LỄ CHÚA BA NGÔI
Lời Chúa: Xh 34,4b-6.8-9; 2Cr 13,11-13; Ga 3,16-18
-
Tin Và Sống (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Mầu Nhiệm Cao Cả (Thiên San, MTG. Thủ Đức)
-
Dòng sông yêu thương (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
-
Món quà Giêsu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Kinh nguyện trong Thiên Chúa Ba Ngôi (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
-
Thiên Chúa là tình yêu (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Tuy Ba Là Một (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Vị Thiên Chúa yêu thương và gần gũi (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
-
Chúa Ba Ngôi nối kết tin yêu (Lm. Nguyễn Xuân Trường)
-
Ba Ngôi Thiên Chúa ngọn lửa tình yêu (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Tình yêu Thiên Chúa vô biên (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
-
Gia đình của Thiên Chúa (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
-
Thiên Chúa là Chúa yêu thương (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
-
Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Thiên Chúa yêu thế gian (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Thiên Chúa Tình Yêu (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Tình yêu bất tử (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Chứng nhân tình yêu (Bông Hồng Nhỏ, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)
6. Lễ Chúa Ba Ngôi (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)
7. Tình yêu diệu vời (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
9. Sống yêu thương theo gương mẫu Chúa Ba Ngôi (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển)
10. Bí mật tận cùng (Trầm Thiên Thu)
11. Tình yêu Ba Ngôi (Anna Cỏ May, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)
12. Thiên Chúa yêu thế gian (Lm. Gioan Nguyễn văn Ty, SDB)
13. Chúc tụng Chúa (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
14. Đấng định nghĩa siêu nhiên (P. Trần Đình Phan Tiến)
15. Tình yêu cho đi – Tình yêu cứu độ (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
16. Suy niệm lễ Chúa Ba Ngôi. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)
17. Mầu nhiệm phát sinh mọi mầu nhiệm (JM. Lam Thy, ĐVD)
18. Nguồn Tình Yêu (Lm. Jos. DĐH.)
19. Trao ban tất cả vì yêu thương (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
20. Mầu nhiệm (Lm. Trần Việt Hùng)
21. Căn tính Đức Kitô (Lm. Vũ Đình Tường)
22. Ba Ngôi Thiên Chúa, khác biệt nhưng hiệp nhất (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
23. Mầu nhiệm Tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
24. Hãy yêu đi rồi sẽ biết sự thật (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
25. “Thiên Chúa có Ba Ngôi” (Lm. Jos. Uyên Nguyên)
26. Mầu nhiệm của lòng xót thương (Lm. Giuse Nguyễn)
27. Gia đình là cộng đồng tình yêu phản chiếu tình yêu Ba Ngôi (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
28. Sống yêu thương noi gương Thiên Chúa Ba Ngôi (Lm. Đan Vinh)
29. Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi_A (Lm. Antôn)
TIN VÀ SỐNG
Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc
Chẳng có cha mẹ nào yêu thương con cháu mà để lại cho chúng tài sản giả tạo: nhà cao cửa rộng trên giấy, đồ ăn thức uống bằng gỗ, đá, đô la âm phủ ! Không thể có con ngoan trò giỏi, nếu thiếu vắng tình yêu thương nơi bậc sinh thành và sự tận tâm tận lực của thầy cô giáo. Cũng không bao giờ tìm thấy một gia đình chuẩn mực, hạnh phúc, nếu bầu khí yêu thương nơi gia đình của họ chưa dồi dào, sống động. Từ xưa đến nay, con người vẫn khao khát hạnh phúc, muốn và mong biết sống đúng, sống đẹp, ít là với những ai ta gặp gỡ. Trong đối nhân xử thế, tiền nhân chúng ta có nói tới một kinh nghiệm: kẻ biết ơn, trong lòng được thoả thích, mà kẻ làm ơn tâm tư lại thoả thích ngàn lần. Khổng Tử dạy các học trò: có kiến thức người ta không sống trong nghi ngờ, có lòng nhân, chẳng bao giờ phải ưu tư, có dũng cảm thì thắng được sợ hãi.
Có một sự thật nơi mỗi người: máu ai cũng đỏ, nước mắt ai cũng mặn, trái tim ai cũng bằng thịt, dù hoàn cảnh không giống nhau, chúng ta vẫn bị chi phối bởi tình yêu. Bằng một tình yêu có điều kiện, không ít người nói rằng: đố ai hạnh phúc mà không có tiền, đố ai biết sống lời yêu thương, khi bản thân chưa yêu ai bao giờ ? Đức Giêsu đã nói, đã mạc khải cho ông Nicôđêmô, cho chúng ta: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải hư mất…”. Yêu và được yêu, tin và sống niềm tin, chính là quy luật, là điều kiện để chứng minh, trái tim ta có cùng một nhịp đập, có khởi đầu cho đến cùng đích vẫn là yêu thương. Đức Giêsu khởi đầu từ tình yêu của Thiên Chúa làm người, Đức Giêsu chu toàn sứ mạng Chúa Cha uỷ thác: yêu đến cùng, trên thập giá, Ngài đã gục đầu trao Thần Khí, (Ga 19, 30), tất cả vì yêu, tất cả là hồng ân.
Thành công, hạnh phúc, là mơ ước ở đời này, có được quân sư tài giỏi, gặp được bạn bè tốt, biết sống hoà hợp giữa lý và tình, chắc chắn không phải là điều tự nhiên, không phải là chuyện hên xui. Tin và sống niềm tin lời giáo huấn của Thầy Giêsu: là tự do chọn lựa, là sống lời thưa vâng, trong đó có đau khổ thập giá, có bình an Đấng phục sinh hiện diện. Dù thế gian nói: phải khôn tuỳ lúc, phải khờ tuỳ hoàn cảnh, xác xuất thành công sẽ cao hơn. Suốt 33 năm tại trần thế, Đức Giêsu vẫn là một chứng minh: “Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài, để những ai tin và sống niềm tin thì được sống”. Tin Đức Giêsu là người thầy tài giỏi, tin Đức Giêsu là người bạn tốt, mới đúng nhưng chưa đủ, phải sống niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, là hiện thân của tình yêu Chúa Cha và Thánh Thần.
Người xưa có câu: một ngày tu chưa thành chánh quả, một ngày ngu, biết bao hậu quả xấu sẽ xảy ra. Biết nói yêu là chết trong lòng một tí, chưa ai gọi bạn là người trưởng thành; nói điêu, nói không thật lòng, có thể làm thiệt hại, làm nhiều người phải khổ vì mất danh dự. Tin Đức Giêsu là tình yêu đến từ Thiên Chúa, tin Đức Giêsu là Đấng quyền năng, nhưng chưa sống niềm tin Đức Giêsu ở trên thập giá, hẳn cũng không thể có bình an của Đấng phục sinh. Trong tình yêu đôi lứa, họ luôn khao khát thuỷ chung và sự bền vững của tình yêu: nói lời phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay ! Trong tình yêu không giai cấp, Đức Giêsu nói: Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho các con biết. (Ga 15, 5).
Bài học yêu thương, đoàn kết, sống có trách nhiệm, hẳn ai cũng được nghe, được nhắc bảo về tình yêu và sức mạnh mang tính cộng đồng. Còn việc sống đức yêu thương, chia sẻ những hiểu biết, quảng đại với tha nhân, luôn là thực hành sống động của mỗi người. Ở đời vẫn nói tới sự thiết thực của người cho và kẻ nhận, quyền lợi và nghĩa vụ: ăn cơm nhà Phật, đốt râu thầy chùa, ý nói đến sự phản phúc, vô ơn, sớm muộn cũng phải đối diện với công lý. Trong tin yêu và sống tin yêu, Đức Giêsu lưu ý đến sự liên đới hiệp nhất cần thiết cho sứ mạng riêng của mỗi người: “Thiên Chúa không sai Con của Người để luận phạt thế gian, nhưng để tất cả những ai tin Con của Người thì được sống đời đời”. Đau khổ thập giá không dập tắt được ánh sáng niềm tin, đại loại nó chỉ là tắt đèn, là đang xoá đi cái tôi ích kỷ, vì bình minh đã tới.
Tin và yêu, tin và sống, sẽ mãi mãi là lời mời gọi sống hiệp nhất nên một trong tình yêu Giêsu, tình yêu có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Sự vĩ đại được biết đến qua lòng cản đảm hơn là khôn ngoan, bằng cấp, sự hiểu biết được kiểm chứng qua hành động hơn là bài học suông, là điểm số khi ngồi ghế nhà trường. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài”, nhưng chỉ có những ai tin và sống niềm tin, sống giáo huấn Đức Giêsu, người ấy mới hiểu thế nào là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Con người có tin hay không, có muốn hiểu, có muốn sống tình liên đới hiệp thông không, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi vẫn đang hiện diện. Xin cho tình yêu mà người kitô hữu mỗi ngày vì dấu tuyên xưng, sẽ mãi là điều kỳ diệu, là sức mạnh và ơn ban giúp chúng con chu toàn bổn phận sống tin yêu cách trọn vẹn hơn. Amen.
MẦU NHIỆM CAO CẢ
Thiên San, MTG. Thủ Đức
Quanh ta có muôn vàn điều kỳ diệu đang mời gọi ta khám phá. Khi nói đến những điều kỳ diệu, hẳn ai trong chúng ta cũng phải chân nhận rằng, sự kỳ diệu luôn đi kèm với sự khó hiểu. Phải mất một thời gian dài chúng ta mới dần dần khám phá ra những điều kỳ diệu quanh ta. Phát minh này làm tiền đề cho phát minh kế tiếp. Khi thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa cũng đã mất rất nhiều thời gian để mạc khải cách tiệm tiến cho con người biết tình yêu của Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Mặc khải đến từ Thiên Chúa luôn là một điều gì đó vượt quá sự hiểu biết của con người. Trong đó, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cao cả nhất, khó hiểu nhất.
Thiên Chúa mạc khải cho con người một cách tiệm tiến về chương trình cứu độ của Người. Công trình tạo dựng được khởi đi từ ý định yêu thương của Ba Ngôi và việc tạo dựng con người cũng không nằm ngoài ý định ấy. Khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã không bỏ mặc nhưng đã hứa ban Đấng Cứu Độ. Từ Apraham đến thời của Đức Giêsu, Dân Do thái vẫn sống trong niềm tin vào một Thiên Chúa độc nhất. Đức Giêsu đã vất vả dường nào để mặc khải cho dân biết về tình yêu cứu độ của Ngài. Đặc biệt là mạc khải cho họ biết chính Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến, chính Ngài là Con Một Thiên Chúa. Ngài không chỉ dừng lại ở đó, Ngài còn mặc khải và hứa ban Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ của Ngài. Chính trong thời đại của Đức Giêsu, mạc khải của Thiên Chúa dành cho con người trọn vẹn nhất. Bởi Đức Giêsu chính là mạc khải sau cùng và trọn vẹn của Thiên Chúa dành cho con người. Nhưng để đón nhận mạc khải ấy không phải là điều đễ dàng, đặc biệt là với một dân đã tin vào một Thiên Chúa duy nhất.
Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở một dân tộc đơn lẻ nhưng tình yêu của Ngài là tình yêu trao ban cho nhân loại. Quả thật, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thế gian là ai nếu không phải là tất cả chúng ta, những con người được sinh ra trong ý định yêu thương của Thiên Chúa. Khi xưa, Dân Do thái đã vấp ngã trong việc đón nhận mạc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, đến nỗi họ tìm mọi cách để giết Đức Giêsu – Con Một Thiên Chúa, vì tin rằng Ngài là kẻ phạm tượng khi dám cho mình là ngang hàng với Thiên Chúa, dám gọi Thiên Chúa là Cha. Họ không thể từ bỏ niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất của mình để đón nhận mạc khải Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi không tin nhận Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, Đấng Chúa Cha sai đến, họ từ chối đón nhận mạc khải của Thiên Chúa, từ chối tình yêu cứu chuộc của Ngài. Còn chúng ta?
Là thế hệ con cháu, chúng ta đón nhận đức tin nhờ ơn Chúa qua sự ra đi rao giảng của các tông đồ, các môn đệ của Chúa. Có thể nói, để đón nhận mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là điều không mấy khó khăn đối với chúng ta. Nhưng để hiểu tường tận là điều không thể. Chúng ta chỉ có thể đón nhận và tin yêu. Thiên Chúa tuy Ba Ngôi nhưng lại chỉ là một Thiên Chúa. Mầu nhiệm này ta chỉ có thể biết được và nhận được nhờ Đức Giêsu mạc khải cho. Đức Giêsu đã nhiều lần nhắc đến Chúa Cha và nhắc đến Chúa Thánh Thần, nhưng vào thời điểm đó, có thể nói, các môn đệ là những người đầu tiên đón nhận mạc khải ấy. Tuy nhiên, chính các ngài cũng gặp khó khăn khi đón nhận mặc khải ấy. Tin Mừng kể lại, khi nghe Thầy nhắc đến Chúa Cha, các ngài đã xin Thầy tỏ cho biết Chúa Cha. Các ông không hiểu được tại sao Thầy lại nói: Thầy và Chúa Cha là một, Chúa Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Chúa Cha.
Sau khi sống lại, và đặc biệt là trong lễ Ngũ Tuần, Đức Giêsu Phục sinh đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ. Chúa Giêsu không chỉ mạc khải cho ta về sự hiện diện của Ba Ngôi mà còn mạc khải cho ta biết về sự nên một trong tình yêu của Ba Ngôi. Ngài cũng cho chúng ta biết về mỗi dây liên kết của Ngài với mỗi người chúng ta khi nói rằng: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Khi được nên một với Đức Giêsu, chúng ta cũng được nên một với Ba Ngôi. Bởi Ba Ngôi luôn hiện diện và nên một với nhau trong tình yêu.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã ban Đức Giêsu Kitô cho chúng con. Xin cho chúng con biết bước đi trong ánh sáng tình yêu của Chúa nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tâm tình con thảo đối với Chúa khi tin nhận rằng: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ (Ga 3, 17). Xin cho chúng con được sống trong tình yêu và sự nên một của Ba Ngôi. Amen.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong chu kỳ của một năm phụng vụ, thông thường, Giáo Hội hướng dẫn chúng ta để hiểu biết và nhận ra những gì Chúa đã làm vì yêu thương chúng ta. Chúa Nhật hôm nay là lễ Chúa Ba Ngôi, phụng vụ hướng chúng ta đến một chủ đích hoàn toàn khác biệt: đó là chúng ta tìm hiểu xem Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là ai và bản chất của Ngài là thế nào. Các bài đọc Lời Chúa tìm cách đưa ra câu trả lời: Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi tách biệt nhưng chỉ là một Chúa. Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha là Đấng Sáng tạo, Chúa Con là Đấng Cứu chuộc, Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh hóa. Như thế, mỗi người chúng ta đều là công trình của Ba Ngôi Thiên Chúa, tức là được Chúa ban cho hiện hữu làm người, được Chúa cứu chuộc và hôm nay đang được Chúa thánh hóa hướng dẫn, để nhờ Chúa mà chúng ta đạt tới mức hoàn hảo, tức là thánh thiện.
Nói đến Chúa Ba Ngôi, chúng ta thường nghĩ ngay đến một đề tài cao siêu, khó hiểu. Đối với nhiều người tín hữu, xem ra Chúa Ba Ngôi không có liên quan gì nhiều đến đời sống của họ. Thực ra, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi tuy vượt trí khôn của con người, nhưng có mối liên hệ mật thiết với đời sống người Kitô hữu. Trọn vẹn đời sống của người tin Chúa được bao bọc trong mầu nhiệm này. Nói cách khác, Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch và là đích điểm của cuộc đời chúng ta, có nghĩa nhờ Chúa Ba Ngôi mà chúng ta tồn tại hiện hữu, và rồi lý tưởng mà chúng ta đang cố gắng đạt tới trong tương lai là hạnh phúc thiên đàng cũng là Chúa Ba Ngôi. Bởi lẽ, hạnh phúc thiên đàng là được sống trong Chúa Ba Ngôi, nơi có hạnh phúc viễn mãn tràn trề.
Giáo Hội dạy chúng ta: Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong “ba mầu nhiệm Cả”, cùng với hai mầu nhiệm kia là mầu nhiệm Nhập thể và mầu nhiệm Cứu độ. Danh xưng “mầu nhiệm Cả” nói lên tầm quan trọng và cốt lõi Đức tin Kitô giáo. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một đặc tính làm cho Đức tin Kitô giáo của chúng ta khác với Đạo Do Thái và Đạo Hồi, là hai tôn giáo cũng được gọi là “độc thần” như chúng ta. Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo đều cùng tôn thờ Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp, tức là Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử qua các vị tổ phụ này. Tuy vậy, chỉ có Đức tin Kitô giáo mới diễn tả Thiên Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chính Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta điều ấy. Trong giáo huấn của Người, Người dạy chúng ta nhận biết Chúa Cha và sống tình con thảo với Người. Đức Giêsu cũng nhận mình là Đấng Thiên Sai, tức là được Chúa Cha sai đến trần gian để thực hiện thánh ý của Ngài. Đức Giêsu cũng nói về Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ, Đấng ban sức mạnh và soi sáng các tín hữu để họ can đảm tuyên xưng Đức tin và thực hành những gì Người đã dạy. Tổng hợp những gì Chúa Giêsu đã dạy, Giáo Hội tuyên xưng: Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nói đến Chúa Ba Ngôi là chúng ta đề cập tới một lãnh vực thuần thuý trừu tượng thiêng liêng. Để có thể hiểu được phần nào, chúng ta phải dùng phương pháp “loại suy”, tức là so sánh với những thực tại trong cuộc sống thường ngày. Hình ảnh dòng sông là một trong số nhiều hình ảnh được dùng để suy tư về Chúa Ba Ngôi. Hình ảnh này diễn đạt ân sủng phong phú của Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời cho thấy đời sống nội tâm của người tín hữu trong Chúa Ba Ngôi là điều cần thiết như thế nào.
Con sông mang dòng nước phù sa đến tưới cho các cánh đồng, làm cho cây cối được tươi tốt và đơm bông kết trái. Dòng sông cũng mang sự sống đến cho con người và mọi loài. Chúng ta thử tưởng tượng nếu một ngày nào đó mình không có nước thì cuộc sống sẽ ra sao? Thiên Chúa Cha chính là cội nguồn của dòng sông, và Người đổ vào dòng sông nguồn nước phù sa mầu mỡ là tình yêu và ân sủng của Người. Chúa Giêsu chính là dòng sông chứa đựng nguồn nước tình yêu và ân sủng ấy. Và Chúa Thánh Thần là sức đẩy để nguồn nước tình yêu chảy đến các tâm hồn. Như con cá sẽ không sống được nếu nó nhảy ra khỏi dòng sông, vũ trụ này sẽ không thể tồn tại nếu tách rời khởi tình yêu quan phòng và sáng tạo của Thiên Chúa. Như cây cối sẽ không thể tươi tốt và đơm bông kết trái, nếu nó không hút lấy sự sống từ dòng sông mang lại, con người sẽ không có sự sống nếu khước từ Thiên Chúa. Càng ở xa dòng sông, cánh đồng càng dễ nứt nẻ và khô cháy. Cũng vậy, con người sẽ không thể sống được nếu tách ra khỏi dòng sông tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lễ Chúa Ba Ngôi nhắc chúng ta về sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài trong vũ trụ và trong đời sống chúng ta. Chính Thiên Chúa đã khẳng định và tình yêu thương của Ngài, khi Ngài xưng danh với ông Môisen: “Đức Chúa, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và lòng thành tín!”. Suốt bề dày lịch sử nhân loại, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lòng từ bi và thương xót con người, mặc dù họ nhiều lần lầm lỗi và bội phản. Đức Giêsu đã đến trần gian để mạc khải cho chúng ta rõ hơn về Thiên Chúa. Vì yêu thương nhân loại, Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến trần gian. Ai tin vào Con Thiên Chúa, sẽ tìm được bình an và sẽ được cứu độ. Như thế, Chúa Giêsu được trao phó sứ mạng quảng diễn hình ảnh từ bi nhân hậu của Chúa Cha, để hết thảy mọi người đều có thể thân thưa với Chúa Cha với tình con thảo: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”.
Khi thiện chí sống tình con thảo với Thiên Chúa và khi chuyên cần thực thi giáo huấn của Chúa Giêsu, người tín hữu như cây được tưới mát bằng dòng suối yêu thương là Chúa Ba Ngôi. Hơn thế nữa, họ được hòa mình vào dòng chảy yêu thương của Chúa Ba Ngôi, để chia sẻ sức sống thiêng liêng và tận hưởng hạnh phúc tuyệt vời Chúa ban cho người công chính. Như thế, khi trọn tình yêu mến và hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, dù còn sống nơi trần gian, chúng ta đã được nếm trước vinh quang nước trời. Bởi lẽ hạnh phúc đời đời là gì, nếu không phải là được hòa mình vào hạnh phúc của chính Ba Ngôi Thiên Chúa, để tận hưởng tình yêu viên mãn và bất tận nơi thiên quốc?
Sống trong Chúa Ba Ngôi, đòi hỏi người tín hữu phải có Đức tin và niềm xác tín. Bởi lẽ Thiên Chúa là Đấng Vô Hình, chúng ta chỉ có thể cảm nhận Ngài bẳng trái tim và lý trí, tức là bằng tình yêu mến và cậy trông. Làm thế nào để thể hiện tình yêu mến và cậy trông nơi Chúa Ba Ngôi? Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau. Hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hòa. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương, sẽ ở trong anh em” (Bài đọc II). Thì ra, Thiên Chúa cao sang là thế, lại hiện diện trong tâm hồn chúng ta là những con người nhỏ bé tầm thường. Để được Ngài hiện diện, chúng ta chẳng phải khó nhọc tìm kiếm đâu xa, hoặc chẳng phải làm những gì to tát, nhưng đơn giản là sống hiền hòa với anh chị em mình. Thiên Chúa ngự trong tâm hồn những người công chính và gắng tâm chu toàn luật yêu thương, vì “đâu có tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời”, như lời của một bài thánh ca chúng ta vẫn thường hát.
Khi suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, chúng ta không quên nói đến việc làm dấu thánh giá. Chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần trong ngày: khi thức dậy, trước khi ra khỏi nhà, trước khi lái xe, trước khi ăn cơm, trước và sau khi cầu nguyện, buổi tối trước khi đi ngủ…Dấu thánh giá đơn sơ là thế, nhưng lại là một nghi thức quan trọng. Tuy vậy, không ít người vẫn chưa hiểu ý nghĩa của nghi thức làm dấu thánh giá: Đây là lời tuyên xưng Đức tin vào Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần. Đây cũng là cầu nguyện để xin Chúa ban cho chúng ta những ơn lành, nhất là biết sống ơn gọi của người Kitô hữu. Dấu thánh giá được phác họa trên thân mình, nhắc cho chúng ta niềm xác tín vào tình thương của Chúa, thể hiện qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đây cũng là lời kinh của lòng trông cậy, với niềm xác tín Chúa Ba Ngôi là nguồn suối yêu thương sẽ đổ chan hòa ơn thánh cho những ai yêu mến Ngài. Sau cùng, dấu thánh giá cũng nhắc nhở chúng ta: người Kitô hữu bất kể làm điều gì, bất cứ ở đâu, phải luôn luôn nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói cách khác, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải hướng về Chúa, ý thức về những lời mình nói, những việc mình làm, để những lời nói và việc làm ấy không còn là nhân danh cá nhân, nhưng là nhân danh Chúa Ba Ngôi. Hiểu và sống như thế, chúng ta sẽ thấm đượm chất men Tin Mừng trong mọi hành vi cử chỉ và lời nói của chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta được sống trong dòng sông ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhờ vậy, đời sống chúng ta sẽ luôn tìm thấy an bình. Sống trong dòng sông này, chúng ta sẽ “như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2).
Lm. Jos. DĐH.
Có những món quà được trao ban mà người nhận chỉ việc sử dụng, không phải lăn tăn, cân đo suy nghĩ, đó là tiền của vật chất, nay còn mai hết. Có những món quà mang giá trị cao, đến độ người nhận luôn xem đó như bảo vật, tài sản thiêng liêng, không thể mua bán, trao đổi, vì đó là công sức đầu tư, là sự hy sinh của bậc sinh thành dành cho con cháu, là tình yêu thương vô bờ bến. Phận làm con ai chẳng mong được cha mẹ yêu thương, như trẻ thơ mong “mẹ về chợ”: có quà bánh. Trong tình bạn, có ai lại không mong muốn được chia sẻ, được cảm thông, được giúp nhau, dù tình ấy chưa phải là bạn tâm giao, tri kỷ. Xã hội thời nào cũng vậy: yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai, ghét cả tông ti họ hàng. Dù ta không tham tiền không mê của cải vật chất, không màng danh lợi thú, nhưng vẫn thích được cha mẹ, thầy dạy, tặng quà, nhất là món quà yêu thương.
Trong gia đình, vợ chồng con cháu mỗi người mỗi tính, mỗi sở thích, nhưng các thành viên đều khao khát có được bình an, niềm vui, đó là tình yêu thương, là gia đình có tôn ti trật tự, có trên có dưới, có hiệp nhất trong bầu khí thuận hòa. Xã hội có giai cấp: giầu nghèo, tri thức, bình dân, món “quà Giêsu” ban chung cho nhân loại thật đều và đủ cho mỗi người: “Thiên Chúa không sai Con của Người đến để luận phạt, …”. Món quà Đức Giêsu sẽ không phải là cao siêu hay trừu tượng, vì mắt nhìn thấy, tai nghe được, và trí lòng đủ cảm nhận về ân ban đó: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài thì được sống”. Qua sự hiện diện của Đức Giêsu, nhân loại sẽ được nghe lời giáo huấn về tình yêu của Thiên Chúa, về hoạt động phong phú trong Đức Kitô Đấng cứu độ, hiểu, tin, và sống niềm tin, vẫn là sự tự do mỗi người đón nhận món quà Thiên Chúa ban tốt nhất và đẹp nhất.
Hiện diện trong ngôi thánh đường này, có thể ta chưa hiểu tâm tính, sở thích của nhau, nhưng chúng ta đang tuyên xưng một đức tin, đang hiệp nhất cầu nguyện với nhau và cho nhau. Nếu như bằng trí khôn của mình, người ta biết nên làm việc lành, tránh xa điều xấu, bằng tình cảm tự nhiên người ta biết yêu kẻ yêu mình. Đức Giêsu hôm nay, Ngài hướng chúng ta đến niềm tin, trong một đức tin, một đức ái kitô, người ta sẽ hiểu Thiên Chúa yêu người thánh thiện, yêu cả người tội lỗi. Tin Đức Giêsu và ở trong Đức Giêsu, người ta được mạc khải cho biết Một Thiên Chúa Ba Ngôi quyền năng, nhưng là Thiên Chúa yêu thương.
Quà tặng Thiên Chúa ban là Đức Giêsu, quà tặng Giêsu sẽ thiết thực hay trừu tượng là tùy mỗi người lãnh nhận. Một em bé sẽ thích được bánh kẹo, hơn là được vòng vàng, thích được cái nhìn thiện cảm, hơn là lời hứa khó hiểu về chuyện tương lai ở xa. Với người có niềm tin thì ơn Chúa, tình yêu Chúa, cần thiết hơn, vì có Chúa là có tất cả, có Đức Giêsu trong đời là có đau khổ thập giá, là có bình an ở đời này và hạnh phúc ở đời sau. Làm sao nhân loại có thể cảm nhận đúng, đủ, Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, nếu Ngài không đến trong thân phận làm người, làm Thầy, và làm Đấng cứu độ. Làm sao ta có thể tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nếu như Ngài từ chối vâng phục thánh ý Chúa Cha chịu hiến tế trên Bàn thờ thập giá ? Làm sao ai có thể hiểu Đức Giêsu là quà tặng, nếu người ấy chưa một lần gặp, chưa hiểu, chưa tin, và chưa mộ mến Ngài và Đại gia đình của Ngài ?
Người ta có kể cầu chuyện về món quà đặc biệt như sau: có một ông thầy tổ chức ngày tổng kết giáo lý cho các em lễ sinh. Các em từng người lên rút món quà cho riêng mình. Có em nhận được cái lược, em khác nhận được chiếc gương soi, em khác nhận được cây bút, em khác nhận được cuốn sách, tất cả đều vui… riêng có một em, sau khi rút trúng món quà, em không vui và ném ngay vào thùng rác. Ông thầy lấy làm ngạc nhiên, và hỏi cho biết lý do, em trả lời tại sao ai cũng có quà, mà quà của em chỉ là trái chuối ? Thầy ân cần giải thích, và thầy sẽ cùng em khám phá món quà mà em vừa bỏ vào thùng rác nhé. Và rồi thầy trò mau chóng phát hiện trong trái chuối có cái bấm móng tay. Quà Giêsu thì nhân loại đều có, còn đón nhận và làm cho món quà trở nên ý nghĩa cho mình, trở nên nguồn an vui hạnh phúc đời đời có phải là tùy mỗi người chúng ta không ?
Theo lý lẽ tự nhiên, không ai đón nhận món quà giá trị mà lại mang cất vào tủ, không ai dám nói món quà Giêsu là tất cả, nếu người đó không đối thoại, không sống những gì họ đã nghe, đã thấy, đã gặp. Món quà Giêsu được ban cho nhân loại, ban cho người bình dân tri thức, ban cho cả người ở gần ở xa, dù là đạo gốc đạo theo. Ai cũng có tự do, có cơ hội, để nhận món quà Giêsu và cùng tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Đối tượng nhận quà Giêsu hữu hiệu hơn cả là ai ? chắc không phải là người tài giỏi, nhưng là người biết khiêm tốn để lắng nghe, để biết sống niềm tin theo sứ vụ và ơn ban riêng của mình. Chỉ thế thôi, đơn giản vậy thôi, tin Đức Giêsu và sống niềm tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, là chúng ta đang hiệp thông sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Amen.
KINH NGUYỆN TRONG THIÊN CHÚA BA NGÔI
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Đời sống cầu nguyện thuộc về con người, nhưng sẽ chẳng biết thế nào cầu nguyện cho đúng nghĩa. Con người đầy giới hạn, bởi con người chỉ có thể cầu nguyện với hoặc dâng lên, mà chẳng thể nào cầu nguyện ở trong Thiên Chúa được. Đời sống cầu nguyện của người Kitô hữu có một chiều kích rất đặc biệt, đó là cầu nguyện trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Ngay từ lúc đầu để bắt đầu giờ kinh, người Kitô hữu đã bắt đầu bằng dấu thánh giá “Nhân Danh Cha Và Con Và Thánh Thần”. Ý nghĩa của giờ kinh nguyện đưa người Kitô hữu vào mầu nhiệm tuyên xưng đức tin. Đây là khởi điểm đời sống cầu nguyện khác với các tôn giáo khác.
Cầu nguyện của người Kitô hữu không cầu nguyện với đấng xa lạ hoặc như với đấng vô hình mà cầu nguyện trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu cũng ở trong người Kitô hữu. Đấng hiện diện ở trong con người nên con người không cầu nguyện với đấng ở bên ngoài. Chính Chúa Giêsu dạy người Kitô hữu cầu nguyện “Lời kinh Lạy Cha” và cũng là Đấng ngự bên Chúa Cha cầu nguyện cùng Chúa Cha cho con người: “ Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.” (Ga 17, 15).
Chúa Giêsu cầu nguyện cho con người khi về cùng Chúa Cha trong bản tính Ngôi hai Thiên Chúa, như nhà thần học Romano Guardini nói “Trong Ba Ngôi Thiên Chúa có một con người”. Con người ấy chính là Chúa Giêsu, Người đã sống thân phận của con người, cảm thương đến những nỗi đau khổ, bệnh tật, yếu đuối, muộn phiền của con người. Thánh Phêrô trong thư của ngài cũng bày tỏ: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2,24)
Con người chúng ta cũng chẳng biết sao cầu nguyện cho phải lẽ, người Kitô hữu nhờ đến Chúa Thánh Thần trợ giúp, Thánh Phaolô viết: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.” (Gal 4, 6 – 7).
Khi thưa lên Abba, Cha ơi!, người Kitô hữu được gọi Thiên Chúa là Cha, nghĩa là được sinh lại trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Người con ở trong nhà của Cha, người con được thừa hưởng những gì của người con. Cầu nguyện giờ đây không chỉ là cầu xin mà còn với tâm tình tạ ơn của những người con trong Chúa Giêsu nhờ Chúa Thánh Thần. Lòng cảm mến dạt dào được thôi thúc bằng ngọn lửa yêu mến của Chúa Thánh Thần thắp lên trong lòng người Kitô hữu.
Cầu nguyện trong Thiên Chúa Ba Ngôi, người Kitô hữu nghiệm thấy bình an và hoan hỷ trong Thiên Chúa như cảm mến của Mẹ Maria: “linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi vui mừng trong Đấng cứu chuộc tôi” (Lc 1, 46 – 47).
Kinh nguyện trọng tâm nhất của người Kitô hữu là trong Thánh Lễ với cử hành trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Thánh Thần quy tụ, Chúa Thánh Thần chuẩn bị tâm hồn, xưng thú tội lỗi, lắng nghe Lời Chúa Giêsu, áp dụng trong cuộc sống mỗi ngày để trở thành hy lễ trong Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha. Sau cùng hiệp với Chúa Giêsu “Chính nhờ Người, với Người và trong Người mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời muôn thuở”.
Người Kitô hữu cầu nguyện trong Thiên Chúa Ba Ngôi “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian” (Ga 17, 16), được hưởng nếm Nước Trời, sống trong Chúa và “Chúa sống trong con” (Gal 2, 20) ngay tại thế là niềm vinh phúc. Chúng con tạ ơn Chúa, Chúa ở trong con.
Bông hồng nhỏ
Biết mình được yêu quả là điều hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong muốn mình được yêu thương. Chẳng ai muốn bị người khác ghét bỏ. Được người phàm yêu thương đã là một hạnh phúc. Được Thiên Chúa yêu thương lại là một hạnh phúc vô cùng tuyệt vời, không thể diễn tả hết được. Niềm hạnh phúc được Thiên Chúa ở gần, được nhận biết Ngài và được Ngài yêu thương sẽ mãi là một niềm hạnh phúc tuyệt vời, và niềm hạnh phúc ấy cứ lớn dần thêm mãi khi ta biết mở lòng đón nhận tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là ơn ban của Thiên Chúa.
Trong cuộc trò chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16). Thánh Gioan trong một lá thư cũng đã khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4, 16). Nếu ta biết mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa thì ta cũng được đón nhận sự hiện diện của chính Thiên Chúa, Người vui thích cư ngụ trong những tâm hồn yêu mến Người; Được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa, tâm hồn ta sẽ đầy tràn hoan hỷ và bình an. Nếu ta sống trong tình yêu của Thiên Chúa thì khi đến với người khác, ta sẽ trao ban cho họ chính Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đang cư ngụ trong tâm hồn ta. Thiên Chúa muốn dùng ta làm khí cụ bình an của Chúa, trở thành món quà tình yêu hữu hình của Thiên Chúa cho mọi người.
