CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA. NĂM A

350

LỄ  CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

 

Mục lục

1. Dòng nước tái sinh  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Phép rửa khiêm nhường (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Cứ như thế đã  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Sống tình liên đới (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Để nên giống Thầy Giêsu (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Cuộc sống mới  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

8. Con yêu dấu  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

9. Đức Giêsu Chịu Phép Rửa(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

10. Phép rửa đánh dấu sứ mệnh Người tôi tớ đau khổ (Lm. Trần Bình Trọng)

11. Phép rửa tái sinh (Lm. John Nguyễn)

12. Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa (Lm. Phêrô Bùi Trọng Khẩn)

13. Con yêu dấu.  (Lm. John Quốc Toản, CRM)

14. Sống tước vị làm con (Lm. Nguyễn Nguyên)

15. Cầu nguyện – Trời mở ra (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)

16. Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa.  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ) 

17. Đấng gánh tội trần gian (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

18. Người Kitô hữu  (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

19. Khai mở sứ vụ  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

20. Ơn gọi làm con  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

21. Khiêm nhường, liên đới để cứu độ (Giuse Ngọc Biển, SSP)

22. Con yêu dấu-  (Lm. Nguyễn Bình An)

23. -Con yêu dấu  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

24. Khiêm nhường sẽ được Chúa Cha tôn vinh  (Lm. Đan Vinh)

25. Tẩy rửa  (Trầm Thiên Thu)

26. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

27. Phép rửa của Chúa Giêsu (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

28. Này là con Ta yêu dấu (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

29. Thiên tính  (Lm. Vũ Đình Tường)

30. Mở đầu sứ vụ xây dựng Nước Trời  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

31. Lễ Chúa Chịu Phép Rửa_A (Lm. Antôn)

 

 

DÒNG NƯỚC TÁI SINH

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khởi đầu mùa Thường niên, Phụng vụ giới thiệu với chúng ta vị Ngôn sứ thành Nagiarét, tức là Đức Giêsu. Với việc lãnh nhận phép rửa từ tay ông Gioan, Đức Giêsu đã khai mở sứ vụ thiên sai của Người. Thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu, được giới thiệu long trọng, không chỉ do lời chứng của Gioan Tẩy giả, mà do chính Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, thể hiện qua lời nói của Chúa Cha từ trời cao: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”, và hình chim bồ câu là tượng trưng cho Chúa Thánh Thần.

Nghi thức thanh tẩy bằng nước thường thấy ở nhiều dân tộc và tôn giáo. Bởi nước là sự sống và nước cũng có chức năng tẩy rửa. Ông Gioan Tẩy giả là thành viên của phong trào những người theo chủ chương “thanh tẩy”. Nghi thức của ông mang tính sám hối. Lời giảng của ông đã nói lên mục đích ấy. Ông đã làm phép rửa ở sông Giordan, là dòng sông hiếm hoi ở Do Thái, một đất nước đa số là sa mạc. Những người tuốn đến với ông đủ mọi thành phần: quân nhân, nông dân, thương gia, quan chức. Họ thành tâm sám hối, nhận mình là những tội nhân để xin ơn tha tội đến từ Thiên Chúa.

Tại sao Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng vô tội, lại lãnh nhận phép Rửa của ông Gioan?  Chúng ta thường đặt ra câu hỏi ấy. Việc Chúa lãnh nhận phép Rửa không phải vì Chúa mang tội, nhưng thể hiện sự khiêm tốn hạ mình, như Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Đức Giêsu hoà mình vào dòng người đang bị lên án gay gắt là những tội nhân và cúi mình xin được nhận lãnh phép rửa. Chính ông Gioan cũng ngạc nhiên và do dự khi thấy Người đến với ông. Trước sự chần chừ của ông Gioan, Chúa Giêsu nói: “Chúng ta làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3,15). Khi bước xuống dòng sông Giordan, Chúa Giêsu muốn chứng minh: Người muốn liên đới với con người tội lỗi. Sau này, Chúa khẳng định: “Tôi không đến vì người mạnh khoẻ, nhưng vì những người đau yếu”. Qua việc lãnh nhận phép rửa, Chúa cũng cho thấy ước vọng của Người là cứu chữa hết mọi người, kể cả những tội nhân, và khẳng định với họ: mọi người đều có quyền hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Ngài là Cha yêu thương.

Theo Giáo lý của Giáo Hội Công giáo, qua việc Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa ở sông Giordan, Người đã thiết lập Bí tích Rửa tội, hay còn gọi là Bí tích Thanh tẩy. Nghi thức tẩy rửa của ông Gioan và Bí tích Thanh tẩy của người Kitô hữu hoàn toàn khác nhau. Trong khi nghi thức tẩy rửa chỉ là hành vi sám hối, thì Bí tích Thanh tẩy lại tha thứ các tội, đồng thời làm cho người thụ tẩy trở thành tạo vật mới và là nghĩa tử của Thiên Chúa. Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người thụ tẩy cũng được gia nhập Giáo Hội là cộng đoàn tín hữu đang hiện diện khắp nơi trên trái đất này.

Thông thường, khi chúng ta hỏi một người tín hữu về ngày họ được rửa tội, hầu hết đều nói rằng họ không biết. Trong khi đó, ngày chúng ta được rửa tội mang một ý nghĩa rất quan trọng, bởi đó là ngày chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Nhờ dòng nước tái sinh, Thiên Chúa muốn giải phóng chúng ta hoàn toàn khỏi quyền lực của sự dữ, để chúng ta sống lại với Đức Kitô và như thế, chúng ta là con Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu đã khai mở sứ vụ thiên sai với việc lãnh nhận phép rửa từ ông Gioan, thì nhờ Bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu cũng khởi đầu một hành trình mới. Đây là hành trình của sứ mạng theo Chúa Giêsu, sống theo giáo huấn và lời răn dạy của Người. Vì mang danh Kitô hữu, người đã lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy cũng có sứ mạng giống như sứ mạng của Đức Kitô: đó là trở nên ánh sáng trần gian, soi chiếu vào những góc khuất của cuộc đời và làm cho cuộc sống này thấm nhuần chân lý Phúc âm.

“Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Hôm nay, Chúa Cha đang nói với mỗi người chúng ta như vậy, bởi nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, chúng ta được trở nên những người con yêu dấu của Ngài. Nhờ tình yêu của Chúa cư ngụ trong chúng ta, chúng ta có thể trở nên chứng nhân của Chúa và chứng nhân về niềm hy vọng nơi cuộc sống vĩnh cửu.

Về mục lục

.

PHÉP RỬA KHIÊM NHƯỜNG

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Gio-đăng phát nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m. suốt 220km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống. Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.

Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Gio-đăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ. Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.

Trong đêm Giáng Sinh, ta được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người. Làm một người bé nhỏ nghèo hèn như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.

Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người gìm mình xuống lòng sông Gio-đăng, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người. Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi người.

Dòng nước sông Gio-đăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Khiêm nhướng là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi một chút. Gìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc 10,38). Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.

Một câu châm ngôn nói; Không ai thấy được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu. Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào đoàn lũ những tội nhân tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.

Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy. Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối. Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung. Như lời vua Đavit nói: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50)/

Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm. Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của người con thảo hiếu. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói về ta như nói về Chúa Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con”.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Chúa Giêsu không ngừng đi xuống. Còn bạn, bạn có tự hạ, hay là lúc nào bạn cũng muốn gìm người khác xuống?
  2. Làm thế nào để trở nên “Con yêu dấu” của Đức Chúa Cha?
  3. Hằng ngày, bạn có cảm thấy cần phải chịu phép rửa khiêm nhường của Chúa Giêsu không?

Về mục lục

.

CỨ NHƯ THẾ ĐÃ

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Câu trả lời của Chúa Giêsu với phép rửa của Gioan Tầy giả, gợi lên điều thắc mắc: Vậy Người là ai? Và xác nhận từ trời.

Người là ai?

Câu hỏi về Chúa Giêsu, Người là ai, có phải là Con Thiên Chúa đích thực, xuống thế làm người? Thư Do Thái trả lời cho câu hỏi này: “Quả thế, Thượng tế ta có không phải là người không thể cảm thông với nỗi yếu hèn của ta, song là Ðấng đã dãi dầu thử thách, muôn sự đều tương tợ, trừ phi là tội” (Dt 4, 15 – 16). Điều Gioan Tẩy giả thắc mắc, đáng lẽ Gioan chịu phép rửa từ Chúa Giêsu, mà tại sao ngược lại.

Là một phàm nhân tội lỗi mới đến để xin phép rửa của Gioan để tỏ lòng sám hối. Chúa Giêsu, Người cũng đến để nhận phép rửa của Gioan. Chúa đến để gánh tội trần gian nên chẳng ngại ngần đến như bao người khác, trở nên tội nhân, để Người cứu thoát tội nhân trong phép rửa mới của Người.

Về phía Gioan rất ngại khi làm phép rửa cho Chúa Giêsu, Gioan biết Chúa Giêsu, một người mà Gioan đã loan tin “Dọn đường để Chúa đến”. Đấng đã ban Chúa Thánh Thần cho Gioan khi còn trong bụng mẹ và Chúa Thánh Thần cũng đã cho Gioan biết Chúa Giê su là Đấng đã đến, là Con Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian, Đấng đúng ra làm phép rửa cho Gioan.

Cứ như thế đã!

Chúa Giêsu nói với Gioan: “Cứ như thế đã!’ do sự vâng phục tuyệt đối trong chương trình thực hiện ý muốn cứu độ nhân loại của Chúa Cha, và cũng ứng nghiệm lời loan báo các tiên tri xưa: “Nhưng ngài đã bị đâm vì những sự ngỗ nghịch của chúng tôi, và vì tội vạ của chúng tôi, ngài đã bị nghiền tán. Ðã giáng xuống ngài hình phạt đổi lấy an bình cho chúng tôi và nhờ những vết hằn ngài chịu, chúng tôi có phương được lành.” (Is 53, 5)

Chúa Giêsu Người đến trong trần gian mang lấy thân phận của người nghèo. Nghèo vì không còn ý riêng mình mà theo Ý Chúa Cha. Nghèo vì không có thời gian cho riêng mình mà dành thời gian cho con người, có lúc vì nhiệt thành nhà Chúa đêm ngày, người ta đã cho rằng “Người đã mất trí” (Mc 3, 21). Cứ như thế đã! như là một châm ngôn cuộc sống của Chúa Giêsu, không do dự, không ngại khi bị khinh chê, không lo sợ điều bách hại, tất cả cuộc đời của Chúa đều vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, trong sự tự do tuyệt đối của Người (Xem Ga 4, 34).

“Trời mở ra” Tội lỗi là sự khép kín giữa nhân loại và trời. Xưa kia vì Adam đã bất tuân nên tội lỗi đi vào thế gian và trời đã khép lại sau lưng (Xem St 3, 21 – 24). Nay nhờ sự vâng phục của một người (Xem Rm 5, 15 – 17) nên “trời mở ra” để con người nhờ Chúa Giêsu về lại trời.

Cứ như thế đã! Lời của Chúa có thể nối kết thành xâu chuỗi: người ta đến xưng thú tội lỗi với Gioan cử hành tại sông Giođan – Đấng vô tội cũng đến không phải để xưng thú tội mình mà là Đấng gánh tội trần gian, – Đây Chiên xóa tội (Agnus Dei)

Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người, gợi lên một sáng tạo thuở đầu khi “Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước” (St 1, 2) trong công trình tái tạo nhờ Chúa Giêsu trong sự vâng phục của Người. Thời của phép rửa mới trong Chúa Thánh Thần và trong nước. Một dân mới được khai sinh trong Chúa Giêsu.

“Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” (Ga 1, 15).

Cứ như thế đã! Xin cho chúng con biết đón nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, là niềm vui, hạnh phúc của chúng con.

Về mục lục

.

SỐNG TÌNH LIÊN ĐỚI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Bài thánh ca “Chúa không lầm” của Linh mục Nhạc sĩ Kim Long có những lời như sau :

“Chúa không lầm khi Ngài dựng nên con, dù lời Ngài con không giữ trọn. Vì Chúa đã biết từ ngàn xưa, rằng thân con bởi tro bụi và được cưu mang trong tội lỗi. Nhưng lòng Chúa quá bao la, dù cho bao phen con yếu đuối, thành tâm xin ăn năn thống hối, là Ngài lại thứ tha.”

Bài hát diễn tả thân phận tro bụi nên cuộc đời ai cũng nhuốm bùn nhơ của tội luỵ đam mê. Điều quan trọng là biết thành tâm ăn năn sám hối thì Chúa lại  thứ tha. Và Ngài thứ tha không chỉ 7 lần mà là 70 lần 7, nghĩa là mãi mãi Chúa vẫn tha thứ miễn là chúng ta thành tâm trở về.

Người ta nói: “đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy về”. Người biết quay đầu luôn được sự khoan hồng tha thứ của cộng đoàn. Và tình thương của Thiên Chúa thì vượt xa muôn vàn tội lỗi chúng ta, Ngài là Đấng chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Ngài có giận thì giận trong giây lát nhưng yêu thương thì suốt đời.

Khi Chúa Giê-su bước xuống dòng sông Giodan chịu phép rửa sám hối như muốn nói sự liên đới của Ngài với nhân loại tội lỗi chúng ta. Và qua đây, Ngài cũng nhắc nhở con người hãy biết sám hối để được ơn tha thứ và thanh tẩy nên trong sạch hơn. 

Chúa Giê-su là Đấng vô tội mà Ngài còn bước xuống dòng sông cúi mình sám hối. Đây là hành vi đẹp của Đấng ngàn trùng chí thánh mà vẫn khiêm nhu như bao tội nhân.

Cuộc sống chúng ta cũng vậy, người biết cúi mình nhận lỗi luôn là con người đáng kính trọng. Cha mẹ cúi mình nhận lỗi vì đã làm gương xấu cho con cái. Lãnh đạo chính quyền hay lãnh đạo tôn giáo biết cúi mình nhận lỗi là một bài học thật vĩ đại cho dân chúng. Ngày 01/01/2020, Đức Giáo hoàng Francis đã lên tiếng xin lỗi vì mất kiên nhẫn đến bực tức đập mạnh vào tay của một nữ tín hữu sau khi bà chụp lấy tay ngài khiến Đức Thánh Cha chao đảo như muốn té. Sau đó, ngài đã nói:  “Kiên nhẫn của tình yêu: tình yêu làm cho chúng ta kiên nhẫn. Nhiều lần chúng ta mất kiên nhẫn; tôi cũng vậy, tôi xin lỗi vì đã làm gương xấu hôm qua.”

Nhưng đáng tiếc, ở giữa dòng đời này lời xin lỗi thật khan hiếm. Ở đâu đó, ta vẫn thấy nhiều cuộc ẩu đả, cãi nhau từ gia đình đến phố chợ chỉ vì chẳng ai chịu nhận lỗi.  Ở đâu đó, ta vẫn thấy các lãnh đạo phủi tay về những tắc trách xảy ra gây nên biết bao thiệt hại cho đất nước và dân tộc. Và hằng ngày ta vẫn thấy người hàng xóm vẫn sống trong tội lỗi mà không bao giờ hoán cải như: cờ bạc, ma tuý, trộm cắp gian tham . . .

Sám hối mới có canh tân. Sám hối như là nhịp cầu để mình thăng tiến bản thân, và chắc chắn khi từng cá nhân sám hối thì xã hội cũng được canh tân nên tốt hơn.

Chuyện kể rằng : Có một anh nhà báo đã hỏi mẹ Tê-rê-sa một cầu hỏi kỳ lạ. Anh ta hỏi rằng:

– Ngay cả mẹ Tê-rê-sa mà cũng phải xưng tội hay sao?

Mẹ trả lời:

– Vâng, đúng vậy, tôi đi xưng tội hằng tuần.

Tỏ ra ngạc nhiên, anh ta nói:

– Chúa chắc phải khắt khe lắm nên một người tốt lành như mẹ mà cũng phải xưng tội.

Mẹ hỏi lại:

– Đứa con bé bỏng hiền ngoan như thiên thần của anh đôi khi cũng làm điều sai. Vậy anh nghĩ gì nếu một ngày nào đó, con anh đến gặp anh và nói: “Ba ơi, con xin lỗi? Anh sẽ làm gì? Anh sẽ vòng tay ôm lấy đứa nhỏ và hôn nó. Tại sao vậy? Vì đó là cách anh nói với con rằng anh yêu nó. Chúa cũng làm như vậy. Tình yêu của ngài dành cho tôi thật dịu dàng”. Do đó khi chúng ta sai phạm điều gì, chúng ta càng cần phải đến gần Thiên Chúa hơn. Chúng ta hãy thưa với Ngài: “Con biết chính tội lỗi đã làm con lìa xa Cha. Con không xứng đáng làm con Cha nữa, nhưng con nài xin Cha hãy tha thứ tội lỗi cho con”.

Chúa là một Người Cha khoan dung. Lòng nhân từ của Chúa còn lớn hơn gấp bội những tội lỗi của chúng ta. Chắc chắn Ngài sẽ tha hết mọi tội cho ta. Như vậy, sám hối rất cần để chúng ta được nên tốt hơn. Không có sức mạnh nào giúp chúng ta kiềm chế các đam mê dục vọng và hướng lòng về Chúa bằng sự thành tâm sám hối các tội đã phạm.

Xin cho chúng ta biết sám hối mỗi ngày để từ bỏ thói hư tật xấu, biết hy sinh hãm dẹp tính xác thịt, biết hy sinh để sống làm gương sáng cho tha nhân. Nếu mỗi người biết sám hối và canh tân thì trên trời sẽ vui mừng biết bao. Amen

Về mục lục

.

ĐỂ NÊN GIỐNG THẦY GIÊSU

Bông hồng nhỏ

Bên sông Giođan, Thầy Giêsu đã cúi mình xin ông Gioan làm phép rửa. Ông Gioan bối rối, can ngăn và ông khước từ, không chịu làm phép rửa cho Thầy bởi ông biết Người là Đấng phải đến.

Là môn đệ của Thầy Giêsu, đã bao lần ta cũng không hiểu được những điều Thầy dạy, những việc Thầy làm. Cũng như ông Gioan, ta đã thảng thốt kêu lên: “Lạy Chúa! Chính con mới cần được Chúa làm phép rửa, thế mà Chúa lại đến với con” (x. Mt 3, 14). Chúa đã luôn là người đi bước trước để đến với ta. Ta là ai mà được Ngôi Hai Thiên Chúa viếng thăm? Chúa đã vui lòng cư ngụ nơi tâm hồn bé nhỏ của ta. Chúa không phải là một vị khách quý nhưng Chúa là chủ nhà. Chúa là chủ và Chúa đã luôn chờ đợi ta trở về gặp Chúa nơi chính tâm hồn của ta như người cha mong chờ đứa con đi hoang. Có những lúc, ta cảm thấy lạ lẫm ngay trong chính tâm hồn mình. Ta không hiểu chính mình. Trở về với lòng mình là giây phút gặp gỡ Thầy Giêsu, để Người yêu thương và giúp ta hiểu được chính mình và nhận biết Chúa là Cha yêu thương ta. Nơi sâu thẳm cõi lòng, tiếng Chúa vẫn vang vọng và thôi thúc ta, từ những chuyển động nho nhỏ đến những chuyển động có sức lôi cuốn ta đến gần Thiên Chúa, Đấng mà ta luôn kính sợ.

Trước sự bối rối của ông Gioan, Thầy Giêsu nhẹ nhàng giải thích: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3, 15). Quả thật, ta chỉ cần làm theo điều Thầy Giêsu muốn thôi, thực hiện với một lòng tin mạnh mẽ và một con tim yêu mến, dù cho lý trí không hiểu. Chúa Giêsu đã một đời sống trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Từ hang Bêlem đến Núi Sọ, cả một hành trình ba mươi ba năm đi trong thánh ý Thiên Chúa, Người đã bước đi không biết mỏi mệt, dù đã ngã nhiều lần nhưng vẫn bước đến cùng con đường tình yêu. Chúa Giêsu đã muốn trở nên giống ta khi chia sẻ phận người yếu đuối và mỏng giòn, Người chịu đói, chịu rét và tất cả mọi sự để ta được an ủi, được vơi bớt gánh sầu đau. Người vô tội nhưng đã chấp nhận chung một khổ hình như các tội nhân và chết như một một nhân. Con Thiên Chúa đã tự hạ đến cùng để đến với con người. Ta đã được thanh tẩy trong Máu Thánh của Người, ta sẽ sống như thế nào để xứng đáng là con cái Chúa, để mọi người cũng nhờ ta mà nhận biết Thiên Chúa? Thiên Chúa đã long trọng tôn vinh Chúa Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Chiêm ngắm cuộc đời của Chúa Giêsu, ta có thể tìm được một con đường đến với Thiên Chúa, để cũng trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha. Ta có muốn được nên giống như Thầy Giêsu không?

Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã muốn trở nên giống con trong mọi sự để con cũng được thông phần bản tính với Thiên Chúa. Xin giúp con mỗi ngày biết say yêu Lời Chúa và năng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, để nhờ được kết hợp với Chúa, con biết phó thác đời con trong bàn tay quan phòng của Chúa. Xin dạy con biết khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và can đảm sám hối bằng những hành động cụ thể, để nhờ đó con được tràn đầy niềm vui và bình an, “hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến”. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC SỐNG MỚI

Anna Cỏ may 

Các trẻ sinh ra trong gia đình Công giáo điều được lãnh Bí tích Rửa Tội. Những ai muốn gia nhập vào Hội thánh Công giáo dù lớn hay nhỏ điều phải lãnh Bí tích Rửa Tội, Bí tích này thuộc về nhóm Bí tích Khai Tâm.

Khi ông Gioan đang làm phép rửa ở sông Giođan, Chúa Giêsu đã đến xin ông làm phép rửa cho mình. Ông Gioan một mực can ngăn Ngài và nói: “Chính tôi mới cần Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi” (Mt 3,13). Việc Chúa Giêsu đến dìm mình trong nước để thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể. Ngài muốn sống trọn thân phận con người, cùng đồng hành với con người. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu dạy chúng ta sự vâng phục trọng vẹn với thánh ý Chúa Cha: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”(Mt 3,17). Từ sự vâng phục là sống trọn vẹn ơn gọi làm người, Ngài đã đem lại cho con người sự sống mới, sự sống trong Chúa Thánh Thần (x Mt 3, 16). Hình ảnh này đã chứng thực lời ông Gioan nói: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”(Mc 1, 8).

Chúa Giêsu xuống thế làm người không chỉ để giải thoát mà còn trao ban cho con người sự sống mới. Qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta được sạch tội Tổ tông và bước vào một cuộc sống mới như Chúa Giêsu, chính là cuộc sống yêu thương. Cuộc sống yêu thương là cuộc sống luôn sẵn sàng thí mạng sống mình vì người khác. Ngày nay, khi được Rửa Tội, chúng ta đã được khắc trên mình dấu Thánh giá. Thánh giá vừa thể hiện cái chết của Chúa Giêsu vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài dành cho Chúa Cha và nhân loại. Vì vậy, ước gì mỗi người chúng ta khi làm dấu Thánh giá hay mang Thánh giá trên mình luôn ý thức về tình yêu trao ban của Chúa Giêsu và đó cũng chính là động lực cho chúng ta ý thức sống sự sống mới trong Thần Khí nơi cuộc hiện tại.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Ngài đã luôn đi bước trước trong mọi sự. Ngài đã trao ban Bí tích Rửa Tội cho chúng con. Xin cho chúng con mãi trung thành với đức tin và thể hiện đức tin trong cuộc sống hằng ngày, để chúng con trở nên là những người con yêu dấu của Chúa Cha. Amen.

Về mục lục

.

LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan là gạch nối giữa hai giai đoạn: Đời sống ẩn dật và đời sống công khai của Chúa. Khi Chúa Giêsu bước lên khỏi sông Giođan, Chúa Cha đã đón nhận và giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: “Đây là Con Ta rất yếu dấu.”

Suốt ba mươi năm Chúa sống ẩn dật tại làng quê Nazarét. Thời gian sống thật dài. Chúa đã kiên nhẫn đợi chờ sự phát triển bình thường của con người trong thời gian và không gian. Tới tuổi trưởng thành, tam thập như lập. Chúa Giêsu đã công khai ra giảng đạo. Chúa khởi đi từ sự khiêm hạ xếp hàng cùng với những tội nhân để nhận phép rửa của Gioan. Chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là người vô tội, Ngài không có tì vết của tội lỗi.

Từ nay cuộc đời của Chúa hoàn toàn đổi mới dưới con mắt mọi người. Chúa bắt đầu vào hoang địa để ăn chay và cầu nguyện trong 40 đêm ngày. Sau khi chịu mọi thử thách trong hoang địa, Chúa đã vượt thắng tất cả các cơn cám dỗ. Rồi Chúa bắt đầu ra công khai rao giảng và chữa lành tất cả các loại bệnh tật. Chúa mở đường đưa đón người tội lỗi trở về. Chúa mặc khải tình yêu thương nhân hậu của Chúa Cha qua các dụ ngôn. Chúa giảng dạy với quyền năng phát suốt tự mình. Chính những kinh nghiệm của cuộc sống nơi nhà Nazarét đã trở nên những bài học thiết thực nói về nước trời.

Sứ mệnh rao truyền chân lý của Chúa cứ mãi tiếp tục từ đời này qua đời khác. Ai tin vào Chúa sẽ được ơn cứu độ. Xin kể câu truyện: Bà cụ 104 tuổi sống tại Croydon. Có nhà truyền giáo đến rao giảng về Chúa Kitô. Ngài nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của mình xuống trần gian để cứu độ nhân loại. Ai tin sẽ được cứu độ. Bà cụ quá vui mừng. Bà nói thật là tuyệt vời. Thiên Chúa tốt lành Ngài tha thứ cho tôi. Tôi đã bỏ mất 100 năm không học biết Ngài. Sau đó bà đã được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Báo chí ngày đó đã viết lại rằng bà sinh năm 1825 và sinh lại trong Chúa năm 1925.

Chúng ta cần sám hối và cần được thanh tẩy. Hãy nhớ lại Bí Tích Rửa Tội của mình, qua Phép Rửa Tội chúng ta được giao hòa và tháp nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta trở thành môn đệ của Chúa. Chúng ta có bổn phận tiếp tục làm nhân chứng và truyền rao tình yêu của Chúa cho mọi người.

Về mục lục

.

CON YÊU DẤU

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu

Suy niệm :

Xếp hàng chung với những người thu thuế, tội lỗi,
Ðức Giêsu chờ đến phiên mình được Gioan làm phép rửa.
Gioan bối rối, khước từ.
Ðấng ông không đáng xách dép, Ðấng là thẩm phán quyền uy,
Ðấng sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần,
Ðấng ấy lại cúi mình xin ông làm phép rửa sám hối.
Ðức Giêsu mời gọi ông cứ làm, dù ông không hiểu,
vì đó là điều hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Câu nói đầu tiên của Ðức Giêsu trong Tin Mừng Mátthêu (3,15)
tóm gọn cả cuộc đời tương lai của Ngài.
Ngài chỉ muốn giữ trọn, làm trọn điều Thiên Chúa muốn.
Ðức Giêsu hạ mình trước mặt Gioan,
và Ngài còn dìm mình thật sâu trong dòng nước.
Ngài chia sẻ cùng một dòng nước với những hối nhân.
Ngài liên đới với sự hoán cải của cả dân tộc.
Chính lúc Ngài tự hạ vì vâng phục,
Thiên Chúa lại muốn long trọng tôn vinh Ngài.
“Vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra.”
Tầng trời mở ra là dấu hiệu Thiên Chúa muốn ngỏ lời.
“Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống và ngự trên Người.”
Ðức Giêsu đã được thụ thai nhờ Thánh Thần,
nay Ngài lại nhận được Thánh Thần để bắt đầu sứ vụ.
“Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.”
Chúa Cha trìu mến giới thiệu cho ta Con của Ngài.
Cha tấn phong Ngài làm Mêsia, nhưng theo kiểu một Tôi Tớ.
Ðức Giêsu hiểu những gì Cha mới vén mở cho mình.
Qua bao năm cầu nguyện, Ngài đã được Cha tỏ lộ
về căn tính và sứ mạng thiên sai của Ngài.
Nhưng hôm nay, nơi sông Giođan,
Cha đã chuẩn nhận một cách long trọng và dứt khoát.
Cả con người Ngài bừng lên ánh sáng và sức mạnh.
Ðức Giêsu biết giai đoạn ẩn dật ở Nadarét đã kết thúc.
Ðã đến lúc Cha muốn Ngài lên đường.
Kinh nghiệm bên sông Giođan, Ðức Giêsu chẳng thể quên.
Kinh nghiệm ấy được sống và lớn lên trong suốt đời Ngài.
Ngài không chỉ đứng chung với tội nhân,
Ngài còn gần gũi họ, nâng dậy và gánh tội của họ.
Ngài chết với những tội nhân và chết như một tội nhân.
Các tầng trời đã mở ra và không bao giờ khép lại.
Sự hiện diện, lời nói, hành động của Ngài
đã luôn là một vén mở về khuôn mặt của Thiên Chúa.
Thần Khí Thiên Chúa đã ngự trên và ngự trong Ngài.
Thần Khí là bạn đường, hướng dẫn Ngài vào hoang địa,
đưa Ngài đi giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật.
Thần Khí làm Ngài hớn hở mừng vui cất lời ca ngợi.
Nhờ Thánh Thần, Ngài đã luôn sống như Con của Cha,
luôn làm điều đẹp lòng Cha và sống đơn sơ phó thác.
Phép rửa ở Giođan chuẩn bị cho phép rửa nơi thập giá.
Chúng ta được mời gọi sống phép Rửa mình đã lãnh nhận.
Mai táng cái tôi ích kỷ và rạng rỡ trong cái tôi tự do.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Kitô hữu ngày nay biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể; nhưng những người ngày xưa như dân Bêlem, dân làng Nadarét và cả những người nghe Đức Giêsu rao giảng, đều không biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Họ đã đối xử với Đức Giêsu như một con người. Vì thế, khi Đức Giêsu mặc khải Ngài ngang hàng với Thiên Chúa thì Ngài bị người ta kết án tử hình. Đối với người thời đó, không có chuyện Thiên Chúa ba ngôi vị, nên chẳng có chuyện Thiên Chúa nhập thể.

Đức Giêsu là con của Đức Maria ở Nadarét. Ngài đã được sinh trong chuồng chiên cừu ở Bêlem khi cha mẹ Ngài không tìm được chỗ qua đêm. Ngài sinh ra như một người nghèo hèn nhất trong thiên hạ. Không ai biết chân tướng của Ngài. Có lẽ cả Đức Maria và thánh Giuse cũng chỉ biết Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, là người của Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Người ta chỉ biết Thiên Chúa là ba ngôi vị sau biến cố Đức Giêsu Phục Sinh.

Đức Giêsu đã sống một thời gian dài ở Nadarét như tất cả những người Do Thái thời đó. Ngài hành nghề lao động như bao người nghèo. Tin về Gioan con ông Dacaria rao giảng làm phép rửa sám hối đến làng Nadarét, chắc Đức Giêsu không phải là người duy nhất từ Nadarét muốn đi nhận lãnh phép rửa sám hối với Gioan. Có lẽ Ngài đã xin Đức Maria, và được sự đồng ý của Mẹ, Ngài đã lên đường tới sông Giordan. Ngài chờ đợi tới phiên mình. Ngài cũng gục đầu sám hối như bao người. Ngài cảm thấy mình liên đới với con người tội lỗi. Ngài thống hối xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho tất cả mọi người. “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian”. Ngài chịu phép rửa, vì Ngài gánh tội trần gian.

