LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG_C
Lời Chúa: Cv 2,1-11; 1 Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23
———-
1. Ngọn lửa tình yêu (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
3. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Lễ Hiện Xuống (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
5. Kỉ nguyên của Thánh Thần (Lm. Vũ Đình Tường)
6. Thần Khí Sáng Tạo (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Thánh Thần sẽ đến (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
8. Thần Khí Sự Sống (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
9. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
10. Cuộc sáng tạo mới (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
11. Đấng ban sự sống (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
12. Sứ mạng chứng nhân (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
13. Dấu ấn của Thiên Chúa (JM. Lam Thy, ĐVD)
14. Hãy nhận lấy Thánh Thần (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
15. Vai trò của Chúa Thánh Thần (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
16. Suy niệm lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
17. Thống hối để nhận ơn Chúa Thánh Thần (Lm. Trần Bình Trọng)
18. Sống hiệp thông với Chúa Thánh Thần (Lm. Jos Nguyễn Minh Chánh)
19. Cung Thánh Linh (Trầm Thiên Thu)
20. Thánh Thần hiệp nhất yêu thương (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
21. Đâu là sức mạnh làm thay đổi (Lm. Jos Đinh Công Phúc)
22. Hoa trái Thánh Thần (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
23. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. (Lm. John Nguyễn)
24. Chúa Thánh Thần, nguồn hiệp nhất (Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn)
25. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần (Lm. Giacobe Phạm Văn Phượng, OP)
26. Thánh Thần và ác thần (Lm. Nguyễn Hữu Thy)
27. Suy niệm chú giải LờiChúa lễ Chúa Thánh Thần HiệnXuống (Lm.Inhaxio Hồ Thông)
28. Giữ lấy tình yêu (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
29. Thần Khí mới làm cho sống (Lm. Giuse Lê Danh Tường)
30. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. (Lm. Antôn)
1. Đấng củng cố lòng tin (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Chúa Thánh Thần – Sự sống mới (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Tin vào Đấng Bảo Trợ (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Tất cả được tràn đầy Thánh Thần (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Anh em biết Người,vì Người luôn ở trong anh em (Lm.Gioan NguyễnVăn Ty,SDB)
6. Truyền thông Tin mừng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7. Ngọn lửa thiêu (Trầm Thiên Thu)
8. Hơi thở của Thiên Chúa – Đấng ban sự sống (JM. Lam Thy, ĐVD)
9. Mạch nước tuôn trào sự sống (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
10. Chúa Thánh Thần – Quà tặng của lòng thương xót (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
11. Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em (Fx. Đỗ Công Minh)
12. Thời kỳ ân điển của Thần Khí (Lm. Văn Hào, SDB)
13. Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống_C (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
14. Ngũ tuần (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
15. Thánh Thầy tình yêu (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
16. Phần thưởng (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
17. Khí và Lửa Chúa Thánh Thần (AM. Trần Bình An)
18. Chúa Thánh Thần – Làn gió đưa thuyền Giáo hội ra khơi (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
19. Chúa Thánh Thần – Tôn sư nội tâm (Dã Quỳ)
20. Tác động của Thánh Thần trong mỗi tín hữu hôm nay (Lm. Đan Vinh)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Lửa là biểu tượng của Chúa Thánh Thần. Tác giả sách Công vụ Tông đồ kể lại: vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống như hình lưỡi lửa trên mỗi tông đồ trong lúc các ông đang cầu nguyện xung quanh Đức Maria. Kể từ giây phút Chúa Thánh Thần ngự đến, các ông trở thành những chứng nhân can đảm của Đấng Phục sinh. Họ mở tung cánh cửa trước đó còn đóng kín. Họ mạnh mẽ rao giảng về Đức Giêsu. Lời giảng ấy có sức thuyết phục đến nỗi trong ngày hôm ấy có ba ngàn người xin theo Đạo. Ngọn lửa là Thánh Thần có sức mạnh thật kỳ diệu. Đó là ngọn lửa thần linh.
Công dụng của lửa trước hết là để sưởi ấm. Vào thời cuộc sống còn hoang sơ cũng như hiện nay tại miền thôn quê hẻo lánh, người ta cần có lửa để sưởi ấm vào mùa đông. Chúa Thánh Thần là Đấng sưởi ấm tâm hồn chúng ta. Do tội lỗi, tâm hồn chúng ta trở nên băng giá, sức sống bị bóp nghẹt. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta được ơn tha tội và được hồi sinh, trở nên ấm áp bình an. Chúa Thánh Thần vừa ban cho chúng ta sự ấm áp của tình Chúa, vừa giúp chúng ta tìm thấy sự ấm áp của tình người, nhờ đó mối tương quan với tha nhân sẽ được cải thiện, chan hòa và bừng cháy yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại, vào chính ngày Phục sinh, Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ. Lúc đó các ông đang buồn sầu hoang mang sợ hãi. Chúa đã sưởi ấm tâm hồn các ông bằng Thánh Thần. Nhờ vậy, nỗi buồn nơi các ông biến mất, các ông vui mừng vì được thấy Chúa và tin vào những gì Người đã dạy trước đó.
Công dụng của lửa cũng để soi sáng. Trong đêm tối, ngọn lửa sẽ giúp người ta không lạc đường và tránh được những nguy hiểm. Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng tâm hồn các tín hữu, nhờ đó họ biết đường ngay nẻo chính và không bị lạc đường. Con đường lý tưởng là chính Chúa Giêsu. Điểm tới của con đường ấy là hạnh phúc đích thực, vì con đường này dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. Cuộc sống trần gian như dòng sông trôi về muôn hướng, nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta biết chọn hướng đi đem lại hạnh phúc cho tương lai cuộc đời mình. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, mỗi người Kitô hữu cũng trở nên ánh sáng để soi cho những ai lầm đường lạc lối, chỉ cho họ thấy con đường chân lý, cảnh báo những nguy hiểm giúp họ an vui.
Chức năng của lửa cũng là để tôi luyện. Những thanh sắt thô sơ, nhờ tác động của lửa, sẽ trở thành dụng cụ công hiệu sắc bén trong đời sống hằng ngày. Nhờ Chúa Thánh Thần giúp sức, người tín hữu sẽ trở nên chiến sĩ của Chúa Kitô, góp phần chinh phục thế gian và làm cho vương quốc tình yêu lan rộng. Cuộc tôi luyện nào cũng cần phải hy sinh gian khổ. Để trở nên dụng cụ của Chúa, chúng ta phải để Chúa Thánh Thần thanh luyện, như lửa luyện sắt. Được trang bị sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ can đảm và trung thành với Chúa trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Các Thánh tử đạo là những người được Chúa Thánh Thần tôi luyện, nên các ngài không khuất phục trước cường quyền và bạo chúa, kiên quyết một niềm theo Chúa Kitô và trung tín đến cùng.
Chúa Thánh Thần tác động nơi cuộc đời người tín hữu, uốn nắn điều chỉnh, để nhờ đó, bớt đi những nết xấu, tăng thêm nhân đức. Ngài tưới gội ân sủng của Ngài nơi chúng ta, làm cho sự sống vui tươi lạc quan hơn. Thánh Phaolô so sánh Giáo Hội như một thân thể, gồm nhiều chi thể khác nhau. Chi thể nào cũng quý, cũng đáng trọng. Chính Chúa Thánh Thần nối kết các chi thể trong thân thể Giáo Hội để tạo nên sự hài hòa đồng bộ. Nhờ Chúa Thánh Thần mà các chi thể hiệp thông với nhau, chia sẻ vui buồn và nâng đỡ nhau trong cuộc sống, đồng thời góp phần làm cho thân thể được lớn mạnh.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến! đó là lời cầu nguyện của cả Giáo Hội hoàn vũ trong những ngày này. Thực ra, Chúa Thánh Thần đã đến từ ngày Lễ Ngũ Tuần và chưa bao giờ Ngài lìa xa chúng ta. Ngài hiện hữu trong vũ trụ như hơi thở đối với một thân xác. Ngài hiện diện trong Giáo Hội như linh hồn làm cho Giáo Hội sống và hoạt động. Khi cầu xin Ngài ngự đến, là chúng ta tái khám phá sự hiện diện và hoạt động của Ngài, đồng thời mở rộng tấm lòng để Ngài thực sự đi vào mọi lãnh vực đời sống của chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ được Ngài soi sáng, sưởi ấm, thanh luyện và thánh hóa. Cuộc sống sẽ chan hòa niềm vui khi có Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta.
.
LẠY CHÚA THÁNH THẦN, XIN NGỰ ĐẾN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thánh lễ vọng chiều nay đưa chúng về với Chúa Giêsu và chiêm ngắm Người vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, nghe Chúa giảng : “Ai khát hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông” (Ga 7, 37-38). Người muốn nói điều ấy về Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự hiệp nhất
Nếu như tại Babel, sự ngạo mạn kiêu căng của con người nổi lên chống lại Thiên Chúa tự sức riêng của mình muốn “xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời” (x. St 11,4). Hậu quả của hành động đó là Thiên Chúa làm cho họ phân tán, bất đồng ngôn ngữ với nhau, khiến họ không thể hiểu nhau làm gì nữa. Thì Lễ Hiện Xuống, điều ngược lại đã xảy ra: nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nói được ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc các nền văn hóa nghe đều hiểu như tiếng thổ âm của mình (x. Cv 2,6). Mọi chia rẽ bất đồng được vượt thắng, không còn kiêu căng chống lại Thiên Chúa nữa, cũng không còn có sự khép kín đối với nhau, họ mở rộng lòng mình ra cho Thiên Chúa và tha nhân, giao thiệp với nhau bằng một ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của tình yêu thương mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5). Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ làm điều thiện, an ủi họ trong cảnh sầu khổ, hoán cải nội tâm và trao ban sức mạnh và khả năng mới, dẫn đưa họ tới chân lý vẹn toàn, yêu thương và hiệp nhất.
Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo
Câu đầu tiên trong Thánh Thi Kinh Chiều của ngày lễ Ngũ Tuần có viết : “Xin hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo...” làm cho chúng ta nhớ lại công cuộc tạo dựng vũ trụ thủa ban đầu, Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh hỗn mang (x. St 1,2).
Phải khẳng định rằng, thế giới chúng ta đang sống là cộng cuộc của Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo. Nên Lễ Ngũ Tuần không chỉ là nguồn gốc của Giáo hội, là lễ của Giáo hội. Nhưng Lễ Ngũ Tuần còn là lễ của tạo vật. Thế giới không tự mình hiện hữu; nhưng đến từ Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa, đến từ Lời có sức sáng tạo của Thiên Chúa. Và vì vậy, thế giới phản chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa : “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự việc tay Ngài làm” (Tv 19,2). Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto nói : “Sự khôn ngoan này hé mở cho chúng ta thấy được điều gì đó về Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhìn tạo vật như là hồng ân được trao ban cho chúng ta, không phải để bị hủy diệt, nhưng để trở thành ngôi vườn của Thiên Chúa” (Trích bài giáo lý về Chúa Thánh Thần).
Ðứng trước những hình thức khác nhau của việc lạm dụng trái đất, “mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta“. (Rm 8,22-24)
Chúng ta tự hỏi: Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài? Bằng cách nào, chúng ta đến với Ngài và Ngài đến với chúng ta? Ngài tác động điều chi? Câu trả lời cho câu hỏi Chúa Thánh Thần là gì, Ngài làm điều chi và làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Chúa Thánh Thần là Ðấng Sáng Tạo, đến trợ giúp chúng ta. Ngài đã buớc vào trong lịch sử, và như thế, Ngài nói với chúng ta trong cách thức mới. Ngài đến gặp chúng ta qua tạo vật. Ngài là Tình Yêu, là sự hiệp nhất. Ngài mang đến cho chúng ta sự sống và sự tự do. Tất cả mọi tạo vật đều khao khát Chúa Thánh Thần.
Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc thần hiện trong đó gió và lửa nhắc nhở chúng ta về tính siêu việt của Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói mà không sợ hãi. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban xuống cho Giáo hội như là “nước hằng sống chảy ra như giòng sông” (Ga 7,38) vì nước ấy ở trong cung lòng của Thiên Chúa, cùng một lúc, chúng ta khám phá ra rằng, cũng trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thật. Thường chúng ta đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong phương diện cá nhân, tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay hiển nhiên cho thấy tác động Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu: “Thánh Thần mà những kẻ tin Người sẽ lãnh lấy” (Ga 7,39). Thánh Thần duy nhất biến cộng đoàn thành một thân thể duy nhất, thân thể Chúa Kitô. Hơn nữa, Ngài là suối bẩy nguồn đa dạng về các ơn : ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như : tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… làm cho mỗi người chúng ta trở nên phong phú và đa dạng.
Sự duy nhất là dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn tín hữu. Điều quan trọng nhất của Giáo hội chính là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống. Với con mắt loài người nhìn vào Giáo hội, chúng ta không thể nhận ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong lời nguyện mở đầu của Thánh lễ vọng chiều nay, chúng ta cầu xin Chúa tuôn đổ Thánh Thần để “các dân tộc chia tuy ngôn ngữ bất đồng, được hiệp nhất cùng nhau mà tuyên xưng danh Chúa.” (Lời nguyện nhập lễ)
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa!” Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái. Lễ này quy tụ mọi người Do Thái tản mác khắp mọi nơi về Giêrusalem để tham dự lễ long trọng này. Đây cũng là lễ khai sinh một Giáo Hội truyền giáo, một Giáo Hội được mời gọi ra chỗ sâu để thả lưới, một Giáo Hội đi ra khỏi vỏ ốc của mình, đi tới các vùng ngoại biên để loan báo Tin Mừng.
Theo lời Chúa Phục Sinh hứa với các môn đệ :” Thầy ra đi thì ích lợi hơn cho các con…Đấng phù trợ là Thánh Thần sẽ đến “. Do đó, Nhóm mười một, các người phụ nữ đạo đức và Mẹ Maria, đang tụ họp cầu nguyện trên một căn phòng trong thành. Chúa Phục Sinh hứa khi về trời, Cha Người sẽ sai Thánh Thần đến với họ. Qủa thực, trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các môn đệ, những người phụ nữ và Mẹ Maria đã vô cùng sung sướng lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Dù rằng Thánh Thần không hề có hình dáng để cho họ chiêm ngưỡng. Nhưng dân chúng đông đảo từ khắp nơi tuôn đến, họ thuộc mọi thành phần, mầu da, tiếng nói. Đây quả là một ngày hội tụ của muôn dân. Thánh Thần như hình lưỡi lửa bổ xuống trên đầu họ. Các môn đệ của Chúa lúc đó tự nhiên nói được mọi thứ ngôn ngữ của nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới. Việc nói được các ngôn ngữ theo như Sách Công Vụ Tông Đồ 2,1-11 là một ơn. Ơn nói được các ngôn ngữ là ơn của Chúa Thánh Thần. Việc nói được tiếng mẹ đẻ của các dân tộc là một ơn cao trọng vì như thế Tin Mừng dễ thấm nhuần vào tâm hồn của những người dân bản địa. Thánh Thần giúp liên kết mọi người lại với nhau dù họ thuộc mầu da, tiếng nói, văn hóa, xã hội khác nhau. Thánh Thần cũng biến Hội Thánh trở thành Hội Thánh của mọi dân tộc. Xưa hình ảnh câu chuyện tháp Babel cho chúng ta nhận ra điều này :” Khi con người sống chia rẽ,không hiểu ý nhau thì công việc có dự tính mấy cũng sẽ thất bại “. Người xưa thường nói :” Mưu sự tại Nhân, thành sự tại Thiên “ là thế ! Con người có kế hoạch, có mưu kế, nhưng nếu trời không giúp, không tán thành thì chẳng bao giờ việc làm của con người có thể thành công được.
Lễ Ngũ Tuần khai sinh Giáo Hội loan báo Tin Mừng. Nên, bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi truyền giáo. Chúa Phục Sinh nói :” Như Cha đã sai THầy, Thầy cũng sai anh em “. Nói thế rồi, Chúa sống lại thổi hơi vào các Tông Đồ và bảo :” Các con hãy nhận lấy THánh THần “ ( Ga 20, 21-22 ). Chúa Giêsu đã sinh ra tại Châu Á các đây hơn 2019 năm rồi. Lục địa Á Châu là một lục địa mênh mông rộng lớn với nhiều ngôn gữ, nhiều tôn giáo khác nhau. Lục địa này làm sao có thể nhận ra Chúa Giêsu, tin và đi theo Ngài. Đây là một vấn nạn lớn đặt ra cho toàn thể Hội Thánh. Ngôn ngữ hiểu được là bước đầu giúp con người nhận ra Chúa và tin theo Người:” Chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa “ ( Cv 2, 11 ). Vấn đề đặt ra vẫn là ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa ! Chúng ta phải hiểu nhuần nhuyền ngôn ngữ của Á Châu, hiểu được những văn hóa, tập quán, phong tục vv của họ, chúng ta mới có thể trình bầy mạc khải cao sâu về Thiên chúa cho họ. Công việc này là công việc của Chúa Thánh Thần với sự cộng tác mật thiết của mọi thành phần dân Chúa. Công Đồng Vaticanô II do thánh Giáo Hoàng Gioan 23 triệu tập, được mệnh danh là Công Đồng của Chúa Thánh Thần. Đây là một lễ Ngũ Tuần mới trong thời đại mới.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta ghi nhớ ba điều sau đây:
-Lễ Ngũ Tuần là lễ khai sinh Hội Thánh truyền giáo. Đây là lễ hiệp nhất mọi dân tộc, mọi mầu da, mọi tiếng nói. Chúa Thánh Thần nối kết mọi người lại với nhau trong tình yêu duy nhất vì Thiên Chúa là tình yêu.
-Lễ Ngũ Tuần vẫn luôn tiếp nối trong đời sống của Hội Thánh vì Chúa Thánh Thần là hơi thở, là sức sống của Hội Thánh.
-Lễ Ngũ Tuần mời gọi mọi Kitô hữu trên toàn thế giới hãy hướng về lục địa Á Châu vì nơi đây chính Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây 2019 năm. Đây là một lục địa mênh mông rộng lớn với một dân số đông đảo, với ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán và là một lục địa đa tôn giáo. Chúng ta hãy cầu nguyện và cầu nguyện không ngừng để Danh Chúa được tôn vinh và nhiều người được biết Chúa và tin Chúa nơi lục địa này.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến đổi mới chúng con để chúng con luôn sẵn sàng và mau mắn loan báo Tin Mừng cho nhiều người chưa biết Chúa.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao các Tông đồ lại nói được nhiều thứ tiếng ?
2.Lễ Ngũ Tuần là lễ gì ?
3.Để đón nhận Chúa Thánh Thần, các tông đồ, những người phụ nữ đạo đức, và Đức Mẹ đã làm gì ?
4.Chúa Giêsu sinh ra ở lục địa nào ?
5.Chúng ta có cần Chúa Thánh Thần không ?
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chiều ngày thứ nhất trong tuần,
Cửa nhà đóng kín, thấm nhuần đau thương.
Sợ lo bắt bớ vấn vương,
Họp nhau cầu nguyện, tựa nương xum vầy.
Giê-su hiện đến nơi đây,
Bình an chúc phúc, chính Thầy hiện ra.
Xem tay lủng lỗ rách da,
Cạnh sườn đâm thấu, thứ tha tội đời.
Vui mừng xem thấy Ngôi Lời,
Phục sinh cõi chết, rạng ngời thánh nhan.
An bình ân sủng trao ban,
Sai đi khắp chốn, vạn ngàn khó nguy.
Thánh Thần đón nhận phát huy,
Các con tha tội, thực thi chữa lành.
Thứ tha tẩy sạch lòng thành,
Các con cầm tội, nhân danh Chúa Trời.
Tội kia cầm lại trong đời,
Khấn lòng thương xót, một thời sửa sai.
Hạ thân, Chúa chết vì ai?
Gọi người tội lỗi, mở khai tâm hồn.
Chúa Giêsu hoàn tất sứ mệnh dưới thế. Ngài hứa ban Thánh Thần như nguồn sinh lực để khai mở một hướng mới trong Giáo hội. Chúa Thánh Thần là nguồn mạch an ủi và khôn ngoan. Ngài đã biến đổi các môn đệ từ những con người nhút nhát và sợ sệt trở nên những nhân chứng can đảm. Các môn đệ không còn sợ hãi, không sợ bắt bớ, tù đầy, không sợ đau khổ và không sợ chết nữa.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý và nguồn sự sống. Khi tạo dựng muôn loài, Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống vào thân xác các loài thụ tạo và các thụ tạo bắt đầu có sự sống. Hơi thở là sự sống. Khi tắt thở là chết. Mọi muông thú và con người đều cần có hơi thở để sống còn. Hơi thở là sự sống mà chúng ta lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần.
Truyện kể vui: Có một cha sở bị bệnh nặng phải có bình dưỡng khí để tiếp thở. Bà giúp việc khóc lóc than van và lo lắng cho ngài. Cha xin bà làm cho ngài một việc. Bà nói thưa cha việc gì cũng được, miễn sao cha khoẻ. Cha nói: xin bà bước ra, bà đang đạp lên ống dưỡng khí của tôi, tôi không thể thở được. Khí rất cần cho sự sống. Mỗi giây phút cuộc đời, chúng ta lãnh nhận hồng ân của Chúa, đó chính là ơn sự sống.
Chúa Giêsu hứa với các môn đệ rằng: Thần Chân Lý sẽ đến dạy chúng con tất cả sự thật. Thần Chân lý là nguồn sự khôn ngoan không bao giờ vơi cạn. Như lời Kinh Thánh đã viết, đã trải qua mấy ngàn năm, nhưng lời Chúa vẫn như mới và vẫn còn tác động mạnh mẽ nơi tâm hồn. Với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, lời Chúa có thể áp dụng mọi nơi, mọi thời và không bao giờ trở nên cổ hủ. Mỗi lần đọc lời Chúa, chúng ta suy niệm và sẽ có những thúc đẩy và hướng dẫn mới.
Thánh Phaolô viết rằng: Chúng ta không thể nói “Lạy Chúa” nếu không bởi ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần tiếp tục hoạt động trong lòng Giáo Hội, luôn đổi mới và canh tân qua mọi thời đại. Ơn Chúa Thánh Thần giúp Giáo Hội tìm ra con đường thích hợp để thích ứng với cuộc sống mà không bị đi trong lầm lạc.
Chúa Giêsu đã thổi hơi và phán bảo: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại. Các Tông đồ không làm việc gì mà không do Thánh Thần thúc đẩy họ. Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần như nguồn sinh lực và bình an. Mỗi lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, Chúa đều chúc: Bình an cho các con. Lời chúc đó mang lại sự bình an đích thực trong tâm hồn. Trong thánh lễ linh mục chúc: Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em và anh chị em đi bình an.
.
Lm Vũđình Tường
Ngôi Hai Con Thiên Chúa là Đức Jêsu Kitô xuống thế thi hành sứ mạng cứu chuộc cách tốt đẹp mĩ mãn. Ngài về cùng Chúa Cha và cũng là nơi Ngài xuất phát từ nguyên thuỷ. Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần được sai xuống trần gian để giải thích, làm sáng tỏ í nghĩa giáo huấn của Đức Kitô. Bắt đầu từ các tông đồ và sau này cho tất cả những ai đặt niềm tin và lòng mến vào Đức Kitô. Theo nghĩa trên dân Chúa lúc nào cũng có Thiên Chúa ở cùng. Thiên Chúa luôn hiện diện và đồng hành với dân Ngài qua hai hình thức: hữu hình và vô hình. Hữu hình chính là hình ảnh qua sự hiện diện của Đức Kitô nơi trần thế; vô hình là qua sự hiện diện của Thánh Thần Chúa trong cuộc sống của các Kitô hữu. Thiên Chúa luôn đồng hành với Kitô hữu trong mọi tình huống của cuộc sống, như chính Đức Kitô đã tuyên bố: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế Mt 28,20. Sự hiện diện của Thánh Thần Chúa trong dân Ngài chính là thực hiện trọn vẹn điều hứa trên. Sự hiện diện của Thánh Thần Chúa bắt đầu một kỉ nguyên mới, một thời đại mới, thời đại của Thánh Thần. Đây là thời đại mà Đức Kitô cách nào đó tỏ lộ cho các môn đệ biết khi Ngài nói cùng các ông: Hạnh phúc thay cho những ai không thấy mà tin Gn 20,29. Đây là thời đại của Đức tin đặt niềm tin vàoTin Mừng của Đức Kitô. Thánh Thần Chúa khai mở một chân trời mới cho những ai yêu mến Đức Kitô. Thánh Thần sẽ hướng dẫn Kitô hữu bước theo con đường Đức Kitô đã vạch ra và đã đi qua. Thánh Thần Đấng mắt trần không thể nhìn thấy sẽ biến đổi xác phàm của Kitô hữu trở nên giống Đức Kitô hơn. Đây là kỉ nguyên Đức Kitô không còn hiện diện bằng xương thịt như trước nữa, nhưng qua cầu nguyện, Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa cùng đồng hành với họ, trong mọi tình huống của cuộc sống. Đây là thời đại tình yêu và giáo huấn của Đức Kitô không còn phải là hai nhưng là một, quyện chặt lấy nhau như sợi giây thừng. Không có tình yêu và lòng mến của Đức Kitô sẽ không thể nào nhận biết Thiên Chúa. Để nhận biết Thần Chân Lí, điều quan trọng nhất là yêu mến Đức Kitô. Qua Đức Kitô, Kitô hữu nhận biết chân lí sự thật. Thần Chân Lí sẽ giáo huấn, nhắc nhớ (Gn 14,26), kết hợp (Gn 14,16) và làm chứng Đức Kitô là Con Thiên Chúa (Gn 15,26).
Các tông đồ nhận biết Thánh Thần Chúa tích cực hoạt động trong cuộc sống các Ngài, không phải các Ngài đáng được hưởng điều đó mà chính là tình yêu không bờ bến của các Ngài, biến những điều không thể thành có thể. Để đáp trả tình yêu Chúa thì không gì xứng đáng, thích hợp hơn là dùng tình yêu đáp trả tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người, con người đáp lại bằng tình yêu chân thành của con tim mình. Đức Kitô về trời mà không để khoảng trống nào trong lòng các Kitô hữu bởi có sự hiện diện của Thánh Thần Chúa trong tâm hồn các Kitô hữu. Chính sự hiện diện này làm cho tâm hồn các tông đồ cảm thấy bình an, lòng trí của các tông đồ tràn đầy niềm vui và các tông đồ hăng hái tiến bước trên cánh đồng truyền giáo. Đong đầy bởi Thánh Thần Chúa, các tông đồ bước những bước tiến dài, từ học trò của Đức Kitô, các tông đồ trở thành thầy giảng dậy về Đức Kitô. Niềm vui do của cải, vật chất và quyền thế không dẫn con người đến cùng Thiên Chúa bởi tự bản chất chúng không có tình yêu và lòng mến Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu Chúa mới dẫn con người đến yêu mến Thiên Chúa. Vì thế Đức Kitô nói Ngài ban cho Kitô hữu món quà mà thế giới không có để trao ban. Yêu mến Đức Kitô chính là lắng nghe lời Đức Kitô và thực hiện điều Đức Kitô truyền dậy. Lắng nghe tiếng Đức Kitô nói nhỏ nhẹ, êm dịu trong tâm hồn mỗi người. Qua cầu nguyện chung với nhau Kitô hữu cũng nhận được tiếng nói của Thiên Chúa nói với cộng đoàn đức tin Kitô. Chúng ta cầu xin biết lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa qua cầu nguyện và qua biến cố trong cuộc sống.
.
Bông Hồng Nhỏ
“ Lạy Thần Khí Sáng Tạo xin hãy đến, viếng thăm tâm trí các tín hữu Chúa…” Đó là một lời ca tuyệt vời. Chúa Thánh Thần lặng lẽ ở bên cuộc đời tôi. Người không có một khuân mặt cụ thể có thể ngắm nhìn nhưng sự hoạt động của Người mạnh mẽ đến nỗi đã làm cho tôi lớn lên, đã thay đổi cuộc đời tôi. Người làm cho tâm trí tôi phải thao thức, đợi chờ và tràn đầy hy vọng.
Chúa Thánh Thần đã làm cho tôi nên thụ tạo mới, cho tôi được làm con của Thiên Chúa khi Người đến tràn đầy trong tâm hồn tôi khi tôi được lãnh bí tích rửa tội. Tôi đã lớn lên trong bầu khí gia đình đầm ấm. Cha mẹ tôi đã dạy dỗ tôi, chăm sóc tôi mỗi ngày. Tôi còn nhớ những kỷ niệm tuyệt vời nơi mái ấm gia đình. Nhớ những ngày cả nhà cùng nhau đi nhà thờ đọc kinh hay mỗi khi bão lũ về không thể đến nhà thờ được thì trước bàn thờ của gia đình, cả nhà tôi quây quần đọc kinh sáng tối. Nơi bầu khí gia đình, tôi nhận ra sự hiện diện của Thần Khí Sáng Tạo. Người đã soi sáng cho cha mẹ tôi trước những khó khăn của cuộc sống và đồng hành với cha mẹ tôi trong việc nuôi dạy con cái, chính tôi cũng nhận ra sự hiện diện của Người khi cảm nhận sự thôi thúc mạnh mẽ trong tâm hồn, mách bảo tôi làm lành lánh dữ. Trong bầu khí cầu nguyện, các tông đồ cũng đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Người làm cho các ông trở nên những chứng nhân của Chúa Kitô với tâm hồn nhiệt thành và can đảm.Các vua chúa trần gian từng tấn phong các cận thần để họ phục vụ cho đất nước. Khi được lãnh Bí Tích Thêm Sức tôi cũng được tấn phong để “bén rễ sâu hơn vào việc làm con cái Thiên Chúa, trong đó tôi được gọi Thiên Chúa là Apba Cha ơi!” (x. GLHTCG 1303). Tiếng nói của Thiên Chúa ngày càng trở nên rõ ràng hơn trong suất đời tôi. Chúa Giêsu đã ban Lời của Người để dạy tôi cách sống làm con cái Chúa. Thiết nghĩ tình yêu cũng không có khuân mặt nhưng tình yêu hiện diện ở mọi nơi. Thánh Thần Tình Yêu được Chúa Kitô đặt vào trái tim tôi như là bảo chứng. Để nhờ đó tôi được bước đi đến gần Thiên Chúa hơn. Tôi đã được lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần: Thần Khí không ngoan và thông hiểu, Thần Khí sức mạnh và lo liệu, Thần Khí suy biết và đạo đức, Thần Khí của sự kính sợ Thiên Chúa. Tôi luôn cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng khi làm bất cứ việc gì. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ tình yêu nhưng không của Thiên Chúa nhưng nhiều lúc tôi đã sống cách hờ hững và đi ngược lại với sự thôi thúc của Ngài. Lúc đó Lời Chúa chất vấn tôi, nhắc nhở tôi: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17). Tôi dâng lên Ngài giọt nước mắt sám hối. Ngài ban cho tôi sự kiên nhẫn với chính mình, biết chờ đợi và hy vọng. Tôi đã chỉ yêu theo cách tôi muốn nhưng Chúa Thánh Thần nhắc tôi phải yêu như Thầy Giêsu đó là lời mời gọi tôi ngay hiện tại: yêu tất cả nơi từng người cụ thể.
Lạy Thần Khí Sáng Tạo, Đấng luôn dẫn dắt con mọi điều. Xin đốt lòng con yêu mến Chúa và không ngừng đổi mới tâm hồn con. Xin kéo con trở về bên Chúa và yêu thương đón nhận con. Amen.
.
Bông Hồng Nhỏ
“Thánh Thần khấn xin ngự đến! Hồn con đang mong chờ Ngài…” Thánh Thần chính là Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ để Người dẫn các ông đến sự thật toàn vẹn (x.Ga 16,13). Thánh Thần chính là Đấng đang được mong chờ và luôn là vị thượng khách mà mỗi người tín hữu muốn đón rước.
Bấy giờ trong căn phòng đóng kín cửa, các môn đệ sợ người Do thái. Các ông họp nhau cầu nguyện. Thánh Thần ngự đến phá tan sự sợ hại. Người hiện xuống nơi tâm hồn các ông và ban đầy tràn ân sủng. Các môn đệ đã nhận được bình an và mở lòng đón nhận lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga20,22-23). Từ khi Hội Thánh được thiết lập và đón nhận sứ mạng Chúa trao, Hội Thánh được lớn mạnh và Lời Chúa ngày càng lan tràn, Thánh Thần cũng được ban cho dân ngoại. Thế nhưng ngày nay vẫn còn có những dào cản của sợ hại, ích kỷ làm cho các tín hữu của Chúa đóng cửa nhà mình và khép chặt cửa lòng. Họ đang cần sự hiện diện của Thánh Thần. Lễ ChúaThánh Thần hiện xuống một lần nữa lại làm cho tâm hồn các tín hữu được hân hoan. Bình an mà Chúa Giêsu ban tặng sẽ lưu lại nơi sâu thẳm tâm hồn, để dù sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, họ vẫn trở nên muối và ánh sáng cho trần gian, trở thành những chứng nhân sống động về một Hội Thánh hiệp nhất trong yêu thương.
Chúa Thánh Thần vẫn mãi là Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí Sáng Tạo của Thiên Chúa, là suối nguồn yêu thương cho mọi tín hữu. Ngài sẽ làm cho tâm hồn ta được đổi mới. Ta có sẵn sàng đón Chúa đến với tâm hồn ta không? Hãy để Chúa chữa lành những tổn thương nơi tâm hồn ta, hàn gắn những tương quan bị đổ vỡ để tình người được hiệp thông; những thù hận sẽ được xóa bỏ tội lỗi được thứ tha là nhịp cầu yêu thương được xây dựng. Đó là khi ta biết hy sinh một ý riêng để con tim được triển nở và mở rộng, biết từ bỏ mình để có được niềm vui nội tâm, dám sống theo kỷ luật để xây dựng tự do thiêng liêng của con cái Thiên Chúa (x.Hc 66).
Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự đến nơi tâm hồn con. Xin cho con được đổi mới, dám sống cho sứ mạng Chúa trao để nên thánh ngay trong bậc sống của mình. Xin giúp con ý thức thân phận tội lỗi của mình và tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa. Mỗi ngày xin làm cho con nhớ lại những ân huệ Chúa ban và lệch truyền của Chúa để con biết sống xứng đáng là con cái Chúa. Trở nên tạo vật mới trong Chúa Thánh Thần.
.
Anna Cỏ May
Khi ở trong một cầu thang máy bị hư, chúng ta cảm thấy rất ngột ngạt và khó thở. Hơi thở gắn bó chặt chẽ với nhịp điệu của thân xác và tinh thần. Khi lo lắng, sợ hãi, chúng ta cảm thấy khó thở, ngột ngạt và nặng nề. Khi tức giận hơi thở chúng ta dồn dập, mệt mỏi và không nói thành lời. Ngược lại khi hơi thở chúng ta đều đặn, nhẹ nhàng và khoan khoái thì đem lại sự dễ chịu và bình an.
Hơi thở là một trong những hình ảnh nói về Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã thổi hơi đó vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23). Chúa Thánh Thần hiện diện trong thế gian như khí trời. Ngài đã hiện diện ngay từ công trình tạo dựng trời đất: “Thần Khí Thiên Chúa bay là trên mặt nước” (St 1,2). Ngài là Thần Khí sự thật. Hôm nay Chúa Giêsu thổi hơi cho các môn đệ để trao ban Thần Khí. Chính Thần Khí sẽ làm cho các ông được biến đổi trở thành con người mới: Từ sợ hãi trở nên vui mừng hân hoan ra đi rao giảng, trở thành những chứng nhân can đảm, bất khuất, vượt qua mọi gian nan để thi hành sứ mạng.
Không có hơi thở chúng ta sẽ chết. Không có Thần Khí, chúng ta sẽ không thể sống. Chính Chúa Thánh Thần là hơi thở đời sống cho cả thể xác và tinh thần Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy bước đi theo Thần Khí (x.Pl 5,16-18). Chính Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do (x.2Cr 3,17). Tự do nơi Thiên Chúa không làm cho chúng ta bị ràng buộc, bị lệ thuộc vào thế gian nhưng làm cho chúng ta có sự tự do và bình an đích thực trong Thần Khí. Nhờ Thần Khí tác động, chúng ta được đổi mới về tâm trí và được mặc lấy con người mới (x.Ep 4,23-24).
Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa và hân hoan cất lời ca ngợi và mở tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần là sức mạnh, khôn ngoan, lo liệu, đạo đước, thông minh, hiểu biết, kính sợ Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã trao ban thần Thần Khí cho chúng con. Xin cho mỗi người chúng con luôn sống dưới tác động của Thần Khí mà vững bước đi về nhà Cha. Để sự hiện diện của chúng con là dấu chỉ của sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
.
CHÚA THÁNH THẦN LÀ NGUYÊN LÝ HỢP NHẤT
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Cv 2:1-11; 1 Cr 12:3b-7, 12-13; Ga 20:19-23)
Theo dõi các bài đọc trong Thánh lễ ngày trong tuần từ sau lễ Chúa Giê-su Lên Trời đến lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta thấy Giáo Hội cố gắng trình bày những điểm giáo lý về Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Giê-su đã xin Chúa Cha sai đến làm Đấng Bảo Trợ cho các môn đệ Người. Đặc biệt với những bài đọc hôm nay, chúng ta được diễm phúc hiện diện tại nơi các môn đệ Chúa tụ họp để lãnh nhận Thánh Thần theo như thánh sử Lu-ca tường thuật. Chúng ta cũng được thần học gia Phao-lô giúp suy niệm về vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc xây dựng Giáo Hội và trong tinh thần hiệp nhất của mọi chi thể thuộc Nhiệm Thể Chúa Ki-tô. Ngoài ra, một điều hết sức quan trọng là giống như các môn đệ Chúa ngày xưa đã được nhận lãnh Thánh Thần, chúng ta cũng được Chúa Giê-su “thổi hơi” vào và Người phán: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là một biến cố hết sức quan trọng, do đó thánh sử Lu-ca đã ghi lại những chi tiết ý nghĩa nhất trong bốn câu đầu của chương 2 sách Công vụ Tông Đồ. Có lẽ cách tốt nhất để chúng ta “có mặt” trong biến cố này là hãy đọc từng chữ từng câu, đồng thời hình dung ra cảnh tượng Chúa Thánh Thần hiện xuống như thế nào. Thời gian là lễ Ngũ Tuần, tức ngày dân Do-thái kỷ niệm việc Chúa ban Lề Luật cho ông Mô-sê. Lề Luật Mô-sê giúp dân Do-thái sống như dân riêng của Thiên Chúa thế nào thì Luật Mới, luật yêu thương của Chúa Ki-tô, cũng được ban cho chúng ta để sống xứng đáng làm môn đệ của Người như vậy. Ngày xưa Thiên Chúa đã hiện ra trên núi với mây khói và sấm sét khiến dân chúng run sợ, còn hôm nay Thánh Thần đến trong chỉ một tiếng động và như tiếng gió mạnh, rồi Người xuất hiện như “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu trên từng người một”. Lửa làm cho dân Ít-ra-en kinh hãi không dám đến gần ngọn núi, còn lửa Thánh Thần thì dịu dàng đậu xuống trên từng người, không làm họ sợ hãi, trái lại còn ban cho họ khả năng “nói các thứ tiếng khác” nữa. Tuy nhiên các môn đệ Chúa Giê-su được Thánh Thần ban cho khả năng nói các thứ tiếng khác không phải để mạnh ai nấy nói và gây ra chia rẽ, mà là để họ nói cùng một ngôn ngữ, ngôn ngữ của tình yêu Thiên Chúa, ngôn ngữ của Tin Mừng Đức Ki-tô và ngôn ngữ hiệp nhất của Chúa Thánh Thần. Thánh Lu-ca không quên ghi lại cảm nghiệm ngạc nhiên của dân chúng tứ xứ tại Giê-ru-sa-lem khi họ hiểu được thứ ngôn ngữ mới của các môn đệ Đức Ki-tô. Ngôn ngữ tình yêu và bác ái Ki-tô quả thực đã vượt qua mọi ranh giới ngôn ngữ loài người để hiệp nhất chúng ta trong cùng một tinh thần của Thiên Chúa!
Tiếp đến, bài đọc trích thư 1 Cô-rin-tô là một suy niệm về nguyên lý hợp nhất của Chúa Thánh Thần. Thánh Thần được ban cho chúng ta trên hai chiều kích: cá nhân và cộng đồng. Là mỗi cá nhân Ki-tô hữu, chúng ta lãnh nhận Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, là để Người giúp mỗi người chúng ta sống theo tinh thần của Chúa Ki-tô, hoặc nói theo thánh Phao-lô là để chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô. Thánh Thần giúp ta “nhớ lại” mọi điều Chúa Giê-su đã dạy, nhớ lại nghĩa là chúng ta sống lời Chúa, không chỉ nhớ lại như học thuộc lòng, mà là đem thể hiện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Trên bình diện cộng đồng như gia đình, cộng đoàn, giáo xứ và Giáo Hội, Thánh Thần hiện diện nơi chúng ta dưới hình thức các hoạt động và các việc phục vụ. Nhờ sự hướng dẫn của Thánh Thần, tất cả các hình thức này đều nhắm đến cùng một mục đích là xây dựng Nhiệm Thể Chúa Ki-tô là Giáo Hội. Tuy mỗi người chúng ta làm những công việc khác nhau với những khả năng khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng là cùng nhau làm cho danh Chúa được rạng sáng hơn. Vì thế, thánh tông đồ dám khẳng định rằng: “Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất”. Đúng vậy, vì lợi ích của cá nhân chúng ta và cộng đồng, ai ai cũng đều được đầy tràn Thánh Thần cả!
Sau hết, bài Tin Mừng kể lại một cử chỉ ý nghĩa của Chúa Giê-su Phục Sinh khi Người hiện ra với các môn đệ. Sau khi chúc bình an cho các môn đệ và sai họ đi, Chúa Giê-su “thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Thiên Chúa đã thổi hơi vào lỗ mũi A-đam để ông có sự sống. Chúa Ki-tô thổi hơi vào các môn đệ Người để họ có Thánh Thần. Thần Khí Thiên Chúa đã đem sự sống đến cho nhân loại và muôn vật trong cuộc tạo dựng vũ trụ ban đầu, còn Thánh Thần, Đấng hiện xuống hôm nay, sẽ ở lại với các môn đệ Chúa Ki-tô để giúp họ cộng tác vào một cuộc tạo dựng mới. Họ sẽ là những người đóng góp vào đại cuộc đưa mọi người hòa giải với Chúa và với nhau. Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất sẽ cùng với chúng ta được sai đi để thực hiện một nhân loại mới: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 133:1).
Sống sứ điệp Lời Chúa
Thánh Thần không phải là điều gì hiện diện một cách mông lung, nhưng là sức sống, tình yêu và tinh thần của Chúa Ki-tô đầy tràn trong chúng ta. Vậy ý thức sự đầy tràn này rất quan trọng, vì chúng ta sẽ làm mọi sự dưới sức thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, để mỗi lời nói cũng như hành động của ta đều là kết quả của những gì đầy tràn trong lòng được phát ra bên ngoài và xây dựng sự hợp nhất.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Sau khi sáng tạo nên trời đất bao la hùng vĩ cùng muôn sinh vật diệu kỳ trong hoàn vũ, Thiên Chúa vẫn chưa hài lòng với công trình tạo dựng của mình. Ngài muốn sáng tạo thêm một kiệt tác vượt trội hơn tất cả những gì mà Ngài đã dựng nên.
Thế là Ba Ngôi Thiên Chúa bàn tính với nhau: “Chúng ta hãy tạo nên con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để chúng làm chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật trên mặt đất” (St 1, 26).
Và Thiên Chúa khởi sự tạo dựng con người. Ngài lấy bùn đất, nắn thành hình một con người, được gọi là A-đam, trông rất tuyệt vời, các thiên thần đều tấm tắc khen ngợi… Dầu vậy, A-đam vẫn còn trơ trơ bất động, vô tri, vô cảm… vì chưa có sự sống.
Thế rồi Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi A-đam (St 2,7) tức thì A-đam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức sống, lại còn có tư duy, có tình cảm, có lương tâm, có tự do, có óc sáng tạo… mang dấu ấn và bản sắc của Thiên Chúa.
Thế là nhờ hơi thở mà Thiên Chúa truyền cho, A-đam được tiếp nhận sự sống và trở thành thủy tổ loài người trên khắp địa cầu.
Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đọa, đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời. Vì thế, Thiên Chúa phải lên kế hoạch kiến tạo một thế hệ nhân loại mới.
Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người khởi đầu công cuộc nầy. Ngài quy tụ những môn đệ đầu tiên và dùng những vị nầy để làm phát sinh dân mới của Thiên Chúa .
Nhưng khi Chúa Giê-su chịu khổ nạn và được tôn vinh, không còn cận kề các môn đệ như trước, các môn đệ cảm thấy lạc lõng cô đơn như đoàn chiên không chủ, như rắn mất đầu. Các ngài sống âm thầm, im hơi lặng tiếng, co cụm trong phòng đóng kín vì sợ người Do-Thái, khác gì A-đam lúc chưa đón nhận hơi thở của Thiên Chúa.
Thế rồi “Vào ngày thứ nhất trong tuần – và cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới – nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái (Ga 20, 19-20). Mười một Tông đồ tuy còn đó, nhưng các ông tự giam mình trong căn phòng u tối. Bấy giờ các ông như những thân xác không hồn, như những hình hài không còn sự sống.
Và như thuở ban đầu, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các Tông đồ đang co cụm như những thân xác không hồn để thông ban Chúa Thánh Thần cho họ. “Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22).
