CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN. NĂM C

714

CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN_C

Lời Chúa:  Cv 1,1-11 ; Ep 1,17-23 ; Lc 24, 46-53

——-

Mục lục

1. Niềm vui trong Chúa (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

2. Về Trời  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

3. Kì công hiển hách  (Lm. Vũ Đình Tường)

4. Làm chứng cho Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Niềm vui từ Chúa Kitô vinh hiển  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

6. Từ “Like” chuyển thành “Amen”  (Lm. Giuse Vũ Hữu An)

7. Những chứng nhân mới (Lm. Trần Thanh Sơn)

8. Mừng Chúa Lên Trời (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

9. Chứng nhân Nước Trời (Lm. Bùi Quang Tuấn)

10. Rao giảng việc sám hối (PM. Cao Huy Hoàng)

11. Các con là chứng nhân (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

12. Hẹn tái ngộ  (Trầm Thiên Thu)

13. Lời trao ban và hứa hẹn  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

14. Đường lên trời (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

15. Niềm vui và hạnh phúc của chúng ta  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

16. Chúa Giê-su về trời dọn chỗ cho chúng ta  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

17. Nhìn về trời rồi nhìn vào trái đất (JM. Lam Thy, ĐVD)

 

Mục lục

1. Một khởi đầu mới (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Niềm hy vọng Nước trời (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Quê hương chúng ta là quê trời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Tương lai tốt đẹp (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

5. Hướng lòng về thượng giới (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

6. Định hướng  (Trầm Thiên Thu)

7. Chúa Lên Trời  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

8. Chúa về quê (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

9. Lòng thương xót tuôn trào từ trời cao (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

10. “Hãy là chứng nhân của Thầy” (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

11. Thăng thiên – Một biến cố lịch sử siêu việt (JM. Lam Thy, ĐVD)

12. Chứng nhân hiện đại (AM. Trần Bình An)

13. Chúa Nhật lễ Chúa Thăng Thiên_C  (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)

14. Từ bỏ đam mê để được lên trời (Lm. Giuse Nguyễn)

15. Đường lên trời (Dã Quỳ)

16. Làm chứng cho Chúa thế nào cho hiệu quả (Lm. Đan Vinh)

17. “Hãy nhân danh Người mà rao giảng” (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)

18. Hướng lòng về trời (Huệ Minh)

19. Truyền thông Lời Chúa (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

20. Sức mạnh từ trời cao  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

 

NIỀM VUI TRONG CHÚA

Lm. Jos.DĐH.

Có phải cứ mỗi độ xuân về tết đến, những em bé mới nao nức phấn khởi, vì chúng thường mơ ước có áo quần đẹp, giầy dép xinh, cùng với bao lì xì đỏ vui thật vui. Cũng không ai quy định phải có thành công, có đầy đủ vật chất tiện nghi, mới gọi là được hạnh phúc. Đâu phải chỉ những ngày cuối tháng năm đầu tháng sáu, các học sinh, sinh viên, mới sảng khoái, bởi sau tháng ngày miệt mài.., mùa hè đầy hứa hẹn đã tới. Chắc không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta nói: trúc xinh trúc mọc đầu đình, em xinh em đứng một mình cũng xinh. Thực ra, tình yêu, bình an, chính là điều làm người ta vui ; “cái tâm” trong sáng, giúp người ta nhìn vạn vật đều dễ thương: ai ai cũng “là tiên, là phật”. Khi gia đình an vui, người ta thường xem nơi họ đang sinh sống: là tổ quốc, là thiên đàng. Khi ý thức mình là dòng dõi được yêu thương, người ta dễ nhận ra những gì họ đang có đều là phần thưởng, là hồng ân được tặng ban.

Khi yêu, ai cũng là thi sĩ, vì ít nhiều tâm hồn họ cũng lâng lâng theo giai điệu dại khờ, nửa mơ nửa thật. Lúc say, liệu ai đủ sáng suốt, và biết tự chủ, dù là say rượu hoặc say tình ; lúc tỉnh, mấy ai đủ mạnh mẽ từ chối công danh sự nghiệp, hoặc liều mình liều mạng bước theo Thầy Giêsu ? Sự kiện Chúa thăng thiên hay Chúa về trời, vẫn được gọi là “mầu nhiệm”, cho dù chúng ta đang đứng ở hàng ngũ môn đệ, linh mục tu sĩ, là người kitô hữu đạo đức: tin Chúa, yêu Chúa. Phúc đức của tuổi thơ, nước mắt kẻ u sầu, niềm an vui của tuổi già, nhưng sẽ thật hạnh phúc khi trái tim đang ân cần trao yêu thương. Để có niềm vui và hy vọng, Đức Giêsu nhắc lại cho các học trò lời kinh thánh: “như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại…”. Phải chăng, niềm vui trọn vẹn không thể vắng bóng khổ đau thập giá, nét đẹp kitô giáo là phải sống chứng nhân tin mừng, làm phong phú hoá tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa, tình yêu tha nhân ?

Kinh nghiệm ở đời cho thấy: niềm vui thường ngắn ngủi, khổ đau lại có khuynh hướng dài lê thê, dù người ta luôn ý thức cuộc sống này vẫn có niềm vui giả, niềm vui thật. Bằng tấm lòng tin yêu, cùng với tình mến nơi mỗi người đã và đang được tôi luyện, Đấng phục sinh Ngài sẽ còn giơ tay chúc lành như hôm xưa: “Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các học trò, Người rời khỏi các ông mà lên trời”. Chúa thăng thiên, Chúa ở bên Chúa Cha, quả là đã để lại nhiều bỡ ngỡ cho các môn đệ, cho mọi người mọi thời, nếu ơn bình an, nếu phúc lành của Đấng phục sinh chưa đến thật nơi tâm hồn người tin theo Chúa. Khi nhắc đến đau khổ thập giá, chết và sống lại, Đấng phục sinh chắc chắn không có ý tự mãn về con đường Ngài đã đi, nhưng chính khổ đau ở trần gian lại thiết thực cho tình yêu mà người theo tin Chúa sẽ thực thi sứ mạng cách trọn vẹn nhất. Đau khổ và tình yêu luôn có liên hệ với nhau như hình với bóng, cũng như niềm vui và hạnh phúc mãi mãi là câu chuyện nhiều tập, tin yêu và cậy trông vào Đấng phục sinh, luôn luôn là sự tự do chọn lựa của người môn đệ theo Đức Kitô.

Ngày hôm nay, mọi người đều cho rằng niềm vui nơi cuộc sống thì rộng lớn bao la, còn hạnh phúc thì mông lung và đầy mâu thuẫn: có tiền mua tiên cũng được. Tuy nhiên, có tiền, có niềm vui, nhưng tiền nào mua được bình an hạnh phúc ? Bằng nhận thức và kinh nghiệm, người ta cho rằng: hạnh phúc không mua được bằng tiền, không phải vì đó là tiền “âm phủ”, nhưng vì ở trần gian, thật, không có cửa hàng nào rao bán hạnh phúc ! Cũng có thể nói, tiền không mua được hạnh phúc, chẳng phải vì tiền không có sức mạnh, nhưng vì người ta chỉ mua bán trao đổi niềm vui trong chốc lát, bình an tạm thời, hoặc hạnh phúc giả tạo mà thôi. Niềm vui trong Chúa, bình an và hạnh phúc trong Chúa, không phải là một khái niệm mới lạ, nhưng vẫn mãi là “mầu nhiệm”, người ta chỉ thấu hiểu, hoặc cảm nhận được niềm vui, bình an, hạnh phúc thật, khi ở trong Đức Kitô phục sinh. Khi “Đấng Kitô rời khỏi các môn đệ lên trời ; các ông thờ lạy Người, rồi những học trò ấy trở về Giêsusalem, lòng đầy vui mừng”. Vì sao không nhìn thấy Thầy, các môn đệ lại chứng thực là các ông vui mừng ?

Nhận định chung chung của xã hội: người trẻ thời nào cũng bén nhạy mọi mặt, có nhiều sáng kiến hay ; nơi người cao niên, bao giờ cũng nhiều ký ức đẹp, và dồi dào kinh nghiệm quý báu ! Các chuyên gia tư vấn thì cho rằng: người biết đủ, biết sử dụng năng lực đúng chỗ, đúng lúc, kẻ ấy sẽ càng ngày càng thu được nhiều niềm vui hạnh phúc. Niềm vui trong tương quan gia đình xã hội, khác xa với niềm vui trong Chúa, nếu chúng ta thực sự tin lời Chúa Giêsu phán: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Thầy đã hứa ; vậy các con hãy ở lại trong thành, cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Niềm vui trong Chúa nhất định phải là niềm vui của bình an thật, niềm vui của tin yêu thật, được thông hiệp với Đức Kitô, Đấng đang hiện diện sống động trong tình yêu Thánh Thần. Amen.

Về mục lục

.

VỀ TRỜI

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Về trời, người ta thường nghĩ “ra khỏi cõi trần”, thoát vòng tục lụy, chốn khổ đau… Những ý niệm đó đánh mất một chiều kích thực tại, “Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi. Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu” (Mưa nguồn, 1962, Bùi Giáng).

Chúa Giê su về trời không phải để xa cõi trần, nhưng để đưa con người về trời gặp gỡ Chúa Cha, và Người vẫn ở lại trần gian này mãi cho đến ngày tận thế, đưa dẫn con người trên con đường về trời.

Con người đã đánh mất.

Con người theo bước chân ngắn ngủi của khoa học tự nhiên, đã không còn nhìn thấy công trình sáng tạo tuyệt diệu của tầng trời nữa. Họ không nhận ra bàn tay tác tạo kỳ công của Thiên Chúa, mà chỉ nhìn thấy những gì cần chinh phục, chiếm lấy không gian và mở kho vũ khí trên tầng trời ấy, sẵn sàng dội bom hạt nhân vào nhau. Một cuộc chiến tranh không gian đã bắt đầu nhen nhúm và khai tử trái đất khi con người bất hoà với nhau.

Nếu nhìn xem trái đất như một nhà tù, ai cũng muốn ra khỏi, con người sẽ tìm mọi con đường để ra khỏi sự tắc nghẽn của trái đất. Người ta tìm thấy những con đường của những lạc lối, đưa nhau vào cõi chết chứ không về trời như mong muốn.

Mất cảm thức về thiên nhiên, về bầu trời Thiên Chúa sáng tạo, con người sẽ quên mất lời tán tụng của thụ tạo: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia.” (Tv 18, 1- 2). Khi đánh mất lời tụng ca, con người cũng đánh mất niềm vui giữa môi trường thiên nhiên và không dừng lại như thế, con người còn tàn phá thiên nhiên thành nơi thảm hoạ.

Đánh mất thiên nhiên, con người cũng đánh mất tâm hồn khi chỉ quy hướng những gì thực dụng. Bế tắc trong tù giam tâm hồn, con người cũng xung khắc với nhau từ những gì vụn vặt. Tất cả nói lên trần thế không còn là nơi đáng sống, chỉ còn tìm cách hưởng thụ và quên đi cõi đời, cõi trời.

Lời gọi về trời

Lý giải việc “Chúa ở lại mọi ngày cho đến tận thế” trên cõi đời này, vì Chúa chẳng bao giờ mất niềm hy vọng nơi con người. Người vẫn ở đấy, trong hiện tại, mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng chỉ lối cho con người về cõi trời từ nơi cõi đời biết sống niềm vui, hạnh phúc: “ Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10). “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6).

Con đường về trời bắt nguồn từ cõi đời này, đánh mất cõi đời cũng sẽ làm mất cõi trời. Sống ý nghĩa

trên cõi đời này điều cần thiết là đi tìm gặp Chúa, ở lại với Chúa và sống với Chúa. Sở dĩ như vậy, bởi con người dù thế nào vẫn có những ước muốn vô hạn về sự thiện, về niềm vui, hạnh phúc vĩnh cửu. Chính những khát mong vô hạn đó, Chúa chờ đợi con người ở những chặng đường nếu họ biết dừng lại tìm kiếm và sẽ gặp.

Chúa có cách của Người cho từng người để đi vào tâm hồn mỗi người, Chúa không muốn để ai hư mất, như mục tử đi tìm con chiên lạc. Có hai con đường tìm về, Đức hồng y Fulon Sheen đề ra, sự thiện và sự chán chường những đam mê dục vọng. Cuối cùng để lấp đầy sự khát vọng, con người khám phá ra chỉ có ở nơi Thiên Chúa.

Về trời, đối với mỗi người chúng ta đều bắt đầu từ hôm nay, tại nơi đứng trên trái đất này, với những hoàn cảnh cụ thể. Con người được Thiên Chúa khởi xướng đang hướng về trời với những việc làm thiện hảo, thanh luyện lương tâm ngay thẳng, xây dựng công bằng, bác ái, một xã hội yêu thương. Bảo vệ môi sinh, thiên nhiên, thành nơi đáng sống, chờ đợi ngày Chúa Quang Lâm, hoàn tất lịch sử cứu độ.

Về mục lục

.

KÌ CÔNG HIỂN HÁCH

Lm Vũđình Tường

Lễ Thăng Thiên chúng ta tưởng nhớ những kì công Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô. Những kì công này Đức Kitô thực hiện không phải cho Thiên Chúa mà là cho nhân loại. Những ai thành tâm đón nhận Đức Kitô với tâm tình yêu mến nhận được thành quả đó, và còn nhận được niềm vui trong tâm hồn. Khi Đức Trinh Nữ Maria thưa ‘Vâng’ với sứ thần, tâm hồn bà vui mừng ca hát: ‘Linh hồn tôi ngợi ca Chúa và tâm trí tôi vui mừng vì Thiên Chúa đã nhìn đến phận nữ tì Chúa’ Lc 1,46. Sau khi đón nhận tin vui, bà Maria vội vã lên đường viếng thăm người bà con là Elizabeth. Vừa nghe tiếng bà Maria chào, hài nhi trong lòng bà nhảy mừng và bà lớn tiếng ca tụng: ‘Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm’ Lc 1,42. Hai tiên tri Simeon và Anna cũng vui mừng đón nhận Ấu Chúa. Simeon, bồng ẵm hài nhi trong tay vui mừng ca hát. ‘Lậy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa ra đi bằng an, vì chính mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ’ Lc 2,29.

Không một ai trên trần thế được đón nhận nhiều hơn Đức Kitô và cũng không ai bị từ chối nhiều như Đức Kitô. Cả đón nhận lẫn từ chối đều bắt đầu ngay từ khi Đức Kitô xuống trần và điều này còn đang tiếp tục xảy ra trong hiện tại và sẽ còn kéo dài trong tương lai. Hàng năm vào dịp Phục Sinh luôn có nhiều người tin theo, nhận lãnh đức tin Kitô; trong khi đó hàng năm cũng có nhiều người âm thầm từ bỏ Giáo Hội Chúa. Người đầu tiên từ chối đón nhận hài nhi Giêsu chính là vua Hêrôđê, khi ông hay tin Đức Kitô sinh ra, ông bối rối, lo lắng, tìm cách giết chết hài nhi Giêsu Mt 2,14. Cuộc đời công khai rao giảng của Ngài gặp biết bao thử thách từ lãnh đạo tôn giáo,trưởng hội đường. Chính những người quyền thế này dùng ảnh hưởng của mình đòi giết chết Đức Kitô. Sức ép của nhóm này khiến Philatô lúc đó đang là toàn quyền khu vực phải tuyên bố ông không tìm thấy chứng cớ nào để kết án Đức Kitô và ông rửa tay tuyên bố là không dính đến máu Đức Kitô. Kết quả Đức Kitô vẫn bị đóng đanh do sức ép của nhóm lãnh đạo tôn giáo Mt 27,24.

Lời rao giảng của Đức Kitô gây kinh ngạc cho dân chúng và họ ca tụng Ngài hết lời. Chính những ca tụng này khiến máu ghen của lãnh đạo tôn giáo sôi lên và họ không thể nhịn được. Dân chúng thì nói Đức Kitô giảng dậy như đấng có uy quyền, lời giảng của Ngài mới mẻ, đi vào lòng người. Trái lại nhóm lãnh đạo tôn giáo bực bội đến hạch sách ai cho quyền ông giảng dậy những điều đó (Mt 7,29). Tranh cãi thua, họ phao tin Đức Kitô là tướng quỉ. Đức Kitô có quyền trên sóng gió. Ngài phán một lời sóng biển yên lặng (Mt 8,23tt.) Ngài có quyền trên thần chết khi cho Lazaro và con gái Jairus sống lại từ cõi chết (Mt 8,19-26). Ngài có quyền tha tội, quyền mà một mình Thiên Chúa có Mk 2,10.

Không như những lãnh tụ trần thế, Đức Kitô chọn người lãnh đạo trong tương lai, không phải những người giầu kinh nghiệm chiến tranh, từng thắng nhiều trận, Ngài cũng không chọn người tài ba lỗi lạc, Đức Kitô chọn họ trong nhóm người chài lưới. Ngài đòi nơi họ một điều kiện duy nhất. Tình yêu. Ba lần Đức Kitô hỏi Phêrô ông có yêu mến Ngài không? Cả ba lần Phêrô đều đáp là ‘Có’. Sau mỗi câu đáp Đức Kitô trao cho ông một trách nhiệm: chăm sóc chiên con của ta, chăm sóc chiên mẹ của ta và lần thứ ba Ngài tiên đoán cách thức Phêrô chịu đóng đanh chết chứng tỏ tình yêu của ông với Đức Kitô (Gn 21).

Lãnh tụ trên hoàn cầu thường để quân đội, công an bảo vệ, canh gác, và có cận thần hy sinh mạng sống cho lãnh tụ. Đức Kitô đối xử hoàn toàn ngược lại. Khi quân dữ đến bắt, lãnh tụ Kitô nói với quân lính. Hãy bắt một mình ta, và phải để cho môn đệ ta ra đi bằng an. Ngay cả trong trường hợp đó đám lĩnh cũng tuân lệnh Ngài. Chỉ trong vòng ba năm vắn vủi. Ba năm rao giảng Đức Kitô để lại cho trần thế một Giáo Hội vững mạnh trước bao sóng gió. Ngày đầu tiên Giáo Hội non trẻ đã bị vùi dập, bị bắt bớ, tra tấn, cấm đoán. Giáo Hội đó vẫn tồn tại và vững mạnh phát triển. Hiện nay với hơn một ngàn triệu thành viên trung thành với giáo huấn của Ngài. Hàng ngàn hội từ thiện lớn nhỏ đều bắt nguồn từ tình yêu Đức Kitô. Hiện nay những ai cấm đoán hay chủ trương bách hại Giáo Hội Kitô đều là những người không thông hiểu lịch sử phát triển Kitô giáo. Chính Đức Kitô đã tuyên bố rõ ràng là Giáo Hội của Ngài sẽ bị bách hại, nhưng không sức mạnh nào có thể phá huỷ được, ngay cả sức mạnh của thần dữ là ma quỉ cũng phải đầu hàng. Con là đá và trên đá này Ta sẽ xây Giáo Hội Ta (Mt 16,18). Đức Kitô nói với Phêrô như thế. Vì lí do đó mọi cố gắng bách hại Giáo Hội chỉ là làm công việc mất công, vô dụng.

Không có cuốn sách nào được in nhiều và in thành nhiều ngôn ngữ khác nhau hơn cuốn giáo lí của Ngài. Ngài là Đấng duy nhất mọi sự xảy ra cho Ngài đều được tiên đoán nhiều ngàn năm truớc và những tiên đoán này đều được thực hiện như những gì đã tiên đoán Lc 24,44.

Về mục lục

.

LÀM CHỨNG CHO CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đức Giêsu Phục Sinh cách đây hơn 2.000 năm trước khi về Trời đã trao cho các môn đệ và cả nhân loại sứ mạng làm chứng cho Ngài giữa thế gian và loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc trên khắp cùng trái đất.

Việc rao giảng Tin Mừng không chỉ dành riêng cho các Linh mục, Tu sĩ nam nữ, mà là bổn phận của tất cả mọi người khi lãnh nhận Bí tich rửa tội, Thêm sức. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Mọi Kitô đều được mời gọi loan báo Chúa Kitô Phục Sinh cho nhiều người bằng chính đời sống đạo của mình. Thực tế, Đức Giêsu đã huấn luyện các môn đệ của Người, để các môn đệ của Người tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người. Sứ mạng cứu độ, Đức Giêsu Kitô không làm một mình Người, nhưng Người muốn nhiều người cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại. Khi về Trời mặc dù chỉ còn 11 môn đệ, một số Tông đồ, và một số người nữ đạo đức. Tuy nhiên, Chúa hoàn toàn tin tưởng nơi nhóm môn đệ ít ỏi này. Người hoàn toàn đặt niềm tin và hy vọng vào nhóm Môn đệ của Người đã tuyển chọn, Người không chọn một lớp người nào khác nữa. Các Môn đệ sau khi Thầy Giêsu sống lại lên Trời, họ đã tụ họp lại, cầu nguyện và đã chọn Matthias thay chỗ khuyết của Giuđa…Công việc truyền giáo tiếp tục được các Tông đồ chia nhau đi khắp mọi nơi sau khi họ lãnh nhận Chúa Thánh Thần . Các Tông đồ của Chúa đã nhiệt tình, hăng say, can đảm rao giảng Tin Mừng của Chúa ở khắp nơi, nhất nhất các Tông đồ đã can đảm, đổ cả máu để làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh.Chúa về trời là để mở cửa Thiên Đàng, mở cửa Nước Trời cho nhân loại, cho chúng ta. Người khai mào Trời mới, Đất mới.

Vâng, Đức Giêsu về Trời trước mặt các Môn đệ, trước sự ngỡ ngàng của những người Ga-li-lê, đến nỗi sứ thần của Thiên Chúa phải nhắc nhở họ :” Hỡi các bạn miền Ga-li-lê, sao ngỡ ngàng đứng đó nhìn trời ? Các bạn thấy Đức Giêsu lên trời làm sao, Người cũng sẽ ngự giá quang lâm như vậy “( Cv 1,11)  . Chúa Phục Sinh muốn người Ga-li-lê sống thực tế, vì công việc họ và mọi Kitô hữu ở trần gian phải làm là rao giảng Tin Mừng. Đứng đứng nhìn trời xanh, mây, tinh tú, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, các giải ngân hà mà phải quay lại công việc thường ngày để làm chứng cho Đức Kitô sống lại. Đức Kitô Phục Sinh đã lên trời, nhưng Người ở cùng nhân loại, ở cùng chúng ta cho đến tận thế “ (Mt 28, 20 ). Như ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu : Phêrô, Giacôbê, Gioan xưa trên núi Tabôrê được chứng kiến  Thầy Giêsu biến hình trên núi. Chúa đã kéo họ về thực tại và đưa họ xuống núi, nghĩa là trở về với đời   sống thường ngày để tiếp tục học hỏi, chứng kiến những việc làm, những phép lạ của Chúa, hầu khi Chúa chịu chết và sống lại theo ý của Chúa Cha, các môn đệ sẽ là chứng nhân cho Chúa Phục Sinh và tiếp tục sứ mạng cứu thế của Người giữa thế giới này…

Lễ Thăng Thiên là một lễ quan trọng, và là một lễ lớn của người Công giáo. Chúa Giêsu Phục Sinh chuyền ngọn lửa cho mỗi người chúng ta như vận động viên chuyển ngọn đuốc cho nhiều vận động viên để đốt vào ngọn đuốc chính thắp sáng trong suốt thời gian các vận động viên tranh tài trong cuộc tranh tài Olympic, hay Sea games  vv…Các môn đệ và chúng ta tiếp tục chuyền ngọn lửa đức tin, ngọn lửa truyền giáo cho nhiều người từ thế hệ này đến thế hệ khác vv…Đây là bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của mỗi Kitô hữu là làm cho Danh Chúa được mọi người nhận biết.

Đức Giêsu đã dạy các môn đệ, các Tông đồ và nhân loại qua Tám Mối Phúc, trong bài giảng trên Núi, Người cho chúng ta thấy vai trò và sứ mạng làm muối, làm men cho đời, đồng thời Người nói chúng ta là ánh sáng :” Chính anh em là muối cho đời.Nhưng muối mà nhạt đi,thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian..Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được.Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời “ ( Mt 5,13-16 ).

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, khi Chúa về trời, Chúa luôn tin tưởng trao phó sứ mạng truyền giáo cho Nhóm 12, Chúa không cần chọn thêm ai khác nữa. Các Tông đồ đã can đảm, hiên ngang, lãnh nhận Chúa Thánh Thần và ra đi rao giảng Tin Mừng khắp tận cùng thế giới.Xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con cũng hiên ngang như các Tông đồ làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng chính đời sống đức tin và bác ái của chúng con.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao các người miền Ga-li-lê lại cứ đứng nhìn trời ?

2.Chúa lên trời để làm gì ?

3.Trước khi Chúa về trời, Người căn dặn các môn đệ điều gì ?

4.Lễ Thăng Thiên có ý nghĩa gì ?

Về mục lục

.

NIỀM VUI TỪ CHÚA KITÔ VINH HIỂN

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Thông thường, khi có ai ra đi, chúng ta thường cảm thấy buồn và thương nhớ. Bởi vì ra đi là chết đi trong lòng một ít như người Pháp nói: “Partir c’est mourir un peu.” Tuy nhiên, việc Đức Giêsu chia tay các môn đệ để về cùng Chúa Cha lại là biến cố của niềm vui. Các Tông Đồ trở về cõi thế. Chia tay đôi ngã, tuy ngậm ngùi nhưng lòng vẫn chan chứa niềm vui.

1- Niềm hy vọng lớn lao

Bởi lẽ, Chúa Giêsu lên trời là phần thưởng và là vinh quang mà Thiên Chúa Cha ban cho Người, sau khi Đức Giêsu hoàn tất sứ vụ cứu độ được Chúa Cha giao phó. Người đã nhập thể làm người, chịu đau khổ, chết và phục sinh; hôm nay,

Người lên trời vinh hiển. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Cha đã siêu thăng Người và đặt Người ngự bên hữu Chúa Cha. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh (x. Ep 1,17-23). Khi ở bên hữu Thiên Chúa, Đức Giêsu hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25).

Biến cố Chúa lên trời mở ra cho chúng ta niềm hy vọng về phần thưởng Nước Trời mà Người đã hứa. Theo lời thánh Lêô Cả: Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Bài giảng lễ Thăng Thiên). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8,29).

Nước Trời là quê hương đích thực của mỗi người chúng ta. Đức Giêsu khai mở cho chúng ta về một tương lai mới, đó là hạnh phúc thiên đàng. Sống trên trần gian, chúng ta luôn phải hướng về quê thật, nơi đó có hạnh phúc đích thực.

2- Chúa Giêsu lên trời, Thánh Thần hiện xuống

Nếu Chúa Giêsu không về cùng Chúa Cha, thì Thánh Thần sẽ không được ban. Như Chúa đã nói: “Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con” (Ga 16,7).

Quả thế, sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần chính là Đấng Bảo Trợ mới của Giáo Hội. Người hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội. Người ban sức mạnh và biến đổi Giáo Hội. Nhờ Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ từ những người thất vọng, nhát đảm, sợ sệt, trở thành những người rất can đảm và hăng say rao giảng Tin Mừng. Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống và là nguồn của mọi ân sủng. Nhờ Thánh Thần, chúng ta mới có thể làm con cái Chúa.

Như thế, Chúa Thánh Thần chính là quà tặng của Đấng Phục Sinh, được ban cho chúng ta khi Người về trời. Đó là niềm vui lớn lao cho chúng ta.

3- Với sứ vụ truyền giáo

Đấng Phục Sinh ủy thác sứ vụ truyền giáo cho Giáo Hội khi nói: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân,” (Lc 13,47) hay “chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).

Vì thế, khi Đức Giêsu lên trời thì cũng là lúc các Tông Đồ phải xuống núi, phải lên đường để thi hành sứ vụ của mình. Các Tông Đồ đã ra đi và hăng say rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người, mọi dân tộc. Nhờ đó, Đạo Chúa được lan tỏa khắp thế giới.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục mời gọi mỗi người chúng ta cộng tác vào sứ vụ cao cả này: Chính chúng ta là những chứng nhân của sự thật và giá trị Tin Mừng.

Kitô giáo dạy chúng ta rằng trong khi hướng về thiên quốc, người Kitô hữu có bổn phận phải xây dựng xã hội trần thế này nên nhân bản, đạo đức và đẹp đẽ hơn. Bởi thế, người Công Giáo tốt là người tuân giữ luật lệ giao thông, trật tự công cộng và thiện ích cộng đồng tốt hơn những người khác.

Người Công Giáo tốt phải là người đi đầu trong việc giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, làng xóm, xứ đạo và gia đình của mình.

Người Công Giáo tốt phải là người đi đầu trong việc bảo vệ môi trường sạch sẽ, an toàn, và không sản xuất những thực phẩm bẩn và có độc tố để kiếm tiền bằng mọi giá.

Đó là bổn phận của người Kitô hữu khi sống trong xã hội. Bằng những chứng tá về đời sống, chúng ta tham gia để xây dựng xã hội này công bình hơn, an toàn hơn và văn minh hơn. Amen!