Đức Giêsu đã sống một thời gian dài sống ở Nadarét, vì Ngài không thấy Thiên Chúa muốn Ngài làm điều gì đặc biệt. Với biến cố này, Thiên Chúa thúc đẩy Ngài tới với Gioan để nhận phép rửa sám hối. Sau khi lãnh nhận phép rửa sám hối, Thánh Thần Thiên Chúa đã thúc đẩy Ngài vào sa mạc ăn chay cầu nguyện (Mt.4, 1tt). Ngài cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Đức Giêsu là một người chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, nghĩa là, Ngài cũng chấp nhận “đi tìm ý Thiên Chúa” như tất cả mọi người. Cũng chính trong bầu khí này mà người ta hiểu tại sao Ngài lại bị cám dỗ. Ma quỷ cám dỗ Ngài làm sai ý của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài đã chống lại. Đức Giêsu đã chiến thắng.

Đức Giêsu cũng đã phải nhận định xem mình có nên chịu phép rửa hay không, vì Ngài thấy mình đâu có tội lỗi gì để mà phải nhận lãnh phép rửa sám hối. Đức Giêsu đã muốn liên đới với con người, với tội nhân, nên Ngài đã đi nhận lãnh phép rửa. Hành vi này của Ngài, đã được Thiên Chúa chuẩn nhận. “Khi Ngài đang cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim câu. Và có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con’”.

Hành vi Đức Giêsu nhận lãnh phép rửa sám hối, làm đẹp lòng Thiên Chúa. Khiêm tốn, liên đới với người nghèo và người tội lỗi, là cung cách hành xử của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã thực hiện đúng ý Người. Đức Giêsu luôn tìm kiếm ý Thiên Chúa, và một khi thấy thì Ngài thi hành:

Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta (Ga.4, 34),

Lạy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con, mà theo ý Cha.

Đức Giêsu luôn tìm kiếm để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Sở dĩ vậy, vì Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người hoàn toàn (Dt.2, 17; 4, 15). Con người không biết nên phải tìm kiếm ý Thiên Chúa, thì cũng vậy Đức Giêsu cũng chia sẻ tính vô tri này của con người, và Ngài cũng phải liên tục tìm biết ý Thiên Chúa.

Khiêm tốn là nhìn nhận sự thật về chính mình. Đức Giêsu đã nhìn nhận sự thật về chính Ngài, và hơn nữa, Ngài còn tự hạ mình, muốn chia sẻ thân phận của anh em mình vì yêu thương. Hành vi này của Ngài, đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Hành vi khiêm tốn, là hành vi chấp nhận sự thật về chính mình, và cũng là hành vi được điều khiển bởi tình yêu. Yêu thương sẵn sàng hy sinh chính mạng sống mình để anh em mình được sống.

Biến cố Đức Giêsu xuất hiện, đã được Giáo Hội nhìn như một biến cố đặc biệt mà Cựu Ước đã loan báo như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao; Hỡi kẻ loan tin mừng cho Yêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật lớn … kìa Thiên Chúa các ngươi đang tới”. Nơi Đức Giêsu, người ta thấy vinh quang của Thiên Chúa. Thiên Chúa đến cách đặc biệt nơi Đức Giêsu.

Biến cố Đức Giêsu cũng đã chi phối và biến đổi đời sống của những người tin Ngài một cách dứt khoát. Đời sống của Kitô hữu phải dọi theo đời sống của chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu luôn chọn ý Thiên Chúa trên tất cả, Ngài luôn yêu thương anh chị em mình. Ngài yêu họ đến độ dám hy sinh chính mạng sống mình cho họ, nói cho họ biết Thiên Chúa yêu thương họ đến cùng khi cho Con Ngài nhập thể, cho dù khi nói như vậy Ngài bị người ta hiểu lầm và giết Ngài. Đức Giêsu là người đã đến sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Xin cho mỗi người chúng ta sống theo gương Ngài, yêu thương và khiêm tốn, để đem hạnh phúc cho những người chúng ta gặp gỡ và sống với.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu chịu phép rửa khi Ngài thấy mình không có tội?
  2. “Đức Giêsu cũng đi tìm ý Thiên Chúa như mỗi con người”. Theo bạn, nói như vậy có hạ phẩm giá của Đức Giêsu không? Tại sao?
  3. Bạn thấy Đức Giêsu gần gũi hay xa lạ với bạn? Xin bạn chia sẻ.

Về mục lục

.

PHÉP RỬA ĐÁNH DẤU SỨ MỆNH NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ

Lm Trần Bình Trọng

Xuất hiện trong hoang địa miền Giuđê, ông Gioan tẩy giả rao giảng phép rửa thống hối, sửa soạn cho dân chúng đón nhận Ðấng cứu thế đến. Phép rửa của Gioan chỉ là phép rửa bằng nước, nên không có công hiệu tha tội.

Ðể phê chuẩn công việc và sứ vụ của Gioan, Ðức Giêsu cũng đến xin chịu phép rửa. Bằng việc xin chịu phép rửa, Ðức Giêsu muốn chỉ cho ta thấy tầm quan trọng và sự cần thiết của Bí tích Rửa tội mà Chúa sẽ thiết lập sau này. Rồi Chúa phán bảo: Không ai có thể vào nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh thần (Ga 3:5). Việc Chúa chịu phép rửa đánh dấu đời sống công khai của Chúa như là người tôi tớ, người rao giảng và người chữa lành. Ðó là lí do tại sao khi bước ra khỏi nước, thì có tiếng từ trời phán rằng: Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 3:17).

Tiếng phán từ trời trên đây trong Phúc âm thánh Mát-thêu hầu như đồng nhất hay giống  với lời ngôn sứ Isaia được chọn cho lễ Chúa chịu phép Rửa: Ðây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quí mến hết lòng (Is 42:1). Vậy ai là người tôi tớ của Giavê mà ngôn sứ Isaia nói đến? Sau nhiều nghiên cứu và tranh luận, đa số giới học giả Do thái giáo cho rằng chính nhà Ítraen là tôi tớ của Giavê. Trong bản Hi lạp của Phúc âm thánh Mát-thêu, từ ngữ pais có nghĩa là con hoặc tôi tớ. Ðiểm này giúp học giả Thánh kinh nhận định người tôi tớ trong sách ngôn sứ Isaia chính là Con Thiên Chúa trong Phúc âm Mát-thêu. Do đó mà người tôi trung của Ðức Giavê cũng được hiểu là Ðức Kitô trong sách Tông đồ Công vụ (Cv 3:13; 3:26; 4:27; 4:30).

Bằng việc xin được chịu phép rửa bởi Gioan, Ðức Giêsu coi sứ vụ của người tôi trung là của chính Người. Phụng vụ Chúa nhật Thương khó cho thấy hình ảnh của Ðức Kitô nơi người tôi trung đau khổ của Giavê trong sách ngôn sứ Isaia khi người tôi trung thốt lên: Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ … vì thế tôi đã không hổ thẹn (Is 50:6c,7b). Phụng vụ Thứ hai Tuần thánh, Thiên Chúa nói về người Con tôi trung của Người như sau: Người sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường (Is 42:2). Trong phụng vụ Thứ ba Tuần thánh, Thiên Chúa nói về người Con tôi trung: Này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất (Is 49:6). Phụng vụ Thứ tư Tuần thánh cho thấy người Con là tôi trung nói về mình: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu (Is 50:6). Phụng vụ Thứ sáu Tuần thánh mô tả về người Con tôi trung như sau: Người đã bị đâm thâu vì chúng ta phạm tội (Is 53:5).

Như người tôi trung làm theo ý chủ, Ðức Giêsu như là người tôi trung cũng đến để làm theo ý Chúa Cha. Người đã tự cam kết vào công việc cứu rỗi bằng việc giảng dạy và chữa lành tội lỗi nhân loại. Người còn tự ý chấp nhận đau khổ và tử nạn trên thập giá để xoá tội trần gian.

Ðời sống người tín hữu cũng bắt đầu bằng Bí tích Rửa tội. Bí tích Rửa tội là việc kết thúc và là việc khởi đầu. Ðó là việc kết thúc đời sống trong bóng tối tội lỗi và khởi đầu đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Trong Bí tích Rửa tội, người tín hữu chết đi cho tội lỗi để được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa qua một tiến trình chết đi sống lại.

Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được gọi làm đầy tớ đau khổ để cộng tác vào công việc cứu rỗi của Ðức Giêsu. Nếu người Do thái nhận ra họ trong hình ảnh của nguòi tôi tớ đau khổ của Giavê Thiên Chúa trong sách Isaia, thì người tín hữu lại không chịu nhận ra mình trong hình ảnh người tôi trung đau khổ của Thiên Chúa là Ðức Giêsu sao? Và nếu người tín hữu phải chịu đau khổ, hãy nhớ lời Ðức Giêsu: Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng họ đã ghét Thày trước (Ga 15:18). Ðó chính là điều Chúa Giêsu phán bảo: Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (Mt 16:24). Ở nơi khác thánh Phaolô nói: Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thánh tẩy, để thuộc về Ðức Giêsu Kitô, là chúng ta được dìm vào cái chết của Người sao (Rm 6:3)?

Người tín hữu chịu đau khổ với Ðức Giêsu không có nghĩa là phải chịu khổ như một đường cùng, không lối thoát. Người tín hữu chịu đau khổ, vác thánh giá với Ðức Giêsu vì yêu mến Chúa để được tham dự vào những đau khổ và thánh giá của Chúa hầu được tới vinh quang với Ðức Kitô. Chịu đau khổ đây là chịu những đau khổ về thể xác hay tinh thần do bệnh tật, do hoàn cảnh hoặc do tha nhân gây ra cho mình chứ người tín hữu không đi tìm đau khổ hoặc chuốc lấy đau khổ về cho mình. Do đó khi gặp đau khổ về thể xác hay tinh thần, người tín hữu cần tìm cách chữa trị. Tuy nhiên bao lâu ngưòi tín hữu còn mang trong mình những đau khổ về bệnh tật thể xác hoặc tinh thần, người tín hữu cần cầu xin cho được tìm ra ý nghĩa của đau khổ, thánh giá và xin cho được ơn nhẫn nạn để chịu đựng đau khổ và vác thánh giá vì yêu mến Chúa để đền tội mình. Chịu đau khổ và vác thánh giá như vậy, thánh giá và đau khổ mới trở nên phương tiện cứu rỗi.

Lời nguyện xin cho được sống theo đường lối Chúa:

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã đến đồng hoá với người tôi tớ đau khổ

trong sách ngôn sứ Isaia.

Xin cho con nhận thức được rằng

đường Chúa đi là đường đau khổ thánh giá

trước khi đi vào phục sinh vinh hiển.

Cũng xin cho con được nhận thức rằng

là môn đệ Chúa, con cũng phải vác thánh giá theo Chúa

như lời Chúa dạy. Amen.

Về mục lục

.

PHÉP RỬA TÁI SINH

Lm. John Nguyễn

Như sách Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Bí tích Rửa tội là bí tích Chúa Giêsu đã lập cho ta được tha tội nguyên tổ và các tội ta đã phạm; đồng thời, thông ban sự sống siêu nhiên cho ta được làm con cái Thiên Chúa và Hội Thánh”.

Và hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Từ phép rửa của Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta điều gì? Và chúng ta có liên tưởng gì đến phép rửa chúng ta đã lãnh nhận?

Trước hết, chúng ta hãy tìm lại thuật ngữ phép Thanh tẩy trong nguyên ngữ Hy văn βαπτίζω (baptízô) có nghĩa là “tắm” hoặc “nhúng vào” toàn bộ một nguời hay vật vào trong nước. Theo nghi thức và truyền thống Công giáo, Bí tích Thanh Tẩy còn được gọi là Phép Rửa tội, và Bí tích này được khơi nguồn từ Gioan Tẩy giả được điễn tả trong Tin mừng của thánh Luca:

“Gioan đi khắp các vùng gần kề sông Jordan, rao giảng về phép rửa, kêu gọi dân chúng hãy hối cải để được tha tội… Và toàn thể nhân loại sẽ nhìn thấy sự cứu rỗi của Thiên Chúa”. Dân chúng tin vào lời Gioan, họ đến để xin chịu phép rửa của Gioan. Theo truyền thống của người Do thái, Phép Thanh tẩy không chỉ là biểu trưng cho sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu, mà còn là sự chuyển hoá siêu nhiên tương tự như kinh nghiệm trong cơn Đại hồng thủy thời Noê và kinh nghiệm dân Do thái vượt qua Biển đỏ thời Môsê khi nước rẽ ra cho dân chúng thoát chết. Cho nên, Phép rửa tội có cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng không chỉ là sự thanh tẩy, mà còn đồng nghĩa với sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Với ý nghĩa đó, chúng ta tin rằng, Bí tích Rửa tội là cần thiết không chỉ để được tẩy sạch tội tổ tông mà còn được làm con cái của Thiên Chúa và gia nhập vào Hội Thánh. Cho nên, nghi thức Thanh Tẩy là lời chứng về đức tin của một cá nhân bày tỏ sự hiệp nhất với Chúa Kitô trong giao ước với Thiên Chúa. Vì vậy, việc cử hành Bí tích Thánh tẩy thường là trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, một số giáo phái như Baptist chỉ ban lễ báp-têm cho người đủ hiểu biết vì họ tin rằng, lễ này không cứu rỗi linh hồn, nhưng đúng hơn là nghi thức để tín hữu công khai xưng nhận rằng bởi đức tin người ấy đã được cứu qua sự hiệp nhất với Chúa Kitô trong sự chết và sống lại của Ngài. Martin Luther viết: “Nói cách đơn giản nhất, quyền năng, hiệu quả, lợi ích, kết quả và mục đích của báp-têm là sự cứu rỗi. Không ai nhận lễ báp-têm để trở thành vương hầu, nhưng để được cứu rỗi. Được cứu rỗi, như chúng ta biết, không gì khác hơn là được giải thoát khỏi tội lỗi, sự chết và quyền lực ma quỷ hầu có thể vào vương quốc của Chúa Cơ Đốc và sống với Ngài đời đời.”

Kế đến, theo lời Gioan rao giảng, phép rửa là biểu diện sự sám hối, hoán cải và trở về với Thiên Chúa thì vết nhơ của tội lỗi có thể tẩy xoá bằng cách từ bỏ mọi hành vi bất chính và bước đi trong đường lối của Chúa. Ngài nói thêm: “Tôi làm phép Thanh Tẩy cho anh em bằng nước, nhưng có một Đấng quyền bính hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng mở dây giày cho Ngài. Ngài sẽ làm phép Thanh Tẩy cho anh em bằng Chúa Thánh Thần và bằng lửa” (Lc 3.16-17). Thế thì, việc Chúa Giêsu đến xin chịu phép rửa của Gioan có ý nghĩa gì? Vì Ngài là Đấng vô tội. Ngài không có tội như chúng ta. Nhưng qua dấu chỉ này, Chúa Giêsu muốn chia sẻ thân phận yếu hèn và cảm thông với tội nhân, Ngài đền tội thay cho con người. Hình ảnh Chúa Giêsu dìm mình xuống dòng sông Gióc-đan còn mang một ý nghĩa phép rửa bằng máu, mà Chúa Giêsu chịu trong cuộc tử nạn, dòng nước và máu tuôn ra từ cạnh sườn của Ngài. Dòng nước và máu ấy mang lại cho nhân loại sự sống mới, như lời thánh Gioan đã loan báo trong Tin mừng hôm nay.

Khi cử hành Thanh Tẩy cho Chúa Giêsu, Gioan chứng thuật rằng: “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời xuống đậu trên Ngài. Tôi không biết Ngài, nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa bằng nước bảo tôi rằng: Đấng mà ngươi sẽ thấy Thánh Thần ngự xuống và đậu lên trên là Đấng sẽ làm phép rửa bằng Chúa Thánh Thấn. Tôi đã thấy, nên chứng thuật rằng: Ngài là Con Thiên Chúa.”. Vào những ngày cuối cùng khi sống trên thế gian, Chúa Giêsu uỷ thác sứ mạng cho các Tông đồ ra đi làm phép rửa cho muôn dân: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần ” (Mt. 28,19), và câu nói này trở nên công thức chung khi cử hành Bí tích Thanh tẩy. Từ đó, việc cử hành phép Thanh Tẩy bằng nước được gắn kết với các môn đồ của Chúa Giêsu, và kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn năn, sám hối vì Nước Thiên Chúa đã gần kề.”

Qua những gì Lời Chúa đã mạc khải cho chúng ta về Bí tích Thánh tẩy, chúng ta nhận thấy rằng, Bí tích Thanh tẩy cho ta được ơn tái sinh từ con người mang vết tích của tội tổ tông và tội riêng ta đã phạm, nhờ Bí tích này ta được giao hòa và được làm con cái Thiên Chúa nhờ máu và nước của Đức Kitô, chúng ta được trở nên tinh tuyền. Chiếc áo trắng chúng ta mặc trong ngày rửa tội là biểu hiện sự trong trắng tâm hồn. Tuy nhiên, chiếc áo tâm hồn của chúng ta hôm nay vẫn còn đang mang vết nhơ bởi sự dục vọng, ghen tương, ích kỷ kiêu căng và hận thù, vì vậy, chúng ta cần giặt lại trong nước và máu Chúa Ki-tô qua Bí tích Hòa giải. Nếu mỗi ngày chúng ta cần được tắm để cơ thể khỏe mạnh, thì chúng ta cũng cần thanh tẩy đời sống tâm linh bởi những thứ dơ bẩn bởi cái tâm giả. Chúa Giêsu đã khiêm hạ đến nhận phép rửa của Gioan, thì chúng ta cũng chấp nhận để cho anh em sửa chữa những khiếm khuyết của mình. “Nhân bất thập toàn”. Không ai là người hoàn hảo. Khi ta biết chấp nhận sự bất toàn là lúc ta sống thật với chính mình và nhận ra được tình yêu Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thích những ai khiêm nhường. Như lời Mẹ Maria đã thưa: ” Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Tôi xin vâng theo lời sứ thần truyền”. Nếu chúng ta là con cái của Chúa và Mẹ đúng nghĩa, thì chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria. Chúng ta có đáng là gì mà tự mãn, tự kiêu trước quyền năng của Thiên Chúa. Sự thành công, chức tước, giàu có đáng là chi. Tất cả chỉ là phù du, và đối với Thiên Chúa thì vô nghĩa. Ngài cần tấm lòng của chúng ta, chứ không phải của lễ. Chẳng phải chúng ta đi tìm Thiên Chúa trong sự khiêm hạ, đơn sơ, nghèo hèn trong mầu nhiệm Giáng sinh sao? Thì hôm nay chúng ta nhận ra Chúa Giêsu nơi dòng sông Gióc-đan để nhận phép rửa của Gioan. Nơi đây, Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Như Lời Chúa Cha phán rằng: ” Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con”.(Lc 3,22).

Lạy Chúa, Ngài đã tự hạ và tự hủy để sống và chết cho chúng con, thì giờ đây xin cho chúng con khi lãnh nhận ơn Bí tích Thanh tẩy, chúng con cũng biết thanh tẩy vết nhơ của tội lỗi nơi tâm hồn của chúng con trong quá khứ cũng như hiện tại, để mỗi ngày chúng con được ơn tái sinh trong nước hằng sống từ nơi Chúa Giêsu qua Bí tích Thánh Thể, nhờ đó, mỗi ngày chúng con được sống trong nguồn mạch ơn sủng của Thiên Chúa yêu thương. Xin cho chúng con học nơi Chúa Giêsu đức khiêm nhường, nhờ đó chúng con biết chấp nhận sự yếu đuối và tội lỗi của mình để đón nhận sửa chữa của anh em. Và xin chúng con biết hát lên lời ca của Đavít khi còn đang mang đầy thương tích của tội lỗi: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát giày vò, Chúa chẳng khinh chê”. (Tv 50). Xin tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa nhậm lời chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Lm. Phêrô Bùi Trọng Khẩn

Việc đầu tiên của Chúa Giêsu trước khi thi hành chức năng rao giảng là đến xin ông Gioan tẩy giả làm phép rửa cho mình.

Khi thấy Chúa Giêsu đến, Gioan ngạc nhiên quá sức và can ngăn Chúa “Chính tôi mới cần đựơc Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi”. Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3,14-15). Cả hai nhân vật trong tin mừng là Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả đều khiêm nhường.

Gioan biết mình không đáng xách dép cho Chúa, chỉ là người giới thiệu, minh chứng về Chúa. Xong nhiệm vụ của mình ông phải rút lui vào bóng tối để cho Chúa phải lớn lên. Nhưng đồng thời phép rửa của ông cũng chỉ là một nghi thức giục lòng ăn năn sám hối chứ không có sức để tha tội. Đức Giêsu là Thiên Chúa vô tội, Thiên Chúa quyền năng nhưng lại dám hạ mình xếp hàng đứng bên cạnh những người có tội bên dòng sông Giođan chờ đến lượt theo thứ tự để được chịu phép rửa. Đức Giêsu hoà mình bình thường đến nỗi không ai nhận ra Ngài đang đứng bên cạnh mình. Có ai ngờ một đấng thánh thiện vô tội, cao cả lại đang đứng bên cạnh mình?

Sứ mệnh của Chúa Giêsu đến trần gian: cứu con người khỏi đau khổ, khỏi tội lỗi, khỏi chết đời đời. Không ai có thể làm được điều này. Để làm công việc này, Chúa Giêsu đã phải từ bỏ ngai vàng vinh quang là Thiên Chúa, bỏ trời cao, quên địa vị cao sang sống địa vị thấp hèn nhất trong xã hội loài người qua biến cố giáng sinh. Rồi Ngài lại tiếp tục hành trình qua từng giai đoạn, từng bước trong cuộc đời: cũng giữ mọi luật lệ, tập tục đạo đời, chịu chi phối bởi mọi định luật tự nhiên. Đặc biệt hôm nay, Chúa Giêsu đã bước xuống dòng sông Giođan. Theo tiếng Do thái, ‘Jarad’ nghĩa là đi xuống, vì đường dài dòng sông không ngừng đi xuống. Dòng sông bắt nguồn từ độ cao trên núi 520m đến chỗ sâu nhất dưới mực nước biển là 394m. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu. Chúa Giêsu chịu phép rửa ở chỗ này. Ngài đã xuống thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Ngài bước xuống tận chiều sâu của thân phận tội lỗi loài người để cảm nghiệm được sức nặng nề, đau đớn của tội nhân. Vì thế, chính nơi đây, Gioan đã giới thiệu về Đức Giêsu rằng ‘đây là Chiên Thiên Chúa, đây là đấng xoá bỏ tội trần gian’ (Ga 1,29). Nhưng cũng chính nơi đây, sau những lời giới thiệu của Gioan thì Đức Giêsu không cần người khác, nhân vật khác làm chứng hướng dẫn nữa mà chính Thiên Chúa Cha giới thiệu ‘đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người’. Đồng thời Chúa Thánh Thần xuất hiện giống hình chim bồ câu xác nhận điều đó.

Sự xuất hiện một lúc ba ngôi Thiên Chúa lần đầu tiên cho thấy địa vị, vai trò đặc biệt của Đức Giêsu hơn hẳn Gioan tiền hô, hơn hẳn các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo khác trên trần gian.

Với lễ Đức Giêsu chịu phép rửa chấm dứt mùa giáng sinh, bắt đầu mùa thường niên. Chấm dứt gian đoạn 30 năm sống âm thầm ở quê nhà Nagiarét; Đức Giêsu chính thức hoạt động công khai để cứu độ con người với danh hiệu là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật.

Sự tỏ mình của Đức Giêsu ngày càng rõ bao nhiêu thì đức tính khiêm nhường của Chúa càng nổi rõ hơn bấy nhiêu. Đó chính là bản chất của Thiên Chúa ‘nên giống anh em mình mọi đàng ngoại trừ tội lỗi’.

Tất cả những gì xưa nay các ngôn sứ thời Cựu ước loan báo về Đức Giêsu nay được ứng nghiệm dần dần. Quả thật Đức Giê su đến không phải để bãi bỏ lề luật, bãi bỏ những cái cũ, nhưng là để kiện toàn, làm cho nó mới mẻ hơn. Chính Đức Giê su đã xác nhận điều đó. Vì thế Ngài không huỷ bỏ phép rửa của Gioan là nghi thức của thời cựu ước, ngược lại Ngài đón nhận lại còn mặc cho nó một ý nghĩa mới trong phép rửa tội mà Ngài sẽ lập sau. Hơn nữa, Chúa còn mặc khải cho các môn đệ biết phép rửa là cái chết của Chúa khi Ngài nói: ‘Thầy còn phải chịu một phép rửa và thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất”(Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi họ đến xin được ngồi bên tả bên hữu trong Nước Chúa rằng: “các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu phép thánh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc10,38). Phép rửa đó chính là cái chết của Chúa, là đỉnh cao cuả sự hạ mình tột cùng của Chúa Giêsu.

Như vậy ý nghĩa trọn vẹn của phép rửa và sự khiêm nhường của Đức Giêsu được gặp thấy nơi cái chết của Ngài trên thập giá.

Mỗi người kitô hữu đã được chịu phép rửa tội là có một mối liên hệ hiệp thông sâu xa với Chúa Kitô và giao hội. Nghĩa là đều có chung một cảm nghĩ, lời nói và cách cư xử như Chúa. Xa hơn là cùng sống thân phận con người phải chết do hậu quả cuả tội nguyên tổ. Bởi vậy chúng ta không đứng ngoài sự liên đới với người khác mà phải đồng hành cùng với nhân loại trong dòng chảy của những tập tục, truyền thống, lễ nghi, văn hoá,…để thánh hoá, biến đổi, thăng hoa và làm hoàn hảo những giá trị này theo tinh thần của Chúa.

Chúng ta không được đứng ngoài trật tự của đời sống cộng đoàn mà phải hoà nhập trong tinh thần khiêm tốn, lịch sự để nâng đỡ nhau trong tinh thần của người con cái Chúa. Chúng ta không được phép gạt bỏ một cộng đoàn, giáo hội chỉ vì một chút truyền thống, nề nếp cũ kỹ; không được phép loại trừ một con người chỉ vì một chút khuyết điểm, ngược lại phải đón nhận để sửa chữa, đổi mới, canh tân theo cách hành xử của Chúa.

Người kitô hữu lãnh nhận bí tích rửa tội cũng là cuộc vượt qua từ sự chết đến sự sống. Chết với Chúa Kitô và sống lại với Người. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “anh em không biết rằng khi ta được dìm vào nươc thánh tẩy để thuộc về Đức Giêsu Kitô là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Bởi thế cũng như Người đã sống lại từ cõi chết thì chúng ta cũng sống một đời sống mới”(Rm 6,4-5).

Nơi Đức Giêsu phép rửa không còn là một nghi thức mà đã trở thành cuộc sống. Tội lỗi bị đánh bại không phải bằng nước mà là bằng máu của sự sống. Bí tích rửa tội của người kitô hữu không phải lãnh nhận một lần rồi thôi mà chính là cả cuộc sống phải tích cực đẩy lui tội lỗi mỗi ngày. Người kitô hữu phải có trách nhiệm làm sao để tiếng từ trời cao cũng lặp lại với mỗi người chúng ta: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con”(Mc 1,11). Đặc biệt trong năm đức tin, các bậc làm cha mẹ phải ý thức sâu xa hơn về vai trò của mình là giáo dục con cái mình sống trọn vẹn ơn đã lãnh nhận qua bí tích rửa tội và đào tạo con cái thành những người con đẹp lòng Chúa Cha.

Về mục lục

.

CON YÊU DẤU.

Lm. John Quốc Toản

Trong bối cảnh Giáng Sinh, Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại qua vì sao sáng từ trời cao hướng dẫn ba nhà Bác học từ Đông phương đến thờ lạy Ngài. Và từ đó Ngài đã sống một cưộc sống ẩn dật cho đến năm ba mươi tuổi. Trước khi khởi đầu sứ mạng, Chúa Giêsu lại tỏ mình ra lần nữa qua biến cố chịu phép Rửa. Tin mừng thánh Matthêu hôm nay công bố Ngài là Tôi tớ (Con) của Giavê. Khi Chúa tỏ mình ra lần này từ trời cao có tiếng phán : “Này là Con Ta yêu dấu…” Con yêu dấu chứa đựng một sứ mạng trở nên người Tôi tớ mà tiên tri Isaia diễn tả trong bài đọc I : “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người… Người sẽ xét xử chư dân… không lớn tiếng… không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói… mở mắt người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm” (Is 42:1-4,6-7)

Lời diễn tả của tiên tri Isaia về sắc thái và sứ mạng của Chúa Giêsu cho chúng ta một ý niệm sâu xa hơn về con người của Ngài. Ngài là “Đấng vị tha”. Chúa Giêsu luôn sống cho tha nhân. Ngài đồng hành với tha nhân trong mọi biến cố của cuộc đời và đã thí mạng sống vì phần rỗi tha nhân. Chỉ trong tâm tình cầu nguyện chúng ta mới cảm nhận được tình yêu này và sẽ yêu mến Ngài hơn.

Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ mạng “mở mắt người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm” bằng việc chịu phép rửa. Khi chịu phép Rửa tội, bất kể lúc còn bé hay khi đã lớn, chúng ta cũng được trở nên “con yêu dấu của Thiên Chúa”, một thành phần trong Giáo hội mà Chúa Giêsu là đầu. Là thành phần của Giáo hội, chúng ta có sứ mạng cộng tác với Chúa Giêsu trong việc đem Tin mừng yêu thương đến cho mọi người. Chúng ta phải thi hành sứ mạng này tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở mỗi người phải thi hành trách nhiệm đó khi Ngài nói với Gioan: “.. chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế” (Mt 3:15). Chúa Giêsu có ý nói là mọi thành phần trong Giáo hội đều có phần trong việc truyền bá Tin mừng yêu thương. Chúng ta đừng tưởng là việc truyền bá Tin mừng là của các nhà truyền giáo, các linh mục và các tu sĩ nam nữ. Nên biết rằng mỗi người đều có bổn phận này tùy theo bậc sống của mình.

Là linh mục, hãy sống đúng với vai trò chủ chăn hiền lành. Là những tu sĩ nam nữ, hãy phục vụ Chúa qua tha nhân. Là bậc cha mẹ, hãy yêu thương nhau, yêu mến và dạy bảo con cái cho đúng nghĩa. Nói cách khác là mọi người, bất kể linh mục, tu sĩ hoặc giáo dân, hãy trở nên “một con người vị tha” như Chúa Giêsu. Chúa Giêsu, Thầy của những người vị tha, đã dậy và làm gương cho ta. Trong ba năm giảng đạo, Ngài đã tỏ tình yêu của Chúa Cha cho nhân loại bằng những việc: cho người mù được thấy, người què đi được, người điếc được nghe và người chết sống lại. Ngài đem bình an và tình thương đến những người bất hạnh trong xã hội.

Là con người trưởng thành và có trí thức, ai trong chúng ta cũng phải nhận rằng cuộc sống chỉ có ý nghĩa thật sự khi sống tinh thần phục vụ tha nhân. Khi chấp nhận sứ mạng, Chúa Kitô đã trở nên “Đấng vị tha”. Chúng ta, qua bí tích Rửa tội, cũng có một sứ mạng. Mỗi người hãy tự hỏi sứ mạng của tôi là gì và tôi đã chu toàn nó như thế nào? Đừng để cho lòng ích kỷ làm lu mờ tâm trí đến độ không thể nhận ra được sứ mạng của mình. Hãy chu toàn sứ mạng trong khả năng và hoàn cảnh của mình vì Chúa Giêsu đã nhắc nhở “… chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế” (Mt 3:15) để đáng được gọi là “con yêu dấu”.