Một khi đã được ban Thánh Thần, các Tông đồ bắt đầu đón nhận Sự Sống mới. Các ông như những xác chết được hồi sinh, được trở nên can trường mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua, để ra đi khắp các nẻo đường, loan báo Tin mừng cứu độ. Chính nhờ biến cố trọng đại này mà các môn đệ của Chúa Giêsu mới chấp nhận vô vàn gian khổ để loan báo Tin mừng và xây dựng Hội thánh Chúa khắp nơi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho đoàn con của Chúa luôn khao khát Thánh Thần như con thơ khát sữa mẹ, như cây cỏ khát mưa nguồn và luôn biết mở lòng đón nhận Thần Khí Chúa truyền ban; nhờ đó, mỗi người sẽ nhận được sự sống siêu nhiên và viên mãn do Chúa Thánh Thần ban tặng.
.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là chúng ta kết thúc Mùa Phục Sinh. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần là ứng nghiệm lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ khác”(Ga 14,16). Đồng thời, đây cũng là ngày khai sinh Hội Thánh. Chúng ta dành một vài phút để cùng chia sẻ với nhau Chúa Thánh Thần là ai?. Và là Đấng nào?.
Trước hết, trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
Tiếp đến, Chúa Thánh Thần là Đấng chân thật. Chính Chúa Giêsu đã giới thiệu cho các tông đồ: “ Khi nào Thần chân lý đến, Ngài sẽ hướng dẫn các con tới sự thật vẹn toàn…” (Ga 16,13). Thật vậy, Chúa Thánh Thần đến phá tan sự dối trá, dạy dỗ những điều hay lẽ phải, ban ơn soi sáng cho các tông đồ nhớ lại những điều Chúa Giêsu đã giảng dạy (Ga 20, 26). Nâng đỡ các ông trong lời nói cũng như hành động, và hướng dẫn các ông giảng dạy những chân lý Tin mừng.
Chúa Thánh Thần còn thêm sức mạnh thiêng liêng cho các vị tử đạo, dạy bảo họ nói những lời lẽ khôn ngoan, mạnh mẽ tuyên xưng danh Chúa trước mặt vua chúa quan quyền, cho dù máu chảy đầu rơi. Như lời Chúa Giêsu căn dặn: “Khi người ta bắt nộp các con, thì đừng lo nghĩ phải nói làm sao và nói gì, vì lúc đó không phải các con nói, nhưng là Thánh Thần sẽ nói trong các con” (Mt 10,19-20).
Chúa Thánh Thần gìn giữ Hội Thánh luôn vững vàng trong sự thật, không hề sai lầm khi dạy điều gì về đức tin hay phong hoá. Đồng thời, còn ban cho Giáo Hội nhiều vị thông thái lỗi lạc viết những điều chân lý, để phi bác những tà thuyết và những trào lưu văn hoá nguy hại đức tin.
Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi. Chúa Giêsu biết trước sau khi về trời các tông đồ và Hội thánh sơ khai sẽ gặp rất nhiều gian nan thử thách trong việc mở mang Giáo Hội. Cho nên, Ngài không bỏ các tông đồ mồ côi, nhưng sai Thánh Thần đến với các ông.
Thật vậy, trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi các tông đồ tụ họp nhau trong nhà cầu nguyện, cửa vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Vậy mà, khi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì đổi mới lòng dạ các tông đồ cách lạ lùng. Từ những người dốt nát trở nên thông thái nói được nhiều thứ tiếng; từ những người nhút nhát trở nên mạnh mẽ tung cửa ra, hiên ngang đi rao giảng Tin mừng, mà không sợ bất cứ quyền lực trần gian nào áp bức.
Nhờ ơn Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức, các nhà truyền giáo không sờn lòng nản chí khi ra đi rao giảng Tin mừng. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần đến an ủi, mà các tông đồ cũng như các vị tử đạo đã can đảm làm chứng cho Chúa, sẵn sàng chịu mọi hình khổ cho dù máu chảy đầu rơi.
Anh chị em thân mến,
Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong lòng Hội Thánh. Tất cả chúng ta đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trong ngày Rửa tội và Thêm sức. Do đó, chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Chúa trong nhiệm vụ, trong khả năng, trong môi trường sống của mình.
Vì thế, chúng ta hãy can đảm mở tung cửa lòng còn đóng kín của mình ra, để luồng gió Thánh Thần thổi vào đổi mới chúng ta. Xưa kia, thánh Phêrô nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, mà Ngài mạnh dạn đứng lên với những lời lẽ khôn ngoan đầy sức thuyết phục, làm cho nhiều người phải đấm ngực ăn năn trở lại cùng đạo thánh Chúa.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta tha thiết xin Chúa Thánh Thần đến biến đổi và canh tân bộ mặt trái đất này. Đồng thời, xin Ngài như làn gió mát xua tan những bóng đêm tội lỗi, và đốt lên trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa yêu mến Chúa nồng nàn thắm thiết.
Ước gì, trong đời sống thường ngày, với thân phận con người có nhiều giới hạn và yếu đuối, rồi có khi rơi vào hoàn cảnh không được may mắn như những người khác, làm cho chúng ta lo buồn hơn là an vui, đau khổ hơn là hạnh phúc. Thì giờ đây, xin Chúa Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống, ban ơn đổi mới mọi sự trong ngoài, giúp chúng ta tìm thấy niềm vui trong đời sống đạo. Đồng thời, xin Ngài thêm ơn khôn ngoan và sức mạnh giúp chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa hơn. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống, bài đọc 1 kể: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho… mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2, 1-4).
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy, tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 8).
Với sức mạnh của Thánh Thần, Thánh Phêrô và các Tông Đồ đã ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Trong mọi thời đại, bằng mọi ngôn ngữ, Giáo Hội khắp thế giới tiếp tục tuyên xưng những kỳ công Thiên Chúa và kêu gọi các dân tộc, các quốc gia tiến đến với đức tin, hy vọng và cuộc sống mới trong Đức Kitô.
- Làm chứng trong quyền năng Thánh Thần
Chúa Giêsu nói đến sứ vụ làm chứng của Chúa Thánh Thần: “Là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em từng ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27). Làm chứng cho Chúa Giêsu chỉ có thể thực hiện trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, chứ không thể chỉ bằng sức lực của con người.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói rằng, Chúa Thánh Thần là Linh hồn của Giáo hội và nếu không có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ chỉ là một tổ chức nhân đạo (x. huấn từ trưa Chúa nhật 31-5-2009). Sách Công vụ các Tông đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy: Chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần là… (Cv 5, 32); Thánh Thần và chúng tôi quyết định là…(Cv 15,28).
Thánh Phaolô, một tông đồ đầy kinh nghiệm về Thánh Thần đã sống và đã nói : “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa” (1Cr 2,4); “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giêrusalem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng : xiềng xích và gian nan đang chờ đợi tôi.” (Cv 20,22-23).
Thời đại hôm nay, Giáo hội toàn cầu và mỗi Giáo hội địa phương phải đương đầu và đối phó với nhiều vấn nạn và thách thức gay go mà thế giới và thực tế cuộc sống gợi nên. Xử lý tình huống và chọn lựa một hướng đi phù hợp với tin mừng cứu độ của Đức Giêsu chẳng đơn giản chút nào. Dù rằng trong Giáo hội không thiếu những con người tầm cỡ, khôn ngoan, đạo đức và thức thời. Nhưng khởi động, diễn biến và kết thúc mọi vấn đề vẫn luôn là, và phải là tác động của Thánh Thần. Bằng không đó chỉ là sự ‘khôn ngoan đối đáp người ngoài’ theo lẽ tự nhiên của “một tổ chức nhân đạo”, chứ không phải của Giáo hội Chúa Kitô. Chính “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (Ga 6,63). Tuy dù Thánh Thần và Giáo hội có phải công bố hay lên tiếng những điều ngược với lỗ tai người đương thời, kể cả người tin hay không tin, nhưng cuối cùng vẫn chính là : “Thánh Thần và chúng tôi quyết định !”.
Làm chứng trong quyền năng Thánh Thần, tất cả đều được gợi hứng và thúc đẩy bởi giáo huấn của Hội Thánh và Tin Mừng của Chúa Giêsu.
- Giáo hội tiếp nối sứ mạng Chúa Giêsu
Chúa Giêsu là Người Con có kinh nghiệm trọn vẹn về tình yêu của Chúa Cha, biết rõ ý muốn của Chúa Cha, biết rõ chương trình cứu độ của Chúa Cha. Ngài là chứng nhân trung thành của Chúa Cha, chỉ nói những điều Chúa Cha muốn, thi hành những điều Chúa Cha truyền dạy.
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần tiếp nối sứ mạng chứng tá của Chúa Giêsu, cùng với Giáo hội và trong lòng Giáo hội.
Sứ mạng làm chứng của Giáo hội luôn luôn thể hiện cùng với và trong Chúa Thánh Thần. Giáo hội đã được Chúa Phục Sinh thổi hơi vào và trao ban Thánh Thần. Chúa Thánh Thần từ đó luôn ở với Giáo hội và trong Giáo hội. Giáo hội đã luôn nổ lực làm chứng cho Chúa Giêsu, trải dài suốt hai nghìn năm lịch sử, trải qua những thăng trầm những phong ba bão táp của trần thế.
- Sứ mạng làm chứng của người kitô hữu:
Mỗi người Kitô hữu được sinh ra nhờ phép rửa ở trong lòng Giáo hội và được xức dầu thánh một cách đặc biệt trong Bí tích Thêm sức, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để thông phần sứ mạng làm chứng của Giáo hội.
Trong Bí tích Thêm Sức nhận lãnh, không những các ơn Chúa Thánh Thần, mà là chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta như một sức mạnh từ trên cao, như là “Thần lực của Thiên Chúa”. Đó là sức mạnh của Tình yêu mạnh hơn sự chết biểu lộ nơi Sự Sống lại của Chúa Giêsu, sức mạnh của Chân lý và Sự Thật. Đó là sức mạnh cuốn hút của cái Đẹp không phai tàn của Thiên Chúa, của cái Đẹp thần linh tiềm ẩn trong mọi cái đẹp đích thực.
Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh,thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet…đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của “nền văn hóa mới” này. Có Chúa Thánh Thần đồng hành và hướng dẫn, chúng ta trở nên những chứng nhân của Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến khắp muôn nước muôn dân.
- Nhạc sĩ, Ca sĩ làm chứng cho Thiên Chúa Tuyệt Mỹ
Chúa là Chân Thiện Mỹ, nên sức mạnh của Chân Thiện Mỹ là “Thần Lực” của chính Chúa. Muốn làm chứng cho Chúa là Chân Thiện Mỹ, phải có Thần lực của Chúa. Nếu chúng ta có sức mạnh của Chúa để làm chứng cho Ngài, thì đó là làm chứng chứng cho Thiên Chúa là cội nguồn của Chân Thiện Mỹ.
Có thể diễn tả nét đặc trưng: các Giám mục, Linh mục là những chứng nhân cho chân lý; những người làm việc bác ái xã hội làm chứng cho sự thiện; Nhạc sĩ, Ca sĩ làm chứng cho cái đẹp.
Chiêm ngắm và diễn tả vẽ đẹp thần linh có tác dụng làm cho con người say mê. Những nghệ sĩ chân chính như các nhạc sĩ, ca sĩ, thi sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư hay cả những biên đạo múa…đều là những người phục vụ cho cái đẹp, cũng là những chứng nhân rất cần thiết cho thế giới. Dĩ nhiên trong thế giới nghệ thuật, cũng như trong mọi lãnh vực khác của cuộc sống, vẫn có những phản chứng từ, có thể có tác dụng huỷ hoại tâm linh con người, như những thứ âm nhạc kích thích lòng tà dâm, những phim đồi truỵ, các thứ phim ảnh bạo lực…
Khi yêu những bông hoa, dòng suối, núi non, biển cả, chúng ta chìm vào trong thiên nhiên, ca hát ngợi khen Thiên Chúa cùng với các tiếng nói đa dạng của thiên nhiên, đó là làm chứng cho Thiên Chúa Đấng Tuyệt Mỹ.
Nhạc sĩ là chứng nhân cho vẻ đẹp thần linh. Nhạc sĩ viết thánh ca phụng vụ cùng chung mục đích với phụng vụ là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá con người.
Thánh nhạc phải thánh thiện vì nó có nguồn gốc là thánh, kèm theo lời ca của phụng vụ thánh, kèm theo những tác động thánh của phụng vụ và vì đó là lời cầu nguyện của Dân Chúa.Thánh nhạc được viết vì phụng vụ.Nhạc sĩ viết thánh ca để giúp người khác cầu nguyện. Lời của những bài thánh ca sử dụng chính thức trong phụng vụ luôn là lời cầu nguyện của Giáo hội. Như vậy người sáng tác thánh ca phải cầu nguyện mà sáng tác ra. Nếu như Linh mục cầu nguyện để soạn bài giảng thì Nhạc sĩ cầu nguyện để viết thánh ca. Một bài thánh ca hay được tạo ra bởi 2 lần cầu nguyện: người sáng tác cầu nguyện và người hát cầu nguyện, đựơc như vậy thì hát hay là cầu nguyện 2 lần.
Ca đoàn hát lễ cũng hát trong cung cách cầu nguyện. ĐGH Urbanô nói rằng: Nhạc là vì lễ chứ không phải lễ vì nhạc.Trong thông điệp “ Đấng Trung Gian”, ĐGH Piô XII đã viết “Ước gì tiếng hát toàn dân vang lên tới trời”. Giáo hội muốn giáo dân tham dự tích vào phụng vụ và thánh ca là lời cầu nguyện của Dân Chúa.
“Hiến Chế Thánh Nhạc Trong Phụng Vụ” số 121, nói đến vai trò các nhạc sĩ Công Giáo. Ngoài kiến thức chuyên môn, Giáo hội đòi hỏi các nhạc sĩ những tiêu chuẩn cơ bản là nhạc sĩ phải có đời sống Kitô hữu đích thực thể hiện qua đức tin mạnh mẽ, đời sống đạo đức và tinh thần cầu nguyện. Nhạc sĩ sáng tác trong lúc cầu nguyện, không chỉ trong nhà thờ mà mọi nơi mọi lúc, nhạc sĩ chân chính có thể cầu nguyện để viết thánh ca.
ĐGH Piô X cũng dạy rằng: Thánh nhạc phải thánh, phải loại bỏ những gì là phàm tục không phải chỉ nơi bản chất thánh nhạc mà cả nơi người sáng tác và cách thể hiện.
Thánh nhạc đòi hỏi rất nhiều nơi các nhạc sĩ. Nhưng thực tế của cuộc sống với biết bao khó khăn. Phải bôn ba để nuôi sống gia đình, ít khi được quan tâm. Nhạc sĩ làm việc âm thầm vì Chúa vì Giáo hội. Đổi lại sự lao nhọc trong công việc, nhạc sĩ có nhiều niềm vui và hạnh phúc nơi các đứa con tinh thần của mình. Nhiều người đón nhận, nhiều Nhà thờ, nhiều cộng đoàn hát thánh ca của mình để tôn vinh Thiên Chúa, ca ngợi Đức Mẹ, các Thánh, đó là phần thưởng lớn lao cho nhạc sĩ sáng tác.
Nếu như cách loan báo Tin mừng Tình yêu hay nhất và hữu hiệu nhất của người Kitô hữu là loan báo bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ thì Nhạc sĩ loan báo Tin mừng bằng những bài thánh ca đựơc viết khi cầu nguyện; dấn thân phục vụ trên con đường nghệ thuật cao quý. Nhạc sĩ làm chứng nhân cho cái đẹp thánh thiện nâng tâm hồn con người lên với Thiên Chúa Tuyệt Mỹ.
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống. Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ“. Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. Các Tông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Các Nhạc sĩ, Ca sĩ sống chứng nhân cho cái đẹp, loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
.
JM. Lam Thy
Trong Bữa Tiệc Ly, trước khi chịu khổ nạn, Chúa Giê-su đã hứa với các Tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi…” (Ga 14, 16). Trước khi về Trời, Đức Ki-tô cũng nói với các Tông đồ: “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 8).
Chúa Thánh Thần ban ơn thánh hóa, biến cải các Tông đồ từ những con người chỉ mơ ước “một vương quốc trần gian” (“Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc It-ra-en không?” – Cv 1, 6) được ơn soi sáng nhìn rõ thực tại Nước Trời và hiểu đầy đủ hơn về các điều Chúa Giê-su giảng dạy. Hơn nữa, từ những con người nhát đảm, sợ sệt, ở trong nhà “đóng kín cửa” (“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em.” – Ga 20, 19), các ông trở nên những con người can đảm “mở cửa ra” để hăng hái ra đi rao giảng và làm chứng cho Chúa Phục Sinh ngay vào ngày Lễ Ngũ Tuần; lúc đó đang có nhiều người từ các nơi tụ họp về Giê-ru-sa-lem để mừng Lễ.
Chú tâm đọc và suy niệm Lời Chúa Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, thấy giữa bài đọc 1 (Cv 2, 1-11) và bài Tin Mừng (Ga 20, 19-23) có một chi tiết hơi lạ, đó là: Trong bài Tin Mừng, các Tông đồ được Chúa Ki-tô Phục Sinh thổi hơi ban Thánh Thần (Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” – Ga 20, 22-23), còn bài đọc 1 thì trình thuật Thánh Thần Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa trên các Tông đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần. Như vậy thì Thánh Thần do Đức Ki-tô thổi hơi ban cho các môn đệ và Thánh Thần hiện xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần có khác nhau chăng? Nếu khác thì khác ở chỗ nào? Nếu chỉ là một Thánh Thần thì tại sao các tông đồ lại nhận được tới hai lần và bằng hai cách khác nhau? Những băn khoăn này còn gặp ở ngay trong Lời dạy của Đức Ki-tô: Khi bước vào cuộc khổ nạn thì Người nói: “Thầy sẽ xin Chua Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 16). Giờ đây Người lại thổi hơi và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (tức là chính Đức Ki-tô ban Thánh Thần cho các môn đệ).
Thực ra, Thánh Thần được Đức Ki-tô Phục Sinh thở hơi trên các Tông đồ và Thánh Thần hiện xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần chỉ là một Thánh Thần duy nhất. Ấy cũng bởi vì Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa cũng tức là Thiên Chúa thật như Ngôi Cha và Ngôi Hai. Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa có thể cùng lúc hiện diện ở khắp mọi nơi, “ở trên trời, dưới đât và cả trong nơi âm phủ nữa” (Pl 2, 10).Tuy nhiên, nếu là một Thánh Thần duy nhất thì tại sao các Tông đồ lại lãnh nhận tới hai lần? Lý do của sự kiện này có thể giải trình theo trình tự thời gian và theo cường độ đức tin. Theo trình tự thời gian thì 2 lần cách nhau 50 ngày. Lần thứ nhất và cũng là ngày thứ nhất tính từ thời điểm Chúa Ki-tô Phục Sinh, khi các Tông đồ còn đang sợ hãi ẩn nấp vì Thầy mình đã chết. Còn lần thứ hai là vào thời điểm các Tông đồ đang hân hoan vì Thầy mình đã Phục Sinh và đang thao thức chờ đợi lời hứa của Thầy trở thành hiện thực, để có đủ dũng khí thi hành sứ vụ mà Thầy đã trao phó.
Đó là về thời điểm các Tông đồ lãnh nhận Thánh Thần, nhưng như thế thì cũng chẳng có gì đáng để băn khoăn. Điều đáng lưu ý là vì sao lại có lần thứ hai các Tông đồ được đón nhận Chúa Thánh Thần? Vấn đề này sẽ sáng tỏ khi nhìn lại quá trình đức tin của các Tông đồ. Theo Thầy vì tin Thầy là Đấng Cứu Độ, là Đấng có thể làm cho mình trở thành những kẻ “lưới người như lưới cá”, vậy mà khi thì tuyên xưng Thầy là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, lúc lại tưởng Thầy là ma; thậm chí tới khi Thầy đã sống lại và hiện ra để ban Thần Khí cho các ngài, mà vẫn còn cảnh “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24, 37).
Vừa mới khẳng định chắc nịch: “Dù có phải chết, con cũng không chối Thầy”, thì ngay sau đó đã chối phăng: “Tôi thề là không biết người ấy”. Tin Thầy đến độ đòi được ngồi bên tả bên hữu Thầy khi Thầy được vinh quang, vậy mà khi Thầy bước vào thời điểm mà chính Thầy khẳng định: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13, 31), tức là lúc chính thức bước vào cuộc thương khó để cứu độ nhân loại, thì “Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26, 56). Vậy đó! Xem thế thì đủ rõ đức tin của các môn đệ vẫn chưa thật sự kiên định. Và vì thế, rất cần Thần Khí Chúa đến với các ngài không chỉ hai lần mà nhiều lần hơn nữa để củng cố và tăng trưởng đức tin.
Hành trình đức tin của mọi tín hữu cũng vậy thôi và đừng nói là 2 lần, có không ít người đến năm lần bảy lượt Thánh Thần đến, thậm chí còn cư ngụ luôn ở trong lòng (“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” – 1Cr 3, 16; “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” – 1Cr 5, 19); vậy mà đức tin vẫn như “nước đổ lá khoai” chẳng đọng lại được chút nào! Hoá cho nên vẫn rất cần phải có lần thứ hai Thánh Thần đến với các Tông đồ và nói chung là các tín hữu để không những chỉ củng cố đức tin cho vững mạnh mà còn phát triển vươt bậc nữa. Thật thế, lần thứ hai Thánh Thần đến với các Tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần đã ban lòng can đảm, sự khôn ngoan và nhất là khả năng ngôn ngữ có thể nói nhiều thứ tiếng khác ngoài tiếng bản địa của các ngài.
Vấn đề các Tông đồ có thể nói nhiều thứ tiếng khác ngoài tiếng bản địa của các ngài, đó là một mầu nhiệm được chính những người nghe làm chứng (“Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” – Cv 2, 7-11).
Và cho đến hiện nay thì bất kỳ ai khi nhìn lại lịch sử Giáo hội, cũng phải ngạc nhiên đến sửng sốt trước sự tồn tại bền vững và phát triển vượt bậc. Đó phải chăng là một món quà độc đáo, món quà vô giá mà Đức Ki-tô đã ban tặng các môn đệ, và nói chung là tất cả mọi tín hữu (“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” – Ga 20, 22-23)? Điều đó cho thấy chỉ có một Thánh Thần nhưng Người đến với các môn đệ, với Giáo hội và nói chung là tất cả mọi tín hữu, với nhiều hình ảnh và kiểu cách khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, tuỳ theo những đặc sủng Người ban cho mỗi người mỗi khác (“Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.” – 1Cr 13, 4-7).
Như vậy thì Đức Thánh Linh ở trong Ngôi Cha và Ngôi Hai Thiên Chúa, cả Ba Ngôi hiện diện trong nhau, tồn tại trong nhau, cùng một lúc có thể hiện diện ở khắp mọi nơi. Còn nói Chúa Thánh Thần hiện xuống chỉ là cách nói nhằm làm sáng tỏ sự thật về Ngôi Ba Thiên Chúa. Đó là Đấng Thánh, là Thần Khi Sự Thật luôn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con trong mọi công trình của Thiên Chúa (từ sáng tạo vũ trụ và con người, đến hồng ân cứu độ, từ khởi nguyên tới tận cùng). Một cách cụ thể, khi nói Chúa Thánh Thần hiện xuống, là để miêu tả cụ thể hình ảnh thật (Chim Bồ Câu, Lưỡi Lửa, Ánh Sáng…) từ trời cao bay xuống đậu trên những vật thể hữu hình, và đó cũng chính là những mạc khải của Thiên Chúa để con người vốn chỉ thích đươc “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Quả thật, món quà mà Đấng Cứu Thế ban tặng các môn đệ, rộng ra là toàn Giáo hội, rất độc đáo, một món quà vô giá! Chính vì thế, Công đồng Va-ti-ca-nô II được coi là một Lễ Hiện Xuống mới, vì Công Đồng đã định hướng việc canh tân Giáo hội, đem tinh thần đối thoại hiệp thông với Thiên Chúa và với hết mọi người, để cùng với Chúa Thánh Thần thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Món quà vô giá của Chúa Giê-su Ki-tô là Thánh Thần; mà hoa trái của Thánh Thần là hiệp nhất trong yêu thương phục vụ. Cứ nhìn vào Hội Thánh thì đủ rõ: Giáo hội tiên khởi với 12 thành viên (Tông đồ Ma-thi-a đã thay thế Giu-đa It-ca-ri-ốt) đã phát triển khắp năm châu bốn biển với số tín hữu Công Giáo hiện nay ước tính trên một tỷ người (“Theo hồ sơ thống kê được hãng tin Fides loan báo nhân Ngày Thế giới truyền giáo năm 2017, số tín hữu Công giáo trên thế giới năm 2015 gia tăng, chiếm khoảng 17,7% dân số thế giới, với gần 1,3 tỷ tín hữu.” – Wikipedia).
Tóm lại, “Chúa Thánh Thần sẽ mang đến sức mạnh biến đổi của Ngài, một sức mạnh độc nhất vô nhị, một sức mạnh vừa có tính quy tâm vừa có tính ly tâm. Là sức mạnh quy tâm, bởi vì sức mạnh ấy hoạt động nơi trung tâm, nơi sâu thẳm trong trái tim ta. Sức mạnh ấy mang đến hiệp nhất và đẩy lùi chia rẽ, mang đến bình an và đẩy lùi phiền não, mang đến sức mạnh và đẩy lùi cám dỗ. Trong bài đọc hai, Thánh Phao-lô nhắc chúng ta nhớ điều này, khi ngài viết rằng: hoa trái của Thần Khí là niềm vui, bình an, trung tín, tự chủ (Gl 5, 22). Chúa Thánh Thần ban cho ta tình thân gắn bó với Chúa, ban sức mạnh nội tâm để ta tiếp tục tiến bước. Là sức mạnh ly tâm, bởi vì đó là lực đẩy để đi ra ngoài. Thần Khí ở trong chúng ta, để đẩy chúng ta đi ra các vùng ngoại biên, để đẩy chúng ta đi ra mọi vùng ngoại vi của nhân loại. Ngài cho chúng ta thấy gương mặt Thiên Chúa, Ngài cũng mở tâm hồn chúng ta trước các anh chị em mà chúng ta gặp gỡ. Ngài sai chúng ta đi và làm cho chúng ta trở thành chứng nhân. Ngài đổ vào lòng chúng ta đầy tình yêu, lòng từ nhân, lòng quảng đại, sự dịu hiền.” (Bài giảng của ĐTC Phan-xi-cô ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống 20/5/2018).
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã cử Thánh Thần đến thanh hóa Giáo hội ngay từ buổi sơ khai, và sai đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Hôm nay khi mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng con nài xin Chúa tiếp tục công trình Chúa đã thực hiện và tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần cho mọi tín hữu trên khắp cùng thế giới. Chúng coin cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống).
.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm :
Lúc đến Êphêsô, Phaolô hỏi một số môn đệ ở đó:
“Khi vào đạo, các ông đã nhận lãnh Thánh Thần chưa?”
Họ trả lời: “Ngay cả việc có Thánh Thần,
chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói tới” (Cv 19,1-2).
Chúng ta đã được nghe nói và đã lãnh nhận Thánh Thần,
nhưng có thể Ngài vẫn là Ðấng xa lạ với ta.
Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp,
nhưng nó không làm ta ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần,
Ðấng đang ở trong ta và sai ta đi làm chứng.
Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ,
Ngài đã làm một việc quan trọng,
đó là mời họ tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã bắt đầu.
“Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
“Hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).
Trong Tin Mừng hôm nay, Ðấng phục sinh nói với các môn đệ:
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21)
Ðức Giêsu cho các môn đệ được tham dự vào sứ mạng của mình.
Chỉ có một sứ mạng duy nhất
là sứ mạng Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha.
Sứ mạng của các môn đệ nối dài sứ mạng duy nhất ấy.
Ai sẽ giúp các ông thực hiện sứ mạng này?
Ai sẽ cho các ông sức sống để dám mở toang cánh cửa
mà lên đường loan báo Tin Mừng phục sinh?
Sức sống ở nơi hơi thở.
Ðức Giêsu phục sinh đã trao hơi thở của mình,
hơi thở của sức sống thần linh cho các môn đệ.
Khi được trao ban Thánh Thần,
họ trở thành con người mới, sẵn sàng lên đường.
Thánh Thần chẳng ở xa mỗi người chúng ta.
Ngài có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa,
và muốn sống Lời Chúa trong đời thường.
Ngài có mặt khi ta gọi tên Chúa Giêsu trên môi (1Cr 12,3),
và gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15).
Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới
trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng.
Thánh Thần chẳng ở xa Giáo Hội.
Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất
bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người
để họ phục vụ lợi ích chung.
Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội,
nhưng Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân.
Ngài hiện diện trong các bí tích, trong mỗi thánh lễ.
Ngài thánh hóa bánh rượu để chúng trở nên Mình và Máu Ðức Kitô.
Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội;
không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu đáng ngờ.
Nếu chúng ta mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt,
nếu chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân,
nếu chúng ta đừng dập tắt tiếng của Ngài,
thì chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin Ngài hãy đến như cơn gió mát
thổi vào đời con,
thổi vào Giáo Hội,
thổi vào thế giới,
để đem lại cho chúng con
sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát.
Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong
chảy vào đời con,
chảy vào Giáo Hội,
chảy vào thế giới,
để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi,
và làm bật dậy
những mầm xanh sự sống nơi chúng con.
Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng
chiếu sáng đời con,
chiếu sáng Giáo Hội,
chiếu sáng thế giới,
để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm,
nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng,
đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu. Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ. Theo Tin mừng của Gioan, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ ngay chiều ngày Phục sinh :”Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần”(Ga 20,22). Tuy nhiên chúng ta nên tránh xa cảm tưởng có sự xẩy ra hai lần việc Thánh Thần được ban cho long trọng lúc ban đầu. Luca và Gioan nói về cùng một việc : Chúa sống lại ban ơn Chúa Thánh Thần và khai mạc sứ mạng của Giáo hội. Sự khác nhau của hai ông về thời điểm là do quan điểm thần học của mỗi ông. Hay nói khác đi, lễ Hiện xuống là ngày Đức Giêsu đặc biệt giới thiệu Giáo hội cho muôn dân muôn nước.
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ hãy ở lại trong thành chờ đợi Chúa Thánh Thần. Vâng lệnh Chúa, 120 môn đệ cùng với Đức Maria tụ họp nhau cầu nguyện trong nhà, có lẽ nhà Tiệc ly. Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các ông với tiếng gió thổi ào ào và những hình lưỡi lửa đậu trên đầu các ông. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các ông nói được nhiều thứ tiếng lạ, ai cũng có thể hiểu được và sau đó các ông can đảm đi rao giảng Đức Kitô Phục sinh cho mọi người.
Ngày nay, lễ Hiện xuống vẫn còn tiếp diễn trong Giáo hội. Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động trong Giáo hội vì Ngài là Đấng soi sáng, đổi mới, ban bình an và niềm vui cho mọi người. Ngài là hồn sống của Giáo hội. Nếu không có Ngài thì mọi hoạt động trở nên trống rỗng. Ngài cũng vẫn hoạt động trong mỗi người chúng ta với Bảy ơn cả của Ngài để soi sáng, hướng dẫn và giúp chúng ta nên thánh.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 2,1-11.
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Vâng theo lời căn dặn của Chúa Phục sinh, ngày lễ Ngũ tuần, các môn đệ tụ họp tại nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
Sáng hôm đó, đang khi các môn đệ cầu nguyện cùng Đức Maria, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các ông. Mọi người nhận thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống với hình lưỡi lửa đậu trên đầu các ông. Và sau đó các ông nói được những thứ tiếng lạ, mọi khách hành hương đều thấy họ nói được tiếng bản xứ của mình một cách thành thạo.
Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng cho tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã nhiệt thành rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Đức Kitô khắp mọi nơi.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 12,3b-7.12-13.
– Thánh Phaolô nhắc nhở cho tín hữu Côrintô một số điều :
– Nguồn gốc mọi đặc sủng là Chúa Thánh Thần. Ngài ban các đặc sủng ấy cho từng người tùy nhu cầu, không ai giống ai.
– Tuy nhiên các đặc sủng ấy không phải để phục vụ cho các nhân, nhưng tất cả đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.
– Hội thánh được coi như một thân thể, cần phải có sự hợp nhất các chi thể. Vì thế, mọi tín hữu phải tránh sự chia rẽ để cùng hợp lực xây dựng thân thể Hội thánh.
+ Bài Tin mừng : Ga 20,19-23.
Theo Gioan làm chứng, việc trao ban sứ mạng và ban Thánh Thần đã xẩy ra ngay lần đầu tiên Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ vào chiều ngày Phục sinh. Như vậy, căn bản mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống đã được biểu lộ trọn vẹn.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần. Theo bài Tin mừng, Chúa Thánh Thần đã ban cho các Tông đồ những ơn :
– Ơn Bình an, đặc trưng của thời Messia.
– Ơn Tha tội, nhờ đó con người được hưởng niềm vui và bình an.
– Ơn Trợ giúp, nhờ đó Giáo hội ra đi để loan báo Tin mừng cứu độ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
I. BỐI CẢNH NGÀY LỄ HIỆN XUỐNG.
- Ý nghĩa bài Tin mừng hôm nay.
Phụng vụ chọn lựa bài Tin mừng này trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống cho cả ba năm A,B,C là vì trong bài này thánh sử Gioan đã kể lại việc Đức Giêsu ban Thánh Thần cho các Tông đồ “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Việc ban Thánh Thần biểu lộ ý nghĩa : Chúa Thánh Thần là căn nguyên sự sống và hoạt động của các Tông đồ. Vì thế qua việc mừng lễ này Giáo hội muốn cho chúng ta xác tin hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo hội và đời sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta tha thiết hơn trong việc cảm tạ và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần trong đời sốâng hằng ngày.
- Tại nhà Tiệc Ly.
Ngày lễ Phục sinh Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ (Ga 20,21-23). Nhưng ngày lễ Hiện xuống Chúa Thánh Thần đến một cách long trọng và là ngày khai sinh Giáo hội hay ngày giới thiệu Giáo hội cho muôn dân (Cv 2,1-13). Cũng như qua bí tích Rửa tội, chúng ta nhận Chúa Thánh Thần rồi, nhưng qua bí tích Thêm sức, chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách long trọng và dồi dào để trở thành chiến sĩ Chúa Kitô.
Lễ Ngũ Tuần là một trong ba đại lễ của người Do thái. Lễ này được mừng 50 ngày sau lễ Vượt qua, là để tạ ơn Chúa vì mùa thu hoạch lúa mì vừa kết thúc và cũng là để kỷ niệm Thiên Chúa ban Lề luật trên núi Sinai.
Trước khi về trời Đức Giêsu đã ra lệnh cho môn đệ đi rảo giảng Tin mừng, rồi Ngài thêm :”Nhưng hãy đợi trong thành cho đến khi các con được mặc lấy quyền năng bởi trời”, và 120 người ấy đã hoàn toàn vâng theo. Dầu phần lớn trong số họ không có nhà cửa gì tại thủ đô, nhưng vẫn trung thành họp nhau cầu nguyện để trông chờ ứng nghiệm điều Đức Giêsu đã hứa.
Trong số 120 người tụ họp tại nhà Tiệc Ly, có Đức Maria, các tông đồ và một số người khác. Theo như thánh Phaolô đã kể lại trong thư thứ nhất Côrintô 15,6 thì 500 người đã cùng được gặp Chúa khi Ngài hiện đến sau Phục sinh, chúng ta không hiểu tại sao họ lại không hiện diện trong dịp họp mặt này. Sách Công vụ Tông đồ cũng ghi đặc điểm của cuộc hội họp này là “Tất cả đều kiên tâm nhất trí cầu nguyện liên tục cùng với Đức Maria”.
Sách Công vụ Tông đồ còn ghi :”Mọi người đang tề tựu tại một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho”(Cv 2, 1-4).
Trong Kinh Thánh lửa cũng được dùng để chỉ về chức vụ của Chúa Thánh Thần. Như gió thổi và làm cho loài người tươi mát thế nào, thì lửa lại tiêu sạch rơm rác hôi thối chung quanh nhà chúng ta khiến xóm giềng dễ chịu. Chúa Thánh Thần sẽ tác động để đời sống tốt lành của chúng ta tỏa hương, gây ảnh hưởng tốt, và Chúa đưa tới vinh quang đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Tiếng gió động ào ào tượng trưng sức sống thần khí, khi Thiên Chúa dựng nên con người, Thiên Chúa đã thổi hơi vào thẳng người được dựng nên bằng bùn đất. Hơi thở thần khí đã biến bùn đất thành Adong sống động. Từ đó Adong trở thành người đầy sức sống tốt lành và tràn đầy sinh lực hạnh phúc. Luồâng gió mới của thần khí nay cũng thổi vào khắp các cơ thể xác thịt của Tông đồ biến đổi các ông thành chi thể mới của Đức Kitô chứa đầy những đặc sủng để các ông phục vụ nhiều việc khác nhau vì ích chung nhờ Thánh Thần đang hoạt động nơi các ông (Vũ khắc Nghiêm).
Qua càc bài đọc trong Thánh lễ hôm nay chúng ta có thể gọi lễ Hiện xuống là ngày khai sinh Giáo hội, hay ngày Đức Giêsu giới thiệu Giáo hội cho muôn dân, nhưng đồng thời Chúa cũng cho biết lễ Hiện xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động mạnh mẽ bên trong Giáo hội, ví dụ : Công đồng Vatican II là một lễ Hiện xuống mới. Công đồng đã quyết định một cách bất ngờ và đã canh tân Giáo hội cho phù hợp với bước tiến của thế giới ngày nay.
II. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN.
- Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng.
Tuy đã ở với Đức Giêsu gần 3 năm trời, các môn đệ cũng chưa hiểu thấu được những lời Ngài dạy, những việc Ngài làm. Chẳng hạn một ngày nọ Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Con người sẹ phải bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết Ngài nhưng ba ngày sau khi chết Ngài sẽ sống lại”. Thánh Marcô liền chú thích thêm :”Nhưng các môn đệ chẳng hiểu điều Ngài muốn nói và họ sợ hãi không dám hỏi Ngài”(Mc 9,31-32).
Tương tự như thế, sau khi mô tả Đức Giêsu cỡi lừa tiến vào thành Giêrusalem vào Chúa nhật lễ lá, thánh Gioan nói rằng :”Thoạt tiên các môn đệ Ngài không hiểu được điều này, nhưng sau khi Đức Giêsu được vinh hiển thì họ nhớ lại những điều này đã được viết về Ngài”(Ga 12,16). Hoặc dịp khác, có lần Đức Giêsu bảo các nhà cầm quyền ở Giêrusalem :”Hãy tiêu hủy đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Đoạn thánh Gioan chú thích thêm :”Tuy nhiên Đức Giêsu có ý nói về đền thờ thân xác Ngài. Do đó, khi Ngài từ cõi chết sống lại, các môn đệ nhớ lại Ngài đã nói điều này, và nhờ đó họ tin vào Kinh Thánh và những lời Đức Giêsu đã nói ra”(Ga 2,20-22).
Điều gì đã xẩy ra cho các môn đệ Đức Giêsu giúp họ thấu hiểu được những điều này ? Đó chính là điều Đức Giêsu đã từng nói :”Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và sẽ nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).
Nói cách khác, điều làm cho các Phúc âm có giá trị dường ấy là vì chúng đã được viết dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Đấng ngự đến vào dịp lễ Hiện xuống. Chúa Thánh Thần đã ban cho các môn đệ Đức Giêsu sự thấu hiểu mới mẻ về các lời dạy của Đức Giêsu. Chính sự thấu hiểu này đã được các Phúc âm ghi lại.
- Chúa Thánh Thần, Đấng đổi mới.
Khi được lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã được đổi mới hoàn toàn. Được sức lay động và đầy lửa Thánh Thần, các Tông đồ cùng lên tiếng cao rao những kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Phêrô, lòng đầy Thánh Thần, đã hùng hồn thuyết giảng về Đức Giêsu chịu Thương khó và Phục sinh. Có 3000 người xin được rửa tội. Giáo hội được khai sinh từ đó vào ngày lễ Ngũ tuần. Thánh Thần đến, Giáo hội khai sinh.
Tác động của Chúa Thánh Thần trên Giáo hội thật mãnh liệt. Chỉ một nhóm Tông đồ nhỏ, sợ hãi, co cụm, hoang mang, lúc nào cũng cửa đóng then cài. Thế mà giờ đây khi được tràn đầy Thánh Thần họ đã trở nên mạnh mẽ phi thường, hiên ngang, can trường làm chứng và loan báo Tin mừng Phục sinh. Các ngài được trang bị bằng quyền năng Chúa Thánh Thần để bẻ gẫy sức mạnh của sự dữ, tội lỗi.
Dù bị đe dọa đòn vọt, dù gông cùm tù tội, các ngài vẫn trung kiên một lòng tin vào Chúa. Các ngài đã lấy máu đào minh chứng cho lời rao giảng. Dù bị đàn áp, bách hại, Giáo hội vẫn lớn mạnh không ngừng. Hai mươi thế kỷ qua, con thuyền Giáo hội do người dân chài Galilê cầm lái vẫn lướt qua mọi thăng trầm của lịch sử với muôn vàn thử thách giông tố để luôn đi tới.
Vậy bí quyết ẩn tàng trong đó và lý do tồn tại của Giáo hội là gì nếu không phải chính là sức mạnh , là quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Truyện : Các nữ tu tại Vendée.
Các chị dòng tại tu viện Vendée nước Pháp không quên rằng Chúa Thánh Thần là quan trọng. Trong thời kỳ cách mạng Pháp, nhiều linh mục và nữ tu bị giết. Toàn thể các chị ở tu viện Vendée bị kết án lên máy chém. Chị nào cũng hiểu lên máy chém ghê sợ chừng nào, nhưng không một chị nào tỏ ra sợ sệt chút gì hết. Trái lại, đứng sát bên nhau, các chị cất tiếng hát bài thực du dương. Đứng trước cái chết, các chị vẫn ca hát, và bài hát các chị hát là bài thánh ca “Xin Chúa Thánh Thần ngự đến” (Diamond, Đồng cỏ non, tr 93).
- Chúa Thánh Thần, Đấng ban bình an.
Khi Đức Giêsu đi vào cuộc Khổ nạn, các môn đệ buồn sầu lo lắng, tâm trạng hoang mang không biết tương lai sẽ ra sao, nhưng khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông được bình an và niềm vui, không còn sợ sệt gì nữa, nhưng lòng rất thanh thản. Đức Giêsu đứng giữa các ông và nói :”Bình an cho các con”. Còn một niềm vui nữa là đem bình an và tha thứ cho những người khác :”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha”.
Nhiều khi chúng ta rơi vào tâm trạng sợ sệt, bất an, mặc cảm tội lỗi. Khi đó chúng ta co cụm lại, rút lui vào nỗi cô đơn của mình và không muốn gặp ai cả. Tình trạng này thật là buồn chán. Phải sống trong tình trạng này thì chẳng khác nào như đã chết. Do đó cần phải có ai đó giúp chúng ta thoát khỏi tâm trạng bất thường ấy. Người ấy là ai ? Thưa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấùng tái tạo những gì suy sụp và hư mất.
Truyện : Nhà biên kịch Henri Ghéon.
Henri Ghéon là một nhà biên kịch nổi tiếng của Pháp, cũng là một người tội lỗi trong đệ nhị thế chiến, ông ở trong một tâm trạng bất an, đã quay trở lại với Chúa. Ôâng đến xin lãnh bí tích Giải tội và ông đã kể lại tâm trạng của mình lúc xưng tội như sau :”Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác…. Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi :”Hãy về Bình an. Thánh Thần đã ngự trong con” ! Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tôi lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”…
III. CHÚA THÁNH THẦN HOẠT ĐỘNG TRONG GIÁO HỘI.
- Phải hiểu biết về Chúa Thánh Thần.
Chúng ta có thể nói khi Đức Giêsu lên trời là chấm dứt thời kỳ của Ngài ở trần gian và nhường chỗ cho thời kỳ của Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu đã thực hiện và hoàn tất chương trình cứu độ nhưng Chúa Thánh Thần mới là Đấng ban phát công nghiệp ấy cho chúng ta qua bí tích.
Chúa Thánh Thần vẫn còn tiếp tục những công việc của Đức Giêsu trong Giáo hội, không những Ngài hoạt động một cách chung chung, mà Ngài còn hoạt động trong từng người, soi sáng, thúc đẩy mỗi khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta hành động.
Khi học giáo lý chúng ta học và biết nhiều về Chúa Cha cũng như về Chúa Con. Thế nhưng nếu có ai hỏi chúng ta về Chúa Thánh Thần, về những việc Ngài đã làm cũng như về vai trò của Ngài trong cuộc sống, thì rất có thể chúng ta sẽ trả lời không hơn gì những tín hữu Eâphêsô thưở trước. Thực vậy, thánh Phaolô đã hỏi họ :”Các ngươi đã nhận Chúa Thánh Thần chưa” ? Và họ đã trả lời :”Chúng tôi chưa hề hay biết có một Chúa Thánh Thần”. Phải, Thánh Thần là Thiên đã bị quên lãng trong đời sống.
Sách giáo lý đã cho biết : Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cùng một bản tính, cùng một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy. Làm sao chúng ta biết được Thiên Chúa có Ba Ngôi và Ngôi thứ Ba lại là Chúa Thánh Thần ? Sở dĩ chúng ta biết được là vì Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta.
