CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
Lời Chúa: 1Sm 26,2.7-9.12-13.22-23; 1Cr 15,45-49; Lc 6,27-38
———
1. Trở nên phi thường trong cuộc sống đời thường (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Hiểu để sống (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Yêu kẻ thù (Lm. Thái Nguyên)
4. Luân lý Kitô giáo (Jorathe Nắng Tím)
5. Bài học tha thứ từ Chúa (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
6. Hãy để Chúa yêu (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)
7. Là con Chúa (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)
8. Xóa bỏ hận thù bằng tình yêu thương (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
9. Con đường mới cho nhân loại (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10. Kẻ thù nội tâm (Lm. Vũ Đình Tường)
1. Hãy có lòng nhân từ (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Yêu người như Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Tình yêu tuyệt diệu (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Yêu thương (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
5. Yêu thương kẻ thù (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
6. Hãy yêu kẻ thù (Lm. Anôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
7. Yêu cả kẻ thù mình (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
8. Hãy đối xử nhân từ (Lm. Trần Bình Trọng)
9. Nền văn minh tình thương (Lm. Giuse Đỗ Văn Lực, OP)
10. Tha thứ sẽ được thứ tha (Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
11. Suy niệm Chúa Nhật 7 Thường niên_C (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
12. Chữ tâm (Trầm Thiên Thu)
13. Thực thi yêu thương để biến thù thành bạn (Lm. Đan Vinh)
14. Sống để yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
15. Đừng nhìn nhau là kẻ thù (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
16. Hãy ở nhân từ như Chúa Cha (Lm. Anôn Nguyễn Văn Độ)
17. Hãy yêu kẻ thù. (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
18. Hãy làm tốt cho ngườikhác và bạn sẽ nhận lại niềmvui (Lm.Anthony NguyễnNgọc Dũng)
19. Hãy nên hoàn thiện (JM. Lam Thy, ĐVD)
20. Công lý Chúa (Lm. Vũ Đình Tường)
21. Hãy yêu thương kẻ thù (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
22. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 7 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
23. Yêu kẻ thù, lòng nhân ái từ bi (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
24. Hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa Cha (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
25. Yêu thương là thế đó! (Lm. Giuse Nguyễn)
26. Yêu thương. (Lm. Nguyễn Văn Nghĩa)
27. Yêu như Chúa yêu (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
28. Yêu thương kẻ thù. (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)
29. Sống quảng đại và tha thứ (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
30. Kẻ thù của Đức Giê-su là ai? (Lm. Giuse Lê Danh Tường)
31. Suy niệm Chúa Nhật 7 Thường niên_C. (Lm. Anthony Trung Thành)
32. Ba điều kiện để xét đoán (Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)
33. Tình không biên giới (Lm. Đaminh Nguyễn Xuân Trường)
34. Chúa Nhật 7 Thường niên_C (Lm. Antôn)
TRỞ NÊN PHI THƯỜNG TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƯỜNG
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Bài Tin Mừng hôm nay khiến chúng ta cảm xúc ngỡ ngàng, thậm chí hoảng sợ. Nhiều người tín hữu, nhất là người không cùng tôn giáo với chúng ta cho rằng những tiêu chí mà Chúa Giêsu đề nghị là những ảo tưởng, vì những thực hành Chúa muốn chúng ta thực hiện hoàn toàn đối nghịch với quan niệm thông thường, ví dụ như chúc lành cho người nguyền rủa mình, ai vả má bên này thì giơ má bên kia nữa, ai muốn chiếm đoạt áo ngoài thì cho người ấy cả áo trong. Chúng ta có lý khi ngạc nhiên trước lời khuyên của Chúa Giêsu. Tuy vậy, đó chính là điểm độc đáo của Kitô giáo. Những thực hành này làm cho chúng ta trở nên những người phi thường trong cuộc sống đời thường.
Thông điệp thứ nhất mà Lời Chúa muốn gửi đến chúng ta, đó là Tình yêu. Thông thường, chúng ta yêu những người quý mến mình. Đó cũng là điều bình thường và hợp lệ, theo lẽ công bằng. Người ta yêu mình thì mình quý mến người ta. Người ta làm điều tốt cho mình, thì mình làm điều tốt cho người ta. Tình yêu Chúa Giêsu rao giảng được gọi là “bác ái” tức là lòng yêu mến rộng rãi đối với hết thảy mọi người, không phân biệt người tốt hay người xấu. Theo quan niệm Kitô giáo, bác ái không phải chỉ là một cảm xúc hay tình trạng tâm lý nơi con người, mà đó còn là một nhân đức đối thần. Đức Ái được Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy. Nhờ Đức Ái, chúng ta yêu mến Chúa với tình yêu trọn vẹn và yêu mến tha nhân với lòng vị tha. Chính Đức Ái thúc đẩy chúng ta, nhờ đó mà chúng ta có những nghĩa cử cao cả mạnh mẽ tới mức anh hùng, như yêu mến kẻ thù, chúc phúc cho người nguyền rủa mình. Đức Ái cũng giúp chúng ta kiên nhẫn trước những vu khống, mưu mô của những người ghen ghét chúng ta.
Đương nhiên, chúng ta phải xác định rõ, giáo huấn của Chúa Giêsu hoặc Đức Ái Kitô giáo không nhằm ủng hộ một lối sống nhẫn nhịn cam chịu và hèn nhát. Chính Chúa Giêsu, khi một người lính vả vào mặt, Người đã vặn hỏi: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem tôi sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Chúa Giêsu và hôm nay là Giáo Hội của Người không cổ võ cho bất cứ hình thức bất công nào trong xã hội. Trái lại, Giáo Hội luôn bênh vực những người nghèo và là tiếng nói của những người không có tiếng nói trong cuộc sống.
Thông điệp thứ hai của Lời Chúa hôm nay, đó là lòng bao dung. Mọi mâu thuẫn đổ vỡ từ gia đình đến xã hội đều do tính ích kỷ và cố chấp của con người. Vì thiếu bao dung mà một người vốn hiền lành bỗng dưng trở thành kẻ sát nhân, rồi khi hối hận và phải vào tù thì đã quá muộn. Chúa Giêsu nói với chúng ta: hãy bao dung, vì mỗi người cũng có những lầm lỗi. Không ai là người hoàn hảo trong cuộc đời. Hơn nữ, theo nhãn quan Kitô giáo, những ai tha thứ, sẽ được Chúa thứ tha. Chúng ta thường đọc điều này trong kinh Lạy Cha.