Đứng trước tình yêu bao la của Thiên Chúa, ai cũng sẽ cảm thấy mình thật bất xứng. Người là Đấng cao cả vô song, là Đấng rạng ngời thánh thiện; còn ta là thân cát bụi yếu hèn, thân mang đầy tội lỗi. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn tỏ lòng thương xót ta. “Người đã yêu ta đến nỗi đã ban Con Một”, đó là món quà quý giá nhất mà ta được nhận lãnh. Người trao ban Con Một là trao ban chính bản thân Người. Chúa Cha và Chúa Con là một. Chúa Thánh Thần là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thánh Phaolô cho biết: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ (Rm 10, 9). Ta không thể chỉ tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng nhưng còn phải diễn tả bằng hành động. Như Thiên Chúa đã yêu thương ta trước thì ta cũng hãy yêu thương anh chị em mình. Khi ta yêu thương người anh chị em của mình bằng tình thương của Chúa, yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương ta, chính lúc đó ta được gọi là con cái Chúa. Tình yêu của Người là tình yêu tha thứ đến cùng. “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” (1 Ga 4, 7), và “Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 14). Trong cuộc sống, ta có để cho mình được Thần Khí của Đức Kitô hướng dẫn hay ta đã chặn không cho Thần Khí đến đổi mới tâm hồn ta? Đã bao lần, ta đã ngăn cản sự hoạt động của Ngài trong tâm hồn ta. Đó là khi ta cố tình ở lại trong tội, ở lại trong mặc cảm tội lỗi vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được yêu thương. Càng nhận biết mình được yêu thương ta lại càng cảm thấy mình thật đáng chê trách. Tại sao ta từ chối tha thứ cho chính mình? Phải chăng ta không tin tưởng vào lòng thương xót hải hà của Thiên Chúa, Đấng đã trao nộp chính Con Một của mình vì yêu thương chúng ta, để Người mang lấy tội lỗi của chính ta mà đưa lên cây thập giá? Nhận biết mình tội lỗi là một điều tốt nhưng hãy đặt hy vọng vào Chúa Giêsu Kitô, để từ nơi ta vấp ngã, chính Người sẽ nâng ta lên. Hãy mở lòng ra cho Thần Khí Chúa đến biến đổi tâm hồn ta, Người là Thần Khí sự sống, Người sẽ lấy khỏi mình ta trái tim chai đá mà đặt vào một quả tim biết yêu thương (x. Ed 36, 26). Hãy đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, không phải vì ta xứng đáng nhưng vì Thiên Chúa là Đấng xót thương. Hãy luôn nhớ rằng, Thiên Chúa yêu ta, Chúa Giêsu yêu ta và Thánh Thần hằng đốt lên trong lòng ta ngọn lửa yêu mến.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh! Xin cho con luôn sống yêu thương và mở lòng đón nhận tình yêu của Chúa, để con được lớn lên trong tình yêu, sống vui tươi và hạnh phúc. Để nhờ đó, con biết mang tình yêu của Chúa đến cho những người con gặp gỡ. Amen.
Anna Cỏ May
Là người kitô hữu, chúng ta thường được nghe và ghi nhớ rằng chỉ có một Thiên Chúa nhưng có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hoạt động khác nhau nhưng là Một Thiên Chúa. Sự hoạt động của Ba Ngôi là hiệp nhất liên kết trong nhau. Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chúa Cha yêu thế gian nên đã trao ban Con Một xuống thế làm người để cứu muôn người. Chúa Con sống tâm tình con thảo đã vâng lời Chúa Cha thực hiện ý định tình yêu đó. Ngoài ra, Chúa Con mặc lấy tâm tư của Chúa Cha khi xuống thế làm người là làm cho muôn người nên một trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa (x.Ga 17,11b).
Để chuẩn bị cho Con Một xuống thế gian, Chúa Cha đã sai thiên thần đến gặp trinh nữ tên là Maria, với lời hứa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng tối cao sẽ rợp bóng trên bà (x.Lc 1,35). Lúc sống ở trần gian, mọi hoạt động của Chúa Con đều có sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tại sông Giođan, khi chịu phép rửa, Chúa Con vừa ở dưới nước lên thì có Thánh Thần ngự đến và có tiếng từ đám mây phán: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,16-17). Cũng trên một ngọn núi cao, Chúa Con biến hình, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Ngài đàm đạo với ông Môsê và ông Êlia. Sau đó, có tiếng từ đám mây phán: “Đây là con Ta, người đã được ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Và tất cả những lời Chúa Con nói là lời xuất phát từ Chúa Cha (x.Ga 14,24). Trước lúc về trời, Chúa Con xin Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ khác đến với mọi người. Đấng sẽ dạy cho họ mọi điều và sẽ làm cho họ nhớ lại những điều Chúa Con đã nói (x.Ga 14,26). Như vậy cả Ba Ngôi tuy hoạt động khác nhau nhưng cùng hoạt động cho và trong nhau, hiệp nhất với nhau để đem lại ơn cứu độ cho con người. Mọi người nhận biết Chúa Cha nhờ Chúa Con (x.Mt 11,7) và Chúa Con được mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần (x.Ga 16,14). Như vậy, dấu chỉ sự hiện diện của Ba Ngôi chính là tình yêu.
Nhờ ân sủng của Bí tích Rửa tội và cử chỉ làm dấu “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, chúng ta được mời gọi tham dự vào sự sống của Ba Ngôi diễm phúc. Liệu chúng ta có ý thức mỗi khi làm dấu Thánh Giá không? Trong lời chào đầu lễ, linh mục đọc: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (x.2Cr 13,13). Chúng ta có sẵn sàng đón nhận ân sủng ấy không? Trong ngày lễ Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta cùng nhau mau chạy đến với Ba Ngôi Thiên Chúa và sốt sắng chuẩn bị tâm hồn để lãnh nhận ân sủng tình yêu của Thiên Chúa, Đấng hằng khao khát chờ đợi mọi người đến và sống cuộc sống trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Một cuộc sống chỉ có tình yêu. Nhờ đó, chúng ta mới biết cách yêu người khác và xây dựng gia đình hay cộng đoàn của mình nên giống với gia đình Thiên Chúa.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa chí thánh và toàn thiện, xin cho chúng con hằng tin và tôn thờ Ba Ngôi Thiên Chúa uy quyền và vinh hiển trong cuộc sống hằng ngày. Nhờ đó, chúng con thuộc về và được sống trong gia đình của Thiên Chúa ngay từ ở đời này. Amen.
VỊ THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ GẦN GŨI
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
“Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Thánh Thần” (2 Cr 13, 13).
Đây là lời chào mà thánh Phaolô đã gửi tới các Kitô hữu ở Côrintô trong bài đọc II của đại lễ Ba Ngôi chí thánh. Một lời chào chúc chứa đựng niềm tin Ba Ngôi. Tôi muốn gửi tới mọi người chúng ta chính lời cầu chúc ấy. Quả thật, trong đó Ba Ngôi Thiên Chúa được nói tới, đó là Chúa Cha (Thiên Chúa), Chúa Con (Đức Giêsu Kitô) và Chúa Thánh Thần.
Đời sống Kitô hữu được diễn ra trong tình yêu quan phòng và sự hiện diện của Ba Ngôi. Từ lúc khởi đầu cuộc sống, chúng ta được rửa tội “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, ” và khi kết thúc cuộc đời, chúng ta cũng ra đi trong lời cầu nguyện: “Con ra đi nhân danh Chúa Cha, Đấng đã tạo dựng nên con, và Chúa Con, Đấng đã cứu chuộc con và Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa con.”
Ba Ngôi là cung lòng mà trong đó chúng ta được tác thành, bởi vì Thiên Chúa đã chọn ta trước khi tạo thành vũ trụ để chúng ta được trở nên con cái Người theo hình ảnh của Chúa Con (x. Ep 1, 4), Ba Ngôi là quê hương để tất cả chúng ta phải trở về; Ba Ngôi là “đại dương bình an” mà từ đó tất cả mọi sự phát xuất và đổ về.
Vì thế, Ba Ngôi không phải là một mầu nhiệm xa lạ và không mấy quan trọng đối với đời sống mỗi ngày của chúng ta. Ngược lại, Ba Ngôi là vị Thiên Chúa rất “gần gũi” với mỗi người chúng ta. Quả thật, Ba Ngôi không phải ở ngoài chúng ta, nhưng ở trong chúng ta. Ba Ngôi “cư ngụ trong chúng ta” (x. Ga 14, 23), bởi vì chúng ta là đền thờ của Ba Ngôi.
Vậy tại sao người Kitô hữu tin vào Chúa Ba Ngôi? Tại sao chúng ta lại phải tin rằng có một Thiên Chúa nhưng có ba ngôi vị? Ngày nay, có nhiều người thích gạt sang một bên mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, để có thể đối thoại tốt hơn với Do Thái Giáo và Hồi Giáo là những người tuyên xưng đức tin vào một Thiên Chúa duy nhất.
Câu trả lời là: các Kitô hữu tin rằng Thiên Chúa là có Ba Ngôi, bởi vì chúng ta được Chúa Giêsu mạc khải rằng “Thiên Chúa là tình yêu” (x. 1 Ga 4, 8). Đây là mạc khải đến từ Thiên Chúa nên buộc chúng ta phải đón nhận và tin vào Ba Ngôi. Chứ không phải là một phát minh của con người. Thiên Chúa của Kitô giáo không phải là một khái niệm, một ý tưởng như các nhà triết gia đã hình dung và trình bày, nhưng là một Thiên Chúa có Ba Ngôi Vị rõ ràng, phân biệt nhưng hiệp nhất với nhau như một cộng đoàn. Đức Giêsu đến mạc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Bởi vì, Thiên Chúa là tình yêu. Kinh Thánh nói như thế. Rõ ràng nếu là tình yêu, Thiên Chúa phải có ai đó để yêu. Không có tình yêu nếu không có ai đó để yêu và được yêu. Nếu Thiên Chúa chỉ yêu mình thì không thể định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Bởi vì yêu mình thì không phải là tình yêu, nhưng là sự ích kỷ hay ái kỷ (narcissism). Tình yêu đích thực thì luôn hướng về người khác.
Và đây là câu trả lời của mạc khải Kitô giáo và Giáo Hội đã đón nhận và giải thích. Thiên Chúa là tình yêu trước khi có thời gian, vũ trụ và loài người, bởi vì từ đời đời Chúa Cha đã có Chúa Con, Ngôi Lời, Đấng mà Người hằng yêu mến bằng một tình yêu vô biên, đó là Chúa Thánh Thần. Trong tình yêu thần linh luôn có ba thực tại hay ba đối tượng: Đấng yêu thương, Đấng được yêu và là Tình Yêu hiệp nhất các Ngôi Vị nên một.
Thiên Chúa Kitô giáo là “một” và là “ba” nhờ sự hiệp thông của tình yêu. Trong tình yêu, các Ngôi Vị hòa hợp với nhau trong hiệp nhất và khác biệt; tình yêu tạo nên sự hiệp nhất trong khác biệt: hiệp nhất về ý hướng, tư tưởng, ước muốn; khác biệt về chủ thể, tính cách, vai trò hay theo phạm vi nhân loại, khác biệt giới tính.
Thần học dùng hạn từ “bản tính” (natura) để chỉ sự hiệp nhất của Thiên Chúa và hạn từ “ngôi vị” (persona) để chỉ về sự phân biệt trong Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa chúng ta là một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị. Giáo huấn Kitô giáo không phải là một sự biến dạng, hay một sự hòa trộn giữa độc thần và đa thần. Ngược lại, đây là một bước tiến mới mẻ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho chúng ta biết về Người.
Mặt khác, giáo huấn này giúp chúng ta chống lại sự mâu thuẫn sâu xa của chủ nghĩa vô thần hiện đại. Theo Karl Mark và nói chung theo tất cả những người vô thần hiện đại, Thiên Chúa không là gì khác ngoài sự phỏng chiếu của con người. Như một nhà tư tưởng vô thần nọ cho rằng: không phải Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh mình, nhưng chính con người đã tạo dựng Thiên Chúa theo hình ảnh con người. Giống như hình ảnh của một người bị thay đổi khi soi mình trên mặt nước của một dòng sông.
Có lẽ họ có lý khi nói những điều này, bởi lẽ, con người hôm nay đã tạo ra vị thiên chúa theo ý muốn và sở thích của mình. Nhưng đây không phải là Thiên Chúa của Kitô giáo. Con người không nghĩ ra mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Con người cũng không thể phóng chiếu hình ảnh mình thành Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng đây là giáo huấn được Chúa Giêsu mạc khải cho con người biết. Nên tự thân mầu nhiệm này là liều thuốc giải độc tốt nhất cho chủ nghĩa vô thần hiện đại.
Chúng ta rút ra một số bài học áp dụng từ việc chiêm ngắm mầu nhiệm này. Trước hết, Ba Ngôi là khuôn mẫu cho mỗi cộng đoàn nhận loại, bắt đầu từ cộng đoàn nhỏ bé và cơ bản, là gia đình, rồi tới cộng đoàn lớn hơn là Giáo Hội hoàn vũ. Chúng ta thấy có điều rất đặc biệt mà một gia đình có thể học từ khuôn mẫu Chúa Ba Ngôi. Nếu chúng ta chăm chú đọc Tân Ước, nơi mà Ba Ngôi được mạc khải, chúng ta thấy một quy luật sống. Mỗi Ngôi Vị trong Ba Ngôi thần linh không hề nói về mình nhưng là nói về Ngôi khác, không lôi kéo sự chú ý về mình, nhưng là hướng về Ngôi Vị khác.
Quả thế, trong Tin Mừng, mỗi lần Thiên Chúa Cha nói thường là để mạc khải điều gì đó về Chúa Con: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7b); hoặc: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12, 28). Đến lượt mình, Chúa Giêsu không làm gì khác ngoài việc nói về Chúa Cha. Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi ngự trong lòng các tín hữu, Người không bắt đầu với việc tôn xưng danh của mình. Tên của Người trong tiếng Do Thái là Ruah. Nhưng Người không dạy chúng ta xưng rằng: Ruah! Ngược lại Người dạy chúng ta thưa “Ápba – Cha ơi, ” đó là tên của Chúa Cha và Người dạy chúng ta cầu xin Maranatha, đó là một lời cầu xin trực tiếp tới Chúa Kitô để nói rằng “Lạy Chúa, xin hãy đến!”
Từ những suy nghĩ này, chúng ta có thể áp dụng cách sống đó vào trong đời sống gia đình. Người cha không còn lo lắng nhiều để khẳng định quyền bính của mình, người mẹ cũng thế. Người mẹ trước khi dạy cho người con thơ mình gọi mẹ ơi, thì hãy dạy cho nó gọi cha ơi. Đó là quy luật của tình yêu! Đức Maria đã sống như thế để hoàn thiện chính mình. Khi lo lắng cho Chúa Giêsu, sau khi tìm thấy con mình trong đền thờ, Mẹ nói với Chúa: “Cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con” (Lc 2, 48b). Ngài đã đặt nỗi lo lắng của chồng trước nỗi lo lắng của mình. “Cha con và mẹ” chứ không phải “mẹ và cha con.”
Xem ra đây là một điều rất nhỏ bé nhưng nếu chúng ta áp dụng, nó có thể thay đổi rất nhiều đời sống của các gia đình và các cộng đoàn! Chúng trở thành sự phản chiếu về Ba Ngôi trên trái đất, khi mà lề tình yêu hướng dẫn mọi sự. Khi mỗi người hướng về người khác, tôn trọng và coi người khác hơn mình, cũng như biết hiến mình phục vụ người khác. Khi đó những thiên đàng nhỏ trên trái đất sẽ xuất hiện.
Ba Ngôi đồng hành với chúng ta trong suốt cuộc sống. Có một dấu chỉ nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện này và giúp chúng ta đặt mình liên hệ với Ba Ngôi đó là dấu thánh giá. Khi ghi dấu thánh giá trên mình, chúng ta tưởng nhớ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô, chúng ta đọc: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, ” chúng ta tuyên xưng Ba Ngôi. Chúng ta phải khám phá vẻ đẹp và sự hiệu quả của cử chỉ nhỏ bé này. Mỗi lần chúng ta làm dấu thánh giá sốt sắng, có ý thức, chúng ta phó thác cho Ba Ngôi, cầu xin Ba Ngôi bảo vệ chúng ta để chống lại những kẻ thù bên trong và bên ngoài, chúng ta làm sống động niềm tin. Những phép lạ và nhiều ơn lành thường xảy ra với việc làm dấu thánh giá. Và nhiều người làm dấu thánh giá để ca ngợi và tạ ơn Thiên Chúa như các cầu thủ bóng đá thường làm.
Như thế, thật là đẹp đẽ và ý nghĩa khi thấy một người cha hay một người mẹ dạy cho con mình làm dấu thánh giá. Đó là dấu sẽ bảo vệ và gìn giữ con cái khỏi mọi nguy hiểm trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta hãy kết thúc và hãy làm dấu thánh giá để tuyên xưng Ba Ngôi: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen!”
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Đạo Công Giáo tin một Thiên Chúa duy nhất nhưng lại có 3 ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Ba Ngôi là một màu nhiệm mặc dù rất cao siêu, nhưng cũng rất gần gũi. Gần gũi vì người Công Giáo từ trẻ tới già ngày nào cũng nhiều lần làm dấu thánh giá, đó là lúc chúng ta tuyên xưng màu nhiệm Chúa Ba Ngôi không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cử chỉ vẽ hình thánh giá lên chính thân thể chúng ta: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Màu nhiệm Chúa Ba Ngôi gần gũi nữa bởi vì đã kết nối Thiên Chúa với con người, kết nối trời cao với đất thấp như lời Phúc Âm công bố: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban tặng Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời.” Thế nên, tin Chúa Ba Ngôi là sống mối liên hệ yêu thương gần gũi mật thiết với Chúa.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy không chỉ nội tại trong 3 ngôi Thiên Chúa, nhưng tình yêu ấy đã mở rộng ra với nhân loại, với vũ trụ. Vì quá yêu thương nhân loại nên Chúa đã tặng ban Con Một, đó là món quà vĩ đại nhất, quý giá nhất. Và Con Chúa lại trao ban cả mạng sống để cứu độ nhân loại. Sự trao ban trọn vẹn của Thiên Chúa đã làm nên định luật của tình yêu, đó là: yêu nhau luôn muốn tặng quà cho nhau. Khi yêu hết mình thì trao tặng tất cả.
Quà tặng được trao ban thì cũng rất cần có người đón nhận. Thiên Chúa đã rộng lòng ban tặng Con của Ngài cho chúng ta. Và chúng ta cần mở lòng ra để đón nhận Ngài vào lòng dạ mình, vào cuộc đời mình, vào gia đình mình. Được như thế, Chúa sẽ biến đổi chúng ta trở thành quà tặng đem niềm vui hạnh phúc cho nhau. Và điều kỳ diệu của tình yêu là khi tặng quà người ta không thấy mất mà lại thấy được chan chứa niềm vui hạnh phúc.
Như thế, tin yêu Chúa Ba Ngôi là chúng ta hân hoan sống mối liên hệ yêu thương thân thiết với Chúa và với nhau, để trở nên quà tặng dâng lên Chúa và trao cho nhau. Amen.
BA NGÔI THIÊN CHÚA NGỌN LỬA TÌNH YÊU
Lm Jos Tạ duy Tuyền
Xã hội chúng ta đang sống đó là xã hội tự cách ly giữa người với người. Chẳng cần đại dịch thì con người cũng đã cách ly nhau bởi giầu và nghèo. Quan và dân. Trí thức và dân quê. Nước phát triển và nước chậm phát triển. Tư bản và xã hội . . . Xã hội mà kỳ thị, phân loại thì tình yêu cũng tính toán, đôi khi chẳng còn tình người mà chỉ còn tranh giành, đấu đá và loại trừ.
Đây là xã hội mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II nói là “văn hoá sự chết”. Người ta có thể giết chết bào thai để bảo vệ quyền lợi “người lớn”. Người ta có thể phá hủy môi sinh để gia tăng lợi tức. Người ta có thể nín sinh để được thong thả hơn. Người ta có thể hạ sát đồng loại như những anh đồ tể giết lợn chẳng chút run tay. Và rồi con người đã phải trả giá quá đắt khi môi trường sống đã bị con người phá huỷ gây nên dịch bệnh, thiên tai và lũ lụt… Và biết bao băng đảng giang hồ bảo kê, đòi nợ gây nên bao hoang mang cho người dân. Đây là dấu chỉ cho một xã hội đói khát tình yêu chân thật, vì dường như mọi tương quan giữa con ngừơi đều đặt lợi nhuận lên trên hàng đầu.
Ở những nước phát triển người ta đề cao đời sống cá nhân hơn là cộng đoàn. Ngay trong gia đình nhưng chẳng mấy khi gặp nhau. Mỗi người mỗi việc. Mỗi người một phòng khi về nhà. Thế nên, không còn cảm thông, không còn liên hệ. Mỗi người đang tình nguyện trở thành một đảo hoang xa cách, mỗi người một phòng và không ai được vào với danh nghĩa là tôn trọng quyền “riêng tư”.
Lịch sử con người đã chứng minh nếu con người sống riêng lẻ sẽ bị huỷ diệt vì sự dữ luôn rình chờ xung quanh. Loài người thuở hồng hoang luôn sống theo bộ tộc để bảo vệ lẫn nhau. Rất may cho loài người từ khi tìm ra lửa đã giúp con người ra khỏi chốn riêng tư để mỗi đêm quây quần với nhau bên ánh lửa. Họ chia nhau trong nom lửa, giữ lửa để nhờ ánh lửa xua tan sự dữ mang lại bình an cho con người.
Trong đức tin ky-tô giáo còn mời gọi chúng ta tiếp nhận ánh lửa từ trời để phá tan bóng tối sự dữ cho nhân gian. Ánh lửa ấy xuất phát từ chính Thiên Chúa là gốc rễ Tình Yêu như Kinh Thánh đã tỏ lộ. Chúa Ba Ngôi là Cha, và Con và Thánh Thần biểu hiện thành một cộng đồng tình yêu, đã chia sẻ sự sống ấy qua công trình sáng tạo vũ trụ và con người. Sự sống của vạn vật đều xuất phát từ Ba Ngôi Thiên Chúa nên cần phải quy hướng về Ngài để Ngài che chở bao bọc, và gìn giữ khỏi mọi hiểm nguy.
Lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi người tín hữu hãy ra khỏi chính mình để hiệp nhất với nhau bên ngọn lửa tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì căn bản của tình yêu là ra khỏi chính mình, là cho đi, là hy sinh quên mình. Thiên Chúa đã thể hiện tình yêu ấy nơi Chúa Giêsu. Vì thế, đón nhận Chúa Giêsu là lãnh được chất lửa này làm sinh lực chuyển lửa. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời.” (Gioan 3:16)
Tin vào tình yêu của Chúa thì hãy để Chúa bao bọc chở che con người chúng ta bằng tình yêu quan phòng của Ngài. Đồng thời, hãy tiếp tục san sẻ tình yêu ấy cho những người lân cận của mình. Thế giới hôm nay đang lạnh giá vì thiếu tình yêu và sự sum vầy. Con người tự cách ly nhau nên luôn bị cái lạnh đe doạ sự sống. Người cần tình thương chưa hẳn là người ăn xin ngoài đường phố mà là những người đang ở trong nhà mình, có thể là chính mình nữa, vì vẫn có thể lạnh vì cô đơn và bị loại trừ.
Thế nên, hãy ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để sống trong sự hiệp nhất với cộng đoàn. Và hãy ra khỏi chính mình để sống yêu thương người bên cạnh của chúng ta. Vì:
Dẫu xây chín bậc phù đồ
Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống hiệp nhất với nhau trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa và xin cho chúng ta biết gìn giữ ngọn lửa yêu thương của Thiên Chúa để toả sáng tình yêu và hy vọng cho thế gian. Amen
Lm Trần Ngà
Người đời có nhiều cách cho:
Cho của thừa
Khi có nhóm từ thiện đến gõ cửa xin quà cho người nghèo, chị A mang ra nhiều áo quần cũ cả ba năm nay không đụng tới để làm quà tặng. Cho như thế là cho thứ dư thừa; chỉ có chút ít tình thương trong hành vi đó.
Cho thứ cần dùng
Ông B là người cao tuổi, góa vợ, không con, gia thế thanh bần, kiếm sống qua ngày bằng cách bán vé số dạo. Thế nhưng vì thấy đứa bé nhà hàng xóm quá nghèo, phải cuốc bộ đến trường mỗi ngày cả chục cây số, ông trút hết tiền dành dụm để dưỡng già, đem mua xe đạp điện tặng cho đứa bé, với hy vọng nó sẽ đỡ vất vả, nắng nôi.
Cần phải có nhiều tình yêu thương hơn mới có thể thực hiện được nghĩa cử cao đẹp nầy.
Cho thứ tối cần
Trong những ngày qua, báo chí Việt Nam đưa tin nam phi công người Anh, 43 tuổi, không còn cha mẹ, chưa lập gia đình, bị nhiễm Covid-19 rất nặng. Hội đồng y khoa tham gia điều trị cho biết anh hiện đang trong tình trạng nguy kịch, phổi không hoạt động và cần phải cấy ghép phổi thì mới có cơ may sống sót.
Khi tin này được loan đi, tính đến ngày 20 tháng 5 năm 2020, có đến 50 người Việt Nam có sức khỏe tốt, tình nguyện hiến một phần lá phổi của mình để cứu mạng sống anh.
Dám để cho bác sĩ cắt bớt một phần phổi của mình để hiến tặng người không quen biết nhằm cứu sống anh ta, là một nghĩa cử hào hiệp và rất giàu tình yêu thương. Phải có tình thương rất lớn lao mới có thể thực hiện được hành vi tốt lành và cao đẹp này.
Trao ban là thước đo của tình yêu: Ai cho nhiều, chứng tỏ người đó yêu mến nhiều; ai cho ít, chứng tỏ yêu mến ít ; ai đem những gì rất cần thiết cho bản thân mình để tặng ban cho người khác, thì tình yêu của người đó quả là lớn lao.
Thiên Chúa yêu thương con người vô hạn vì đã trao ban Con Một cho thế gian
Loài người đã phạm tội và chiếu theo luật thì phải gánh lấy hậu quả của tội là chịu án phạt đời đời trong hỏa ngục.
Nhưng nếu để cho loài người phải sa hỏa ngục đời đời vì tội lỗi của họ thì tội nghiệp cho loài người quá đỗi và Thiên Chúa cũng đau xót vô cùng.
Do đó, Thiên Chúa Cha quyết định cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, không phải để lên án hay xét xử thế gian, không phải để trừng trị người phạm tội, nhưng là để cứu muôn người khỏi chết và cho họ được sống đời đời.
Chính Chúa Giê-su đã xác nhận điều này khi nói với ông Ni-cô-đê-mô: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian” (Ga 3, 17).
Để cứu muôn người khỏi phải sa hỏa ngục đời đời, Chúa Giê-su phải mang lấy tội lỗi của họ vào thân và một khi đã mang lấy tội lỗi loài người, Chúa Giê-su phải gánh chịu những hậu quả do những tội lỗi đó gây ra. Vì thế, Ngài phải chịu phạt và chịu chết thay cho muôn người.
Thế là, nhờ Chúa Giê-su chịu khổ nạn mà con người được tha thứ, nhờ Ngài chịu chết mà muôn người được cứu sống.
Thiên Chúa Cha đã yêu thế gian đến nỗi đã cho Con Một Ngài chịu chết đau thương để đền tội cho muôn dân, để cho ta được thoát khỏi án phạt đời đời trong hỏa ngục và được sống hạnh phúc hoan lạc trên thiên đàng. Điều này chứng tỏ tình thương Chúa dành cho chúng ta quả là vô bờ vô bến.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Đấng tạo hóa quyền năng, vô cùng lớn lao, cao cả, là Đấng thánh thiện, tốt lành không thể nào tả xiết; còn chúng con là loại thụ tạo hèn kém, bé nhỏ, chẳng đáng gì trước mặt Chúa.
Thế mà vì yêu thương chúng con, Đấng vô cùng cao cả đã hiến thân chết thay cho loài người bé mọn. Thương đến mức chịu chết thay cho người khác là tình thương vô bờ, vô biên…
Xin cho chúng con nhận ra tình thương cao vời đó, để quyết tâm sống đẹp lòng Chúa và cố gắng đền đáp phần nào tình Chúa yêu thương chúng con.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Thánh Thần” (2Cor 13,13).
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng kính lễ Chúa Ba Ngôi.
Trong Giáo Hội, Thiên Chúa Ba Ngôi là một tín điều, có nghĩa là toàn thể các tín hữu công giáo đều phải tin. Vậy tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi là gì?
Theo sách Giáo Lý Công Giáo thì “Ba Ngôi là một. Chúng ta không tuyên xưng ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa duy nhất có BA NGÔI: Ba Ngôi đồng bản thể. Các Ngôi Vị Thiên Chúa không chia nhau một thiên tính duy nhất, nhưng mỗi vị đều là Thiên Chúa trọn vẹn. Chúa Cha là gì thì Chúa Con là thế ấy. Chúa Con là gì thì Chúa Cha là thế ấy và Chúa Cha và Chúa Con là gì thì Chúa Thánh Thần là thế ấy. Nghĩa là một Thiên Chúa duy nhất theo bản tính. Mỗi Ngôi Vị là thực tại đó nghĩa là bản thể, yếu tính, bản tính đó” (x.GLCG, số 253).
Đó là Đức Tin Công Giáo của chúng ta. “Đức Tin Công Giáo hệ tại điều này: Thờ kính Một Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi Một Chúa mà không lẫn lộn giữa các Ngôi Vị, không chia cắt bản thể. Vì Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần khác biệt nhau, nhưng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần có cùng một thiên tính, một vinh quang, một uy quyền vĩnh cửu” (x.GLCG, số 266).
Nói tóm, Thiên Chúa của chúng ta là Cha, Con và Thánh Thần. Nếu nói Thiên Chúa của chúng ta là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, thì nói rõ ràng ràng Cha là CHÚA. Con cũng là CHÚA và THánh Thần cũng là CHÚA, nhưng dễ làm cho chúng ta hiểu lầm là có 3 CHÚA.
Không. Đức tin của người Công Giáo chúng ta là chỉ có Một CHÚA, nhưng là BA NGÔI. Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng không tách biệt. Khác biệt nhau về NGÔI VỊ, nhưng không tách biệt nhau về THIÊN TÍNH.
Ngày xưa, khi làm dấu, người Công Giáo chúng ta đọc: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. A-men”. Biểu thức này không thấy từ CHÚA. Bây giờ thì “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. A-men”. Biểu thức này lại dễ gây hiểu lầm là có 3 CHÚA.
Để khỏi hiểu lầm và đầy đủ, chúng ta có thể đọc thế này chăng? “Nhân danh Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. A-men”. Hay “Nhân danh Thiên Chúa là Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. A-men”. (Một suy tư cá nhân tôi).
Trong tiếng la-tinh : “In nómine Patris, et Fí-li-i et Spí-ri-tus Sancti. Amen”.
Trong tiếng Pháp : “Au Nom du Père et du Fils et du Saint-Esprit. A-men”.
Trong tiếng Anh : “In the name of the Father, and of the Son and of the Holy Spirit. A-men”.
Trong tiếng Tay ban nha : “En el nombre del Padre y del Hijo y del Espiritu Santo. Amén.
Trong tiếng Nhật : “Chichi to Ko to Seirei no mi Na ni yotte. A-men”.
Chúng ta thấy trong các ngôn ngữ nước ngoài không có từ CHÚA hay Thiên Chúa hoặc Ngôi. Ngay cả trong tiếng La- tinh, cũng không thấy.
Theo thánh Phao-lô, Cha là Thiên Chúa, Thiên Chúa của tình thương. Con là Thiên Chúa, Thiên Chúa của ân sủng và Thánh Thần là Thiên Chúa, Thiên Chúa của sự hiệp nhất. Có thể nói đó là “gia đình” của Thiên Chúa. Cũng như trong một gia đình, có BỐ, Mẹ và Con cái vậy.
Mỗi người tín hữu Công Giáo chúng ta : Nhờ ân sủng bí tích Thanh Tẩy “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, chúng ta được mời gọi chia sẻ sự sống của Ba Ngôi diễm phúc, ở trần thế này trong bóng tối của đức tin và sau khi chết trong ánh sáng vĩnh cửu.(x. GLCG, số 265).
Vậy, hôm nay trong khi mừng kính lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy tin và tuyên xưng tín điều Một Chúa Ba Ngôi. Đồng thời, ca ngợi, tôn vinh và thờ lạy Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà thôi. Có như thế, từ bây giờ và mãi mãi, chúng ta sẽ sống trong tình thương của Thiên Chúa Cha, trong ân sủng của Chúa Con và trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần.
Lm.Jos Đỗ Đức Trí
Có lẽ trên thế gian này, khi so sánh tình yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại thì không có hình ảnh nào có thể diễn tả hết, ngoài hình ảnh của cha mẹ dành cho con cái. Mặc dù tình yêu của cha mẹ dành cho con cái cũng còn rất nhiều giới hạn, nhưng tình yêu đó vẫn là một tình yêu lớn lao, quảng đại không tính toán. Nhiều người khi thấy những sự bất công trong cuộc sống, đã đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa không tiêu diệt hết sự ác trên thế giới này? Tại sao Thiên Chúa không trừng phát người gian ác? Những câu hỏi như thế chỉ có thể trả lời là: Vì Thiên Chúa là Cha, Ngài yêu thương những kẻ đau khổ và còn yêu cả kẻ gây ra đau khổ cho người khác, vì họ cũng là con của Ngài. Người khác lại đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại để dịch bệnh kéo dài như thế mà Thiên Chúa vẫn không ra tay ngăn chặn? Thiên Chúa vẫn đang cùng với các y bác sĩ và những người có trách nhiệm ngăn chặn đại dịch, Thiên Chúa còn cho thấy qua đại dịch này, mọi người có thể nhìn thấy được những tấm gương hy sinh quên mình vì các bệnh nhân.
Chúng ta biết rằng màu nhiệm Một Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là màu nhiệm chính yếu trong đạo của chúng ta. Với trí khôn nhỏ bé, hạn hẹp của con người, chúng ta sẽ mãi mãi chẳng bao giờ có thể hiểu hết về màu nhiệm Thiên Chúa. Và nếu, chúng ta có thể hiểu hết về Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ không còn phải là Thiên Chúa vô biên vô hạn nữa. Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, giáo Hội không giải thích về màu nhiệm này, nhưng qua các bài đọc, Lời Chúa cho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Ngài chậm giận và giàu lòng thương xót đối với mọi người mọi loài.
