Lời Chúa Năm C CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT II MÙA CHAY. NĂM C_2022

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT II MÙA CHAY. NĂM C_2022

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_C

Lời Chúa: St 15,5-12.17-18; Pl 3,17–4,1; Lc 9,28b-36

——-

Mục lục

1. Đấng tín trung  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Được biến đổi  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Biến đổi  (Lm. Thái Nguyên)

4. Thiên Đàng chớm nở ngay dưới thế  (Jorathe Nắng Tím)

5. Chúa biến hình để biến đổi ta  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Chiêm ngưỡng nhan Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Phẩm giá cao quí  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

8. Đất hứa  (Lm. Vũ Đình Tường)

9. Chúa Giêsu và trào lưu biến hình (Quỳnh Thoại, CĐM)

10. Xin Chúa biến đổi con (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

11. Cùng đi theo Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

12. Chuẩn bị xa  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

13. Hướng nhìn lên Đức Kitô  (Lm. Xuân Hy Vọng)

14. Chúa Kitô là chủ lịch sử  (Lm.JB. Nguyễn Minh Hùng)

 

ĐẤNG TÍN TRUNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Một trong những phẩm tính của Thiên Chúa được Kinh Thánh nhấn mạnh, đó là sự trung thành của Ngài. Thiên Chúa là Đấng tín trung. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Kinh Thánh chính là cuốn sách về lòng tín trung của Thiên Chúa.

Tín trung, hay trung thành, là luôn giữ những gì mình đã hứa, trước sau như một, dù có phải thiệt thòi hệ luỵ. Trong lịch sử, khi thiết lập mối tương quan với con người, Chúa đã khởi đầu bằng giao ước với ông Abraham. Đây là giao ước đầu tiên Thiên Chúa ký kết với con người. Một vị Thần linh cao cả mà lại đi ký giao ước với con người! Đó là điều không tưởng theo suy luận trần thế, nhưng là một điều kỳ diệu của tình thương. Bởi lẽ ở đời, người ta chỉ ký kết hợp đồng giữa các đối tác tương đương về khả năng tài chính hoặc ảnh hưởng quyền lực. Một người có số vốn một ngàn tỷ đồng chẳng bao giờ ký hợp đồng làm ăn với người chỉ có vốn vài trăm triệu đồng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng ngôn ngữ của giới kinh doanh để nói rằng, Thiên Chúa đầu tư luôn luôn chấp nhận lỗ và thua thiệt. Thiên Chúa là Đấng cao cả. Abraham chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, đến người nối dòng còn chẳng có vào lúc gần đất xa trời. Ấy vậy mà Chúa lại ký kết giao ước với ông, đồng thời hứa hẹn với ông những điều ông không dám mơ ước: đó là một dòng dõi (Dân tộc) và một quê hương (Đất hứa).

Và thế là, từ đời nọ đến đời kia, Chúa luôn trung thành giữ giao ước của Ngài.

Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể đến trần gian để thiết lập giao ước mới. Nói cách khác, Người đến trần gian để đưa giao ước này lên một tầm cao mới. Qua Đức Giêsu, mối tương quan Thiên Chúa – Nhân Loại không còn phải qua trung gian như thời xưa nữa, tức là thời của ông Môisen và ông Êlia. Con người có thể được gặp gỡ trực tiếp Thiên Chúa, “ai thấy Thầy là thấy Cha” (x. Ga 14,9).  Cuộc biến hình trên núi mà cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều kể lại, chính là một bằng chứng về lòng trung thành của Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa trong Cựu ước đã ngỏ lời qua truyền thống Lề luật (ông Môisen) và truyền thống Ngôn sứ (ông Êlia) nay đã được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu nhân độ thế. Đức Kitô vừa là Ngôn sứ vừa là Lề Luật. Kitô giáo tách ra khỏi truyền thống Do Thái, nhưng không đi ngược lại với truyền thống đó. Do Thái giáo, hay truyền thống Ngôn sứ và Lề luật nay đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử. Hình ảnh ông Môisen và ông Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu, như một gạch nối và chuyển giao giữa Cựu ước và Tân ước.

Nếu như Thiên Chúa là Đấng trung tín, thì con người lại dễ dàng phản bội. Lịch sử Cứu độ ghi lại những bất trung của dân riêng. Đã bao lần Thiên Chúa yêu thương bao bọc và chở che tha thứ, nhưng con người vẫn chống lại Ngài. Không chỉ lịch sử Do Thái, mà là lịch sử nhân loại, là chính chúng ta, những con người sống ở mọi nơi mọi thời cũng đang có khuynh hướng chống lại Thiên Chúa, khi vô tình hay hữu ý phá vỡ chương trình của Ngài. Con người từ khởi đầu luôn có khuynh hướng kiêu ngạo chống lại Thiên Chúa và có ý định phản loạn. Tội lỗi chính là sự phản loạn ấy. Tội lỗi cũng là sự bất trung. Tội lỗi gây hậu quả huỷ diệt chính bản thân mình.

Ba môn đệ gần gũi với Thầy Giêsu, là ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, đã trải qua kinh nghiệm biến hình. Các ông được chiêm ngưỡng Chúa như Người là, tức là được chiêm ngưỡng Người trong chính vinh quang do bản tính Thiên Chúa của Người. Những lúc thông thường khác trong cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã ẩn vinh quang của Người. Trên núi cao, Người đã tỏ bày vinh quang cho các ông thấy, như một lời hứa hẹn và khích lệ để khẳng định với các ông: nếu các ông trung tín với Thày, các ông sẽ được chia sẻ vinh quang với Thày. Trên núi cao, một cuộc thần hiện (Epiphany) kỳ diệu đã diễn ra: lời Chúa Cha khẳng định: Đây là Con Ta yêu dấu, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Lời này đã vang lên lúc Đức Giêsu chịu phép Rửa ở sông Giordan, để dân chúng nghe thấy và nhận biết Đấng Messia (x. Mt 3,17). Lời này hôm nay lại vang lên trên đỉnh núi, trong giờ phút Chúa Giêsu biến hình, như một nhắc nhở: hãy trung tín với Người.

Mùa Chay là thời điểm lắng đọng tâm hồn, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng tín trung trong lịch sử nhân loại và lịch sử cá nhân mỗi người. Mùa Chay cũng là thời điểm tự vấn lương tâm, để soi xét về lòng trung thành của người tín hữu đối với Chúa và đối với tha nhân. Thánh Phaolô đau lòng ứa lệ khi thấy có những tín hữu bất trung. Họ không tìm Thiên Chúa, mà chỉ tìm những gì dễ dãi cho đời mình. Vinh quang và lý tưởng của họ là những thứ chóng qua. Người yêu mến Chúa sẽ tìm vinh quang thượng giới, là hạnh phúc vững bền. Chính lòng yêu mến và trung thành sẽ giúp chúng ta biến đổi cuộc đời, trở nên con người mới, mặc lấy Đấng Phục sinh, sáng láng tinh tuyền và vinh quang thánh thiện, như Đấng đã biến hình trên núi năm xưa.

Về mục lục

ĐƯỢC BIẾN ĐỔI

Lm. Jos DĐH.

Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đã đọc 2 câu thơ của Xuân Diệu: Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt, còn hơn buồn le lói suốt cả trăm năm. Được danh thơm tiếng tốt, được kính trọng nể phục, ai chẳng vui, được sống trong cảnh giầu sang phú quý ai chẳng thích. Vấn đề ở chỗ, ta phải làm gì để có phút huy hoàng, hoặc sống thế nào để nỗi buồn le lói không đe doạ ? Không được sinh ra trong gia đình quyền quý cao sang, nhưng ta có tự do trong học tập, sống kỷ luật với bản thân để rèn luyện nhân cách, để từng bước, từng bước tới thành công. Ngày huy hoàng ở phía trước, ngày điêu tàn cũng ở phía trước, nhưng hạnh phúc thật, vẫn là câu trả lời ta đang sống có nghĩa hay vô nghĩa ở giây phút hiện tại này ?

Hành trình lên núi cầu nguyện của Đức Giêsu, vừa ánh lên vẻ đẹp đạo đức tôn giáo, vừa tỏ rạng sự kỳ diệu giữa tình yêu Thiên Chúa dành cho những ai tin và bước đi theo Ngài. Cuộc gặp gỡ thân tình mà Đức Giêsu dành cho Chúa Cha, trước tác động của Thánh Thần, cùng sự hiện diện của hai chứng nhân cựu ước, có chăng đã phản ánh một chân lý: hạnh phúc gặp trên đường đi chứ không phải chỉ ở cuối đường. Diện mạo Đức Giêsu được biến đổi khác thường, cuộc đàm đạo với hai vị “tiền bối”, đại diện cho lề luật và ngôn sứ, các ngài cùng nhau trao đổi về mầu nhiệm cứu độ tại Giêrusalem. Ba môn đệ được vinh dự theo Đức Giêsu lên núi, được chứng kiến Thầy biến hình, được nhìn thấy Môisê và Êlia, dù không hiểu sứ mạng của Thầy, nhưng các ông đều khao khát được sống mãi trong bầu khí cầu nguyện trên núi cao.