Bài trích sách Samuen nói với chúng ta một gương mẫu của lòng bao dung, đó là vua Đavít (Bài đọc I). Ông đang bị vua Sa-un truy bắt, vì vua cho rằng Đavít có ý định chiếm ngôi vua. Trong cuộc truy bắt này, có một thời điểm mà Đavít có thể giết vua dễ dàng, nhưng ông không làm thế, vì ông tôn trọng vua là người được xức dầu. Đavít đã thể hiện lòng nhân hậu của mình, khi ông tuyên bố: “Hôm nay, Đức Chúa đã nộp vua vào tay tôi, nhưng tôi không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong”.
Cuối cùng, Lời Chúa dạy chúng ta về tình liên đới. Không dừng lại ở tình yêu mến và sự bao dung, Đức Ái Kitô giáo còn thúc đẩy chúng ta chia sẻ với tha nhân về tinh thần và vật chất. Ai trong chúng ta cũng muốn người khác làm cho mình những điều tốt đẹp. Vậy thì mỗi chúng ta hãy làm những điều tốt đẹp cho người khác. Mỗi chúng ta hãy trở nên người thân cận đối với tha nhân. Chúa dạy chúng ta: đong đấu nào, sẽ nhận lại đấu ấy. Hơn thế, đấu nhận lại còn dồi dào phong phú hơn nhiều. Đấu mà chúng ta nhận lại, là chính phần thưởng Chúa ban cho chúng ta, vì Chúa là Đấng nhân hậu và quảng đại.
Hành trình Đức tin của người Kitô hữu cũng là hành trình nên hoàn thiện. Theo Thánh Phaolô, con người vừa mang hình ảnh ông Ađam từ đất mà ra, đồng thời cũng mang hình ảnh Đức Kitô từ trời mà đến. Nên hoàn thiện, chính là tiến trình luyện lọc mỗi ngày, để giảm thiểu điều bất xứng và làm tăng thêm những nhân đức, làm cho hình ảnh Đức Kitô sống động nơi hành vi cử chỉ và lời nói của mình.
Đức tin không bứng người tín hữu khỏi cuộc sống đời thường, nhưng thêm sức mạnh để họ tuân giữ giáo huấn của Chúa. Nhờ việc tuân giữ những điều Chúa dạy, Kitô hữu trở nên những người phi thường trong cuộc sống đời thường. Chúng ta có lý để xác tín điều đó, vì đối với Chúa, nhưng điều không có thể, sẽ trở thành những điều có thể.
“Người đầu tiên biết nói lời xin lỗi là người dũng cảm nhất. Người đầu tiên biết cách tha thứ là người mạnh mẽ nhất. Và người đầu tiên biết cách quên đi quá khứ đau buồn là người hạnh phúc nhất” (Sưu tầm).
Lm. Jos DĐH.
Trong giáo dục, làm sao các đấng bậc có thể vui khi nghe con nói: bố mẹ sẽ không hiểu con đâu ! Nhưng các ngài rất mừng vui khi nghe con cháu nói: xin bố mẹ, ông bà, hãy cho con được giải thích. Tâm lý tự nhiên, ai chẳng muốn nghe những lời nói hay, nói ngọt, hoặc mấy ai có thể giữ được bình tĩnh, khi phải nghe những lời cứng cỏi, cọc cằn. Kinh nghiệm cho thấy: nói không dễ nghe, mọi người sẽ xa lánh; đừng quá thẳng thắn, người nghe sẽ khó chịu. Ở đời này, tiền của vật chất bảo đảm cho ta cuộc sống thoải mái, kiến thức rộng, sức khoẻ ổn định, tạo cho người ta cảm giác tự tin, không ai nghi ngờ gì nữa. Xa hơn một chút, không ai gọi bạn thành công khi mà các thành viên gia đình bạn bất hoà, tâm hồn không bình an, cho dù địa vị xã hội cao to, sức khoẻ cường tráng, tài sản dư thừa.
Trước nhu cầu bình an hạnh phúc nơi mỗi người, Đức Giêsu mời gọi hãy lắng nghe, để hiểu để sống: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây, hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống mình”. Các chuyên viên xã hội thì nói: bạn cần phải đủ sức khoẻ để biến công việc thành niềm vui, cần phải đủ sức mạnh để chống lại và vượt qua những nghịch cảnh ở hiện tại. Đức Giêsu có ý nhắc những ai theo Chúa làm môn đệ đều phải hiểu đúng, phải sống đẹp, mới thấy hạnh phúc ở trong tầm tay mình là sự thật: “các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy”. Thực ra, cuộc sống luôn có yêu có ghét, giận thương, vui buồn, có thành công thất bại, đúng hơn, ai cũng có cơ hội để nghe, hiểu, chọn lựa, để sống, để gặt hái niềm vui và hạnh phúc.
Trong gia đình, cha mẹ yêu thương con cháu, anh chị em hoà thuận, xóm làng yên vui, dân giầu, nước mạnh, vẫn mãi là lý tưởng, có người xem tình yêu thương đó chỉ đẹp trên phương diện lý thuyết. Tìm kiếm danh lợi thú ở đời này, khác với tìm kiếm hạnh phúc thật nơi tâm hồn, có phải tình yêu chính là chất xúc tác để ta nghe, hiểu, và thực hành đức ái với cha mẹ, người thân, những anh chị em ta gặp gỡ không ? Ai có thể nhẫn nại, khi người anh chị em tát ta má này, ta lại đưa má kia ra, nếu kẻ ấy chưa thấm nhuần bài học yêu thương, hoặc còn thiếu tình yêu Chúa trong các tương quan ? Tình yêu bất tử, thiêng liêng, dù chúng không mầu sắc, không hương vị, nhưng mọi người, mọi thời, đều hiểu “trái tim” là biểu tượng của tình yêu, hoa hồng là đặc trưng của mùi thơm tình ái.
Chỉ những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu: Saolê dẫn ba ngàn quân tinh nhuệ vây bắt Đavit, lúc màn đêm buông xuống, nhà vua và quân lính ngủ say, Đavit có cơ hội tiêu diệt Saolê, nhưng ông không ra tay ? Đavit đã hiểu, không ai ra tay hại đấng đã xức dầu mà vô tội, ông đã sống điều ông tin. Công bằng thời xưa thì nói: mắt đền mắt, răng đền răng, công bằng của thời đại văn minh lại cho rằng: ơn đền oán trả, hoặc công to thì trọng thưởng, có tội thì luận phạt. Đức Giêsu cho thấy, công bằng chuẩn nhất: là yêu thương, là tha thứ; “nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì, ngay cả những kẻ tội lỗi họ cũng biết yêu những ai yêu họ”.