Sách Xuất hành đã kể lại rằng: Ông Mose đã trung thành vâng theo lệnh Chúa, dẫn dắt dân Israel ra khỏi đất Aicập. Ông chính là Người được nhìn thấy Thiên Chúa qua hình ảnh bụi gai bốc cháy, ông nhiều lần được trò chuyện với Thiên Chúa qua đám mây, nhưng chưa bao giờ ông được nhìn thấy mặt Thiên Chúa. Vì thế, ông bày tỏ khao khát của ông, cũng là khao khát của thụ tạo: Lạy Chúa Tôi đã tin Chúa theo Chúa, đã trung thành với lệnh truyền của Thiên Chúa, tôi chỉ còn khao khát một điều làm tôi mãn nguyện, đó là cho tôi được nhìn thấy mặt của Chúa. Thiên Chúa đã đáp lại lời khẩn xin của Mose, Ngài đặt ông vào một hốc đá, ngài lấy tay che mặt ông, và đi ngang qua ông. Khi Thiên Chúa bỏ tay ra thì Mose chỉ nhìn thấy phía sau lưng của Thiên Chúa. Lúc Thiên Chúa ngự xuống trên đám mây và đi ngang qua ông, Thiên Chúa đã xưng danh Người là: Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và lòng thành tín. Ông Mose nghe thấy thế thì sấp mình xuống đất mà thờ lạy.
Thiên Chúa không để cho con người nhìn thấy dung nhan Ngài, nhưng lại cho thấy trái tim và tấm lòng của Ngài đối với con người. Thiên Chúa không muốn con người suy luận về Ngài bằng trí óc, nhưng đón nhận Ngài bằng việc nhìn thấy những điều tốt lành Ngài đã thực hiện và suy phục Ngài bằng trái tim yêu mến và thái độ tôn thờ. Điều Thiên Chúa mong chờ nơi con người, là đáp lại tình thương của Thiên Chúa bằng việc hoàn toàn suy phục, tin tưởng và trung thành để cho Ngài dẫn dắt. Qua dòng lịch sử, Thiên Chúa luôn cho thấy, Ngài là một vị Thiên Chúa luôn trunh thành với lời đã hứa, luôn yêu thương chăm lo cho con người như cha mẹ yêu thương con cái và gần gũi thân thiết với con người như người thầy, người bạn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu, Đấng từ nơi Thiên Chúa Cha mà đến, đã nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa. Qua câu chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu nói với ông rằng: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời. Với khẳng định này, Chúa Giêsu cũng không mô tả về Thiên Chúa, nhưng chỉ cho thấy hành động yêu thương của Thiên Chúa là Cha, Ngài không tiếc gì với nhân loại. Khi thấy con người sai đường lạc lối, đi vào chỗ chết, Thiên Chúa không nỡ thấy con người phải đau khổ trong sự chết dưới bàn tay ma quỷ, Ngài đã trao tặng chính Con Một của Ngài cho nhân loại. Người Con ấy là Chúa Giêsu, là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa đến ở với nhân loại, yêu thương và phục vụ nhân loại và cuối cùng là chấp nhận cái chết trong thân phận con người để cứu chuộc nhân loại.
Chúa Giêsu đến trần gian với nhân loại, Ngài đã thể hiện tình yêu của Thiên Chúa như một một người thầy, người bạn. Ngài đã chia sẻ đến tận cùng thân phận con người với nhân loại: cùng vui, cùng buồn, cùng chịu đau khổ, nếm mùi thành công và thất bại, được yêu thương và bị loại trừ, cuối cùng Ngài chết vì nhân loại và chết thay cho nhân loại. Ngài yêu con người đến tận cùng bằng việc chấp nhận cái chết thập giá, biến cây thập giá trở thành biểu tượng của tình yêu đến cùng mà Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã chỗi dậy từ cõi chết để đem lại cho nhân loại sự sống mới của Ngài. Từ đây, nhân loại nhờ tin vào Chúa Giêsu sẽ không phải chết đời đời, nhưng được chia sẻ vào sự sống của Chúa Giêsu thông ban. Sau khi hoàn tất sứ mạng cứu độ, Ngài được vinh thăng về trời để tiếp tục dùng quyền năng để bảo vệ và yêu thương nhân loại.
Thiên Chúa không thể ngừng tuôn đổ tình yêu của Ngài cho con người, Ngài lại tiếp tục ban Chúa Thánh Thần đến với nhân loại và ở cùng nhân loại cho đến ngày tân thế. Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống đã đến với thế giới và hoạt động cách mạnh mẽ trong Giáo Hội. Ngài giúp cho mỗi người nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã dạy và ban sức mạnh giúp họ có thể bước theo lời răn dạy của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội, Ngài là vị Thầy Khôn Ngoan, Ngài soi sáng và hướng dẫn Giáo Hội cũng như các tín hữu vượt qua những lúc thăng trầm và thử thách. Ngài như ngọn gió thổi vào cánh buồm của con thuyền giáo Hội, đưa Giáo Hội lên đường ra khơi để loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho thế giới.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta xin Chúa gia tăng đức tin để chúng ta xác tín cách chắc chắn và phó thác cuộc đời chúng ta cho Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa Cha vì công trình tạo dựng, cách riêng Ngài đã tạo dựng và mời gọi chúng ta bước vào thế gian này, để được nhận biết Chúa là Cha và được sự yêu thương của Ngài. Chúng ta cảm tạ Chúa Giêsu Kitô vì công trình cứu chuộc Ngài đã thực hiện vì yêu thương nhân loại. Tạ ơn Đức Giêsu vì Ngài chính là Thiên Chúa đã đến để đồng lao cộng khổ với con người, dùng cái chết và sự phục sinh để cứu chuộc con người. Chúng ta cảm tạ Chúa Thánh Thần vì nguồn ơn dồi dào ta đã lãnh nhận được từ Thánh Thần: Ơn Sức mạnh, ơn Khôn Ngoan, ơn Hiểu Biết… và đầy tràn các ơn khác nữa mà Chúa Thánh Thần đã ban tặng để hương dẫn dạy dỗ chúng ta.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi sống và tuyên xưng màu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong đời sống thương ngày và gia đình. Mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá trên mình là chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, vì thế, xin cho chúng ta làm dấu thánh giá với sự sốt sắng, ý thức và mạnh dạn tuyên xưng Thiên Chúa của chúng ta trước mặt người đời. Khi chúng ta sống đức tin, đức cậy, đức mến một cách trọn vẹn và chăm chỉ, là chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi đang sống và đang hoạt động trong cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là lý thuyết tôn giáo hay thần học, mà thực sự là vị Thiên Chúa đang hoạt động trong cuộc đời và gia đình chúng ta. Chính gia đình mỗi người được tạo dựng và thiết lập theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi chúng ta sống và thể hiện tình yêu thương hiệp thông, xây dựng gia đình thành một cộng đoàn đạo đức hạnh phúc là chúng ta đang diễn tả màu nhiện Ba Ngôi Thiên Chúa cách sống động và cụ thể bằng đời sống. Nơi gia đình mỗi thành viên luôn nghĩ đến nhau, yêu thương nhau, quan tâm và hi sinh cho nhau là chúng ta đang thể hiện những đặc tính nơi màu nhiệm Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần luôn ở trong các gia đình và chúc lành cho các gia đình và mỗi người chúng ta. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Ngũ Tuần được liên kết khá sớm với việc cử hành lễ Chúa Ba Ngôi. Lễ tôn vinh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được cử hành vào thế kỷ thứ bảy. Lễ này dần dần được xem như một ngày lễ đặc biệt trong lịch phụng vụ. Kể từ thế kỷ thứ mười, có khá nhiều nhà thờ cử hành thánh lễ này một cách long trọng. Vào năm 1334, Đức Giáo Hoàng Gioan XXII chuẩn nhận việc cử hành này ở Rô-ma và mở rộng đến Giáo hội hoàn vũ.
Xh 34: 4-6, 8-9
Bài Đọc I là đoạn trích dẫn nổi tiếng từ sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa mặc khải cho ông Mô-sê Danh của Ngài: “Đức Chúa”, và định nghĩa chính mình: “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”.
2Cr 13: 11-13
Đây là Phần Kết thư thứ hai của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô. Phần Kết này chứa đựng một trong những công thức Chúa Ba Ngôi chính xác nhất của toàn bộ Tân Ước.
Ga 3: 16-18
Đoạn trích Tin Mừng Gioan hôm nay gợi lên tình yêu của Chúa Cha, Đấng trao ban Con của Ngài cho nhân loại để họ được sống đời đời. Ở nơi sự tuôn tràn tình yêu hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trên toàn thể nhân loại, Giáo Hội nhận ra cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần.
BÀI ĐỌC I (Xh 34: 4-6, 8-9)
Sách Xuất Hành thuật lại cuộc ra khỏi đất Ai-cập và thời kỳ đầu tiên dân Do thái hành trình trong hoang địa. Biến cố này được định vị có lẽ vào thế kỷ 13 tCn. Nhưng bài trình thuật cũng ghi lại kinh nghiệm tôn giáo của một dân tộc, kinh nghiệm duy nhất mà vị lãnh đạo của dân, ông Mô-sê, người mà Thiên Chúa đã mặc khải Danh Ngài, được thụ hưởng trước tiên.
Sách Xuất Hành tường thuật đến ba lần mặc khải Danh Thiên Chúa này, và mỗi một lần, từ những nguồn khác nhau. Người ta biết rằng ba chứng liệu cốt yếu làm nên nền tảng của sách Xuất Hành cũng như Ngũ Thư: chứng liệu Gia-vít (Thiên Chúa được gọi Gia-vê), chứng liệu Ê-lô-hít (Thiên Chúa được gọi Ê-lô-him) và chứng liệu Tư Tế (Thiên Chúa cũng được gọi Ê-lô-him).
Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê lần thứ nhất vào lúc Ngài trao phó cho ông sứ mạng giải phóng dân Do thái khỏi ách Ai-cập, theo trình thuật Ê-lô-hít (Xh 3: 14-15); lần thứ hai sau cuộc thất bại của ông Mô-sê khi hội kiến với Pha-ra-on, theo trình thuật Tư Tế (Xh 6: 2-5); lần thứ ba ở nơi bản văn mà chúng ta đọc vào Lễ Ba Ngôi hôm nay, theo trình thuật Gia-vít. Tác giả chỉ long trọng nhắc lại Danh Thiên Chúa là “Gia-vê”, bởi vì ông đã luôn luôn gọi Thiên Chúa dưới danh xưng này trước đây rồi, nhưng ông mang đến cho mặc khải cảm động này những phẩm tính của chính Hữu Thể thần linh, Ngài là một vị Chúa rất mực yêu thương, hay tha thứ và giàu lòng nhân hậu.
- Thần Hiển trên núi
“Khi ấy, ông Mô-sê dậy sớm và lên núi Xi-nai theo lệnh Chúa đã truyền cho ông; ông mang hai bia đá trong tay”. Trước đây, ông Mô-sê đã lên núi Xi-nai và đã lãnh nhận ở đó hai tấm bia đá ghi khắc Lề Luật rồi. Nhưng trong lúc xuống núi, ông đã đau đớn đến sửng sốt khi nhìn thấy cảnh tượng dân Do thái múa hát chung quanh “con bê bằng vàng” và xưng tụng nó như vị thần linh đã giải thoát mình khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập. Tức giận, ông đã ném vỡ hai tấm bia Lề Luật (Xh 32: 19).
Chương 34, mà bài trình thuật hôm nay được trích dẫn, mô tả việc tái lập Giao Ước. Những chi tiết của bài trình thuật này mang dấu ấn của tác giả Gia-vít. Cũng chính tác giả này trong sách Sáng Thế trình bày Đức Chúa “đi dạo với hai ông bà nguyên tổ trong vườn lúc gió chiều hiu hiu thổi” (St 3: 8). Cũng chính ông trong bài trình thuật hôm nay mô tả “Chúa ngự xuống trong đám mây”, đám mây chiếu sáng này vừa báo hiệu nhưng đồng thời vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa. Qua hình ảnh này, tác giả diễn tả sự gần gũi thân tình của Thiên Chúa, nhưng đồng thời sự siêu việt khôn tả của Ngài. Và cũng chính ông trong bài trình thuật hôm nay mô tả Thiên Chúa “đứng đó với ông Mô-sê” theo cùng cung cách thân mật như Ngài đã đứng gần bên A-đam và nói chuyện với ông. Hoạt cảnh của cuộc Thần Hiển vừa giản dị vừa uy nghi hùng vĩ.
- Danh Thiên Chúa
“Người xưng danh Người là Gia-vê”. Danh Thiên Chúa là “Gia-vê” được diễn tả bởi bốn phụ âm thánh: YHWH. Danh này khá bí ẩn đến nổi người ta có thể kết luận rằngThiên Chúa không thực sự trao ban Danh Ngài. Lại càng không nữa, vì theo não trạng Sê-mít, tên chính là người mang tên ấy, biết tên của một vị thần linh, chính là có quyền điều khiển vị thần linh mang tên đó theo ý muốn của mình. Thiên Chúa không thể trao phó chính mình vào trong tay con người. Như thế, danh bí ẩn này muốn nói rằng Thiên Chúa là một mầu nhiệm khôn tả. Dù thế nào, Thiên Chúa định vị mình như Hữu Thể siêu việt, độc lập tuyệt đối, không hư vô như các ngẫu tượng, Ngài tự hữu.
Vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, dân Do thái có thói quen không xướng danh Gia-vê để tôn kính Thiên Chúa. Danh này được thay thế bằng một tước hiệu cao quý khác theo tiếng Do thái: “Adonai”, hay theo tiếng Hy lạp: “Kurios”. Bản dịch của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, vì muốn gìn giữ sự tôn kính danh Thiên Chúa theo văn hóa dân Do thái, đã thay thế danh Thiên Chúa này bằng danh xưng “Đức Chúa”.
- Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín
Dù danh Thiên Chúa được hiểu như thế nào, thì Thiên Chúa cũng tự giới thiệu mình cho ông Mô-sê ngay liền sau đó: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”. Trong ngữ cảnh trực tiếp, qua lời giới thiệu này, Thiên Chúa muốn nói với ông Môsê là Ngài tha thứ cho dân Ngài tội bội giáo mà việc thờ lạy con bê vàng là chứng cớ hiển nhiên. Trong ngữ cảnh chung của Kinh Thánh, mặc khải này được ghi khắc như cải chính hình ảnh của một Thiên Chúa đáng sợ và thù hằn. Mặc khải này loan báo những sứ điệp của các đại ngôn sứ và giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật về lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Mặc khải này đánh dấu một trong những đỉnh cao của Cựu Ước.
- Lời cầu bầu của ông Mô-sê
Ông Mô-sê là người trung gian giữa Thiên Chúa chí thánh và một dân tội lỗi. Trước nỗi xao xuyến của ông Mô-sê về tội lỗi của dân mình, Thiên Chúa đáp trả bằng cách nêu ra lòng từ bi nhân hậu của Ngài. Như được yên lòng, ông Mô-sê tin tưởng nhưng khiêm hạ nói lên lời cầu bầu của mình.
Lời cầu bầu này thật có ý nghĩa trong bối cảnh vừa mới xảy ra trước đây: dân Do thái, khốn khổ vì khát, đã than trách và ngờ vực: “Có Đức Chúa ở giữa chúng tôi không?” (Xh 17: 7) và những kẻ dựng tượng bò vàng là muốn “có một vị thần minh mà họ thấy được dẫn đầu họ” (Xh 32: 23). Vì thế, phải chăng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en quá siêu việt đến nỗi phải thay thế Ngài bằng một ngẫu tượng vật chất để mà dân có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa? Vì thế, ông Mô-sê bạo dạn khẩn nguyện cùng Chúa: “Lạy Chúa, nếu quả tôi được nghĩa với Chúa, thì dám xin Chúa cùng đi đường với chúng tôi. Dân này là một dân cứng cổ, nhưng xin tha thứ tội tình lầm lỗi chúng tôi, và nhận chúng tôi làm dân riêng của Ngài”. Đó là tất cả ý nghĩa của Giao Ước Xi-nai. Đó cũng sẽ là Giao Ước Mới.
BÀI ĐỌC II (2Cr 13: 11-13)
Thư thứ hai của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô có lẽ được viết vào cuối năm 56 hay 57. Đoạn trích dẫn hôm nay là Phần Kết thúc của thư này.
- Những lời khích lệ
Thánh Phao-lô thông thường kết thúc các thư của mình với những lời khích lệ. Cũng vậy, trong lời kết của bức thư này, thánh nhân mời gọi họ hãy vui mừng và nỗ lực hoàn thiện bản thân mình, tiếp đó hãy đồng tâm nhất trí với nhau và ăn ở hòa thuận. Lời khuyên bảo này ám chỉ cách kín đáo đến những chia rẽ trước đây của cộng đoàn Cô-rin-tô, giờ đây mọi việc đã qua rồi.
“Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện”. Đó là dấu chỉ của tình bạn. Lời khuyên của thánh nhân thường đem lại cho nụ hôn huynh đệ này tất cả ý nghĩa của nó (x. 1Th 5: 26; 1Cr 16: 20; Rm 16: 16). Tiếp đó, “Tất cả tín hữu ở đây gửi lời chào anh em”. Các tín hữu này là cộng đồng Ki-tô hữu mà thánh Phao-lô viết bức thư này gửi cho họ khi thánh nhân ở Trô-a hay đúng hơn, ở Ma-xê-đô-ni-a.
- Lời chúc kết thư
Lời chúc kết thư được diễn tả bởi biểu thức Ba Ngôi, một trong những biểu thức Ba Ngôi rõ nét nhất trong toàn bộ Tân Ước: “Xin chúc toàn thể anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần.” Lời cầu chúc này có thể bắt nguồn phụng vụ, điều này làm chứng cho tính cổ xưa của nó.
Kể từ cuộc canh tân phụng vụ, chính với lời chào này mà linh mục tiếp đón các tín hữu ở đầu Thánh Lễ: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh em”. Biểu thức cổ xưa đơn giản là biểu thức mà vị linh mục công bố khi làm dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Biểu thức này cũng là Ba Ngôi nhưng không nhất thiết đón tiếp Cộng Đoàn.
TIN MỪNG (Ga 3: 16-18)
Đoạn trích Tin Mừng Gioan vào Lễ Ba Ngôi hôm nay là phần cuối cuộc đối thoại của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một người Biệt Phái có thế giá đến gặp gỡ Đức Giê-su vào ban đêm.
- Tiến trình đức tin
Thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại phần đầu. Ông Ni-cô đê-mô là một người Biệt Phái thế giá có thiện cảm với Đức Giê-su. Ông đến gặp gỡ Đức Giê-su để được hiểu thêm nữa về Ngài, nhưng lại đến vào ban đêm vì ông sợ giai cấp lãnh Do thái dị nghị về mình. Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su không úp mở nói thẳng với ông về những khó khăn để tin. Chúng ta lưu ý rằng thánh Gioan không bao giờ dùng danh từ “niềm tin” theo cách trừu tượng và ở trạng thái tỉnh, nhưng luôn luôn dùng động từ “tin”, hàm chứa một chuyển động đầy tính năng động gắn bó keo sơn bền chặc: phải tái sinh “từ trên cao” và đặt mình dưới hơi thở của Thần Khí (3: 7); phải nhận ra nguồn gốc thần linh của “Con Người” và chấp nhận “sự siêu thăng của Ngài” trên thập giá (3: 13-14). Một tiến trình đức tin như thế được Thần Khí dẫn đưa vào trong mầu nhiệm tình yêu.
- Tình yêu của Chúa Cha
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người”. Việc khai triển ở đây phải chăng vẫn còn thuộc vào bài diễn từ của Đức Giê-su hay trình bày những suy tư cá nhân của tác giả Tin Mừng? Giả thuyết thứ hai xem ra đúng hơn. Chủ đề và từ ngữ gần với Tựa Ngôn của sách Tin Mừng cũng như thư thứ nhất của thánh Gioan.
Từ ngữ “thế gian” trong Tin Mừng Gioan thường có ý nghĩa tiêu cực để chỉ những con cái của bóng tối tìm cách chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa; nhưng rõ ràng đó không là trường hợp của đoạn Tin Mừng hôm nay. Ở đây, thế gian chỉ toàn thể nhân loại mà Thiên Chúa yêu thương đến mức đã sai Con của Ngài đến“để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đây là lời khẳng định về tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với nhân loại và chiều kích phổ quát của ơn cứu độ.
Tình yêu bao la của Chúa Cha đối với nhân loại được nhấn mạnh qua cách diễn tả: “Ngài đã ban Con Một của Ngài”. Thánh Gioan là tác giả Tin Mừng duy nhất dùng danh xưng “Con Một” (hai lần trong Tựa Ngôn Tin Mừng 1: 16 và 18, hai lần trong đọan văn này: 3: 16, 18, và được lặp lại trong thư thứ nhất: 1Ga 4: 6.). Danh xưng này gợi ra tức khắc I-xa-ác, người con một rất mực thiết thân của ông Áp-ra-ham. Trong câu chuyện của sách Sáng Thế (22: 1-14), chính người cha đã đích thân dẫn đứa con duy nhất của mình đến cái chết (St 22: 1-14), trong đó, nỗi đau thầm lặng của người cha chỉ gợi ý. Cũng như trong bài trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan chỉ nói bóng gió nỗi đau tận đáy lòng của Chúa Cha, Đấng trao nộp Con Một của Ngài vào tay con người cho đến tận cái chết, như lời khẳng định của thánh Phao-lô: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32), và sau này Giáo Phụ Ô-ri-giê-nê nhận định: “Cuộc Tử Nạn của Chúa Cha là cuộc tử nạn của tình yêu”.
- Đấng Cứu Độ chứ không là vị Thẩm Phán
“Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ”. Truyền thống Do thái dự kiến rằng Đấng Thiên Sai đến là Đấng Thiên Sai-Thẩm Phán, tức là kỷ nguyên thiên sai khai mở thời Chung Thẩm. Chính thánh Gioan Tẩy Giả đã mạnh mẽ nhắc lại điều này: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa… Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẩm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3: 10 và 12).
Thần học Tin Mừng Gioan thì hoàn toàn khác. Một mặt, thánh ký đặt ưu tiên hành động cứu độ của Đức Giê-su; mặt khác, nội tâm hóa việc xét xử. Đức Kitô đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là Thẩm Phán: Ngài dẫn đưa con người đến “sự sống đời đời”. Sự sống đời đời, theo Tin Mừng Gioan, không chỉ là cuộc sống tương lai trong một thế giới sắp đến, nhưng còn được dự phần vào sự sống Thiên Chúa ngay từ thế giới hiện nay.
- Chiều kích nội tâm của việc xét xử
Ý định Thiên Chúa cứu độ con người không thể nào được thực hiện nếu không có sự đồng thuận của con người. Chính họ phải chọn lựa: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi”.
Lời cảnh báo được gửi đến với hết mọi người, nhưng mạch văn của chương 3 này, như mạch văn của chương 2, hướng tư tưởng về tấm thảm kịch của sự chọn lựa được đặt ra cho nhóm Biệt Phái cũng như cho mọi người Do thái khi đối mặt với sự hiện diện của Đức Giê-su, giáo huấn của Người và những dấu chỉ mà Người ban làm chứng Ngài được Chúa Cha sai đến. Nếu cương quyết không chịu tin, nhất mực từ chối ánh sáng, thái độ này sẽ kết án những ai chọn lựa như vậy. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt Tin Mừng thứ tư được dệt nên bằng sự căng thẳng này.
- Khía cạnh Ba Ngôi
Chúng ta có thể ngạc nhiên về việc chọn lựa bản văn này vào Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất (Chúa Cha) và Ngôi thứ hai (Chúa Con) được nêu tên ở đây, nhưng Ngôi thứ ba (Chúa Thánh Thần) xem ra không thấy nói đến. Thật ra, tác giả Tin Mừng tô thật đậm tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Con tuôn tràn trên nhân loại. Chính ở nơi tình yêu tròn đầy giữa Cha và Con mà Giáo Hội nhận ra cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Cha và Con”. Chúa Thánh Thần là Đấng thông truyền và khuếch trương Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con đối với nhân loại.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Nói đến Chúa Ba Ngôi là chúng ta nói đến đời sống nội tại của chính Thiên Chúa. Thật vậy, khi cử hành các mầu nhiệm khác như Giáng sinh, Phục sinh, là chúng ta tôn vinh những điều Chúa đã làm vì yêu thương con người; còn khi cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, là chúng ta tìm hiểu và suy tư xem Chúa là ai và Ngài như thế nào. Lý trí con người hữu hạn, nên chỉ có thể suy tư về Chúa, dựa trên những kinh nghiệm trần gian. Chúng ta có thể hiểu phần nào về Chúa Ba Ngôi, từ những lời giáo huấn của Chúa Giêsu. Trong cuộc đàm đạo với ông Nicôđêmô, một thành viên của Công nghị Do Thái, Chúa Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Người là Đấng Thiên Sai. Việc Người đến trần gian là bằng chứng về tình yêu Thiên Chúa. Quả thật, Thiên Chúa yêu thế gian. Vì thế Ngài đã tạo dựng thế gian và sai Con của Ngài đến cứu thế gian (Bài Tin Mừng).
Lòng yêu thương của Chúa cũng là một điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn của Cựu ước. Vì tình yêu thương, Ngài đã dẫn đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập. Ngài đã chăm sóc họ như một người cha. Ngài bao dung tha thứ khi họ lỗi lầm. Qua trung gian ông Môisen, Ngài còn ban cho họ lề luật để giúp họ sống theo đường ngay nẻo chính (Bài đọc I). Tất cả những gì Chúa đã làm trong lịch sử là bằng chứng tình yêu thương vô bờ của Ngài.
Lời Chúa Giêsu trong Ga 3,16 được coi như tóm lược toàn bộ nội dung của Tin Mừng Thánh Gioan. Bởi lẽ nó diễn tả chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Giêsu Kitô. Câu Tin Mừng này cũng diễn tả cho chúng ta đời sống phong phú nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Khác với giáo lý của Do Thái giáo và của Hồi giáo, cũng là hai tôn giáo độc thần, Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi mà duy nhất. Đó là sự duy nhất không đơn độc. Trong khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu nói về Chúa Cha, là Đấng đã sai Người đến thế gian. Chúa Giêsu cũng nói về Chúa Thánh Thần, là Thần Chân Lý, sẽ đến để tiếp tục công việc Người đã khởi đầu, tức là hướng dẫn Giáo Hội để Giáo Hội loan báo giáo huấn của Chúa Giêsu. Tất cả những hoạt động của Thiên Chúa, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, đều xuất phát từ tình yêu của Ngài đối với thế gian.
Khi cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, Phụng vụ nhắc nhớ chúng ta tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Tình yêu ấy thể hiện qua công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa. Phụng vụ cũng nhắc nhớ chúng ta, Thiên Chúa Ba Ngôi là đích điểm của đời sống Kitô hữu. Điều đó có nghĩa, nếu chúng ta gắn bó với Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người, chúng ta sẽ được hòa mình vào dòng chảy hiệp thông của Chúa Ba Ngôi, ngay khi chúng ta còn sống ở đời này. Đó cũng là bảo đảm chắc chắn rằng, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng Chúa Ba Ngôi trong hạnh phúc vĩnh cửu, như lời Chúa Giêsu đã hứa.
Lời chào của thánh Phaolô đối với cộng đoàn tín hữu Côrinhtô (Bài đọc II) đã diễn tả những điều kỳ diệu thiêng liêng của Giáo Hội: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, ở cùng tất cả anh chị em”. Lời chào này đã trở thành công thức mở đầu thánh lễ. Là thành viên của Giáo Hội, mỗi người tín hữu đang sống trong ân sủng của Chúa Giêsu, trong tình yêu của Chúa Cha và trong sự thông hiệp của Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, chúng ta được bao bọc bởi tình yêu Chúa Ba Ngôi. Nhờ đó, cuộc sống của chúng ta không còn buồn chán thất vọng hay lầm lạc tội lỗi. Chúa Ba Ngôi không chỉ là một lý thuyết xa vời, nhưng rất cụ thể trong đời sống chúng ta, gần gũi với chúng ta như hơi thở, nước uống, khí trời và những nhu cầu khác. Thánh Phaolô cũng nói đến điều kiện để được Chúa Ba Ngôi che chở, đó là luôn đồng tâm nhất trí và hòa thuận với nhau. Một cộng đoàn được liên kết bằng mối giây yêu thương sẽ có Chúa Ba Ngôi hiện diện. Hơn nữa, chính Chúa Ba Ngôi là mối dây yêu thương này.
“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Mỗi ngày, chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần, mà ít khi ý thức đây là lời tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Đây cũng là một lời cầu nguyện ngắn. Dấu thánh giá vừa nhắc cho chúng ta: Thiên Chúa yêu thương thế gian; vừa mời gọi chúng ta: hãy nhân danh Chúa Ba Ngôi trong mọi hành xử, suy nghĩ, nói năng và trọn vẹn cuộc đời. Nếu thực sự “nhân danh Chúa Ba Ngôi” trong cuộc sống, chúng ta sẽ tiến dần tới sự hoàn thiện, nhờ đó, sự thánh thiện của Chúa tỏa sáng nơi cuộc đời chúng ta.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.
Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có, nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”. Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Và Người đã vì Chúa Cha mà hiến mạng sống.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Ba Ngôi Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đến khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong phú, là nguồn mạch của mọi tình yêu trên đời.
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất gần gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là khuôn mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.
Ta ra đời là do tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói nhân loại là kết tinh của tình yêu Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã nói: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”. Thiên Chúa là tình yêu. Con người giống Thiên Chúa vì có trái tim biết yêu thương. Cây cỏ không có trái tim biết yêu thương. Cầm thú không có khả năng yêu thương. Chỉ có con người mới có khả năng yêu thương vì con người giống Thiên Chúa.
Nhưng tình yêu ở nơi con người chưa hoàn hảo vì còn chen lẫn nhiều ích kỷ, hận thù, ghen ghét. Vì thế con người còn phải thanh luyện cho tình yêu ngày càng thêm tinh tuyền, thêm quảng đại, thêm phong phú. Càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa. Càng quảng đại con người càng gần với trái tim Thiên Chúa. Càng quên mình con người càng tham dự vào sự sống Thiên Chúa.
Được sinh ra trong tình yêu nên con người phải sống bằng tình yêu. Như thế con người mới sống trọn định mệnh đời mình. Như thế con người mới đạt được cùng đích đời mình là sống hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là sự sống sung mãn, là thiên đàng hạnh phúc, con đã được sinh ra trong tình yêu của Chúa. Xin cho con biết sống tình yêu hy sinh theo gương Chúa Giêsu Kitô, để con được kết hợp với Chúa, sống chan hoà hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Thiên Chúa là tình yêu. Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa thế nào?
2) Bạn có là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa chưa?
3) Bạn làm gì để sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Tình yêu luôn bất tử. Nó tồn tại mãi bởi tình yêu luôn đẹp về tình người, về hy sinh, về dâng hiến. Tình yêu càng nhiều hy sinh thì tự bản chất nó sẽ vĩnh cửu vì người đời luôn tán dương, ca tụng. Tình yêu càng giầu về tình người càng bất diệt vì muôn thế hệ sẽ truyền tụng nhau về một tình yêu cao đẹp tuyệt vời.
Có một câu chuyện xảy ra ở một bệnh viện nhỏ ở vùng quê hẻo lánh. Ở khoa hóa trị có một phụ nữ trẻ đang trong giai đoạn cuối của căn bệnh ung thư. Tuy luôn bị những cơn đau hành hạ nhưng những khi chồng cô tới thăm, mắt cô luôn rạng ngời hạnh phúc.
Hằng ngày người chồng mang đến cho cô những bó hoa tươi thắm cùng nụ cười rạng rỡ, anh đến bên giường nắm lấy tay cô và trò chuyện. Những lúc quá đau đớn, cô khóc và trở nên cáu gắt, anh ôm chặt cô vào lòng, an ủi động viên cho đến khi cơn đau dịu đi. Anh luôn bên cô mỗi khi cô cần, anh giúp cô uống từng ngụm nước và không quên vuốt nhẹ đôi chân mày của cô.
Cho đến khi căn bệnh muốn cướp lấy sinh mạng cô. Người bác sĩ bước vào phòng thấy người chồng vẫn ngồi bên cô mỉm cười nói: “Cho đến bây giờ món quà tuyệt vời nhất tôi dành cho cô ấy chính là tình yêu của tôi”.
Và người chồng đã cất lên bài hát “Beautiful brown eyes”. Sau đó anh đã nói với bác sĩ trong nước mắt: “Tôi đã hát bài này mỗi đêm cho cô ấy nghe kể từ ngày chúng tôi quen nhau. Mọi ngày tôi vẫn thường cố giữ cho giọng mình thật nhỏ để khỏi làm phiền bệnh nhân khác. Và tôi chắc rằng đêm nay trên thiên đường cô ấy cũng vẫn nghe tôi hát. Tôi xin lỗi đã quấy rầy mọi người. Tôi chỉ không biết sống ra sao khi thiếu vắng cô ấy, nhưng mỗi đêm tôi vẫn tiếp tục hát. Bác sĩ có nghĩ rằng cô ấy nghe thấy tiếng tôi không?”.
Tình yêu của họ trở thành bất tử khi họ cùng chăm sóc nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Họ nắm tay nhau khi hạnh phúc và cả khi gặp đau khổ bủa vây. Họ vẫn tiếp tục ở bên nhau dầu âm dương tách biệt.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Ngài vẫn trường tồn vượt mọi thời gian. Qua mỗi thời đại, Thiên Chúa luôn bày tỏ tình yêu của mình xuống cho nhân loại với cách thế khác nhau. Tình yếu ấy luôn thủy chung, sắt son cho dù con người có quay lưng nhưng tình yêu ngài vẫn trường tồn dành cho con người.
Hôm nay mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng ta “như con ngươi trong mắt Ngài”. Chúa biết rõ từng cuộc đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với tình yêu ban đầu, vì cho dầu “như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta cũng không bao giờ bỏ các ngươi”. Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân. Vâng, có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Vì con người là “hoạ ảnh của Chúa”, nên con người phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa Ba Ngôi là suối nguồn tình yêu dẫn chúng ta đi sâu vào huyền nhiệm tình yêu của Chúa để chính chúng ta cũng biết thở ra hơi ấm tình thương cho anh em của mình. Xin cho chúng ta biết ghi dấu ấn muôn đời nơi thế gian khi biết sống hết mình yêu thương như Chúa đã yêu. Amen.
.
NHÂN DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành lễ Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh, giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và uy quyền bằng nhau. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa.
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới. Đây là Một trong những mầu nhiệm cao cả nhất của đức tin chúng ta. Mục đích của Giáo hội muốn rằng, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta phải đi loan báo Thiên Chúa thật cho mọi người, không kể là Do thái hay dân ngoại, cho họ biết Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa Ba Ngôi hiệp nhất trong Tình Yêu và ca lên : « Chúc tụng Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Người hằng thương xót chúng ta » ( Ca nhập lễ).
Một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh hồn là mầu nhiệm Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi. Nhưng làm sao chúng ta có thể diễn tả hay thấu hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Người mà chúng ta biết có Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Thánh Augustinô viết : « Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được ».
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu này và một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá : Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm … Như vậy, Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.
Dấu Thánh Giá là dấu kẻ có Đạo.
Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên Thánh Giá mà chúng ta là những người « kitô hữu », nghĩa là thuộc về Đức Kitô. Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta.
Trong năm Phụng vụ, có hai thời điểm giúp người kitô hữu ý thức về giá trị của Dấu Thánh Giá.