Thực vậy, khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sống Giorđan, thì Tin mừng đã ghi nhận : Bấy giờ trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim bồ câu mà ngự xuống, rồi từ trời có tiếng phán :”Này là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng”. Hoặc trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ:”Các con hãy đi giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Rất may công đồng Vatican II đã dành cho Chúa Thánh Thần một chỗ quan trọng khiến chúng ta tìm hiểu vai trò quan trọng của Ngài trong đời sống Giáo hội và trong từng người.
Trong mạch sống Giáo hội, tác động của Chúa Thánh Thần thật vô cùng quan trọng cho Giáo hội cũng như mỗi người chúng ta. Không những cần cho những thừa tác viên của Giáo hội để chu toàn phận sự mà còn cần cho mọi người để sống đức tin và bác ái. Mọi cố gắng của Giáo hội và của mỗi người đều cần có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nếu không sẽ trở nên lố bịch và vô vọng, như Đức Thượng phụ Athenagoras, Giáo chủ Constantinople đã nói :”Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”(Phạm văn Phượng).
- Những ân ban của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần hoạt động trong chúng ta bằøng những ân ban của Ngài mà chúng ta gọi là Bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần với mục đích soi sáng, hướng dẫn và giúp ta nên thánh.Thiết tưởng chúng ta cần tìm hiểu từng ơn của Ngài.
Ơn Khôn ngoan là ơn giúp chúng ta nâng cao tâm hồn lên trên mọi sự vật mau qua trên mặt đất, để hướng về những sự không mau qua, những sự vĩnh cửu.
Ơn thông hiểu ; như một đèn pha thần thánh, chiếu tỏa sáng làn chân lý Chúa tỏ ra cho chúng ta, giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa các chân lý ấy.
Ơn lo liệu : như một địa bàn ơn thần thánh, trong những khó khăn, bối rối trong đời sống. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biết phải làm gì để vinh danh Chúa và cứu vớt linh hồn chúng ta cũng như anh em chúng ta.
Ơn sức mạnh : nghĩa là can đảm. Chúa Thánh Thần cho chúng ta sự can đảm thiêng liêng cần thiết để giữ luật Chúa và luật của Giáo hội. Tử đạo là điển hình cao nhất của ơn sức mạnh.
Ơn hiểu biết : là giúp ta phán đoán đúng đắn các tạo vật, giúp biết sử dụng kiến thức đúng đắn. Ơn hiểu biết không phải chỉ để thâu thập các sự kiện về thế gian, nhưng là đặt chúng ta trong liên quan và trật tự.
Ơn đạo đức : là tình yêu và lòng nhiệt thành của con người đối với Cha mình, là ước muốn của người con mong làm đẹp ý Cha mình. Như một ân huệ của Chúa Thánh Thần, ơn đạo đức giúp ta tôn kính và yêu mến Chúa là Cha chúng ta. Nó giúp ta thi hành những gì đẹp lòng Chúa, yêu giúp đỡ anh em, yêu cầu nguyện và yêu Lời Chúa.
Ơn kính sợ Chúa : là ơn giúp ta sợ làm mất lòng Chúa. Không phải sợ hãi như nô lệ sợ chủ, nhưng sợ làm phiền lòng Đấng yêu thương chúng ta. Đấng chúng ta yêu mến. Như Kinh Thánh nói :”Kính sợ Chúa là khởi đầu sự khôn ngoan” (Arthur Tonne).
Đây là mầu nhiệm của lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống : Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh chết và đã sống lại. Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên “sự biểu lộ và phương thế” của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. TĐ Deus caritas est, số 33). Được qui tụ lại với Mẹ Maria lúc Giáo hội mới được khai sinh, giờ đây Giáo hội cầu nguyện như sau :”Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến ! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồân các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa”. Amen.
.
SUY NIỆM LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Lm Giuse Đinh tất Quý
Các bản văn Phụng Vụ hôm nay ít nhiều đều nói về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng trong chương trình sáng tạo, cứu độ và thánh hoá loài người của Thiên Chúa. Hoạt động của Chúa Thánh Thần rất phong phú và đa dạng. Nhân lễ Chúa Thánh Thần hôm nay chúng ta sẽ nói về một số những hoạt động của Người.
A..Trước hết là hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử ơn Cứu độ.
Câu đầu tiên của sách Thánh ghi như thế này: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Ðất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước”.
Như vậy ngay từ giây phút đầu tiên khi trời đất muôn vật vừa được tạo thành thì Thần Khí TC đã có mặt để thực hiện việc sáng tạo nên muôn loài muôn vật và cả con ngưởi.
Rồi trong Tân ước, cũng chính Thần Khí đó luôn có mặt từ lúc Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người cho đến ngày Giáo Hội được sinh ra.
Thánh Luca ghi lại những giây phút đầu tiên thật cảm động :”Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.“
CTT hoạt động trong Giáo hội sơ khởi và thực hiện bao nhiêu việc lạ lùng qua các tông đồ như lời của Chúa Giêsu :”Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”
Và CTT luôn hiện diện, hoạt động trong Hội thánh và trong mỗi người chúng ta cho đến ngày tận cùng thế giới. (Theo “Con đường hạnh phúc”).
- Bây giờ chúng ta hãy dừng lại trước biến cố mà sách TĐCV đã tường thuật lại một cách đặc biệt hôm nay. Chúa Thánh Thần đã đổi mớicác tông đố của Chúa.
- Đầu tiên là đổi mới trí khôn.
Chúng ta biết các Tông đồ xưa là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều nhưng các ngài không hiểu. Vậy mà sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa.
Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
- Thứ đến là đổi mới ý chí.
Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin mừng cho mọi người. Bị đe dọa, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô phục sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa.
Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
- Sau cùng là đổi mới trái tim.
Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao, mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa, tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài không còn tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp, ngồi bên tả hay bên hữu. Nhưng các ngài biết sống nhường nhịn yêu thương. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa.
Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những trái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành những trái tim yêu thương.
Chính vì thế mà khi bàn về vai trò của Chúa Thánh Thần đối với Giáo Hội, Thượng phụ Athénagoras không ngần ngại mà quả quyết: “Không có Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ ở xa, Đức Kitô bị khép lại ở trong quá khứ, Tin Mừng sẽ chỉ là những dòng chữ chết. Hội Thánh sẽ chỉ là một tổ chức bình thường, quyền bính sẽ trở thành một thứ áp bức, và công việc truyền giáo sẽ trở thành một việc uyên truyền không hơn không kém. Rồi việc tế tự, một trong những sinh hoạt quan trọng nhất trong đạo của chúng ta sẽ chỉ còn là một thứ tưởng niệm và hoạt động Kitô giáo sẽ chỉ là một thứ đạo đức nô lệ.”
Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta.
Đổi mới Trí khôn u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa thành trí khôn biết bén nhạy với Lời Chúa, nhất là với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần
Đổi mới Ý chí bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa thành ý chí biết phục thiện và can đảm làm chứng cho chân lý.
Đổi mới Trái tim nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục thành trái tim quảng đại, biết tha thứ và yêu thương.
Xin được kết thúc bắng một chứng từ rất cảm động đã xảy ra tại một giáo xứ nọ.
Trong giáo xứ tôi có cụ già tên là Thomas ngoài trăm tuổi. Cụ thường sống cô đơn vì các bạn cùng tuổi với cụ đã ra đi. Một hôm cụ lâm bệnh và qua đời. Tôi tự nhủ:
– Chắc không có ai đến dự đám tang của cụ. Vì thế tôi nhất định đến tiễn cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Hôm ấy lại là ngày xấu trời, mưa tầm tả. Theo sau xe tang không có một bóng người, đường xá vắng tanh. Khi xe chạy tới cổng nghĩa trang, tôi thấy có một người đàn ông trong y phục quân đội đứng đợi. Ông đi theo xe tang đến huyệt và có mặt trong suốt thời gian an táng. Trước khi hạ huyệt ông đưa tay ngang trán, nghiêm chỉnh chào cụ Thomas như một vị vua.
Chôn cất xong, tôi đi theo ông ra cổng nghĩa trang. Một cơn gió mạnh bay tốc áo mưa, để hộ ra mấy cái huy chương trên áo ông. Thì ra ông không chỉ là một binh lính thường mà còn là một sĩ quan cao cấp. Như đọc được sự tò mò của tôi, ông nói:
– Có lẽ ông ngạc nhiên vì sự có mặt của tôi hôm nay trước linh cửu của cụ Thomas. Trước đây cụ là thầy dạy của tôi. Lúc đó tôi là một đứa trẻ tinh nghịch làm khổ cụ rất nhiều. Tôi được như ngày hôm nay là nhờ ơn của cụ. Vì thế hôm nay tôi đến tạ ơn và chào vĩnh biệt cụ, với tất cả tấm lòng trìu mến tri ân của tôi đối với cụ
* *
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của hạt giống được gieo vào mảnh đất là tâm hồn người đàn ông nầy.
Ai đã làm cho lời giáo hóa và gương sáng của cụ Thomas sinh hoa trái? Đâu là sức mạnh đổi mới tâm hồn đứa trẻ tinh nghịch nên một con người có thế giá?
Đó chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã âm thầm tác động làm cho những lời dạy và tấm lòng tốt của cụ Thomas đem đến những kết quả lạ lùng như thế.
.
THỐNG HỐI ĐỂ NHẬN ƠN CHÚA THÁNH THẦN
Lm Trần Bình Trọng
Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu phán với các môn đệ: Thày ra đi, thì có ích lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thày không đi, thì Ðấng Phù Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thày đi, Thày sẽ sai Ðấng ấy đến với anh em (Ga 16:7). Người ta có thể tưởng tượng ra tâm trạng của các tông đồ sau khi Chúa về trời. Các ông chắc đã phải cảm thấy cô đơn và lo sợ. Vì thế họ tụ họp nhau lại trong phòng đóng cửa kín mít, vì sợ người Do thái truy nã và tố cáo. Và Mẹ Maria ở giữa họ và cầu nguyện với họ để xin Chúa Thánh thần hiện xuống.
Ðọc Thánh kinh, ta thấy có sự khác biệt nơi các tông đồ trước và sau ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Trước lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, người ta thấy tình trạng: một môn đệ bán Thày, môn đệ khác chối Thày, số còn lại bỏ chạy trốn. Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, các tông đồ đổi mới hẳn. Các ông trở nên hăng say rao giảng tin mừng cứu độ, làm chứng cho viêc Chúa sống lại, mà không còn sợ hãi. Ta tự hỏi động lực nào đã khiến có sự thay đổi đó? Sách Tông đồ Công vụ ghi lại: Ai nấy đều được tràn đày ơn Thánh thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ, tuỳ theo khả năng Thánh thần ban cho (Cv 2:4). Không những Chúa Thánh Thần biến đổi đời sống các tông đồ mà còn biến đổi đời sống của những người nghe lời giảng dạy của họ.
Nếu có ai hỏi Chúa Thánh Thần là ai? Ða số sẽ được nghe trả lời là Ngôi Ba Thiên Chúa với hình chim bồ câu hoặc lưỡi lửa. Người công giáo thường sao lãng việc tôn sùng Chúa Thánh Thần. Ta có khuynh hướng lãng quên Ngôi Ba Thiên Chúa vì ta không ý thức được về quyền năng và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Các tông đồ đã nhận lấy ơn Chúa Thánh Thần khi Chúa Giêsu hiện ra với các ông sau khi Người sống lại từ cõi chết. Còn trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống các ông nhận lấy ơn Chúa Thánh Thần cách đặc biệt hơn. Cũng một cách thế tương tự như vậy, người tín hữu nhận lấy ơn Chúa Thánh Thần trong khi chịu Phép Rửa tội, nhưng trong ngày lễ Thêm sức, người tín hữu nhận lấy ơn Chúa Thánh Thần cách đặc biệt hơn và sung mãn hơn. Sau khi chịu phép Thêm sức, nếu ta không biết khơi động hoạt động của Chúa Thánh Thần, ta sẽ không có kinh nghiệm về quyền năng của Người.
Có nhiều cách thế làm cho ơn Chúa Thánh Thần tác động trong đời sống. Ðây là một cách để khơi động hoạt động của Chúa Thánh thần trong đời sống: đó là tâm tình ăn năn sám hối. Tâm tình ăn năn sám hối là điều kiện tiên quyết để mở lối cho ơn Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn. Quan sát sơ qua, người ta cũng thấy trong li cà phê sữa hay li nước trái cây sinh tố, chất bổ béo thường đọng lại dưới đáy li. Ðể có thể uống được chất bổ béo, người ta phải khuấy lên. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần được tiềm ẩn trong đáy lòng người tín hữu. Ðể làm tăng triển hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống, ta phải tìm cách khơi động hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, dân chúng hỏi các tông đồ: Chúng tôi phải làm gì? (Cv 2:37). Ông Phêrô trả lời: Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần (Cv 2:38). Sau đây là một ví dụ về việc khơi động và làm tăng triển hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống. Có những người đến bàn chuyện thiêng liêng với linh mục. Lúc đầu họ không coi những việc họ đã làm trong quá khứ là tội lỗi. Khi họ nhận ra đó là tội, họ ăn năn khóc lóc thảm thiết với những giọt lệ sám hối. Sau khi nhận được ơn ăn năn hối cải, không ai bảo họ phải đi lễ thờ phượng, không ai phải thúc đẩy họ đọc kinh cầu nguyện, không ai bảo họ phải đọc Thánh kinh, không ai bảo họ phải làm việc từ thiện bác ái. Họ tự ý làm những việc ấy. Ước muốn của họ bây giờ là muốn sống đời sống mới trong Thánh Thần, với lòng khát khao cho nhu cầu thiêng liêng được toại nguyện. Bậc thang giá trị của họ trước kia là: giá trị vật chất, thứ đến là giá trị tinh thần rồi đến giá trị thiêng liêng. Bây giờ họ đổi ngược lại bậc thang giá trị. Họ đặt giá trị thiêng liêng lên hàng đầu, rồi đến giá trị tinh thần, và sau là giá trị vật chất.
Kinh Ðức Chúa Thánh Thần:
Chúng con lạy ơn Ðức Chúa Thánh Thần,
thiêng liêng sáng láng vô cùng,
chúng con xin Ðức Chúa Thánh Thần xuống
đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Ðức Chúa Trời
và đốt lửa kính mến Ðức Chúa Trời trong lòng chúng con,
Chúng con xin Ðúc Chúa Trời cho Ðức Chúa Thánh Thần xuống:
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Ðức Chúa Trời
xưa đã cho Ðức Chúa Thánh Thần xuống,
soi lòng dạy dỗ các thánh Tông đồ
thì rầy chúng con cũng xin Ðức Chúa Trời
cho Ðức Chúa Thánh Thần lại xuống
an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành
vì công nghiệp vô cùng Ðức Chúa Giêsu Kitô
là Chúa chúng con. Amen.
.
SỐNG HIỆP THÔNG VỚI CHÚA THÁNH THẦN
Lm Jos Nguyễn Minh Chánh
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Nguồn Trợ Lực. Đời sống của chúng ta không thể thiếu bóng dáng Ngài. Vì thế, nhìn vào đời sống Đức Giêsu trong mối tương quan với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu sẽ giúp ta hiểu rõ sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta.
Đức Giêsu Kitô là Đấng tràn đầy Chúa Thánh Thần từ lúc ban đầu đến sau khi phục sinh và mãi mãi.
Thực vậy ngay từ lúc Đức Giêsu thụ thai trong cung lòng Mẹ Maria, chúng ta đã khám phá rất rõ về mối hiệp thông giữa Ngôi Lời nhập thể và Chúa Thánh Thần. Biến cố truyền tin đã dạy chúng ta rằng: Đức Maria cưu mang Đức Giêsu trong lòng là do Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã đến và bao phủ quyền năng của Ngài nơi bào thai của Đức Maria, nơi sự sống của Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu sẽ hình thành trong cung lòng của một con người.
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu khi Ngài chuẩn bị thi hành sứ mạng Messia. Vì sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan trước khi rao giảng Tin mừng, khi ” vừa lên khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người” (Mt 3, 16)
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong những giờ phút sống thân tình với Chúa Cha. Chúa Thánh Thần đã tác động nơi Đức Giêsu để Đức Giêsu được hưởng những thời gian chìm đắm trong lời cầu nguyện với Chúa Cha. Tin mừng thánh Mátthêu thuật lại khi Đức Giêsu vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện ròng rã bốn mươi đêm ngày, thì đó cũng là do tác đông của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã dẫn Đức Giêsu vào tình yêu sâu thẳm với Chúa Cha trong thời gian này (x.Mt 4,12).
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong khi rao giảng tin mừng yêu thương và phục vụ cho mọi ngườ. Phúc âm thánh Luca thuật lai khi bắt đầu rao giảng thì Chúa Giêsu “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy” (Lc 4,14). Sự tác động của Chúa Thánh Thần nơi Đức Giêsu như là sức mạnh, nhờ đó Đức Giêsu có thể hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài.
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời Ngài. Khi Đức Giêsu hấp hối trong vườn cây dầu, mọi sự đối với Đức Giêsu trong lúc này hình như bị bế tắc, bị thất bại, bị tuyệt vọng. Một lần nữa, Chúa Thánh Thần là “Ngón Tay Thiên Chúa” là Sức Mạnh đã đến với Đức Giêsu, đã nâng đỡ bổ sức cho Đức Giêsu trong lúc Đức Giêsu đang bị cô đơn vì sự bỏ rơi của nhiều người, đang phải sắp hứng chịu với cái đau đớn của roi đòn trên thân xác. Thậy vậy, nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần nâng đỡ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng được cám dỗ từ bỏ chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài đã can đảm từ bỏ ý riêng để xin vâng theo ý Chúa Cha. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha khi đau khổ và còn xin vâng cho đến khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.
Vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống và sứ vụ của Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Đức Giêsu trên mọi nẻo đường rao giảng Tin mừng. Ngài luôn tác động nơi Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh, nhờ vậy mà chương trình của Đức Giêsu luôn được hoàn thành tốt đẹp.
Từ kinh nghiệm sống hiệp thông với Chúa Thánh Thần, nên Đức Giêsu xem việc trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ phải là cần thiết. Vì việc ban Chúa Thánh Thần chính là điều kiện để các Tông đồ có khả năng hành động trong khi rao giảng tin mừng như Đức Giêsu. Vì vậy trước khi rời khỏi thế gian để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã từng hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ. Rồi sau khi sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra cũng trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, như trong trang Tin mừng hôm nay chúng ta vừa nghe. Đặc biêt sau khi Chúa Giêsu về trời, trong ngày lễ Ngũ tuần thì Chúa Thánh Thần đã được trao ban trên các Tông đồ trong bầu khí thật uy phong trong khi các Ngài đang cầu nguyện. Hình ảnh này chúng ta đã vừa cảm nhận trong bài đọc một hôm nay.
Khi khám phá mối hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần, cũng như hình ảnh Chúa Thánh Thần đã được ban cho các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần thì đó cũng là bài học Chúa dạy chúng ta: Nếu cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì cuộc sống đó sức sống tự nhiên và siêu nhiên sẽ không tăng trưởng, sẽ chết dần trong năm tháng, vì Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Và nếu cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì đời sống ấy sẽ không biết yêu thương, vì Chúa Thánh Thần là Tình Yêu để nối kết con người với Thiên Chúa, và nối kết giữa con người với nhau. Hay khi cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì đời sống ấy sẽ lạc lối, sẽ đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa, vì Chúa Thánh Thần là sức mạnh để giúp con người can đảm từ bỏ ý riêng để khiêm tốn luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nói chung nếu cuộc sống con người không có Chúa Thánh Thần thì cuộc sống ấy sẽ không giống Đức Giêsu.
Từ những cảm nghiệm trên, chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria và các Tông đồ trong bài đọc một hôm nay. Hãy thường xuyên ở lại chung với nhau để cầu nguyện với Đức Giêsu Kitô, là Đấng sinh bởi Thánh Thần, là Đấng đầy tràn Thánh Thần. Xin Chúa Giêsu Kitô ban Chúa Thánh Thần là Hồng Ân của Ngài cho chúng ta, nhờ đó trong mọi hành động chúng ta sẽ trở nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, xin ban đầy tràn Chúa Thánh Thần xuống tâm hồn chúng con. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Thánh Thần Mạnh Mẽ Luôn Nâng Đỡ
Nhân Thế Yếu Hèn Được Độ Trì
Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13). Thần Khí sự thật là ai? Đó chính là Chúa Thánh Thần – Thiên Chúa Ngôi Ba.
Chúng ta tôn xưng Ngôi Ba Thiên Chúa với nhiều Thánh Danh: Thánh Linh, Thần Khí, Đấng Sáng Tạo, Đấng Canh Tân, Đấng Bảo Trợ, Đấng An Ủi, Thần Chân Lý, Thần Hòa Bình, Thần Công Lý,… và là Đấng tác động những điều đề cập trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Quả thật, Chúa Thánh Thần rất quan trọng đối với các tín nhân. Thánh Gioan Maria Vianney nói: “Trước khi chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần, chúng ta giống như người mang gánh nặng của tuổi tác và tật nguyền, nhưng khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trong chúng ta rồi, chúng ta liền được biến đổi trở nên trẻ trung, xinh đẹp và tràn đầy nghị lực. Người yêu mến Chúa Thánh Thần sẽ cảm nghiệm mọi thứ vui sướng trong mình. Thánh Thần dẫn chúng ta giống như một người mẹ dẫn dắt đứa con nhỏ, hoặc giống như một người sáng dẫn một người mù. Những người yêu mến Chúa Thánh Thần sẽ thấy việc cầu nguyện đầy hoan lạc đến nỗi họ không thấy có đủ giờ để cầu nguyện”. Thánh Augustinô dùng cách so sánh: “Linh hồn có vai trò đối với thân xác con người thế nào thì Thánh Thần cũng có vai trò như vậy đối với Giáo Hội – Nhiệm Thể Chúa Kitô”.
Chúa Thánh Thần tác động rạch ròi và nghiêm túc, Thánh Maria Faustina Kowalska cho biết: “Chúa Thánh Thần không nói với linh hồn nào chia trí và lắm lời. Chúa Thánh Thần nói qua những soi động lặng lẽ của người với linh hồn tịnh tâm, linh hồn biết giữ thinh lặng”. Chúng ta rất cần Ngài, thế nên phải cố gắng theo ý Ngài.
Trong cuộc sống, ai cũng cần có người bảo vệ, che chở, nâng đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo,… Ngày nay, muốn bảo đảm phần nào cho cuộc sống, người ta mua nhiều loại bảo hiểm: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm giao thông, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tài chính,… Cuộc sống đời thường còn lo như vậy huống chi cuộc sống tâm linh. Nghĩa là cuộc sống tâm linh của chúng ta còn cần hơn, và rất cần được bảo hiểm đặc biệt. Đó là “mua” bảo hiểm linh hồn qua Đấng Bảo Trợ – tức là nhờ Thần Khí Thiên Chúa.
Nhưng đối với đời thường, các loại bảo hiểm chỉ là cách bảo hiểm thế gian, là dạng “khoán”, theo kiểu “khoán trắng”, còn bảo hiểm tâm linh không thể “khoán” theo kiểu như vậy, mà luôn phải cố gắng.
Theo Kinh Thánh, sách ngôn sứ Isaia cho biết rằng Thần Khí Thiên Chúa là “thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (Is 11:2). Và có điều thú vị này: “Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở” (Is 11:3-4a). Xã hội luôn cần công lý như vậy, nhất là đối với xã hội Việt Nam ngày nay.
Qua lời ngôn sứ Isaia, có 6 ơn Chúa Thánh Thần được liệt kê. Nhưng người Công giáo vẫn thường nghe nói có 7 ơn Chúa Thánh Thần. Thế là thế nào? Chúng ta biết rằng số 7 là con số hoàn hảo theo Kinh Thánh, Giáo Hội thêm một ơn nữa để cho đủ con số 7, bản dịch Hy Lạp cũng như bản dịch Latin đều thêm một Thần Khí nữa là Thần Khí hiếu nghĩa (đạo đức). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không chỉ tác động “hạn chế” trong 6 hoặc 7 ơn đó. Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa, thế nên Ngài tác động và hiện thân trong mọi điều tốt lành – vì Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, chỉ có điều thiện mà thôi.
Chúa Giêsu về trời nhưng chúng ta không cô đơn hoặc bất lợi, mà chúng ta còn được hưởng lợi ích nhiều hơn nữa, bởi vì Chúa Thánh Thần đến tiếp tục hành động để an ủi, giúp đỡ và canh tân thế gian. Sách Công vụ cho biết: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2:1-3). Gió và Lửa, đó chính là Chúa Thánh Thần. Sau khi được tràn đầy ơn Thánh Thần, mọi người bắt đầu nói các thứ tiếng lạ, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Hoạt động của Chúa Thánh Thần vô cùng kỳ diệu, mầu nhiệm!
Không thể tả hết tác động của Chúa Thánh Thần. Một trong các ơn mà ai cũng cần có là Ơn Thông Minh. Nhờ trí thông minh mà có tài khéo léo, linh động, nhờ đó có thể xoay xở những lúc gặp khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo (sáng tác văn, thơ, nhạc, họa, điêu khắc, thiết kế,…). Họ rất cần Đấng Sáng Tạo soi sáng và hướng dẫn chi tiết để có những ý tưởng mới lạ và độc đáo, sinh lợi cho nhân loại.
Sau khi các tông đồ nhận lãnh Chúa Thánh Thần, tại Giêrusalem có những người Do-thái sùng đạo kéo đến vì thấy “sự lạ”. Họ rất kinh ngạc vì ai cũng nghe thấy các tông đồ nói chính ngôn ngữ bản xứ của họ. Thế nên họ sửng sốt và thán phục lắm. Đúng là trên cả tuyệt vời. Mỗi người nói tiếng bản xứ của mình, thế nhưng ai nghe cũng hiểu. Rồi họ vui mừng bảo nhau: “Vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11). Tuy nhiên, cũng có những người không hiểu ất giáp gì nên buông lời chế nhạo: “Mấy ông này xỉn quá rồi!” (Cv 2:13). Chín người, mười ý, chẳng ai có thể làm vừa lòng hết mọi người. Đúng là kẻ dốt thì lại thích khoe mẽ, chảnh chọe!
Như Chúa Giêsu đã nói, Ngài về trời nhưng không bỏ chúng ta mồ côi, vì Ngài lại trao ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, và đó chính là thời đại của Chúa Thánh Thần. Ngôi Ba Thiên Chúa không ngừng hoạt động trong mọi người từ khi được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy và Ngài bảo trợ chúng ta suốt đời này. Mặc dù chúng ta thường lãng quên Ngài, nhưng Ngài lại không bao giờ quên chúng ta và vẫn tác động trong chúng ta suốt đêm ngày. Vì thế, chúng ta cần noi gương Thánh Vịnh gia mà tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!” (Tv 104:1a). Và không quên thân thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Cầu xin Ngài bỏ qua cho chúng ta!
Chắc chắn ai cũng biết rằng nếu không có Chúa, chúng ta chỉ có nước “bó tay” và cuộc sống mau chóng bị “trục trặc” liền. Có một thứ đơn giản nhất nhưng lại quan trọng nhất – đó là KHÔNG KHÍ. Một ơn tuyệt vời như vậy mà hầu như chúng ta không hề biết tạ ơn. Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã minh định: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30). Sinh khí là sinh lực, là sự sống, tức là Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong mỗi chúng ta liên tục, suốt ngày suốt đêm. Chỉ ngộp thở một thoáng thôi, con người phải được cấp cứu và phải được hỗ trợ thở bằng bình khí ôxy ngay lập tức.
Bởi vậy, hãy nhận biết mà tạ ơn Chúa và xưng tụng Ngài: “Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 104:31). Đồng thời cũng hãy tự nhủ như lời thề hứa: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34). Đối với nhân loại, như thế là người “biết điều”. Và chắc chắn Thiên Chúa cũng chẳng quên đâu!
Với cách nói rõ ràng, Thánh Phaolô chỉ ra những gì thuận hoặc nghịch với Chúa Thánh Thần: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa. Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8:8-9). Cách phân định rất rạch ròi, rất chính xác. Rồi Thánh Phaolô lại đưa ra phản đề: “Nhưng nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em ĐƯỢC SỐNG, vì anh em đã ĐƯỢC TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH” (Rm 8:10). Ôi, thật là tuyệt vời biết bao! Bởi vì mặc dù thân xác chúng ta có phải chết vì trót lỡ phạm tội thì Chúa Thánh Thần lại làm cho sống. Ơn Tái Sinh ấy vô cùng cao cả, thật đáng để chúng ta tạ ơn!
Và rồi Thánh Phaolô còn cho biết thêm: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8:11). Những “cái nếu” như thế thật là diễm phúc cho chúng ta – những tội nhân yếu hèn.
Trước mặt Thiên Chúa, bất cứ ai cũng là “con nợ” của Ngài, đặc biệt là đối với Chúa Thánh Thần. Thế nhưng món nợ đó không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để rồi sống theo tính xác thịt: “Nếu sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8:13). Lại một “cái nếu” rất thú vị nữa.
Các tín nhân được trở nên con cái của Thiên Chúa là nhờ Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn. Đó là “món nợ lớn” của mỗi chúng ta. Cũng chính nhờ Thần Khí mà chúng ta được trở nên nghĩa tử, nhờ đó mà chúng ta được vinh dự kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:15). Là phàm nhân cát bụi, là thụ tạo, thế mà lại được phép gọi Thiên Chúa là Cha. Quá kỳ diệu! Không chỉ vậy, Chúa Thánh Thần còn “chứng thực cho thần trí chúng ta rằng CHÚNG TA LÀ CON CÁI THIÊN CHÚA, được thừa tự và đồng thừa kế với Đức Kitô” (Rm 8:16-17a). Chúng ta không dám mơ vì bất xứng, nhưng Thiên Chúa lại ban cho quyền đó. Tại sao vậy? Thánh Phaolô đưa ra lý do chính đáng: “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8:17b). Nghe chừng đơn giản, nhưng đó cũng chính là điều-kiện-ắt-có-và-đủ để chúng ta có thể dám nhận mình là Kitô hữu, đặc biệt là tín nhân Công giáo Rôma.
Trước khi Chúa Giêsu về trời, nơi Ngài đã xuất phát, Ngài đã căn dặn các đệ tử: “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì thì chính Thầy sẽ làm điều đó. Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:14-16). Cùng với Thánh Thể, đó cũng là một bảo chứng cho lời Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Cũng đừng quên rằng khi muốn gặp Đức Kitô thì hãy đọc Kinh Thánh – Lời Chúa, Ngài sẽ trò chuyện với chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần.
Thánh Thể và Lời Chúa không thể tách rời. Đức Giêsu đã xác quyết: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14:23-24). Ngài đưa ra một hệ lụy với mức nối kết chặt chẽ quá. Chúng ta nghe nhiều, biết nhiều, và kinh nghiệm cũng nhiều về “chữ” YÊU, điều mà Chúa Giêsu nhắc nhở rất nhiều lần, nhưng có lẽ hầu như chúng ta nghe và biết mà lại cảm thấy bình thường. Thực sự mấy ai sống đúng nghĩa chữ YÊU của Chúa Giêsu? Liệu có phải là chúng ta đang KHÔNG CẦN sự tác động của Chúa Thánh Thần? Hay là Chúa Thánh Thần ĐÃ tác động mà chúng ta KHÔNG MUỐN vâng lời? Dù là ai và ở cương vị nào thì đó cũng là điều đáng quan ngại lắm, bởi vì con người rất dễ ảo tưởng và mạo nhận!
Quả thật, Chúa Giêsu đã xác định: “Các điều đó, Thầy ĐÃ nói với anh em, đang khi còn ở với anh em” (Ga 14:25a). Thầy Giêsu nói nhiều lắm rồi, nói mãi mà chúng ta vẫn chưa thấy “ngứa” tai. Ngài đã biết, biết lắm, biết rõ, Ngài cũng rất thấu hiểu và rất cảm thông, thế nên Ngài lại phải tiếp tục hứa: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ DẠY anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em NHỚ LẠI mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:25b-26). Ôi, Chúa Thánh Thần thật tuyệt vời, vì Ngài nhắc chúng ta nhớ những gì Chúa Giêsu đã giáo huấn.
Thế thì thật may mắn và thật hạnh phúc cho phàm nhân khốn nạn chúng ta. Vấn đề còn lại là chúng ta có CAN ĐẢM vâng lời mà làm theo Ý Ngài hay không, tức là chúng ta có chấp nhận cách tác động của Chúa Thánh Thần hay không. Rất đơn giản nhưng cũng rất phức tạp – thậm chí là nhiêu khê. Điều cần lưu ý là đừng bao giờ làm theo ý mình hoặc có ý vinh danh mình, mà hãy noi gương Đức Mẹ “xin vâng” và nhất quyết vinh danh một mình Thiên Chúa mà thôi. Phục vụ là điều cần thiết, và cũng là điều Chúa Giêsu đã dạy, đã làm gương, và đó cũng là mệnh lệnh – nghĩa là không thể muốn được phục vụ hoặc không muốn phục vụ người khác.
Trong âm nhạc chỉ có 7 nốt nhưng chúng có thể kết hợp để biến hóa thiên hình vạn trạng, đủ dạng và đủ loại, tạo cảm hứng không bao giờ cạn kiệt hoặc tận cùng. Đối với âm thể, nốt cảm âm là nốt quan trọng so với các nốt khác. Trong 7 ơn Chúa Thánh Thần, ví như 7 nốt trong giai điệu cuộc đời của chúng ta, tất nhiên ơn nào cũng quan trọng trong việc kết hiệp với Chúa Thánh Thần, nhưng có thể có một ơn nào đó quan trọng hơn tùy mỗi người – cung cao hay thấp hoặc dài hay ngắn cũng được, nhưng cung đời của chúng ta phải hòa âm với cung của Chúa Thánh Thần để vào giai kết trọn tuyệt vời nhất. Thánh Basilliô cho biết: “Nhờ hiệp thông với Thánh Thần, chúng ta trở nên người của Thánh Thần, được trở lại Địa Đàng, được dẫn vào Nước Trời và tình nghĩa tử, được ban cho lòng tin tưởng để gọi Thiên Chúa là Cha, để thông phần vào ân sủng của Đức Kitô, để được gọi là con cái sự sáng và dự phần vào vinh quang đời đời”.
Lạy Chúa Thánh Thần – Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng con chân thành xin lỗi Ngài vì chúng con hay lãng quên Ngài, nhưng Ngài vẫn không ngừng tác động nơi chúng con. Xin Ngài thương tha thứ cho chúng con về thói xấu “sống chảnh”, hợm hĩnh và ích kỷ. Cúi xin Ngài luôn ngự trị trong linh hồn chúng con, biến chúng con thành khí cụ canh tân thế gian theo Thánh Ý Chúa Cha. Xin Thần Khí Chúa canh tân Nước Việt và thế giới. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
THÁNH THẦN HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG
Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Đúng năm mươi ngày sau Lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, Đấng đã đến để đốt lên lửa mến yêu và truyền ban lòng can đảm loan báo Tin Mừng cho các môn đệ.
Không hiểu sao tuy đã được chứng kiến tận mắt Chúa Phục Sinh, được đàm đạo và ăn uống với Ngài, được nghe tận tai lời sai bảo làm nhân chứng cho Nước trời, ấy thế mà các người theo Chúa vẫn lo sợ. Chỉ biết cửa đóng then cài. Mãi cho đến một hôm, đang lúc họ hội nhau đông đủ trên phòng kín, thì bỗng từ trời có cơn gió mạnh. Tiếng rào rào như thể cuồng phong. Và lập tức, một quang cảnh kỳ lạ diễn ra: những lưỡi lửa xuất hiện, đậu trên từng người. Kết quả là ai nấy đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Hiện tượng gió thổi trong ngày lễ Hiện xuống nhắc lại sự việc “khí thần bay là trên mặt nước” trong sách Sáng Thế Ký; bên cạnh đó, hình ảnh các tông đồ đầy tràn thần khí cũng gợi lên hình ảnh con người đầu tiên được thổi vào mình đầy hơi sự sống. Như thế, biến cố Hiện xuống đã trở nên một cuộc tạo thành mới, với Thánh Thần Thiên Chúa được thổi vào thế giới để khai sinh một nhiệm thể sống động là Giáo hội của Đức Kitô.
Bằng việc loan báo Tin Mừng, khởi đi từ các thánh tông đồ, một thời đại mới đã khởi đầu. Đó là thời đại mà Giáo hội được hướng dẫn và thánh hoá dưới tác động của Ngôi Ba Thiên Chúa.
Đặc sủng loan báo Tin Mừng được Chúa Thánh Thần ban xuống qua hình lưỡi lửa đậu trên đầu các tông đồ. Hình lửa này tượng trưng cho sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa, như xưa kia Moisen đã tiếp cận sự hiện diện thần linh qua ngọn lửa cháy nơi bụi gai (Xh 3).
Ngay sau khi tiếp nhận ơn Chúa Thánh Thần, như lời tường thuật của Luca trong sách Tông Đồ Công Vụ, các môn đệ đã thay đổi thái độ sống. Họ mở tung cánh cửa của rụt rè nhát đảm. Họ mạnh bạo cất tiếng nói. Tiếng nói đã phát ra từ miệng lưỡi của những con người đánh cá quê mùa, thất học. Nhưng tiếng nói ấy đã được dân chúng từ 13 vùng đất–đại diện cho các dân tộc từ bắc chí nam, từ đông sang tây–nghe và hiểu. Tất cả đều là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Ngày xưa, khi lòng dạ con người kiêu căng ngạo mạn với trời, đ¨°i xây tháp Baben để lên đương đầu với Thiên Chúa, tiếng nói của họ, tuy là anh em một nhà, đã trở nên bất đồng. Mầm mống rối loạn, mơ hồ, kình địch, và phân ly đã nảy sinh. Người ta không còn hiểu nhau. Kết quả là phân tán. Ngày nay, Thần Khí đã xuống để qui tụ con cái từ muôn nước về cùng một mối, giúp họ hiểu nhau trong cùng một thứ ngôn ngữ là tình yêu và vinh quang của Thiên Chúa.
Theo niềm tin Kitô giáo, Thánh Thần là sức mạnh của yêu thương mà qua đó Chúa Cha đã trao ban trọn vẹn chính mình cho Chúa Con. Chúa Con đón nhận trọn vẹn sự sống từ nơi Cha, và rồi trong tình yêu của Thánh Thần, Ngài đã dâng lại trọn vẹn cho Cha. Như thế, Chúa Thánh Thần chính là Tình Yêu Hiệp Thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài cũng chính là nguồn ơn thông hiệp mọi tâm hồn trong cùng một niềm tin vào Đức Giêsu.
Như lời Thánh Phaolô khẳng định: “Trong Thần Khí độc nhất, hết thảy chúng ta nhờ thanh tẩy mà được nhập vào Thân Mình độc nhất…, và hết thảy đều đã được cùng uống một Thần Khí độc nhất” (1 Cor 12:13). Như thế, những hành vi, thái độ hay lời nói gây nên phân rẽ, rối loạn trong lòng Giáo hội đều tương phản với đường lối của Thánh Thần.
Thần Khí độc nhất liên kết mọi thành phần Kitô hữu chính là Thần khí thương yêu. Vì chỉ có yêu thương mới có nên một. Có yêu thương mới có the đạt đến việc cùng nhau thông hiệp trọn vẹn trong Thiên Chúa. Thánh Gioan đã nhấn mạnh: “Nếu ta yêu mến nhau, thì Thiên Chúa mới lưu lại trong ta. Nơi điều này mà ta biết là mình lưu lại trong Người và Người ở trong ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho ta” (1 Ga 4:13-14).
Thánh Phaolô cũng cùng một niềm xác tín: “Lòng mến của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ bởi Thánh Thần Người đã ban cho ta” (Rm 5:5).
Như thế, nhờ Thánh Thần mà ta có thể cất bước trên lối đường thương yêu, đi vào sự nên một với tha nhân trong Đức Kitô. Lắm khi người ta hay than trách: “không thể nào yêu nổi con người ấy.” Có phải vì họ đã tận tâm tận lực nhưng không thành, hay vì chưa có Thần Khí Yêu Thương tác động và đỡ nâng?
Chỉ cần một luồng gió của ngày lễ Ngũ Tuần thổi qua, con người sẽ có dư can đảm mở tung cánh cửa tâm hồn để đến với anh chị em. Chỉ cần một đốm lửa của ơn Thánh Thần, bạn và tôi sẽ có đủ sức mạnh để công bố Tin Mừng Yêu Thương cho mọi người chung quanh.
Nhưng vấn đề là người ta có biết cùng nhau tề tựu để cầu nguyện như các tông đồ ngày xưa hay không. Thế nên để kiến tạo hiệp nhất và xây đắp tình yêu, con người cần phải cùng nhau ngồi xuống cầu nguyện.
.
Lm. Jos Đinh Công Phúc
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Một cách nào đó, chúng ta cũng mừng sinh nhật của Giáo hội. Bởi lẽ, chính biến cố hiện xuống đã đánh dấu chính thức sự hiện diện của Kitô giáo. Biến cố này không chỉ biến đổi các thánh tông đồ thành những nhân chứng kiên dũng của Đức tin Kitô giáo, nó cũng biến đổi thái độ và niềm tin của những ai gặp gỡ họ. Nhờ thế, cộng đồng Kitô giáo đã xuất hiện và phát triển. Chính từ biến cố này, sứ điệp của Tin mừng đã từng bước thẩm thấu và làm thay đổi nền văn minh của nhân loại. Bộ mặt của thế giới đã dần dần được biến đổi (x. Cv 2: 4- 11). Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống thiết nghĩ chúng ta nên nhìn lại đâu là nguồn sức mạnh thực sự đã và đang làm thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này? Làm sao chúng ta có thể sử dụng nguồn sức mạnh này để được thay đổi cũng như để thay đổi lối sống và hoàn cảnh của chúng ta hôm nay?
Đức thượng phụ Ignatius of Laodicea đã nói rằng: không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa thật xa lạ, Đức Giêsu chỉ đơn giản là nhân vật độc đáo của lịch sử, Tin mừng chỉ là một cuốn sách cổ, Giáo hội cũng chỉ là một tổ chức như bao tổ chức khác, quyền lực là để thống trị, truyền giáo chỉ là tuyên truyền, phụng vụ chỉ là một hoài cổ, công việc của người kitô hữu chỉ là nô lệ; nhưng với Chúa Thánh Thần, Đức Kitô đã phục sinh và đang hiện diện, Tin mừng là nguồn mạch của sự sống, Giáo hội là sự hiệp nhất trong đời sống của Chúa Ba Ngôi, quyền lực là để phục vụ và giúp con người đạt được sự tự do toàn vẹn nơi Thiên Chúa, sứ mạng truyền giáo được khơi nguồn sức sống nơi chính Chúa Thánh Thần, phụng vụ là tưởng nhớ và nếm thử đời sống sung mãn của ân sủng nơi Thiên Chúa, công việc của người kitô hữu thì được thánh hóa.
Như vậy, chính Chúa Thánh Thần đã thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này. Nếu không có Ngài, công việc của chúng ta trở nên vô ích và chỉ phục vụ cho những mục đích thấp hèn của con người. Tôi nhớ lại cách đây mấy năm, khi mà chúng tôi đang cắp sách tới trường thần học. Khi đề cập đến Chúa Thánh Thần và đời sống của Giáo hội. Thật bất ngờ khi mà một cha bạn của tôi xin đặt một câu hỏi cho cha giáo sư: thưa cha, thế Chúa Thánh Thần đã ở đâu và đang ở đâu, khi mà có biết bao công việc đã đi ngược lại với những đòi hỏi của Tin mừng. Một câu hỏi trời giáng đã làm yên lặng cả lớp học. Mọi người cứ ngỡ rằng Cha sẽ bị đuổi ra khỏi lớp học. Thế nhưng, cha giáo đã trả lời: đây là một vấn đề mà tất cả chúng ta cần tìm hiểu trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Chỉ sau khoảng hai tháng chính ngài đã có một bài “đi tìm một câu trả lời cho câu hỏi: Chúa Thánh Thần ở đâu trong thời đại của chúng ta?” Có lẽ hôm nay chúng ta cũng cần một câu trả lời cho chính chúng ta.
Chúng ta không phủ nhận dù chúng ta có nhìn thấy những tia sáng của hy vọng, nhưng tối tăm, khó khăn và những thách thức của cuộc sống luôn bủa vây cuộc đời của chúng ta. Trong hoàn cảnh này, có lẽ biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống sẽ là bài học cần thiết cho chúng ta. Các tông đồ xưa cũng đã từng phải đối mặt với những khó khăn của chết chóc, hiểu lầm, hiểu khác, hiểu sai, hiểu ngược. Và rồi bách hại, chán nản, bỏ cuộc, etc. Thế nhưng, phải nói rằng họ có một niềm tin sâu sắc đủ vào lời hứa của Đức Kitô. Họ đã kiên trì cầu nguyện. Họ đã lãnh nhận chính Chúa Thánh Thần (x. Ga 20: 21- 22). Họ đã được biến đổi và họ đã làm thay đổi thế giới (x. Cv 2: 1- 11). Phải chăng chúng ta đang cần học lại kinh nghiệm này của các thánh tông đồ?
Chúng ta tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và đồng hành với Hội thánh. Ngài hướng dẫn và thánh hóa Giáo hội. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dám mạnh mẽ khẳng định rằng: không có quyền lực nào có thể phá đổ Hội thánh. Sẽ luôn luôn có những con người được tuôn đổ đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, để Giáo hội phát triển trong mọi mặt. Những chứng nhân nổi bật trong Giáo hội đã gây ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong những năm gần đây chúng ta có thể kể đến mẹ Teresa Calcuta và Đức giáo hoàng John Paul II. Có thể chúng ta chưa phát hiện ra còn nhiều những con người đang âm thầm góp sức biến đổi những tiêu cực trong xã hội của chúng ta. Rất có thể một số là chính anh em của chúng ta đây? Chúng ta có thể tin tưởng chắc chắn rằng, Giáo hội sẽ luôn đứng vững, phát triển và trao ban ơn cứu độ cho muôn dân.