Trong cầu nguyện, Đức Giêsu thao thức được nhận biết thánh ý Chúa Cha, được sống trọn vẹn mầu nhiệm cứu độ, trong liên đới hiệp thông, Đức Giêsu luôn nghĩ đến các học trò, đến chúng ta, đầy giới hạn, cũng sẽ được biến đổi nên giống tình yêu Chúa. Tại núi cao, các môn đệ được nhìn, được thấy, được nghe “tiếng phán từ trời”, nhưng được biến đổi diện mạo, được nên giống Chúa, lại là một tiến trình các ông phải tập luyện, phải sống niềm tín thác. Vì chưng, ở đời người ta có thể nói những lời tốt đẹp, người ta có thể hiểu đâu là việc đúng, việc cần làm, nhưng trên hết, chỉ khi sống, khi hành động, người ta mới chứng minh được “tôi” là môn đệ của Thầy Giêsu.

Tiền nhân chúng ta có một lời khuyên: nếu bạn muốn đạt tới hạnh phúc, đừng ngồi chờ cơ hội, hãy trau dồi một thái độ sống tốt. Đức Giêsu không yêu cầu ba môn đệ thân tín lao động, làm việc kiếm tiền, tập làm quan làm tướng, nhưng các ông đã hiểu phải được biến đổi tâm tính, phải được trau dồi một thái độ sống đúng, sống đẹp ý Chúa mỗi ngày. Được biến đổi con người tội lỗi bất xứng của mình, được thay đổi lời ăn tiếng nói việc làm, sống chuẩn mực với tình yêu của Chúa, rất cần đến sự buông bỏ. Ta giới hạn không thay đổi được thế giới, nhưng ta có thể thay đổi chính bản chất xấu xa ích kỷ của mình. Tại núi cao hôm xưa, các môn đệ được nghe nhìn, được sự sáng toả chiếu sâu thẳm cõi lòng, được hạnh phúc trước lời chứng thực: “đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe lời người”. Không chỉ riêng 12 tông đồ, mà tất cả những ai theo Thầy Giêsu, đều khao khát có tâm hồn xinh đẹp, và được gọi là con yêu dấu.

Được biến đổi từ nghèo khó tới giầu sang, được biến hoá từ người xấu xí trở nên xinh đẹp, từ một người dại khờ trở nên lanh lợi, đó là thành công vĩ đại mà người đời hằng mơ ước. Đức Giêsu cho ba môn đệ theo Thầy lên núi, nhưng Ngài mơ ước cả 12 người học trò cùng được biến đổi tâm tính và trở nên xứng hợp với tình yêu Chúa. Tiếng nói từ trời khích lệ bước đường phía trước của Thầy, vừa đủ khai thông cho ba vị đại diện theo Thầy lên núi, Thầy Giêsu còn ước mong cả “nhân loại” này, ai cũng được biến đổi để trở nên con chí ái của Chúa. Niềm vui được thấy thiên tính của Thầy, hạnh phúc được biến đổi, được nên giống Thầy: “lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con sẽ làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Môisê, một cho Elia…”. Vâng, ba môn đệ khao khát được nên giống tình yêu của Thầy, những ai theo Đức Giêsu, đều có quyền mơ ước được hạnh phúc mãi mãi trong tình liên đới hiệp thông với Thầy.

Thà rằng đừng ham hố danh lợi thú ở thế gian này, thà rằng được thoáng nghe và nhìn thấy hạnh phúc ở bên tình yêu nhan thánh Chúa, còn hơn cả kiếp người mù mịt trong mưu mô tính toán hơn thiệt, ngay cuộc sống hiện tại này. Ai trong chúng ta cũng có cơ hội, có thời gian để lên núi, để cùng hiệp thông cầu nguyện, và có quyền tin tưởng vào lòng thương xót Chúa. Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu, tham vì ông lão tốt râu mà hiền. Chẳng tham nhà ngói 3 toà, tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành. Với mỗi người theo Đức Kitô, chúng ta đang mơ ước điều gì ? Chắc chắn là mong được hạnh phúc, được có tình yêu của Chúa suốt cả đời này đời sau. Hãy cầu nguyện, hãy lắng nghe để biết, để hiểu, để được biến đổi con người đầy bất xứng của mình, cũng là để sống thánh ý Chúa, sống bổn phận của mình cách tốt đẹp nhất. Vâng, thước đo sự thật giầu có của bạn, là giá trị bạn có sau khi đã trải qua cả cuộc đời sống trong tin yêu. Amen.

Về mục lục

BIẾN ĐỔI

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Tướng tá và diện mạo của con người vẫn luôn là sự phản chiếu từ cái tâm: “Tướng tự tâm sinh”. Ít ai suy nghĩ về điều này, nên cũng ít lo chỉnh đốn từ cái tâm, mà thường chỉ lo sửa sang ở cái tướng, nghĩa là chỉ lo cho diện mạo bên ngoài của mình sao cho thật đẹp. Ai cũng muốn người khác đổi mới cái nhìn về mình, nhưng nếu bên trong ta không đổi mà chỉ đổi bên ngoài, thì cũng chỉ là những đắp vá và tô trát giả tạo, không phải bản chất đích thực của một tình trạng nội tâm.

Tâm quyết định về tướng trong mọi tình trạng và từng giai đoạn của đời người, vì thế nên có câu: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh. Vô tâm hữu tướng, tướng tòng tâm diệt”. (Có tâm không có tướng – Tướng tự tâm mà sinh. Có tướng không có tâm – Tướng theo tâm mà mất). Cũng vậy, “Tâm sinh tướng, tướng sinh hình”. Tướng đây không chỉ diện mạo hay thần sắc bên ngoài mà còn biểu hiện bản chất từ thâm tâm của một con người, là căn cơ nguồn cội của một tính cách.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng hé mở một chút bản chất đích thực của con người Đức Giêsu:“Đang khi Người cầu nguyện, thì khuôn mặt Người biến đổi, y phục Người nên trắng ngời như chớp sáng”. Trong quang cảnh này, Ngài đàm đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa là Êlia và Môsê, bàn về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Các môn đệ ngây ngất trước vẻ đẹp rạng rỡ ấy. Cuộc biến hình sáng láng này có lý do sâu xa của nó, nhưng cũng để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê cách đó tám ngày: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” (Lc 9, 20).

Nhìn thấy Thầy chói lọi trong ánh quang, Phêrô vui sướng muốn dựng lều và ở lại mãi trên núi thánh. Khi Thầy cầu nguyện thì ông và các bạn cứ ngủ vùi, bây giờ thì lại bám cứng vào một cảm nghiệm hạnh phúc thoáng qua, không muốn xuống núi để sống cuộc đời thường. Chắc chắn các môn đệ chưa nhận ra ý nghĩa của biến cố này. Các ông chỉ muốn vui hưởng những gì trong hiện tại khi đi theo Chúa, muốn tránh tất cả những gì là bấp bênh, đau thương, thất bại hay khổ giá (x. Mt 16, 21-23). Thế nhưng ta thấy ý định của Chúa Giêsu thật rõ ràng, Ngài không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến.

Để thi hành sứ mạng, Đức Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi Lời, Ngài sống đời nghèo khó, có vẻ như bất lực và tầm thường dưới mắt người đời. Ngài gặp nhiều chống đối, bị khinh chê và chế nhạo. Công cuộc rao giảng Tin Mừng xem ra đã thất bại. Đau thương hơn nữa, là Ngài phải đối đầu với cuộc tử nạn sắp đến. Lòng Ngài cũng mang nặng lo âu và sợ hãi. Nhưng điều cao vượt là Ngài sẵn lòng đón nhận thánh ý Chúa Cha. Bởi vậy, một lần nữa, Chúa Cha tuyên dương: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”.

Điều quan trọng ta cần lưu ý là Đức Giêsu biến đổi dung mạo sáng ngời đang khi Ngài cầu nguyện. Thật ra, trọn đời sống của Đức Giêsu là cầu nguyện, và Ngài dạy chúng ta phải cầu nguyện luôn. Cầu nguyện sẽ giúp chúng ta chỉnh đốn và thống nhất con người mình đúng theo dự định của Thiên chúa. Chính trong cầu nguyện hằng ngày mà chúng ta được biến đổi dần dần để trở nên con yêu dấu của Thiên Chúa. Đó mới chính là sự biến hình đổi dạng của chúng ta hôm nay, nghĩa là biểu lộ được khuôn mặt của Đức Giêsu cho mọi người trong mọi hoàn cảnh. Chính vì vậy mà chúng ta được gọi là Kitô hữu.

Nếu sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả mà thỉnh thoảng Chúa ban trong cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Ngài vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống. Nếu cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Ngài chấp nhận cuộc khổ hình, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra thật vất vả nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai. Thánh Phaolô cũng hứa hẹn với các tín hữu rằng: “Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài.” (Pl 3,17 – 4,1).

