệ của Chúa và được ơn tái sinh làm con Chúa Cha trên trời”. Ông cụ lặp lại theo từng câu và sau đó nhắm mắt qua đời.

Như vậy “làm chứng” về Chúa Giê-su và dạy cho kẻ khác biết về Người, đơn giản chỉ là chia sẻ cho họ niềm tin và tình yêu mà mình đang có. Chia sẻ kho tàng đức tin mà ta sống và hy vọng. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy nhận từ tay của Người sứ vụ mà chính Người đã nhận được từ nơi Chúa Cha, để chúng ta thay Người giúp người đời nhận biết tin thờ Cha và đi theo con đường của Chúa Giê-su là : « Sống tình mến Chúa yêu người ».

Ước gì Lễ Chúa Giê-su Lên Trời hôm nay nhắc chúng ta về Nước Trời ngay ở trần gian hôm nay là gia đình của mình, để chúng ta quyết tâm làm chứng cho Chúa, bằng việc xây dựng cho gia đình mình trở thành một mái ấm yêu thương, tin yêu và an bình hạnh phúc.

  1. THẢO LUẬN:

1) Ngày nay bạn có thể làm chứng cho Chúa bằng những phương cách nào hữu hiệu nhất ? 2) Bạn quyết tâm sẽ làm gì cụ thể để làm chứng về Chúa cho một người thân đang lạc xa Chúa, hay một người bạn chưa nhận biết Chúa ?

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng con mừng lễ Chúa về trời. Trời mới là quê hương mà chúng con phải hướng về. Thế nhưng trong Sách Công Vụ hôm nay, Chúa muốn dạy các môn đệ rằng: điều quan trọng nhất các ông phải làm là tiếp tục công trình cứu độ của Chúa, bằng việc loan Tin Mừng “bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Làm chứng bằng lời rao giảng nhờ ơn Thánh Thần. Làm chứng bằng những hành động bác ái yêu thương, bằng sự khiêm nhường phục vụ, bằng việc quảng đại cho đi, bằng việc hy sinh bản thân để lo phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân… Xin Chúa giúp chúng con ý thức chu tòan sứ vụ làm chứng cho Chúa.

– LẠY CHÚA. Chúng con thường nghĩ: “Tôi phải lo cái ăn cái mặc cho bản thân và gia đình mình trước đã ! Tôi không có khả năng nói về Chúa cho người khác ! Tôi không có thì giờ rảnh !…” Đang khi Chúa dạy chúng con: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Chúa muốn chúng con hãy bắt đầu phụng sự Chúa với hết khả năng, rồi Chúa sẽ bù đắp phần thiếu sót. Vậy xin Chúa giúp chúng con biết ưu tiên lo cho cho công việc của Chúa và phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được Chúa nói với chúng con trong giờ phán xét: “Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì Ta sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT LỄ CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa lên trời.  Sau khi đã hoàn tất sứ mệnh cứu chuộc nhân loại mà Thiên Chúa Cha đã trao phó, và sau khi đã truyền dạy các tông đồ Chúa Giê-su từ giã và lên trời. Sự kiện Chúa Giê-su lên trời, và những lời Người truyền dạy các tông đồ giúp chúng ta hiểu biết những điều rất quan trọng cho đời sống đức tin Ki-tô giáo.

Thứ nhất, Chúa Giê-su lên trời.  Điều đó dạy cho chúng ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác.  Ngoài cuộc sống này còn có một đời sống khác.  Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.  Chúng ta tin trời là nơi bình an, hạnh phúc thật không còn đau khổ, và là nơi có cuộc sống vĩnh cửu. Như thế, trời là niềm khao khát và hy vọng của con người, nhất là của người Ki-tô hữu chúng ta.

Chúng ta biết cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu trên trời không phải là cõi mơ mộng viễn vông, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian, và bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.  Chính vì thế mà, trong bài đọc 1, hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà chu toàn nhiệm vụ.  Và cũng chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa.  Hay nói cách khác, người Ki-tô hữu ở trần gian này là phải sống chứng nhân cho Chúa, và phải làm việc rao giảng Tin mừng của Chúa.  Đó là những nhiệm vụ phải chu toàn nơi trần gian.  Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian là điều kiện để đạt tới bình an và hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời.

Chính Chúa Giê-su cũng đã chu toàn sứ vụ ở trần gian rồi mới lên trời.  Sứ vụ đó là rao giảng tin mừng Nước Trời khắp nơi, cũng như chu toàn kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha. Đi đến đâu, Chúa ban phát và gieo ân sủng tình yêu, lòng thương xót và tha thứ đến đấy.  

Điều quan trọng thứ hai, Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh sai các môn đệ và tất cả chúng ta già trẻ, nam nữ, giáo dân hay tu sĩ linh mục, đi rao giảng Tin mừng khắp thế gian và cho muôn dân, và sống Lời Chúa dạy để trở thành những chứng nhân cho Chúa. Chúng ta nghe Chúa phán: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con.”  