Về mục lục

.

SỐNG TƯỚC VỊ LÀM CON

Lm. Nguyễn Nguyên

Sống ở đời, ai cũng mang trong mình một tâm lý thường tình là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được vượt trội hơn người khác.

Tất cả những điều đó phản ảnh khuynh hướng kiêu căng trong lòng mỗi người. Mà kiêu căng là mối tội thứ nhất trong bảy mối tội đầu. Gọi là mối tội đầu vì nó là căn nguyên đưa tới nhiều thứ tội lỗi khác. Thật vậy, sự kiêu căng chính là đầu mối dẫn tới rất nhiều điều tệ hại trong cuộc sống của con người: Chiến tranh bởi đâu nếu không phải bởi nước này muốn thống trị nước nọ? Ghen tương bởi đâu nếu không phải bởi người này muốn trổi vượt hơn người khác? Hận thù bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn đạp người khác xuống để chiếm lấy vị trí của họ? Nói hành, nói xấu, vu khống, gièm pha bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn tự quảng cáo mình tốt hơn, giỏi hơn người khác, cho người khác là không biết gì?…

Luxiphe vì kiêu căng không muốn phục tùng Thiên Chúa nên đã tự loại mình ra khỏi hàng ngũ các Thiên thần. Ông bà nguyên tổ loài người vì kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, và cửa trời đóng lại. Sự kiêu căng đã tạo nên hố ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiêu căng đã dựng nên một hàng rào không cho con người đến với nhau…

Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Quang cảnh trong biến cố Ngài chịu phép rửa mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng có lẽ làm chúng ta thấy mình hổ thẹn biết bao khi để cho tính kiêu căng thống trị và hướng dẫn đời sống mình. Thật vậy, Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Ngài đã mặc lấy những tâm tình và cung cách sống khiêm tốn thẳm sâu. Là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi phải được sinh ra trong một đất nước văn minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái lại, Ngài đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận làm người.

Ngài đã không chọn cho mình một người cha, một người mẹ danh giá và giàu sang. Trái lại, Ngài chấp nhận làm con của một anh thợ mộc vô danh tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.

Và hôm nay, khi bước xuống dòng sông để lãnh nhận phép rửa của Gioan, chúng ta mới thấy hết sự khiêm nhường của Thiên Chúa chúng ta. Là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối, nhưng Ngài lại hạ mình đến xin ông Gioan làm phép rửa như một người dân tầm thường và tội lỗi. Ngài khiêm hạ đến độ làm cho mình trở thành một kẻ vô danh bên cạnh một ông Gioan Tẩy Giả đang được mọi người ngưỡng mộ và kính phục để chia sẻ kiếp người với chúng ta, để nâng loài người chúng ta lên.

Ngài mặc lấy xác phàm để chia sẻ thân phận đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn của con người. Ngài hoá kiếp phàm nhân để nếm trải nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân. Ngài đang cùng nhịp đập con tim với mọi người để cảm thông và yêu thương tất cả, một sự liên đới của tình yêu. Chính trong sự khiêm nhường và tự hạ như thế, Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha xác nhận “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.

Ngày xưa, do sự kiêu căng của nguyên tổ loài người, cửa trời đã đóng lại. Ngày nay, do sự khiêm hạ của Con Thiên Chúa mà cửa trời lại được mở ra. Trời mở ra nghĩa là mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người đã bị xoá bỏ. Con người phản bội nay đã được tha thứ, được phục hồi tước vị làm con Thiên Chúa và được đồng thừa tự gia tài Nước Trời cùng với Chúa Giêsu. Trời được mở ra cho hết mọi người có thể đi vào. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục bước vào vết chân kiêu căng của ông bà nguyên tổ, thì cánh Cửa Trời ấy sẽ mãi mãi đóng lại trước mắt chúng ta.

Vậy chớ gì khi mừng kính Chúa Giêsu chịu phép rửa, mỗi người chúng ta cảm nhận rằng, Ngài đang ở gần chúng ta hơn chúng ta tưởng. Ngài đang ở gần chúng ta khi chúng ta mạnh mẽ, lúc chúng ta yếu đuối; buổi thành công cũng như hồi thất bại; phút sa ngã cũng như thời đứng lên; những ngày nắng ấm, những chiều giông bão… đã luôn luôn có Ngài bên cạnh, để rồi mỗi người khiêm tốn và quyết tâm ra khỏi chính mình, ra khỏi những ích kỷ, dứt bỏ những khuynh hướng xấu, đoạn tuyệt với tội lỗi… hầu cất bước tìm về với Ngài. Ngài sẽ băng bó, Ngài sẽ chữa lành, sẽ vác trên vai, sẽ rửa gội thương tích và đem chúng ta về lại trong tình yêu thương của Chúa Cha. Nhất là để chúng ta nghe được những lời yêu thương mà Thiên Chúa đã nói với Chúa Giêsu ngày xưa bên dòng sông Giođan: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.” Amen.

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN – TRỜI MỞ RA

Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

Trong năm phụng vụ, ngoài các mùa làm “thay hoa đổi lá” như mùa Vọng. Giáng sinh, mùa Chay, Phục sinh, còn có một thứ mùa được trải ra, xen kẻ vào các thời kỳ tưởng niệm hai biến cố Thiên Chúa sinh ra và chịu khổ nạn để cứu nhân độ thế. Đó là mùa Thường Niên hay còn gọi là mùa Quanh Năm.

Khởi đầu cho mùa Quanh Năm là Chúa nhật kính nhớ biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, ghi dấu ngày xuất quân trang trọng của Đức Kitô để đem tin mừng cho nhân loại. Cứ điểm xuất quân là bờ sông Giođan thuộc vùng Giuđa, xứ Palestin.

Giođan là một trong những giòng sông dốc dác nhất thế giới, chạy suốt từ bắc chí nam, băng qua biển hồ Galilê, đổ ra Biển Chết. Dọc bờ sông là những hàng dương liễu rủ bóng chen lẫn với dãy bạch dương rì rào trong gió. Nước sông tuy nhiều, nhưng hai bờ dựng đứng nên không thích hợp cho việc trồng trọt. Chính tại một nhánh sông trong khu vực Bêtania mà Chúa Giêsu đã đón nhận phép thanh tẩy của Gioan Tiền hô.

Lẽ tất nhiên, phép rửa của Gioan không phải là một bí tích. Nó không thể xoá tội tổ tông hay truyền ban ơn thánh. Song đó chỉ là hình bóng của phép rửa mà Đức Kitô sẽ thiết lập sau này.

Đúng ra, Đức Kitô đâu cần phải chịu thanh tẩy. Ngài có tội tình gì. Thế nhưng qua việc Ngài đến với Gioan là để chuẩn y cho việc làm và lời nói của ông: Thứ nhất Chúa Giêsu xác nhận việc Gioan rao giảng và thanh tẩy dân chúng để chuẩn bị đón nhận Tin Mừng Nước Trời là chính đáng và cần thiết. Thứ hai, Gioan nhắc bảo với dân chúng- “Ta thanh tấy các ngươi bằng nước. Sẽ đến Đấng quyền thế hơn ta, ta không đáng cởi quai dép Ngài. Ngài sẽ rửa các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3:16)- là sự thật và sự thật đó được chính Chúa Giêsu xác nhận sau này trong phúc âm của Thánh Gioan: “Ai không sinh bởi Nước và Thánh Thần thì không thể vào được Nước Trời” (Ga 3:5).

Hơn nữa, việc Đức Giêsu đến hoà mình vào đám đông, lãnh nhận phép rửa của vị Tiền hô, là muốn nêu bật tính cách tự ý liệt mình vào hàng tội nhân. Ngài hạ mình, đến với dân, ở giữa dân, gánh tội dân, và cứu dân.

Có lẽ trong tất cả những lần tỏ mình trước đây, chưa bao giờ Đấng Cứu Thế lại hạ mình sâu thẳm bằng hôm nay. Khi tỏ mình ra với mục đồng và các đạo sĩ, thì vẫn có đó nơi Đức Giêsu hình ảnh của một bé thơ dễ thương. Khi tỏ mình ra cho ông Simêon và bà Anna trong đền thờ, Đức Giêsu cũng còn được chiêm ngắm như là “ánh sáng muôn dân”. Ngay khi tỏ mình ra cho các tư tế, luật sĩ ở đền thờ lúc 12 tuổi, Đức Giêsu vẫn được nhìn nhận như một nhà thông thái uyên bác. Nhưng hôm nay, lần tỏ mình ra lớn lao nhất lại là hiển linh qua hình ảnh một tội nhân giữa đoàn dân tội lỗi. Phải chăng Ngài đang muốn chia sẻ và gánh vác thân phận khốn nạn nhất của con người? Phải chăng Ngài đang làm viên thành lời của bao ngôn sứ, đặc biệt là của Gioan Tẩy Giả, khi vị này chỉ vào Ngài và hô lớn: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng tẩy xoá tội trần gian” (Ga 1:29).

Ơn thánh hoá đã được ban xuống qua Đức Kitô. Sự sống đang tuôn đến trên nhân loại. Thánh sử Luca đã khéo léo trình bày ý tưởng trên khi viết: “Đức Giêsu chịu thanh tẩy, và đang khi Ngài cầu nguyện, thì trời mở ra” (Lc 3:21).

Cửa trời đã đóng lại sau ngày nhân loại chối từ luật Chúa và chạy theo dục vọng trần gian. Cửa trời đã đóng lại từ lúc con người kiêu căng ngạo mạn muốn lên làm Chúa, để tự định đoạt mọi trật tự của thế giới này. Cửa trời đã đóng lại vì con người không biết ăn năn thống hối, lại còn đổ thừa, sỉ vả, gây khổ cho nhau.

Nhưng hôm nay cửa trời đã mở ra vì có một người không sống theo ý mình nhưng chỉ theo ý Cha, Đấng ngự trên trời.

Hôm nay cửa trời đã mở ra vì có một người đã không “giằng cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa. Nhưng đã hủy mình ra không, lĩnh lấy thân phận tôi đòi, trở thành giống hẳn người ta… Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá” (Pl 2:6-8).

Và đặc biệt, hôm nay cửa trời đã mở ra vì có một người biết cầu nguyện cùng Thiên Chúa.

Chắc chắn không phải là Thánh Luca không có ý khi viết “… cầu nguyện thì trời mở ra”. Phải chăng cầu nguyện chính là chiếc chìa khoá thần linh có thể mở tung cánh cửa của ơn phúc và sự sống? Phải chăng cầu nguyện là sức mạnh vô song xé rách được màn trời để ơn cứu độ tuôn trào cho nhân loại?

Thánh Anphongsô đã rất chí lý khi quả quyết: “Cầu nguyện chắc chắn sẽ được ơn cứu độ.” Thế nên trong nhiều tác phẩm hay bài giảng lừng danh, ngài đều hướng người ta về đời sống cầu nguyện. Thánh nhân có nói: nếu trong cuộc đời, chỉ có cơ may một lần giảng, và nếu chỉ được phép giảng một bài duy nhất, ngài sẽ không ngần ngại cất đi tất cả mọi ý tưởng để chỉ giảng về cầu nguyện. Ngài sẽ dạy cho người ta biết thế nào là sống cầu nguyện đúng nghĩa. Vì cầu nguyện đúng nghĩa sẽ là thượng tôn Thiên Chúa, mở lòng với trời cao, và đón nhận ân phúc dồi dào. Cầu nguyện đúng nghĩa không chỉ là cầu xin, nhưng còn biết ca ngợi, cảm tạ, và thống hối.

Người biết cầu nguyện và siêng năng nguyện cầu sẽ tìm thấy niềm vui ơn cứu độ chan chứa, cả đời này và đời sau.

Đôi khi người ta không thấy cửa trời mở ra cho bao ước mơ khát vọng cao đẹp của mình, phải chăng vì họ không cầu nguyện, hay có nhưng còn thiếu hồn, nhạt nhẽo, lấy lệ.

Mong sao khởi đầu mùa phụng vụ Quanh Năm năm nay, mỗi người Kitô hữu sẽ đồng hành với Đức Kitô trong khiêm cung cầu nguyện. Chắc chắn bước đi với thái độ và quyết tâm như thế “trời sẽ mở ra” và ơn Chúa sẽ chan hoà trên ta.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tiếp theo lễ Chúa Hiển Linh, Phụng vụ của Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Đức Giêsu, Chúa chúng ta chịu Phép Rửa, kết thúc mùa Giáng sinh. Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa có một tầm quan trọng rất đặc biệt, được các giáo phụ hết sức chú tâm bởi tính cổ thời của nó. Đây là lễ mừng cổ xưa nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì là nội dung lời rao giảng của các Tông Đồ, làm thành điểm khởi hành của toàn bộ những việc làm và lời nói mà các Tông đồ phải làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41). Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách rõ ràng và đầy đủ. Lý do nữa là phép Rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho Phép Rửa bằng Máu của Chúa trên Thập Giá, và là biểu tượng của toàn bộ những hoạt động có tính cách bí tích của Ðấng Cứu Thế, để thực hiện ơn cứu rỗi nhân loại, Ngài đặt mình vào hàng ngũ các tội nhân, mặc dù Ngài là Đấng không bao giờ phạm tội, nhưng Ngài đã mang trên mình tất cả tội lỗi của nhân loại. Hành động khiêm nhường và tự hủy này, đã được Chúa Cha chứng dám : ” Ngài là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ” (x. Mt 3, 17 – Năm A). Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng ta sẽ thấy trường hợp tương tự diễn ra tại biến cố Chúa Biến Hình.

Lời Chúa lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Năm A

– Is 42, 1-4. 6-7 : Này là tôi tớ Ta, Ta hài lòng về người

– Tv 28, 1a và 2. 3ac-4. 3b và 9b-10 : Chúa sẽ chúc phúc cho dân Người trong cảnh thái bình

– Cv 10, 34-38 : Chúa dùng Thánh Thần mà xức dầu tấn phong cho Người

– Mt 3, 13-17 : Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống trên mình Người

Lời Chúa lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Năm B

– Is 55, 1-11 : Này đây nước, hãy đến, và các ngươi sẽ sống

– Is 12, 2 : Các ngươi sẽ múc nước tận nguồn ơn cứu độ

– 1Ga 5, 1-9 : Thánh Thần, nước và máu

– Mc 1, 7-11 : Phép rửa của Chúa Giêsu

Lời Chúa lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Năm C

– Is 40, 1-5 ; 9-11 : Vinh quang Thiên Chúa sẽ bày tỏ ra

– Tv 104, 1 : Nước và Thánh Thần làm chứng cho Ngài, vinh danh Chúa

– Tite 2, 11-14 ; 3, 4-7 : Thiên Chúa đã tái sinh chúng ta, nhờ phép rửa

– Luc 3, 15-16 ; 21-22 : Chúa Cha và Chúa Thánh Thần hiển hiện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa

“Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu”

Chúng ta coi đây là một phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu Phép Rửa ; phép lạ này là một khúc dạo đầu của những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra : “Chính lúc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa xong… thì trời mở ra” (Mt 3:16).

Chúng ta tự hỏi, tại sao trời mở ra sau khi Chúa Kitô đã chịu Phép Rửa xong? Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Thiên Chúa kêu gọi chúng ta hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng, chúng ta không có gì ở dưới đất.

Sau khi trời mở ra, thì Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống: điều ấy mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Và cũng dạy cho mỗi người chúng ta biết rằng, vào lúc chúng ta chịu Phép Rửa Tội, Chúa Thánh Thần cũng ngự vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta không cần: đức tin hiện nay là đủ…

Tại sao Chúa Thánh Thần lại lấy hình một con chim bồ câu mà hiện xuống? Lý do là vì chim bồ câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an bình . Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại một sự kiện chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước khi trái đất bị ngập do lũ lụt và toàn thể loài người trong nguy cơ hư mất, chim bồ câu xuất hiện để báo sự chấm dứt của cơn đại hồng thủy, chim bồ câu ngậm một cành ô liu, báo hiệu những tin vui là hòa bình cho toàn thế giới. Bây giờ, tất cả những điều này cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân sủng và lòng thương xót Chúa… Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu mang lại cho con người phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.

Như thế, Phép Rửa của Chúa Giêsu và Phép Rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau. Phụng Vụ của ngày lễ này đã hát lên như sau: “Đức Kitô chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hoá, chúng ta được tha thứ tội lỗi, được thanh tẩy nhờ nước và Thánh Thần.” (Tiền xướng của Kinh Bênêdictus, của Giờ Kinh Sáng). Nơi sông Giordan, trời đã mở ra (x. Lc 3,21) để chỉ cho ta biết rằng Ðấng Cứu Thế đã mở ra cho chúng ta con đường cứu rỗi và chúng ta có thể đi trên con đường này, nhờ cuộc sinh ra lại “bằng nước và Thánh Thần” (Gn 3,5), một cuộc tái sinh được thực hiện trong Phép Rửa Tội. Trong Phép Rửa, chúng ta được đưa vào trong Nhiệm Thể của Chúa Kitô là Giáo Hội; chúng ta chết và sống lại cùng với Chúa Kitô; chúng ta được mặc lấy Chúa, như thánh Tông Đồ Phaolô đã nhiều lần nhấn mạnh nơi các thư của ngài (x. I Co 12,13; Roma 6,3-5; Gal 3, 27).

Cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa trong Năm Đức Tin, Công Đồng Vaticanô đã nhắc lại : “Sự thánh thiện là mục tiêu kết thành ơn gọi của tất cả mọi người đã lãnh nhận phép Rửa Tội ” […]. Như thế, chúng ta là những người được sinh từ Phép Rửa Tội, cần phải lắng nghe Chúa Giêsu: nghĩa là Tin vào Chúa và vâng phục theo Chúa qua việc thi hành thánh ý Chúa Giêsu và cũng là thánh ý của Thiên Chúa Cha. Chính như thế mà mỗi người có thể tiến đến sự thánh thiện. Sách GLHTCG dạy : Nhờ Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu được đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô… chúng ta cũng phải dấn thân vào mầu nhiệm tự hạ và hoán cải này, bước xuống nước với Đức Giêsu để bước lên với Người (số 537).

Về mục lục

.

ĐẤNG GÁNH TỘI TRẦN GIAN

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Thánh Gioan, vị ngôn sứ cao cả bậc nhất thời cựu ước, đã từng giới thiệu cho các môn đệ của mình biết Chúa Giêsu là “Đấng mạnh thế hơn Gioan”, Đấng mà Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người” (Mt 3, 16), “là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian, là Đấng đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi vì Người có trước tôi.” (Ga 1,29-30)

Thánh Gioan còn giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng sẽ cử hành một phép rửa vượt xa phép rửa của Gioan: “Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước. Còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Chúa Thánh Thần” (Mc 1, 7)

Thế mà Chúa Giêsu lại đến với thánh Gioan như một người tội lỗi, hòa mình với đám đông những người thu thuế, những người đàng điếm, những tên côn đồ đạo tặc và với bao nhiêu người tội lỗi khác, chăm chú nghe Gioan rao giảng và để chờ đến phiên, bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ thánh Gioan làm phép rửa cho mình.

Tại sao Chúa Giêsu lại hạ mình đến thế? Hành động nầy xem ra không xứng hợp với một Đấng thánh được Thiên Chúa sai đến, không xứng hợp với địa vị cao trọng mà ngay cả thánh Gioan cũng thú nhận là mình không xứng đáng cởi quai dép cho Người, không xứng hợp với Đấng sẽ làm phép rửa cho muôn dân trong Chúa Thánh Thần.

Chúa Giêsu hoàn toàn vô tội thì cần gì phải xin Gioan làm phép rửa cho mình? Vì như thế là không chân thực.

Phải hiểu thế nào về hành động hạ mình quá đáng nầy của Chúa Giêsu?

Chắc chắn Chúa Giêsu đến chịu phép rửa không phải vì những tội lỗi do Người gây ra -vì Người vốn vô tội – nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã mang vào thân. Cũng thế, Chúa Giêsu chịu khổ hình thập giá không phải vì tội của Người mà vì tội lỗi của thế gian mà Người đã gánh lấy.

Thánh Gioan đã từng giới thiệu Chúa Giêsu là con “Chiên Thiên Chúa” (Gioan 1, 29) được sai đến trần gian để làm chiên đền tội. Người Do-Thái làm lễ xá tội bằng cách đặt tay lên đầu con bò hay dê, trút hết tội mình cho nó, rồi sát tế nó, để nó chết thay cho người tội lỗi. (Lê-vi 8, 14-15)

Thế nhưng “máu của các con bò, con dê không thể trừ khử được tội lỗi” (Do-thái 10, 4) nên Chúa Giêsu đã hiến mình làm Chiên mới, Con Chiên của Thiên Chúa, đến mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân. Chính vì thế mà Người trở thành tội nhân, như lời thánh Phao-lô dạy: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5, 21)

Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, trở thành “hiện thân của tội lỗi” (2 Cr 5, 21), nên Chúa Giêsu hòa mình với những tội nhân khác, xin Gioan làm phép rửa cho mình và cùng với bao tội nhân khác tỏ lòng ăn năn sám hối.

Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, trở thành “hiện thân của tội lỗi” nên Chúa Giêsu đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để cứu chuộc loài người tội lỗi, như lời thánh Phê-rô: “Tội lỗi của chúng ta, Người mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2, 21-24)

Hình ảnh Chúa Giêsu vô cùng tốt lành thánh thiện mà lại chen chúc với các tội nhân bên bờ sông Gio-đan và khiêm tốn bước xuống dòng nước lãnh nhận phép rửa của Gioan là một lời mời gọi mỗi người chúng ta phải xóa bỏ cái tôi kiêu căng tự phụ của mình để biết thành tâm sám hối những tội lỗi mình đã phạm.

Chúa Giêsu đã mang lấy tội lỗi chúng ta, chịu thanh tẩy và chịu chết vì chúng ta. Vậy chúng ta hãy thông phần vào công cuộc cứu độ của Chúa và hợp tác với Chúa trong việc cứu chữa các tội nhân.

Về mục lục

.

NGƯỜI KITÔ HỮU

Lm. Trịnh Ngọc Danh

“Hồi đó, dân đang mong đợi và mọi người nghĩ trong lòng về Gioan rằng: “ Có lẽ chính ông là Đức Kitô chăng!” Gioan trả lời cho mọi người rằng: “ Tôi lấy nước mà rửa cho các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người: Chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và trong lửa”(Lc. 3: 16-16)

Qua câu nói ngắn gọn của ông Gioan Tẩy giả, nhưng cũng gợi cho chúng ta nhiều vần đề cần suy nghĩ.

Điểm thứ nhất, ông Gioan làm phép rửa cho dân chúng, nhưng ông lại xác nhận phép rửa của ông khác với Bí tich Rửa tội của Chúa Giêsu. Ông Gioan chỉ rửa bằng nước, nhưng Chúa Giêsu rửa chúng ta trong Chúa Thánh Thần và trong lửa.

Phép rửa của ông Gioan bằng nước; đây mới chỉ là một nghi thức nhằm nhắc nhở và kêu gọi người ta ăn năn và sám hối để đón nhận ơn cứu độ của Đấng Mêsia; phép rửa này không có khả năng tẩy xoá tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh; nhưng phép rửa của Chúa Giêsu lại là phép rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa, là một bí tích thông ban Chúa Thánh Thần, làm biến đổi con người nô lệ tội lỗi thành con cái Thiên Chúa và được thông hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên trời.

Nước trong bí tích rửa tội mà chúng ta đón nhận chỉ là một biểu tượng như là nguồn gốc của sự sống và sự chết: chết cho tội lỗi để sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Trong nghi thức rửa tội, chúng ta được dìm trong nước hay được đổ nước trên đầu là dấu chỉ việc tẩy xóa tội tổ tông và mọi tội riêng, được tái sinh làm con cái Thiên Chúa, được trở thành một con người mới trong Hội thánh, được mang danh là Kitô hữu, được đóng ấn tín nhân danh: Cha và Con và Thánh Thần.

Lãnh nhận Bí tích rửa tội là chúng ta được dìm trong sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, để được tái sinh như một thụ tạo mới: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới” (2Cor 5:17), được ơn tái sinh và đổi mới do Thánh Thần: “Không phải tự sức mình, chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Thiên Chúa thương xót, nên Ngài đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng”. (Tt 3: 5-7), và được trở nên “con cái sự sáng”.

Điểm thứ hai, ông Gioan loan báo về một Đấng đến sau ông, quyền năng hơn ông, chính ông xác nhận ông không đáng cởi dây giày cho Đấng ấy;

Ngay sau khi Ngôi Hai, người Con yêu dấu của Chúa Cha ra đời, ba vị chiêm tinh từ phương Đông, những người chưa nhận biết Thiên Chúa, đã được Thiên Chúa mặc khải sự hiện diện của Con Thiên Chúa nơi trần gian và đã nhận ra vì sao lạ là vua Dân Do thái, và họ đã đến bái lạy Vị Vua ấy.

Qua việc Chúa Giêsu nhận phép rửa của ông Gioan trên sông Giođan, Thiên Chúa lại mặc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, về Một Gia đình Thiên Chúa có Ba Ngôi vị: “chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Ba Ngôi vị trong Gia đình Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Và ngày nay, khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta cũng được kết nạp vào Gia Đình ấy bằng ấn tín: “nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”

Điểm thứ ba. Tại sao Chúa Giêsu lại chịu cho Gioan làm phép rửa khi Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng không hề vương mắc tội như chúng ta?

“Như anh em biết, điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđa, khởi sự từ Galilêa, sau khi Gioan đã rao giảng và làm phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị qủy ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người”(Cv. 10:37-38)

Việc Chúa Giêsu chịu để cho ông Gioan làm phép rửa không phải để được sám hối, nhưng để làm gương cho những ai muốn được ơn tái sinh, muốn được đổi mới nhờ ơn Chúa Thánh thần, và muốn tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sự sống lại của Ngài, thì phải chịu dìm vào trong nước của Bí tích Rửa Tội.

“Bí tích Rửa Tội tha thứ tội nguyên tổ, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí tích này cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hóa, nhờ ơn công chính hóa giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội thánh Người. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận Bí tích Rửa Tội mãi mãi thuộc về Đức Kitô: họ được đóng dấu ấn không thể xóa được của Đức Kitô” (Bản Toát yếu Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo. Số 263)

Đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, đã được ơn tái sinh trở thành con cái của Thiên Chúa, đã trở thành Kitô hữu trong Hội thánh, được kêu gọi làm môn đệ của Chúa Kitô để đem Tin Mừng cứu độ đến cho hết mọi người, mọi nơi, mọi thời đại… thế mà chúng ta lại quên vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống hằng ngày, quên Đấng đang đồng hành với chúng ta trong mọi noi, mọi lúc của cuộc sống, quên: “Cúi xin Chúa sáng soi, cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm, xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh, mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hòan thành đều bởi nhờ ơn Chúa” (Kinh Sáng Soi)

Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải sống kết hợp với Ba Ngôi Thiên Chúa bằng cầu nguyện: Trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, sau khi nhận phép rửa của Gioan, “Chúa Giêsu đang cầu nguyện và thì trời mở ra; và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha”; về sau, khi tuyển chọn mưới hai tông đồ, trước khi bước vào cuộc tử nạn và trong cuộc sống hằng ngày, Chúa Giêsu luôn tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện, để sống kết hợp với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Bí tích Rửa Tội là một trong ba Bí tích khai tâm Kitô Giáo, đó là ba Bí tích đặt nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Chúng ta được tái sinh nhờ Bí tích Rửa Tội, được củng cố nhờ Bí tích Thêm Sức và được nuôi dưỡng nhờ Bí tích Thánh Thể.

“Như anh em biết, điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđa, khởi sự từ Galilêa, sau khi Gioan đã rao giảng và làm phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị qủy ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv. 10:37-38)

Chúng ta cũng đã nhân Bí tích Rửa Tội, cũng được xức dầu và tấn phong làm con cái Thiên Chúa; cũng như Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải thực hiện nhiệm vụ loan báo Tin mừng cứu độ cho hết mọi người, mọi nơi, mọi thời đại.

Chúa Giêsu chịu phép rửa trên sông Giođan, các môn đệ đón nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống, chúng ta được rửa trong Chúa Thánh Thần, được mang danh Kitô hữu, được kêu gọi làm môn đệ, tất cả chúng ta đều có những nhiệm vụ mới, nhiệm vụ mang Tin Mừng đến cho mọi người, vì, như lời Thiên Chúa phán qua miệng tiên tri Isaia: “Ta là Chúa, Ta đã gọi ngươi trong công lý, đã cầm lấy tay ngươi, đã đặt ngươi thành giao ước của dân và nên ánh sáng của chư dân, để ngươi mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm” (Is.42: 6-7)

Có một cụ già, mãi đến khi 80 tuổi ông mới được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Bắt đầu từ ngày đó, ông sống một đời sống gương mẫu. Hai năm sau ngày ông chịu Bí tích Rửa Tội, có người gặp cụ, muốn biết cụ bao nhiêu tuổi; cụ dõng dạc trả lời: “Tôi mới có hai tuổi. Tám mươi năm trước là những năm chết. Tôi mới được tái sinh từ hai năm nay”

Thật chí lý! Có mấy ai trong chúng ta biết mình đã sống được bao nhiêu năm và đã chết bao nhiêu năm như cụ già kia!

Về mục lục

.

KHAI MỞ SỨ VỤ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.

  1. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa

Khởi đầu cuộc sống công khai, lúc đã 30 tuổi, tức là đã trưởng thành trọn vẹn như người Á Đông vẫn quan niệm “tam thập nhi lập”, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.

Cách thức Chúa Giêsu khai mở sứ vụ thật đơn sơ và khiêm tốn. Mở đầu một sứ mạng lớn lao, bắt đầu sứ vụ cao cả là loan báo Tin Mừng Nước Trời, nhưng Chúa Giêsu không long trọng đọc diễn văn khai mạc, cũng không trống kèn cờ quạt, chỉ đơn giản đến bên dòng Giođan bé nhỏ cùng với đám đông người tham dự là những người tội lỗi xếp thành hàng hai bên bờ sông. Khi Người vừa chịu phép rửa, thì Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Người, và Chúa Cha từ trời đã minh chứng trước mặt toàn dân rằng: Đức Giêsu chính là người Con yêu dấu của Ngài.

Tất cả các tiên trưng trong Cựu Ước đều được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Để “chu toàn thánh ý Thiên Chúa” (Mt 3,15), Chúa Giêsu tự nguyện chịu phép rửa của thánh Gioan, dành cho những người tội lỗi. Cử chỉ này cho thấy Chúa Giêsu đã đi vào mầu nhiệm “tự hạ” (Pl 2,7). Chúa Thánh Thần xưa kia đã bay là là trên mặt nước trong cuộc sáng tạo thứ nhất, nay ngự xuống trên Đức Kitô như khúc nhạc dạo đầu của bản giao hưởng sáng tạo mới, và Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu là “Con Chí Ái” của Ngài (Mt 3,16-17).

Trong cuộc Vượt Qua, Đức Kitô đã khơi nguồn Bí Tích Rửa Tội cho mọi người. Người nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giêrusalem như “một Phép Rửa” Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu trên thập giá (Ga 19,34) tiên trưng cho Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể là những bí tích ban sự sống mới (x.1Ga 5,6-8); từ giây phút ấy, chúng ta có thể “sinh ra nhờ nước và Thánh Thần” để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).