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm,
non nớt cạn cợt hay sâu sắc thâm trầm,
là người sống âm thầm hay ham tỏ vẻ,
là kẻ khoe mẽ hoặc e dè thâm hậu. 

Có ai muốn mình là người xấu đâu,
mà muốn luôn được tươi thắm đẹp mầu,
muốn người khác nhìn mình với chiều sâu,
bằng sự tôn trọng và cảm thông hiểu thấu.

Thế nhưng mọi sự lại tùy tâm,
tâm hiền lành thì khuôn mặt dễ mến,
tâm khiêm nhường thì sắc diện thanh cao
tâm hung hăng thì tướng người kiêu ngạo,
tuy nhiên cũng khó nói cho vừa,
nhiều người ranh mãnh lọc lừa giả trang.

Giữa cuộc đời đầy vàng thau lẫn lộn,
tâm con cũng dễ dàng bị xáo trộn,
làm mất đi nét trong sáng của tâm hồn,
không còn khả năng tỏ lộ hình ảnh Chúa,
cho bao người đang sầu úa quanh mình,
mà không dám sống tận tình cho nhau.

Muốn thế con phải luôn kề bên Chúa,
để tâm con trong tư thế yên hàn,
vì gần mực thì đen gần đèn thì sáng,
trong cầu nguyện mà diện mạo phát quang.

Gặp được Chúa rồi mới làm con biến đổi,
nếu chưa thì con vẫn trôi nổi nhập nhằng,
chẳng biết bao giờ mới đơm hoa kết trái,
để tâm con biểu lộ một thần thái như Ngài.

Xin giúp con làm chủ lấy cái “Tôi”,
để luôn biết nối kết với nguồn cội,
và cho con biết tận dụng mọi cơ hội,
để nói lên lòng mến Chúa mà thôi. Amen.

Về mục lục

THIÊN ĐÀNG CHỚM NỞ NGAY DƯỚI THẾ

Jorathe Nắng Tím 

Chia sẻ Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay năm C với quý Bạn, người viết xin được dùng lời của bài thánh ca “Giêsu Khoan Nhân” do linh mục nhạc sư Antôn Tiến Dũng viết nhạc làm đề tựa bài suy niệm, vì quả thực, các bài đọc cũng như Tin Mừng của chúa nhật hôm nay đều nói lên hạnh phúc được nếm sự ngọt ngào của Thiên Đàng ngay ở thế gian này, như ca từ đã diễn tả: “Thiên Đàng chớm nở ngay dưới thế, tháng năm hoan lạc trôi từ đây”.

Kinh nghiệm sống đức tin của cha ông cũng như kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa của mỗi người ít nhiều đã cho chúng ta thấy: giữa những khó khăn, thách đố của cuộc sống, những trắc trở, nhiêu khê của đuờng đời, những Thánh Giá to nhỏ trên hành trình của người Kitô hữu, Thiên Chúa luôn có mặt và khi cần thiết Ngài cho chúng ta được  nếm sự ngọt ngào của Thiên Đàng, nghĩa là cho tâm hồn những ai yêu mến Ngài cảm nghiệm niềm hoan lạc thiên đàng, đích tới của hành trình đi theo Đức Giêsu của người Kitô hữu.

Cựu Ước đã làm chứng điều này, khi Ápram sợ  trước lời hứa cho ông trở thành tổ phụ  dân riêng, qua lời ông thưa với Thiên Chúa: “Con ra đi mà không con cái, và người thừa tự gia đình con là Êlieđe, một người Đamát…  Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ thừa kế con” (St 15, 2-3). Chính trong lúc hoang mang, buồn tủi, Thiên Chúa đã trấn an ông: “Hỡi Ápram, đừng sợ. Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi: phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn”.. ”. Rồi người đưa ông ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không”. Người lại phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó” (St 15,1.5-6).

Chỉ cho Ápram các vì sao trên trời, Thiên Chúa Giavê không những cho ông biết dòng dõi của ông sẽ đông như sao trên trời, mà còn cho ông thấy trước hạnh phúc của ông và dòng dõi ông sau này sẽ được hưởng trên Thiên Đàng. Nói cách khác, Thiên Chúa muốn chỉ cho Ápram thấy tương lai hằng phúc của những ai đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa như “ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6).

Thánh Tông Đồ Dân Ngoại khẳng định hạnh phúc mai hậu trên trời sẽ được dành cho những ai đặt niềm hy vọng vào Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống cứu nhân loại. “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3, 21), vì “quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20).

Và trong Tin Mừng Luca,  Đức Giêsu  đã chứng thực chân lý trên khi cho ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê  lên núi với Ngài, ở đó “dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà”, lại có hai nhân vật quan trọng là Môsê và Êlia “hiện ra, rạng ngời vinh hiển”. “Nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người” (Lc 9,29.32), các tông đồ ngất ngây sung sướng, xin được cắm lều ở mãi trên núi, mà không còn muốn xuống núi, trở lại đời thường (x. Lc 9,33).

Thực vậy, trên hành trình đức tin, nghĩa là trên con đường “vừa đủ sáng để thấy, vùa đủ tối để tin”, Thiên Chúa không để những ai yêu mến, tin tưởng Ngài phải lầm lũi, sầu buồn đi mãi, đi hoài trên con đường dày đặc bóng tối, hoàn toàn tăm tối, chìm ngập trong đêm tối, mà  không một tia sáng hy vọng, không một khoảnh khắc phấn khởi, ủi an. Trái lại, Ngài có mặt để nâng đỡ đức tin yếu đuối của chúng ta bằng tỏ ra quyền năng vinh quang của Ngài như đã tỏ ra cho ngôn sứ Êlia trên núi Hôrép, hay cho Môsê trên núi Sinai; cũng như đã tỏ ra cho dân chúng thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa khi Ngài chiu phép rửa bên bờ sông Giođan, và chính Đức Giêsu đã tỏ ra vinh quang Thiên Chúa của Ngài khi hiển dung trên núi như Tin Mừng kể lại.

Mùa Chay là mùa trở về, nhưng để trở về, chúng ta cần biết sẽ trở về đâu, trở về với ai?

Chúng ta trở về với Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, người cha nhân hậu,  vì chúng ta là những chiên lạc đàn, những người con thứ hoang đàng; chúng ta trở về với “lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”, vì “quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20), vì chúng ta là công dân Nước Trời, là con cái Thiên Chúa, là những người ở trong xác thịt, nhưng không sống theo xác thịt, ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, phải tuân giữ lề luật nhưng cách sống thì hoàn hảo hơn lề luật. Và trên đường trở về, Thiên Chúa luôn làm chớm nở hạnh phúc của quê hương Thiên Đàng trong tâm hồn ngay trên những bước chân của chúng ta trên đường dương thế, khi chúng ta đặt niềm tin và tình yêu vào “Đức Giêsu  rất khoan nhân, ngọt ngào” là hy vọng và hoan lạc của những tâm hồn khao khát tìm kiếm Ngài.

Về mục lục

CHÚA BIẾN HÌNH ĐỂ BIẾN ĐỔI TA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Nếu như Chúa nhật I Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu chịu Ma Quỷ cám dỗ thì Chúa nhật II mùa Chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin mừng về việc Đức Giêsu biến hình cho cả 3 năm phụng vụ, để khích lệ chúng ta bắt chước Chúa Giêsu chống trả Tên Cám Dỗ, cởi bỏ con người cũ, thay hình đổi dạng, mặc lấy con người mới, chết đi cho tội lỗi, sống cho Chúa, để qua cuộc biến đổi này mà trở thành một tạo vật mới với ân sủng của Chúa và dưới tác động của Chúa Thánh Thần.

Abraham được Chúa biến đổi

Nhân loại cũ do Adong kể như đã hư mất vì tội lỗi. Nhưng để biến đổi thành nhân loại mới, Thiên Chúa đã ký kết với Abraham một giao ước dưới dạng một bản giao kèo theo tập tục các chiến binh thời đó: được đóng ấn bằng việc xẻ thịt một bò cái tơ, một dê cái và một cừu đực. Thiên Chúa nhận của lễ Abraham dưới hình dạng ngọn lửa thiêu. Theo giao ước này, nếu Abraham nhận Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ ban cho ông hai điều: một dòng dõi đông đúc và một vùng đất rộng rãi phì nhiêu. Abraham tin và tuân giữ nên ông được như Chúa hứa ban.

Biến đổi như Phaolô

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã tường thuật về sự biến đổi đời ngài khi gặp Đức Kitô Phục Sinh, đồng thời mời gọi họ noi gương ngài biến đổi. Từ một kẻ hung ác bắt bớ Hội Thánh, Phaolô được Chúa biến đổi thành tông đồ hăng say rao giảng Tin Mừng. Ngài viết: “Anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi” (Pl 3,17). Ngài than phiền khi thấy còn nhiều kẻ chưa biến đổi như ngài, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã khóc thương khóc cho số phận của họ, vì nếu họ không biến đổi thì số phận họ sẽ hư vong là chắc. Thánh Phaolô khẳng định: “Quê hương chúng ta là quê trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Pl 3, 20). Ngài cầu nguyện cho họ nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống khăng khít với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của thánh Phaolô.