– Mùa Phục Sinh chỉ cho ra rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ cây Thánh Giá.
– Lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi.
Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được « vẽ » và « ghi » dấu Thánh Giá. Dấu này bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Hành động Đức Tin
Dấu Thánh Giá tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.
1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
2 – Dấu Thánh Giá nhắc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta. Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.
3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc : « Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần ». Chúng ta khẳng định mầu định Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.
Hành động của Đức Cậy.
Niềm hy vọng của chúng ta là về Trời như các thánh đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta, nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Ngài đã mở cửa Trời cho chúng ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.
Hành động Đức Mến.
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với « tha nhân ».
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang : ngụ ý nói rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được « nâng đỡ » bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Ý muốn nói, trong hành động của đức Ái : « yêu tha nhân là yêu chính Chúa ».
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không ?
Hai điều cần thiết : là mến Chúa và yêu người ». Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần : “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Amen.
.
Bông Hồng Nhỏ
Những cuộc gặp bí mật giữa hai người: một vị thầy vĩ đại và một người môn đệ bí mật. Những điều Thầy dạy làm lòng người học trò phấn chấn. Một tình yêu tuyệt đẹp mà mãi đến sau này người môn đệ ẩn mình mới cảm nghiệm và thưởng nếm được hương vị tuyệt vời của tình yêu ấy cách đầy đủ nhất.
Một tình yêu mầu nhiệm và cao vời được Đức Giêsu mặc khải cho ông Nicôđêmô. Tâm hồn ông được mở ra, được hiểu biết về tình yêu của Chúa Cha và chương trình cứu độ của Người. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời…” Người Con ấy chính là Chúa Giêsu.
Thiên Chúa Cha đã khiêm nhường và tín trung đến cùng. Ngài đã yêu nhân loại dù cho họ nhiều lần rời xa bóng cánh của Ngài. Đến cả Người Con Một duy nhất, Thiên Chúa cũng không tiếc mà tặng ban cho nhân loại. Có người cha nào giàu lòng thương xót hơn Chúa Cha?
Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ cách rõ ràng và cụ thể nơi Đức Giêsu. Ngài đã nhập thể, mặc lấy thân phận con người, đã vâng lời Chúa Cha cách đẹp nhất khi Ngài dang tay trên thánh giá. Ngài dạy chúng ta tiếng nói xin vâng thật tuyệt. Khi yêu như Chúa, chúng ta cũng được mời gọi sống lời xin vâng.
Vừa mới chào đời, Giêsu đã sống với một trái tim bằng thịt đầy thương yêu. Trái tim ấy vang lên bài ca yêu thương đến hơi thở cuối cùng. Tình yêu Chúa Cha và nhân loại đã hối thúc con tim Ngài cháy lửa yêu mến. Ngọn lửa nào đang cháy sáng và thiêu đốt tâm hồn chúng ta? Có phải là ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào mặt đất, đặt vào trong tâm hồn mỗi người? Phải chăng là ngọn lửa của hận thù và ghen ghét đang tiêu tan tình yêu nơi tâm hồn chúng ta?
Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống luôn ở với, ở trong và ở giữa mọi người. Ngài hoạt động trong lòng nhân loại và trong tâm hồn mỗi tín hữu, nhờ đó họ được nhuần thắm muôn ơn. Đến với Đấng Thánh Linh, tâm hồn chúng ta sẽ được đổi mới và nên cháy lửa yêu mến.
Thiên Chúa là tình yêu. Sống trong Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi sống yêu thương theo khuôn mẫu tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi gia đình luôn được mời gọi sống yêu thương, hiệp nhất nên một.
Để được sống đời đời trong tình yêu Thiên Chúa, phúc cho những ai tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Chúng ta hãy sống niềm tin ấy cách mãnh liệt và cụ thể. Bằng những hy sinh và từ bỏ, chúng ta sẽ trở nên những chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa.
.
Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng
Cách đây 15 thế kỷ, Thánh Patrick từ Anh Quốc đến truyền đạo cho dân tộc Ái-Nhĩ-Lan. Một hôm, Ngài giải thích cho các tín hữu về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Có một Thiên Chúa duy nhất, nhưng có Ba Ngôi: Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Ba Ngôi vị khác biệt, nhưng cùng một bản tính duy nhất. Sau khi thao thao bất tuyệt giảng dạy. Thánh Patrick hỏi lại các tín hữu xem họ có hiểu hay không. Nhưng vốn là những nông dân đơn sơ, quê mùa, các tín hữu trả lời là: Có ba Thiên Chúa! Thánh Patrick không biết làm sao để giúp các tín hữu của Ngài hiểu phần nào Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Một hôm khi ở ngoài đồng, Ngài thấy những lá cây có ba nhánh. Ngài liền cầm lá cây đó đem về để giảii thích cho các tín hữu biết. Như chiếc lá có ba nhánh khác nhau, nhưng chỉ có một chiếc lá duy nhất. Cũng vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa khác biệt, nhưng chỉ có một Chúa duy nhất.
Do truyện trên đây, ngày nay mỗi năm vào ngày lễ Thánh Patrick (17/03), các tín hữu đảo Ái Nhĩ Lan vãn gắn hình chiếc lá ba nhánh vào nón hoặc vào áo để kỷ niệm biến cố này.
Nói đến Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, có nhiều người nghĩ rằng Chúa có Ba Ngôi hay năm Ngôi; điều đó có hệ gì đến loài người chúng ta đâu!
Tuy nhiên, nếu chúng ta tin nhận lời Kinh Thánh dạy, con người đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thì chúng ta không thể dửng dưng đối với Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được. Vì đó là mẫu mực của cuộc sống con người. Và cuộc đời tín hữu phải phản ảnh cuộc sống và bản chất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô cũng đã bộc lộ phần nào phẩm chất của Ba Ngôi Thiên Chúa: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Thiên Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em”. Đó là những phẩm tính mà Thiên Chúa muốn thấy chúng hiện hữu trong mỗi người tín hữu, là những người đã được tạo dựng nên theo hình ảnh của Ngài.
Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Sáng danh Thiên Chúa, Đấng đã đó, đang có và sẽ đến.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Một sinh viên vô thần nói với một vị linh mục: thưa cha, tôi thấy trong Kitô giáo có một chân lý khó tin, lạ lùng gọi là “mầu nhiệm Ba Ngôi”. Phải hiểu thế nào kiểu nói “Thiên Chúa có một bản tính nhưng ba ngôi vị”? Một mà ba, ba mà một! Thật khó hiểu, nếu không nói là phi lý!.
Vị linh mục hỏi: Anh còn trẻ, chắc đang sống kinh nghiệm tình yêu?
Ủa! Sao cha hỏi lại thế ? Đúng là tôi đang yêu thật!
Theo anh, tình yêu trước hết đòi hỏi phải có những gì?
Đòi hỏi phải có từ hai người trở lên! Tự ái chỉ là ích kỷ, không thể gọi là tình yêu được!
Đúng lắm! Nhưng tình yêu hướng đến cái gì?
Hướng đến sự hiệp nhất! Tất cả phải nên một! Tình yêu nam nữ hướng đến hiệp nhất tâm hồn, thể xác và cuộc sống. Tình đồng chí, tình bằng hữu… hướng đến hiệp nhất cuộc sống và tâm hồn!
Nhưng theo anh, sự hiệp nhất này có bao giờ đạt được chăng?
Phải nói ngay đó chỉ là ước vọng. Ví dụ, những năm đầu cuộc sống hôn nhân thì “anh nói em nghe, em nói anh nghe”, nhưng năm sau thì “cả hai cùng nói, hàng xóm nghe!”. Trong một tập thể nhiều người, đồng tâm nhất trí lại càng khó thực hiện.
Cái chỉ là ước vọng nơi con người, thì đã thành hiện thực nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa độc nhất, nhưng vì Ngài là Tình Yêu nên có Ba Ngôi. Ngài là Ba Ngôi, nhưng vì là Tình Yêu, nên đã hợp nhất thành một Thiên Chúa.
Cho tôi hỏi câu cuối cùng: Tại sao là ba mà không phải là hai, như trong tình yêu nam nữ?
Sau này có gia đình, anh và vợ chỉ yêu nhau mà không muốn có con, sợ thêm hy sinh, thêm trách nhiệm, tình yêu anh chị có chân thật và bền vững không?
Thưa không! Tình yêu chúng tôi phải chảy tràn qua và thể hiện thành một đứa con, ít nhất một đứa; nếu không thì chỉ là tình yêu mình trong người bạn đời của mình. Ngoài ra, tình yêu ấy còn phải trải rộng cho mọi người chung quanh nữa!
Anh bạn thân mến, anh sắp hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rồi. Nhưng đừng áp dụng quá sít sao đấy nhé!
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau :
Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng.
Đố ai quét sạch lá rừng,
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định : Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta”.
Kinh thánh mạc khải cho biết “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Mà nếu Chúa là tình yêu, thì tình yêu không thể hiện hữu một mình. Yêu là phải cho đi, phải san sẻ; và yêu cũng phải là đón nhận.Thánh Augustinô đã ví Chúa Cha là nguồn mạch, là điểm phát xuất của Tình Yêu; Chúa Con là hội tụ, là điểm quy chiếu của tình yêu; và Chúa Thánh Thần là sự liên lạc hai chiều, là mối dây liên kết của tình yêu.
Tình yêu xuất phát từ Chúa Cha, đến với Chúa Con, qua Chuá Thánh Thần. Trong mầu nhiệm tình yêu, Cha trao tất cả cho Con; Con dâng hiến tất cả cho Cha; và Thánh Thần là sự hiệp thông của trao ban và lãnh nhận hai chiều giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Cha không hiện hữu cho chính mình, nhưng cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Cũng vậy, Chúa Con không hiện hữu cho mình, nhưng cho Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Và Chúa Thánh Thần cũng hiện hữu vì Chúa Cha và Chúa Con.
Qua con người và cuộc đời của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, chúng ta cảm nhận rằng Thiên Chúa là Đấng rất nhân từ, giàu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung. Thiên Chúa không là gì khác ngoài Tình Yêu. Ngài có thể làm tất cả vì Ngài Toàn Năng, nhưng đúng hơn, Ngài chỉ có thể làm những gì mà tình yêu có thể làm, và Ngài không thể làm những gì trái với tình yêu, vì bản chất của Ngài là yêu thương.
Không ai lý giải cặn kẽ được tình yêu nhưng vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài nên cứ nhìn vào tấm gương tình yêu phản chiếu nơi con người, ta có thể bập bẹ đôi điều về Thiên Chúa :
1) Yêu là ra khỏi mình để hướng tới người khác :
Nói đến yêu là chúng ta nói đến người thứ hai, thứ ba, là nói đến một đối tượng khác với chúng ta. Nếu Thiên Chúa là Tình Yêu mà Ngài chỉ yêu một thân mình Ngài thì đó là ích kỷ, và như vậy không phải là Thiên Chúa của tình yêu. Nếu “Thiên Chúa là Tình Yêu” thì Thiên Chúa ấy không cô độc một mình. Từ đời đời Ngài đã hướng về Chúa Con, đã yêu thương Chúa Con bằng Tình Yêu khôn tả là chính Chúa Thánh Thần.
2) Yêu là chấp nhận sự khác biệt của nhau :
Nếu chúng ta chỉ yêu cái gì giống mình, cái gì hợp với sở thích của mình, chỉ yêu những người tốt bụng thì không phải là yêu người mà chỉ là yêu mình, là chúng ta đã bóp chết tình yêu, không làm nảy nở tình yêu. Yêu thương là chấp nhận cái hay lẫn cái dở, sự giàu có lẫn sự nghèo nàn của người mình yêu vì họ khác với mình.Chúa Cha yêu Chúa Con, nghĩa là Chúa Cha khác với Chúa Con. Chúa Con phải là một Ngôi Vị khác với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa mới là Tình Yêu.
3) Yêu nhau là muốn nên một với nhau :
Càng yêu nhau thì càng hài hòa trong chính sự khác biệt, vì “yêu nhau củ ấu cũng tròn”. Chúng ta vẫn thường nói về tình yêu vợ chồng: “Ta với mình tuy hai mà một”. Bản chất con người là giới hạn nên sự hiệp nhất của con người không toàn vẹn, song quyền năng vô hạn của Thiên Chúa làm cho sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là trọn vẹn tuyệt đối. Chúa Cha và Chúa Con yêu nhau hết mình, yêu đến quên mình nên đã trở nên một trong Tình Yêu là Chúa Thánh Thần.
Như thế chỉ trong tình yêu, chúng ta mới dễ hiểu : tự bản chất, Thiên Chúa không thể là một ngôi vị đơn độc; và rằng chỉ trong tình yêu ‘chín bỏ làm mười’, chúng ta mới hiểu được Thiên Chúa vừa là ba, lại vừa là một.
Chúng ta có thể quan niệm mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như một gia đình: Gia Đình Thiên Chúa. Gia đình tuy có ba thành phần khác nhau, song luôn luôn hiệp nhất với nhau. Yếu tố nòng cốt để có sự hiệp nhất trong gia đình chính là tình yêu, và tình yêu làm nên hạnh phúc, mà bản chất của Thiên Chúa lại là Tình yêu. Chúng ta cũng thuộc về Gia Đình Thiên Chúa khi sống yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Thực vậy, sống yêu thương là sống ở trong Thiên Chúa; và đó là Nước Trời, vì “ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Gia đình yêu thương là làm cho hạnh phúc ngắn hạn của trần gian này được biến đổi trở thành hạnh phúc vĩnh cửu trong Gia Đình Thiên Chúa (x. Mầu nhiệm Ba ngôi, Giáo lý GP Đà lạt).
Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau.Ba Ngôi là một gia đình.Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa.Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau.Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo.Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin.Thực tại Ba Ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý.Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô, khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.
Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống, đó là tình yêu thần linh.Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ.Với chúng ta, sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua Thánh Thể “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6,34). Khi chia sẻ chén hiệp thông của Ba Ngôi,chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một (Ga 17,21).
Người tín hữu đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Đức Hồng y Henry de Lubac diễn tả: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương.Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng.Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa,tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu,không gặp mâu thuẫn và đau khổ.Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Qua phép rửa nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, chúng ta trở thành nghĩa tử của Chúa Cha (x.Rm 8,15), em của Chúa Con (x.Rm 8,29) và đền thờ của Thánh Thần (x.1Cr 6,19), hợp thành Giáo Hội là “dân thánh được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi” (Hiến chế GH 4). Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong gia đình, cha mẹ, con cái yêu thương nhau thì càng hiệp nhất nên một. Tình yêu là dây liên kết mọi người nên một gia đình hạnh phúc ấm êm. Gia đình là nơi sống và diễn tả huyền nhiệm Ba Ngôi rõ nét nhất.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, sống tình yêu thương trong cuộc sống hàng ngày của mình.
.
THIÊN CHÚA SAI CON CỦA NGƯỜI ĐẾN THẾ GIAN
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Hôm nay, Giáo hội tuyên xưng và tôn vinh mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo. Phụng vụ lời Chúa trình bày tình thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trong sách Xuất Hành, Thiên Chúa mạc khải cho Môisê: Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, giàu ân nghĩa và thành tín”.
Thánh Phaolô trong thư gởi Corintô đã kêu gọi người tín hữu hãy vui mừng và sống hoà thuận thương yêu nhau bởi vì họ được Thiên Chúa yêu thương và ban đầy ân sủng cho mỗi người.
Bài Tin mừng ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận tình thương của Thiên Chúa đối với con người: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Thánh Gioan đã định nghĩa: “Thiên chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Bài Tin mừng hôm nay đã nói lên đặc tính của Thiên Chúa tình thương.
– Yêu thương là cho, cho chính bản than, cho những gì quý báu nhất, cho tất cả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian”.
– Yêu thương là làm cho sống và sống dồi dào, phong phú… “Để ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Khi người ta yêu thương nhau, thì người ta làm cho nhau những điều tốt lành nhất. Thiên Chúa yêu thương con người đã sai Đức Giêsu, Con của Ngài đến để con người được hưởng ơn cứu độ.
– Yêu thương là tha thứ. Bài đọc 1 cho thấy dân Do Thái đã phản tội Thiên Chúa: thờ bò vàng nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương và tha thứ, bởi vì Ngài là Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giầu ân nghĩa và thành tín.
Như thế, lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của tình thương. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người được hạnh phúc.
Đoạn Tin mừng về cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô nói đến Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu con của Thiên Chúa là nguyên lý cứu độ. Chính Chúa Cha sai Chúa con đến trần gian. Tuy không đề cập tới Chúa Thánh Thần, nhưng nếu đọc tiếp cuộc đối thoại này sẽ có đoạn nói về ơn tái sinh bởi nước và thần khí, tức là Chúa Thánh Thần. Vì thế qua đoạn Tin mừng này, chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa sai Con Một đến trần gian, bằng cách thông ban Thánh Thần. Và Thánh thần đưa thế gian lên cùng Chúa Cha nhờ Chúa Giêsu Kitô. Tin mừng hôm nay nói lên hoạt động của ba Ngôi Thiên Chúa trong việc cứu rỗi trần gian nên được phụng vụ chọn để suy niệm vào lễ Chúa Ba Ngôi.
Mừng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là sống tâm tình cảm tạ tình thương bao la của Thiên Chúa và đối xử với tha nhân trong tình huynh đệ bác ái chân thành. Tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa bằng cách làm dấu thánh giá một cách sốt sắng và ý thức hơn, mến Chúa hơn.
Quyết tâm sống lương thiện, trong sạch, sống đạo đức để tâm hồn chúng ta trở nên đền thờ cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự, để được sống trong tình thương của Thiên Chúa Ba Ngôi “Ai ở trong tình thương thì ở trong Thiên Chúa”.
Bác nông phu Donninggos ở Brasil sống bằng nghề trồng bắp. Một buổi sang sắp ra đồng làm việc, đứa con trai chạy theo nói với bố:
– Hôm nay là ngày sinh nhật của con, bố đừng quên mang 2 con chim nhỏ về làm quà cho con nhé!
– Được, cha sẽ bắt chim về tặng con.
Người Cha vốn thương con, vui vẻ nhận lời và hứa với con. Khoảng 4 giờ chiều, nhớ tới lời dặn của con, bác vào rừng và leo lên ngọn cây cao ở đây có một ổ chim rất lớn. Bác vừa với tay vào ổ chim, thì một con rắn độc cắn vào bàn tay phải của bác. Bác nông phu phải chặt bàn tay để cứu mình. Tuy nhiên, bác không quên đem 2 con chim về làm quà sinh nhật cho con. Bác Donningos đã yêu thương con, hy sinh bàn tay để giữ lời hứa và đem hạnh phúc cho cậu con trai.
Thiên Chúa Ba Ngôi cũng thế: yêu thương chúng ta hơn mọi người cha trên trần gian. Sống mầu nhiệm Ba Ngôi là sống mầu nhiệm tình thương trong gia đình, trong xã hội.
.
SỐNG YÊU THƯƠNG THEO GƯƠNG MẪU CHÚA BA NGÔI
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm quan trọng nhất trong các mầu nhiệm của Đạo Công Giáo. Bởi vì mầu nhiệm này là mẹ sinh ra các mầu nhiệm khác, nói cách khác, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm nguồn của mọi mầu nhiệm.
Khi nói đến mầu nhiệm, người ta cảm thấy không thể lý giải được theo sự hiểu biết tự nhiên, vì thế, nó đã trở nên rào cản và cớ vấp ngã cho những ai mong thỏa mãn sự hiếu tri và đang cố gắng đi tìm cho được lời giả đáp “Ba Ngôi Một Chúa”; hay “Một Chúa Ba Ngôi”. Nhưng với những người có niềm tin, qua ánh sáng mặc khải soi chiếu, và luôn khao khát đi tìm ý nghĩa của nó, thì mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không xa lạ, nhưng lại rất gần gũi, mặc dù cao siêu và vượt quá sức tưởng của con người. Qua mầu nhiệm này, chúng ta khám phá được sự hiệp nhất, yêu thương nơi Thiên Chúa, và mỗi lần Giáo Hội cử hành mầu nhiệm này, Giáo Hội luôn mời gọi con cái mình yêu thương nhau theo khuôn mẫu của Ba Ngôi Thiên Chúa để được cứu độ.
- Bản chất Thiên Chúa là “Tình Yêu”
Khi nhắc đến Thiên Chúa, hẳn mỗi chúng ta đều có một định nghĩa riêng về Người, tuy nhiên, thánh Gioan đã cho chúng ta biết một mặc khải rất quan trọng khi nói về Thiên Chúa, đó là: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Khi nói đến tình yêu, chúng ta ai cũng hiểu rằng tình yêu thì không “đơn phương độc mã”, không ích kỷ cũng chẳng bon chen; không quy chiếu về mình mà luôn hướng tha.
Muốn có được tình yêu, ắt phải đón nhận. Khi có cả hai chiều cho và nhận, thì tình yêu mới thực sự triển nở và ý nghĩa. Như vậy, tình yêu phải có điểm xuất phát, điểm hội tụ và mức độ lan tỏa.
Khi diễn tả ý tưởng trên, thánh Âutinh đã ví: “Nguồn mạch chính là Chúa Cha, Người chính là điểm xuất phát tình yêu; Chúa Con chính là điểm hội tụ, là điểm quy chiếu của tình yêu; và Chúa Thánh Thần là sự liên lạc hai chiều, là mối dây liên kết của tình yêu và làm cho tình yêu được tỏa sáng”.
Trong lối diễn tả của thánh Âutinh cho thấy tình yêu được khởi đi từ Thiên Chúa Cha, đến với Chúa Con và qua Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa Cha vì yêu nên đã trao ban tất cả, ngay cả Người Con duy nhất của mình cho nhân loại. Chúa Con đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha trọn vẹn đến nỗi bằng lòng chết trên thập giá để thực hiện ý định yêu thương của Chúa Cha cho nhân loại. Chúa Thánh Thần là mối dây liên lạc, thông hiệp giữa Chúa Cha và Chúa Con nhờ tình yêu.
Như vậy, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu hướng ra để làm cho lan tỏa.
Thiên Chúa không để dành tình yêu cho chính mình, cho riêng Cha, Con và Thánh Thần, nhưng chính là cho chúng ta, những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh của Người, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8); “… nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6). Như vậy, Thiên Chúa là tình yêu.
- Thiên Chúa “yêu” đến cùng
Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua hành vi tự hiến của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16a). Từ “đến nỗi” ở đây cho thấy Thiên Chúa yêu đến tột cùng, yêu “đến nỗi” không còn gì để diễn tả, để trao ban hơn được nữa, vì thế chỉ còn cách duy nhất là trao ban chính Con của mình đến để diễn tả tình yêu cho nhân loại bằng chính cái chết mà thôi.
Tại sao Thiên Chúa lại trao ban Con Một? Thưa! “…để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16b). Như vậy, Tình yêu chân chính là mong sao người mình yêu được hạnh phúc hơn cả bản thân mình. Thật vậy, Thiên Chúa yêu thế gian cách tuyệt đối và mong sao cho chúng ta được hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đối là được vào ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” Ga 3,17).
- Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mời gọi ta sống yêu thương
Qua mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi, mỗi người chúng ta được mời gọi sống yêu thương, hiệp nhất như Thiên Chúa là tình yêu. Không yêu thương nhau, chúng ta vẫn mãi là người xa lạ với mầu nhiệm này, bởi vì mầu nhiệm này là mầu nhiệm tình yêu, muốn hiểu được thì phải yêu. Nói như thánh Gioan: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8), nên “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8).
Vì thế, trong đời sống gia đình, mỗi người hãy yêu thương nhau. Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô yêu thương Hội Thánh, và như Hội Thánh phục tùng Đức Kitô thế nào, thì người vợ cũng phục tùng chồng mình trong mọi sự như vậy. Sự xuất hiện của người con trong đời sống hôn nhân chính là kết quả của tình yêu giữa vợ và chồng, vì thế, như một điều kiện cần để được hạnh phúc, con cái hãy yêu mến cha mẹ mình và tỏ lòng thảo hiếu với cha mẹ để đáng được hưởng sự chúc lành của Thiên Chúa.
Tình yêu ấy lại không chỉ dừng lại với chính người thân của mình, mà còn phải hướng ra xa, rộng lớn hơn tới hết mọi người, kể cả yêu kẻ thù của mình nữa.
Như vậy, để tình yêu có giá trị, cần phải có sự hy sinh, quên mình và phục vụ lẫn nhau. Yêu nhau mà không chấp nhận hy sinh, gian khổ vì nhau và với nhau, thì chưa phải là tình yêu thật sự.
Khi yêu như thế, tình yêu của vợ chồng và con cái cũng như với tha nhân đang phỏng chiếu tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống thực tại của mình.
Muốn giữ được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa nơi mình, người kitô hữu phải luôn ý thức mình thuộc về Thiên Chúa, khi thuộc về Người, thì ta cũng sẽ trở nên những người có: “… lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau” Cl 3,12-13).
Mong sao, mỗi khi chúng ta đặt tay lên trán, trên ngực và ngang vai, để tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thì cũng là lúc chúng ta nhớ đến bản chất của mầu nhiệm này là tình yêu; đồng thời, chúng ta cũng xin Chúa ban cho chúng ta được sống trong tình yêu đó của Thiên Chúa để“… đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần” (2 Cr 13,13), hầu chúng ta cùng mạnh dạn tuyên xưng: “Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen”.
.
Trầm Thiên Thu
THIÊN CHÚA CHÍ LINH TAM VỊ NHẤT THỂ
CHÚNG NHÂN TÔN KÍNH MỘT CHÚA BA NGÔI
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi – Đấng Tam Vị Nhất Thể (La ngữ: Trinitas, Hy ngữ tương đương: Triados, Anh ngữ: Trinity, Pháp ngữ: Trinité) – là mầu nhiệm trung tâm của đức tin, và được mệnh danh là “bí mật tận cùng”.
Hằng ngày, từ lúc thức dậy ban sáng tới lúc đi ngủ ban đêm, nhiều lần chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi qua việc làm dấu Thánh Giá: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Đó là kinh phổ biến nhất, và kinh được học từ khi còn nhỏ xíu. Mỗi khi làm dấu Thánh Giá, chúng ta vừa chúc tụng vừa tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, thường quen gọi tắt là “làm dấu”, thế nhưng có điều cần lưu ý: đôi khi người ta không làm DẤU mà lại làm GIẤU – nhất là khi có “người lạ” (khác đạo) hoặc nơi công cộng (tiệc tùng, hàng quán,…). Việt ngữ độc đáo và ý vị biết bao!
Hằng ngày, ngoài việc làm dấu Thánh Giá – dấu đơn và dấu kép, chúng ta còn nhiều lần chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi khi chúng ta cầu nguyện – chung hoặc riêng: “Sáng danh Ðức Chúa Cha, và Ðức Chúa Con, và Ðức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng, và hằng có, và đời đời chẳng cùng” (Kh 1:8). Chính Chúa Giêsu cũng đã căn dặn chúng ta phải nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi khi hành động: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19).
Kinh Thánh cho biết rằng, vào một buổi sáng sớm, ông Môsê lên núi Sinai theo lệnh truyền của Thiên Chúa, và ông mang theo hai bia đá. Chính hai bia đá này được ông dùng để ghi khắc Thánh Luật (Thập Giới, Mười Điều Răn). Khi Thiên Chúa ngự giá trên đám mây, ông Môsê đứng trước mặt Chúa và kêu cầu danh Chúa. Ngài đi qua trước mặt ông và hô: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông” (Xh 34:6-7). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nhưng cũng rất công bình, Ngài “không bỏ qua điều gì” và “trừng phạt tam tộc”. Người Việt chúng ta cũng có câu: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Điều đó cho thấy tội lỗi có tính liên đới chứ không đơn giản như chúng ta tưởng.
Ngay khi nghe tiếng Đức Chúa, ông Môsê vội vàng phục xuống đất thờ lạy và thân thưa: “Lạy Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa thì xin Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài” (Xh 34:9). Thiên Chúa quá đỗi nhân từ, thấy dân bướng bỉnh nhưng vẫn tha thứ và trao ban cơ nghiệp. Hằng ngày không thiếu những kẻ ngang ngược mà vẫn được ung dung tự tại, còn những người tốt lành đôi khi lại chịu cảnh “họa vô đơn chí”. Mưa và nắng không riêng ai, Thiên Chúa ban cho mọi người – kẻ xấu và người lành, công chính và bất chính (x. Mt 5:45).
Thiên Chúa đã tạo dựng con người, nhưng vì thích ăn “trái cấm” và kiêu căng, vì thế mà con người mất ơn nghĩa với Ngài và bị “con rắn” quấn chặt. Đó là chiếc vòng kim cô tội lỗi. Tuy nhiên, Ngài vẫn hết mực yêu thương chúng ta nên Ngài lại “tháo gỡ” cho chúng ta bằng Bí tích Thánh tẩy và Bí tích Hòa giải, đặc biệt là cho Ngôi Hai nhập thể làm người và chịu chết để cứu độ chúng ta, khôi phục nguyên trạng cho chúng ta là lại được quyền làm con như xưa. Ngài đã sinh chúng ta hai lần – và nhiều lần khác, mỗi khi chúng ta xưng tội. Đó là đại đặc ân của lòng thương xót mà chúng ta không thể hiểu hết. Vả lại, chính Chúa Giêsu đã xác định: “Lòng thương xót của Ta lớn hơn tội lỗi của cả nhân loại” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1485). Do đó, chúng ta phải biết chúc tụng Chúa trong mọi hoàn cảnh. Việc chúng ta chúc tụng Chúa cũng chẳng thêm gì cho Ngài nhưng sinh ích lợi cho phần rỗi của chúng ta (Kinh Nguyện Thánh Thể).
Thuở xưa, ngay lúc ở trong lò lửa, A-da-ri-a vẫn hát vang bài thánh ca: “Lạy Chúa, chúc tụng Ngài là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Chúc tụng Chúa trong thánh điện vinh quang, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời. Chúc tụng Chúa trên ngôi báu cửu trùng, xin dâng lời ca tụng suy tôn muôn đời. Chúc tụng Chúa, Đấng ngự trên các thần hộ giá mà thấu nhìn vực thẳm, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Chúc tụng Chúa trên vòm trời tận chốn cao xanh, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời” (Ðn 3:52-56).
Được hiện hữu trên cõi đời này cũng đủ để chúng ta phải dâng lời ca tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là bổn phận, là trách nhiệm, đồng thời cũng là niềm hạnh phúc của chúng ta. Chúc tụng Thiên Chúa khi chúng ta êm ả như dòng sông hiền hòa thì không khó, nhưng thật khó nếu cuộc đời chúng ta gặp điều bất trắc mà vẫn ca tụng Ngài. Thánh Gióp là tấm gương sáng điển hình mà chúng ta cần soi vào. Vì thế, chúng ta phải cố gắng không ngừng. Dù bị trắng tay và khốn khổ cùng cực, nhưng Thánh Gióp vẫn chấp nhận và dâng lời chúc tụng Thiên Chúa: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa” (G 1:21). Ước gì mỗi chúng ta đều hành động như Thánh Gióp!
Chân thành chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi là thể hiện niềm tín thác vào Ngài, niềm tin đó còn phải được thể hiện với nhau trong cuộc sống đời thường. Đó không chỉ là điều cần thiết mà còn là bổn phận với nhau, vì mọi người đều có mối liên đới với nhau – dù chiều ngang, chiều dọc, chiều cao, chiều rộng, hoặc chiều xéo. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an sẽ ở cùng anh em. Anh em hãy hôn chào nhau cách thánh thiện” (2 Cr 13:11-12). Đó là ước muốn thánh thiện, phù hợp với mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Và Thánh Phaolô cầu chúc mọi người: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen” (2 Cr 13:11-13). Thật hạnh phúc khi chúng ta đang được sống trong lời cầu chúc đó, vì cuộc sống chúng ta luôn đầy ơn Chúa, tình Chúa và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần.
Khi đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giêsu đã dẫn chứng minh nhiên: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Quả thật như vậy, và còn hơn thế nữa: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:17-18). Quá rõ ràng và cụ thể!
Là Kitô hữu, chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng toàn năng, hằng hữu và hằng sinh, chúng ta luôn phải tạ ơn Ngài mọi nơi và mọi lúc. Chúng ta vui mừng tuyên xưng Đức Tin về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa mặc khải vinh quang của Ngài như vinh quang của Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ba Ngôi bằng nhau về uy quyền, không phân chia sự huy hoàng, nhưng chỉ là Một Thiên Chúa, được phụng thờ trong vinh quang muôn đời. Sống yêu thương nhau là giữ Thánh Luật và thực hành mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã truyền (Ga 13:34-35), đồng thời cũng là sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Ở số 221, Giáo lý Giáo hội Công giáo dạy: “Chính bản chất của Thiên Chúa là yêu thương. Bằng cách sai Con Một và Chúa Thánh Thần Yêu thương một cách trọn vẹn, Thiên Chúa đã mạc khải bí mật tận cùng của Ngài: Chính Thiên Chúa – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – trao đổi tình yêu hằng hữu, và Ngài tiền định chúng ta cùng chia sẻ sự trao đổi đó”. Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng yêu thương, một bản thể mà có ba ngôi vị riêng biệt, và Đấng Tam Vị Nhất Thể không thể tách rời.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi nhắc nhở chúng ta về tình yêu thương, nghĩa là không thể ghét bất cứ ai – dù người đó như thế nào (về cả ngoại tại và nội tại). Thiết tưởng đây là điều đáng suy tư: “Người xấu bụng thì ưa chỉ trích người khác vì muốn chứng tỏ mình tốt lành, còn người tốt bụng thì luôn rộng lòng tha thứ cho người khác – kể cả người ghét mình”. Pharisêu luôn hẹp hòi, xét nét chi li, bởi vì họ sống giả hình, nhưng lại muốn chứng tỏ mình chân thật; còn Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương người khác, bỏ qua tất cả, thậm chí còn tha thứ cho những kẻ đã giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Và rồi chính Ngài không chỉ tha thứ mà còn phong thánh cho tên cướp cùng chịu hành hình với Ngài: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Hai thái cực rõ rệt!
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi hằng hữu, chí thánh và toàn năng, xin giúp con luôn biết chúc tụng và tôn vinh ngay từ khi thức dậy, vì đó là bổn phận và trách nhiệm, đồng thời cũng là hạnh phúc của con, cả khi vui lẫn lúc buồn. Xin thương ban Thần Khí Chúa để con can đảm sống đức tin trong mọi hoàn cảnh, suốt chặng đường lữ hành trần gian. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Anna Cỏ May
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Đó là câu ca dao mà người xưa đã mượn hình ảnh thiên nhiên để so sánh với con người. Một cây riêng lẻ dù to lớn đến đâu, gặp một cơn bão lớn vẫn bị bẻ gãy. Trái lại ba cây chụm lại và đan xen rễ vào nhau tạo nên một sức mạnh vững chắc thì không có gì có thể làm nó ngã đổ được. Qua hình ảnh quen thuộc ấy, ca dao gợi cho chúng ta một ý nghĩa về sự gắn kết và đoàn kết mà làm nên sức mạnh tình yêu giữa anh em, mọi người và mọi dân tộc.
