CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA. NĂM C_2019

182

LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Lời Chúa: Is 42, 1-4. 6-7; Cv 10, 34-38; Lc 3, 15-16. 21-22

———

Mục lục

1. Nước hủy diệt và nưới tái sinh (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Chiên gánh tội  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Phép rửa của Gioan (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Chúa Giêsu chịu phép rửa (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Thánh Tử  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

6. Con yêu dấu  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

7. Suy niệm Lễ Chúa Chịu Phép Rửa  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

8. Hạ mình  (Trầm Thiên Thu)

9. Ta hài lòng về con  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

10. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Lễ ChúaGiêsu chịu phép rửa (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

11. Thiên Chúa nhập cuộc với con người (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

12. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa  (Lm. Fx. Nguyễn Văn Toàn)

13. Đến sông Gio-đan (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

14. Dòng sông ơn thánh  (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

15. Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

16. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con (JM. Lam Thy, ĐVD)

17. Kitô hữu đích thực (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

18. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa_C  (Lm. Antôn)

19. Trông cậy Chúa (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

20. Khiêm nhường đạt ơn cứu độ  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

21. Hồng ân tái sinh (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

22. Hội viên tiên khởi (Lm. Vũ Đình Tường)

23. Chúa Giêsu không ba phải  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

24. Liên đới (Lm. Thái Sơn)

 

.

NƯỚC HỦY DIỆT VÀ NƯỚC TÁI SINH

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Hằng năm, chúng ta chứng kiến sự hủy diệt kinh hoàng của những dòng nước lũ. Tại một số địa phương ở miền Trung, mỗi năm lũ quét đi biết bao nhà cửa, hoa màu và cả mạng sống, khiến cuộc sống của người dân vốn đã nghèo lại thêm kiệt quệ.

Tuy có sức hủy diệt kinh hoàng, nước lại rất cần thiết đối với đời sống của chúng ta, đến nỗi nước được đồng hóa với sự sống. Các chuyên viên nghiên cứu đã đưa ra những cảnh báo, khoảng vài chục năm nữa, nạn thiếu nước sẽ trở nên rất nghiêm trọng. Hiện tượng biến đối khí hậu sẽ làm giảm lượng mưa hằng năm, gây hạn hán khô cằn ảnh hưởng đến đời sống con người cũng như động vật, cỏ cây.

Nước vừa có sức hủy diệt, vừa có khả năng tái sinh

Hôm nay, Phụng vụ cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, với mục đích vừa nhắc nhớ sự kiện Chúa Giêsu lãnh phép rửa bởi tay ông Gioan Tẩy giả, vừa khẳng định, với việc dìm mình xuống dòng nước sông Giordan, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thanh tẩy (hay Bí tích Rửa tội), là nguồn mạch sự sống mới nơi người Kitô hữu chúng ta.

Đức Giêsu là Thiên Chúa chí thánh. Người hoàn toàn thánh thiện vô tội, không cần phải thanh tẩy. Tuy vậy, qua việc lãnh nhận nghi thức Thanh tẩy, Chúa khiêm nhường hòa mình vào dòng người đang nhận mình là tội nhân để sám hối. Quả vậy, Chúa trở nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4,16).  Thánh Phaolô đã nói: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

Phép Thanh tẩy mà ông Gioan cử hành tại sông Giordan chỉ là nghi thức sám hối. Từ nghi thức này, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh tẩy. Dòng nước Thánh tẩy vừa mang tính sám hối (hủy diệt tội lỗi), vừa mang giá trị tái sinh (sinh ra trong đức tin). Nhờ dòng nước Thanh tẩy, con người cũ của chúng ta chấp nhận chết đi, nhường chỗ cho con người mới, được sinh ra trong ân sủng. Tái sinh là một điều kiện cần thiết để trở thành con cái Chúa. Trong cuộc đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 4,5). Đồng thời với dòng nước thanh tẩy, Chúa Thánh Thần can thiệp để làm cho người thụ tẩy trở nên tạo vật mới, đoạn tuyệt với tội lỗi, sang một trang sử mới. Nhờ được thanh tẩy nhân danh Chúa Ba Ngôi, người tín hữu trở nên đền thờ cho Chúa ngự, để rồi, bất kỳ hoàn cảnh nào, họ được Chúa yêu thương bao bọc chở che. Ơn của Phép Rửa chính là sự canh tân đổi mới tâm hồn do Chúa Thánh Thần thực hiện, nhờ công nghiệp Đức Kitô (Bài đọc II).

Trình thuật Chúa Giêsu chịu phép Rửa được Thánh Luca thuật lại, mang hình thức của một cuộc phong vương trong thời vua chúa ngày xưa, rất uy nghi và long trọng. Hơn cả một cuộc phong vương, vì đây còn là một cuộc hiển linh hay “thần hiện”. Chúa Cha được diễn tả qua lời nói, Chúa Thánh Thần được diễn tả qua hình chim bồ câu. Từ thuở ban đầu, Thiên Chúa dùng Lời của Ngài mà sáng tạo muôn loài. Trước khi sáng tạo, có Thần Khí Chúa bay lượn trên mặt nước thinh không. Hôm nay, nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa thực hiện một cuộc sáng tạo mới, cũng bằng Lời của Ngài, nhưng đó chính là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Chúa Cha đã giới thiệu Con của Ngài với toàn nhân loại: “Con là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”. Chúa Giêsu là mẫu mực hoàn hảo cho mọi người. Nhờ Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trở nên giống như Chúa Giêsu, nên đồng hình đồng dạng với Người và cùng Người hưởng gia nghiệp đời đời Chúa Cha đã hứa ban cho người công chính. Bài ca của Ngôn sứ Isaia thấm đượm niềm vui vì vinh quang Chúa tỏ hiện oai hùng. Đó chính là ngày giải phóng đối với dân lưu đày và ngày yên ủi đối với người cùng khổ. Những ai cậy trông nơi Ngài sẽ được Ngài dẫn dắt (Bài đọc I).

Phép Rửa trao cho chúng ta vinh dự lớn lao, làm cho ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, đồng thừa tự với Đức Giêsu. Phép Rửa cũng trao cho chúng ta những trách nhiệm, qua ba chức năng: Ngôn sứ, Tư tế và Quản trị. Nếu hiểu và chuyên tâm thực thi ba chức năng này, chúng ta sẽ góp phần tích cực trong việc xây dựng Giáo Hội và nhiệt thành làm chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống hôm nay.

Về mục lục

.

CHIÊN GÁNH TỘI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Con người sinh ra vốn không ai hoàn hảo, và mỗi người chúng ta thường tự chất vấn bản thân mình không biết bao nhiêu lần trong đời về những điểm yếu của bản thân.

Nhưng liệu có bao nhiêu người trong chúng ta dám thẳng thắn thừa nhận điểm yếu của mình, sau đó khắc phục chúng và vươn lên trong cuộc sống?

Có lẽ, biết nhận cái sai và dám sửa sai không một dân tộc nào bằng người của Xứ Sở Hoa Anh Đào.Chúng ta đã không còn xa lạ với hình ảnh các doanh nghiệp, tập thể hay cá nhân người Nhật Bản cúi gập mình xin lỗi khách hàng, cộng đồng mỗi khi có sự vụ nào đó tiêu cực xảy ra.

Đó có thể là ngài cựu thủ tướng Naoto Kan cúi đầu xin lỗi đồng bào vì sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima hồi tháng 03/2011.

Đó cũng có thể là thủ tướng Shinzo Abe nhiều lần tự mình xin lỗi người dân vì các bê bối mà vợ ông gây ra.

Đó là cả một công ty đường sắt xin lỗi vì tàu cao tốc nối giữa Tokyo và Tsukuba chạy sớm 20 giây. Hay ngân hàng xin lỗi khách hàng vì… chính khách hàng làm hỏng cây ATM.

Chúng ta mỗi lần đọc được những mẩu tin ấy đều thấy khâm phục người Nhật, khâm phục cái đức tính biết xin lỗi và nhận sai của người dân xứ sở Hoa Anh Đào.

Đó cũng là điều để giúp cho dân tộc Nhật Bản được hoàn thiện hơn và sống có trách nhiệm , nhờ đó mà đất nước họ phát triển thật nhanh thế chiến thứ haiđã để lại sự hoang tàn đổ nát, thế mà ngay nay họ đã đứng tốp ten về kinh tế thế giới.

Nhưng đáng tiếc, người Việt chúng ta lại quá đề cao sĩ diện nên không dám nhìn nhận sự thật về bản thân. Chúng ta luôn tô vẽ cho mình những cái đẹp, và phủ lên mình những điều sang quý lên bản thân, cũng nhằm che đi những cái sai, cái xấu của bản thân.. .

Một năm qua với lò củi đốt tham nhũng của chính phủ nhưng điều đáng tiếc là các quan tham không ai nhận tội mà chỉ biết đổ lỗi, có người còn đổ lỗi vì “não quá ngắn” mà chức lại quá to, và chưa thấy ai dám bán tài sản để đền bù thiệt hai, mà chỉ thấy tẩu tán tài sản trước khi ra vành móng ngựa,. . .

Không nhận lỗi, không sửa sai, thì làm sao bản thân thăng tiến, và nếu là những lãnh đạo thì càng làm cho đất nước chậm phát triển bởi sự mù quáng của mình.

Hôm nay lễ kỷ niệm việc Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Giodan, ta thấy một hình ảnh thật khiêm tốn của Con Thiên Chúa.Chúa Giê-su là Đấng vô tội nhưngNgài tự nguyện gánh lấy tội trần gian. Ngài là Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng đã mặc lấy thân xác con người. Ngài tự nhận mình là tội nhân khi hòa mình vào dòng người tới nhận phép rửa của Gioan. Hành vi này như muốn dạy con người chúng ta hãy biết liên đới trách nhiệm với tha nhân. Liên đới để giúp nhau thăng tiến. Liên đới để sống cảm thông chia sẻ với nhau. Tình liên đới sẽ giúp con người chung sống hòa bình với nhau và cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.

Người ta thường kể về thị trưởng đầu tiên của thành phố New York với giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa một phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão đói rách bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi 3 đứa con đang chết đói”.

Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la”. Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đô la và trao cho người đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp”. Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão.

Khi chiếc mũ đã được truyền một vòng tòa án và trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đô la 50 xu.

Nếu cuộc đời con người biết sống có tình liên đới thì cuộc đời đẹp biết bao! Người ta sẽ “lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”. . .

Nếu cuộc đời ai cũng cảm thấy có trách nhiệm với cả những lỗi lầm của người khác thì xã hội sẽ thăng tiến biết bao. Vì ai cũng nỗ lực sống chu toàn bổn phận của mình, sống gương mẫu và chắc chắn sẽ không làm gì để gây gương mù gương xấu cho tha nhân.

Nếu cuộc đời ai biết nhìn nhận cái sai của mình để sửa, để đền bù thì xã hội mới thăng tiến và xã hội sẽ công bình hơn.

Nếu cuộc đờiai cũng ý thức mình là tội nhân cần được tha thứ thì con người sẽ thăng tiến và cuộc đời mới vănminh hơn.

Ước gì cuộc đời chúng ta cũng được hiến tế cho anh em. Một cuộc hiến tế không bằng máu mà bằng hy sinh từ bỏ thói hư tật xấu, hy sinh hãm dẹp tính xác thịt, hy sinh đễ sống làm gương sáng cho tha nhân. Ước gì tình liên đới của con người luôn là mối dây hiệp nhất yêu thương để tình người mãi gắn kết và cùng nhau xây dựng một xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Amen

Về mục lục

.

PHÉP RỬA CỦA GIOAN

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Một lần nữa trong biến cố Chúa Hiển Linh, sau khi bày tỏ cho muốn dân Thiên Chúa làm người ở giữa nhân loại qua việc ba nhà đạo sỹ đến thăm viếng. Chúa Giê su xuất hiện công khai tại sông Gio đan, bày tỏ một Thiên Chúa tương quan với con người cách đặc biệt, Chúa là Đấng gánh tội trần gian. Một Thiên Chúa ở giữa loài người, Đấng vô tội mang lấy tội chúng ta.

Thiên Chúa ở giữa loài người.

Là một con người, có nơi chôn nhau, cắt rốn, như người ta vẫn thường nói. Chúa đến để biết kinh nghiệm về “người là gì?”. Một kinh nghiệm cần thiết  để yêu mến con người chúng ta, với những thành công và thất bại, hạnh phúc và bất hạnh, khoẻ mạnh và đau đớn và kể cả cái chết. Một kinh nghiệm cần thiết để Chúa mang tất cả những kinh nghiệm về con người, hiện diện trước Chúa Cha. Một kinh nghiệm là người để Chúa dạy cho con người chúng ta biết cầu nguyện và vâng phục thánh ý Chúa Cha trong cuộc sống hiện tại của chúng ta.

Thiên Chúa bày tỏ vinh quang của Người ở giữa chúng ta.

Vinh quang là con người sống và được sống. Khi Thiên Chúa làm người, Đấng vô tội là Đấng thấu suốt từ bên trong tâm hồn của chúng ta. Kinh nghiệm của các tôn giáo đều cho thấy các bậc thánh hiền là các bậc thông cảm, chia sẻ những nỗi thống khổ của con người chạy đến thỉnh gặp, tìm sự an bình, an ủi, khích lệ. Thiên Chúa làm người là Đấng vô tội hằng yêu mến con người của chúng ta, Người đến để cứu chữa những người tội lỗi (Mc 2, 17). Yêu mến con người vì chính “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 16), môt tình yêu như phúc âm Thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3, 16 – 17).

Người Đến là Đấng Gánh Tội.

Một lần nữa, ở giai đoạn đầu ở sông Giođan, Gioan tẩy giả đã giới thiệu Chúa cho mọi người: “Đây Đấng gánh tội trần gian” (Ga 1, 29). Trong phiên toà xử Chúa Giêsu, Philatô sau khi cho đánh đập, sỉ nhục đã đưa Người ra trước toàn dân đang đòi giết Chúa, giới thiệu: “Này là Người” (Ga 19, 5). Một Thiên Chúa làm người vô tội, đã trở nên tội nhân để mang lấy tất cả tội lỗi của con người vào thân thể Người. Chính nhờ Người, con người giao hoà lại với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên.

Một vấn nạn luôn tồn tại nơi con người chúng ta, sự dữ. Sự dữ luôn bủa vây con người, Thánh Luca đã gợi lên sự dữ ấy trong dụ ngôn người cha nhân lành (Lc 15, 11 – 32): Sự dữ bắt nguồn tự nơi: bản thân mỗi người, bỏ nhà cha ra đi – xa cách với anh chị em mình. Hành trình trở về cũng theo trình tự: Với chính mình, với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Như vậy, trong Chúa Giê su, chúng ta có thể tìm thấy được chữa lành nhờ kinh nghiệm làm người của Chúa khi chứng kiến biết bao thân phận con người, yếu đuối và sa ngã, đau thương với gánh nặng tội lỗi. Chúa chờ đợi con người chúng ta, trở về với chính mình nhận ra yếu đuối, tội lỗi, sám hối trở về cùng Chúa để được chữa lành và sống lại với anh chị em bằng một tình yêu mới, bình an và tươi vui.

Chúa bày tỏ vinh quang cho con người khi chính Chúa là Đấng gánh tội trần gian. Là Thiên Chúa và là con người. Là Đấng vô tội trở nên tội nhân để cứu thoát con người khỏi tội. Là Đấng trao lại vinh quang cho con người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Chúa hiển linh để con người được tham dự vào sự hiển linh của Chúa.

Chúng ta hằng cảm tạ Chúa vì biết bao ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta!

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Phụng vụ của Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa ngay sau lễ Chúa Hiển Linh. Hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh. Sự kiện Đức Giêsu xếp hàng cùng dòng người tội lỗi, xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, khai mạc sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng của Người, đồng thờ cũng là yếu tố quan trọng,chính yếu trong công cuộc cứu thế của Người.

Đức Giêsu đang hiện diện giữa đoàn người đông đúc,chờ đợi đến lượt mình được Gioan làm phép rửa sám hối trong dòng sông Giođăng.Dân chúng không nhận ra Đức Giêsu bởi vì họ không có đức tin. Thật sự, phải có đôi mắt đức tin, với tấm lòng khao khát, với con tim rộng mở, người ta mới có thể nhận ra được Người. Câu chuyện Anrê dẫn anh mình là Simon đến gặp Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rõ điều này. Anrê nói :” Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, là Đức Kitô “. Với đôi mắt đức tin, với lời nói của Chúa, Simon đã nhận ra Người và đi theo Người, trở thành môn đệ của Người.Phép rửa của Gioan là phép rửa sám hối. Chúa Giêsu không cần phải thanh tẩy vì Người là Đấng chí tôn chí thánh, tuy nhiên, qua phép rửa này Người muốn tỏ cho con người, cho loài người biết ý nghĩa của bí tích thánh tẩy. Đức Giêsu cúi mình xuống để nâng con người lên. Người đã tự biến mình thành kẻ nghèo, người cô thân cô thế, kẻ ốm đau bệnh hoạn và đã hòa mình với những kẻ tội lỗi ( tuy Người không hề có tội gì ) để cảm thông với nỗi đau khổ của những tội nhân. Nên, Đức Kitô đã cho nhân loại, cho con người, cho chúng ta hiểu phép rửa mà Người lãnh nhận nơi sông Giođăng loan báo trước cho phép rửa bằng Máu của Chúa trên Thập giá, để cứu chuộc nhân loại. Hành động khiêm nhượng và tự hủy của Người đã được Chúa Cha chứng dám :” Đây là Con chí ái của Ta, kẻ làm đẹp lòng Ta mọi đàng, kẻ Ta sủng mộ “( Mt 3, 17). Chính vì thế, nhờ bí tích thánh tẩy, chúng ta được tẩy xóa khỏi mọi tội lỗi, được đầy tràn Thánh Thần, và được Chúa Cha xác nhận là Con yêu dấu, Con sủng ái, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Do đó, Đức Giêsu chính là gương mẫu của đời sống chúng ta và Người là cùng đích để chúng ta luôn nhắm tới.

Nhờ bí tích thánh tẩy, người Kitô được nên giống Người, được Chúa Cha tuôn tràn Thánh Thần, làm cho con người trở thánh thụ tạo mới vì được thứ tha mọi tội khiên, được làm con Thiên Chúa. Điều hết sức kỳ diệu là qua bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa cho chúng ta sống đời sống của Người, đời sống tràn đầy Thánh Thần và tình yêu…

Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là lễ cổ xưa nhất của Giáo Hội.lễ này đã được các Giáo phụ hết sức chú tâm vì tính cổ xưa và chỉ được mừng sau lễ Phục Sinh. Đây cũng là lần đầu tiên mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải rõ ràng và đầy đủ nhất. Đây cũng là sự tiên báo của Chúa Giêsu về phép rửa Người phải chịu bằng Máu trên Thập Giá và là bí tích rửa tội người để lại cho nhân loại, ai muốn làm con của Người phải lãnh nhận phép rửa Người để lại, Người thiết lập.

Qua phép rửa tội, Chúa Giesu mời gọi con người, mời gọi chúng ta trở nên chứng nhân kiên trì, can đảm và anh dũng của Người cho thế giới, cho tất cả mọi người, để tất cả mọi người có thể lãnh nhận ơn cứu độ…vì “ Nơi Thập giá ơn cứu độ chứa chan nơi Người “.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn ý thức con người yếu đuối tội lỗi của mình, để chúng con không tự kiêu tự mãn, nhưng luôn khiêm nhường  để biết cúi mình xin ơn tha thứ của Chúa và sẵn sàng làm chứng cho Chúa nhân từ.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Phép rửa của Gioan là phép rửa gì ?

2.Tại sao Chúa Giêsu, Đấng vô tội mà lại xếp hàng cùng với những tội nhân xin Gioan làm phép rửa ?

3.Muốn làm con Chúa, con người phải làm gì ?

4.Phép rửa của Gioan và phép rửa của Chúa Giêsu khác nhau làm sao ?

5.Chúng ta phải làm gì đối với phép rửa tội ?

Về mục lục

.

THÁNH TỬ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Gio-an xuất hiện rao truyền,
Sửa đường đón Chúa, lời khuyên đổi đời
Có người thắc mắc đôi lời,
Thật tâm muốn biết, chính người là ai?
Gio-an lên tiếng công khai,
Tiền hô loan báo, Thiên Sai giáng trần.
Chính Ngài cao trọng vô ngần,
Là Con Thiên Chúa, Thánh Thần trao ban.
Ẩn mình dấu kín thánh nhan,
Khiêm nhu bước xuống, Gio-đan nước trào.
Dòng sông sám hối khai mào,
Cúi đầu phép rửa, Chúa trao thân mình.
Bước lên khỏi nước quang vinh,
Thần Linh Thiên Chúa, dưới hình bồ câu.
Bầu trời khai mở lần đầu,
Là Con Yêu Dấu, bấy lâu mong chờ.
Lòng Cha yêu mến vô bờ,
Đẹp thay từng bước, bây giờ hóa thân.
Làm người cứu độ muôn dân,
Hy sinh hiến mạng, nhân trần cứu nguy.

“Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”, đây là phán từ trời cao. Chúa Giêsu bắt đầu công khai ra giảng đạo. Chúa đã tỏ mình ra và Chúa Cha đã yêu thương giới thiệu Ngài cho dân chúng. Sau những năm ẩn dật nơi làng quê Nazarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ mệnh truyền rao chân lý sự sống và tình yêu cho mọi người. Chúa Giêsu đón nhận phép rửa từ Gioan. Chúa chọn đứng về phía tội nhân và mang gánh nặng của tội lỗi thay cho mọi người.

Phép rửa của Gioan là phép rửa của sự sám hối và trở về. Chúa Giêsu không cần chịu phép rửa vì Ngài là Đấng vô tội. Chúa đến để chia xẻ cuộc sống yếu đuối của con người. Gioan nói rằng: Tôi rửa anh em trong nước nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa. Đấng đó chính là Chúa Kitô.