Chúa biến hình để ta được biến đổi

Thánh sử Luca nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia. Việc Chúa Giêsu biến hình là mẫu gương cho mọi người noi theo để cố gắng biến đổi con người cũ thành con người mới. Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Bốn thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta được biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Trong lịch sử dân Chúa, chúng ta phải nhìn nhận ơn Chúa biến đổi phận người. Cụ thể như Abraham người thành Ur thuộc Mesopotamia đã từ bỏ ruộng vườn, nhà cửa đang ổn định để đi tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn tiến về xứ Canaan. Trước mặt ông là dải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Chúa đã biến đổi ông thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc.

Phaolô, từ kẻ kiêu căng cuồng tín biệt phái, hung hăng bắt đạo, được biến đổi thành người Tông đồ Dân ngoại dễ mến dễ thương.

Lịch sử Giáo hội còn ghi nhận nhiều cuộc biến đổi khác. Có những vị từ gái giang hồ biến đổi thành thánh nhân, từ kẻ khô khan đến người sốt mến, từ người tham lam, hà khắc trở thành người rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.

Về mục lục

CHIÊM NGƯỠNG NHAN CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Muốn theo sau Chúa thì cũng phải đi cùng một con đường, không có “xa lộ” song song, không có “cầu vượt” dành cho các môn đệ. Biết là các môn đệ không dễ gì chấp nhận nổi “thập giá” nên Chúa muốn cho ba người đại diện thoáng thấy vinh quang phục sinh của Chúa. Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó, những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Chúa Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Chúa Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Chúa Giêsu.

Đưa các môn đệ lên đỉnh núi Tabor, Chúa Giêsu cho họ chiêm ngắm vẻ đẹp của thế giới thần linh, sau đó Người đưa các môn đệ xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Sọ.

  1. Núi Tabor

Sách Thủ lãnh kể chuyện: Theo lệnh của Đêbôra, một nữ ngôn sứ, làm thủ lãnh xứ Israel, “Ông Barắc từ núi Tabor đi xuống với 10.000 quân theo sau” (Tl 4,14) để đánh bại Giavin, vua Canaan, trị vì tại Khaxo. Đó là một trong những trận đánh do người Israel phát động nhằm chinh phục đất Canaan. Quân Israel chiếm đóng vị trí chiến lược này và tướng Xixôri dù có 900 chiến xa, không dám leo lên núi để tấn công quân Israel được. Barắc đánh bại quân thù, còn các chiến xa bị sa lầy (x.Tl 4,12-24).

Flavius Joseph, viên chỉ huy lực lượng Do thái ở Galilê, ngay từ đầu cuộc nổi loạn chống lại đế quốc Rôma vào năm 66 đã mô tả thành luỹ của núi Tabor.Nhiều pháo đài bao quanh ngọn núi, những vết tích còn thấy được, không hữu dụng bao nhiêu, vì thiếu nước nên dân chúng phải đầu hàng quân Rôma.

Những nhà thờ xuất hiện trên núi Tabor vào đầu thế kỷ thứ V. Tu viện được các tu sĩ Biển Đức xây dựng vào thời Trung Cổ nhằm chống lại các cuộc tấn công của Saladin. Tuy nhiên, các tu sĩ bị bắt buộc phải bỏ đi sau khi Hattin đại bại vào năm 1187. Tất cả cửa nhà đều bị vua Beybara san thành bình địa. Mãi đến thế kỷ thứ XVII, các tu sĩ Phanxicô mới thu hồi và khôi phục lại.

Được xây dựng vào năm 1991, nhà thờ Chính Thống giáo Hy lạp Thánh Êlia mọc lên trên những vết tích thời Trung Cổ. Vương Cung Thánh đường Hiển Dung được thánh hiến vào năm 1924, là tác phẩm của kiến trúc sư Antôniô Barluzzi. Vương Cung Thánh Đường này nổi tiếng nhờ mặt tiền có hai tháp to lớn nối với nhau bằng một vòng cung theo kiểu Byzantin. Các cây cột chia bên trong thành 3 gian, gian giữa có một bức tranh khảm đá kể lại ước muốn của Thánh Phêrô xây dựng ba cái lều: một cho Chúa Giêsu, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia. Các cha dòng Phanxicô cũng xây một tu viện hoành tráng và một cơ sở xã hội kế bên Vương Cung Thánh Đường.

Tôi có dịp hành hương lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth, xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.

Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.

Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.

  1. Biến hình

Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.

Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).

Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.

Chúa hiển dung trên núi Tabor là một sự kiện đặc biệt. Ông Môsê tiêu biểu cho Lề Luật, ông Êlia tiêu biểu cho các Ngôn Sứ, cả hai đến chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa đang tỏ hiện nơi Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa, cả hai cùng đàm đạo với Chúa Giêsu, Đấng mà “Lề Luật và các Ngôn Sứ” đã loan báo. Sự kiện này trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Kỷ niệm ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.

Câu chuyện Chúa Biến Hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Thánh Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.

  1. Nghe Lời Người

Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.

Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.

Muốn vâng nghe lời ai đó, trước hết phải tin vào người đó. Tin một ai thì phải hiểu biết về người ấy, phải có mối liên hệ thân thiết với người ấy. Muốn tin Chúa, chúng ta phải hiểu biết và sống tương quan mật thiết với Ngài. Nhờ Lời Chúa, chúng ta được hiểu biết về Ngài và được lớn lên trong niềm tin. Nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ, hiểu biết và kết hiệp với Chúa ngày càng thân mật hơn, đức tin sẽ vững vàng hơn. Có tin mới yêu và nghe lời người mình yêu. Chúa Cha muốn chúng ta phải vâng nghe Lời Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Ngài. Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt mà còn nghe bằng lòng trí và bằng cả cuộc sống luôn quy chiếu suy nghĩ hành động theo Chúa Giêsu. Để có thể vâng nghe lời Chúa Giêsu, chúng ta phải gặp Ngài khi dự thánh lễ, khi đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày.Nhờ đó cuộc đời chúng ta sẽ biến đổi, dung mạo sẽ đổi khác. Vâng nghe Lời Chúa, dung mạo chúng ta sẽ ngày càng thân thiện hơn, bình an vui tươi hạnh phúc hơn.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).

Về mục lục

PHẨM GIÁ CAO QUÝ

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Trong sinh hoạt hằng ngày, Chúa Giê-su sống bình dị như mọi người, không bày tỏ thần tính của mình ra; vì thế, người đương thời chỉ nhận biết Đức Giê-su là người phàm, chứ không biết Ngài cũng là Thiên Chúa.

Thế rồi, qua việc Chúa Giê-su bày tỏ dung mạo uy nghi, sáng láng, vinh hiển của Ngài trên núi cao, ba môn đệ Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê mới phát hiện ra căn tính của Đức Giê-su: Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng cao cả tuyệt vời, ẩn mình dưới hình hài con người bình dị.

Việc Chúa Giê-su hiển dung trên núi giúp chúng ta biết được hai điều quan trọng nầy:

Thứ nhất, Ngài không chỉ là người phàm mà còn thực sự là Thiên Chúa, được Thiên Chúa Cha xác nhận trước mặt ông Mô-sê, Ê-li-a và 3 môn đệ rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.”

Thứ hai, qua việc bày tỏ dung nhan sáng láng, vinh hiển của mình, Chúa Giê-su cũng tỏ cho biết rằng những ai tin và bước theo Ngài, sẽ được chung phần vinh hiển với Ngài như thế, đúng như lời dạy của thánh Phao-lô được trích đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay: “Ngài sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3, 21).

Chúa biến đổi chúng ta nên vinh hiển cách nào? 

Dù chúng ta mang kiếp bụi trần, thân phận mỏng giòn yếu đuối, vậy mà Chúa Giê-su đã dùng Bí tích Thánh tẩy để nâng chúng ta lên, cho chúng ta được tái sinh để trở thành người con chí ái của Thiên Chúa Cha, được trở nên đền thờ cao cả của Chúa Thánh Thần. Vinh hiển biết bao!

Không những thế, Chúa Giê-su còn tháp nhập chúng ta vào Thân mình Ngài, cho chúng ta trở thành một chi thể trong Thân thể Ngài! Hạnh phúc biết chừng nào!

Và một khi trở thành một chi thể trong Thân thể Chúa Giê-su, sự sống của Thiên Chúa ba Ngôi, là sự sống rất cao vời, viên mãn, không bao giờ lụi tàn… được thông ban cho chúng ta, tựa như nhựa sống từ thân nho chuyển sang cành nho, để chúng ta được sống đời đời với Chúa!

Và qua Bí tích Thánh thể, Chúa Giê-su ban thịt máu Ngài cho chúng ta lãnh nhận, để nhờ đó, chúng ta được nên một với Chúa Giê-su, đồng huyết nhục với Ngài và nhờ đó, được sống vĩnh cửu với Ngài.