Bí Tích Rửa Tội là cánh cửa phân chia tách bạch đời sống, một đàng là khép lại quá khứ của bóng tối, tội lỗi, chết chóc, và đàng khác là mở ra tương lai của ánh sáng, thánh ân, sự sống. Bí Tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu rỗi, nên bí tích này cũng là khởi đầu cho một sự hiện diện mới: từ kẻ ngoại đạo trở thành người đã tòng giáo; từ một lương dân trở nên tín hữu; từ kẻ xa lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa. Quả là một hồng ân vô cùng lớn lao cho những ai đón nhận trong lòng tin.

  1. Ân Sủng của Bí Tích Rửa Tội

Khi ban Bí Tích Rửa Tội, Thừa tác viên Giáo Hội đổ nước trên đầu thụ nhân và đọc công thức “Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đơn giản trong cung cách cử hành, nhưng hiệu quả ơn thánh lại phong phú bội phần. Bằng những hình ảnh do Thánh Kinh gợi ý, người ta trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Con người mới chính là con cái Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống.

Bí Tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG 1213).

Bí Tích Rửa Tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hóa, nhờ ơn công chính hóa giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận bí tích Rửa tội thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG 263).

Như vậy, có hai hiệu quả chính yếu của Bí Tích Rửa Tội là thanh luyện tội lỗi và tái sinh trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,38; Gl 3,5).

1/ Được tha thứ tội lỗi

Nhờ Bí Tích Rửa Tội, mọi tội lỗi đều được tha: nguyên tội, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội (x. DS 1316). Những người đã được tái sinh sẽ được vào Nước Thiên Chúa và không còn gì ngăn cản họ, dù là tội Ađam, tội riêng của họ, những hậu quả của tội, kể cả hậu quả trầm trọng nhất là xa lìa Thiên Chúa.

Tuy nhiên, người đã được rửa tội còn phải chịu một số hậu quả tạm thời của tội như: đau khổ, bệnh tật, chết chóc hay những bất toàn trong cuộc sống như tính tình yếu đuối… và một sự hướng chiều về tội mà Truyền Thống quen gọi là vật dục hay nói bóng bẩy là “cái nôi của tội”. “Thiên Chúa để vật dục lại cho chúng ta chiến đấu. Vật dục không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại nó nhờ ân sủng của Đức Kitô. Hơn nữa, “không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ” (2 Tm 2,5) (x. CĐ Trentô: DS 1515).

2/ “Trở nên thụ tạo mới”

Bí Tích Rửa Tội không chỉ rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thành chi thể Đức Kitô (x.1Cr 6,15; 12,27) và đồng thừa tự với Người (Rm 8,17), thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x.1Cr 6,19).

Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa, ơn công chính hóa để người đó:

– Có khả năng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Người nhờ các nhân đức đối thần.

– Có thể sống và hành động dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân.

– Ngày càng hoàn thiện hơn nhờ các nhân đức luân lý.

Toàn bộ đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí Tích Rửa Tội.

Bí Tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô, “bởi thế, chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25). Bí Tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Dân Thiên Chúa của Giao Ước Mới phát sinh từ giếng rửa tội. Dân này vượt trên mọi ranh giới tự nhiên hay nhân trần, quốc gia, văn hóa, chủng tộc và giới tính. “Tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13).

Những người đã được rửa tội trở nên “những viên đá sống động… để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế thánh” (1 Pr 2,5). Nhờ Bí Tích Rửa Tội , họ tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, vào sứ mạng ngôn sứ và vương đế của Người: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng dịu huyền” (2 Pr 2,9).

Bí Tích Rửa Tội cho các tín hữu tham dự vào chức tư tế cộng đồng của Dân Chúa. Người đã được rửa tội trở thành phần tử của Hội Thánh, họ “không còn thuộc về mình, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta” (1Cr 6,19). Do đó, họ được mời gọi để phục tùng nhau (x. Ep 5,21;1Cr 16,15-16) và phục vụ nhau (x. Ga 13,12-15) trong tình hiệp thông của Hội Thánh. Họ được mời gọi vâng lời và phục tùng các vị lãnh đạo của Hội Thánh (x. Dt 13,17) với lòng kính trọng và quý mến (x.1Tx 5,12-13). Bí Tích Rửa Tội đã trao cho người lãnh nhận những trách nhiệm và bổn phận, đồng thời cũng cho họ được hưởng những quyền lợi trong lòng Hội Thánh:được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng. (x. LG 37).

  1. Đón nhận một sứ vụ mới 

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân – Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô, vị ngôn sứ của thời kỳ mới. Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này, thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao. Từ nay Chúa Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với cuộc sống công khai, chính thức rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân chúng. Lời Người nói là Lời chân lý khai quang tâm hồn, dẫn người người về đường ngay nẻo chính Nước Trời, và việc Người làm là việc giải thoát đem lại ơn cứu rỗi, đưa toàn thể nhân loại vào trong tình nghĩa thiết ngàn đời với Thiên Chúa tình thương. Chúa Giêsu khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.

Thánh Phaolô gọi Bí Tích Rửa Tội là tắm trong Chúa Thánh Thần, để được tái sinh và đổi mới (x. Tt 3,5). Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh (x. LG 10), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (x. LG 17; AG 7,23).

Thánh Giúttinô gọi Bí Tích Rửa Tội là ơn soi sáng, vì những người được đạo lý giáo huấn thì tâm trí được soi sáng. Người chịu phép rửa, vì đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “đã được soi sáng” (Dt 10,32), họ trở thành “con cái sự sáng” (1 Tx 5,5) và là “ánh sáng” (Ep 5,8).

“Bí Tích Rửa Tội là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa… Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng, mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống, vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa” (Thánh Ghêg-riô Nadien, Bài giảng 40,3-4).

Đức Giáo Hoàng Piô XI đã nói với hàng ngàn thanh niên nam nữ có mặt ở Rôma nhân ngày kỷ niệm ngài chịu phép Rửa tội : “Ngày cha chịu phép Rửa tội là ngày cao quý nhất của đời cha. Cũng như  ngày chúng con chịu phép Rửa tội là ngày cao quý nhất của đời chúng con”.

Nhờ Bí Tích Rửa Tội, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.

Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.

Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.

Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.

Về mục lục

.

ƠN GỌI LÀM CON

Lm. GB. Trần Văn Hào

Biến cố Chúa chịu phép rửa được cả ba sách Tin mừng nhất lãm kể lại. Sự kiện này đánh dấu việc khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Đức Giêsu. Trình thuật cũng tiên báo về bí tích rửa tội mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập qua cái chết và sự Phục sinh của Ngài.

Một cuộc lễ phong vương trong khiêm hạ.

Ngày xưa, khi một người sắp được tấn phong làm vua, người ta tiến hành nghi thức gồm 3 giai đoạn: Tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm và nghi lễ phong vương long trọng. Bài Tin mừng hôm nay cũng phác vẽ tiến trình ấy. Đức Giêsu được dìm xuống để tẩy rửa trong dòng sông Giorđan. Ngài được Thánh Thần xức dầu và đậu xuống trên Ngài. Sau cùng Ngài được chính Chúa Cha tấn phong qua lời tuyên bố ‘Đây là Con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng’. Tuy nhiên cuộc phong vương mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc chỉ là hình bóng. Đức Giêsu sẽ thực sự được tấn phong làm Vua khi Ngài được tắm rửa bằng máu đổ ra trên Thập giá, được xức dầu tẩn liệm trong huyệt đá và được Chúa Cha cho Phục sinh để khai mở một triều đại mới, một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên ơn cứu độ.

Các chi tiết mà thánh Matthêu mô tả trong Tin mừng hôm nay đều mang chở những nội dung rất sâu xa. Trước hết, sự kiện trời mở ra diễn bày sự giao hòa giữa trời và đất. Theo quan niệm Do thái cổ xưa, Thiên Chúa ở tít trên cao và con người ở sâu tận trong vực thẳm dưới đất thấp. Có cả một khoảng cách mênh mông con người không thể vươn tới. Cửa trời mãi khép lại, và con người luôn bị ngập chìm trong bóng tối của tội lỗi và sự chết. Vì vậy trong Cựu ước, chúng ta nghe những lời rên xiết ai oán của dân Chúa vọng lên cao: “Lạy Chúa xin xé trời mà ngự đến với chúng con”. Khi Đức Giêsu thụ tẩy trong dòng sông Hòa giang, bầu trời đã mở toang ra và đất trời được giao hòa. Đây là hình tượng tiên báo bí tích Thánh tẩy của Tân ước. Một khi được dìm trong máu Đức Giêsu, chúng ta cũng được tẩy sạch mọi tội lỗi và được nâng lên địa vị làm con cái Chúa. Con người từ đất thấp được nâng lên tới trời cao.

Thứ đến, Thánh Matthêu thuật lại việc Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Đức Giêsu dưới hình chim bồ câu. Tác giả sách Sáng Thế mô tả Thần Khí như là nguyên lý tác sinh vũ trụ : “ Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1, 2). Khi Đức Giêsu sống lại, Ngài cũng hiện ra với các Tông đồ và ‘thổi hơi ban Thánh Thần’ (Ga 20, 22). Như vậy sự hiện diện của Thần khí chứng thực một cuộc tạo dựng mới, đem đến cho con người luồng sinh khí mới để chúng ta được sống sung mãn trong nguồn ân sủng. Chúa Giêsu lãnh phép rửa để khai mở ơn cứu độ. Ngài bắt đầu đi rao giảng Tin mừng, và đây là Tin mừng giải phóng, phục hồi nơi ta sự sống thần linh. Đó chính là sự tái tạo mà Đức Giêsu sẽ thực hiện qua cái chết và sự phục sinh vinh thắng của Ngài.

Cuối cùng, chúng ta nghe câu tuyên bố của Chúa Cha. Lời Thánh vịnh này cũng được lập lại trong đêm Giáng sinh: “Này là Con Ta yêu dấu, ngày hôm nay Ta đã sinh ra Con”. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa cũng thực hiện một cuộc đản sinh mới nơi loài người. Phụng vụ hôm nay là cao điểm và kết thúc mùa Giáng sinh, mùa chúng ta mừng kính việc Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang của Ngài nơi Đức Giêsu. Hài nhi Giêsu đến trần gian để thực hiện thánh ý Chúa Cha, diễn bày sự giao hòa trời đất, và dẫn đưa chúng ta đi vào một tạo dựng mới, phục hồi cho chúng ta phẩm giá được làm con cái Chúa.

Văn hóa xếp hàng.

Ngày nay, xã hội nói nhiều về loại hình văn hóa này. Sự chen lấn xô xẩy, dành giật nhau là những gì chúng ta thấy xảy ra nhan nhản hằng ngày. Người văn minh rất khó chịu khi nhìn vào những cảnh tượng ấy. Nhiều người vẫn còn nhớ thời bao cấp, chúng ta phải xếp hàng rồng rắn có khi cả ngày mới mua được vé xe đò hay mua vài ba ký lương thực theo chế độ tem phiếu. Nhưng không phải chỉ chúng ta mà 2000 năm trước đây, Đức Giêsu cũng đã từng đứng xếp hàng bên dòng sông Giorđan. Có điều khá lạ lùng, là Ngài đứng chung với những người tội lỗi để xin thụ tẩy theo lời mời gọi của Thánh Gioan tiền hô. Gioan đã từng tuyên bố cho dân chúng: “ Đây là Chiên Thiên Chúa, đấng gánh tội trần gian”. Thế thì tại sao Con Chiên vô tội ấy lại lặng lẽ đứng xếp hàng, chung với các tội nhân. Đây là một nghịch lý khó hiểu, không phải chỉ đối với Gioan, nhưng còn đối với tâm thức con người thuộc mọi thời đại.

Bài học ở đây không phải chỉ là bài học về ‘văn hóa xếp hàng’, nhưng Đức Giêsu muốn diễn bày một linh đạo sâu xa khi đứng chung với những con người tội lỗi. Ngài tự mang lấy muôn tội của loài người cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Ngài xin được thanh tẩy trong dòng sông, nhưng chính con sông Giorđan ấy mới cần được thanh tẩy. Nơi con người Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra hết nghịch lý này đến nghịch lý khác. Những nghịch lý đó nhằm diễn bày chân trời yêu thương rộng mở mà Đức Giêsu đã khai sáng. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con một, để ai tin Người Con ấy sẽ được cứu độ” (Ga 3, 16). ‘Văn hóa xếp hàng’ mà Đức Giêsu đi bước trước, hàm chứa bài học sâu xa về sự khiêm hạ sâu thẳm.

Ơn gọi làm con.

Nhà văn Flannery O’Connor trong tác phẩm ‘Dòng sông’có viết một câu chuyện hư cấu với nội dung gần giống với câu chuyện chúng ta nghe trong Tin mừng hôm nay. Một giáo sỹ đang giảng đạo cho dân chúng bên cạnh một con sông nhỏ và mời gọi dân chúng sám hối để thụ tẩy. Một dãy người đông đảo đứng xếp hàng nối đuôi nhau để xin ông làm phép rửa. Chú bé Bavel cũng đứng trong dãy người chờ đến lượt mình. Vị giáo sỹ dìm đứa bé xuống nước và làm nghi thức, sau đó xách cổ đứa bé lôi lên khỏi mặt nước và nói: “Này chú bé, lúc nãy chú mày chẳng là cái thớ gì, nhưng bây giờ chú em có giá rồi đấy”. Mọi Kitô hữu chúng ta cũng trở nên có giá vì đã được dìm trong máu cứu độ nơi giếng rửa tội. Chúng ta mang nơi mình giá trị vô song vì được biến đổi hoàn toàn, được lãnh nhận thiên chức trở nên con cái Thiên Chúa. Phẩm giá ưu việt chúng ta có được nhờ vào việc thanh tẩy mà chúng ta đã lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội.

Một vị Cha già đã chua chát nhận xét: “Nhiều vị linh mục ngày nay khi được mọi người gọi mình bằng cha, bỗng quên mất đi ơn gọi làm con của mình”. Đây là ơn gọi căn bản và cao quý nhất mà tất cả chúng ta, các Kitô hữu đều được chia sẻ. Cách đây vài thập niên ở Âu Châu, có một phong trào rộ lên đòi tự do một cách vô lối. Nhiều bạn trẻ Công giáo đặt vấn đề tại sao bố mẹ đem tôi đến nhà thờ để rửa tội mà không hỏi ý kiến trước. Họ phải đợi chúng tôi lớn lên, đủ trưởng thành để chúng tôi quyết định về sự tự do chọn lựa của mình. Khi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đi thăm viếng mục vụ nước Pháp vào những năm thập niên 80, nhiều người đồng loạt ký tên xin ra khỏi Giáo hội vì não trạng và thái độ mang tính ngụy biện giống như vậy.

Không cần nói đâu xa, ngay tại Việt Nam, không ít Kitô hữu vẫn có tên trong giáo xứ, nhưng cuộc sống của họ cũng giống như những con người vô thần, xa rời hẳn mẹ Hội Thánh. Ở bên Pháp người ta vẫn gọi họ là ‘Croyant mais non-practiquant’, tức là chỉ tin trên lý thuyết còn thực hành thì không. Còn chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta đã sống ơn gọi Bí tích rửa tội như thế nào?

Kết luận

Phụng vụ hôm nay gợi nhắc về ơn gọi cao quý chúng ta đã lãnh nhận nơi giếng rửa tội. Chúng ta nhìn vào gương mẫu nơi Đức Giêsu, một Con Chiên vô tội đã tự hạ, xếp mình ngang hàng với những tội nhân hèn mọn. Về phần chúng ta, chúng ta có đủ khiêm tốn để nhận ra những bất toàn nơi con người mình và cố gắng sống thật sung mãn ơn gọi của Bí tích rửa tội hay không? Bí tích thánh thiêng ấy đã ghi ấn tích vĩnh viễn nơi tâm hồn chúng ta, một ấn tích không thể xóa nhòa. Còn lại, chúng ta có bổn phận phải phát huy và sống thật trọn vẹn ơn gọi cao quý này.

Về mục lục

.

KHIÊM NHƯỜNG, LIÊN ĐỚI ĐỂ CỨU ĐỘ

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển

Từ lễ Giáng Sinh đến hôm nay, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái của mình chiêm ngắm và sống sứ điệp mầu nhiệm Giáng Sinh nơi Hài Nhi Giêsu. Các sứ điệp tuy nhiều, nhưng có lẽ điểm nhấn trọng yếu vẫn là sự khiêm nhường và tính liên đới của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Lời Chúa hôm nay, một lần nữa thánh Mátthêu làm toát lên sự khiêm nhường đó khi trình thuật sự kiện Đức Giêsu xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình.

  1. Ý nghĩa của phép rửa nơi Gioan Tẩy Giả

Để chuẩn bị cho dân chúng đón nhận Đức Giêsu, Gioan đã kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi, canh tân đời sống để được ơn cứu độ. Đời sống của ông đã đi đôi với hành động của mình khi chọn lối sống đơn sơ, nghèo khó trong hoang địa: ông đã “Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt 3, 4), nhằm sống triệt để tinh thần khiêm nhường và trọn vẹn ý nghĩa của sự chay tịnh để chờ mong Đấng Cứu Thế đến cũng như chu toàn vai trò là người dọn đường cho Vị Thiên Sai. Đỉnh cao của sứ điệp mà Gioan mời gọi,  đó là: đón nhận phép rửa sám hối và canh tân đời sống để được ơn tha thứ.

Trong đoàn người lũ lượt đến với Gioan để xin lãnh nhận phép rửa do ông cử hành, Đức Giêsu cũng tháp nhập vào đoàn người đông đảo ấy để xin Gioan làm phép rửa cho mình. Khi thấy Đức Giêsu, ông đã tỏ vẻ ngỡ ngàng vì tại sao lại có thể xảy ra sự ngược đời như thế được? Một vị Thiên Chúa là Chúa Tể trời đất; Đấng là khởi đầu và kết thúc; xóa tội trần gian; trong sạch không tỳ tích; thánh thiện vẹn toàn; Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và Lửa mà lại đến để xin mình lãnh nhận phép rửa tỏ lòng sám hối từ chính một người cũng cần được cứu độ? Có lẽ đây là một điều khó hiểu đối với Gioan: “Chính tôi phải được Ngài rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi sao?” (Mt 3, 14) Nhưng khi nghe Đức Giêsu giải thích, ông đã hiểu được ý nghĩa sâu xa sứ mạng của Đấng Cứu Độ.

  1. Đức Giêsu cứu độ nhân loại bằng con đường khiêm nhường và tinh thần liên đới

Thật vậy, Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chuộc con người. Ngài đã trở nên như không để cho con người có tất cả. Ngài đã thực hiện thánh ý của Chúa Cha cách tuyệt đối. Vì thế, tuy bản thân Ngài hoàn toàn vô tội, nhưng Ngài là Đấng gánh tội trần gian, nghĩa là Ngài chất đầy tội lỗi của nhân loại trên bản thân mình. Bởi vậy, trước mặt Thiên Chúa, với tư cách đại diện cho toàn nhân loại, Ngài tự liệt mình vào hàng tội nhân cần sám hối. Và, Ngài sám hối thay cho toàn nhân loại, tương tự như Môsê (x. Xh 9,27; 32,31-32; Lv 8,14-15), Nơkhêmia (x. Nkm 1,6-7), Ét-ra (x. Er 10,1.6) và Đanien (x. Đn 10,2) đã từng làm. Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa sám hối và ghi nhận hành vi sám hối này để liên đới với hết mọi người Dothái thời bấy giờ, đồng thời chia sẻ phân phận khổ đau, nghèo đói và bệnh tật của con người. Ngài muốn trở nên người thầy, người anh, người bạn của tất cả chúng nhân, nhất là những người thấp cổ bé họng, những người cô thế, cô thân… Ngài muốn chung phần đau khổ với hết mọi cảnh đời, nhất là những kẻ tội lỗi, yếu đuối, để nâng con người lên và giải thoát họ khỏi quyền lực của sự chết. Vì thế, Ngài đã “không lớn tiếng”, “không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét”. Ngài chính là “Người Tôi Tớ” mà tiên tri Isaia đã loan báo (x. Is 42, 1-4). Qua hành vi đó, Đức Giêsu muốn diễn tả một vị Thiên Chúa thật gần gũi với loài người, một vị Thiên Chúa nghe được, thấu được và cảm được được nỗi đau khổ, yếu đuối của loài người. Mặt khác, khi lãnh nhận phép rửa sám hối, Đức Giêsu muốn mặc khải và nhấn mạnh đến khía cạnh cứu độ chứ không phải khía cạnh thống trị bằng quyền bính như người Dothái mong chờ. Ngài đến để biến đổi nhân loại từ bên trong, bằng cách chia sẻ thân phận nghèo hèn và khốn khổ của họ, hơn là từ bên ngoài, bằng xét xử phán đoán. Bởi vậy, Ngài hoàn toàn từ chối kiểu thống lãnh bằng vũ lực và quyền bính, nhưng bằng con đường tình yêu và tự hủy (x. Mt 4, 1-11; 11,2-6; 16, 13-23).  Chính vì thế, khi Gioan tỏ vẻ từ chối vì thấy mình không xứng, ngay lập tức, Đức Giêsu đã nói với ông:“Không sao, vì chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế” (x. Mt 3, 14).

Chính vì điều đó mà Ngài đã chẳng nề hà khi cùng chịu đau khổ vì tội của dân mình. Khi lãnh nhận phép rửa của Gioan, Ngài vừa trở nên chi thể, vừa trở nên thủ lĩnh của một nhân loại tội lỗi cần được thánh hóa và cứu chuộc. Thành ra, mặc dầu chẳng phạm tội, Chúa Giêsu cũng sẵn sàng cúi xuống và dìm mình dưới dòng sông Giodan để chịu phép rửa thống hối chỉ vì muốn liên đới, gánh vác tội lỗi của con người và chia sẻ với họ niềm hy vọng (x. 2 Cr 5, 21; Dt 2, 14- 17). Khi khiêm tốn lãnh nhận phép rửa của Gioan, thì cũng là lúc Ngài chính thức khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của ơn cứu độ, đồng thời biểu lộ bản chất Cứu Chúa của mình.

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa, mỗi người chúng ta hãy nhớ lại ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Khi đó, ta được trở nên con Thiên Chúa, được Chúa hứa ban gia nghiệp vĩnh cửu. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở những đặc ân của riêng ta, nhưng qua đó, chúng ta còn lãnh nhận một trách nhiệm khác nữa, đó là phải trở nên ngôn sứ của Đức Giêsu. Nói cách khác, chúng ta phải có trách nhiệm loan truyền Đức Giêsu cho người khác.

Nhưng điều đáng nói ở đây là chúng ta loan báo bằng cách nào?

Hình ảnh của Đức Giêsu khiêm nhường để cúi xuống cho Gioan làm phép rửa nhắc cho chúng ta rằng: trước, trong và sau khi loan báo, hãy lấy thánh ý Thiên Chúa làm điểm tựa và trong mọi việc, hãy lấy đức vâng lời, khiêm nhường, liên đới và cảm thông làm nền tảng. Nếu không có những đức tính trên, chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào cái bẫy của ma quỷ, đó là kiêu ngạo, tự tôn và khinh thường những người và nơi ta được sai đến. Nhưng có lẽ một sự thất bại lớn nhất, đó là chúng ta phá đổ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa.

 Ước gì lời ca ngợi của nhiều anh chị em không đồng đạo với chúng ta vẫn thường nói rằng: đạo Công Giáo là đạo tình yêu; tha thứ; khiêm nhường; cảm thông, liên đới, sẽ không bị phản chứng qua lối sống và con người của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xưa Ngài đã làm đẹp lòng Chúa Cha bằng cách sống hòa đồng, chia sẻ phận người với chúng con. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tình tương thân huynh đệ, cùng giúp nhau sống tốt về mọi mặt, để xây dựng một Giáo Hội hiệp nhất, yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

CON YÊU DẤU-

Lm Nguyễn Bình An

Ngày 16 tháng 10 năm 1995, khoảng 400 ngàn người da mầu về thủ đô Hoa Thịnh Đốn tham dự ngày “Million men march”. Cả thế giới đứng tim vì nghĩ rằng sẽ có bạo động. Nhưng thực tế đã khác hơn dự đoán. Không riêng gì ông Louis Farakhan, mà cả cộng đồng dân gốc Phi-Mỹ đều cảm thấy bất ổn và tự ti vì sắc dân của họ. Nhiều gia đình và con cái bị bỏ rơi.

Tội ác tăng trưởng quá nhanh trong cộng đồng da đen. Tỷ số thanh thiếu niên bỏ học rất cao, hút sách nhiều và tù tội quá lố. Khu phố họ sống rất tệ rạc, ồn ào và thiếu vệ sinh. Công việc họ làm nặng nhọc mà lương bổng thấp. Họ thẳng thắn nhận diện khuyết điểm và quyết danh tân. Họ đã thức tỉnh, họ đã biết tự trọng, họ can đảm nhận trách nhiệm và họ được tái sinh khi quyết canh tân.

Ông Farakhan thách thức các chủ gia đình “hãy về thay đổi lối sống, hãy về chăm chỉ học hành, hãy về chăm sóc gia đình, hãy về chứng tỏ niềm tin của mình nơi Maisen, nơi Giêsu và nơi Mohamet”. Thính giả nhiệt tình hưởng ứng và ai nấy đều ra về trong một tinh thần mới : thống hối, canh tân, tự trọng và thăng tiến. Với thành quả trên, ông Farakhan đã trở nên một lãnh tụ quan trong và nổi tiếng. Vì ông đã tranh đấu cho bình đẳng, tự do và nhân quyền. Vì ông đã kêu gọi cộng đồng người da đen hãy tự trọng, tự cứu mình, tự xây dựng tương lai và nhất tề tạo cho mình một thế đứng hiển hách và oai phong trong cộng đồng nước Mỹ và trên thế giới. Tinh thần của ngày “một triệu người diễn hành” chính là hướng đi và cái mốc tối của mỗi tín hữu khi Giáo hội cử hành biến cố Đức Kitô chịu phép Rửa tại sông Jordan.

Đức Kitô không thị hiếu như một số người đi ngó xem Gioan Tẩy giả làm gì, sống ra sao và giảng dậy thế nào ! Ngài khiêm tốn nối đuôi những người thiện chí đến xin Gioan cử hành phép Rửa thống hối như một quyết tâm trước khi lên đường làm sứ mạng. Gioan đã sững sờ khi nhận ra Ngài trong đám đông và hoảng hốt thân thưa: “Xin Thầy rửa tôi, tôi đâu dám rửa thầy !” và Đức Kitô khiêm tốn trả lời: “hãy chu toàn bổn phận của ông, chúng ta phải thực thi ý Chúa và giữ trọn luật.” Đức Kitô đã không cho là hèn, là tầm thưởng, là ngoại lệ khi khiêm tốn đến với Gioan. Tâm tình vâng phục và khiêm hạ này đã làm Chúa Cha hài lòng và cảm động khi ban Thánh Linh và công khai tuyên dương: “đây là Con dấu yêu của Ta, hãy nghe lời Ngài”.

Vì Ngài vâng phục, xả thân, quên mình và coi bản thân Ngài như kém Gioan một bậc, dù Ngài đã dựng nên Gioan, nên Chúa Cha đã nhủ chúng ta vâng lời và theo gương Ngài. Có lẽ chúng ta đã đọc sách thánh và nghe lời giảng dậy hay chia sẻ Lời Chúa nhiều lần. Có lẽ tâm chúng ta đã bị đánh động và quyết tâm vài lần. Có lẽ chúng ta đã có những dự án hay chương trình hành động. Nhưng tình trạng dậm chân tại chỗ, với cuộc sống tầm thường hay sút kém là dấu chỉ chúng ta chưa cố gắng đủ để vượt qua các hy sinh, chướng ngại, khó khăn và chưa thoát ra cái vỏ sò cứng ngắc hay cái tôi nhiễm đặc : “tham sân si” đang giam cầm và gậm hấm chúng ta.

Ngoan hiền trong thánh đường, nhu mì khi đến toà Hòa giải, sốt sắng khi lên rước Chúa, rộng lượng khi dâng cúng là những dấu hiệu khởi sắc và đáng khuyến khích, nhưng chưa đủ. Chúng ta không được dừng lại ở đó. Hãy đem đạo vào đời, vào công sở, vào thương trường, vào nghề nghiệp và nhất là hãy sống đạo trong khuôn viên gia đình và trong các sinh hoạt tôn giáo. Hãy để ngũ thường “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” có cơ hội trưởng thành, phát triển và sinh hoa trái. Việc tu thân đã hoàn tất và tề gia đã ổn định, chúng ta sảng khoái bước sang lãnh địa trị quốc và tự tin giang tay bình thiên hạ. Cuối cùng chúng ta sẽ như Giêsu trở thành những người con dấu yêu của Chúa Cha, được sai đi làm sứ mạng cứu nhân độ thế và làm chúng nhân cho công bình, bác ái, yêu thương và tự do giữa nhân gian.

Về mục lục

.

-CON YÊU DẤU

Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Lễ kính nhớ Đức Giêsu chịu phép rửa, là chúng ta kết thúc mùa Giáng sinh, và bắt đầu với Chúa nhật thứ I mùa Thường Niên. Trong mùa Giáng sinh, chúng ta chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu bé nhỏ nằm trong máng cỏ. Trong mùa Thường Niên, chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệu cứu độ của Đức Kitô, khởi đi bằng việc đồng hành với dân chúng, đến bờ sông Giođan xin Gioan cử hành Phép rửa.

 Như vậy, Đức Giêsu đã trải qua 30 năm âm thầm sống trong mái nhà Nazareth. Từ đây, Ngài bắt đầu cuộc đời hoạt công khai rao giảng Tin Mừng, trong công cuộc rao giảng, rất nhiều lần Đức Giêsu dùng nước để bày tỏ quyền năng của Ngài. Chẳng hạn Ngài đã dùng nước để biến thành rượu ngon đem lại niềm vui và hạnh phúc cho đôi tân hôn.

Rõ ràng nước là nhu cầu thiết yếu cho muôn loài thọ sinh. Nước đem lại sự sống cho con người và thanh tẩy mọi sự. Trong dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa dùng nước để thanh tẩy tội lỗi và kiến tạo một nhân loại mới.

Chẳng hạn như câu chuyện lụt Đại Hồng Thủy. Khi nhân loại đắm chìm trong tội lỗi, lúc bấy giờ Chúa cho mưa xuống 40 đêm ngày, Hồng Thủy tiêu diệt tất cả nhân loại tội lỗi xấu xa đó, trừ gia đình ông Noe, được Thiên Chúa tuyển chọn.

Rồi biến cố dân Do thái vượt qua biển Đỏ. Chúa làm cho nước rẽ ra như bức tường hai bên tả hữu, và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Khi quân Aicập đuổi theo trong lối đi ấy, thì Chúa cho nước ập lại vùi dập chiến xa và kỵ binh của vua Pharaon không còn tên nào sống sót.

Khi Gioan Tẩy Giả thực hiện sứ mạng, ông kêu gọi dân chúng dọn lòng đón đợi Đấng cứu thế. Lắng nghe lời ông, họ lũ lượt kéo đến bờ sông Giođan, bày tỏ lòng sám hối, xin Gioan làm phép rửa cho họ.