Theo quy luật, người ta chỉ có thể bước đi, khi đã qua giai đoạn biết bò, biết đứng. Người ta chắc chắn phải hiểu, phải được thấm nhuần tình yêu thương của cha mẹ, người thân, rồi mới biết yêu. Hiểu để sống, biết yêu vì đã được yêu, sẽ vô cùng quan trọng cho việc xây nền móng vững chắc cho hạnh phúc ở phía trước. Người ta có nhiều tiền, không có nghĩa là đã biết sử dụng tiền, biết tìm kiếm hạnh phúc, chưa chắc đã phải là người khôn ngoan. Đúng hơn phải biết mình là ai, phải hiểu giầu vật chất và giầu đức yêu thương khác nhau, một khi biết phối hợp con tim và khối óc cùng thực thi đức ái kitô. Nghe, biết, Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, tin Đức Giêsu vừa là người vừa là Thiên Chúa cứu độ, hiểu Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, để rồi chúng ta biết thực hành niềm tin theo Chúa làm môn đệ, thật quan trọng.
Chúng ta trau dồi kiến thức để làm giầu cho bản thân, gia đình, xã hội, thì không sai, chúng ta hiểu biết hạnh phúc thật, bình an và niềm vui thật, khi có Chúa trong cuộc đời, hẳn sự giầu sang phú quý của ta hiện tại này mới đáng trân trọng. Các đấng bậc chuyên về gia đình có câu: hai yếu tố làm tăng tuổi thọ của bạn, đó là một trái tim bình thản và một lý trí luôn yêu thương tha thứ. Đức Giêsu ý thức những ai theo Ngài làm môn đệ, trước hết phải hiểu biết mình giới hạn, cần được yêu thương, hầu biết sống yêu thương bằng sức mạnh của Chúa, là bao dung quảng đại với tất cả mọi đối tượng. Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện, khi chúng ta có đủ tình yêu Chúa, có đủ niềm vui và sống thánh ý Chúa mỗi ngày. Thực hành bài học yêu thương, sống yêu thương tha thứ không phải là điều mới mẻ, cách cư xử với anh chị em có tình, có nghĩa, đến mức độ không ai là người dưng, không ai là kẻ xa lạ, đó mới thực sự là môn đệ của Chúa. Amen.
Lm. Thái Nguyên
Suy Niệm
Sách Samuel thuật lại chuyện vua Saun dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng giết Đavít. Một đêm kia, Saun nằm ngủ mê mệt trong trại thì Đavít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đavít thấy đây là dịp may hiếm có nên xúi Đavít giết vua Saun. Nhưng Đavít chỉ lấy cây giáo của Saun, rồi sang phía bên kia hô lớn để Saun biết, và yêu cầu cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Saun cảm động, và biết rằng Đavít sau này sẽ là người hoàn thành nghiệp lớn.
Chúa Giêsu hôm nay dạy ta phải yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Đây là điều hết sức khó khăn, nhưng Chúa biết chúng ta có thể làm được với ơn thánh. Lịch sử đạo cũng như đời, thời nào cũng vẫn có những tấm gương như thế. Hơn nữa, đời sống con người phải có lý tưởng để vươn lên, không thể sống tầm thường, thô thiển theo bản năng tự nhiên của mình. Lý tưởng của chúng ta là hoàn thiện như Cha trên trời, “Đấng vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”.
Nếu cứ theo bản năng tự nhiên thì ai cũng muốn phục thù, nhưng “Lấy oán báo oán, oán chập chùng”. Khi chọn thái độ báo thù là ta bị thù hận làm nhiễm độc. Trả thù có thể thỏa mãn sự tức giận của ta, nhưng lại làm con tim ta trống rỗng, nhân tính bị hư hại, và nhân cách ra hư hỏng. Khi nuôi lòng hận thù hay muốn trả thù, ta không chỉ tiêu hao nhiều năng lực, làm tổn hại thể chất, mà còn mất đi bình an và hạnh phúc đời mình. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu lòng thù hận làm tiêu hao năng lực thì lòng yêu thương lại tăng cường nghị lực trong ta. Oscar Wilde viết : “Khi Chúa Giêsu dạy hãy tha thứ cho kẻ thù là Ngài không nhằm đến lợi ích của kẻ thù mà nhắm đến lợi ích của chính bản thân ta”.
Yêu thương kẻ thù là trang sức cao cấp của tinh thần, làm cho đời ta thêm cao đẹp, và góp phần làm cho cuộc sống mỗi người thêm cao quí. Nếu ta không sống theo lời Chúa Giêsu dạy, phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm hận thù, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực, và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố diệt vong. Ai cũng muốn tiêu diệt kẻ thù cho hả giận, nhưng biến thù thành bạn mới là cách tiêu diệt kẻ thù một cách trí tuệ nhất. Đó chính là sức mạnh của tình yêu, sức mạnh có tính sáng tạo và cứu độ. Chúa Giêsu đã làm như vậy khi Ngài xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, vu khống và nhục mạ mình (x. Lc 23, 34).
Chắc chắn Chúa Giêsu không đòi ta yêu kẻ thù như yêu người thân, không thể yêu bằng tình cảm nhưng có thể yêu bằng hành động. Yêu là làm ơn, là chúc phúc, là cho vay. Yêu là cầu nguyện và làm điều tốt cho kẻ thù. Chính những hành động tốt lành đó sẽ làm ta yên lòng và kẻ thù cũng sẽ mềm lòng. Dù sao cũng phải giải tỏa những bất bình trong lòng mình trước để không còn chấp nhất nữa. Vấn đề không nằm ở kẻ thù mà nằm ở phản ứng của chính mình. Ai cũng có quyền lựa chọn một phản ứng, tại sao không thể lựa chọn một phản ứng tốt hơn?
Thật ra kẻ thù nhiều khi đáng thương hơn đáng ghét, vì hành động vô tình chứ không cố ý, vì không làm chủ nổi mình, vì chỉ nhận thức tới mức độ đó, chưa thể sống hơn… Nếu có cái nhìn hiểu biết và cảm thông như thế, ta sẽ khai phóng được những năng lực tiêu cực trong mình, và có một tâm thế mới để nhìn kẻ thù như người anh em, và tìm cách giao hảo với những cử chỉ và thái độ thân thiện. Cố gắng làm như vậy không phải vì giả bộ hay nhượng bộ trước những điều xấu, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên. Ðó không phải là hành vi của kẻ yếu, nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm và lòng bao dung.