Đây là những hồng ân vô giá Chúa tặng ban, nhờ đó, “Ngài biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3, 21).

Bảo toàn phẩm giá cao quý của mình 

Được Thiên Chúa ban tặng diễm phúc lớn lao như thế, chúng ta phải hết lòng cảm tạ tri ân và tuyệt đối không bao giờ để cho mình suy thoái, đánh mất phẩm chất tuyệt vời.

Về vấn đề nầy, thánh Lê-ô Cả Giáo hoàng khuyên dạy chúng ta như sau:

“Hỡi các Ki-tô hữu, hãy ý thức về phẩm giá của bạn. Giờ đây bạn đã được thông phần bản tính Thiên Chúa, đừng để mình bị thoái hóa qua việc trở lại với lối sống bất xứng đã qua. Bạn hãy nhớ Ai là Đầu của bạn và bạn là chi thể của Thân Mình nào. Hãy nhớ rằng bạn đã được cứu thoát khỏi quyền lực tối tăm, đã được đưa vào trong ánh sáng và Nước Thiên Chúa.

Nhờ Bí tích Thánh tẩy, bạn đã trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần. Bạn đừng xua đuổi Vị Khách quý trọng như thế do những hành động xấu xa của bạn, đừng để mình lại rơi vào ách nô lệ ma quỷ, vì giá chuộc bạn là chính Máu Đức Ki-tô. (Trích bài giảng của Thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng).

Lạy Chúa Giê-su,

Từ địa vị thấp hèn, Chúa nâng chúng con lên bậc con Thiên Chúa, trở nên chi thể của Chúa, nên đền thờ Chúa Thánh Thần. Xin giúp chúng con dứt khoát từ bỏ nếp sống cũ đầy tội lỗi và bất xứng, để bắt đầu cuộc đời mới, cuộc đời cao đẹp xứng tầm người con Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

ĐẤT HỨA

Lm Vũđình Tường

Phúc Âm không ghi lại cho biết vị nào tổ chức cuộc họp, do ai hẹn ai. Chúng ta chỉ biết là có cuộc gặp mặt trên núi thánh giữa Đức Kitô và tổ phụ Môisen và tiên tri Elijah. Sau đó có tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây kêu gọi môn đệ hãy ‘Vâng nghe lời Ngài’. Cuộc gặp mặt lần nữa xác định Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Ngài vác thập giá hoàn thành sứ mạng cứu độ nhân loại.

Tuần trước Thánh Thần Chúa dẫn Đức Kitô vào hoang địa. Ngài chịu cám dỗ sau bốn mươi ngày chay tịnh. Tuần này Đức Kitô chủ động, Ngài dẫn môn đệ lên núi thánh. Kinh nghiệm quí hiếm một đời không gặp, Đức Kitô dành riêng cho các môn đệ. Các ông được Đức Kitô ban ơn riêng. Các ông gặp tổ phụ Môisen, tiên tri Elijah và được nghe tiếng Chúa Cha phán bảo. Đức Kitô mặc khải vinh quang cho các môn đệ. Có khác biệt về vinh quang Thiên Chúa và các tổ phụ. Tổ phụ nhận vinh quang từ Chúa; trong khi chính Đức Kitô là nguồn vinh quang sáng hơn chớp trời sáng toả. Môisen sống một ngàn năm trăm năm trước Đức Kitô; tiên tri Elijah sống chín trăm năm trước Đức Kitô. Sự hiện diện của hai vị xác định sự thật niềm tin Kitô hữu. Đó là sau cuộc sống trần gian, còn cuộc sống mới sáng chói, chan hoà niềm vui, cho những ai tin theo Thiên Chúa.

Môisen và Elijah mỗi vị đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ dân Chúa. Môisen nhận Mười Điều Răn Chúa ban trên núi Sinai; Elijah đại diện cho tiên tri mọi thời đại. Tiên tri rao giảng tình yêu vô bờ Chúa dành cho toàn dân. Tiên tri kêu gọi con người thống hối, từ bỏ lối sống sa đoạ, trở về đường công chính. Tiên tri bị chế nhạo, phỉ báng. Tiên tri sống cho Chúa; sống là nhân chứng trung thành; chết làm sáng Danh Thiên Chúa. Đức Kitô một mình Ngài hoàn thành tất tốt đẹp hai vai trò. Thứ nhất là vai trò tiên tri; thứ hai là vai trò chính Ngài là Con Thiên Chúa. Tiên tri kêu gọi thống hối nhận ơn thứ tha, ơn cứu độ. Đức Kitô, Đấng có quyền ban ơn tha thứ, và ban ơn cứu độ. Tiên tri vác thập giá của chính mình bước theo Thiên Chúa. Đức Kitô vác thập giá thay nhân loại làm hoà cùng Chúa Cha. Tiên tri chết. Chúa ban sự sống trường sinh. Đức Kitô sống lại từ cõi chết, ban ơn trường sinh cho ai tin, bước theo Ngài.

Thánh Luca ghi lại cuộc đàm đạo giữa Đức Kitô và các tổ phụ. Cuộc đàm đạo tóm gọn hai sứ vụ Đức Kitô trong một câu vắn gọn.

Các vị ‘nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Jerusalem’ Lc 9:31

Hai chữ ‘xuất hành’ ‘Jerusalem’ đóng vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ câu nói. ‘Xuất hành’ chính là nhắc lại hành trình vượt qua Biển Đỏ Môisen dưới sức mạnh và ơn Chúa soi sáng dẫn dân Israelites thoát ách nô lệ bên Ai Cập để vào miền Đất Hứa. ‘Xuất hành’ của Đức Kitô chính là nói đến ơn Đức Kitô giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, khỏi chết muôn đời. Thập giá Đức Kitô giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài sống lại ban sự sống trường sinh cho những ai ‘Vâng nghe lời Ngài’, tin theo, bước theo. Jerusalem chính là nói đến cuộc thươngg khó, Đức Kitô bắt đầu tại Jerusalem và hoàn thành sứ mạng cứu độ cũng tại Jerusalem.

Tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây phán bảo môn đệ ‘Hãy vâng nghe lời Ngài’. Lc 9:35. Vâng nghe ba lần Đức Kitô tiên báo cuộc thương khó.

‘Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các Kì mục, Thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trôi dậy’ Lc 9: 22.

Ngay sau đó Đức Kitô phán bảo môn đệ: ‘Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo’ Lc 9: 23

Vâng nghe lời Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng Chúa tuyển chọn, chính là vâng nghe lời của chính Thiên Chúa. Vâng nghe bằng cách vác thập giá, bước theo.

Ngày lễ Chúa Biến Hình ban cho con tim các môn đệ niềm vui dạt dào. Các ông tràn ngập hạnh phúc, dù chỉ được nếm thử một chút vinh quang Thiên Chúa, các ông đã mong mỏi lưu lại đó luôn mãi. Các ông được ơn đặc biệt nếm thử ‘Miền Đất Hứa’ của sống trường sinh. ‘Miền Đất Hứa’ này Chúa ban cho những ai ‘Vâng nghe lời Ngài’.
Chúng ta dâng trọn con tim cho Đức Kitô để cuối đời vào ‘Miền Đất Hứa’.

Về mục lục

CHÚA GIÊSU VÀ TRÀO LƯU BIẾN HÌNH

Quỳnh Thoại

 “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh, chói lòa” (Lc 9,29)

Trào lưu biến hình

Ngày nay, chúng ta không lạ gì với những ứng dụng chỉnh sửa hình ảnh, đặc biệt là trào lưu biến hình trên tiktok. Ứng dụng này đã thu hút lượng lớn những người theo dõi và sử dụng chúng như một phần sinh hoạt hằng ngày. Và cũng với ứng dụng này, người xem được mãn nhãn với màn biến hóa thần tốc từ dung mạo bình thường sang thần thái vô cùng sành điệu chỉ bằng một cái vỗ tay, hay một cái đạp chân trước ống kính camera.

Câu hỏi được đặt ra là: những ứng dụng này đã đáp ứng nhu cầu cốt lõi gì nơi những người đang theo dõi và sử dụng chúng? Phải chăng vì con người với tính hiếu kỳ luôn muốn trải nghiệm những gì mới mẽ, nhất là đối với những ai yêu thích công nghệ và giải trí. Hoặc có thể khi một bức ảnh được qua chỉnh sửa thì trông sẽ bắt mắt hơn, thú vị hơn, và sáng đẹp hơn ảnh gốc…Và càng đi vào tìm hiểu sâu xa hơn nữa những lý do bên trong của con người. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng, sở dĩ những ứng dụng này luôn được đón nhận và thường xuyên sử dụng là do bởi nhu cầu bản thân muốn được người khác đón nhận, và để ý một cách tích cực nhất, đẹp đẽ nhất. Vì theo lẽ thường, ai cũng muốn xây dựng cho mình một hình ảnh thật đẹp, thật xinh tươi và dễ thương trong mắt người khác. Vậy nên những ứng dụng công nghệ kể trên mới được ứng dụng rộng rải bằng những cập nhật mới liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu này của con người.