Về mục lục

.

TỪ “LIKE” CHUYỂN THÀNH “AMEN”

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giêsu “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục Sinh (x. Mc 16, 19-20; Cv 1,1-11).

Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu việc Người trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (x. Ga 3,13). Lễ này nói lên việc nhân tính của Người tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (x. Ga 16,28; 17,5). Nó đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Chúa Giêsu ở trần gian và khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Vào chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha” trong thân xác vinh quang của Người rồi. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Luca, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giêsu dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, củng cố niềm tin của các môn đệ, hoàn tất việc giảng dạy và sai các ông đi rao giảng Phúc Âm.Với biến cố thăng thiên, Chúa Giêsu không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20) theo phương cách mới – theo quyền năng của Chúa Thánh Thần, với tư cách là Chúa của vũ trụ (x. Pl 2,10-11). (x.Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN).

Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ. Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

Chúa lên trời vì Người đã từ trời xuống: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Mầu nhiệm Chúa lên trời minh chứng cho nguồn gốc thần linh của Đức Kitô. Người không phải là phàm nhân được tôn lên hàng thần thánh. Người chính là Thiên Chúa có từ đời đời và mọi sự, mọi loài nhờ Người mà được hiện hữu. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa…Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).

Chúa lên trời với cung cách hiện diện mới, trao sứ vụ cho các Tông đồ và Giáo hội tiếp nối sứ mạng loan báo Tin mừng yêu thương.

  1. Hiện diện mới

Chúa Giêsu đã tiên báo với các môn đệ : “Thầy đến cùng Chúa Cha”. Lời này được lập lại 7 lần trong khung cảnh tiệc ly (x.Ga 14, 12.28; 16, 5.10.28; 17,11.13), đến nỗi trong số các môn đệ tự hỏi lời nói đó có ý nghĩa gì (Ga 16,17). Đối với Chúa Giêsu, Người không đi đến một nơi nào khác, nhưng Người đến với một người, đó chính là Chúa Cha. Chúa Giêsu coi cuộc sống ở trần gian và những hoạt động của mình như một hành trình đi đến với Chúa Cha, như một cuộc về trời với Chúa Cha. Khi hiện ra với Maria Madalena, Chúa Phục Sinh nói: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em (Ga 20,17). Như thế, Gioan không kể về việc “lên cùng Chúa Cha” như một “nơi chốn”, Người không đến một nơi chốn (trời), nhưng đến với một người, đó chính là “Cha của Người và cũng là Chúa của anh em”.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt.Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới. Các lời nguyện và Kinh Tiền Tụng của lễ Thăng Thiên cũng chứa đựng ý nghĩa này: “Người lên trời không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối, nhưng vì là đầu và là Thủ Lãnh, nên Người đã đi trước, để chúng con là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.

Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23).  Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa.Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người.Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

  1. Trao Sứ Vụ

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

  1. Từ“Like” Chuyển Thành “Amen”

Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Các Tông Đồ lên đường truyền giáo, cộng đoàn Giáo Hội được thiết lập và những bước chân không mệt mỏi của người loan báo Tin Mừng đã làm nên lịch sử Giáo Hội.

Có truyền giáo là có truyền thông, và bởi vì có truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1Ga1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo.Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.

Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngay từ khi internet lần đầu tiên xuất hiện, Giáo hội luôn tìm cách thúc đẩy việc sử dụng nó để phục vụ cho sự gặp gỡ giữa mọi người và cho sự đoàn kết giữa tất cả mọi người” (Sứ điệp Truyền thông 2019).

Trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông 53, Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận tầm quan trọng và sự lan rộng của internet và các mạng xã hội trong đời sống con người ngày nay. Đó là nguồn kiến thức và những tương quan giữa con người với nhau. Tuy nhiên, cũng không thiếu những khía cạnh tiêu cực do các mạng xã hội. Đó là nơi dễ bị những tin tức giả mạo và xuyên tạc xâm nhập và lan tràn; các dữ kiện cá nhân nhiều khi bị lèo lái để mưu những lợi lộc về chính trị hoặc kinh tế, không tôn trọng nhân vị và các quyền của họ. Sứ điệp cũng cảnh giác chống lại sự tự cô lập qua các mạng xã hội, có hiện tượng những người trẻ trở thành “những ẩn sĩ xã hội”, trở nên hoàn toàn xa lạ với xã hội chung quanh.(x.vaticannews.va/vi).

Đức Thánh Cha dùng hình ảnh thân mình và các chi thể mà Thánh Phaolô đã dùng để nói về những quan hệ hỗ tương giữa con người: “Anh chị em hãy bài trừ dối trá và mỗi người hãy nói sự thật với tha nhân, vì chúng ta là chi thể của nhau” (Ep 4,25). Từ đó ngài kêu gọi dùng các mạng xã hội để kiến tạo tình hiệp thông, với ý thức chúng ta cùng họp thành một thân thể và là chi thể của nhau, và thay vì dùng các phương diện này để chia rẽ, gây oán ghét và thù hận, dựa trên sự dối trá.

Chính Giáo hội là một mạng lưới được đan dệt bằng sự hiệp thông Thánh thể, trong đó sự hiệp nhất không được đặt trên những nút ‘like’ (thích), nhưng trên sự thật, trên lời ‘Amen’, qua đó mỗi người đều bám víu vào Thân thể của Đức Kitô, và chào đón người khác” (Sứ điệpTruyền thông 53).

Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.

Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.

Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” (Sứ điệpTruyền thông 50).

Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và tích cực loan báo tin vui bình an yêu thương.

Về mục lục

.

NHỮNG CHỨNG NHÂN MỚI

Lm. Trần Thanh Sơn

Khởi từ cuộc Phục Sinh của mình, Đức Giêsu đã đổi mới mọi sự. Ngài đã vượt qua sự chết để khai mở sự sống. Từ đây, lịch sử nhân loại bước sang một giai đoạn mới. Các thế lực sự dữ như: đau khổ, gian nan, vất vả, và nhất là cái chết vẫn còn đó, nhưng không còn được sức mạnh. Tất cả đã bị Đấng Phục Sinh khuất phục. Nhờ sự Phục Sinh của Đức Giêsu thế giới cũ đã qua đi và một thế giới mới đã bắt đầu xuất hiện (x.Kh 21, 1-5).

Ngay trong Chúa Nhật Phục Sinh, ngang qua hình ảnh ngôi mộ trống, phụng vụ lời Chúa cho thấy bởi sự sống lại của mình, Đức Giêsu đã tạo dựng nên một thế giới mới. Và rồi không chỉ lập nên một thế giới mới, Đấng Phục Sinh còn lập nên một dân mới khi Ngài thổi hơi ban Thánh Thần để biến đổi các tông đồ từ những kẻ nhát đảm ở trong những căn phòng đóng kín cửa, thành những con người can đảm dám mở bung cửa, ra đi loan báo Tin mừng cho muôn dân. Từ đây, bước đi giữa biển đời tăm tối, dân mới do Đấng Phục Sinh thiết lập không còn bơ vơ, nhưng họ có Lời Chúa làm kim chỉ nam, định hướng cho cả cuộc đời của họ. Họ chỉ cần để tâm lắng nghe và khiêm tốn thực hành lời dạy của Đấng Phục Sinh, chắc chắn họ sẽ thu được kết quả, như mẻ cá lạ mà các tông đồ đã kéo được trên bờ biển Tibêria năm xưa. Hơn thế nữa, dân mới là Giáo Hội do Đấng Phục Sinh thiết lập còn được chính Ngài làm Thủ Lãnh. Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Lành biết rõ từng người trong dân mới. Ngài hằng chăm sóc và ban cho họ được sống và sống dồi dào. Đồng thời, trong tư cách là vị Mục Tử nhân lành, Đấng Phục Sinh cũng mời gọi mỗi người chúng ta là thành phần trong dân mới hãy sống yêu thương nhau như Ngài đã hằng yêu thương chúng ta. Mặt khác, đối với Đấng Phục Sinh, việc chúng ta tuân giữ lời dạy yêu thương không những là một dấu chỉ để mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ của Ngài, nhưng còn là một biểu hiệu cụ thể chứng tỏ lòng yêu mến của chúng ta đối với Ngài, như lời Ngài tuyên bố: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14, 23).

Và hôm nay, trước khi chấm dứt sự hiện diện hữu hình của mình giữa nhân loại, Đấng Phục Sinh đã mời gọi các tông đồ và cả từng người chúng ta lên đường ra đi loan báo cho muôn dân biết về Tin Mừng Phục Sinh mà chúng ta đã lãnh nhận. Chính vì thế, theo truyền thống của Giáo Hội, Chúa Nhật lễ Thăng Thiên hôm nay đã được chọn làm ngày “Thế giới truyền thông”.

  1. GIÁ TRỊ CỦA ĐAU KHỔ:

Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy sứ điệp đầu tiên mà mỗi người chúng ta cần loan báo cho mọi người đó là cuộc khổ nạn của Đức Kitô, như lời Ngài phán với các môn đệ trước lúc về trời: “Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình”. Khi nhắn gởi với các tông đồ sứ điệp này, một lần nữa, Đức Giêsu khẳng định với chúng ta rằng: không thể có cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên vinh hiển hôm nay, nếu trước đó, Ngài đã không đi đến tận cùng con đường thập giá. Hay nói cách khác, Kitô giáo không hứa hẹn một con đường dễ dãi, hấp dẫn, nhưng để đạt đến một đời sống vĩnh cửu, mỗi người cần phải đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, con đường thập giá, con đường của đau khổ. Kitô giáo không tôn sùng đau khổ và cũng không chạy trốn đau khổ, nhưng mời gọi chúng ta sẵn sàng đối diện và đón nhận mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống hàng ngày, và biến chúng trở thành phương thế dẫn đưa chúng ta đến với cuộc sống vĩnh cửu.

Nói đến việc đón nhận đau khổ, trái ý… vào giờ này, ở nơi đây, trong ngôi Thánh Đường này thì dễ, nhưng để đón nhận những đau khổ và thử thách ngay trong cuộc sống thực tế hàng ngày, thì quả thật không dễ chút nào. Đối mặt với đau khổ, khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là tìm cách trốn chạy đau khổ. Thế nhưng, có một thực tế mà nhiều khi chúng ta không muốn nhận, đó là tự sức mình, chúng ta không thể nào loại trừ hết mọi đau khổ. Đau khổ vẫn còn đó vì trong từng người chúng ta vẫn còn dục vọng, vẫn còn “Tham, Sân, Si”. Càng chạy trốn, càng vùng vẫy đau khổ như càng thắt chặt cuộc đời của chúng ta. Chính vì chỉ cậy vào sức mình như thế, nên cuối cùng có nhiều người đã đi vào con đường tuyệt vọng.

Biết rõ sự yếu đuối và giới hạn của con người chúng ta, nên trước khi về Trời, Đức Giêsu đã hứa với các tông đồ và với từng người chúng ta: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa”. Chính vì ý thức được sự mỏng dòn của mình, và trong tâm tình tin tưởng vào lời hứa của Đấng Phục Sinh, thánh Phaolô đã lên tiếng cầu xin cho chúng ta: “Xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, dể nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi”. Thánh nhân, xin Thiên Chúa ban Thần trí của Ngài cho chúng ta, để nhờ ánh sáng của Ngài soi dẫn, chúng ta biết vững lòng trông cậy vào ơn Chúa. Nhờ đó, chúng ta đủ can đảm đón nhận những gì Chúa gởi đến trong cuộc sống mỗi ngày.

  1. TIN MỪNG PHỤC SINH:

Tuy nhiên, chúng ta đón nhận đau khổ không phải vì đau khổ, nhưng chúng ta đón nhận nó như một phương tiện để giúp chúng ta đến với cuộc sống vĩnh cửu. Đau khổ, chỉ là một bước thanh luyện cần thiết để giúp chúng ta đạt đến vinh quang Phục Sinh. Chính Đức Giêsu, mặc dù đã đi con đường thập giá, nhưng Ngài không dừng lại ở cái chết khổ nhục trên thập giá. Đàng sau cái chết, đó là cuộc Phục Sinh vinh hiển. Chính sự sống lại của Đức Giêsu đã làm cho con đường thập giá trở nên có giá trị. Sau này trong thư gởi tín hữu Corinhtô, thánh Phaolô đã tuyên bố: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15, 14). Ý thức điều đó, sau những lời nói về cuộc thương khó của Đức Giêsu, thánh sử Luca liền cho chúng ta biết về sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: “Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng; Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày”. Tin Mừng Phục Sinh phải là điều mà mỗi người chúng ta cần xác tín và là mục tiêu cuối cùng của cuộc sống mỗi người chúng ta.

Như thế, vững lòng đón nhận mọi biến cố vui buồn sướng khổ trong cuộc sống hiện tại, và luôn hướng lòng về đời sống vĩnh cửu là hai mặt gắn liền không thể tách rời của mỗi người kitô hữu. Đồng thời, đó cũng là sứ điệp mà mỗi người chúng ta cần loan truyền cho mọi người trong thế giới hôm nay. Chúng ta phải dùng chính đời sống của mình để loan báo cho mọi người về giá trị của con đường thập giá và niềm vui Phục Sinh, như lời dặn của Đấng Phục Sinh: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa, và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Hơn nữa, rao giảng bằng cuộc sống, cũng chính là cách thức truyền giáo thích hợp nhất trong thế giới hôm nay.

Chớ gì nhờ sức mạnh của Đấng Phục Sinh nâng đỡ, mỗi người chúng ta không tuyệt vọng khi gặp thử thách gian nan, nhưng luôn bình an trong mọi sự. Nhờ đó, chúng ta trở nên những chứng nhân mới cho Đấng Phục Sinh trong thời đại hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

MỪNG CHÚA LÊN TRỜI

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Chúng ta đã trải qua 40 ngày mừng Chúa Phục Sinh, hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta hân hoan mừng kỷ niệm Chúa về trời. Mừng Chúa lên trời, là chúng ta tuyên xưng một tín điều trong Kinh Tin Kính đó là: “Người sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha”. Chúa lên trời dạy chúng ta điều gì?

1/ Ngài dạy chúng ta một chân lý: “Sự sống này thay đổi chứ không mất đi, chết không phải là hết, không phải là tận cùng, nhưng là bước vào một cuộc sống mới “. Như vậy chúng ta xác tín rằng: đây là cuộc sống lữ hành “Sống gửi thác về”. Bởi thế gian không phải là nhà, Thiên đàng hoan lạc mới là quê hương. Chúa đi trước dọn chỗ cho chúng ta, nơi đó là cõi nguồn hạnh phúc, là phần thưởng dành cho những ai suốt đời khao khát tìm kiếm những sự trên trời.

 Chúng ta hy vọng ngày mai đây sau khi nhắm mắt lìa đời, sẽ được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước trời, nếu ở đời này chúng ta ăn ngay ở lành và gắng bước theo Chúa. Chúng ta tin rằng mọi việc lành đều sinh công phúc; mọi đau khổ nếu vui lòng chịu vì lòng yêu mến, Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau. Vì Chúa trải một kiếp người đầy đau khổ mới bước vào vinh quang ngàn đời.

2/ …. Ngài dạy chúng ta đi rao truyền chân lý

Chúa về trời, là Ngài hoàn tất sứ mạng rao giảng Tin mừng, Ngài trối sứ vụ đó cho các môn đệ cũng như cho chúng ta như một bài sai: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân tất cả những điều Thầy đã truyền cho các con…” (Mt. 28,19).

Chúa muốn chúng ta tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng cứu độ. Bởi vì trong ba năm đi rao giảng, bước chân của Ngài chỉ đi trong nước Palestine nhỏ bé, còn lại cả một thế giới mênh mông ngút ngàn Ngài chưa đi tới. Còn biết bao dân tộc xa xăm chưa biết Chúa là ai, chưa một lần nghe nói về danh thánh Ngài; chưa biết được hạnh phúc Nước trời là gì. Chính vì lẽ ấy Chúa mời gọi: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng…” (Mc. 16,15).

Nhưng trước khi sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin mừng, thì Chúa Giêsu đã ra đi trước rồi. Ngài vâng lệnh Chúa Cha ra đi từ trời cao xuống đất thấp. Ngài ra đi từ địa vị Thiên Chúa xuống làm con người, để ở cùng ở với chúng ta.

Ngài ra đi khỏi gia đình êm ấm lang thang trên khắp nẻo đường. “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20).

Chúa không ngừng ra đi đến với mọi miền đất nước. Chẳng hạn như: Chúa đến miền Thập Tỉnh phần đông là người ngoại đạo.  Miền bị ma quỉ thống trị. Miền mồ mả chìm trong bóng tối sự chết. Chúa đến và gặp người khổ cực nhất. Chúa đã giải thoát họ khỏi thần chết, đem lại ơn sức sống cho họ.

Noi gương Chúa, chúng ta không những ra đi khỏi ngôi nhà êm ấm, nhưng còn là ra đi khỏi con người sống chủ nghĩa cá nhân, an phận, lo vun đắp cho mình, mà không hề biết dấn thân, quảng đại chia sẻ với những người kém may mắn.

Qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sai chúng ta ra đi gieo rắc tình thương, loan tin bình an, cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương, để con người xích lại gần nhau hơn, sống công bình bác ái, như lòng Chúa mong muốn.

3/ … Ngài dạy chúng ta lo tìm kiếm nước Chúa

Tìm kiếm Nước Chúa là mỗi sáng khi thức dậy, người đầu tiên chúng ta phải nhớ là Chúa. Việc suy nghĩ tìm kiếm đầu tiên phải là Nước trời, bởi vì Chúa nói “Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Trời trước, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau ” (Mt 6,33).

Anh chị em thân mến,

Mừng kỷ niệm Chúa Giêsu lên trời và lời Ngài hứa “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “(Mt. 28,20). Chúng ta hiểu rằng: Chúa lên trời không theo nghĩa thể lý hay không gian. Mặc dù Chúa không hiện diện cách hữu hình nữa, nhưng Ngài vẫn hiện diện cách thiêng liêng và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường dương thế.

Mừng lễ Chúa lên trời, xin Chúa giúp chúng ta đừng tìm kiếm những sự mau qua ở đời này, nhưng hãy lo tìm kiếm những sự trên trời, bằng cách sống chân lý Chúa dạy; biết thi hành mệnh lệnh Chúa trao, và lo tìm kiếm Nước Chúa. Có như thế, chúng ta mới hy vọng sau khi nhắm lìa đời, chúng ta được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước Trời.  Amen.

Về mục lục

.

CHỨNG NHÂN NƯỚC TRỜI

Lm. Bùi Quang Tuấn

Có rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã làm phát sinh nhiều hậu quả không hay: người có đạo thì bị lung lay bối rối khi có một vài khoa học gia nói rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên kia cả; người không có đạo thì nghĩ: Có lẽ nước trời là một thế giới nằm đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná giống như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện khôi hài do một cha thừa sai kể lại: Sau một tuần giảng đại phúc thật sốt sắng tại một vùng đất nọ, các cha khuyên nhủ được một ông cụ ngoại đạo gia nhập đoàn chiên Chúa. Thấy cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan, nên các cha tích cực khuyên bảo: “Ông đã theo đạo rồi, bà cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên thiên đàng gặp lại nhau nữa chứ.” Nghe thế cụ bà hốt hoảng trả lời, “Không được đâu, suốt đời ổng đã hành hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng còn phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết mất.”

Thiên đàng sẽ chỉ là một con số “không”, chẳng có chút gì hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc chính là hoa trái của yêu thương, mà yêu thương thì phát xuất từ con tim, nghĩa là từ bên trong. Bên trong chứ không phải bên ngoài hay bên trên kia.

Nước trời không ở bên ngoài hay bên trên, cũng không phải là một nơi nào đó trong không gian. Nước trời phải được hiểu như là một thực tại phía trong: trong lòng tôi, trong nơi tôi đang cư ngụ hay làm việc, và trong tầm với của gia đình.

Cho nên nói Chúa Giêsu lên trời cũng chính là nói Chúa Giêsu đi vào trong đời ta, nhà ta, lòng ta, gia đình ta. Có như thế thì lời “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” mới đong đầy ý nghĩa của nó. Chứ nếu như Ngài lên trời cao xanh hay Ngài ở nơi thế giới ngoài kia thì làm sao hiểu là Ngài đang ở cùng chúng ta được. Và vì Chúa Giêsu đã đi sâu vào đời ta, nhà ta, nên Ngài đã truyền cho chúng ta phải làm chứng cho sự hiện diện của Ngài: “Các ngươi phải là nhân chứng của Ta.”

Chứng tá cho Đức Giêsu là làm sao vẽ được dung mạo của Ngài ngay trên cuộc sống của mình, làm sao cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong môi trường mình đang sinh hoạt, diễn tả được hình ảnh của Nước Trời đang ở giữa và ở trong chúng ta.

Có nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.

Chàng đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời.”

Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời: “Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời.”

Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: “Hoà bình là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp.”

Ba câu nói của ba con người– vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ– đã làm cho người hoạ sĩ phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và hoà bình.

Đang suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho nó: “Mái Ấm Gia Đình.”

Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dương gian.

Bạn chưa cần phải đi đâu xa để làm chứng tá về niềm tin; bạn cũng chưa thể đi đến mút cùng trái đất để giảng về tình yêu và an bình của trời cao. Nhưng bạn có thể làm chứng tá cho Đức Giêsu ngay trong gia đình của mình.

Trước mỗi hành động, lời nói, giao tế, cư xử, hãy tự hỏi: tôi có làm mất niềm tin nơi người bạn đời hay nơi con cái của tôi không? Tôi đang xây dựng tình thương và an bình hay đang sống phản chứng trước mặt con cái và bạn đời? Tôi có đang cố gắng vẽ lên chân dung của Thiên Chúa qua việc hy sinh để kiến tạo một mái ấm gia đình không?

Những dòng chữ sau đây rất đáng cho bạn và tôi tâm niệm để ý thức hơn khi vẽ lên cho đời những “mái ấm”:

“Mái ấm là môi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học thế nào là điều ngay, thế nào là điều thiện, thế nào là lòng tử tế.

Đó là nơi tuổi thơ tìm về để được an ủi vỗ về mỗi khi đau khổ, bệnh tật.

Đó là nơi chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền.

Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương…

Đó là nơi mà những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, bởi vì là giá của mồ hôi nước mắt.

Đó là nơi mà tiền bạc không quí bằng tình yêu.

Và đó là nơi mà ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm hạnh phúc.

Mái ấm gia đình. Đó là nơi được Thiên Chúa chúc phúc.”

Ước gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước Trời tại thế–mái ấm gia đình–để sau Lễ Lên Trời này, bạn và tôi cũng sẽ theo bước chân của các môn đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc.

Về mục lục

.

RAO GIẢNG VIỆC SÁM HỐI

PM. Cao Huy Hoàng

Chúa Giêsu đã về Trời. Người hoàn thành sứ mạng cứu rỗi nhân loại bằng chính cái chết và phục sinh của Người.

Dòng đời lữ hành của nhân loại vẫn còn tiếp diễn và vẫn còn phải được tiếp tục hưởng nhờ ơn cứu rỗi của Chúa. Vì thế sứ mạng cứu rỗi nhân loại được chuyển giao cho Hội Thánh của Người, dưới nguồn trợ lực của Chúa Thánh Thần.

Sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh là sứ mạng của mỗi tín hữu.

“Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy” ( Lc 24, 46 – 47 ).

“Các con là nhân chứng những việc ấy”: các con phải làm chứng về một Chúa Giêsu tử nạn vì tội lỗi nhân loại, làm chứng về một Chúa Giêsu Phục Sinh để ai tin vào Người cũng sẽ được Phục Sinh trong sự sống vĩnh cửu, viên mãn.

Như vậy Lời Chúa hôm nay đề cập đến “Chúa đã chết để chuộc tội” và “Phục sinh để người tin và sám hối được cứu rỗi”. “Sám hối để được ơn tha tội” là nội dung chính của sứ điệp truyền giáo trong lễ Chúa Lên Trời hôm nay.

Nhìn vào thế giới hôm nay: tiêu chuẩn luân thường đạo lý đảo lộn, bờ mê bến giác cũng chẳng còn ranh giới, sự thật và giả dối có chung một thân xác, một mái nhà, thiện ác, tối sáng cứ quấn quít lấy nhau… làm cho con người gần như mất đi cảm thức về tội. Có những tội to đùng như núi, mà người phạm tội cứ nhởn nhơ phè phỡn như chẳng có tội gì. Càng có chức quyền càng gắn liền với ý đồ phạm tội cách công khai mà chẳng ai làm gì nhau được. Cuối cùng là tự cho mình cái quyền phạm tội, hoặc quyền tự tha tội cho mình. Tội từ cấp trên xuống cấp dưới, tội tràn lan ra xã hội, xuống tận tới dân đen. Dễ hiểu thôi, thượng bất chính, hạ tắc loạn. Lớn làm được, thì nhỏ cũng làm được chứ ? Bao gương mù gương xấu cho cả một thế hệ hậu duệ…

Thật tội nghiệp cho chúng ta, các tín hữu bây giờ phải truyền giáo trong thời đại của những kẻ mắc bệnh tuyên truyền sự giả dối. Người mắc bệnh tuyên truyền lúc nào cũng nghĩ người khác tuyên truyền và sợ mình bị tuyên truyền. Người nói dối bao giờ cũng nghĩ người khác nói dối. Người sống trong giả dối bao giờ cũng nghĩ người khác giả dối như mình. Khi thấy nơi này, nơi kia có nhiều người gia nhập Hội Thánh Công Giáo, thì họ cho là chúng ta tuyên truyền thành công. Họ tự mặc định cho việc “loan báo Tin Mừng, rao giảng sự sám hối, ơn tha tội” như là việc tuyên truyền sự giả dối mà họ đã từng làm.

Khi thấy một ngôi Nhà Thờ mới được xây dựng, một lễ nghi tôn giáo được tổ chức rầm rộ hoành tráng thì họ muốn chúng ta hiểu rằng đó là nhờ ơn của quyền lực thế gian ! Họ chưa nhận ra được sự kỳ diệu của Chúa Thánh Thần. Họ chưa mở mắt, mở tai ra mà đón nhận sự thật. Dễ nản quá, nhưng hãy vững tin: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất” ( Cv 1, 1 – 11 ).

Làm thế nào để rao giảng việc sám hối cho người không biết mình có tội, không nhận mình có tội ? Làm thế nào để rao giảng việc sám hối cho các cấp lãnh đạo chóp bu trong xã hội, những người cần làm gương sám hối trước tiên ?

Chính phủ nào, đất nước nào rồi cũng thế, khi đã nắm quyền lực xã hội trong tay rồi, thì nghĩ rằng mình phải là người nói người khác nghe, mình không phải là người nghe người khác nói. Càng tồi tệ hơn khi những người chống Thiên Chúa nắm chính quyền, thì việc nói về Chúa cho chính phủ ấy nghe quả là một thách đố cho Hội Thánh. Trong tình thế ấy, thiết nghĩ việc truyền giáo của Người Công Giáo Việt Nam đương thời chính là:

– Liên lỉ, sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần, vì chỉ có Ngài mới có đủ sức tác động làm mềm dịu những khối óc khô cứng, làm rung động những trái tim hóa đá, chai lì, làm biến đổi những tâm hồn vô ơn vô cảm như “con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói” thành tâm hồn biết ơn chính Đấng đã tác dựng nên mình.

– Canh tân đời sống Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến đến mức tối đa từ mỗi cá nhân tín hữu, đến gia đình, Giáo Xứ, và cả Giáo Hội mới đủ sức thuyết phục một xã hội đang nghiêng hẳn về phía văn minh tha hóa, văn minh trần tục, văn minh sự chết.

– Xây dựng tình gắn bó, hiệp thông vững chắc trong Hội Thánh Chúa mà bảo vệ những giá trị thiêng liêng của chính đạo: bảo vệ sự sống, tôn trọng nhân quyền, bênh vực công lý. Bao lâu còn cảnh “ông nói gà, bà nói vịt” trong Hội Thánh, thì bấy lâu còn cho thấy dấu hiệu của căn bệnh kiêu ngạo, cửa quyền, có thể là cấp tính mà trầm kha, nguy hiểm. Căn bệnh ấy làm suy nhược cơ thể Hội Thánh, không còn đủ sức để truyền giáo hay rao giảng gì cho ai !

– Xác tín vững chắc sức mạnh của Lời Chúa có sức biến đổi mọi sự. Xác tín Lời đau khổ và phục sinh của Chúa Giêsu có sức làm cho mọi tạo vật trở nên mới trong Ngài, để không nản lòng lùi bước trước những thách đố có thể nói là quá lớn đối với sức chịu đựng của con người. Hãy vững vàng xác tín như Thánh Phaolô, nhà truyền giáo vĩ đại: “Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người” ( Ep 1, 23 ).

– Xác tín vững chắc vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, kiên tâm “ở lại trong thành”, trong phút kết hiệp huyền nhiệm khi cử hành Bí Tích Thánh Thể, khi rước lấy Thánh Thể Chúa, kết hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa để nhận lấy quyền lực của Chúa Thánh Thần, như Chúa đã căn dặn: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”.