Hôm nay đây, Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết về sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chỉ có Một Thiên Chúa nhưng có Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mỗi Ngôi có phân nhiệm riêng nhưng Ba Ngôi có một tình yêu duy nhất, cùng một sự sống tình yêu là thần linh và luôn tỏ lộ tình yêu cho chúng ta.
Vậy Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu như thế nào? Như trong Sách Sáng Thế cho chúng ta biết Chúa Cha tạo dựng nên tất cả mọi sự và cho con người hưởng dùng. Nhưng con người đã bất vâng phục mà gây bao nhiêu tội lỗi. Chúa Cha đã không muốn con người phải chịu đau khổ nên đã sai Con Một của Ngài là Chúa Giêsu đến để cứu chuộc con người(x Ga 3, 16-17). Khi Chúa Giêsu hoàn tất công trình cứu chuộc, Chúa Thánh Thần được sai đến ở lại, hướng dẫn và thánh hóa con người.
Với sự hiểu và nhận biết của con người thì không thể hiểu biết được mầu nhiệm của Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì thế, chính Chúa Giêsu đã mạc khải cho con người biết tình yêu của Thiên Chúa và còn cho con người biết, con người không thể tự mình cứu thoát được, chỉ một mình Thiên Chúa mới cứu thoát con người mà thôi. Nhưng để được cứu thoát con người phải sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa (x. Ga 3, 18).
Chúng ta đã được Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương như vậy, chúng ta phải làm gì để mọi người nhận biết Ba Ngôi Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta? Sống mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu. Chúng ta cứ đi tìm những việc làm hành động vĩ đại để cho mọi người nhận biết mà chúng ta không để ý những việc nhỏ bé, dễ dàng và gần gũi nhất trong cuộc sống hằng ngày như “làm Dấu Thánh”.
Trong ngày sống, chúng ta thường làm dấu Thánh trong Thánh lễ, trong giờ kinh, trước bữa ăn…Chính khi chúng ta làm dấu Thánh là lúc chúng ta tôn vinh Ba Ngôi Thiên Chúa, để chứng tỏ lòng tin của chúng ta và mọi người cũng nhận biết Thiên Chúa. Làm dấu Thánh cũng chỉ sự khiêm nhường. Chúng ta một thân phận yếu đuối, không thể làm mọi việc, chúng ta luôn cần đến tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Có rất nhiều cầu thủ trên sân trường, trong lúc thi đấu đã có cử chỉ làm dấu Thánh để xin ơn ban của Thiên Chúa và chúng ta cũng thường làm vậy. Ngoài ra chúng ta làm dấu Thánh để tỏ lòng biết ơn về mọi sự chúng ta đã được hưởng dùng của Thiên Chúa ban cho.
Nơi mà mọi người nhận biết Ba Ngôi Thiên Chúa nhất thì có một số người trong chúng ta lại ít làm chứng được như trong các buổi tiệc, nơi đông người, trong công xưởng hay trường học…Có lẽ, chúng ta vì e ngại, chưa tự tin hay vì quá vui mà quên đi việc làm dấu Thánh. Và như thế, chúng ta bỏ lỡ mất cơ hội thể hiện tình yêu và niềm tin của chúng ta vào Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy sống và chìm đắm trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, hãy thực hiện lại những điều nhỏ bé để tôn vinh và sống trong Ba Ngôi Thiên Chúa mỗi ngày.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng con tri ân cảm tạ Chúa đã cho chúng con bài học về sự hợp nhất và yêu thương, cho chúng con thấy rõ tình yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa trong mỗi ngày. Xin cho chúng con hằng đón nhận và biết thể hiện, tuyên xưng tình yêu Thiên Chúa ở mọi nơi mọi lúc. Amen.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Gõ vào Google chữ Holy Trinity tôi tìm thấy cả một rừng giải thích về Chúa Ba Ngôi nhưng hầu hết chỉ là lịch sử hình thành tín điều, vài công thức và suy tư thần học khô khan. Lời Chúa trong Ga 3:16-18 trình bày Chúa Ba Ngôi cách sinh động hơn nhiều, có cả một nội dung của cái mà ngày nay người ta quen gọi là tính hiện sinh (existentiality), vì nó chạm tới hiện hữu sống động của từng con người nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…”
Trong những ngày này, tôi đang đọc và dịch cuốn “Heart Speaks to Heart” của tác già Windy M. Wright nói về linh đạo Sa-lê; tôi rất tâm đắc với trình bày của thánh Phan-xi-cô Sa-lê về ‘viễn ảnh một thế giới của các con tim’, đặc biệt lối diễn tả của ngài về nguồn gốc của cái thế giới đó, tuy đậm nét thần học về Chúa Ba Ngôi nhưng lại rất sinh động và đầy tính thuyết phục:
“Cho dầu trong bản chất Thiên Chúa vượt xa những gì con người có thể hình dung, ta vẫn có thể nói một cách biểu tượng rằng: Người có một Con Tim là nguồn mạch mọi thứ tình yêu. Con Tim Thiên Chúa trao ban sự sống, đó là cõi lòng. là mạch nước, là sinh lực sôi sục, nóng bỏng. Con Tim đó thở, đập nhịp và co thắt. Con Tim Thiên Chúa là Ba Ngôi vì được cấu thành bởi tình yêu hỗ tương trao ban cho nhau giữa Chúa Cha và Chúa Con ‘được thực hiện trong cùng một khát vọng duy nhất là trao hiến tình yêu cho nhau… khát vọng duy nhất đó không gì hơn là chính Thần Khí cùng được phóng ra do hai hơi thở đồng xuất ra một lúc’. Tự bản chất, yếu tính của Thiên Chúa được mường tượng như một mối tương quan rất năng động. Trong sự sung mãn vô biên, Ba Ngôi tự bùng nổ và tuôn trào. Thực tế thì tạo vật chẳng qua chỉ là kết quả của năng lượng nội tại của Tình Yêu tuôn trào và trao ban chính mình cách dư dật; hơn thế nữa, Con Tim thần linh đó tiềm tàng trong tạo vật còn hành động trong tương quan sinh động. Trong hiến dâng, Tình yêu cũng muốn lãnh nhận và lôi cuốn về mình tất cả mọi điều Người đã dựng nên; do đó ta có thể nói: Con Tim Thiên Chúa say mê, yêu mến con tim nhân loại, và hằng mong được kết hiệp với nó” (Oeuvres, V, Traité pages 203-208).
Thật là một lối diễn tả tuyệt vời: Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu sinh động sung mãn. Và ta có thể hình dung điều gì sinh động hơn là một quả tim rung động vì yêu đương, từ đó vọt ra một sức yêu mãnh liệt, chan hòa và bất tận… để rồi Con Tim đó lại muốn thu hút, thâu tóm về mình tất cả những gì mang nét yêu thương cho dầu nhỏ mọn nhất? Tạ ơn Chúa đã dựng nên con người trên cõi đời này, cho dầu thể lý hay tinh thần của họ có thế nào đi nữa…, vì tất cả họ đều được xuất phát từ Con Tim yêu đương; và còn đáng tạ ơn hơn nữa khi Người cho phép chúng quay quanh quĩ đạo của hành tinh Mặt Trời Tình Yêu chói lọi bằng chính sự yếu hèn của mình, vì nhờ đó, chúng có khả năng đón nhận lực hấp dẫn của lòng nhân ái xót thương mạnh mẽ hơn. Mạc khải vĩ đại nhất, chân lý toàn vẹn nhất chính là nhận biết điều kỳ diệu này, không phải bằng trí óc hiểu biết hay suy luận… (như hình ảnh ‘múc cạn nước đại dương đổ vào lỗ cát’ trong câu chuyện truyền thuyết về thánh Âu Tinh), nhưng bằng con tim và cõi lòng mà mọi người chúng ta, bất kỳ ai, cũng đều có. Quả thực Chúa Ba Ngôi là chân lý sống động mà bất cứ con người nào cũng đều có thể nắm bắt được ít nhiều bằng chính con tim nhân loại của mình; tuy nhiên để thật sự khai thác để trở thành sức sống sung mãn thì cách duy nhất là đi vào trong tác động của Thần Chân Lý và Tình Yêu; “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13). Phải chăng đây mới chính là sự thật toàn vẹn mà Đức Giê-su đang đề cập tới: Ba Ngôi Tình Yêu là sự thật toàn vẹn vì chân lý này mang lại cho mọi người chúng ta sức sống mãnh liệt và sung mãn nhất! Chính qua và nhờ các mảnh vụn tình yêu bé nhỏ mà Thánh Thần còn tìm thấy trong tôi giữa cả một rừng những yếu đuối và tội lỗi, mà tôi được đưa vào mầu nhiệm cao quí này cách sung mãn và dồi dào nhất, được thăng hoa tới Con Tim – Lò Lửa tình yêu vĩ đại nhất là Chúa Ba Ngôi.
Như thế, Ki-tô hữu chúng ta rất đáng tự hào về ‘mầu nhiệm’ cao cả: Thiên Chúa Ba Ngôi (cho dầu bản thân tôi khi sử dụng từ ‘mầu nhiệm – mystery’ vẫn thấy không ổn thế nào ấy, vì nó cho tôi cái cảm giác mung lung, căn cứ vào những gì tôi thường được nghe giải thích: mầu nhiệm là điều không thể hiểu được!). Ki-tô hữu chúng ta quá hãnh diện về mạc khải lớn lao và quan trọng bậc nhất này, và vì thế mà chúng ta luôn khởi sự và sống niềm tin của mình luôn trong “nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Và còn hơn thế nữa, ta có quyền vui mừng khôn xiết vì mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thực sự trọn vẹn bao phủ hiện hữu ta, tiếp hơi ấm cho đời, ban cho ta niềm vui và cậy trông không hề tàn lụi giữa kiếp sống thường khi phủ kín mây đen, và tiếp cho ta sức mạnh vô địch khi thân xác và tinh thần tàn rữa và yếu đuối. Chỉ khi nào Ba Ngôi Thiên Chúa trở thành tất cả cho mình và cho đời mình, tôi mới có thể quả quyết được rằng: tôi đang tuyên xưng mầu nhiệm cao cả này như một Ki-tô hữu thực thụ: “Tôi tin kính một Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha toàn năng….”
Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay phải là ngày chúng ta cảm nhận được niềm tin này cách sinh động hơn bao giờ hết!
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, con tôn thờ tình yêu vĩ đại; con ca ngợi và cảm tạ Chúa vì ơn gọi Ki-tô hữu đã cho con khả năng nhận biết Con Tim Thiên Chúa đầy yêu thương. Con ước muốn làm sao cho mọi người được cùng con cất lời cảm tạ và tôn thờ sức sống tuyệt diệu và sung mãn này. Xin cho con luôn đáp lại mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy đi và… làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”; nhưng trước hết xin cho con được trọn vẹn hòa tan trong Con Tim rực lửa yêu của Ba Ngôi nhiệm mầu trong chính sự hèn yếu của con. A-men.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
‘Xin dâng lời tôn vinh chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Kh 1,8a)
Một đan sĩ nọ đã nói: “Nếu ngày xưa Moisen đã không bước vào chỗ tăm tối và mù mịt trên núi Sinai, ông đã không gặp thấy Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta không thấy mình dốt nát và mù tối khi suy hiểu về Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được Ngài”. Điều này rất đúng khi chúng ta suy niệm về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà Giáo hội hôm nay mừng kính. Đây là mầu nhiệm căn bản nhất của đức tin Công giáo, đồng thời cũng là chân trời vĩ đại và tối tăm nhất đối với đầu óc suy lý của con người. Mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và thực ra chúng ta không thể hiểu nổi. Khi đối diện trước các thực tại của Thiên Chúa, chúng ta không thể nhận thức bằng lý trí nhưng chỉ có thể trải nghiệm bằng đức tin. Thái độ cần thiết nơi chúng ta không phải là đứng lên cách ngạo nghễ để vắt óc tìm tòi, nhưng phải quỳ gối xuống cách khiêm tốn trong cung chiêm và thờ lạy.
Thực hành đức tin khi tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trước khi bắt đầu làm bất cứ công việc gì, người Công giáo chúng ta luôn bắt đầu bằng dấu Thánh giá với lời tuyên tín : Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Thánh Phaolô thường gửi lời chào thăm đến các cộng đoàn với văn thức xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội cũng dùng lại văn thức này để khởi đầu Thánh lễ khi vị linh mục chào chúc cộng đoàn : “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em (2 Cor 13,13; Eph 1,2). Chúng ta nhớ lại giai thoại về thánh Augustinô. Khi Ngài đi bách bộ bên bờ biển và suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Ngài gặp một em bé đang dùng cái vỏ sò để múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ tí xíu. Em bé nhắc nhở cho thánh nhân biết rằng, việc lấy một cái vỏ sò bé tí teo đong đầy nước biển xem ra khá xuẩn ngốc, nhưng việc dùng đầu óc chật chội của con người để cố nhét vào cả bầu trời bao la của mầu nhiệm Thiên Chúa còn xuẩn ngốc hơn gấp bội. Vì vậy, đi vào thế giới của mầu nhiệm, chúng ta phải hết sức khiêm tốn và nhận ra những bất toàn nơi đầu óc mình.
Các thánh giáo phụ vay mượn ý nghĩa của 3 lời khuyên phúc âm để minh họa tình yêu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống tinh thần khó nghèo chính là thể hiện niềm tin vào Chúa Cha, đấng quan phòng và luôn yêu thương con cái mình. Đức Khiết tịnh diễn bày tinh thần từ bỏ để sống với một tình yêu thuần khiết theo gương Chúa Giêsu. Sự Vâng phục của người tu sĩ mời gọi chúng ta mở lòng cho Chúa Thánh Thần tác động. Đó chính là ân ban của Thần Khí giúp chúng ta luôn biết tìm kiếm và quy thuận thánh ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha và về Thần khí tác sinh. Khi Ngài lãnh phép rửa tại sông Jorđan, mầu nhiệm Ba Ngôi từ từ được vén mở, qua tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống và Thánh Thần đậu xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Ngoài những điều mà Kinh thánh mạc khải, giáo huấn của Giáo hội cũng đầy ắp những gợi mở cho chúng ta về mầu nhiệm cao cả này. Đây là giáo lý căn bản và chúng ta vẫn thường xuyên tuyên xưng mầu nhiệm ấy mỗi khi chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá để cầu nguyện cùng Chúa Ba Ngôi.
Phẩm tính căn bản của mầu nhiệm Ba Ngôi chính là tình yêu.
Trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan, vị tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa qua một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng quyết rằng, ‘Lòng thương xót’ là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, bởi vì thương xót là cách hiển thị rõ nét về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho con người. Khi chiêm niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta hãy cảm nghiệm như Thánh Phaolô đã từng diễn tả: “Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta (Rm 5, 5b). Để mặc khải về tình yêu của Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với Nicôđêmô : “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài để ai tin vào người Con, sẽ được sống. (Ga 3,16). Vì thế, khi chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, chúng ta bắt đầu sống ơn gọi làm con và khởi đầu sứ vụ thực hành tình yêu như Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã nói: “Mỗi người chúng ta được trao ban một sứ vụ để chu toàn, đó là sứ vụ của tình yêu”.
Kết luận
Một bữa nọ, Ông Voltaire, một triết gia vô thần đi bách bộ với một anh bạn trên con đường quê ven rừng. Giữa giao lộ có một cây Thánh giá phủ đầy tuyết. Voltaire đã công khai bỏ đạo từ lâu, và hoàn toàn không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Ông còn ngạo nghễ chế diễu niềm tin của các Kitô hữu. Nhưng người bạn đang đi với ông lại có niềm tin rất sâu xa. Voltaire chỉ vào cây Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với anh bạn: “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày nay. Thiên Chúa của các anh đã bị văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin tôn giáo đã bị sự lạnh lùng băng giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy, Thiên Chúa của các anh không còn lý do để hiện hữu nữa”. Chợt lúc đó, có một cơn gió mạnh thổi đến hất tung chiếc mũ trên đầu Voltaire và quăng xuống đất, đồng thời cơn gió đã làm tan chảy lớp tuyết bao phủ cây Thánh giá. Gương mặt Chúa Giêsu từ từ hiện lộ một cách rõ nét. Người bạn của Voltaire lúc đó mới trả lời ông : “Này bạn, đây mới là hình ảnh đích thực của niềm tin tôn giáo ngày hôm nay. Cho dù con người vẫn lạnh lùng và chai cứng như lớp tuyết trắng che kín Thánh giá, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn dư sức hất tung sự kiêu ngạo của con người và làm tan chảy sự lạnh lùng nơi con tim sỏi đá của mọi người. Ngài luôn hiện hữu cho dù con người vẫn đang ra sức loại trừ Ngài”.
Một nhà tu đức đã nói : “Chúng ta hãy kiếm tìm Thiên Chúa chứ đừng tìm nơi ở của Ngài”. Chúa ở khắp mọi nơi và đang ở trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta hãy không ngừng đi kiếm tìm Ngài.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn,Đoạn Lời Chúa Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay theo Tin Mừng Gioan là Đoạn Lời Chúa nói về “tình yêu”. Vâng, tình yêu hai chữ thật “cao siêu” bởi vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì “THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU”.
Vâng, tình yêu tưởng chừng đơn giản, nhưng thật không giản đơn, bởi vì chính Con Một Thiên Chúa, Đấng đã đến thế gian để “dịnh nghĩa” về tình yêu thật lớn lao, thật vất vả khó nhọc, thật phi thường và cũng thật khủng khiếp, đó là Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô.
Tình yêu mang chiều kích tâm linh, siêu nhiên, chứ không phải tự nhiên như người ta nghĩ, vì vậy, tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa chứ không phải từ thế gian.
Đức Kitô, Đấng đã đến từ Thiên Chúa, tức siêu nhiên, như vậy Người là Đấng định nghĩa siêu nhiên, vì tình yêu thuộc về siêu nhiên.
Lời Chúa ( Ga 3,16) đã định nghĩa điều ấy :”Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
Theo đó, rõ ràng, Chúa Giêsu là Đấng “định nghĩa tình yêu”, vâng, tình yêu đến từ và bắt nguồn nơi Thiên Chúa, vì vậy, tình yêu là trạng thái siêu nhiên. Vì vậy, không một ai ngoài Thiên Chúa ra có thể định nghĩa siêu nhiên được. vì, Đấng từ Trời mà đến, thì mới có thể kéo nhân loại lên được.
Lễ Chúa Ba Ngôi cho chúng ta hiểu được chiều kích đó. Khi nói về Chúa Giêsu, thì không thể chỉ có mình Người đơn độc, mà là chính Ba Ngôi ngự trị trong Người. bởi vì, Thiên Chúa là một Mầu Nhiệm hiệp thong, chứ không đơn độc, duy nhất một Thiên Chúa, nhưng là Ba Ngôi. Một sự trọn vẹn nơi bản tính của tình yêu. Vì , nếu chỉ Một Ngôi duy nhất, một Chúa Duy nhất, thì không cần có tình yêu, như vậy , tức không có sự sống, vì tình yêu mang lại sự sống. Nếu tự bản chất nơi Thiên Chúa không cần tình yêu, thì lúc ấy không còn là Thiên Chúa nữa.
Ba Ngôi Thiên Chúa ban cho nhân loại sự sống, vì tình yêu chính là sự sống viên mãn, nên chi , khi phàm nhân bất nghịch với Thiên Chúa, thì lúc đó, phàm nhân phải chết, nhưng vì bản chất là tình yêu, Thiên Chúa không bỏ mặc con người dưới quyền sự chết, bởi vì, trong Thiên Chúa là một mầu nhiệm hợp nhất yêu thương, đó là Ba Ngôi. Vì thế, Ngôi Thứ Hai ra đời cứu chuộc nhân thế. Một nền thần học căn bản cho nhân loại, đó là :Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nếu Đấng Cứu Thế không ra đời, nhân thế không thể nhận biết mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng đã mạc khải tình yêu từ Thiên Chúa duy nhất. Vì vậy, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi không khó hiểu như người ta tưởng.
Ba Ngôi không phải là “Ba Chúa” mà là Một Chúa, bở vì bản chất Thiên Chúa là tình yêu, vì tình yêu là sự “trao ban”. “Thiên Chúa đã trao ban Con Một của Ngài cho thế gian”.
Như vậy, Đấng “được trao ban ban “ ấy đã “mạc khải” Thiên Chúa có Ba Ngôi, chinh là Đức Kitô – Giêsu là Đấng đã “định nghĩa siêu nhiên” cho nhân loại nhận biết những điều siêu nhiên.
Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa là một Mầu Nhiệm căn bản mang đúng bản chất Thiên Chúa là Tình Yêu qua sự mạc khải của Đức Giêsu- Kitô. Đồng thời Mầu Nhiệm một Chúa Ba Ngôi biểu lộ sự toàn năng trong sự yêu thương mà ra. Tình yêu chân chính không phải chỉ là “nụ hôn”, vì “nụ hôn Giu –đa” không phải là nụ hôn tình yêu chân thật. Rõ ràng, “nụ hôn Giu-đa” là nụ hôn phản bội, bất trung, bất tín, như vậy là “ nụ hôn tội lỗi”. Vì, tình yêu chân chính là tình yêu mang lại ích lợi cho đối tượng mình yêu thương, hay nói cách khác tình yêu chân chính là ” tình yêu vô vị lợi”. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu tự hiến như Đức Kitô, Người đã tự nguyện dâng chính mình là Hy Lễ Cứu Chuộc. Như vậy, Chúa Cha đã yêu thương thế gian và đã ban Người Con cho thế gian, để ai tin vào Người Con ấy thì sẽ được ơn Cứu Độ muôn đời. Và, Người Con ấy đã đến thế gian tự hiến mạng sống hữu hình của Người để “CỨU “ thế gian. Chúa Thánh Thần là nguồn ân sủng siêu nhiên làm cho nhân thế nhận biết mọi kỳ diệu trong vũ trụ, trong đó sự tạo dựng vũ trụ và con người, sự tái tạo con người tức ơn cứu chuộc, được diễn bày trong mầu nhiệp Nhập Thể và Nhập Thế của Đức Kitô – Giêsu.
Khởi đi từ Bài đọc I, ( Xh 34, 4b – 6 . 8-9 ) Thiên Chúa ngự xuống trên đám mây mà xưng Danh Thiên Chúa đang khi Môi-sê mang hai bia đá lên núi Sinai. Quả thật, Thiên Chúa tự mạc khải chính mình, thì nhân loại mới nhận biết, nếu không phàm nhân không thể tỏ tường.
Theo đó, Cựu Ứơc chưa mạc khải cho nhân loại, Một Chúa Ba Ngôi , mà chỉ mạc khải cho biết có một Thiên Chúa, Đấng Cực Thánh qua một phàm nhân là Môi-sê.
Bài đọc II, ( 2Cr 13, 11-13), thánh Phao-lo cho biết Thiên Chúa là ”Nguồn yêu thương và bình an” sẽ ở cùng chúng ta.
Như vậy, Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa là một nguyên lý siêu nhiên, mà cần biểu lộ , hầu tỏ bày sự an bài cho nhân thế trong càn khôn nầy. Cho biết , Thiên Chúa là tình yêu không đơn độc như “ bá chủ” hay một Vị Vua độc tài, mà là một tình yêu trao ban và tự hiến cho nhân loại trong nguyên lý từ Thiên Chúa.
Tháng sáu là tháng Kính thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu, một dấu chỉ bày tỏ cách tuyệt đối tình yêu siêu nhiên từ Thiên Chúa, mà không có thụ tạo nào thể hiện được, Tình yêu tự hiến của Chúa GIsêu biểu lộ qua Thánh Tâm của Người là một sự trào tràn cho nhân nhận ra một tình yêu siêu nhiên chỉ có nơi Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, Chúa đã biểu lộ bản tính yêu thương qua cuộc khổ hình sinh ơn cứu độ của Đức Kitô, Ngơi Lời hằng sống vĩnh cửu. Xin thương ban cho chúng con nhận ra tình Chúa cao vời mà đáp đền muôn một. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con ./. Amen.
.
TÌNH YÊU CHO ĐI – TÌNH YÊU CỨU ĐỘ
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIOAN (Ga 3,16-18)
16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA
2.1 “Trong mặc khải Thánh Kinh, có lẽ các bản văn trình bày Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chiếm một chỗ rất khiêm tốn. Câu văn nổi tiếng nhất nói về Thiên Chúa Ba Ngôi được tìm thấy trong Tin Mừng Mát-thêu, chương 28, câu 19: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Và phụng vụ đã không ngần ngại chọn lời chúc lành trong thư thứ hai của Thánh Phao-lô gửi giáo đoàn Cô-rin-tô làm lời chào nhân danh Chúa Ba Ngôi đầu Thánh lễ: “Nguyện xin ân sủng Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần…” (2 Cr 13,13).”
“Tín điều Một Chúa Ba Ngôi là cách người Ki-tô chúng ta hiểu về Mầu Nhiệm Thiên Chúa. Cũng như anh em Do-thái giáo và Hồi-giáo, chúng ta tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất, chứ không phải là ba Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa này được mạc khải cho chúng ta trong quan hệ ba chiều của yêu thương giữa ngôi Cha, ngôi Con, và Thánh Thần. Ba Ngôi đồng hình đồng dạng thành một đơn vị yêu thương duy nhất, nhưng lại có sự khác biệt: Cha không phải là Con, Con không phải là Thánh Thần. Trong tương quan giữa Ba Ngôi, cả ba không phải là các cá vị đơn lẻ, nhưng là mối tương quan hài hoà – hiệp nhất trong khác biệt, đấy chính là bản thể của Thiên Chúa.” (Trích Huyền Nhiệm Ba Ngôi của tác giả Bảo Lộc). Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng uy linh, siêu việt, vô hình, toàn năng, toàn trí và tràn đầy tình yêu trong Mối Thông Hiệp Khôn Tả.
2.2 Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ mình ra bằng/qua Công Trình Tạo Dựng, Cứu Độ và Thánh Hóa. Nói một cách đơn giản dễ hiểu hơn là Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ mình ra qua/bằng Tình Yêu Cho Đi, Tình Yêu Hiến Dâng, Tình Yêu Cứu Độ: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
2.3 Các tín hữu được mời gọi đi vào Mối Hiệp Thông của Ba Ngôi Thiên Chúa và đón nhận rồi quảng bá Tình Yêu Cho Đi, Tình Yêu Hiến Dâng, Tình Yêu Cứu Độ của Người, bằng cách tin vào Đức Giê-su Ki-tô Con Một Thiên Chúa: “Ai tin vào Con của Người thì không bị kết án” (Ga 3,18). Không chỉ là tin xuông mà là tin và hành động đi song song và hòa quyện vào nhau trong một đời sống đức tin thống nhất.
III. THỰC THI LỜI CHÚA
3.1 Nhờ gia đình và Giáo Hội, tôi đã đón nhận Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi từ thưở sơ sinh. Tôi cũng đã tin vào Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã nhập thể làm người, sinh ra và lớn lên, lao động và rao giảng Nước Trời trong các vùng đất Pa-lét-tin, chịu đóng dinh và chịu chết trên thập giá trên đồi Can-vê và đã sống lại.
3.2 Tôi thể hiện niềm tin Ki-tô trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn, qua các thực hành của đời sống đức tin. Tôi cố gắng làm cho niềm tin ấy càng ngày càng sâu sắc, bằng việc cầu nguyện, lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, đọc và suy niệm Lời Chúa, phục vụ anh em và truyền giáo.
3.3 Từ nhiều thập niên tôi quan tâm đặc biệt đến việc phục vụ một cách vô vị lợi qua các Khóa Thánh Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo, các Khóa Thánh Kinh 100 Tuần, các Khóa Huấn Luyện Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ, Khóa Tìm Hiểu Công Đồng Va-ti-can II và Khóa Đào Tạo người Đào Tạo (T.O.T) trong tinh thần của Tình Yêu Cho Đi, Tình Yêu Hiến Dâng.
Tôi soạn các Bài Sống Lời Chúa Hôm nay, Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật, các Bài Chia Sẻ và thực hiện các số GIÁO DÂN HỢP TUYỂN cũng trong tinh thần ấy.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, chúng con xin dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa uy linh, siêu việt, toàn trí, toàn năng và yêu thương!
Chúa đã mạc khải cho loài người chúng con biết được Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng con cảm tạ Chúa!
Chúa đã sai Con Một Chúa đến trần gian để cứu chuộc chúng con. Chúng con đội ơn Chúa!
Chúa đã ban Thánh Thần cho những kẻ tin là chúng con. Chúng con ngợi khen Chúa!
Chúa đã mời chúng con sống hiệp thông với Chúa. Chúng con chúc tụng Chúa!
Chúng con xin dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa uy linh, siêu việt, toàn trí, toàn năng và yêu thương!
Xin Chúa giúp chúng con biết sống hiến dâng phục vụ và chia sẻ với những người xung quanh. Amen.
.
SUY NIỆM LỄ CHÚA BA NGÔI. NĂM A
Lm. Anthony Trung Thành
Thiên Chúa Ba Ngôi là một tín điều và là một trong những mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo. Là mầu nhiệm nên chúng ta không thể thấu hiểu được. Là tín điều nên buộc mỗi người kitô hữu phải tin. Không hiểu nhưng chúng ta tin vì đã được Đức Giêsu mạc khải và được Giáo hội định tín. Để thêm sự xác tín và sống Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi xin được gợi ý chia sẻ một số điểm sau đây.
Trong cuộc sống hằng ngày, có những điều chúng ta không thể thấu hiểu hết nhưng chúng ta vẫn tin. Chẳng hạn, cơm cá chúng ta ăn vào làm sao lại trở nên xương thịt ta? Cùng một chất đất mà cây cối hấp thụ lấy thì làm ra sản phẩm khác nhau: cây lúa làm ra gạo, cây lạc làm ra dầu, cây mía làm ra đường…mỡ bỏ vào nồi rán lên thì chảy ra nước, trứng bỏ vào thì đông lại…Chúng ta không thấu hiểu hết vì trí khôn chúng ta có hạn, nhưng chúng ta tin vì những điều đó là có thật. Những vấn đề này thường gọi là những mầu nhiệm tự nhiên.
Trong đời sống đức tin, ngoài ba mầu nhiệm chính (Một Chúa Ba Ngôi, Ngôi Hai xuống thế làm người, Ngôi Hai chuộc tội cho nhân loại), còn có vô số các mầu nhiệm khác, đặc biệt những mầu nhiệm liên quan đến cuộc đời của Đức Giêsu, đó gọi là những mầu nhiệm siêu nhiên. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cho biết, cả cuộc đời của Đức Giêsu là một mầu nhiệm (x. số 512-570): Mầu nhiệm Giáng sinh; những mầu nhiệm của tuổi thơ ấu như sự cắt bì, lễ Hiển linh, sự dâng Chúa Giêsu trong đền thờ, sự trốn sang Ai-cập; những mầu nhiệm của đời sống ẩn dật như sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với Đức Maria và Thánh Giuse, sự kiện tìm lại được Chúa Giêsu trong đền thờ; những mầu nhiệm liên quan đến cuộc đời công khai như việc Đức Giêsu chịu phép rửa, Ngài bị cám dỗ, sự biến hình; những mầu nhiệm liên quan đến sự chết và sống lại, lên trời…
Ngoài ra, các Bí tích cũng là những mầu nhiệm. Chúng ta thường gọi là các Bí tích hay các Nhiệm tích. Bởi vì, Bí tích hay Nhiệm tích là dấu chỉ bề ngoài Chúa Giêsu đã lập để ban ơn bề trong. Chúng ta chỉ có thể chấp nhận được các Bí tích nhờ đức tin mà thôi. Cho nên, trong thánh lễ, sau khi truyền phép, linh mục đọc: “Đây là mầu nhiệm đức tin.” Và trong bài “Đây Nhiệm Tích” chúng ta hát “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì.”
Trở lại với Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, tuy chúng ta không thấu hiểu nhưng qua mạc khải chúng ta biết được đây là mầu nhiệm của tình yêu:
Từ thời Cựu Ước, dân Chúa chỉ biết có một Thiên Chúa độc nhất. Ngài là một vị Thiên Chúa yêu thương. Ngài yêu thương con người “như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh”(x. Lc 13,34). Ngài yêu thương con người đến nỗi “dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa thì Ngài vẫn không bỏ rơi con người” (x. Tv 26,10). Chúng ta thấy rõ hơn điều này nơi nội dung của bài đọc I hôm nay: Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín. Chính Ngài đã giải thoát dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Ai-cập, nhưng dân Israel lại phản bội Ngài. Thay vì thờ lạy Ngài, họ đúc con bò vàng để thờ lạy. Dầu vậy, nhờ lời chuyển cầu của ông Mô-sê, Thiên Chúa không những đã tha thứ cho họ mà còn lập giao ước đối với họ nữa (x. Xh 34, 4-6.8-9).
Sang thời Tân Ước, qua Đức Giêsu nhân loại mới biết rõ ràng về một Thiên Chúa có Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần: “Cả Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng luôn hiệp nhất với nhau nên chỉ có một Thiên Chúa. Cả Ba Ngôi ngang bằng nhau: không có ngôi nào có trước, ngôi nào có sau; không có ngôi nào hơn, ngôi nào kém vì cả Ba Ngôi có tự đời đời và có cùng một bản tính thần linh.”(x. bài Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, http://www.simonhoadalat.com). Đức Giêsu đã nhiều lần nói về Chúa Cha. Ngài cũng mạc khải về Ngài là Ngôi Hai, là Chúa Con và Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần. Vì yêu thương, Chúa Cha đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật cho con người hưởng dùng. Vì yêu thương, nên Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu xuống thế làm người chuộc tội cho nhân loại. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3,16-18). Cũng vì yêu thương nhân loại nên Chúa Con đã vâng phục Chúa Cha để chấp nhận làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Thánh Phaolô đã diễn tả sự vâng phục của Chúa Con rằng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Vì yêu thương, và nhờ lời chuyển cầu của Đức Giêsu, Chúa Cha đã ban Thánh Thần xuống để thánh hóa nhân loại. Chúng ta thấy vai trò thánh hóa của Chúa Thánh Thần qua những thay đổi nơi các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần và trong Giáo hội sơ khai. Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục vai trò thánh hóa trong Giáo hội và nơi mỗi người Kitô hữu mãi cho tới tận thế.
Tóm lại, trong thực tế cuộc sống có nhiều vấn đề chúng ta không hiểu nhưng chúng ta vẫn chấp nhận, đó là những mầu nhiệm tự nhiên. Trong đời sống siêu nhiên, có những vấn đề vượt quá trí hiểu của chúng ta, chúng ta không thấu hiểu nhưng nhờ mạc khải mà chúng ta biết, đó là mầu nhiệm siêu nhiên. Đặc biệt, trong số các mầu nhiệm siêu nhiên đó, có mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng kính hôm nay. Vậy, sứ điệp nào mời gọi chúng ta trong ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay?