Trước khi Chúa Kitô về trời, Ngài đã thổi hơi trên các tông đồ và đã sai các ông đi rao giảng tin mừng sám hối và canh tân. Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Mỗi người chúng ta hãy nhớ lại Bí Tích Rửa Tội của mình. Qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta trở thành con cái của Chúa trong Giáo Hội Công Giáo.

Chúng ta hãy học hỏi và đào sâu ý nghĩa và ân sủng của Bí Tích Rửa Tội. Nhiều người nghĩ rằng Bí tích Rửa Tội chỉ là một nghi thức cần có, vì theo văn hóa truyền thống trong gia đình, hoặc vì cha mẹ, ông bà là người Công Giáo. Có nhiều gia đình Công Giáo bê trễ không muốn rửa tội cho con cái. Tôi chứng kiến cảnh một thanh niên chết khi đã 20 tuổi. Anh sống trong một gia đình bố mẹ và anh chị em đều là Công Giáo nhưng anh chưa được rửa tội.

Có một trường hợp, tôi được mời đi làm phép xác. Gia đình của người quá cố đã lo tất cả các thủ tục tại nhà quàng. Sắp xếp giờ thăm viếng, nghi thức làm phép xác, lễ an táng và chôn cất. Nhà quàng trực tiếp liên hệ với nhà xứ để xin lễ dâng lễ An táng và thông tin các chi tiết. Khi đến nơi, tôi đã gặp rất đông các bạn trẻ có mặt đó và các thành viên trong gia đình đang khóc thương buồn sầu. Khi đó, bà mẹ của anh thanh niên đã qua đời đến xin tôi rửa tội cho anh. Bà nói rằng anh ta chưa từng được rửa tội bao giờ. Gia đình là người Công Giáo. Thật ngạc nhiên! Tôi chỉ biết xin mọi người cầu nguyện và đặt niềm tin vào lòng thương xót của Chúa. Sáng hôm sau, tôi cũng đã dâng lễ an táng cho anh ta, nhưng cắt bớt các phần nghi lễ dành cho người Công Giáo. Theo đúng luật, người chưa được rửa tội, sẽ không cử hành lễ an táng trong nhà thờ. Tin tưởng vào lòng từ ái của Chúa, tôi cầu nguyện cho anh và tang quyến trong lúc đau buồn mất mát. Xin Chúa đón nhận linh hồn anh và an ủi tang gia.

Chúng ta muốn được chết trong ơn nghĩa Chúa và muốn được hưởng phúc quê trời, chúng ta gia nhập vào đạo thánh Chúa. Chính Chúa Giêsu đã chu toàn bổn phận lãnh nhận phép rửa sám hối như mẫu gương cho chúng ta. Chúng ta không thể đi con đường tắt để vào nước thiên đàng. Chúng ta cần ơn Bí Tích Rửa Tội để được trở nên con cái của Chúa và sống chứng nhân cho Chúa.

Về mục lục

.

CON YÊU DẤU

Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Lễ kính nhớ Đức Giêsu chịu phép rửa, là chúng ta kết thúc mùa Giáng sinh, và bắt đầu với Chúa nhật thứ I mùa Thường Niên. Trong mùa Giáng sinh, chúng ta chiêm ngắm Hài Nhi Chúa Giêsu bé nhỏ nằm trong máng cỏ.

Trong mùa Thường Niên, chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệu cứu độ của Đức Kitô, khởi đi bằng việc đồng hành với dân chúng, đến bờ sông Giođan xin Gioan cử hành Phép rửa. Như vậy, Đức Giêsu đã trải qua 30 năm âm thầm sống trong mái nhà Nazareth. Từ đây, Ngài bắt đầu cuộc đời hoạt công khai rao giảng Tin Mừng, trong công cuộc rao giảng, rất nhiều lần Đức Giêsu dùng nước để bày tỏ quyền năng và lòng thương xót của Ngài. Chẳng hạn Ngài đã dùng nước để biến thành rượu ngon đem lại niềm vui và hạnh phúc cho đôi tân hôn.

Rõ ràng nước là nhu cầu thiết yếu cho muôn loài thọ sinh. Nước đem lại sự sống cho con người và thanh tẩy mọi sự. Trong dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa dùng nước để thanh tẩy tội lỗi và kiến tạo một nhân loại mới.

Chẳng hạn như câu chuyện lụt Đại Hồng Thủy. Khi nhân loại đắm chìm trong tội lỗi, lúc bấy giờ Chúa cho mưa xuống 40 đêm ngày, Hồng Thủy tiêu diệt tất cả nhân loại tội lỗi xấu xa đó, trừ gia đình ông Noe, được Thiên Chúa tuyển chọn.

Rồi biến cố dân Do thái vượt qua biển Đỏ. Chúa làm cho nước rẽ ra như bức tường hai bên tả hữu, và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Khi quân Aicập đuổi theo trong lối đi ấy, thì Chúa cho nước ập lại vùi dập chiến xa và kỵ binh của vua Pharaon không còn tên nào sống sót.

Khi Gioan Tẩy Giả thực hiện sứ mạng, ông kêu gọi dân chúng dọn lòng đón đợi Đấng cứu thế. Lắng nghe lời ông, họ lũ lượt kéo đến bờ sông Giođan, bày tỏ lòng sám hối, xin Gioan làm phép rửa cho họ.

Phép rửa của Gioan là hình ảnh tiên trưng, để sau này Đức Giêsu sẽ rửa chúng ta bằng Máu Thánh của Ngài và trong Chúa Thánh Thần.

Tin mừng thánh Luca ghi lại, lúc Đức Giêsu từ dòng sông Giođan bước lên, đang lúc cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Lúc đó, có tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Đây là mạc khải đầu tiên về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi.

Có thể nói rằng: Tiếng Chúa Cha từ trời phán “Con là con yêu dấu của Cha”. Tiếng nói ấy không chỉ dành riêng cho Đức Giêsu, mà còn cho tất cả những ai khi lãnh nhận Bí tích thanh tẩy đều trở nên con cái Thiên Chúa.

Chi tiết Chúa Thánh Thần ngự xuống mang một ý nghĩa sâu xa, làm chúng ta nhớ lại khởi đầu công trình sáng tạo, Thánh Thần Thiên Chúa bay là là trên mặt nước. Chi tiết này nói lên sự tạo dựng mới mà sau này Đức Giêsu sẽ thực hiện bằng phép rửa, là điểm khởi đầu công cuộc tái sinh mới trong Chúa Thánh Thần.

Như vậy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi được vén mở từ đây, để rồi sau này, chính Đức Giêsu sẽ còn mặc khải thêm cho các tông đồ, dưới nhiều hình thức khác nhau. Và trước khi Đức Giêsu về trời, Ngài ra lệnh cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ: nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Anh chị em thân mến,

Trong kinh Vinh Danh có câu, chỉ có Chúa là Đấng Thánh, ấy thế mà tại sao Đức Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa? Khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta mới thấy nổi bật lên Đức Giêsu hòa nhập với con người, Ngài muốn liên đới với con người, để rồi khi từ dưới dòng sông Giođan bước lên, Ngài muốn nâng rước họ lên trở thành con cái Thiên Chúa.

Thật đúng như lời thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu tuy là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ mình ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại Ngài đã hủy mình ra không, sống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi”.

Hơn 2.000 năm qua, từ thời các Thánh tông đồ cho đến nay, luôn luôn có những người bước theo gương Đức Giêsu, là đồng cảm với anh em đồng loại.

Chẳng hạn như: Cha Đamiêng tông đồ người hủi, thánh Gioan Thiên Chúa, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta…  những vị này không ngừng dấn thân vào khắp hang cùng ngõ hẻm, sống chung với những mãnh đời đau thương dập nát, nhất là những anh em nghèo khổ, bất hạnh, những người mà xã hội ít quan tâm, bằng đôi tay nâng đỡ, với con tim rộng mở, để xoa dịu và đem lại niềm vui bình an của Chúa cho họ.

Thế thì hôm nay, hành động của Đức Giêsu hòa mình với dân chúng lãnh nhận phép rửa nơi bờ sông Giođan muốn nói với chúng ta rằng: trong cuộc đời, có những lúc chúng ta gặp thất bại, đau khổ, buồn phiền, cách này cách khác, thì hãy tin rằng: Đức Giêsu vẫn đang đồng hành thiêng liêng, vẫn có mặt trong cuộc đời chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra ơn Chúa nâng đỡ hay không.

Mừng Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa, xin Chúa ban cho chúng ta được ơn luôn là con cái của Chúa. Và khi cầu nguyện, chúng ta đừng đến với Chúa một mình, nhưng hãy liên đới với tất cả mọi người, đặc biệt những người bất hạnh, những người đang bị bỏ rơi. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ họ, giúp họ tìm thấy niềm vui trong cuộc sống. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CHÚA CHỊU PHÉP RỬA

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Phúc âm hôm nay nhắc tới ba dạng Phép rửa khác nhau:

1. Phép Rửa thứ nhất là Phép Rửa bằng nước. Đây là Phép Rửa của Gioan. Phép rửa của Gioan là Phép Rửa sám hối.

Đây là một dấu cho thấy dân chúng ăn năn tội lỗi của họ và muốn tẩy xóa nó đi.

Phép rửa này là bước đầu tiên trong một cuộc hành trình dài. Nó chỉ là một dấu hiệu, một khởi điểm.

Gioan đã làm sáng tỏ điều này khi ông nói: “Tôi làm phép rửa bằng nước để làm dấu hiệu cho thấy anh em đã ăn năn sám hối – Nhưng có một Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em bằng Thánh Linh và bằng Lửa. Ngài cao trọng hơn tôi. Tôi chẳng xứng đáng cúi xuống cởi dây dép cho Người.”(Mt 3,11)

Nói một cách khác, theo Gioan thì Phép rửa của ông chỉ là chuẩn bị cho Phép rửa bằng Thánh Linh của Đức Giêsu. Vào cuối đời Chúa đã nói với các môn đệ như thế này: “Các con hãy đi đến với mọi người trên khắp thế gian, rao giảng cho họ về Nước Trời, rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”(Mt 28,19).

2. Phép rửa thứ hai là phép rửa của Chúa Giêsu. Đây là Phép Rửa tái sinh. Phép rửa này ban cho người được rửa một đời sống mới. Thánh Phaolô đã giải thích về đời sống này cho những người vừa được rửa tội như sau: “Khi được rửa tội, anh em được an táng với Đức Kitô và trong phép rửa anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã từng bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô.”(Cl 2,12-13)

Như vậy qua Phép Rửa này, Chúa Giêsu chia sẻ cho những người được rửa đời sống thần linh của Ngài. Điều này dẫn chúng ta đến phép rửa thứ ba: Phép rửa thánh Gioan làm cho Chúa Giêsu.

3. Phúc âm hôm nay mô tả thật rõ những sự kiện xảy ra khi Chúa Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa cho Ngài: “Bầu trời mở ra, rồi Thánh Thần hiện xuống rồi sau đó một giọng nói từ trời vọng xuống: Đây là Con yêu dấu của Ta. Con đẹp lòng Ta”

Nếu phải đặt cho phép rửa này một tên thì ta có thể gọi đây là phép rửa Mặc khải. Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta qua hình ảnh bầu trời, Thánh linh và giọng nói được vang ra.

a- Trước hết là hình ảnh bầu trời được mở ra.

Ngày xưa người Do thái tin rằng Thiên Chúa sống ở trên một góc trời nào đó bên trên bầu trời bao bọc trái đất như một bức chắn. Nếu Thiên Chúa muốn đi vào trái dất thì Thiên Chúa phải đi qua bức chắn này. Tiên tri Isaia cũng cùng một quan niệm như thế khi ông nói: “Xin Chúa hãy xé toang bầu trời ra và xuống cứu dân của Người”(Is 64,1).

Hình ảnh bầu trời được mở ra có nghĩa là Thiên Chúa đã nghe lời cầu xin của nhà tiên tri và đã xuống thế gian. Như thế là một thời đại mới đã bắt đầu: thời đại Thiên Chúa xuống để cứu dân của Người.

b- Bước qua hình ảnh thứ hai: Thánh thần Chúa lượn quanh trên Đức Giêsu. Hình ảnh này thật giống với hình ảnh trong sách Sáng Thế Ký: “Thần khí Chúa bay lượn là đà trên mặt nước”(St 1,2) vào lúc Chúa khởi đầu việc tạo dựng. Tại sao lại có một sự trùng hợp như thế. Đây không phải là ngẫu nhiên. Ở đây Thiên Chúa muốn nói với chúng ta: Thời đại mới mà Ngài xây dựng trên trần gian là một cuộc tạo dựng mới. Nói cách khác đây là một cuộc tái tạo lại trần gian.

c- Sau hết là việc Thiên Chúa xác nhận Chúa Giêsu là Con của Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta”(Mt 3,17). Qua lời xác nhận này Thiên Chúa muốn giới thiệu với con ngươì về Chúa Giêsu như một “Adam mới”

Thánh Phaolô đã khai thác ý tưởng này rất hay như sau: “Con người đầu tiên tức Adam đã được tạo dựng nên như một vật sống. Còn Adam cuối cùng tức là Đức Giêsu là Thần ban sự sống….Adam thứ nhất đến từ đất – Adam thứ hai đến từ trời…..Như chúng ta đã mặc lấy hình ảnh người bởi đất mà ra (tức Adam thứ nhất) thế nào thì chúng ta cũng mặc lấy hình ảnh của người từ trời mà đến như thế. Người từ trời đây chính là Adam thứ 2, tức là Đức Giêsu.(1Cor 15,45-49).

Như vậy thì ý tưởng đã rõ. Phép rửa Chúa Giêsu chịu là Phép rửa Mặc khải. Nó báo cho con người biết là một kỷ nguyên mới đã bắt đầu. Kỷ nguyên này là một cuộc tạo dựng mới với sự có mặt của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa như một Adam mới của nhân loại.

Như vậy là chúng ta đang được sống trong một kỷ nguyên mới trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Bởi thế, thánh Phaolô nói với chúng ta: “Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. (Cl 3,1-2)

“Sống đích thực của anh em là Đức Kitô và khi Ngài hiện ra thì anh em cũng được xuât hiện với Ngài đễ được cùng chia sẻ vinh quang với Ngài.”(Cl 3,1-4).

Một hôm duyệt binh, vua Alexandre thấy một anh bộ đội có vẻ yếu ớt và mang một cây gươm dỉ sét, Ngài đứng lại và hỏi tên, hắn thưa mình là  Alexandre.

Nghe nói, vua liền nổi giận, nhìn thẳng vào con người lười biếng đó và bảo:

– Mày một là phải đổi tên, hai là phải đổi tính nết.

Alexandre là một ông vua trẻ trung, can đảm, hoạt động mà tên lính của Alexandre thì như vậy vua coi là một điều xấu hổ.

Mang danh hiệu Kitô hữu, có đạo Đức Chúa Giêsu mà cách ăn ở không có gì giống Chúa, thì chỉ làm xấu cho đạo. Nhiều khi trong đời sống người có đạo còn thua kém người bên lương: ăn gian, nói dối, lỗi đức công bình, bác ái…

Xin được kết bằng lời của thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô: “Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.(Ep 4,17.24)

Về mục lục

.

HẠ MÌNH

Trầm Thiên Thu

Hạ mình là cúi thấp xuống, thể hiện sự khiêm nhường (khiêm nhu, khiêm hạ, khiêm tốn, tự hạ). Khiêm nhường là nhân đức quan trọng cho đời sống, là nhân-đức-nền-tảng của tòa-nhà-nhân-đức. Thánh nữ Elizabeth Ann Bayley Seton (1774–1821, SC – Sisters of Charity Federation, lễ ngày 4 tháng 1) có cách ví von độc đáo và thú vị: “Cửa Thiên Đàng RẤT THẤP, chỉ những người biết HẠ MÌNH mới có thể vào được”. Và thật lạ, tại nhà thờ Chúa Giáng Sinh ở Thánh Địa có một cửa vào rất thấp, ai muốn vào thì phải khom người thật sâu mới có thể vào trong nhà thờ.

Ngước lên thì dễ, cúi xuống thì khó, bởi vì “cái tôi” rất ngang bướng – gọi là tự ái. Càng “cao lớn” càng khó “cúi xuống”, chức quyền càng to thì tự ái càng nhiều. Mặc dù “cái tôi” nhỏ bé nhưng lại rất nguy hiểm. Bác học Albert Einstein nhận định: “Hiểu biết càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ, hiểu biết càng ít thì cái tôi càng to”. Và người Việt cũng có cách nói tương tự: “Thùng rỗng kêu to”.

Là Kitô hữu, ai cũng biết chắc rằng Chúa Giêsu hoàn toàn vô tội vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn tự nguyện hạ mình – hóa thân làm người, sinh nơi Belem, và chịu Phép Rửa. Ngài để cho ngôn sứ Gioan làm Phép Rửa cho Ngài trong dòng sông Gio-đan vì Ngài muốn nêu gương khiêm nhường cho chúng ta. Nhỏ mà hóa To, bởi vì Chúa Giêsu xác định rằng ai tự hạ là người lớn nhất trong Nước Trời (x. Mt 18:4). Thật không dễ dàng chút nào, nhưng “việc khó” không có nghĩa là “không thể làm”, nghĩa là làm được. Bằng cách nào?

CƯƠNG QUYẾT THỰC HIỆN

Làm gì cũng cần quyết định, muốn quyết định phải có can đảm. Mọi thứ đều có tính liên đới. Ngày xưa, Thiên Chúa phán: “Hãy an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (Is 40:1-2). Chúa rất nhân từ, Ngài nói rõ là “an ủi” và “ngọt ngào khuyên bảo” người khác, chứ Ngài không hề bảo người ta dùng “quyền” mà “hành” người khác, hoặc dùng “mệnh lệnh” mà “trấn áp” người khác. Lời Ngài rất đáng để chúng ta phải tự nghiêm túc xét lại mình. Muốn vậy thì phải cương quyết thực hiện.

Cương quyết rồi có kiên trì làm hay không lại là chuyện khác. Trong mỗi người luôn có tiếng lương tâm thúc giục, giống như tiếng hô to vang lên từ xưa: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (Is 40:3-5).

Sa mạc là nơi hoang vu, tĩnh mịch, vắng vẻ. Cõi lòng chúng ta cũng là sa mạc. Sa-mạc-tâm-hồn cũng rất cần cho chúng ta, đó là những giây phút tịnh tâm, nhất là những buổi tối, hoặc những ngày cấm phòng. Vì khi ở trong “sa mạc”, chúng ta có thể dễ nhận diện mình, và nhờ đó mà có thể mở đường rộng, vạch đường thẳng, san núi đồi, lấp thung lũng, san bằng chỗ gồ ghề,… để đến với Thiên Chúa và tha nhân.

Đến với người khác không là điều dễ, bởi vì tự ái (cái tôi) là “sợi xích” níu chặt chân. Ai cũng muốn người khác đến với mình trước. Càng khó đến với người khác khi đến vì mục đích “đạo đức”. Nhưng ngôn sứ Isaia mạnh mẽ lên tiếng: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giuđa rằng: “Kìa Thiên Chúa các ngươi!” (Is 40:9). Lên cao và nói to vì sống đúng sự thật thì không gì phải sợ ai. Chính Đức Kitô vẫn thường xuyên động viên: “Đừng sợ!”. Mệnh lệnh cách “đừng sợ” được đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác nhau.

Vậy là suốt năm, mỗi ngày một lần Chúa bảo chúng ta “đừng sợ”. Tại sao lại không sợ? Ngôn sứ Isaia cho biết rõ ràng: “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:10-11). Muốn “đừng sợ” thì phải can đảm – mạnh mẽ tinh thần, muốn can đảm thì phải tập luyện bằng cách tự động viên. Hãy hít sâu, nắm chặt hai bàn tay, và thở mạnh, và luôn hướng về Đức Kitô – Đấng Emmanuel luôn ở bên cạnh.

Ước gì mỗi chúng ta luôn biết tự nhủ như Thánh Vịnh gia: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!”, và thân thưa với Ngài với cả thành tâm: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1a). Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ rất khác biệt, không như bất kỳ một thần linh nào khác: “Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt, cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang. Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng, điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không. Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió” (Tv 104:1b-3). Mà cũng chẳng có thần linh nào khác, chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Có các thần linh khác là vì người ta ngu xuẩn và mê tín dị đoan, rồi tự tạo ra các thần linh. Thậm chí còn tồi tệ và ngu xuẩn tới mức thờ ông này, bà nọ, vật này, vật kia. Quái gở!

Thánh Vịnh gia cho biết đoàn tùy tùng của Thiên Chúa cũng vô cùng kỳ lạ: “Sứ giả Ngài là làn gió bốn phương, nô bộc Chúa là lửa hồng muôn ngọn” (Tv 104:4). Các việc Ngài làm vô số và không ai khả dĩ hiểu thấu: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24). Nhận biết Thiên Chúa để chúng ta có thể đủ niềm tin, nhờ đó mà có thể can đảm hơn, cương quyết hơn – nhất là về việc chấn chỉnh lối sống. Thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai.

Dù to hoặc nhỏ, mọi loài và mọi thứ, không sinh vật nào lại không nhờ ân lộc Ngài trao ban: “Này đại dương bát ngát mênh mông, nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng, hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn” (Tv 104:25). Ngài không chỉ ban cho những điều cần thiết mà còn ban cho những điều vượt ngoài tầm tay của chúng ta, thậm chí Ngài ban cả những điều mà chúng ta chưa biết mở miệng cầu xin. Mọi loài đều mãn nguyện được Thiên Chúa quan phòng: “Ngài ban xuống, chúng lượm về, Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước” (Tv 104:28). Thế mà nhân loại vẫn vô ơn, bạc nghĩa. Ngay chính chúng ta – những người vinh hạnh làm con cái Ngài – cũng vẫn thường xuyên bội bạc, làm được điều gì nhỏ nhoi đã tưởng mình tài giỏi mà dám vênh vang tự đắc, coi khinh người khác. Chúng ta quên rằng mình chỉ là “số không”, thế nên hóa ảo tưởng mà tự nhận mình là “cái rốn của vũ trụ”. Thật hoang tưởng và kiêu ngạo!