– Xác tín ý nghĩa việc truyền giáo tại đất nước này: không phải là “khôi phục lại một đất nước” theo nghĩa chính trị, như các Tông Đồ vẫn mơ hồ: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng ?”, những là khôi phục lại những tâm hồn cho Thiên Chúa, khôi phục lại cho Thiên Chúa một chỗ trong lòng con người, khôi phục lại những giá trị thuộc về Thiên Chúa, khôi phục lại danh dự, uy quyền của Thiên Chúa trong một xã hội từng loại trừ, bôi nhọ, chống báng Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi chúng con canh tân đời sống đạo đức Kitô Giáo của mình để nên nhân chứng thuyết phục cho lời rao giảng về việc sám hối và ơn tha tội của Chúa cho mọi người. Amen.

Về mục lục

.

CÁC CON LÀ CHỨNG NHÂN

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

          Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã tiên báo. Theo cái nhìn của Luca, thì “Thời kỳ Israel” đã nhường chỗ cho “Thời kỳ Đức Kitô”. Giờ đây, “Thời kỳ của Đức Kitô”â lại nhưỡng chỗ cho “Thời kỳ của Giáo hội”.

          Bài đọc Tin mừng trích trong tác phẩm cuối của Tin mừng Luca, chứa đựng trình thuật đầu tiên của Luca về biến cố lên trời. Ở đây Thăng thiên được trình bầy như được xẩy ra vào Chúa nhật Phục sinh. Đức Chúa Phục sinh cho các Tông đồ thấy Kinh thánh đã tiên báo về Đức Kitô phải chịu đau khổ và sống lại như thế nào (Lc 24,48).

          Khi hiện ra với các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao cho các ông sứ vụ rao giảng Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất (Lc 24,47) và phải làm chứng cho Ngài nơi muôn dân nước (Lc 24,48). Đồng thời Ngài cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần đến cùng họ (Lc 24,49). Sau khi đã căn dặn các môn đệ nhiều điều, Đức Giêsu lên trời trước mặt các ông. Họ vui mừng trở về Giêrusalem để chờ đợi Chúa Thánh Thần.

          Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước mặt mọi người.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

          +  Bài đọc 1 : Cv 1,1-11

Khởi đầu sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết : sau khi sống lại Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ trong 40 ngày và trước khi về trời, Ngài còn ban các ông  những lời dạy cuối cùng

– Đức Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn còn sống.

– Ngài khuyên các ông hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban.

– Ngài còn trao cho các ông  sứ mạng rao giảng Tin mừng để làm chứng cho Ngài trên khắp cùng thế giới.

          + Bài đọc 2 : Ep 1,17-23

          Trong thư gửi cho tín hữu Eâphêsô, thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.

          Ngài còn cho biết : Chính Chúa Cha đã cho Đức Giêsu sống lại; chính Chúa Cha đã tôn vinh Đức Giêsu; cũng vẫn Chúa Cha đã đặt Đức Giêsu làm Chúa tể muôn loài, làm đầu Hội thánh. Chúng ta có thể đặt trọn niềm tin cậy ở Ngài.

          + Bài Tin mừng : Lc 24,46-53

          Trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Phaolô đã nói và trong Tin mừng hôm nay còn nói lại :

– Những lời căn dặn cuối cùng : theo Sách Thánh, Đức Kitô phải qua chịu nạn rồi mới tới Phục sinh. Các môn đệ phải rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban cho.

– Đức Giêsu về trời : Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Đức Giêsu thăng thiên. Ngài về trời có nghĩa là Ngài rời bỏ tình trạng hèn hạ của loài người mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa, nghĩa là Ngài chỉ thay đổi cách hiện diện.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

I. ĐỨC GIÊSU VỀ CÕI TRỜI.

  1. Theo sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ.

Thánh Luca là tác giả sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ. Theo sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc thấy biến cố lên trời xẩy ra vào ngày thứ 40 sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh.  Thực ra, sách Tin mừng có ý viết về sứ mạng của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, và sách Công vụ Tông đồ viết về sứ mạng của Giáo hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới.  Việc Đức Giêsu lên trời là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó; hay nói cách khác, lúc Đức Giêsu lên trời là lúc Đức Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo hội để tiếp tục công trình của Ngài.

  1. Ý nghĩa việc lên trời.

Việc lên trời của Đức Giêsu có hai ý nghĩa, đó là giai đoạn rao giảng của Đức Giêsu đã qua, đã chấm dứt và mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội.

a) Một giai đoạn đã qua.

Ý nghĩa trọng đại của việc Đức Giêsu lên trời là sự cứu chuộc  mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho đến đời đời.

Đức Giêsu đã làm xong công việc cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại  để cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy, đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay, các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng Thầy đời đời vượt thời gian và không gian.

b) Khởi đầu một kỷ nguyên mới.

Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Sách Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Giêsu, mà còn tiếp tục trong Hội thánh. Sứ điệp Tin mừng được hoạch định”cho muôn dân”, được rao giảng bắt đầu từ Giêrusalem.

Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Mới kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất.

Thật là nghịch lý ! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn phiền. Các môn đệ ra về  trong sự vui mừng  chứ không phải tấm lòng sầu muộn vì họ biết rằng  từ nay không có gì có thể ngăn cách mình với người Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu :”Ai có thể phân cách chúng ta  với tình yêu thương của Chúa Cứu thế” ? Và Ngài khẳng định :”Tôi biết chắc chắn rằng bất kỳ sự sống, sự chết… chẳng có thể phân rẽ chúng ta  ra khỏi sự yêu thương mà Thiên Chúa đã thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-38).

II. TRAO SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG.

  1. Sứ vụ rao giảng Tin mừng.

Đức Giêsu về trời vẫn giao sứ mạng cho các môn đệ và Giáo hội phải rao giang Tin mừng :”Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đức Messia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem” (Lc 24,46-47).

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới dất mới  mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta  được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Ngài. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.

Truyện : Hoàn thành tác phẩm

          Nhạc sư sáng tác người Ý, Giacomo Puccini,  để lại cho đời một số  những tác phẩm ca nhạc kịch – opera – rất nổi tiếng, chẳng hạn như La Bohême và Madame Butterly. Năm 1922, lúc 64 tuổi, ông bị ung thư ác tính. Mặc dù cơn bệnh hành hạ thân thể, Puccini vẫn nhất định phải hoàn tất vở ca kịch Turandot mà bây giờ nhiều người  đánh giá là vở ca kịch hay nhất của ông.

          Ôâng làm việc ngày đêm. Nhiều người khuyên can ông  phải nghỉ ngơi vì nghĩ rằng ông không thể nào hoàn tất  vở ca kịch này được. Khi con bệnh trở nên trầm trọng,  Puccini đã viết cho học trò của mình :”Nếu thầy không hoàn tất vở ca kịch Turandot được,  thầy muốn các con tiếp tục công việc ấy cho thầy”.

          Năm 1924, ngày số phận đã tới, khi Puccini sang Bỉ giải phẫu, ông qua đời hai ngày sau đó. Trở về Ý, các học trò của ông qui tụ nhau lại, mỗi người một tài năng khác nhau tiếp tục sáng tác vở ca kịch Turandot của thầy để lại. Sau khi nghiên cứu và làm việc với tất cả tâm hồn, họ đã hoàn tất vở ca kịch này.

          Năm 1926, lần đầu tiên trên thế giới, vở ca kịch đã được trình diễn tại nhà hát ca kịch La Scala ở Milan.  Vở này đã được điều khiển bởi người nhạc trưởng môn sinh rất được Puccini ưa thích, Arturo Toscanini. Tất cả mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở.  Những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người điều khiển. Ôâng ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuốâng, quay ra khán giả và nói lớn :”Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi lâu. Không ai nhúc nhích ! Không một tiếng động ! Hoàn toàn thinh lặng !

          Sau vài phút, người nhạc trưởng cầm cây đũa điều khiển lên, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ rơi và nói lớn :”Nhưng các môn sinh của ông đã hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch Turandot kết thúc, cả nhà hát bùng lên tràng pháo tay như sấm nổ vang trời.  Trong rạp hát không còn một con mắt nào khô ráo. Ai cũng rơi lệ và không ai có thể quên được giây phút ấy (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).

          Rao giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi xa cách con cái, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các Tông đồ :”Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.

          Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mạng đó. Mặc dầu Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách, nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin mừng. Lòng can đảm, chí trung kiên đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mọi người như lời Ngài đã phán :”Thầy ở cùng các con mọi ngày đến tận thế”.

  1. Rao giảng bằng cuộc sống.

Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, có người phải từ bỏ gia đình đi đến những miền xa, phải trèo non lặn suối, có khi phải liều mạng để rao giảng Tin mừng. Đây là những người có ơn kêu gọi đặc biệt, còn phần đông chúng ta chỉ có thể rao giảng trong môi trường cụ thể của mình, đó là rao giảng bằng đời sống. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi ngưởi, Để rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài cho chính chúng ta trước. Có câu ngạn ngữ Trung hoa như sau :

 “Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân,

Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia,

Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc

Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”.

Tâm hồn có chân chính thì bản thân mới tốt đẹp,

Bản thân có tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa,

Gia đình có thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị,

Quốc gia có thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.

Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp cùng thế giới.  Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Đức Giêsu vào cuộc đời mình thì gợn sóng ấy sẽ biến thành cơn sóng thủy triềâu, rồi cơn thủy triều sẽ thay đổi bộ mặt trái đất thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.

III. SỨ MẠNG LÀM CHỨNG CHO CHÚA.

Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Các con làm chứng về những điều ấy”(Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy.

Vậy làm chứng là gì ? Làm chứng là nhận thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua.

Còn chứng nhân hay người làm chứng, là kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất đúng, rất trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng.  Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.

Triết học dạy rằng : “Nhất chứng phi chứng, nhị chứng chứng quả”.

Tất cả những điều kể trên đã có quá hai người làm chứng, cách riêng là mười một môn đệ, cách chung là toàn dân đồng thời với Chúa, sau đó là chúng ta  qua các môn đệ Ngài.

Hiểu như vậy, các Tông đồ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc đời của Đức Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa.

Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Đức Giêsu đếu bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh: phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có Phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.

Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói :”Mỗi ngưởi giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”.  Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, nhất là phép Thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Ngài. Và tất cả chúng ta đã biết : cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta.

Truyện : Những gì tôi biết về Chúa Kitô.

Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần :

– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao ?

– Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.

– Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào ?

– Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.

– Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi ?

– Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.

– Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông  ta ?

– Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự  đi theo ông Kitô.

– Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết qúa ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này : ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác  hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài… (Theo Parole de vie).

Trong tông huấn Evangelii nuntiandi, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau :”Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo hội sẽ phúc âm hóa thế giới; nói cách khác, bằng sự “chứng tá” sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu – chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, về sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian – nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện” (Evangelii nuntiandi, đoạn 41),

HÃY THEO CHÚA VỀ TRỜI.

  1. Quê hương chúng ta ở trên trời.

          Trước khi ra đi vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu dã khích le äcác Tông đồ :”Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14, 1-3).

         Tin tưởng như thế, thánh Phaolô cũng nói rằng :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trờ đến cứu chúng ta”(Pl 320).

          Nếu chúng ta biết Đức Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta  phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các bậc thánh đã yêu mến một quê hương tốt hơn – quê hương ở trần gian – mà các ngài gọi là quê hương trên trời.

          Nhưng nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng : chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi.  Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vang thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy.

  1. Điều kiện để về trời.

Đức Giêsu phán :”Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27).

        Nước Trời hay thiên đàng là phần thưởng cho những ai đã cố gắng thi hành theo thánh ý Chúa. Như thế, Chúa không cho phép chúng ta tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì  ngoài việc chiêm ngắm cõi đời mà thôi !

        Thánh Phaolô đã vạch ra một loạt các nguyên tắc để giúp người Kitô hữu tiếp tục công việc ở đời này và duy trì một mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn nhận mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Nghĩa là người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình quan tâm, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi sống đời đời.

        Vậy những ai xác tín rằng quê hương đích thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết hãy qui hướng tất cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó để cố gắng chiếm đoạt cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là  phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái lại phải vui tươi, can đảm chu toàn mọi trách nhiệm, bổn  phận mà Chúa đã giao phó cho mỗi ngưởi với điều kiện đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều khiển đến độ quên hết đời sau.

         Chúng ta hãy bắt chước các Tông đồ khi chia ly với Thầy mình thay vì buồn sầu, chán nản, các ngài hớn hở vào đời  làm nhiệm vụ được giao phó vì các ngài thâm tín rằng phải sống ở trần gian một ít lâu, nhưng hy vọng chắc chắn đợi ngày tái ngộ với Thầy mình trên quê trời.

Về mục lục

.

HẸN TÁI NGỘ

Trầm Thiên Thu

Chúa Về Thiên Quốc Sáng Ngời Vinh Hiển

Con Ở Thế Trần Kiên Vững Chứng Nhân

Triết gia Henri Frédéric Amiel (1821-1881, Thụy Sĩ) nhận định: “Sự không chắc chắn là nơi trú ẩn của niềm hy vọng”. Vì không chắc hoặc chưa chắc nên mới cần nuôi dưỡng niềm hy vọng. Nhưng đó là đối với cuộc sống đời thường. Còn đối với cuộc sống tâm linh có phần khác: Tùy vào cách sống của mình mà có thể chắc chắn được về trời hay không, còn Chúa Giêsu hứa sẽ trở lại đón chúng ta về trời thì đó là điều chắc chắn tuyệt đối.

Đối với các Kitô hữu, niềm hy vọng về trời với Chúa Giêsu là điều cao xa – với ý cao thượng, cao cả, chứ không viễn tưởng hoặc mơ hồ. Niềm hy vọng đó là niềm khao khát cháy bỏng và mạnh mẽ, vì thế mà Kitô hữu không ngại từ bỏ mình và chấp nhận mọi thua thiệt ở trần gian này – kể cả sinh mạng của mình, mặc dù cuộc sống rất quý giá.

Là văn sĩ, họa sĩ, kiêm khoa học gia, nhưng Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, người Đức) nhận định rất chí lý: “Chín điều cần thiết để sống thỏa nguyện: Đủ sức khỏe để biến công việc thành lạc thú; đủ tiền bạc để đáp ứng nhu cầu bản thân; đủ sức mạnh để chống lại và vượt qua nghịch cảnh; đủ trang nhã để thú nhận tội lỗi và bỏ chúng lại sau lưng; đủ kiên nhẫn để lao lực cho tới khi đạt được điều gì đó tốt đẹp; đủ khoan dung để thấy được điểm tốt ở hàng xóm; ĐỦ YÊU THƯƠNG để khiến mình có ích cho mọi người; ĐỦ ĐỨC TIN để biến lời răn của Chúa trời thành hiện thực; ĐỦ HY VỌNG để vứt bỏ nỗi sợ hãi bất an hướng về tương lai”. Chín “cái đủ” ấy thật tuyệt vời biết bao!

Chúa Giêsu về trời trước, nghĩa là Ngài xa chúng ta một thời gian – chỉ xa theo dạng hữu hình mà thôi, vì chính Ngài vẫn ở cùng chúng ta cho tới tận thế – cụ thể là Thánh Thể. Tất nhiên cuộc chia tay nào cũng đầy lưu luyến, bịn rịn, đôi khi còn buồn thảm, và người ta luôn hẹn gặp lại nhau. Nhưng cũng có những cuộc chia tay khiến người ta vui mừng và hy vọng, đặc biệt nhất là cuộc chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ vào ngày Ngài về trời. Chúng ta vui mừng và hy vọng, vì chính Ngài đã hứa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:1-3). Lời hẹn “tái ngộ” của Chúa Giêsu là sự thật chắc chắn.

Khi hẹn gặp lại nhau, người ta luôn nôn nóng chờ đợi tới ngày đó – nhất là đối với đôi nam nữ yêu nhau mà ở xa nhau. Vương quốc của Chúa Giêsu không phải ở thế gian này, nhưng người ta lại tưởng Ngài là nhà cách mạng, đang tìm cách khôi phục vương quốc trần gian. Do đó, người ta đã hỏi dò Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1:6). Thế nhưng không phải vậy và không là vấn đề, rồi Ngài xác định: “Anh em KHÔNG CẦN BIẾT thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là CHỨNG NHÂN của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7). Vấn đề quan trọng là sống đời chứng nhân chứ không là gì khác.

Và rồi vừa nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt họ, có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, về phía Ngài đi mất hút, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Thật mà như mơ, mơ mà là thật. Nhớ Thầy và thương phận mình lắm, nhưng hy vọng rất nhiều.

Ôi thật lạ lùng quá chừng! Đối với phàm nhân, kể ra thì cũng thấy buồn khi Ngài đã đi xa, thế nhưng chúng ta không hề thất vọng, vẫn tràn trề hy vọng, và chúng ta cũng chẳng mồ côi. Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta, và Ngài còn gởi Chúa Thánh Thần đến nâng đỡ chúng ta từng ngày, Đấng ấy là Đấng Bảo Trợ – Ngôi Ba Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đi mà chúng ta không hề buồn chi. Hy vọng tràn đầy, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Ôi, thật hạnh phúc khi chúng ta được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa như vậy.

Vui tiếp vui, mừng nối mừng, niềm hy vọng như được kéo dài và lan tỏa kỳ lạ: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Cuộc chia tay nào cũng mặc vẻ buồn, không nhiều thì ít, dù mặc nhiên hoặc minh nhiên, nhưng cuộc chia tay của Chúa Giêsu với chúng ta lại không u buồn, ngược lại rất hân hoan.

Đất thấp, trời cao. Khác mà không lạ. Xa mà vẫn gần. Thánh Phaolô cho chúng ta biết: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh” (Dt 9:24-25). Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (Dt 9:26-28).

Chính vì vậy, “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh” (Dt 10:19). Chúng ta chẳng là gì, hoàn toàn bất xứng, thế mà được diễm phúc vô cùng, bởi vì chính Chúa ban cho “quyền sống” đó. Và còn hơn như thế nữa, cũng chính Người đã “mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa” (Dt 10:20-21). Vì thế, Thánh Phaolô khuyên các tín nhân: “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10:22-23). Đối với Thiên Chúa, tất cả đều tuyệt đối. Bất cứ ai có đức tin càng mạnh và đức mến càng sâu thì càng được Ngài độ trì.

Đức tin là điều không thể đụng chạm nhưng có thể cảm nghiệm, nhưng cần phải cụ thể hóa bằng việc làm, nếu không thì đó chỉ là “đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Sống đức tin là hành động cần thiết, luôn phải kiên trì và không ngừng canh tân. Vì sống đức tin là mối phúc đặc biệt mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).

Đức tin sống nhờ “hơi thở” yêu thương. Sống đức tin là thể hiện đức tin một cách sống động và cụ thể. Sống đức tin là sống đạo, chứ không chỉ dừng lại ở việc giữ đạo hoặc chỉ giới hạn từ cửa nhà thờ vào phía trong. Giữ đạo thì không khó, có thể nói là dễ, nhưng sống đạo thì không dễ chút nào và phức tạp lắm, cần phải thực sự can đảm và dứt khoát. David Coperfield có biệt tài ảo thuật thế nào cũng chẳng hơn chúng ta: Là con chiên hiền lành khi vào trong nhà thờ, nhưng hóa con cọp dữ dằn khi ra ngoài nhà thờ. Đúng là “siêu” thật!

Chúa Giêsu nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47). Chẳng có niềm hạnh phúc nào mà vắng bóng đau khổ, chẳng có niềm vui nào thiếu khoảng buồn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà còn chịu đau khổ đến tột cùng mới có thể vinh thắng, thế thì chúng ta không thể không đau khổ khi sống đạo một cách chân thành đúng nghĩa, tích cực chứ không chỉ theo luật buộc những điều tối thiểu (đi lễ Chúa Nhật, xưng tội và rước lễ trong Mùa Phục Sinh).

Giữ đạo không hẳn là giống như sống đạo – giống mà khác. Sống đạo là làm chứng về Đức Kitô, về Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vì chính Ngài đã truyền lệnh: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Và chắc chắn mệnh lệnh này không miễn trừ bất kỳ ai.

Ngày ấy, khi Chúa Giêsu chia tay các môn đệ để về trời, cuộc chia tay không buồn thảm mà lại chứa chan niềm hy vọng: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Nói xong những lời đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành, Ngài rời khỏi các ông và được đem lên trời. Thầy đi rồi!

Thầy về trời thì trò phải vào đời, không thể khác được. Thánh Luca tường thuật rõ ràng: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24:52-53). Đức Kitô chịu chết nhưng đã phục sinh khải hoàn và lên trời, chúng ta cũng hy vọng được sống lại và lên trời để vĩnh cư với Ngài. Đó là niềm hy vọng đích thực và niềm hạnh phúc khôn tả đối với các tín nhân.

Chúa Giêsu đã hẹn “see you again” với chúng ta, thế thì lẽ nào chúng ta lại không muốn hẹn tái ngộ với Ngài? Chắc chắn chúng ta cũng hẹn gặp Ngài để đoàn tụ tại Quê Nhà – nhưng trong ngày sum vầy đó, hy vọng chúng ta không bị xếp đứng bên bầy dê lông đen ngòm hoặc xám xịt, mà được xếp đứng bên đàn chiên lông trắng toát.

Lạy Thiên Chúa tối thượng duy nhất và giàu lòng thương xót, xin ban thần khí can đảm để chúng con sống đạo và thể hiện đức tin trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống tạm này. Để nhờ đó, chúng con chắc chắn được về trời đoàn tụ với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Mẹ cùng chư thần chư thánh, sau khi chúng con hoàn tất nhiệm vụ sống nơi trần gian. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

LỜI TRAO BAN VÀ HỨA HẸN

Anna Cỏ May

Khi đi đâu xa, cha mẹ thường chuẩn bị cho con mọi đồ dùng cần thiết, nhắn nhủ những lời yêu thương và hứa hẹn mau trở về.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu cũng hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin, để an ủi và trao ban sứ mạng. Ngài hứa sẽ trao ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Ngài mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh mời gọi các ông phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, nghĩa là nhân danh Đấng đã chịu khổ hình và sống lại. Chính các môn đệ là nhân chứng sống động về tất cả những lời rao giảng để kêu gọi mọi người sám hối (x. Lc 24, 45-48). Các ông trở nên những môn đệ đích thực được Chúa chúc lành, được sao đi rao giảng ơn cứu độ cho mọi người. Nhờ đó mọi người được ơn tha tội, được làm con cái Thiên Chúa và chung hưởng vinh quang cùng Ngài.

Còn chúng ta là Kitô hữu, chúng ta đã mau mắn đón nhận Tin Mừng và đổi mới đời sống theo tinh thần Chúa Kitô chưa? Chúng ta có tin tưởng cậy trông và phó thức vào tình yêu và quyền năng của Ngài không? Chúng ta hãy để lời Chúa thách đố từng giây từng phút cuộc sống chúng ta, hầu chúng ta được Chúa nâng đỡ. Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Vậy chúng ta đã thực thi sứ mạng mà Chúa đã trao phó như thế nào? Chúa Giêsu không ngừng biểu lộ tình yêu và thực hiện lời hứa nơi mỗi người. Ngài trung tín sẵn sàng bảo vệ từng người chúng ta. Chỉ có Ngài liều lĩnh trao ban tình yêu và sứ mạng cao cả ấy cho chúng ta. Chúng ta hãy lãnh nhận, tạ ơn Ngài và để cho Ngài hoạt động trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Chúa là Thiên Chúa Hằng Hữu, xin cho mỗi người chúng con biết hoan hỷ vui mừng dâng lời cảm tạ vì Chúa Giêsu về trời, trao ban tình yêu và sứ mạng là con đường dẫn chúng con đến với Chúa, xin cho chúng con vững tin thi hành lời Chúa trao ban, tin rằng Chúa về để trời dọn chỗ cho chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ĐƯỜNG LÊN TRỜI

Bông hồng nhỏ

Giêsu đã lên trời, trở về với chúa Cha. Người trở về sau khi đã hoàn tất sứ mạng Cha trao phó.Trước khi được rước lên trời, Người đã chỉ bảo cho các Tông đồ những lời sau hết và chúc lành cho các ông.

Chúa Giêsu được rước lên trời, đó là niềm hân hoan và cũng là niềm hy vọng cho mọi tín hữu. Suốt cuộc sống dương thế, Chúa Giêsu đã đi vào trong tận cùng của đau khổ, thiếu thốn. Người xuống nơi sâu thẳm nhất của cõi lòng tan nát và xoa dịu bằng tình yêu không bờ bến cho những con người bị gạt ra bên lề xã hội. Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã là một người nghèo, một người bị đời bội bạc và phụ tình. Đời đã tung hô Người khi đón nhận tình yêu của Người và đời cũng “thẳng tay” phụ bạc khi Người không đi theo đường lối mà họ muốn. Tất cả những gì sách Thánh đã chép về Người đều được ứng nghiệm. Hôm nay khi thời gian ở với các tông đồ đã hết, Người trao ban cho các ông sứ mạng “nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”. Các ông phải trở nên chứng nhân của Chúa Phục Sinh, Đấng đã chịu khổ hình vì tội lỗi nhân loại và đã sống lại để ban tặng niềm hy vọng về sự sống muôn đời. Các tông đồ đã dùng cả cuộc đời và mạng sống mình để hoàn thành sứ mạng Chúa trao. Đang khi chúc lành cho các Tông đồ, Người được rước lên trời Chúa Giêsu vân không ngừng chúc lành cho thế giới mà Ngài không ngường yêu thương. Tình thương của Chúa vẫn trải dài trên cuộc đời ta. Người âm thầm đi vào lịch sử đời ta và cứu chuộc ta ngay trong chính dòng lịch sử của đời ta. Tất cả những gì ta nhận lãnh từ thế hệ đi trước là hồng ân cao quý mà Chúa đã đặt để. Chúa muốn ta được hạnh phúc. Đời ta có ý nghĩa hơn và đáng sống hơn vì ta đặt hy vọng nơi  Chúa. Chúa đã làm cho đời ta nên như lúc này, dù đau khổ hay hạnh phúc tất cả đều mang một ý nghĩa cứu độ . Mỗi ngày ta hãy bước đi trong hân hoan hướng nhìn về trời cao, đón nhận thực tại với niềm tin và hy vọng nơi Đấng đã lamg người, đã chết và sống lại để cứu dộ ta. Đó là cách thức ta trở nên chứng nhân của Chúa cho mọi người.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã lên trời và không ngừng âu yếm cảm thương chúng con. Chúa đã về cùng Chúa Cha và dọn sẵn chỗ cho chúng con. Con đường lên trời đã được vạch rõ mà bất cứ ai cũng có thể bước lên, đó là con đường đón nhận thập giá bản thân, cùng bước đi với Chúa Giêsu vác thánh giá, cùng đóng đinh với người để tình yêu tỏa lan. Xin Chúa giúp chúng con mỗi ngày và ban Đấng Bảo Trợ đến với chúng con. Để nhờ đó, chúng con can đảm “ sống cho những gì cao quý hơn.” Amen.

Về mục lục

.

NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG TA

 Lm. Bosco Dương Trung Tín

  “Phận con người là phải chết một lần rồi sau đó là chịu phán xét” (x.Dt 9,27).

Đức Giê-su cũng là một con người nên Ngài cũng phải chết một lần. Nhưng Ngài đã sống lại và đã lên trời. Vì là Thiên Chúa nữa, nên Ngài không chịu phán xét mà Ngài sẽ phán xét mỗi người chúng ta: “Đức Giê-su, Chúa chúng ta, đã tự hiến tế chỉ một lần để xóa bỏ tội lỗi muôn người. Ngài xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xóa bỏ tội lỗi mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (x. Dt 9,28).

Chúng ta là những người tin vào Chúa và cũng chính là những người trông đợi Chúa đến cứu độ chúng ta. Vậy chúng ta phải gì trong thời gian trông đợi đó? Chẳng lẽ chúng ta cứ đứng nhìn lên trời như các môn đệ sao? Không. Chúng ta sẽ ra sức cố gắng làm việc để được lên trời với Đức Giê-su.

Cụ thể chúng ta sẽ làm gì đây? Việc cụ thể chúng ta làm là: “Chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một tấm lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn; với một tâm hồn đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm và một thân xác đã được tắm gội bằng Nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (x. Dt 10,22-23).

Đấng đã hứa là Đấng trung tín, nên Chúa sẽ xét xử mỗi người chúng ta. Đó là việc sẽ được diễn ra sau khi ta chết, chứ không phải lời nói đùa, nói chơi. Nên chúng ta tin và cố gắng chuẩn bị cho chính mình. Chúa sẽ xét xử từng người, nên chúng ta cố gắng mà sống cho tốt và nếu có bị thiệt thòi hay bị người khác hãm hại thì ta đừng lo, đã có Chúa trả lại sự công bằng cho ta, không có ai chạy đâu cho thoát được. Vì đâu có ai thoát khỏi cái chết đâu, ai cũng phải chết một lần mà. Ai làm tốt và sống tốt thì được thưởng; ai làm xấu và sống gian ác sẽ bị trừng phạt.