Thứ nhất, luôn luôn tin kính, mến yêu và cầu nguyện với Thiên Chúa Ba Ngôi. Hãy siêng năng đọc Kinh Sáng Danh, làm dấu thánh giá một cách sốt sắng. Không chỉ cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi cho mình, mà còn nhân danh Chúa Ba Ngôi để cầu nguyện cho người khác như lời cầu chúc của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay: “Nguyện xin ân sủng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh em” (2Cr 13,13).
Thứ hai, Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu. Vì vậy, đời sống của chúng ta phải phản chiếu đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúng ta hãy yêu thương nhau và yêu thương hết mọi người. Tình yêu đó phải có hành động cụ thể trong đời sống gia đình và xã hội: giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ và con cái, giữa mỗi thành viên trong gia đình, giáo xứ, và những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày, nhất là những người nghèo đói, bệnh tật, cô thế cô thân. Tình yêu đó được diễn tả qua sự hy sinh mà cao điểm của sự hy sinh là “chết cho người mình yêu.” Khi chúng ta yêu thương nhau là chúng ta đang làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi ta thiếu bác ái yêu thương là chúng ta đang chối từ niềm tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thứ ba, Thiên Chúa Ba Ngôi là hiệp nhất. Hiệp nhất đến nỗi Đức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy.”(x. Ga 14,7-14). Mặc dầu giáo lý phân biệt các công việc của Ba Ngôi: Chúa Cha là Đấng tạo dựng; Chúa Con là Đấng Cứu Chuộc; Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Nhưng trong thực tế thì trong việc tạo dựng vẫn có công của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, trong việc Cứu chuộc vẫn có công của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần và trong việc Thánh Hóa vẫn có công của Chúa Cha và Chúa Con. Nghĩa là, cả Ba Ngôi cộng tác với nhau để Tạo dựng, Cứu chuộc và Thánh hóa nhân loại. Ước mong rằng, trong mọi phương diện của đời sống mỗi thành viên trong gia đình, Giáo hội và xã hội biết phát huy tinh thần cộng tác, hiệp nhất như Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin thêm lòng tin, cậy, mến cho chúng con và giúp chúng con biết sống yêu thương hiệp nhất với nhau. Amen.
.
MẦU NHIỆM PHÁT SINH MỌI MẦU NHIỆM
JM. Lam Thy
Đề cập tới mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 234) đã khẳng định: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Ki-tô hữu. Ðây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Ðây là giáo huấn căn bản nhất và trọng yếu nhất theo “phẩm trật các chân lý đức tin” (DCG 43). “Trọn lịch sử cứu độ chỉ là lịch sử về đường lối và các phương tiện mà Thiên Chúa chân thật và duy nhất là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dùng để tự mạc khải, để giao hòa và kết hợp với Người những ai từ bỏ tội lỗi” (DCG 47)”.
Cũng vì tính cách quan trọng hàng đầu ấy, Giáo hội quy định trong Thánh lễ hàng ngày tái hiện hy tế Thập Giá Chúa Ki-tô trên bàn thờ, với nghi thức mở đầu, vị chủ tế làm dấu thánh nhân danh Chúa Ba Ngôi (“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”). Tiếp theo là lời cầu chúc cộng đoàn Dân Chúa tham dự Thánh lễ: “Nguyện xin ân sủng Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh (chị) em.” Đây chính là lời chúc cuối Thư thứ 2 của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô (xc bài đọc 2 – 2Cr 13, 11-13). Cuối Thánh lễ, thì vị chủ tế lại xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban phép lành cho cộng đoàn tín hữu: “Xin Thiên Chúa toàn năng, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ban phép lành cho anh chị em”. Xin cùng suy niệm về ý nghĩa của mầu nhiệm cực thánh này:
Đó chính là lời tuyên tín của Giáo hội về đức tin trong sứ vụ độc nhất vô nhị của Hội Thánh là: sống chứng tá Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Lời tuyên tín đó khởi đi từ mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi, là một mạc khải đặc biệt và cũng là cốt lõi của sứ mạng cứu độ: Có Một Thiên Chúa duy nhất và Người có Ba Ngôi. Trong số các mầu nhiệm đức tin thì “Một Chúa Ba Ngôi” là mầu nhiệm quan trọng nhất và là nền tảng của các mầu nhiệm khác. Vì là lời tuyên tín nên tất nhiên “Ai tin thì sẽ được cứu độ” (Mc 16, 16). Đã là mầu nhiệm thì đương nhiên khó lòng thấu hiểu được; tuy nhiên, nếu biết xin ơn Thánh Thần soi sáng, và cố gắng tìm tòi học hỏi, thì cũng có thể lãnh hội được phần nào ý nghĩa, và sẽ không thấy có gì đối nghịch giữa khoa học và đức tin tôn giáo.
Dựa vào Lời Chúa Giê-su mạc khải trong Tân Ước, Hội Thánh đã rút ra chân lý mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: “Chỉ có Một Thiên Chúa và “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 7), nhưng Người lại có Ba Ngôi: Ngôi thứ Nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần (Mt 3, 16-17; 28, 19). Vì Ba Ngôi cùng trong một nhiệm thể (ở trong nhau – đồng bản thể), cùng chung một bản tính, cùng một quyền năng, nên trong Ba Ngôi, không Ngôi nào lớn hơn (Ga 14, 10-12). Vai trò của mỗi Ngôi như sau:
† Ngôi Thứ Nhất: Chúa Cha – Đấng Sáng Tạo muôn loài: Khi sáng tạo vũ trụ, vạn vật và loài người. Thiên Chúa xuất hiện là Ngôi Thứ Nhất như một người Cha. Người dùng Lời quyền năng (Ngôi Thứ Hai) làm cho vạn vật xuất hiện từ cõi hư không (St 1, 3), và tiếp tục quan phòng gìn giữ để các tạo vật ấy tồn tại, phát triển và tiến hóa ngày một hoàn thiện hơn. Người cứu độ loài người bằng việc sai Con Một (Ngôi Thứ Hai) nhập thể cứu chuộc và ban Thánh Thần (Ngôi Thứ Ba) tiếp tục chương trình cứu độ loài người qua Hội Thánh.
† Ngôi Thứ Hai: Chúa Con – Đấng Cứu Chuộc nhân loại: Khi tới giờ đã định, Chúa Cha (Ngôi Thứ Nhất) sai Con Một là Chúa Con (Ngôi Thứ Hai) xuống thế làm người là Đức Giê-su Ki-tô (Ga 3, 16). Người thi hành sứ mệnh Thiên Sai (từ Ngôi Cha) bằng việc đi khắp nơi công bố Tin Mừng Nước Trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, và cuối cùng tình nguyện chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người và sống lại để ban ơn cứu độ loài người cho khỏi sự chết đời đời. Đức Giê-su chính là “Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), điều này đã được chính Chúa Cha mạc khải: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3, 17). Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa (Dt 1, 3). Ai thấy Người là thấy Chúa Cha (Ga 14, 9). Người luôn hiệp nhất với Chúa Cha (Ga 17, 22).
† Ngôi Thứ Ba: Chúa Thánh Thần – Đấng Thánh Hóa mọi sự: Thánh Thần tuôn đổ thần khí ân sủng xuống trên các Tông đồ trong lễ Ngũ Tuần, Người ban ơn soi sáng giúp lương dân gia nhập Hội Thánh (Nhiệm Thể Đức Ki-tô), đồng thời tiếp tục bảo trợ Giáo Hội chu toàn ba chức vụ của Chúa Giê-su, cũng là ba sứ vụ của Giáo Hội, của mỗi Ki-tô hữu: *1- Làm Ngôn sứ (sứ giả được sai đi rao giảng về Lời, tức loan báo Tin Mừng); *2- Làm Tư tế (dâng hiến bản thân làm của tế lễ Thiên Chúa) nhằm thánh hóa bản thân mỗi Ki-tô hữu nhờ các phép bí tích do Chúa Giê-su thiết lập; *3- Làm Vương giả (làm vua bản thân, tức là làm chủ bản thân, “thống trị mặt đất và làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” – St 1, 28), để đi tới phục vụ đoàn chiên cộng đồng (theo gương Đức Vua Phục Vụ Giê-su Ki-tô). Để thưc thi và hoàn tất sứ vụ này, người tín hữu phải tuyệt đối trông cậy vào Đấng Bảo Trợ Hội Thánh. Đấng ấy chính là Thiên Chúa Ngôi Ba, là Thánh Thần, Thánh Linh hay Thần Chân Lý.
Vì Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm, nên con người không thể dùng trí khôn bất toàn của mình mà “suy sự Đức Chúa Trời” giống như Thánh Au-gus-ti-nô đã từng làm và đã được Thiên Chúa sai sứ thần trong vai một em bé nhắc nhở (*1). Tuy nhiên, căn cứ vào ân sủng cứu độ được thực hiện bởi Ngôi Hai Thiên Chúa, Giáo Hội đã đi đến khẳng định chiều hướng mạc khải: “Chúa Cha được mạc khải qua Chúa Con; Chúa Cha và Chúa Con được mạc khải nhờ Chúa Thánh Thần” (GL/HTCG, số 238-248). Thực thế, loài người – thông qua các thánh Tông đồ và dân tộc Ít-ra-en cách đây trên 2000 năm – đã được thực mục sở thị (trông thấy nhãn tiền), được gặp gỡ trò chuyện, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ với một trong Ba Ngôi là Ngôi Hai Thiên Chúa – một con người với bản tính người-rất-người, người 100% (không kể bản tính Thiên Chúa). Chính Con Người ấy trong mọi sinh hoạt trên đời này đều luôn minh chứng cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều tồn tại trong Ngôi Lời Nhập Thể:
Khi chịu Phép Rửa tại sông Gio-đan (“và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” – Lc 3, 22); khi ăn uống và cả những khi cầu nguyện thì luôn dâng lời chúc tụng tôn vinh Chúa Cha trên trời (“Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” – Ga 12, 28). Đặc biệt hơn cả là khi dạy dỗ, trò chuyện, giao tiếp với các môn đệ, với mọi người, “Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 21-23); “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11, 13); “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9); “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 18-19)…
Nhiều lắm những dẫn chứng rất sinh động và thật cụ thể để minh họa, do chính các Thánh sử, các Thánh Tông đồ – những con người đã sống liền bên, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ, cùng trò chuyện, được dạy bảo, nhất là “đã nghe, đã thấy tận mắt, đã chiêm ngưỡng, đã chạm đến” Ngôi Hai Thiên Chúa (1Ga, 1) – ghi lại trong Thánh Kinh. Rõ ràng là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều cùng tồn tại trong Ngôi Hai, một con người đã được tượng thai bằng xương bằng thịt và sinh hạ bởi một người phụ nữ như tất cả những con người hiện diện trên trái đất này, cách đây hơn 2000 năm. Từ đó suy ra trong Ngôi Cha cũng có Ngôi Hai và Ngôi Ba, trong Ngôi Ba cũng tồn tại Ngôi Cha và Ngôi Con. Cả 3 Ngôi đều có ở trong nhau, tồn tại trong nhau, vì thế Ba Ngôi vẫn chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện.
Nói 3 Ngôi ở trong nhau như một thân thể duy nhất chính là nói đến sự thông hiệp giữa Thiên Chúa Ba Ngôi, và từ cội nguồn mầu nhiệm đó, dòng suối hiệp thông tuôn tràn trên Giáo Hội phổ quát (“Sự thông hiệp này, chính là mầu nhiệm của Giáo Hội như Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã dùng những lời của Thánh Cy-pri-a-nô để nhắc lại: “Giáo Hội phố quát xuất hiện như một dân tộc được hợp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánk Thần”. Mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông này được nhắc nhở ở mỗi đầu Thánh Lễ khi vị chủ tế đón mời chúng ta bằng lời chào của Thánh Phao-lô Tông Đồ: ‘Nguyện xin ân sủng Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em’ (2Cr. 13, 13)” – T/H “Ki-tô hữu Giáo dân”, số 18).
Sự sống hiệp thông của Giáo Hội đã trở nên như một dấu chỉ về Ba Ngôi Thiên Chúa cho thế giới, đồng thời là một hấp lực thu hút mọi người tới niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô qua Lời Người: “Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho họ trở thành một trong chúng ta để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17, 21). Dấu chỉ ấy, sự thu hút ấy phải chăng là công cuộc truyền giáo, là sứ vụ loan báo Tin Mừng, như lời khẳng định của Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II: “Như thế sự hiệp thông hướng về truyền giáo và chính sự hiệp thông là truyền giáo” (T/H “Ki-tô hữu Giáo dân”, số 18).
Trên thế giới có nhiều hình ảnh cụ thể minh họa cho vấn đề tuyên tín (công bố niềm tin bằng lời thề) như một y bác sĩ tuyên thệ khi tốt nghiệp ngành Y khoa: “Nhân danh Đấng Tối Cao mà tôi tin tưởng, nhân danh Y Tổ Hippocrates, tôi xin thề…”; hoặc như một thẩm phán trước khi xét xử một vụ án cũng “Nhân danh công lý, tôi xin tuyên thệ trước tòa…”. Ấy là chưa kể vào những lễ tuyên thệ của các vị nguyên thủ quốc gia sau khi đắc cử, cũng đặt tay lên Hiến Pháp mà thề sẽ tuyệt đối trung thành với Tổ quốc “Nhân danh Quốc Tổ và Hiến Pháp nước…, tôi xin tuyên thệ…”. Người Ki-tô hữu hôm nay cảm nghiệm được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thì cũng là lúc ý thức được sứ vụ duy nhất của mình đã được chính Ngôi Hai Thiên Chúa trao phó: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 19-20). Khi nghe Lời truyền dạy “Làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, thì cần phải hiểu mình làm những gì (cho bản thân hay cho tha nhân) cũng đều phải làm vì danh thánh Thiên Chúa Ba Ngôi.
Vậy thì người Ki-tô hữu còn chần chờ gì nữa mà không làm dấu thánh nhân danh Chân Lý Tình Yêu (“Nhân danh † Chúa Cha, † Chúa Con và †Chúa Thánh Thần”) trước khi thi hành sứ vụ “Đi khắp tứ phương loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (dâng Thánh lễ, làm công tác Tông đồ, bác ái), kể cả trong sinh hoạt hàng ngày (trước khi ăn, trước khi ngủ, khi đọc kinh sớm tối, trong mọi công việc…). Ôi! “Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Chúa đã sai Con Một là Lời chân lý và sai Thánh Thần, Ðấng thánh hoá muôn loài đến trần gian, mạc khải cho chúng con biết mầu nhiệm cao vời của Chúa. Xin cho chúng con hằng tuyên xưng đức tin chân thật là nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa Ba Ngôi uy quyền vinh hiển. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng Con, Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Chúa Ba Ngôi).
——————————–
Chú thích: (*1)- Thánh Au-gus-ti-nô (354-430) – một nhà Thần học và Triết học – muốn hiểu thật tường tận về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Một hôm, thánh nhân đi đi lại lại trên bãi biển, vừa cầu nguyện vừa cố suy nghĩ xem có cách nào để hiểu và cắt nghĩa được tường tận mọi điều về Thiên Chúa Ba Ngôi. Đang đăm chiêu bách bộ, chợt ngài thấy có một em bé trông rất khôi ngô tuấn tú, đang dùng một vỏ sò múc nước biển đổ vào một lỗ nhỏ (hang cua, hang cáy). Ngạc nhiên, Thánh Au-gus-ti-nô liền dừng lại hỏi em đang muốn làm gì vậy. Em bé mỉm cười trả lời: “Cháu đang muốn tát cạn nước biển.” Thánh Au-gus-ti-nô phì cười: “Sao cháu làm một việc vô ích như vậy. Làm sao cháu có thể múc nước cả đại dương này để đổ hết được vào cái lỗ nhỏ như thế?” Em bé cũng cười rất tươi nói: “Thì việc cháu đang làm cũng đâu có gì khác với việc bác đang suy nghĩ?” Với sự đáp trả đầy thông minh hóm hỉnh của em nhỏ, Thánh Au-gus-ti-nô giật mình hiểu ra Thiên Chúa đã thức tỉnh ngài thông qua cậu bé (thiên sứ) này. Kể từ đó, thánh nhân không dám “suy sự Đức Chúa Trời” theo kiểu triết lý nhân sinh nữa.
.
Lm. Jos. DĐH.
Tục ngữ có câu: có chí thì nên. Nên như thế nào, thành đạt ra sao, vẫn chỉ là khái niệm chung chung trong xã hội, nơi những con người có đủ nghị lực một lòng sống quyết tâm của mình. Đất nước phát triển, mở ra kỷ nguyên mới cho muôn dân được an vui hạnh phúc, nhờ có tướng tài, quân giỏi. Gia đình no cơm ấm áo, vợ chồng con cháu trên thuận dưới hòa, đều hệ tại các thành viên biết sống thủy chung và tình yêu thương được sẻ chia. Từ thuở nhỏ, chúng ta đã từng nghe đọc: một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao ; chân lý ấy phủ nhận sự đơn lẻ, đề cao sức mạnh đoàn kết, thì ít nhiều chúng ta đã được nhắc đến thế nào là nên một trong tình yêu.
Người ta thường đưa hình ảnh đôi trai tài gái sắc để diễn tả tình yêu gọi là trọn vẹn, thực tế: “Thạch Sanh đức độ song toàn thật xứng với công chúa Quỳnh Nga”; “Sơn Tinh đủ tài đức để cưới được Mỵ Nương”. Trong tình nghĩa phu thê, cha ông ta có câu: yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch vẫn kê cho vừa. Chữ tình nơi anh chị em được bày tỏ hết sức trân trọng: anh nhường em nhịn, chị ngã em nâng. Tương quan yêu thương rất thiêng liêng nơi gia đình được sẻ chia thật ngọt ngào: cha là núi, mẹ là sông, các con thuận thảo muôn việc thành. Dù nên vợ thành chồng gọi là duyên phận, gia đình hạnh phúc được gọi là cơm lành canh ngọt, tình huynh đệ có tôn ti trật tự, tất cả vẫn là lời mời hãy khám phá giá trị của tình yêu có nguồn từ đâu ?
Con người có tổ có tông, như cây có cội, như nước có nguồn, dòng tộc, tổ tiên, vừa là điểm tựa, vừa là nơi chốn để con cháu thể hiện niềm tin đối với các đấng bậc: uống nước nhớ nguồn. Về phương diện tự nhiên, nhiều người cho rằng: có tiền để làm gì, có sức khỏe làm gì, có địa vị làm chi, nếu nơi cuộc sống của mình thiếu vắng tình yêu ? Xét về phương diện tâm linh, Đức Giêsu đến trần gian làm gì, nếu không phải để mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là cội nguồn tình yêu, nếu không phải để cứu độ, giới thiệu mẫu gương Ba Ngôi hiệp nhất, là chuẩn mực được ban tặng cho con người.
Thánh sử Gioan thật khéo khi đưa chúng ta vào mầu nhiệm duy nhất: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”. Sự sống và tình yêu cứu độ, Thiên Chúa đã đặt để trong Đức Giêsu, Nguồn sống đó, khởi đầu từ việc Tin và đi trong đường lối Con của Người thì có sự sống đời đời. Tin và đón nhận niềm tin, luôn là sự tự do: có người lao vào tìm kiếm vật chất địa vị, có người chỉ lo đầu tư kiến thức, bỏ qua cơ hội đến với tình yêu gia đình, tình yêu sâu thẳm trong tâm tư.
Ngày hôm nay, tình yêu vẫn là căn bản để con người tìm thấy bình an nội tâm, gặp gỡ nguồn hạnh phúc thật, dù khái niệm và thời gian, mỗi người sử dụng cách tùy tiện: gió chiều nào theo chiều ấy. Nếu tất cả máy móc chỉ vận hành khi được cắm vào nguồn điện, tất cả những người con trưởng thành, nên người hữu ích, đều nhờ bởi ơn cha nghĩa mẹ, hẳn tình yêu thật, hạnh phúc thật, không thể không có nguồn cội. Kinh nghiệm ở trường đời cho thấy: mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khôn. Không ai yêu con bằng cha, cũng không ai hiểu con bằng mẹ. Yêu hay hiểu, cũng là ta đang sống trong mối dây thông hiệp giữa tình yêu nguồn cội từ Thiên Chúa, dù ý thức hay niềm tin của ta còn hời hợt.
Nhân loại vẫn mãi mãi tìm kiếm hạnh phúc, Thiên Chúa từ đời vẫn là Thiên Chúa yêu thương, Người thấu biết sự hụt hẫng của con người là cô đơn, là thiếu vắng bình an, niềm vui, và qua Đức Giêsu, nhân loại biết rõ hơn: “Thiên Chúa đã yêu thế gian”. Sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa chính là tình yêu Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi để cảm nhận qua lời nói và hành động của Đức Giêsu. Nếu con cái thụ động theo kiểu thiên lôi chỉ đâu đánh đó, thì quả là vô vị ; nếu bậc sinh thành chỉ nói cha mẹ yêu con, tình yêu ấy cũng nhàm chán thiếu thuyết phục. Nếu ông Nicôđêmô, nếu các môn đệ, nếu chúng ta hôm nay chỉ nghe nói và gặp Đức Giêsu hàng ngày, mà không tin, không sống giáo huấn của Đức Giêsu, thì cùng lắm chúng ta mới giống các luật sĩ biệt phái, chỉ là những con người lý thuyết mà thôi.
Bậc làm cha mẹ còn biết nuôi dạy con cả về đời sống vật chất cũng như tinh thần, đấng bậc sinh thành luôn thao thức dạy dỗ con biết bằng hành động, hiểu bằng niềm tin: cha mẹ hiền để đức cho con. Thiên Chúa qua Đức Giêsu, Người diễn tả Nguồn tình yêu trong Đức Kitô phục sinh: là Cha rất mực yêu thương, là Con đầy tình bao dung, và là Thánh Thần dồi dào sức mạnh nâng đỡ dẫn đưa tới niềm vui hạnh phúc. Vũ trụ rộng lớn bao la so với đầu óc hạn hẹp của con người, dù chúng ta có sử dụng công nghệ hiện đại nhất cũng không thể hiểu tại sao Thiên Chúa yêu thế gian, ban Con Một Người để cứu độ nhân loại ? Chúng ta có hiểu, có tin Thiên Chúa yêu thương chúng ta hay không, song mầu nhiệm Ba Ngôi vẫn hiện hữu, Thiên Chúa vẫn là Nguồn cội yêu thương. Sống yêu thương, là cách thế chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm và tình yêu thương của Ba Ngôi đang hoạt động trong cuộc đời mỗi chúng ta. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Sau nhiều năm trời mòn mỏi đợi trông, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc có con nối dõi tông đường. I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham. I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và là tất cả niềm hy vọng của Cụ. (Sáng thế 22, 1-18)
Thế mà, oái oăm thay, Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con quý yêu để tế lễ cho Ngài. Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền của Thiên Chúa.
Phải tự tay sát tế đứa con một rất đỗi yêu dấu là một nỗi đau thương làm tan nát cõi lòng, thế nhưng vì tình thương và lòng thần phục đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham đã chấp nhận hy sinh.
Tuy nhiên, Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi. Ngài không nỡ để cho một người cha già phải gánh chịu một nỗi đau thương lớn lao đến thế.
Trao ban Người Con Một
Trích đoạn Tin mừng trong ngày lễ hôm nay (Gioan 3, 16-18) cũng đề cập đến một người Cha khác là Thiên Chúa, đã thực hiện một hy sinh lớn lao hơn nhiều, chỉ vì tình yêu thương.
Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn người phải lâm vào cảnh trầm luân muôn đời vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên Chúa Cha đã hiến tế Người Con Một yêu dấu của mình, cho Con Một chết thay cho nhân loại lầm than và để cho những ai tin vào Con của Ngài thì được sống muôn đời:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ”. (Gioan 3, 16-17)
Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi dao oan nghiệt của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Thiên Chúa, nhưng đến một thời, Thiên Chúa Cha lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại và để ban cho muôn dân được sống đời đời. Thiên Chúa đã yêu thế gian như thế đó, đến nỗi đã ban Người Con Một…
Người tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, hay người dân đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang… là điều dễ chấp nhận; đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể trời đất lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng con người. Chỉ vì quá đỗi yêu thương loài người, Thiên Chúa mới có thể hy sinh đến thế.
“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Đền đáp hồng ân
Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta cũng đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng. Người nào quên đền ơn đáp nghĩa sẽ bị xem là kẻ vô ơn, là người không biết điều.
Thế thì khi được Chúa Trời ban tặng chính Con Một Ngài để cứu mạng cho chúng ta, khi được Chúa Giê-su hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết muôn đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn trời biển đó chưa?
Để đền đáp phần nào tình thương bao la của Thiên Chúa Cha, Đấng đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giê-su đã trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự. Đó là “hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rôma 12, 1). Đó cũng là nguyện ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: “Đem cuộc sống báo đền cuộc sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu.”
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa,
Chúa Cha yêu thương chúng con đến nỗi hiến ban Người Con Một xuống thế cứu sống chúng con; Chúa Con đã yêu thương chúng con đến nỗi hiến dâng cả mạng sống và trao ban cho chúng con đến giọt máu cuối cùng…
Xin cho chúng con đừng thờ ơ hững hờ, vô tâm vô cảm trước tình yêu trời bể ấy nhưng biết đền đáp tình yêu của Chúa bằng cách hiến dâng cuộc sống mình để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Ba Ngôi một Chúa nhiệm mầu,
Ai mà thấu hiểu, cao sâu tầng trời.
Ngước nhìn vũ trụ tuyệt vời,
Muôn ngàn tinh tú, bầu trời bao la.
Tôn thờ Thiên Chúa, Ngôi Cha,
Tạo nên muôn vật, hải hà trùng dương.
Ngôi Hai Con Một mở đường,
Yêu thương mạc khải, tinh tường trí khôn.
Loài người có xác có hồn,
Muôn loài thụ tạo, kính tôn Chúa Trời.
Giê-su giáng thế làm người,
Ban ơn cứu độ, cho người Chúa yêu.
Ai tin nhận lãnh thiên triều,
Chối từ, luận phạt, tự kiêu phí đời.
Nhân Danh Con Một cao vời,
Trung gian giao kết, mọi người với Cha.
Tình yêu phát xuất Ngôi Ba,
Thánh Thần Phù Trợ, ngợi ca muôn đời.
Ba Ngôi mầu nhiệm cao vời,
Phụng thờ kính mến, đời đời hát khen.
Khi chúng ta làm dấu thánh giá là chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Dấu thánh giá là bảo chứng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là mầu nhiệm cao trọng nhất trong đạo. Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta hiểu biết về Chúa Cha nhân hậu và Chúa Thánh Thần là nguồn tình yêu.
Tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm mà con người không thể hiểu thấu. Đây là mầu nhiệm tình yêu trong gia đình Thiên Chúa. Có nhiều người thắc mắc là tại sao ba ngôi mà là một Chúa hay một Chúa mà là ba ngôi. Vậy là ba Chúa hay một Chúa.
Lại có người mạnh miệng nói rằng tôi không thể chấp nhận, nếu tôi không được giải thích tường tận. Không có ai giải thích cho tôi hiểu, tôi sẽ không tin. Rồi có một linh mục gợi ý nói rằng vậy ông bạn có tin vào mặt trời không? Ông trả lời: Có chứ! Linh mục nói những tia nắng xuyên qua cửa kính đó đến từ mặt trời, ở cách xa chúng ta 90 triệu dặm. Chúng ta cảm nhận sức nóng từ cả tia nắng và mặt trời. Ba Ngôi giống như thế. Mặt trời là Thiên Chúa Cha, sai Con của Ngài là tia nắng. Từ mặt trời và tia nắng liên kết tạo ra sức nóng như Chúa Cha và Chúa Con liên kết với Chúa Thánh Thần. Ông bạn giải thích thế nào?
Giải thích thế nào cũng chỉ là một chút vén mở về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Hình ảnh Chúa Ba Ngôi đậm nét trong tất cả các sinh hoạt của vũ trụ. Từ những cảnh vật vô tri, đến các loài thảo mộc và các loại động vật khác nhau hiện hữu đều phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa. Mầu nhiệm cao trọng này không xa vời để chúng ta mà chiêm ngắm, nhưng là một mầu nhiệm chan hòa trong yêu thương của đời sống để cảm nghiệm. Thiên Chúa chia xẻ tình yêu của Ba Ngôi trong chính cuộc sống của mỗi người.
Mỗi người đều được chia xẻ tình yêu trong gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi. Phản ánh qua tình yêu của người cha, người mẹ và con cái trong gia đình. Càng kết hợp chặt chẽ trong tình yêu, chúng ta càng tìm thấy niềm an vui và hạnh phúc.
Trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Cha tác tạo muôn loài muôn vật, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. Xin thánh hóa chúng con trong tình yêu và chân lý. Chúng con tôn thờ Chúa, chúng con chúc tụng Chúa và chúng con cảm tạ Chúa mãi muôn đời.
.
Lm Vũđình Tường
Đức Kitô tự mặc khải cho nhân loại biết Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi là Con Thiên Chúa nên Thiên Chúa là Cha Ngài. Có sự liên hệ hết sức mật thiết, bền chặt đến độ không gì có thể tháo gỡ giữa tình Cha Con. Chính nhờ sự mật thiết này mà Kitô hữu khám phá, tìm tòi, học hỏi biết được khá nhiều về bí ẩn của một Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và Thiên Chúa đó có Ba Ngôi riêng biệt, cùng bản tính nhưng không cùng bản thể. Ba Ngôi khác bản thể bởi có Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Ba Ngôi cùng bản tính bởi Ba Ngôi suy nghĩ như nhau, cảm nhận như nhau và chia sẻ một tình yêu duy nhất. Chính Đức Kitô xác nhận sự liên kết mật thiết trong lời nói và trong hành động
Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy Gn 5,19
Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy Gn 14,7 Ai Thấy Thầy là thấy Chúa Cha c.9 Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy c.11
Chúa Con yêu mến Chúa Cha hết tâm tình và đặt niềm tin tuyệt đối vào Chúa Cha, đồng thời trao phó mạng sống mình trong tay Chúa Cha. Chúa Con vâng lời Chúa Cha xuống thế gian vác thập giá chuộc tội cho thiên hạ. Chúa Con không phải chỉ chuộc tội một phần nhân loại mà cứu chuộc toàn thể nhân loại làm của lễ Dâng Chúa Cha. Vì thế mọi hành động bác ái yêu thương, dù nhỏ mọn của các Kitô hữu thực hiện đều được Thiên Chúa tác động biến thành hiệu quả tuyệt vời.
Đức Kitô xuống trần gian mặc lấy thân phận con người như chúng ta chỉ trừ tội lỗi. Qua Đức Kitô mặc khải chúng ta biết Chúa Cha yêu mến nhân loại như chính Đức Kitô yêu mến nhân loại. Chúa Cha yêu mến nhân loại đến nỗi sai con một là Đức Kitô xuống trần gian.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi dã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời Gn 3,16
Đức Kitô yêu mến nhân loại đến nỗi ban cho nhân loại chính Thánh Thần Ngài. Chính món quà thượng hảo hạng Thánh Thần Đức Kitô trao ban mà nhân loại biết Ngôi Ba Thiên Chúa là Thánh Thần. Ngôi Ba Thiên Chúa cùng đồng hành với các Kitô hữu mọi ngày cho đến tận thế như lời Đức Kitô phán hứa.
Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy Gn 15,26
Đức Kitô chính là Đường là Sự Thật và là Sự Sống Gn 14,6 và con đường đó, sự thật và sự sống đó được Thánh Thần Chúa thánh hoá làm cho trở nên thánh thiện và tinh tuyền cho những ai bước đi trên con đường đó, lắng nghe và giữ sự thật sẽ được sống muôn đời. Ngoài ra những ai bước đi trên con đường đó còn được liên kết với Ba Ngôi Thiên Chúa, không phải do sức riêng mình mà do chính Đức Kitô liên kết họ với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta Gn.17,21
Lậy Cha, Con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha đã ban cho con, cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con. C.24
Nhận biết Đức Kitô và tin vào Ngài sẽ học biết về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần và mối liên hệ giữa Ba Ngôi Thiên Chúa cùng ơn cứu độ Chúa ban cho toàn nhân loại.
.
BA NGÔI THIÊN CHÚA, KHÁC BIỆT NHƯNG HIỆP NHẤT
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Suy tư về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là khám phá nguồn gốc sâu xa nhất của chúng ta, bởi lẽ, chúng ta phát xuất từ Ba Ngôi và hướng về Ba Ngôi như là cùng đích đời mình, như nước dòng sông phát xuất từ biển cả mênh mông và rồi trở về với nguồn gốc của nó.
1. Một chân lý được Chúa Giêsu mặc khải
Kinh Thánh giới thiệu với chúng ta những nguồn mạc khải về mầu nhiệm lớn lao và cao cả này. Trước hết, cần lưu ý hạn từ “Thiên Chúa” trong Tân Ước muốn nói về Thiên Chúa Cha.
“Vậy, một khi được công chính nhờ Đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta… Chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa… Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,1.5).
Ba Ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con – Đức Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần hoà nhập với nhau, mà chúng ta tôn thờ với ba nhân đức đối thần là tin, cậy, mến.
Trong Tin mừng, một lần nữa, trong diễn từ biệt ly, Chúa Giêsu nói về các Ngôi Vị Thần Linh luôn hiệp nhất với nhau: “Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dẫn anh em tới chân lý toàn vẹn… Tất cả những gì Chúa Cha có thì cũng thuộc về Chúa Con: vì thế, Thầy đã nói rằng Người sẽ dùng những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16,12-15).
Khi suy niệm những lời này và những bản văn khác có cùng nội dung này: Giáo Hội tin rằng Thiên Chúa duy nhất nhưng có ba Ngôi Vị. Nhiều người nhận thấy có sự khó hiểu trong giáo huấn về Ba Ngôi. Họ hỏi rằng: Ba Ngôi hiệp nhất với nhau nên một nhưng vẫn là ba có nghĩa là gì? Sao không đơn giản chỉ tin vào một Thiên Chúa duy nhất như người Do Thái và Hồi giáo tin?
Câu trả lời rất đơn giản. Giáo Hội tin vào Ba Ngôi không phải là giáo huấn do Giáo Hội làm nên, nhưng đây là chân lý được Chúa Kitô mặc khải. Không ai có thể tưởng tượng ra mầu nhiệm Ba Ngôi. Mầu nhiệm này khó hiểu vì nó vượt quá khả năng lý trí con người, nhưng nó không chống lại lý trí. Tertulianô từ xa xưa nói rằng: “Tôi tin bởi vì nó là vô lý.” Ông muốn nói rằng: “Tôi tin bởi vì điều đó vượt trên lý trí của chúng ta và nếu Thiên Chúa hiện hữu, thì quả là rất bình thường vì Người vượt trên lý trí của chúng ta.” Để có thể hiểu về Thiên Chúa, lý trí chúng ta phải mở ra với Thiên Chúa.
2- Một Thiên Chúa hiệp nhất nhưng khác biệt
Chúng ta được mặc khải cho biết rằng Thiên Chúa là duy nhất nhưng lại khác biệt. Điều này vượt trên chính ý tưởng mà chúng ta có về sự hiệp nhất. Trong Thiên Chúa, hiệp nhất và khác biệt nên một và hài hoà với nhau. Bởi vì cả hai vừa hiệp nhất và vừa khác biệt. Nơi Người, sự đa dạng không phải là sự phân chia, mà là sự phong phú.