Thế giới văn minh không chỉ là những tiến bộ của khoa học bên ngoài, nhưng chủ yếu là những chiến thắng của con người trên lòng dạ ích kỷ của mình. Hơn nữa, chúng ta còn có những lý do và động cơ siêu nhiên trong việc yêu kẻ thù. Lý do là Thiên Chúa sẽ đối xử với ta như ta đối xử với tha nhân: xét đoán sẽ bị xét đoán, tha thứ sẽ được tha thứ, lên án sẽ bị lên án, cho đi sẽ được cho lại… Còn động cơ cao cả chính là lời hứa của Chúa Giêsu:“Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao”. Là con, nên chúng ta phải là hình ảnh sống động của một Thiên Chúa đầy lòng thương xót, là sự góp phần vào nền hòa bình viên mãn mai ngày trong trời mới đất mới.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Chúa dạy chúng con yêu kẻ thù,
nhưng rồi điều đó thật là khó,
vì có những tổn thương quá nặng nề,
nhưng nếu con không làm như thế,
thì tâm con vẫn cứ mãi u mê,
không thắng được ích kỷ hận thù,
thì đời con vẫn chưa là Kitô hữu.
Yêu thương là lý tưởng vươn lên mãi,
không thể dừng lại ở một mức độ nào,
dù kẻ thù gây thiệt hại ra sao,
con vẫn phải bao dung và nhân hậu.
Con không thể yêu kẻ thù bằng tình cảm,
nhưng Chúa mời con yêu bằng hành động,
yêu là làm ơn làm phúc sống hiệp thông,
là cầu nguyện cho họ điều lành điều tốt.
Cho con biết nhìn Chúa trên thập giá,
máu thắm tuôn ra mà vẫn nói thứ tha,
vẫn chở che những kẻ đan tâm hành hạ,
vẫn xin Cha mở rộng lượng hải hà.
Cuộc đời là một chuỗi những vượt qua,
nhất là vượt qua những tranh chấp hận thù,
dám yêu tất cả dù người thân hay kẻ lạ,
để mỗi ngày con hoàn thiện giống Chúa Cha.
Xin Chúa làm mềm lại trái tim con,
đừng cứng cỏi để khỏi phải ưu phiền,
nhưng luôn trong tâm thái dịu hiền,
để giải tỏa mọi oan khiên sầu não,
cho yêu thương như dòng suối dạt dào,
luôn tuôn chảy dâng trào niềm vui mới,
và an bình rộng trải khắp muôn nơi. Amen.
Jorathe Nắng Tím
Người Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, mà Đức Kitô là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, nên lối suy nghĩ và nếp sống của người thuộc về Thiên Chúa tất nhiên không thể trái nghịch với những chọn lựa của Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao người môn đệ Đức Giêsu không suy nghĩ và sống hoàn toàn giống như người đời, cũng không cùng thái độ và hành động y hệt như người ngoài Kitô giáo. Nói cách khác, luân lý Kitô giáo khác các luân lý của nhiều tôn giáo bạn, cũng như không giống luân lý của cộng đồng xã hội trần thế.
Nhưng có phải người Kitô hữu thuộc về Đức Kitô thì không còn thuộc về loài người?
Thưa không, vì chính Đức Kitô tuy là Thiên Chúa cũng đã xuống thế làm người, trở nên con người như mọi người trừ tội lỗi.
Để hiểu rõ thắc mắc này, chúng ta nghe thánh Phaolô giải thích: “Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15, 48-49). Thánh nhân muốn nói đến những người Kitô hữu: họ vừa là người được dựng nên bởi đất, vừa là người thuộc về Thiên Chúa.
“Hình ảnh người bởi đất mà ra” ở chúng ta là những những tham sân si, những ích kỷ nhỏ mọn, những khuynh hướng sở hữu, thống trị, hưởng thụ. Tuy thế, ở con người bởi đất mà ra cũng có lương tâm biết thiện ác, lành dữ, tốt xấu và ý chí để chọn lựa. Riêng hành vi luân lý ở con người bởi đất thường bị giới hạn ở: “yêu thương kẻ yêu thương mình.., làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình.., cho vay thì hy vọng đòi lại được” ( Lc 6, 32.33.34), nghĩa là chỉ làm cho người khác điều mình muốn người khác làm cho mình, kiểu “bánh ít trao đi, bánh quy trao lại”, và luân lý đều dừng lại ở công bình: “Mắt đền mắt, răng đền răng” (Mt 5,38).
Đức Giêsu đến với nhân loại với đòi hỏi luân lý mới, hoàn toàn mới, tuy không xóa bỏ luân lý của loài người bởi đất mà ra, nhưng vượt lên trên luân lý của “con người bởi đất” bằng luân lý quên mình vì người khác” mà bất cứ ai thuộc về Thiên Chúa, tức “mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” đều phải sống.
Quên mình vì người khác khi không còn nghĩ mình là kẻ thù của người khác, không còn biết người khác là kẻ thù của mình, bằng liên lỷ sống những chọn lựa anh hùng là không nhớ người khác đã vu oan, giáng họa, làm tan gia bại sản, tiêu tùng danh dự, uy tín của mình để có thể thực hiện luân lý của Đức Giêsu, Đấng đến từ trời là “yêu kẻ thù và làm ơn cho người ghét anh em, chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6,27-28).
Quên mình vì người khác, khi “dám” không nhớ mình là người có quyền, là người được người khác phục vụ, là người được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, nhưng chấp nhận chịu thua thiệt, lép vế để có thể làm điều Đức Giêsu dạy: “Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại” (Lc 6, 30).
Quên mình vì người khác, khi can đảm không còn tìm mọi cách để mọi người nhận ra mình là đấng bậc quyền cao chức trọng, để có thể kiêm hạ đến độ xóa mình toàn diện, bỏ mình không nuối tiếc hầu làm được những việc loài người không thể làm mà Đức Giêsu muốn ở người môn đệ: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,29).
Quả thực, tình yêu kẻ thù là đòi hỏi vô cùng khó khăn, nhưng là dấu chỉ vô cùng tuyệt vời của người môn đệ Đức Giêsu, bởi đây là bằng chứng hùng hồn nhất của lòng thương xót Chúa mà người môn đệ được kêu gọi và tuyển chọn để làm chứng. Đây cũng là nét đẹp không gì sánh được của chọn lựa tự do và qủa cảm ở người môn đệ Đức Giêsu khi tha thứ vô điều kiện, vì ý thức: khi tha thứ cho người khác là lúc được Thiên Chúa thứ tha.