Thiên Chúa vô cùng ghét tính kiêu ngạo – kiêu căng, kiêu sa, tự mãn, tự phụ. Nói “nhẹ” theo lối nói ngày nay là “chảnh” hoặc “nổ”. Tự nhận diện chính mình để khả dĩ tự minh định: “Tôi phải hạ mình”.

CƯƠNG QUYẾT HẠ MÌNH

Cây càng cao, gió càng lay. Nhưng người ta lại khoái cao – nhà cửa, danh vọng, chức tước… Kể cũng lạ vì ai cũng muốn ngược đời. Nhà toán học Pythagore nói rất chí lý: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”. Là một bác học danh tiếng cả thế giới mà ông thấy vẫn chẳng là gì. Hoặc như Thánh Thomas Aquinas, Tiến sĩ Giáo hội, thông minh xuất chúng và viết nhiều sách giá trị, đặc biệt là bộ Tổng Luận Thần Học (Summa Theologiæ) đồ sộ và vô giá, thế mà ngài lại cho biết: “Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác”. Còn khi người ta hỏi: “Làm thế nào để được cứu độ?”, Thánh Thomas trả lời ngắn gọn: “Phải khiêm nhường”. Thật tuyệt vời, siêu nhân mà hạ mình xuống sâu quá!

Trong cuộc sống, chắc hẳn ai cũng nhận ra một hồng ân hiển nhiên và luôn cần thiết là không khí, thế nhưng chúng ta lại không coi đó là đại ân, hoặc cho đó là điều “dĩ nhiên”, là chuyện tự nhiên. Thánh Vịnh gia phân tích cặn kẽ: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30). Ôi, thế thì sao lại dám kiêu ngạo, tự mãn? Câu chuyện xưa như chưa ráo mực, luôn mang tính thời sự: Mười người được khỏi bệnh phong cùi, chỉ một người Samari trở lại tạ ơn Chúa (Lc 17:11-18).

Mọi sự đều do Chúa trao ban, dù to hay nhỏ, cả hữu hình và vô hình. Thánh Phaolô xác định: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao phải như vậy? Rất rõ ràng với lời giải thích của Thánh Phaolô: “Vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Ngài đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Ngài, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14). Như vậy, chắc chắn người-hăng-say-làm-việc-thiện là người-của-Chúa, vì Chúa là Đấng từ bi, nhân hậu, và giàu lòng thương xót.

Chỉ có MỘT Thiên Chúa duy nhất là Đấng cứu độ chúng ta, chính Ngài đã “biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Ngài đối với nhân loại” (Tt 3:4). Thánh Phaolô nói thẳng thắn, không hề úp mở: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Ngài thương xót, nên Ngài đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3:5). Rõ ràng chúng ta chẳng có thể viện cớ gì để mà biện hộ cho thói kiêu căng của mình. Tất cả là hồng ân – hồng ân nối tiếp và hòa quyện vào cuộc đời chúng ta: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:6-7).

Qua trình thuật Lc 3:15-16, 21-22, Thánh sử Luca kể ngắn gọn mà súc tích: Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều đặt vấn đề: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia!

Thắc mắc cũng đúng, bởi vì ông Gioan có lối sống và phong cách khác người, mà lúc đó người ta đang háo hức mong chờ Đấng Cứu Thế. Nghe người ta bàn ra tán vào về mình, ông Gioan trả lời thẳng thắn với mọi người: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3:16). Người ta nói gì ông cũng từ chối, thậm chí ông còn không nhận mình là ngôn sứ (Ga 1:21). Thế nhưng ông vẫn là ngôn sứ, ngôn sứ lớn nữa kìa. Gioan Tẩy Giả nổi tiếng nhiều thứ, đặc biệt là câu nói khiêm nhường độc đáo này: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Ôi, không đáng cởi quai dép chứ đừng nói chi “xách dép”. Lại thêm một nét riêng độc đáo nữa.

Kinh Thánh nói: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4:6). Loại trang sức quý giá của con người là sự khiêm hạ và tính giản dị. Khiêm nhu là sống cao thượng, giản dị chứng tỏ tâm hồn sâu sắc. Tuy nhiên, phải cảnh giác cao độ về kiểu “giả bộ khiêm nhường” (x. Cl 2:18), đó là thói kiêu ngạo núp bóng khiêm nhường.

Thánh Luca cho biết thêm rằng sau khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Ngài cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Ngài dưới hình dáng chim bồ câu. Đặc biệt là có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3:22). Chính Chúa Cha đã công khai xác nhận Đức Giêsu Kitô là Con Yêu Dấu, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Quá minh nhiên, không còn gì khả nghi nữa. Thế mà người ta chưa tin, nếu không vì cố chấp thì vì lý do gì?

Hạ mình không chỉ là khiêm nhường, mà còn là chịu thua, chấp nhận, đồng thời hàm súc đức ái. Tấm gương hạ mình vĩ đại nhất là Chúa Giêsu hạ mình từ trời cao xuống thế gian để sống chung với thụ tạo, rồi Ngài lại cúi mình xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài cúi mình về cả tinh thần và thể lý: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13:14).

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết hạ mình xuống và yêu thương, dù chúng con là ai và là gì, để chúng con có thể đến gặp Ngài qua tha nhân – nhất là những con người hèn mọn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

TA HÀI LÒNG VỀ CON

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều kết thúc thuật trình Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan bằng lời tuyên phán của Chúa Cha: “ Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Con” hoặc “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (x.Mt 3,17; Mc 1,11 ; Lc 3,22). Chúa Cha hài lòng với Chúa Chúa Giêsu về chuyện gì đây? Dĩ nhiên là về chuyện Chúa Giêsu tự nguyện xếp mình vào hàng đoàn người tội lỗi đang đến để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa bày tỏ lòng sám hối ăn năn. Thế nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa dù đã mặc lấy xác phàm nhân loại như chúng ta mọi đàng nhưng chẳng hề vương bẩn tội nhơ (x.Dt 4,15). Là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Người hoàn toàn thanh sạch thế mà Người xếp hàng giữa đám người tội lỗi để làm gì? Chắc chắn không phải là để nhờ Gioan làm phép thanh tẩy hầu được nên thanh sạch. Cũng chắc chắn rằng không phải Người cố tình làm gương cho chúng ta về việc hoán cải ăn năn như đã có nhiều nhà tu đức từng suy diễn. Không ai có thể làm gương một việc mà chính mình không thực làm. Như thế chìa khoá vấn đề phải nằm ở chỗ khác.

Mang lấy xác phàm, trở nên giống loài người chúng ta mọi đàng, thì Chúa Giêsu vẫn phải cần có thời gian để hiểu biết ý Chúa Cha cũng như tự nhận thức về căn tính của mình. Các nhà Kitô học đồng thuận với nhau rằng khi còn nằm trong nôi, còn ôm lấy bầu sữa mẹ, thì trẻ Giêsu chưa thể nhận thức được căn tính Thiên Chúa của mình. Và một điều ít ai chối cãi đó là năm lên mười hai tuổi, khi lưu lại Đền thờ Giêrusalem ba ngày nhân chuyến cùng cha mẹ hành hương, thì thiếu niên Giêsu đã ý thức về căn tính Thiên Chúa của mình. Biết mình là Thiên Chúa, thế nhưng để biết sứ vụ của mình là cứu độ nhân loại và cứu độ nhân loại như thế nào thì Chúa Giêsu cũng cần phải có thời gian cần thiết để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha.

Nhiều nhà Kitô học nhìn nhận rằng khi Chúa Giêsu đến chịu phép rửa tại bờ sông Giođan chính là lúc Người tìm ra con đường cứu độ. Nói đến ơn cứu độ, các nhà thần học lẫn tu đức thường dùng hình ảnh cứu vớt người đang chìm dưới sông nước. Không biết bơi mà rơi xuống hố nước sâu thì sự sống như không còn thuộc vào chính bản thân mình. Cần phải có một ai đó độ trì, cứu vớt, may ra mới được sống.

Để cứu độ nhân loại khỏi vũng lầy tội lỗi, Chúa Kitô không đứng bên trên mà kéo. Người đã tự nguyện đi xuống tận đáy sâu kiếp người khi vào trần gian. Đồng thân với con người trong kiếp phàm hèn chưa đủ, Chúa Kitô còn muốn chung phận với loài người trong kiếp tội nhân, dù Người hoàn toàn vô tội. Tình yêu lên đến đỉnh cao khi người ta tự nguyện chung thân, đồng phận với nhau. Chung thân, đồng phận với nhau là một trong những hình thức liên đới đến cùng. Là con chiên tinh tuyền, là người tôi tớ trung thành và nhân hậu, Chúa Kitô đã nhận lấy mọi hậu quả tội lỗi của loài người vào chính bản thân Người. Điều đã được Ngôn sứ Isaia loan báo xưa về “Người Tôi Trung” nay ứng nghiệm nơi chính Chúa Kitô (x.Is 42,1-9; 49,1-7; 50,4-11).

Chọn con đường đi xuống để nâng loài người sa ngã lên, sự chọn lựa của Chúa Giêsu đã làm hài lòng Chúa Cha. Đây là một sự chọn lựa phát xuất bởi tình yêu sung mãn. Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu ngự xuống trên Người là một dấu chỉ. Và các tầng trời mở ra, nghĩa là con đường cứu độ nay đã khai mở cho con người. Việc Chúa Giêsu chọn con đường đi xuống giúp chúng ta xác tín những chân lý sau:

1.Không một ai là không có thể được cứu rỗi: Các cứu hộ viên đứng trên bờ sông mà đưa tay ra thì những người ở xa bờ hay đang chìm dưới nước quả là khó có cơ may được cứu. Trái lại khi các cứu hộ viên đã lặn sâu xuống đáy sông thì mọi người đều có thể được cứu sống. Chúa Giêsu đã cúi xuống dưới chân các tông đồ, Người đã cúi xuống dưới chân Giuđa, kẻ đã rắp tâm phản bội Người và Người sẵn sàng cúi xuống dưới chân hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Chỉ cần chúng ta đồng thuận thì Người sẽ nâng chúng ta lên cùng Chúa Cha.

Mọi người đều có thể được cứu rỗi. Một chân lý của niềm tin và của niềm hy vọng. Bất cứ ai, dù trong hoàn cảnh tồi tệ nào đi nữa, thì vẫn luôn có Giêsu Kitô đứng dưới chân để sẵn sàng nâng lên. Chính vì thế mà thất vọng về chính mình là một sự tồi tệ thật đáng trách không kém gì khi ta thất vọng về tha nhân.

2.Trước tiên hãy trách mình, đừng trách tha nhân hay phàn nàn Chúa, nếu giả như chúng ta vẫn mãi mê trong tội. Một trong những thói xấu của người đắm chìm trong tội đó là tìm đủ lý do để bào chữa. Để làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình, khi phạm tội, chúng ta thường hay đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho tha nhân, cho ma quỷ và có khi cho cả Thiên Chúa. Phải tiên thiên loại trừ việc gán cho Thiên Chúa là tác nhân gây sự xấu vì Thiên Chúa không hề, đúng hơn là không thể cám dỗ một ai. Chúng ta cũng cần chân nhận rằng thần dữ, người xấu hay ngoại cảnh cũng có góp phần nào đó trong tội của chúng ta. Tuy nhiên, các tác nhân ấy chỉ có thể làm tăng giảm mức độ trách nhiệm của chúng ta trên tội của mình. Nhưng không ai khác, chính chúng ta phải là người trực tiếp chịu trách nhiệm mọi hành vi tội lỗi của mình.

Mừng mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, mở đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, hãy cùng cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa vì đã yêu thương loài người đến cùng. Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện đồng hàng với chúng ta trong kiếp tội nhân: cúi mình để cho Gioan làm phép rửa là điểm khởi đầu và điểm kết thúc là thân phận một tội nhân trên thập giá.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Vào Chúa Nhật I thường niên, chúng ta tưởng niệm sự kiện Đức Giê-su chịu phép rửa. Phép rửa  được liên kết với cuộc tấn phong diễn ra trong một cuộc Thần Hiển. Đó là lý do tại sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành việc Chúa Giê-su chịu phép rửa như một trong ba cuộc Thần Hiển: lễ Hiển Linh, lễ Đức Giê-su chịu phép rửa và lễ Chúa Giê-su Biến Hình.

Is 42: 1-4, 6-7

Trước tiên, cuộc tấn phong của “người Chúa tuyển chọn” mà “Ngài hết lòng quí mến” và cho Thần Khí của Ngài ngự trên người ấy. Đây là một nhân vật mầu nhiệm mà vị ngôn sứ gọi là “Người Tôi Trung của Đức Chúa”.

Cv 10: 34-38

Tiếp đó, Bài Đọc II, được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ, thuật lại bài giảng thuyết của thánh Phê-rô ngỏ lời với ông Co-nê-li-ô, viên quan bách quản Rô-ma, và toàn thể gia quyến của ông, họ là những lương dân đầu tiên được đón nhận vào cộng đoàn Ki-tô hữu qua Phép Thánh Tẩy. Nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, mọi người, bất kỳ ai, thuộc dân tộc nào, đều được mời gọi gia nhập vào dân Thiên Chúa.

Mc 1: 7-11

Sau cùng, thánh Mác-cô tường thuật biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, để giới thiệu Ngài là “người tôi trung” mà sấm ngôn I-sai-a đã loan báo.

BÀI ĐỌC I (Is 42: 1-4, 6-7)

Bản văn  gợi lên một nhân vật mà Thiên Chúa gọi là “Người Tôi Trung của Ngài”, Ngài hết lòng quí mến và đổ tràn đầy Thần Trí của Ngài trên người ấy. Nơi nhân vật này, Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng là thực thi công lý, bày tỏ tấm lòng nhân ái và đức khiêm nhu, nhờ đó nhân vật ấy trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân.

Đây là bài thơ đầu tiên trong bốn bài thơ về “Người Tôi Trung của Đức Chúa” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày (550-540 BC), được gọi I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Bài thơ  gồm có hai phần: phần thứ nhất, Thiên Chúa giới thiệu Người Tôi Trung của Ngài; phần thứ hai, Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với nhân vật.

Nhân vật  là ai? Thật ra, nhân vật bí ẩn trong suốt nhiều thời đại đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau: một nhân vật lịch sử là Ky-rô, vua Ba tư; hoặc Ít-ra-en, dân Chúa chọn; hay Đấng Mê-si-a. Đây là nét đặc trưng của các sấm ngôn vừa phát xuất từ những hoàn cảnh lịch sử chính xác vừa vượt qua những viễn cảnh đương thời.

  1. Vua Ky-rô

 “Người Tôi Trung” này được Thiên Chúa ban nhiều đặc ân, nhờ đó ông có thể phân xử muôn dân, sửa sai những lỗi lầm, vực dậy những kẻ bị áp bức, phóng thích những tù nhân, phục hưng Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và làm sáng tỏ công lý trước mặt muôn dân: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ; đây là người Ta tuyển chọn, Ta hết lòng quý mến. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người; Người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”.

Hoàn cảnh lịch sử chính xác là cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ ngỏ lời với những người lưu đày này, họ phải chịu một cuộc thử thách dài lâu và mòn mõi đợi chờ cuộc giải phóng. Ông hứa với họ một nhà giải phóng. Toàn bộ văn mạch hướng về vị vua Ba tư là Ky-rô, mà quyền lực của ông mỗi ngày mỗi lớn mạnh trên thế cuộc vùng Trung Đông.

Chương 41 trước đó ám chỉ rõ nét những chiến công lẫy lừng của vua Ky-rô: “Từ Phương Đông, ai đã cho xuất hiện người hùng đi mở đường cho nền công chính? Đao kiếm của ông làm chúng hóa ra như tro bụi, cung nỏ của ông khiến chúng tán loạn tựa cọng rơm. Ông đuổi bắt thù địch, ông tiến bước an toàn…Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên? …Chính là Ta. Ta là Đức Chúa, Ta là khởi nguyên, và giữa những người của thời sau hết, Ta vẫn là Ta” (Is 41: 2-4).

Chương 45 còn rõ ràng hơn: “Đức Chúa nói với kẻ Người xức dầu, với vua Ky-rô – Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa…Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp, và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en…Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45: 1-6).

Các biến cố sắp đến sẽ khẳng định dự đoán thời cuộc của vị ngôn sứ. Không bao lâu sau, vua Ba tư chiếm kinh thành Ba-by-lon mà không phải gặp bất cứ một kháng cự nào, và cũng không gây bất kỳ thiệt hại nào cho kinh thành. Ông thi hành chính sách “thu phục nhân tâm”. Vua Ky-rô không bao giờ sử dụng bạo lực. Xót thương đối với những người Ít-ra-en bị lưu đày như “cây sậy bị dập nát” và “tim đèn còn leo lét”, vua Ba tư tạo điều kiện thuận tiện cho họ trở về cố hương là Giê-ru-sa-lem.

  1. Dân Chúa chọn

Sau khi quá khứ mờ nhạt trong tâm trí, bản văn được đọc lại theo cách khác. Vị ngôn sứ chủ ý tặng ban danh hiệu “Người Tôi Trung” cho toàn thể dân Ít-ra-en với tư cách là dân Chúa chọn để là chứng nhân của Ngài. Dung mạo Người Tôi Trung được xem như cá nhân hóa dân Chúa chọn mà Ngài nâng đỡ, sủng ái và ban Thần Trí của Ngài. Dân nhỏ bé, Ngài đã “nắn nên” họ bằng chính bàn tay của mình. Ở giữa các dân tộc, họ phải chu toàn sứ mạng của mình là trở nên ánh sáng muôn dân qua việc sống niềm tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất và chân thật.

  1. Đấng Mê-si-a

Việc “Người Tôi Trung” được nhận dạng chỉ ở nơi vua Ky-rô không tát cạn sự giàu có của bản văn, hay được cá nhân hóa ở nơi dân Chúa chọn cũng không hoàn toàn thỏa mãn. Quan trọng là đặt sứ điệp vào trong những giờ phút nghiêm trọng vào lúc lời sấm được công bố.

Vào giữa thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm và trở thành hoang phế; Đền Thờ bị phá hủy; một phần lớn dân cư bị lưu đày; vương quyền của nhà Đa-vít đã bị vùi dập trong phong ba bảo táp; niềm hy vọng vào Đấng Mê-si-a (Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong) được đặt vào vương quyền nhà Đa-vít đã bị sụp đổ. Đây là thời điểm thuận tiện để nâng mặc khải lên đến một giai đoạn mới. Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách bất ngờ: Ngài sẽ sai phái “Người Tôi Trung” đầy tràn Thần Khí của Ngài. Nhân vật sẽ thực hiện sứ mạng thực thi công lý với tấm lòng khiêm nhu nhân hậu, dù bên ngoài có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ (bài thơ thứ tư). Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa bước một bước tiến nhảy vọt. Những sấm ngôn xưa liên quan đến một hậu duệ của nhà Đa-vít không bị bãi bỏ một chút nào, nhưng những viễn cảnh mới mà sấm ngôn  hé mở, thì không còn một quyền lực trần thế nhưng một vương quốc tâm linh: “Vì dân các hải đảo xa xăm đều mong được Người chỉ bảo”.

Trong sách Tin Mừng của mình ở 12: 18-21, thánh Mát-thêu trích dẫn một đoạn văn dài lời sấm I-sai-a  để chứng minh rằng lời sấm được ứng nghiệm ở nơi con người của Đức Giê-su, sứ mạng của Ngài tuy được thực hiện một cách kín đáo nhưng “sẽ đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Ngài”.

Khi chịu phép rửa bởi ông Gioan, Đức Giê-su thấy các tầng trời mở ra, Thần Khí ngự xuống trên mình và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Bức tranh mặc nhiên quy chiếu đến bản văn của I-sai-a. Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng của “Người Tôi Trung”. Ngài sẽ chu toàn sứ mạng  khi thể hiện dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong cuộc Khổ Nạn của mình.

BÀI ĐỌC II (Cv 10: 34-38)

Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ  tường thuật một biến cố đánh dấu một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi: lần đầu tiên, một lương dân và toàn thể gia quyến của ông được chấp nhận gia nhập trực tiếp vào cộng đoàn Ki-tô hữu nhờ phép Thánh Tẩy mà không phải ngang qua Do thái giáo.

  1. Hoàn cảnh Giáo Hội vào lúc đó

Cho đến lúc đó, các Tông Đồ ngỏ lời với người Do thái nhằm chứng minh cho họ biết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, ở nơi Ngài mọi lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ki-tô giáo tiên khởi được định vị ở nơi sự nối dài của Do thái giáo. Chiều kích phổ quát đã được mặc khải qua các thị kiến ngôn sứ: rồi sẽ đến một ngày, muôn dân sẽ lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mừng kính Đức Chúa đích thật. Vì thế, các Tông Đồ đã không hề nghĩ đến một tiến trình đảo ngược: chính họ phải đi đến với muôn dân loan báo Tin Mừng cho họ.

Ấy vậy, vị lãnh tụ Giáo Hội, thánh Phê-rô, phải nói là bị Chúa Thánh Thần ép buộc đến nhà một người ngoại giáo. Một viên quan bách quản Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê, sai người đến mời thánh nhân đến nhà mình. Lúc đó, thánh Phê-rô đang ở Gia-phô, cách thành Xê-da-rê khoảng năm mươi cây số. Trong thời gian này, thánh nhân đang thực hiện cuộc kinh lý. Sau cuộc bách hại dữ dội đã giáng xuống cộng đoàn Giê-ru-sa-lem non trẻ vào mùa hè năm 36 hay mùa xuân năm 37 (thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên vào thời gian ), một thời gian yên bình xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ yên bình để thăm viếng các cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ này.

  1. Một khúc quanh mang tính quyết định của Giáo Hội

Thánh Phê-rô đến nhà viên quan bách quản. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước qua ngưỡng của của một người chưa cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm không được tiếp xúc với những người chưa cắt bì không được diễn tả trong Lề Luật, nhưng từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư, nhằm tránh tất cả mọi hình thức lây nhiễm ngoại giáo. Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp Tin Mừng đến một người ngoại giáo và toàn thể gia quyến của ông. Đối với thánh nhân, đây thật sự là một kinh nghiệm cảm động và đáng nhớ. Thánh nhân đã hiểu được ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người. Ngay tức khắc, thánh nhân mặc lấy cho hành động của mình một ý nghĩa thần học. Đây là phần mở đầu bài thuyết giáo của thánh nhân mà Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta suy niệm vào ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa hôm nay.