Có một lý do khác giúp chúng ta hiểu về chân lý này. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì không thể là một Thiên Chúa đơn độc, bởi vì tình yêu không hiện hữu nếu không có hai hoặc nhiều người. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, Người hiện hữu như một Người Yêu và một người Được Yêu và Tình Yêu nối kết họ.Về điểm này, thánh Augustinô có một sự phân biệt rất sâu sắc: “Ở đây có ba ngôi: Đấng đang yêu, Đấng được yêu và Đấng là tình yêu. Nếu bạn thấy Thiên Chúa Ba Ngôi, bạn thấy tình yêu.”
(Augustinô, De Trinitate, 8,10,14; 6,5,7.) Kitô hữu cũng là những người độc thần; người tin vào một Thiên Chúa duy nhất, nhưng không phải là một Thiên Chúa đơn độc, mà là Thiên Chúa có ba ngôi vị. Theo đức tin Kitô giáo, sự hiệp nhất của Thiên Chúa rất giống với sự hiệp nhất của một gia đình, hơn là giống sự hiệp nhất của từng cá thể. Bởi lẽ, trong gia đình, sự hiệp nhất dựa trên các mối tương quan giữa các ngôi vị với nhau, như cha với con, vợ với chồng, cha mẹ với con cái; trong khi đó, sự hiệp nhất của các cá thể thì không xác định được các mối tương quan rõ ràng xây dựng sự hiệp nhất.
Nhưng tôi không muốn dài dòng với những giải thích này nữa. Tôi muốn dùng giáo huấn quan trọng nhất và phù hợp nhất về đời sống Ba Ngôi, được diễn tả trong Kinh Tiền Tụng của thánh lễ Chúa Ba Ngôi: “Khi tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa thật và vĩnh cửu, chúng con tôn thờ Thiên Chúa có Ba Ngôi vị, hiệp nhất trong bản tính, nhưng bình đẳng với nhau trong quyền năng thần linh.” (Sách Lễ Rôma, 1992.)
“Ba ngôi và duy nhất, bình đẳng và khác biệt,” đây là hạt nhân của mầu nhiệm. Thiên Chúa Ba Ngôi được tuyên xưng là Thiên Chúa bình đẳng và khác biệt, bình đẳng về phẩm giá và khác biệt về tư cách và vai trò. Nhưng đâu là những yếu tố làm cho Ba Ngôi hiệp nhất và khác biệt?
Xin thưa, đây là những yếu tố làm cho Ba Ngôi hiệp nhất và giống nhau: cùng một bản thể Thiên Chúa, cùng ở trên một cấp bậc hữu thể, cùng chia sẻ quyền năng, vinh quang và danh dự, cùng hiệp nhất trong đời sống nội tại và cùng chia sẻ với nhau trong nhiệm cục cứu độ.
Những yếu tố làm cho Ba Ngôi khác biệt đó là: xét về tương quan, mỗi ngôi vị có một cương vị, Cha, Con, Thánh Thần. Cương vị Cha là Cha và không ai có thể thay thế, cũng thế đối với cương vị Con và Thánh Thần. Mỗi ngôi vị là duy nhất và độc đáo, phân biệt và đối lập với các ngôi vị khác. Xét nguồn gốc, mỗi ngôi đều có sự khác biệt. Cha là nguồn gốc, là nguyên lý phi nguyên lý, nên Cha tự hữu. Con được sinh ra bởi Cha từ đời đời, nên là nguyên lý của nguyên lý. Thánh Thần được nhiệm xuất từ Cha (và Con hay qua Con), là Ngôi Vị tình yêu của Cha và Con. Xét về sứ vụ, mỗi ngôi vị đều có sứ vụ đặc trưng: Cha là tạo thành, Con cứu chuộc, Thánh Thần thánh hóa. Hay trong chương trình cứu độ, Cha dự định, sắp xếp, Con thực hiện, và Thánh Thần hoàn tất. Tuy nhiên, trong bất cứ hành vi và sứ vụ nào của Thiên Chúa, các ngôi vị đều hiệp thông và hợp tác với nhau, tương tại trong nhau. Đó là vẻ đẹp của Thiên Chúa, có khác biệt nhưng không có chia rẽ, có bình đẳng và hiệp nhất nhưng không triệt tiêu tính độc đáo và tính cá vị của từng chủ thể.
Từ giáo huấn này, chúng ta học được bài học gì để sống tốt hơn trong thế giới này?
Con người có thể khác biệt về da màu, văn hoá, giới tính, chủng tộc, hay có phẩm giá bằng nhau, nhưng con người là gì xét như là những nhân vị?
Chúng ta lấy hình ảnh gia đình để giải thích giáo huấn về Ba Ngôi. Gia đình phải là sự phản chiếu ở trần gian về Ba Ngôi. Gia đình được làm nên từ những con người khác biệt về phái tính (đàn ông và đàn bà) và nhờ các thế hệ (cha mẹ và con cái), với những khác biệt về tình cảm, về đòi hỏi và sở thích. Sự thành công của một cuộc hôn nhân và một gia đình lệ thuộc ở mức độ mà sự khác biệt của mỗi người hướng tới sự hiệp nhất: hiệp nhất trong tình yêu, trong dự định, và hiệp nhất trong sứ vụ.
Sẽ là sai lầm khi một người đàn ông và đàn bà lại giống nhau về tính tình và năng khiếu; và để đi đến hoà hợp, hai người phải là năng động, hướng ngoại, theo bản năng, hoặc cả hai lại phải là hướng nội, trầm tỉnh, suy tư… Như thế sẽ làm mất sự khác biệt. Chúng ta biết những hậu quả tiêu cực của chúng có thể phát sinh cả trên bình diện thể lý. Chẳng hạn những cuộc hôn nhân thuộc cùng họ hàng, nếu họ máu quá gần sẽ gây ra những hậu quả về di truyền như có nguy cơ bệnh tật cao và yếu kém về chỉ số thông minh (IQ).
Người chồng người vợ khác biệt nhau nhưng bình đẳng với nhau, như một tấm huy chương có hai mặt, mỗi người là sự bổ túc cho người kia. Điều này giúp hiểu điều Thiên Chúa nói: “Đàn ông ở một mình thì không tốt: ta muốn tạo dựng cho nó một người trợ giúp giống nó” (St 2,18). Tuy nhiên, tất cả những điều này đòi hỏi một cố gắng để chấp nhận sự khác biệt của người khác, vì đối với chúng ta, đây là một điều khó nhất và chỉ có những người trưởng thành mới có thể đón nhận được.
3- Một vị Thiên Chúa gần gũi
Nhiều lúc, chúng ta quan niệm sai lầm rằng mầu nhiệm Ba Ngôi là một mầu nhiệm hoàn toàn tách biệt khỏi đời sống chúng ta và chỉ để cho các nhà thần học suy tư.
Trái lại, đây là một mầu nhiệm gần gũi nhất. Lý do rất đơn giản: chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi. Chúng ta mang trong mình dấu ấn hình ảnh Ba Ngôi. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để trở thành hoạ ảnh của sự hiệp nhất và đa dạng này.
Hoạ sĩ Andrej Rublev, người Nga, đã để lại một bức ảnh nổi tiếng về Ba Ngôi. Ông được gợi hứng từ một đoạn Kinh Thánh. Một ngày kia, khi ở gần cây sồi Mamrê, ông Abraham đón tiếp ba nhân vật huyền bí viếng thăm. Ông chào họ rằng: “Lạy Chúa tôi.” Họ là ba người nhưng cũng là một vị duy nhất (x. St 18,3). Các Giáo phụ đặc biệt nhìn nhận sự hiện ra này như là biểu tượng hoặc là sự tiên báo về Ba Ngôi.
Ba Ngôi thần linh trong Icôna giống như ba thiên thần. Mầu nhiệm Thiên Chúa “duy nhất” và “ba ngôi” được diễn tả ở đây từ ba nhân vật phân biệt nhưng lại bình đẳng với nhau.
Các khuôn mặt hướng về nhau một cách tuyệt vời tạo nên một vòng tròn, muốn nói lên sự hiệp thông giữa họ; nhưng sự vận chuyển khác nhau và sự hướng về nhau nói lên sự phân biệt giữa họ. Người ta nghĩ rằng Chúa Cha là thiên thần ở bên trái là người duy nhất có đầu đứng thẳng, trong khi đó Chúa Con – Đức Giêsu Kitô được đồng hóa với thiên thần ở giữa và Chúa Thánh Thần là thiên thần bên phải. Ca hai, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, với cái đầu cúi xuống, nói lên rằng Chúa Cha là nguồn suối và nguồn gốc của Ba Ngôi và cả hai được phát xuất từ Chúa Cha. Cả Ba đều mặc một chiếu áo màu xanh, dấu chỉ của bản tính thần linh mà các ngôi vị có chung với nhau. Nhưng ở trên hoặc ở dưới, mỗi ngôi mặc một màu sắc phân biệt với các ngôi khác: Chúa Cha mặc màu không thể định nghĩa được, như màu ánh sáng, dấu chỉ của sự vô hình và khôn tả của Người (không ai đã nhìn thấy Chúa Cha bao giờ); Chúa Con mặc một chiếc áo dài màu tối, dấu chỉ của nhân tính mà Người đảm nhận; Chúa Thánh Thần mặc chiếc áo dài màu xanh lơ, dấu chỉ của sự sống, vì Người là Đấng ban sự sống. Màu xanh là màu của sự sống.
Tất cả trong Icôna mang tính biểu tưởng. Cây màu xám ở đằng sau nhắc nhớ cây sồi ở Mamrê; hình chữ nhật đằng trước bàn thờ chỉ trái đất. Bàn thờ, trên đó có một chén hiến tế con chiên, gợi lên Bí tích Thánh Thể. Một hình thức tuyệt vời để nói về Ba Ngôi ban cho chúng ta Thánh Thể và hiến mình cho chúng ta nơi Thánh Thể. Trong Thánh Thể, chúng ta trở thành những người “dự bàn tiệc” của Ba Ngôi; chúng ta ngồi vào chỗ phía trước còn trống, để cần khép lại vòng tròn của Icôna.
Thánh Sergio là người được tôn kính trong lịch sử nước Nga vì đã có công giúp cho các nhà lãnh đạo bất hoà được hiệp nhất với nhau và như thế đã giúp cho cuộc giải phóng của nước Nga được thực hiện khỏi những người Tartati bành trướng khắp nơi. Khi đứng suy niệm lâu trước Icôna này, ngài có câu khẩu hiệu: “Khi chiêm ngắm Ba Ngôi Cực Thánh, hãy chiến thắng sự chia rẽ thù địch của thế giới này.”
Tôi nghĩ rằng đây cũng là sứ điệp lớn nhất mà mầu nhiệm Ba Ngôi ban cho thế giới hôm nay: Hãy chiêm ngắm Ba Ngôi để chiến thắng sự chia rẽ trong gia đình, trong xã hội và hãy vượt qua những sự kỳ thị dưới mọi hình thức đang làm đau khổ thế giới. Chúng ta cần lắng nghe lời mời gọi của Chúa, mỗi lần chiêm ngắm icôna này, đó là: “Anh em hãy nên một, như chúng ta là một” (x. Ga 17,11).
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm tình yêu bởi vì qua dấu Thánh Giá, dấu chỉ Mầu nhiệm Ba Ngôi. Dấu Thánh Giá là biểu hiệu đức tin của người Công Giáo. Mỗi lần làm dấu Thánh Giá chúng ta ca ngợi, tung hô và tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi :” Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần “.
Lúc còn nhỏ khi đi học Giáo lý, các thầy cô giáo lý viên thường ví dụ Chúa Ba Ngôi giống như một ngón tay có ba đốt. Tuy có ba đốt nhưng chỉ là một ngón tay hoặc có khi Chúa Ba Ngôi được ví như một trái trứng gà vv…có lòng đỏ lòng trắng và có vỏ nhưng chỉ là một cái trứng. Những ví dụ nhằm cho các trẻ em dễ nhớ nhưng thực tế chẳng thuyết phục gì. Càng lớn lên, càng được học Giáo lý và càng cầu nguyện, chúng ta hiểu được rằng muốn cảm nghiệm về Chúa Ba Ngôi, muốn biết được Chúa Ba Ngôi, chúng ta phải dựa vào mặc khải của Chúa Giêsu, đồng thời dựa vào Kinh Thánh để tìm hiểu, gặp Chúa Ba Ngôi. Chúng ta thường gặp những bản văn qui chiếu về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nhiều nhất nơi Tin Mừng của Thánh Gioan. Phúc Âm của thánh Gioan thường cho hay Chúa Giêsu nói về Cha Ngài và cũng nói về Chúa Thánh Thân. Tuy nhiên bản văn nổi tiếng nhất vẫn là bản văn của Thánh Matthêu :” Vậy các con hãy đi khắp muôn dân, qui tụ họ thành môn đệ của Ta, hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha và con và Thánh Thần”. Bản văn sinh động lại nằm trong Tin Mừng của thánh Máccô, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, lập tức Chúa Thánh Thần đậu xuống trên ngài dưới hình chim bồ câu và một tiếng nói từ trời vọng xuống :” Con là Con yêu dấu của Ta “ ( Mc 1, 11 ).Tiếng nói, Chúa Con và chim bồ câu tạo thành bức tranh sinh động nói về Chúa Ba Ngôi. Thánh Luca lại diễn tả thời Cựu Ước là thời của Chúa Cha.Thời rao giảng Tin Mừng là thời kỳ hay kỷ nguyên của Chúa Con và thời kỳ sau cùng khởi đầu bằng lễ Hiện Xuống là thời kỳ của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô cũng nói về Chúa Ba Ngôi trong các thư của Ngài. Lời chúc nổi tiếng của thánh Phaolô bàn về Chúa Ba Ngôi nằm trong thư 2 Co 13, 13 :” Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em”.
Thực tế, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm đức tin . Chỉ có con mắt đức tin chúng ta mới nhận ra Chúa Ba Ngôi. Với trí con người không đời nào chúng ta có thể hiểu thấu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Thánh Augustinô đã cho chúng ta thấy rõ điều đó qua hình ảnh một em bé múc nước biển đổ vào lỗ đào trên bãi cát…
Vâng, tình yêu Thiên Chúa dành cho thế giới, cho nhân loại, cho con người quả quá tuyệt vời, cao sâu :” Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để ai tin vào Con của Người sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời “. Chúa không muốn bất cứ ai bị hư đi, nhưng muốn cứu vớt mọi người. Tình yêu của Người là tình yêu xả kỷ, tình yêu tự hiến :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Thiên Chúa yêu thương con người, mỗi người đều có một chỗ trong trái tim dịu hiền của Người.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta ca ngợi tình thương vô biên của Chúa vì tình thương của Người bao phủ trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Thiên Chúa đã cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái của Người. Thiên Chúa lại quan phòng chở che chúng ta bằng chính tình yêu nhưng không của Người, đồng thời cho chúng ta được tiến về đất hứa, tiến về Quê Trời nhờ Chúa Thánh Thần và ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu để cùng với Người chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa Cha.
Chúng ta ca ngợi, biết ơn Thiên Chúa Ba Ngôi và mỗi lần làm dấu Thánh Giá. Đọc Kinh Sáng Danh và kInh Tin Kính là chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Gợi ý để chia sẻ :
1. Ai tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa Ba Ngôi ?
2. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm gì ?
3. Dấu hiệu của người Công Giáo do đâu ?
4. Chúa Thánh Thần là Đâng nào ?
.
HÃY YÊU ĐI RỒI SẼ BIẾT SỰ THẬT
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng ta đến sự thật toàn vẹn (x.Ga 16,13). Nhờ lời mạc khải của Chúa Kitô, chúng ta biết rằng Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa duy nhất mà là Ba Ngôi riêng biệt là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chỉ một Thiên Chúa duy nhất mà là Ba Ngôi. Tuy Ba Ngôi riêng biệt nhưng chỉ là một Thiên Chúa. Một mầu nhiệm vượt quá trí suy của nhân loại.
Vì sao Ba Ngôi mà chỉ là một Thiên Chúa hay vì sao chỉ một Thiên Chúa mà là Ba Ngôi? Xin được trả lời cách thành thật rằng bản thân không biết. Vì tin vào Đức Kitô, Đấng có lời quyền năng và yêu thương tôi cho đến cùng, cho đến chết trên thập giá, nên tôi tin vào lời của Người. Chính Chúa Kitô đã phải trả giá rất đắt, là cái chết thập giá, cho sự mạc khải này trong bối cảnh Do Thái giáo chỉ tin có một Thiên Chúa duy nhất và độc nhất. Chúng ta đừng quên một trong những lý do khiến đám đông dân chúng và nhiều người lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ đã từng lấy đã ném Chúa Giêsu và lên án tử hình cho Người, vì Người tự cho mình là Con Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa (x.Ga 10,31-33; Mt 26,62-66).
Thánh Kinh, đặc biệt Chúa Kitô không cho biết vì sao một Thiên Chúa mà là Ba Ngôi, nhưng đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi như thế nào. Đó là mầu nhiệm tình yêu liên đới, hiệp thông trọn hảo, đầy năng động và sáng tạo. Và chúng ta, loài thụ tạo cao cả nhất trong các loài hữu hình, ngay trong kiếp lữ thứ này, có thể cảm nghiệm phần nào đó mầu nhiệm ấy, khi sống trong Thánh Thần, Đấng là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa Chúa con và Chúa Cha.
“Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và Đức Giêsu Kitô mà Cha sai đến” (Ga 17,3). Làm sao để nhận biết sự thật này nếu không được Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa tác động. Chúng ta đã được nhận làm con trong Đức Giêsu. “Vì là con, nên Thiên Chúa sai Thánh Thần của Con Ngài ngự vào lòng chúng ta và kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4,6). “Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,16). Không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa nếu không được Thánh Thần thúc đẩy (x.1Cor 12,3). Thánh Thần chính là nguồn tình yêu. Vì thế chỉ những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu biết sự thật. Và khi hiểu biết sự thật thì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta và đưa chúng ta vào sự sống đời đời.
Làm sao ta có thể biết nghĩa phu thê là gì khi ta chưa sống hết tình với người phối ngẫu? Làm sao ta có thể biết được thế nào là quê hương khi ta chưa hết lòng hết tâm với vận mệnh quốc gia dân tộc? Làm sao ta có thể biết được giá trị của con người trong cõi nhân sinh này khi ta chưa trải rộng con tim với người đồng loại, với người anh chị em cận kề, nhất là với những người cô thế cô thân? …
Hãy yêu đi rồi bạn sẽ biết nhiều lẽ huyền nhiệm của sự trao ban và đón nhận. Hãy hiệp thông cách thực sự thì bạn sẽ biết thế nào là tình liên đới. Đây là một cái lẽ biết theo nghĩa Thánh Kinh, tức là không chỉ nhìn thấy thực tại, thấy vấn đề bằng trí khôn, mà còn gắn bó thiết thân, chung lưng đấu cật, khi u buồn lẫn khi hoan lạc, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp phải nghịch cảnh, gian truân.
Ngay trong cuộc sống này, có nhiều điều mà lý trí phải chào thua. Sự khôn ngoan đích thực không hệ tại ở trí óc, nhưng là ở trái tim. Có thể có trường hợp người ta đâm ra mù quáng vì yêu. Nhưng đó chỉ là thứ tình yêu vị kỷ, nghiêng chiều đam mê vụ lợi hoặc bất chính. Khi đã biết yêu với tình yêu trong sáng, quảng đại quên mình, với một tình yêu bắt nguồn từ tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa thì không một ai là không ở trong ánh sáng. Và chính ánh sáng sẽ soi dẫn chúng ta đến cùng chân lý.
Là kitô hữu, không gì hơn là biết quy chiếu về Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi để rồi biết yêu thương nhau bằng:
1. Một tình yêu thúc đẩy ta không chỉ muốn mà còn biết chủ động, tích cực làm cho người mình yêu phát triển và nên hoàn thiện.
2. Một tình yêu thúc đẩy ta tìm mọi cách để cho người mình yêu nên đáng yêu và được nhiều người yêu mến.
3. Một tình yêu thúc đẩy ta nỗ lực hết mình làm cho người mình yêu có đủ khả năng và sự nhiệt tình để yêu mến kẻ khác.
Khi ta sống được chút tâm tình yêu mến này, thiết tưởng rằng chúng ta sẽ chẳng còn băn khoăn với câu hỏi tại sao Ba Ngôi mà chỉ một Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc vì biết cội nguồn của mình chính là Thiên Chúa Ba Ngôi.
.
Lm. Jos. Uyên Nguyên
Sau khi kết thúc mùa Phục Sinh bằng lễ CTT hiện xuống trọng đại, tiếp nối, GH mừng ba lễ trọng rất tâm điểm của niềm tin công giáo. GH mừng ba lễ trọng như một tổng hợp về giáo lý của ba mầu nhiệm thuộc Ba Ngôi TC được mạc khải từ CGS, Đấng cứu độ. Một trong ba lễ trọng đó, ưu tiên GH long trọng mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay. Chúa Ba Ngôi là niềm tin của những người-Thiên-Chúa-Giáo, là trọng tâm đức tin công giáo, là niềm tin bất khuất. Các Thánh Tử Đạo là bằng chứng về một đức tin bất khuất này và vượt thắng mọi thâm ý xấu xa muốn hủy diệt, loại trừ qua chống đối.
Điều đáng được lưu tâm ở đây, đức tin vào Thiên Chúa của người công giáo là một TC vô hình. TC vô hình không là đối tượng thực nghiệm của khoa học. Thiên Chúa của người công giáo là TC của niềm tin, niềm tin hòa quyện đời sống, tin cùng với cảm nghiệm, tin cùng với nhận thức, vì tin không cần thấy. Tin như vậy là để sống, sống như vậy là để trao dồi thăng tiến đức tin, rập khuôn tư tưởng CGS nói “phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29).Vì những lẽ như thế mà giáo lý của GH công giáo, Youcat nhìn nhận: “ Vì nhận biết TC vô hình là một thách đố lớn đối với tâm trí con người, khiến cho không ít người đã tháo lui. Đàng khác, một số người không muốn biết TC, vì họ không muốn thay đổi cuộc sống” (s.5 trg 31).
Chính ngày lễ TC Ba Ngôi, ngày con người đem hết tâm trí tôn thờ, tán dương TC ba Ngôi cả tinh thần lẫn thể xác. Tuy nhiên các bài đọc để chiêm niệm TC ba Ngôi thì chẳng thấy trình bày gì hay mô tả gì về một TC rõ nét để có chút hình dung hầu ngắm nhìn và ngưỡng mộ! Chắc cũng không phải chỉ các bài đọc hôm nay thôi, mà trong toàn bộ Kinh Thánh cũng chẳng thấy nơi nào hơn giới thiệu về TC Ba Ngôi làm mãn nguyện ước muốn con người.
Khảo sát cụ thể ba bài đọc trong thánh lễ, cả ba nhân vật tên tuổi lỗi lạc nồng cốt, Môsê-ĐGS-Phaolô, cũng không cho thấy gì hiện sinh hơn. Với bài đọc 1 ở sách Xuất Hành Cựu Ước, Môsê giới thiệu TC cho dân ông, dân Chúa tuyển chọn riêng, chỉ nêu lên danh xưng TC là Chúa, là Đức Chúa cùng với phẩm tính của Ngài là TC từ bi, nhân hậu, giàu lòng tha thứ và trung tín. Phaolô trong bài đọc 2 chỉ cho biết TC là nguồn yêu thương và bình an. CGS trong TM Gioan cũng thế, chỉ làm rõ TC là tình yêu, tình yêu vô cùng bội hậu dành cho con người, là thí ban Con Một Ngài đến trần gian để làm cho người phàm được sống muôn đời. Ở đây xem xem, vì ‘sự sống’ của phàm nhân, mà TC đặc biệt quan tâm họ hơn Con của Ngài, cho dù mọi phàm nhân cũng rất rõ biết đó là Con dấu ái của TC là Cha.
TC chỉ được trình bày không úp mở độc yếu tính nhất phẩm, TC là Tình Yêu. Ngay chính tình yêu thôi thì cũng rất là huyền nhiệm. Quả vậy, xưa nay có ai hình dung nỗi được tình yêu là gì? Thế mà tình yêu là động lực, là chất liệu kết nối, là sức mạnh, là chăm sóc, là giữ gìn, là đỡ nâng, là gắn bó. Bằng chứng, tuy Con Chúa tối quan trọng, mà sự sống của những phàm nhân, thụ tạo của TC tác thành, cũng không vì thế bị hạ thấp, là kém quan trọng. Bởi lẽ, một khi thụ tạo đã chết, thì thật là một sự kinh khủng, vì đã chết mất. Vì tình yêu, Chúa Cha thí ban Con một để liên kết mọi thụ tạo phàm nhân lại trong Con yêu dấu của Ngài, là điều vô cùng lợi ích lớn lao. Ôi Mầu nhiệm của tình yêu cao cả của TC là thế, Đấng càn khôn cực cao, cực cả là thế. Về điểm này phàm nhân thì cảm thụ, nhưng không dễ có ai suy thấu.
Theo đó, chính nơi Con của Ngài được sai xuống trần gian sống giữa phàm nhân là dấu chỉ lớn lao rất thời sự và lịch sử mà TC tự biểu lộ Ngài là TC Tình Yêu (viết hoa). Người Con đó là Lời TC, là dung mạo TC: “Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha sao anh bảo: Ta tỏ cho anh Chúa Cha? (vấn đề mà CGS nói với ông Philiphê)”. Lời và hình ảnh tình yêu ấy tuy tự biểu lộ, trong nhục thể lờ mờ khó tránh khỏi sự vấp ngã trong hình ảnh Con TC trở nên người phàm. Song chính sự cứu chữa mọi người, kẻ què đi được, người câm nói được, người phong cùi được sạch, khuất phục và xua trừ quỷ, tha thứ kẻ có tội, cứu chữa kẻ chết, và sau hết, tự mình hiến mạng đền thay cho mọi người phàm trong hình ảnh ‘con rắn đồng của Môsê khi được treo lên cao’, hay‘con thỏ rừng trong bụi rậm’ nộp mình cho Abraham đổi mạng hiến tế, rồi sau đó sống lại. Tất cả làm sắc nét rạng ngời về một hình ảnh TC tình yêu.
Tóm lại, dù TC có tỏ mình ra như thế nào nơi Chúa Con và Chúa Ngôi Ba, nhưng những ai tuyên xưng niềm tin mình vào TC Ba Ngôi đích thực là một ân ban đến từ TC kêu gọi, niềm tin của họ là một ân huệ nhưng không của TC ban tặng. Vì TC Ba Ngôi là TC vô-hình uy-quyền vinh-hiển, là nguồn của mọi sự hiện sinh, là Hiện Hữu vượt trên mọi hiện hữu trên trời dưới đất. TC đó lại là TC yêu thương nhân hậu, tình thương cũng như lòng thương xót nơi Ngài không hề cạn kiệt, bất biến, tồn tại bền vững song đối với bản tính hằng hữu của Ngài. TC như thế là TC hằng có, kề cận mọi sự mọi loài, quan tâm chăm sóc, gìn giữ, và kịp thời cứu chữa như lời kinh Tin Kính tuyên tín mọi điều của những người tin: “Tôi tin kính một TC Ba Ngôi! Ngôi Cha nhân từ dựng nên trời đất muôn loài”…
Kính lạy TC Ba Ngôi mầu nhiệm, con xin chúc tụng tạ ơn Ba Ngôi. Chính Cha đã ban Con Một là Lời chân lý mạc khải cho người trần biết mầu nhiệm TC Ba Ngôi. Chính Cha đã ban Thánh Thần xuống thánh hóa canh tân muôn loài. Xin nâng đỡ niềm tin yếu kém của chúng con nên mạnh mẽ và bền vững để chúng con không ngừng tuyên xưng đức tin chân thật vào TC độc nhất Ba Ngôi uy quyền và vinh hiển.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Có một giai thoại kể rằng: Thánh Augustino một nhà thần học nổi tiếng và cũng là một vị Giám Mục luôn suy tư về Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi mà không thể giải thích được bằng lý luận suy tư của mình. Quá thất vọng và nản lòng, thì bỗng, một hôm thánh nhân đang dạo chơi trên bờ biển, người rất ngạc nhiên khi thấy một em bé đang cặm cụi, chăm chỉ ngồi xuống trên cát dọc bờ biển, em đang dùng một vỏ sò để múc nước biển đổ vào trong những vũng nước mà tự tay em làm. Làm sao em có thể múc cạn nước biển mênh mông rộng lớn bằng chính cái vũng nước này, và câu hỏi đã nảy ra trong đầu óc thánh Augustino: “Này con, làm sao con có thể múc hết nước biển đổ vào cái vũng nhỏ xíu kia?”. Cậu bé liền trả lời: “Việc múc cạn nước biển bao la này bằng những vỏ sò thật là khó, nhưng con còn thấy dễ hơn là với một trí óc nhỏ bé bằng cái gáo dừa của con người thì làm sao hiểu được mầu nhiệm của Đấng Tuyệt Đối Cao Siêu”. Với giai thoại này, chúng ta thấy rằng đứng trước những mầu nhiệm về Thiên Chúa – Đấng vô biên, con người chỉ là một thực thể hữu hạn.
Trong sự hữu hạn đó, với ánh sáng lời Chúa, tôi cố gắng khám phá mỗi ngày sự phong phú, mới mẽ của những thực tại linh thánh, nhất là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cho chính bản thân tôi và cũng để chia sẻ với những người tôi có trách nhiệm.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I : Xh 34, 4b-6.8-9
Đoạn sách Xuất hành này tường thuật lại việc Thiên Chúa mặc khải cho Môsê biết Ngài là “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34, 6). Đứng trước Vì Thiên Chúa đó, Môsê đã xin Ngài: “Tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp” (Xh 34, 9b)
- Tin Mừng: Ga 3, 16-18
Qua cuộc đối thoại với Nicôđêmô, Đức Giêsu đã mặc khải cho ông biết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Ngài còn khẳng định, Thiên Chúa là Đấng muốn cứu độ chứ không phải trừng phạt: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 17).
- Bài Đọc II: 2Cr 13, 11-13
Đứng trước những mặc khải về Thiên Chúa trong sách Xuất hành và Tin mừng Gioan, thánh Phaolô nhắn gởi tín hữu thành Côrintô: “Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hòa. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em” (2Cr 13, 11)
Qua lời Chúa hôm nay, với khả năng hạn hẹp, tôi không khám phá và cũng không hiểu biết thêm điều gì về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nhưng tôi xác tín một điều: mọi hoạt động của Thiên Chúa đều là để cứu độ con người. Vì vậy, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi cũng chính mầu nhiệm của Lòng Xót Thương.
II. HOẠT ĐỘNG CỦA BA NGÔI
- Chúa Cha
Khi đọc Kinh Cám Ơn, tôi cảm nghiệm được Thiên Chúa Cha là Đấng giàu lòng thương xót: “Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời mà lại sinh ra con cho con đặng làm người cùng hằng gìn giữ con, hằng che chở con. Lại cho ngôi hai xuống thế làm người, chuộc tội chịu chết trên cây thánh giá vì con, lại cho con được đạo thánh Đức Chúa Trời cũng chịu nhiều ơn nhiều phép hội thánh nữa…”
- Chúa Con
Khi chiêm ngắm cuộc đời của Đức Giêsu, càng cho tôi xác tín Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót; vì “Thiên Chúa đã làm người, để con người được làm Con Chúa” (Thánh Irênê). Quả thật, “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13). Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người, chịu nạn chịu chết và sống lại để đem ơn cứu độ cho con người, nhưng ơn cứu độ đó không xa lạ, không làm cho con người sợ hãi, nhưng “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16), nghĩa là chỉ cần đi vào tình yêu, đi vào mối hiệp thông với Ngôi Hai Thiên Chúa.
- Chúa Thánh Thần
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần sau khi sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 23). Vì thế, ơn tha tội là hoạt động của Thánh Thần, cũng như khi Linh mục đọc lời tha tội cho hối nhân: “Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của Con Chúa mà giao hoà thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội…”
Một lần nữa chúng ta xác tín hành động của Ba Ngôi Thiên Chúa là đưa con người đến ơn cứu độ. Chính vì thế chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi khi chúng ta khám phá ra lòng thương xót của Thiên Chúa.
III. MẦU NHIỆM CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
- Cho những ai đón nhận
Có một thanh niên Công giáo nhưng rất bê trễ trong việc sống đạo, vì muốn thử cảm giác lạ nên đã nghiện ma túy. Gia đình đưa anh ta vào Trung tâm cai nghiện. Tại đây, qua bạn bè, qua chính bản thân, anh thấy những con người khi lên cơn nghiện “không còn hình dạng con người ta nữa”. Nhưng cũng tại đây, từ việc sợ hãi, lo lắng, anh đã tìm đến với Chúa. Anh có nhiều thời gian để cầu nguyện, anh nhờ gia đình gởi cho anh một quyển Kinh Thánh, anh đã kêu xin Chúa cứu giúp mỗi khi lên cơn nghiện… Vì thế anh đã sớm cai nghiện thành công và trở về với gia đình, với xã hội. Từ khi cai nghiện trở về anh sống đạo rất đàng hoàng tử tế, lo làm ăn phụ giúp gia đình. Với “kinh nghiệm” nghiện ma túy của mình, anh đã giúp cha sở để cảm hóa những bạn trẻ ăn chơi lêu lỏng, tụ tập quậy phá.
Câu chuyện của anh thanh niên này là một cảm nghiệm nho nhỏ giúp tôi thấy được hoạt động của Chúa Ba Ngôi là như thế. Ngài muốn con người được cứu độ, và làm mọi cách để họ đón nhận được ơn cứu độ đó. Anh đã cộng tác với Ngài để Ngài giải thoát anh khỏi cơn nghiện, từ đó anh cố gắng để tìm kiếm ơn cứu độ vĩnh cửu bằng chính đời sống của anh, vì anh biết rằng mình được Chúa xót thương.
- Cho những ai thờ ơ
Tuy nhiên còn rất nhiều người thờ ơ với lòng thương xót của Chúa. Điều đó thấy rõ nơi những người đã được rửa tội nhưng không sống đạo, không thờ phượng Chúa vì nhiều lý do. Vì xa cách Chúa nên họ đã vi phạm lề luật Chúa, làm nhiều điều sai trái. Từ mặc cảm tội lỗi đó, họ càng xa cách Chúa, trốn tránh Giáo hội.
Nhiều gia đình ngày hôm nay phải khốn khổ khi có những thành viên khô khan, nguội lành như vậy. Tôi cảm nghiệm được nỗi đau khổ của những người có người thân không sống đạo, và hơn thế nữa, lại có một đời sống bê tha, tệ hại, vì tôi là một mục tử, tôi cũng đã phải tìm kiếm những con chiên lạc.
Là người trong gia đình mà chúng ta đã phải lo lắng, vất vả đau khổ khi thấy người thân của mình từ khước ơn cứu độ, thì chắc chắn trái tim của Chúa càng phải thổn thức hơn.