Tôi nhớ một câu chuyện khá thú vị. Một ngày kia Napoleon Bonaparte, với đầy uy quyền, nói với một Đức hồng y rằng: Tôi có thể tiêu diệt Giáo hội nếu như các ngài không theo mệnh lệnh của tôi. Vị hồng y khiêm tốn trả lời: Xin chúc mừng ngài, ngài thật uy quyền! Chính chúng tôi, nhiều linh mục của Giáo hội đã cố gắng thực hiện điều đó qua nhiều thế kỷ. Thật đáng tiếc, họ đã thất bại. Giáo hội vẫn tồn tại đầy sức sống. Nhưng Napoleon Bonaparte đã thất bại, bị khổ sai, và chết trong sự nhục nhã!Chúa Thánh Thần có thể biến đổi mọi sự nên tốt đẹp, kể cả tội lỗi của chúng ta.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, tôi có vài câu hỏi muốn được đặt ra cho chúng ta. Đã bao nhiêu lễ hiện xuống tôi đã tham dự? Chúa Thánh Thần đã thực hiện những gì trong cuộc đời tôi? Làm sao để lễ Hiện xuống năm nay có những thay đổi thực sự trong cuộc đời tôi?
Chúng ta đã chìm sâu trong lời cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần từ lễ Chúa lên trời. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa không ngừng tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần trên chúng ta. Câu trả lời rất có thể không phải là Chúa Thánh Thần ở một nơi nào đó và Ngài không hoạt động. Ngài luôn hiện diện và thực thi công việc của Ngài trong thế giới này. Vấn đề là ở chính chúng ta! Liệu tôi có nghe tiếng Ngài? Tôi có tìm kiếm Ngài không? Tôi có đón tiếp Ngài không? Tôi có sẵn sàng để Ngài thực hiện công việc thánh hóa của Ngài qua tôi không? Chúa Thánh Thần sẽ không thể thực hiện điều gì, nếu như chúng ta từ chối Ngài! Câu trả lời sẽ là của mỗi người chúng ta.
Để nhận ra Chúa Thánh Thần và để Ngài hoạt động trong cuộc đời chúng ta – chắc chắn chúng ta không thể hơn các thánh tông đồ xưa – chúng ta cần cầu nguyện. Chúng ta không cần nói dài, nhưng đối thoại thường xuyên hơn với Ngài. Chúng ta cũng không cần nói nhiều, nhưng hãy mở lòng ra để đón nhận. Max Handel chia sẻ: cầu nguyện giống như chúng ta bật công tắc điện lên. Chúng ta không là nguồn điện năng. Nhưng chúng ta mở đường cho nguồn điện tuôn chảy qua và trong chúng ta. Đây có phải là cách mà chúng ta thường cầu nguyện? Nếu ngược lại, ai đang hoạt động trong chúng ta?
Có Chúa Thánh Thần, không có gì là không có thể. Nếu chỉ cậy vào tài năng của chúng ta, rất nhiều chuyện sẽ không có thể. Như vậy, nếu chúng ta nghĩ rằng chuyện gì đó không thể, thì rất tiếc rằng chúng ta đang bắt Chúa Thánh Thần phục vụ cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, như Đức Kitô đã và đang tin tưởng nơi chúng ta. Đây là kinh nghiệm của những người “liều” đã hiến dâng cuộc đời cho sứ điệp của Tin mừng. Chính họ đã làm thay đổi biết bao con người. Chính họ đã làm thay đổi bộ mặt của thế giới. Thật đơn giản, họ tin tưởng nơi Chúa. Họ biết Chúa có thể thực hiện những điều phi thường qua con người mỏng dòn của họ. Chính những con người đơn sơ, thậm chí không may mắn được cắp sách tới trường như hầu hết các môn đệ của Giêsu – mà một bài giảng có thể hoán cải từ 3 đến 5 ngàn người! Đâu là phép lạ? Đâu mới thực sự là sức mạnh? Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần hiện diện nơi mình. Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần nói qua con người và miệng lưỡi mình. Khi họ chấp nhận để cho “ngôn ngữ” của Chúa Thánh Thần được nói lên. Với “ngôn ngữ” của Chúa Thánh Thần, mọi sự có thể được biến đổi, lòng người có thể thay đổi, tội lỗi sẽ được tha. Chúng ta học được gì qua những kinh nghiệm này?
Có lẽ điều lo lắng lúc này không phải làm sao tôi có thể thay đổi chồng tôi, vợ tôi, bạn tôi, con tôi, kẻ thù tôi, người tội lỗi, etc? Làm sao tôi có thể dạy họ? Làm sao tôi có thể thuyết phục họ? Câu hỏi nào đang trong đầu ban? Không cần quan tâm bao nhiêu câu hỏi. Có một điều đơn giản hơn, chúng ta nên quan tâm – câu khẳng định của Đức Giêsu: Bình an cho anh em…Anh em hãy lấy Thánh Thần (Ga 20: 21- 22). Nếu chúng ta chấp nhân điều này – chính Thánh Thần sẽ là người thực hiện. Không ai trong chúng ta có thể làm phép lạ. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện. Đâu là sức mạnh có thể làm thay đổi? Hy vọng đây sẽ là thánh lễ Hiện xuống đặc biệt trong đời chúng ta.
.
Lm. Nguyễn Văn Nghĩa
Hằng năm cứ đến ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống tôi không thể nào không lo ra chia trí khi nghe bài đọc thứ nhất trích sách Tông Đồ Công Vụ với câu kết “họ đầy rượu rồi” (Cvtđ 2,13). Sách Bài đọc do Ủy Ban Phụng Vụ các Giờ Kinh cắt bỏ câu này. Không biết vì sợ bà con giáo dân nghe chướng tai hay thấy kết ở câu đó không hợp, nhưng Sách Bài đọc hiện dùng vẫn có câu này. Thú thật khi nghe đọc câu kết “họ đầy rượu rồi”, và tiếp “đó là Lời Chúa” thì tôi đã từng giật mình. Không biết giữa tác động của Chúa Thánh Thần và tác động của rượu có những điểm nào giống nhau mà những người lúc bấy giờ lại lầm lẫn như thế? Nào chúng ta thử xem.
Một vài điểm giống nhau giữa tác động của Chúa Thánh Thần và tác động của thần men:
Sự can đảm: khi đã có ít ly hay “y lít” vào thì dân nhậu xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn sàng làm những việc mà khi chưa có men chắc hẳn sẽ chần chừ hoặc không dám. Các Tông đồ sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần cũng can đảm phi thường. Các Ngài đã mở toang cánh cửa Nhà Tiệc Ly, lên mái nhà để rao giảng Tin Mừng. Giờ đây các Ngài không còn sợ người Do Thái như trước đây.
Sự lợi khẩu: đúng là “tửu nhập thì ngôn xuất”. Các bợm nhậu khi đã ngà ngà thì tranh nhau nói, thậm chí cả hát hò lớn tiếng. Có người thường khi thì rụt rè, ít lời nhưng đã có chút men thì đâm ra lợi khẩu, nếu có tí máu văn nghệ thì cất tiếng ca rất chi là “bốc”. Không biết cái ông ngư phủ Phêrô bình thường có lợi khẩu không, thế mà sau khi đã nhận được Thánh Thần ta thấy Ngài quá ư xuất sắc trong việc rao giảng. Kết quả của bài giảng đầu tiên thật đáng kinh ngạc: khoảng 3000 người tự nguyện chịu Bí tích Thánh Tẩy để gia nhập Giáo Hội (Cvtđ 2,41 ).
Sự hoà đồng: Khi đã ngà ngà thì sẽ chẳng còn ông gia hay chàng rễ, cả hai có thể choàng vai nhau thân thiết như bạn bè, anh- tôi, chúng mình. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần ta cũng nhận ra điều này: chẳng còn Do Thái hay Hy lạp, chẳng còn nô lệ hay tự do, tất cả đều là anh em cùng một Cha trên trời.
Vẫn có đó nhiều nét tương đồng nếu nhìn bên ngoài giữa tác động của Chúa Thánh Thần và ảnh hưởng của men rượu. Tuy nhiên phải có đó điểm khác nhau để biện phân. Sau đây xin đan cử một vài nét khác nhau căn bản.
Những biểu hiện đựợc xem là tích cực như can đảm, lợi khẩu hay hoà đồng… thì dưới tác động của men rượu, chúng sẽ chóng qua, trong khi đó nếu do tác động của Chúa Thánh Thần thì chúng sẽ tồn tại lâu dài. Thánh Inhaxiô cũng cho ta biết cách thế để biện phân thần loại tương tự . Có những hiệu quả tốt đẹp, ngay cả sự bình an tâm hồn nhưng nếu là do Thần Dữ thì sẽ chóng qua còn do Thánh Thần tác động thì sẽ bền lâu.
Tác động của “ma men” hay của Thần Dữ luôn làm ta hướng về mình, còn tác động của Chúa Thánh Thần thì thúc giục ta hướng về ích chung. Thánh Phaolô Tông Đồ cho ta thấy điều này trong bài đọc thứ hai: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi ngươi một cách, là vì ích chung” (1 Cor 12,4-7).
“Ma men” thường khích động ta làm hay nói những sự chẳng đáng, chẳng nên. Nếu có làm được những sự khó thì đó là liều lĩnh chứ không phải can đảm, nếu có nói nhiều thì cũng dễ thành ba hoa, khoác lác và nếu có hoà đồng thì cũng chưa chắc là hiệp nhất.
Biết biện phân để nhận ra tác động của Chúa Thánh Thần không phải để thoả mãn lý trí nhưng là để:
1. Nhìn nhận sự tự do của Chúa Thánh Thần: “Như gió muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8), Chúa Thánh Thần luôn tự do trong hoạt động của Ngài. Dù chưa lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, những người ở Xêdarê cũng đã được đổ tràn Thần Khí: “Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban thánh thần xuống trên cả các dân ngoại nữa…(Tđcv 10,45). Không một ai được phép độc quyền Thánh Thần. Không một tổ chức nào, kể cả Hội Thánh được phép độc quyền trên Thần Khí Thiên Chúa. Chúng ta cần phải mở rộng con tim, mở rộng tầm nhìn để đón nhận hồng ân và hoa quả của Thánh Thần ngay cả nơi anh em lương dân, khác đạo.
2. Mặc dù Chúa thường ban ơn hiện sủng (grâce d’état) cho chúng ta để chúng ta chu toàn trách vụ được giao phó, tuy nhiên không phải hể có chức hay có quyền là đương nhiên có đầy ơn Chúa Thánh Thần. Cứ xem quả thì biết cây (x.Lc 6,43-45). Chức vụ ta lãnh nhận như Giám mục, linh mục, quản xứ, bề trên… có sinh hoa trái là phục vụ ích chung hay không? Xin đừng lầm tưởng ích chung ở đây là lợi ích của một tập thể cá biệt như xứ tôi, giáo phận tôi, dòng tu tôi, đảng phái của tôi, thậm chí quốc gia tôi hay Hội Thánh tôi. Mưu cầu công ích là tìm ích lợi của hết mọi người và của con nguời toàn diện đặc biệt ưu tiên cho người nghèo, người bất hạnh, người bị áp bức… (x. Học thuyết xã hội Công Giáo-Hội đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hoà Bình -2004 số 165 ; 182).
3. Hãy sống “dễ dạy” với ân sủng Thánh Thần nghĩa là biết nhạy bén trước sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Tiếng gọi của Thánh Thần thường xuất phát từ những nhu cầu chính đáng và cấp thiết của những người bất hạnh, bị bỏ rơi… Các Tông Đồ, môn đệ, các Phó Tế thời Hội Thánh sơ khai làm gương cho ta điều này.
4. Đừng dập tắt Thần Khí, đặc biệt nơi những người nhỏ chức, bé quyền, thậm chí nơi những người trái chính kiến với ta, không theo đường hướng của ta (x.Lc 9,50). Hãy có tâm tình của Môsê khi Giosuê, con ông Nun xin ngăn cản Enđat và Mêđat vì hai ông này không vào trong Lều Hội Ngộ: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ (Ds 11,29).
5. Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất. Chúa Phục Sinh ban quyền tài thẩm “tháo gỡ-cầm buộc” cho những người có trách nhiệm trong Hội Thánh là để xây dựng và gìn giữ sự hiệp nhất chứ không phải củng cố hay duy trì sự đồng nhất.
.
Lm. John Nguyễn
Trong lịch sử cứu độ con người, Chúa Thánh Thần đóng vai trò rất quan trọng từ công trình sáng tạo cho đến ngày tận cùng của nhân loại. Chúa Thánh Thần chính là nguồn thánh hóa và biến đổi Giáo hội và con người trong thế gian này. Hôm nay, mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta có thể đặt câu hỏi tại sao Chúa Thánh Thần lại được tượng trưng bằng một chim bồ câu? Hình ảnh ấy có ý nghĩa gì?
Trước khi trả lời cho những câu hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu lại hình ảnh chim bồ câu trong Kinh Thánh. Biểu tượng chim bồ là tính chất đơn sơ, trong trắng, thật thà, như lời Chúa Giêsu nói: “Các con hãy khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như chim câu.” (Mt 10,6). Một biểu tượng khác, chim bồ câu là biểu tượng cho hoà bình khi chim câu ngậm cành ô liu. Nguồn gốc biểu tượng này bắt nguồn từ sách Sáng Thế. Sau khi lụt hồng thủy đã cạn rồi, ông Noe thả con chim câu ra, nó lượn một lát vội quay trở về miệng ngậm cành ô liu, cho thấy biết nước đã cạn rồi. Và cũng từ đó, hình ảnh con chim câu ngậm cành ô liu tượng trưng cho cảnh vật đã trở lại thanh bình.
Dựa theo tục lệ của người Do thái, họ dâng lễ phẩm cho Thiên Chúa bằng đôi chim câu.Thánh sử Luca (2,24) thuật lại rằng, ông Giuse và bà Maria dâng hài nhi Giêsu vào đền thờ, và sau đó đã chuộc lại với đôi chim câu. Hơn nữa, chim câu còn tượng trưng cho tình nhân được diễn tả trong sách Diễm tình Ca 1,15. Đôi mắt của cô nàng được ví như những bồ câu, cô ta được gọi là “bồ câu của anh ơi”. Trong cảnh Truyền Tin cho Đức Mẹ ở Nazareth, Sứ thần Gabriel nói: “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên chị”. Hơn nữa, trong các Tin Mừng đều thuật lại, khi Chúa Giêsu lãnh phép rửa ở sông Jordan, các tầng trời mở ra, một chim câu đáp xuống trên Đức Giêsu, đồng thời có tiếng phán trên không trung: “Này là Con Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.”
Trở lại với vấn đề lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta thấy sách tông đồ công vụ tả lại biến cố tại nhà tiệc ly, có các lưỡi lửa trên đầu Đức Mẹ Maria và các thánh tông đồ. Hình Lưỡi lửa này tượng trưng cho cái gì vậy? Lưỡi là cơ quan để nói, Chúa Thánh Thần ban cho các tông đồ ơn để nói. Nói lên chân lý, nói điều Thiên Chúa mạc khải, nói lên sự thật Chúa Giê-su đã phục sinh và sống lại.Tuy nhiên, lưỡi ở đây còn có nghĩa sâu hơn nữa. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh đều nhận thấy rằng, các Tông đồ nói, nghe và hiểu được các ngôn ngữ khác nhau. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống lật lại tình thế của tháp Baben, vì tội kiêu ngạo loài người đã bị phân tán thành nhiều ngôn ngữ bất đồng, chẳng ai hiểu ai nữa. Đây là khởi điểm cho các Tông đồ ra đi truyền giáo, và Giáo hội được khai sinh nhờ tác động, và quyền năng của Chúa Thánh Thần. Cho nên, Giáo Hội Công Giáo được loan truyền và có ở khắp mọi nơi trên thế giới. Có nhiều chủng tộc ngôn ngữ khác nhau, nhưng tất cả đều hợp nhất trong một đức tin.
Điều sau cùng và quan trọng nhất là Chúa Giêsu trao ban cho các Tông đồ Thần Chân Lý. Ngài là Thầy dạy tiếng nói tâm hồn và lương tâm con người. Khi trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, Đức Giêsu đã mạc khải cho các ông biết Người chính là “Thần Khí Sự Thật”. Ngài sẽ giúp cho các Tông đồ hiểu được những lời Ngài đã rao giảng. Mặt khác, Chúa Thánh Thần sẽ bào chữa cho các ông khi phải ra trước mặt quan toà để làm chứng cho sự thật: “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói” (Lc 12,11-12).
Thật thế, nếu xét trên bình diện con người, các ông làm sao có thể thi hành một sứ mệnh cao cả và quan trọng đến như vậy. Bởi vì, các Tông đồ là những con người. Họ là những người quanh năm sống với nghề chài lưới, với sóng nước biển khơi, học vấn thì kém cỏi, đâu có khả năng diễn thuyết trước công chúng.Thế nhưng, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông đã hân hoan lên đường để làm chứng cho Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã chết và sống lại vì yêu con người. Trong bài giảng đầu tiên, Phêrô đã khuất phục được rất nhiều người, có khoảng 3.000 người tin theo đạo (Cv 2,41).
Với những gì chúng ta tìm hiểu vai trò của Chúa Thánh Thần trong thế giới hôm nay, chúng ta có thể kết luận rằng, Chúa Thánh Thần đang thánh hóa và biến đổi thế gian này trở nên hoàn thiện. Và Ngài chính là Thầy dạy cho chúng ta biết đâu là sự thật, đâu là giả dối, đó là tòa án lương tâm. Con người sẽ nhận biết mình làm đúng hay sai. Ngài sẽ dạy cho ta biết lẽ công bình, biết nhận định tốt xấu, đó là nhờ ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn can đảm, ơn thông minh, ơn đức tin, và ơn kính sợ Chúa, mà Giáo Hội dùng qua những biểu tượng chim bồ câu, lửa, lưỡi.
Giờ đây, xin Chúa Thánh Thần biến đổi mọi người chúng ta trở nên can đảm và làm chứng cho Tin Mừng Nước Chúa hôm nay và mai sau. Amen.
.
CHÚA THÁNH THẦN, NGUỒN HIỆP NHẤT
Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Trong Chúa Nhật lễ Thăng Thiên vừa qua, cũng là ngày “Thế giới truyền thông“, Đấng Phục Sinh đã trao cho chúng ta sứ mạng lên đường truyền thông cho mọi người biết Tin Mừng cứu độ. Sứ mạng này thật vinh dự nhưng cũng không kém phần khó khăn. Cảm thông được với sự giới hạn của bản thân từng người chúng ta, trước khi về Trời, Đức Giêsu đã nhắn bảo các tông đồ và từng người chúng ta: “Hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa… Ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép Rửa trong Thánh Thần“. Lời hứa đó, hôm nay, đã trở thành hiện thực với việc Chúa Thánh Thần được ban xuống cho các tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần, mà chúng ta vừa nghe thuật lại trong bài đọc một.
Chúa Thánh Thần chính là ân huệ của Đấng Phục Sinh, và là nguồn sức mạnh nối kết muôn dân và các tín hữu nên một trong cùng một phép Rửa và một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai: ” Không ai có thể nói: “Đức Giêsu là Chúa” mà lại không do Thánh Thần“.
1. Chúa Thánh Thần, ân huệ của Đấng Phục Sinh
Nhìn lại những đoạn Tin mừng theo thánh Gioan được trích đọc trong hai tuần lễ vừa qua, chắc hẳn chúng ta đều nhận ra rằng lời hứa ban Thánh Thần là điều được Đức Giêsu lập đi, lập lại rất nhiều lần. Chính Ngài đã khẳng định với các tông đồ: “Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con” (Ga 16, 7).
Và quả thật, Đức Giêsu đã thực hiện trọn vẹn lời hứa này của Ngài. Ngay khi hiện ra lần đầu tiên với các tông đồ vào “ngày thứ nhất trong tuần“, Đức Giêsu đã phán bảo với các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần“. Như thế, đối với thánh Gioan, việc Đức Giêsu Tử nạn – Phục Sinh – Ban Thánh Thần là một. Chính vì thế, phụng vụ đã chọn đọc bài Tin Mừng hôm nay chính thức hai lần trong mùa Phục Sinh: một là vào ngày Chúa Nhật trong tuần Bát Nhật Phục Sinh và hôm nay, trong ngày lễ Chúa Thánh Thần. Cũng theo chiều hướng đó, thánh Gioan đã gắn liền cái chết của Đức Giêsu trên thập giá với việc trao ban Thần Khí, thánh sử đã thuật lại giờ ra đi của Đức Giêsu như sau: “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19, 30). Với cái chết của mình, Đức Giêsu thực sự mở ra một giai đoạn mới trong nhiệm cục cứu độ, giai đoạn hoạt động của Thánh Thần. Nói là giai đoạn của Thánh Thần, bởi vì trước đó, mặc dù vẫn hiện diện và hoạt động trong chương trình cứu độ, nhưng vai trò của Chúa Thánh Thần vẫn còn chưa được làm rõ. Chính Đức Giêsu, trong lần lên Giêrusalem vào dịp Lễ Lều của người Do thái, đã minh nhiên tuyên bố: “Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống. Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giêsu chưa được tôn vinh” (Ga 7, 38-39). Giờ Đức Giêsu được tôn vinh, “được giương cao“, chính là giờ Đức Giêsu bị treo trên thập giá (x. Ga 12, 23-32). Và ngay trên thập giá, “một tên lính đã lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19, 34). Như thế, “máu và nước” này chẳng phải là “Dòng nước hằng sống, dòng nước Thánh Thần” mà Đức Giêsu đã hứa trước đó sao?
Như thế, Thánh Thần chính là ân huệ lớn lao nhất mà Đức Giêsu trao ban cho chúng ta từ cuộc Vượt Qua của Ngài. Đồng thời, Thánh Thần còn là nguồn sức mạnh liên kết muôn người lại với nhau, và với Thiên Chúa. Thánh Thần cũng chính là Đấng tái tạo lại sự hiệp nhất nguyên thuỷ mà con người đã đánh mất bởi tội của mình.
2. Chúa Thánh Thần, nguồn hiệp nhất:
Trước hết, Chúa Thánh Thần, chính là Đấng qui tụ muôn dân nên một trong Giáo Hội.
Thật vậy, các tông đồ trước khi nhận lãnh Thánh Thần đã “đóng kín cửa vì sợ người Do thái”. Thế nhưng, sau khi đã nhận được sức mạnh của Thánh Thần, các ngài đã mở tung cửa mạnh dạn bước ra rao giảng cho mọi người Tin Mừng về Đấng Phục Sinh khiến mọi người đều bỡ ngỡ. Theo sách Tông đồ Công vụ thuật lại lúc đó, tại Giêrusalem có rất nhiều người thuộc các dân tộc với nhiều tiếng nói khác nhau, từ muôn nơi đổ về nhân dịp lễ Vượt Qua, nhưng có một điều lạ là tất cả đều nghe rõ và hiểu điều các tông đồ loan báo, họ thắc mắc: “Tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mêsopotamia, Giuđêa, Cappađôcia, Pontô, Tiểu Á, Phrygia, Pamphylia, Ai cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ ở đây, là Do thái và tòng giáo, là người Crêta và Árập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa“. Khi nêu lên danh sách các dân tộc này, thánh sử Luca đã cho thấy tính phổ quát của Tin Mừng cứu độ. Mọi dân nước dù xa xôi như Rôma, mút cùng của thế giới theo quan điểm của người Do thái hay bé nhỏ như Pamphylia, một thành phố rất nhỏ của đế quốc Rôma, cũng phải được nghe loan báo Tin Mừng và được qui tụ về thành một đoàn chiên duy nhất dưới quyền của một Chủ chiên là Đức Kitô.
Như thế, Chúa Thánh Thần chính là mối dây liên kết muôn dân nên một, như lời khẳng định của thánh Phaolô trong bài đọc hai: “Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần”.
Kế đến, theo thánh Phaolô, Chúa Thánh Thần còn là mối dây liên kết mọi thành phần trong Hội Thánh. Mỗi người, mỗi thành phần trong Hội Thánh không đứng riêng rẽ, nhưng liên đới và gắn bó chặt chẽ với nhau như các chi thể trong cùng một thân thể, như lời thánh Phaolô: “Cũng như chỉ có một thân thể, nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy”. Có lẽ đây là một trong những hình ảnh sống động và rõ ràng nhất để diễn tả sự hiệp nhất và liên đới của mọi thành phần trong Giáo Hội.
Mặt khác, vì cùng chung một thân thể, nên mỗi chi thể cho dù hoạt động có khác nhau cũng không nhằm đem lại lợi ích cho riêng mình, nhưng là cho toàn thân thể. Mắt có nhìn thấy cũng là để hướng dẫn cho toàn thân thể; tay có làm việc cũng là làm cho toàn thân thể; miệng có ăn cũng là để nuôi sống toàn thân thể, … hay nói theo cách nói của thánh Phaolô: “Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều thứ chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng làm mọi sự trong mọi người”. Và thánh nhân kết luận: “Sự xuất hiện của Thánh Thần được ban cho từng người, tuỳ theo lợi ích”.
Lắng nghe Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay là cơ hội để mỗi người chúng ta ý thức lại vị trí của chúng ta trong cộng đoàn Giáo Hội, Giáo xứ. Trong cộng đoàn đó, mỗi người chúng ta có một vị trí, và vai trò độc đáo không thể thay thế. Do đó, chúng ta hãy cố hết sức chu toàn nhiệm vụ của mình trong gia đình, trong giáo xứ. Trong mọi suy nghĩ, lời nói, cũng như hành động… chúng ta cần loại bỏ tất cả những gì không mang lại sự hiệp nhất, vì đó không phải là hoạt động của Thánh Thần.
Chớ gì nhờ việc rước chung cùng một tấm Bánh trên bàn thờ đây, mỗi người chúng ta khi trở về nhà cũng luôn biết quên mình, để tạo nên sự hiệp nhất trong gia đình, giáo xứ… nhờ đó, cộng đoàn chúng ta ngày càng dẫn đưa được nhiều người trở về với Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Amen.
.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Có một câu truyện kể rằng : Một hôm thần dữ Xa-tan triệu tập tất cả các sứ giả của hắn lại, để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi. Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả trở về. Thần dữ Xa-tan ngạc nhiên hỏi : “Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh thế, hay là có chuyện gì trục trặc ?”. Các sứ giả đồng thanh đáp : “Thưa ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi qua trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết thật rồi. Họ ghen ghét nhau, họ gian tham, trộm cắp, sa đọa, họ chém giết nhau…không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này, mà ngược lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa”.
Con người sống như thể Thiên Chúa đã chết. Đó là một lời cảnh tỉnh nghiêm trọng đáng cho chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, suy nghĩ để kiểm điểm lại đời sống của mình. Vài chục năm gần đây, người ta tỏ ra lo ngại cho Giáo Hội, khi thấy có một số đông Ki-tô hữu tại nhiều nước Âu Châu dửng dưng với đạo. Đạo hầu như chẳng còn ảnh hưởng gì đối với họ; đạo hầu như đứng ngoài cuộc sống của họ. Phải chăng Ki-tô giáo đã qua những ngày hưng thịnh và đang đi vào giai đoạn lụi tàn ? Phong trào “Thời Mới”, một phong trào mang tính tôn giáo huyền bí hàm hồ, đang phát triển tại Mỹ và Âu Châu xác tín rằng : Kỷ nguyên Ki-tô giáo sắp qua đi và một kỷ nguyên mới với một tôn giáo mới đang xuất hiện.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến trần gian để thi hành sứ mạng cứu chuộc loài người. Ngài đã sống kiếp người như chúng ta, Ngài đã giảng dạy, loan báo Tin Mừng. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận đau thương và chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất sứ mạng cứu chuộc của Ngài. Ngài đã chết thật, nhưng không phải là chết luôn, trái lại, Ngài đã sống lại và sống mãi. Ngài vẫn hiện diện trên trần gian dưới nhiều hình thức, đặc biệt là qua Chúa Thánh Thần.
Quả thực, ngay từ khi tại thế, Chúa Giêsu đã sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, nhưng Ngài chưa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Chúa Giêsu phải ra đi, rồi mới cử Thánh Thần đến với họ được, nghĩa là Ngài phải được tôn vinh, mới có thể ban Thánh Thần cho họ. Vì thế, ngay buổi chiều ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra thổi hơi vào các môn đệ và ban Thánh Thần cho họ; đồng thời ban cho họ quyền tha tội. Như vậy, Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần, và các tông đồ đã nhận được Chúa Thánh Thần ngay chiều ngày Phục Sinh.
Tuy nhiên, để đánh dấu việc các tông đồ thực sự thoát khỏi tình trạng “khép kín” vì sợ hãi hay nuối tiếc quá khứ, và “mở cửa” lao mình về phía trước để công bố Tin Mừng Phục Sinh cho các dân tộc, đem ơn hòa giải đến cho mọi người, hầu qui tụ mọi người vào trong đại gia đình của Thiên Chúa…Chúa Thánh Thần đã hiện xuống với các tông đồ một cách long trọng và rõ ràng với những dấu hiệu bề ngoài như gió thổi mạnh, lưỡi lửa xuất hiện trên đầu họ. Gió và lửa là những dấu hiệu để chứng tỏ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và liền theo đó, mọi người được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Như vậy, Chúa Thánh Thần đã đến với các tông đồ, đã biến đổi họ thành những con người mới, đã tác động nơi họ để trở thành những chứng nhân cho Đức Kitô và loan báo Đức Kitô cho mọi người. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa và ngọn lửa Ngài đậu trên đầu các tông đồ không gì khác chính là ngọn lửa tình yêu. Chính ngọn lửa đó đã thúc giục các tông đồ mở toang cánh cửa đã đóng kín vì sợ hãi, để mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng tình yêu. Từ đó cho đến nay, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hoạt động nơi từng con người thiện chí, từng Kitô hữu, đang hăng say hoạt động để đem chân lý, bình an, yêu thương và hy vọng đến với những người chung quanh.
Mỗi người Kitô hữu hôm nay cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu phép Rửa tội và Thêm sức. Nhưng chúng ta đã cộng tác với Chúa Thánh Thần thế nào ? Chúng ta có để Chúa Thánh Thần gọt giũa, loại bỏ khỏi chúng ta tính ích kỷ, hẹp hòi không ? Chúng ta đã làm gì và đang làm gì cho thế giới này, cho những người sống chung quanh chúng ta được sưởi ấm bởi ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận ? Thật là đau đớn cho Thiên Chúa và Giáo Hội khi những người mang danh Kitô hữu, những môn đệ của Chúa, lại sống ích kỷ, ghen ghét nhau, cạnh tranh nhau…Nếu ngày nay biết bao người chưa biết đến tình yêu thương của Chúa, có lẽ một phần trách nhiệm là do chúng ta; có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà nhận rằng : vì chúng ta chưa sống tốt, chưa làm chứng nhân, vì trong chúng ta còn nhiều ích kỷ, nhỏ nhen, hẹp hòi…
Mừng lễ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống từng người chúng ta, và mời gọi chúng ta cùng cộng tác với Chúa Thánh Thần để đổi mới chính mình, đổi mới cuộc sống của mình, để cuộc đời chúng ta trở thành chứng tá cho Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống, để xác quyết rằng : Thiên Chúa đang sống và đang hành động trong trần gian.
.
Lm. Nguyễn Hữu Thy
Qua các phương tiện truyền thông như báo chí, Radio và truyền hình, chúng ta thấy thế giới nhân loại ngày nay không có một ngày nào hoàn toàn được an bình, không có một ngày nào mà không xảy ra những bạo hành và tội ác. Chưa lâu, bộ Nội Vụ CHLB Ðức đã công bố một danh sách dài của các tội phạm trong năm : trên 5 triệu hành vi phạm pháp đủ các loại đã được ghi nhận. Nghĩa là khoảng 7 giây đồng hồ lại xảy ra một tội phạm. Nếu tại một nước văn minh, giàu có và tiến bộ vào bậc nhất thế giới như CHLB Ðức mà còn xảy bao điều tiêu cực như vậy, thử hỏi tại các nước nghèo nàn lạc hậu mỗi ngày còn xảy ra biết bao tội ác, bao điều tồi tệ nữa !
Bởi vậy, nhiều người đâm ra hoài nghi tự hỏi : Phải chăng ác thần đã xâm nhập vào đời sống xã hội hôm nay của chúng ta ? Ðúng vậy, và chúng ta đang cố sức tìm kiếm các phương tiện và đường hướng để chống trả lại ác thần đó. Ðồng thời chúng ta cũng tìm kiếm sự quân bình, các đường hướng và sức mạnh của sự cứu rỗi và của sự hoàn thiện.
Trong khi đi tìm kiếm phương tiện và sức mạnh để chống trả ác thần như thế, chúng ta mừng đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và được nghe nói đến một Thần Khí khác : Thánh Thần. Hoa trái của Thánh Thần đã được thánh Phaolô trình bày trong Thư gửi các tín hữu Ga-lát, là : «Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ » (5,22-23), nghĩa là tất cả những điều tích cực và thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta cũng như cho thế giới. Ở đâu có Thần Khí đó ngự trị, thì ở đó bộ mặt trái đất được đổi mới. Về Thần Khí của lòng nhân hậu và của sự cứu rỗi, Phúc Âm thánh Lu-ca đã viết : « Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần cho những ai kêu xin Người » (11,13). Tuy nhiên, Thánh Thần, Ðấng làm cho bộ mặt méo mó của trái đất trở thành xinh đẹp, sẽ không do con người tạo ra được. Tự khả năng nhân loại của mình, chúng ta không thể dàn xếp hay đặt kế hoạch trước về Người được. Ðiều chúng ta có thể làm và cần phải làm, là : Chúng ta hãy luôn thành khẩn cầu xin và hãy mở rộng tâm hồn mình đón nhận ân huệ đó của Thiên Chúa, vì nhận biết mình yếu hèn, giới hạn và bất toàn.
Ðồng thời chúng ta hãy để cho Thánh Thần Thiên Chúa dìu dắt hướng dẫn cuộc sống cũng như mọi hành động của mình, chứ không phải các tham vọng và ước muốn trần thế. Thánh Phaolô sau khi nêu lên những hoa trái của Thánh Thần, đã không quên nhắc lại điều kiện của những ai bước theo Thánh Thần : « Những ai thuộc về Ðức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê » (Gl 5,24). Cuộc sống theo Thánh Thần Thiên Chúa là một cuộc sống thanh thản và đầy an vui thánh thiện, tức : bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, …Tuy nhiên, đó không phải là một cuộc sống dễ dãi, theo kiểu được sao hay chớ.
Những ai biết sống và hành động theo Thần Khí, những người đó sẽ được Chúa Cứu Thế chúc phúc. Những vị thánh nhân, như Ê-li-sa-bét Thü-ring-gen, Phan-xi-cô Át-xi-xi, Mác-xi-mi-li-ê Khôn-bê, Vin-xen-tê đệ Phaolô, v.v…là những người đã hoàn toàn trao phó đời mình cho Thần Khí hướng dẫn và dìu dắt ! Ngày nay vẫn còn tiếp tục có những thánh nhân biết sống theo Thánh Thần của Ðức Giêsu chăng ?
Trong số các thánh nhân đó, chúng ta có thể kể tên, như : Ðức Gioan XXIII, Ðức Gioan Phaolô II, hay như Mẹ Tê-rê-xa, vị Tông đồ của người nghèo ở Culcutta/Ấn Ðộ, hay rất có thể như Martin Luther King, người tranh đấu cho sự tự do và hoà bình giữa mọi người. Chính ông là người đã phát biểu những lời thời danh như sau : « Tôi có một giấc mơ là một ngày nào đó, các con cái của những kẻ nô lệ và các con cái của những người chủ nô lệ xưa kia sẽ cùng nhau thân hữu ngồi vào một bàn ăn … Tôi có một giấc mơ là một ngày nào đó, bốn đứa con của tôi đây sẽ được sống trong một đất nước, nơi chúng không bị đánh giá theo màu da, nhưng theo tư cách sống của chúng… » (Reden, die die Welt bewegten, nhà xuất bản Emil Vollmer, trang 590).
Nếu chúng ta để cho hai tiếng „tự do” của mỗi thành phố, của mỗi thôn xóm, của mỗi nhà nước, của mỗi thủ phủ mỗi miền vang dội lên, thì chúng ta đã thực sự làm cho xuất hiện được cái ngày tất cả mọi con cái Thiên Chúa, dù là da đen hay da trắng, dù Do-thái, Tin Lành, Công Giáo hay ngoại đạo, đều bắt tay nhau và cùng ca hát những lời của vị linh hướng người da đen già: „Thế là được tự do, lạy Thiên Chúa thượng trí toàn năng, thế là chúng con được tự do!” (Srephen B. Oates, Matin Luther King, 1982, tr. 3169).
Vâng, ở đâu sự tự do được thể hiện trong đoàn kết và sự đoàn kết được thể hiện trong tự do, ở đó có Thần Khí của Ðức Giêsu, tức Chúa Thánh Thần, ngự trị. Thánh Phaolô cũng đã viết: „Ở đâu có Thần Khí, ở đó có sự tự do” và „chúng ta đã nhờ Thần Khí mà trở nên một”.
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có nghĩa là để cho Chúa Thánh Thần trở nên sức mạnh nội tâm của cuộc sống chúng ta. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự tự do và sự đoàn kết, đồng thời chúng ta cũng phải sẵn sàng cộng tác vào việc kiến tạo sự tự do và sự đoàn kết theo khả năng của chúng ta, hầu để cho: Một sự tự do không bị giới hạn và một sự đoàn kết không trùng nghĩa với một sự đồng điệu nhàm chán. (Trong thực tế, điều đó đối với Giáo Xứ của chúng ta ở.. . có nghĩa là là.. .) Con người ở trong Giáo Hội cũng như trong xã hội cần đến cả hai. Chúa Thánh Thần tác động và muốn cho cả hai cùng được hiện thực trong xã hội loài người chúng ta.
.
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Sau triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa mà Mùa Vọng nhắc nhớ, sau sự việc Chúa Con đến trần gian mà chúng ta tưởng niệm từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến lễ Thăng Thiên, Phụng Vụ hôm nay cử hành Chúa Thánh Thần, Đấng tỏ mình ra vào lễ Ngũ Tuần, chính Ngài làm cho Giáo Hội được tăng trưởng và Ơn Cứu Độ được sinh hoa kết trái.
Cv 2: 1-11
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca tường thuật Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông Đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giêsu, khi họ cùng nhau tề tựu trong phòng Tiệc Ly. Biến cố này rất gần với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày này.
1Cr 12: 3b-7, 12-13
Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng những đặc sủng khác nhau làm chứng sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, những người ấy đón nhận những ân ban Thánh Thần, vì chỉ có một Thánh Thần để hình thành nên một thân thể.
Ga 20: 19-23
Tin Mừng Gioan tường thuật việc Đức Giê-su trao ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay khi Ngài sống lại. Vào buổi chiều Phục Sinh, Đức Giê-su hiện ra ở giữa các môn đệ của Ngài, thổi hơi trên họ và nói: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Chắc chắn những ân ban Thánh Thần chỉ bày tỏ sau nầy; tuy nhiên, thánh Gioan nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua là biến cố từ đó Giáo Hội được khai sinh. Thánh Thần ở với Giáo Hội ngay từ ngày đầu tiên của biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11):
Sau khi đã chứng kiến Chúa Giê-su về trời, các Tông Đồ quay trở về Giê-ru-sa-lem tuân theo lời dặn của Đức Giê-su trước khi Ngài từ giã các ông: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”(Lc 24: 49).
Nơi họ tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13). Đây là phòng Tiệc Ly, nơi Đức Giê-su đã tham dự Tiệc Ly với các ông, trong đó Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể; đó cũng là nơi dù cửa đóng then cài, Đức Giê-su đã hiện ra với các ông vào buổi chiều Phục Sinh; và đó cũng là nơi Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông. Như vậy, một cách nào đó, có một mối liên kết mật thiết giữa bàn tiệc Thánh Thể với biến cố Phục Sinh và biến cố Hiện Xuống.
- Mọi người đang tề tựu một nơi:
Không nên hiểu “mọi người đang tề tựu” như “buổi họp mặt của một trăm hai mươi người” vài ngày trước đây để chọn ông Mát-thi-a làm Tông Đồ thay thế ông Giu-đa (Cv 1:15). Đúng hơn là một nhóm người hạn định hơn mà thánh Lu-ca mô tả ở 1: 13-14: các Tông Đồ, vài người phụ nữ, Đức Ma-ri-a thân mẫu của Đức Giê-su và anh em họ của Đức Giê-su.
Họ tề tựu một nơi mà cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố mà Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống. Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng ngạc nhiên. Để tỏ mình ra, Chúa Thánh Thần chọn ngày đại lễ Do thái được gọi là “Lễ Ngũ Tuần”, ngày lễ dân Do thái tưởng niệm việc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai giữa Thiên Chúa và dân Ngài trong trận cuồng phong và dưới dấu chỉ của lửa. Biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được bày tỏ kín đáo hơn, nhưng theo cùng một cảnh tượng tương tự: “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một”.
- Lễ Ngũ Tuần:
Lễ Ngũ Tuần được xác định vào ngày thứ năm mươi sau bảy tuần khởi đi từ lễ Vượt Qua, vì bảy tuần (7 x 7) là dấu chỉ của sự viên mãn. Vì thế, chữ “Tuần” được sử dụng ở đây không là một tuần lễ có bảy ngày mà là một tuần trăng có mười ngày gồm có thượng tuần, trung tuần và hạ tuần. Lễ Ngũ Tuần Do thái tự nguồn gốc là lễ Mùa, lễ kết thúc thời kỳ thu hoạch mùa màng được khai mạc qua việc dâng tiến bó lúa đầu tiên (Đnl 16: 9-10). Tuy nhiên, các lễ hội của dân Ít-ra-en đều đã trải qua một tiến trình tinh thần hóa: từ bình diện tự nhiên sang bình diện Lịch Sử Thánh, bởi vì Lịch Sử đối với dân Thiên Chúa cốt thiết là hành động của Thiên Chúa. Lễ Vượt Qua trở thành lễ tưởng niệm cuộc giải thoát khỏi Ai-cập, lễ Lều (lễ thu hoạch nho) ghi nhớ cuộc hành trình trong hoang địa; sau cùng, lễ Ngũ Tuần, dù tương đối muộn thời, được nối kết với những biến cố Xuất Hành. Khi Giao Ước được ký kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc giải phóng khỏi Ai-cập, lễ Ngũ Tuần cử hành sinh nhật của cuộc giải phóng nầy. Vào thời kỳ tiếp cận với kỷ nguyên Kitô giáo, lễ Ngũ Tuần, còn hơn ngày lễ tưởng niệm, là dấu chỉ hằng năm làm mới lại Giao Ước. Vào ngày lễ này, Dân Chúa lập lại lời thề hứa trung thành với Đức Chúa.
- Núi thánh Xi-nai và nhà Tiệc Ly:
Trên núi Xi-nai, lời hứa trung thành với Giao Ước và ân ban Lề Luật đã được cử hành đặc biệt long trọng, mà thánh ký miêu tả theo bút pháp gần với lối hành văn ngoa dụ. Những biểu tượng được mượn phần lớn trong các tôn giáo như cuồng phong kèm theo những cuộc thần hiển. Trong Do Thái giáo, có một ghi nhận đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt từ chối tất cả mọi hình ảnh về Ngài, chỉ chấp nhận sự hiện diện của Ngài dưới dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây rực sáng) và gió (cuồng phong hay cơn gió thoảng) gần với hơi thở, đồng nghĩa với “thần khí”. Đây là những hình ảnh phi vật chất nhất.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được mô tả theo những cuộc thần hiển Cựu Ước. Hơn nữa, những hình ảnh truyền thống nầy trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương khải huyền. Trận cuồng phong loan báo cuộc tụ họp muôn dân vào ngày Chung Thẩm. Những lưỡi lửa thuộc vào cũng một hình tượng của thời chung cuộc nầy. Cuối cùng, truyền thống kinh sư suy niệm biến cố Xi-nai đã khai triển những ẩn ý hàm chứa nơi biến cố nầy, như tiếng nói của ông Mô-sê được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngỏ hầu tất cả mọi dân tộc đều có thể nghe hiểu. Ngoài ra, làm thế nào không gợi ra lời nguyện ước của ông Mô-sê: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ !” (Ds 11: 29). Thánh Lu-ca nối kết trực tiếp những hình ảnh này vào ân ban ngôn ngữ mà các Tông Đồ đón nhận. Rõ ràng kỷ nguyên Kitô giáo được loan báo bởi cùng những dấu chỉ với kỷ nguyên cánh chung.
Như vậy, có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tân Ước đáp trả cho niềm mong chờ của Cựu Ước. Mười hai Tông Đồ có mặt ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp của Đức Kitô. Nhưng chúng ta cũng dễ dàng nhận ra có những khác biệt sâu xa giữa lễ Ngũ Tuần Do thái và lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo.