Tóm lại, vì thuộc về Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, mà người Kitô hữu không thể dừng lại ở luân lý của “con người”, mà phải vươn tới luân lý của “con Chúa”; không thể hài lòng với lối sống của “thân thể có sinh khí”, mà còn phải tiến xa hơn đến gần Thiên Chúa, vì họ còn là “thân thể có thần khí” (1 Cr 15, 44), và đòi hỏi của Đức Giêsu đối với những ai mang thần khí, chính là: “Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48), bằng triệt để sống Lòng Thương Xót đối với mọi người, vì lòng thương xót, mà cao điểm là lệnh truyền của Đức Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44) là điều Chúa mong ước và đẹp lòng Ngài hơn tất cả.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Trong 5 ngày tết có 2800 vụ nhập viện vì đánh nhau trong đó, 1.088 ca phải nhập viện điều trị/theo dõi và 9 trường hợp tử vong. Mỗi ngày lướt qua các trang mạng ta thấy rất nhiều cuộc đánh nhau, chửi nhau, thậm chí cả chém giết nhau. Ngay trong các gia đình nhiều khi không xô xát to tiếng thì cũng là giận hờn, lườm nguýt, không nhìn mặt nhau, ghét nhau và ghét cay ghét đắng.
Người ta nói rằng: cuộc sống chung thì phải có đụng nên vẫn có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát ra huống chi con người. Nhưng con người lại hay chấp nhất với nhau nên dễ bắt bẻ nhau, xúc phạm nhau và trả đũa lẫn nhau. Muốn sống chung hạnh phúc thì con người cần phải có lòng khoan dung, có tình yêu tha thứ mới kiến tạo được một môi trường hạnh phúc bình an. Nếu con người để sự thù hận nổi loạn đến nỗi “ăn miếng trả miếng” sẽ biến môi trường sống thành nơi tranh chấp hơn thua nổi loạn như bãi chiến trường.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình. Vượt lên trên tình yêu tha thứ đó là lòng nhân từ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa không xét đoán tội chúng ta như chúng ta đáng tội. Ngài đã yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Chúa còn đòi chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ “quá tam ba bận” mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình.
Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa. Cả cuộc đời của Ngài là một chuỗi dài sự tha thứ. Ngài đã tha thứ cho lầm lỗi của người phụ nữ ngoại tình. Ngài đã tha thứ việc làm của Giakêu. Ngài đã tha thứ quá khứ tội lỗi của người trộm lành. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ, là tha thứ cho kẻ làm nhục và giết hại Ngài.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, nguyên tắc sống của chúng ta cũng phải là yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng khủng bố, bằng súng đạn, người kytô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không tha thứ thì “oán báo oán, oán lại chập chùng”. Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là “hãy yêu thương nhau”. Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung và tha thứ vì “Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn can đảm tha thứ cho nhau, luôn can đảm quên đi mọi hận thù, oán ghét, ghen tương để sống trong vòng tay thân ái giữa người với người và trong tình yêu tha thứ thẳm sâu của Chúa. Amen
Bông hồng nhỏ
Bước theo Thầy Giêsu, hằng ngày cùng sát cánh bên Thầy, các môn đệ cùng nhau lắng nghe lời Thầy dạy dỗ: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây”. Quả vậy, Thầy luôn sẵn sàng ban lời dạy dỗ cho những ai chăm chú lắng nghe và thành tâm đem ra thực hành (x.Lc 6, 27-38). Lời Thầy dạy dỗ được tóm gọn trong chủ đề: hãy yêu thương kẻ thù, tha thứ và hãy cầu nguyện cho họ. Yêu thương ai đó không phải là điều dễ, yêu thương kẻ thù lại càng thách đố hơn cho những ai muốn trở nên người môn đệ của Thầy Giêsu và muốn được gọi là con Đấng Tối Cao.
Đầu tiên, Thầy Giêsu muốn ta yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét ta. Khi nghe lời dạy dỗ của Thầy ta nhận thấy lời ấy xuyên thấu tâm hồn ta, thách đố ta. Trước hết, nhìn lại những tương quan hiện tại, ta thấy mình vẫn chưa yêu thương những người thân – những người yêu thương ta- bằng một tình yêu vô vị lợi. Tình yêu trong ta vẫn còn đó những ích kỷ, những toan tính, những mong chờ được đáp trả. Khi ta yêu thương mà không nhận lại được sự đáp trả của họ, ta thấy mình chùn bước, và nếu họ có lỗi với ta, ta thấy mình dễ chấp nhặt. Chỉ vì ta quá ích kỷ, chỉ nghĩ cho mình mà không đặt mình trong hoàn cảnh của người khác để cảm thông. Nếu việc đáp lại tình yêu thương của những người yêu thương ta là một thách đố lớn cho ta thì việc yêu thương kẻ thù thực sự là một ước muốn không tưởng. Thầy Giêsu đang nói với ta, vì ta vẫn chăm chú lắng nghe. Thầy hỏi ta: Sao con còn băn khoăn về điều ấy? Con không biết rằng: “Đối với Thiên Chúa thì không gì là không thể sao?”