Vậy chúng ta hãy đến với Chúa và tin vào Chúa với một tấm lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn; với một tâm hồn đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm và một thân xác đã được tắm gội bằng Nước tinh tuyền. Bằng cách sống Lời Chúa mỗi ngày nhờ Thánh Thần và chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng.

Đức Giê-su nói: “Có lời Thánh Kinh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi thứ ba, từ cõi chết sống lại. Phải nhân Danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (x.Lc 24,46-48).

Chúng ta có hai việc làm để tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta. Một là Rao Giảng; hai là Làm Chứng.

Chúng ta rao giảng gì đây? Chúng ta rao giảng Đức Ki-tô Giê-su đã chịu khổ hình và ngày thứ ba Ngài đã sống lại.

Chúng ta làm chứng cách gì đây? Chúng ta làm chứng bằng chính cuộc sống của mình.

Nghĩa là chúng ta sẽ giống như Đức Ki-tô, chấp nhận những khó khăn, những vất vả, những gian truân; thậm chí cả những lừa lọc, hãm hại trong cuộc sống đời thường cũng như trong đời sống đức tin.

Để dù công việc của chúng ta có bề bộn, chúng ta vẫn cố gắng sắp xếp để ta có thời gian cầu nguyện, gần gũi và gắn bó với Chúa.

Dù ta có nghèo, ít tiền ít của, vừa đủ dùng cho cuộc sống, ta vẫn giữ một tâm hồn chân thật, với một đức tin trọn vẹn; không than trời trách đất; không đua đòi cho “bằng chị bằng em” hay bằng người này người kia mà sống bất công; sống gian ác.Ta có một tâm hồn siêu thoát khỏi đời này.

Dù cuộc sống bây giờ có nhiều cám dỗ: nào là tiền tài; nào là của cải; nào là danh vọng, ta vẫn giữ được một lương tâm trong sạch. Ta sống theo Lời Chúa chứ không sống theo người đời.

Dù thân xác ta có bệnh tật hay ung thư đi nữa, ta hãy chấp nhận và dâng lên cho Thiên Chúa như những hy sinh để đền tội cho mình và cầu nguyện cho gia đình, cho con cháu và cho người khác. Đồng thời, ta phải biết giữ gìn sức khỏe, biết siêng năng làm việc, học hỏi; biết ăn uống điều độ và ngủ nghỉ có giờ có giấc.

Ta đừng có ham làm việc quá mà bỏ qua đời sống thiêng liêng; bỏ đi đời sống cầu nguyện; ta cũng đừng lười lĩnh mà ăn chơi lêu lỏng. Ta phải có sự quân bình, đừng làm quá cũng đừng chơi quá. Ta phải có một thời khóa biểu riêng cho chính mình, giờ nào việc đó. Điều đó sẽ giúp ta tận dụng những thời giờ quí báu Chúa ban cho ta khi sống trên đời này mà không lãng phí.

Vì ta biết rằng ta sống ở đời này chỉ một lần; chết một lần; sau đó là chịu phán xét. Phán xét rồi, một là ta được lên thiên đàng, nếu ta sống tốt; hai là ta sẽ phải vào luyện ngục, nếu chưa đền xong. Ở luyện ngục lâu hay mau là do việc ta cố gắng ở đời này.Đó là nói về việc linh hồn của ta, sau khi ta chết.

Còn đến ngày sau hết, thân xác của ta sẽ sống lại mà hợp với linh hồn của ta. Lúc này thì chỉ có hai con đường. Một là lên thiên đàng sống đời đời với Chúa; hai là xuống hỏa ngục sống mãi mãi với ma quỉ.

Vậy mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, chúng ta càng thêm tin tưởng vào Chúa để sống đức tin của mình. Ta không chỉ nhìn trời mà còn tích cực chuẩn bị ngay từ bây giờ để ta có thể lên trời, bằng cách rao giảng và sống chứng nhân. Chắc chắn với sự cố gắng liên lỉ và mỗi ngày, ta tiến lại gần Chúa với “một tấm lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn; với một tâm hồn đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm và một thân xác đã được tắm gội bằng Nước tinh tuyền”, khi chúng ta chết, linh hồn ta sẽ về với Chúa và chịu phán xét, chúng ta được cứu độ, được vào Nước Trời và ngày sau hết thân xác chúng cũng sẽ được sống lại, mà cùng với linh hồn sống đời đời với Chúa trên thiên đàng.

Đó là niềm tin của chúng ta. Đó là niềm hy vọng của chúng ta và đó là niềm vui và hạnh phúc của chúng ta.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊ-SU VỀ TRỜI DỌN CHỖ CHO CHÚNG TA

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Ai trong chúng ta cũng từng được nghe biết Cristoforo Colombo. Ông là nhà thám hiểm đầu tiên phát hiện ra Châu Mỹ vào năm 1492 (cách đây 527 năm). Bấy giờ, ông được vua Tây Ban Nha cung cấp 3 chiếc thuyền buồm và thủy thủ đoàn gồm 88 người tìm cách vượt qua Đại Tây Dương để đi Ấn Độ, không ngờ ông lại phát hiện ra Châu Mỹ nằm ngay trên hành trình của mình.

Colombo và thủy thủ đoàn khởi hành từ Tây Ban Nha ngày 3 tháng 8 năm 1492 và sau một cuộc hải hành gian lao vất vả trên Đại Tây Dương kéo dài suốt 2 tháng 9 ngày, vào ngày 12 tháng 10 năm 1492, Colombo đã phát hiện ra châu Mỹ, một miền đất chưa từng được biết đến nên người ta gọi đây là Tân thế giới.

Trong những thế kỷ tiếp theo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Vương Quốc Anh, Pháp cũng như các cường quốc châu Âu khác, đã đổ xô đến miền đất trù phú này lập nghiệp, xây dựng nên nhiều quốc gia lớn mạnh như ta thấy hiện nay, đặc biệt là Hoa Kỳ và Canada.

Sự kiện nhà thám hiểm Cristoforo Colombo phát hiện ra Châu Mỹ, khai lối mở đường cho các dân các nước Châu Âu và nhiều nơi khác trên thế giới tuôn đến định cư lập nghiệp ở đó gợi cho chúng ta nhớ đến một sự kiện khác lớn lao và quan trọng hơn nhiều, đó là sự kiện Chúa Giê-su lên trời để khai lối mở đường cho nhân loại bước vào Vương quốc thiên đàng.

Chúa Giê-su lên trời không phải để rời xa chúng ta, nhưng Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta như lời Ngài nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em… Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 2-3).

Thế là từ ngày Chúa Giê-su lên trời vinh hiển, cửa trời đã được mở ra, Vương quốc vĩnh cửu vô biên đã được dọn sẵn để đón nhận muôn dân muôn nước vào hưởng phúc đời đời và Thiên Chúa không ngớt mời gọi muôn dân vào chung hưởng hạnh phúc thiên đàng.

Tuy nhiên, Thiên Chúa đã ban cho con người tự do và Thiên Chúa tôn trọng tự do của họ đến cùng. Vì thế, Thiên Chúa không lôi kéo, không ép buộc, không xô đẩy bất cứ ai vào thiên đàng, nhưng để cho mỗi người tự do chọn lựa, Ngài chỉ mời gọi thôi.

Chúa Giê-su tha thiết mời gọi chúng ta đến Vương quốc thiên đàng như sau: “Nào, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúchãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thuở tạo thiên lập địa…”(Mt 25,31-46).

Và liền theo sau lời mời gọi này, Chúa Giê-su cũng chỉ cho ta con đường dẫn vào thiên quốc. Con đường đó là sống yêu thương, phục vụ và cứu giúp những người bất hạnh chung quanh ta như Ngài nói: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”.

Vậy thì bao lâu chúng ta sống yêu thương, đùm bọc, cứu giúp… người khác như là cho người đói ăn, thăm viếng người đau yếu, cứu giúp người bất hạnh… là chúng ta đang đi trên đường mà Chúa Giê-su đã vạch để tiến vào Vương quốc thiên đàng. Bấy giờ, cửa thiên đàng rộng mở cho chúng ta.

Ngược lại, bao lâu chúng ta không quan tâm, không cứu giúp người bất hạnh chung quanh là chúng ta đang đi trên đường đưa xuống hỏa ngục đau khổ muôn đời. Bấy giờ, lời cảnh báo của Chúa Giê-su sẽ được áp dụng cho chúng ta: “Hỡi quân bị nguyền rủa kia, hãy đi khuất mắt Ta mà vào trong hỏa ngục… Vì các ngươi chẳng màng quan tâm cứu giúp Ta…”

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa đã chấp nhận chịu khổ nạn, chịu chết ô nhục rồi sống lại và lên trời vinh hiển là để khai lối mở đường cho chúng con vào Vương quốc vô biên.

Xin giúp chúng con vững bước theo con đường Chúa đã vạch để tiến về quê trời là con đường bác ái yêu thương, để mai đây chúng con được chung hưởng vinh quang hạnh phúc muôn đời với Chúa.

Về mục lục

.

NHÌN VỀ TRỜI RỒI NHÌN VÀO TRÁI ĐẤT

JM. Lam Thy

Vào buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên (13/5/2018), tại cửa sổ dinh Tông Tòa Rô-ma, trước hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương, ĐTC Phan-xi-cô đã ban huấn dụ. Mở đầu bài huấn dụ, ngài nói: “Hôm nay tại Italia cũng như mọi nước khác là lễ trọng mừng Chúa lên Trời. Lễ này bao gồm hai yếu tố: Một đàng nó hướng cái nhìn của chúng ta về Trời, nơi Chúa Giê-su vinh hiển ngự bên hữu Thiên Chúa Cha (x. Mc 16, 19). Đàng khác, nó nhắc nhớ chúng ta việc khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Tại sao? Bởi vì Chúa Giê-su Phục sinh và lên Trời gửi các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng trên toàn thế giới. Vì thế lễ Thăng Thiên khích lệ chúng ta hướng nhìn về Trời để rồi lập tức nhìn vào trái đất và thực thi các nhiệm vụ Chúa Phục Sinh tín thác cho chúng ta.” (Wikipedia)

Lễ Thăng Thiên đánh dấu việc Chúa Giê-su trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (Ga 3, 13). Sự kiện này nói lên việc nhân tính của Đức Ki-tô tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (Ga 16, 28; 17, 5), đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Người ở trần gian; đồng thời khởi đầu sứ mệnh của Giáo hội. Vào chính ngày Phục Sinh, thân xác vinh quang của Chúa Giê-su được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha”. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Lu-ca, sau khi phục sinh, Chúa Giê-su còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giê-su dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, hoàn tất việc giảng dạy các môn đệ, củng cố niềm tin và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Với biến cố thăng thiên, Chúa Giê-su không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo hội cho đến ngày tận thế (Mt 28, 20) theo phương cách mới (theo quyền năng của Chúa Thánh Thần) với tư cách là Chúa của vũ trụ (Pl 2, 10-11).

Suy niệm bài Tin Mừng tuần trước (CN VI/PS-C – Ga 14, 23-29) trình thuật việc Đức Giê-su cáo biệt các môn đệ, chính thức bước vào cuộc khổ nạn. Trong những lời cáo biệt đó, có một câu khó hiểu: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Đang ở cùng các môn đệ, Đức Giê-su ra đi tức là rời khỏi các môn đệ để đến một nơi khác, vậy thì làm sao mà “đên cùng anh chị em”? Hôm nay (CN VII/PS-C), cả 3 bài đọc đều chung một chủ đề: Chúa lên trời. Với “Những lời chỉ bảo sau hết cho các Tông Đồ” (Lc 24, 44-49), lại một lần nữa Đức Giê-su nói một cách khó hiểu. Vừa mới nói “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, thì ngay lập tức “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”. Cái mâu thuẫn của hiện tượng này khiến các Tông đồ cứ mải miết “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”.

Hành động “đăm đăm nhìn lên trời” của các môn đệ biểu lộ một tâm trạng hoang mang lo sợ, vì chưa hiểu rõ việc Chúa về trời. Sở dĩ vậy, vì cho đến giờ phút này các môn đệ vẫn còn bán tín bán nghi (“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” – Mt 28, 17) đối với Người Thầy luôn có những Lời dạy khó hiểu. Thực thế, nếu chỉ với đầu óc bất toàn của con người thì làm sao có thể hiểu ngay được những Lời Người dạy, chẳng hạn như: “Một môn đệ khác thưa với Người: ‘Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã’. Đức Giê-su bảo: ‘Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.” (Mt 8, 21-22), “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” (Mt 10, 34-36).

Trước đó không lâu, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã từng báo trước biến cố Chúa Lên Trời cho các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh  em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 1-3). Vậy mà khi nghe Thầy nói “Và Thầy đi đâu thì anh  em biết đường rồi” (Ga 13, 3) thì Phê-rô, Tô-ma, Phi-lip-phê, Giu-đa (không phải Giu-đa It-ca-ri-ốt) đã thi nhau nêu thắc mắc về con đường Chúa sẽ đi, về Chúa Cha, kể cả việc “tỏ mình ra” của Thầy (Ga 14, 4-10).

Tâm lý thông thường của con người là vậy, luôn sống bằng và sống với giác quan: Phải nhìn thấy tỏ tường (thị giác), nghe thấy rõ ràng (thính giác), sờ mó cầm nắm được (xúc giác), biết được mặn nhạt (vị giác), ngửi được mùi hương (khứu giác). Điều này cũng chẳng có gì đáng trách. Do đó, Thầy vừa nói Thầy sẽ ở với mình luôn mãi, thì ngay sau đó Thầy lại đi mất hút, bảo sao khỏi ngỡ ngàng, hụt hẫng, nếu không muốn nói là đau đớn, buồn rầu, hoang mang lo sợ. Chính vì thế nên các môn đệ chỉ lo nhìn lên theo bóng Thầy, với tâm trạng vừa hoài nghi, vừa chán nản, chẳng còn tin tưởng vào đâu đựoc nữa. Niềm tin lại một lần nữa bị thử thách, khiến các ngài quên mất những điều Thầy vừa truyền dạy. Cũng vì biết rõ con người là thế, nên Thiên Chúa đã phải sai thiên sứ đến cảnh tỉnh: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 11).

Từ đó, các Tông đồ mới bình tâm trở lại và nhờ Đức Ki-tô “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24, 45) nên hiểu ra: Chúa Giê-su lên trời không có nghĩa là Người đã kết thúc sứ mệnh, mà chỉ là chuyển đổi sang một giai đoạn mới – giai đoạn cần sự tiếp tay cộng tác của các môn đệ – và vì thế Người mới dạy: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 3), “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Thời gian Chúa Giê-su hoạt động với tư cách Thiên-Chúa-làm-người đã mãn, để bắt đầu từ bây giờ Người sẽ hoạt động bằng Thần Khí của Thiên Chúa. Sứ mệnh tại thế của Chúa Giê-su là Nhập Thể, rao giảng Tin Mừng, “phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”. Biến cố Lên Trời mở ra một giai đoạn mới, tiếp tục những gì Người đã thực hiện trong những năm tháng “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14).

Trong giai đoạn mới này, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ cộng tác. Sứ mệnh Người trao cho họ gồm hai việc: *a)- Rao giảng cho thế giới biết Tin Mừng Cứu Độ Người đã thực hiện cho nhân loại (“Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” – Lc 24, 46-47); *b)- Làm chứng nhân cho Người và cho những giá trị Tin Mừng (“Chính anh em là chứng nhân về những điều này” – Lc 24, 48). Để thi hành sứ vụ cao quý này, các môn đệ được Chúa sai đi cần phải có hành trang. Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai đến với nhân loại và hành trang của Người là Thần Khí Tình Yêu. Giờ đây, Người sai môn đệ đi và hành trang của họ cũng phải là Ngọn Lửa Yêu Thương của Thần Khí Sự Thật. Người bảo họ cứ ở lại Giê-ru-sa-lem một thời gian ngắn và họ sẽ được lãnh nhận Thánh Thần làm hành trang cho hành trình thi hành sứ vụ.

Về vấn đề trước khi về trời, Đức Giê-su trao phó sứ vụ của Người cho các môn đệ, Thánh Au-gus-ti-nô đã nói một câu chí lý: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài”. Thật thế, khi Đức Giê-su Thiên Chúa vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, nếu chỉ một mình Người “đơn thương độc mã” thi hành sứ vụ thì chắc chắn không có kết quả hoặc nếu có thì cũng chẳng là bao. Vẫn biết với quyền năng vô hạn, Người chỉ phán một lời là loài người được cứu rỗi; nhưng như thế thì nhân loại vẫn chìm trong u tối vì chưa được “vén tấm màn lên” (mạc khải), chẳng hiểu được công trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người. Thiên Chúa rất cần sự cộng tác đắc lực của những “kẻ tin” mà tiên khởi là các vị Tông đồ vậy.

Đến như việc làm chứng nhân cho Người cũng là một yếu tố hết sức quan trọng, bởi với loài người thì bất cứ một công việc, một sự kiện gì cũng đòi phải được thực mục sở thị, được đụng vào hay cầm nắm, hoặc ít ra cũng phải được nghe một nhân chứng sống đáng tin cậy thì mới chịu tin. Cái kiểu đòi trông thấy nhãn tiền “dấu đinh ở tay Người”, được “xỏ ngón tay vào lỗ đinh” và “đặt bàn tay vào cạnh sườn Người” như Tô-ma, thì nhan nhản khắp nơi. Thấu hiểu tận chân tơ kẽ tóc lòng dạ con người là như vậy, nên Đức Giê-su mới đòi các môn đệ và rộng ra là các Ki-tô hữu không chỉ rao giảng mà còn phải làm chứng cho Tin Mừng. Vâng, “người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe theo thầy dạy là vì các thầy dạy ấy cũng là những chứng nhân.” (Thông điệp Loan Báo Tin Mừng “Evangelii Nuntiandi”, số 41).

Công cuộc rao giảng và làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ cũng ví như “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần gian” (“Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” – Mt 5, 13-14). Tuy nhiên “muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi… Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” – Mt 5, 13-16). Rõ ràng việc “rao giảng” và “làm chứng” tuy hai mà một, việc rao giảng chỉ đạt hiệu quả khi có chứng liệu cụ thể, mà chứng liệu thuyết phục nhất cũng chính là bản thân người rao giảng. Nói cách cụ thể, người rao giảng phải “lời nói đi đôi với việc làm”, tất cả cuộc sống phải làm chứng cho lời mình rao giảng.

Tóm lại, một lần nữa Thiên Chúa lại mạc khải cho các môn đệ, và nói chung là cho loài người hiểu được mầu nhiệm cứu chuộc thông qua những hiện tượng trong biến cố Lên Trời của Đức Giê-su Ki-tô. Đồng thời, để mời gọi con người cộng tác bằng cách “dùng sự bất toàn của con người để công bố Lời Toàn năng, dùng miệng lưỡi nhơ uế của con người để nói Lời Chí thánh”. Ấy cĩng bởi vì “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.” (Dt 4, 12-13).

Người Ki-tô hữu ngày hôm nay đừng “đăm đăm nhìn lên trời” nữa, mà hãy nhìn xuống bản thân mình để thấy được “Tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8, 33), từ đó cầu xin Chúa Thánh Thần dạy dỗ và hướng dẫn, ngõ hầu có đủ hiểu biết và can đảm dấn thân trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân cho Nước Trời vĩnh cửu. Không “đăm đăm nhìn lên trời” như các Tông đồ thủa xưa; nhưng hãy “hướng nhìn về Trời để rồi lập tức nhìn vào trái đất và thực thi các nhiệm vụ Chúa Phục Sinh tín thác cho chúng ta.” như lời dạy của Đức Giáo hoàng (-nt-). Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thăng Thiên).

Về mục lục

.

 

 

MỘT KHỞI ĐẦU MỚI

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khi nói đến lễ Chúa Giêsu lên trời hay lễ Thăng Thiên, chúng ta thường chỉ nghĩ đó là  thời điểm kết thúc sứ mạng cứu chuộc của Chúa Giêsu. Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin Mừng, lại quy hướng chúng ta về với một khởi đầu mới, trong lạc quan và hy vọng. Không phải vô cớ mà cả ba bài Tin Mừng cho chu kỳ ba năm A,B,C đều là những đoạn kết của các Tin Mừng nhất lãm. Đây là những kết “mở”, dẫn chúng ta sang một khởi đầu mới.
 
Trước hết, đó là khởi đầu của sứ mạng truyền giáo được Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ. Sứ mạng này có điểm xuất phát là Giêrusalem, là thành thánh và là trung tâm của Do Thái giáo. Sứ điệp mà các môn đệ được trao phó là lời kêu gọi sám hối. Chúng ta hãy nhớ lại, đây cũng là nội dung lời rao giảng đầu tiên khi Chúa Giêsu khởi sự loan báo Tin Mừng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!”. Có điều khác biệt là bây giờ Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mà Người hiện diện qua các chứng nhân. “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”. Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.
 
Tuy Chúa Giêsu không hiện diện thể lý giữa các môn đệ, Người lại hứa ban cho các ông “quyền năng từ trời cao ban xuống”. Quyền năng này là Chúa Thánh Thần. Vậy, đây là khởi đầu của một thời đại mà Thiên Chúa tuôn đổ Thần Khí của Ngài trên mọi tạo vật, để hướng dẫn và thánh hoá mọi xác phàm, nhất là những môn đệ. Điều này đã được thực hiện vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đệ đang cầu nguyện xung quanh Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. “Quyền năng từ trời cao” đã biến đổi các ông, ban cho các ông sức mạnh và nghị lực, nhờ đó, các ông không còn sợ hãi, mạnh dạn mở tung các cửa và can đảm rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh.
 
Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ông đã lên đường. Đây là cuộc chia tay với Thày, đồng thời cũng là khởi đầu một cuộc lên đường mới. Tác giả Tin Mừng Luca diễn tả: “Các ông trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Sứ điệp mà các ông lãnh nhận để rao giảng phát xuất từ Giêrusalem, nơi có Thiên Chúa hiện diện theo quan niệm của người Do Thái. Từ nơi này, ánh sáng Lời Chúa lên đường cùng với các ông, với tư cách là nhân chứng của Đấng Phục sinh, để chiếu toả đến tận cùng thế giới. Lời căn dặn của Chúa được ghi trong sách Tông đồ Công vụ còn cho thấy “không gian” của sứ vụ tông đồ rất rộng lớn bao la: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thày tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
 
Tác giả sách Công vụ Tông đồ, cũng là Thánh Luca, là một nhân chứng mắt thấy tai nghe, giờ phút chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Sau những lời căn dặn, Chúa Giêsu đã lìa họ mà về trời cao. Tác giả dùng chữ “được cất lên”, cùng với chi tiết đám mây bao phủ. Trong truyền thống Cựu ước, đám mây là yếu tố diễn tả các cuộc “thần hiện” của Đức Giavê (x. Xh 13,21-22); của Con Người (x. Dn7,13). Đức Giêsu, mặc dù vắng bóng, vẫn luôn luôn hiện diện trong Giáo Hội. Như vậy, cuộc “lại đến” của Chúa được các sứ thần áo trắng diễn tả, không phải là một cuộc trở lại, nhưng đúng hơn, là sự tỏ mình lần cuối để minh chứng sự hiện diện ấy.
 
Xem ra có mấy vị trong số các tông đồ vẫn còn quan niệm lệnh lạc về sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu. Vì vậy mà họ hỏi Chúa: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?“. Xưa cũng như nay, độc giả không khỏi ngỡ ngàng trước câu hỏi đó. Thế mới thấy rằng để canh tân tư duy và quan niệm của con người không phải là điều dễ dàng. Bốn mươi ngày sau biến cố Phục sinh, các ông đã nhiều lần gặp Chúa, mà quan niệm về Đấng Thiên sai của các ông vẫn chưa thay đổi. Trước sự tăm tối của lòng trí con người, tác giả Thư Do Thái khích lệ chúng ta “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Bài đọc II).
 
Mười ngày sau lễ Thăng Thiên, Mùa Phục sinh sẽ khép lai. Như đã nói ở trên, Lễ Thăng Thiên không phải hồi kết thúc nhưng là một khởi đầu mới cho sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa của mỗi chúng ta, với tư cách là tín hữu. “Không ai cho người khác cái mình không có”, chúng ta chỉ có thể trở thành chứng nhân can đảm của Chúa Giêsu, một khi chúng ta vững niềm xác tín nơi Người, nhận ra sự hiện diện của Người trong đời sống chúng ta. Lễ Thăng Thiên cũng nhắc cho chúng ta, quê hương đích thật của chúng ta là trên trời. Chúa Giêsu đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Tin yêu và gắn bó với Người ở đời này, chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau.
 
Hãy cùng nhau lên đường trong hân hoan hy vọng, vì Chúa Phục sinh ở cùng với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế!

Về mục lục

.

NIỀM HY VỌNG NƯỚC TRỜI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.

Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.

Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.

Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.

Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.

Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.

Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.

Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
  2. Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
  3. Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?

Về mục lục

.

QUÊ HƯƠNG CHÚNG TA LÀ QUÊ TRỜI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay mừng Chúa lên Trời, vâng, toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong… “. Và sau đó ” Người lên Trời ” (x. Cvtđ 1, 1- 11).

Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha“. Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria, Mẹ Người, các môn đệ và nhất là tâm sự với các nhiều điều trước khi về Trời.

Chúa về Trời, làm cho các Tông đồ nhớ lại “nhiệm vụ” đã được giao phó: “Các con là nhân chứng về những sự việc ấy” (Lc 24,48). Nhiệm vụ  được ủy thác từ đây, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.  Lời Chúa nói với các ông : “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần (…). và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy …cho đến tận cùng trái đất“(Cv 1,8). Lời ấy vẫn còn rất thời sự và thật cấp bách, tiếp tục vang lên cách mạnh mẽ trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Ðây là lệnh truyền chứ không phải là lựa chọn. Hết thảy mọi người, mọi cộng đoàn, mọi dòng tu đều phải ra đi để làm chứng cho Chúa.

Chúa về Trời, Vinh quang Ba Ngôi được hiển hiện

Biến Cố Chúa Lên Trời là một thể hiện Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi; một sự thể hiện chỉ cho chúng ta biết cùng đích cho cuộc hành trình của cá nhân và vũ trụ. Mặc dù thể xác con người sẽ trở về bụi đất, nhưng trọn cả “chủ thể được cứu chuộc” bước theo Chúa Kitô mà về cùng Chúa Cha.

Trong lời chào từ biệt của Chúa Kitô Phục Sinh với các tông đồ, chúng ta nhận ra trước hết chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa Cha, Ðấng đã loan báo trong Kinh Thánh về cái chết và sống lại của Chúa Con, nguồn mạch của sự tha thứ và giải thoát. Và cũng trong những lời mà Chúa Kitô Phục Sinh nói ra, chúng ta nhận thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nguồn sức mạnh và là chứng tá cho các Tông đồ. Như thế, trọn cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều hiện diện trong chính giây phút Giáo hội được khai sinh.

Chúa về Trời, niệm hy vọng của chúng ta

Sau khi đã thân hành xuống thế, đi vào lịch sử của con người, bước vào trong bóng sự chết, Chúa Giêsu đã phục sinh và trở về trong vinh quang mà từ thuở đời đời Người đã có với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, hầu đưa nhân loại đã được cứu chuộc về với Chúa.

Nay Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x.Bài giảng lễ Thăng Thiên). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, ” Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Giêsu ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.

Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời. 

Lạy Nữ Vương Thiên Ðàng, chúng con xin Mẹ bảo vệ và gìn giữ chúng con là con cái Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng con cũng được về Trời với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

TƯƠNG LAI TỐT ĐẸP

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

  1. Viễn tượng tương lai

Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói: Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.

Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn.

Người thứ hai mang về một viên ngọc quý.

Người thứ ba trở về tay không. Ngạc nhiên vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu? Anh điềm tĩnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia môt vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Tù trưởng nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp, đó là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.

  1. Chúa Giêsu Lên Trời

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).

Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ : “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai ? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai ? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.

Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính…đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.

Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” (Tv 47, 2-3, 6-9).

Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.

  1. Hiện diện mới

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. 

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “ Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

  1. Trao Sứ Vụ

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ.  Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. 

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Các Tông Đồ lên đường truyền giáo, cộng đoàn Giáo Hội được thiết lập và những bước chân không mệt mỏi của người loan báo Tin Mừng đã làm nên lịch sử Giáo Hội. Có truyền giáo là có truyền thông, và bởi vì có truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1Ga1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo. Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.

Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngày nay các phương tiện truyền thông hiện đại, vốn là một phần thiết yếu của cuộc sống, cách riêng đối với những người trẻ” (Sứ điệp Truyền thông 49). Trong Sứ điệp Truyền thông 50, ngài viết: “Truyền thông có sức mạnh bắc những nhịp cầu, thúc đẩy gặp gỡ và hoà nhập, làm cho xã hội được phong phú. Đẹp biết bao khi thấy mọi người thận trọng lựa lời và cử chỉ, để vượt qua những hiểu lầm, để chữa lành những ký ức đau thương và xây dựng hoà bình và hoà hợp. Lời nói có thể bắc những nhịp cầu nối giữa các cá nhân, các gia đình, các nhóm xã hội và các dân tộc với nhau. Điều này là có thể được, cả trong thế giới vật chất và thế giới kỹ thuật số… Email, tin nhắn, mạng xã hội và trò chuyện cũng có thể là những hình thức truyền thông đầy tính nhân văn. Không phải là công nghệ xác định truyền thông có xác thực hay không, mà là trái tim con người và khả năng của con người biết sử dụng một cách khôn ngoan các phương tiện sẵn có. Các mạng xã hội có thể giúp cho những mối tương quan được dễ dàng và thúc đẩy thiện ích của xã hội”.

Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.

Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.

Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” (Sứ điệpTruyền thông 50). Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.

Về mục lục

.

HƯỚNG LÒNG VỀ THƯỢNG GIỚI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà 

Khi con người chỉ biết nhìn xuống…

Người phụ nữ có biệt danh là ‘bà Năm khòm’ đã trở thành nhân vật quá quen thuộc đối với những ai hay lui tới công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người ta thấy bà lầm lũi cúi gập người xuống để tìm nhặt những đồng tiền lẻ mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó trong công viên. Hình như nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập tương đối khá, nên ngày nào bà cũng khom người xuống và căng mắt tìm kiếm miệt mài như con kiến cần cù chăm chỉ nhất.

Vì ngày nào bà cũng cúi gập người xuống, đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn sát mặt đất để tìm kiếm những đồng tiền rơi nên rốt cuộc, cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa. Vì thế, người dân quanh đó gán cho bà biệt danh là “bà Năm khòm.”

Thế là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền lẻ mà chẳng biết gì đến thế giới bao la muôn màu muôn vẻ chung quanh!

Hình ảnh người đàn bà còng lưng trong mẩu chuyện trên đây là biểu tượng cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà không màng gì đến thế giới thiêng liêng.

Nếu không được ánh sáng phục sinh và cuộc thăng thiên vinh hiển của Chúa Giê-su soi sáng, con người chỉ có thể thấy gần mà không thể thấy xa; chỉ biết chú mục vào cuộc sống phù du đời nầy mà lãng quên cuộc sống mai sau; chỉ biết vun quén của cải vật chất tạm bợ trần gian mà không lo tích lũy cho kho tàng vĩnh cửu; chỉ biết kiếm tìm lạc thú chóng qua mà lãng quên hạnh phúc trường cửu muôn đời…

Nếu không được ánh sáng phục sinh chiếu dọi, con người dễ dàng ngoảnh mặt với Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng liêng!

Họ xem mặt đất nầy là quê hương duy nhất. Họ xem nấm mồ như điểm đến cuối cùng của cuộc sống, như nhận định của thi hào Nguyễn Du:

“Trăm năm còn có gì đâu

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.”

 

Hãy ngước nhìn lên                                               

Sự kiện Chúa Giê-su lên trời mở ra cho loài người một viễn tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên. Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ tối tăm nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.

Như ấu trùng ve sầu chui ra khỏi những lớp đất tăm tối, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để đón chào thế giới mới, cất tiếng ca vang dưới ánh nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi vượt lên trên thế giới hữu hình, phá bỏ lớp vỏ vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành tạo vật mới, sống một đời sống mới.

Thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta hãy hướng về đích xa:

“Quê hương chúng ta ở trên trời” (Phi-lip 3, 20).

Thế nên: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.” (Col 3, 1-4) và “đừng chú tâm đến những sự vật hữu hình nhưng đến những thực tại vô hình, vì những sự vật hữu hình là phù vân, vô hình mới trường cửu” (2 Cr 4, 18 ).

Sự kiện Chúa Giê-su lên trời kêu gọi chúng ta hướng về đích cao: đừng chỉ lo phần xác mà quên mất phần hồn, không chỉ biết đời nầy nhưng còn phải chuẩn bị cho đời sau.

Chỉ cúi nhìn xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời là đánh mất cuộc sống.

 

Lạy Chúa Giê-su,

Sau cuộc khổ hình đầy đau thương và bi thảm, Chúa đã được phục sinh vinh hiển và lên trời trong vinh quang.

Xin cho biến cố trọng đại này nhen lên trong lòng chúng con niềm hy vọng lớn lao là:  Nếu hôm nay chúng con thực thi lời Chúa mỗi ngày, thì mai đây chúng con sẽ cùng được phục sinh vinh hiển như Chúa.

Về mục lục

.

ĐỊNH HƯỚNG

Trầm Thiên Thu

Định hướng là việc cần làm trong cuộc sống. Lĩnh vực nào cũng cần được định hướng đúng đắn để khả dĩ có kết quả tốt nhất. Về tâm linh, Chúa Giêsu đã định hướng cho những ai muốn thuộc về Ngài: “Chính Thy là con đường, là s tht và là s sng. Không ai đến vi Chúa Cha mà không qua Thy (Ga 14:6). Đặc biệt hơn, Ngài định hướng sống cho chúng ta qua Điều Răn Mới: Yêu thương nhau (Ga 13:34-35; Ga 15:12 và 17). Thật kỳ lạ là yêu thương khả dĩ “che phủ muôn vàn tội lỗi” (1 Pr 4:8).

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã định hướng cách sống cho chúng ta để chúng ta cố gắng sống tốt, chờ Ngài trở lại đón chúng ta. Ngài về trời trước để dọn chỗ cho chúng ta (Ga 14:2-3), nhưng Ngài vẫn ở bên chúng ta cho tới tận thế (Mt 28:20).

Chúa Giêsu về trời, chúng ta ở lại. Đó là cuộc chia tay đầy ý nghĩa. Tất nhiên cuộc chia tay nào cũng đầy lưu luyến, bịn rịn, đôi khi còn buồn thảm. Nhưng cũng có những cuộc chia tay khiến người ta vui mừng và hy vọng, đặc biệt nhất là cuộc chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ vào ngày Ngài về trời. Chúng ta vui mừng và hy vọng, không hề mồ côi, vì chính Ngài đã hứa: “Đng Bo Tr là Thánh Thn Chúa Cha s sai đến nhân danh Thy, Đng đó s dy anh em mi điu và s làm cho anh em nh li mi điu Thy đã nói vi anh em (Ga 14:26).

Vương Quốc Thiên Chúa không phải ở thế gian này, nhưng người ta lại tưởng Chúa Giêsu là nhà cách mạng lỗi lạc, chính trị gia đại tài, đang tìm cách khôi phục vương quốc trần gian. Do đó, người ta đã hỏi dò Ngài: “Thưa Thy, có phi bây gi là lúc Thy khôi phc vương quc Ít-ra-en không? (Cv 1:6). Nhưng Ngài đã thẳng thắn xác định: “Anh em không cn biết thi gikỳ hn Chúa Cha đã toàn quyn sp đt, nhưng anh em s nhn được sc mnh ca Thánh Thn khi Người ng xung trên anh em. By gi anh em s là chng nhân ca Thy ti Giêrusalem, trong khp các min Giuđê, Samari và cho đến tn cùng trái đt (Cv 1:7).

Vừa nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt họ, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn, không biết vì tiếc Chúa hay tiếc cảnh lạ nữa. Đang lúc họ còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi mất hút, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hi nhng người Galilê, sao còn đng nhìn lên tri? Đc Giêsu, Đng va lìa b các ông và được rước lên tri, cũng s ng đến y như các ông đã thy Người lên tri (Cv 1:11). Hoàn hồn. Nhéo tay thấy vẫn đau lắm.

Quả thật là lạ lùng và kỳ diệu, phàm ngôn không thể diễn tả! Nói cho ngay thì cũng thấy buồn khi Ngài đi xa, nhưng chúng ta vẫn tràn trề hy vọng, vì chúng ta không hề bị bỏ rơi, không như kẻ lang thang vô định. Như Ngài nói, Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta, và Ngài còn gởi Chúa Thánh Thần đến nâng đỡ chúng ta từng ngày. Lợi ích nhân đôi đấy!

Thật là vui mừng, và trong niềm hy vọng đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “V tay đi nào, muôn dân hi! Mng Thiên Chúa, hãy ct tiếng hò reo! Vì Đc Chúa là Đng Ti Cao, Đng kh uý, là Vua C thng tr khp đa cu (Tv 47:2-3). Thật hạnh phúc khi chúng ta được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa như vậy.

Niềm vui mừng nối tiếp, niềm hy vọng được kéo dài và lan tỏa: “Thiên Chúa ng lên, rn rã tiếng hò reo, Chúa ng lên, vang di tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca na kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi đa cu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyt m. Thiên Chúa là Vua thng tr chư dân, Thiên Chúa ng trên toà uy linh cao c (Tv 47:6-9).

Rất rạch ròi, Thánh Phaolô cho biết: “Đc Kitô đã chng vào mt cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh y ch là hình bóng ca cung thánh tht. Nhưng Người đã vào chính cõi tri, đ gi đây ra đng trước mt Thiên Chúa chuyn cu cho chúng ta. Người vào đó, không phi đ dâng chính mình làm ca l nhiu ln, như v thượng tế mi năm phi đem theo máu ca loài khác mà vào cung thánh (Dt 9:24-25).

Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Người đã phi chu kh hình nhiu ln, t khi thế gii được to thành. Nhưng nay, vào k kết thúc thi gian, Người đã xut hin ch mt ln, đ tiêu dit ti li bng vic hiến tế chính mình. Phn con người là phi chết mt ln, ri sau đó chu phán xét. Cũng vy, Đc Kitô đã t hiến tế ch mt ln, đ xoá b ti li muôn người. Người s xut hin ln th hai, nhưng ln này không phi đ xoá b ti li, mà đ cu đ nhng ai trông đi Người” (Dt 9:26-28).

Vì vậy, “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh” (Dt 10:19). Chúng ta vô cùng hạnh phúc vì được Chúa trao ban cho quyền đó, dù chúng ta hoàn toàn bất xứng. Và còn hơn thế nữa, chính “Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa” (Dt 10:20-21). Vì thế, Thánh Phaolô căn dặn chúng ta: “Hãy tiến li gn Thiên Chúa vi mt lòng chân thành và mt đc tin trn vn, vì trong lòng đã được ty sch mi vết nhơ ca lương tâm, còn ngoài xác đã được tm ra bng nước tinh tuyn. Hãy tiếp tc tuyên xưng nim hy vng ca chúng ta cách vng vàng, vì Đng đã ha là Đng trung tín (Dt 10:22-23).

Sống đức tin và thực thi lòng thương xót là việc làm cần thiết, nhưng phải kiên trì và không ngừng canh tân. Thật vậy, có thể nói rằng sống đức tin là mối phúc thứ 9 mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Phúc thay nhng người không thy mà tin! (Ga 20:29). Về phương diện này, chúng ta phải cảm ơn Tông Đồ Thomas, vì nếu lòng tin của ông cũng “mềm” như người khác thì làm gì có mối phúc này!

Sống đức tin là thể hiện đức tin một cách sống động và cụ thể. Sống đức tin là sống đạo, chứ không chỉ dừng lại ở việc giữ đạo hoặc chỉ giới hạn từ cửa nhà thờ vào phía trong. Giữ đạo thì không khó, có thể nói là dễ, nhưng sống đạo thì không dễ chút nào và phức tạp lắm, cần phải thực sự can đảm và dứt khoát.

Chúa Giêsu nói: “Có li Kinh Thánh chép rng: Đng Kitô phi chu kh hình, ri ngày th ba, t cõi chết sng li; phi nhân danh Người mà rao ging cho muôn dân, bt đu t Giêrusalem, kêu gi h sám hi đ được ơn tha ti (Lc 24:46-47). Chẳng có niềm hạnh phúc nào mà vắng bóng đau khổ, chẳng có niềm vui nào thiếu khoảng buồn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà còn chịu đau khổ đến tột cùng mới có thể vinh thắng, thế thì chúng ta không thể không đau khổ khi sống đạo.

Sống đạo là làm chứng về Đức Kitô, về Tình Yêu của Thiên Chúa, về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vì chính Ngài đã truyền lệnh cho mỗi chúng ta: “Chính anh em là chng nhân v nhng điu này (Lc 24:48).

Chúa Giêsu chia tay các môn đệ để về trời, cuộc chia tay không buồn thảm mà lại chứa chan niềm hy vọng: “Thy s gi cho anh em điu Cha Thy đã ha. Còn anh em, hãy li trong thành cho đến khi nhn được quyn năng t tri cao ban xung (Lc 24:49). Nói xong những lời đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành, Ngài rời khỏi các ông và được đem lên trời.

Thánh Luca tường thuật rõ ràng: “By gi các ông bái ly Người, ri tr li Giêrusalem, lòng đy hoan h, và hng trong Đn Th mà chúc tng Thiên Chúa (Lc 24:52-53). Đức Kitô chịu chết nhưng phục sinh khải hoàn và lên trời, chúng ta cũng hy vọng được sống lại và lên trời vĩnh cư với Ngài. Đó là niềm hy vọng thật và niềm hạnh phúc khôn tả!

Như một bài luận có ba phần – nhập đề, thân bài và kết luận. Tương tự, cuộc đời cũng có ba khoảng – tuổi thơ, tuổi trẻ và tuổi già. Có thể có người chỉ có tuổi thơ mà không có tuổi trẻ và tuổi già, có người có tuổi thơ và tuổi trẻ mà không có tuổi già. Tuy nhiên, ai cũng có ba khoảng này: quá khứ, hiện tại và tương lai.

Nhân vô thập toàn. Vì vậy, đừng quay lại quá khứ mà nuối tiếc hoặc tự trách mình thái quá, hãy hướng tới tương lai để vươn lên. Ai nghĩ gì, mặc họ. Hãy cứ là chính mình. Đừng đếm những gì đã mất, hãy quý trọng những gì hiện đang có, và định hướng mới về những gì khả dĩ đạt được trong tương lai. Tại sao? Quá khứ không bao giờ trở lại, nhưng tương lai có thể bù đắp cho những gì đã mất mát.

Thiên Chúa chí công, không thiên vị bất kỳ ai (Gl 2:6; Cv 10:34). Cửa này khép lại thì sẽ có cửa khác mở ra. Hãy vững tin vào Ngài. Thánh Gioan Kim Ngôn (cũng gọi là Kim Khẩu, 347-407, Ioannes Chrysostomos) xác tín: “Thiên Chúa lượng đnh đau kh theo mc cn thiết cho chúng ta. Cứ an tâm, vì Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định, nghĩa là Ngài đã định hướng riêng từng người. Đừng chê trách hoặc đề cao bất cứ ai. Mỗi người đều có vị trí nhất định theo Thánh Ý Chúa, với mục đích là để làm vinh danh Ngài.

Ly Thiên Chúa nhân t và giàu lòng thương xót, xin cm t Ngài đã đnh hướng cho chúng con, xin giúp chúng con can đm sng đo và th hin đc tin trong tng hơi th ca cuc đi chúng con trên thế gian này. Nh đó, chúng con không ch hy vng mà còn đnh hướng sng là v tri vi Đc Kitô, sau khi chúng con hoàn tt cuc hành trình đc tin trên trn gian này. Chúng con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu Kitô Phc Sinh, Thiên Chúa cu đ ca chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA LÊN TRỜI

Lm. Phạm Thanh Liêm

Đức Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn ở với con người cho đến tận thế. Xin cho ki-tô hữu được nên giống Đức Giêsu mỗi ngày một hơn.

Đức Giêsu lên trời

Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ suốt bốn mươi ngày sau khi Ngài sống lại. Trong thời gian này Người đã ăn uống với các ngài, dạy dỗ các ngài nhiều điều; rồi đến thời đã định, Người đã lên trời trước mắt các ông.

Phải hiểu điều này như thế nào, khi người thời nay biết trái đất tròn; như vậy, trời phía trên đầu của người ở Việt Nam, lại là hướng dưới chân của người ở Mỹ, và ngược lại. Một phi hành gia bay lên vũ trụ, trời là khoảng không đối với họ! Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu không lên trời, nhưng ở lại với con người cho đến ngày tận thế: “Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến ngày tận thế” (Mt.28, 20). Làm sao trả lời cho con người ngày nay về việc hai trình thuật dường như trái ngược nhau?

“Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, là một cách nói dùng để chỉ Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm gì có tay phải tay trái như con người. Đây là cách nói nhân hình, nghĩa là, nói về Thiên Chúa theo kiểu con người. Để hiểu đúng, không được hiểu theo nghĩa đen. Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, nghĩa là, Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Các ngươi là chứng nhân về những điều này

Không phải tất cả mọi người đều được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Chỉ có một số người được chọn, mới được diễm phúc này, và họ trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Các tông đồ là những người được thấy Chúa, và các Ngài đã là những chứng nhân anh dũng của Đấng Phục Sinh qua việc dùng chính mạng sống mình để làm chứng. “Ngu gì” để chết cho điều không thật hoặc không quan trọng! Sẵn sàng chết để làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh, làm cho điều các tông đồ rao giảng “đáng tin”.

Các tông đồ đã chết. Các ki-tô hữu là những môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt mình, các ki-tô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh cho con người thời đại hôm nay.

Các tông đồ đã chết để làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Ki-tô hữu hôm nay được mời gọi để sống yêu thương, như dấu chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ki-tô hữu trong thế giới này. Yêu, đòi phải hy sinh, và cũng là một cách “chết” cho người yêu.

Nên giống Đức Giêsu

Đức Giêsu là thượng tế, là của lễ và bàn thờ. Lời Thiên Chúa nhập thể vì yêu con người, Ngài đã chết để đền tội con người, để con người không phải chết vì tội mình nữa nhưng được sống, vì có người đã chết thế cho mình.

Đức Giêsu dùng chính máu Ngài để thanh tẩy tội lỗi con người. Ngài thương cảm con người với những yếu đuối và giới hạn của họ. Ngài đã trải qua tất cả những gian nan thử thách, để con người có can đảm tới với Ngài.

Là người, anh chị em với nhau. Mỗi người phải trở nên một “Giêsu khác” để thông cảm và nâng đỡ anh chị em mình. Mỗi người được mời trở nên giống Đức Giêsu, bằng “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Theo bạn, Đức Giêsu Phục Sinh bây giờ đang ở đâu? Xin giải thích.
  2. Trong đời tu hoặc đời sống ki-tô hữu, người ta thường nói tới “cái chết không đổ máu”, bạn hiểu điều này như thế nào? Cho thí dụ.
  3. Người nên giống Đức Giêsu nhất, là người có những đức tính nào?

Về mục lục

.

CHÚA VỀ QUÊ

 Lm. Tạ duy Tuyền

Có câu thơ viết rằng:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay ?…

Đây là mấy câu thơ tuyệt đẹp của Hàn Mặc Tử. Nó đẹp bởi nó gợi lên một bức tranh quê đầy thơ mộng, lãng mạn. Một đêm trăng có gió, có mây, có cả bóng hình người con gái đưa đò sang sông.

Nó gợi nhớ cho ai xa quê một kỷ niệm, một nỗi niềm riêng. Xa quê nên chạnh lòng nhung nhớ. Xa quê nên chỉ mong được trở về tao phùng bên mái nhà xưa. Nỗi nhớ ấy dường như luôn da diết trong lòng.

Ai mang quê hương vào trong nỗi nhớ

Để chiều này da diết quá đi thôi !

Đôi quang gánh nghèo trên vai chị bán xôi

Chợt thương sao đôi vai gầy của mẹ.

Nỗi nhớ quặng vào tim khi nhớ người thân. Mong đem mưa về làm mát cho vườn cau, cho luống trầu xanh vì ở đó có bóng hình của Nội đầy yêu thương.

Khói bếp nhà ai thân thương quá đổi!

Nhớ khói lam chiều khuất bóng hàng Cau

Ai mang mưa về tưới mát vườn rau

Chợt thưong sao luống Trầu xanh của Nội!.

Hai tiếng quê hương không chỉ gợi nhớ về một nơi chốn mà còn là một cõi linh thiêng. Nơi ấy chất chứa bao kỷ niệm ngọt ngào như chùm khế ngọt mà ai đi xa cũng mong được trở về. Trở về mái nhà xưa hay trở về khung cảnh đồng nội thân thương đều là nỗi nhớ nhung da diết trong lòng người xa quê.

Thế nên, xa quê ai cũng mong trở về. Ai cũng mong kết thúc công việc, hay kết thúc hành trình để “áo mão về quê” hay “vinh quy bái tổ”. Dầu sao, xa quê ai cũng mong, cũng cầu được sớm trở về quê hương.

Hôm nay, chúng ta mừng ngày Chúa Giê-su vinh thắng trở về Quê Trời. Ngài về Quê Trời sau 33 năm dãi dầu mưa nắng chốn dương gian. Ba mươi ba năm sống xa Quê Trời đến cư ngụ giữa chốn nhân gian để thi ân, để phục vụ trong yêu thương. Ngài đã làm tất cả để cho danh Chúa Cha cả sáng. Ngài luôn tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa. Ngài đã kết thúc hành trình dương gian trong chén đắng vâng phục Chúa Cha để danh cha cả sáng. Ngài đã hoàn tất chuyến đi cuộc đời khi hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao là cứu độ nhân gian qua hiến tế đồi Calve.

Cuộc vinh thắng trở về Quê Trời của Chúa Giê-su cũng là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Ky-tô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.

Cuộc vinh thắng trở về quê trời của Chúa Giê-su là cuộc khài hoàn vì Ngài đã trải qua đau khổ mới tới vinh quang. Hay nói cách khác, cuộc vinh quy bái tổ nơi quê trời cần lắm nhưng công lao mà chúng ta đã làm nơi dương thế. Đó là những hy sinh, những từ bỏ con đường xấu, từ bỏ con đường thênh thang để đi vào con đường hẹp, con đường của nói không với tội và sống tuân hành theo thánh ý Thiên Chúa.

Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giê-su: “Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới”. Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu “Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG XÓT TUÔN TRÀO TỪ TRỜI CAO

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Nhà du hành vũ trụ người Nga sau khi trở về từ trạm không gian đã tuyên bố : Tôi không thấy thiên đàng ở đâu cả ! Trái lại, nhà tư tưởng Pascal sau khi nhìn vào kính thiên văn, ông đã nói : Tôi thấy Thiên Chúa bay ngang qua ống kiếng của tôi  ! Gần đây hơn, các nhà khoa học Mỹ khi nghiên cứu về sự hình thành vũ trụ đã tuyên bố : Chúng tôi đã thấy dấu vết bàn tay của Thiên Chúa.

Sự hiện diện và vắng mặt của Thiên Chúa trong cuộc sống và trong thế giới luôn là một thách thức đối với niềm tin của nhiều người. Có người cho rằng, Chúa Giêsu lên trời là chấm dứt tất cả sứ mạng của Ngài, Ngài không còn liên hệ gì với thế gian này nữa và cũng không còn ảnh hưởng nhiều trên cuộc sống cá nhân người tín hữu nữa. Các bài đọc của ngày lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay muốn khẳng định một giáo lý hết sức quan trọng : Chúa Giêsu kết thúc sứ mạng của Ngài tại trần gian, nhưng Ngài không bỏ thế giới này. Ngài không cắt đứt mối liên hệ với con người, nhưng chỉ là thay đổi cách thức hiện diện và hoạt động mà thôi. Ngài không hiện diện với con người bằng thân xác hữu hình như trước đây nữa, nhưng Ngài hiện diện cách vô hình, song lại có thể can thiệp cách mạnh mẽ để bảo vệ con người. Chúa Giêsu đã từng mang thân phận con người, nên đã thuộc về thế giới này, Ngài không thể bỏ con người. Ngài về trời, tức là Ngài trở về trong vinh quang của một một vị Thiên Chúa, như một hoàng đế chiến thắng trở về trong tiếng ca khải hoàn và trong vinh quang. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương dẫn dắt chúng ta.

Các tông đồ là nhưng người đã hiểu và đã tin vào sự hiện diện vắng mặt này cùa Chúa Giêsu, nên các ông vẫn hăng say làm việc như là Chúa vẫn đang hiện diện cụ thể bên các ông. Đoạn mở đầu Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy những bước ngoặt quan trọng làm thay đổi các tông đồ. Tác giả lược lại vắn tắt cuộc đời tại dương thế của Chúa Giêsu Nazaret. Ngài chính là vị Thiên Chúa đến ở với con người, Ngài đã sống và rao giảng Tin Mừng trong toàn cõi Giuđêa, cuối cùng Ngài đã chết và đã sống lại. Sau khi sống lại, Ngài đã hiện ra trò chuyện, ăn uống với các tông đồ và Ngài nói trước cho các ông về việc Ngài sẽ rời khỏi các ông và sẽ trao ban Thánh Thần cho các ông.

Chúa về trời, Ngài thay đổi cách thức hiện diện với nhân loại. Ngài không hiện diện bằng thể xác như trước đây, nhưng Ngài hiện diện bằng quyền năng Thánh Thần của Ngài, Đấng Ngài sai đến từ nơi Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu không muốn các tông đồ bị bó hẹp trong những lợi ích, ranh giới quốc gia nhỏ hẹp, không chỉ nghĩ đến việc khôi phục vương quốc Israel, nhưng Ngài đã mở ra cho các tông đồ một chân trời mới rộng lớn hơn, vượt mọi ranh giới quốc gia, để hòa mình vào thế giới, trong quyền năng và kế hoạch của Thiên Chúa. Một khi được đón nhận quyền năng của Chúa Thánh Thần, các tông đồ không còn bị giới hạn bởi bất cứ rào cản nào, nhưng phải trở thành chứng nhân của Chúa, khởi đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất. Trong sứ mạng này, Chúa Giêsu hứa sẽ ở bên các ông và cùng hoạt động với các ông nhờ Thánh Thần của Người.

Tác giả sách Công Vụ kể tiếp : Chúa Giêsu được cất lên ngay trước mặt các tông đồ và có đám mây quyện lấy Người khiến các ông không còn thấy Người nữa. Như thế, Kinh Thánh muốn nhấn mạng rằng : Chúa Giêsu được cất lên, không phải là đi vào một hành tinh xa xôi, nhưng Ngài vẫn ở trên cao ngay trước mắt các tông đồ và mỗi chúng ta. Chỉ vì bị giới hạn bởi mắt thịt, bị che khuất bởi những đám mây là giới hạn của con người, bởi những hào nhoáng của vật chất, khiến chúng ta không thể nhìn thấy Ngài.

Sách Công Vụ kể tiếp : Lúc các ông còn mải nhìn lên trời, thì có hai thiên thần mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói : Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời ?  Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông về trời cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời. Thánh Gioan còn ghi thêm cảm nhận và tâm trạng của các tông đồ : Các ông bái lậy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ và hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

Cho đến lúc này, chứng tỏ các tông đồ đã nhận ra Thầy của mình chính là Thiên Chúa, vì thế, họ bái lậy Người như họ vẫn bái lậy Thiên Chúa của Israel. Họ chia tay Chúa Giêsu không phải trong buồn thảm, nhưng trong sự hân hoan vui mừng. Các tông đồ hân hoan vui mừng vì từ nay, Chúa Giêsu sẽ hiện diện với các ông trong từng lời nói và hành động. Các ông sẽ không còn co cụm tại Gierusalem, cũng không chỉ đứng ngước mắt nhìn trời, nhưng Chúa muốn các ông trở về với cuộc sống thường ngày để nói cho mọi người và chỉ cho mọi người thấy Chúa đang hiện diện và hoạt động trong các ông.

Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc chúng ta đã trở về trong vinh quang của Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng, vì đã từng chia sẻ thân phận với con người, Ngài dễ dàng cảm thông với thân phận con người chúng ta. Giờ đây, trong vinh quang của Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn hiện diện, che chở và dẫn dắt thế giới và mỗi người ta qua mọi chặng đường cuộc sống.

Tuy tin vào Chúa Giêsu, Đấng quyền năng đang hiện diện, nhưng khi gặp thử thách, nhiều người vẫn  bị chao đảo. Những khi rơi vào vực thẳm tăm tối không lối thoát, chúng ta cảm thấy dường như Chúa vẫn im lặng, Chúa vẫn ẩn mặt làm ngơ. Có những người trong cơn cùng cực đã oán trách : Chúa ở đâu ? Chúa có thấy nỗi khổ của tôi không ? Nhiều người khác đã sống như thể là Thiên Chúa không còn hiện diện trong cuộc đời của họ. Vì thế, họ sống một cuộc sống buông xuôi, không cầu nguyện, thiếu tin tưởng, họ cho rằng tự mình có thể giải quyết được tất cả mọi sự mà không cần Thiên Chúa.

Vì không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, nhiều người đã sống như kẻ không niềm tin, không hi vọng, sống trong buồn chán, hoặc sống cách buông thả. Người khác lại sống như thể không có Chúa bên mình, nên họ gian dối, quanh co và làm những điều bất công gian ác.

Sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, một cô gái, con một vị giảng thuyết nổi tiếng trả lời phỏng vấn trên truyền hình. Người hướng dẫn chương trình đã hỏi cô như sau : Tại sao Thiên Chúa lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy ?