Phép rửa của Gioan là hình ảnh tiên trưng, để sau này Đức Giêsu sẽ rửa chúng ta bằng Máu Thánh của Ngài và trong Chúa Thánh Thần.

Tin mừng thánh Matthiêu ghi lại, lúc Đức Giêsu từ dòng sông Giođan bước lên, đang lúc cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Lúc đó, có tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Đây là mạc khải đầu tiên về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi.

Có thể nói rằng: Tiếng Chúa Cha từ trời phán “Con là con yêu dấu của Cha”. Tiếng nói ấy không chỉ dành riêng cho Đức Giêsu, mà còn cho tất cả những ai khi lãnh nhận Bí tích thanh tẩy đều trở nên con cái Thiên Chúa.

Chi tiết Chúa Thánh Thần ngự xuống mang một ý nghĩa sâu xa, làm chúng ta nhớ lại khởi đầu công trình sáng tạo, Thánh Thần Thiên Chúa bay là là trên mặt nước. Chi tiết này nói lên sự tạo dựng mới mà sau này Đức Giêsu sẽ thực hiện bằng phép rửa, là điểm khởi đầu công cuộc tái sinh mới trong Chúa Thánh Thần.

Như vậy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi được vén mở từ đây, để rồi sau này, chính Đức Giêsu sẽ còn mặc khải thêm cho các tông đồ, dưới nhiều hình thức khác nhau. Và trước khi Đức Giêsu về trời, Ngài ra lệnh cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ: nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Anh chị em thân mến,

Trong kinh Vinh Danh có câu, chỉ có Chúa là Đấng Thánh, ấy thế mà tại sao Đức Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa? Khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta mới thấy nổi bật lên Đức Giêsu hòa nhập với con người, Ngài muốn liên đới với con người, để rồi khi từ dưới dòng sông Giođan bước lên, Ngài muốn nâng rước họ lên trở thành con cái Thiên Chúa.

Hơn 2.000 năm qua, từ thời các Thánh tông đồ cho đến nay, luôn luôn có những người bước theo gương Đức Giêsu, là đồng cảm với anh em đồng loại.

Chẳng hạn như: Cha Đamiêng tông đồ người hủi, thánh Gioan Thiên Chúa, thánh Gioan Phaolô II, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta…  những vị này không ngừng dấn thân vào khắp hang cùng ngõ hẻm, sống chung với những mãnh đời đau thương dập nát, nhất là những anh em nghèo khổ, bất hạnh, những người mà xã hội ít quan tâm, bằng đôi tay nâng đỡ, với con tim rộng mở, để xoa dịu và đem lại niềm vui bình an của Chúa cho họ.

Thế thì hôm nay, hành động của Đức Giêsu hòa mình với dân chúng lãnh nhận phép rửa nơi bờ sông Giođan muốn nói với chúng ta rằng: trong cuộc đời, có những lúc chúng ta gặp thất bại, đau khổ, buồn phiền, cách này cách khác, thì hãy tin rằng: Đức Giêsu vẫn đang đồng hành thiêng liêng, vẫn có mặt trong cuộc đời chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra ơn Chúa nâng đỡ hay không.

Mừng Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa, chúng ta chung lời tạ ơn Chúa vì hồng ân được làm con cái của Chúa. Đồng thời, khi cầu nguyện, chúng ta đừng đến với Chúa một mình, nhưng hãy liên đới với tất cả mọi người, đặc biệt những người bất hạnh, những người đang bị bỏ rơi, những người không có nơi nương tựa. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ họ, giúp họ tìm thấy niềm vui trong cuộc sống. Amen.

Về mục lục

.

KHIÊM NHƯỜNG SẼ ĐƯỢC CHÚA CHA TÔN VINH

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 3,13-17.

(13) Bấy giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình. (14) Nhưng ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi !”. (15) Nhưng Đức Giê-su trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính. Bấy giờ ông Gio-an mới chiều theo ý Người. (16) Khi Đức Giê-su chịu phép Rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. (17) Và kìa có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”.

  1. Ý CHÍNH:

Hôm nay là ngày cuối cùng của Mùa Giáng Sinh, và cũng là ngày khởi đầu Mùa Quanh Năm. Tin Mừng Mát-thêu cho thấy: Đức Giê-su khởi đầu cuộc sống công khai bằng việc từ Ga-li-lê xuống miền Giu-đê và đến sông Gio-đan để xin ông Gio-an làm phép rửa cho. Ngay từ ban đầu Gio-an đã biết Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, nên không dám rửa cho Người. Nhưng sau khi biết là thánh ý Chúa Cha, thì Gio-an đã vâng lời để làm phép rửa cho Người. Khi Đức Giê-su vừa chịu phép rửa, thì Người đã được phong làm Vua Thiên Sai: Thánh Thần lấy hình chim câu ngự xuống xức dầu thiêng liêng cho Người, và có tiếng Chúa Cha từ trời công nhận Người là “Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha”.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 13-14: + Từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan: Từ miền Ga-li-lê cụ thể là Na-da-rét (x. Mt 2,23), Đức Giê-su đến sông Gio-đan ở vùng Bê-ta-ni-a cách thành Giê-ri-cô không bao xa, để xin Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho. Người tự nguyện đến chứ không phải do lương tâm thúc bách chịu để xin ơn tha tội như người Do thái, vì Người là Đấng thánh thiện và vô tội. + Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi !: Nói câu này, có lẽ Gio-an đã biết Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế mà ông rao giảng sắp đến (x Mt 3,11).

– C 15: + Bây giờ cứ thế đã: Bây giờ Gio-an hãy cứ làm phép rửa cho Người. + Vì chúng ta nên làm như vậy: Đức Giê-su muốn chịu phép rửa của Gio-an để được Thiên Chúa Cha xác nhận về sứ mệnh Thiên Sai của Người (x. Lc 7,29-30). + Để giữ trọn đức công chính: Giữ trọn hay chu toàn bổn phận. Có thi hành ý muốn của Chúa Cha là chịu phép rửa, thì Đức Giê-su mới thiết lập được nền công chính mới (x. Mt 5,20) và kiện toàn Luật Mô-sê (x. Mt 5,17).

HỎI: Phép rửa của Gio-an là nghi lễ biểu lộ lòng thống hối của tội nhân. Vậy tại sao Đức Giê-su là Đấng thánh thiện vô cùng, lại chịu phép rửa ấy làm chi ?

ĐÁP:

Qua đoạn Tin Mừng này, chúng ta chỉ được trả lời một cách lờ mờ qua câu nói của Đức Giê-su với Gio-an: Đó là thánh ý của Thiên Chúa. Nhưng theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh, thì có hai lý do khiến Người chịu phép rửa của Gio-an như sau: Một là vì Đức Giê-su muốn liệt mình vào hàng ngũ những tội nhân mà sau này Người sẽ chịu chết đền tội thay cho họ (x. Mt 26,28). Hai là vì Đưc Giê-su muốn đồng hóa mình với những tội nhân có lòng ăn năn hối cải, để qua phép rửa của Gio-an, là hình bóng của phép rửa là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh và hình bong của bí tích Rửa Tội, Người sẽ biến đổi những ai chịu phép rửa tội được trở nên con thảo của Thiên Chúa.

– C 16-17: + Các tầng trời mở ra: Hiện tượng trời mở ra gợi nhớ câu: “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan” (Is 63,19). Đây là lời cầu nguyện của vị Ngôn sứ dâng lên Thiên Chúa để xin nguôi giận với dân Ít-ra-en, và tỏ mình ra là người Cha, sau thời gian lâu dài không đoái hoài đến họ. Lời cầu xin ấy hôm nay đã ứng nghiệm nơi Đức Giê-su: đất trời được giao hòa với nhau (x. Cv 7,56), Thiên Chúa sẽ tiếp tục mặc khải tình thương cho dân Người (x. Ed 1,1). + Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người: Câu này nhắc lại cuộc tạo dựng nguyên thủy (x. St 1,2). Ở đây báo hiệu một cuộc tạo dựng mới đang được thực hiện. Trong Cựu Ước, chim bồ câu không được coi là hình ảnh của Thần Khí. Câu này nhắc lại trong việc sáng tạo, Thần Khí đã ban sự sống cho nước tương tự như chim bồ câu mẹ bay chập chờn trên bầy chim con (x. St 1,2). Thần Khí ngự trên Đức Giê-su để xức dầu thiêng liêng (x. Cv 10,38), tấn phong Người làm Đấng Thiên Sai Mê-si-a (x. Is 11,2). + “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”: Sau khi Đức Giê-su đã vâng phục Chúa Cha đến chịu phép rửa của ông Gio-an, thì Chúa Cha đã giới thiệu Người là Con yêu dấu trước mặt những người hiện diện. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa nhiều lần đã gọi Đấng Thiên Sai và dân Ít-ra-en là Con yêu của Ngài: “Con là Con Ta, hôm nay Ta đã sinh ra Con” (Tv 2,7). “Này là Tôi Tớ của Ta mà Ta nâng đỡ, tuyển nhân mà Ta sủng mộ, Ta ban Thần Khí Ta trên Người” (Is 42,1). “Từ Ai-cập, Ta đã gọi Con Ta về” (Hs 11,1). Qua câu này, Tin Mừng Mát-thêu cho thấy Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai và là Con của Thiên Chúa.

  1. CÂU HỎI:

1) Tại sao Đức Giê-su là Đấng thánh thiện mà đến chịu phép rửa sám hối của Gio-an làm chi ?

2) Trong Do thái giáo chim bồ câu có phải là hình ảnh của Thần Khí Thiên Chúa không ? Câu “Thần Khí Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người” có nghĩa như thế nào ?

3) Trong Cựu Ước, Thiên Chúa thường gọi những ai là “con yêu” của Ngài ?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

  1. LỜI CHÚA: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi !” (Mt 3,14).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) TAI HẠI CỦA THÓI KIÊU NGẠO : TRÈO CAO TÉ ĐAU :

Trong kho tàng truyện thần thoại của Hy-lạp, có một câu chuyện về hai cha con nhà kia. Người cha tên là I-đam và đứa con là I-ka. I-đam là một kiến trúc sư kiêm nghề điêu khắc. Chính ông đã được nhà vua ra lệnh xây dựng một bát quái đồ để bắt giam vào đó một con quái vật đầu người mình thú rất hung dữ, để tránh cho dân lành khỏi bị nó giết hại. Nhưng về sau, do hiểu lầm là hai cha con I-đam và I-ka âm mưu làm loạn, nên vua Mi-nos đã hạ lệnh tống giam cả hai cha con vào bát quái đồ đó. Nhưng rồi “cái khó ló cái khôn”: Trong lúc bị giam cầm, hai cha con này đã tìm ra con đường trốn thoát khỏi cảnh tù tội bằng cách bay lên trời cao. Họ dùng sáp ong nối nhiều lông chim lại thành hai bộ cánh chim. Nhờ những chiếc cánh chim tự tạo này mà hai cha con đã bay được lên cao và thoát ra khỏi nhà tù qua lổ nhỏ trên mái. Quá phấn khởi trước thành công bất ngờ, anh con trai càng lúc càng bay lên cao và bỏ ngoài tai những lời khuyên khẩn thiết của cha mình. Khi bay cao gần đến mặt trời, thì sáp dính các lông chim trên đôi cánh bay của anh bị nóng chảy ra và anh con trai đã bị rơi từ trên độ cao xuống đất chết tan xác.

Ngày nay, sự kiêu ngạo cũng làm cho người ta coi thường và bỏ ngoài tai những lời khuyên can khôn ngoan kinh nghiệm của các bậc cha bác, thầy cô và những bậc cao niên. Nếu mỗi người chúng ta chiều theo những đam mê ích kỷ nhất thời của mình, thì chắc chắn chúng ta sẽ phải chuốc lấy thất bại đau thương.

2) TÌNH PHỤ TỬ CỦA MỘT ÔNG VUA:

Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.

Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông nghĩ:

– Phải chăng đây chính là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.

Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé và nói:

– Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.

Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên:

– Trời ơi, con ta.

Và cậu bé cũng kêu lên:

– Ba ơi.

 Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc về hoàng tộc cao quý

Khi chịu phép rửa tội, mỗi người chúng ta cũng được trở nên Con Thiên Chúa và gọi Thiên Chúa là Cha như Chúa Giê-su đã dạy các môn đệ cầu nguyện với Thiên Chúa như đứa con thưa chuyện với cha mình: « Lạy Cha chúng con ở trên trời »…

3) TRUYỀN ĐẠO BẰNG THỰC THI TÌNH THƯƠNG CỤ THỂ : 

Tại một xứ cùng quê nước Pháp, có một người đàn ông khoảng 50 tuổi tên là ALIX. Ông bị bại liệt. Mỗi buổi sáng bà vợ đặt ông vào một ghế bành ngoài hiên nhà rồi đi làm. Ông bà không con, không cháu.

Ông Alix không phải là người công giáo, nhưng thỉnh thoảng cha sở vẫn tới thăm, cha còn khuyên giáo dân tới giúp đỡ ông. Các em nhỏ tới chơi quanh ông, đem sách cho ông đọc và giúp ông mở sách. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện tới chăm sóc ông.

Giáng sinh năm đó, ông Alix đột ngột thưa cha sở:

– Thưa cha, xin cha cho con rước lễ.

Cha sở ngạc nhiên vì ông chưa là tín hữu. Nhưng ông thưa:

– Trước đây con không tin gì vào Thiên Chúa, nhưng ít lâu nay cha và anh em giáo dân quá tốt với con nên con cảm thấy thật hạnh phúc như con gặp được Chúa vậy. Con nghĩ rằng : Chỉ có Chúa mới có thể làm cho cha, cho bác sĩ và cho anh chị em giáo dân dám hy sinh bỏ công sức ra giúp đỡ một người xa lạ như con đây.

  1. SUY NIỆM:

Tin mừng lễ Đức Giê-su chịu phép rửa hôm nay dạy chúng ta bài học về sự vâng theo thánh ý Thiên Chúa và sống khiêm hạ với tha nhân.

1) GIO-AN VÂNG LỜI LÀM PHÉP RỬA ĐỂ GIỮ TRỌN ĐỨC CÔNG CHÍNH:

Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su đến xin chịu phép rửa của Gio-am Tẩy Giả tại sông Gio-đan. Lúc đầu ông ngại không dám làm phép rửa cho Người, Đấng mà ông đã từng loan báo sắp đến mà ông không đáng xách dép cho Người. Người là Vua Thẩm Phán quyền uy, sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Tuy nhiên, Đức Giê-su đã truyền cho Gio-an cứ làm phép rửa cho Người theo thánh ý Thiên Chúa : “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”.

Thánh Phao-lô đã nói về sự hạ mình vâng phục của Đức Giê-su theo thánh ý Thiên Chúa như sau : “Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8), được thể hiện khi Đức Giê-su chịu dìm mình trong dòng sông Gio-đan để hòan tòan vâng theo thánh ý Chúa Cha. Nhờ đó, Người đã được Chúa Cha tôn vinh như sau: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi lòai phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,9-11).

2) VÂNG LỜI ĐỂ NÊN CON YÊU DẤU LUÔN ĐẸP LÒNG CHÚA CHA:

Chính lúc Đức Giê-su tự hạ vâng theo ý Chúa Cha, lại là lúc Người được Chúa Cha tôn vinh: Khi vừa từ dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Bấy giờ Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Nếu Đức Giê-su đã được thụ thai trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a nhờ quyền năng Thánh Thần, thì nay Người cũng nhận được tác động của Thánh Thần để bắt đầu sứ vụ Thiên Sai. Việc Chúa Cha tôn vinh Chúa Giê-su thể hiện qua sự kiện: Khi Đức Giê-su trồi lên mặt nước thì Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Với cuộc Thần Hiện này, Chúa Cha đã xức dầu thiêng liêng tấn phong Đức Giê-su, người Tôi Trung của Thiên Chúa làm Đấng Thiên Sai.

3) ĐƯỢC CHA THỪA NHẬN “TA HÀI LÒNG VỀ NGƯỜI”:

Đức Giê-su không những đứng xếp hàng chung với các tội nhân có lòng sám hối, mà Người còn gần gũi để an ủi, nâng các tội nhân mau trỗi dậy khỏi nếp sống cũ tội lỗi. Chính Người đã mở ra con đường về trời cho loài người chúng ta. Trong suốt cuộc hành trình truyền giáo kéo dài gần 3 năm, Đức Giê-su luôn tuân theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Nhờ đó, Người đã chiến thắng ma quỷ cám dỗ và luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, bằng một lối sống hiếu thảo và làm đẹp lòng Cha. Cuối cùng Người đã vâng ý Cha, chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại chúng ta. Phép rửa của Gio-an Tẩy Giả là sự chuẩn bị cho phép rửa là mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sẽ phải trải qua và là hình bóng của bí tích Rửa tội do Chúa Giê-su thiết lập trước khi lên trời (x Mt 28,19). Vì thế Người đã được Chúa Cha khen ngợi: “Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).

4) HỌC SỐNG KHIÊM NHƯỜNG ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU:

– Khiêm nhường trong lời nói: Hãy nói ít nghe nhiều; Không khoe khoang thành tích của mình; Không phê bình nói xấu người vắng mặt; Sẵn sàng xin lỗi khi mắc phải sai sót khiến tha nhân buồn lòng; Kịp thời khen thưởng người cộng tác để động viên những cố gắng của họ; Can đảm bênh vực những người yếu đuối thân cô thế cô bị kẻ khác đàn áp bóc lột.

– Khiêm nhường trong thái độ: Năng dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa và cám ơn những ai làm ơn cho mình; Luôn có thái độ hiền hòa và nhẫn nhịn tha nhân; Biết làm chủ tính nóng giận và không to tiếng la mắng người dưới; Luôn sống “dĩ hoà vi quí”, không “Bé xé ra to”, hoặc “chuyện không đáng gì mà làm cho ầm ĩ”; Sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân; Biết bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa muốn thể hiện qua ý bề trên hay ý chung của tập thể.

– Khiêm nhường trong cách ứng xử: Vâng lời cha mẹ trong gia đình và vâng lời cấp trên ngoài xã hội; Không đổ lỗi cho người khác, nhưng “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; Kiên nhẫn lắng nghe lời phê bình góp ý của người khác; Tận tình phục vụ tha nhân vô vụ lợi kèm theo sự khôn ngoan để tránh bị lợi dụng; Tránh thái độ “Thượng tôn hạ đạp”; Can đảm đứng ra bênh vực những người “thân cô thế cô”; Khi công việc bị thất bại sẽ không đổ lỗi cho người khác, mà nhận phần trách nhiệm của mình; Khi thành công thì nhận là do ơn Chúa ban và là công của tập thể. Khi làm được điều gì tốt thì hãy khiêm tốn tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).

  1. THẢO LUẬN:

Vậy trong những ngày này bạn sẽ làm gì để thể hiện đức khiêm nhường trong cách nói năng và cư xử với người chung quanh?

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Do thiếu khiêm nhường nên chúng con ít khi nhận lỗi và thường đổ lỗi cho tha nhân. Trong Tin Mừng lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay, chúng con thấy Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng, lại khiêm tốn xếp hàng chung với các tội nhân để được ông Gio-an làm phép rửa cho. Qua đó, Chúa muốn dạy chúng con bài học khiêm nhường. Xin cho chúng con mỗi ngày biết điều chỉnh cách suy nghĩ nói năng và hành động, theo gương mẫu và lời dạy của Chúa, để chúng con cũng được Chúa Cha xác nhận là : « Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha » như Chúa khi xưa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Về mục lục

.

TẨY RỬA

Trầm Thiên Thu

Tẩy rửa là cách làm cho sạch, thông thường người ta dùng nước để rửa. Nước là một hợp chất hóa học của Oxy và Hydro, công thức hóa học là H₂O. Nước có lý tính và hóa tính đặc biệt, là chất rất quan trọng trong nhiều ngành khoa học và đời sống.

Nước che phủ 70% diện tích trái đất và chiếm 60-70% thể trọng của con người, điều đó có nghĩa là nước thực sự quan trọng đối với con người – kể cả động vật và thực vật.

Về tâm linh, Thánh Vịnh gia cầu xin: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.” (Tv 51:3-4) Là phàm nhân, ai cũng phải tẩy rửa, không chỉ làm sạch thể lý mà đặc biệt là làm sạch tâm hồn. Sám hối là một dạng tẩy rửa linh hồn.

Phép Rửa cần thiết, vì Chúa Giêsu đã giải thích và xác định với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí.” (Ga 3:5-6) Thánh Phaolô cho biết ba điều duy nhất: “Chỉ có một Thiên Chúa, một niềm tin, một phép rửa.” (Ep 4:5)

Chúa Giêsu không cần lãnh nhận Phép Rửa, Ngài chỉ muốn nêu gương cho chúng ta. Sau kh ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài, Chúa Cha đã xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3:17) Điều đó đã được nói trước từ ngàn xưa: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.” (Tv 2:7) Người Con đó là Đức Giêsu Kitô, là Ngôi Lời có từ khởi đầu, vẫn hướng về Thiên Chúa và là Thiên Chúa, (Ga 1:1) ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. (Ga 1:4)

Tình Phụ Tử mặc định khi đề cập người cha hoặc người con. Nhưng ở đây, Tình Phụ Tử không đơn thuần như tình cha con bình thường về nhân tính mà là Tình Phụ Tử về thần tính của ngôi vị Thiên Chúa. Đối với con người, Tình Phụ Tử đã có điều thiêng liêng cao quý rồi, huống chi ở đây là Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, sâu thẳm mầu nhiệm lắm.

Đối với cuộc sống đời thường, công cha nghĩa mẹ là thâm ân mà chúng ta phải ghi lòng tạc dạ suốt đời, không thể coi đó là “chuyện dĩ nhiên” như một số ác tử bất hiếu nhẫn tâm đối xử tàn tệ với song thân phụ mẫu của mình. Thật vậy, chẳng ai đếm được lá rừng, tầng mây, tinh tú,… thì cũng chẳng ai tính được công ơn cha mẹ.

Chắc chắn chẳng ai đếm được ân nghĩa cao dày đó. Ai cũng là con, vì ai cũng có cha mẹ. Ca dao nói đến người mẹ cũng có nghĩa là nói tới người cha. Là Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu Kitô cũng muốn sinh ra trong một gia đình. Ngài là Người Con Yêu Dấu mà ngôn sứ Isaia đã nhắc tới từ ngàn xưa với danh xưng “Người Tôi Trung”.

Chính Người Con đó đã được xác định trong “Bài Ca Thứ Nhất” của Người Tôi Trung: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.” (Is 42:1-4) Trong đó, chữ “công lý” được đề cập 3 lần, điều đó chứng tỏ công lý là vấn đề rất quan trọng, ngày xưa cũng như ngày nay.

Điều đó cũng cho thấy rằng Người Con này là người rất cương quyết, bản chất tuy thật thà nhưng lại rất thẳng thắn, trừng trị bất cứ kẻ nào dám ngang bướng, lọc lừa, gian trá, không tôn trọng chân lý, dám bóp méo sự thật. Chính trong “Bài Ca Thứ Nhất” cũng nói tới những “đặc tính” của Người Tôi Trung: không kêu to, không nói lớn, không trù dập kẻ yếu thế, không yếu hèn, không khuất phục,… đặc biệt là LÀM SÁNG TỎ CÔNG LÝ. Và đó là điều mà chúng ta không ngừng mong ước.

Từ ngàn xưa, chính Thiên Chúa Cha đã xác nhận rõ ràng thế này: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù lòa, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.” (Is 42:6-7) Người Cha rất chính trực nên Người Con cũng rất thẳng thắn, bình thường hóa cách nói như Việt ngữ là “cha nào, con nấy” – ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực và tốt lành, Cha và Con là một.

Vì thế, cả Cha và Con đều tuyệt đối tuyệt vời và tuyệt vời tuyệt đối. Đồng thời có điểm vô cùng đặc biệt “không giống ai” là Cha và Con đều công minh, chính trực, không thiên vị, không phe cánh, luôn thẳng thắn, không vị nể ai, “cứ theo sự thật mà xét xử” (Rm 2:2) và “cứ theo công việc mỗi người mà xét xử.” (1 Pr 1:17) Tuy nhiên, Cha và Con lại giàu lòng thương xót. Phàm nhân chúng ta không thể nào hiểu thấu những điều liên quan Thiên Chúa. Ngài tuyệt đối, còn chúng ta chỉ tương đối mà thôi.

Và chính Người Tôi Trung đó cũng chính là Người Con Yêu Dấu, là Đấng Ái Tử, là Đấng Ngôi Lời Giêsu Kitô, là Hài Nhi đã giáng sinh nơi hang đá Belem và đã chịu chết trên Thập Giá tại Đồi Can-vê năm xưa. Thật kỳ diệu, vì Người Con Yêu Dấu đó chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Chúa của chúng ta. Thật vui mừng và hạnh phúc biết bao! Vì thế, chúng ta không thể không nghe lời Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện.” (Tv 29:1-2) Đó cũng là bổn phận của chúng ta, thụ tạo của Ngài.

Thiên Chúa là Đấng dũng mãnh vô song và hiện hữu mọi nơi, nhưng không ai có thể nhìn thấy Ngài bằng mắt thường, mà chỉ có thể nhận biết bằng đức tin: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm! Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm.” (Tv 29:3-4, 9a) Các hiện tượng thiên nhiên đã và đang chứng minh sức mạnh của Thiên Chúa: mưa gió, áp thấp, bão tố, sóng thần, hạn hán,…

Chắc chắn trách nhiệm của chúng ta là tuyên xưng và làm chứng về Ngài ở mọi nơi, mọi lúc, và với mọi người. Còn khi ở trong thánh điện Ngài, tất cả phải cùng tung hô: “Vinh danh Chúa!” (Tv 29:9b) Câu này cũng “nhắc khéo” và “nhắc lớn” (chứ không “nhắc nhỏ”) đối với mỗi chúng ta: “Đừng chỉ là CHIÊN khi ở trong nhà thờ, còn ra khỏi nhà thờ thì hóa thành CỌP.” Thực sự rất đáng quan ngại!

Có lần Thánh Phêrô đã thẳng thắn lên tiếng về việc bảo vệ chân lý và làm theo sự thật: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa KHÔNG THIÊN VỊ người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào cũng đều được Người tiếp nhận. Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người.” (Cv 10:34-35a) Rất rõ ràng. Rất rạch ròi. Thiên Chúa là thế. Tuy nhiên, có lẽ người ta vẫn thường ảo tưởng mà cho rằng mình đã được rửa tội, là Kitô hữu chính hiệu, và vẫn giữ đạo đầy đủ thì chẳng có gì phải lo. Thật vậy chăng? Người ta chỉ quan tâm việc “giữ đạo” còn việc “sống đạo” lại dễ bỏ qua. Vì ảo tưởng, vì không biết hay không muốn biết? Mức độ “giữ đạo” còn ở dạng thô sơ, còn tiêu cực, mức độ “sống đạo” mới là tích cực, dạng “cao cấp” cần thiết. Chuyện nhỏ mà không nhỏ, đơn giản mà nhiêu khê.

Vừa giải thích vừa minh định về Người Con Yêu Dấu, Thánh Phêrô cho biết: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.” (Cv 10:35b-38) Chắc hẳn những điều này không “xa lạ” gì, bởi vì Kitô hữu nào cũng đã biết rõ rồi. Thế nhưng biết để mà biết thì cũng vô ích, mà phải làm “điều gì đó” khác hơn thì mới đúng ý muốn của Thiên Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Chẳng phải đi đâu xa, cứ “đi” tới nơi gần nhất là những người lân cận, thậm chí những người trong gia đình hoặc hàng xóm, nghĩa là cố gắng sống sao cho bất kỳ ai gặp chúng ta thì họ cũng có thể “thấy” Chúa nơi mỗi chúng ta – và chính chúng ta cũng “thấy” Chúa nơi họ.

Như một “dị nhân” đặc biệt, ông Gioan thể hiện rất rõ tính giản dị trong cách sống: “Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.” (Mt 3:4) Vô cùng giản dị, giản dị tới mức có vẻ rất… “bụi đời”. Theo lẽ thường, những con người giản dị là người sống sâu sắc, có tư tưởng thâm thúy và khác người – đôi khi bị người ta xa lánh, bị coi là lập dị. Ngược lại, những con người ưa bề ngoài là người nông cạn, họ muốn dùng “hình thức” để khỏa lấp “khoảng trống” trong tâm hồn. Ông-bụi-đời Gioan cũng là người cương trực, thẳng như ruột ngựa, nhưng ông nói thẳng thắn với tinh thần yêu thương và khiêm nhường, chứ không “gài bẫy” người khác hoặc chỉ trích như đám Biệt Phái. Ông xác định: “Tôi, tôi làm phép rửa cho quý vị trong nước để giục lòng quý vị sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi KHÔNG ĐÁNG xách dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho quý vị trong Thánh Thần và lửa. Tay Ngài cầm nia, Ngài sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” (Mt 3:11-12) Ông là đại ngôn sứ mà chỉ nhận mình là người không đáng chi, ông thực sự là “ông lớn” mà chỉ muốn là “ông nhỏ” mà thôi.

Rồi chính Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Gio-đan để trực tiếp gặp ông Gioan và xin ông làm phép rửa. Chúa Giêsu vô tội mà sao lại làm như vậy? Ông Gioan không hiểu nên một mực can Ngài và nói: “Chính tôi mới CẦN được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14) Thế nhưng Ngài ôn tồn nói: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta NÊN làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” (Mt 3:15) Ôi, thì ra là như thế. Ông thực sự biết rõ ý Ngài rồi nên sẵn sàng hành động theo ý Ngài muốn. Từ bỏ ý mình để chiều lòng người khác là một hành động khiêm nhường, đáng quý trong biết bao!

Lúc trước, trong đêm Chúa Giêsu giáng sinh đã có những điềm lạ tỏ tường, nay lại có điềm lạ khác cũng tỏ tường: Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong và vừa ở dưới nước lên, các tầng trời mở ra, Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Ngài – Người Con yêu Dấu của Thiên Chúa Cha. Đặc biệt hơn nữa là có tiếng phán vọng từ trên trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3:17)

Một lần khác cũng có điềm lạ tương tự. Đó là lúc Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor, trước sự chứng kiến của ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, tiếng phán ra từ đám mây vang vọng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (Mc 9:7) Đó là các chứng cớ xác định Đức Giêsu Kitô là ai. Thật diễm phúc cho những ai tin vào Người Con Yêu Dấu đó!

Tất cả phàm nhân chúng ta luôn cần phải tẩy rửa – bằng Nước, bằng Lửa, và đặc biệt là bằng Thần Khí – vì ô nhiễm đủ thứ, cả thể lý và tinh thần.

Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con chính Người Con Yêu Dấu của Ngài, mặc khải về Ngài để chúng con tin nhận. Xin giúp chúng con biết chu toàn bổn phận và trách nhiệm làm con cái. Hằng ngày, xin cho chúng con được no say ân tình Ngài, để chúng con vui sống trọn kiếp người theo Thánh Ý Ngài. Xin Ngài dủ thương, chúc phúc, chiếu toả ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối và Ơn Cứu Độ của Ngài. (Tv 67:2-3) Xin tẩy rửa hồn xác chúng con nên tinh sạch để làm chứng về Ngài và tôn vinh Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-LỄ CHÚA CHỊU PHÉP RỬA

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Theo chu trình năm Phụng Vụ, Chúa Nhật I Thường Niên tưởng niệm sự kiện Đức Giê-su chịu phép rửa. Phép rửa này được liên kết với cuộc tấn phong diễn ra trong một cuộc Thần Hiển. Đó là lý do tại sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành việc Chúa Giê-su chịu phép rửa như một trong ba cuộc Thần Hiển: lễ Hiễn Linh, lễ Đức Giê-su chịu phép rửa và lễ Chúa Giê-su Biến Hình.