Thực tế đó đòi hỏi những ai đã cảm nghiệm và đang sống lòng thương xót của Chúa phải tích cực hơn. Chúng ta tin chắc Thiên Chúa là Cha vẫn luôn tạo điều kiên, từ Trái Tim của Chúa Giêsu vẫn tuôn chảy những ơn lành, và Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn thúc đẩy họ. Phần chúng ta phải hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, phải thường xuyên mời gọi họ, phải gương mẫu trong đời sống. Hãy tận dụng những cơ hội khi gia đình có dịp hiếu, hỷ, hay những biến cố gì đó để mời gọi họ quay về với Chúa.
Lòng thương xót của Chúa không bao giờ muốn trừng phạt hay hủy diệt con người, “nhưng kẻ không tin thì đã bị lên án ồi, vì đã không tin vào danh cảu Con Một Thiên Chúa” (Ga 3, 18).
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi trong Năm Gia Đình này mời gọi chúng ta hãy không ngừng chúc tụng quyền năng của Chúa đã dành cho gia đình mình chính là lòng thương xót vẫn tuôn chảy trên cuộc đời của mỗi người chúng ta. Đồng thời phải nhiệt tâm hơn trong việc giúp người khác hoán cải, quay trở về để họ cũng được đón nhận lòng thương xót, nhất là những người thân trong gia đình mình.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin đưa con vào tình yêu của Ngài để con được tham dự vào hạnh phúc tròn đầy, viên mãn của mầu nhiệm tình yêu. Và xin thương đến những người còn xa cách hoặc trốn tránh tình yêu đó.
.
GIA ĐÌNH LÀ CỘNG ĐỒNG TÌNH YÊU
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Trong lịch sử, người ta thường dùng những hình ảnh khác nhau để trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn hình ảnh của một ngọn lửa. Trong lửa luôn luôn có ba yếu tố: lửa – ánh sáng – sức nóng. Ba yếu tố đó không lẫn lộn vào nhau: ánh sáng là ánh sáng, lửa là lửa, sức nóng là sức nóng. Ba yếu tố phân biệt rõ ràng, nhưng cũng không bao giờ tách biệt khỏi nhau, ngược lại gắn chặt vào nhau. Có lửa là có ánh sáng, có sức nóng.
Từ hình ảnh ngọn lửa, người ta áp dụng để giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa ba Ngôi. Ba Ngôi chỉ là một Chúa duy nhất, nhưng phân biệt rõ ràng: Chúa Cha – Chúa Con – Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi nhưng cũng chỉ là một. Và một Thiên Chúa nhưng vẫn cứ là Ba Ngôi. Cũng như không thể lấy đi ánh sáng khỏi lửa và bảo rằng lửa cứ cháy mà không cần ánh sáng được. Cũng vậy, vì ba Ngôi vẫn chỉ là một Thiên Chúa, nên mọi hoạt động nơi Thiên Chúa đều quy về Ba Ngôi…
Dẫu sao mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi vẫn chỉ là một huyền nhiệm lớn lao đối với con người. Đi tìm câu trả lời cho huyền nhiệm ấy, con người làm một sự cố gắng vượt trên sức hiểu biết của mình. Bởi thế, những hình ảnh mà con người cố gắng suy nghĩ để giải thích, dù có hay đến mấy, vẫn chỉ là một cố gắng còn khiếm diện và bất toàn mà thôi.
Điều hay nhất chúng ta cần làm có lẽ không phải là khám phá tới cùng mầu nhiệm Thiên Chúa cho bằng quay về với chính mình để sống làm sao cho xứng đáng với tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Bởi vậy, tôi muốn mời bạn cùng tôi suy nghĩ về gia đình, vì gia đình là một cộng đồng tình yêu, phản chiếu tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
Từ xưa, trong Hội Thánh đã có thói quen áp dụng hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa Ba ngôi là kiểu mẫu của tình yêu cha – mẹ – con cái. Ngay từ trong cung lòng mình, tình yêu Thiên Chúa đã là một tình yêu trao ban, tình yêu mở ra, vì thế một mà lại là ba: Trao ban giữa Cha, Con, Thánh Thần.
Nếu Ba Ngôi là kiểu mẫu của gia đình thì mọi thành viên trong gia đình cũng phải yêu nhau bằng tình yêu trao ban, tình yêu hiến thân, tình yêu mở ra đối với người mà mình yêu.
Tình yêu gia đình đòi hỏi có nhau, cho nhau và vì nhau. Nếu một thành viên nào trong gia đình chỉ biết có bản thân, yêu nhưng chỉ yêu chính mình, tình yêu đó đang phản lại kiểu mẫu của tình yêu Ba Ngôi.
Không thể chấp nhận được một người chồng, một người cha quên trách nhiệm của mình, chỉ biết có say sỉn, còn vợ con có khổ, có đói không đoái hoài tới.
Cũng không ai có thể chấp nhận được một người vợ, một người mẹ tệ cho đến mức quên hết vai trò của mình, chỉ biết bài bạc, có khi thức thâu đêm suốt sáng chỉ để thỏa đam mê thấp kém này.
Chúng ta cũng không thể chấp nhận hình ảnh một đứa con trả treo với cha mẹ. Có khi bất chấp cha mẹ có khả năng hay không, nó đòi cho bằng được điều mà nó muốn có.
Tất cả những hình ảnh trên đều đi ngược lại tình yêu Ba Ngôi. Vì đó chỉ là một thứ ích kỷ, vụ lợi cho bản thân. Trên hết mọi sự, hãy bắt chước tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa: Yêu là cho đi, là rộng ban, là mở ra.
Hãy sống làm sao để gia đình trở thành cộng đồng tình yêu, phản chiếu tình yêu Ba Ngôi.
.
SỐNG YÊU THƯƠNG NOI GƯƠNG THIÊN CHÚA BA NGÔI
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 3,16-18
(16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con Một của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án, nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.
- Ý CHÍNH:
Tin Mừng lễ Chúa Ba Ngôi trích trong cuộc đàm thoại ban đêm giữa Đức Giê-su với Ni-cô-đê-mô về ơn tái sinh. Sau khi cho ông biết điều kiện để được cứu độ là phải tái sinh bởi nước và Thánh Thần, Đức Giê-su đã mặc khải về tình yêu của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã cứu độ thế gian bằng cách sai Con Một của Người xuống trần để chịu chết đền tội thay cho thế gian (14-16). Ai tin vào Người Con ấy mới được ơn cứu độ (17-18).
- CHÚ THÍCH:
– C 16: + Thiên Chúa đã yêu: Đây là một chân lý mặc khải mới mẻ, vì truyền thống Do thái trước đó chỉ nói đến Thiên Chúa yêu thương Ít-ra-en là con dân của Người, chứ không nói đến việc Người còn yêu cả thế gian, không phân biệt chủng tộc, quốc gia, màu da hay tiếng nói nữa. + Thế gian: chỉ chung toàn thể vũ trụ mà nhân loại là thành phần quan trọng nhất. Thế gian trong câu này ám chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương (x. Ga 3,16), nhưng ở câu khác lại ám chỉ bọn đầu mục dân Do thái là những kẻ luôn thù ghét Đức Giê-su (x. Ga 12,31; 1 Ga 2,16-17). + Con Một của Người: Trong kinh tin kính, Giáo Hội dạy các tín hữu tuyên xưng đức tin “tôi tin kính Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha (x. 2 Sm 7,12-16; Mt 3,13-17). Như vậy Đức Giê-su có hai bản tính: Một là tính Thiên Chúa và hai là tính loài người, nhưng Người chỉ có một Ngôi Vị là Ngôi Con hay Ngôi Lời. Việc ban Con Một để cứu độ thế gian là dấu chứng rõ ràng nhất biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Thiên Chúa đối với thế gian (x. 1 Ga 4,9-10). + Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết: Niềm tin vào Ngôi Con là điều kiện cần để được hưởng ơn cứu độ và được sống muôn đời.
– C 17: + Không phải để lên án thế gian: Sứ mệnh của Con Thiên Chúa đến thế gian không phải để kết án nhưng để cứu chuộc thế gian (x. 1 Ga 4,14). + Tại sao nơi khác Đức Giê-su lại phán: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử, cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39) ?: Thực ra điều Thiên Chúa muốn là sai Con Một đến để ban ơn cứu độ cho thế gian. Nhưng thế gian có nhận được ơn cứu độ đó hay không tùy theo thái độ đáp trả của họ là tin nhận hay từ chối Người. Chính sự lựa chọn này làm nên việc xét xử: Tin nhận Chúa Giê-su thì được cứu, nghĩa là được ơn tha tội, được giao hòa với Chúa Cha và được sống muôn đời, giống như: người mù dù không nhìn thấy, thì giờ đây lại được xem thấy. Còn nếu từ chối Chúa Giê-su là đã tự lên án chính mình, tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ của Chúa Giê-su, như các đầu mục Do thái, tuy sáng mắt nhưng vì cứng lòng không tin Đấng Thiên Sai, nên đã tự hóa nên mù tối.
– C 18: + Ai tin vào Con của Người thì không bị kết án: Tin ở đây không phải chỉ bằng lời nói “Lạy Chúa, Lạy Chúa !”, nhưng bằng việc làm theo thánh ý Chúa, biểu lộ qua sự thực hành lời Chúa dạy” (x. Mt 7,21.24). Thánh Phao-lô cũng nói: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính, có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ… Vì tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (x. Rm 10,9-10.13). + Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi: Sứ mệnh của Đức Giê-su là ban sự sống, ban ơn cứu độ cho những ai tin Người. Ai cố tình không chấp nhận Ngôi Lời Nhập Thể, tức là không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa (x Ga 6,64), là đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, đồng nghĩa với việc tự kết án chính mình. + Vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa: Danh Con Một Thiên Chúa là chính Chúa Giê-su (x. Ga 2,23; 1 Ga 3,23). Tin vào danh của Con Một Thiên Chúa tức là liên kết với Chúa Giê-su, nhìn nhận và kêu cầu quyền năng của Người. Chỉ nhờ Danh Chúa Giê-su, loài người chúng ta mới được ơn cứu độ (x. Pl 2,9-11; Cv 10,43). Trái lại, những kẻ không tin vào Danh Người thì sẽ không được hưởng ơn cứu độ ấy.
- HỎI ĐÁP:
– HỎI 1) Chúa Giê-su đã dạy thế nào về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?
ĐÁP:
Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã nói nhiều về mối liên hệ mật thiết giữa Người với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần sau bữa tiệc ly Vượt Qua (x. Ga 14.15.16.17). Tin Mừng Mát-thêu ghi lại lời Đức Giê-su mặc khải rõ nhất về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (x. Mt 28,19). Tin Mừng Mát-thêu cũng ghi lại cuộc thần hiện tại sông Gio-đan như sau: “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3,16-17). Tiếng phán, Đức Giê-su và chim bồ câu là biểu tượng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Phao-lô cũng dạy về mầu nhiệm Ba Ngôi trong lời nguyện chúc: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen” (2 Cr 13,13). Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ Tông Đồ lại trình bày lịch sử cứu độ theo chiều kích Ba Ngôi như sau: Thời Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời cứu thế rao giảng Tin Mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời Giáo Hội khai sinh phát triển đến Rô-ma, hay đến “tận cùng thế giới” là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
– HỎI 2) Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi được Thánh Kinh trình bày như mầu nhiệm Tình Yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa ra sao?
ĐÁP:
– Chúa Cha luôn hiện hữu và sinh ra Chúa Con từ trước khi có thời gian (x. Tv 2,7).
– Chúa Cha yêu mến Chúa Con và ban cho Chúa Con mọi quyền xét xử (x. Ga 5,20.22).
– Chúa Con chính là hình ảnh của Chúa Cha (x. Ga 14,9-10).
– “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,11).
– “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30).
– Chúa Giê-su luôn vâng phục và làm theo thánh ý Chúa Cha (x. Ga 5,19).
– Tình yêu hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con xuất phát ra Chúa Thánh Thần (x. Ga 15,26).
– HỎI 3) Ta có thể dùng một số hình ảnh nào để minh họa về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?:
ĐÁP:
– Nhà thần học PHĂNG-SÍT (Frank Sheed) đã dùng hình ảnh mưa rơi để giúp người ta hiểu phần nào về mầu nhiệm đơn nhất và đa dạng của Chúa Ba Ngôi khi nói rằng: “Nước đang mưa đây đích thực là nước, nhưng có thể xuất hiện bằng ba dạng khác nhau là: dạng hơi nước, dạng băng đá và dạng nước thường như ta thấy”.
– Thánh I-nha-xi-ô một lần kia trong lúc cầu nguyện bỗng nhận ra “ba nốt nhạc có thể làm thành một hợp âm duy nhất” cũng giống như Ba Ngôi hiệp nhất trong một bản thể duy nhất.
– Thánh Pa-tríck thường dùng hình ảnh lá cây tam diệp thảo do ba lá nhỏ ghép lại thành một lá lớn.
– Có người lại dùng một hình tam giác đều có ba cạnh ba góc bằng nhau để diễn tả mầu nhiệm này.
– Ngòai ra chúng ta cũng có thể dùng hình ảnh sau đây để minh họa phần nào về mầu nhiệm này như sau: Một người đàn ông khi lập gia đình có con thì tuy anh ta chỉ là một người, nhưng đóng ba vai trò khác nhau: Vai trò làm “cha” nên được con gọi “Cha ơi”; Vai trò làm “con” nên được bố anh ta gọi “Con ơi”; Vai trò làm “chồng” nên được vợ gọi “Mình ơi”.
– HỎI 4) Ba Ngôi Thiên Chúa làm gì cho chúng ta ?
ĐÁP:
– Thiên Chúa Cha (Ngôi thứ Nhất) đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật. Đặc biệt loài người đã được Thiên Chúa tạo thành theo hình ảnh của Người là có linh hồn thiêng liêng bất tử và có tình yêu thương (x. St 1,37).
– Khi nguyên tổ loài người nghe theo ma quỷ cám dỗ mà phạm tội bất phục tùng phải mang án chết, thì Thiên Chúa Cha lại hứa ban Chúa Con (Ngôi thứ Hai) xuống thế để cứu chuộc loài người là Chúa Giê-su. Sứ mệnh của Chúa Giê-su là cứu độ loài người bằng việc mở ra con đường về trời là đạo Công giáo. Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời trong thời gian 3 năm để nhân loại nhận biết tôn thờ và sống hiếu thảo với Thiên Chúa Cha. Vào lúc cuối đời, Người đã sẵn sàng vâng theo ý Chúa Cha để đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, sẵn sàng chịu chết trên thập giá để đền tội thay loài người và sống lại để cứu độ loài người.
– Sau khi sống lại, Chúa Giê-su Phục Sinh đã thổi hơn ban Chúa Thánh Thần (Ngôi thứ Ba) cho các Tông đồ. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác, là Thần Chân Lý, do Chúa Cha sai đến để thay Chúa Giê-su tiếp tục dạy dỗ các môn đệ (x. Ga 14,16). Trong thời Cựu Ước, Thánh Thần đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy loài người. Đến thời Tân Ước, Thánh Thần đã lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giê-su khi Người chịu phép Rửa tại sông Gio-đan để tấn phong Người làm Đấng Thiên Sai (x Mt 3,16-17). Sau đó, Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc để chịu ma quỷ thử thách cám dỗ (x Mt 4,1-11), và đi khắp nơi rao giảng Tin mừng Nước Trời (x Mt 4,17). Thánh Thần cũng làm cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại. Vào buổi chiều ngày phục sinh, Chúa Giê-su đã hiện ra sai các Tông đồ tiếp tục sứ mạng của Người và đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông kèm theo quyền tha tội (x Ga 20,20-23). Vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần lại hiện xuống trên Hội Thánh Sơ Khai dưới dạng một cơn gió mạnh ào vào nhà nơi các Tông đồ đang cầu nguyện và làm xuất hiện trên đầu mỗi vị một hình lưỡi lửa (x Cv 2,1-4). Từ đây Thánh Thần luôn hiện diện trong Hội Thánh để thánh hóa các tín hữu qua các phép bí tích, giúp các vị Mục Tử chu toàn sứ mệnh là thay Chúa Giê-su chăm sóc đoàn chiên Hội Thánh và làm chứng nhân cho Người đến tận cùng thế giới (x. Ga 15,26).
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,7-8).
- CÂU CHUYỆN:
1) THẾ NÀO LÀ TÌNH YÊU TỘT ĐỈNH ?
Thánh MÁC-XI-MI-LI-EN KON-BÊ thụ phong linh mục năm 1918. Cha đã bị Đức Quốc Xã bắt ngày 17.2.1941 và bị giam trong một trại tập trung là Auschwitz.
Đây là một nhà tù hãi hùng nhất vì gồm đủ mọi hình phạt và kỷ luật dã man dành cho các tù nhân. Tù nhân không được mang tên mình mà mang một con số. Cha Maximilien Kolbe mang số tù là 16.670. Tại nhà tù này, Đức quốc xã đưa ra một quy định hết sức bất công: Nếu một tù nhân trốn trại, thì mười tù nhân khác sẽ bị chết thay.
Vào một đêm tháng 8.1941, một tù nhân đã vượt ngục thành công. Thế là mười người khác được chỉ định chết thay. Trong số mười người này có một người tù tên là GAJOWNICZEK. Khi bị chỉ định, anh liền khóc lóc thảm thiết cho biết mình còn mẹ già, vợ dại, con thơ không ai nuôi dưỡng. Trước cảnh tượng đó, do đức bác ái thôi thúc, Cha Kolbe đã tình nguyện xin được thế chỗ chết thay cho người tù kia. Được chấp nhận, cha cùng đoàn tử tù bước vào phòng hơi ngạt số 14. Hôm sau, người ta mở cửa phòng để lôi xác ra ngoài, nhưng Cha Maximilien Kolbe vẫn còn thoi thóp, người ta chích cho ngài một mũi thuốc ân huệ. Cha tắt thở đúng vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 14.8.1941.
Trong lễ phong thánh cho chân phước Kolbe do Đức Thánh Cha Phao-lô VI cử hành, một cụ già trong đoàn người dâng lễ vật hôm ấy đã được Đức Thánh Cha ôm hôn. Đó chính là người tù đã được cha thánh Kolbe chết thay. Trong giây phút trang trọng ấy, toàn thể cộng đoàn sốt sắng hát bài thánh ca: “không có tình yêu nào trọng đại cho bằng chết vì người mình yêu”. Đây là một chứng tích tình yêu cao cả khiến mọi người hiện diện đều phải xúc động và rơi lệ.
2) CÂU CHUYỆN “ANH PHẢI SỐNG”:
Trong tác phẩm “Anh phải sống”, nhà văn Nhất Linh đã kể lại một câu chuyện cảm động, nói lên tình nghĩa phu thê và tình mẫu tử bao la như sau: Có hai vợ chồng tiều phu nghèo khó, sống bên một dòng sông. Hằng ngày, ngay từ sáng sớm, hai vợ chồng đã phải thức dậy cùng nhau bơi thuyền vào rừng, chặt củi cột thành từng bó, rồi chất lên thuyền mang ra chợ bán lấy tiền về nuôi hai đứa con thơ dại. Rồi một ngày nọ, đang lúc chèo thuyền từ rừng về thì trời nổi cơn giông bão, chiếc ghe đầy củi của họ không thể chịu nổi sóng to gió lớn đã bị lật úp ngay giữa dòng sông nước đang chảy siết hung dữ. Cũng may là họ đã ôm được một khúc cây to và dìu nhau bơi vào bờ. Nhưng khi gặp chỗ nước sóay, cả hai bị nước cuốn trôi mất khúc cây. Bấy giờ anh chồng một tay ôm vợ, tay kia tiếp tục bơi. Thấy chồng dần dần kiệt sức và cả hai sắp bị chết chìm, chị vợ nghĩ đến hai đứa con thơ nên đã nói với chồng: “Anh hãy cố sống mà nuôi con anh nhé !”, rồi chị âm thầm buông tay chồng chịu chết để anh đủ sức bơi vào bờ. Chị đã sẵn sàng chết để chồng con được sống.
3) TÌNH THƯƠNG THỂ HIỆN QUA LÒNG THƯƠNG XÓT:
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước nhà. Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gang – ngoại trừ một mảng có tí tẹo còn sót trong góc sân. Sau đó ông bố không trả số tiền đã hứa vì đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót lại kia. Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Người không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của tình yêu.
4) HÃY TRAO CHO NGƯỜI KHÁC TÌNH YÊU CỦA CON:
Tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi em ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em. Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo đã xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi em. Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: “Phong hủi! Phong hủi!”
Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:
– Tại sao ông lại lo lắng cho con?
Nhà truyền giáo đáp:
– Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em.
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
– Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:
– Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.
Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.
Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau rằng:
– “Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!”
Vâng, “con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con” phải chăng cũng là sứ điệp mà lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta? Hãy sống cho tha nhân. Hãy trao tặng cho nhau một nụ cười cảm thông. Một cái bắt tay thân mật. Một nghĩa cử bác ái đầy tình người. Hãy sống cho anh em của mình một cách quảng đại. Hãy là chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa một thế giới mà con người đang xa dần nhau vì quyền lợi bản thân, vì bon chen và hưởng thụ. Hãy giới thiệu cho nhân thế một tình yêu tinh ròng không bị hoen ố bởi những toan tính ích kỷ, tầm thường. Hãy giới thiệu cho thế giới một tình yêu hy sinh đến quên cả chính mình cho người mình yêu được hạnh phúc.
5) CÁI CHẾT CỦA TÌNH MẪU TỬ:
Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến X, nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối. Chị thà chết hơn là để bác sĩ chữa ung thư bằng quang tuyến X, ảnh hưởng nặng đến đứa con trong bụng sắp ra đời.
Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng: ”Vào mấy ngày cuối cuộc đời, dù biết mình sắp bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ”. Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt”.
6) PHỤC VỤ VÔ VỤ LỢI ĐỂ DIỄN TẢ TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA:
Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tin Chúa, sống trong cảnh nghèo khổ bị bỏ rơi ngược đãi, bị đối xử bất công trong một thời gian dài đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người cũng ghét bỏ bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, nhưng bà bảo:
– Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và tôi cũng không hiểu yêu thương là gì nữa.
Cha sở về lại nhà xứ và cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm Tông đồ trong xứ kể cho họ nghe câu chuyện này. Rồi ngài đề nghị mọi người giúp cho bà ấy biết được thế nào là tình yêu của Chúa, bằng cách mỗi người thay nhau đến thăm và phục vụ bà, để cho thấy vẫn có nhiều người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ cho bà.
Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm, bà xúc động đến rướm nước mắt:
– Thưa cha, bây giờ thì con đã hiểu yêu thương là gì rồi, và bây giờ con có thể xin cha cho con được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa hay không?
- SUY NIỆM:
1) THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU:
– Tình yêu trong Ba Ngôi : Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa không đơn độc mà là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.
– Tình yêu của Chúa Cha : Chúa Cha ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có: “Mọi sự của Cha đều là của Con”, nên Chúa Con là hình ảnh của Chúa Cha như Chúa Giê-su nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”.
– Tình yêu của Chúa Con: Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh qua thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục hoàn toàn: “Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá và đã hy sinh cả mạng sống của mình để đền tội thay cho chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”.
– Tình yêu rộng mở: không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đi khắp vũ trụ đến tất cả mọi sinh linh vạn vật.
2) SỐNG YÊU THƯƠNG NOI GƯƠNG THIÊN CHÚA:
Cụ thể là sống tình mến Chúa yêu người như sau:
a- Năng cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi: Một phương cách dễ dàng thực hành là mỗi ngày dành ra ba phút cầu nguyện trước khi đi ngủ theo nội dung sau:
+ Phút thứ nhất: Suy nghĩ tìm ra những việc tốt đẹp đã làm được trong ngày qua, như đã giữ được bình tĩnh khi bị người khác đặt điều vu khống, rồi dâng một lời cầu để tạ ơn Chúa Cha.
+ Phút thứ hai: Tìm ra những điều sai lỗi trong ngày, như đã có thái độ dửng dưng khi thấy kẻ khác gặp nạn, rồi dâng một lời cầu xin Chúa Giê-su tha tội cho mình.
+ Phút thứ ba: Nhớ đến những sự khó khăn đang gặp phải và dâng lời cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan và can đảm để vâng theo thánh ý Thiên Chúa.
Việc cầu nguyện này bao gồm cả ba phương diện là tạ ơn, ăn năn sám hối và xin ơn lành hồn xác. Việc cầu nguyện như thế sẽ giúp ta sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong cách suy nghĩ nói năng và hành động. Ngòai ra ta cũng có thể làm dấu thánh giá để tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
b- Thể hiện tình yêu tha nhân như Chúa đã yêu chúng ta: Tin Mừng hôm nay cho biết Tình yêu thực sự phải có các đặc tính của tình yêu của Thiên Chúa như sau:
+ Tình yêu dâng hiến: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người đến trần gian để hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 3,16a; 10,11). Chúa Giê-su đã dạy: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Vậy tình yêu của bạn dành cho tha nhân thế nào ? Bạn có dám hy sinh chịu thiệt vì người mình yêu không ?
+ Tình yêu vị tha: tình yêu chân thực đòi năng nghĩ đến người mình yêu để mong cho họ được hạnh phúc như lời Chúa Giê-su: “Mục tử tốt lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Tình yêu chân chính luôn tìm làm cho người yêu vui lòng và được may lành hạnh phúc noi gương Chúa Giê-su: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Bạn có yêu cha mẹ và những người thân của bạn như vậy không ?
+ Một tình yêu cao cả: Thánh Gio-an viết: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19). Thiên Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta đáng yêu, nhưng “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những tội nhân” (Rm 5,8). Cũng vậy, chúng ta phải yêu hết mọi người, nhất là những người tàn tật, cô đơn, tội lỗi, và yêu cả những kẻ đang thù ghét bách hại mình (x. Lc 6,27-42). Tình yêu của bạn có cao cả như thế không ?
+ Một tình yêu tôn trọng: Tình yêu của Thiên Chúa không chiếm hữu hay cầm tù người yêu và luôn tôn trọng tự do của con cái lòai người: “Ai tin thì được sống đời đời. Còn kẻ không tin thì đã bị kết án”. Tình yêu của bạn dành cho người khác có tự nguyện không ? Bạn có ghen tuông cấm người yêu gặp gỡ tiếp xúc với người khác không ? Bạn có tin tưởng và tôn trọng người yêu không ? Thánh Phao-lô cũng viết: “Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7).
c- Thực hành yêu thương cụ thể theo kinh Thương Người có 14 Mối:
+ Thương xác bảy mối: Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống, Cho kẻ rách rưới ăn mặc; Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; Cho khách đỗ nhà; Chuộc kẻ làm tôi; Chôn xác kẻ chết.
+ Thương linh hồn bảy mối: Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dậy kẻ mê muội; Yên ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội; Tha kẻ dể ta; Nhịn kẻ mất lòng ta; Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
TÓM LẠI: chúng ta sẽ xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ với tình yêu thực sự như thánh Gio-an đã viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Ước gì cuộc đời chúng ta sẽ thấm đượm tình yêu, để mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn từ tình yêu và qui hướng về tình yêu, khi chúng ta biết luôn nghĩ đến tha nhân, sẵn sàng chia sẻ và khiêm nhường phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh và đang bị bỏ rơi.
- THẢO LUẬN:
1) Những hình ảnh nào thường được dùng để diễn tả mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, bạn thích hình ảnh nào nhất ? Tại sao ? 2) Noi gương Tình yêu của Chúa Ba Ngôi, bạn sẽ làm gì để sống kết hiệp với Chúa Ba Ngôi và luôn yêu thương phục vụ mọi người ?
- CẦU NGUYỆN:
– LẠY CHÚA BA NGÔI LÀ TÌNH YÊU, Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi lộc vật chất, xin dạy con biết phục vụ trong khiêm tốn và vô vụ lợi. Giữa một thế giới muốn thống trị và ham hưởng thụ, xin dạy con yêu thương cách quảng đại và khiêm nhường tự hiến. Giữa một thế giới có nhiều phe phái chia rẽ nhau, xin dạy con luôn sống hiệp thông và có tinh thần trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy thành kiến và kỳ thị giai cấp, màu da, phái tính… xin dạy con biết nhìn mọi người đều là anh em và chân thành yêu thương họ.
– LẠY CHÚA BA NGÔI CHÍ THÁNH. Chúa là mẫu gương của một tình yêu hoàn hảo. Xin hãy biến đổi trái tim sơ cứng như đá của chúng con thành trái tim bằng thịt biết yêu thương. Xin dạy chúng con yêu thương mọi người, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Xin cho chúng con luôn thấy Chúa Giê-su đang hiện diện trong chúng con và trong mọi người. Nhờ tình yêu Chúa thôi thúc, chúng con hy vọng sẽ trở nên con hiếu thảo của Chúa Cha và nên anh chị em của mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm cao trọng và là nền tảng đời sống đức tin người Công giáo chúng ta. Như chúng ta đã biết Ba Ngôi là Ngôi Cha, Ngôi Con, Ngôi Thánh Thần. Ngôi Cha là Thiên Chúa. Ngôi Con là Thiên Chúa và Ngôi Thánh Thần cũng là Thiên Chúa. Tuy ba ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, không phải ba Thiên Chúa.
Để có thể hiểu rõ hơn, chúng ta hình dung đến những sự kiện cụ thể như một “tông nhạc.” Một tông nhạc là hợp âm của một số nốt nhạc có những âm điệu khác nhau. Hay chúng ta có thể nghĩ đến nước là một thí dụ khác. Nước tồn tại trong ba dạng khác nhau và có những công dụng khác nhau, đó là: khí để thở, đông đá để giữ tươi tốt, và nước để có sự sống. Một dạng hơi, một dạng cứng đặc, và một dạng lỏng, nhưng 3 dạng này cùng có chung một chất nước. Những diễn tả nhân tạo này giúp chúng ta hiểu phần nào về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thế nhưng không có tính cách cao trọng của thiên tính.
Chúng ta nhận biết Kinh Thánh không cho chúng ta một định nghĩa rõ ràng về Chúa Ba Ngôi, nhưng ám chỉ cho chúng ta biết một phần nào về mầu nhiệm này. Tin mừng của thánh Mát-thêu mà chúng ta đã nghe 2 tuần vừa qua trong ngày Lễ Chúa Thăng Thiên nói rằng: “Anh em hãy đi rao giảng muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Tin mừng thánh Lu-ca cho chúng ta thấy một hình ảnh rõ ràng của Chúa Ba Ngôi trong phép rửa của Chúa Giêsu tại sông Giodan, đoạn đó diễn tả rằng: “Đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dạng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con của ta, ngày hôm nay Cha sinh ra Con.’” (Lc. 3,21-22) Tin mừng của thánh Gioan thường xuyên đề cập đến Chúa Ba Ngôi như trong đoạn Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa Cha và Thánh Thần như sau: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật.” (Ga. 14,16-17) Trong Tin mừng của thánh Gioan, Chúa Giê-su thường gọi và xác nhận Thiên Chúa Cha là Cha của mình và đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa, điều đó đã làm cho những người Do thái tức giận và họ tìm cách diệt trừ Người. Cuối cùng, chúng ta có thể tìm được một số dữ kiện ám chỉ về Chúa Ba Ngôi trong các thánh thư của thánh Phao lô, đặc biệt là trong bài đọc 2 mà chúng ta vừa nghe. Thánh Phao-lô nói: “Nguyện xin ân sủng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh em.”
Tất cả các câu Kinh thánh ám chỉ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi hướng dẫn, liên kết và hiệp nhất chúng ta với Chúa Ba Ngôi trong sự cầu nguyện, trong sự tôn thờ và trong đời sống đức tin của người Ki-tô hữu. Một chút nữa đây, chúng ta sẽ cùng tuyên xưng đức tin của chúng ta vào Chúa Ba Ngôi, Chúa Cha là Đấng Tạo Dựng trời đất; Chúa Con, Đấng Cứu Chuộc trần gian; và Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa Ba Ngôi không những là tín điều phải tin mà còn là một mầu nhiệm phải sống để được bình an, hạnh phúc đời này và đời sau. Thật vậy, những bài Kinh Thánh Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta có lòng xác tín, yêu mến và sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi. Tin mừng cho chúng ta biết chỉ vì yêu thương mà Thiên Chúa Cha đã sai Con Một Ngài xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta như lời Chúa Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.” Chúng ta thấy lòng yêu thương của Thiên Chúa cũng là một điểm quan trọng trong Cựu ước. Vì tình yêu thương, Ngài đã dẫn đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập. Ngài đã chăm sóc họ như một người cha. Ngài bao dung tha thứ khi họ lỗi lầm. Qua trung gian ông Mô-sê, Ngài còn ban cho họ lề luật để giúp họ sống theo đường ngay nẻo chính và trong ân sủng của Ngài. Sau cùng, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài để chúng ta được kết hợp với Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đã làm trong lịch sử là bằng chứng tình yêu thương vô bờ của Ngài. Vì thế khi cử hành Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta cử hành tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại và cho mỗi người chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa cũng là đích điểm của đời sống Ki-tô hữu, và phải được thể hiện ra qua đời sống mỗi ngày, để chúng ta luôn được kết hợp mật thiết với Chúa Ba Ngôi.
Trong bài đọc 2, lời chào chúc của thánh Phao-lô: “Nguyện xin ân sủng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh em” diễn tả mầu nhiệm và những điều kì diệu thiêng liêng của Chúa Ba Ngôi hiện diện trong Giáo hội và trong đời sống chúng ta. Lời chào chúc này đã được Giáo hội đưa vào việc thờ phượng, trở thành công thức mở đầu Thánh lễ mà chúng ta thường nghe. Là thành viên của Giáo Hội và là chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô, mỗi người chúng ta đang sống trong ân sủng của Chúa Giêsu, trong tình yêu của Chúa Cha và trong sự thông hiệp của Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, chúng ta được bao bọc bởi tình yêu Chúa Ba Ngôi. Nhờ đó, cuộc sống Ki-tô hữu của chúng ta không còn buồn chán, thất vọng hay lầm lạc tội lỗi. Chúa Ba Ngôi không chỉ là một lý thuyết xa vời, nhưng rất cụ thể, rất gần gũi với chúng ta như hơi thở, nước uống, khí trời, và những nhu cầu cần thiết khác, mà còn liên hệ mật thiết với chúng ta như liên hệ giữa vợ- chồng, cha- mẹ, con -cái. Thánh Phaolô còn cho chúng ta biết đến những điều kiện để được Chúa Ba Ngôi che chở, đó là phải luôn sống yêu thương, đồng tâm nhất trí và hòa thuận với nhau. Một gia đình hay một cộng đoàn giáo xứ được liên kết bằng sợi giây yêu thương hiệp nhất sẽ có Chúa Ba Ngôi hiện diện, và sẽ có vui mừng, hòa thuận và hạnh phúc. Hơn nữa, chính Chúa Ba Ngôi là mối dây yêu thương hiệp nhất này, để chúng ta biết hy sinh phục vụ, sống bác ái và quảng đại làm sáng danh Chúa Ba Ngôi. Xin Chúa Ba Ngôi che chở và gìn giữ chúng ta.
.