- Phép rửa trong Thánh Thần:
Thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo trước: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước… Còn Đấng đến sau tôi… Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11). Tất cả các Tông Đồ đã không đón nhận phép rửa trong nước, nhưng đều lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa: “Và ai nấy đều được đầy ơn Thánh Thần”. Giáo Hội khởi đi từ ngày lễ Ngũ Tuần Kitô giáo. “Lửa”gợi lên biết bao ý nghĩa: thanh tẩy, thanh luyện, hun đúc lòng nhiệt thành… như câu thành ngữ: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
Biến cố Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật trong khi những biến cố Hiện Xuống khai mạc kỷ nguyên Thánh Thần. Xưa kia một dân duy nhất làm đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay, mọi dân tộc đều được mời gọi dự phần vào cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ân ban Thánh Thần đầu tiên là ân ban ngôn ngữ, ân ban cho phép các Tông Đồ ngỏ lời với đám đông thính giả dù sinh trưởng ở đâu cũng đều nghe các Tông Đồ dùng tiếng nói của họ mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa: “Chúng ta đã nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2: 11). Khi liệt kê một danh sách dài về nguồn gốc khác nhau của họ, thánh Lu-ca nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng. Như vậy, lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11), theo đó việc bất đồng ngôn ngữ và việc muôn dân bị phân tán khắp nơi xem ra là một án phạt. Giờ đây, Giáo Hội của Đức Kitô dưới sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần dâng hiến cho nhân loại khả năng hiệp nhất.
Một ân ban Thánh Thần khác, có thể hiểu biết ngay tức khắc, đó là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được tràn đầy Thánh Thần, các Tông Đồ mở tung mọi cánh cửa của căn phòng đóng kín vì sợ, họ bước ra gặp gỡ mọi người, mạnh dạn phục hồi danh dự của Đấng chịu đóng đinh và công bố quyền tối thượng của Đấng Phục Sinh: “Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy và đang nghe” (Cv 2: 33).
- Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a:
Như chúng ta đã ghi nhận trước đây, cách nói “mọi người đang tề tựu một nơi” bao gồm Đức Ma-ri-a và vài phụ nữ. Sự kiện Đức Ma-ri-a có mặt vào ngày Chúa Thánh Thần khai sinh Giáo Hội thật có ý nghĩa biết bao. Trước đây, trong biến cố Truyền Tin, qua việc Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ trong căn phòng Na-da-rét thầm lặng kín đáo, Con Thiên Chúa lặng lẽ đến ở giữa nhân loại trong cung lòng của Mẹ. Giờ đây, trong biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Ma-ri-a đảm nhận tình mẫu tử khác, tình mẫu tử thân thể mầu nhiệm của Con Mẹ, tức Giáo Hội.
Vài phụ nữ khác, chắc hẳn có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, cũng đón nhận Thánh Thần. Những người phụ nữ nầy sẽ không phải dãi dầu sương gió rong ruổi dặm trường để làm chứng cho Đức Giê-su Phục Sinh. Họ sẽ không chịu cảnh bắt bớ tù đày như các Tông Đồ, nhưng họ làm chứng theo cách khác. Họ hoạt động nhiều đến nổi truyền thống gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, nghĩa là Tông Đồ tuyệt hảo.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3b-7, 12-13)
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-xô, có lẽ vào mùa xuân 55, gởi cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô, mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đây, vào khoảng 50-52.
- Cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô:
Đây là một cộng đoàn năng động và nhiệt thành, nhưng cũng gặp phải nhiều bất đồng nội bộ đã khiến cho thánh nhân bận lòng không ít. Đó là đối tượng của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô nầy. Cộng đoàn Ki-tô hữu này sống giữa thế giới ngoại giáo và trong một thành phố rộng mở cho những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là những thần bí Đông Phương vào lúc đó đang sôi động. Những trào lưu nầy không phải không gây nên vài nguy hiểm đối với đời sống đạo của các Kitô hữu.
Ngoài ra, và đây là nét chung chứ không riêng gì cho cộng đoàn Cô-rin-tô, trong những năm đầu đời, các cộng đoàn tín hữu thiếu cơ cấu, chưa có định chế, khuôn mẫu thì yếu và chưa đủ. Lòng đạo của các tín hữu thường ngẫu hứng tùy tiện. Ân ban Thánh Thần được bổ sung vào những kiếm khuyết ban đầu này. Quả thật, ơn đặc sủng thì nhiều, sau đó càng lúc càng hiếm. Các tín hữu Cô-rin-tô xem ra đã được ban cho muôn vàn đặc sủng, thường gây xôn xao dư luận hay phô trương. Vì thế, thánh nhân đòi hỏi họ trước tiên phải hiểu căn nguyên của những đặc sủng nầy.
- Căn nguyên duy nhất của các đặc sủng: Thiên Chúa Ba Ngôi.
Phải lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những đặc sủng và hoạt động Kitô hữu dưới dấu chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi, khởi đầu là Chúa Thánh Thần:
-Những đặc sủng thì đa dạng, nhưng luôn luôn chỉ có một Thánh Thần.
-Nhiều thừa tác khác nhau trong Giáo Hội, nhưng luôn luôn chỉ có một Chúa (Đức Kitô).
-Nhiều họat động khác nhau, nhưng luôn luôn có một Thiên Chúa (Chúa Cha), Đấng hoạt động trong mọi người.
- Mục đích duy nhất của các đặc sủng: vì lợi ích chung.
Thánh nhân đưa ra “luật vàng”: tiêu chuẩn của các đặc sủng phải là vì lợi ích của cộng đoàn. Nghĩa là, nếu không vì ích lợi của cộng đoàn thì những đặc sủng chỉ là giả hiệu. Tiếp theo, thánh nhân đưa ra một sự so sánh nổi tiếng về một thân thể duy nhất với nhiều bộ phận: một Đức Kitô, một Giáo Hội, bất chấp nhiều bộ phận khác nhau. Nguyên tắc của sự duy nhất chính là Thánh Thần, Đấng duy nhất và từ Ngài mà mọi đặc sủng được ban cho tất cả mọi tín hữu. Sự sống Thánh Thần trào dâng trong chúng ta như nguồn nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)
Phụng Vụ đề nghị cho chúng ta bản văn Ga 20: 19-23 trong viễn cảnh lễ Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn văn nầy thường được gọi “lễ Ngũ Tuần theo Tin Mừng Gioan”: Đức Giê-su “thổi hơi trên các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’”. Chúng ta sẽ thấy biến cố được tường thuật trong Tin Mừng Gioan này không mâu thuẫn với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống được tường thuật trong sách Công Vụ, nhưng là phần bổ túc thần học: “Giáo Hội được khai sinh kể từ biến cố Phục Sinh” ngay cả nếu những ân ban Thánh Thần sẽ được bày tỏ sau nầy. Vài nét đặc trưng của đoạn Tin Mừng hôm nay đáng được nhấn mạnh hay nhắc nhớ.
- Giáo Hội được khai sinh dưới dấu hiệu Thiên Chúa Ba Ngôi:
Vào ngày này, cộng đoàn nhỏ bé nầy hình thành Giáo Hội của Đức Giê-su. Ngài ủy thác cho họ sứ mạng là tiếp tục sự nghiệp của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”, và Ngài thổi hơi trên các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Giáo Hội được khai sinh dưới dấu hiệu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một trong những lời dạy cốt yếu của bản văn nầy.
- Cuộc sáng tạo mới:
Đức Giê-su thổi hơi trên họ, lập lại cử chỉ của Đấng Sáng Tạo, Đấng làm sinh động con người bằng cách thổi hơi sự sống của chính mình vào con người. Động từ được thánh Gioan sử dụng dù chúng ta không gặp thấy ở bất cứ nơi nào khác trong Tân Ước, nhưng đích thật động từ của sách Sáng Thế để chỉ cử chỉ của Đấng Sáng Tạo trong việc tạo dựng con người đầu tiên (St 2: 7).
Đây cũng là động từ mô tả những bộ xương khô được hồi sinh trong một thị kiến nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Ngươi hãy nói với thần khí: Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân nầy cho chúng được hồi sinh.” (Ed 37: 9). Vì thế, động từ này cốt yếu là đánh dấu “một cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới được khai sinh. Đức Giê-su làm cho các môn đệ của Ngài trở thành nhân tố của nhân loại được tái sinh. Để làm như vậy, Ngài tái tạo họ và tăng cường họ bằng cách thổi Thần Khí của Ngài trên họ, Ngài ban cho họ quyền tha thứ tội lỗi anh em của mình… Ngài đã hứa với họ: máu của Ngài đổ ra để tha thứ tội lỗi. Đó là sự phong nhiêu của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
- Biến cố Ngũ Tuần và biến cố Phục Sinh:
Thánh Gioan luôn luôn nhắm đến việc tuôn đổ Thánh Thần như nối kết với biến cố Phục Sinh. Thánh ký đã diễn tả tư tưởng nầy ở nơi lời công bố của Đức Giê-su khi Ngài nói về chính mình là “dòng nước hằng sống” vào lễ Lều: “Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh.” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần kín đáo và thân tình nầy mà Tin Mừng Gioan giữ lại, chỉ là khúc dạo đầu của Lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động Thần Khí sẽ biến đổi ngay tức khắc các môn đệ. Tuy nhiên, khi đặt biến cố Vượt Qua và biến cố Ngũ Tuần một cách nào đó bên cạnh nhau, thánh Gioan nhấn mạnh sự duy nhất sâu xa của hai biến cố nầy. Hai ngày đại lễ được nối kết rồi trong Do thái giáo. Đến phiên mình, thánh Gioan khẳng định sự bền vững của chúng trong viễn cảnh mới.
.
Lm. Jos DĐH.
Truyện ngụ ngôn: “Con quạ và bình nước” có nói về một buổi trưa hè nóng nực, quạ đi khắp nơi tìm nước uống, nó phát hiện trong cái bình, cái lọ, có số nước đủ để nó sử dụng qua những ngày khô hạn. Nó mừng vì đã gặp được nước, nó lo bởi làm sao để uống, vì cái mỏ của nó ngắn không thể cho vào cái lọ chỉ có nước ở phía đáy ! Với một thời gian tập trung suy nghĩ, quạ đã biết cách chuyển từng hòn sỏi vào cái lọ để nước dâng lên mà uống. Với con quạ, kiên nhẫn là bước đầu dẫn tới thành công, không ngã lòng là điều kiện để đạt tới hạnh phúc. Đối diện với khó khăn trong đời, có người lạc quan cho rằng: cái khó ló cái khôn ; có kẻ chán nản, miễn cưỡng chấp nhận với số phận nhưng luôn miệng than thở: bị sao quả tạ đè ! Đồng ý rằng cuộc đời có kẻ ăn không hết, người lần không ra ; khối kẻ làm chơi ăn thật, buôn may bán đắt. Nhưng đã làm người, muốn thành công, muốn có hạnh phúc, ai cũng phải phấn đấu.
Số các môn đệ được gọi, được chọn, được mắt thấy tai nghe, được sống bên Vị Thầy tài giỏi đức độ 3 năm, tưởng chừng những ngư phủ ấy có số đỏ, số hên, và rồi bản lĩnh tông đồ của các ông đã tắt, đã mất, khi Thầy của các ông bị người ta bắt bớ hành hạ, đóng đinh vào thập giá. Khi ở bên các học trò, Thầy Giêsu không hứa hẹn công danh sự nghiệp dành cho các ông, Thầy đã từng ân cần nhắc các môn đệ về giới răn mới: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Trước khi chịu tử nạn, Thầy qui tụ các môn đệ, và chỉ nói đến tình yêu: nếu các con yêu mến Thầy, hãy giữ lời Thầy ; người ta sẽ nhận ra các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau. Ý thức sống ơn gọi làm người tốt, tiền nhân chúng ta dạy con cháu: người quân tử lấy ân nghĩa để sống, lấy chữ tín để thể hiện ân đức ; kẻ tiểu nhân thì không ngần ngại dùng thủ đoạn để đạt mục đích.
Đức Giêsu không nói suông, Ngài đã sống mẫu gương yêu thương, truyền dạy những ai theo Chúa hãy giữ lấy tình yêu của Chúa, thực thi đức ái như Chúa, thế là đủ, là đẹp. Sống ở đời, biết tìm gặp thầy có tâm, có tầm, để thọ giáo đã khó rồi, lĩnh hội được kiến thức thầy truyền đạt lại phức tạp hơn, và có biết sống những lời tâm huyết của thầy hay không, đó mới đáng là độ đệ, là môn sinh của thầy. Trong tình yêu, việc đáp đền ân nghĩa bằng quà cáp vật chất, bằng lời nói đầu môi chót lưỡi, đều bất xứng ; Đấng phục sinh đã trao ban cả mạng sống, Ngài mời gọi tất cả những ai tin theo Ngài đều phải phản ánh tình yêu thật, sống chân thật. Hôm nay, mừng Chúa Thánh Thần hiện xuống, sách Công vụ tông đồ cho thấy Thánh Thần tình yêu, tác động khai sinh Hội Thánh. Thánh Thần tình yêu với hình lưỡi lửa xuống trên các tông đồ, giúp các ông nói những tiếng mới lạ về tình yêu của Đấng phục sinh cho muôn dân thiên hạ. Nói theo ngôn ngữ của thời đại: đánh mõ không bằng gõ thớt ; trăm lời nói yêu không bằng một hành động.
Hôm nay đây, Thánh Thần không còn là hình lưỡi lửa, không còn là gió, là tiếng lạ, không còn gõ thớt, gọi tới ăn uống, không còn là lời nói yêu vu vơ ; Thánh Thần là tình yêu Ba Ngôi, Thánh Thần là tình yêu Đấng phục sinh trao ban: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha,…”. Ngày hôm nay, để giải sầu, có kẻ tìm đến ma men làm bạn, có kẻ tìm ma túy hy vọng sớm được giải thoát, người kitô hữu chán nản thất vọng, thì được mời đến với các bí tích để cầu nguyện, xin ơn, mong ước được nghe và hiểu thánh ý Chúa. Để củng cố niềm tin cho các học trò, Đấng phục sinh thông ban Thánh Thần, cũng là ban tình yêu, ban sức mạnh, nhằm giúp các ông nhận ra tình yêu Thánh Thần quan trọng thế nào đối với sứ mạng người tin theo Chúa.
Dù ở đời, chúng ta có bạn thân để chung chia vui buồn sướng khổ, nhưng dễ gì chúng ta có bạn tri kỷ để chia sẻ để lắng nghe, cảm thông, và cùng ta đi suốt hành trình đời người ? Đức Giêsu vì tình hiệp thông nên một, Ngài đã từng gọi các học trò là bạn hữu ; Đấng phục sinh đến với các môn đệ, Ngài ban bình an, ban Thánh Thần tình yêu, và ở bên Chúa Cha, Ngài mong các học trò có mãi tình yêu Thánh Thần, tức là có trọn vẹn sự hiện diện của Thầy. Nếu lúc này, Đấng phục sinh có tỏ mình ra đây, ngài vẫn ban Thánh Thần tình yêu, vẫn ban sứ mạng riêng cho từng người chúng ta, hướng dẫn chúng ta gìn giữ ơn ban và sống đức ái riêng của mỗi người. Nếu giờ này, Đấng phục sinh diện cách hữu hình để nói với chúng ta, Ngài sẽ không nói: đố ai sống được mà không yêu, không nhớ không thương một người nào ? Nhưng Ngài sẽ nói: đố ai làm môn đệ của Ta mà không có tình yêu Thánh Thần, đố ai đạt tới hạnh phúc thật mà chưa thực thi đức ái ?
Các chuyên viên tư vấn về tình yêu đôi lứa cho rằng: phụ nữ không có sức hút sẽ cảm thấy thanh niên con trai thật lăng nhăng ; kẻ nam nhi không có thực lực, họ sẽ nói phụ nữ sao thực tế quá ! Người tin theo Chúa hời hợt, dễ nản chí khi gặp đau khổ, dễ buông xuôi khi đối diện với thất bại ! Người tín hữu kitô có dồi dào tình yêu trong cuộc sống, không phải vì tôi là nam, là nữ, là linh mục tu sĩ, nên tôi có được lực hút của tha nhân, đúng hơn, vì người kitô hữu thật khôn ngoan biết giữ lấy tình yêu của Đấng phục sinh trong tâm hồn mình. Amen.
.
Lm. Giuse Lê Danh Tường
Đức Giê-su đã chết như bao con người trên thế gian đã chết và sẽ chết. Nhưng Đức Giê-su đã sống lại và tiến vào trong vinh quang bất tử cùng Chúa Cha. Ngài đã về Trời và kéo theo tất cả những ai tiến bước theo Ngài. 50 ngày sau biến cố Đức Giê-su sống lại, ngày lễ Ngũ Tuần, một luồng Sinh Khí từ Trời đổ xuống thế gian để những ai chấp nhận chết đi con người cũ thì được sống đời sống mới, được sinh lại bởi Thần Khí ấy.
Còn thở là còn sống. Cái trải nghiệm ấy nơi con người ai mà chẳng rõ. Đứa bé thoát thai khỏi lòng mẹ, nó hét lên làm bung nở toàn thân và căng phồng lá phổi. Kể từ lúc ấy nó liên tục thở. Nó hít khí vào đầy buồng phổi để đem oxy đi nuôi dưỡng toàn thân; liền sao đó nó thở khí ra để đẩy hết khỏi buồng phổi các khí cacbonic độc hại.
Loài người luôn tìm cách khống chế cái chết. Nếu người ta không thoát được cái chết thì ít là làm cho cái chết lâu đến. Những cách thức khác nhau được người ta dùng để làm chủ và duy trì hơi thở. Người ta có thể quán chiếu hơi thở, làm chủ hơi thở, rồi hòa mình vào vũ trụ để tiếp nhận sinh khí chan hòa của đất trời mà được sống lâu.
Các Thiền sư, các Đạo sỹ đã nỗ lực tìm tòi phương thế để làm chủ hơi thở, làm chủ sự sống. Tất cả muốn thoát khỏi vòng sinh ly từ biệt để được bước vào cõi vĩnh hằng.
Đối với người Do Thái, trải nghiệm về hơi thở đã có từ ngàn xưa. Việc Thiên Chúa tạo dựng con người được diễn tả bằng một cử chỉ quyết định: “thổi sinh khí vào lỗ mũi” (St 2,7). Nếu không có sinh khí ấy, con người vẫn chỉ là bùn đất. Nhưng rồi con người phạm tội và hậu quả của nó là cái chết: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19).
Khát khao mãnh liệt được sống và sống mãi của dân đã được tiên tri Ê-dê-ki-en mô tả bằng hình ảnh: những mảnh xương khô được hà hơi và chúng đã chỗi dậy, được sống lại: “Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân nầy cho chúng được hồi sinh” (Ed 37, 9).
Trước khi chịu chết, Đức Giê-su đã không ngừng hứa ban Thần khí cho các môn đệ. Trong trình thuật ngày lễ Ngũ tuần nơi các Tông đồ đang hội họp, lời hứa của Đức Giê-su đã trở thành hiện thực (x. Cv 2, 1-11). Nếu như cảnh anh em giết nhau (Cain và Abel x. St 4, 1-13), chia rẽ bởi bất hòa (Tháp Babel x. St 11, 1-9), sự tận diệt trong Lụt Hồng Thủy (x. St 6 – 8) là bằng chứng cho thấy hậu quả ghê gớm của tội lỗi dẫn đến cái chết; thì việc quy tụ trong một căn nhà Tiệc Ly, việc mọi người nói các thứ tiếng khác nhau đều hiểu điều các Tông đồ rao giảng là bằng chứng cho thấy hiệu quả của Thần Khí ban sự sống (x. Cv 2, 1-11).
Thánh Gioan đã thuật lại giờ phút các Tông Đồ lãnh nhận Thánh Thần: “Người thổi hơi và phán bảo các ông: ‘Các con hãy nhận lấy Thánh Thần’” (Ga 20, 22). Với hành động “thổi hơi” và ban Thần khí của Chúa Giê-su, Thánh sử đã trình bày một cuộc tạo dựng mới, sự tái sinh trong Thần khí nơi các Tông đồ.
Các Tông đồ là những người đầu tiên đón nhận Thần Khí. Con người sợ hãi thiên hạ, sợ hãi cái chết, nhút nhát, yếu hèn nơi các ông đã chết. Các ông trở thành con người mới, con người được tái sinh bởi Thần Khí. Họ trở nên can đảm, dấn thân cho sự thật, làm chứng cho Chúa, loan báo và trao ban tình yêu, coi cái chết là cánh cửa bước vào vinh quang.
Các Tông đồ là những người đi theo Đức Giê-su và đã có không ít những lần các ông tìm cách thế loài người, tin tưởng vào sức mạnh của Thầy trong tư cách là một con người với nhiều khả năng. Nhưng các ông cũng đã bị Thầy chỉnh đốn nhiều lần. Thầy cố kéo các ông ra khỏi cái hạn hẹp của con người, hướng các ông về quyền năng đến từ Trời. Cái chết của Thầy đã khiến cái khát vọng quyền thế trần gian của các Tông đồ sụp đổ hoàn toàn. Nhưng chính trong lúc nhận ra cái vô thường của khả năng con người, chấp nhận thân phận của mình, và khao khát ơn Trời thì Thần Khí đã được đổ xuống trên các ông.
Thánh Gioan, Người Môn đệ Chúa yêu, đã quả quyết: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (Ga 6, 63). Quả thực, việc chế ngự thân xác, làm chủ mọi tư tưởng trong ta sẽ giúp ta sống thảnh thơi an nhàn. Nhưng ngần ấy chưa đủ để thoát khỏi thế gian, thoát khỏi kiếp phàm trần trật hẹp trong vòng sinh tử. Cần lắm một ánh mắt hướng về Trời cao, một bàn tay vươn hướng về Trời. Sự chấp nhận chính mình, dám chết đi cho con người cũ là cánh cửa mở ra để đón nhận Thần Khí từ Trời.
Lậy Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống, xin đổ đầy trong con Thần Khí Ngài. Xin Ngài tái tạo nơi con thành con người mới để con được sống và sống dồi dào trong ơn nghĩa Chúa.
.
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG.
Lm. Antôn
Sau khi sống lại, Chúa Giê-su đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần để minh chứng cho họ biết một cách xác thực Người đã sống lại thật, để củng cố niềm tin giúp các ông can đảm thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng, làm chứng về tình yêu và ơn cứu độ cho mọi người. Sau đó Chúa đã về trời ngự bên hữu Chúa Cha. Nhưng trước khi về trời, Chúa hứa sẽ ban cho các ông Chúa Thánh Thần và ở lại với các ông cho đến ngày tận thế. Như vậy, Chúa Giêsu lên trời, chỉ có nghĩa là Người không còn hiện diện trong thân xác con người, nhưng vẫn hiện diện bằng một cách đặc biệt qua Lời Chúa, qua phép lạ, qua Bí tích và qua Chúa Thánh Thần.
Đúng như lời Chúa đã hứa, trong ngày lễ Ngũ tuần khi các tông đồ đang cầu nguyện trong phòng đóng kín thì Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các ông và các ông được tràn đầy ơn sủng Chúa Thánh Thần. Bài đọc 1 trích sách Tông đồ Công vụ hôm nay tường thuật sự việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ thì có nhiều hiện tượng xảy ra. Tôi xin được chia sẻ những hiện tượng sau đây. Hiện tượng thứ nhất là các tông đồ được Chúa Thánh Thần biến đổi từ những con người yếu hèn và sợ hãi đã trở nên những con người can trường, mạnh mẽ và tràn đầy ơn sủng.
Hiện tượng thứ hai là các tông đồ mở cửa ra ngoài rao giảng về Chúa Ki-tô cho những người Do thái từ nhiều quốc gia và nói nhiều thứ tiếng khác nhau thế mà ai cũng hiểu được. Thế thì chúng ta tự hỏi các Tông đồ đã nói thứ ngôn ngữ gì? Có nhiều giải thích khác nhau. Giải thích thứ nhất, chúng ta biết hàng ngày các tông đồ chỉ biết nói tiếng Do thái, đúng ra là tiếng Aram, vài người cũng có thể biết và nói bập bẹ vài tiếng Hy lạp. Nhưng hôm đó, do ơn Chúa Thánh Thần các ông đột nhiên nói được ngoại ngữ khiến cho những người không phải Do thái mà cũng không phải Hy lạp cũng hiểu được. Giải thích này không đúng, bởi vì dù các tông đồ nói ngoại ngữ thì cũng chỉ một vài ngoại ngữ mà thôi. Thế mà hôm đó những người nghe thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau. Bài đọc 1 đã liệt kê mười mấy thứ ngôn ngữ. Làm sao các ông có thể nói một lượt mười mấy thứ ngôn ngữ ấy được!
Giải thích thứ hai, các tông đồ nói bằng một thứ tiếng hoàn toàn mới lạ, có nghĩa là không phải tiếng Do thái, cũng không phải tiếng Hy lạp, cũng không phải thứ ngôn ngữ nào trong mười mấy thứ ngôn ngữ kia. Nhưng Chúa Thánh Thần khiến cho mọi người đều hiểu. Giải thích này cũng chưa hoàn toàn đúng, bởi vì nếu các tông đồ nói thứ ngôn ngữ lạ này, thì cũng phải có người cũng được ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần giúp người đó hiểu và dịch lại cho những người khác hiểu. Bài đọc 1 cho chúng ta thấy dân chúng không cần ai dịch mà vẫn hiểu, cho nên đó không phải là ngôn ngữ lạ. Giải thích thứ ba, các tông đồ nói bằng tiếng Do thái quen thuộc của các ông, nhưng Chúa Thánh Thần giúp cho dân chúng hôm đó thuộc đủ mọi thứ tiếng khác nhau cũng hiểu được.
Những giải thích chi tiết về ngôn ngữ trên đây về lời rao giảng của các tông đồ hôm đó còn nhiều khó khăn, nhiều bất đồng và đến nay vẫn chưa có một giải thích thích đáng. Nhưng có một điểm được hầu hết các nhà chuyên môn về Thánh kinh nhất trí, đó là câu truyện về sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống là đối tượng của câu truyện tháp Babel ngày xưa. Ngày xưa ở Babel, con cháu ông Noe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau, bỗng dưng vì tự cao, vì tội kiêu ngạo muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình hơn Thiên Chúa nên bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, làm cho người này không hiểu người kia được nữa. Truyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không có ơn Chúa, không được Thiên Chúa quy tụ thì sẽ sinh ra chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm được cho nhau. Sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống với ơn sủng đã sửa lại sự hư hại đó. Có nghĩa là hôm lễ Ngũ Tuần, tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc, quốc gia và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu? Thưa nhờ Chúa Thánh Thần và nhờ những chứng nhân can đảm, đầy tràn ơn sủng Chúa Thánh Thần và lòng xác tín vào Chúa Ki-tô Phục sinh quy tụ và nối kết họ lại.
Bài đọc 1 còn cho chúng ta một bài học về sự đoàn kết và hiệp nhất trong đức tin giữa những người vốn có nhiều điểm dị biệt và cuộc sống khác nhau. Chúng ta biết đoàn kết hiệp nhất là cần thiết, quan trọng và hữu ích để rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa và xây dựng Nước Chúa, nhất là đối với những người Việt Công giáo chúng ta sống tại thành phố Tulsa này. Sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta biết rằng sở dĩ Giáo hội thuở ban đầu phát triển nhanh rộng là nhờ các tín hữu biết đoàn kết, hiệp nhất và yêu thương giúp đỡ nhau. Họ bỏ và vượt qua những sự tranh chấp, khác biệt, có lòng hy sinh và quảng đại, và nhất là biết yêu thương và giúp đỡ nhau sống đức tin và luôn trung thành với Chúa, làm cho người lương, người không có đạo thấy cuộc sống hiệp nhất yêu thương ấy quá tốt đẹp và đầm ấm, nên thích và xin gia nhập Giáo hội.
Nhưng câu hỏi quan trọng là làm sao để có sự đoàn kết và yêu thương hiệp nhất? Trong bài đọc 2, thánh Phaolô cho chúng ta biết một số điều quan trọng về sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống đức tin của chúng ta. Thứ nhất, nguồn gốc mọi ân sủng của chúng ta là từ Chúa Thánh Thần. Ngài ban các ân sủng khác nhau cho từng người tùy theo nhu cầu và không ai giống ai. Tuy nhiên các ân sủng ấy không phải để làm lợi hay vinh danh cá nhân, nhưng nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn, và xây dựng Giáo hội. Điều thứ hai, thánh Phao lô cho chúng ta biết Giáo hội được so sánh như một thân thể, cần phải có sự liên kết và cộng tác của các chi thể. Thánh Phao-lô dạy mỗi Ki-tô hữu là những chi thể được kết hợp lại thành một thân thể mà Chúa Ki-tô là đầu, vì thế, mọi chi thể hay mọi thành phần phải cố gắng hợp nhất, hy sinh và quảng đại để chung sức xây dựng giáo xứ và Giáo hội, là Thân Thể Chúa Kitô.
Hơn lúc nào hết, ngày hôm nay và trong xã hội này, tất cả chúng ta, người Công giáo Việt nam sống trong thành phố Tulsa này, cần Chúa Thánh Thần và những ơn sủng của Ngài, để rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh và xây dựng giáo xứ. Chúng ta ý thức rằng ngày nay Giáo hội, giáo xứ và mỗi người chúng ta còn phải đương đầu với những khó khăn thử thách, những cám dỗ và cạm bẫy, cho nên chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần gìn giữ che chở Giáo hội, tiếp tục biến đổi và thánh hóa mỗi người chúng ta, để luôn được kết hợp trong Thân Thể Chúa Ki-tô, giúp nhau sống đức tin, xây dựng cộng đoàn giáo xứ và làm sáng danh Chúa, và sống trong bình an và ơn sủng của Người.
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Theo Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các tông đồ vào chính buổi chiều ngày Phục sinh, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Trong lần gặp gỡ này, Đấng Phục sinh ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần và sự bình an, như hai quà tặng gắn liền với nhau. Quả vậy, Thánh Thần là chính sự bình an đích thực, được ban cho Giáo Hội, để rồi nhờ sự hướng dẫn của Ngôi Ba Thiên Chúa, Giáo Hội luôn được an bình trước phong ba bão táp của cuộc đời.
Cùng với ân ban Thánh Thần, vào buổi chiều ngày Phục sinh, Chúa Giêsu còn sai các tông đồ lên đường loan báo Tin Mừng. Các ông được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, nên can đảm vững vàng, không còn nhút nhát sợ hãi. Để thi hành sứ vụ, Đấng Phục sinh ban cho các tông đồ quyền quản trị Giáo Hội, quyền này được thể hiện qua việc tha tội và cầm buộc. Tất cả những gì Chúa trao phó cho các tông đồ, đều được thực hiện nhờ quyền năng của Thánh Thần, Đấng là linh hồn của Giáo Hội. Nhờ Ngài mà Giáo Hội sống động và tăng trưởng mạnh mẽ.
Sự kiện Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ mà Thánh Luca đã thuật lại, vẫn được coi như điểm khởi đầu của Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập. Trước đó, biến cố Phục sinh đã được Sứ thần loan báo cho các phụ nữ, rồi đến lượt các bà loan báo cho các tông đồ, nhưng họ không tin các bà. Họ sợ hãi và không hiểu sự gì đang xảy ra. Kể cả khi chính Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các ông, một số trong các ông vẫn không tin. Chỉ đến lúc Chúa Thánh Thần ngự đến, tâm trí các ông mới được mở ra. Vào ngày Ngũ Tuần, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội khởi đầu thực thi sứ mạng rao giảng và cử hành các mầu nhiệm. Điều này được chứng tỏ qua lời giảng dạy của Thánh Phêrô và sau đó là cử hành bí tích Thanh tẩy cho ba ngàn người nhập Đạo. Những khách hành hương ở Giêrusalem hết sức bỡ ngỡ trước lời giảng dạy của các tông đồ. Trong khi Thánh Phêrô giảng bằng tiếng Do Thái, họ lại nghe và hiểu bằng tiếng bản địa của mình. Chính Chúa Thánh Thần, qua hình ảnh lưỡi lửa, đã ban cho các ông ơn ngôn ngữ để rao giảng Đức Giêsu. Nếu Thánh Phêrô giảng dạy bằng lời nói, thì chính Chúa Thánh Thần tác động bên trong, để mỗi người được soi sáng và đón nhận Đức tin.
Như thế, với sự hiện hữu của Chúa Thánh Thần giữa lòng Dân Thánh, không còn chỗ cho sự sợ hãi. Ngay từ thời khởi đầu, Giáo Hội can đảm đối diện với mọi khó khăn đến từ Do Thái giáo và từ Đế quốc Rôma. Trong suốt bề dày lịch sử, sự trường tồn của Giáo Hội là minh chứng hùng hồn cho sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng củng cố Đức tin cho các tín hữu. Nhờ bảy ơn của Ngài mà người tín hữu có thể sống Đức tin trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Hơn nữa, họ còn sống như men trong bột, làm cho xã hội thấm đượm tinh thần Phúc âm.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã loan báo: “Khi Đấng Bảo trợ Thày sẽ sai từ nơi Chúa Cha đến, Ngài là Thần Chân lý phát xuất từ nơi Chúa Cha, và Ngài sẽ làm chứng về Thày” và “Ngài sẽ hướng dẫn anh em tới sự thật toàn diện”. Những lời này đã được thực hiện vào Ngày lễ Ngũ Tuần. Ngày hôm nay, lễ Ngũ Tuần vẫn đang tiếp diễn trong Giáo Hội. Mỗi khi có một người được rửa tội và xức dầu là họ được chết với Chúa Kitô và sống lại với Người trong sự sống mới. Mỗi khi Giáo Hội cử hành phụng vụ, Chúa Thánh Thần ngự đến và làm cho bánh và rượu trở nên Mình và Máu Đức Giêsu.
Lễ Hiện Xuống nhắc chúng ta sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội và trong đời sống cá nhân của mỗi tín hữu. Chúng ta thường ít khi nghĩ đến điều này, mặc dù trước khi cầu nguyện, chúng ta vẫn có thói quen khởi đầu bằng hát hoặc đọc kinh Chúa Thánh Thần. Bài Ca Tiếp liên được đọc trong Thánh lễ hôm nay đã diễn tả tác động trực tiếp của Chúa Thánh Thần đối với đời sống chúng ta: “Nếu không có Chúa hộ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội”. Thánh Phaolô khuyên giáo dân Côrinhtô: “Không ai có thể xưng tụng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần” (Bài đọc II). Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta nhận biết Đức Giêsu và gắn bó mật thiết với Người.
Hoạt động của Ngôi Ba Thiên Chúa bao trùm toàn thể Giáo Hội và mỗi cá nhân chúng ta. Chúng ta hãy xác tín điều đó, đồng thời luôn cầu xin ơn Chúa Thánh Thần, để Ngài hướng dẫn chúng ta trên mọi nẻo đường đời, để chúng ta biết sống hợp nhất với nhau trong tình mến. Có ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, chắc chắn chúng ta sẽ bước đi trong bình an, vì Ngài là Đấng củng cố lòng tin của chúng ta.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống. Tin Mừng hôm nay thuật lại: Chúa Giêsu thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cử chỉ này nhắc ta nhớ lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người. Sách Sáng thế 2,7 tường thuật: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật”. Hơi thở là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sự sống. Không phải là một sự sống bình thường như sự sống của các sinh vật khác. Đây là sự sống của Thiên Chúa với tất cả những chiều kích cao sâu phong phú của nó. Trong khuôn khổ Lời Chúa hôm nay ta có thể thấy sự phong phú của sự sống Chúa Thánh Thần.
Đó là sự sống thiêng liêng. Sự sống là tất cả. Nên sự sống là món quà quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho con người. Không có sự sống là không có gì hết. Còn hơn thế nữa. Chúa ban cho ta sự sống của chính Thiên Chúa. Cho ta giống hình ảnh cao đẹp của Chúa. Cho ta được chung hưởng sự sống hạnh phúc với Chúa.
Đó là cuộc sống trong bình an. Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra một định nghĩa mới về sức khoẻ. Khoẻ mạnh không phải chỉ là không có bệnh tật gì mà còn phải là cuộc sống bình an. Chúa Thánh Thần là sự sống bình an. Nên các môn đệ đang lo âu sợ hãi bỗng trở nên mạnh mẽ, can đảm. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn. Nhưng các ngài vẫn vui tươi và bình an.
Đó là cuộc sống hiệp thông. Con người không sống đơn độc, nhưng sống với người khác. Cuộc sống xã hội làm con người nên phong phú. Nhưng cuộc sống xã hội chỉ phát triển trong sự hiệp thông. Đó chính là ơn Chúa Thánh Thần. Ngày Lễ Ngũ Tuần, thế giới tràn ngập ơn hiệp thông. Nên người muôn dân muôn nước, dù khác biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ vẫn hiểu biết và sống chan hoà. Sách Công vụ Tông đồ đề cập đến người thuộc 17 địa phương khác nhau. Ta nghĩ đến 70 lần 7. Con số vô vàn vô số chủng tộc có thể sống với nhau trong tình hiệp thông chan hoà.
Đó là cuộc sống yêu thương. Chúa Thánh Thần là tình yêu muôn đời giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Là tình yêu nguyên thuỷ. Là tình yêu của mọi tình yêu. Giáo hội sơ khai được ơn Chúa Thánh Thần nên sống với nhau trong tình yêu thương. Mọi người đối xử với nhau như anh em ruột thịt. Bỏ của cải làm của chung. Nên không ai bị thiếu thốn.
Đó là cuộc sống hài hoà. Thánh Phaolô diễn tả cuộc sống theo ơn Chúa Thánh Thần khiến xã hội trở nên hài hòa như trong một thân thể. Mỗi người làm việc riêng theo chức năng của mình. Nhưng hài hoà với mọi người, như các chi thể trong một thân thể. Mỗi chi thể làm việc riêng nhưng đều hướng về lợi ích của toàn thân. Ta hãy xem một cầu thủ đá bóng. Khi thấy bóng, mắt phải quan sát. Trí óc phải phán đoán. Chân tay phải chuyển động. Và cả mắt nhìn, cả trí phán đoán, cả chân tay chuyển động là làm sao đưa bóng đến mục đích. Như thế mọi thành phần trong cơ thể đều kết hợp hài hoà để đạt được ích lợi chung.
Nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy cuộc sống do Thiên Chúa tạo dựng đang bị phá vỡ. Lực lượng sự dữ tàn phá hình ảnh Thiên Chúa nơi con người; xúi giục con người sống theo thú tính; khiến khuôn mặt con người trở nên méo mó; đánh mất vẻ đẹp của hình ảnh Thiên Chúa; tàn phá lương tâm khiến con người không còn phân biệt thiện ác; tàn phá thiên nhiên khiến thế giới trở nên khó sống. Thiên nhiên nổi giận. Khí hậu biến đổi đang tác hại đến sự sống của con người. Tệ hại hơn nữa, lực lượng sự dữ tàn phá chính sự sống. Và tồi tệ nhất là con người huỷ diệt chính sự sống khi giết hại thai nhi là chính con người, chính con cái của mình. Sự xấu làm cho cuộc sống mất bình an. Con người phải sống trong lo sợ. Sợ bị mất mạng. Sợ bị mất tiền của. Sợ bị mất danh dự. Sợ bị mất tự do. Sợ hãi làm cho con người sống mà như đang chết đi. Sự xấu làm mất tình hiệp thông. Người trong một nước nói cùng ngôn ngữ mà không hiểu nhau. Người trong một gia đình trở nên xa lạ vì mỗi người đều nghĩ đến quyền lợi riêng. Cuộc sống thiếu tình yêu thương. Đang có những tình anh em kiểu Cain và Abel. Rủ nhau ra đồng để giết hại nhau. Tình đồng chí kiểu môi hở răng lạnh. Nhưng răng cắn môi đau. Và cuộc sống thiếu sự hài hoà; khiến cho các tập thể trở nên rời rạc. Vì mỗi người không nhìn đến lợi ích chung của toàn thân. Chỉ biết vun quén cho riêng mình.
Chính trong tình hình này, ta cần ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Chỉ có Chúa Thánh Thần Đấng Ban Sự Sống mới có thể thay đổi, phục hồi và phát triển sự sống cho thế giới. Vì thế, ta phải tha thiết kêu van xin Chúa Thánh Thần ngự đến.
Lạy Đấng Ban Sự Sống xin hãy đến. Xin hãy thổi hơi thần linh để con người được có lại sự sống của Thiên Chúa.
Lạy Đấng Bảo Trợ xin hãy đến. Chúa là nguồn mạch bình an. Xin hãy ban bình an cho chúng con.
Lạy Nguồn Ơn Hiệp Thông xin hãy đến. Ngài là sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Xin hãy ban ơn hiệp thông để thế giới ngày càng gần gũi hiểu biết nhau hơn chí người trong cùng một nhà mà cũng như xa lạ, không thể hiểu nhau.
Lạy Thánh Thần Tình Yêu xin hãy đến. Ngài là tình yêu của mọi tình yêu. Là tình yêu nguyên thủy giữa Chúa Cha và Chúa Con. Xin cho chúng con sống với nhau trong tình bác ái huynh đệ chân thực.
Lạy Thánh Thần Hài Hoà xin hãy đến. Ngài làm cho tất cả “dầu là Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, nếu đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí đều trở nên một thân thể”. Và mọi chi thể trong thân thể đều kết hợp hài hoà nhịp nhàng ăn khớp để hoạt động vì cùng một mục đích là ích lợi cho toàn thân.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và đổi mới mặt đất này. Nhưng mặt đất này do con người tàn phá. Nên xin hãy đổi mới tâm hồn con người. Xin đổi mới mọi sự trong ngoài chúng con. Để chúng con nên con người mới, xây dựng một thế giới mới chan hoà sự sống, chan hoà bình an, chan hoà tình yêu thương.
Lạy Mẹ Maria, xưa kia Mẹ đã cùng với các Tông đồ trong nhà Tiệc Ly cầu nguyện xin Chúa Thánh thần ngự đến; nay xin Mẹ cũng tiếp tục cầu nguyện để chúng con được đón nhận Chúa Thánh Thần.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nếu trong cuộc đời khi gặp gian nan có một quý nhân giúp đỡ chắc chúng ta mừng lắm. Họ là cái phao cứu nguy cho ta. Một cái phao rất cần trong cuộc sống vì không phải lúc nào đường đời cũng bằng phẳng, không phải cuộc sống lúc nào cũng êm xuôi. Thế nên, cần lắm những người bảo trợ cho ta. Họ sẽ luôn ở bên ta. Họ sẽ động viên và ủng hộ chúng ta. Họ sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn. Nhưng không phải nhà tài trợ nào cũng tốt, cũng mang lại lợi ích cho chúng ta, đôi khi, chính họ lại gây phiền toái, đau khổ cho chúng ta. Nếu chọn nhầm nhà bảo trợ thì phúc không thấy chỉ thấy họa vào thân.
Tổ tông Adam là một điển hình. Kinh Thánh cho ta thấy dường như Adam đã thất bại từ khi có người bảo trợ được sai đến bên ông.
Kinh thánh nói rằng: Hồi ấy, Gia-vê Thiên Chúa thấy A-dam ngồi buồn hiu bên muôn thú ngoan hiền, mà sao vẫn không được vui. Gia-vê vội lên tiếng, hỏi:
– Này hỡi A-đam, sao con có chuyện gì mà buồn thế ?
– Thưa Ngài, con không có bạn hiền để tương trợ, nâng đỡ , bảo ban, tâm sự. Nên con buồn.
Gia-vê động lòng trắc ẩn nên chờ đến lúc ông thiếp ngủ, Ngài nhè nhẹ tiến đến gần, rút ra một đốt xương sườn cụt, và tạo nên người đàn bà rất “khó… bảo”. Xong xuôi đâu đấy, Ngài nhìn A-đam hiền khô mà thấy tội, mà ái ngại bảo thầm: “Con à, Ta làm việc này chẳng qua cũng là vì con muốn, đó thôi. Đây sẽ là giấc ngủ bình an cuối cùng của con, đấy. Ta thật ra chẳng muốn bảo đảm gì thêm…”.
E-va đã đến như một người bảo trợ được sai đến mang lại niềm vui cho Adam. Thế nhưng, nàng lại là nguyên nhân gây nên những đau khổ cho Adam và cho cả kiếp người. Vì nàng mà tội lỗi đã vào thế gian. Vì nàng mà người đàn ông phải vất vả mới có cái ăn. Nói quá một chút là từ ngày có Eva thì Adam chẳng còn bình an!
Ở xã hội hôm nay cũng đầy rẫy những chuyện thị phi chung quanh vấn đề bảo trợ. Nào là nhận bố nuôi hay bố tinh thần. Mới đầu còn kính trọng gọi bố xưng con nhưng dần dần đổi sang gọi thân mật hơn là bố mày ơi! Người bảo trợ hay được bảo trợ đôi khi cũng chỉ lợi dụng nhau nhiều hơn là lòng bác ái chân thành. Rất nhiều những cơ sở nuôi cô nhi hay người già thì ăn chặn tiền dâng cúng. Họ nhân danh bảo trợ để trục lợi cho bản thân. Mới đây một giám đốc trung tâm Bảo trợ xã hội ở Nghệ An đã ăn chận của trung tâm tới 800 triệu đồng . . . Một giám đốc bảo trợ có quan hệ với trẻ vị thành niên mình nuôi nấng . . .
Xem ra bảo trợ loại này mang lại họa nhiều hơn phúc. Tình người vẫn giới hạn vì những tham sân si còn đó. Xã hội vẫn lắm thị phi khi nhân danh công đức để trục lợi bản thân. Quả là từ ngày có bảo trợ thì chẳng có bình an!
Hôm nay Chúa Giê-su hứa ban cho chúng ta một Đấng Bảo Trợ. Đấng bảo trợ này không hứa mang lại cho chúng ta cơm no áo ấm. Không mang lại lợi nhuận vật chất mau qua cho chúng ta. Đấng bảo trợ mà Chúa Giê-su ban tặng sẽ giúp chúng ta sống theo luật Chúa, sẽ gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ của ác thần. Đấng bảo trợ sẽ dạy dỗ chúng ta đi trong chân lý của Tin mừng. Như vậy, Đấng bảo trợ này sẽ mang lại bình an tâm hồn khi Ngài uốn nắn chúng ta sống theo thần khí để thoát khỏi những tham sân si. Đấng bảo trợ sẽ chẳng có lợi gì khi nhận bảo trợ chúng ta, vì Ngài là Thiên Chúa trọn hảo nên không cần sự bù đắp của con người. Ngài sẽ dẫn chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn.