Is 42: 1-4, 6-7

Trước hết, bài đọc thứ nhất, được trích từ sấm ngôn I-sai-a, loan báo cuộc tấn phong “người Chúa tuyển chọn” mà “Ngài hết lòng quí mến” và cho Thần Khí của Ngài ngự trên người ấy. Đây là một nhân vật mầu nhiệm mà vị ngôn sứ gọi là “Người Tôi Trung của Đức Chúa”.

Cv 10: 34-38

Tiếp đó, bài đọc thứ hai, được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ, thuật lại bài giảng của thánh Phê-rô ngỏ lời với ông Cô-nê-li-ô, viên bách quản Rô-ma, và toàn thể gia quyến của ông, họ là những lương dân đầu tiên gia nhập vào cộng đoàn Ki-tô hữu qua phép Rửa. Nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, mọi người, bất kỳ ai, thuộc dân tộc nào, đều được mời gọi gia nhập vào dân Thiên Chúa.

Mt 3: 13-17

Sau cùng, thánh Mát-thêu tường thuật biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, để giới thiệu Ngài là “Người Tôi Trung” mà sấm ngôn I-sai-a đã loan báo.

BÀI ĐỌC I (Is 42: 1-4, 6-7)

Bản văn này gợi lên một nhân vật mà Thiên Chúa gọi là “Người Tôi Trung của Ngài”, Ngài hết lòng quí mến và đổ tràn đầy Thần Trí của Ngài trên người ấy. Nơi nhân vật này, Thiên Chúa trao gửi một sứ mạng là thực thi công lý, bày tỏ tấm lòng nhân ái và đức khiêm nhu, nhờ đó nhân vật ấy trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân.

Đây là bài ca đầu tiên trong bốn bài ca về “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày (550-540 BC), được gọi I-sai-a đệ nhị (Is 40-55).

Bài ca này gồm có hai phần: phần thứ nhất, Thiên Chúa giới thiệu “Người Tôi Trung” của Ngài; phần thứ hai, Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với nhân vật này.

  1. Người Tôi Trung của Đức Chúa là ai?

Danh xưng “Người Tôi Trung” xuất hiện nhiều lần trong Kinh Thánh. Đây là danh hiệu cao quí mà Đức Chúa tặng ban cho những ai Ngài trao phó nhiệm vụ hướng dẫn dân Ngài, hay trao gửi một sứ mạng: Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp, Mô-sê, Đa-vít, vân vân. Danh hiệu này cũng chỉ toàn dân Ít-ra-en.

Nhân vật này là ai? Thật ra, nhân vật bí ẩn này trong suốt nhiều thời đại đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau: một nhân vật lịch sử là vua Ba tư tên là Ky-rô; hoặc dân Ít-ra-en, dân Chúa chọn; hay Đấng Mê-si-a. Đây là nét đặc trưng của các sấm ngôn vừa phát xuất từ những hoàn cảnh lịch sử chính xác vừa vượt qua những viễn cảnh đương thời.

  1. Vua Ky-rô, vị thẩm phán chí công và nhân hậu

 “Người Tôi Trung” này vừa là một vị thẩm phán vừa là nhà giải phóng: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ; đây là người Ta tuyển chọn, Ta hết lòng quý mến. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người; Người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Người Tôi Trung này được Thiên Chúa ban nhiều đặc ân, nhờ đó ông có thể phân xử muôn dân, sửa sai những lỗi lầm, vực dậy những kẻ bị áp bức, phóng thích những tù nhân, phục hưng Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài và làm sáng tỏ công lý trước mặt muôn dân.

Hoàn cảnh lịch sử chính xác là cảnh tù đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ ngỏ lời với những người lưu đày này, họ phải chịu một cuộc thử thách dài lâu và mòn mỏi đợi chờ cuộc giải phóng. Ông hứa với họ một nhà giải phóng. Tất cả mạch văn hướng về vị vua Ba tư tên là Ky-rô, mà quyền lực của vua mỗi ngày mỗi lớn mạnh trên thế cuộc vùng Trung Đông.

Chương 41 trước đó ám chỉ rõ nét những chiến công lẫy lừng của vua Ky-rô:

“Từ Phương Đông, ai đã cho xuất hiện người hùng

đi mở đường cho nền công chính?

Đao kiếm của ông làm chúng hóa ra như tro bụi,

cung nỏ của ông khiến chúng tán loạn tựa cọng rơm.

Ông đuổi bắt thù địch, ông tiến bước an toàn

….

Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên?

Chính là Ta. Ta là Đức Chúa, Ta là khởi nguyên,

và giữa những người của thời sau hết, Ta vẫn là Ta” (Is 41: 2-4).

Chương 45 còn nêu bật rõ ràng hơn:

“Đức Chúa phán với kẻ Người xức dầu, với vua Ky-rô

– Ta đã cầm lấy tay phải nó,

để bắt các dân tộc suy phục nó,

Ta tước khí giới của các vua,

mở toang các cửa thành trước mặt nó,

khiến các cổng không còn đóng kín nữa

….

Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,

và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en

….

Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ,

để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng

chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.

Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45: 1-6).

Các biến cố sắp đến sẽ khẳng định dự đoán thời cuộc của vị ngôn sứ. Không bao lâu sau, vua Ba tư chiếm kinh thành Ba-by-lon mà không phải gặp bất cứ một kháng cự nào, và cũng không gây bất kỳ thiệt hại nào cho kinh thành. Vua thi hành chính sách “thu phục dân tâm”. Vua Ky-rô và những người kế vị vua không bao giờ sử dụng bạo lực. Xót thương đối với những người Ít-ra-en bị lưu đày như “cây sậy bị dập nát” và “tim đèn leo lét”, vua Ba tư tạo điều kiện thuận tiện cho họ trở về cố hương là Giê-ru-sa-lem.

  1. Dân Chúa chọn

Sau này, khi quá khứ mờ nhạt trong tâm trí, bản văn được đọc lại theo cách khác. Vị ngôn sứ chủ ý tặng ban danh hiệu “Người Tôi Trung” cho toàn dân Ít-ra-en với tư cách là dân Chúa chọn để là chứng nhân của Ngài. Dung mạo Người Tôi Trung được xem như cá nhân hóa dân Chúa chọn mà Đức Chúa nâng đỡ, sủng ái và ban Thần Trí của Ngài. Dân nhỏ bé này, Ngài đã “nắn nên” họ bằng chính bàn tay của mình. Ở giữa muôn dân, họ phải chu toàn sứ mạng của mình là trở nên ánh sáng muôn dân qua việc khẳng định niềm tin của mình vào Đức Chúa, Thiên Chúa chân thật.

  1. Đấng Mê-si-a

Danh hiệu “Người Tôi Trung” này được nhận dạng chỉ ở nơi vua Ky-rô không tát cạn sự giàu có của bản văn, hay được cá nhân hóa ở nơi dân Chúa chọn cũng không hoàn toàn thỏa mãn. Quan trọng là đặt sứ điệp này vào trong những giờ phút nghiêm trọng vào lúc lời sấm được công bố.

Vào giữa thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm và trở thành hoang phế; Đền Thờ bị phá hủy; một phần lớn dân cư bị lưu đày; vương quyền của nhà Đa-vít đã bị vùi dập trong phong ba bão táp; niềm hy vọng vào Đấng Mê-si-a (Đấng được Thiên Chúa xức dầu) được đặt vào vương quyền nhà Đa-vít đã bị sụp đổ. Đây là thời điểm thuận tiện để nâng mặc khải lên đến một giai đoạn mới. Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách bất ngờ: Ngài sẽ sai phái “Người Tôi Trung” đầy tràn Thần Khí của Ngài. Nhân vật này sẽ thực hiện sứ mạng công lý với tấm lòng khiêm nhu nhân hậu, dù bên ngoài có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ (bài ca thứ tư). Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa bước một bước tiến nhảy vọt. Những sấm ngôn xưa liên quan đến một hậu duệ của nhà Đa-vít không bị bãi bỏ một chút nào, nhưng những viễn cảnh mới mà sấm ngôn này hé mở, thì không còn một quyền lực trần thế nhưng một vương quốc tâm linh:

“Nó không yếu hèn, không chịu nhục,

cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu.

Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42: 4).

Trong sách Tin Mừng của mình ở 12: 18-21, thánh Mát-thêu trích dẫn một đoạn văn dài sấm ngôn I-sai-a này để chứng minh rằng lời sấm được ứng nghiệm ở nơi con người của Đức Giê-su, sứ mạng của Ngài tuy được thực hiện một cách kín đáo nhưng “sẽ đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Ngài”.

Khi chịu phép rửa của thánh Gioan, Đức Giê-su thấy các tầng trời mở ra, Thần Khí ngự xuống trên mình và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Việc mô tả này mặc nhiên quy chiếu đến sấm ngôn I-sai-a. Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng của “Người Tôi Trung”. Ngài sẽ chu toàn sứ mạng này khi thể hiện dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong cuộc Khổ Nạn của mình.

BÀI ĐỌC II (Cv 10: 34-38)

Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ này tường thuật một biến cố đánh dấu một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi: lần đầu tiên, một lương dân và toàn thể gia quyến của ông được chấp nhận gia nhập vào cộng đoàn Ki-tô hữu nhờ phép Rửa.

  1. Hoàn cảnh Giáo Hội vào lúc đó

Cho đến lúc đó, các Tông Đồ ngỏ lời với dân Do thái nhằm chứng minh cho họ nhận biết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, ở nơi Ngài mọi lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ki-tô giáo tiên khởi được định vị ở nơi sự nối dài của Do thái giáo. Chiều kích phổ quát đã được mặc khải qua các thị kiến ngôn sứ: rồi sẽ đến một ngày, muôn dân sẽ lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mừng kính Đức Chúa đích thật. Nhưng các Tông Đồ đã không nghĩ đến một tiến trình đảo ngược: chính họ phải đi đến với muôn dân loan báo Tin Mừng cho họ.

Ấy vậy, vị lãnh tụ Giáo Hội, thánh Phê-rô, phải nói là bị Chúa Thánh Thần ép buộc đến nhà một người ngoại giáo. Một viên Bách Quản Rô-ma, đồn trú ở thành Xê-da-rê, sai người đến mời thánh nhân đến nhà mình. Lúc đó, thánh Phê-rô đang ở Gia-phô, cách thành Xe-da-rê khoảng năm mươi cây số. Thánh nhân đang thực hiện cuộc kinh lý. Sau cuộc bách hại dữ dội đã giáng xuống cộng đoàn Giê-ru-sa-lem non trẻ vào mùa hè năm 36 hay mùa xuân năm 37 (thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên vào thời gian này), một thời gian yên bình xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ yên bình này để thăm viếng các cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ này.

  1. Một khúc quanh của Giáo Hội

Thánh Phê-rô đến nhà viên Bách Quản. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước qua ngưỡng cửa của một người chưa cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm không được tiếp xúc với những người chưa cắt bì không được diễn tả trong Lề Luật, nhưng từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư, nhằm tránh tất cả mọi hình thức lây nhiễm ngoại giáo. Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp Tin Mừng đến một người ngoại giáo và toàn thể gia quyến của ông. Đối với thánh nhân, đây thật sự là một kinh nghiệm cảm động và đáng nhớ. Thánh nhân đã hiểu được ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người. Ngay tức khắc, thánh nhân mặc lấy cho hành động của mình một ý nghĩa thần học. Đây là phần mở đầu bài thuyết giáo của thánh nhân mà Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta suy niệm vào ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả hôm nay.

  1. Chiều kích phổ quát của ơn cứu độ

“Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Chúa tiếp nhận”. Lời khẳng định về sự bình đẳng giữa dân ngoại và dân Do thái này hình thành nên một thay đổi lớn lao. Quả thật, trước đây, thánh Phê-rô, vốn là một người Do thái, quen nghĩ đến những đặc quyền đặc lợi dành riêng cho dân Chúa chọn. Vị lãnh tụ Giáo Hội, được Thánh Thần thúc đẩy, chấp nhận và công bố sự thay đổi khôn sánh này.

Ông Cô-nê-li-ô, viên Bách Quản Rô-ma, là một “cảm tình viên của Do thái giáo”, cũng được gọi “người kính sợ Chúa”. Đây là một người “ăn ngay ở lành” như bản văn xác nhận.

Chắc chắn Thiên Chúa đã gửi “lời loan báo Tin Mừng trước tiên cho dân Ít-ra-en”. Thánh nhân muốn giải thích cho gia chủ và đồng thời muốn thanh minh quyền ưu tiên này: dân Ít-ra-en đã lãnh nhận một sứ mạng, sứ mạng chuẩn bị bình an, bình an giữa muôn dân, bình an giữa dân Do thái và lương dân. Bình an này trở nên có thể nhờ trung gian của Đức Giê-su Ki-tô, “Ngài là Chúa Tể muôn dân”.

  1. Quyền năng của Phép Rửa Ki-tô giáo

Tiếp đó, thánh Phê-rô tóm tắt các chặng đường đời Chúa Giê-su, khởi đi từ việc Ngài được Thánh Thần xức dầu tấn phong khi lãnh nhận phép rửa trên dòng sông Gio-đan. Thánh Tông Đồ mở ra một viễn cảnh, đó sẽ mãi mãi là viễn cảnh của Giáo Hội: ân ban Thánh Thần không đơn giản là một sự thủ đắc, nhưng thật sự là một sức mạnh bùng nổ, một năng lực giúp hoàn thành sứ mạng: “làm chứng”“thi ân giáng phúc” và “chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”.

TIN MỪNG (Mt 3: 13-17)

Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu khai mạc cuộc đời công khai của Chúa Giê-su với việc Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Ngoài ra, chúng ta nên lưu ý rằng thánh Mát-thêu hoàn tất tác phẩm của mình với lời căn dặn của Đấng Phục Sinh về giáo huấn tối hậu của phép rửa: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28: 19).

Tại thánh Mát-thêu, như tại hai sách Tin Mừng Nhất Lãm khác, câu chuyện Chúa Giê-su chịu phép rửa bao gồm hai hoạt cảnh biệt phân: một hoạt cảnh về sự khiêm hạ: Đức Giê-su tự nguyện để thánh Gioan làm phép rửa cho mình; và một hoạt cảnh vĩ đại khác: Ngài được Chúa Thánh Thần tấn phong và được Chúa Cha chứng nhận. Nhưng thánh Mát-thêu là vị thánh ký duy nhất tường thuật cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su và thánh Gioan Tẩy Giả (3: 14-15), cuộc đối thoại mang đậm nét Kinh Thánh. Đây là nét đặc trưng của Tin Mừng Mát-thêu.

  1. Chúa Giê-su chịu phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả (3: 13)

Đức Giê-su đến từ miền Ga-li-lê. Ngài đã rời bỏ gia đình và nghề nghiệp của mình để bắt tay vào sứ mạng của mình. Cử chỉ đầu tiên của Ngài là xin chịu phép rửa của Gioan, như bao người muốn thực hiện hành vi sám hối. Dáng điệu này là yếu tố đầu tiên của công trình Cứu Độ. Kể từ lúc đó, Chúa Giê-su muốn đặt mình liên đới với nhân loại tội lỗi. Đây là bước đi đầu tiên sẽ dẫn Ngài đến đồi Can-vê, để chịu một phép rửa khác, phép rửa bằng máu, mà chính Chúa Giê-su đã sánh ví với cuộc Tử Nạn của Ngài: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12: 50). Cũng như Ngài tuyên bố với thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38). Qua động từ Hy ngữ, “chịu phép rửa” có nghĩa “nhấn chìm”, Chúa Giê-su muốn nói rằng Ngài sẽ bị nhấn chìm vào trong vực thẳm của muôn vàn đau khổ. Quả thật, từ phép rửa trong nước đến phép rửa trong máu, chính là tiến trình cuộc sống của Chúa Ki-tô. Trong hoạt cảnh phép rửa trong sông Gio-đan có một hậu cảnh bi thảm của cuộc Tử Nạn.

Nước được liên kết với những hình ảnh của cuộc sinh ra và cuộc tái sinh: những tiên trưng của phép rửa được gợi ý rất nhiều trong Cựu Ước: từ nước của trận đại hồng thủy xuất hiện một nhân loại mới với ông No-ê và gia đình của ông; từ nước của Biển Đỏ xuất hiện một dân mới, dân được giải thoát. Cũng vậy, khi bước ra khỏi dòng sông, Chúa Giê-su khai mạc một nhân loại mới, nhân loại được tái sinh. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng khi bước vào sông Gio-đan, Chúa Giê-su đã chuẩn bị, một cách nào đó, tác động thần linh của nước trên người rửa tội.

Việc dìm mình vào trong nước tượng trưng cho cái chết và việc trồi mình lên khỏi mặt nước biểu tượng cho một cuộc sống mới. Phép Rửa Ki-tô giáo sẽ đón nhận ý nghĩa tròn đầy sau biến cố Phục Sinh. Thánh Phao-lô nhấn rất mạnh tính cách vượt qua của phép Rửa (x. Rm 6: 4; Cl 2: 12; vân vân). Ngay từ thời kỳ đầu Ki-tô giáo, các tân tòng lãnh nhận phép Rửa vào Đêm Vọng Phục Sinh. Điều này thật có ý nghĩa biết bao.

  1. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với thánh Gioan Tẩy Giả (3: 14-15)

Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với thánh Gioan (3: 14-15) chỉ có trong Tin Mừng Mát-thêu, phản ảnh một chiều hướng biện giáo. Sự kiện Đức Giê-su được thánh Gioan ban phép rửa đã sớm tạo ra những khó khăn cho các Ki-tô hữu (x. Lc 3: 21t; Ga 1: 29-34): trước hết, những gì thánh Gioan trước đây đã loan báo về sự cao cả của Đấng Mê-si-a, thì ở nơi hoạt cảnh phép rửa, vai trò của hai người dường như đảo lộn. Thứ nữa, phép rửa của thánh Gioan là dấu chỉ bên ngoài bày tỏ lòng sám hối vì tội lỗi của mình, vậy khi đến xin chịu phép rửa, dường như Đức Giê-su ý thức mình có tội. Cuộc đối thoại cung cấp câu trả lời cho vấn nạn thứ nhất, còn cuộc Thần Hiển tiếp đó (3: 16-17) thì giải đáp cho vấn nạn thứ hai.

Trong cuộc đối thoại, việc thánh Gioan ngần ngại làm phép rửa cho Đức Giê-su không làm cho chúng ta ngạc nhiên, vì chúng ta biết chính thánh nhân đã làm chứng về sự cao cả của Chúa Giê-su trước đó. Tuy nhiên, chính nội dung của cuộc đối thoại đã xua tan các nhận định ởm ờ đó: thánh Gioan đã tuyên bố Đức Giê-su cao trọng hơn ông, cũng như phép rửa của ông chỉ trong nước để tỏ lòng ăn năn sám hối; trái lại, phép rửa của Chúa Giê-su trong Thánh Thần và lửa mới có quyền năng tha thứ tội lỗi (3: 11). Dù vậy, Chúa Giê-su vẫn cứ xin chịu phép rửa: chính việc đảo ngược vị thế của hai người như vậy, “cả hai mới làm trọn nghĩa công chính” (3: 15).

 “Đức công chính” mang đậm ý nghĩa Kinh Thánh; nó quy chiếu đến chương trình mà Thiên Chúa, với lòng nhân hậu và khôn ngoan vô lượng của Ngài, đã hoạch định cứu độ con người. Vì thế, “giữ trọn đức công chính” phải được hiểu là “chu toàn ý muốn và kế hoạch của Thiên Chúa”. Quả thật, chúng ta có thể dịch “giữ trọn đức công chính” là “chu toàn mọi điều Thiên Chúa đã hoạch định”. Đức Giê-su đến để đón nhận phép rửa của thánh Gioan và vì thế Ngài nhận ra nó như là một giai đoạn trong lịch sử cứu độ, một giai đoạn mà Thiên Chúa đã thấy trước như là một sự chuẩn bị sau cùng và cần thiết cho kỷ nguyên thời Thiên Sai. Thực thi bất kỳ một trong những giai đoạn này có thể được gọi là hành vi công chính. Vì đến để thực thi ý muốn của Cha Ngài (Ga 4: 34) nên Chúa Giê-su cẩn trọng thực thi chương trình cứu độ đó trong mọi khía cạnh. Thánh Gioan Tẩy Giả và Chúa Giê-su là một nhịp cầu nối kết Cựu Ước với Tân Ước. Chúng ta ghi nhận rằng Chúa Giê-su nói: “Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”, vì thế, không là đoạn tuyệt nhưng là nên trọn. Đây chính là tuyến phát triển của Tin Mừng Mát-thêu.

  1. Cuộc Thần Hiển (3: 16-17)

“Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra”: Thánh Mát-thêu sử dụng cùng một động từ “mở ra” với Is 63: 19 của bản Bảy Mươi chứ không “xé ra” của bản Híp-ri (“Phải chi Người xé trời mà ngự xuống”), nhưng ý nghĩa vẫn như nhau: niềm hy vọng cánh chung được ngôn sứ I-sai-a loan báo, nay đã được thực hiện.

– “Thần Khi Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu”: Cụm từ “như chim bồ câu” bổ nghĩa cho động từ “đáp xuống” chứ không phải cho danh từ “Thần Khí”. Trong Do thái giáo, con chim bồ câu không bao giờ được coi là hình ảnh của “thần khí” cả, nhưng có vài bản văn so sánh chuyển động của “thần khí” với chuyển động của một con chim, như St 1: 2: “Thần khí bay lượn trên nước”. Hình ảnh của thánh Mát-thêu muốn nói rằng trước hết, Thần Khí không phải là một sức mạnh phát xuất từ thiên nhiên hay con người, mà là một hữu thể siêu việt; thứ nữa, Thần Khí ngự xuống trên Đức Giê-su một cách vừa dịu dàng vừa thân thiết. Bản văn của thánh Mát-thêu cũng như của thánh Mác-cô không muốn nói đến dáng vẻ bên ngoài như của thánh Lu-ca: “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu” (Lc 3: 22), nhưng cách thức Thần Khí âm thầm đến và tác động trên Đức Giê-su một cách dịu dàng mật thiết.

Đức Giê-su đã đầy tràn Chúa Thánh Thần ngay từ giây phút thụ thai trong lòng mẹ, do bởi việc hiệp nhất thiên tính và nhân tính trong cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời (tín lý về ngôi hiệp). Giáo Huấn Công Giáo dạy rằng ở nơi Đức Ki-tô chỉ có một ngôi vị (ngôi vị Thiên Chúa) nhưng hai bản tính (thiên tính và nhân tính). Việc Chúa Thánh Thần hiện xuống như được nói trong bản văn bày tỏ rằng ngay khi Chúa Giê-su long trọng bắt tay vào việc cứu thế của Ngài, Chúa Thánh Thần cũng bắt đầu công việc của mình qua Chúa Giê-su. Có rất nhiều bản văn Cựu Ước nói về việc Chúa Thánh Thần tỏ mình ra ở nơi Đấng Cứu Thế tương lai. Dấu hiệu của Chúa Thánh Thần này đã cung cấp cho thánh Gioan Tẩy Giả một bằng chứng bất khả ngộ về tính chân thật mà thánh nhân làm chứng liên quan đến Chúa Ki-tô (x. Ga 1: 29-34).

Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa được mặc khải trong phép rửa của Chúa Giê-su: Chúa Con chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Ngài như chim bồ câu, và tiếng của Chúa Cha chứng thực Đức Giê-su là Người Con Một của Ngài. Người Ki-tô cũng sẽ lãnh nhận phép Rửa nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Địa vị làm con này sẽ được Giáo Hội công bố trên mỗi người lãnh nhận phép Rửa, họ trở thành con cái của Thiên Chúa, nghĩa tử của Chúa Cha, ở nơi Người Con Một của Ngài là Chúa Ki-tô, như lời dạy của thánh Giáo Phụ Xi-ri-lô thành Giê-ru-sa-lem: “Nếu bạn có lòng mộ đạo, Chúa Thánh Thần cũng sẽ ngự xuống trên bạn và bạn sẽ nghe tiếng Chúa Cha từ trời phán với bạn: ‘Trước đây nó đã không là con Ta, nhưng giờ đây sau phép Rửa nó được trở thành con Ta’” (St Cyril of Jerusalem, De Baptismo, 14). Phụng vụ Đông Phương không lầm lẫn khi cử hành biến cố Chúa Ki-tô chịu phép rửa như “ngày lễ Ba Ngôi”. Chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép Rửa Ki-tô giáo được ban cho, đúng như lời căn dặn của chính Chúa Giê-su: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28: 19).

  1. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”(3: 17)

Lời mặc khải của Chúa Cha từ trời gồm hai vế: “Đây là Con yêu dấu của Ta” và “Ta hài lòng về Con”.

 – Vế thứ nhất: “Đây là Con yêu dấu của Ta”, thường quy chiếu đến đứa con trai một (x. St 16; Gr 6: 26; Am 8: 10; Dcr 12: 10). Như vậy, thật rõ rằng Đức Giê-su không là một trong số những nghĩa tử của Thiên Chúa, cũng không là Trưởng Tử trong số các nghĩa tử. Đúng hơn, diễn ngữ này tuyên bố mạnh mẽ và cụ thể rằng Đức Giê-su là Con Một của Thiên Chúa được sinh ra hoàn toàn khác với những con người khác vì thiên tính của Ngài (x. Mt 7: 21; 11: 27; 17: 5; Ga 3: 35; 5: 20; 20: 17; vân vân).

– Vế thứ hai:“Ta hài lòng về Người”, được mượn từ bài ca về Người Tôi Trung của Đức Chúa (Is 42: 1). Đức Giê-su là Người Tôi Trung đã sẵn sàng đến chia sẻ thân phận khốn cùng của kẻ tội lỗi. Khi xếp hàng chờ chịu phép rửa bên dòng sông Gio-đan, Chúa Giê-su đảm nhận những yếu đuối của loài người, như thánh Mát-thêu nói sau này (8: 17: I s 53: 4). Như thế, thánh ký đã kín đáo gợi nhớ cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài (x. 27: 45-56).

Mạc khải từ trời được lập lại y nguyên trong bài tường thuật Chúa Giê-su Biến Hình (x. 17: 5). Hẳn là thánh Mát-thêu muốn tạo một tương quan thần học giữa hai biến cố. Cũng như biến cố Biến Hình báo trước việc Đức Giê-su được tôn vinh khi sống lại: sự tôn vinh này là hoa trái của sự tự hạ trong cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, thì biến cố chịu phép rửa cũng loan báo Đức Giê-su được tôn vinh: sự tôn vinh không chỉ là hoa trái của cuộc Khổ Nạn mà còn của cả cuộc đời tự hạ của Đức Giê-su, khởi đầu với sự tự hạ trong phép rửa của thánh Gioan. Tất cả những điều này xác nhận rằng câu chuyện phép rửa đúng là một cuộc Thần Hiển, như cuộc Biến Hình, chứ không phải là một thị kiến chỉ dành riêng cho một mình Đức Giê-su. Cuộc Thần Hiển này được ngỏ với các độc giả Tin Mừng, nay đã là môn đệ Đức Giê-su (bởi vì thánh Mát-thêu không nhắc tới đám đông dân chúng nào cả), cũng như cuộc Biến Hình chỉ được ngỏ với ba Tông Đồ: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan.

Về mục lục

.

PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Mt mô tả gì trong phép rửa của Chúa Giêsu: cảm xúc tôn giáo? thị kiến? kinh nghiệm về một trật tự khác? Việc Thần khí xuống “như một chim câu (c.16) và lời nói của “tiếng từ trời có ý nghĩa gì trong hậu cảnh Cựu ước và đối với hôm nay?

2. Việc Thần khí tấn phong Chúa Giêsu làm Messia và tiếng nói từ trời soi sáng thế nào lời Gioan Tẩy giả công bố về việc hối cải và Nước Trời gần bên (3,2), lời mà Chúa Giêsu lấy lại sau đó (4,17)? Làm sao cho thiên hạ nghe lời công bố ấy hôm nay? Và từ đoạn văn này, ta rút ra được điều gì giúp hiểu về phép rửa trong Giáo Hội?

3. Chúa Giêsu phủ nhận quan niệm của vị Tẩy giả về Nước Trời và về cuộc giáng lâm của Đấng Messia trên điểm nào?

4. Làm sao giải thích thái độ Chúa Giêsu đến xin chịu phép rửa?

CHÚ GIẢI

1. Việc rao giảng của Gioan Tẩy giả dẫn ta đến phép rửa của Chúa Kitô, trung tâm đích thực của các trình thuật chương 3- 4. Về phép rửa này, Tin Mừng Nhất lãm cống hiến cho ta 3 bản văn song song rất giống nhau. Thế nhưng đoạn văn của Mt lại thêm vào trình thuật một mẩu đối thoại ngắn giữa Gioan và Chúa Giêsu, một mẩu đối thoại rất có ý nghĩa xét trong nhãn giới của ông. Rồi đây chúng ta sẽ thấy nó ý nghĩa chỗ nào.

2. Khi chấp nhận liên đới với kẻ tội lỗi, Chúa Giêsu tỏ ra muốn phản đối quan niệm của vị Tẩy giả về Nước trời và về cuộc giáng lâm của Đấng Messia: thay vì xuất hiện như Thẩm phán cánh chung đến quét sạch sân lúa trong cơn Hỏa nộ, Chúa Giêsu lại tự hủy trong dòng nước Giođanô. Trình thuật Mt như thế kín đáo ám chỉ cuộc Tử nạn, qua việc đồng hóa Chúa Giêsu với người Tôi tớ Giavê (Is 42, 1. x. Mt 3,17), đấng đã gánh lấy mọi yếu hèn của ta (Is 53,4. X. Mt 8,17). Chính trình thuật Tử nạn của Chúa Giêsu (27,45-56) cũng chứa đựng nhiều yếu tố của cảnh này, như chúng ta sẽ thấy về sau khi nghiên cứu cuộc Khổ nạn.

3. Thuộc văn thể nào cái trình thuật về thị kiến khai mạc của chúng ta đây, một trình thuật xem ra không mô tả một quang cảnh thấy được bên ngoài, cũng chẳng tỏ cho biết một kinh nghiệm tâm lý hay một mặc khải bên trong của Chúa Giêsu? Trước hết, trình thuật có chủ ý thần học; nó biểu lộ mối ưu tư của các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên muốn diễn tả niềm tin của họ vào Chúa Giêsu như vào kẻ đến thỏa mãn lòng mong đợi Đấng Thiên sai, và muốn biện minh cho thái độ khó hiểu của Chúa Giêsu khi đến xin Gioan làm phép rửa. Trình thuật có những nét tương tự với các cuộc “thần hiện ” (tỏ mình của Cứu Chúa) hay với những cảnh “kêu gọi ngôn sứ”, thường thấy trong Cựu ước. Nhưng đúng hơn, nó thuộc về một văn thể khác mang tính chất khải huyền, mà ta có thể gọi là văn thể “thị kiến giải thích” (vision interprétative), thường được dùng trong các Targumim. Thật vậy, các Targumim liên hệ đến lịch sử tổ phụ Abraham, Isaac và gia cóp, đều soi sáng lạ lùng trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa của chung ta.