Đúng vậy, lòng ta còn băn khoăn vì ta đã chỉ nhìn về những nỗ lực và nhìn về những giới hạn của bản thân. Khi chỉ dựa vào sức riêng, làm sao ta có thể thi hành ý muốn của Thiên Chúa! Yêu thương kẻ thù là một hành động của đức tin và để thi hành điều ấy ta cần mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa. Khi nhìn lại một kinh nghiệm đã qua, ta nhận ra điều mà Thầy Giêsu muốn ta hướng tới. Trong một lần, ta và một người chị em to tiếng với nhau vì công việc. Sau lần ấy, có một khoảng cách thật lớn giữa ta và chị. Hai bên không thể nói chuyện với nhau, không thể cười đùa, không thể cùng nhau chia sẻ công việc như trước. Tình trạng ấy cứ kéo dài mà ta không thể hàn gắn, một phần do ta và một phần từ phía chị. Khi mang sự bực bội, khó chịu trong lòng, ta mất bình an. Tìm đến vị linh hướng để được giúp đỡ, ta làm theo lời khuyên của ngài. Mỗi ngày, ta đều âm thầm làm việc hy sinh và cầu nguyện cho chị. Sau gần một năm, mối tương quan ấy đã được hàn gắn. Chị em lại có thể cùng nhau làm việc và chia sẻ vui buồn. Chính khi mở lòng đón nhận ân sủng của Chúa, lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa trong cầu nguyện và qua lời dạy bảo của vị linh hướng, hoa trái bình an đã trổ sinh trong tâm hồn ta, đồng thời tình yêu cũng kết trái trong tương quan giữa ta và chị. Yêu thương người mà ta có ác cảm, người đang hiểu lầm ta bắt đầu bằng việc: ta “không được nuôi hận thù trong lòng mình, không để sự thù ghét hướng dẫn hành động của mình, không lên án “kẻ thù” hay “kẻ ngược đãi mình” vì biết đâu chính mình là nguyên nhân sâu xa của sự thù ghét, và không tìm cách trả thù, dù chỉ bằng ý nghĩ hay lời nói. Quả thật, đối với Thiên Chúa thì không gì là không thể. Yêu thương luôn là lời mời gọi thúc bách người môn đệ quên mình để sống cho thánh ý Chúa. Yêu thương những người yêu thương mình là một điều khó nhưng lại rất dễ thực hiện nếu như ta chân thành muốn yêu thương họ. Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ghét ta không phải là một ước muốn không tưởng, vì khi ta hành động bằng đức tin và ân sủng của Chúa thì chính Người hành động trong ta.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn lôi kéo và thúc đẩy con, giúp con biết vươn lên sau những lần vấp ngã, để con biết yêu thương tất cả mọi người bằng một trái tim quảng đại dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và theo gương sáng của Thầy Giêsu, để ngợi khen tình yêu tuyệt hảo của Chúa Cha. Amen.
Thiên San
Sách Samuen quyển thứ nhất kể lại câu chuyện cảm động về cung cách đối xử của Đavid đối với vua Saun, người đang tìm giết ông. Chính Đức Chúa đã trao vua vào tay ông nhưng ông đã không ra tay làm hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong (x.1Sm 26, 9). Đó cũng là điều mà Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta sống nhân từ như Cha trên trời là Đấng nhân từ. Người mời gọi chúng ta yêu thương kẻ thù, cầu nguyện cho người ngược đãi, cho vay không mong nhận lại… Có như vậy chúng ta mới được gọi là con cái của Cha trên trời và xứng đáng được hưởng phần thưởng lớn lao đã được hứa ban (x.Lc 6, 27-38).
Có thể nói, Đức Giêsu đã thực hiện một cuộc cách mạng lớn lao từ trước tới nay khi kêu mời mọi người yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ngược đãi mình. Để yêu thương một người khác đúng cách là điều thực sự khó. Yêu thương kẻ thù lại càng khó hơn. Đó là một thách đố nhưng không phải không làm được. Chính Đức Giêsu, Đấng thực hiện cuộc cách mạng lớn lao này đã nêu gương cho chúng ta trước. Chính Người đã yêu thương kẻ thù, tha thứ cho kẻ ngược đãi, những kẻ đã giết chết Người. Trên thánh giá, chính Người đã nài xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm hại mình. Người đã đến trần gian để cứu những người tội lỗi, yêu thương và tha thứ cho nhân loại lỗi lầm. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục mời gọi chúng ta thực thi cuộc cách mạng lớn lao này trong cuộc đời của mỗi người. Hãy để Đức Giêsu ở trong ta, lúc ấy chính Người sẽ giúp chúng ta yêu thương theo cách Người muốn.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy có lòng nhân từ như Cha trên trời là Đấng nhân từ. Người không chỉ mời gọi chúng ta yêu thương kẻ thù mà còn mời gọi chúng ta tha thứ, không xét đoán, không lên án và hãy cho đi cách nhưng không. Đối với cách sống của thế gian, tất cả những điều chúng ta làm thường được thực hiện theo kiểu “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Còn với Đức Giêsu, Người cho chúng ta thấy rằng chúng ta đong đấu nào thì sẽ được đong trả lại đấu ấy, nghĩa là chính Thiên Chúa là Đấng sẽ đong trả cho chúng ta. Khi ta hành xử và sống theo tinh thần thế gian, chúng ta mong đợi sự đáp trả của con người. Nhưng khi chúng ta biết sống theo lời mời gọi của Đức Giêsu, chúng ta mong đợi nơi Thiên Chúa phần thưởng lớn lao, vĩnh cửu là hạnh phúc đời sau. Khi biết đặt để niềm hy vọng vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ không còn ngần ngại cho đi, sẵn sàng tha thứ và làm những điều tốt đẹp cho nhau. Đó là cách sống của con cái Thiên Chúa.
Là con cái Chúa, chúng ta phải có khả năng biết mở rộng con tim, đôi bàn tay, đôi chân không ngừng dấn thân để đi đến với mọi người, đặc biệt là những người ta cảm thấy “khó ưa”. Xin Chúa cho chúng ta đừng chỉ biết yêu thương, quan tâm đến những người yêu thương chúng ta, những người chúng ta quý mến; nhưng xin Chúa ngự vào lòng ta, ban ơn trợ lực giúp chúng ta có khả năng sống yêu thương, tha thứ, không xét đoán, cho đi nhưng không. Bởi tha thứ là khả năng của Thiên Chúa, tự sức mình chúng ta sẽ không làm được. Là con cái Chúa, chúng ta được mời gọi sống hơn những gì thế gian đã sống.
XÓA BỎ HẬN THÙ BẰNG TÌNH YÊU THƯƠNG
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Phần đông nhân loại xưa nay chủ trương ghét bỏ, loại trừ, thậm chí là tiêu diệt kẻ thù không thương tiếc.
Chỉ mới nghĩ đến kẻ thù, người ta thấy hậm hực trong lòng; vừa thoáng thấy bóng dáng kẻ thù, người ta cảm thấy bực bội, lòng căm hận sôi lên; khi đối diện với kẻ thù thì muốn nguyền rủa, xỉ vả, đánh đập… Nhiều người còn tìm cách làm hại kẻ thù cách nầy cách khác.
Và khi chưa có dịp trả thù cho hả hê, người ta nuôi oán thù dai dẳng trong lòng năm nầy qua năm khác khiến tâm hồn mất bình an, cuộc sống mất hạnh phúc. Nuôi oán thù như thế chẳng khác gì nhâm nhi thuốc độc hằng ngày, gây tác hại nghiêm trọng cho thân xác cũng như tâm hồn, tự chuốc bệnh vào thân và cắt giảm tuổi thọ. Oán hận người khác là tự hại mình cách dại dột. Tuy nhiên, xóa bỏ oán thù khỏi tâm hồn là điều rất khó.
Làm sao dập tắt oán thù?