Chúng ta có thể kể ra một vài ứng dụng biến hình với các phiên bản như: hất tóc biến hình, đá chân biến hình, chỉ tay biến hình…rồi giờ là biến hình thành siêu nhân giải cứu thế giới…Người chơi càng ngày càng bị cuốn vào ánh hào quang của những hiệu ứng màu sắc, âm thanh, và ánh sáng mà xa dần phiên bản đời thực của chính mình…

Chúa Giêsu biến hình

Hôm nay, Chúa Giêsu như hòa vào trào lưu biến hình của con người hôm nay. Nhưng khác với mọi cuộc biến hình trên các nền tảng mạng xã hội, Ngài biến hình trong sự đồng hành của Mô-sê và Elia, hai nhân vật trong Cựu Ước, như đại diện cho Lề Luật và các tiên tri. Ngài biến hình không bởi ánh sáng của những chiếc đèn màu rực rỡ nhưng trong đám mây. Ngài cũng không biến hình với tiếng nhạc xập xình nhưng bằng tiếng nói của Chúa Cha: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người!” (Lc 9,35).

Và điều đáng nói hơn ở đây, đó là: Các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan không chiêm ngắm việc biến hình này qua màn ảnh nhỏ của chiếc smartphone, với một sản phẩm đã hoàn tất. Các vị này chiêm ngưỡng Chúa Giê su biến hình một cách trực tiếp, và sống động, sống động đến nỗi dù đem đến cho các ông sự thích thú muốn được dựng lều để chiêm ngắm mãi vinh quang Chúa, nhưng cũng làm các ông “hoảng sợ, và nín thinh đến tận mấy ngày sau, không dám kể cho ai biết về những điều mình đã thấy…” (Lc 9,34). Vì sao vậy? vì dung mạo Chúa quá khác biệt với những gì các ông đã thấy hằng ngày, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. (Lc 9,29) Có thể các ông đã kinh nghiệm chút nào đó thiên tính của Thầy mình, điều vượt quá trí tưởng tượng và tiếp nhận của con người bình thường như các ông.

Cách thức Chúa biến hình

Thánh sử Luca chỉ cho chúng ta biết cách thức Chúa biến hình. Ngài không “hất tóc, cũng chẳng đá chân, hoặc chỉ tay”…như những gì chúng ta thường thấy trên các nền tảng mạng xã hội. Ngài chỉ làm một điều đơn giản: cầu nguyện! Và đang lúc cầu nguyện như vậy, dung mạo Ngài biến đổi. Điều này nói cho chúng ta điều gì? Sức mạnh của lời cầu nguyện, của những giờ phút kết hiệp với Chúa Cha luôn đem lại sinh khí và sinh lực cho Chúa Giêsu trong suốt hành trình làm người và thi hành sứ vụ trên trần gian của Ngài.

Chúng ta thường cảm thấy hả dạ trước một Chúa Giêsu mạnh mẽ lên án những thói giả hình và lối sống bất công của những người quyền thế trong dân?  Chúng ta cũng thường ngưỡng mộ những lời Ngài phán ra có sức mạnh xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, và nuôi dưỡng những ai đói khát cơ cầu…Nhưng chúng ta có từng chiêm ngắm một Chúa Giêsu âm thầm lánh riêng ra một nơi để cầu nguyện không? Và chúng ta có thường nhận ra rằng trước và sau khi làm một việc gì đó quan trọng, Chúa Giêsu thường bắt đầu bằng việc cầu nguyện hay không?

Cầu nguyện

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa, vì Chúa không ngừng bày tỏ cho chúng con biết về Chúa để hiểu và yêu mến Ngài hơn. Ngài là một Thiên Chúa không ngại mặc lấy thân phận con người (nhân tính) để trở nên gần gủi với chúng con, nhưng cũng không quên nhắc nhớ chúng con về Thiên Tính của Ngài: là Con của Chúa Cha, và cũng là Thiên Chúa! Điều đó đem lại niềm vui và vinh dự cho chúng con khi được chia sẻ vinh quang với Ngài qua khát vọng biến đổi từng ngày của chúng con.

Xin dạy chúng con đang khi chạy theo những ảnh ảo, phù vân của những hào nhoáng bên ngoài, biết quay về với Chúa trong mùa chay thánh này, để tìm lại hình ảnh chân thực của chúng con: là con cái của Chúa!

Xin cho chúng con biết cài đặt, ứng dụng, và lưu giữ phiên bản Giêsu biến hình này trong cầu nguyện, ăn chay, và việc lành bác ái, để mỗi một hiện diện của chúng con đều đem đến giá trị tích tực cho mọi người xung quanh, nhất là xây dựng nơi chính chúng con dung mạo của một Giêsu biến hình để hiến mình cho nhân loại qua mầu nhiệm Thập Giá. Amen.

Về mục lục

XIN CHÚA BIẾN ĐỔI CON

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Trong ngắm thứ ba Mùa Sáng chúng ta suy ngắm Chúa Giê-su biến hình trên Núi Thánh – Ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Quả thực cần có ơn Chúa Thánh Thần mới biến đổi chúng ta nên giống Thiên Chúa hơn. Dù con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nhưng con người lại mang kiếp bụi trần nên hình ảnh của Chúa nơi chúng ta cũng bị hoen ố bởi những đam mê trần tục, những tham lam vô độ, những quyến luyến tội lỗi. Một khi con người đã đóng một lớp bụi trần gian là chúng ta đã làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá là hình ảnh của Chúa nơi bản tính con người chúng ta. Mang thân phận yếu đuối mỏng dòn nên con người cần có ơn Chúa để sám hối, để hoán cải , để trở về với tình trạng tinh tuyền là hình của Chúa không bị quyến luyến bởi tội lỗi đam mê.

Đôi khi trong cuộc sống vì miếng ăn, vì những nhu cầu thể xác mà chúng ta mất đi ý thức về phẩm giá cao quý của mình đã lao vào tìm kiếm danh lợi thú trần gian. Mải mê tìm kiếm của ăn dưới đất mà quên đi mình là con cái Thiên Chúa như câu chuyện ngụ ngôn Phượng Hoàng Con đã kể rằng:

Xưa kia, ở một sườn núi rất lớn có một tổ chim phượng hoàng, trong tổ có bốn quả trứng. Một ngày nọ, cơn địa chấn xảy ra, những hòn đá rung dữ dội, một trong bốn quả trứng bị lăn xuống núi, lạc đến một nông trại nuôi gà nằm ở thung lũng bên dưới và được một con gà mái tình nguyện nuôi nấng, chăm sóc.

Ít lâu sau, quả trứng nở ra một chú chim phượng hoàng xinh đẹp. Nhưng buồn thay, nó lại được dạy dỗ như một con gà. Vì vậy, chẳng muộn màng gì để nó có thể nhận ra là mình không hơn gì một con gà.

Một ngày nọ, trong lúc đang chơi ở nông trại, nó nhìn thấy những chú chim phượng hoàng khác đang cất cánh mạnh mẽ bay lên bầu trời xanh thẳm. Thế là, nó òa khóc: “Ước gì tôi có thể bay được như những con chim ấy!”. Những con gà xung quanh cười vang: “Bạn không thể bay được như những con chim ấy đâu! Bạn là một con gà và gà thì không thể bay trên bầu trời như thế được”.

Thời gian sau, chim phượng hoàng không mơ ước được bay cao nữa và tiếp tục cuộc sống như một con gà. Cuối cùng, sau một cuộc đời sống như gà, nó cũng chết đi như mọi con gà khác…

Thất bại của phượng hoàng là không nhận ra mình là giống có thể bay lên khỏi mặt đất để tự do tự tại, nên nó chỉ biết cào bới kiếm ăn như bao con gà khác. Nếu con người cũng chỉ nghĩ mình là một con vật chỉ cần ăn, cần uống thì con người sẽ mãi mãi tranh giành , chà đạp lẫn nhau, có khi cắn xé lẫn nhau chỉ vì một miếng ăn.

Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen

Về mục lục

CÙNG ĐI THEO CHÚA

Bông hồng nhỏ

Trong số các môn đệ của Thầy Giêsu thì nhóm Mười Hai được chọn riêng để sát cánh bên Người, trong Nhóm Mười Hai ấy lại có ba môn đệ thân tín nhất, ta có thể gọi đó là “nhóm trong”. Ba môn đệ ấy là Phêrô, Gioan và Giacôbê. Hôm nay, ba ông được Thầy Giêsu dẫn lên núi cầu nguyện. Tại đây, ba ông được chứng kiến Thầy Giêsu hiển dung.