Thiếu nữ này trả lời thật thâm thúy : “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta. Từ bao năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học, khỏi chính phủ và khỏi đời sống của chúng ta. Ngài là người “quân tử” nên đã lẳng lặng rút lui. Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta đã khẩn thiết xin Ngài để mặc chúng ta một mình ? Về những biến cố mới xảy ra như tấn công khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh …, tôi nghĩ rằng, mọi sự đã bắt đầu với việc người ta đề nghị không nên đọc kinh cầu nguyện nữa. Và chúng ta đã đồng ý”.

Thật kỳ lạ là con người có thể vứt bỏ Chúa một cách dễ dàng rồi sau đó lại tự hỏi tại sao thế giới nhiều sự ác và biến thành địa ngục. Thật kỳ lạ là chúng ta lại có thể tin những gì báo chí nói mà lại nghi ngờ những gì Kinh Thánh và Giáo Hội nói. Thật kỳ lạ là chúng ta nói với nhau đủ điều, đủ chuyện, nhưng khi nói về Thiên Chúa thì chúng ta lại đắn đo suy nghĩ và ngại ngùng.

Chúa lên trời, Ngài để lại sự nghiệp của Ngài cho chúng ta và muốn chúng ta tiếp tục sứ mạng của Ngài. Xin cho chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi hoàn cảnh và xin Chúa giúp ta trở thành người không mệt mỏi nói về Chúa cho anh chị em. Amen.

Về mục lục

.

“HÃY LÀ CHỨNG NHÂN CỦA THẦY”

Jos. Vinc. Ngọc Biển 

Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Việc Đức Giêsu lên trời đã chấm dứt cuộc đời trần thế và sứ mạng của Ngài trên trần gian theo ý muốn của Chúa Cha.

Tuy nhiên, sứ mạng ấy tiếp tục được chuyển trao cho các Tông đồ là những chứng nhân của tất cả những gì đã thấy và đã cảm nghiệm, để các ông ra đi làm chứng nhân cho Ngài.

Sứ mạng ấy cũng được trao phó cho mỗi người chúng ta trong vai trò là người thuộc về Đức Kitô.

  1. Ý nghĩa của việc Đức Giêsu lên trời

Sự kiện Đức Giêsu về trời cho chúng ta thấy: Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha. Đã chu toàn sứ mạng cứu độ con người qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại để làm chứng những lời Ngài đã loan báo. Và, hôm nay, Ngài lên trời để đem lại cho chúng ta niềm hy vọng mai ngày cũng được về trời với Ngài như lời Ngài đã nói: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26).

Việc Đức Giêsu lên trời cũng là lúc kết thúc những cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt và mở ra một cuộc gặp gỡ thiêng liêng, vượt lên trên không gian và thời gian. Sự kiện này không chấm dứt mọi hoạt động của Ngài trên trần thế. Nhưng qua đó, Đức Giêsu hiện diện cách phổ quát: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Ngài hiện diện nơi Lời của Ngài và trong Bí tích Thánh Thể, qua Giáo Hội và nơi các chứng nhân. Vì thế, Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, nhưng Ngài lại khai mở ra cho các Tông đồ và Giáo Hội một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của việc cảm nghiệm, loan báo và làm chứng về Đấng Phục Sinh. 

  1. Sứ mạng của các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên trời 

Đức Giêsu về trời, Ngài trao ban sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội, khởi đi từ các Tông đồ. Lệnh truyền của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15), để “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19), phải là lời mời gọi, một lệnh truyền cấp thiết hơn bao giờ hết! Bởi lẽ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (x. Ga 17,18; 20,21).

Vì thế, khi Đức Giêsu đã lên trời, thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi, phải ra đi để đến với muôn dân như lời Ngài đã truyền. Các ông ra đi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Đấng đã chết và đã phục sinh; Đấng là đường, là sự thật và là sự sống; Đấng đã yêu thương con người, đã chết và đã sống lại vì hạnh phúc và phần rỗi của con người. Đấng ấy đã lên trời để đem lại niềm hy vọng cho những ai tin vào Ngài cũng được lên trời như các ông đã thấy Ngài lên trời. 

Chính trong giây phút này, các ông nhận lãnh sứ mạng xây dựng Giáo Hội, một Giáo Hội có Thiên Chúa là Chủ và có nhau là anh em; một Giáo Hội yêu thương, hiệp nhất; một Giáo Hội công bằng, nhân ái. 

  1. Sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi chúng ta

Lời của Đức Giêsu khi xưa nhắn gửi các Tông đồ: “Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất” (x. Cv 1,8) cũng là lời mời gọi cho mỗi người Kitô hữu hôm nay.

Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về và nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ từ nơi Đức Giêsu. Công cuộc ấy chẳng mấy tốt đẹp theo kiểu con người suy nghĩ. Vì thế, Đức Giêsu đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét” (Lc 21,17). Và “hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: “Tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,29). Nhưng hãy học nơi các Tông đồ: càng bị sỉ nhục, bắt bớ và tù đày, các ông lại càng “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Bởi xác tín rằng “… trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33; x. Rm 8,35-37).

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm chèo thuyền ra chỗ “nước sâu” để thả lưới…; cũng như tiến ra những vùng “ngoại biên” để đem Ánh Sáng Lời Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa.

“Nước sâu” ở đây chính là những nơi tội lỗi, gian tham, lọc lừa. Nó cũng là thái độ của những con người thù ghét, cấm cách, bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu hay là một thái độ thờ ơ, lãnh đạm với niềm tin Kitô Giáo.

Còn “ngoại biên” chính là những người vô gia cư; trẻ em mồ côi, những cụ già không nơi nương tựa… những người đói khát bần cùng, những người không có tiếng nói…

Những nơi ấy, rất cần các Kitô hữu can đảm, trung thành, bất chấp khó khăn, thử thách, để sẵn sàng làm chứng cho sự thật, công bằng. Mặt khác, nơi tâm hồn người tông đồ phải luôn mang trong mình trái tim của chính Thiên Chúa, để lòng thương xót của Ngài được lan tỏa đến những con người kém may mắn đang sống ở bên lề xã hội.

Lạy Chúa Giêsu, hôm nay Chúa về trời, Chúa đã trao phó cho các Tông đồ và Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin Chúa cho mỗi chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi làm chứng cho Tin Mừng của Chúa trong lòng xã hội hôm nay, dầu có phải chịu đau khổ, thử thách. Amen.

Về mục lục

.

THĂNG THIÊN – MỘT BIẾN CỐ LỊCH SỦ SIÊU VIỆT

Lam Thy

Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 660) viết: “Biến cố Thăng Thiên, vừa lịch sử vừa siêu việt, đánh dấu sự chuyển tiếp từ vinh quang này đến vinh quang kia.” Nói việc Chúa Giê-su Ki-tô thăng thiên mang tính lịch sử vì nó đã xảy ra trong một thời điểm nhất định (năm 33 – thế kỷ I công nguyên), ở một nơi chốn cụ thể (núi Ô-liu gần Bê-ta-ni-a, giáp phía đông thành Giê-ru-sa-lem của It-ra-en – xc Lc 24, 50-51; Cv 1, 12). Còn nói biến cố này mang tính siêu việt là muốn nói đến tính chất siêu linh vượt trên tất cả các biến cố trần thế.

Biến cố lịch sử siêu việt Thăng Thiên đã được Đức Giê-su tiên báo và dạy bảo rất kỹ từ trước: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” – Ga 14, 1-3). Tuy nhiên, khi biến cố đó xảy ra thì các môn đệ vẫn bày tỏ thái độ hoang mang lo sợ, điển hình như cảnh: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”, và thế là các Tông đồ cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi” (Cv 1. 9-10).

Các Tông đồ đã được “thực mục sở thị” mầu nhiệm thăng thiên của Thầy mình, cũng tức là đã được củng cố đức tin vững vàng về mầu nhiệm Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, xuống thế làm người, chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người, đã sống lại và thật sự lên trời vinh hiển. Những việc làm, những Lời dạy của Thầy đã là hiện thực 100%; vậy thì còn “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” làm chi nữa? Cái tâm trạng băn khoăn lo lắng để rồi thì cứ “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” nó cũng chẳng khác gì cảnh Thầy dạy: ”Thầy đi đâu thì anh em đã biết đường rồi”, thì ngay lập tức hỏi lại: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 4-5). Tuy không dám nói ra, nhưng chắc chắn trong lòng các môn đệ vẫn băn khoăn thắc mắc: “Thầy lên trời, vậy trời ở đâu, và tại sao Thầy lại nói Thầy về với Chúa Cha ở trên trời mà vẫn “ở cùng anh em mọi ngày cho đến ngày tận thế” (Mt 28, 20 )? Và vì thế nên cứ “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy”.

Tâm trạng các tông đồ cũng là tâm trạng chung của con người, bởi cho đến thế kỷ XXI văn minh tiến bộ vượt bậc này, khoa học vẫn chưa chứng mình được trời ở đâu.  Nếu đã tin chắc trái đất tròn, đặt giả thử biến cố thăng thiên xảy ra ở mặt địa cầu phía đối nghịch với Ít-ra-en (như ở Việt Nam, chẳng hạn), thì  Đức Giê-su sẽ bay lên trời theo hướng ngược lại với hướng mà các Tông đồ cứ “đăm đăm nhìn theo”. Vậy thì trời ở đâu, ở phía trên đầu các môn đệ tại Giê-ru-sa-lem hay phía trên đầu các dân tộc Á Đông? Điều đó cho thấy biến cố Chúa lên trời chỉ là một cách Thiên Chúa mạc khải cho con người dễ hiểu mà thôi. Còn thực chất trời không phải là một không gian cố định nào và kể từ khi Chúa phục sinh thì Người không còn bị giới hạn bởi thân xác phàm tục nữa, mà là cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người còn ở khắp mọi nơi “cả trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ nữa”. Như vậy là đã rõ, trời không phải là ở chỗ này hay chỗ kia, ở trên cao hay dưới thấp, mà là ở khắp mọi nơi.

Quả thật “Trời” chỉ là một tình trạng chớ không phải là nơi chốn hay khoảng không gian cố định. Hiểu theo Ki-tô giáo thì “Trời” chỉ là tình trạng của con người được kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa, là nguồn sự sống vĩnh cửu, hạnh phúc vô biên, nguồn chân thiện mỹ, vinh quang tuyệt đối. Vì thế, việc Đức Giê-su lên trời có nghĩa là Người trở về với Chúa Cha, mang theo nhân tính mà Người đón nhận khi trở thành người trần trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và nhập thế; để từ đó đưa nhân tính ấy kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa Ba Ngôi. Với biến cố thăng thiên, Đức Giê-su muốn đưa các môn đệ vào không gian mầu nhiệm để họ kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa, được thông hiệp sự sống kỳ diệu, nguồn chân thiện mỹ vô tận với Người. Người đã đưa họ lên trời vì Người là Đầu và các môn đệ là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người. (xc GL/HTCG, số 659-667).

Cũng trong ý nghĩa siêu việt đó, Đức Giê-su còn giao cho các môn đệ một nhiệm vụ quan trọng là xây dựng Nước Trời ngay trong lòng xã hội trần thế này, để cho mọi người tin vào Đấng Cứu Độ cũng được chia sẻ sự sống kỳ diệu, nguồn chân thiện mỹ vô tận và hạnh phúc vô biên của Thiên Chúa. Các môn đệ phải trở thành chứng nhân của Đức Ki-tô Phục Sinh (“Chính anh em là những chứng nhân về những điều này” – Lc 24, 48), nhờ sự kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su và những đặc sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Cha hứa ban cho họ. Vì thế, càng kết hợp với Chúa Giê-su, người Ki-tô hữu càng cảm nghiệm được tình trạng thiên đàng và cũng là tình trạng Nước Trời (GL/HTCG, số 1023-1029). Khi Giáo hội hướng dẫn người tín hữu sống thánh thiện để được “nên thánh giữa đời” (lên Thiên đàng, lên trời ngay ở trần gian này) là có chủ ý giúp giáo dân “cảm nghiệm được tình trạng thiên đàng và cũng là tình trạng Nước Trời” vậy. Chỉ đến khi nào “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20), thì mới hiểu được Lời dạy: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20).

Rõ ràng vấn đề quan trọng không phải là “cứ đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy”, để mà tiếc nuối, hoặc để mà thắc mắc xem trời ở đâu và Thầy lên trời sẽ cư ngụ chỗ nào; mà là hãy nhớ lại lời Thầy đã truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (Mt 28, 19). Vì thế, nên “Các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Sở dĩ các Tông đồ tiên khởi làm được như vậy, chính là nhờ biến cố “ngày lễ Ngũ Tuần” tiếp liền với biến cố lịch sử siêu việt Thăng Thiên đã giúp cho các ngài có một lòng tin sắt đá vào Thầy của mình, bởi “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” (Mc 16, 17-18).

Có thể kết luận: “Thiên Chúa đã muốn dùng mạc khải để bày tỏ và thông ban chính mình Ngài cùng những ý định muôn đời của Ngài liên quan đến phần rỗi nhân loại, “nghĩa là cho họ được tham dự vào các ân thiêng hoàn toàn vượt khỏi trí khôn loài người”. Chính nhờ Thiên Chúa mạc khải mà “tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa tự nó vốn không vượt quá khả năng lý trí con người, trong hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, đều có thể biết được cách dễ dàng, chắc chắn mà không lẫn lộn sai lầm”. (Hiến chế Tín Lý về  Mạc Khải “Dei Verbum”, số 6). Rõ ràng Thiên Chúa đã vì Tình Yêu đến với con người bằng con đường mạc khải (mạc khải liên tiếp mầu nhiệm Lòng Thương Xót Nhập Thể => mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh => mầu nhiệm Thăng Thiên và Hiện Xuống); vậy thì tại sao con người lại không đến với Thiên Chúa bằng con đường đức tin?

Vâng, chính đức tin là con đường giúp con người tìm gặp Thiên Chúa để “khám phá ra một số ‘con đường” giúp nhận biết Người. Những con đường này còn được gọi là “bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa”, không theo nghịa bằng chứng khoa học tự nhiên, nhưng theo nghĩa những “luận chứng đồng quy và có sức thuyết phục”, giúp con người biết chắc có Thiên Chúa.” (Giáo lý HTCG, số 31). Từ đó “con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa một cách tự do “dâng lên Thiên Chúa mạc khải sự qui phục hoàn toàn của lý trí và ý chí”, đồng thời sẵn lòng chấp nhận mạc khải Ngài ban cho. Ðể được niềm tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài thúc đẩy và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và làm cho “mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo chân lý”. Và để việc hiểu biết mạc khải được sâu rộng thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng kiện toàn đức tin qua các ơn của Ngài.” (Hiến chế “Dei Verbum”, số 5)

Ôi! Lạy Chúa, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách chân thực. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình thật hùng hồn trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu, thậm chí có nhiều khi con còn hoài nghi cả chính mình về một niềm tin con đã chọn cho đời mình! Vậy mà con lại luôn miệng chia sẻ niềm tin ấy cho mọi người, khiến người nghe cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ trên môi miệng, những lời giả dối… Thật chẳng khác “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, ).

Ôi! Lạy Chúa! Xin ban Thánh Linh giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống. “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thăng Thiên).

Về mục lục

.

CHỨNG NHÂN HIỆN ĐẠI

AM Trần Bình An

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đến Albania vào ngày Chúa Nhật 21.9.2014, bất chấp lời cảnh báo trước đó của đại sứ Iraq tại Toà Thánh rằng, Ngài có thể bị những kẻ thánh chiến Nhà nước Hồi giáo nhắm mục tiêu tấn công. Dù vị trí địa lý ở ngay sát bên thủ đô của Giáo Hội Công Giáo, Albania là một quốc gia cộng sản tồi tệ nhất tại Âu Châu, là nước vô thần đầu tiên trên thế giới. Điều 37 trong Hiến Pháp 1967 của cộng sản tuyên bố:“Nhà nước không công nhận tôn giáo nào, ủng hộ và thực thi chính sách tuyên truyền vô thần nhằm kiến tạo một thế giới tương lai khoa học và duy vật.”

Các nhà lãnh đạo Giáo Hội bị bắt, bị giam cầm trong các trại cải tạo, bị giết, có cả những Giám Mục và linh mục bị xô xuống từ những tầng lầu cao, bể sọ chết…Tất cả 2.167 nhà thờ và các cơ sở của Giáo Hội bị tịch thu, nhiều đền thờ lâu đời, như Vương Cung Thánh Đường ở Shkodër, bị biến thành một vận động trường. Trước sự tàn bạo của cộng sản Albania, chỉ một phần tư thế kỷ trước không ai dám nghĩ có một ngày người dân được hưởng chút tự do tôn giáo. Chuyện một vị Giáo Hoàng đến thăm Albania có lẽ nằm mơ cũng không dám nghĩ tới.

Cha Ernest Simoni, 84 tuổi, từng bị kết án tử hình, nhưng rồi được giảm xuống còn 27 năm lao động khổ sai trong các trại lao động khác nhau. Cha bị nhà nước cộng sản bắt giam từ lễ Giáng Sinh năm 1963, bị kết án tử hình vì đã cử hành 3 lễ cầu nguyện cho Tổng thống Kennedy của Mỹ bị ám sát chết một tháng trước đó. Cha bị tra tấn và đối xử vô nhân đạo. Sau đó, án tử hình được biến cải thành 18 năm tù, trong đó có nhiều năm lao động khổ sai, và sau khi được trả tự do một thời gian, rồi cha bị bắt trở lại, tổng cộng là 27 năm tù đày. Trong thời gian đó, cha vẫn cử hành thánh lễ thuộc lòng bằng tiếng la tinh, giải tội và bí mật phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. Ngày 05-12-1990, cha được thả tự do, và bắt tay ngay vào các hoạt động mục vụ của mình, việc mà cha chưa bao giờ ngừng ngay cả khi ở trong tù. Điều đầu tiên cha làm là khẳng định tha thứ cho những người đã hành hạ mình.“Tôi luôn xin Chúa thương xót họ.”

Khi đươc hỏi cha đã đấu tranh thế nào để chịu đựng sự hành hạ như thế mà không bỏ cuộc, thì cha mĩm cười và tiết lộ bí mật:”Tôi chẳng làm gì phi thường cả, thật đấy, chỉ là tôi luôn luôn cầu nguyện với Chúa Giêsu, luôn luôn nói chuyện với Chúa Giêsu.”Khi cha Simoni dứt lời, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiến đến ôm vị linh mục thật lâu và cảm động khóc. Sứ thần Tòa Thánh tại Albania, Đức Tổng Giám mục Ramiro Moliner Inglés, nhận định chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô đến đất nước Albania, muốn nhấn mạnh rằng, sự thiện cuối cùng đã chiến thắng cái ác.

Theo hãng tin AFP, cuộc du hành một ngày qua Albania của Đức Phanxicô vào ngày 21 tháng Chín, nhằm đề cao nước này như một kiểu mẫu của hoà hợp liên tôn, giữa lúc ở Trung Đông đang có rối loạn và tại Âu Châu làn sóng bất khoan dung đang dâng cao. Tháng Tám vừa qua, Đức Phanxicô cho biết: Albania đã thành công trong việc tạo ra một “chính phủ đoàn kết quốc gia gồm người Hồi Giáo, Chính Thống Giáo và Công Giáo, với một hội đồng liên tôn rất có ích và cân bằng”và nói thêm: sự hiện diện của ngài “sẽ là một cách nói với mọi người rằng: qúy vị xem, tất cả chúng ta đều có thể làm việc với nhau!” Albania là một quốc gia tại Đông Nam Âu với Montenegro ở phía Bắc, Serbia ở phía Đông Bắc, Cộng hoà Macedonia ở phía Đông, và Hy Lạp ở phía Nam. Dân số chỉ 3.581.655 người. Những người cộng sản lên nắm quyền sau Thế chiến II. Sau sự sụp đổ của chính phủ cộng sản, Albania theo mô hình Cộng hoà nghị viện. Công giáo đã bắt đầu có mặt tại Albania vào giữa thế kỷ 1 CN khi đó còn thuộc Đế quốc La Mã. Albania từng là nước có số tín đồ Công giáo ưu thế, với mười tám tòa giám mục, một số chúng có lịch sử liên tục từ khi bắt đầu có Cơ Đốc giáo cho tới ngày nay. (Lữ Giang, Đức Giáo Hoàng đến thăm Albania, Vietcatholic)

Ông Mimmo Muolo, nhà báo Công giáo người Ý, đã viết một quyển sách về cha Simoni. Ông cho biết: “Cha Simoni đã chịu hơn 11.000 ngày tra tấn và lao động cưỡng bức.” Hôm Thứ Tư, 20-04-2016 vừa qua, trong buổi tiếp kiến chung, Cha Ernest Simoni đã đến gặp và trao quyển sách này cho Đức Giáo Hoàng. Và ngài đã chào đón cha bằng cách hôn tay đầy kính trọng.

Cha Simoni cho biết: “Tôi chịu bách hại, bắt đầu từ Đêm Giáng Sinh 1963, khi bị bắt và biệt giam, tra tấn và tuyên án tử hình, đơn giản chỉ vì tôi là linh mục.” Bạn cùng phòng giam với cha cho biết, đáng ra vị linh mục này hẳn sẽ căm thù chế độ, nhưng cha Simoni chẳng làm gì ngoài cầu nguyện và tha thứ cho những người hành hạ mình. Rồi bản án của cha được đổi thành 25 năm lao động khổ sai, tại hầm mỏ và cống rãnh ở vùng Scutari. (J.B. Thái Hòa chuyển dịch, Vatican Insider 20/04/2016)

Trong Tin Mừng Chúa Nhật Thăng Thiên hôm nay, Đức Giêsu trao cho các môn đệ sứ vụ cấp bách và quan trọng cần phải thực thi: “Ðức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba thì sống lại từ cõi chết; và nhân danh Ngài, phải được rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi – khởi từ Yêrusalem.  Về các điều ấy, các ngươi là chứng nhân.” Người mong tất cả Kitô hữu, những ai tin và theo Người, đều là những nhà truyền giáo mọi thời và mọi nơi, đồng thời cũng trở thành chứng nhân cho chính niềm tin vào Đức Giêsu.

Cha Ernest Simoni đã và đang là chứng nhân thời đại của Chúa Giêsu, giữa một thế giới thực dụng, tôn sùng vật chất, đang ra sức chối từ Thiên Chúa. Ngài vẫn không hề lùi bước, không chán nản lội ngược dòng đời, vẫn tiếp tục dũng cảm thảo nên những chứng từ cụ thể, khả tín, hết sức thuyết phục, mà không ai có thể công kích, có thể phủ nhận hay phản bác.

 

Chứng từ khổ giá

Theo Chúa tiên quyết phải bỏ mình, vác thập giá mà bước theo chân Chúa. Điều kiện tưởng chừng thật dễ dàng và đơn giản, nhưng thực hiện không dễ và cũng chẳng giản đơn như ngộ nhận. Tuy nhiên, có thể tóm tắt và diễn giải điều kiện đó, là từ bỏ ý riêng, để hoàn toàn “Xin Vâng” theo Thánh Ý Chúa, cùng chấp nhận tất cả sự khốn khó xảy đến vì danh Chúa.

Từ bỏ mình là không lấy bản thân mình làm tâm điểm, chẳng quy về mình, cũng chẳng kiếm lợi cho mình. Nhưng lấy Đức Giêsu làm tâm điểm cuộc đời, làm kim chỉ nam, làm cùng đích tại thế. Tất cả suy nghĩ, tư tưởng, nói năng, hành động, ứng xử, đều quy hướng về Chúa làm chuẩn mực, gương mẫu. Nếu Chúa cũng ở vào hoàn cảnh như mình, sống trong môi trường xã hội hiện nay, gặp những vấn đề nan giải, phức tạp, đau khổ, thì Chúa sẽ nghĩ sao? Người sẽ nói gì? Người sẽ hành động ra sao? Người sẽ ứng xử thế nào? Thánh Kinh, Tông truyền, Giáo truyền, các Chủ Chăn, Linh mục, tu sĩ, giáo dân tốt lành, luôn sẵn sàng trả lời chính xác. Nhất là dành cho những ai tha thiết tìm hiểu Thánh Ý, trước tất cả biến cố trong đời người.

Khi từ bỏ mình, xả kỷ, sẵn sàng chấp nhận những khổ giá, thách đố, đau thương, nhục hình vì danh Chúa, cũng là lúc Kitô hữu viết nên những chứng từ minh bạch và thuyết phục nhất. Điển hình như Cha Ernest Simoni đã viết chứng từ bằng11.000 ngày tra tấn và lao động cưỡng bức. Mặc dầu, có thể bị coi là khờ khạo, dại dột, ngu dốt, không thức thời, dưới mắt thực dụng của người đời. Nhưng “những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh.” (1Cr 1, 27)

 

Chứng từ tình yêu

Trên thập giá, Đức Giêsu không chỉ tha thứ cho những người âm mưu và sát hại Người, mà còn khoan dung, thân thương cầu nguyện cho họ, như chính lời Người đã dạy: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 34) Vậy tha thứ chính là đỉnh cao của tình yêu. Làm chủ bản thân, không nhương bộ bản năng, không chiều theo ham muốn, không chịu khuất phục bởi dục vọng, sẵn sàng chịu đóng đinh vào thập giá, đành cam chịu chết đi, mới có thể sẵn lòng khoan dung, tha thứ cho kẻ hại mình.

“Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương.” (Mt 5, 44-46) Cha Ernest Simoni đã thực hành trung thực Lời Chúa, khi tha thứ và cầu nguyện cho những người hành hạ, đày ải:“Tôi luôn xin Chúa thương xót họ.”

 

Chứng từ tín thác

Chứng nhân còn là người luôn liên lỉ trông cậy vào Thiên Chúa qua cầu nguyện và Thánh Thể. Noi gương Đức Giêsu hằng sáng tối chuyên chủ cầu nguyện, để kếp hợp chặt chẽ với Thiên Chúa Cha, người Kitô hữu cũng cần luôn cầu nguyện, để lắng nghe tiếng Chúa, Thánh Ý, cũng như tâm sự mọi sự với Người. Kể cả những thất bại, những đau khổ, hoạn nạn, những ân oán, oan ức, nhục mạ, ganh ghét, tị hiềm, những lời thị phi đố kỵ. Người sẽ luôn lắng nghe, sẽ luôn thấu hiểu, luôn an ủi, nâng đỡ, chở che.

Như vậy, cầu nguyện là hoàn toàn tín thác vào Lòng Thương Xót, cũng như là chứng từ đặc biệt, để được cứu rỗi khỏi mọi gian nguy, nhất là khỏi phải chết đời đời.

“Con ngạc nhiên vì sao nhiều người mất ơn Chúa gọi, mất đức tin, phản bội Hội Thánh? Trong bao nhiêu lý do, luôn luôn có một lý do chính: họ bỏ cầu nguyện từ lâu.” (Đường Hy Vọng, số 125)

Khi hỏi về bí quyết chịu đựng sự hành hạ, bạc đãi, tù đầy với niềm tin vững mạnh, trung kiên vào Thiên Chúa, Cha mỉm cười tiết lộ: ”Tôi chẳng làm gì phi thường cả, thật đấy, chỉ là tôi luôn luôn cầu nguyện với Chúa Giêsu, luôn luôn nói chuyện với Chúa Giêsu.” Hơn nữa, Cha còn được bổ sung, tăng thêm sức chịu đựng nhờ âm thầm dâng Thánh lễ hằng ngày trong nhà tù. Thánh Thể là nguồn sinh lực vô biên cho những ai trân trọng đón rước.  

“Đèn không sáng nếu hết dầu, xe không chạy nếu cạn xăng, hồn tông đồ sẽ suy mạt nếu không đến vói Thánh Thể: “Ai không ăn thịt Ta và uống máu Ta, chẳng được sống đời đời.” (Đường Hy Vọng, số 360) 

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin luôn dạy chúng con biết rao giảng, làm tông đồ, làm chứng nhân, không phải chỉ bằng lời nói suông, nhưng chính bằng những chứng từ khổ giá, chứng từ tình yêu khoan dung với tha nhân, cùng chứng từ tín thác vào Lòng Thương Xót vô ngần.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con biết vinh danh Chúa qua việc chu toàn bổn phận, trách nhiệm trong đời sống thường nhật. Đó cũng chính là vâng theo Thánh Ý Chúa trong từng phút giây hiện tại, như Mẹ từng vâng phục. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THĂNG THIÊN_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Tuần này, cùng với mọi người sống trên đất nước Hoa kỳ này, chúng ta mừng Ngày Hiền Mẫu hay Ngày Của Mẹ.  Một ngày đặc biệt để ghi nhớ công ơn “bao la như biển Thái bình” của những người mẹ.  Xin chúc mừng những người mẹ hiện diện trong thánh đường hôm nay, nhất là hội viên của hội Hiền mẫu, một ngày vui mừng và tốt đẹp nhất. Cầu xin Chúa qua lời cầu bầu của Hiền Mẫu Maria và thánh cả Giuse, ban nhiều ơn lành xuống cho tất cả các bà mẹ.

Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên, Chúa về trời ngự bên hữu Chúa Cha.  Trong mỗi Thánh lễ, chúng ta cùng tuyên xưng “Người, Chúa Giê-su Ki-tô, lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha.” Đây là một hình ảnh rất quan trọng trong Kinh thánh.  Có lẽ hình ảnh này không đánh động mạnh mẽ vào chúng ta như những Ki-tô hữu ban đầu đang phải đối diện với những sự cấm đạo, tù đầy và bách hại.  Thánh Gioan ngay chương đầu cho chúng ta biết “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.” (Ga. 1, 1-5)  Có nghĩa là Ngôi Lời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trước khi Người xuống thế làm người và bây giờ Người được tôn vinh và trở lại với ngôi vị quyền năng như trước.  Đối với những người không có đức tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa và vào mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể, thì sự kiện Chúa Giê-su được ngự bên hữu Chúa Cha là một sự nhạo báng, một sự phạm thượng hay sự lộng ngôn.  Và đó cũng chính là phản ứng của thượng tế Cai-pha trong vụ án xử Chúa Giê-su.  Khi Cai-pha hỏi Chúa Giê-su: “Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa không?”, Người đã nói cho ông biết: “Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông, rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng.” Cai-pha đã xé áo và kêu lớn tiếng: “Nó đã nói lộng ngôn!” (Mt. 26,64)

Nếu giả sử tôi nói với ông bà anh chị em: “Khi ông bà anh chị em lên Thiên đàng, ông bà anh chị em sẽ thấy các thiên thần, các thánh và tôi ngồi bên hữu Chúa Cha”, có lẽ ông bà anh chị em cho tôi là dại hay lộng ngôn.  Thế nhưng hình ảnh ngự bên hữu Chúa Cha của Chúa Giê-su đối với những người tin theo Chúa, nói lên sự cao cả bất diệt, nói lên vương quyền và nhất là thiên tính của Chúa Giê-su Ki-tô.  Chúng ta hãy nghĩ điều lạ lùng này: một con người như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi, ngự trên ngôi cao nhất trên Thiên đàng, đồng bản thể, chia sẻ vinh quang và quyền năng với Thiên Chúa Cha. Khi phó tế tiên khởi Tê-pha-nô bị tử vì đạo, trước khi chết đã thốt lên từ miệng ngài: “Kìa, tôi đã thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Chúa Cha.” (Cv. 7, 56)  Chúng ta thấy thánh Phao-lô đã diễn tả niềm tin lạ lùng này một cách mạnh mẽ trong bài đọc 2 hôm nay, ngài nói “Đối với chúng ta, là những kẻ tin, … công việc mà Thiên Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời,… Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài.” Thánh Phê-rô, trong bài giảng đầu tiên sau Lễ Ngũ tuần, đã mạnh mẽ tuyên xưng cho mọi người biết “Thiên Chúa đã cho Đức Ki-tô sống lại; tất cả chúng tôi xin làm chứng về điều ấy.  Vậy sau khi được nhắc lên bên hữu Thiên Chúa, Người đã ban Thánh Thần.” (Cv. 2, 33) Và chúng ta thấy thánh Phao-lô đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần về hình ảnh Chúa Giê-su ngự bên hữu Chúa Cha trong những thư của ngài, cùng trong thư gởi người Do thái.

Thánh Lu-ca cho chúng ta 2 sự kiện Lên Trời.  Trong bài đọc 1 sách Tông đồ công vụ, các tông đồ đưa mắt lên trời chăm chú nhìn ngắm Chúa Giê-su biến vào trong đám mây.  Trong bài Tin mừng, các tông đồ trở về Giê-ru-sa-lem với tâm hồn đầy vui mừng, nhận biết Chúa Giê-su Ki-tô –Chịu-Đóng Đinh-Chết-Trên-Thánh-Giá hiện đang sống.  Và trong cả 2 sự kiện, chúng ta được biết các tông đồ đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần từ Chúa Giê-su, Đấng ban cho các ông quyền năng để các ông đi khắp nơi loan báo Tin mừng, và can đảm làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô.

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúng ta hình dung sự kiện Chúa lên trời, được một đám mây bao phủ, che khuất mắt các tông đồ như được diễn tả trong sách Tông đồ công vụ, và từ đó không một con mắt của người phàm trần nào được thấy, trừ các thánh mà thôi.  Mặc dù con mắt phàm trần của chúng ta bị che kín, nhưng Kinh thánh muốn cho chúng ta thấy rõ Chúa Giê-su Ki-tô chia sẻ vinh quang và quyền năng với Thiên Chúa Cha trên Thiên đàng.  Chúng ta tin thật Thiên Chúa, Đấng đã làm cho thân thể Chúa Giê-su phục sinh sống lại từ cõi chết, đã ban Người cho Giáo hội, cho chúng ta, trở thành Ơn Cứu Độ và dẫn chúng ta đến vinh quang của Người.  Chúng ta biết, trước khi về trời Chúa Giê-su đã hứa: “Thầy đi và dọn chỗ cho chúng con rồi, Thầy lại đến đón chúng con về cùng Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng được ở đó.” (Ga 14:2-3). Và Chúa còn cầu nguyện cho ý hướng đó: “Lậy Cha, đối với những kẻ Cha đã trao phó cho con, thì con muốn rằng, hễ con ở đâu, họ cũng được ở đó với con, để họ mục kích sự vinh hiển Cha đã ban cho con.” (Ga 17:24).

Sự kiện Chúa về trời hay về Thiên đàng là dấu chỉ cho cùng đích của người Ki-tô hữu chúng ta. Chúng ta biết dù chúng ta có luyến tiếc tiền bạc, tài sản và sự nghiệp thế gian chùng nào đi nữa, một ngày nào đó, ta sẽ phải từ biệt mọi người và rời khỏi trần thế này.  Mừng kính Chúa về trời hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi: Có bao giờ chúng ta đã hướng cuộc sống và lòng trí chúng ta về trời không và như thế nào?  Hướng cuộc sống chúng ta về trời sẽ giúp chúng ta biết sống tốt lành, thánh thiện, đạo đức, công bằng, ngay thẳng, vị tha và bác ái hơn.  Hướng tâm hồn chúng ta về trời sẽ giúp chúng ta biết sử dụng những ơn lành Chúa ban một cách khôn ngoan và sáng suốt hơn, để chúng ta sống trong an bình và ơn sủng Chúa đời này, và khi đối diện với Chúa Giê-su Ki-tô Vua trước toà phán xét công minh đời sau, chúng ta sẽ được hưởng vinh quang với Người.  Một lần nữa, xin chúc tất cả các bà mẹ, trong Ngày Hiền Mẫu hôm nay, một ngày thật vui mừng và tràn đầy ơn lành của Chúa.

Về mục lục

.

TỪ BỎ ĐAM MÊ ĐỂ ĐƯỢC LÊN TRỜI

Lm. Giuse Nguyễn

Trong bài giảng sáng thứ Ba, 03/05/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xin mọi người đừng là Kitô hữu “xác ướp”, hay Kitô hữu “lang thang”. Đối với loại Kitô hữu lang thang, Ngài nói: “Khi đổi hướng sau bao nhiêu lần (con đường) trở thành một trận đồ huyền bí, một bến mê, và họ không biết làm sao để ra khỏi. Họ đã để mất tiếng gọi của Chúa Giêsu. Họ không có la bàn để tìm đường ra và họ cứ phải loay hoay tìm kiếm. Có những Kitô hữu kia, trên hành trình đã bị mê hoặc bởi một cái gì và họ dừng lại nửa đường, bị mê hoặc bởi cái gì họ thấy, bởi một ý tưởng, một đề nghị hay một phong cảnh đẹp. Và họ đã dừng lại! Đời sống Kitô không phải là một sự mê hoặc: mà là chân lý! Đó là Chúa Giêsu Kitô!”.

  1. Con đường về trời

Đời sống đức tin của chúng ta là bước theo Đức Giêsu Kitô. Ngài đã xuống thế làm người, sống với con người, chết cho con người, sống lại để ban ơn cứu độ cho con người, lên trời để đưa con người vào đời sống mới. Cho nên, nó là một cuộc tình để chúng ta gắn bó đời mình với Đấng đã yêu thương chúng ta, và chúng ta hạnh phúc.

Để có thể bước theo và gắn bó đời mình với Đấng đã yêu thương chúng ta, thánh Luca đã nói trong đoạn đầu của sách Tông Đồ Công Vụ: “Trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những viêc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho đến ngày Người được rước lên trời” (Cv 1, 1-2a). Nghĩa là Tin mừng đã tường thuật tất cả cho chúng ta về cuộc đời của Đức Giêsu. Vì vậy để yêu mến Đức Giêsu chúng ta phải yêu mến cuộc đời của Ngài trong Tin Mừng; để khỏi lạc đường, chúng ta có Tin Mừng là la bàn để chỉ đường cho chúng ta đi.

Ai trong chúng ta cũng biết mình xuất phát từ đâu? Mình đang làm gì? Và mình sẽ về đâu? Chúng ta xuất phát bởi tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa; chúng ta đang nổ lực để xây dựng cuộc đời mình trong sự canh tân của Chúa Thánh Thần; và chúng ta sẽ được về trời cùng với Đức Giêsu. Thế cho nên, con đường chúng ta đang đi là con đường về quê trời.

Vấn đề của chúng ta là vấn đề đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nêu lên trong bài giảng sáng ngày 03/05/2016 tại nhà nguyện thánh Macta: “Có những Kitô hữu kia, trên hành trình đã bị mê hoặc bởi một cái gì và họ dừng lại nửa đường, bị mê hoặc bởi cái gì họ thấy, bởi một ý tưởng, một đề nghị hay một phong cảnh đẹp. Và họ đã dừng lại!” Vấn đề ở chỗ có “một cái gì” đó đã cản trở chúng ta về trời.

  1. “Một cái gì đó!”

Không lạ lẫm gì với “một cái gì đó” cản trở con đường về trời của chúng ta. Nó chính là 7 mối tội đầu: “Kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, lười biếng”. Mọi sai lầm, mọi tội lỗi đều xuất phát từ đây. Mỗi người đều bị một, hoặc một vài, thậm chí là tất cả những mối tội đầu này cản trở khiến chúng ta “cất cánh” lên không nổi để về trời. Nó nặng quá, nó trì trệ chúng ta.

7 mối tội đầu này lại được bao bọc bởi một cái gì đó thật hấp dẫn khiến cho con người chúng ta khó từ chối; thậm chí nó trở thành một ma lực để lôi kéo con người đi đến chỗ chết.

Ví dụ mê dâm dục được bao bọc bởi sự thỏa mãn dục vọng. Càng ngày nó như một thứ thuốc phiện làm cho người ta bị nghiện không thể dứt ra được, mặc dù biết nó là xấu xa, tội lỗi. Đến một lúc nào đó nó trở thành tâm bệnh đối với một số người. Thế giới riêng tư của họ là một thế giới đầy dẫy những tư tưởng, những hình ảnh và những hành động bệnh hoạn liên quan đến dục vọng.

Vì những mối tội đầu này, cụ thể là tội mê dâm dục làm cho người ta không còn thấy con đường phía trước. Nó chính là thực tế mà Đức Giêsu đã nói: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Vì họ không có tâm hồn trong sạch nên đương nhiên họ không nhìn thấy Thiên Chúa. Và vì thế họ không thể bay lên, và càng không thể giúp người khác bay lên cùng Thiên Chúa, thậm chí còn cản trở người khác bởi gương mù gương xấu của mình.

  1. Đức Giêsu, Đấng chữa lành

Tuy nhiên, chúng ta không tuyệt vọng vì có Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ đời ta. Ngài là thể hiện Lòng Thương Xót của Chúa Cha. Ngài đã đến trần gian này và xuống tận âm phủ để mở cửa ngục cho các thánh; Ngài đã lên trời để mở đường cho những kẻ tin. “Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người” (Dt 10, 20).

Vì vậy để được chữa lành khỏi những đam mê “Chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ, còn thân xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền” (Dt 10, 22).

Để được chữa lành, chúng ta phải đến với Chúa trong tâm hồn bằng tất cả tình yêu và kết hợp với cuộc khổ nạn của Đức Giêsu bằng chính thân xác chúng ta.

Thường chúng ta chỉ để ý thờ phượng Chúa trong tâm hồn mà ít khi để ý kết hợp bằng cả thân xác chúng ta. Vì vậy không lạ lẫm gì khi chúng ta vẫn cố gắng mà không dứt bỏ được những đam mê, vì chúng ta chỉ nghĩ đến mà chưa làm.

a). Bằng cuộc khổ nạn

Chúng ta kết hợp với Đức Giêsu chịu khổ nạn trong thân xác của mình bằng việc từ bỏ những yêu thích của chúng ta. Chúng ta thường hay biện lý do hành động của mình không ảnh hưởng đến ai, việc làm của mình là để giải trí để sống trong những đam mê của mình… Khi người ta biết quan tâm đến người khác, thì những hành động thăm viếng, chăm sóc, phục vụ… là những hành động giải trí cao cả vô cùng, chẳng những không làm hại, mà còn đem lại lợi ích cho người khác. Sâu xa là vì chúng ta không có khả năng để từ bỏ. Từ những việc nhỏ đó, chúng ta sẽ thấy khả năng từ bỏ những đam mê của chúng ta đến mức nào. Thường những ai không quen từ bỏ những ham thích nho nhỏ thì không thể từ bỏ những lôi kéo, những đam mê của 7 mối tội đầu.

Chỉ khi nào chúng ta kết hợp với cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trong thân xác chúng ta, thì chúng ta mới được Chúa cứu độ bằng cuộc khổ nạn của Ngài.

b). Bằng ơn thánh của Ngài

Đức Giêsu cứu độ nhân loại bằng cuộc khổ nạn và tình yêu tuôn chảy từ Trái Tim, nghĩa là ơn thánh của Ngài. Vì vậy con người rất cần ơn Chúa trong các Bí tích để có thể thoát khỏi những đam mê. Nhưng vì người ta đón nhận các Bí tích một cách bất xứng nên thay vì đón nhận ơn thánh, họ đã “uống thuốc độc”, làm cho những đam mê ngày càng nặng nề hơn.

Người ta cần phải rời bỏ môi trường mình đang sống để tìm đến môi trường thánh thiện hơn cho Chúa chữa lành. Những buổi cầu nguyện, tĩnh tâm và linh thao là rất cần thiết. Đối với những ai đam mê quá nặng nề, thì cần có thời gian lâu dài hơn trong việc rời bỏ môi trường mình đang sống để sống thân mật với Chúa.

Lạy Chúa, con nhận ra con đường “lên trời” của con vẫn còn trì trệ bởi những đam mê quá nặng nề nơi thân xác của con. Con muốn được chữa lành nhưng con chưa kết hợp với cuộc khổ nạn của Đức Kitô nơi thân xác của con; con chưa biết quý trọng ơn thánh của Chúa. Vì vậy tình trạng của con ngày càng nặng nề hơn. Con không thể về trời và không thể hướng dẫn người khác về trời.

Lạy Trái Tim Vẹn Sạch Đức Maria, xin giúp con biết mạnh dạn dành thời gian thân mật với Chúa để khám phá ra những đam mê của mình. Khi ở gần bên Chúa, con sẽ được Chúa chữa lành để con dứt khoát từ bỏ những gì là nguy hiểm cho đời sống đức tin của mình, để con được về trời với Chúa.

Về mục lục

.

ĐƯỜNG LÊN TRỜI

Dã Quỳ

Xuyên suốt bài đọc Tin Mừng hôm nay, chúng ta cảm nhận một tình yêu chan chứa của Chúa Giêsu dành cho môn sinh. Những lời nhắn nhủ như càng tha thiết hơn! Chúa mong muốn môn đệ hiểu  và xác tín thâm sâu trong trái tim những  Lời Kinh Thánh nói về Thầy mình,về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người đã trải qua. Và giờ đây, sắp đến lúc Chúa rời các ông. Mong ước cuối cùng của Chúa trước khi về trời là các môn đệ trở thành chứng nhân cho Chúa. Con đường làm nhân chứng cũng là con đường dẫn về trời cao của môn đệ và của mỗi Kitô hữu.

– Chúa Giêsu lên trời, đánh dấu cuộc ra đi và vắng mặt của Chúa. Từ nay, môn đệ không còn thấy Chúa cách cụ thể, không đụng chạm, không nghe và cũng không đồng hành bên cạnh như trước đây Người đã sống cùng. Chúa ra đi và vắng mặt, nhưng Người sẽ hiện diện với môn đệ, với Giáo Hội và với mỗi người chúng ta bằng cách thế mới. Người không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa.

– Chúa Giêsu lên trời, kết thúc sứ mạng của Người nơi trần gian. Nhưng lại là lúc khởi đầu sứ mạng của môn đệ, sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa.

    Chúa cho các môn đệ hiểu vinh quang của Chúa đòi phải hy sinh. Muốn có phục sinh, phải chết. Hy sinh là biểu hiện của tình yêu, như hạt lúa gieo vào lòng đất phải thối và chết đi mới sinh bông hạt (x. Ga 12,24). Với Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa, chết là một bước trong quá trình biến đổi để đi tới Phục sinh. Chính vì thế, Chúa muốn môn đệ xác tín vững vàng để rồi:  “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân.”(Lc 24,47) , lời rao giảng Nhân Danh Người không ngoài lời rao giảng về Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa. Các Tông đồ và môn đệ sau này đã nằm lòng mỗi khi rao giảng cho dân chúng vì các ông là chứng nhân những gì các ông giảng. (x.CVTĐ 2, 22-24)

Trọng tâm của sứ vụ rao giảng là tác động của Chúa Thánh Thần. Người ban quyền năng và cho môn đệ hiểu tất cả Lời của Chúa Giêsu, sẽ hướng dẫn môn đệ biết phải làm gì, nên “Hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”(Lc 24,49) Vì thế, để ra đi thi hành sứ mạng, người môn đệ cần phải lắng nghe Lời Chúa để có thể hợp nhất trọn vẹn trong từng lời nói, hành động của ta với Chúa Cha và Chúa Giêsu, như chính Chúa Giêsu đã sống hiệp nhất với Cha “Lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra…”(Ga 14,10). Vậy sứ mạng chứng nhân luôn được Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hành và trợ giúp, vì đó là công việc của Thiên Chúa sai chúng ta làm. Chúng ta là khí cụ trong bàn tay Chúa nên hãy can đảm và tin tưởng ra đi vì có Chúa luôn gìn giữ vững bước chân của ta.

– Đường lên trời của người Kitô hữu chúng ta đó là con đường làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh bằng chính đời sống phục vụ, yêu thương, tha thứ, vui tươi…. Tiếp nối sứ mạng của các môn đệ, mỗi Kitô hữu cũng được Chúa sai vào trong thế gian. Dù sống giữa trần gian, nhưng chúng ta không thuộc về trần gian này. Chính Chúa Giêsu đã đến trần gian và sống trọn phận người, Chúa thấu hiểu những khổ đau, bi đát hay niềm vui, hạnh phúc của cuộc đời.

Có những khi chúng ta phải đối diện với bao nặng nề, gian khó của cuộc sống vì miếng cơm manh áo, đôi lúc làm chúng ta mệt mỏi, chán chường. Nhưng Lời Chúa và sức mạnh của Chúa đã giúp chúng ta tin tưởng nhận ra thánh ý Chúa và ơn gọi của mình giữa cuộc đời.

Sống sứ mạng chứng nhân của Kitô hữu, nhiều lúc chúng ta gặp phải bao sự chống đối, thù nghịch, chê bai… cũng làm chúng ta ngại ngùng, sợ hãi. Thế nhưng bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa luôn che chở, phù giúp chúng ta vượt thắng vững vàng.

Giữa thế gian luôn đầy dẫy những cám dỗ về quyền lực, tiền của, danh vọng…Có nhiều lần chúng ta cũng đã xao xuyến, lo âu, xem nhẹ hạnh phúc Nước Trời. Như các môn đệ xưa, chỉ nghĩ theo kiểu con người, mong có một vương quốc chính trị và chức vụ cao sang (x. CVTĐ 1,6) Nhưng rồi quyền năng và lòng thương xót Chúa đã dẫn chúng ta về với Người, để ta nhớ lại và ghi tâm “Quê hương chúng ta ở trên trời” và ta biết ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu để được thêm sức mạnh nâng đỡ.

Dẫu cuộc sống có vất vả nhọc nhằn nhưng không làm chúng ta quên trời cao, và vinh hoa của thế gian quyễn rũ không làm chân ta lạc lối về Quê Trời. Nhưng ta luôn biết tìm kiếm những gì thuộc thượng giới là bác ái, chia sẻ; là yêu thương, khiêm nhường; là công lý và hòa bình, …là sống tinh thần Nước Trời ngay tại thế… tất cả là thực thi Lời Chúa và Giới răn của Người, đó mới là những gì tồn tại và vĩnh cửu đưa chúng ta vào hưởng vinh quang bên Chúa.

– Đường lên trời là hành trình xa xôi, vất vả. Theo Chúa và làm chứng cho Chúa là sứ mạng khó khăn không đơn giản. Chúng ta còn đang loay hoay giữa biển đời. Nhưng niềm tin tưởng của ta đặt nơi chính Chúa. Chúa đã lên trời, Chúa là đầu, chúng ta là thân thể của Người (x.1Cr 12,27). Chỉ một mình Chúa đã từ trời xuống thế vì lòng thương xót nhân loại, nay Chúa lên trời thì chắc chắn khi chúng ta sống hợp nhất với Chúa và hoàn thành sứ mạng Chúa trao, chúng ta cũng sẽ có ngày đoàn tụ bên Chúa bởi Người đã hứa “Thầy đi dọn chỗ cho các con.” (x. Ga 14,2-3) vì trong nhà Cha có nhiều chỗ ở và đầu ở đâu thì thân thể cũng sẽ ở đó.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết đường lên trời và trung thành thực thi sứ mạng chứng nhân cho Chúa tại trần gian này. Nguyện Thánh Thần Chúa cùng đồng hành để chúng con có thể lên đường trong tin tưởng và an vui. Amen.

Về mục lục

.

LÀM CHỨNG CHO CHÚA THẾ NÀO CHO HIỆU QUẢ

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 24,46-53

(46) Khi ấy Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và bảo: “Có lời Kinh thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại. (47) Và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. (48) Chính anh em là chứng nhân của những điều này”. (49) Và đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống. (50) Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. (51) Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời. (52) Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, (53) và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

  1. Ý CHÍNH:

Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu sau khi phục sinh đã hiện ra với các môn đệ vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, nhằm mục đích dạy các ông hiểu Người trải qua cuộc tử nạn và phục sinh đúng như lời Thánh kinh, và các ông có bổn phận làm chứng về những điều mắt thấy tai nghe ấy. Người cũng hứa sẽ ban Thánh Thần đến giúp đỡ các ông. Sau đó, Đức Giêsu lên trời đang khi giơ tay chúc phúc cho các ông gần làng Bêtania. Rồi các ôing trở về Giêrusalem cầu nguyện đón nhận ơn Thánh Thần.

  1. CHÚ THÍCH:

C 46-48: + Khi ấy Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ: Về con số môn đệ được chứng kiến việc Chúa Giêsu lên trời thì Tin mừng Luca không nêu rõ, đang khi Tin mừng Mátthêu và Máccô nói là 11 ông (x Mt 28,16; Mc 16,15). Về nơi Chúa lên trời thì các tác giả không thống nhất: Luca cho biết ở gần làng Bêtania (x Lc 24,50), Mátthêu xác định là xứ Galilê, tại quả núi đã được Người chỉ định trước (x. Mt 28,16). Sách Công vụ thì cho biết Đức Giêsu lên trời tại núi Ôliu gần thành Giêrusalem (x Cv 1,12) + Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem: Luca luốn nhấn mạnh về tầm quan trọng của Giêrusalem. + Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Các Tông đồ được sai đi nói cho mọi người biết về Đức Giêsu, dựa theo những điều mắt thấy tai nghe tay sờ, sau khi Người đã từ cõi chết sống lại (x. Ga 21,24; Cv 3,15).

C 49-50: + Chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa: Đức Giêsu tiên báo điều Chúa Cha đã hứa là gửi Chúa Thánh Thần đến với các Tông đồ sau khi Người bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha (x Cv 1,8). + Cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống: Quyền năng này chính là sức mạnh của Thánh Thần. Trong Tân ước, Chúa Thánh Thần và quyền năng luôn gắn liền với nhau. Chẳng hạn trong biến cố truyền tin, sứ thần đã nói với Trinh nữ Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Sau khi chiến thắng Xatan cám dỗ, Đức Giêsu đã trở về Galilê trong quyền năng Thánh Thần để bắt đầu sứ vụ (x. Lc 4,14-19). Giờ đây, Đức Giêsu lại sắp trao cho các Tông đồ quyền năng Thánh Thần sau cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người. Từ đây, các Tông đồ đã cố gắng chu toàn sứ vụ làm chứng về mầu nhiệm Chúa Giêsu đã chết và sống lại (x. Cv 4,33). Các ông không dùng sức riêng làm các phép lạ, nhưng nhờ quyền năng Thiên Chúa và nhờ Danh Đức Giêsu Kitô (x Cv 3,16; 4,7-10). + Người dẫn các ông tới gần Bêtania: Với tư cách là Vua Mêsia, Đức Giêsu đã khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, bắt đầu từ làng Bêtania (x. Lc 19,28-29). Giờ đây với tư cách là Đấng Phục Sinh chiến thắng tử thần, Đức Giêsu cũng khải hòan về trời từ làng Bêtania này (x. Lc 24,50). + Rồi giơ tay chúc lành cho các ông: Thời Cựu ước, các Tổ phụ dân Ít-ra-en thường chúc lành cho con cháu trước khi chết như: I-xa-ác chúc lành cho Gia-cóp (x. St 27,23-29) ; Gia-cóp chúc phúc cho 12 con trai (x. St 49,28) ; Môsê chúc phúc cho con cái Ít-ra-en (x. Đnl 33,1). Ở đây, trước khi về trời, Chúa Giêsu cũng chúc lành cho các Tông đồ. Ngày nay, vào cuối Thánh lễ, linh mục chủ tế cũng chúc lành cho các tín hữu trước khi giải tán họ.

C 51-52: Người rời khỏi các ông và được rước lên trời: Qua sự kiện lên trời ở đây, tác giả Tin mừng Luca muốn cho thấy hai mầu nhiệm Phục Sinh và Thăng Thiên luôn gắn bó mật thiết với nhau. Trong sách Công vụ (1,6-11), tác giả Luca coi việc Thăng Thiên như kết thúc các lần Chúa hiện ra với các môn đệ, khởi đầu sứ vụ làm chứng cho Người tại Giêrusalem cho đến tận cùng thế giới (x. Cv 1,8).

  1. CÂU HỎI:

1) Chúa Giêsu đã lên trời ở nơi nào? Bao nhiêu môn đệ đã được chứng kiến Người lên trời ? 2) Theo Tin mừng Luca: Giêrusalem có vai trò gì trong công cuộc cứu độ của Đức Giêsu ? 3) Các Tông đồ phải làm gì để thi hành sứ vụ làm chứng nhân cho Đức Giêsu ? 4) Đức Giêsu hứa ban quyền năng từ trên cao xuống trên các Tông đồ. Vậy các ông đã nhận được quyền năng ấy khi nào ? 5) Tin mừng Luca cho thấy hai mầu nhiệm Phục Sinh và Thăng Thiên có liên quan với nhau ra sao?

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,47-48).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) SỨ MỆNH HOÀN TẤT TÁC PHẨM CỦA THẦY: 

 GIACOMO PUCCINI,  một nhạc sư sáng tác người Ý, đã để lại cho đời một số  những tác phẩm ca nhạc kịch (opera) rất nổi tiếng. Năm 1922, khi được 64 tuổi, nhạc sư Puccini bị bệnh ung thư ác tính. Mặc dù bị cơn bệnh hành hạ đau đớn, nhưng ông vẫn quyết tâm hoàn tất vở ca kịch TURANDOT mà bây giờ nhiều người  đánh giá là vở ca kịch hay nhất của ông. Ông đã làm việc ngày đêm không nghỉ. Nhiều người khuyên ông hãy nghỉ ngơi vì chắc ông sẽ khó lòng hoàn tất được vở ca kịch này. Khi cơn bệnh trở nên trầm trọng,  Puccini đã viết cho các học trò của ông như sau :”Nếu thầy phải ra đi không kịp hoàn tất được vở ca kịch Turandot,  thầy muốn các trò tiếp tục công việc để hoàn thành tác phẩm ấy cho thầy”.

Năm 1924, Puccini được đưa sang một bệnh viện tại nước Bỉ để chịu giải phẫu và hai ngày sau thì qua đời. Sau khi ông mất, các học trò của ông đã qui tụ lại, phân công mỗi người một phần tùy theo tài năng để hoàn tất vở ca kịch TURANDOT của thầy, và sau nhiều ngày vất vả, họ đã hoàn tất được vở ca kịch nổi tiếng này.         