Muốn dập tắt đám cháy lớn, người ta phải dùng đến nước; muốn dập tắt hận thù, thì phải nhờ đến tình thương. Tình thương là phương thế hiệu quả nhất để xóa bỏ hận thù. Chính vì thế, Chúa Giê-su chủ trương xóa bỏ hận thù bằng lòng yêu thương, được thể hiện cụ thể qua việc làm ơn, chúc lành, cầu nguyện cho kẻ thù. Ngài dạy: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6, 27-28).
Tha thứ cho kẻ thù đã khó; yêu kẻ thù càng khó hơn; thế mà Chúa dạy phải vươn lên một bậc cao hơn là làm ơn cho kẻ ghét ta, chúc lành cho kẻ nguyền rủa ta, cầu nguyện cho kẻ vu khống ta… Thật là những giáo huấn siêu phàm và rất tuyệt vời!
Chưa từng có danh nhân nào, bậc thánh hiền hay vị tôn sư nào… từ xưa tới nay để lại cho loài người những lời khuyên dạy cao cả, siêu phàm như thế!
Không chỉ dạy chúng ta yêu thương kẻ thù, Chúa Giê-su còn thể hiện lòng yêu thương kẻ thù nghịch cách tuyệt vời hơn hết.
Trong cuộc khổ nạn, sau khi bị lùng bắt giữa đêm khuya như một tên gian phi và bị kết án cách bất công trước tòa Phi-la-tô, Chúa Giê-su chịu một trận đòn dã man, tàn bạo… giáng xuống thân mình, rồi phải vác thập tự giá lảo đảo lên đồi Can-vê. Đến nơi, Ngài chịu lột trần; chịu đau đớn khủng khiếp khi đội hành quyết đóng đinh Ngài vào thập giá; chịu treo thân trần trụi trên thập giá cho ruồi mòng chích hút, lại còn bị bao người qua lại nhiếc móc, thách thức, nhạo cười…
Dù vậy, Chúa Giê-su không thù không oán, không dùng lời lăng mạ để đáp lại lăng mạ, không xuống khỏi thập giá để tiêu diệt quân thù, không dùng quyền năng mà trừng trị những tên khốn kiếp… Trái lại, Ngài nhìn họ bằng ánh mắt xót thương. Ngài sợ Chúa Cha trừng phạt tội ác tày trời họ đã gây ra, nên trước khi tắt thở, Ngài ngước mắt lên trời, tha thiết cầu xin Cha tha thứ cho kẻ gây đau thương khốn đốn cho Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Ôi! Tuyệt vời biết bao! Chỉ có Chúa Giê-su là đấng duy nhất trên đời đã tỏ lòng thương xót và tha thứ cho kẻ lăng nhục, hành hạ, phỉ báng và giết chết Ngài… đến mức cao vời như thế mà thôi.
Lạy Chúa Giê-su,
Tha thứ cho kẻ thù đã khó, yêu thương kẻ thù lại càng khó hơn, làm ơn làm phúc và cầu nguyện cho kẻ thù là điều vượt quá sức người. Xin cho chúng con biết chiêm ngắm tấm gương yêu thương, tha thứ, cầu nguyện cho kẻ thù của Chúa và vâng lời Chúa dạy để sẵn sàng tha thứ cho những kẻ thù nghịch với mình. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Lời Chúa hôm nay là phần hai Bài giảng khai mạc đã được đọc từ tuần trước.
Phần hai của Bài giảng khai mạc tiếp tục nói về lối sống có phúc.
Nếu trong phần đầu, Chúa Giêsu khẳng định cuộc sống của những người nghèo khổ, chịu đói khát và khóc lóc, bị khai trừ, xua đuổi và sỉ vả là có phúc, thì giáo huấn trong phần sau đề cập đến cuộc sống bác ái sẽ đạt đến tột đỉnh khi biết yêu thương kẻ thù.
Sống bác ái là điều kiện để được vào Nước của Thiên Chúa. Còn yêu thương kẻ thù, biểu hiện độc đáo của đức bác ái, lại là gương mặt phản chiếu trung thực và trọn vẹn về Thiên Chúa, Đấng nhân từ và giàu lòng thương xót.
Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn cụ thể về cách hành xử đối với kẻ thù:
- Làm ơn cho kẻ ghét anh em.
- Chúc phúc cho người nguyền rủa anh em.
- Cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.
- Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.
- Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.
- Ai lấy gì thì đừng đòi lại…
Chúa Giêsu phân tích những lý do sâu xa của cách hành xử mang giá trị Tin Mừng:
- Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ.
- Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế.
- Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng.
Như vậy Chúa Giêsu đã mô tả những nét tiêu biểu nhất của gương mặt những công dân Nước Thiên Chúa. Một gương mặt hoàn toàn đối lập với những nét trần thế cố cựu khi đứng trước kẻ thù. Đối với kẻ thù, con người trần thế chỉ có một chọn lựa duy nhất là ăn miếng trả miếng, mắt đền mắt, răng đền răng.
Trả thù đối thủ, phản ứng đối phương, tiêu diệt đối lập, vẫn được đề cao là giải pháp duy nhất và tối ưu.
Chúa Giêsu trình bày một con đường mới và chính Người sẽ đi bước tiên phong.
Quả vậy, trên Thập giá, chịu đựng những đau đớn tột cùng do những người chống đối gây ra, Chúa Giêsu đã nài xin Chúa Cha tha thứ những kẻ bức hại mình, nhờ đó Người đã làm ngời lên gương mặt của Thiên Chúa là Đấng nhân hậu với cả phường vô ơn và quân độc ác.
Bài giảng khai mạc đã làm kinh ngạc thế giới những người bất hạnh sống trong cảnh nghèo khổ, đói khát và bị đoạ đày.
Khi đến gặp Chúa Giêsu, những con người bị cuộc đời và số phận đẩy xuống đáy vực của khổ ải, có lẽ đang mong được nghe những lời hứa hẹn về sự công bằng sòng phẳng hoặc được phân phát bản hiệu triệu đấu tranh, làm cho ra lẽ mọi căn nguyên oán cừu, thù hận. nhưng rốt cuộc, dân chúng khổ đau này đã được mời gọi hướng lên những giá trị của một thế giới mới, thế giới của tình yêu, lòng khoan dung và tha thứ; bởi vì “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”. Đong bằng đấu trả thù, Chúa sẽ đong lại bằng đấu trả thù. Dùng đấu tha thứ, Chúa sẽ dùng chiếc đấu tha thứ đong lại cho con người.