Ông bà anh chị em thân mến.  Khi nói đến sứ vụ rao giảng Tin mừng, chúng ta thường nghĩ đó là công việc của các nhà Thừa Sai đi đến những miền đất xa xôi nào đó, hay của các linh mục, tu sĩ.  Chúng ta biết điều này chỉ đúng 1 phần thôi. Thật sự, Chúa Giê-su kêu gọi tu sĩ linh mục trao quyền năng và sai họ đi rao giảng Tin mừng như lời Chúa nói: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con.” 

Trong niềm cảm tạ tri ân Thiên Chúa, cách đây 24 năm vào đúng ngày hôm nay, Chúa đã thương chọn tôi, một người tầm thường và yếu đuối, vào thiên chức linh mục, và sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho Chúa.  Cũng như Chúa đã chọn Đức Maria, một nữ tì nghèo hèn đơn sơ làm Mẹ Thiên Chúa.  Trong lúc ngỡ ngàng, Đức Maria đã thốt lên câu, và tôi cũng xin dùng câu này để ca tụng tụng Chúa đến muôn ngàn đời: “Linh hồn tôi ca ngợi Chúa. Thần trí tôi mừng vui trong Đấng cứu chuộc tôi.  Vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tôi tớ.”  Và như ông bà anh chị em đã biết trong Thánh lễ Truyền chức sáng hôm nay, Chúa cũng đã thương chọn Tân linh mục Phê-rô Nguyễn Vũ Trọng Duy và ngài sai đi để rao giảng Tin mừng cho Chúa.

Điều quan trọng thứ ba là Chúa lên trời nhưng Người vẫn còn hiện diện và tiếp tục hoạt động nơi trần gian qua các tông đồ ngày xưa, và qua những linh mục, những con người mỏng dòn và yếu đuối ngày nay.  Và qua sự quan phòng của Thiên Chúa, Chúa Giêsu còn hiện diện qua Giáo hội như Chúa đã nói: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy.”  Nói tóm lại, Chúa hiện diện qua chúng ta tất cả chúng ta, là những Kitô hữu, là những người tin theo và yêu mến Chúa.

Và sự kiện này dẫn chúng ta đến một điểm hết sức quan trọng mà chúng ta phải lưu ý: đó là lễ Chúa lên trời không những đánh dấu sự thay đổi hiện diện của Chúa, mà còn qua cách hoạt động của Chúa nơi trần gian. Chúa Giêsu Kitô không còn hoạt động bằng những bộ phận trong thân thể con người của Chúa, nhưng qua những phần tử trong thân thể mầu nhiệm của Người.  Hay nói một cách khác, Chúa Giêsu không xử dụng tiếng nói của thân thể để nói và dạy dỗ chúng ta; Chúa không xử dụng con tim thân xác để yêu thương chúng ta; Chúa không dùng cánh tay con người để dẫn dắt chúng ta. Chúa hoạt động qua con người của tất cả chúng ta.  Chúa xử dụng tiếng nói của chúng ta để an ủi và dạy dỗ người khác.  Chúa sử dụng con tim của chúng ta để yêu thương người khác.  Chúa xử dụng bàn tay của chúng ta để dẫn dắt, che chở người khác.  Chúa sử dụng những ơn lành Chúa ban cho chúng ta để xây dựng Nước Chúa nơi trần gian. Chúa dùng lời nói của chúng ta để rao giảng Tin mừng.   

Thế nhưng, ông bà anh chị em thân mến, trước khi có thể rao giảng Tin mừng, trước hết chúng ta phải biết lắng nghe và nhất là phải sống Tin mừng của Chúa Giê-su Kitô, để Tin mừng thấm nhập vào cuộc sống hàng ngày, biến chúng ta trở thành môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Rồi mới đến điều thứ hai là rao giảng cho những người chưa tin hay chưa biết Chúa.  Như thế, sứ vụ rao giảng Tin mừng không chỉ là nói về Chúa, về đạo, nhưng quan trọng hơn là dẫn đưa mọi người đến với Chúa Giê-su Kitô bằng sống Tin mừng và sống chứng tá của mình. Đó là điều mà chính Đấng Phục Sinh trước khi về trời đã căn dặn các tông đồ và tất cả chúng ta: Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy.Như thế, để việc rao giảng Tin mừng hôm nay thực sự trở nên sống động và hiệu quả, thì lời rao giảng của chúng ta cần phải đi đôi với chính việc làm và đời sống chứng nhân của chúng ta.

Hôm nay Chúa sai tất cả chúng ta đi rao giảng Tin mừng khắp nơi và cho mọi người nhất là những người sống chung quanh chúng ta, bằng cuộc sống chứng nhân, bằng cách thực hành Lời Chúa, và sống bác ái, yêu thương, hy sinh và quảng đại.  Cuộc sống trần gian này là cơ hội cho chúng ta đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời.

Về mục lục

.