Tám ngày trước, Người đã tiên báo về cuộc Thương Khó. Trở thành môn đệ của Thầy nghĩa là các ông sẽ được chung phần với Thầy: uống trọn chén đắng cay và chén vui mừng. Khi Nghe Thầy Giêsu nói về những đau khổ mà Người sẽ chịu, ông Phêrô đã đứng ra can ngăn Thầy. Có lẽ, các môn đệ khác cũng khó lòng đón nhận được việc Thầy mình sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Thầy chịu khổ thì trò cũng chung một gánh khổ đau. Thầy đã lên tiếng sửa dạy ông Phêrô trước mặt các môn đệ: “Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 33-34). Trước những lời dạy của Thầy, lòng các ông đầy băn khoăn và không khỏi lo lắng, sợ hãi. Thầy biết rõ tâm tình và tư tưởng của từng người lúc bấy giờ, vì thế Người muốn củng cố đức tin cho các ông.

Lúc Người cầu nguyện thì ba ông ngủ mê mệt. Người cầu nguyện cùng Chúa Cha, Người đàm đạo với hai ông Môsê và Êlia nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Có lẽ, Thầy Giêsu đã cầu nguyện rất lâu, lâu đến nỗi các môn đệ ngủ mê mệt. Các ông không thể cùng thức với Thầy, sau này khi ở cùng Thầy trong đêm cuối cùng tại vườn Cây Dầu, các ông cũng ngủ mê mệt. Các ông chưa thể chia sẻ với Thầy mọi tâm tư, tình cảm, cả những thao thức, bận tâm của Thầy. Thân xác các ông mệt rã rời, mắt các ông nặng trĩu. Nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Ông không biết mình đang nói gì (Mc 9, 33). Trước dung nhan rạng ngời vinh hiển của Thầy, các ông hạnh phúc. Những ngày rong ruổi đó đây với Thầy, các ông chỉ nhìn thấy một Giêsu rất người: gần gũi với những người nghèo khổ, bệnh tật; một Giêsu có thể khóc với những ai đang đau khổ, có thể cười với những ai đang hạnh phúc. Vì quá hạnh phúc mà ông Phêrô đã thốt lên lời đề nghị ấy. Ông muốn được cùng với Thầy ở lại trong vinh quang, định cư trên núi này.

Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.  Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Mc 9, 34-35). Đó là tiếng của Chúa Cha tuyên phán chứng nhận Đức Giêsu là Con của Người, và phán dạy các ông phải tuân giữ lời dạy của Thầy Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con được làm môn đệ của Chúa, được ở trong nhà Chúa mỗi ngày. Cảm tạ Chúa đã cho con được ở trên núi với Chúa khi Chúa hiển dung. Đó là những khi con cảm nếm được tình Chúa yêu thương con, con đã cười và đã khóc trong hạnh phúc. Chúa biết rõ con cần Chúa. Chúa muốn con can đảm xuống núi cùng Chúa, dù đó là con đường dẫn con lên Núi Sọ, nhưng có Chúa, con tin rằng con vẫn hạnh phúc vì biết rằng con đang được cùng chung nhịp bước với Chúa, được bước đi theo Chúa và để cùng với Chúa thi hành thánh ý Cha trao. Amen.

Về mục lục

CHUẨN BỊ XA

Thiên San

Sau khi loan báo về Cuộc Thương Khó, điều kiện để các môn đệ bước theo mình, Đức Giêsu gọi ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi lên núi cầu nguyện với Người. Khoảng thời gian từ khi Người loan báo các điều trên đến khi Người tỏ vinh quang trên núi Tabo là khoảng tám ngày. Có thể nói, đó là một sự chuẩn bị rất xa mà Đức Giêsu dành cho các tông đồ của mình, để các ông có đủ sức đi lên Giêrusalem và đi vào cuộc khổ nạn của Người. Cũng không ít lâu nữa, các ông sẽ được chiêm ngưỡng vinh quang của Thầy mình không phải sáng láng, rạng ngời như ở Tabo nhưng là vinh quang ẩn dấu nơi một Đức Giêsu bị treo trên khổ giá.

Trong cuộc bày tỏ vinh quang trên núi Tabo, Đức Giêsu cho ba môn đệ thân tín được thấy trước vẻ rạng ngời, rực rỡ, đầy sáng láng của mình. Trong cuộc tỏ mình này, có hai nhân vật quan trọng của lịch sử Cứu Độ xuất hiện: Êlia và Môsê. Có thể nói, Êlia đại diện cho các ngôn sứ, còn Môsê đại diện cho lề luật. Mọi lời được chép trong sách các ngôn sứ và trong lề luật đều nói về Chúa Giêsu. Đức Giêsu đến trần gian và hoàn tất mọi điều được ghi trong Kinh Thánh. Chúa Cha đã chọn chính Con Một yêu dấu của mình để bày tỏ trọn vẹn tình yêu lớn lao cho nhân loại. Cuộc xuất hành mà Đức Giêsu, Êlia và Môsê đàm đạo chính là cuộc đại xuất hành sẽ được Đức Giêsu thực hiện tại Giêrusalem. Nhờ máu châu báu của Người đổ ra trên thập giá mà muôn người được cứu chuộc. Cuộc xuất hành được Môsê thực hiện xưa kia đã đưa dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ bên Ai Cập. Cuộc đại xuất hành do Môsê mới là Đức Giêsu thực hiện đem lại ơn cứu độ và giải thoát muôn người khỏi ách nô lệ tội lỗi.

Để các Tông đồ có thể đón nhận được mầu nhiệm tình yêu lớn lao mà Người thực hiện trong cuộc xuất hành sắp tới, Đức Giêsu đã cho các ông thấy trước vinh quang đích thực của Người. Cũng chính nơi đây, khi bị chìm vào trong đám mây, các ông đã nghe thấy lời chứng nhận của Chúa Cha rằng: Đây là Con Ta, người đã được ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9, 35). Thưc ra, trên núi Tabo, ba tông đồ nửa tỉnh nửa mê, nửa ngủ nửa thức. Ngay cả Phêrô, khi xin Thầy mình dựng ba cái lều, ông cũng chẳng biết mình đang nói gì. Quả thực, theo Thầy bấy lâu, nhưng dường như các ông chưa thể hiểu hết được mọi điều Thầy mình mạc khải. Đức Giêsu hiểu rõ các học trò của mình và Người luôn có những sự chuẩn bị chu đáo. Cuộc biến hình trên núi Tabo là một sự chuẩn bị chu đáo như thế.

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô Tông đồ nhắc cho chúng ta biết rằng chính Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta trở nên thân xác vinh hiển của Người (x. Pl 3, 21). Nước trời là quê hương đích thực của mỗi chúng ta. Thánh nhân đã rất đau khổ vì có nhiều người đã sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô, và kết cục là họ sẽ bị diệt vong. Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được Người sinh ra trong Thánh Thần, nhờ phép rửa trong Đức Kitô, chúng ta được mời gọi hướng nhìn về trời cao, về Nước trời. Chính Đức Giêsu đã dùng máu châu báu của Người mà chuộc lấy chúng ta. Nếu chúng ta cùng chịu đau khổ với Người thì chúng ta cũng sẽ được chung hưởng vinh quang với Người.

 Đời sống này là một sự chuẩn bị xa mà Thiên Chúa dành cho chúng ta để chúng ta tiến về quê hương đích thực của mình. Cuộc sống không thể tránh khỏi những gian nan khốn khó, chúng ta hãy biết đón nhận và dùng chính những gian nan khốn khó ấy như cơ hội giúp chúng ta đạt được hạnh phúc mai này. Xin Chúa ban cho chúng ta có khả năng nhìn thấy vinh quang của Người trên Thánh giá, một Thiên Chúa đã chết vì yêu thương để chúng ta có khả năng đạt tới vinh quang của Người. Vinh quang mà Người đã hứu cho những ai bền chí đến cùng.

Về mục lục

HƯỚNG NHÌN LÊN ĐỨC KITÔ

Lm. Xuân Hy Vọng

 Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Trong thời khắc dịch bệnh vẫn lan tràn, cướp đi tính mạng nhiều người trên toàn thế giới, Giáo hội vẫn tiếp tục sứ mạng trở nên chứng tá cho lòng nhân từ, xót thương và đầy yêu thương của Chúa qua mỗi ngày, đặc biệt Mẹ Giáo hội cùng với chúng ta nhận bụi tro trên đầu, ý thức thân phận yếu hèn, dễ sa ngã của bản thân. Hơn nữa, chúng ta được mời gọi bước vào thời kỳ ân sủng của Mùa Chay, hướng chúng ta trở về với Chúa, lắng nghe Lời Người và tái khám phá vị Thiên Chúa mà chúng ta hằng tin thờ, tôn kính.

Trước hết, Thiên Chúa – Đấng mãi giữ lời: Ab-ra-ham tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, mặc dù chưa biết đích đến là đâu. Ông vâng nghe và thực hiện ngay những gì Người phán truyền, thậm chí chịu hy sinh sát tế đứa con được ân ban. Nhờ vào niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, mà Ab-ra-ham đã chẳng từ chối điều gì, và ông sẵn sàng làm theo thánh ý Chúa. “Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta” (St 22, 16-18). Xuyên suốt dòng lịch sử dân tộc Is-ra-el, chúng ta thấy rõ Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với Ab-ra-ham mà phán rằng: “Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-Cập cho đến sông Êu-phrát” (St 15, 18), và đã thực hiện tất cả những gì Người phán hứa. Thiên Chúa hằng trung thành, tín trung, giữ trọn lời của Người, không những dành cho dân Is-ra-el, mà còn trao ban dồi dào cho chúng ta qua Con Một yêu dấu của Người.