  1. Chiều kích phổ quát của ơn cứu độ

“Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Chúa tiếp nhận”. Lời khẳng định về sự bình đẳng giữa dân ngoại và dân Do thái này hình thành nên một thay đổi lớn lao. Quả thật, trước đây, thánh Phê-rô, vốn là một người Do thái, quen nghĩ đến những đặc quyền đặc lợi dành riêng cho dân Chúa chọn. Vị lãnh tụ Giáo Hội, được Thánh Thần thúc đẩy, chấp nhận và công bố sự thay đổi khôn sánh.

Ông Co-nê-li-ô là một “cảm tình viên của Do thái giáo”, cũng được gọi “người kính sợ Chúa”. Đây là một người “ăn ngay ở lành” như bản văn xác nhận.

Chắc chắn Thiên Chúa đã gửi “lời loan báo Tin Mừng trước tiên cho dân Ít-ra-en”. Thánh nhân muốn giải thích cho gia chủ và đồng thời muốn thanh minh quyền ưu tiên: dân Ít-ra-en đã lãnh nhận một sứ mạng, sứ mạng chuẩn bị bình an, bình an giữa muôn dân, bình an giữa dân Do thái và lương dân. Bình an  được hiện thực nhờ trung gian của Đức Giê-su Ki-tô, “Ngài là Chúa Tể muôn dân”.

  1. Quyền năng của Phép Rửa Ki-tô giáo

Tiếp đó, thánh Phê-rô tóm tắt các giai đoạn của cuộc đời Chúa Giê-su, bắt đầu từ việc Ngài được Thánh Thần xức dầu tấn phong khi lãnh nhận phép rửa trên dòng sông Gio-đan. Thánh Tông Đồ mở ra một viễn cảnh, đó sẽ mãi mãi là viễn cảnh của Giáo Hội: ân ban Thánh Thần không đơn giản là một sự thủ đắc, nhưng thật sự là một sức mạnh bùng nổ, một năng lực giúp hoàn thành sứ mạng: “làm chứng”“thi ân giáng phúc” và “chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”.

TIN MỪNG (Mc 1: 7-11)

Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai hoạt cảnh được đan quyện vào nhau: phép rửa trong nước ở nơi dòng sông Gio-đan và phép rửa trong Thánh Thần ở nơi cuộc Thần Hiển. Hai hoạt cảnh  tương phản với nhau. Hoạt cảnh thứ nhất là một cảnh tượng về sự khiêm hạ nếu không muốn nói về một sự hạ mình đến tột cùng: Đức Giê-su tự hạ mình xuống đến mức ngang hàng với tội nhân. Hoạt cảnh thứ hai là một cảnh tượng hùng vĩ của cuộc tấn phong.

  1. Phép rửa trong nước

Đức Giê-su đến từ làng Na-da-rét miền Ga-li-lê để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình. Như vậy, khi muốn đón nhận phép rửa sám hối của ông Gioan, Đức Giê-su đã tự đặt mình vào hàng với các tội nhân. Cách hành xử  là yếu tố khởi đầu sứ mạng Cứu Độ. Kể từ lúc đó, Đức Giê-su muốn đón nhận ở nơi bản thân mình mọi tội lỗi của con người. Đây là bước đầu tiên sẽ dẫn Ngài đến núi Sọ để chịu một phép rửa khác: phép rửa bằng máu. Chính Đức Giê-su đã sánh ví cuộc Tử Nạn của Ngài với một phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc  hoàn tất” (Lc 12: 50). Đức Giê-su công bố với ông Gia-cô-bê và ông Gioan: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38). Động từ “rửa” theo nguyên ngữ là “ngụp lặn”“nhận chìm”. Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài sẽ nhận chìm mình vào trong vực thẳm đau khổ.

Từ phép rửa trong nước đến phép rửa bằng máu, đó là tiến trình của cuộc đời Đức Giê-su Ki-tô. Ở nơi hoạt cảnh phép rửa trong dòng sông Gio-đan ẩn chứa một hậu cảnh bi thảm…

  1. Phép rửa trong Thánh Thần

Cả bốn thánh ký đều tường thuật hoạt cảnh, điều đó nói lên tầm quan trọng mà các ngài đã dành cho giờ phút quyết định về ơn gọi của Đức Giê-su. Cảnh tượng được mô tả thật hùng vĩ: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời mở tung ra và thấy Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

Theo truyền thống Do thái, các tầng trời đóng lại với vị ngôn sứ cuối cùng là Ma-la-khi, nghĩa là chấm dứt mọi giao tiếp giữa Thiên Chúa và con người. Như vậy, biến cố “Đức Giê-su chịu phép rửa” đánh dấu một khúc quanh mới: “các tầng trời mở tung ra”, nghĩa là mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người được nối lại.

Quả thật, Đức Giê-su được thụ thai và sinh hạ bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng trong cuộc sống ẩn dật, Chúa Thánh Thần đã không công khai tỏ mình ra. Ngày Ngài chịu phép rửa bởi ông Gioan, đánh dấu khởi điểm sứ mạng mình, Đức Giê-su cần sức mạnh của Chúa Thánh Thần: “Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài”. Một số người thấy ở nơi hình ảnh “chim bồ câu” là con chim hòa bình mà ông Nô-ê thả trên nước lũ của trận Đại Hồng Thủy (St 8: 8-11). Những người khác nghĩ rằng hình ảnh  nhắc nhớ “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” trong công trình sáng tạo (St 1: 2). Dù hình ảnh nào thì việc Thần Khí ngự xuống trên Đức Giê-su khai mào một kỷ nguyên mới của Ơn Cứu Độ. Quả thật, trong Cựu Ước, chúng ta gặp thấy nhiều hình ảnh tiên trưng của phép Thánh Tẩy: từ nước của trận Đại Hồng Thủy xuất hiện một nhân loại mới khởi đi từ ông Nô-ê và con cái của ông; từ nước của Biển Đỏ một nhân loại mới được khai sinh. Cũng vậy, vừa ra khỏi dòng nước sông Gio-đan, Đức Giê-su khai mạc một nhân loại mà Ngài sẽ tái sinh.

  1. Ba cuộc tấn phong đồng lúc

Như vậy, trong biến cố, Đức Giê-su lãnh nhận ba cuộc tấn phong đồng một lúc:

– “Cuộc tấn phong với tư cách Con Thiên Chúa”. Tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha”. Trước hết, “tiếng từ trời” có nghĩa chính Thiên Chúa, đây là cách nói của người Do thái để bày tỏ niềm tôn kính đối với Thiên Chúa mà họ không dám nêu tên Ngài. Tiếp đó, “Con yêu dấu” gợi lại I-sa-ác, đứa con duy nhất, đứa con yêu quý của ông Áp-ra-ham mà Thiên Chúa truyền lệnh cho ông ra đi hiến tế trên núi mà Ngài sẽ chỉ cho (St 22: 2).

Chúng ta cũng vậy, vào lúc chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta cũng được Chúa Cha gọi “con yêu quý” ở nơi Người Con duy nhất, Con yêu quý của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô.

– “Cuộc tấn phong với tư cách Vua-Mê-si-a”. Chẳng hề ngẫu nhiên một chút nào khi tiếng phán từ trời cất lên bằng những từ ngữ mà xưa kia một vị vua được phong vương: “Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán với tôi rằng: “Con là Con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2: 7).

Vị Vua Mê-si-a mà các ngôn sứ loan báo, hậu duệ của nhà Đa-vít, chính là Đức Giê-su. Nhưng Ngài sẽ công bố mình là vua chỉ khi bị xiềng xích và bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng Do thái (Mc 14: 61-62) và trước tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15: 2).

– “Cuộc tấn phong với tư cách người tôi trung”. Những lời “Cha hài lòng về Con”nhắc nhớ sự tuyển chọn của Người Tôi Trung trong bản văn của I-sai-a mà chúng ta gọi “bài ca thứ nhất về Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong Bài Đọc I (Is 42: 1-7).

  1. Phép rửa trong cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa

Phụng Vụ Đông Phương cử hành lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa như ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Quả thật, đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh, Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện trong biến cố. Việc Đức Giê-su chịu phép rửa trong dòng sông Gio-đan được đánh dấu bởi cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa. Cuộc Thần Hiển này loan báo phép rửa Ki-tô giáo phù hợp với lời dạy của Đức Giê-su Phục Sinh cho các môn đệ Ngài vào lúc Ngài từ giã các ông mà lên trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 18-20).

Việc nhận chìm vào trong nước và bước ra khỏi nước là biểu tượng của sự chết và sự tái sinh. Hy tế của Đức Giê-su đã đem lại cho biểu tượng  tất cả mọi giá trị của nó. Thánh Phao-lô giải thích rõ ràng điều: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4). Thật ý nghĩa biết bao khi nghi thức Thánh Tẩy được cử hành vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh!

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA NHẬP CUỘC VỚI CON NGƯỜI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Các công nhân của thành phố Rôma hết sức ngạc nhiên và vui mừng vì hôm đó trong căn tin, nơi những công nhân lao động chân tay của thành phố vẫn thường ăn trưa, mọi người thấy Đức Thánh Cha Phanxicô cũng bước vào. Đức Giáo hoàng đến căn tin không hề báo trước, cũng không có nhân viên bảo vệ, Ngài chào thăm mọi người, hỏi họ về công việc về cuộc sống. Sau đó, Ngài bước vào lấy khay, xếp hàng để mua đồ ăn giống như tất cả các công nhân khác. Trong lúc xếp hàng chờ đến lượt mình, Đức Thánh Cha vẫn trò chuyện vui vẻ gần gũi với những người đang xếp hàng cùng. Ngài cùng ngồi ăn một bữa trưa thật vui vẻ, ấm cúng với các anh chị em công nhân. Sau đó, các công nhân đã chia sẻ cảm xúc của mình: “Chúng tôi rất bất ngờ và hạnh phúc vì Đức Thánh cha đã đến để chia sẻ cuộc sống thường ngày với chúng tôi”.Một người khác nói: “Chúng tôi thấy Ngài thực sự là một người cha, một người bạn, Ngài cùng vào xếp hàng, cùng ăn với chúng tôi”.Cô nhân viên bán hàng cho biết: “Đức Thánh Cha gọi một phần mì Spaghetti trộn phômai và một ít salát, một miếng cá nhỏ, đó là phần ăn thường ngày của chúng tôi”. Cô nhân viên kể tiếp: “Chúng tôi vui mừng, sung sướng quá”.Trước khi ra về, Ngài đã dừng lại chúc lành cho tất cả mọi người.

Thưa quý OBACE, Đức Thánh Cha bất ngờ xuất hiện trong một quán ăn bình dân, cùng xếp hàng mua phần ăn trưa và cùng ngồi ăn, trò chuyện với mọi người đã gây sự ngạc nhiên và niềm vui cho nhiều người hôm đó. Hôm nay, Tin Mừng cho thấy chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa cũng đã đến bờ sông Giođan, cùng xếp hàng với mọi người, cùng chờ đến lượt mình để xin Gioan Tiền Hô làm phép rửa cho. Với việc làm này, Chúa Giêsu khai mở một thời kỳ mới, thời kỳ hoạt động công khai. Việc làm này còn cho thấy: Thiên Chúa không chỉ nhập thể làm người, nhập thế để bước vào trần gian, mà ngài còn hoàn toàn nhập cuộc với con người, hòa mình vào cuộc sống với con người, để cứu thoát nhân loại và nhất là để biến đổi con người nên mới.

Đặt mình vào hoàn cảnh dân Do Thái, ta mới có thể cảm nhận được khao khát sâu thẳm trong tâm hồn của họ. Họ mong đợi một Đấng Cứu Thế như một người hùng sẽ đến để đổi mới tất cả. Lịch sử từ lập quốc đến nay, người Do Thái chỉ được một thời gian ngắn bốn mươi năm hòa bình dưới thời vua Đavít và Salômon, còn lại là sống trong cảnh nô lệ. Các tổ phụ và các tiên tri đều nhấn mạnh cho dân Do Thái thấy rằng, tình trạng nô lệ là hậu quả của sự bất tuân giới răn lề luật và bất trung với Thiên Chúa; đời sống đạo đức suy thoái là nguyên nhân dẫn đến đời sống xã hội suy thoái. Vì thế, tiên tri Isaia nói đến thời Thiên Chúa thể hiện vinh quang của Ngài, ngày mà Thiên Chúa sẽ ra tay thực hiện lời hứa cứu độ đã đến. Thiên Chúa là Đấng sẽ làm cho lịch sử của Israel lật qua một trang mới, thời kỳ tăm tối nhục nhằn cũng đã qua. Thiên Chúa đã khai mở một con đường mới cũng là một nếp sống cho toàn nhân loại. Thiên Chúa là Đấng quyền năng như một Đức Vua hùng dũng sẽ thiết lập chủ quyền trên toàn lãnh thổ, Ngài sẽ chăm sóc cho toàn dân như mục tử chăm sóc đoàn chiên. Với hình ảnh được phác họa như thế, người Do Thái mong đợi một Đấng Cứu Thế quyền lực uy hùng như một vị vua chiến thắng.

Tuy nhiên, khi Đức Giêsu Đấng Cứu Thế xuất hiện, ngài đã gây bất ngờ cho mọi người, vì nơi Ngài không có một dáng vẻ nào là uy quyền. Đấng Cứu Thế không đến trên những chiến xa, không có đoàn kỵ binh hộ vệ, cũng không dùng sức mạnh quân sự hay những cuộc khởi nghĩa. Trái lại, Ngài dùng sức mạnh của tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa để canh tân đổi mới toàn thể vũ trụ. Ngài đến âm thầm không chỉ lúc sinh ra, mà còn âm thầm sống tại làng Nazareth trong gia đình của Giuse Maria. Hôm nay bắt đầu khai mở cho sứ mạng xây dựng vương quốc Nước Trời, giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự thống trị của ma quỷ, Chúa Giêsu đã âm thầm bước đến bờ sông Giođan, xếp hàng cùng với mọi người để xin Gioan làm phép rửa cho mình.

Chính Gioan là kẻ dọn đường, là người loan báo về Đức Giêsu, cũng không khỏi bất ngờ và ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu bước đến bên ông và xin ông làm phép rửa. Trước đó, Gioan đã nói với mọi người về sự cao cả quyền năng của Đấng Cứu Thế đến sau ông, nhưng Ngài vượt trội hơn ông. Mặc dù lúc đó Gioan đã là một người nổi tiếng, được kính trọng, đám đông tuôn đến với ông để xin ông làm phép rửa bày tỏ lòng sám hối, vậy mà ông vẫn chỉ nhận mình không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài. Mọi người tin và đến xin ông làm phép rửa, nhưng Gioan lại nhận phép rửa của ông chỉ là phép rửa thể hiện lòng sám hối, không có sức tha tội. Đấng đến sau ông sẽ rửa cho mọi người bằng Thánh Thần. Phép rửa của Ngài có sức thanh tẩy mọi tội lỗi và làm cho con người được gia nhập vào dân thánh của Ngài. Gioan như muốn nói trước đến việc Đức Giêsu sẽ dùng quyền năng của Thánh Thần để tẩy rửa tội lỗi cho nhân loại và thiết lập nên một dân tộc mới.

Với sự xác tín và loan báo như thế nên Gioan cũng không khỏi bất ngờ khi thấy Chúa Giêsu bước đến trước mặt ông, cúi xuống xin ông làm phép rửa cho. Chắc chắn Gioan biết rằng, trước mặt ông là Đấng Thánh, nơi Ngài không có một vết nhơ tội lỗi nào, Ngài không cần phải tỏ lòng sám hối. Vì Ngài chính là Chiên Thiên Chúa là đấng xóa bỏ tội trần gian. Chúa Giêsu đã chọn một con đường cứu chuộc nhân loại hoàn toàn khác với suy nghĩ của Gioan và dân chúng. Ngài đã chọn sự  khiêm nhường và vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa Cha, cứu chuộc nhân loại bằng tình yêu đến tự hiến cả thân mình. Ngài là Đấng vô tội, nhưng lại chấp nhận trở thành kẻ đồng hàng với tội nhân và trở thành kẻ đền tội thay cho toàn nhân loại.

Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời xé ra và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.Hình ảnh “trời xé ra”nhắc cho chúng ta nhớ đến câu chuyện địa đàng: Khi con người từ chối vâng phục Thiên Chúa, đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa, con người đã rơi vào bất hạnh, bị đuổi ra khỏi vười địa đàng và cửa vườn bị đóng lại. Nay với sự khiêm nhường và vâng phục của Chúa Giêsu, cửa trời đã được mở ra, Thiên Chúa đã xé các tầng trời mà ngự xuống với con người. Thần Khí của Thiên Chúa như chim bồ câu ngự xuống trên Chúa Giêsu, điều này chứng tỏ rằng chương trình cứu chuộc của Chúa Chúa Giêsu luôn có sự đồng hành và trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Cùng với Thánh Thần, Chúa Giêsu khai mở một thời đại mới, thời đại của ơn cứu độ. Thiên Chúa Cha đã long trọng xác nhận và giới thiệu Con của Ngài cho nhân loại; Ngài hài lòng và đón nhận sự khiêm hạ vâng phục của Chúa Giêsu để ban ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại qua lời tuyên bố: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đến với nhân loại, Ngài hòa mình vào cuộc sống của con người và chỉ cho con người con đường để đạt được hạnh phúc đời đời. Thiên Chúa không muốn đứng riêng một mình, cũng không muốn ở xa con người, nhưng Ngài muốn chia sẻ đến tận cùng thân phận con người của chúng ta. Ngài chung chia những khó khăn đau khổ và giới hạn của kiếp người, Ngài mang vào thân mình và biến nó thành cơ hội ban ơn trợ giúp cho con người.

Thiên Chúa là Đấng luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu hoàn cảnh và tâm hồn của từng người. Ngài không kết án, không bỏ qua bất cứ điều gì chúng ta tin tưởng trao phó hoặc tâm sự với Ngài. Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết cách giải quyết vấn đề, sẽ đưa vai để chia sẻ gánh nặng với chúng ta, Ngài mang lấy tội lỗi của chúng ta và trả lại cho chúng ta sự tha thứ, chữa lành và ban bình an cho tâm hồn. Chúa Giêsu mời gọi mọi người: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.

Xin cho chúng ta luôn đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu, phó thác cho Chúa và dám trao vào tay Chúa khững khó khăn nhọc nhằn của cuộc sống, những bận vướng nặng nề trong lương tâm, để xin Chúa giải gỡ. Chúng ta cũng xin Chúa biến đổi chúng ta nên những con người mới và đón nhận chúng ta vào vương quốc của Ngài, vương quốc của tình yêu và sự thật, bình an và hạnh phúc. Amen.

Về mục lục

.

LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Lm. Fx. Nguyễn Văn Toàn

Kính thưa ông bà anh chị em,

Khi bắt đầu mở tiệm buôn bán hay mở công ty xí nghiệp để làm ăn, chúng ta thường có lễ ra mắt để cho mọi người biết, đó là lễ khai trương. Lễ khai trương là một hình thức quảng bá rộng rãi với khách hàng hay với đối tác làm ăn rằng, sau một quá trình chuẩn bị thì tất cả đã sẵn sàng đi vào hoạt động. Đây cũng là nghi thức đánh dấu một bước phát triển mới, mở ra hy vọng mới trong sự hào hứng của những người làm kinh doanh…

Cũng vậy, hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa để khai mở một thời kỳ mới, một sứ mạng mới. Không giống như khai trương hoạt động làm ăn chạy theo nhu cầu lợi nhuận vật chất, còn với Chúa Giêsu chịu phép rửa là để khai mào sứ vụ tình yêu. Nếu như với mầu nhiệm Giáng Sinh, Đức Giêsu đã đến trần gian trong âm thầm đơn sơ dưới hình hài của một hài nhi, và liền sau đó là những năm sống đời ẩn dật một cách bình thường tại thôn làng Nazareth 30 năm liền, thì hôm nay, với biến cố chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu đã chính thức, và công khai bắt đầu sứ mạng rao Giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa cho mọi người.

Tin Mừng Luca hôm nay đã phân biệt rõ ràng cho chúng ta về sứ mạng của Gioan Tẩy Giả và sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng như phép rửa của Gioan và của Chúa Giêsu sau này. Dân Do Thái sống trong một thời kỳ khao khát Đấng Cứu Thế, thì việc xuất hiện của Gioan, với lời rao giảng mạnh mẽ và cương quyết, thu hút nhiều dân chúng đến chịu phép rửa, thì nhiều người đã nghĩ rằng Gioan chính là Đấng Mesia. Gioan đã không ảo tưởng về mình, ông cũng không vượt quá giới hạn của mình, chỉ là người dọn đường, vì thế ông đã không ngại ngần để thanh minh cho mọi người khỏi sự lầm tưởng khi quả quyết với họ rằng: “Tôi không phải là Đấng Mesia”. Ông đã nói về giới hạn của bản thân mình và làm nổi bật sứ mạng của Đấng đến sau ông: “Tôi rửa anh em bằng nước, nhưng có Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi… sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa”. Như thế Gioan đã xác định cho thấy phép rửa của ông không có sức mạnh tha tội, mà chỉ là một dấu hiệu bày tỏ lòng sám hối để đón chớ một phép rửa thực sự bằng thánh Thần và bằng lửa, tức là một phép rửa trong quyền năng và lòng yêu mến.