Cuộc đời con người là một hành trình đầy cám dỗ, đầy ngã rẽ của cạm bẫy Sa-tan nên rất cần có Đấng Bảo Trợ là Ngôi Ba Thiên Chúa gìn giữ chở che. Chính Ngài sẽ nhắc nhở chúng ta về những sai lầm cần hoán cải. Chính Ngài sẽ giúp chúng ta sống và thực thi lòng thương xót của Chúa.
Xin cho chúng ta luôn tin nhận Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ duy nhất có thể mang lại bình an hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta. Xin Đấng Bảo Trợ luôn gìn giữ chúng ta thoát khỏi mọi hiểm nguy của ba thù và dìu chúng ta đi qua những khó khăn của dòng đời. Amen.
.
TẤT CẢ ĐƯỢC TRÀN ĐẦY THÁNH THẦN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Trong suốt tuần chín ngày, chúng ta đã cầu xin tha thiết : Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.
Giáo hội xin Chúa Thánh Thần đến để làm gì ? Thưa, Chúa Thánh Thần đến để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên).
Hôm nay ngày lễ Ngũ Tuần, ngày mà lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ được hoàn tất. “Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Dothái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông… thổi hơi trên các ông và nói : “Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần đã xuống trên các ông và ban đầy đủ các ơn cùng với các sự kiện bên ngoài.
Vì thế, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả. Vui, vì có Chúa Thánh Thần, Giáo hội không bị mồ côi, có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ lĩnh hội được tất cả những gì Chúa Giêsu muốn, Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên, là suối bẩy nguồn.
Giáo hội được Chúa Giêsu sai đến với mọi dân mọi nước và sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt và bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6). Thế nên, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Giáo hội để tiếp tục làm nhiệm vụ canh tân mặt đấy đổi mới lòng trí con người và đổi mới lòng trí con người hôm nay. “Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia.” Lời ca nhập lễ chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã “nhập thể” trong Hội Thánh.
Điều gì đã xảy ra trong ngày xa xưa ấy, lúc các Tông Ðồ đang tụ họp với nhau ở tầng trên của phòng Tiệc Ly vậy?
Thưa: dấu hiệu đầu tiên là ” Tiếng động từ trời phát ra tựa như gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp” (x. Cv 2,1). Tiếng động bất thình lình phát ra và các lưỡi lửa chia ra đậu trên đầu từng Tông Ðồ là các dấu chỉ cụ thể đụng chạm tới các Tông Ðồ, không chỉ bề ngoài, nhưng cả trong nội tâm; trong tâm trí nữa. Kết quả là “tất cả đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói” (Cv 2, 4).
Ngọn lửa đó là ngọn lửa tình thương đốt cháy mọi cứng cỏi; ngôn ngữ đó là thứ ngôn ngữ mới, ngôn ngữ đại đồng của tình thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng các tín hữu (x. Rm 5,5); một ngôn ngữ mà tất cả mọi người đều hiểu, và khi tiếp nhận có thể được diễn tả ra trong mọi cuộc sống và mọi nền văn hóa. Ngôn ngữ ấy là thứ ngôn ngữ của Tin Mừng vượt qua mọi ranh giới do con người đặt ra và đánh động tâm hồn nhiều người, không phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, tiếng nói hay quốc tịch.
Trong một Thánh Thần, tất cả được chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thẻ. Vì khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và khơi dậy nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn tùy theo lợi ích không ai giống ai. Có một Thánh Thần duy nhất hoạt động trong Hội Thánh, nên có nhiều chức vụ, công việc, những chỉ có một Thánh Thần điều khiển và hướng dẫn thể (x. 1 Cr 12, 3-7. 12-13).
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự. Người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý và tình thương nhắc nhớ chúng ta về tất cả những gì Chúa Kitô đã nói. Ngài dạy dỗ chúng ta và làm cho chúng ta nói với Thiên Chúa, gọi Chúa là Cha, là Abba (Xc Rm 8,15; Gl 4,4); đồng thời làm cho chúng ta đối thoại với nhau trong tình huynh đệ và ngôn sứ.
Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên đã biển đổi các môn đệ từ những con người nhát đảm sợ sệt trở nên những nhà truyền giáo can đảm phi thường không sợ tù đày, tra tấn và cái chết, vì sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở cùng họ. Có Chúa Thánh Thần, sự khép kín nhường chỗ cho sự loan báo và mọi nghi ngờ bị xua tan bằng niềm tin đầy tình thương mến. Bằng chứng là ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô được tràn đầy Thánh Thần, đứng lên “cùng với mười một tông đồ … lớn tiếng” (Cv 2,14) và “thẳng thắn” (Cv 2, 29) loan báo tin vui của Chúa Giêsu, là Ðấng đã hiến mạng sống mình để cứu độ chúng ta và Thiên Chúa đã cho sống lại từ các kẻ chết.
Ngài là suối bẩy nguồn .Với vẻ bề ngoài, xem ra Chúa Thánh Thần tạo ra sự mất trật tự trong Giáo hội, bởi vì Ngài mang đến sự khác biệt các đặc sủng, các ơn; nhưng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần là Thần Khí của hiệp nhất đã dẫn đưa tất cả tới sự hài hòa. Vì Chúa Thánh Thần “chính là sự hài hòa“.
Không có sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ không thể sống và thực hiện nhiệm vụ mà Chúa Giêsu phục sinh đã giao phó, là ra đi và làm cho tất cả mọi dân tộc trở thành môn đệ.
Chúng ta hãy xin cùng Chúa Cha, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, ngõ hầu việc cử hành Lễ Trọng Kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, được trở nên như ngọn lửa sốt mến và như luồng gió mạnh cho đời sống kitô hữu và cho sứ mạng của toàn thể Giáo Hội. Amen.
.
ANH EM BIẾT NGƯỜI, VÌ NGƯỜI LUÔN Ở TRONG ANH EM
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trước khi về với Chúa Cha, và trong quyền năng của Đấng Phục Sinh, Đức Giê-su đã trao cho các môn đệ Thần Khí của Người, ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần!”; vậy thì Thánh Thần là ai mới được?
Phúc âm ghi lại hai từ vựng Đức Giê-su dùng để chỉ nhân vật này: ‘Thần Khí’ (Divine Spirit) có nguồn gốc Cựu Ước, và ‘Đấng Bảo Trợ’ (Paraclet) một danh xưng hoàn toàn mới.
Trong Cựu Ước thần khí Chúa có nghĩa là ‘sức mạnh của Đức Chúa’, tức đơn thuần là một thuộc tính của Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ Tân Ước của Đức Giê-su, Thần Khí là một nhân vật biệt lập: Thánh Thần (Holy Spirit) xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Và còn hơn thế nữa, khi chuyển từ Cựu Ước qua Tân ước, chính nội dung của thuộc tính ‘sức mạnh’ cũng đã bị thay đổi hầu như hoàn toàn: từ sức mạnh của quyền uy biến thành sức mạnh của lòng thương xót, từ sức mạnh của phán quyết xét xử trở thành sức mạnh của cứu độ thứ tha. Chính vì lẽ đó mà một danh xưng mới cần được chế tác để biểu thị nhân vật này đó là: ‘Đấng Bảo Trợ’.
Đương nhiên là hiểu được nội dung của từ vựng mới này (nguyên ngữ Hy Lạp là parakletos) không phải chuyện đơn giản; đây đã từng là điều gây tranh cãi giữa các nhà chú giải và dịch thuật Thánh Kinh. Tác giả Gio-an đã sử dụng từ vựng này cả trong cuốn Phúc âm thứ tư lẫn trong lá thư thứ nhất của ngài (xem Ga 14:16.26, 15:26,16:7, 18:36; và 1 Ga 2:1). Danh xưng này được áp dụng cho chính Đức Giê-su trước hết, và cho nhân vật sẽ được Người phái đến sau này: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một ‘Parakletos’ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16). Parakletos có thể hiểu là người bênh vực, là trạng sư, là cố vấn, là người an ủi đỡ nâng, là người đứng về phe kẻ tin trước tòa án tối cáo để khỏi bị kết án… Trong 1 Ga 2:1 chính Đức Giê-su được gọi bằng danh xứng Parakletos: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha; đó là đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”. Do đó, Thánh Thần chỉ là ‘Đấng Bảo Trợ khác’ (Allon Parakleton) được phái đến sau khi Đức Giê-su trở về nhà Cha.
Thánh Thần chính là: ‘khí lực cứu độ và thứ tha của Đức Ki-tô Giê-su’. Hiểu biết Thánh Thần trong nội dung đó quả là điều tối quan trọng. Toàn bộ cuộc đời Đức Giê-su, suốt cuộc sống và nhất là qua cái chết thập giá của Người, chỉ là biệu hiện và thực thi lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa là Cha; do đó chỉ trong Thần Khí, Ki-tô hữu mới thật sự thấu hiểu được một Thiên Chúa từ nhân, như Đức Giê-su muốn mạc khải cho biết: “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều” (Ga 14:26). Sau ngày Đức Giê-su về trời, điều kiện tối cần để trở thành môn đệ chính là nhận lãnh Đấng Bảo Trợ này, “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”; về điều này Đức Giê-su khảng định cách thẳng thắn: “Thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14:17). Như vậy, Thánh Thần không phải là một nhân vật xa lạ gì đối với các tín hữu: Người hòa nhập vào niềm tin của mỗi Ki-tô hữu đặt nơi Đức Giê-su – Parakletos. Thánh Phao-lô đã hiểu và diễn tả Thánh Thần như thế trong tất cả các thư của ngài (đặc biệt xem Rm 8:15 và Gl 4:6).
Đức Giê-su trước khi ra đi để về với Cha, đã hứa ban Đấng Bảo Trợ của Người cho các môn đệ; sau khi sống lại từ cõi chết Người đã thổi hơi Thánh Thần trên môn đệ; trong ngày lễ Ngũ Tuần, Parakletos – Thánh Thần đã bốc cháy dữ dội trên các tông đồ và mọi kẻ tin (với tâm điểm hiện diện là Đức Ma-ri-a); và thế là niềm tin vào Giê-su – Paracletos bắt đầu bùng lên trên khắp mặt đất. Kể từ ngày đó, Hội thánh trở thành một tập thể những người được Thánh Thần tác động, để có thể tuyên xưng và loan truyền cho mọi người, mọi thế hệ biết: “Giê-su Ki-tô là Cứu Chúa”, là Thiên Chúa – Đấng từ nhân.
Rồi cũng trong tác động của cùng một Thánh Thần này, mà Đức Ma-ri-a – đệ nhất tín hữu đã được các thế hệ Ki-tô hữu sau này cầu khẩn dưới danh xưng ‘trạng sư’ (advocata nostra); tước hiệu này quả xác đáng lắm thay! Nhưng không chỉ Đức Ma-ri-a, mà toàn thể Hội Thánh và mỗi Ki-tô hữu chúng ta, đặc biệt các linh mục của Đức Ki-tô trong Thần Khí, cũng phải trở thành người bảo trợ – trạng sư (parakletos – advocatus) cho những người nghèo khổ và tội lỗi nhất, để minh chứng cách cụ thể rằng Thánh Thần Chúa vẫn còn tiếp tục hiện diện cách sinh động giữa lòng nhân thế. Don Bosco đã từng là như thế đối với các thanh thiếu niên nghèo và bị bỏ rơi; do đó ngài đòi các tu sĩ Sa-lê-diêng của mình chính xác điều này: ‘trở thành dấu chỉ và người mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Cũng vậy, rất nhiều vị thánh khác như cha sở họ Ars – thánh Jean Marie Vianney, hay Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta đã đối sử với các tội nhân đớn hèn và những kẻ cùng khổ, thông qua việc trao ban bí tích giải tội và các việc bác ái phục vụ. Chính qua việc thể hiện mình là ‘parakletos’ mà chúng ta có thể đo lường được đức tin của mình và sức sống Thánh Thần trong ta!
Lạy Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, xin hãy ở lại trong con bằng sức mạnh yêu thương mà chính Người đã nhận được từ Đức Ki-tô Giê-su; xin Người nối kết con với Đức Giê-su Thập Giá, để con có thể đón nhận cách trọn vẹn sự bảo trợ thần linh của Người. Trong và nhờ sự dẫn dắt của Mẹ Ma-ri-a, xin hãy biến đổi con, và mọi phẩm trật trong Hội Thánh Chúa, được trở thành các tác nhân mang lại niềm hy vọng và cậy trông cho hết thảy mọi người, đặc biệt những ai tội lỗi, yếu đuối và nghèo hèn nhất… trong tác động mãnh liệt của Người là Thánh Thần bảo trợ và là Đấng ủi an. A-men.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Đức Hồng Y Carlo Martini nói: “Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13), chính là Tin Mừng truyền thông”. Đức thánh cha Phanxicô viết nơi lời mở đầu của Sứ điệp Truyền Thông 2016: “Tình yêu tự bản chất là truyền thông; tình yêu đưa đến sự cởi mở và chia sẻ. Nếu con tim và hành động của chúng ta được tình yêu thần linh khơi dậy, việc truyền thông của chúng ta sẽ được quyền năng riêng của Thiên Chúa chạm tới”.
Truyền thông là làm cho con người có khả năng để nghe để hiểu, có khả năng để loan báo và có khả năng để chuyển thông một sứ điệp. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Truyền thông Tin Mừng, chính là mang tin vui đến cho mọi người.
Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma, trong bài giảng “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần”, ngài kể về tác động của Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em người Hmong.
“Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện này.
Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
-Anh chị em từ đâu đến?
-Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
-Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?
-Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.
– Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
– Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.
-Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!”
-Đó là đài phát thanh “Chân Lý”.
-Một đài phát thanh GH công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!
-Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người Hmong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
-Thưa cha, không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
-Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
-Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật, chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX.” (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).
Hiến chế Tín lý về Mạc khải của CĐ Vaticanô II viết: “Mạc Khải là việc Thiên Chúa ‘Truyền Thông Chính Mình’ cho nhân loại” (DV 6). Với biến cố Hiện Xuống, việc truyền thông của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Kitô và tiếp tục được nối dài trong Giáo Hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lễ Hiện Xuống khai mở những “kênh truyền thông” mới. Vì thế, “Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phận dùng các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo ơn cứu độ và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn” (Inter Mirifica, số 3). Giáo hội mời gọi các tín hữu hãy vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại để loan báo Tin Mừng cho con người ngày nay, làm cho họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu Kitô, Đấng là đường, sự thật và sự sống. Chúa Thánh Thần là linh hồn Giáo Hội. Ngài tác động và canh tân Giáo Hội thực thi sứ vụ loan Tin Mừng: “Giáo Hội canh tân và thanh tẩy chính mình không bao giờ ngừng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần” (Vui mừng và Hy vọng, 21). Sách Công Vụ Tông Đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy.
Suốt mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hylạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma. Giáo Hội đối diện với ba thách đố lớn là Do thái giáo, chính trị Rôma và triết học Hy lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do thái giáo, hội nhập vào triết học Hylạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: “Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng”.
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu”. Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng.
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa. Thế nhưng, những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, xa lộ thông tin, kỹ thuật số, toàn cầu hoá…Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: “Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do”. Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa. Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?
Lời Chúa chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14, 26). Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet…đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Trong bối cảnh Năm Chúa Thương Xót Chúa, ĐTC Phanxicô ban hành Sứ điệp Ngày Truyền thông 2016 với tựa đề “Truyền thông và Thương xót: Cuộc gặp gỡ phong phú”. Làm thế nào để mạng lưới truyền thông có thể trở thành mạng lưới của lòng thương xót thay vì là mạng lưới của hận thù và chia rẽ? Câu trả lời không nằm ở những kỹ thuật cho bằng ở trái tim con người. Cây viết trên tờ giấy hay bàn phím trước màn hình, dòng chữ hay bài báo được viết ra sẽ phục vụ mạng lưới của lòng thương xót hay mạng lưới của hận thù, tất cả đều tùy thuộc vào tâm hồn người viết. Vi tính, laptop hay ipad, iphone chỉ là phương tiện truyền thông hiện đại, khi người sử dụng hướng đến nền văn minh tình yêu và văn hóa thương xót thì họ sẽ trở thành người phục vụ mạng lưới của lòng thương xót như lời Đức giáo hoàng Phanxicô khẳng định: “Không phải kỹ thuật quyết định truyền thông nào là chân chính, nhưng là trái tim con người và khả năng của chúng ta trong việc sử dụng cách khôn ngoan những phương tiện trong tầm tay của mình”. Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống.
Khởi đi từ Chúa Thánh Thần, cả một sức sống mới được khai mở và bừng lên trong Giáo hội. Trước ngày lễ Hiện Xuống, các môn đệ co cụm lại trong căn phòng then cài khóa ổ, nhưng một khi đã đón nhận Thánh Thần, các ông không thể sống như cũ được nữa: căn phòng được mở toang và môn đệ can đảm bước tới vùng ngoại biên là những vùng địa lý xa xôi, đem Tin Mừng cứu rỗi cho mọi người. Đó chính là mùa Hiện Xuống đầu tiên làm nên sức sống mới lạ trong Giáo hội. Lễ Hiện Xuống thường được gọi là “ngày khai sinh của Giáo hội” tựa như lễ quốc khánh của một quốc gia. Chúa Thánh Thần đã làm cho sứ mệnh của Đức Kitô được hoàn thành và thời kỳ Tân Ước được thực hiện. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu, là Đấng ban sự sống, thánh hóa, hướng dẫn, soi sáng, phù trợ, hiệp nhất. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo hội hướng đến đại dương của “những kênh truyền thông mới” trong thời đại hôm nay.
Mỗi người Kitô hữu được sinh ra nhờ phép rửa ở trong lòng Giáo hội và được xức dầu thánh một cách đặc biệt trong Bí tích Thêm sức, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để thông phần sứ mạng làm chứng của Giáo hội.Trong Bí tích Thêm Sức nhận lãnh, không những các ơn Chúa Thánh Thần, mà là chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta như một sức mạnh từ trên cao, như là “Thần lực của Thiên Chúa”. Đó là sức mạnh của Tình yêu mạnh hơn sự chết biểu lộ nơi Sự Sống lại của Chúa Giêsu, sức mạnh của Chân Lý và Sự Thật. Đó là sức mạnh cuốn hút của cái Đẹp không phai tàn của Thiên Chúa, của cái Đẹp thần linh tiềm ẩn trong mọi cái đẹp đích thực.
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ“. Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. Các Tông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân tình yêu trong nền văn hóa của thời đại kỹ thuật số, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
.
Trầm Thiên Thu
Thiên Chúa là Ánh Sáng, nơi Người không có một chút bóng tối nào (1 Ga 1:5), Thiên Chúa là Ngọn Lửa Thiêu (Dt 12:29), là Nguồn Gốc mọi gia tộc trên trời, dưới đất (Ep 3:15).
Lửa rất kỳ lạ. Lửa càng chia sẻ càng thêm nhiều, không hề giảm mất chút nào. Lửa rất mềm, nhưng không ai có thể cắt đứt. Ngọn lửa nhỏ có thể dễ thổi tắt, nhưng ngọn lửa lớn khó dập tắt.
Nói tới Lửa, chúng ta nhớ ngay tới Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, Ngọn Lửa Thiêng của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần được mệnh danh bằng nhiều thánh hiệu: Thánh Linh, Đấng Sáng Tạo, Đấng Canh Tân, Đấng Bảo Trợ, Đấng An Ủi, Thần Khí, Thần Chân Lý, Thần Hòa Bình, Thần Công Lý, là Đấng tác động những điều được đề cập trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo. Chính Ngài là “Thần Khí dẫn tới Sự Thật toàn vẹn” (Ga 16:13), và chỉ có Sự Thật mới thực sự giải thoát chúng ta (Ga 8:32).
Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ và An Ủi, chúng ta luôn cần đến Ngài. Trong cuộc sống đời thường, ai cũng cần có người bảo bọc, che chở, nâng đỡ, hướng dẫn,… Ngày nay, muốn bảo đảm phần nào cho cuộc sống, người ta mua nhiều loại bảo hiểm: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm xe cộ, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tài chính,… Thể lý cần bảo hiểm thì tinh thần cũng vậy. Cuộc sống tâm linh của các Kitô hữu cần có một loại bảo hiểm đặc biệt: Bảo hiểm linh hồn qua Đấng Bảo Trợ. Đó là cách chúng ta cậy nhờ Thần Khí của Thiên Chúa.
Nên cảnh giác với các loại thần khí không bởi Thiên Chúa, gây lệch lạc, cuồng tín, nguy hại. Vấn đề này được Thánh Phaolô đề cập trong Gl 5:16-26. Cũng nên phân biệt điều này: Bảo hiểm thế gian là dạng “khoán”, người ta gọi là “khoán trắng”, còn bảo hiểm tâm linh không thể “khoán” theo kiểu của thế gian!
Như vậy, Thần Khí Thiên Chúa là ai? Đó là “Thần Khí Khôn Ngoan và Minh Mẫn (thông minh), Thần Khí Mưu Lược (lo liệu) và Dũng Mãnh (sức mạnh), Thần Khí Hiểu Biết và Kính Sợ Đức Chúa” (Is 11:2-3).
Theo đó, ngôn sứ Isaia chỉ liệt kê 6 ơn Chúa Thánh Thần. Nhưng người Công giáo vẫn thường nghe nói có 7 ơn Chúa Thánh Thần. Vậy là sao? Chúng ta biết rằng số 7 là con số hoàn hảo theo Kinh Thánh, Giáo hội thêm một ơn nữa để cho đủ con số 7, bản dịch Hy Lạp cũng như bản dịch Latin đều thêm một Thần Khí nữa là Thần Khí Hiếu Nghĩa (đạo đức). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không chỉ tác động theo “khuôn khổ” của 7 ơn đó mà thôi (*). Ngài là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa chỉ có điều thiện, thế nên Ngài tác động và hiện thân trong mọi điều tốt lành.
Kinh Thánh cho biết rõ: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng GIÓ MẠNH ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2:1-3). Gió và Lửa chính là Chúa Thánh Thần – Ngôi Ba Thiên Chúa. Sau khi được tràn đầy ơn Thánh Thần, mọi người bắt đầu nói các thứ tiếng lạ, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Hoạt động của Chúa Thánh Thần thật kỳ diệu!
Trong đời sống hàng ngày, chắc chắn cũng cần Ơn Thông Minh để có thể xoay xở những lúc gặp khó khăn trong, đặc biệt là những người sáng tác văn, thơ, nhạc, họa,… Ai trong chúng ta cũng rất cần được Đấng Sáng Tạo soi sáng và hướng dẫn chi tiết để có những ý tưởng mới lạ và độc đáo. Thật vậy, không có Thiên Chúa thì chúng ta chẳng làm được trò trống gì cả (Ga 15:5).
Vì thế, đừng tưởng làm được vài bài thơ thì vỗ ngực mình là thi sĩ, viết được vài bài nhạc thì vênh váo ta đây là nhạc sĩ, viết được vài đoạn văn thì tự nhận là văn sĩ, dịch được vài bài ngắn thì “chảnh” tự nhận là dịch giả. Trong các lĩnh vực khác cũng tương tự. Thời gian sẽ cho biết đồng hay thau! Chớ ngu xuẩn mà ảo tưởng, nhưng hãy nghe Thánh Phaolô cảnh báo: “Đừng có lên mặt khinh dể các cành khác” (Rm 11:18).
Sau khi Chúa Thánh Thần “nhập” vào các Tông Đồ, tại Giêrusalem có những người Do-thái sùng đạo kéo đến vì thấy “sự lạ”. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục. Mỗi người nói tiếng bản xứ của mình, nhưng mọi người nghe đều hiểu. Mọi người bảo nhau: “Vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11). Nhưng cũng có những người không hiểu ất giáp gì thì lại chế nhạo: “Mấy ông này xỉn quá rồi!” (Cv 2:13).
Chúa Giêsu về trời nhưng chúng ta không mồ côi, vì Ngài lại ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Từ đó cũng là thời đại của Chúa Thánh Thần. Và điều đó đã hiện thực. Nỗi buồn chợt hóa niềm vui. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không ngừng hoạt động trong mọi người từ ngày được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy và bảo trợ chúng ta suốt đời này. Chúng ta thường quên Ngài, nhưng Ngài không hề quên chúng ta và vẫn tác động trong chúng ta suốt đêm ngày, qua từng nhịp thở. Vì thế, chúng ta hãy tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!” (Tv 104:1a). Và hãy thân thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1).
Không có Thiên Chúa, phàm nhân chắc chắn đành phải “bó tay”, và cuộc sống bị “trục trặc” ngay, loại đơn giản nhất nhưng lại quan trọng nhất đó là KHÔNG KHÍ. Một ơn tuyệt vời như vậy mà hầu như chúng ta không hề biết tạ ơn Chúa về không khí. Thật vậy: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30). Sinh khí là sinh lực, là sự sống, tức là Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong chúng ta.
Được sống như thế, chúng ta có bổn phận phải biết ơn và có trách nhiệm phải xưng tụng Thiên Chúa: “Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 104:31). Đó là điều minh nhiên, đồng thời chúng ta còn phải tự đoan hứa: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).
Không ai lại không được ơn này, ơn nọ. Đặc sủng tuy nhiều nhưng vẫn chung một nguồn gốc: Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Không ai có thể nói ‘Đức Giêsu là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12:3b). Rất rõ ràng, không thể giả hình, và cũng không thể biện minh vì bất cứ lý do gì.
Thánh Phaolô xác định: “Có NHIỀU đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có MỘT Thần Khí. Có NHIỀU việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có MỘT Thiên Chúa. Có NHIỀU hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có MỘT Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là VÌ ÍCH CHUNG” (1 Cr 12:4-7). Vì thế, đừng tự nhận mình thế này thì hơn người khác. Lối suy luận như vậy thật là nguy hiểm, vì trái ngược với ý Chúa!
Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là MỘT, nhưng lại có NHIỀU bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy NHIỀU nhưng vẫn là MỘT thân thể, Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng MỘT Thần Khí để trở nên MỘT thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12:12-13). Chữ MỘT và chữ NHIỀU xem chừng đơn giản, nhưng lại khiến chúng ta phải xét mình thật nhiều.
Tại sao vậy? Bởi vì “có lẽ” chúng ta vẫn phân biệt giai cấp và kỳ thị nhau bằng nhiều cách tinh vi lắm. Ngay trong những người Công giáo với nhau, thậm chí cùng đoàn này hoặc hội kia với nhau mà vẫn có đầu óc kỳ thị, cậy quyền và ỷ thế để “chà đạp” người khác. Chúa Thánh Thần đâu có tác động như vậy? Nếu chúng ta “nhiễm” loại thần khí đó, chắc chắn chúng ta đang có nguy cơ, vì đó là loại thần khí thế tục!
Phải luôn cẩn trọng, vì đồ giả và người giả xuất hiện ở mọi thời và mọi nơi – ngày nay càng phải cẩn trọng hơn. Ngày xưa, ngôn sứ Êlia đã chống lại 450 ngôn sứ giả của thần Baan; ngôn sứ Micha Ben Jimla đã đối mặt với 400 ngôn sứ giả khác (1 V 22), còn ngôn sứ Giêrêmia đã đương đầu với Khanangia – một người mạo nhận là ngôn sứ và dùng những lời ngon ngọt để mị dân và lừa bịp dân Ítraen (Gr 28).
Trình thuật Ga 20:19-23 cho biết rằng Chúa Giêsu đã trao bình an và ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ trước khi Ngài về trời, đồng thời Ngài còn trao cho họ quyền được tha tội.
Thánh Gioan cho biết: Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
Chỉ có bốn câu ngắn gọn mà có tới hai chữ “bình an”. Điều đó cho thấy rằng sự bình an rất cần thiết. Thể lý và xã hội cần bình an, tâm linh càng cần sự bình an hơn nữa. Chúa Giêsu biết cuộc sống gian trần rất nhiêu khê và bất an đủ kiểu, thế nên Ngài muốn ban sự bình an cho chúng ta.
Trước khi Chúa Giêsu về trời, nơi Ngài đã xuất phát, có lần Ngài đã xác định: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14:23-24). Ngài đưa ra một hệ lụy với mức liên kết rất chặt chẽ.
Tuy nhiên, chúng ta đã và đang nghe nhiều, biết nhiều, và kinh nghiệm cũng nhiều về “chữ” YÊU, điều mà Chúa Giêsu nhắc nhở quá nhiều lần, có lẽ chúng ta nghe và biết đến nỗi hóa NHÀM. Thế nhưng mấy ai sống đúng nghĩa chữ YÊU của Chúa Giêsu? Liệu có phải chúng ta đang KHÔNG CẦN Chúa Thánh Thần tác động? Hay là Chúa Thánh Thần ĐÃ tác động mà chúng ta KHÔNG MUỐN “xin vâng”? Chắc hẳn không oan đâu – dù bạn là ai và ở cương vị nào!
Thật may mắn và thật hạnh phúc cho phàm nhân chúng ta, dù chúng ta chỉ là những tội nhân xấu xa. Vấn đề còn lại là chúng ta có CAN ĐẢM vâng lời mà làm theo Ý Ngài hay không, tức là chúng ta có chấp nhận cách tác động của Chúa Thánh Thần hay không. Rất đơn giản nhưng cũng rất phức tạp – thậm chí là nhiêu khê. Đừng theo ý mình hoặc vinh danh mình, mà hãy noi gương Đức Mẹ mau mắn “Xin Vâng” và nhất quyết hành động chỉ vì muốn VINH DANH THIÊN CHÚA mà thôi!
PHỤC VỤ là điều cần thiết, vì Chúa Giêsu đã làm gương và khuyến cáo chúng ta phục vụ. Nghe nói thì dễ nhưng thực hiện thì không dễ, chắc hẳn chúng ta chưa phục vụ đúng mức đâu. Đây là bài “học thuộc lòng” không của riêng ai: Hãy TIN TƯỞNG điều mình biết, hãy TRUYỀN ĐẠT điều mình tin, và hãy THỰC HÀNH điều mình truyền đạt.
Nhận biết Thánh Ý Chúa là điều không dễ, vì đôi khi chúng ta “suy bụng ta ra bụng Chúa” rồi cho đó là Ý Chúa. Do đó, chúng ta phải không ngừng “tìm hiểu đâu là Ý Chúa” (Ep 5:17) và “xin cho Ý Chúa được thể hiện” (Cv 21:14) chứ không phải là “xin như ý mình”, nhưng chúng ta thường có thói quen và ưa thích “xin như ý” – tức là theo ý mình chứ không phải theo Ý Chúa. Hãy chấn chỉnh và noi gương tác giả Thánh Vịnh: “Điều đẹp ý Ngài, xin dạy con thực hiện, bởi Ngài là Thiên Chúa của con. Xin thần khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu” (Tv 143:10). Làm việc gì cũng phải theo nguyên tắc này: “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14).
Muốn và xin thì sẽ được. Khi được Chúa Thánh Thần tác động, chúng ta sẽ nên mới hoàn toàn, đồng thời sinh hoa thơm và kết trái lành. Đây là Hoa Quả của Thần Khí: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (Gl 5:22-23).
Hiện nay đang là mùa hè, hơi nóng như lửa thiêu, nắng càng nóng hơn vì tình trạng hạn hán bởi hệ lụy El Niño. Vì vậy, chúng ta càng thấy giá trị của những giọt mưa. Tương tự, linh hồn chúng ta cũng có lúc khô khan, hạn hán hồng ân, chúng ta càng thấm thía nổi khổ của tình trạng thiếu ơn Chúa, thiếu những Cơn Mưa Thánh Linh. Quả thật, không có Chúa thì chúng ta chẳng làm được gì (Ga 15:5). Đừng kiêu ngạo mà nói vắt đất ra nước hoặc thay trời làm mưa!
Hãy thành tâm nghe lời Mẹ Giáo Hội dạy chúng ta cầu xin Thánh Linh: “Accende lumen sensibus, infunde amorem cordibus – Xin hãy thắp sáng các giác quan, xin hãy đổ đầy tình yêu vào trong tâm hồn chúng con” (Thánh ca Veni Creator Spiritus – Lạy Chúa Thánh Thần, Xin Ngự Đến). Có Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ vui sống và sống dồi dào. Ngài là Ngọn Lửa Thiêu và cũng là Nguồn Nước Mát.
Lạy Thiên Chúa Ngôi Ba, chúng con xin lỗi vì đã thường xuyên không nhớ tới Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn yêu thương chúng con. Cúi xin Ngài đến canh tân thế gian và biến đổi chúng con trở thành những khí cụ bình an hữu dụng của Thiên Chúa. Xin thiêu đốt chúng con trong Ngọn Lửa Thiêng Thánh Linh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
(*) Bảy ơn Chúa Thánh Thần:
- Ơn Khôn Ngoan giúp phân biệt phải–trái, thực–hư.
- Ơn Hiểu biếtgiúp hiểu rõ các Giới Răn của Chúa và của Giáo Hội.
- Ơn Lo Liệugiúp biết giải quyết đúng đắn các khó khăn của cuộc sống.
- Ơn Sức Mạnhgiúp vượt qua mọi khó nguy trong cuộc sống và chu toàn các bổn phận.
- Ơn Thông Minhgiúp nhận ra Thánh Ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
- Ơn Đạo Đứcgiúpbiết luôn yêu mến và tín thác vào Chúa, đồng thời biết nâng đỡ tha nhân.
- Ơn Kính Sợ Chúagiúp tôn thờ Ngài, kính trọng quyền năng của Ngài và xa tránh mọi điều xúc phạm Ngài.
.
HƠI THỞ CỦA THIÊN CHÚA – ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
JM. Lam Thy
Trong đời sống tự nhiên, hơi thở là dấu hiệu tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống, hết thở là hết sống (trong dân gian có câu “trút hơi thở cuối cùng” để chỉ con người chấm dứt cuộc sống trần thế). Sự sống của loài người là do Thiên Chúa ban tặng ngay trong buổi đầu công trình tạo dựng (“ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” – St 2, 7); và khi muốn cứu sống con người, Thiên Chúa cũng “thổi hơi” cho những tử thi được hồi sinh (“ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh.” – Ed 37, 9). Không chỉ riêng con người, mà “Lời và Hơi Thở của Thiên Chúa là nguồn gốc của sự hiện hữu và sự sống mọi thụ tạo (x. Tv 33, 6; 104, 30; St 1, 2; 2, 7; Gv 3, 20-21; Xh 37, 10).” (Giáo lý HTCG, số 703). Bước sang Tân Ước thì chính Chúa Giê-su Phục Sinh cũng đã lặp lại hành động ấy khi Người xuất hiện giữa các môn đệ, thổi hơi vào các ông và phán: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22).
Trong cuộc tạo dựng đầu tiên, A-đam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên tổ của loài người. Việc Đức Ki-tô Phục sinh “thổi hơi” trên các môn đệ là cách diễn tả Người – trong vai trò A-đam Mới – thực hiện cuộc tạo dựng mới. Các môn đệ cộng đoàn Phục Sinh đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giê-su Ki-tô. Điều đó cho thấy Thánh Thần là Linh Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa. Giáo lý HTCG (số 689) đã khẳng định: “Khi Chúa Cha cử Lời của Người đến với chúng ta, Người luôn luôn gởi đến “Hơi Thở” của Người nữa: một sứ mạng phối hợp trong đó Chúa Con và Chúa Thánh Thần phân biệt, nhưng không tách rời nhau. Chúa Ki-tô xuất hiện, Người là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình, nhưng chính Thánh Thần mạc khải Chúa Ki-tô cho chúng ta.”
Trước khi về trời, đã nhiều lần Đức Ki-tô nói là Người sẽ ban Ngôi Ba Thiên Chúa cho các môn đệ. Khi thì Người nói thẳng là Thánh Thần, khi thì Người nói là Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí Sự Thật. Và sự thật đã ứng nghiệm: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần.” (Cv 2, 1-4). Có nhiều, rất nhiều sự kiện minh hoạ cho sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống, nhưng nổi bật nhất, đặc sắc nhất, kỳ diệu nhất là sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong Giáo Hội ở giai đoạn tiên khởi và cho đến hiện nay:
Ở giai đoạn tiên khởi, Chúa Thánh Thần đã ban lòng can đảm, sự khôn ngoan và nhất là khả năng ngôn ngữ có thể nói nhiều thứ tiếng khác ngoài tiếng bản địa của các Tông đồ. Đó là một mầu nhiệm được chính những người nghe làm chứng: “Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2, 7-11). Cho đến hiện nay thì bất kỳ ai khi nhìn lại lịch sử Giáo Hội, cũng phải ngạc nhiên đến sửng sốt trước sự tồn tại bền vững và phát triển vượt bậc. Đó phải chăng là một món quà độc đáo, món quà vô giá mà Đức Ki-tô đã ban tặng các môn đệ, và nói chung là tất cả mọi tín hữu (“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” – Ga 20, 22-23)?
Quả thật, món quà mà Đấng Cứu Thế ban tặng các môn đệ, rộng ra là toàn Giáo Hội, rất độc đáo, một món quà vô giá: Hơi Thở của Thiên Chúa – Đấng Ban Sự Sống. Loài người, cách riêng là Giáo hội sống còn, tồn tại và phát triển là nhờ Hơi Thở của Thiên Chúa, là Đức Thánh Linh. Rõ ràng Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống, là chính Sự Sống của Hội Thánh. Chính vì thế, Công Đồng Vatican II được coi là một Lễ Hiện Xuống mới, vì Công Đồng đã định hướng việc canh tân Giáo Hội, trên nền tảng Sự Sống sinh động, đem tinh thần đối thoại hiệp thông với Thiên Chúa và với hết mọi người, để cùng với Chúa Thánh Thần thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Món quà vô giá của Lòng Thương Xót Chúa là Thánh Thần; mà hoa trái của Thánh Thần là yêu thương phục vụ. Do đó những tư tưởng, lời nói và hành động mang tính chia rẽ, ghen tương, đố kỵ, thậm chí dèm pha, hạ bệ lẫn nhau, thù oán, giết hại nhau không bằng gươm giáo… đều là những thể hiện trái ngược với hoạt động của Thánh Thần.
Viết tới đây, kẻ viết bài này chợt giật mình nhớ đến Lời dạy của chính Người đã ban tặng món quà vô giá là Thánh Thần cho Giáo Hội: “Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán. Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.” (Mt 12, 30-32). Con Người là Thiên Chúa Ngôi Hai, Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, cả hai đều tồn tại trong Ngôi Cha và là Thiên Chúa Ba Ngôi duy nhất; vậy mà “Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha” ư? Nhưng như thế nào mới là nói phạm đến Thánh Thần?
Một vấn nạn đưa kẻ viết bài này lâm vào thế “bí”. Đành phải cầu xin “ơn soi sáng” nơi Hơi Thở của Thiên Chúa, và tìm được lời giải trong Giáo Lý HTCG nơi PHẦN THỨ BA: ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN TRONG ĐỨC KI-TÔ – ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI LÀM NGƯỜI, SỐNG TRONG THÁNH THẦN – Mục 8: Tội lỗi (số 1846-1876). Khi phân tích về “MỨC ĐỘ NẶNG NHẸ CỦA TỘI LỖI: TỘI TRỌNG VÀ TỘI NHẸ”, Giáo lý HTCG (số 1864) dạy: “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm thượng đến Thần Khí sẽ chẳng được tha” (x. Mt 12, 31; Mc 3, 29; Lc 12, 10 ). Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho ( x. DV 46 ). Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.” Căn cứ vào Lời dạy của Đức Ki-tô, đủ thấy vai trò của “Hơi Thở Thiên Chúa – Đấng Ban Sự Sống” quan trọng tới nhường nào.
Tóm lại, người Ki-tô hữu cần ý thức bản thân mình khi được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức dầu trong bí tích Thêm Sức, chính là đã được Thiên Chúa thổi “Hơi Thở của Người” ban Sức Sống thần diệu để vững bước trên hành trình dương thế đầy gian nan hiểm trở. Vấn đề đặt ra là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh ấy hay không; và sống bằng cách nào. Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay (Ga 20, 19-23), Thánh sử Gio-an trình thuật khi Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ, cùng với việc thở hơi để trao ban Thần Khí, Người còn ban bình an cho các môn đệ. Như vậy, Chúa Thánh Thần còn là nguồn bình an mà Chúa Giê-su trao tặng cho mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận món quà đó, chúng ta cũng được mời gọi trở nên bình an cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người đang sống bên rìa ngoài cùng của xã hội.
Vâng, “Trong Năm Thánh này, chúng ta trông đợi những trải nghiệm của việc mở lòng mình ra với những người đang sống bên rìa ngoài cùng của xã hội: Chính cái xã hội hiện đại này tạo ra những vùng ngoại vi như thế. Trong Tin Mừng Thánh Lu-ca, chúng ta tìm thấy một yếu tố quan trọng khác giúp chúng ta sống Năm Thánh với đức tin. Thánh Lu-ca viết rằng Chúa Giê-su, vào ngày Sa-bát, đã trở lại Na-da-rét và, như thường lệ, Ngài bước vào hội đường. Người ta mời Ngài đọc Kinh Thánh và đưa ra lời bình luận. Đoạn văn được đọc trích từ Sách Tiên Tri Isaia, trong đó viết: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Ðức Chúa.” (Is 61, 1-2). Một “năm hồng ân của Ðức Chúa” hay “một năm thương xót”: đây là những gì Chúa đã công bố và đây là những gì giờ đây chúng ta muốn sống.” (Tông chiếu Dung Mạo Lòng Thương Xót “Misericordiae Vultus”, số 15-16). Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa Giêsu – hiện thân của Lòng Thương Xót! Con sung sướng lắm, con mãn nguyện lắm, vì không những được cùng với Ngài làm con cái Thiên Chúa Cha hằng hữu, mà còn được Ngài coi là bạn hữu. Nhưng con cũng sợ hãi vô cùng, vì con biết con không xứng đáng được Chúa ban cho ân sủng cao trọng dường ấy. Con sợ hãi lắm, vì con yếu đuối vô cùng, khó lòng mà làm theo Lời Chúa dạy. Vì lòng thương xót của Chúa, cúi xin Chúa thổi “Hơi Thở của Thiên Chúa” ban Sức Sống và lòng dũng cảm cho con, để con có đủ năng lực sống theo Lời Chúa dạy. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Nước là yếu tố thiết yếu cho sự sống
Ở đâu có nước, ở đó có sự sống. Ở đâu không có nước, sự sống không thể tồn tại.
Trong cơ thể con người, nước chiếm chừng 70% khối lượng toàn thân. Con người có thể nhịn ăn cả tháng không chết nhưng không thể nhịn khát quá năm ngày.
Khi các nhà khoa học phát hiện có nước trên Sao Hoả, người ta có quyền hy vọng rằng mai đây con người có thể sống được trên đó.
Sa mạc Negev cực kỳ khô cằn nóng cháy không một loài cây cỏ nào mọc được, nhưng từ khi người Do-thái đưa nước ngọt từ biển hồ Ga-li-lê về tới đây thì sa mạc nóng cháy nầy trở thành những trang trại trù phú và những vườn cam danh tiếng, cung cấp vô vàn quả cam ngon ngọt cho thị trường khắp nơi.
Chúa Thánh Thần là mạch nước hằng sống xuất phát từ Chúa Giê-su
Hôm ấy, vào dịp lễ Lều của người Do-thái, sau khi vị tư tế cùng dân chúng kiệu một bình bằng vàng đựng đầy nước lấy từ hồ Si-lô-ác về Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nhằm tôn vinh sự kiện xưa kia Thiên Chúa đã cho nước từ tảng đá chảy ra cho dân Ít-ra-en trong hoang địa khỏi chết khát; và đang khi dân chúng tưng bừng phất cao các cành lá, đồng thanh cất cao những khúc ca cảm tạ Thiên Chúa đã ban nguồn nước nuôi sống cha ông họ, thì “bấy giờ Đức Giê-su đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.” (Ấy là) Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7, 38-39).
Và khi nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri bên giếng Gia-cóp, Chúa Giê-su cũng tỏ cho bà biết rằng ai uống các nguồn nước tự nhiên sẽ còn khát mãi, còn: “Ai uống nước Tôi (Chúa Giê-su) cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi (Chúa Giê-su) cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” Gioan 4, 14).
Nguồn nước thiêng liêng mà Chúa Giê-su hứa ban cho người Do-thái trong ngày lễ Lều hay cho người phụ nữ Sa-ma-ri chính là Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống.
Qua Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số 4, Công Đồng Vatican II đã xác nhận điều nầy:
“Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, là mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời. (trích dẫn Gioan 4,14 và 7,38.)”
Nước thấm nhập vào các loài hoa giúp chúng trổ sinh những bông hoa muôn màu muôn sắc rất tuyệt vời; nước thấm nhập vào các loài cây ăn trái giúp chúng cung ứng cho đời muôn vàn trái cây ngon ngọt với những hương vị khác nhau; nước thấm nhập vào đất đai khiến đất cằn khô trở nên vườn cây tươi tốt… thì Chúa Thánh Thần thấm nhập đến đâu cũng làm trổ sinh hoa trái thiêng liêng cách diệu kỳ đến đó.
Chúng ta hãy lắng nghe thánh Sy-ri-lô, giám mục Giê-ru-sa-lem, nhận định về những “hoa trái” do ơn Thánh Thần mang lại:
“Như cây khô đâm chồi nẩy lộc sau khi hút nước, thì linh hồn tội lỗi biết sám hối và đáng được ơn Thánh Thần cũng sinh hoa kết trái công chính như vậy. (…..)