Năm 1926, vở ca kịch TURANDOT lần đầu tiên được trình diễn tại nhà hát kịch ở Milan. Vở ca kịch đã được nhạc trưởng là môn sinh rất được Puccini ưa thích điều khiển. Khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở, những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người điều khiển. Ông đã ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuống, quay ra phía khán giả nói lớn: ”Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi lâu không một tiếng động! Sau đó, nhạc trưởng cầm cây đũa, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ và nói lớn: ”Nhưng các môn sinh của ông đã tiếp tục hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch kết thúc, cả nhà hát bùng lên những tràng pháo tay như sấm nổ vang trời. Mắt mọi người đều rơi lệ và từ đó về sau không ai có thể quên được giây phút đáng nhớ ấy (viết theo Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).

 Rao giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Người, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi tín hữu chúng ta nói riêng. Trước khi lìa xa môn đệ về trời, Chúa Giêsu đã để lại chúc thư cho Hội Thánh qua các Tông đồ như sau: ”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).

2) LÀM CHỨNG CHO CHÚA BẰNG LỜI NÓI:

Cách đây ít lâu, tờ “Lơ Figarô” (Le Figaro) đã có đăng một bài báo phỏng vấn Tổng thống Nga Putin, nội dung thuật lại việc ông Putin đã tuyên xưng đức tin để làm chứng cho Chúa như sau: Phóng viên hỏi ông Putin về chuyến đi Giêrusalem của ông mới đây, nhiều người đã thấy ông đến cầu nguyện tại mồ Đức Giêsu và trên tay có cầm cây thánh giá. Vậy ông có cảm thấy mâu thuẫn giữa việc trước đây từng là cựu sĩ quan của tình báo KGB với việc ngày nay lại bày tỏ đức tin vào Chúa Giêsu hay không?” Tổng thống Putin đã trả lời như sau: “Cuộc sống được tạo nên bằng những điều mâu thuẫn. Chỉ khi nào chết thì người ta mới hết mâu thuẫn… Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại ngạc nhiên khi thấy tôi cầm cây thánh giá mà cầu nguyện tại ngôi mộ của Chúa Giêsu? Tôi tự hào là một tín hữu Kitô… Niềm tin của tôi đã cho tôi thêm tinh thần và bình an trong tâm hồn”.

3) CHỨNG NHÂN BÁC ÁI : PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HIỆU QUẢ HÔM NAY.

Một tân tòng gặp một anh bạn vô tín. Người vô tín này đã hỏi thăm về việc theo đạo của anh như sau:

– Nghe nói anh mới theo đạo Công giáo phải không ?

– Vâng, đúng hơn là tôi mới theo làm môn đệ Chúa Giêsu.

– Thế thì chắc anh đã phải biết rõ về ông ta. Vậy hãy cho tôi biết ông Giêsu sinh ra ở đâu?

– Tôi đã học rồi, nhưng rất tiếc bây giờ tôi lại quên mất.

– Thế ông Giêsu sống ở trần gian bao nhiêu năm ?

– Tôi không nhớ rõ lắm.

– Vậy anh có biết ông ta đã giảng bao nhiêu bài, làm bao nhiêu phép lạ, có bao nhiêu tác phẩm đã viết về ông ta ?…Nói chung, sự nghiệp của ông ta như thế nào ?

– Tôi cũng không rõ lắm.

– Như vậy là anh đã biết quá ít về ông Giêsu. Vậy tại sao anh lại theo đạo của ông ta ?

– Anh đã nói đúng. Tôi rất xấu hổ vì mới chỉ biết qúa ít về Đức Giêsu. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là như thế này : ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ nần chồng chất. Gia đình lâm vào tình trạng bất hạnh. Vợ con đều buồn giận và không muốn nhìn mặt tôi. Tôi chán nản tuyệt vọng, thậm chí muốn đâm đầu vào xe lửa để chết quách đi cho xong. Nhưng một hôm tôi đã gặp được Đức Giêsu qua một người bạn công giáo. Anh này đã đưa tôi đến gặp một vị linh mục và tôi được vị linh mục khuyên chừa bỏ thói hư, được giới thiệu công ăn việc làm và được ghi tên theo học giáo lý công giáo. Sau một năm tôi đã trả hết được nợ nần, đã chừa bỏ được tật say sỉn, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Mỗi chiều vợ con tôi đều vui vẻ chào đón tôi về nhà sau giờ tan sở. Sở dĩ tôi được hạnh phúc như ngày nay, tất cả đều bắt nguồn từ niềm tin vào Đức Giêsu. Và đó là tất cả những gì tôi biết rõ về Người !!!

  1. THẢO LUẬN: 1) Con người ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn các bậc thầy dạy, thích nhìn thấy những gương sáng hơn nghe lời giảng suông, như Ba-banh (Babin) đã nói: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Giêsu, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ đi loan báo Người”. Bạn có đồng ý với các nhận định nói trên hay không ? Tại sao ? 2) Trong quá khứ, bạn đã làm được việc nào tâm đắc nhất để làm chứng cho Chúa ? Bạn quyết tâm sẽ làm chứng cho Chúa như thế nào trước mặt bạn bè, đồng nghiệp hay người xa lạ trong những ngày sắp tới ?
  2. SUY NIỆM:

1) Cần xác tín về quê trời đời sau: Trước cuộc tử nạn, Đức Giêsu dã khích lệ các môn đệ như sau: ”Lòng anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi. Vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại, và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”(Ga 14,1-3). Thánh Phaolô cũng khẳng định: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20).

Trong thực tế, chúng ta phải thừa nhận như thánh Phaolô: “Có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; Họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này” (Pl 3,17). Có nhiều tín hữu đã quá bám víu vào các thực tại trần gian là những cái nay còn mai mất, như: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, chức quyền… Thánh Phaolô khuyên các tín hữu Philipphê, cũng là khuyên mỗi người chúng ta hôm nay: Phần chúng ta, chúng ta có quê hương thật ở trên trời, nơi đó chúng ta sẽ gặp đấng cứu chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Pl. 3,17-20)

2) Điều kiện để được lên trời là phải sống đức Tin bằng đức Cậy và đức Mến:

Để được vào Nước Trời do Đức Giêsu thiết lập, các tín hữu phải tin Thiên Chúa và tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến là Giêsu Kitô. Tin bằng lời tuyên xưng đức tin mà thôi chưa đủ, nhưng còn phải thể hiện đức tin bằng hành động, là vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã dạy: ”Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa ! Lạy Chúa !” là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21-23). Cụ thể muốn vào Nước Trời phải tuyên xưng đức tin bằng đức Cậy là sự chuyên cần cầu nguyện và thực thi đức Mến là quan tâm chia sẻ và khiêm nhường phục vụ Chúa dang hiện thân nơi tha nhân, đặc biệt phục vụ những người nghèo hèn bệnh tật và đau khổ…

3) Về sứ vụ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu hôm nay? :

– Đức giáo hòang Phaolô VI đã nói: ”Mỗi ngưởi giáo dân, tự bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi lãnh nhận phép rửa tội và thêm sức, chúng ta đã được Đức Giêsu trao cho sứ vụ làm chứng cho Người. Ngày nay tuy chúng ta không xem thấy, không được gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu như các Tông đồ hay như dân Do thái khi xưa, nhưng chúng ta nhờ đức tin, vẫn có thể suy niệm và thực hành Lời Chúa và nhận được ơn Thánh Thần để nên con người mới giống như Đức Giêsu. Cách thức làm chứng tốt nhất là bằng lối sống quên mình vị tha bác ái noi theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

– Cụ thể đòi người tín hữu phải làm cho tình yêu thương, sự khiêm nhường phục vụ của Chúa thấm nhập vào môi trường gia đình và xã hội. Một kitô-hữu đích thực không thể làm ngơ, hoặc khoanh tay trước những vấn đề bức súc của xã hội như: sự bất công, nghèo đói, thất nghiệp, luân lý suy đồi, các tệ nạn tham ô, trộm cướp, mãi dâm, ma túy, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường v.v… Lối sống đạo của các tín hữu hôm nay không phải chỉ dừng lại ở việc đọc kinh đi lễ để được lên thiên đàng, và mặc kệ nỗi đau của tha nhân bên cạnh. Giáo Hội kêu gọi mỗi tín hữu phải ý thức sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng lời rao giảng kèm theo lối sống chứng nhân bác ái, tích cực góp phần xây dựng môi trường ngày một Xanh Sạch Đẹp, không còn cảnh bất công bóc lột và góp phần bài trừ các tệ nạn xã hội…

4) Phải truyền giáo thế nào để giúp anh em lương dân nhận biết tin yêu Chúa?:

Nên nhớ rằng: Việc giúp một người lương từ bỏ đạo mình đang theo để gia nhập vào đạo công giáo không dễ thực hiện chút nào. Nó đòi các tín hữu chúng ta phải áp dụng các phương pháp tích cực phù hợp như sau:

  1. a) Cần tránh những lối hành đạo chỉ mang tính đạo đức bề ngoài: như thi đua xây dựng nhà thờ mình cho to, tổ chức những lễ hội mang tính phô trương hoành tráng … Nhưng cần chú trọng xây dựng một lối sống đạo dựa trên việc học sống Lời Chúa, thực thi bác ái cụ thể …
  2. b) Cần tránh lối hành xử coi thường người lương, vì dễ gây bất mãn khi họ có dịp tiếp xúc với ban hành giáo hay các mục tử chăn thuê vụ luật và thiếu lòng thương xót như Mục Tử Giêsu.
  3. c) Cần năng cầu nguyện cho việc truyền giáo như Đưc Giêsu dạy: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Anh em hãy xin Chủ ruộng sai thêm thợ gặt đến”. Việc truyền giáo là công việc vượt quá tầm sức tự nhiên của loài người chúng ta nên cần được Thánh Thần trợ giúp, như Chúa Giêsu đã nói: “Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5), hoặc như lời sứ thần Gáprien nói với Đức Maria: “Vì không có gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37), và lời của thánh Phaolô: “Tôi trồng, Apôlô tưới, nhưng Chúa mới làm cho cây mọc lên” (1 Cr 3,6).
  4. d) Việc truyền giáo phải cụ thể: Cần quan tâm cầu nguyện và ưu tiên tiếp xúc với người lương là thân nhân của mình như cha mẹ, chồng vợ, anh chị em ruột thịt, bạn bè cùng cơ quan… để xin Chúa ban ơn giúp họ sớm nhận biết tin yêu Chúa… Hãy trao tặng các sách báo công giáo để họ có dịp tìm hiểu về đạo như các sách giáo lý công giáo, sách giải đáp thắc mắc về đức tin, sách truyện Kinh thánh Cựu Tân Ước, truyện các thánh…
  5. e) Vai trò của Chúa Thánh Thần: Thời Hội Thánh Sơ Khai, nhờ lời giảng của Chúa Giêsu về Nước Trời, lời rao giảng của các Tông đồ về mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu với ơn soi dẫn của Thánh Thần, mà nhiều người lương đã nhận biết tội lỗi để ăn năn sám hối và tin vào Chúa Giêsu và nhận được tái sinh trong phép rửa tội và thêm sức.
  6. f) Cần phải có cú “hích” cụ thể: Các việc tốt nói trên mới chỉ là tạo điều kiện giúp người lương hiểu biết và có thiện cảm với đạo. Họ cần phải có một “cú hích” để quyết tâm vượt qua mọi khó khăn rào cản do thành kiến quá khứ, do gia đình hay người thân cấm cản. Cũng nhờ có tình yêu của người công giáo mà một bạn trai hay gái ngoại đạo sẽ quyết tâm vượt qua các rào cản tâm lý tinh thần nói trên. Nhờ tham dự khóa giáo lý dự tòng, giáo lý hôn phối, mà người lương tập sống thành thói quen đạo đức và đức tin dựa trên thực hành Lời Chúa sẽ ngày một thêm vững chắc hơn.
  7. g) Vai trò của các phép lạ: Ngày nay anh em lương dân cũng rất cần những “cú hích” là các phép lạ do lòng Chúa Thương Xót ban cho, các phép lạ qua lời bầu cử của Đức Mẹ Lavang, Đức Mẹ Tàpao, thánh cả Giuse, thánh Vinh Sơn, thánh Antôn hay cha Trương bửu Diệp… Nhờ đó họ sẽ dễ dàng đạt tới đức tin hơn.
  8. h) Để thực hành, các tín hữu chúng ta hãy mời các người lương quen biết cùng đi nghe giảng các dịp lễ lớn trong đạo, cùng tham dự các buổi hành hương đến các linh địa để khấn nguyện, cùng tham gia các công tác thăm viếng bác ái như chia sẻ cơm áo cho người nghèo vùng sâu vùng xa, các trại khuyết tật, trại mồ côi, trại dưỡng lão… nhờ đó họ sẽ dễ dàng đón nhận đức tin hơn.
  9. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊSU. Tuy là Con Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương nhân lọai mà Chúa đã vâng lời Chúa Cha, từ trời xuống thế làm người. Chúa đã tình nguyện mang thân phận một người phàm. Chúa đã nên giống như chúng con mọi đàng ngoại trừ không phạm tội. Chúa đã biểu lộ một tình yêu tột đỉnh khi sẵn sàng chấp nhận mọi nỗi đau khổ và cả cái chết trên cây thập giá, để đền tội thay cho chúng con và sống lại để phục hồi sự sống cho chúng con.

– LẠY CHÚA. Hôm nay mừng ngày Chúa về trời. Xin cho chúng con nhớ rằng: “Quê hương chúng con ở trên trời, nơi đó chúng con sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc” là Chúa. Xin giúp chúng con chu toàn bổn phận làm con yêu của Chúa Cha và làm anh chị em của mọi người. Xin cho chúng con tích cực góp phần xây dựng xã hội chúng con đang sống ngày một tươi đẹp hạnh phúc hơn, công bằng nhân ái hơn. Xin cho chúng con ý thức rằng: tuy sống giữa thế gian nhưng chúng con không thuộc về trần gian. Xin đừng để chúng con quá quyến luyến những của cải vật chất đời này nay còn mai mất, nhưng luôn biết phó thác cậy trông, và quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người nghèo, an ủi giúp đỡ những người đau khổ … để sau này chúng con được về quê trời vui hưởng hạnh phúc mãi mãi bên Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

“HÃY NHÂN DANH NGƯỜI MÀ RAO GIẢNG”

Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh

Chính thánh Luca, đã từng ghi lại thao thức của Chúa Giêsu về sứ mạng truyền giáo, khi đề nghị các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin Chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. (Lc 10, 2).

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chọn chính lời của Chúa Giêsu làm chủ đề cho Sứ điệp Ơn gọi 2004, để xin mọi người cầu nguyện cho việc truyền giáo, cách riêng cho những người sống ơn gọi tu trì  “luôn trung thành với ơn gọi của mình và đạt tới mức cao độ nhất của sự hoàn thiện Phúc Âm” (Sứ điệp Ơn gọi 2004, số 3).

Đến lúc Chúa về trời, một lần nữa, thánh Luca đã không bỏ qua chi tiết quan trọng trong di chúc của Người: “Hãy nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem” (Lc 24, 47). Những lời ấy chỉ ít phút trước khi Người “lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa”, trở thành lẽ sống, thành hướng nhắm để đi tới, thành mục tiêu để theo đuổi và là hoạt động không ngơi nghỉ của Hội Thánh.

Bởi từ ngày Chúa rời trần gian, bất cứ làm gì, dù chiêm niệm, cầu nguyện, sinh hoạt thường nhật của đời sống, làm công tác xã hội và từ thiện… Hay suy nghĩ gì, cử hành mầu nhiệm và bí tích nào, tổ chức phong trào nào… Hội Thánh cũng chỉ quy về một việc duy nhất: giới thiệu Chúa Kitô cho con người, và thánh hóa lòng người. Hội Thánh làm như thế vì, hơn ai hết, Hội Thánh hiểu rõ: truyền giáo là sự sống của mình.

Riêng quê hương Việt Nam, cách đây trên dưới năm trăm năm, vào năm 1533, Hội Thánh Việt Nam đã bắt đầu phôi thai với sự hiện diện của một giáo sĩ Tây dương tên là Inikhu. Ngài đến làng Ninh Cường, và làng Trà Lũ, thuộc giáo phận Bùi Chu ngày nay…

Nhờ những bước chân mở mang truyền giáo ấy, Tin Mừng đã bắt đầu. Hạt giống Lời Chúa đã gieo, vẫn âm ỉ, để khi có điều kiện, sẽ nảy nở và trổ sinh trong lòng người. Tất nhiên, điều đó cần ơn Chúa và nỗ lực truyền giáo của người Kitô hữu, có khi rất gian truân, đòi hỏi công sức, hy sinh, kể cả mồ hôi, nước mắt và đổ máu.

Một nửa thiên niên kỷ, dù không thể sánh với nhiều Hội Thánh địa phương khác, càng không thể sánh với Hội Thánh hoàn vũ đã mấy ngàn năm, Hội Thánh Việt Nam vẫn tự hào vẽ thêm một đường lịch sử  không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ dừng lại trên trang sử  đức tin.

Ý thức truyền giáo của Hội Thánh Việt Nam phải vượt nhiều thử thách, do lòng người đố kỵ, thù ghét, cả lo sợ sự phát triển và ảnh hưởng của Hội Thánh, nên chưa khi nào Hội Thánh Việt Nam sống trong bình yên thực sự, chưa bao giờ được tôn trọng đúng mức.

Thật lạ lùng, càng khó khăn, Hội Thánh Việt Nam càng thắm thiết với đức tin. Ơn gọi tu trì của Hội Thánh Việt Nam không thiếu, nơi nào có người Việt Nam sinh sống, dù quê nhà, hay quê người, vẫn có người Công giáo Việt Nam hiến dâng cuộc đời cho Chúa. Các nhà thờ bao giờ cũng đông đảo. Các lớp giáo lý, các nhóm chia sẻ Lời Chúa, các hội đoàn, phong trào đạo đức, các tổ chức làm công tác xã hội… vẫn không ngừng phát triển.

Nhưng những gì Hội Thánh Việt Nam đã làm, chưa là tất cả của công tác truyền giáo. Nhiệm vụ của Hội Thánh Việt Nam chưa bao giờ kết thúc. Sau nửa thiên niên kỷ, hình như đó chỉ là cánh cửa vừa mở ra. Trách nhiệm của từng người Công giáo Việt Nam hôm nay phải luôn luôn ra đi theo lối mở ấy của tiền nhân để nhân danh Thiên Chúa và làm chứng cho Người bằng cuộc sống chứng tá của mình ngay trong hoàn cảnh hiện tại.

Chúng ta cần ghi nhớ: Hội Thánh nơi quê hương này, thuở ban đầu, là cả một cánh đồng truyền giáo bao la. Nhưng đã năm thế kỷ đi qua, quê hương vẫn chỉ là một cánh đồng bao la mà chúng ta phải truyền giáo!

Mừng lễ Chúa về trời, ôn lại thao thức truyền giáo của Người, lắng nghe lời Người: “Hãy nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem” (Lc 24, 47), ta nhận ra nhiệm vụ lớn lao và vinh dự của mỗi người Việt Công giáo hôm nay. Đó là tiếp nối bước chân truyền giáo của Chúa, noi gương Người, cùng với lớp lớp cha ông, lên đường mang ơn cứu rổi cho cuộc đời, cho con người.

Có hai cách để chúng ta hoạt động truyền giáo theo khả năng của mình:

Cách 1: Chúng ta hãy khẩn thiết: “Xin Chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10, 2). Đó là bổn phận cầu nguyện cho việc truyền giáo của bạn và tôi. Chúng ta cầu xin Chúa “cho có nhiều trái tim quảng đại biết cảm thương những cảnh đời bơ vơ không người chăn dắt; nhiều tâm hồn thiện chí dấn thân ra đi loan báo Tin Mừng” (Thư chung 2004 – HĐGM VN).

Cách 2: Hãy nhớ rằng, trước khi là người loan báo Tin Mừng, bản thân người Công giáo phải sống Tin Mừng ấy. Vì thế, “nêu gương sống lương tâm Công giáo” là việc cấp bách, liên lỉ. Bởi vậy, người tín hữu “hãy nỗ lực cùng với đồng bào xây dựng một nếp sống lành mạnh trong khu phố xóm làng, loại trừ mọi tệ đoan tật xấu. Đặc biệt, hãy nêu gương tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, sống theo lương tâm ngay thẳng… Nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương. Không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận…” (Thư chung 2003).

Chúa Giêsu đã về trời. Biến cố về trời ấy bế mạc giai đoạn hiện diện của Người trên trần gian, nhưng khai mạc giai đoạn hiện diện và hoạt động của Hội Thánh.

Bởi vậy, Hội Thánh nói chung và Hội Thánh tại Việt Nam nói riêng, vẫn tiếp tục được mời gọi chia sẻ chức vụ mục tử của Chúa Giêsu, đem ơn thánh hóa, cứu độ mọi người và chính đồng bào Việt Nam của mình.

Nhưng nỗ lực sống lời mời gọi chia sẻ chức vụ của Chúa Kitô, phải là nỗ lực của từng cá nhân, trong từng ngày sống. Vậy bản thân chúng ta hãy tiếp nối sứ vụ của Chúa, bằng cách sống vai trò chứng nhân của tình yêu Chúa trong từng giây phút sống của mình.

Về mục lục

.

HƯỚNG LÒNG VỀ TRỜI

Huệ Minh

Ai nào đó trong cuộc đời cũng hơn một lần chứng kiến cảnh chia xa. Có khi là chia tay để lên Sài Thành đi học hay lập nghiệp. Có khi là chia tay để đi … vượt biên và có khi là chia tay người thân của mình khi người thân của mình ra đi trở về lòng đất mẹ.

Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.

Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.

Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.

Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho ta thấy Chúa Giêsu là Thiên Chúa xuống thế trần để làm – Người, cũng có linh hồn và thân xác như ta. Đến thời gian đã định, Chúa Giêsu sẽ lên trời và đoàn tụ với Thiên Chúa là Cha của Ngài. Đây là những ý nghĩa sâu xa nhất củabiên cố Chúa lên trời: Chúa Giêsu, đã chiến thắng trên sự chết, đã bắt đầu một cuộc sống mới với Thiên Chúa, là Cha của Ngài.

Chúa Giêsu ra đi trước ta, cũng để chuẩn bị một nơi cho ta trên Thiên đàng. Chúa Giêsu cùng tham dự vào một cuộc sống mới với Cha Ngài trên Trời. Và rồi, Ngài muốn đem mỗi người chúng ta cùng vào sống chung cùng cuộc sống với Ngài để ta được hạnh phúc viên mãn với Ngài.

Chúa Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất. Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.

Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ. Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn. Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng. Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.

Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt. Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng quê hương này huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn, để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.

Trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời có điểm khác biệt là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.

Đặc điểm nữa trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.

Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.

Ta không được khoanh tay nhìn trời, nhưng lòng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời. Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời, thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.

Ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất: ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói và nhất là vấn đề xây dựng con người.

Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề. Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra, bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực. Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng, và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).

“Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1). Đừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.

Ước gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước Trời tại thế mái ấm gia đình để sau Lễ Lên Trời này. Và rồi ta sẽ theo bước chân của các môn đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc.

Về mục lục

.

TRUYỀN THÔNG LỜI CHÚA

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

“Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Chúa Kitô, trước khi về trời, đã để lại cho Hội Thánh mệnh lệnh truyền giáo như lời di chúc đặc biệt mà Hội Thánh phải cất giữ và ấp ủ từng ngày, để thao thức truyền giáo của Chúa Kitô trở thành nỗi thao thức và niềm say mê của Hội Thánh.

Có thể nói, ngày Chúa Kitô về trời là ngày mở ra sứ mạng của Hội Thánh: Hội thánh phải truyền thông Lời Chúa. Sứ mạng này phải được thi hành nhanh chóng, cấp bách. Đó là nhiệm vụ không miễn trừ một ai, miễn là chúng ta sống trong lòng Hội Thánh.

Nội dung của ngày lễ Chúa lên trời nhấn mạnh đến sứ mạng truyền giáo càng nói lên tính khẩn thiết, khi Hội Thánh gọi ngày lễ này là ngày Quốc tế Truyền thông.

Năm 1966, Đức Phaolô VI chọn ngày lễ Chúa Giêsu thăng thiên làm ngày Quốc tế Truyền thông. Có ba lý do để Đức Giáo hoàng chọn ngày lễ này chứ không chọn ngày nào khác:

1. Đức Giáo hoàng muốn nhấn mạnh việc rao giảng Lời Chúa, tức là truyền thông Lời Chúa cho anh chị em của mình.

2. Truyền thông Lời Chúa là mệnh lệnh mà Chúa truyền cho Hội Thánh trong chính ngày lễ này là hãy nhân danh Chúa mà rao giảng cho muôn dân.

3. Đức Giáo hoàng nhắc nhở những người làm truyền thông, nhất là người Công giáo, hãy truyền thông sự thật, truyền thông niềm hy vọng, truyền thông những điều tốt lành, phù hợp với Lời Chúa, phù hợp thánh ý Chúa.

Phải truyền thông Lời Chúa. Lệnh truyền ấy vừa là bổn phận, vừa làm cho Hội Thánh vinh quang:

– Bổn phận là vì Hội Thánh phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô: “Ngày sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).

Và một khi thi hành sứ mạng truyền giáo, sứ mạng ấy trở thành nhiệm vụ cốt yếu của cả Hội Thánh và của từng người: “Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn” (Cv 6,2). Thánh Phaolô còn nói mạnh hơn về nghĩa vụ không thể bỏ qua của việc thực thi sứ mạng truyền giáo: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”.

– Còn vinh quang là vì Hội Thánh được cộng tác với Chúa Kitô mang ơn cứu độ cho trần gian. Lời Thiên Chúa là Lời quyền năng, lại được trao và tay con người. Không phải chỉ hôm nay, nhưng đã có từ muôn thuở: “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các ngôn sứ” (Dt 1,1).

Nhận lãnh sứ mạng truyền thông Lời Chúa, những con người mỏng dòn, yếu đuối lại tiếp tục trao gởi cho hết thế hệ này đến thế hệ khác Lời sự sống sống, để mọi thời, từng con người phải ấp ủ cho mình ngày càng trưởng thành, rồi đem Lời luôn được ấp ủ ấy san sẻ cho nhau.

Ý thức bổn phận vinh quang ấy, Hội Thánh luôn luôn lên đường dấn thân cho hoạt động truyền giáo.

Thế là con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá, con người yếu đuối công bố Lời quyền năng, con ngươi giới hạn công bố Lời vĩnh cửu.

Ý thức mệnh lệnh cuối cùng của Chúa trước khi về Nhà Cha là hãy truyền thông Lời Chúa, ta lên đường bằng tất cả những gì có thể làm được để Lời Chúa được gieo vào lòng người.

Hãy tin tưởng và can đảm truyền thông Lời Chúa không bao giờ sợ hãi, để “những gì Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà mà rao giảng” (Mt 10, 27).

Hãy gieo lời Chúa chăm chỉ miệt mài như người gieo giống: gieo khắp nơi, gieo trong mọi hoàn cảnh, dù đó là “đất tốt” kết quả đạt đến “gấp trăm, hoặc “sáu mươi”, hoặc “ba mươi”, hay đó chỉ là “vệ đường”, là “nơi sỏi đá”, là “bụi gai” (Mt 13, 3-9).

Hãy gieo Lời Chúa đến cùng, gieo “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện”.

Về mục lục

.

SỨC MẠNH TỪ TRỜI CAO

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Ðức Giêsu được đưa về trời khiến cả nhân loại hoan hỷ.
Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người,
nếm cái nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng.
Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại ê chề.
nhưng rồi Ngài đã được phục sinh, đã hiện ra,
và được khải hoàn đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Ngài từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Sứ mạng Cha giao, tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.
Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được siêu thăng.
Ngài giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế.
Ngài về trời trong tư thế đang chúc lành.
Chúc lành cho trái đất mà Ngài đã sống.
Chúc lành cho mọi người là người như Ngài.
Hôm nay chúng ta vui vì biết mình có người Anh trưởng
đã được nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh.
Con người đầu tiên với tất cả nhân tính như ta
đã được siêu tôn trên trời, dưới đất và nơi âm phủ.
Sự thành công của Ðức Giêsu là niềm hy vọng cho ta.
Cùng đi với Ngài trên con đường cheo leo ấy,
Chúng ta tin mình sẽ đến nơi mà Ngài đã đến.

Ðức Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất.
Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.
Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ.
Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn.
Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng.
Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.
Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời,
vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt.
Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng quê hương này
huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn,
để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.
Chúng ta không được khoanh tay nhìn trời,
nhưng lòng chúng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời.
Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời,
thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.
Chúng ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần
để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất:
ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói
và nhất là vấn đề xây dựng con người.

Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng
nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề.
Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra,
bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực.
Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm
khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng,
và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).
“Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1).
Ðừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.
Ước gì Chúa Giêsu, Ðấng được đưa lên cao,
kéo ta lên khỏi cái tầm thường ô trọc mỗi ngày.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Về mục lục

.