Giữa đám đông như thế, Chúa Giêsu không hề có tội, lại khiêm nhường bước xuống dòng sông, đứng chung hàng với tội nhân và cũng xin được chịu phép rửa từ tay Gioan. Việc làm này không chỉ diễn tả sự hạ mình thẳm sâu của Thiên Chúa, mà còn là đánh dấu một thời đại mới, thời mà Thiên Chúa không còn ở xa, nhưng Ngài đã bước đến để tìm kiếm con người để gánh vác tội lỗi con người. Thánh Luca đã thuật lại: “Đang khi Người cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu”. Chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã khiến cho cửa trời mở ra, nếu ngày xưa khi Adam Eva phạm tội cắt đứt mối dây liên hệ với Thiên Chúa, làm cho cửa trời đóng lại, thì hôm nay Đức Giêsu là Adam mới đã nối lại mối dây thân tình với Thiên Chúa, qua những cuộc trò chuyện và cầu nguyện thân mật với Thiên Chúa. Cửa trời được mở ra, Thiên Chúa có thể dễ dàng đến với con người và con người cũng có thể dễ dàng đến với Thiên Chúa. Kể từ đây, một Giao Ước mới xuất hiện được ký kết bằng chính giá máu của Chúa Giêsu trên Thập Giá với toàn thể nhân loại, qua Chúa Giêsu, lòng nhân từ và tín nghĩa của Thiên Chúa được trải rộng vô biên cho đến tận cùng cõi đất qua muôn thế hệ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói. Người trung thành đem lại lẽ công bình…”

Thưa quý OBACE, chính vì tình Chúa yêu thương, qua Bí Tích Rửa tội, chúng ta đã được cứu chuộc, được tái sinh và trở nên con cái Thiên Chúa, đó là một ân phúc lớn lao. Tuy nhiên ân phúc này chỉ sinh hiệu quả và đem lại hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta tích cực cộng tác và làm cho những ơn này trổ sinh trong cuộc đời mỗi người. Trong bối cảnh Thiên Chúa đã phán bảo với tiên tri Isaia rằng: “Ta đã gọi con trong công lý, đã cầm lấy tay con, đã gìn giữ con, đã đặt con thành giao ước của dân và nên ánh sáng của chư dân, để con mở mắt cho người mù, đưa ra  khỏi tù nhũng người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm”. Lời Chúa phán khi xưa kia, hôm nay được hiện thực hóa trong một thời đại văn minh tiến bộ nhưng thiếu vắng sự nâng đỡ, ủi an. Thật hữu ích biết bao nếu chúng ta biết suy gẫm và cầu nguyện thì chúng ta sẽ thấy đó là nhưng lời gắn liền với sứ mạng cấp thiết nhất mà chính Thiên Chúa đang nói với chúng ta trong từng hoàn cảnh và điều kiện sống cụ thể. Để làm được những điều ấy, đòi buộc chúng ta phải loại trừ những gì là phàm tục tầm thường ra khỏi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta, và phải tích cực làm nhiều việc thiện việc tốt cho mình và cho mọi người. Là những người được cứu chuộc qua phép rửa tội trong Máu Chúa Kitô và trong lửa Chúa Thánh Thần, chúng ta không thể để mình bị rơi lại vào sự ràng buộc của tội lỗi dục vọng và tật xấu, hãy dựa vào sức mạnh của Thánh Thần để chống trả lại những tấn công của ma quỷ. Qua bí tích rửa tội, người kitô hữu trở thành con cái trong Giáo hội, trở thành đoàn dân của những người tin Chúa, chúng ta có trách nhiệm phản ánh chân thực bản chất của người công giáo yêu thương, không lấy oán báo ơn; không thù hằn ghen ghét, không phân biệt giai cấp, không coi rẻ người nghèo, không khinh khi người có tội… sống công bằng không tham lam, bóc lột, hối lộ, nêu cao gương bác ái, liên đới, sẻ chia, và nhất là sống và làm chứng cho sự thật, bởi vì chúng ta thuộc về nước của Sự Thật.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết mặc lấy sự khiêm nhường, liên đới của Chúa, để chúng con sống xứng đáng là con của Cha trên trời, và là anh chị em với nhau nhờ được liên kết với Chúa là đầu của Giáo Hội. Amen.

Về mục lục

.

ĐẾN SÔNG GIO-ĐAN

Lm. Jos. DĐH.

Để đạt thành quả tốt đẹp, làm bất cứ việc gì đều phải có mục đích: dù học tập, làm kinh tế, làm thiện nguyện, trước tiên phải sống kỷ luật, nghiêm túc với bản thân, nhất là ở thời đại công nghệ, ai ai cũng quan tâm đến “sự cao đẹp tuyệt đối”. Để nói với con cháu: sức khoẻ là vàng, bậc cha mẹ không những vừa dạy, vừa dỗ, đồng thời phải kiên nhẫn giúp cho chúng hiểu về ích lợi của việc ăn uống ngủ nghỉ điều độ, sống như thế đã khó lắm rồi. Thực ra, khái niệm thế nào là thành công, tại sao phải chú trọng đến kỷ luật, thường rất chung chung, khi một số vẫn tỏ vẻ lạc quan theo chủ trương: người ta sao mình vậy, người ta làm bậy, đừng làm theo.

Đến sông Gio-đan để làm gì ? Đi lễ chùa, hành hương nơi này chốn kia, có phải là muốn tìm sự bình an, hoặc tìm né tránh cảm giác bất ổn đang náo loạn nơi cuộc sống của mình ? Dõi theo hành trình một số đông đủ mọi thành phần, họ đến gặp Gioan với mục đích và nhu cầu riêng tư gì đó, ít nhiều cũng làm cho chúng ta nghĩ rằng: bụt chùa nhà không thiêng. Đúng, khi không thể đến với các luật sĩ biệt phái, không bày tỏ được những ưu tư với các linh mục, người ta có khuynh hướng tìm kiếm những bậc đáng kính dù phải đi xa, đến rừng sâu. Theo quan sát tự nhiên, Gioan là vị chân tu đạo hạnh, tiếng hô hoán của ông tại hoang địa thật lạ lùng đối với muôn dân hằng mong đợi Đấng Kitô. Theo phạm vi siêu nhiên, tiếng gọi mời của Chúa qua Gioan vang dội đến từng tâm hồn, họ được thu hút đến sa mạc để nghe, để hiểu, để sống đúng, hoàn cảnh hiện tại của họ.

Dư luận ồn ào không phải vì cơm áo gạo tiền, cũng chẳng phải vì quyền bính, đúng hơn vì “lực hút” rất thiêng liêng, làm thức tỉnh tâm tâm nhiều người. Không phải tự nhiên mà cha ông chúng ta nói: trăm nghe không bằng một thấy ; có đi mới đến, có học mới hay. Đến với Gioan để tai được nghe mắt được thấy, để con tim khối óc hiểu rõ hơn việc phải sám hối, phải tẩy rửa con người tội lỗi, hầu gặp Đấng cứu thế đang tới. Gioan đã hiểu, đã chia sẻ, và ý thức ông cũng ở trong số người phải chuẩn bị, phải sám hối, phải tẩy rửa những thiếu sót lỗi lầm, ông cũng đang mong chờ, đợi trông, Đấng đến tẩy rửa ông trong Thánh Thần.

Đến sông Gio-đan, không những chỉ thấy sự nghiêm minh trước sứ vụ “Tiền hô” của Gioan, người ta còn được nghe lời chân thành: “phần tôi, tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, và tôi, tôi không đáng cởi dây giầy cho Người”. Đến sông Gio-đan rất cần có mục đích trong sáng, để mỗi người biết khiêm tốn nhìn nhận sự giới hạn của mình, đang cùng sống thật với ơn gọi như Gioan: “chính Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và lửa”. Không nhận mình là Đấng thiên hạ đang mong đợi, Gioan cho biết sứ mạng của ông là dọn đường, ông không hổ thẹn với lời khen ngợi: chẳng mơ ai cũng yêu mình, chỉ mong duy nhất mọi người thuỷ chung. (ca dao)

Kinh nghiệm ở đời cho thấy, người ta cao hơn nhau không phải là dài ngắn, mà là ở mức độ nhìn chuẩn, nhìn chính xác. Người ta quý nhau không hẳn là do giầu nghèo, địa vị, quý nhau ở chỗ hiền lành, đức độ. Người ta hơn nhau không phải do tấm áo manh quần, mà hơn nhau ở chỗ nhận biết mình là ai ? Biết buông bỏ thời giờ đến gặp Gioan đã là một sự từ bỏ, lắng nghe, hiểu và chấp nhận đứng vào hàng ngũ để được dìm mình dưới sông Go-đan, nhất định những tâm hồn ấy đã bày tỏ lòng sám hối theo tinh thần của Gioan rồi. Trình thuật Đức Giêsu đến sông Gio-đan, xếp hàng, xin chịu phép rửa của Gioan, Đức Giêsu cũng ý thức Ngài mang bản tính loài người, Ngài cảm nhận được thánh ý của Chúa Cha, Ngài muốn được đồng hành với mọi tầng lớp con người. Không những thế, mọi người hôm đó còn diễm phúc được nghe tiếng từ trời: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.

Đến sông Gio-đan chỉ để dìm mình xuống nước, sẽ không cần thiết với người kitô hữu, nhưng đến sông Gio-đan sám hối, tẩy rửa tội lỗi mình trong tình yêu của Đức Kitô, mãi mãi là ơn gọi thiết thực cho sự sống đời đời. Đến sông Gio-đan để được nghe: “Con là Con yêu dấu của Cha….”, sẽ còn vang lên mỗi khi chúng ta hiệp nhất cầu nguyện, sám hối, xét mình, bước ra khỏi toà giải tội trong niềm tin Đức Kitô Tử nạn và Phục sinh. Ở trong nhà thờ lúc này, hẳn Đức Giêsu cũng đang hỏi chúng ta, bạn đến đây với mục đích gì ? Người kitô hữu chỉ có thể trả lời rõ ràng, khi chúng ta hiệp thông với Giáo hội, cùng giúp nhau tẩy rửa tâm hồn, giúp nhau sống tương quan tốt đẹp với Chúa và với anh chị em mà chúng ta gặp gỡ. Amen.

Về mục lục

.

DÒNG SÔNG ƠN THÁNH

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa của ông Gioan, đưa chúng ta về lại khung cảnh đất trời tại dòng sông Giodan. Nơi ấy, cả một dòng người phô diễn cái khốn khổ tột cùng của mình trong vũng lầy tội lỗi, và họ đang vùng vẫy giữa dòng nước mong được giải thoát. Cũng chính nơi ấy, Thiên Chúa bày tỏ dung nhan hiền từ đầy lòng thương xót của Ngài, và chính Ngài lao mình xuống cứu vớt nhân sinh. Trời đã rộng mở bàn tay ban nguồn ơn thánh tuôn đổ chan hòa khắp nhân gian.

Nước chảy chỗ trũng

Sông Giodan nối hồ Galile với Biển Chết. Con sông nhỏ bé nhưng nước chảy suốt đêm ngày. Dòng nước lưu chuyển bởi mặt nước hồ Galile cao hơn mặt nước Biển Chết 218m. Nước chảy chỗ trũng là quy luật tự nhiên. Nước là thế, nước luôn tìm chỗ trũng. Đức Lão Tử đã biện giải thật sâu về nước trong sách Đạo Đức Kinh: nước luôn điền vào chỗ thiếu và trào ra từ chỗ thừa; Nước làm lợi cho vạn vật mà không tranh giành lợi ích.

Nước không bao giờ đọng lại nơi cao và bằng lòng dừng lại. Bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu, hễ có chỗ trũng, chỗ thấp hơn, nước liền chảy tới. Dòng nước trong xanh nơi hồ Galile nuôi dưỡng bao sinh vật tốt tươi. Trái lại, nước ở Biển Chết thì mặn đắng khiến chẳng có sinh vật nào sống nổi. Thế nhưng con sông Giordan vẫn ngày đêm tuôn chảy nguồn nước từ hồ Galile tới Biển Chết. Dòng nước đã làm tốt tươi bao thảo mộc đôi bờ.

Thân phận tội lỗi

Bên bờ dòng sông Giordan mà thánh sử Luca thuật lại, ta thấy cả một đoàn người đang quây quanh Gioan tẩy giả để xin làm phép rửa sám hối. Họ dìm mình xuống dòng sông không để tẩy rửa tấm thân thể lý, nhưng là khao khát tâm hồn được tẩy sạch những vết nhơ lỗi lầm.

Thân phận con người là thế. Vốn nó được tạo thành trong sự thanh sạch. Phận làm người thì thật cao quý, nhưng thân phận con người tội lỗi thì thật khốn cùng. Tội lỗi là cái khốn cùng nhất của con người. Nó biết mình nhuốc nhơ mà không tài nào tẩy cho sạch.

Con người đã không còn khả năng đón nguồn ơn thánh từ nơi Thiên Chúa. Bởi một lẽ đơn giản là vì con người đã tự loại trừ Thiên Chúa, tự rời xa Thiên Chúa. Như những kẻ lạc bước trong sa mạc khát khao dòng nước, con người khát khao ơn thánh để có thể vượt thắng tội lỗi.

Thiên Chúa nhân từ

Nhìn đến thân phận con người trong cơn quẫn bách, không ai đau lòng hơn Đấng đã tạo dựng nên con người. Tiên tri Isaia đã diễn tả tâm trạng của Thiên Chúa trong bài đọc thứ nhất: “Người không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói. Người trung thành đem lại lẽ công bình.” Dù chỉ còn là chút hy vọng mong manh, Đức Chúa vẫn không muốn mất đi một con người nào. Bàn tay Ngài vẫn nhẹ nhàng chăm sóc, tìm cách chở che, nâng đỡ con người.

Giữa dòng người thân mang đầy tội lỗi ấy, Thiên Chúa đã xuất hiện. Thánh Luca mô tả: “chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu”. Chúa Giê-su đã không đứng trên trời để ngó nhìn con người, nhưng Ngài đã xuống mặt đất với con người; Ngài đã không đứng trên bờ để nhìn con người đang trầm mình dưới dòng nước, nhưng Ngài đã lội xuống dòng nước với con người; Ngài đã không đứng dưới dòng nước để dìm những con người tội lỗi, những Ngài ngụp lặn xuống dòng nước cùng với con người.

Thiên Chúa đã đến giữa dòng người tội lỗi, đã ngụp lặn xuống tận cùng của sự khốn khổ nơi con người. Dòng sông ơn thánh đã khơi nguồn từ lòng Chúa Cha từ ái tuôn chảy xuống thung lũng khổ đau trong tâm hồn con người. Nếu như có ai đó ngăn cản không cho nước chảy tới chỗ trũng thì việc ngăn cản ấy chỉ làm cho lực tuôn trào của nước ngày càng mạnh hơn. Để rồi khi đến thời đến buổi, nước sẽ vượt thắng tất cả để tìm đến chỗ trũng. Nguồn ơn Thánh Chúa đã không chịu thua tội lỗi của con người. Ngày ấy, Trời đã mở ra tuôn đổ Ơn Thánh xuống trần gian; Thiên Chúa làm người để con người được làm con Thiên Chúa; Chim hòa bình xuất hiện báo hiệu cảnh thái bình đã trở lại, một cuộc tạo dựng mới đã khởi đầu.

Quả thực Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Mỗi bước đi của Ngài luôn đem lại nguồn sức sống dồi dào, mang lại sự tươi mới cho những ai theo Ngài; Ánh mắt của Giê-su luôn tìm đến những con người nghèo khổ nhất trong đám đông; Tâm hồn Ngài luôn chạm đến những nỗi đau sâu thẳm nơi những người gặp gỡ để xoa dịu; bàn tay Ngài luôn đụng đến những con người đau yếu nhất để chữa lành… Dòng sông ơn thánh phát nguồn từ Thiên Chúa luôn tìm đến những tâm hồn nghèo khổ trước hết.

Lạy Chúa, con xấu hổ vì tội lỗi con, nhưng con vui mừng vì được ở trong Nhà của Chúa. Xin bàn tay từ mẫu của Chúa khơi mở tâm hồn con, để con được đón nhận nguồn Ơn Thánh, và để con được sống mãi trong Nguồn Ơn Thánh Ngài.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU KHỞI ĐẦU SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 40:1-5, 9-11;  Tt 2:11-14;  3:4-7;  Lc 3:15-16, 21-22)

Khởi đầu một công việc lớn lao đòi hỏi người ta phải chuẩn bị kỹ lưỡng.  Thiên Chúa Cha đã sai Con Một giáng trần qua mầu nhiệm Giáng Sinh.  Mầu nhiệm này đã được chuẩn bị khi Thiên Chúa chọn một người phụ nữ để Chúa Giê-su sinh ra tại Bê-lem.  Giờ đây bước sang một giai đoạn mới, Người sai Chúa Giê-su vào đời để bắt đầu loan báo Tin Mừng cứu độ cho nhân loại.  Vậy Chúa Cha đã chuẩn bị thế nào cho giai đoạn rất quan trọng này?  Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đã chọn lựa các bài đọc thật ý nghĩa để nói lên việc chuẩn bị ấy, trước hết giới thiệu bối cảnh trần gian mà Chúa Giê-su sẽ thi hành sứ vụ, rồi tường thuật sự kiện cả ba ngôi Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, đều xuất hiện trong biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa.  Có thể nói việc Chúa Giê-su chịu phép rửa là nghi thức “lên đường” của Chúa Giê-su.

Trước hết, ngôn sứ I-sai-a nói gì về bối cảnh và bản chất của sứ vụ Đấng Cứu Độ sẽ thi hành?  Điều thứ nhất ngôn sứ muốn loan báo, đó là thời điểm khởi đầu sứ vụ.  Thành Giê-ru-sa-lem biểu tượng cho toàn thể nhân loại đang chờ đợi Đấng Cứu Độ.  Nhân loại ấy đã sống trong vòng nô lệ tội lỗi từ lâu.  Nhưng nay đã đến lúc “thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong”.  Hoặc nói khác đi, đây là lời Thiên Chúa tuyên bố thời giờ cứu độ nhân loại đã điểm và Đấng Cứu Độ xuất hiện.  Điều thứ hai là nhân loại phải làm gì để chuẩn bị đón Đấng Cứu Độ đến?  Phải mở một con đường cho Người, một con đường thẳng băng, không lũng sâu, không dốc dác, không gồ ghề.  Con đường ấy là tâm hồn mỗi người cần phải phá bỏ đi mọi trở ngại thiêng liêng là tội lỗi ngăn cản Chúa đến. Tội lỗi được diễn tả bằng nhiều hình ảnh như sa mạc, đồng hoang, núi đồi, thung lũng, lồi lõm và gồ ghề.  Chúa muốn đến trong tâm hồn mỗi người trên con đường thẳng và phẳng phiu.  Điều thứ ba ngôn sứ I-sai-a loan báo là bổn phận phải loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người biết.  Riêng với kẻ loan tin mừng, họ phải cất tiếng lên cho “thật mạnh” và “đừng sợ”.  Họ phải loan báo rằng khi Đấng Cứu Độ đến, Người sẽ “nắm trọn chủ quyền”, tập trung và chăm sóc nhân loại như mục tử chăm sóc đoàn chiên.

Những điều ngôn sứ I-sai-a tiên báo giờ đây đã được ứng nghiệm trong biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa.  Bài Tin Mừng giới thiệu Gio-an Tẩy Giả như “kẻ loan tin mừng”.  Ông Gio-an đã làm đúng theo chỉ thị của Thiên Chúa qua lời ngôn sứ I-sai-a.  Nghĩa là ông đã hô lên thật lớn thật mạnh để mọi người được nghe;  ông cũng can đảm loan báo tin mừng Đấng Mê-si-a đến, cho dù ông phải chấp nhận cái chết khi hô hào mọi người, kể cả vua Hê-rô-đê, hãy chuẩn bị con đường cho Đấng Mê-si-a đến.  Để hỗ trợ cho lời kêu gọi, ông còn làm phép rửa cho dân chúng để nhắc nhở họ phải canh tân đời sống dọn đường Chúa đến trong tâm hồn.  Tuy nhiên cao điểm sứ mệnh của ông là lúc ông trân trọng giới thiệu Chúa Giê-su, Đấng “sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa”.  Đúng vậy, sau khi ông Gio-an làm phép rửa cho Chúa Giê-su, trân trọng giới thiệu Người là Đấng Cứu Độ sẽ thi hành sứ mệnh xóa bỏ tội trần gian, thì lập tức có sự hiện diện của Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.  Các Ngài cộng tác mật thiết với Chúa Giê-su.  Chúa Giê-su đã nhận lấy Thánh Thần “ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu”.  Chúa Giê-su cũng nhận lấy lửa tình yêu khi Chúa Cha tuyên bố Chúa Giê-su là Con Yêu Dấu của Người.  Khi thi hành sứ vụ, Chúa Giê-su sẽ “rửa” nhân loại bằng Thánh Thần và lửa tình yêu của Chúa Cha, để mọi người được trở nên con cái Thiên Chúa.

Biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa không chỉ là dịp để ông Gio-an giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng sẽ đến “làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa”, mà còn là dịp Thiên Chúa Cha tuyên dương Chúa Giê-su là Con yêu dấu của Người nữa.  Lời tuyên dương của Chúa Cha ám chỉ phong cách Chúa Giê-su sẽ chu toàn sứ vụ của Người trong tương lai, đồng thời cũng là lời nhắn nhủ tất cả chúng ta hãy sống như con yêu dấu của Thiên Chúa.

Sống sứ điệp Lời Chúa

Vậy chúng ta sống thế nào để làm những người con yêu dấu của Thiên Chúa?  Đoạn thư Ti-tô của thánh Phao-lô quả thực là câu trả lời hết sức thực tiễn giúp ta sống đẹp lòng Chúa.  Trước hết thánh tông đồ nói đến ơn cứu độ là một ân sủng Thiên Chúa đã tỏ ra cho chúng ta nơi Chúa Ki-tô.  Quả thực, Chúa Ki-tô biểu lộ ân sủng ấy bằng cách “đã tự hiến tế để cứu chuộc chúng ta thoát khỏi mọi điều bất chính”, tức là khỏi mọi tội lỗi.  Vì thế, “ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này”.  Bởi Thiên Chúa cứu độ chúng ta “không phải vì chúng ta đã làm những việc công chính, mà là vì Người thương xót”, nên ta phải xác tín chân lý ấy và luôn dâng lời cảm tạ Chúa đã yêu thương cứu chuộc ta.  Để giúp ta sống như những người con ngoan, Thiên Chúa đã tuôn đổ Chúa Thánh Thần trên chúng ta để đổi mới chúng ta.  Vậy ta hãy tích cực cộng tác với hoạt động của Chúa Thánh Thần để trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô”.  Như thế, những lời Chúa Cha nói với Con Một Người: “Con là Con yêu dấu của Cha” sẽ là những lời Người nói với mỗi người chúng ta vậy.