Thật vậy, Thánh Thần dùng miệng người nầy để giảng sự khôn ngoan, lấy lời ngôn sứ mà soi trí người kia, ban cho kẻ nầy quyền xua trừ ma quỷ, cho kẻ kia ơn giải thích Thánh Kinh, thêm sức cho kẻ nầy sống tiết độ, dạy cho người kia biết thương người, cho người nầy biết ăn chay và sống đời khổ hạnh, cho người kia biết khinh chê những thú vui thể xác, cho kẻ khác nữa ơn tử đạo.” (Trích: giáo huấn của thánh Sy-ri-lô, giám mục Giê-ru-sa-lem)
Hiệu quả Chúa Thánh Thần mang lại cho những ai đón nhận thật phong phú và tốt đẹp biết bao. Vậy chúng ta hãy đến với Chúa Giê-su để “uống” cho no thỏa Chúa Thánh Thần để nhờ đó, cuộc đời chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái thiêng liêng.
Lạy Chúa Giê-su,
Đất màu không có nước sẽ biến thành sa mạc hoang vu; đồng lúa, vườn cây không có nước sẽ bị khô cháy… Tương tự như thế, nếu tâm hồn chúng con thiếu vắng Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khô cằn, băng giá!
Xin thương ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để nhờ ơn Ngài soi sáng, chúng con được hiểu biết, yêu mến Chúa và trổ sinh được nhiều hoa trái thiêng liêng.
.
CHÚA THÁNH THẦN – QUÀ TẶNG CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 16). Thật vậy, từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, Người yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người cho nhân loại. Đến lượt Đức Giêsu, qua việc nhập thể và nhập thế, cũng như những lời rao giảng và hành động của Ngài, Ngài đã mặc khải và diễn tả xuất sắc lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Đường thương xót đó không dừng lại cũng như kết thúc qua việc Đức Giêsu về trời, mà còn tiếp diễn và tồn tại muôn đời. Bởi lẽ, Đức Giêsu đã chuyển trao lòng thương xót ấy nơi Chúa Thánh Thần.
Vì thế, Chúa Thánh Thần chính là quà tặng của lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nên từ ngày Người hiện xuống, lòng thương thương xót của Thiên Chúa như dòng sông không ngừng chảy đến với mọi người qua các chứng nhân dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
- Chúa Thánh Thần công khai hóa Giáo Hội bằng lòng xót thương
Khi lần dở các trang Tin Mừng, chúng ta thấy trong suốt hành trình tại thế của Đức Giêsu, Ngài đã ấp ủ, cưu mang công cuộc thiết lập Giáo Hội qua việc dạy dỗ, hướng dẫn các Tông đồ cũng như dân chúng đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa để được cứu độ. Tuy nhiên, con đường đó đã trở nên xa lạ đối với các ông và dân chúng khi họ không hiểu được tâm tư của Thầy Giêsu, bởi vì mục đích của họ không nằm trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, mà luôn bám vào những suy tính của trần gian.
Nhưng, đến ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần chính thức công khai hóa Giáo Hội qua ơn ban bình an và lửa mến tràn ngập nơi tâm hồn các Tông đồ, qua đó, các ông đã được biến đổi từ một con người ích kỷ, vụ lợi, kiêu ngạo, sợ hãi, nhát đảm, ham sống sợ chết…, trở nên chứng nhân của lòng thương xót.
Điều này đã được các Tông đồ chứng minh bằng thái độ can đảm, hân hoan, sẵn sàng mở tung cánh cửa đã đóng kín, để ra đi loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua Đấng chịu đóng đinh cho mọi người, bất chấp mọi khó nguy, liên lụy và ngay cả cái chết.
Khi nói về mục đích của cuộc đời, thánh Phaolô đã diễn tả: “Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3,8); “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21)”; nên “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và thánh Phêrô cũng biểu lộ tâm tình hân hoan khi: “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).
Vì thế, các Tông đồ luôn coi việc loan báo Tin Mừng là một điều cấp thiết đến độ không thể không thi hành: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
2. Hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần được triển nở trong đời sống Giáo Hội
Như vậy, kể từ ngày Giáo Hội công khai hóa, các Tông đồ đã cảm thấu và đón nhận lòng xót thương của Thiên Chúa thật dồi dào, nên tâm hồn các ông tràn đầy bình an và lửa sốt mến, khiến các ông đã không giữ lại cho riêng mình, nhưng đã chuyển trao cho mọi người, nhất là những người nghèo khó, bất hạnh, bị áp bức, bất công…
Cũng thế, trải qua dòng thời gian hơn 2.000 năm qua, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hiện diện và hoạt động cũng như làm cho kho tàng lòng thương xót của Thiên Chúa luôn được tỏa sáng như ngọn hải đăng trên con thuyền của Giáo Hội.
Những dấu ấn ghi đậm sự can thiệp của Chúa Thánh Thần như: Giáo Hội luôn gặp nhiều giông tố, bão bùng, nguy khốn; biết bao kẻ đe dọa, chống phá và muốn hủy diệt Giáo Hội ngay trong trứng nước, từ thời sơ khai và cho đến tận hôm nay! Nhưng Giáo Hội Chúa vẫn hiên ngang, đứng vững, lớn mạnh không ngừng và tồn tại muôn đời.
Sự can thiệp của Chúa Thánh Thần còn được thể hiện cụ thể qua việc biến đổi tâm hồn con người. Vì thế, biết bao người nguội lạnh, khô khan, cố chấp… Nhưng qua một biến cố hay sự kiện nào đó, họ được khai trí mở lòng, nên đã ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhất là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa trên cuộc đời, lập tức họ đã trở nên những người yêu mến Giáo Hội hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.
Hay có những người “dốt đặc cán mai”; “chân lấm tay bùn”; hoặc thuộc hạng “cùng đinh” trong xã hội, nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần đổ đầy lòng xót thương trên cuộc đời họ, họ đã trở thành những người lỗi lạc, hàn lâm, uyên bác đến lạ thường khi nói và làm chứng về Chúa cho anh chị em…!
Lại có những kẻ trước đây thuộc về thế giới ma quỷ. Sẵn sàng làm đồ đệ cho chúng và ra tay tàn ác với anh chị em đồng loại, thậm chí ngược đãi, chống phá Giáo Hội… Nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hóa và xót thương, nay lại trở thành những chứng nhân Tin Mừng ngay giữa lòng xã hội…
Đây chính là hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần.
3. Hãy làm cho hoa trái xót thương của Chúa Thánh Thần triển nở
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, mỗi người được đón nhận Chúa Thánh Thần cách dồi dào và phong phú. Tuy nhiên, ơn thánh của Chúa Thánh Thần không chỉ dừng lại trên cá nhân, mà phải sinh hoa kết trái đến với người khác, để mọi người đều được chung chia niềm vui và hạnh phúc như chúng ta.
Vì thế, mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, mỗi người hãy suy nghĩ và tự cật vấn bản thân xem: đã bao lần ta thờ ơ, khước từ ơn Chúa đến với mình; biết bao lần ta đã đóng chặt ơn Chúa cho riêng bản thân và đã vô cảm trước tiếng kêu gào thống thiết của người nghèo khổ, đói khát cơ bần nơi xó chợ, bãi rác, ngoài công viên, nơi bến xe, gầm cầu…?
Biết bao lần ta đã lựa chọn sự hời hợt, hình thức, tham lam, ích kỷ, vụ lợi, ghen tương, vu khống, kiêu ngạo, thù hận, thiếu niềm tin, lòng trông cậy và yêu mến Chúa trong đời sống đạo? Biết bao lần ta đã phớt lờ tiếng nói của Lương Tâm, để lựa chọn những hành vi tội lỗi không phù hợp với bản chất Công Giáo và giá trị Tin Mừng?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần ban ơn bình an và lòng thương xót của Người cho chúng ta. Khi có được sự an bình thư thái và ngụp lặn trong tình thương của Thiên Chúa, mỗi người sẽ làm cho hoa trái của Chúa Thánh Thần được triển nở trong tâm hồn và đời sống của chúng ta ngang qua những lựa chọn đầy chất Kitô của mình.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến để biến đối tâm hồn chúng con cho phù hợp với tư cách người môn đệ của Chúa trong lòng xã hội hôm nay. Amen.
.
NHƯ CHÚA CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM
Fx Đỗ Công Minh
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa gặp gỡ các tông đồ ngay sau khi Người đã sống lại. Và cũng là lúc Chúa trao ban Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa ngự đến trên các ông và mọi người .
Chúa thấu suốt lòng các đồ đệ của mình, trong lúc các môn đệ lo sợ, đóng kín cửa nhà, Người đã đến giữa các ông, lên tiếng trấn an để các ông khỏi xao xuyến khi Người không còn hiện diện bên cạnh để dạy dỗ, chỉ bảo các ông: “Bình an cho anh em “, một lời cầu chúc khiến các ông thật an lòng. Không những thế Người còn cho các ông xem tay và cạnh sườn Người, khiến các ông vui mừng vì thực sự Thấy Chúa sống lại thật. Và còn phấn khởi hơn nữa khi Ngài lặp lại lần thứ hai: “Bình an cho anh em “ cùng với việc tin tưởng giao nhiệm vụ mới :”Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em “.
Còn gì sung sướng cho bằng những học trò được Thầy mình tín nhiệm, ủy thác. Mà đâu chỉ là những lời dặn dò, ủy thác, Chúa còn trao ban Thần khí của Ngài :”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha,; anh em cầm giữ ai , thì người ấy bị cầm giữ “. Chính từ sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa đã đổi mới con người các ông, mà còn đổi mới mặt địa cầu.
Ngày hôm nay, Chúa không hiện diện hữu hình nơi trần gian nữa, nhưng trong lòng tin, dưới tác động của Thánh Thần mà biết bao người đã tin theo Chúa. Biết bao các đấng Thánh, khởi đi từ các Tông đồ ngày ấy, cho đến các Giám Mục, Linh mục, tu sĩ hay giáo dân, vì đã tin vào Chúa nên đã thực hiện được những điều Chúa đã từng làm khi còn tại thế: Cứu chữa những người tật bệnh, đói nghèo. . .Đem lại niềm vui cho bao người khốn khổ, thất vọng, ngã lòng . . .Sẵn sàng đổ máu mình để làm chứng cho tình yêu thập giá.
Một người trẻ, Thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu, một vị Linh mục : Thánh Phanxicô Xaviê , một giáo dân Việt Nam: Thánh tử đạo Trùm khu Phêrô Lựu, một Tổng Giám Mục Osca Rô-Mê-Rô người Braxin trước đây hay trong thời đại hôm nay, Đức Hồng Y Phan-Xi-Cô Xa-vi-ê Nguyễn văn Thuận, Cha Phêrô Trương Bửu Diệp và mới đây nhất hai Đấng Thánh Giáo hòang Gioan XXIII, Gioan –Phao-Lô II cùng biết bao vị khác đủ mọi thành phần trong Hội Thánh đã đón nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần, nhận bài sai từ Chúa Giêsu, đã và đang làm chứng cho Chúa, đã đưa biết bao người tin nhận Chúa. Giúp xua đi bao khổ đau cho muôn người và đem Tin Mừng cứu độ đến cho họ.
Xin Chúa Thánh Thần luôn củng cố niềm tin cho chúng con, xin Ngài đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con, để mỗi người, từng người chúng con hiệp nhất với nhau, trở nên khí cụ bình an của Chúa trong thế giới này. Góp phần tạo dựng trời mới đất mới ngay từ cuộc sống trần gian và mai ngày sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa trong nước trời .
Lạy Ngài xin đến dẫn dắt chúng con trên đời,Cầu Ngài liên kết chúng con nhất tâm trong Ngài.
Cầu Ngài ban ơn thêm sức kiên vững không lay. Sống sao nên người con Chúa chứng nhân tình yêu AMEN. ( Thánh Thần hãy đến – Thành Tâm ) .
.
Lm Văn Hào
Khi tổng thống Washington lên cầm quyền, vào thời điểm nước Mỹ mới được thành lập, ông và 55 nhà ái quốc đã nhóm họp tại Philadelphia để soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên cho quốc gia này. Sau bốn tuần làm việc cật lực, họ vẫn không đạt được kết qủa nào vì có qúa nhiều ý kiến bất đồng, thậm chí đối kháng lẫn nhau. Mọi người toan tính bỏ cuộc. Một nghị viên tên là Benjamin Franklin đứng lên phát biểu : “Thưa Ngài Tổng thống và thưa toàn thể hội nghị, sức lực và trí tuệ của con người rất giới hạn và mong manh, cụ thể sau một tháng làm việc chúng ta vẫn chưa gặt hái được thành quả nào vì đầu óc chúng ta quá tăm tối. Vậy tôi đề nghị, chúng ta phải xin ơn trên soi sáng để có thể tiếp tục công việc”. Ý kiến trên được mọi người chấp nhận. Từ ngày hôm ấy trước mỗi phiên họp, các nghị viên đều đứng lên cung kính cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần soi dẫn. Chẳng bao lâu sau, nước Mỹ đã có được một bản hiến pháp lịch sử mà các sử gia vẫn xem đó là công trình vĩ đại nhất của nứớc Mỹ, được hoàn thành bởi ơn trên cùng với sự cộng tác của con người. Bản hiến pháp ấy đã trở thành quy chuẩn để nhiều quốc gia khác trên thế giới soi chiếu và noi theo. Người ta cho in hàng chữ ‘Chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa’ (In God we trust) trên tờ Đôla Mỹ để ghi nhớ biến cố này. Qủa thật, nếu không mở lòng cho Thánh Thần tác động, chúng ta sẽ không làm được bất cứ công việc gì.
Chúa Thánh Thần là ai?
Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng : “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”. Đó là 4 tín điều căn bản của giáo lý Công giáo về Chúa Thánh Thần mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc.
Tuy nhiên, khi chúng ta đặt câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta dễ rơi vào tâm trạng giống như dân Ephêsô ngày xưa khi họ trả lời thánh Phaolô: “Thưa ông, ngay cả việc có Chúa Thánh Thần hay không, chúng tôi còn chưa biết đến”(Cv 19,2). Kinh thánh nói khá nhiều về Thần khí của Thiên Chúa với nhiều biểu tuợng, nhưng chúng ta không thể hình dung Chúa Thánh Thần qua một hình ảnh hay qua một danh xưng. Nhà thần học Simeon vẫn hướng về Chúa Thánh Thần với lời cầu nguyện: “Xin hãy đến, lạy Đấng mà chúng con không hiểu được, cũng không biết được”. Đấng mà chúng ta không hiểu, không biết, nhưng với cảm thức đức tin, chúng ta vẫn có thể trải nghiệm được sự hiện diện và tác động của Ngài tận thâm sâu trong cõi lòng mỗi người.
Vì thế, nói về Chúa Thánh Thần không phải là một điều giản đơn hay chúng ta có thể tự nghĩ ra. Chúa Giêsu đã từng nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Ông nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và đi đâu (Ga 3,8)”. Thánh Thần là Đấng mà chúng ta không thể nhốt kín trong một phạm trù cứng ngắc, hoặc trình bày Ngài như một khái niệm xơ cứng. Chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài bằng đức tin, đồng thời chúng ta suy tư về Chúa Thánh Thần dựa trên Kinh thánh và những giáo huấn của Giáo hội. Tóm lại, để trả lời câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta có thể trích mượn tư tưởng của thần học gia Jacques Guillet: “Người ta không thể thông hiểu về Chúa Thánh Thần như hiểu biết về Chúa Cha và Chúa con. Thánh Thần không có dung mạo cũng chẳng có danh xưng. Chúng ta không thể đặt mình trước Chúa Thánh Thần để cầu nguyện hay chiêm ngắm Ngài, theo dõi các hành động của Ngài. Nhưng chúng ta vẫn có thể cảm thấu sự hiện diện của Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ năm xưa : “Anh em sẽ nhận biết Ngài vì Ngài ở trong anh em” (Ga 14,17).
Những biểu tượng về Chúa Thánh Thần
Biểu tượng mà Kinh thánh sử dụng nhiều nhất để nói về Thần Khí, là gió hay hơi thở, diễn tả qua hạn từ ‘Spiritus Sanctus’ trong tiếng Latinh, ‘Holy Spirit’ trong tiếng Anh, ‘Pneuma’ trong tiếng Hy Lạp, và tiếng Do Thái gọi là ‘Ruah’. Chính Chúa Giêsu cũng đã dùng biểu tượng này khi nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió và không biết gió từ đâu đến”. Trong sách Tông đồ công vụ, lễ Hiện xuống (Pentecost) được khởi đầu với một làn gió mạnh thổi vào căn nhà nơi các Tông Đồ đang tụ họp. Khi sống lại, Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các môn đệ, trao ban bình an và tuôn đổ Thần Khí trên các ông (Ga 20,22). Ngay từ đầu sách khởi nguyên, tác giả cũng đã trình thuật về công trình tạo dựng qua đó Đức Chúa Giavê thổi hơi ban sinh khí vào ‘nắm đất’ để dựng nên con người (St 2,7). Đó là những đặc nét và biểu tượng nói về Thần Khí, Đấng tác sinh và ban sự sống.
Biểu tượng thứ 2 nói về Chúa Thánhh Thần là mạch nước. Trong thị kiến của tiên tri Ezekiel, dòng nước chảy từ bên phải đền thờ phát sinh sự sống tiên báo về thời kỳ ân điển của Thần Khí (Ez 47). Cũng vậy, trong Tin mừng Gioan, Chúa nói với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp về nguồn nước sự sống phát nguyên từ nơi Ngài, là chính Thần Khí của đấng Phục sinh, đem lại cho con người ơn cứu rỗi (Ga 4,13). Rõ nét nhất, Tin mừng Gioan thuật lại cho chúng ta: “Vào cuối cuộc lễ, Đức Giêsu đứng dậy và hô lớn tiếng: “Ai khát hãy đến với tôi, ai tin vào Tôi hãy đến mà uống… Đức Giêsu muốn nói về Thần khí mà những kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh nhận. (Ga 7,37-38).
Kế đến là biểu tượng ngọn lửa. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại bối cảnh lễ Hiện xuống đầu tiên với hình lưỡi lửa đậu xuống trên các tông đồ (Cv 2,3). Lửa có sức đốt cháy những vẩn đục và rác rưởi của tội lỗi để biến đổi tâm can con người. Chúa Giêsu cũng đã từng tuyên bố: “Thầy đem lửa từ trời đến thế gian, và Thầy ước mong cho ngọn lửa ấy bùng lên”. Thánh Phaolô cũng khuyến mời giáo đoàn Thesalonica: “Anh em đừng dập tắt Thánh Thần (1Th 5,14). Hai môn đệ trên đường về làng quê Emmaus khi nghe Chúa Giêsu cắt nghĩa Kinh thánh, đã cảm thấy như một ngọn lửa đang bừng cháy nơi tâm hồn mình (Lc 24,32). Đó là dấu chứng về sự tác động của Thần Khí.
Ngoài 3 biểu tượng nói trên, chúng ta còn thấy khá nhiều biểu tượng khác trong Kinh thánh ám chỉ về Chúa Thánh Thần, như chim bồ câu hoặc như việc xức dầu thánh hiến. Kinh thánh dùng những biểu tượng trên để nói về Ngôi Ba Thiên Chúa, là ngôi vị không có hình thể, không có danh xưng nhưng chắc chắn chúng ta có thể cảm nghiệm sự tác động nhiệm mầu của Ngài trong đời sống đức tin của chúng ta.
Kết luận
Tuần trước chúng ta mừng kính việc Chúa về trời, vừa hữu hình vừa vô hình. Tin mừng Gioan liên kết các sự kiện thành một mầu nhiệm duy nhất: Chúa sống lại đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, và trao ban Thánh thần để Ngài tiếp tục hiện diện giữa Hội thánh. Cũng vậy, tuần này chúng ta cũng mừng kính việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, vừa hữu hình vừa vô hình, là cao điểm của mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Hướng đi của Thánh Thần là bình an và hoan lạc (Rm 8,6)”. Khi chúng ta có bình an và niềm vui thực sự trong tâm hồn, chúng ta thực sự đang sở đắc Chúa Thánh Thần. Ngài chính là nguyên lý của bình an và hạnh phúc. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn chúng ta mỗi ngày.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Sau khi sống lại, Chúa Giê-su Phục sinh đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần để minh chứng một cách xác thực cho họ biết Người đã sống lại thật. Người còn giải nghĩa một cách tường tận hơn cho các tông đồ hiểu biết về Nước Trời, củng cố niềm tin cho các ông, để các ông can đảm trong sứ vụ rao giảng Tin mừng, làm chứng về ơn cứu độ cho mọi người. Sau đó Chúa đã về trời ngự bên hữu Chúa Cha. Nhưng trước khi trở về trời, Người hứa sẽ ban cho các ông Chúa Thánh Thần và ở lại với các ông cho đến ngày tận thế. Như vậy, Chúa Giêsu lên trời, chỉ có nghĩa là Người không còn hiện diện giữa các tông đồ trong thân xác con người, nhưng vẫn hiện diện bằng một cách đặc biệt hơn qua Chúa Thánh Thần. Đúng như lời Chúa đã hứa, trong ngày lễ Ngũ tuần khi các tông đồ đang cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các ông và các ông được tràn ngập ơn sủng Chúa Thánh Thần.
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống và cũng là ngày sinh nhật của Giáo Hội, khởi đầu sứ mệnh rao truyền Tin mừng, và xây dựng Nước Chúa nơi trần gian. Như chúng ta biết sách Tông đồ công vụ, ghi lại các hoạt động rao giảng của các tông đồ vào thuở ban đầu lúc Giáo hội còn trong tình trạng sơ khai. Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết sự việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như thế nào. Các ông đã được biến đổi, trở nên can trường và tràn đầy ơn sủng. Các ông rao truyền đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh qua những ngôn ngữ khác nhau, cho những người Do thái hành hương từ nhiều nơi và nói nhiều thứ tiếng được hiểu biết. Họ nhận biết một cách rõ ràng lòng tin, và hiểu được những lời giảng dạy của các tông đồ về Chúa Ki-tô. Điều này đã làm cho họ sửng sốt kinh ngạc và ca tụng Thiên Chúa.
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô cho chúng ta biết một số điều quan trọng về sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống đức tin của chúng ta. Thứ nhất, nguồn gốc mọi ân sủng của chúng ta là từ Chúa Thánh Thần. Ngài ban các ân sủng khác nhau cho từng người tùy theo nhu cầu và không ai giống ai. Tuy nhiên các ân sủng ấy không phải để làm lợi hay vinh danh cá nhân, nhưng nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn, và xây dựng Giáo hội. Điều thứ hai, Thánh Phao lô cho chúng ta biết Giáo hội được so sánh như một thân thể, cần phải có sự liên kết và cộng tác của các chi thể. Thánh Phao-lô dạy mỗi Ki-tô hữu là những chi thể được kết hợp lại thành một thân thể mà Chúa Ki-tô là đầu, vì thế, mọi chi thể hay mọi thành phần phải cố gắng hợp nhất, và hy sinh để chung sức xây dựng giáo xứ và Giáo hội, là Thân Thể Chúa Ki-Tô.
Ông bà anh chị em thân mến. Hơn lúc nào hết, ngày hôm nay và trong xã hội này, tất cả chúng ta, người Công giáo Việt nam sống trong thành phố Tulsa này, cần Chúa Thánh Thần và những ơn sủng của Ngài, để rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh và xây dựng giáo xứ. Chúng ta tin Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa và biến đổi, tiếp tục đổi mới và canh tânđời sống chúng ta. Chúng ta nhận thấy, khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã biến đổi trở thành những con người có tâm hồn và cuộc sống hoàn toàn mới. Trước đây, các ông chỉ là một nhóm nhỏ sợ hãi, lúc nào cũng cửa đóng then cài. Thế nhưng sau khi được tràn đầy ơn sủng của Chúa Thánh Thần, các ông đã kết hợp với nhau trở nên mạnh mẽ và can trường mở cửa ra đi loan báo Tin mừng, làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục sinh, hiệp nhất trong tình yêu thương xây dựng Giáo hội. Chúng ta hãy tự hỏi: để sống như lời Chúa dạy, liên kết, hiệp nhất, giúp đỡ nhau sống đức tin và xây dựng giáo xứ, Thân Thể Chúa Ki-tô, thì mỗi người chúng ta phải làm sao và sống như thế nào?
Khi chịu Bí tích Thánh tẩy và Thêm sức, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trong tâm hồn mỗi người chúng ta, và đã nhận 7 ơn sủng đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Thứ nhất là Ơn Khôn Ngoan, giúp chúng ta biết phân biệt điều tốt điều xấu, việc lành việc dữ. Nâng cao tâm hồn và hướng cuộc sống về những sự trên trời. Thứ nhì là Ơn Hiểu Biết giúp chúng ta tìm thánh ý Chúa, hiểu ý nghĩa, giá trị Lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội dạy. Thứ ba là Ơn Lo Liệu giúp chúng ta biết phải làm gì để cảm tạ và vinh danh Chúa, biết sống như thế nào để linh hồn của chúng ta và những người chung quanh được cứu rỗi, cũng như giúp chúng ta biết giải quyết những khó khăn trong đời sống theo thánh ý Chúa. Thứ tư là Ơn Sức Mạnh giúp chúng ta can đảm làm việc lành, việc tốt, tránh điều xấu, dữ, biết can đảm sống hy sinh phục vụ, có tấm lòng yêu thương và quảng đại, sống ngay thẳng công bằng, trở thành chứng nhân đính thực cho Chúa, cho dù phải chịu những sự chỉ trích, vu oan hay thiệt thòi. Thứ năm là Ơn Thông Minh giúp chúng ta phán đoán một cách ngay thẳng và biết sử dụng ơn lành làm sáng danh Chúa. Thứ sáu là Ơn đạo đức giúp chúng ta có lòng nhiệt thành và sốt sắng thờ phượng và tin yêu Chúa. Thứ bảy là Ơn Kính Sợ Chúa giúp chúng ta vì yêu mến Chúa biết đặt Chúa trước và trên hết mọi sự, và tránh xa làm những điều mất lòng Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, và cũng là Đấng chúng ta yêu mến.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa Thánh Thần luôn tuôn đổ những ơn sủng này xuống cho mỗi người chúng ta, để chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Người, và để chúng ta luôn được liên kết mật thiết với Người. Chúng ta tin xưa Chúa Thánh Thần hoạt động mạnh mẽ thế nào thì ngày nay Người vẫn tiếp tục hành động mạnh mẽ như thế, vì Người là Thánh Thần Đổi Mới, là Thánh Thần Sáng Tạo, là Sức Mạnh, là Sự Sống, là Tình Yêu! Điều quan trọng là mỗi người chúng ta có nhận ra ơn sủng của Chúa Thánh Thần và chân thành để Người hoạt động trong đời sống giúp chúng ta can đảm sống, trở thành một Ki-tô hữu chân chính và sống động không?
Chúng ta ý thức rằng ngày nay Giáo hội, giáo xứ và mỗi người chúng ta còn phải đương đầu với những khó khăn thử thách, những cám dỗ và cạm bẫy, cho nên chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần gìn giữ che chở Giáo hội vượt qua khỏi những sóng gió. Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục biến đổi và thánh hóa để chúng ta luôn kết hợp trong Thân Thể Chúa Ki-tô, cùng nhau rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, và giúp nhau sống đức tin, xây dựng cộng đoàn giáo xứ và làm sáng danh Chúa.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Hơi thở là nguồn sự sống. Thiên Chúa ban sự sống cho tất cả mọi loài thụ tạo. Riêng con người, Thiên Chúa trực tiếp thổi sinh khí ban cho sự sống: Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (St 2,7). Bao lâu còn hơi thở, bấy lâu chúng ta còn đang sống. Tắt thở là chết. Mọi loài sinh vật cùng chung một nguyên lý sự sống. Tạo Hoá đã an bài một không gian bầu khí vô tận để mọi sinh vật cùng được hưởng nguồn sự sống. Chúa Thánh Thần chính là nguồn ban sự sống. Sách Tông đồ Công vụ diễn tả về ngày Lễ Ngũ Tuần của người Do thái: Khi đến ngày Lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp (Cv 2,1-2). Hôm nay, Giáo Hội mừng Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sự hiện diện của Thần Linh qua làn gió mạnh bao phủ tất cả khoảng không gian mang lại nguồn sinh lực dồi dào cho các Tông đồ.
Chúng ta tuyên xưng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Sách Giáo lý Đạo Công giáo dạy rằng: Tin vào Chúa Thánh Thần là tuyên xưng Ngài là Ngôi Thứ Ba của Ba Ngôi Cực Thánh. Ngài xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Trong Ba Ngôi, không thể phân chia. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần phân biệt với nhau, nhưng không tách rời. Chúa Thánh Thần là Đấng Vô Hình, nhưng chúng ta nhận ra Ngài qua tác động của Ngài. Ngài mạc khải Ngôi Lời cho chúng ta và Ngài hoạt động trong Hội Thánh. Chúa Thánh Thần xây dựng, linh hoạt và thánh hoá Hội Thánh. Là Thánh Thần tình yêu, Ngài làm cho những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội nhận lại được ơn giống hình ảnh Thiên Chúa đã bị đánh mất vì tội lỗi. Nhờ các Bí tích, Chúa Kitô thông truyền Thánh Thần của Người và ân sủng của Thiên Chúa cho các chi thể trong thân thể Người. Ân sủng này mang lại hoa trái cho đời sống mới theo Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là Thầy dạy cầu nguyện.
Chúng ta phải rất cẩn thận trong vấn đề tín lý và sống đức tin. Bảy nguồn ơn sủng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt là các ơn Khôn Ngoan và ơn Hiểu Biết giúp chúng ta nhận ra chân lý. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúng ta không nên cụ thể hóa tác động ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đôi khi chúng ta bị chìm đắm mải mê tin tưởng qua một số hành động và nghi thức bên ngoài do con người tạo nên. Chúng ta nguyện xin Chúa Thánh Thần phải đến và phải hành động theo cách thế và ước muốn của chúng ta. Một số hiện tượng xảy ra hàng loạt đã được gắn kết cho tác động của Chúa Thánh Thần. Nhớ rằng trong Sách Giáo lý dạy: Đức Chúa Thánh Thần đã hiện ra trong hai dịp quan trọng: Một là khi Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan và hai là trong ngày Lễ Ngũ Tuần, khi các thánh Tông đồ đang họp nhau cầu nguyện cùng với Đức Mẹ Maria.
Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ lãnh nhận ơn sủng của Chúa Thánh Thần tràn đổ xuống tâm hồn qua hình lưỡi lửa: Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một (Cv 2,3). Ân sủng của Chúa Thánh Thần tác động sâu thẳm và đổi mới tâm hồn một cách toàn diện: Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2,4). Ơn Chúa Thánh Thần là một ân sủng cao siêu tuyệt vời thấu tận tâm can. Chính Chúa Giêsu thổi hơi ban Thánh Thần cho các tông đồ cùng với sứ mệnh: Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20,22). Chúa ban ân sủng và quyền năng cho các tông đồ làm hành trang sứ vụ trong cuộc lữ hành của Giáo Hội trên trần thế: Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ (Ga 20,23).
Trong Giáo Hội hiện nay, có nhiều khuynh hướng hay phong trào muốn lôi kéo thị hiếu của người nhẹ tin vào những hiện tượng cảm tính và xúc động tâm linh như những cảnh người té ngã nằm đó ca hát, nói các thứ tiếng lạ, múa nhảy và ngủ lịm được nhiều người ưa thích. Chúng ta không dừng lại nơi những cảm tính nhất thời đó. Ân sủng của Chúa giúp chúng ta đổi đời, canh tân và sống đạo thực sự. Chúa mời gọi chúng ta ra đi làm nhân chứng cho sự thật. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Đức Chúa Thánh Thần đã ban ơn soi sáng trí khôn, thêm sức mạnh và thánh hoá các Tông đồ để các ngài đi rao giảng Phúc Âm và làm chứng về Chúa Kitô. Dấu chỉ hoa trái của Chúa Thánh Thần chính là sự đổi đời, canh tân cuộc sống và làm nhân chứng cho tình yêu Chúa Kitô. Các Tông đồ trở thành những con người mới đầy lòng can đảm, thấu triệt lẽ khôn ngoan và anh dũng làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh và chịu hiến thân đổ máu đào minh chứng niềm tin.
Niềm tin của tất cả các Kitô hữu đều quy về một mối là Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại. Ngài là trung tâm điểm của mọi lời rao giảng. Chúa Kitô Phục Sinh là cốt lõi của mọi niềm tin và niềm hy vọng. Tuy khác biệt về các mối tương quan và cách thế duy trì niềm tin, các tín hữu đều chung kết trong một Chúa Thánh Thần: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung (1 Cr 12,7). Mọi Kitô hữu cùng quay về một hướng và cùng chung một đích điểm. Thánh Thần ban cho mỗi người một đặc sủng riêng. Tuy các ân sủng khác nhau nhưng cùng phục vụ trong một thân thể. Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (1 Cr 12,5-6).
Chúng ta thấy có nhiều tổ chức xã hội, đảng phái chính trị hay kinh tế thương mại luôn trong tư thế tranh đua và lập thành tích. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng nếu nhiều người quy họp lại trong cùng một băng nhóm hay một đoàn thể chính trị mà xoay lưng lại với nhau để mỗi người nhìn về một hướng thì dễ bề phân rẽ. Khi sự liên đới ràng buộc không còn, thì mỗi người sẽ bung ra chạy theo những khuynh hướng khác nhau. Những chính sách, luật lệ và nguyên tắc của mỗi chế độ chính trị và tổ chức xã hội có thể thay đổi theo tâm thức và thị hiếu của con người từng thời đại. Nhưng đối với các Kitô hữu, xưa cũng như nay, niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh không thay đổi. Chúng ta có thể thay đổi cách thế thực hành đạo, các phương tiện và cơ cấu tổ chức. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi luôn hiện hữu.
Mỗi cộng đoàn giáo xứ bao gồm nhiều thành viên. Mỗi thành viên có những ân điển đặc thù về nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Mỗi người khác nhau từ dòng dõi, gia cảnh, trình độ học vấn, kiến thức, sự hiểu biết và nơi môi trường văn hoá riêng biệt. Mỗi người có cá tính và bản sắc riêng nhưng chúng ta cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô: Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy (1 Cr 12,12). Chúng ta cùng sống chung trong một cộng đoàn giáo xứ. Cuộc sống đạo của mỗi thành viên cần được thấm nhuần vào các sinh hoạt chung. Nhưng điều quan trọng là mỗi người phải tự đứng trên đôi chân của mình. Đời sống đạo đức và nhân cách phải tự rèn luyện và vun xới. Chúng ta không thể vay mượn hành động sống đạo và hành đạo.
Khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, Chúa nói: Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em (Ga 20,21). Lạy Chúa, xin ban sự bình an đích thực cho tâm hồn chúng con, để chúng con sẵn sàng ra đi làm nhân chứng cho Chúa trên mọi nẻo đường.
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Mùa Phục sinh kết thúc với Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa Nhật sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là lễ Chúa Ba Ngôi, và Chúa Nhật sau lễ Chúa Ba Ngôi là lễ Mình Máu Thánh Chúa Yêsu.
Các con hãy nhận lấy Thánh Thần
Buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Yêsu Phục Sinh đã hiện ra cho các tông đồ. Ngài thổi hơi trên các ông và bảo: “các con hãy nhận lãnh Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”.
Trong ca tiếp liên: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người chẳng còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa lành nơi thương tích”. Trong lời tha tội của bí tích xá giải, linh mục đọc: “Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, Chúa đã dùng cái chết và sống lại của Con Chúa để giao hoà thế gian với Chúa, và đã ban Thánh Thần để tha tội…”
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, Đấng làm cho con người được giao hoà với Thiên Chúa, Đấng tha tội cho con người, Đấng làm cho con người trở thành con Thiên Chúa.
Thánh Thần – Đấng trợ phù
“Không ai có thể nói ‘Đức Yêsu là Chúa’ mà không nhờ bởi Thánh Thần”. Thánh Thần giúp con người tin vào Đức Yêsu. Không có ơn của Chúa Thánh Thần, không ai có thể tin vào Đức Yêsu được.
Có nhiều ân sủng, có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ do một Thánh Thần. Thánh Thần ban cho người này ơn tiên tri, ban cho người kia ơn thông hiểu, ban cho người khác ơn lãnh đạo,… Có nhiều chức vụ, nhiều đặc sủng, nhưng tất cả đều do bởi một Thánh Thần. Cũng chính Thánh Thần liên kết chúng ta nên một, dù chúng ta thuộc thành phần nào, dân tộc nào, chúng ta vẫn làm nên một thân thể trong Đức Yêsu, cũng nhờ chỉ một Thánh Thần. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Thánh Thần giúp chúng ta cầu nguyện, giúp chúng ta sống đẹp lòng Chúa, làm chúng ta trở nên con người mới. Thánh Thần là Đấng làm mới tất cả.
Thánh Thần là Thiên Chúa
Nhờ Đức Yêsu phục sinh, và các tông đồ nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói với các ngài khi Đức Yêsu còn sống đời dương thế, các tông đồ “với ơn của Thánh Thần” đã nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa, và sau đó Thánh Thần là Thiên Chúa.
Thánh Thần có cùng nguồn gốc nơi Thiên Chúa, Ngài ở nơi Thiên Chúa “Khi Đấng bảo trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha” (Ga.15, 26), được Cha và Đức Yêsu sai gởi “Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga.14, 26).
Sứ mạng của Thánh Thần là ở với con người: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em Đấng bảo trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi” (Ga.14, 16), dạy con người mọi sự (Ga.14, 26), làm chứng cho Đức Yêsu (Ga.15, 26), dẫn con người tới sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần luôn ở với bạn, và gần gũi với bạn không?
- Thánh Thần có thể làm bạn trở thành “con người mới”. Bạn hiểu “con người mới”, là người như thế nào?
- Lời kinh nào về Chúa Thánh Thần mà bạn thích nhất?
.
Lm Jos. DĐH
Đại đa số các em bé thường có chung ước mơ mau trở thành người lớn, các học trò luôn mong kết quả học tập, còn các vận động viên chăm chỉ tập luyện là hướng tới danh hiệu phía trước. Với người trưởng thành, người Kitô hữu, phần thưởng hướng tới là gì ? hẳn không đơn thuần là vật chất. Thực ra ở đời này, phần thưởng hay quà tặng, luôn mang tính danh dự nhiều hơn, như câu thành ngữ : một miếng giữa làng, bằng sàng xó bếp; một ngàn tiền công, không bằng một đồng tiền thưởng.
Theo tình cảm tự nhiên, bậc cha mẹ vẫn sẵn lòng ban phần thưởng nhằm khích lệ con cháu mình. Không có ban tổ chức nào mà không vui sướng, khi trao giải thưởng, quà tặng, cho những vận động viên cố gắng chăm chỉ tập luyện thi đua. Cuộc thương khó của Chúa Giêsu đã ngăn cách tình thầy trò, thì ánh sáng phục sinh chính là phần thưởng “vô giá” được Thiên Chúa trao ban. Chúa Giêsu vui vì các “đệ tử” trưởng thành hơn, sau biến cố tử nạn-phục sinh. Các môn đệ Đức Giêsu hân hoan vui mừng không phải được tiền được vàng, đúng hơn các ông hạnh phúc vì tâm hồn bình an, vì được thông truyền một sức sống từ Đấng phục sinh.
Ơn bình an hay niềm vui tâm hồn mà các tông đồ lãnh nhận, người ngoài cuộc chỉ biết gọi là phần thưởng, vì nào ai cân đo đong đếm được mức độ nặng nhẹ của tình yêu mà Đấng Kitô ban tặng. Khác với phần thưởng thầy tuyên dương trò, cũng không giống quà tặng giữa tình yêu đôi lứa, phần thưởng các tông đồ nhận lãnh là tổng hợp giữa đau khổ thập giá và ơn phục sinh của Đức Kitô. Hôm nay đây, phần thưởng hữu hiệu mà con người chờ mong, hẳn không phải là vật chất, quyền lợi, nhưng chính là ơn bình an, tình yêu, xua tan hận thù oán ghét.
Kinh nghiệm của tiền nhân để lại rằng : cho tiền cho bạc không bằng chỉ đàng đi buôn; cho “cần câu” và chỉ họ kỹ thuật câu cá là cách cho khoa học hơn cả. Chúa Giêsu ban phần thưởng cho các học trò, nhưng không phải là quyền lực, là vật chất tiện nghi, mà là ơn bình an, là giúp các ông biết sử dụng phần thưởng cách hợp lý hơn. Quan niệm chung chung, giá trị của phần thưởng lớn hay nhỏ tùy thuộc người đứng đầu, hay ban tổ chức. Phần thưởng lớn lao được ban cho các tông đồ là ơn Thánh Thần, là bình an đến từ Chúa Cha, ơn ban đó không do sự nỗ lực của các tông đồ, mà vì sáng kiến của Đấng phục sinh.
Ngày hôm nay, có thể nhiều người vẫn thắc mắc, phần thưởng Chúa phục sinh ban cho các tông đồ cao quý, giá trị ở điểm nào ? Và người ta hằng khao khát, dù trí lòng họ và ta cũng chỉ lờ mờ về ơn bình an tâm hồn. Rất nhiều người Do-thái xưa kia đã từng gặp, từng nghe, từng chứng kiến việc Chúa Giêsu nói và làm, nhưng họ không diễm phúc nhận lãnh phần thưởng như các tông đồ. Có thể xung quanh chúng ta cũng khá nhiều người đơn sơ, nhiệt thành, cầu nguyện lâu giờ, nhưng phần thưởng giống như các tông đồ, họ nói là chưa thấy !
Phần thưởng của người Do-thái, là họ cần một Đức Giêsu quyền năng, phục vụ theo nhu cầu của họ, nên phần thưởng ấy chỉ có trong mơ. Phần thưởng của người đời hôm nay họ cho rằng phải giỏi kỹ năng, đời bớt khó khăn, không kỹ năng làm gì cũng nặng. Vì thế, người ta chủ trương phải nỗ lực tập luyện, nên phần thưởng cũng chỉ là mờ nhạt. Quan niệm về phần thưởng của người Kitô hữu hôm nay vẫn không ít những tiêu cực : có thực mới vực được đạo; trời sinh voi trời sinh cỏ; hoặc đạo tại tâm… Rất cần đến tình hiệp thông của gia đình giáo hội, và ơn ban Thánh Thần tình yêu khai mở tâm trí cho người tín hữu hôm nay !
Đức Kitô vẫn là Một, hôm qua cũng như hôm nay. Những ai thuộc về Đức Kitô, sẽ hiểu phần thưởng cao quý hơn cả chính là tình yêu, là sự thông ban Thánh Thần. Ơn ban đó biến đổi, làm nên một sức sống luôn tươi mới. Ở đời họ chủ trương : có sức khỏe, bẻ gãy gian nan. Ở trong Đức Kitô, là ở trong tình yêu Thánh Thần, là có tất cả, có niềm vui bình an, có sự hiệp thông trọn vẹn để ta biết sống chứng nhân. Phần thưởng của Đấng phục sinh dành cho mỗi chúng ta rất riêng biệt, dù là linh mục, là tu sĩ, là ông bố bà mẹ, mỗi chúng ta đều phải mở gói quà để sống ơn gọi của mình cách tốt nhất.
Cuộc đời mỗi người có thể sánh ví như con tầu sẽ rất an toàn, khi được neo đậu sâu trong bến cảng, nhưng người ta đóng tầu không vì mục đích neo đậu. Người tin theo Đức Kitô, thiết tưởng nhiều người vẫn mong được an toàn sống nép bóng trong tình yêu của Đấng ta tin tưởng. Nhưng không, để trở nên thần dân của Đức Kitô, người ta phải sống chứng nhân tình yêu, không thể im lặng, thụ động. Phần thưởng của Đấng phục sinh ban cho các môn đệ là Thánh Thần, phần thưởng đó, cả các môn đệ và chúng ta hôm nay, ai cũng phải chia sẻ, nếu chúng ta ý thức mình thuộc về Đức Kitô. Amen.
.
Trần Bình An
Một buổi sáng nọ, vào tháng ba, năm 1957, người ta đưa một người thanh niên, có vẻ là học sinh hay cán bộ gì đó, đến xin tôi làm phép xức dầu cho anh. Anh ta yếu, không còn đi lại được. Khi làm phép xức dầu sau hết cho anh, tôi biết anh là thanh niên lao động từ Cộng sản… Câu chuyện tưởng thế là xong. Nhưng, y như mọi khi. Một tháng sau, tôi bị gọi ra Viện Kiểm sát nhân dân làm việc. Tôi được ngồi trên một ghế đẩu, tức là ghế các bị cáo quen ngồi, không có tựa.
– Ông có làm phép đạo cho anh này không (tôi không nhớ tên)
Tôi thưa: Có.
– Khi làm phép thì ông đã nói thế nào?
– Điều này luật đạo chúng tôi không được phép nói.
– Ông phải nói, vì đây là pháp luật đòi hỏi.
– Tôi không được phép nói, vì luật chúng tôi dạy rằng: Khi giải tội thì không bao giờ được nói điều người ta nói với tôi, dù có phải chết cũng không được nói. Đó là bí mật tòa giải tội, chúng tôi phải giữ với giá mạng sống của chúng tôi.
Họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi, tôi vẫn chỉ thưa có một câu:
-Tôi không được phép nói.
Rồi họ hỏi hàng mấy chục câu vu vơ, trong đó có câu quan trọng:
-Ông có tôn trọng chính quyền không?
-Có. Luật đạo chúng tôi dạy vậy. (Chúng tôi nhấn mạnh)
Cả một ngày thẩm vấn, chỉ có lời hỏi đáp đó là đàng hoàng.