4. Trình thuật này có lẽ có có liên hệ với kinh nghiệm phép rửa Kitô giáo mà Mt sẽ đề cập vào cuối Tin Mừng của ông (28,19). Người chịu thanh tẩy “đi lên” khỏi nước sự chết, đón nhận Thần khí và tỏ mình ra như “Con chí ái” của Chúa Cha, trước khi được dẫn cùng với Chúa Giêsu vào hoang địa thế gian, hầu chịu thử thách cùng chu toàn phận vụ trong đó.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Bấy giờ” (c. 13), một tiếng thường gặp trong Mt, ở đây tương đương với một công thức chuyển mạch thuần túy. “Xuất hiện” cũng là động từ Mt đã dùng để đưa Gioan Tẩy giả nhập cuộc (3, 1): ông tái nhấn mạnh mối tương quan mật thiết giữa Gioan và Chúa Giêsu vậy. “Bỏ Galilê”: Mt không đề cập đến Nađarét mà ông đã nói tới ở 2,23. “Để chịu thanh tẩy”: mục đích rõ ràng của Chúa Giêsu. Mt minh bạch đặt vấn đề Chúa Giêsu chịu rửa, trước khi trả lời trong các câu kế tiếp.

Cuộc đối thoại giữa Gioan và Chúa Giêsu (cc. 14- 15), mà chỉ Mt có, phản ảnh một khuynh hướng hộ giáo. Việc Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu đã sớm gây nhiều khó khăn cho Ki-tô hữu (so sánh Lc 3, 21tt; Ga 1, 29-34; Tin Mừng người Hy bá). Các khó khăn đó như thế này:

(1) các vai trò xem ra đảo ngược, trái ngược với điều chính Gioan loan báo khi ông tự tuyên bố mình không đáng mở dây giày cho Đấng Messia tương lai;

(2) phép rửa của Gioan, có việc thú tội kèm theo (3,6) được các tội nhân đón nhận, vậy Chúa Giêsu, khi cúi mình chịu, phải chăng cũng ý thức mình là tội nhân. Cuộc đối thoại giữa Gioan và Chúa Giêsu đem lại câu trả lời cho khó khăn thứ nhất, trong lúc cuộc thần hiện tiếp theo phép rửa làm giảm khó khăn thứ hai.

Gioan (c.14) nhận thấy bổn phận chuẩn bị cho Chúa Kitô đến giờ đây chấm dứt; lúc này tới phiên ông chịu rửa “trong Thánh Thần và lửa” (c. 11) và Chúa Giêsu phải là người ban phép. Nhưng Chúa Giêsu trả lời (c.15) rằng cần phải tuân theo thánh ý Thiên Chúa. Tiếng prepon (do động từ prepoin “thích hợp”, và gán tương đương với dei: phải) diễn tả sự bắt buộc do thánh ý Thiên Chúa. Đoạn văn gần giống bản văn chúng ta là Dt 2, 10 (so sánh với Lc 7,30). ở đây có hai tiếng quan trọng, đặc biệt của thần học Mt: plêroun (làm trọn-thực hiện-hoàn thành-kết thúc) và dikaiosunê (sự công chính). Thông thường, plêloun có nghĩa là “làm trọn”, theo nghĩa chấp hành tốt lề luật chẳng hạn. Nhưng trong Mt, nghĩa của nó phong phú hơn nhiều. Nếu dự đoán được những kết luận của cuộc phân tích Mt 5,17, ta sẽ hiểu rằng việc “làm trọn ” ở đây (ó hai nghĩa ” bảo tồn và kết thúc, duy trì và kiện toàn. Sở dĩ Chúa Kitô, khi chịu phép rửa bởi Gioan, “đã làm trọn” sự công chính đó vì Người vừa cúi chịu vừa siêu hóa và bày tỏ ý nghĩa tròn đầy của phép rửa ấy; cử chỉ của Người mặc khải điều đã được chứa đựng cách bất toàn trong việc người Israel cúi mình chịu phép rửa của Gioan vậy.

Tiếng thứ hai, “hệt nghĩa công chính” (Mt rất ưa dùng, nhất là trong Diễn từ trên núi). Trong văn mạch chung của tư tưởng tôn giáo và tư tưởng xã hội hy bá (cả hai chỉ là một), tiếng này chỉ sự hoàn thành thánh ý Thiên Chúa; sự tuân thủ Lề luật Giao ước dưới mọi đòi hỏi yêu sách. Việc Mt dùng ý niệm “công chính” nằm trong truyền thống thần học của Israel: con người trở nên công chính khi, nhờ ý thức sâu sắc về sự siêu việt và thánh thiện của Thiên Chúa, họ cố gắng sống phù hợp với tôn ý Ngài. Nhưng tại sao Thiên Chúa đã quyết định là Đấng Messia của Ngài phải nhận phép rửa của Gioan và tỏ mình như kẻ có tội? Bản văn không đưa ra một lý do sáng sủa nào để giải thích ý định thần linh lạ lùng này, trừ ra lời ám chỉ mập mờ về việc hoàn thành mọi nghĩa công chính “. Nhưng toàn thể Tân ước có gợi lên hai lý do của đòi hỏi ấy.

Lý do thứ nhất, được nhiều nhà chú giải nhấn mạnh dựa vào Mt 20,28 và 26,28, có thể phát biểu như thế này: Chúa Giêsu phải xóa hết tội lỗi của “nhiều người”. Cv 8,32-35, trích Is 53,7-8, cho thấy Chúa Giêsu như là Tôi tớ Giavê chịu đau khổ vì tội dân mình, mặc dầu chính Người không vương mắc tội Phaolô còn minh định giáo thuyết ấy hơn: qua việc nhập thể, Chúa Giêsu đã mang lấy “một xác thịt giống xác thịt tội lỗi (Rm 8,3), Người đã trở nên chi thể và thủ lĩnh của một nhân loại tội lỗi. Thành ra mặc dầu chẳng phạm tội, Chúa Giêsu cũng phải cúi chịu phép rửa thống hối vì đã muốn liên đới với mọi tội nhân (2 Cr 5, 21; Dt 2, 14- 17).

Nhưng ta có thể thấy một lý do thứ hai trong phép rửa của Chúa Giêsu, hay đúng hơn là lý do đầu, song nhìn dưới một hình thức hơi khác. Lý do ấy không nhấn mạnh đến sự đồng hóa Chúa Giêsu với tội nhân cho bằng đến việc Người đồng hóa với các tội-nhân-hối-cải. Thật vậy, đối với người Do thái, lãnh nhận phép rửa của gian là một yêu sách công chính, theo nghĩa là họ phải dùng nghi thức đó mà biểu lộ sự thống hối của mình, biểu lộ lòng ước muốn trở về với Giavê và sống trung thành hơn nữa với những đòi hỏi của Giao ước. Xét về cơ bản thì sự công chính kitô giáo, như Mt hiểu, đồng nhất ý nghĩa với sự công chính của Giao ước cũ (nhưng cũng siêu hóa nó): đó là trung thành với các yêu sách của Giao ước mới, là thần phục Luật mới của Chúa Kitô chương 5-7). Như thế, khi “làm trọn hết nghĩa công chính” là Chúa Kitô lấy thái độ trung thành với Giao ước của những người Israel “công chính” làm của mình, đồng thời đưa lòng trung thành đó lên tới tuyệt đỉnh hoàn thiện. Đấy chính là ý nghĩa đặc biệt của phép rửa Chúa Kitô, một phép rửa trong đó Người trở nên liên đối với dân Người đang quay đầu trở lại. Qua phép rửa, Chúa Kitô kéo hết thảy những kẻ tin đi với mình và trong mình về tùng phục lại Chúa Cha; lòng tùng phục thảo hiếu này Người sẽ bày tỏ cách đặc biệt sáng ngời trong cuộc Tử nạn. Thành ra phép rửa của Chúa Giêsu đã là dấu chấp nhận trước cuộc Tử nạn (26,39), sự hoàn thành mọi lẽ công chính. Lời đầu tiên của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Mt tóm tắt cả cuộc đời Người vậy.

Các câu 16- 17 trình bày sự kiện một cách gọn gàng, đơn giản. Điểm được chú trọng là biến cố thần hiện, trung tâm của tất cả phần này. Mt đã nhấn mạnh rằng việc thụ thai Chúa Giêsu là công trình của Thánh Thần (1,18- 20), nay ông lại cho thấy sứ mệnh Người không có nguồn gốc nào khác hơn. Chính lúc Chúa Giêsu tỏ ra vâng lời và tự hạ, thì Người được xác nhận như là ngôn sứ và Messia, nghĩa là như Thẩm phán cánh chung (mặc dầu việc tỏ mình như Thẩm phán được hồi lại vào ngày Quang lâm). Thật thế, chính sự hạ mình như là Con được Cha sai đã làm cho người trở thành Thẩm phán cánh chung, vì chính trong sự xóa mình, sự tự hủy ấy (kénose, theo cách nói của Phaolô) mà trời đến gần đất.

“Trời mở ra”: Mt dùng cũng một động từ như Isaia đã dùng trong nhột đoạn thời danh: “ước gì Ngài xé trời Ngài xuống” (Is 63,19. Bản 70): niềm hy vọng thiên sai diễn tả qua miệng ngôn sứ bây giờ được thực hiện vậy.

“Người thấy Thần khí Thiên Chúa”; Việc Chúa Cha chấp nhận sự tùng phục của Chúa Con được biểu lộ rõ ràng qua việc Thần khí đáp xuống và nhất là qua “tiếng nói từ trời”. Như thế phép rửa có vẻ là cuộc tấn phong Chúa Giêsu làm vua và Messia, vì Thần khí Người lãnh nhận là Thần khí đã ngập tràn các ngôn sứ và vua chúa để ban cho họ khả năng thi hành nhiệm vụ; nhưng hơn hẳn các nhân vật quá khứ, Người lãnh nhận Thần khí một cách dư đầy. Chính Isaia đã từng tiên báo như thế về Đấng Messia: “Sẽ đậu trên Người Thần khí Giavê, Thần khí khôn ngoan và trí tuệ, Thần khí mưu lược và anh dũng, Thần khí hiểu biết và kính sợ Giavê”(Is 11, 2). Ngôn sứ Gioel cũng đã tiên báo: thời Đấng Messia tới sẽ được đánh dấu bằng việc tuôn tràn Thần khí cho mọi người (3, 1- 2), việc tuôn tràn này bắt đầu từ sông Giođanô nhưng sẽ đạt đến mức độ viên mãn trong ngày Hiện xuống.

“Người thấy Thần khí Thiên Chúa đáp xuống như chim câu ”: Trong Do thái giáo, chim câu không hề được coi là hình ảnh của Thần khí, thế nhưng một vài bản văn các giáo sĩ có so sánh chuyển động của Thần khí Thiên Chúa với cử chỉ của một con bồ câu “bay chập chững trên bầy con mà không đụng tới chúng”; Thần khí cũng “bay là đà ” trên nước nguyên thủy như vậy (St 12). Trọng tâm so sánh nằm ở chỗ nhấn mạnh tới thần tính của Thần khí (Thần khí chẳng phải là một mãnh lực mưu xuất từ thiên nhiên hay con người, song là một hữu thể siêu việt), lẫn tính cách dịu dàng, gần gũi của hoạt động Ngài. Bản văn Mt, như Mc, không gợi lên hình dáng (Lc) cho bằng cách thức mà Thần khí đột hiện và tác động trên Chúa Giêsu. Trạng từ ngữ “hơi như (hôsei) chim câu” bổ nghĩa cho động từ “xuống” chứ không cho danh từ “thần khí”.

“Người này là Con Ta”: Tiếng phán ra là tiếng Chúa Cha; tiếng ấy lấy lại lời khẳng quyết của Tv 2,7: “Con là con Ta, hôm nay Ta đã sinh con “; nó cũng lấy lại lời Giavê ngỏ cùng người Tôi tớ đau khổ sẽ thể hiện ơn cứu độ cho thân thuộc mình: “Này đây Tôi tớ của Ta mà Ta nâng đỡ Tuyển nhân của Ta mà Ta sủng mộ. Ta đã ban Thần khí Ta trên Người …” (Is 42, 1). Cũng có thể đối chiếu lời công bố của Thiên Chúa với nhiều bản văn Cựu ước trong đó Giavê gọi Israel là “con” Ngài (Xh 4, 22; Hs 11, 1 v.v…) và một lần nữa kết luận rằng Mt muốn cho thấy Chúa Giêsu là Israel mới. Trình thuật Cám dỗ (4, 1 – 11) sẽ củng cố hơn nữa việc song đối này.

Công thức “Người này là Con chí ái Ta, kẻ Ta sủng mộ” được lấy lại từng chữ trong trình thuật Biến hình (17,5). Chắc hẳn Mt muốn thiết lập một sự tương đồng có tính cách thần học giữa hai biến cố. Thật vậy, cũng như cuộc biến hình là thể hiện trước việc tôn vinh Chúa Kitô khi Người sống lại tôn vinh là kết quả của tự hạ trong Khổ nạn), thì sự phê chuẩn của Chúa Cha và việc đổ đầy Thần khí cũng loan báo, theo cách thức riêng, việc tôn vinh Chúa ki tô (tôn vinh sẽ là kết quả không những của cuộc Tử nạn mà còn của cả đời sống tự hạ, bắt đầu từ việc hạ mình ngày chịu phép rửa). Hết thảy những điều này xác nhận rằng cảnh phép rửa thật là một cuộc thần hiện, y như cuộc biến hình, hơn là một thị kiến của riêng Chúa Giêsu. Cuộc thần hiện này nhắm tới các độc giả Tin Mừng đã trở thành môn đồ Chúa Giêsu (vì Mt không đề cập tới đám đông nào hết), y như cuộc Biến hình chỉ dành riêng cho 3 môn đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thôi vậy.

KẾT LUẬN

Cơ cấu văn chương và thần học của tất cả phần này (ch.3- 4) chỉ cho thấy nên tìm giáo huấn chủ yếu của các chương ở ngay trung lâm của chúng là 3,16-17. I’hần khí Thiên Chúa xuống trên Chúa Giêsu và thánh hiến Người, không những như Ngôn sứ-tôi tớ, mà còn như kẻ hiện thân cho Nước Trời, vì Người là Đấng Messia thiên hạ đợi trông. Trong Chúa Giêsu, trời xem ra nối liền với đất, vì trong Người “Nước Trời đã gần bên” (3,2). Từ nay mọi cái đều hội tụ về Chúa Giêsu, và mỗi người đều được kêu mời nghe tiếng phán từ trời, tiếng ban ý nghĩa cho những gì xảy ra; từ nay Chúa giàu có bổn phận làm cho cuộc sống, ngôn ngữ, cử chỉ Người trở nên tiếng nói Chúa Cha ngỏ với nhân loại.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Phép rửa của Chúa Giêsu cho ta thấy Người muốn sống đời mình theo viễn tượng nào, muốn được sinh động bởi não trạng nào, muốn hành động theo phương cách nào. Người đứng về phía các tội nhân mà Người đến tha thứ và cứu vớt. Người mong biến đổi nhân loại, nhưng là từ bên trong, bằng cách chia sẻ thân phận nghèo hèn và khốn khổ của họ, hơn là từ bên ngoài, bằng xét xử phán đoán. Người từ chối thống trị, chinh phục với vũ lực, bắt buộc người ta phải thừa nhận Người. Từ đầu sứ vụ Người cho thấy chỉ muốn cứu nhân loại bằng cách tự hủy mình cho đến chết trên Thập giá. Kitô hữu nào dự định thực hiện cuộc giải phóng con người cũng phải chấp nhận các phương pháp như trên.

2. Lúc Chúa Giêsu chìm dưới dòng nước sông Giođanô, nghĩa là trong vũ trụ của các tội nhân, dưới tận đáy khiêm nhượng, thì Chúa Cha đến gặp Người và đặt Người làm “Kitô và Chúa” (Cv 2, 33): ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.

3. Chúa Giêsu muốn liên đới với con người trong nỗi khốn cùng và sự yếu hèn của họ. Người muốn đợi chúng ta chính nơi đó. Vì thế đừng luống công làm ra vẻ quan trọng, tự đắc, cho mình xứng đáng với tình yêu của Người. Chính trong đáy vực sâu tội lỗi mà Người gặp gỡ và phục hồi ta.

4. Ai chịu thanh tẩy là đi vào đời sống nghĩa tử với Chúa Giêsu: người ấy được làm con cái Thiên Chúa theo cách riêng của mình và cũng nhận được Thần khí Chúa Cha và Chúa Con.

Về mục lục

.

NÀY LÀ CON TA YÊU DẤU

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

          Các bài đọc Thánh lễ hôm nay cho chúng ta biết : Đức Giêsu Kitô được tiên tri Isaia gọi là Người Tôi Tớ, đã đến chịu phép rửa ở sông Giorđan và được Thiên Chúa tấn phong và nhận làm  Con Yêu Dấu của Ngài. Người Tôi Tớ này có sứ mạng đem Tin mừng cho tất cả mọi người, cho mọi dân tộc trên thế giới.

          Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế hòan tòan vô tì tích, thế mà lại đến xin Gioan làm phép rửa cho, tự coi mình như một tội nhân. Việc làm của Ngài nhắc nhở cho chúng ta phải ý thức về tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối. Nước sông Giorđan không thánh hóa được Ngài, nhưng ngược lại, Ngài thánh hóa nuớc sống ấy, và từ đó lập nên bí tích rửa tội để tha tội cho chúng ta và làm cho chúng trở nên con Thiên Chúa.

          Sách có chữ rằng :”Thùy năng xuất tất do hộ” : ai ra vào cũng đều phải qua cửa. Giáo hội là một tòa nhà tạm trú để đợi ngày về trời, nghĩa là trước ngày về trời, ai nấy phải qua cửa Giáo hội. Cửa ấy Đức Giêsu đã mở cho chúng ta thấy khi Ngài chịu phép rửa mà Giáo hội kính lễ hôm nay. Chính Đức Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô :”Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí”(Ga 3,5). Vì vậy, mọi người phải được rửa tội để được vào Nước Trời. Bí tích rửa tội sẽ xóa bỏ tội tổ tông và tội riêng, ban ơn thánh hóa và làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và được thừa hưởng Nước Trời.

          Trong phép rửa của Gioan, Đức Giêsu đã được Chúa Cha tuyên phong và nhận làm Con Yêu Dấu của Ngài. Cũng thế, qua bí tích rửa tội, chúng ta sẽ được nhận làm con Thiên Chúa và là thành viên của Hội thánh. Đây là một vinh dự quá lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người phàm hèn của chúng ta. Để đáp lại lòng thương yêu vô biên của Chúa, chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo đối với Chúa bằng cách tỏ lòng tri ân, yêu mến, làm sáng danh Chúa, sống khiêm tốn và phục vụ để làm vẻ vang cho Cha chúng ta ở trên trời.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          + Bài đọc 1 : Is 42,1-4.6-7.

          Tiên tri Isaia là một tiên tri vĩ đại trong Cựu ước đã được Thiên Chúa hé mở cho biết về người Tôi Tớ mà ông đã mô tả trong bài thơ. Hôm nay phụng vụ trích đọc một đọan nằm trong bài thơ thứ nhất, có mấy ý như sau :

          – Người tôi tớ này được Thiên Chúa tuyển chọn, qúi mến và hài lòng.

          – Người tôi tớ này rất hiền từ dịu dàng, âm thầm  lặng lẽ nhưng rất mạnh mẽ bảo vệ và làm sáng tỏ chân lý.

          – Người tôi tớ này có sứ mạng soi sáng cho muôn nước, làm việc bác ái và giải thóat những người còn ở trong chốn tối tăm.

          + Bài đọc 2 : Cv 10,34-38.

          Thánh Phêrô cho biết : Thiên Chúa không thiên vị ai, hễ ai kính sợ Chúa và ăn ở ngay lành thì được Thiên Chúa chấp nhận, khắc hẳn với tư tưởng hẹp hòi của người Do thái, họ tưởng rằng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho dân tộc họ.

          Thánh Phêrô cho biết thêm : Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa bởi ông Gioan ở sông Giorđan và sau khi đã được xức dầu tấn phong, sẽ đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, thi ân giáng phúc cho họ bởi vì Thiên Chúa vẫn ở với Người.

          + Bài Tin mừng : Mt 3,13-17.

          Đức Giêsu mà tiên tri gọi là Tôi Tớ đã đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình ở sông Giorđan. Ông Gioan đã can gián Đức Giêsu vì Ngài không có tội gì, không cần rửa tội, chính mình mới cần chịu phép rửa. Nhưng Đức Giêsu xin Gioan rửa cho mình lấy lý do rằng : phải làm như vậy thì mới phù hợp với thánh ý Chúa.  Lúc đó, Gioan mới chịu chiều theo ý Ngài.

          Gioan đã dìm Đức Giêsu xuống nước và khi kéo Ngài ra khỏi nước thì trời mở ra và thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống trên Người dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán :”Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Hôm nay Thiên Chúa Cha đã tấn phong và công khai công nhận Đức Giêsu là Con của Ngài.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. VIỆC ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA.

  1. Nghi thức thanh tẩy nơi nhiều dân tộc.

          Sau một thời gian sống chay tịnh khắc khổ trong hoang địa để chuẩn bị cho sứ mạng tiền hô của mình, ông Gioan đã đi rao giảng phép rửa sám hối để dọn lòng chờ đón Đấng Cứu thế. Có nhiều người đến thú tội  và chịu phép rửa do tay ông Gioan tại sông Giorđan.

          Thực ra, bất cứ một dân tộc nào, tuy không theo tôn giáo nào,  cũng có cảm thức sâu xa về thân phận tội lụy của mình và muốn thần linh tha thứ bằng một hình thức nào đó. Ví dụ ở Aán độ, những người theo Aán giáo đến trầm mình trong nước sống Hằng để được thần linh tha thứ. Ở Ai cập, người ta đến tắm gội trong dòng sông Nil để được thần linh thông cảm và tha thứ. Nơi nhiều dân tộc cổ sơ cũng có những kiểu tắm gội  dìm mình tương tự hay được rảy nước trên mình.  Đối với người Do thái, ngay từ thời Cựu ước, đã có những nghi thức thanh tẩy, nhưng ít chú trọng về phương diện luân lý. Sau này, nhất là gần thời Đức Giêsu, họ cũng tin những nghi thức thanh tẩy đó tượng trưng cho sự trong sạch tâm hồn, mặc dầu nó không phát sinh ra điều đó.

  1. Nghi thức thanh tẩy của Gioan.

          Gioan Tẩy giảû cũng làm phép rửa cho dân chúng tại sông Giorđan. Ông dìm họ xuống nước rồi kéo họ lên. Hình thức này khác với hình thức của các dân ngọai, họ tự dìm mình xuống nước, còn trong phép rửa của Gioan thì phải có người khác rửa cho. Và còn một điều khác quan trọng hơn, theo Tin mừng cho biết : họ phải có một thái độ nội tâm cũng như bên ngòai, như phải tin vào sứ điệp của Gioan, phải trở lại thực lòng, nghĩa là phải quay về với Thiên Chúa.

          Tuy nhiên, phép rửa của Gioan chỉ có tính cách tượng trưng, tự nó không có sức xóa bỏ được tội lỗi mà chỉ là nghi thức  nhắc nhở cho mọi người phải ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Chính thánh Gioan đã khẳng định điều đó :”Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước để anh em được sám hối. Nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, Ngài quyền phép hơn tôi, chính Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và bằng lửa”(Mt 3,11).

  1. Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu.

          Đức Giêsu từ Galilê đến sống Giordan tìm gặp Gioan Tẩy giả để xin ông làm phép rửa cho. Đức Giêsu đã đích thân và tự nguyện xin Gioan làm phép rửa cho, đó là một việc làm và một thái độ khiêm nhường thẳm sâu. Phép rửa của Gioan là phép rửa thống hối mà Đức Giêsu lại chịu phép rửa thống hối. Việc Đức Giêsu chịu phép rửa là một điều khó hiểu. Phép rửa của Gioan là để kêu gọi người ta ăn năn sám hối và mở đường đến sự tha tội. Nhưng nếu Đức Giêsu mà chúng ta tin là Đấng Cứu Thế, thì Ngài không đứng ở cương vị cần phải ăn năn và cũng không cần đến sự tha tội. Phép rửa của Gioan là để tội nhân  nhận thức tội lỗi mình phạm, nên không thể áp dụng cho Đức Giêsu được.

          Thực ra, đây là cơ hội thuận tiện để Ngài tự đồng hóa mình với những người Ngài đến cứu, đúng lúc họ nhận thức được tội lỗi của mình và tìm kiếm Thiên Chúa. Khi chịu phép rửa của Gioan, Đức Giêsu đã bằng lòng nhận số phận của Ngài liên hiệp với dân Ngài và với nhân lọai, Ngài mang lấy tội lỗi của họ : khi chịu phép rửa Ngài xua đuổi tội lỗi ấy, đồng thời Ngài dâng mình cho Thiên Chúa của Ngài.

          Khi Đức Giêsu bước ra khỏi nước thì Thánh Thần hiện xuống trên Ngài với hình con bồ câu và có tiếng phán ra từ trời :”Con là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”. Tiếng nói mà Đức Giêsu nghe sau khi chịu phép rửa vô cùng quan trọng. Câu này bao hàm hai lời trích dẫn :

          -“Này là Con Ta yêu dấu”  được trích trong Thánh vịnh 2,7. Mọi người đều hiểu thánh vịnh này mô tả Đấng Cứu Thế, Vua quyền năng của Thiên Chúa, Đấng sẽ đến.

          -“Con đẹp lòng Ta” trích ra từ Isaia 42,1 mô tả về người Đầy Tớ Đau Khổ mà cao điểm là Isaia 53. Tại đây, đấng tiên tri nói về một đầy tớ lý tưởng của Thiên Chúa, hòan tòan theo ý muốn của Ngài, đang theo con đường vâng lời và phục vụ.

          Như vậy, Đức Giêsu được tuyên xưng là Con yêu dấu của Thiên Chúa, là Đấng mà nơi Ngài lời tiên tri này được ứng nghiệm hòan tòan. Và trong phép rửa của Đức Giêsu có hai điều được xác quyết :

          – Một là Ngài là Đấng lựa chọn của Thiên Chúa.

          – Hai là con đường trước mặt Ngài phải đi là con đường thập tự.

II. HIỆU QUẢ CỦA PHÉP RỬA.

  1. Bí tích rửa tội của chúng ta.

          Phép rửa của Gioan bằng nước chỉ là nghi thức tượng trưng nhằm thúc đẩy và diễn tả tâm tình thống hối. Còn phép rửa của Đức Giêsu được Gioan mô tả là bằng lửa và trong Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Đức Giêsu là một bí tích tuôn tràn Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngòai, còn thực sự ta được rửa bằng lửa. Lửa ở đây ám chỉ sức mạnh của Chúa Thánh Thần biến đổi con người tội lỗi nên con Thiên Chúa, và đáng được hưởng gia nghiệp vĩnh cửu Nước Trời. Vì thế, phép rửa tội của chúng ta có mục đích xóa tội tổ tông và các tội riêng, ban ân sủng siêu nhiên, đời sống ơn thánh, làm cho ta trở nên con Thiên Chúa, làm công dân Nước Trời và thành viên của Hội thánh.

          Mỗi người chịu phép rửa tội, theo thánh Phaolô, được gọi là Kitô hữu. Kitô hữu là người được xức dầu và được tham dự vào ba chức năng của Chúa Kitô là tư tế, tiên tri và vương giả. Kitô hữu được gọi là người mang danh Chúa Kitô và được thuộc về Ngài. Kitô hữu là một danh hiệu thật cao quí.

  1. Mỗi người phải sinh lại.

          Ông Nicôđêmô đã được gặp Đức Giêsu vào ban đêm, trong câu chuyện trao đổi, Ngài đã nói với ông :”Thật, tôi bảo thật ông : không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”(Ga 3,3). Ngài còn nói rõ thêm :”Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần”(Ga 3,5).

          Thực vậy, bí tích rửa tội mang lại cho chúng ta một hiệu quả vô cùng cao quí, đó là sự tái sinh. Mỗi Kitô hữu là một người đã được tái sinh, nghĩa là chúng ta đã sinh ra lần thứ nhất với sự sống tự nhiên do cha mẹ, lần thứ hai với sự sống siêu nhiên do bí tích rửa tội. Nói rõ hơn, mỗi người chúng ta sinh ra hai lần : lần thứ nhất do cha mẹ, các ngài đã truyền cho chúng ta sự sống tự nhiên. Lần thứ hai do Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội, Ngài ban cho chúng ta sự sống siêu nhiên.

          Thánh Phaolô viết cho một nhóm Kitô hữu mới chịu phép rửa tội như sau :”Khi chịu phép rửa, anh chị em đã được mai táng cùng với Đức Giêsu trong phép rửa, và anh chị em cũng sẽ được sống lại cùng với Chúa Kitô… Trước kia anh chị em đã chết về mặt thiêng liêng vì tội lỗi của anh chị em… Nhưng giờ đây, Thiên Chúa đã đưa anh chị em đến nguồn sống cùng với Chúa Kitô”(Cl 2,12-13).

          Ngày 01.06.1930 dịp lễ giáp năm ngày chịu phép rửa tội, Đức Giáo hòang Piô XI đã sung sướng nói với 1500 thanh niên ở Rôma :”Ngày Cha chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời Cha, cũng như ngày các con  chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời chúng con”. Chúng ta hãy nhớ : ngày chúng ta chịu phép rửa tội là ngày chúng ta tái sinh trở nên con Chúa, ngày đáng ghi nhớ của chúng ta.

  1. Sinh lại để làm con Chúa.

          Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Không phải chỉ là có danh, nhưng thực sự như thế, chúng ta là con Thiên Chúa và Thiên Chúa là Cha chúng ta, một người Cha yêu thương chúng ta vô cùng. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu đã dạy các Tông đồ cầu nguyện và mở đầu bằng câu :”Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Như thế, Đức Giêsu tiết lộ cho chúng ta  biết chúng ta được làm con một Cha trên trời.

          Tìm về nguồn gốc, ngày xưa Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người đầu tiên là Adong và Evà. Thiên Chúa đã cho họ gọi Ngài là Cha. Nhưng vì phạm tội ăn trái cấm không vâng phục Ngài nên bị phạt mất quyền làm con, không được gọi Thiên Chúa là Cha nữa, mà phải sống dưới quyền lực của ma qủi và tội lỗi. Nhưng vì thương yêu nhân lọai, Thiên Chúa sai Con Một xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ, để lấy lại quyền làm con mà nhân lọai đã bị đánh mất. Nhờ bí tích Rửa tội mà Đức Giêsu đã trả lại cho chúng ta  quyền được làm con Thiên Chúa để có thể gọi Thiên Chúa là Cha :”Abba, cha ơi”!

          Trên đời không ai có thể thiếâu được người cha vì cha là yếu tố cần thiết cho người con để cho người con có chỗ nương tựa vì :

                             Con có cha như nhà có nóc,

                             Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.

          Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta không thể thiếu được Thiên Chúa là Cha. Ngài đã dựng nên chúng ta lại còn nuôi dưỡng bằng ân sủng của Ngài. Chúng ta hãy vui sướng và hãnh diện có Thiên Chúa là Cha, chúng ta sẽ không phải là đứa con mồ côi. Còn gì quí bằng danh hiệu được làm con Thiên Chúa mà đã là con thì được gọi là Cha : Lạy Cha chúng con ở trên trời.