Thứ đến, Thiên Chúa – Đấng hằng bênh đỡ: Thánh Phao-lô xác tín rằng: “Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?…Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta” (x. Rm 8, 31. 34). Thiên Chúa không chỉ giữ lời phán hứa, mà còn luôn nâng đỡ, chở che, bảo vệ chúng ta, dẫu ta chẳng xứng đáng với Người. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là: chúng ta cho rằng Thiên Chúa đương nhiên phải chăm nom, coi sóc ta; trong khi đó chúng ta vẫn mãi mê với tư lợi, với dự định cá nhân, mà chẳng đoái hoài đến lời kêu mời, thúc giục của Người mỗi ngày, hầu hân hoan thực thi Lời Người, và sống chính trực, yêu thương, tha thứ như Người giáo huấn chúng ta qua Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức Thánh, qua mọi biến cố cuộc đời. Điều này đã từng xảy ra thời Thánh Phao-lô Tông Đồ, đến nỗi ngài phải thốt lên: “…giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Đức Ki-tô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này” (Pl 3, 18-19). Thế nhưng, nhờ Đấng Cứu Độ là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, hằng luôn bênh đỡ, nên chúng ta “sẽ được Người biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người…” (x. Pl 3, 21).

Sau cùng, Thiên Chúa – Đấng luôn hiển dung: Trước khi lên Giê-ru-sa-lem chịu tử nạn, Đức Giê-su đã biến hình, tỏ ra cho ba môn đệ thân tín biết vinh quang của Người. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận thấp hèn con người, mà vâng phục thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập giá, nhưng từ cõi chết, Người phục sinh. Mầu nhiệm khổ nạn-chịu chết-phục sinh (thường được gọi là biến cố cuộc đời Đức Ki-tô – Christ-event) được tái diễn hằng ngày trong đời sống đức tin của chúng ta, nhất là: trong Thánh lễ, khi tham dự các Bí tích, khi sống Lời Chúa, khi chúng ta sống bác ái, tha thứ. Nhờ đó, Chúa hiển dung nơi cung lòng chúng ta, trong cộng đoàn, hội nhóm chúng ta, trong gia đình và mọi mối tương quan của chúng ta, giúp chúng ta biến đổi cung cách sống, lối sống, tất cả các phương diện con người chúng ta. Tuy nhiên, để cảm nghiệm trọn vẹn điều này, tiên vàn, chúng ta phải ghi nhớ lời Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (Lc 9, 35; x. Mc 9, 7); cụ thể: chúng ta phải tháp nhập vào Đức Giê-su, phải nương náu, sống với Người, ở lại trong Người, ngõ hầu mọi lời nói, hành vi, tư tưởng,…của Đức Giê-su tỏ lộ rõ rệt nơi chúng ta.

Lạy Thiên Chúa – Đấng trung tín

Xin cho con luôn nhủ mình tín trung

Giữ trọn lời Chúa đến cùng

Sống trong hoan lạc thuỷ chung tinh tuyền.

Lạy Thiên Chúa – Đấng mãi liên

Hằng bên đỡ dù triền miên ngày tháng

Che chở con tình chứa chan

Luôn chính trực, đời bình an thiết tha.

Lạy Thiên Chúa – Đấng ngợi ca

Mặc lấy xác phàm, bao la tin yêu

Chịu khổ hình Thập tự treo

Phục sinh vinh thắng, sống theo Cha hiền.

“Đây là Con Ta tinh tuyền,

Vâng nghe Người dạy, mãi liên thi hành”. Amen!

Về mục lục

CHÚA KITÔ LÀ CHỦ LỊCH SỬ

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Chúng ta chú ý đến hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước cùng đàm đạo với Chúa Kitô, đó là:

1. Ông Môsê: Người đã được Thiên Chúa chọn để đem dân Itraen ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; Người đã nhận từ tay Thiên Chúa Bia Đá ghi khắc Mười Giới Răn. Mười giới răn ấy vừa là dấu chỉ cùa Giao Ước vừa tượng trưng cho Lề Luật mà Thiên Chúa đòi dân của Người phải tuân giữ. Đồng thời ông Môsê còn là người hướng dẫn dân tiến về Miền Đất hứa mà Thiên Chúa đã hứa với Áp-ra-ham từ xưa….

2. Ông Êlia: Ngôn sứ vĩ đại được giao sứ mạng củng cố lòng tin của dân vào lời hứa của Giao Ước mà Thiên Chúa đã cam kết với tổ tiên của Itraen là Apraham, Ixaac và Giacob.

3. Cả hai ông Môsê và Êlia đều có mặt bên Chúa Kitô. Kể từ nay, từ khởi đầu của kỷ nguyên Tân Ước, hình ảnh của cả hai: Môsê – Êlia tập trung nơi chính Chúa Kitô. Từ nay không cần phân biệt “Lề luật (ý nói đến ông Môsê) và các Tiên tri” như Cựu Ước từng cho biết. Từ nay không còn là hai nhưng chỉ là Một: Chúa Kitô, Đấng toàn thắng và vinh dự của chúng ta.
Từ nay, chỉ một mình Chúa Kitô, Đấng duy nhất là Môsê Mới và Êlia Mới của thời đại mới, Thời Cứu Độ. Từ nay:

– Chỉ một mình Chúa vừa là nhà lãnh đạo, vừa là nhà giáo dục nhân loại.
– Chỉ một mình Chúa vừa là nhà lập luật, vừa là nhà dẫn dắt nhân loại đi trong đường lối mà chính lề luật ấy mở ra.
– Chỉ một mình Chúa vừa là nhà giải phóng đích thực, vừa là Đấng bảo vệ lòng mến mà nhân loại phải dành cho Thiên Chúa.
– Chỉ một mình Chúa, Trung gian duy nhất thay thế tất cả mọi hình ảnh từ Tổ phụ, Thủ lãnh, đến Tiên tri.
– Chỉ một mình Chúa phục sinh và trao ban sức sống phục sinh cho từng con người.
– Chỉ một mình Chúa mới thực là hy tế duy nhất, hy tế dâng chính mình để cứu độ.
– Chỉ một hy tế duy nhất của Chúa mới có giá trị cứu độ vĩnh cửu, đưa nhân loại đến Trời mới Đất mới và trường tồn.

Điều đó có nghĩa là Lịch Sử hay Giao Ước Cứu Độ, từ nay chỉ cần một mình Chúa Kitô là đủ. Chúa Kitô vừa là Giao Ước mới, vừa là lề luật mới.

Chính vì thế, Lời của Chúa Kitô là Lời đặc biệt quan trọng đối với mỗi chúng ta. Lời ấy chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Lời ấy chính là Lời Giao Ước vĩnh cửu, đưa chúng vào huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa, để ta được sống trong Chúa, sống bằng chính sự sống của Chúa.

Bởi Lời Chúa Kitô có tầm mức quan trọng và cần thiết đến vậy, nên Thiên Chúa không ngừng mời gọi: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”!
Với phán quyết long trọng và công khai ấy, Thiên Chúa như muốn khẳng định: Vâng nghe lời Chúa Kitô, Con Duy nhất của Ngài là sống Giao Ước Mới, là chu toàn trách nhiệm của Lề Luật Mới.

Vâng nghe Lời Chúa Kitô, ta sẽ được biến đổi với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô như chính Chúa Kitô vinh hiển trong vinh quang phục sinh rạng ngời và đời đời của Ngài. Đó cũng là con đường duy nhất để đi về cùng Thiên Chúa nhằm đạt tới sự sống bất diệt mà Thiên Chúa ấn định cho cả nhân loại.

Bởi vậy, sống Lời Chúa Kitô là điều kiện tối cần thiết, không thể bỏ qua của cả cuộc đời người Kitô hữu. Vậy ta đừng chỉ nghe Lời Chúa bằng tai, bằng mắt mà còn bằng tất cả lòng trí, sự ham muốn và không rời quy chiếu suy nghĩ cũng như hành động của mình theo lời, theo nội dung những giáo huấn mà Chúa Kitô dạy.

Trên hết mọi điều kiện, hãy yêu mến Lời Chúa. Chỉ nhờ lòng yêu mến, ta mới có thể thực tâm ấp ủ, ngụp lặn trong Lời Chúa. Nhờ đó, ta sẽ suy nghĩ là suy nghĩ với Lời Chúa, phản ứng là phản ứng với Lời Chúa, hành động là hành động với Lời Chúa, thể hiện là thể hiện với Lời Chúa, tương quan với nhau hay với mọi hoàn cảnh là tương quan trong Lời Chúa…

Về mục lục

Exit mobile version