Ông Viện Trưởng đọc lại biên bản để tôi ký. Khi đọc đến câu: ông có tôn trọng “chính quyền” không? Thì ông ta lại hỏi: ông có tôn trọng luật pháp nhà nước không? Tôi ngắt lời ông ngay và nói: Lúc trước, ông không hỏi tôi thế. Nếu ông hỏi tôi “có tôn trọng luật pháp không, thì tôi thưa khác”
-Ông thưa khác thế nào?
-Nếu ông hỏi có tôn trọng chính quyền, thì tôi thưa có và không điều kiện. Vì luật đạo dạy dù chính quyền là thế nào đi nữa, cũng phải tôn trọng. (Chúng tôi nhấn mạnh). Còn nếu hỏi: Có tôn trong luật pháp nhà nước không, thì tôi thưa khác.
-Thưa thế nào? Rồi ông ta giơ cao cuốn Hiến Pháp lên: Đây luật pháp nhà nước, dù là Tổng thống, dù là Chủ tích nước cũng phải tuân theo. Và ông ta trịnh trọng hơn nữa, hỏi dằn từng tiếng: Ông có tuân theo luật pháp nhà nước không?
Tôi cũng trịnh trọng và dằn từng tiếng: Tôi tôn trọng luật pháp nhà nước, khi luật pháp đó không ngược đạo lý chúng tôi.
Ông ta lại nói to hơn và dằn từng tiếng: Đây! Pháp luật nhà nước! Ông có tôn trọng không?
Tôi cũng trân trọng và dằn từng tiếng: Tôi tôn trọng khi luật pháp đó không có gì đi ngược với đạo lý chúng tôi. Còn nếu có điều gì ngược với đạo lý chúng tôi, lương tâm tôi không buộc phải theo.
-Thế nào là không hợp với lương tâm? Tôi ví dụ:
-Ngày xưa vua chúa ra luật cấm đạo, thì dù có chết cũng không tuân luật vua. Đó là cái chết của các Thánh Tử Đạo chúng tôi đó.
Ông Viện Trưởng không còn gì mà nói. Tôi cũng thế. Thế là cuộc họp được giải tán. Mục đích cuộc gặp gỡ chỉ là để chỉnh huấn, răn đe, nhưng không ngờ lại biến sang cuộc tranh luận. Và như thế là chưa đạt mục đích. Ông cho tạm ngừng, để có cuộc gặp gỡ sau vào ngày mai.
Hôm sau, giọng diễn ra khác hẳn. Không còn là cuộc tranh luận, nhưng là xét xử. Lần này quang cảnh xảy ra như một phiên tòa. Có bàn ghế ông Thẩm phán, Thư ký. Người tố cáo không là ai khác, mà là bố ông Rò, chuyên tố cáo. Con ông làm cán bộ tại Ủy ban Mặt Trận trước cửa nhà thờ Nam Định. Ông tố cáo cha Trọng xuyên tạc chính sách, phản động, làm tay sai cho Mỹ Diệm. Sau đó, bọn tay sai ngồi quanh phụ họa, xỉ vả, bầy đặt nhăng nhít, nào là Mỹ Ngụy cài lại, nào là lên tòa giảng xuyên tạc chính sách nhà nước. Cha Trọng ngồi chiếc ghế đẩu, lâu lâu quay ra nói với họ: “Chỉ nói bậy.”
Cứ thế hơn một tiếng đồng hồ. Xong trò hề tố cáo, ông Viện Trưởng đề cao chính sách tôn giáo của nhà nước, chính sách khoan hồng, giáo dục hơn trừng trị và kết luận:“Ông Trọng vi phạm nghiêm trọng chính sách tôn giáo của nhà nước. Nhưng là lần đầu, nên chính phủ khoan hồng, chỉ cảnh cáo ông. Còn tiếp tục vi phạm thì có tù mọt gông. Tôi đứng lên ra về, trong bộ áo thâm dài đàng hoàng. Không một lời chào hỏi hay cảm ơn. Bắt chước Chúa Giêsu im lặng. (Hồi ký ĐGM Phaolô Lê Đắc Trọng, Tập III, tr.140)
Trích đoạn hồi ký trên nổi bật lên tác động ân điển bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa của Đức Chúa Thánh Thần, khi Đức Giám mục Phaolô ứng xử với thế gian. Trong Tin Mừng Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay, Đức Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ, để các ngài được hồi sinh, khai sáng, cũng như được canh tân và thánh hoá.
Thần Khí hồi sinh
Chúa Thánh Thần chính là làn gió, là hơi thở hồi sinh, tìm lại sự sống, như ngôn sứ Edêkien xưa đã trông thấy. Chính Thần Khí đã làm hồi sinh cả một thung lũng xương khô. “Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ; Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được hồi sinh.” (Ed 37, 13-14)
Cửa đóng then cài, các môn đệ sợ hãi người Do Thái, Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra, liên tục chúc bình an cho các ông, dẫu các ông sẽ gặp muôn vàn khổ nạn, như các thương tích nhan nhản trên thân thể Người, dẫu sứ vụ Đi Gieo dày đặc thử thách, vất vả, nguy nan, như chính Người đã âm thầm chịu đựng, trải qua.
Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại.” Người trao ban Chúa Thánh Thần, giải thoát các môn đệ khỏi sợ hãi, khỏi những đe doạ hiểm nghèo, khỏi ám ảnh sự chết, được bình an và tự do trong hoan lạc. “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết; còn hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an.” (Rm 8, 6)
Nhận được hồng phúc Đức Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã thực sự sống lại với Đức Kitô Phục Sinh, đã mở toang cánh cửa khép kín vị kỷ, mà đến với muôn dân, không còn khiếp hãi những kẻ chống báng, đối nghịch với Đức Giêsu, sẵn sàng đối mặt, để loan truyền ơn cứu độ, Tin Mừng, mặc bao gian truân, thử thách, hiểm nguy. Các ngài đã thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi, khỏi thân phận bất nghĩa, bất trung, bất tín với Đức Giêsu, không còn chối Chúa, không còn phản bội. Cuộc sống mới nhờ Thần Khí đã biến đổi các ngài hoàn toàn, như Thánh Phaolô quả quyết: “Quả thế, nhân bởi Lề luật mà tôi đã chết cho Lề luật, ngõ hầu được sống cho Thiên Chúa: tôi đã cùng bị đóng đinh thập giá với Ðức Kitô. Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi.“ (Gl 2, 19-20)
Thần Khí khai sáng
Không chỉ hồi sinh những tâm hồn bất chính, lầm lạc, sa ngã, Đức Chúa Thánh Thần còn là thầy dạy, linh hướng, uốn nắn đem về đường ngay, nẻo chính.“Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14, 26).
Dạy dỗ và làm nhớ lại. Đây chính là điều mà Chúa Thánh Thần thực hiện trong tâm hồn của chúng ta. Trong những giây phút khi chuẩn bị trở về với Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói trước với các môn đệ rằng Chúa Thánh Thần sẽ đến. Chúa Thánh Thần đến, trước hết, là để dạy dỗ các môn để hiểu một cách tròn đầy và chắc chắc hơn về Tin Mừng; kế đến, là giúp các ông đón nhận Tin Mừng trong cuộc sống hằng ngày, sống Tin Mừng đó và sẵn sàng ra đi làm chứng. (ĐGH Phanxicô)
Hơn nữa, Thần Khí còn khai tâm, soi sáng mỗi người tìm hiểu được tiếng nói của Thiên Chúa, Thánh Ý của Ngài qua các dấu chỉ. Vậy luôn cần trân trọng đón nhận những hồng phúc Chúa Thánh Thần trao tặng.“Anh em đừng dập tắt Thần Khí.” (1Tx 5, 19)
Thánh Thần sẽ làm cho các môn đệ nhớ lại những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau của cuộc sống, để họ có thể đặt những giáo huấn ấy vào trong thực hành. Đây cũng chính là điều diễn ra trong Giáo hội ngày hôm nay. Khi được hướng dẫn bởi ánh sáng và quyền năng của Chúa Thánh Thần, Giáo hội cũng có thể mang món quà cứu độ đến hết mọi người. Món quà ấy chính là tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi mỗi ngày, anh chị em đọc một đoạn Tin Mừng, hãy nài xin với Chúa Thánh Thần rằng: “Xin cho con hiểu và ghi nhớ mọi lời của Đức Giêsu.” Rồi sau đó, anh chị em bắt đầu đọc Tin Mừng và hãy đọc mỗi ngày. (ĐGH Phanxicô)
Lửa thiêng canh tân
Chúa Thánh Thần còn là ngọn lửa tinh luyện tâm hồn con người khỏi vết nhơ tội lỗi. Ngài cũng chính là lửa mến sẽ hun đốt lòng con người, bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Thần giúp tất cả mọi người, để tất cả sống trong tình yêu của Thiên Chúa. “Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên tạo theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật.”(Ep 4, 22-24)
Lửa thiêng Chúa Thánh Thần thánh hoá con người, trở nên nghĩa tử của Chúa, được vinh dự thân thương gọi Chúa là Cha: Abba! “Anh em đã chịu lấy Thần khí của hàng nghĩa tử; nhờ đó ta kêu lên: Abba, lạy Cha! Chính Thần khí chứng thực cho thần hồn ta rằng: ta là con cái Thiên Chúa; mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự, thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Ðức Kitô, một khi ta cùng cam chịu khổ với Ngài, để rồi cùng chia phần vinh hiển với Ngài.” (Rm 8, 15-17)
Nhờ Thần Khí, tất cả tín hữu được hiệp nhất trong Đức Giêsu Kitô.“Tôi khuyên anh em hãy đi đứng sao cho xứng với thiên triệu, do đó Thiên Chúa đã kêu gọi anh em, hết lòng khiêm nhượng và hiền từ với đức đại lượng, chịu đựng lẫn nhau trong lòng mến; hăm hở duy trì sự hiệp nhất của Thần khí, trong dây liên kết hòa thuận.” (Ep 4, 1-3)
“Canh tân là thích nghi Phúc Âm với thế giới hôm nay. Không phải giảm bớt sức mạnh của Phúc Âm, nhưng Hội Thánh trình bày Phúc Âm cho người thời đại, với ngôn ngữ của thời đại, vì nếu Hội Thánh không đến với nhân loại, thì nhân loại không đến với Hội Thánh.” (Đường Hy Vọng, số 662)
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin thương xót, ban Thần Khí cho chúng con, để chúng con được tái sinh, được khai sáng, thấu hiểu và thực thi Tin Mừng, cùng được canh tân và thánh hoá, hiệp nhất với Người.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ được đầy ơn Chúa Thánh Thần khi xin vâng làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Khấn xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn biết trông cậy Chúa Thánh Thần cầu thay nguyện giúp. Vì chúng con không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng con bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì. (Rm 8, 26-27). Amen.
.
CHÚA THÁNH THẦN – LÀN GIÓ ĐƯA THUYỀN GIÁO HỘI RA KHƠI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Đã từ lâu, con người biết tận dụng sức gió vào trong cuộc sống như làm những cối xay gió khổng lồ, đón sức gió để căng buồm ra khơi… Ngày nay công nghệ phát triển, các nước văn minh đã tận dụng sức gió để biến thành điện năng phục vụ cho các sinh hoạt xã hội. Trong cuộc sống, những làn gió nhẹ giữa trưa hè có thể xua đi cái nóng oi bức, nhưng cũng có những cơn gió lốc có thể thổi bay tất cả nhà cửa, tài sản của một vùng.
Chúa Giêsu, trong cuộc nói chuyện với Nicôđêmô, đã so sánh Chúa Thánh Thần như làn gió : Ta không thấy gió, nhưng ta cảm nhận được gió thổi, ta cũng không biết gió từ đâu đến và sẽ đi đâu. Hôm nay, trong ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, một lần nữa, Kinh Thánh lại dùng hình ảnh gió để nói về Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ kể lại : Vào ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động như tiếng gió mạnh lùa vào đầy nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những lưỡi như lưỡi lửa tản ra, đậu xuống trên đầu từng người. Ai nấy được đầy tràn Thánh Thần. Với cách trình bày này, tác giả gợi lại cho chúng ta biến cố Thiên Chúa ký kết giao ước với Môse trên núi Sinai và ban lề luật cho Israel : Khi Thiên Chúa ngự xuống, núi Sinai bốc cháy và rung chuyển. Nếu như ngày xưa, Thiên Chúa đã ký kết với dân Israel một giao ước và nhận Israel làm dân riêng của Chúa, thì hôm nay, Chúa Thánh Thần hiện xuống qua làn gió làm rung chuyển mặt đất để thánh hóa dân mới là Giáo Hội, dân đã được cứu chuộc bằng máu Chúa Giêsu và làm cho họ thành dân riêng của Chúa.
Kinh Thánh còn cho thấy Chúa Thánh Thần là làn gió đổi mới, làm thay đổi hoàn toàn các tông đồ. Làn gió Thánh Thần đã mở toang cánh cửa khép kín, để từ đây, các tông đồ sẽ không còn co cụm trong nhà nữa, nhưng sẽ phải bước ra với thế giới. Thánh Thần thay đổi con người các tông đồ để các ông không còn buồn rầu, cũng không lo lắng sợ hãi, nhưng trở nên những con người mạnh dạn làm chứng về cuộc phục sinh của Chúa Giêsu. Vì thế, Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống được xem như ngày khai trương Giáo Hội, ngày Giáo Hội xuất hiện công khai với thế giới.
Chúa Thánh Thần là Đấng quy tụ muôn dân. Chi tiết này cho chúng ta nhớ về hai biến cố của Cựu Ước : Biến cố thứ nhất là câu chuyện tháp Babel. Vì kiêu căng, con cháu ông Nôe muốn xây một cái tháp chạm trời, Thiên Chúa đã để cho họ rơi vào tình trạng chia rẽ, tản mác, không thể hiểu nhau được nữa. Qua biến cố Thánh Thần hiện xuống, Ngài là Đấng quy tụ muôn dân muôn nước nên một. Ngài làm cho mọi người có thể hiểu được tiếng nói của các tông đồ, quy tụ họ nên một dân duy nhất.
Biến cố thứ hai xảy ra thời ông Môsê, khi bảy mươi hai vị kỳ lão được chọn để chia sẻ công việc với Môse. Trong ngày họp mặt để Thiên Chúa ban Thần Khí, thì hai người đã không đến, tuy nhiên, họ vẫn đón nhận được Thần Khí của Thiên Chúa và phát ngôn tại lều trại của mình. Ông Giosuê thấy vậy khó chịu chạy đến nói với ông Môse : Xin thầy cấm hai ông ấy. Nhưng Môse đáp : Ta còn ước mong mọi người trong dân đều đón nhận được Thần Khí và mọi người đều có thể nói tiên tri. Như thế, Sách Công Vụ hôm nay cho thấy, giống như ngày xưa, Thánh Thần đã ngự xuống trên mọi người và cho họ có khả năng nói về Chúa Giêsu cho mọi người, biến họ trở thành sứ giả của Thiên Chúa. Nếu trước đây, các tông đồ chỉ là những con người nhà quê ít học, thì giờ đây, các ông trở nên những con người thông thái. Thánh Thần ban cho các ông khả năng nói các thứ tiếng khác nhau, khiến mọi người ngoại quốc tụ tập về Giêrusalem nghe các ông giảng đều có thể hiểu được các ông.
Trong thư gửi cho cộng đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cho thấy, chính Thánh Thần giúp chúng ta đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu và tin Ngài là Thiên Chúa. Vì thế, ơn đức tin mà chúng ta có được ngày hôm nay, chắc chắn là do sự hoạt động của Chúa Thánh Thần. Ngài làm cho tâm hồn chúng ta trở nên mảnh đất tốt để hạt giống Tin Mừng của Chúa Giêsu được nảy mầm và bén rễ. Ngài cũng còn tiếp tục hoạt động trong mỗi người như mưa trời để làm cho đức tin của chúng ta mỗi ngày một vững mạnh hơn, tin một cách chắc chắn hơn rằng : Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cũng cho thấy, Chúa Thánh Thần đang hoạt động một cách hữu hiệu và linh hoạt trong mỗi người. Dù chúng ta có khác biệt nhau về ngôn ngữ hay văn hóa, chúng ta đều thuộc về Chúa Giêsu và làm nên một thân thể duy nhất của Người. Mỗi người được mời gọi theo khả năng và ơn gọi riêng, chúng ta đều phải làm việc hết mình để phục vụ Chúa và Giáo Hội để tạo nên sự hợp nhất của Giáo Hội. Không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, tất cả đều làm nên một thân thể của Chúa Kitô nhờ cùng một Thánh Thần.
Tin Mừng Gioan cho thấy một hoạt động khác của Chúa Thánh Thần: Thánh Thần là Đấng ở trong các tín hữu, hoạt động nơi các tín hữu và giúp mỗi người thực thi sứ mạng của mình. Tất cả mỗi người đều đón nhận mệnh lệnh sai đi của Chúa Giêsu, dù là các tông đồ, giáo sĩ hay là giáo dân. Chúng ta sẽ không ra đi một mình, nhưng chính Chúa Thánh Thần là làn gió nhẹ làm căng cánh buồm cuộc đời cũng như cánh buồm Giáo Hội, để đưa chúng ta ra khơi thả những mẻ lưới đem các linh hồn về cho Chúa. Khi thực thi sứ mạng này, chúng ta được chia sẻ vào sứ mạng của Chúa Giêsu đã nhận từ nơi Chúa Cha, là đem Tin Mừng cứu độ cho thế giới. Vì thế, chúng ta không thể thoái thác hoặc chần chừ, nhưng phải nhiệt tâm hăng hái và khiêm tốn để cho Thánh Thần Chúa dẫn đi.
Riêng đối với các tông đồ và những đấng kế vị các ngài, Chúa Giêsu còn trao cho các ngài quyền tha thứ nhờ Thánh Thần. Chính nhờ quyền tha thứ này, Giáo Hội cùng với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, tiếp tục nối dài tình thương cứu độ và lòng thương xót của Thiên Chúa cho thế giới cho đến ngày tận thế. Như vậy, mỗi khi công bố lời tha thứ, các thừa tác viên của Giáo Hội phải nại đến Thánh Thần là sức mạnh, là tình yêu và cũng là lương y để tha thứ, yêu thương đón nhận hối nhân và chữa lành những vết thương tâm hồn cho họ.
Là thành viên của Giáo Hội, chúng ta đã được đón nhận Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ phải cùng với mọi thành phần khác xây dựng sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội. Dù có khác biệt về cách thức hoặc khác biệt về quan điểm, chúng ta vẫn được mời gọi cùng nhau làm nên một Giáo Hội duy nhất, thành thiện, công giáo và tông truyền. Là con của Giáo Hội, chúng ta có bổn phận làm cho gương mặt của mẹ Giáo Hội ngày càng tươi đẹp hơn và làm cho các hoạt động của Giáo Hội ngày càng có ảnh hưởng trong thế giới này. Vì thế, đừng bao giờ vội vàng chỉ trích Giáo Hội như kẻ bàng quan đứng bên ngoài, nhưng hãy mang cùng một tâm thức, một trách nhiệm và cùng một thao thức với sứ mạng đến với muôn dân.
Hiện nay có nhiều nhóm người, nhiều trang mạng mang danh là Công giáo, nhưng thực ra, họ đang tìm cách để tách lìa chúng ta ra khỏi Giáo Hội, họ đang muốn khiêu khích chúng ta để chúng ta quay lại chống đối Giáo Hội. Cũng có nhiều người là con của Giáo Hội, nhưng lại dễ dàng dùng những lời lẽ, những cách chỉ trích thiếu tính xây dựng, tạo nên những ngờ vực trong Giáo Hội. Hãy cẩn thận với những cám dỗ và những nguy cơ đó.
Để có thể thực thi được sứ mạng Chúa Kitô trao phó, mỗi người cần căng rộng cánh buồm tâm hồn để cho làn gió của Chúa Thánh Thần thổi vào. Ngài sẽ quét khỏi chúng ta những rác rưởi của tội lỗi và thói quen xấu, Ngài sẽ dẫn dắt con thuyền cuộc đời chúng ta đi đúng theo con đường Chúa muốn. Thánh Thần sẽ là sức mạnh giúp chúng ta can đảm, nhiệt thành bước ra với thế giới và dùng chúng ta như tác nhân biến đổi cuộc sống thế giới nên tốt đẹp hơn, theo đúng ý Chúa hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và biến đổi tâm hồn mỗi người chúng con. Amen.
.
CHÚA THÁNH THẦN – TÔN SƯ NỘI TÂM
Dã Quỳ
Trong chương trình tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, Chúa Cha đã yêu thương đến nỗi ban chính Con Một là Chúa Giêsu đến ở cùng và cứu độ chúng ta. Sứ vụ của Chúa Giêsu kết thúc nhưng Người yêu thương các môn đệ và Giáo hội đến cùng. Thế nên Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần được sai đến để tiếp nối sứ vụ huấn luyện các môn đệ. Người sẽ dạy dỗ, hướng dẫn, làm cho các môn đệ và tất cả chúng ta nhớ, hiểu, làm những gì Chúa Giêsu đã nói.
Sau biến cố Tử Nạn của Chúa Giêsu, các môn đệ quá sợ hãi! Sợ nên mới đóng kín cửa. Cái sợ tột cùng nhất là sợ mất mạng sống. Biết rõ tâm trạng của môn đệ, sau khi sống lại Chúa đã đến với họ. Chúa không chỉ trấn an mà còn ban cho họ chính bình an của Chúa. Tâm hồn có bình an thì sợ hãi sẽ rời xa. Khi các môn đệ đã tin, nhận ra Chúa thực sự sống lại và được bình an; Chúa tiếp tục trao ban Thánh Thần của Chúa cho môn sinh và sai các ông ra đi tiếp nối sứ mạng của Người nơi trần gian.
Chính Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần đến với các môn đệ “nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em.” (Ga 16,7c) Thánh Gioan mô tả Chúa thổi hơi vào các môn đệ và nói : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20, 22) Vậy từ nay, Chúa Thánh Thần có một sứ vụ đặc biệt trong Giáo Hội, trong mỗi tâm hồn người môn đệ và Kitô hữu.
+ Chúa Thánh Thần là Đấng gợi hứng và hành động. Người hướng dẫn chúng ta cách rõ ràng, mạc khải cho chúng ta biết ý muốn của Thiên Chúa và tất cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa, vì Người là Thần Trí của Thiên Chúa và phát xuất từ Chúa Cha (x. Ga 15,26)
Chính vì thế, khi nói về Thiên Chúa hay Lời của Người, chúng ta không dùng lời lẽ từ trí khôn của mình nhưng là lời do Thánh Thần Chúa soi sáng linh hứng và là những gì ta đã học được từ Chúa.( x. 1Cr 2, 10-16) Thế nên, Thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu hãy nhớ “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao?”( 1Cr 3,16-17). Một khi xác tín chúng ta là Đền Thờ và Chúa Thánh Thần luôn ngự trị, là tôn sư hướng dẫn, chúng ta sẽ tín thác vào Chúa và lắng nghe Người chỉ dạy.
Ma quỉ làm chúng ta bối rối, lo lắng và đưa ta đến thất vọng. Còn Chúa Thánh Thần, Người sẽ hướng dẫn ta cách thực hiện thánh ý Thiên Chúa, biết hy sinh. Người khiển trách ta cách nghiêm nghị nhưng luôn nâng đỡ ta trong dịu êm như người cha, như thầy thuốc. Những tư tưởng tốt lành trong ta đều đến từ Chúa Thánh Thần. Người gợi hứng, chỉ dạy chúng ta mọi điều như lời Chúa Giêsu dặn “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều.”( Ga 14,26)
Khi ta biết bàn hỏi với Chúa Thánh Thần trong những công việc, những quyết định, ta sẽ nhận được ơn bình an và tinh thần sáng suốt. Chính vì thế, Thánh Phaolô đã dặn dò mỗi Kitô hữu chúng ta hãy sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và khi ấy ta sẽ được tràn đầy hoa trái của Người là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.” (Gl 5,22) Vậy ta hãy năng trò chuyện với Chúa Thánh Thần và lắng nghe Người.
+ Chúa Thánh Thần là Đấng dạy chúng ta yêu và cầu nguyện. Chúa Thánh Thần luôn ở giữa chúng ta và ở trong chúng ta. (x. Ga 14,17) Người dạy chúng ta biết yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau và chúng ta yêu bằng tình yêu của chính Người ở trong tim ta. Người biến đổi con tim của chúng ta. Mọi sự thánh thiện, mọi nhân đức và mọi hành động tốt lành của ta đều do Người hình thành và hoàn thiện vì Người là Thánh Thần thánh hóa.
Người còn dạy chúng ta biết cầu nguyện, tôn vinh chúc tung Thiên Chúa thế nào cho phải vì lời lẽ của ta không xứng hợp và chính Người cầu thay nguyện giúp cho ta. (x. Rm 8,26-27) Hơn thế nữa, người biển đổi chúng ta thành con của Thiên Chúa, chứng thực chúng ta có quyền gọi Thiên Chúa là Cha và được quyền đồng thừa kế với Chúa Kitô. (x. Rm 8,15-17)
+ Chúa Thánh Thần là Đấng đào luyện. Người huấn luyện, làm cho chúng ta trở nên những Kitô hữu và là chứng nhân của Chúa Kitô “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20, 21-22) Khi có Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên con người mới và tràn đầy ân sủng.
Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi các môn đệ từ những con người nhút nhát nay dám mở toang cửa ra, vững tin và can đảm hăng say ra đi loan báo Tin Mừng. Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong Giáo Hội, là Đấng không ngừng hướng dẫn đoàn dân Chúa. Người luôn hiện diện và soi dẫn trong từng lời môn đệ rao giảng “Chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần.” (Cv 5,32) hay trong những quyết định “Thánh Thần và chúng tôi quyết định.”(Cv 15,28) Hơn nữa, Người là Đấng luôn kiện toàn và hiệp nhất Giáo Hội, hiệp nhất chúng ta.
Hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn luôn đào luyện mỗi chúng ta trở nên Kitô hữu thực sự và là sứ giả Tin Mừng giữa lòng đời. Người giúp chúng ta biết nhìn thực tại thế giới này trong ánh sáng của Chúa và Người dạy ta biết phân định, nhận ra những dấu chỉ thời đại. Chúa Thánh Thần cũng không ngừng canh tân chúng ta và ban sức mạnh giúp ta vượt thắng được những khó khăn trong cuộc sống ơn gọi Kitô hữu. Nhưng quan trọng chúng ta cần kết hợp với Người và cộng tác với Người, cách cụ thể là cầu nguyện và thân thưa với Người. Hãy đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và chúng ta sẽ biết phải làm gì, sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần được gọi là ngày khai sinh Giáo Hội. Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến trong mỗi người chúng ta, trong Giáo Hội và trên toàn Thế giới, như một ngọn gió mới tái tạo trái đất và Giáo Hội Chúa. Để rồi nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta biết sống hiệp nhất, yêu thương và trở nên một thân thể duy nhất trong Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ bến nên đã gởi Chúa Thánh Thần đến. Xin Chúa Thánh Thần luôn là Tôn Sư ở trong chúng con, dạy dỗ và biến đổi chúng con mỗi ngày thành Kitô hữu đích thực và thành chứng nhân của Chúa Kitô. Amen.
.
TÁC ĐỘNG CỦA THÁNH THẦN TRONG MỖI TÍN HỮU HÔM NAY
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 20,19-23
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
- Ý CHÍNH: CHÚA PHỤC SINH TRAO BAN THẦN KHÍ
Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện đến mang lại cho các môn đệ sự bình an (c.19) và niềm vui (c.20). Sau đó Người sai các ông đi (c.21a), cũng như chính Người đã được Chúa Cha sai (c.21b). Cuối cùng, để giúp các ông chu toàn sứ vụ, Người đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông (c.22). Từ đây các ông được hiệp thông quyền năng gây sự sống của Thánh Thần để tha tội hay cầm giữ tội của người ta tùy theo họ tin hay không tin vào lời rao giảng của các ông (c.23).
- CHÚ THÍCH:
– C 19-20: +Vào chiều ngày ấy, ngày thứ Nhất trong tuần: Theo sách Sáng thế, ngày thứ Nhất là ngày sau Sa-bát. Đây chính là ngày kỷ niệm Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại. Từ đây, các Kitô hữu sẽ luôn họp nhau vào các ngày thứ nhất trong tuần và gọi là Chúa nhật nghĩa là “Ngày của Chúa”. +Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái: Lý do nhà các môn đệ phải cửa đóng then cài, là vì tinh thần các ông đang hoang mang giao động. Các ông sợ người Do thái sẽ đến bắt các ông như họ đã làm đối với Thầy Giêsu. + Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông: Điều này cho thấy thân xác Chúa Phục Sinh không còn bị không gian và thời gian giới hạn như khi Người còn sống. +“Bình an cho anh em!”: Trong bữa Tiệc ly trước khi nộp mình chịu chết, Đức Giêsu đã hứa ban bình an cho môn đệ (x. Ga 14,27), và động viên các ông can đảm đương đầu với những thử thách sắp đến (x. Ga 16,33). Giờ đây sau khi sống lại, Người đã thực hiện lời hứa ấy bằng việc hai lần chúc ban bình an cho các ông (x. Ga 20,19.21). +Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Chúa Giêsu cho môn đệ xem các dấu đinh bị đóng nơi hai bàn tay (x. Ga 19,23) và vết thương bị lưỡi đòng đâm thâu nơi cạnh sườn (x. Ga 19,34). Điều này chứng tỏ thân xác Chúa Phục Sinh cũng chính là thân xác đã từng trải qua cuộc khổ nạn trước đó.
– C 21-23: +Như Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em: Việc hiện ra và sai các môn đệ sau khi sống lại, cho thấy mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng của ơn gọi và sứ vụ loan Tin mừng của Hội thánh. Như Chúa Giêsu đã được Chúa Cha sai xuống trần gian, thì giờ đây, sau khi phục sinh được siêu tôn làm “Chúa” (x. Pl 2,11) và được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18), Người lại sai các môn đệ ra đi để làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người (x. Mt 28,19), và trở thành chứng nhân của Người (x. Cv 1,8). +Người thở hơi vào các ông +và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần: Xưa khi sáng tạo lòai người, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào hình nhân bằng đất sét, để trở thành một người sống động là ông A-dam (x. St 2,7). Thì nay, Chúa Phục Sinh cũng thổi Thần Khí để biến đổi các môn đệ nên con người mới, đầy ân sủng sự sống của Thánh Thần. Tuy nhiên ngay lúc này các ông chưa đón nhận được ơn Thánh Thần ban, vì còn thiếu đức tin. Vì thế Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần và dùng nhiều cách để tăng cường đức tin cho các ông. Đến ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần được Chúa Phục Sinh ban đã phát huy tác động trên các ông (x. Cv 2,1-4). +Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ: Đức Giêsu đã được Gioan Tẩy giả giới thiệu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Sứ vụ của Người là tẩy xóa tội lỗi loài người bằng việc tha thứ cho những tội nhân thực lòng sám hối và đã đặt trọn niềm tin nơi Người (x. Lc 23,40-43). Giờ đây các môn đệ cũng được Người trao quyền tha tội với quyền năng Thánh Thần.
4.CÂU HỎI:
1) Sau khi sống lại, tại sao Chúa Giêsu lại cho môn đệ xem tay và cạnh sườn ? 2) Người đã sai các ông đi rao giảng Tin mừng khi nào ? 3) Đức Giêsu đã làm gì để ban Thánh Thần cho các ông ? 4) Các ông chỉ thực sự được ơn Thánh Thần tác động lúc nào ? Tại sao ? 5) Chúa Phục Sinh đã ban quyền tha tội cầm buộc cho các ông qua câu nói nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
- CÂU CHUYỆN:
1) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG TRONG CUỘC ĐỜI MẸ TÊRÊSA CANQUÝTTA.
Trên một toa tàu chợ phát xuất từ thành phố Can-quýt-ta Ấn Độ, giữa đám hành khách nghèo khổ đang ngồi la liệt trên sàn tàu, có một phụ nữ tay cầm tràng hạt, mắt nhắm lại và miệng đang lẩm bẩm đọc kinh. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là bà Têrêsa. Về sau người đời đã gọi bà bằng một cái tên thân thương: “Mẹ Têrêsa thành Can-quýt-ta”. Bà là người đã sáng lập dòng Thừa sai Bác ái, với sứ mệnh chuyên lo tìm kiếm những bệnh nhân nghèo khổ đang bị bỏ rơi và bị hấp hối trên các hè phố tại thành phố Can-quýt-ta. Họ thuộc giai cấp cùng đinh trong xã hội nước Ấn. Sứ vụ của chị em nữ tu này là mang những người đó về tu viện chăm sóc và giúp họ chết trong bình an. Về sau mẹ Têrêsa đã kể lại ơn gọi ấy như sau: “Khi nhìn thấy đám người nghèo khổ kia đang nằm ngồi ngổn ngang trên sàn tàu, đột nhiên có một sức mạnh đã đổ ập xuống trên tôi, làm cho tôi tự nhiên cảm thấy họ chính là những Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi. Tôi sẽ phải làm gì để giúp đỡ họ đây?”. Sau đó bà đã quyết định lập một dòng nữ với sứ vụ chuyên lo phục vụ những người nghèo khổ này. Rồi bà bắt tay vào công việc đầu tiên là đi tìm mướn nhà để có nơi phục vụ họ, đang khi trong túi chỉ còn đúng ba đồng bạc Ấn! Nhưng nhờ ơn Chúa giúp mà ngày nay dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa Canquýtta đã lan đi khắp thế giới. Quả thực, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và họat động nơi mọi thành phần dân Chúa trong Hội thánh.
2) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG TRONG MỘT CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ:
Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, vì đó là dấu chỉ được Chúa Thánh Thần tác động và phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng, để chứng tỏ đã làm theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:
– Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện được một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị dành cho học sinh.
– Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một vị công tước trong vùng, khiến ông mở lòng xây dựng một hệ thống dẫn nước phục vụ công cộng gọi là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.
– Có một linh mục trẻ được sai đến làm chính xứ thay thế cha xứ già về hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh vào bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Sau khi suy nghĩ, cha xứ mới đã tuyên bố sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ của mình để phục vụ giáo xứ. Và sau đó ngài đã giữ đúng lời đã hứa.
- THẢO LUẬN:
1) Phân biệt Thánh Thần và thiên thần giống và khác nhau thế nào ? 2) Ngày nay các tín hữu nhận được ơn Thánh Thần khi nào ? 3) Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì để được Thánh Thần tác động noi gương các Tông đồ trong lễ Ngũ Tuần ?
- SUY NIỆM:
1) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG THẾ NÀO TRONG CUỘC ĐỜI ĐỨC GIÊSU ?:
Về việc đầu thai của Đức Giêsu, Hội thánh đã tuyên xưng đức tin như sau: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh” (x. Lc 1,35). Nghĩa là chính nhờ quyền năng Thánh Thần, Đức Maria đã thụ thai Hài Nhi Giêsu mà vẫn còn trinh khiết vẹn toàn. Rồi khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Người đã đến xin Gioan làm phép rửa bằng nước tại sông Giođan. Vừa chịu phép Rửa xong, Thánh Thần như chim bồ câu từ trời ngự xuống và lưu lại trên Người (x. Mt 3,16b). Sau đó, Thánh Thần đã hướng dẫn Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày và chịu ma quỉ thử thách cám dỗ. Chính nhờ sức mạnh của Thánh Thần mà Đức Giêsu đã chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ (x. Mt 4,1-10). Rồi trong quyền năng của Thánh Thần, Người đi rao giảng Tin mừng Nước Trời bắt đầu từ Galilê (x. Lc 4,14-15). Cũng nhờ Thánh Thần mà Người đã xua trừ ma quỷ (x. Mt 12,28) và chữa lành các bệnh họan tật nguyền trong dân (x. Mt 4,23). Khi được Thánh Thần tác động, Ngừơi đã hớn hở vui mừng thốt lên lời ngợi khen Chúa Cha (x. Lc 10,21). Rồi sau khi phục sinh và được đầy Thánh Thần, Người đã hiện ra chúc bình an (x. Ga 20,19), rồi sai các ông đi rao giảng Tin mừng (x. Ga 20,21), tiếp tục sứ vụ của Ngừơi (x. Mt 28,19-20). Người thổi hơi ban Thánh Thần để giúp các ông chu toàn sứ vụ ấy (x. Ga 20,22). Cuối cùng, Người còn ban cho các ông quyền tha tội hay cầm buộc tội người ta nữa (x. Ga 20,23).
2) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG THẾ NÀO TRONG HỘI THÁNH ? :
Thời Hội thánh sơ khai, Thánh Thần đã tác động biến đổi các Tông đồ (x. 1 Cr 12,4-11): Từ tình trạng nhút nhát sợ hãi trở nên can đảm công khai làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt đám đông (x. Cv 2,14-36); Từ tình trạng kém hiểu biết Lời Chúa, trở nên khôn ngoan, hiểu thấu mọi điều Chúa đã dạy trước đó (x. Ga 16,12-13); Từ tình trạng buồn chán thất vọng muốn thối lui, trở nên nhiệt thành yêu mến Chúa, tràn đầy niềm vui và hy vọng (x. Lc 24,32-35). Nhờ Thánh Thần mà các Tông đồ đã thâu nạp được nhiều người có lòng sám hối đến xin chịu phép Rửa nhân danh Đức Giêsu (x. Cv 2,41). Cũng nhờ ơn Thánh Thần mà cộng đoàn tín hữu đầu tiên luôn sống hiệp thông, siêng năng tham dự lễ Bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Nhờ đó số tín hữu gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng (x. Cv 2,42-47).
Ngày nay Chúa Thánh Thần tiếp tục giúp Hội thánh chu toàn sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu. Đặc biệt Thánh thần soi sáng cho các vị chủ chăn để có khả năng chu toàn ba sứ vụ do Đức Giêsu trao: Một là sứ vụ Ngôn sứ để công bố Tin mừng Nước Trời. Hai là sứ vụ Tư tế để thánh hóa các tín hữu bằng các phép bí tích do Chúa Giêsu thiết lập. Ba là sứ vụ Vương đế để chăn dắt và phục vụ đòan chiên Hội thánh. Do đó, khi Đức Giáo hòang triệu tập Công Đồng mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì sẽ được ơn bất khả ngộ không thể sai lầm, vì ngài luôn được Thánh Thần soi sáng, như Công đồng Giêrusalem vào năm 49 đã ra quyết nghị với câu mở đầu khẳng định như sau: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định” (Cv 15,28).
3) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG THẾ NÀO NƠI CÁC TÍN HỮU HÔM NAY ? :
Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, và nhất là khi chịu phép Thêm Sức, Chúa Thánh Thần sẽ tác động nơi các tín hữu như sau.
+ Thánh Thần ban 7 ơn để soi sáng, hướng dẫn và giúp các tín hữu nên tốt lành thánh thiện giống như Chúa Giêsu. Thánh Phaolô đã kể ra bảy ơn Thánh Thần ban như sau : khôn ngoan, hiểu biết, thông minh, biết lo liệu, sức mạnh, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa (x. 1 Cr 12,8-11).
+ Thánh Thần sẽ ban sự sống của Thiên Chúa, biến các tín hữu nên trưởng thành về đức tin, thể hiện qua việc kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và can đảm làm chứng cho Người (x Ga 6,63). Thực vậy, nhờ ơn Thánh Thần, các tín hữu chúng ta sẽ có thể hiểu biết đầy đủ về đức tin và thực hành theo lời Chúa Giêsu day, như Người đã hứa với các môn đệ: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,25).
+ Thánh Thần sẽ cho các tín hữu chúng ta tham phần vào ba sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu là ngôn sứ, tư tế và vương đế để rao giảng Tin Mừng, thánh hóa và phục vụ dân Chúa. Chúng ta sẽ được tham phần vào sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô bằng lời nói việc làm và bằng lối sống bác ái quên mình, quảng đại chia sẻ cụ thể và khiêm nhường phục vụ tha nhân vô vụ lợi… nhờ những việc lành đó, anh em lương dân sẽ dễ dàng nhận biết, tin thờ Thiên Chúa như lời Đức Giêsu đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
4) CẦN PHẢI CỘNG TÁC VỚI ƠN THÁNH THẦN:
Sở dĩ nhiều tín hữu tuy đã chịu phép rửa tội và thêm sức, nhưng vẫn sống theo tính xác thịt là do họ mới chỉ chịu phép rửa bằng nước mà chưa được ơn tái sinh bời Thánh Thần. Điều chúng ta cần phải làm là tránh xúc phạn đến Thánh Thần và biết mở lòng để Ngài tác động thánh hóa:
+ Tránh tội xúc phạm đến Thánh Thần: Cần tránh thói kiêu ngạo cứng lòng tin như các kinh sư Do thái xưa (x Mc 3,30). Đó cũng là tội của ma quỷ muốn chống lại ơn cứu độ của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu đã quở trách dân Do thái như sau: “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành” (Mt 13,14-15; Is 6,9-10). Do cố tình từ chối ơn cứu độ của Thiên Chúa ban qua Chúa Giêsu, nên họ đã xúc phạm đến Thánh Thần và sẽ không bao giờ được tha (x Mc 3,29).
+ Các hành động thuộc về xác thịt đối nghịch Thánh Thần và hoa trái của Thần Khí: Ngày nay khi chịu phép rửa tội, các tín hữu đã nhận được sự sống của Chúa Giêsu. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn bị tội lỗi ngăn cản chúng ta đón nhận ơn Thánh Thần do các dục vọng, đam mê xác thịt, tham vọng cá nhân, tinh thần thế tục… Chúng giống như những con vi trùng len lỏi vào linh hồn làm mất dần sự sống thần linh trong chúng ta. Khi ấy, linh hồn chúng ta trở nên suy nhược, không còn sức chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ, không còn tha thiết làm các việc tốt lành. Thánh Phaolô đã liệt kê 14 hành động xấu làm băng hoại con người chúng ta như sau: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ say sưa” (Gl 5,19-21). Mỗi người chúng ta cần phải xin ơn Thánh Thần, giúp chúng ta loại bỏ lối sống tội lỗi theo xác thịt, lối suy nghĩ ích kỷ tự mãn thuộc về thế gian, để có thể sống hy sinh quên mình, nhiệt thành dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã gọi những điều này là “hoa trái của Thần Khí” và được liệt kê như sau: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23).
+ Mở lòng đón nhận ơn Thánh Thần: không ai có thể nắm bắt được Thần Khí, cũng không ai có thể mua chuộc được Thánh Thần. Tin Mừng Gioan viết “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu tới và thổi đi đâu” (Ga 3,8). Muốn nhận được ơn Thánh Thần, mỗi tín hữu chúng ta cần noi gương các Tông đồ khi xưa: tĩnh tâm cầu nguyện kết hiệp với Đức Maria như sau: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14). Mỗi ngày hãy năng cầu xin Thánh Thần mau ngự đến thánh hóa chúng ta như sau: “Lạy Chúa Thánh Thần. Xin hãy ngự đến canh tân lòng trí chúng con”.
+ Xin được ơn đổi mới trong Chúa Thánh Thần: Từ khi đón nhận được Chúa Thánh Thần trong lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã được ơn đổi mới: Trước đó các ông còn nhút nhát sợ hãi, thì nay đã nên mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ông ít học, u mê vì không hiểu rõ Lời Chúa dạy, thì nay các ông đã được hiểu rõ ý nghĩa của Lời Chúa và nhiệt tình loan báo Tin Mừng cho tha nhân thuộc mọi thành phần, dân tộc với ngôn ngữ khác biệt… đang tề tựu tại Thủ đô Giêrusalem. Trước kia lòng các ông còn chứa đầy thói ích kỷ tự ái cao, “tham lam, sân giận, mê si”, hay tranh giành địa vị cao thấp… thì nay các ông chỉ nghĩ đến việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa “tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Chính nhờ ơn Thánh Thần mà các ông đã được đổi mới để chỉ sống vì Chúa và cho Chúa mà thôi. Mỗi người chúng ta cũng hãy xin Chúa Thánh Thần đến canh tân lòng trí chúng ta, để giúp chúng ta nên chứng nhân của Người, chu toàn được sứ vụ mà Người đã trao cho Hội thánh trước khi lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều khi chúng con cảm thấy Thánh Thần xa lạ, đang khi Ngài thật là Bạn, là Thầy của chúng con. Ngài luôn ở bên và ở trong chúng con. Ngài cần cho đức tin của chúng con, giống như hơi thở cần cho sự sống. Chúng con chỉ có thể gọi Thiên Chúa: “Áp-ba! Ba ơi!” nhờ Thánh Thần, Đấng làm cho chúng con trở nên nghĩa tử (x. Rm 8,15). Chúng con chỉ có thể gọi Đức Giêsu là “Chúa” khi chúng con ở trong Thánh Thần (x. 1 Cr 12,3). Chính nhờ có Thánh Thần hướng dẫn, chúng con mới dám cầu nguyện và mới cảm nghiệm được sự ngọt ngào của Lời Chúa. Cũng chính nhờ Thánh Thần mà Hội thánh không ngừng canh tân đổi mới.
– LẠY CHÚA GIÊSU PHỤC SINH. Xin ban Thánh Thần như cơn gió mạnh, thổi đi mọi nỗi lo âu sợ hãi cùng những rụt rè khép kín trong tâm hồn chúng con. Xin thắp sáng ngọn lửa tin yêu của Thánh Thần trong lòng chúng con, để chúng con có thể chu toàn sứ vụ được sai đi, với một trái tim bừng cháy lửa mến yêu. Xin ban cho chúng con sự sống của Thánh Thần để chúng con luôn mến Chúa và yêu tha nhân. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa và tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin mừng cứu độ của Hội Thánh.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.