          Một khi đã được gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta phải tin cậy phó thác vào Ngài. Ngài phải chiếm chỗ cao nhất trong đời chúng ta và chúng ta phải qui hướng mọi sự vào Ngài, coi Ngài như trung tâm điểm của đời sống. Ngài phải là “Number One”.  Ngài là Number one, còn chúng ta là Zéro, là số không. Nếu chúng ta để số 1 đứng trươc số không (0) thì số không ấy có ý nghĩa, càng nhiều số không thì số ấy càng to, ví dụ 1.000.000. Nếu để số 1 đàng sau số không thì con số càng nhỏ, càng nhiều số không thì càng nhỏ, ví dụ : 000.000.1. Cho nên, Thiên Chúa phải chiếm chỗ cao nhất trrong đời ta. Ngài phải là “Number One” trong đời ta.

III. BỔN PHẬN NGƯỜI CHỊU PHÉP RỬA TỘI.

  1. Cảm tạ hồng ân Thiên Chúa.

          Trong thánh vịnh 50 tác giả đã nói :”Mẹ con đã hòai thai trong tội”, khi sinh ra chúng ta vẫn là tội nhân, làm nô lệ cho tội lỗi và ma quỉ. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương lòai người, xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ. Đức Giêsu lại còn cứu chuộc chúng ta  một lần nữa qua bí tích rửa tội và làm cho chúng ta trở thành con Thiên Chúa. Đây là một vinh dự vô cùng lớn lao vì “Con vua thì lại làm vua”.

          Tước vị làm con Thiên Chúa thật là lớn lao. Tuy tước vị này, nhất là linh hồn chúng ta, bị che phủ bằng một thân xác phàm hèn, không ai xem thấy, không ai biết giá trị của nó, nhưng tự bản chất nó thực là cao quí. Trường hợp này giống như ở Miến điện, có nhiều bức tượng bằng vàng ròng, vì sợ bị ngọai xâm cướp mất, có vị sư đã lấy một lớp đất sét trét lên các bức tượng ấy để giấu đi cái cốt lõi thật của các bức tượng… nhưng dưới cái lớp vỏ đất sét ấy là cả một khối vàng ròng quí giá.

          Hồng ân của bí tích rửa tội  cũng thật lớn lao và cao quí. Có thể qúi như những viên ngọc trai mà nhiều người chưa biết giá trị của nó. Đúng là “vật khinh nhưng hình trọng”.

   Truyện : Hạt ngọc trai.

          Ngày 19. 03.1627, Cha Đắc Lộ đến Cửa Bạng Thanh hóa. Lời đầu tiên ngài nói với cha ông chúng ta :”Hiện giờ tầu của chúng tôi có chở một thứ hạt trai tuyệt đẹp và quí giá, ai mua thì cả đời được giầu có hạnh phúc muôn thuở. Không nên sợ giá cao, vì chẳng ai nghèo đến nỗi không đủ tiền mua hạt trai ấy”. Tổ tiên chúng ta khấp khởi vui mừng, xin ngài ít là cho xem đôi ba hạt. Ngài trả ời :”Hạt ấy mắt xác thịt không thể xem thấy được, chỉ có trí khôn hiểu được mà thôi. Hạt trai ấy chính là lề luật Thiên Chúa, một cái gì qúi trọng hơn trân châu và hàng hóa Aán độ. Chúng tôi sẵn sàng giảng dạy luật đó cho anh chị em, nên không ngần ngại vượt biển băng ngàn đến đây” (Lm Hồng Phúc, Suy nịem Lời Chua, năm A, tr 22-23).

  1. Hiếu thảo với Cha trên trời.

          Người Á đông đề cao chữ “HIẾU”, nhất là trong luân lý đạo Khổng. Đời sống con người phải lấy chữ hiếu làm đầu mà bất hiếu là một tội nặng nhất trong các tội. Người ta đã nâng chữ hiếu lên thành “ĐẠO’ nên mới có “HIẾU ĐẠO”. Phận làm con cũng được nâng lên thành đạo nên mới có “ĐẠO CON”. Như vậy, muốn trọn đạo làm con thì phải chu tòan “đạo hiếu”. Tư tưởng này được đúc kết thành câu ca dao để nhắc nhở cho mọi người phải thi hành :

                                      Công cha như núi Thái sơn,

                             Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

                                      Một lòng thờ mẹ kính cha,

                             Cho tròn chữ hiếu mới là “đạo con”.

          Trong phép rửa của Gioan, Đức Giêu được gọi là “Con yêu dấu của Thiên Chúa”.  Vậy thế nào là một người “con yêu dấu” ? Thưa đó là :

          – biết ý của cha mình : Đức Giêsu luôn cầu nguyện để biết ý của Chúa Cha.

          – và luôn theo ý cha mình : Đức Giêsu nói :”Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha T          Cũng thế, nếu chúng ta muốn trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa thì chúng ta hãy bắt chước Đức Giêsu : luôn cầu nguyện, khi đã thấy được ý Chúa thì sẵn sàng bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.

          Ngòai ra, chúng ta đã có Chúa là Cha, chúng ta cũng phải làm tròn “đạo hiếu” đối với Ngài để trọn đạo làm con của chúng ta. Tỏ lòng hiếu đối với Ngài, trước tiên là hãy yêu mến Ngài trên hết và trước hết như Chúa dạy :”Hãy yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa ngươi hết linh hôn hết trí khôn…”(x. Mt 22,37; Mc 12,30; Lc 10,27).

          Nhưng yêu mến Ngài thì phải thực hiện bằng những việc cụ thể bên ngòai vì thánh Giacôbê nói :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Nếu không thì người ta sẽ chê cười :

                   Thương miệng thương môi, thương miếng xôi miếng thịt.

          Chúa bảo chúng ta là ánh sáng thế gian. Nếu là ánh sáng mà không chiếu sáng thì không còn là ánh sáng nữa mà là bóng tối. Nhiệm vụ của chúng ta là phải soi sáng cho người khác bằng những việc làm cụ thể như Chúa nói :”Aùnh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,16).  Cuộc sống của chúng ta phải làm vinh Cha chúng ta ở trên trời khi chúng ta nguyện :”Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến…”

          Cuộc sống của chúng ta phải biểu lộ cho người khác biết chúng ta là con Thiên Chúa. Đã là con thì phải sống thế nào để người ta phải nói :”Cha nào con ấy”(Qualis pater, talis filius). Chúng ta hãy bắt chước Boleslas, vua nước Ba lan, luôn đeo ở ngực mẫu ảnh vua cha, và khi toan làm một việc gì quan trọng, vua nhìn vào mẫu ảnh đó và nói :”Con sẽ chẳng hề làm gì bất xứng người con thảo của cha”.

          Hôm nay Đức Giêsu cũng khuyên nhủ chúng ta là những Klitô hữu, những người được mang tên Ngài, những người được thuộc về Ngài, hãy sống xứng đáng với danh hiệu cao qúi ấy giống như hòang tử của vua Ménedem, mỗi khi được bạn bè mời đi chơi, thì đến xin phép vua cha, vua ban phép lành và chỉ dặn có một điều là :”Dầu ở đâu, hãy nhớ mình là con vua”.

  1. Biết khiêm tốn và phục vụ.

          Đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy cả Gioan tẩy giả và dân chúng Do thái đều không hiểu nổi Đấng Messia lại là một Người Tôi Tớ khiêm tốn hiến thân phục vụ nhân lọai cho đến chết. Hai ngàn năm đã trôi qua, thế mà ngày nay chúng ta cũng vẫn thế. Chúng ta giới thiệu Đức Giêsu cho người ta như một Đấng quyền phép hay một quan tòa xét xử. Chúng ta bỏ sót một phương diện rất quan trọng của Ngài : Ngài trước hết là một Người Tôi Tớ hiến thân phục vụ . Đạo của Đức Giêsu là một đạo hiến thân phục vụ, người môn đệ của Đức Giêsu cũng pải là người hiến thân phục vụ như thế.

          Cả hai vai chính trong chuyện này đều khiêm tốn : Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Đức Giêsu; còn Đức Giêsu khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình. Người klhiêm tốn là người chỉ nhĩ đến việc chu tòan nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.

                                       Truyện : Hòang đế cầy ruộng.

          Tại một thành phố bên Tiệp khắc, giữa những di tích cổ người ta thấy có một chiếc cầy từ thế kỷ 18. Người ta truyền tụng câu truyện như sau : Một hôm, hòang đế Joseph II cùng đòan tùy tùng  đến viếng thăm một ngôi làng trong vùng. Đi qua một cánh đồng, Hòang đế thấy một nông dân  đang ngồi nghỉ mệt bên một gốc cây. Ông đến trò truyện với người nông dân và xin được cầy thử một luống.

          Người nông dân rất đỗi ngạc nhiên vì có một người sang trọng  lại xin tra tay vào cầy, và ông ta phá lên cười khi thấy những luống cầy vụng về. Với tất cả thành thực, người nông dân lắc đầu và nói :”Xin lỗi ông, hạng người như ông thì làm sao có thể  tra tay vào cầy  để kiếm sống được”. Nghe thế, một người trong đòan tùy tùng mới nói nhỏ cho người nông dân biết người đang cầm chiếc cầy của ông  chính là Hòang đế. Lập tức, người nông dân như muốn độn thổ, ông không thể tưởng tượng được một vị Hòang đế lại có thể tra tay vào cầy của ông.

          Thánh Phaolo dâng lời ca tụng :”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).

          Đức Giêsu đã tự coi mình như “Con người đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người”. Ngài muốn tham dự vào cuộc sống của con người, muốn nói rằng Con Thiên Chúa đã thực sự đến trần gian và đã hạ mình xuống lãnh nhận phép rửa từ một người. Những thái độ khiêm tốn của vị Hòang đế trần gian và Hòang đế Nước Trời đã làm dân chúng cảm phục và ngưỡng mộ khi họ nhận ra đó là một người có uy quyền trong một nước và một Vua cao trọng hơn hết các vua chúa trần gian này.

          Người ta nói :”Thượng hành hạ hiệu” : người trên làm kẻ duới theo. Chúa Giêu đã làm gương trước, một tấm gương sán lạn đáng mọi người chúng ta bắt chước để chúng ta sống xứng đáng với danh hiệu là con cái Cha trên trời.

Về mục lục

.

THIÊN TÍNH

Lm Vũđình Tường

Đức Kitô, Đấng vô tội, không cần nhận phép rửa, thế nhưng Ngài đến xin Gioan làm phép rửa cho. Điều này gây thắc mắc, không phải chỉ chúng ta mà thôi, mà ngay cả Gioan cũng ngạc nhiên, tự hỏi tại sao Đức Kitô làm như thế. Vì thế Gioan lên tiếng: ‘Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi’ Mat 3,14. Đức Kitô không giải thích, đáp lại ông: ‘Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính’. c.15.

Đức Kitô chịu phép rửa chắc chắn không phải do thống hối, ăn năn hay được sạch tội, mà chính là công nhận việc Gioan đang làm và điều ngài rao giảng. Đức Kitô xác nhận việc đó bằng nhiều cách khác nhau.

Thứ nhất, Đức Kitô xác nhận cho mọi người biết phép rửa của Gioan đến từ Thiên Chúa, và công việc rao giảng của ông chính là chuẩn bị lòng người sẵn sàng đón nhận Đấng Cứu Thế. Gioan công bố rõ ràng ông không phải là Đấng Cứu Thế mà chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, dọn đường cho Đấng Cứu Thế (Gn 1,23). Gioan đến làm chứng cho sự sáng, và phép rửa của Gioan là dấu chỉ của một tâm hồn thống hối, ăn năn, thể hiện ra bên ngoài bằng cách đến xin Ngài làm phép rửa. Gioan cũng xác nhận Ngài rửa bằng nước nhưng Đấng đến sau Ngài quyền phép hơn gấp bội, và phép rửa Ngài ban trong Thánh Thần và lửa Lc 13,15-17. Khi thấy Đấng Cứu Thế đi về phía mình, Gioan nói với các môn đệ ông: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian. Người là Đấng tôi đã nói tới’. Gn 1,30.

Thứ hai, Khi Đức Kitô chịu phép rửa từ Gioan, có tiếng phát ra từ trên cao phán dậy: ‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người’ Mat 3,17.

Thứ ba, sau khi Đức Kitô lên trên bờ có ba sự kiện quan trọng xảy ra. Thứ nhất tầng trời mở ra; thứ hai, có tiếng phán từ trời cao và thứ ba, có Thánh Thần Chúa, dưới hình chim bồ câu, đến ngự trên Đức Kitô. Điều này mặc khải một Thiên Chúa, Đấng có có ba ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mặc khải này còn xác nhận Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa.

Thứ tư, trở lại câu đáp về công chính của Đức Kitô cho Gioan. Hành động công chính là hành động ngay thẳng, công bằng hợp giáo huấn của Thiên Chúa. Đức Kitô chịu phép rửa là công khai tuyên bố Ngài đến không phải làm theo í riêng mà tự nguyện, vâng lời, thực hiện trọn vẹn í Thiên Chúa. Nhiều lần và bằng nhiều cách khác nhau, trong cuộc đời rao giảng, Ngài xác định, Ngài đến làm theo í Chúa Cha. Í của Thiên Chúa Cha là sai Chúa Con đến tha tội và cứu độ nhân loại.

Thứ năm, Đức Kitô luôn tiến xa hơn Gioan một bước. Gioan nhận mình là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Đức Kitô không những chỉ dọn đường mà Ngài còn tuyên bố chính Ngài là Đường, là sự thật và là sự sống. Ngài là Đấng lãnh đạo quyền uy nhưng rất nhẹ nhàng, đầy yêu thương và hay tha thứ. Là Đấng lãnh đạo, không như lãnh tụ trần gian, họ luôn đi sau, để người khác hy sinh, bảo vệ cho họ an toàn. Đức Kitô không theo đường lối trần gian đó. Ngài luôn khởi đầu công việc và luôn dẫn đường, đi trước, và ngay cả hy sinh mạng sống, bảo vệ, mang lại an toàn cho các môn đệ.

Phép rửa ngày nay chúng ta lãnh nhận mang hai dấu chỉ: dấu chỉ hữu hình và cảm nghiệm vô hình. Dấu chỉ hữu hình là nước và dầu thánh. Cảm nghiệm vô hình mà có lần Gioan nhắc đến, đó chính là ấn tín không gì xoá nhoà, ơn Chúa Thánh Thần xuống trong tâm hồn người lãnh nhận bí tích, món quà trọn đời do Đức Kitô ban tặng. Theo nghĩa đó thì phép rửa ngày nay chính là kết hợp phép rửa Gioan ban (rửa trong nước) và phép rửa Đức Kitô trao ban (rửa trong Thánh Thần và lửa). Phép rửa có sức nhiệm mầu tháp, cấy cuộc sống của Kitô hữu vào trong thân thể của Đức Kitô Phục Sinh, qua tình yêu và sự sống lại của Ngài.

Về mục lục

.

MỞ ĐẦU SỨ VỤ XÂY DỰNG NƯỚC TRỜI

  Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Đối với những người làm ăn kinh doanh, ngày xây dựng hoặc khai trương công ty hay cửa hàng được coi là một sự kiện rất quan trọng, vì họ tin rằng, bầu khí ngày khai trương sẽ ảnh hưởng đến công việc sau này. Vì thế nhiều công ty, cửa hàng khai trương rất rầm rộ với cờ hoa, ăn uống, ca hát, quảng cáo, tiếp thị và những bài phát biểu long trọng và chi phí cho việc quảng cáo tiếp thị này cũng là một khoản chi khá lớn.
Nếu đánh giá theo cái nhìn ngày nay, có thể nói, ngày xưa Thiên Chúa đã quá kém trong khâu maketing, tiếp thị, vào dịp Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công bố xây dựng Nước Trời. Các bài đọc hôm nay cho thấy ngày Chúa Giêsu xuất hiện công khai, khai mở một sứ vụ quan trọng, lớn lao, thay đổi cả thế giới, thế nhưng lại bắt đầu trong bầu khí âm thầm, khiêm hạ đến bất ngờ. Thay vì dùng những hình thức quảng cáo rầm rộ bên ngoài, thì Đức Giêsu lại lặng lẽ bước xuống sông Giođan để xin ông Gioan Tiền Hô làm phép rửa cho mình.
Lúc đó Gioan đang là người nổi tiếng, được nhiều người kính trọng và biết đến về đời sống và lời kêu gọi sám hối của ông. Dân chúng tuôn đến với ông, xin ông làm phép rửa để thể hiện lòng sám hối. Nhiều người coi Gioan như chính Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi và thời Thiên Chúa khôi phục lại vương quốc Israel đã tới gần. Tuy nhiên, Đấng sẽ khôi phục Israel không phải là Gioan Tiền Hô, mà chính là Đức Giêsu, một người đang xếp hàng cùng với mọi người bước đến xin Gioan làm phép rửa. Dân chúng chung quanh không ai biết điều đó, nhưng Gioan đã nhận ra người anh em của mình là Đấng Cứu Thế, Đấng mà ông đã nhảy mừng trong lòng mẹ vào ngày Đức Maria đem Ngài đến thăm gia đình ông. Ông nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng Thánh, là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian. Vậy mà giờ đây, Ngài lại tiến đến trước mặt ông, khiêm nhường cúi đầu xin ông làm phép rửa cho mình.
Gioan dường như không chấp nhận thực tế này. Ông một mực từ chối và giãi bày về sự giới hạn của mình, ông thưa với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, không thể như thế được, chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi.” Khi nói điều này, Gioan cũng gián tiếp nói cho mọi người biết ông không phải là đấng cứu thế như nhiều người lầm tưởng, ông cũng chỉ là một người có tội, vẫn phải sám hối và cần được thanh tẩy bởi chính Đấng vô tội. Đức Giêsu trả lời Gioan: “Bây giờ (ông cứ làm) như thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” Bấy giờ ông Gioan đã chiều theo ý Người. Đức Giêsu, Đấng vô tội, nay trở nên như kẻ có tội; là Đấng Thánh nay trở nên kẻ gánh tội cho trần gian. Ngài không hề phạm tội nhưng lại muốn trở nên đồng hàng với tội nhân, để yêu thương thay vì kết án, để thông cảm thay vì oán trách. Ngài muốn cùng với mọi người giữ trọn đức công chính, tức là chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa như mọi người.
Thiên Chúa Cha đã hài lòng về sự vâng lời, khiêm nhường, hạ mình của Con Ngài là Đức Giêsu. Vì thế, khi vừa chịu phép rửa xong, bước lên khỏi nước: “Lúc đó, các tầng trời mở ra; Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán rằng: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” Trước đây với sự kiêu căng của Ađam Eva, không chấp nhận thân phận thụ tạo, muốn ngang hàng với Thiên Chúa khiến cho cửa trời bị đóng lại. Nay Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã khiêm nhường hạ mình thẳm sâu trước mặt Thiên Chúa trong vâng phục hoàn toàn đã khiến cho cửa trời mở ra. Từ nay, qua Đức Giêsu, nhân loại được mời gọi bước vào nước trời.
Khi bước lên khỏi dòng nước, Thần Khí như chim bồ câu đậu xuống trên Đức Giêsu. Điều này cho thấy rằng Đức Giêsu sẽ thi hành sứ mạng giảng dạy và cứu độ nhân loại dưới sự hướng dẫn và sức mạnh của Thần Khí. Tuy là Thiên Chúa thật, nhưng vì mang thân phận con người, Đức Giêsu vẫn chịu giới hạn yếu đuối tư bề chỉ trừ tội lỗi. Vì vậy, Thần Khí của Thiên Chúa sẽ là nguồn sức mạnh soi dẫn để Đức Giêsu luôn chọn lựa theo ý Chúa Cha. Trước sự chứng kiến của mọi người Thiên Chúa Cha đã đón nhận sự hy sinh vâng phục của Đức Giêsu và tuyên bố cho mọi người biết: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.”
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài không đòi cho mình địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã học để vâng phục, vâng lời cho đến bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá. Ngài chính là người tôi trung mà tiên tri Isaia đã phác hoạ trong bài đọc một: “Đây là người tôi trung ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần Khí Ta cho người, người sẽ làm sáng tỏ công lý trước mặt muôn dân.” Người tôi trung của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu, Ngài lấy lòng nhân từ và thương xót để đối xử với con người. Ngài đến không phải để trừng phạt hay huỷ hoại con người nhưng để nâng dậy và chữa lành: “Ngài không kêu to, không nói lớn, không ai nghe tiếng Người giữa phố phường. Ngài không bẻ gẫy cây lau bị dập, cũng không dập tắt tim đèn còn khói.”
Thưa quý OBACE, dường như Thiên Chúa luôn muốn chọn cách thế đơn sơ bé nhỏ để thực hiện chương trình vĩ đại của Ngài. Ngài chọn bước vào trần gian trong khung cảnh thấp hèn nghèo nàn, Ngài khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ nhân loại cũng cùng một cách thức bé nhỏ bình thường ấy. Thế nhưng sự bé nhỏ âm thầm trong sứ vụ của Chúa Giêsu là sự bé nhỏ như một hạt cải, như hạt lúa mì được gieo vào lòng đất, âm thầm nảy mầm, bén rễ và trổ sinh hoa trái. Đó là sự bé nhỏ của nắm men được vùi vào thúng bột, nó sẽ làm cho cả thúng bột dậy men. Đó chính là đường lối và cách thế Thiên Chúa thường thực hiện, Ngài muốn dùng những điều nhỏ bé để làm nên những việc lớn lao, dùng sự âm thầm đơn sơ để làm nên những điều vĩ đại. Đức Giêsu âm thầm bước xuống dòng sông Giođan để thánh hóa dòng nước và làm cho dòng nước có sức thanh tẩy tội lỗi và ban ơn tái sinh cho nhân loại. Ngài khởi đầu sứ vụ với một thái độ khiêm nhường cúi xuống xin được thanh tẩy, là để nâng phẩm giá con người chúng ta lên, trả lại cho chúng ta địa vị làm con Thiên Chúa. Đức Giêsu không phải là tội nhân nhưng Ngài muốn trở nên đồng hàng và đồng số phận với con người là những tội nhân, để yêu thương, tha thứ và giải thoát chúng ta. Tin Mừng của Ngài được gieo vào thế giới cách âm thầm và từ đây Tin Mừng được lan toả đến mọi người và còn cho đến tận cùng trái đất.
Thiên Chúa cũng muốn mỗi chúng ta học cách thức này của Chúa để biết bắt đầu từ những việc nhỏ bé thường ngày, sống tốt và thánh hoá giây phút hiện tại, chu toàn tốt bổn phận là những người cha, người mẹ trong gia đình, ngày đêm âm thầm hy sinh cho vợ chồng, con cái. Có những cha mẹ đang biến những công việc tầm thường, nhàm chán hằng ngày trở nên những việc phi thường nhờ tình yêu lớn lao được đặt vào từng công việc ấy. Đã có biết bao người cha, trở nên vĩ đại nhờ những hy sinh âm thầm của mình, những người mẹ trở nên cao cả nhờ những việc tần tảo nắng mưa sớm hôm để lo cho gia đình. Cũng có biết bao người cha người mẹ ngày đêm âm thầm khóc lóc, hy sinh cầu nguyện cho con cái của mình. Khi chu toàn những công việc thường ngày với một tình yêu lớn lao, Thiên Chúa sẽ làm cho những công việc tầm thường ấy trổ sinh hoa trái trong đời sống gia đình.
Các bạn trẻ ngày nay bị cám dỗ bởi sự khoe khoang, phô trương hình thức, thích câu like câu view, thích trở thành nổi tiếng được nhiều người chú ý biết đến, nhưng lại trống rỗng bên trong. Từ đó tạo ra một lối sống chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài, chú tâm nhiều đến áo quần, xe cộ hơn là chú tâm trau dồi nhân cách. Nhiều bạn trẻ bị cuốn vào lối sống hời hợt, thiếu chiều sâu nội tâm, sống không lý tưởng, không mục đích hoặc chỉ tìm kiếm những mục tiêu như tiền bạc, danh lợi mà không quan tâm đến phẩm giá được làm con Chúa và hạnh phúc nước trời.
Đức Giêsu đã trở nên đồng hàng với con người, Ngài chia sẽ đến tận cùng thân phận con người, xin cho mỗi chúng ta nhận ra sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời; tin Ngài là Đấng cứu độ và giải thoát chúng ta khỏi đau khổ, tội lỗi và sự chết; sẵn sàng đón nhận Tin Mừng Ngài đem đến cho chúng ta; để cho Tin Mừng toả sáng và biến đổi cuộc đời chúng ta và làm cho chúng ta trở nên những người con yêu dấu của Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

.

LỄ CHÚA CHỊU PHÉP RỬA_A

Lm. Antôn

Trong chuyến hành hương Đất thánh vào tháng 10, 2018, tôi có đến bên dòng sông Gio-đan, nơi Chúa Giê-su chịu phép rửa.  Khúc sông này rất hẹp, có thể ném hòn đá từ bờ bên này sang bờ bên kia được, nước sông chảy mạnh và nhiều cây sậy mọc hai bên bờ.  Trước khi sông Gio-đan nối liền với Biển Chết có một khu vực thấp, ngày xưa vào thời Chúa Giê-su, các đoàn lữ hành từ những nơi gần Đông phương đã dùng nơi này làm chỗ nghỉ chân, và trở thành chỗ ưa thích để trao đổi tin tức thời sự.  Vào giờ trưa, các đoàn lữ hành từ Trung đông đầu quấn khăn, những người Ba-bi-lon tai đeo vòng vàng và những người Phi châu da mun với ngà voi tập họp đông đảo ở đây. Và cũng chính nơi đây Gioan Tẩy giả bắt đầu sứ vụ rao giảng của mình. Lúc đầu, mọi người thắc mắc tự hỏi có phải Gioan là Đấng thiên sai không?  Nhưng Gioan từ chối và nói với mọi người ông không phải là Đấng thiên sai.  Ông chỉ là người tiền hô cho Đấng sắp đến, và phép rửa của ông chỉ là phép rửa của sự tha tội mà thôi, còn người đến sau ông sẽ rửa bằng Thánh Thần.

Tôi còn nhớ vào ngày 16 tháng 10 năm 2002, Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô Đệ nhị đã công bố tông thư về 5 mầu nhiệm Sự sáng trong kinh Mân côi để suy niệm một cách hoàn toàn cuộc đời của Chúa Giê-su.  Và mầu nhiệm đầu tiên là:  “Chúa Giê-su chịu phép Rửa tại song Gio-đan.  Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa.”

Chúng ta thấy mầu nhiệm thứ nhất này có 2 phần.  Phần thứ nhất nói về sự kiện Chúa chịu phép Rửa trong Tin mừng. Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giê-su đã đến chịu phép rửa của Gioan tại sông Gio-đan.  Có lẽ chúng ta hơi ngạc nhiên tại sao Chúa chịu phép rửa, bởi vì phép rửa của Gioan chỉ là phép rửa của sự tha tội.  Và mục đích phép rửa của Ki-tô hữu cũng có một mục đích là tha tội.  Trong khi đó Chúa Giê-su không có tội, cho nên chúng ta cảm thấy hơi ngạc nhiên, khó hiểu khi Chúa Giê-su đến chịu phép rửa của Gioan.  Và chính Gioan cũng ngạc nhiên về việc Chúa muốn chịu phép rửa, cho nên ông nói: “Chính tôi phải được Ngài rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi sao?”  Nhưng Chúa đáp lại: “Không sao, vì chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế.”  Chúa nói với Gioan như thế có nghĩa là Chúa chấp nhận chịu phép rửa của Gioan để hợp với thánh ý Chúa Cha, trung thành và sẵn sàng thi hành triệt để những gì Chúa Cha muốn và trao phó.

Tin mừng cho chúng ta biết trong lúc chịu phép Rửa “Người thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống như một bồ câu và đậu trên Người.”  Sau khi chịu phép rửa và khi bước lên, thì: “Ngay lúc ấy, có tiếng từ trời phán: ‘Này là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta.’” Có nghĩa là, thứ nhất, Thiên Chúa mạc khải và khẳng định cho chúng ta biết một lần nữa Chúa Giê-su là Con yêu dấu của Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta. Bởi vì trong mầu nhiệm Giáng sinh và trong lễ Hiển linh qua câu truyện Ba đạo sĩ được ngôi sao sáng dẫn lối chỉ đường đi tìm Chúa, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta biết Hài nhi nằm trong máng cỏ chính là Con Thiên Chúa và là Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta.  Thứ hai, Chúa Giê-su được Chúa Thánh Thần sức dầu trở thành Đấng Cứu Thế và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong suốt kế hoạch cứu độ nhân loại. Và thứ ba, Chúa Giê-su, vì được Chúa Thánh Thần hướng dẫn nên luôn trung thành và chu toàn sứ vụ Chúa Cha trao phó, cho nên đẹp lòng Người.

Phần thứ hai trong mầu nhiệm thứ nhất Sự Sáng là lời cầu nguyện: “Xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa.”  Trước hết, tất cả chúng ta đã chịu phép Rửa hay Bí tích Thanh tẩy. Chúng ta biết phép rửa của Gioan chỉ là một dấu chỉ minh chứng lòng ăn năn sám hối mà thôi, còn phép rửa của Chúa Giê-su là một Bí tích biến đổi toàn diện trở thành con người hoàn toàn mới, cho họ một mục đích, một đường hướng và một cuộc sống mới. Thánh Phao-lô đã diễn tả cuộc sống mới này trong thư gởi người Cô-lô-sê như sau: “Khi chịu phép Rửa, anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô, và trong phép Rửa, anh em cùng được sống lại với Người.  Trước kia, anh em là những kẻ chết …Nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Ki-tô.” (Cl. 2, 1-13)

Tất cả chúng ta đã được chịu phép rửa của chính Chúa Giê-su Ki-tô.  Như phép Rửa của Chúa, Bí tích Thanh tẩy mà chúng ta đã chịu có 3 mục đích.  Mục đích thứ nhất, chúng ta được Chúa Thánh Thần biến đổi trở thành con cái của Thiên Chúa. Mục đích thứ hai là sát nhập chúng ta vào Thân Thể Chúa Ki-tô, vào Dân Chúa, vào Giáo hội, trở thành Ki-tô hữu, môn đệ của Chúa Giê-su.  Chúng ta hãnh diện và vui mừng có Chúa Giê-su Ki-tô là đầu của Giáo hội, mà chính Chúa đã thiết lập.  Và mục đích thứ ba là chúng ta được Chúa Thánh Thần sai đi và hướng dẫn chúng ta trung thành, thi hành sứ vụ của chính Chúa Giê-su, đó là rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa và xây dựng Giáo hội một cách tốt đẹp.

Trong ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép Rửa hôm nay, chúng ta hãy nhìn vào đời sống Ki-tô hữu hiện nay của chúng ta như thế nào?  Chúng ta có sống xứng đáng là con cái Chúa không? Chúng ta có trung thành và chu toàn sứ vụ của Chúa Ki-tô không?  Chúng ta có chu toàn bổn phận làm ông bà, cha mẹ, vợ chồng trung thành và làm gương sáng cho con cháu không?  Chúng ta có thực sự sống liên kết với nhau như những chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô, thành tâm và hy sinh xây dựng giáo xứ không?

Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục biến đổi, đổi mới tâm hồn, ban ơn và giúp chúng ta luôn trung thành, sống xứng đáng là con cái Chúa qua đời sống hy sinh phục vụ, có lòng bác ái và quảng đại xây dựng Giáo hội, giáo xứ.  Và xin Chúa Thánh Thần tiếp tục hướng dẫn và ban sức mạnh cho chúng ta, để chúng ta chu toàn sứ vụ của Chúa Giê-su một cách tốt đẹp và để được Chúa Cha khẳng định: “Này là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta.”

Về mục lục

.