Về mục lục

.

NGÀY HÔM NAY CHA ĐÃ SINH RA CON

JM. Lam Thy

Phụng vụ mùa Thường niên đặt trọng tâm vào việc khai triển sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Chúa Giê-su. Do đó, không gì thích hợp hơn là mở đầu mùa Thường niên bằng cách giới thiệu về Đức Ki-tô. Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 3, 15-16.21-22) có hai lời giới thiệu, một là của thánh Gio-an Tẩy Giả, đại diện cho hết mọi người nói lên sự cao trọng của Người Con, và một là của Chúa Cha Toàn Năng ở trên trời giới thiệu chính Con Yêu Dấu của Người. Những lời giới thiệu này rất quan trọng, bởi vì nếu có thực sự xác tín vào uy quyền và chức năng đích thực của Chúa Giê-su, người tín hữu mới dễ dàng đón nhận và sống những điều Người giảng dạy cũng như noi theo gương mẫu của Người.

Cũng vì biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan đánh dấu việc mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn xuất hiện công khai khởi đầu cho sứ vụ của Đức Ki-tô sau 30 năm sống ẩn dật tại Na-da-ret; nên có thể nói lễ Hiển Linh khép lại mùa Giáng Sinh và lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa mở đầu cho năm Phụng vụ mới (CN I/TN). Tuy nhiên, truyền thống phụng vụ Đông phương coi biến cố này vẫn là một thành phần trong lễ Hiển Linh, vì cùng mang một ý nghĩa: Thiên Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Hơn nữa, có thể nói đây là tột đỉnh của việc Chúa Hiển Linh, nên Lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa thật xứng đáng dùng để kết thúc mùa phụng vụ Giáng Sinh, là mùa cử hành mầu nhiệm Chúa tỏ mình ra. Về Phụng vụ thì cả 2 ý nghĩa nêu trên đều hợp lý, nhưng về lich sử thì biến cố Hiển Linh và biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa cách nhau tới 30 năm.

Việc tỏ mình ra của Đức Giê-su có thể xếp theo trình tự: Khi Đức Mẹ thăm viếng người chị họ Ê-li-da-bet, thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ; nơi máng cỏ Bê-lem, thiên sứ báo tin cho các mục đồng; ngôi sao Tình Yêu dẫn 3 đạo sĩ từ Đông phương đến thờ lạy Người; khi chiịu phép cắt bì, ông Si-mê-on và bà Anna ẵm kính Đức Giê-su và nói tiên tri trong đền thờ; khi được 12 tuổi, tại đền thờ Giê-ru-sa-lem, Người đã khiến các kinh sư luật sĩ phải kinh ngạc; và cho tới hôm nay, khi đã được 30 tuổi, Người đi giữa quần chúng đến sông Gio-đan xin ông Gio-an làm phép rửa. Việc làm này thêm một lần nữa chứng tỏ cụ thể Đức Giê-su đã vâng phục tuyệt đối ý định của Thiên Chúa Cha (Chúa Cha sai Chúa Giê-su xuống thế làm người, mà đã làm người dưới thế thì đương nhiên phải chịu phép rửa như lề luật đã định). Ngoài ra, khi chịu phép rửa, Người còn tiên báo toàn bộ sứ vụ mà Người sẽ thi hành: Đó là phép rửa mà Người hằng lo lắng khắc khoải để hoàn tất (“Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” – Lc 12, 50).

Đức Giê-su Thiên Chúa vì vâng lệnh Chúa Cha không những chỉ chịu phép rửa một lần, mà còn tới 2 lần: 3 năm sau phép rửa tại sông Gio-đan, Người lại chịu phép rửa một lần nữa. Lần này Chúa không chịu phép rửa bằng nước, mà bằng chính Máu của Người. Nguời đã chịu phép rửa thay cho nhân loại bằng chính sinh mệnh của Người trên thập tự giá. Nói cách khác, Đức Giê-su đã lấy Máu của Người để rửa sạch tội lỗi cho nhân loại, đồng thới lấy Thịt của Người để tái sinh và nuôi dưỡng loài người trong đời sống mới. Chính biến cố Đức Giê-su Ki-tô chịu phép rửa tại sông Gio-đan là tiền đề dẫn vào Phép Rửa mà Đức Giê-su hằng “lo lắng khắc khoải” thực hiện. Người còn gọi đó là Chén Đắng và theo bản tính loài người, Người đã kêu cầu cùng Chúa Cha cho khỏi phải uống (“Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” – Mt 26, 3). Vâng, quả thật “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.” (Dt 5, 7) vì Chén Đắng (tức Phép Rửa lần thứ 2) ấy.

Một cách cụ thể, Phép Rửa tại sông Gio-đan tiên báo đầy đủ tiến trình mầu nhiệm cứu độ, từ cuộc khổ nạn chết trên thập tự giá đến Phục Sinh vinh hiển. Do đó đã có cảnh trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu, và tiếng Chúa Cha tuyên bố từ trời cao: “Con là Con Chí Ái của Ta, hôm nay Ta đã sinh ra Con”. Cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Chúa Giê-su đã có từ trước vô cùng, vậy tại sao hôm nay Chúa Cha lại phán: “hôm nay Ta đã sinh ra Con”? Nếu coi Phép Rửa tại sông Gio-đan là tiền đề cho cuộc tử nạn của Chúa Giê-su, thì Lời phán dạy của Chúa Cha thật vô cùng ý nghĩa. Cuộc tử nạn của Chúa chính là phép rửa Người phải gánh chịu thay cho nhân loại và tới ngày thứ ba thì Người từ cõi chết sống lại hiển vinh. Sống lại tức là phục sinh, là tái sinh (sinh ra một lần nữa). Lời Chúa Cha đã bao hàm ý nghĩa “Hôm nay Ta đã sinh ra Con lần nữa” vậy. Ngoài ra, trong Phép Rửa tại sông Gio-đan có đầy đủ cả Ba Ngôi Thiên Chúa, nên nói sự kiện này là cao điểm nhất cho biến cố Thiên Chúa tỏ mình ra.

Phép rửa là phép thanh tẩy con người để trở nên con cái Thiên Chúa, bạn của Đức Ki-tô (Ki-tô hữu), nhưng Đức Giê-su đã là Con của Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật sự rồi, tại sao còn chịu phép rửa? Vấn đề khó hiểu chính ở chỗ này, và cũng vì thế nên Thánh Gio-an Tẩy Giả đã một mực từ chối, không dám làm phép rửa cho Người (“Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” – Mt 3, 14). Tuy nhiên, Đức Giê-su đã trả lời thẳng thắn: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” (Mt 3, 15). Khi nói: ”Nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”, rõ ràng là Đức Vua Công Chính chỉ muốn chứng tỏ cho loài người hiểu là Người đã tuyệt đối vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người; và đã làm người như bao người khác, thì Người cũng sẵn sàng giữ đúng lề luật để làm gương (“Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” – Mt 5, 18).

Rửa (hoặc tẩy) là dùng nước để làm sạch, tẩy xoá đi những ô uế, dơ dáy. Việc dùng nước trong nghi thức Thanh Tẩy chỉ là tượng trưng, để cho loài người thấy bằng mắt và qua kinh nghiệm từng trải về việc làm sạch, sẽ hiểu được ý nghĩa sâu xa tiềm ẩn trong nghi thức ấy. Ý nghĩa chính của bí tích Thánh Tẩy là rửa sạch tâm hồn, tẩy xoá tội lỗi; vì thế, khi thực hành phép rửa là phải cầu xin Chúa Thánh Thần, bởi chính Thần Khí Chúa mới làm sạch được tâm hồn con người, như lời dạy của Thánh Gio-an Tẩy Giả: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt 3, 11). Chúa Thánh Thần chính là nguồn suối tẩy rửa nhơ uế, là ngọn lửa vừa để thiêu đốt những tì ố xấu xa, vừa là sức mạnh giúp con người trở nên can đảm, có nghị lực đối mặt với ba thù, đồng thời hun đúc tình yêu (lửa Mến) trong điều răn nền tảng (mến Chúa yêu người). Biểu tượng Chúa Thánh Thần là “Nước” và “Lửa” cũng là vì thế.

Người Ki-tô hữu khi được lãnh nhận phép rửa phải coi đó như một đặc ân – một hồng ân – Thiên Chúa ban cho. Hầu hết Ki-tô hữu đã được nhận phép rửa ngay từ khi mới sinh (trừ một số tân tòng lãnh nhận khi đã trưởng thành, quen gọi là “trở lại Đạo”) và như thế là khởi đầu cho sứ vụ của mình – sứ vụ một ngôi sao Tình Yêu trong Giáo hội có trách nhiệm đem lại ánh sáng cho trần gian (“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” – Mt 5, 14). Thật là ý nghĩa khi khởi đầu cuộc sống trần gian, con người được lãnh nhận phép Thánh Tẩy, bởi chính đây là lúc người Ki-tô hữu nhận được sự sống mới, sự sống của ân sủng, sống hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi và cùng lúc coi hết mọi Ki-tô hữu là con cùng một Cha. Đó chính là một mầu nhiệm khai sinh con người mới trong đời sống mới, được chính Đức Giê-su Ki-tô uỷ thác sứ vụ rao giảng Lời Chúa, làm nhân chứng sống cho Tin Mừng Cứu Độ (”Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” – Mt 28, 19).

Chỉ tiếc một điều, con người không ý thức được, nên đã coi phép rửa chỉ như là một nghi thức gia nhập của một tôn giáo (theo Đạo – ai chưa rửa tội thì chưa có Đạo, ai đã rửa tội rồi mới là người có Đạo). Vì thế, con người đã tự dập tắt sự sống mới, để đắm chìm trong hận thù ghen ghét, đố kỵ kiêu căng…, rồi đi đến tình trạng mà Kinh Thánh miêu tả như là “chết lần thứ hai”. Chết một lần vì tội Nguyên tổ, bây giờ lại chết lần thứ hai vì chính mình tự kết án mình, đến độ có thể nói loài người không chỉ giết Đức Ki-tô một lần trên thập giá, mà hàng ngày, hàng giờ vẫn tiếp tục đánh đòn, giết Người luôn mãi. Phải chăng vì thế mà Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, mà phải chịu phép rửa tới hai lần? Hoá cho nên, nếu anh là người chịu phép rửa từ lúc sơ sinh, anh cần phải học để hiểu cho tường tận về bí tích Thánh Tẩy, còn nếu anh chịu phép rửa lúc trưởng thành (tân tòng), anh đã được giáo dục tường tận, thì lại càng cần phải tâm tâm niệm niệm về mầu nhiệm này. Tắt một lời, dù anh ở vào trường hợp nào thì cũng vẫn cần, rất cần được bồi dưỡng và phát triển – thông qua các bậc sinh thành, các người đỡ đầu, cộng đoàn dân Chúa – nhận thức và nhất là đức tin về một bí tích “cải tử hoàn sinh” con người của anh trong đời sống mới: Bí tích Thánh Tẩy.

Đức Giê-su Thiên Chúa còn chịu phép rửa tới 2 lần, còn anh, anh hãy xin cho được chịu phép rửa hàng năm – không, anh hãy xin cho được chịu phép rửa hàng ngày – vì hàng ngày anh vẫn liên tục đánh đòn Chúa, tìm giết Chúa, tâm hồn anh vẫn liên tục nhơ uế, rất cần được tẩy rửa cho sạch tội lỗi. Bằng cách nào ư? Chắc anh đã tìm ra: Chính là bằng cách lắng nghe, suy niệm và thực hành Lời Chúa, tham dự các bí tích, thực hành các nhân đức, và nhất là cầu nguyện, cầu nguyện liên lỉ. Chỉ có như thế, anh mới được chính Đức Giê-su Ki-tô làm phép rửa cho anh bằng Thánh Thần và lửa, rồi cũng chính Người sẽ dang hai tay đón anh vào Trái Tim Người như Lời Người đã cầu xin cùng Chúa Cha: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta.” (Ga 17, 20-21).

Ôi! Lạy Chúa! Con biết tội con nặng lắm rồi, rất cần được thanh tẩy trong Thánh Thần và lửa như Lời Chúa – thông qua Thánh Gio-an Tẩy Giả – đã hứa. Cúi xin Chúa cho con được thanh tẩy tâm hồn con, con người con, cả cuộc sống của con hàng ngày hàng giờ, bằng những bí tích nhiệm màu, nhất là bí tích Thánh Tẩy mà Chúa đã dạy con trên sông Gio-đan năm xưa, để con xứng đáng là Con Thiên Chúa Cha và là Con Giáo hội hiền thê của Chúa.

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Ðức Ki-tô chịu phép rửa tại sông Gio-đan và Thánh Thần ngự xuống trên Người, Chúa đã long trọng tuyên bố Người là Con chí ái. Xin cho chúng con là đoàn nghĩa tử được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, hằng bền vững thi hành ý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa).

Về mục lục

.

KITÔ HỮU ĐÍCH THỰC

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Trước khi bước vào đời sống công khai đi rao giảng Tin mừng cứu độ, Chúa Giêsu đến xin ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình tại sông Giorđan. Ngài hòa nhập với dòng người đến nhận phép rửa, không phải để xin ơn tha tội vì Ngài là Đấng trong sạch vô cùng, nhưng Ngài nêu gương khiêm hạ cho mọi người; đồng thời thánh hóa nước để thanh tẩy trong phép Rửa tội mà Ngài sẽ thiết lập.

Sau khi được kéo ra khỏi nước và đang khi cầu nguyện, Chúa Giêsu thấy “trời mở ra và Thánh Thần hiện hình giống như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán rằng:”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,21-22). Đấy là lời Chúa Cha tuyên phong Đức Giêsu là  Đấng Messia để ra đi rao giảng Tin mừng cứu độ.

Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Rửa tội để tha tội cho chúng ta. Mọi người đã được chịu phép Rửa tội đều được gọi là Kitô hữu, một danh hiệu vô cùng cao quý. Vì thế, mỗi Kitô hữu phải sống cho xứng với  hồng ân được mang danh Chúa Kitô, được sát nhập vào Chúa Kitô. Mọi người phải lo chu toàn sứ vụ của mình đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo hội và đối với mọi người, để đời sống của chúng ta phải được ca ngợi là chứng nhân trung thành của Chúa, có một đời sống “nội thánh ngoại vương”.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1 : Is 42,1-4.6-7.

Khi ấy dân Do thái bị thử thách nặng nề, phải đi đầy ở Babylon. Để khích lệ họ, tiên tri Isaia loan báo: họ vinh dự được Thiên Chúa chọn làm đầy tớ lý tưởng của Ngài, có trách nhiệm giới thiệu Thiên Chúa cho dân ngoại.

Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách đệ nhị Isaia. Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là   Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại, Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, “không lớn tiếng”, “không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét”.

Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ đảm nhận vai trò Người Tôi Tớ. Vai trò này, Ngài sẽ hoàn thành khi biến tôn giáo của đức tin thành một sự ưng thuận thắm tình con thảo mà mọi người đều có thể nói lên, dù người ấy thuộc bất cứ nền văn hoá hay quốc gia nào. Theo gương Đức Kitô, các Kitô hữu cũng phải thực hiện nhiệm vụ trên.

+ Bài đọc 2 : Cv 10,34-38.

Đây là phần đầu bài giảng của thánh Phêrô ở Cêsarêa cho ông Corneliô, viên sĩ quan Rôma và gia đình của ông để giúp họ hoán cải và chịu phép rửa. Đây là một việc làm có tính cách cách mạng vì từ trước đến nay các Tông đồ chưa nghĩ đến việc cho người ngoại gia nhập Giáo hội.

Trong bài nói chuyện với người Do thái, Phêrô cho biết sở dĩ Ngài dám làm như vậy vì “Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai, hễ ai thực hành sự công chính, đều được Ngài đón nhận”. Chính Đức Giêsu Nazareth đã được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng xức dầu tấn phong Ngài  và Ngài đã đi khắp nơi để ban phát ơn lành.

+ Bài Tin mừng : Lc 3,15-16.21-22.

Cả 3 bài Tin mừng của lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa có rất nhiều điểm giống nhau. Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành 2 phần:

Phần một : Ông Gioan thanh minh là mình không phải là Đấng Kitô như người ta tưởng. Có Đấng sẽ đến sau ông và cao trọng hơn ông. Hiện nay ông chỉ rửa họ bằng nước, còn Đấng đến sau sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.

Phần hai : Đức Giêsu nhận phép rửa của ông Gioan và trong nghi lễ này Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu thế. Đó chính là ý nghĩa việc Thánh Thần hiện xuống, “các tầng trời mở ra”, cách diễn tả lấy lại của Isaia 63,11-14.19 khi công bố tấn phong một vị giải phóng mới. Có tiếng nói từ trời vang trên Đức Giêsu, tiếng nói ấy cũng thuộc về nghi thức phong vương một vị vua mới: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

I. CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

  1. Phép rửa tại sông Giorđan

Chúng ta đang ở bên bờ sông Giorđan, nơi Gioan Tẩy giả rao giảng, kêu gọi mọi người sám hối, nhận phép rửa để được ơn tha thứ. Thế nhưng, chúng ta thấy rằng điều quan trọng không phải chỉ nhằm ở việc ông Gioan rao giảng, mọi người tuôn đến lãnh nhận phép rửa,… mà đó còn xảy ra một sự kiện hết sức trọng đại: Chúa Giêsu cùng với bao nhiêu người khác đi vào dòng sông Giordan để lãnh nhận phép rửa từ tay ông Gioan.

Sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa không chỉ là bước khởi đầu cho sứ vụ rao giảng Tin mừng mà Chúa sẽ thực hiện sau này; biến cố chịu phép rửa cũng không chỉ là việc Chúa Giêsu được Gioan Tẩy giả giới thiệu mà đó còn là một sự kiện xuất phát từ chính Thiên Chúa được minh chứng bằng những việc lạ lùng như việc trời mở ra và việc Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự trên Người cùng với lời tuyên phong của Chúa Cha.

Đời sống công khai của Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc Người chịu phép rửa (Lc 3,21). Mặc dầu phép rửa mà Chúa lãnh nhận không phải là bí tích rửa tội, nghĩa là không để được tha tội vì Người không có tội, phép rửa đó cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Phép rửa đánh dấu cái sứ mệnh công khai của Người trong việc rao giảng và chữa lành.  Người chịu phép rửa để thánh hóa nước để trở thành chất thể trong bí tích rửa tội do Người thiết lập.

  1. Chúa Giêsu được tấn phong

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi lên ý tưởng một cuộc lễ phong vương.  Ngày xưa khi một vị hoàng vương được tôn lên làm vua thì họ phải trải qua một cuộc phong vương gồm ba sự việc:

– Phải tắm rửa sạch sẽ.

– Phải được xức dầu.

– Phải được tôn phong làm vua.

Hôm nay khi sắp ra giảng đạo để thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Chúa Giêsu cũng được tấn phong làm vua qua ba nghi lễ như sau:

+ Trước tiên Người chịu phép rửa của Gioan dưới sống Giorđan như một dấu ăn năn sám hối, mặc dầu Người là con chiên trong sạch.

+ Sau đó, “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người”(Cv 10,38b; Is 61,1), để trở nên Đấng Thiên Sai: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”(Cv 10,38c).

+ Cuối cùng, Người đã được Chúa Cha công nhận là Vua Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, như Tin mừng Luca viết: “Khi Người cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,22).

  1. Dấu chỉ Bí tích Rửa tội

Câu hỏi tại sao Chúa Giêsu lại chịu phép rửa? Các thánh sử đưa ra nhiều khía cạnh như Matthêu (3,14-15), Luca (3,21) hay Gioan (1,31-34). Các thánh giáo phụ còn đưa ra nhiều lý do khác, ví dụ  Chúa chạm đến nước để thánh hóa nước  và làm cho nước được thần lực tẩy xóa tội lỗi trong Bí tích Rửa tội…

Chúa Giêsu xin đến rửa, không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Người chịu phép rửa là có ý nói lên: từ nay, Người chung số phận với người tội lỗi và đó là tất cả ý nghĩa đời Người, và cuộc đời này chỉ hoàn tất với Phép Rửa cuối cùng, của sự chết (Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi, con người bị sa ngã và là số phận bi đát nhất, tệ hại nhất.

Chúa Giêsu đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.  Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Rửa tội cho những kẻ theo Người bằng việc đích thân Người xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng cao đẹp hơn tất cả các vị trước  với lời rao giảng của chính Người để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Người đã biến đổi để có thể thực sự khai mào cho Bí tích Rửa tội.

IIHIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI

Khi Chúa Giêsu để cho Gioan dìm mình trong nước không phải là để thanh tẩy Người vì Người không vương tội lỗi, Người muốn nói lên một ý nghĩa khác, đó là loan báo cái chết và sự phục sinh của Người: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại.

Khi chúng ta nhận lãnh bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta  tham dự vào sự chết và sống lại của Người.  Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội.  Trong phép rửa tội chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, tội tổ tông và tội riêng.  Do đó, nó biến chúng ta thành “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), một nghĩa tử của Thiên Chúa (Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (2Pr 1,4), trở nên chi thể của Chúa Kitô (Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,15).

Đó chính là ơn siêu nhiên, “ơn thánh hóa”, “ơn sủng của sự công chính hóa” mang lại các nhân đức đối thần và luân lý, cùng các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Tóm lại, “toàn bộ cơ thể của sự sống siêu nhiên của người Kitô hữu bắt nguồn nơi bí tích Rửa tội”(Giáo lý Công giáo, số 1266).

Ngày được chịu phép rửa tội là một ngày trọng đại, ngày đáng ghi nhớ của chúng ta. Đức Giáo hoàng Piô XI đã nói với hàng ngàn thanh niên nhân ngày kỷ niệm rửa tội của Ngài:”Ngày chịu phép rửa tội  là ngày cao quí nhất của đời Cha. Cũng như ngày các con chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời các con”.

Chúng ta đã được chịu  phép rửa tội, một hồng ân cao quí Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nên có một vài cảm nghĩ về phép Rửa tội.

Phép rửa không chỉ được ban một lần khi chúng ta được mang đến giếng Rửa tội trong nhà thờ.

Chúng ta được rửa bởi tất cả các biến cố xẩy ra trong đời:

– Chúng ta được rửa bởi những cực nhọc, khó khăn: đó là những dòng nước biến động thanh luyện chúng ta  khỏi những gì gian trá và vô dụng.

– Chúng ta được rửa bởi những đau khổ, buồn rầu : đó là những dòng nước u ám nhưng chỉ có khả năng giúp ta lớn lên trong đức khiêm tốn và cảm thông.

– Chúng ta được rửa bởi niềm vui: đó là dòng nước róc rách khiến ta cảm nghiệm được vị ngọt của cuộc đời.

– Chúng ta được rửa bởi tình yêu: đó là dòng nước ấm áp làm cho đời ta tươi nở như hoa  dưới ánh nắng mặt trời.

Phép rửa là một hạt giống, cần phải nảy mầm trong suốt cả đời sống.

(Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm C, tr 119)

III. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI ?

Tất cả những người chịu phép rửa tội đều được gọi là Kitô hữu, một danh hiệu cao quí mà chính thánh Phaolô đã gọi  lần đầu tiên ở Antiochia: “Barnabê và Saulê đến thành Antiochia. Hai người gặp dân chúng trong nguyện đường và dạy dỗ nhiều người. Chính ở Antiochia lần đầu tiên, những tín hữu được gọi là Kitô hữu”(Cv 11,26)

Nhờ phép rửa tội, chúng ta được mang tước hiệu là Kitô hữu. Kitô hữu là người có Đức Kitô, được mang danh Chúa Kitô. Kitô hữu là một Kitô khác (Alter Christus). Mỗi Kitô hữu là một nối dài của chính Đức Kitô. Đó là tước hiệu cao cả của chúng ta. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những  dịp lễ lạc, hội hè mà phải luôn chiếu tỏa từng giây phút của cuộc sống.

Truyện: Kitô là gì?

Sau đệ nhị thế chiến, tại một vùng mỏ than bên Anh, người ta hỏi tụi con nít:

– Kitô là gì?

Chúng trả lời:

– Là một tiếng chửi thề.

Điều tra ra mới biết người lớn ở vùng này dùng từ Kitô để chửi thề.

Ở Việt nam, trước giải phóng, có một hãng bột giặt lấy tên Kitô mà đặt cho một loại sản phẩm của họ, cũng như một hãng mì ăn liền lấy tên Phật Tổ để đặt tên cho  mì chay họ sản xuất

Vậy mà người Công giáo lẫn Phật giáo chẳng  thấy ai phản đối. Trong khi đó, ở Pháp, hồi cuối thập niên 50, hãng phô-mai sản xuất loại “con bò cười”,  trước tiên gọi nó là “con bò cầu nguyện” (La vache qui prie), đã bị các Kitô hữu kiện, vì đã nhạo báng tôn giáo (Thiện Cẩm, Trái chín đầu mùa, tr 13).

Kitô hữu phải là người mặc lấy Chúa Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài như thánh Phaolô đã khuyên nhủ tín hữu Rôma: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”(Rm 13,14). Mặc lấy Chúa Kitô  là trở nên chính Chúa Kitô để có thể nói: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”(Gl 2,20).

Một người đàn bà quan sát người ta  phân phát quần áo cũ cho người lang thang ngoài đường phố. Thình lình một ý tưởng đến với bà: Nếu mang áo quần của người khác, giầy dép của người khác, thì mình sẽ như thế nào? Và từ đó bà khám phá ra ý nghĩa của Kitô giáo.  Kitô hữu là người mang giày của người khác: giầy của Chúa Kitô. Họ đi đến nơi mà Chúa Giêsu muốn đến và làm những gì Ngài muốn thực hiện.  Và đó cũng là ý nghĩa của việc muốn trở thành Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay.

Khi mang giầy của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy dễ chịu đến mức độ nào? Và đôi giầy làm tôi khó chịu ở chỗ nào ? Mỗi đặc tính  đều có một động lực bên trong. Xin hãy để cho Chúa Kitô là động lực đó. Mỗi hành động đều có một ý nghĩa chính. Xin hãy để cho Đức Kitô là ý nghĩa chính đó (Henry Drummond).

Định nghĩa trên nghe cũng hay hay. Dùng những từ như: việc mặc lấy, mang lấy giầy của Chúa Kitô, để diễn tả phần nào thực thể  người Kitô là ai, việc dùng từ như vậy, không diễn đạt hết thực thể của người Kitô. Người Kitô không phải chỉ là  l kẻ mang giầy của Chúa mà phải là chính Chúa Kitô, Ngài như thế nào, chúng ta phải như thể ấy.

Khi nói về Kitô hữu, sử gia Tertullianô viết:

Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa.

  Câu :”Kẻ muốn theo Ta thì phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng hiện hình. Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường” .

IVSỨ VỤ NGƯỜI KITÔ HỮU

Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tôn phong để đi rao giảng Tin mừng cứu độ. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng Thiên Sai, mà dân tộc Israel hàng ngàn năm mong đợi.

Đức Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo. Mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi:”Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo hội và đối với những anh em không cùng tín ngưỡng”?

Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu phép rửa không thể không nhắc nhở chúng ta  nhớ đến sứ vụ của người Kitô hữu. Nhờ Bí tích Rửa tội chúng ta được nhận làm con Thiên Chúa, được hưởng gia tài vĩnh cửu của Thiên Chúa và nhất là cùng được sai đi  đến với mọi người.  Không việc làm gì cụ thể khác hơn là chúng ta học theo mẫu gương của Đức Giêsu và thực thi sứ mạng rao giảng Tin mừng, để nối tiếp công việc của Ngài.

Là con cái Thiên Chúa quả là một hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Nhưng chúng ta phải làm gì để Chúa Cha được hài lòng? Nếu Bí tích Rửa tội được cử hành cần đến nước thì cuộc sống người Kitô hữu cũng cần được gội rửa trong nước để trở nên thanh sạch và bắt đầu cuộc sống mới, trở nên con người  mới thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa. Muốn được như vậy mọi suy nghĩ, lời nói, và hành động của chúng ta  phải phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, hơn là ý riêng của mình, và hãy để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt như Đức Giêsu.

Truyện : Nội ngoại đồng nhất.

Có hai người bộ hành đi đường xa mệt nhọc, đêm đến phải vào ngủ trong một cái miếu nổi tiếng là có ma quái. Một người là Kitô hữu tin tưởng vào sự che chở của Chúa nên không chút sợ hãi.  Trái lại, người bộ hành không phải Kitô hữu lại cảm thấy lo sợ, nên đã đề nghị với người bạn cho mình mượn Thánh giá đeo cổ.

Quả thực, đêm đó yêu tinh xuất hiện, nó lần mò đến từng người, sờ vào cổ người Kitô để sát hại. Con yêu tinh mới thốt lên: “Người này có trong mà không có ngoài”, nghĩa là người này là Kitô đích thực, dù không đeo một dấu hiệu nào.

Sang người bộ hành kia, con yêu tinh chạm đến Thánh giá trên cổ người ấy mà nói: “Người này có ngoài mà không có trong”, nghĩa là người này tuy mang Thánh giá, nhưng không phải là Kitô hữu đích thực.

Chúng ta là những Kitô hữu. Chúng ta thi hành các bổn phận đạo đức, chúng ta mang trên mình nhiều hình ảnh của Chúa và Đức Mẹ, nhưng liệu tâm hồn chúng ta  có đích thực là tâm hồn Kitô hữu không ? Hay có lẽ chúng ta  chỉ có cái bên ngoài hào nhoáng của thời trang, mà bên trong lại trống rỗng  (Mỗi ngày một tin vui, tr 119).

Chúng ta thường gọi vua Đavít là thánh vương. Người Á đông cũng gọi các vua đạo đức thánh thiện là “thánh vương” như vua Văn, vua Vu thời xưa. Người ta lấy câu nói của Vương Dương Minh làm châm ngôn cuộc sống của các vị ấy: “Nội thánh, ngoại vương”, bên trong là vị thánh, bên ngoài là một ông vua.

Người Kitô hữu được tham dự vào chức tư tế vương giả của Đức Kitô, và cung cách vương giả của Đức Kitô chính là lòng quảng đại, biểu hiện một tâm hồn luôn liên kết với Thiên Chúa Tình yêu.

Ước gì mọi tư tưởng, mọi hành động của chúng ta đều là một thể hiện của niềm tin sâu xa của đời sống đạo đích thực, chân thành và không giả dối.

Về mục lục

.

LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA_C

Lm. Antôn

Trước khi công khai thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng, Chúa Giê-su bỏ xứ Ga-li-lê-a đến sông Gio-đan, và chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả. TRong dịp hành hương Đất thánh vừa qua, tôi có dịp đến thăm viếng nơi Chúa chịu phép rửa ngày xưa bên dòng sông Gio-đan.  Bờ sông nơi Chúa chịu phép rửa rất hẹp, có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bờ bên kia được. Những cây lau sậy mọc rất cao hai bờ song.  Nước sông không được trong và có màu vàng đục. Hằng ngày có rất nhiều khách hành hương khắp thế giới tuôn đổ tới đây để được nhìn tận mắt nơi thánh thiêng này.  Thậm chí có nhiều người đạo Tin lành lội xuống mé dòng sông và chịu phép rửa tại đây.

Chúng ta biết phép rửa của Gioan là phép rửa của sự ăn năn thống hối tội lỗi. Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, mặc lấy bản tính loài người, trở thành một phàm nhân với tất cả mọi cảm giác, ngoại trừ tội lỗi, vậy tại sao Chúa chấp nhận chịu phép rửa của Gioan?

Có nhiều người từ xưa tới nay cảm thấy bối rối và khó hiểu về phép rửa của Chúa Giê-su. Giáo hội sơ khai cũng có những thắc mắc và không đồng ý với sự kiện này.  Trong Tin mừng thánh Mát-thêu, chính Gioan đã thưa với Chúa: “Chính tôi phải được Ngài rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi sao?”  Tin mừng thánh Luca hôm nay, không đề cập đến sự kiện Gioan làm phép rửa cho Chúa. Và Tin mừng thánh Gioan chỉ đề cập đến phép rửa một cách gián tiếp mà thôi. Nhưng tất cả các sách Tin mừng và sách Tông đồ Công vụ đều nhận biết sự kiện phép rửa của Chúa đã xảy ra, cho nên các nhà thần học đã và đang phải cố gắng hết sức hiểu và giải nghĩa sự kiện này.

Chúa Giê-su không có tội, cho nên nếu Chúa chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả theo nghĩa ăn năn thống hối tội lỗi thì không chính đáng. Vì thế chúng ta phải hiểu theo một lý do khác về phép rửa của Chúa, đó là sự tỏ ra cho mọi người biết bản tính của Chúa Giê-su hay Người là ai. Sau khi chịu phép rửa, Tin mừng cho chúng ta biết đang lúc cầu nguyện thì có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.”  Có nghĩa là Thiên Chúa Cha khẳng định cho chúng ta biết Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế được sai xuống trần gian và hãy tin vào Người. Bản tính Thiên Chúa của Chúa Giê-su cũng đã được bày tỏ và xác định trong Tin mừng thánh Luca khi thiên thần thưa với Đức Maria, trong mầu nhiệm Truyền tin, Mẹ sẽ thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, và hài nhi sinh ra sẽ là Đấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa.  Bản tính của Chúa Giê-su cũng đã được chính Người mạc khải trong câu chuyện Người ở lại trong đền thờ 3 ngày.  Khi cha mẹ tìm được Người  đang đứng giữa các nhà tiến sĩ và thông thái, Chúa nói với cha mẹ: “Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?”

Trước đó bản tính của Chúa Giê-su còn bị che dấu, chỉ tỏ hiện ra với số người giới hạn là các mục đồng và Ba đạo sĩ Phương Đông, biểu hiệu cho dân ngoại mà thôi.  Vì vậy, khi Chúa Giê-su chịu phép rửa, Thiên Chúa Cha đã tuyên báo cho tất cả trần gian biết: “Này là Con yêu dấu của Ta.”

Phép rửa của Chúa Giê-su không những chiếu tỏa ra bản tính Thiên Chúa của Người, mà còn bao hàm ý nghĩa sâu xa là bắt đầu một thời kỳ mới, thời kỳ công khai thi hành sứ mạng rao giảng Tin mừng Nước Trời, cũng như là sứ giả lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã trung thành chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha.

Chúng ta thấy mọi sinh vật kể cả con người trên trần gian này đều có một “sứ mạng.”  Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm và đem ánh sáng sự sống đến cho các sinh vật trên mặt đất. Sứ mạng của cây lúa, cây mì là trở thành thực phẩm nuôi sống con người. Sứ mạng của vợ chồng là trung thành và xây dựng cũng như bảo trì hạnh phúc và hòa thuận trong gia đình, nuôi nấng, dạy dỗ và hướng dẫn con cái.  Gia đình là nền tảng của xã hội.  Mỗi người công dân trong một quốc gia đều có một sứ mạng tôn trọng luật lệ, đóng thuế, gìn giữ an ninh trật tự và tự do.  Đó là sứ mạng của một công dân đối với quốc gia và xã hội, và là một người trong gia đình.

Qua Bí tích Thánh tẩy, mỗi người chúng ta trở thành công dân Nước Trời, trở thành một Ki-tô hữu, vì thế tất cả mọi người già trẻ, nam nữ, giáo dân hay tu sĩ, đều có một sứ mạng. Vậy mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: “Sứ mạng của tôi là gì đối với Giáo Hội, đối với giáo xứ?”

Bí tích Thanh tẩy biến đổi và ban cho chúng ta một bản tính là con cái Thiên Chúa, chia sẻ sự sống của Ngài, là con rất yêu dấu của Chúa Cha, và được kêu gọi sống cuộc sống làm đẹp lòng Cha trên trời.  Những ảnh hưởng xấu của xã hội và những cám dỗ của tội lỗi, sự dữ và sự tham lam vật chất làm cho chúng ta quên hay không chú ý đến bản tính chúng ta là ai. Vì yêu thương, Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác, để chúng ta trung thành với và chu toàn sứ mạng, biết yêu thương hiệp nhất, đem ánh sáng và tình yêu của Chúa đến những người chung quanh, bằng những việc lành phúc đức, bằng tấm lòng hy sinh, bằng những việc bác ái và quảng đại, sống yêu thương và hiệp nhất.  Xin Chúa Thánh Thần ban ơn, hướng dẫn và giúp chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa, làm sáng danh và đẹp lòng Cha chúng ta trên trời.

Về mục lục

.

TRÔNG CẬY CHÚA

Bông hồng nhỏ

Cuộc sống luôn luôn đổi thay và nơi nào cho ta tìm thấy hạnh phúc? Nhiều lần ta đã tự hỏi mình như thế. Ta vẫn trông ngóng và mong đợi niềm hạnh phúc đích thật sẽ làm tâm hồn ta được lớn lên, được đong đầy. Hiện tại, ta đặt hy vọng vào ai?

Theo chân đám đông đến tận dòng sông Giođan, ta cũng xếp hàng xin ông Gioan làm phép rửa. Lúc bấy giờ, ông Gioan là người được toàn dân kính mến. Chính con người thánh thiện này đã chỉ cho họ biết con đường để trở về với Đức Chúa, ông kêu gọi họ chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội (x. Lc 3, 3). Ông sẵn lòng đón nhận tất cả những ai đến với mình, từ những binh lính đến những người thu thuế,… Ông tận tâm chỉ cho họ những việc làm cụ thể để canh tân đời sống và dọn đường đón Chúa đến. Ông đã hô lên cho mọi người để thức tỉnh họ, thúc giục họ thay đổi. Dân chúng đang trông ngóng và trong thâm tâm ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia! (x. Lc 3, 15). Ông đọc được tâm tình của dân chúng, ông biết dân chúng đang đặt hy vọng nơi mình. Ông yêu thương dân chúng và đã dành hết tâm huyết để hướng dẫn họ. Bởi đó, ông muốn hướng dẫn họ đến cùng khi khẳng định: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (x. Lc 3, 16). Như thế cũng có nghĩa là ông bảo họ đừng đặt hy vọng nơi ông, nhưng hãy đặt hy vọng nơi Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Đã bao giờ ta khiêm nhường như thế để tôn vinh Chúa, làm mọi việc chỉ luôn quy hướng về Chúa như ông Gioan Tẩy Giả không?

Đức Giêsu cũng bước xuống chịu phép rửa. Tại sao Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh thần và lửa lại muốn đồng hàng với tội nhân? Hãy nhìn xem cách Người cầu nguyện. Dường như lúc này mọi sự xung quanh đều rơi vào thinh lặng. Người đang trò chuyện cùng Chúa Cha. Ta cũng thầm thĩ xin Người dạy ta cầu nguyện, để trong cầu nguyện, tâm hồn ta đượcmở ra trước tình thương của Chúa, để trái tim ta rộng mở đón nhận nguồn tình yêu vô biên, để tâm trí ta đón nhận sự soi dẫn của Chúa  Thánh thần, để Lời Cha vang lên trong tâm hồn ta: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (x. Lc 3, 22). Có phải Đức Giêsu muốn trở nên đồng thân đồng phận với con người, đề từ nơi cùng cực nhất của kiếp người, Chúa sẽ nâng họ lên, thanh tẩy họ bằng chính Máu châu báu của Người. Ta đã được trở nên con của Chúa nhờ Bí tích Thánh tẩy. Vậy ta đã sống thế nào để xứng danh là con cái Thiên Chúa, thuộc dân thánh của Người?

Lạy Chúa Giêsu rất yêu mến! Con cảm tạ Chúa đã cho con đặt hy vọng đời con nơi Chúa. Chỉ trong Chúa tâm hồn con mới được hoan lạc và bình an, chỉ khi được nhận chìm trong cuộc khổ nạn của Chúa và với Chúa, hy lễ đời con mới trở nên đẹp lòng Chúa Cha. Con xin dành một chỗ rất riêng tư trong tâm hồn con để Chúa ngự trị. Lạy Chúa, xin hãy đến vì này con đang khát mong Chúa từng ngày. Xin đừng rời xa con vì con tội lỗi yếu hèn nhưng xin giải thoát con vì con đặt hy vọng nơi Chúa, vì lòng Chúa thương xót, con trông cậy nơi Chúa. Amen.

Về mục lục

.

KHIÊM NHƯỜNG ĐẠT ƠN CỨU ĐỘ

Anna Cỏ May

Trong cuộc sống hằng ngày, có mấy ai là không thích được mọi người để ý, được khen hay được biếu quà,… Tuy nhiên, khi cứ để ý đến mình, quan tâm đến mình thì sẽ bớt quan tâm hay chẳng còn quan tâm đến người xung quanh nữa. Cứ như vậy, con người sẽ dễ rơi vào sự kiêu ngạo.

Lời Chúa hôm nay cho mỗi người chúng ta chiêm ngắm tấm gương khiêm nhường tột bậc để đem niềm vui cho mọi người và nâng người khác lên, đó là ông Gioan và Đức Giêsu.

  1. Khiêm nhường trong lời nói.

Ông Gioan là con người đang được dân chúng yêu mến. Nhưng ngay lúc mọi người tuôn đến với ông để xin chịu phép rửa, ông đã nói về mình cách khiêm tốn vô cùng. Ông nói: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quay dép cho Người” (Lc 3, 16). Ông ví mình không bằng một đầy tớ, không đáng cởi quay dép cho Ngài. Ông đã khép mình trong phạm vi không bằng một nô lệ, một đầy tớ và giới thiệu Đấng đến sau ông là Đấng quyền thế hơn sẽ làm phép rửa cho họ bằng Thánh Thần và lửa. Sự khiêm tốn ấy bắt nguồn từ ý thức nhận biết mình. Ông biết mình là thụ tạo, là người được sai đi dọn đường cho Đức Chúa, là người làm chứng cho ánh sáng. Vì vậy, ông đã rút lui khi biết Đấng quyền thế hơn ông đang đến. Những môn đệ theo ông, ông cũng giới thiệu cho họ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,36). Để rồi các môn đệ cũng rời bỏ ông để theo Đức Giêsu. Đây là sự khiêm nhường tột cùng.

  1. Sự khiêm nhường đem lại ơn cứu độ

Cũng trong sự khiêm nhường, Đức Giêsu đến xin ông Gioan làm phép rửa. Việc Đức Giêsu chịu phép rửa vừa gia tăng lòng tin cho ông Gioan vừa bằng chứng cho những lời ông Gioan nói là sự thật qua tiếng từ trời phán: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” (Lc 3, 22). Không chỉ dừng ở đó, Đức Giêsu chịu phép rửa như là một cuộc gia nhập theo tục lệ Do thái, là cuộc đi vào cuộc sống thế gian rao giảng ơn cứu độ. Sự khiêm nhường của Đức Giêsu không ai sáng bằng. Ngài là Thiên Chúa mà đến xin một người thế gian để được chịu phép rửa. Khiêm nhường để mọi người được hạnh phúc, được ơn cứu độ.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết học sự khiêm nhường của Chúa và ông Gioan. Nhờ đó, chúng con hưởng niềm vui trở thành con cái Cha và biết khiêm tốn đến với mọi người. Amen.

Về mục lục

.

HỒNG ÂN TÁI SINH

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa tại sông Giođan. Biến cố này là gạch nối giữa đời sống ẩn dật và sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Sau khi chịu phép Rửa, Chúa Giêsu bắt đầu bước vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Trong thánh lễ này, chúng ta tìm hiểu về sự khác biệt và ý nghĩa phép Rửa của Gioan Tẩy Giả, phép Rửa của Chúa Giêsu và phép Rửa của chúng ta.

1- Phép Rửa Gioan

Với tư cách là người dọn đường cho Đấng Mêsia, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người sám hối và hoán cải bằng việc đón nhận phép Rửa của ông. Nhờ gương sáng và lời nói đầy thuyết phục, Gioan đã thu hút dân chúng. Người ta lũ lượt kéo đến với Gioan để xin ông làm phép Rửa; nhiều người nghĩ rằng, Gioan chính là Đấng Mêsia mà họ đang trông chờ. Nhưng Gioan quả quyết rằng, ông không phải là Đấng Mêsia: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Lc 3,16).

Như vậy, phép Rửa của Gioan là phép rửa bằng nước, là dấu chỉ bên ngoài để tỏ lòng sám hối và giúp quay trở về với Chúa, nhưng chưa phải là bí tích. Bởi thế, phép Rửa này không mang lại hiệu quả ơn tha tội khi lãnh nhận. Phép Rửa của Gioan là phép Rửa dọn đường cho phép Rửa của Chúa Giêsu sẽ được thiết lập sau này.

2- Phép Rửa của Chúa Giêsu

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể lại việc Chúa Giêsu đến với Gioan và xin ông làm phép rửa tại sông Giođan. Tại sao Chúa Giêsu lại xin Gioan làm phép rửa? Tại sao Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa lại cần phải thống hối và thanh tẩy? Chắc chắn là không. Đây là ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa này:

Trước hết, việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa bởi Gioan là một hành vi tự hạ và khiêm tốn mà Người thực hiện theo ý định của Chúa Cha. Nếu biến cố nhập thể là bước khởi đầu mầu nhiệm tự hủy của Con Thiên Chúa. Như Thánh Phaolô đã nói: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Nay, qua biến cố phép Rửa, Chúa Giêsu đi thêm một bước nữa, đó là hạ mình xuống để hòa mình và liên đới với mọi tội nhân. Như thế, qua hành vi này, Chúa Giêsu sống tinh thần tự hạ, muốn trở nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (x. Hr 4,15). Hơn nữa, theo các Giáo Phụ, việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa là để thanh tẩy thay tội lỗi nhân loại. Cũng như trong mầu nhiệm nhập thể, Chúa Giêsu đã dìm mình trong bản tính nhân loại để thánh hóa bản tính ấy, nay Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước để thánh hóa dòng nước, nhờ đó mà thánh hóa nhân loại qua bí tích Rửa Tội.

Khi Chúa Giêsu chịu phép Rửa, thánh Luca tường thuật về ba dấu hiệu xảy ra: Dấu hiệu thứ nhất: “Trời mở ra.” Chúng ta nhớ lại: khi Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại (St 3,23-24). Qua bao thế hệ, dân Chúa cầu khẩn: “Ước chi Ngài xé các tầng trời và ngự xuống” (Is 64,1). Nay đã đến lúc, nhờ Chúa Kitô, trời mở ra. Điều này nói lên rằng từ nay trời đất giao thông với nhau, con người được sống hiệp thông với Thiên Chúa.

Dấu hiệu thứ hai: “Chúa Thánh Thần ngự xuống như chim bồ câu.” Đây là mạc khải về Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa. Người được sai đến và cùng với Chúa Giêsu khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn cứu độ nhân loại. Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Chúa Giêsu trong hành trình rao giảng Tin Mừng. Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta qua Bí tích Rửa Tội. Người thánh hóa và dẫn đưa mỗi người về với Thiên Chúa.

Dấu hiệu thứ ba: là lời của Chúa Cha: “Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con” (Lc 3,21-23). Đây là mạc khải về Chúa Cha. Người là Cha của Đức Giêsu và cũng là Cha của chúng ta. Người sai Chúa Con đến trong trần gian. Chúa Cha luôn hài lòng vì Chúa Con luôn làm theo ý định cứu độ của Chúa Cha.

Như thế, qua ba dấu hiệu trên mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi và vai trò mỗi ngôi vị trong chương trình cứu độ nhân loại.

3- Phép Rửa của người Kitô hữu

Nếu phép Rửa của Gioan là dấu chỉ bằng nước, mời gọi sám hối, thì phép Rửa của Chúa Giêsu là bí tích bằng nước và Thánh Thần. Phép Rửa này là một bí tích trong bảy bí tích vừa mời gọi hoán cải, vừa mang lại hiệu quả tha tội và thánh hóa cho những ai đón nhận.

Bí tích Rửa Tội tha thứ tội nguyên tổ và mọi tội cá nhân cũng như các hình phạt do tội, ban cho chúng ta sự sống thần linh. Đồng thời, nhờ phép Rửa, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, trở thành chi thể Chúa Kitô, được gia nhập và tham dự vào các sứ mạng của Hội Thánh (GLCG. số 1213).

Như vậy, chúng ta đón nhận phép Rửa không phải vì danh nghĩa làm Kitô hữu, nhưng là để sống tốt đời Kitô hữu. Vì thế, chúng ta được mời gọi luôn ý thức những hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua phép Rửa Tội. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi cố gắng mỗi ngày sống xứng đáng là con cái Chúa và biết làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

Lạy Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện, Chúa đã cúi xuống để đón nhận phép Rửa tại sông Giođan, Chúa cũng đã lập phép Rửa để thanh tẩy và thánh hóa chúng con, xin cho mỗi người chúng con luôn sống xứng đáng là con cái của Chúa để chúng con trở thành những người con yêu dấu và hằng đẹp lòng Chúa. Amen!

Về mục lục

.

HỘI VIÊN TIÊN KHỞI

Lm Vũdình Tường

Tuần qua Giáo Hội mừng kính lễ các học giả Phương Đông nhờ ánh sao chỉ đường đến thờ kính Chúa Hài Nhi. Đây là lần đẩu tiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại nhận biết Con Thiên Chúa. Tuần này mừng kính ngày lễ Chúa chịu phép rửa dưới sông Giođan bởi thánh Gioan. Việc Đức Kitô chịu phép rửa mặc khải cho nhân loại biết thêm về căn tính, nguồn gốc của Đức Kitô. Đây được hiểu như là lần mặc khải thứ hai về Thiên tính của Đức Kitô. Sau khi Đức Kitô nhận phép rửa có nhiều sự kiện kì diệu, lạ lùng xuất hiện và những sự kiện này chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại. Sự kiện lạ lùng đầu tiên là từ trên không có tiếng vang vọng như tiếng sấm phát ra: Đây là Con Ta hằng yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài’ Jn 1,29. Không ai trong đám đông hiện diện ngày hôm đó nhìn thấy người phát ra tiếng nói nhưng mọi người có mặt nghe được tiếng nói đó và đó là tiếng của Cha Đức Kitô phán bảo vì Ngài gọi Đức Kitô là ‘Con Ta’. Như thế tiếng vang vọng đó là tiếng của Chúa Cha. Sự kiện lạ lùng thứ hai xảy ra là có chim bồ câu đến đậu trên Đức Kitô, hình ảnh của Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa. Đức Kitô chịu phép rửa có sự hiện diện của một Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần.

Đức Kitô, Đấng vô tội, không cần lãnh nhận phép rửa từ tay Gioan nhưng Ngài khiêm nhường nhận phép rửa để gánh tội trần gian thay cho nhân loại. ‘Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian’. Chúng ta vẫn tuyên xưng niềm tin đó trong các thánh lễ. Không giống như phép Thanh Tẩy chúng ta ngày nay lãnh nhận, phép rủa của Gioan không có công thức thanh tẩy như hiện nay. Phép rửa của Gioan nhấn mạnh đến việc đổ nước thanh tẩy và là dấu chỉ của xám hối, ăn năn. Chúng ta nhận bí tích Thanh Tẩy qua công thức: ‘Ta rửa con Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần’ , công thức này do chính Đức Kitô truyền dạy các tông đồ: Hãy đi giảng dậy muôn dân, rửa tội cho họ Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần Mk 16,15.

Có những điểm dị biệt và tương đồng giữa phép thanh tẩy của Gioan và phép thanh tẩy hiện nay Giáo Hội hướng dẫn.

Điểm dị biệt

Thứ nhất, bí tích thanh tẩy xác định chúng ta là thành phần của Giáo Hội Chúa nơi trần gian mà Đức Kitô Đấng thiết lập Giáo Hội là hội viên tiên khởi, hội viên đầu tiên. Đức Kitô mặc khải cho chúng ta biết Ngài là con Thiên Chúa và đó là căn tính của Ngài. Phép thanh tẩy Ngài nhận từ thánh Gioan không liên quan gì đến việc Ngài là Con Thiên Chúa nhưng qua bí tích thanh tẩy chúng ta trở thành thừa tự của Đức Kitô, là con cái sự sáng và là anh chị em trong đại gia đình Chúa.

Thứ hai, bí tích thanh tẩy xoá bổ tội tổ tông và tẩy xoá mội tội lỗi ta phạm từ trước. Đức Kitô Đấng vô tội nhưng Ngài chịu phép thanh tẩy để nhận lấy tội của toàn thể nhân loại. Đấng vô tội tự nguyện nhận tội thay cho nhân loại và dùng thập giá và đau khổ tẩy xoá tội trần gian.

Thứ ba, sách Sáng Thế Kí 1,2 tường thuật trong ngày sáng tạo có Thánh Thần Chúa bay là là mặt nước. Trong ngày Chúa Kitô lãnh nhận bí tích thanh tẩy có sự hiện diện của Thánh Thần Chúa, dấu chỉ của việc tái tạo do chính Đức Kitô thực hiện, bởi tội bất tuân của tổ phục làm cho tạo vật mất bản chất tinh tuyền thuở ban đầu.

Điểm tương đồng

Thứ nhất khi Đức Kitô lãnh nhận bí tích thanh tẩy có sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa; chúng ta được thanh tẩy trong Ba Ngôi Thiên Chúa: Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh Thần. Ba Ngôi Thiên Chúa đến ngự trong linh hồn ta.

Thứ hai, khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy Đức Kitô được Chúa Cha mặc khải là ‘Người Con Yêu Dấu’. Khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy chúng ta trở thành thừa tự của Đức Kitô, con riêng của Ngài.
Thứ ba, khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy từ tay Gioan Đức Kitô cách nào đó xác nhận sứ mạng rao giảng của Gioan. Bí tích thanh tẩy giúp chúng ta trở thành sứ giả của Tin Mừng, tiếp nối công việc rao giảng Tin Mừng của Gioan và của chính Đức Kitô.

Thứ tư, khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy Đức Kitô gánh tội trần gian. Khi chúng ta lãnh nhận bí tích thanh tẩy chúng ra được rửa sạch trong cái chết và sự sống lại của Đức Kitô. Ngài sống lại và không bao giờ chết nữa nên chúng ta được kết hợp với sự sống trường sinh của Ngài và tâm linh chúng ta sẽ không bao giờ chết nữa. Đức Kitô vác thập giá xoá tội trần gian, chúng ta cũng được mời gọi vác thập giá riêng mình bước theo Đức Kitô.

Bí tích thanh tẩy cho phép chúng ta được chia sẻ ba sứ mạng của Đức Kitô. Đó là thiên chức linh mục, tiên tri và vương đế. Chúng ta cầu xin hoàn thành tốt đẹp ba thiên chức đó và sống trung thành với lời hứa khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU KHÔNG BA PHẢI

Lm JB Nguyễn Minh Hùng

Một câu chuyện cười với nội dung: Một người mở tiệm bán cá. Anh ta căng bảng hiệu: “Ở đây bán cá tươi”. Một người hàng xóm phê bình: “Anh bán cá tươi chứ có bán cá khô đâu. Cần gì phải để chữ ‘tươi’ trên bản hiệu?”. Nghe có lý, anh chủ tiệm xóa chữ “tươi”. Bảng hiệu chỉ còn: “Ở đây bán cá”.

Người khác lại chê: “Tiệm bán cá, ai cũng biết, cần gì phải ghi ‘ở đây'”. Anh chủ tiệm lại nghe có lý. Vậy là bảng hiệu chỉ còn hai chữ “bán cá”.

Một người khác lại thêm: “Tiệm bán cá chứ có bán rau đâu mà phải tốn cả bảng hiệu?”. Ngay hôm sau, không ai còn thấy bảng hiệu của tiệm.

Câu chuyện phê bình người có tính ba phải, dễ bắt chước rập khuôn theo người khác mà không biết giữ lập trường của mình.

Tôi không có ý so sánh câu chuyện kể trên với nội dung Tin Mừng, vì chuyện vui không đáng so sánh với Tin Mừng. Tôi chỉ muốn qua đó nhận ra và vinh danh thái độ và hành động của Chúa Giêsu mà thôi.

Chúa Giêsu, người được thánh Gioan ca ngợi cách hết sức khác thường, trên mức bình thường. Nào là “Đấng cao trọng hơn tôi đang đến”. Nào là “Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”, hay “Tôi rửa anh em trong nước. Người rửa anh em trong Thánh Thần và lửa”, thì chính Đấng ấy, Đấng mà thánh Gioan long trọng giới thiệu, lại đến xin thánh Gioan làm phép rửa cho mình. Chính Người cúi mình để thánh Gioan rửa thật sự.

Chúa Giêsu làm như vậy có ý gì, Hay Người cũng chỉ là kẻ ba phải, thấy người khác đến xin phép rửa, thì cũng đến như mọi người?

Lời của Chúa Cha khẳng định về Chúa Giêsu: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”, cho thấy Chúa Giêsu thực hành điều mà Người cần thực hành: Người tuân hành thánh ý Chúa Cha. Không chỉ hôm nay mà thôi, nhưng suốt cuộc đời của Chúa Giêsu, Người làm tròn một nhiệm vụ: Thánh ý Chúa Cha được hoàn hảo, được nên vẹn toàn.

Chúa không ba phải, không là kẻ thấy ai làm gì cũng làm theo. Chúa Giêsu là Đấng Toàn năng hiện diện giữa thế giới loài người để lôi kéo họ về phía Chúa, để họ được nhờ Chúa, nhờ sống chính những giới răn Chúa hướng dẫn mà đạt tới hạnh phúc, được sống trong cõi an bình đời đời. Vì thế, Chúa Giêsu luôn đẹp lòng Chúa cha.

Hôm nay, đứng chung hàng ngũ những người chịu phép rửa của thánh Gioan trên sông Giođan, Chúa thiết lập phép thánh tẩy trong Chúa Thánh Thần. Chính trong phép rửa mà Người thiết lập, Chúa tỏ mình cho trần thế vinh quang của Chúa. Vinh quang được xác nhận trong mầu nhiệm Ba Ngôi vĩ đại: “Trời mở ra, Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu”. Cùng lúc Chúa Cha long trọng xác nhận: “Con là Con của Cha, Con đẹp lòng Cha”.

Nếu lần tỏ mình trước trong lễ Hiển Linh, các đạo sĩ, các lời Kinh Thánh cho biết Chúa Giêsu nhập thể trong trần gian, thì lần này, đánh dấu một bước ngoặc mới, đó là Chúa Giêsu chuẩn bị bước vào đời sống công khai giữa trần gian. Người sẽ ra đi loan báo Tin Mừng.

Nếu lần trước, trong lễ Hiển Linh, Chúa chỉ tỏ mình trong cảnh âm thầm lặng lẽ của sự nghèo khó nơi hang Bêlem, thì lần này, sự tỏ mình diễn ra trong bầu khí uy nghi. Đúng hơn, cuộc tỏ mình là một cuộc Thần hiện: Ba Ngôi cùng hiện diện thật uy linh, thật mạnh mẽ, trong bối cảnh hùng vĩ chưa từng có.

Cuộc thần hiện như muốn nói rằng: Công trình cứu chuộc là công trình lớn của Thiên Chúa. Công trình ấy, nay được ủy thác cho Chúa Giêsu. Kể từ hôm nay, Chúa Giêsu ra đi công khai thực hiện công trình cứu chuộc ấy. Chúa sẽ đem Tin Mừng cho nhân loại. Người ban ơn tha thứ cho họ. Người giao hòa họ với Thiên Chúa. Người sẽ hiến mình để họ được gỉai cứu. Người sẽ sống lại để đưa họ vào sự sống đời đời của chính Thiên Chúa, Đấng đã sai Người, và ban Thánh Thần cho Người.

Cuộc thần hiện tỏ tường của Ba Ngôi còn cho thấy: Những gì Chúa Giêsu đang thể hiện, đều chắc chắn là những điều Thiên Chúa muốn và ấn định. Và công trình cứu chuộc do Chúa Giêsu thực hiện là công trình cần thiết tuyệt đối cho chúng ta trong ơn phần rỗi.

Ngày xưa, phép rửa của thánh Gioan chỉ là phép rửa kêu gọi thống hối. Nhưng với Chúa Giêsu, phép rửa mà chúng ta lãnh nhận là phép thánh tẩy. Nó có sức tẩy sạch mọi tội lỗi. Nó đưa ta về làm con của Thiên Chúa. Nó cho ta hưởng gia nghiệp của Thiên Chúa. Từ nay, ta và với Chúa Giêsu có cùng một Người Cha là Thiên Chúa.

Hội Thánh luôn kêu mời hãy tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và sống bí tích rửa tội. Chính trong bí tích rửa tội Thiên Chúa là Cha, là Con và Thánh Thần thánh hóa chúng ta.

Vậy hết mọi thời gian trong đời Kitô hữu của mình, chúng ta hãy luôn ý thức rằng, mình đã chịu phép rửa tội, đã là con Thiên Chúa, đã được tháp nhập vào Thiên Chúa để sống chính sự sống của Người.

Nhờ bí tích rửa tội, ta có Thiên Chúa là Cha, để cùng với Chúa Giêsu, ta hãnh diện làm con Thiên Chúa, có Chúa Giêsu là Anh Cả của mình.

Hãy luôn luôn trở về cùng Thiên Chúa. Hãy thành tâm thờ phượng Chúa bằng một tâm hồn gắn bó với Chúa trong cầu nguyện, trong việc tuân giữ và tham dự những nghi thức thờ phượng, nhất là tham dự phụng vụ cách tích cực. Đặc biệt, tham dự phụng vụ là dâng chính hy tế của Chúa Kitô, để thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần.

Ta cũng giữ cho lòng mình thanh sạch, càng ngày càng xa tránh những gì làm ta hư đốn, đi ngược với sự mong muốn và thánh ý của Chúa. Nhờ đó, ta có thể sống ơn gọi làm con Thiên Chúa mỗi ngày mỗi hoàn hảo hơn.

Về mục lục

.

LIÊN ĐỚI

Lm. Thái Sơn

Chuyện kể rằng, có 5 con khỉ bị nhốt trong 1 căn phòng. Giữa phòng là 1 cái thang, trên đỉnh thang là nải chuối. Mỗi khi có 1 con khỉ định trèo lên thang, người ta lại phun nước lạnh vào các con còn lại, làm chúng rất khổ sở.

Sau một thời gian, mỗi khi có 1 con khỉ định trèo lên thang, những con còn lại vì không muốn bị phun nước, nên tóm lấy con kia và đánh cho một trận.

Dần dần, không có con nào trong số 5 con khỉ có ý định trèo lên thang nữa. Người ta bèn bắt ra 1 con và thay bằng con mới. Nhìn thấy nải chuối và cái thang, con khỉ mới không hiểu tại sao các con kia không dám trèo.

Rồi 1 con nữa trong số 5 con đầu được thay thế. Chú lính mới định trèo, và bị cả hội đánh tới tấp. Con khỉ vừa vào trước đó cũng tham gia đánh, đơn giản vì thấy bọn kia làm vậy, còn bản thân vẫn không hiểu vì lí do gì.

Lần lượt 5 chú khỉ ban đầu được thay ra hết. Bây giờ, 5 con khỉ mới ở trong phòng. Không có con nào từng bị dội nước. Nhưng cũng không con nào dám trèo lên thang. (Sưu Tầm).

Thưa các bạn!

Hình ảnh 5 chú khỉ và 1 nải chuối là bài học về những nhà lãnh đạo “vùi dập” và các nhân viên “mù quáng” khiến cho cuộc sống mất đi ý nghĩa cao đẹp của tình liên đới.

Phải chăng, tình liên đới giúp con người xích lại gần nhau và cùng nhau chia vui sẻ buồn? Đôi khi, người với người sống cạnh nhau, bên nhau, gần nhau lại “cản mũi kỳ đà” cho nhau.

Thiết tưởng, cuộc sống cần tình liên đới, con người cũng cần liên đới với nhau để phát triển và đem lại hạnh phúc cho nhau. Đó là chân lý và là lẽ sống của muôn loài.

Có lẽ, xã hội đang phải đối mặt với rất nhiều khủng hoảng, thuộc mọi lĩnh vực. Tình trạng này có thể tạo ra nguy cơ, đồng thời cũng kiến tạo cơ hội, để con người xích lại gần nhau.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhận định: “Tình liên đới phải góp phần vào việc thực hiện ý định của Thiên Chúa trên bình diện cá nhân lẫn bình diện xã hội, quốc gia, và quốc tế”.

Hơn ai hết, Chúa Giêsu là Đấng thể hiện tình liên đới sâu sắc nhất. Là Đấng vô tội, nhưng vì yêu thương nên đã sống liên đới với con người tội lỗi: “Khi toàn dân chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa” (Lc 3,21).

Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã sống liên đới với những mảnh đời lao động vất vả, khi chính Ngài đã sống ẩn dật tại mái nhà Nazaret, sống như người nghèo khi kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động.

Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã sống liên đới với mọi cảnh cơ hàn của con người, khi Ngài dùng đôi tay để xoa dịu mọi nỗi đau của con người, đôi chân của Ngài đã đến với mọi hạng người để nâng đỡ và ủi an họ.

Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã sống liên đới với con người bằng cái chết trên thập giá, để cho nhân loại được sống, và để thay muôn người dâng hy lễ đền tội với Chúa Cha.

Thưa các bạn!

Lời Chúa lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa vẫn mời gọi mọi người sống tình liên đới với nhau. Ước chi, “bạn & tôi” biết ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để đến với tha nhân.

Sống là sống với ai đó để tồn tại, nên rất cần tình liên đới. Ước gì, “bạn & tôi” không “vùi dập”, cũng chẳng “mù quáng”, nhưng biết bày tỏ sự liên đới với mọi người. Amen

Về mục lục

.