Bài giảng khai mạc sứ vụ của Chúa Giêsu đã đánh dấu thời điểm khai mạc chương trình kiến tạo một thế giới mới cho nhân loại. (Khổng Thành Ngọc).
Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Chính Người đã sống yêu thương, luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với mình, mặc dù họ ghen ghét vô cớ, họ luôn tìm dịp tố cáo xuyên tạc lời Người giảng dạy. Chúa Giêsu dạy: lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.
“Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may hầu sám hối và canh tân.
“Yêu thương kẻ thù” là điều không dễ chút nào xét trên bình diện con người tự nhiên. Tha thứ cho những kẻ làm hại hay xúc phạm đến mình đã là điều khó rồi, huống chi là yêu thương, làm ơn và cầu nguyện cho họ nữa. Khi đã ghét nhau, chỉ nhìn thấy mặt, nghe giọng nói đã thấy khó chịu rồi, nói gì đến yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho nhau! Quả thật, đây là một việc vô cùng khó khăn, nhưng chúng ta có thể thực hiện được nếu có ơn Chúa trợ giúp. Chính thánh Phaolô đã quả quyết điều này: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi”.
Trong cuộc sống, người ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Hãy cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.Thánh Phaolô khuyên: “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Ông Môisen dạy: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, đừng tìm cách báo oán và cũng đừng để lòng những lời nhiếc mắng của kẻ khác (x.Lv 19,1-2). Còn thánh Phaolô đòi buộc chúng ta không được khinh rẻ người khác (x.1Cr 3,16-23).
Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Suy niệm Tin Mừng hôm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : yêu thương kẻ thù tạo nên một cuộc cách mạng của lòng thương xót. Nhờ tình yêu của Chúa Giêsu, nhờ Thần Khí của Người và với Người, chúng ta có thể yêu thương những người không yêu thương chúng ta, cũng như những người làm hại chúng ta.
Nhưng làm thế nào có thể vượt qua bản năng của con người và luật trả thù của thế gian? Câu trả lời của Chúa Giêsu là: “Hãy nhân từ, vì Cha của anh em là Đấng nhân từ“. Bất cứ ai lắng nghe Chúa Giêsu, nỗ lực bước theo Người dù phải trả giá, thì trở nên con Thiên Chúa và bắt đầu nên giống Cha trên trời. Chúng ta có thể nói và làm những điều mà mình chưa từng nghĩ tới, chúng ta có thể trao ban niềm vui và bình an trong những điều mà chúng ta nghĩ rằng mình sẽ xấu hổ. Chúng ta không cần sống bạo lực nữa, dù là bằng lời nói hay hành động. Chúng ta nhận ra mình có khả năng sống ân cần, dịu dàng và tốt lành. Chúng ta nhận ra rằng tất cả những điều ấy không đến từ chính mình mà từ chính Người. Và vì thế, chúng ta không lấy làm tự hào về điều đó, nhưng chúng ta sống tâm tình biết ơn.Không có gì lớn lao và sinh nhiều hoa trái hơn tình yêu: tình yêu tôn trọng, trao trả tất cả phẩm giá của con người, trong khi sự thù hận và oán ghét lại xem nhẹ và coi thường nó, làm mất đi vẻ đẹp của thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người.(x. Kinh Truyền Tin sáng 24.02.2019).
Lạy Chúa Giêsu, khi bị treo trên Thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ. Xin thương cũng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.
Lm Vũđình Tường
Quan hệ tình cảm con người không phải chỉ giới hạn gữa người này với người kia mà còn liên quan đến Thiên Chúa. Quan hệ tình cảm thật bén nhậy và rất dễ sứt mẻ. Coi sóc, bảo vệ tình cảm sẽ được sống thảnh thơi, thoải mái. Lơ là, coi thường nó sẽ bị đau khổ, nhiều khi cái giá đau thương ngoài sức mình. Cả tinh thần lẫn tâm linh đều đau khổ. Cởi mở và thành thật trong đối thoại may ra tạo được cảm thông, nếu không vấn đề trở nên trầm trọng đến độ mọi liên hệ tình cảm đều ảnh hưởng, lung lay tận gốc rễ. Theo sau đổ vỡ là thù hận, bạn thành thù, thương thành hận.
Xã hội loài người dường như hài lòng với lối giải quyết từ ngàn xưa. Công bằng, sòng phẳng đối với họ là: ‘Răng đền răng, mắt đền mắt’. Lối giải quyết một chiều này không thoả đáng, bởi nó có thể giảm bớt hận thù nhưng không nối lại mối tình cảm đã đổ vỡ, và chắc chắn lối giải quyết này không giải quyết sứt mẻ tâm linh.
Quan hệ tình cảm con người liên quan đến Thiên Chúa. Khi ta gây đau khổ cho ai, ta gây đau khổ cho một thành viên của cộng đồng nhân loại. Chúa dựng nên người đó và yêu thương họ. Như thế chúng ta gây đau khổ cho người Chúa yêu thương. Đức Kitô nói với môn đệ cách xã hội áp dụng chỉ là ‘cao dán’, tạm giảm đau, không trị căn bệnh, bởi công bằng xã hội giải quyết bằng cách trừng phạt giam tù, hay bồi thường thiệt hại. Công lí đối với Đức Kitô là yêu thương và tha thứ. Đức Kitô còn đi xa hơn khi Ngài nói với môn đệ ngay cả khi nghe tin ‘kẻ thù’ gặp nạn cũng không nên vui mừng. Đức Kitô dậy hãy cầu nguyện, yêu thương, và tha thứ cho kẻ làm hại mình. Thực hiện một trong ba điều trên đã là khó. Đức Kitô dậy môn đệ thực hiện một lúc cả ba điều trên. Đối với xã hội, lời dậy bảo này xem ra không thể thực hiện. Nhất là khi vết thương lòng còn đang rỉ máu, nỗi nhục và niềm đau còn mới. Tuy nhiên Kitô hữu có thể thực hiện cùng lúc ba điều trên. Thứ nhất, Kitô hữu có Đức Kitô đồng hành, hướng dẫn, ban sức mạnh làm điều tốt lành. Thứ hai, Kitô hữu tin là Đức Kitô không dậy bảo làm điều gì quá sức mình. Chính Đức Kitô thực hiện điều Ngài phán dậy môn đệ: cầu nguyện, yêu thương, tha thứ. Trong cuộc tử nạn, Đức Kitô xin Chúa Cha tha cho kẻ làm hại Ngài. Ngài bỏ qua cho kẻ vu vạ, cáo gian. Ngài làm lơ cho kẻ làm chứng dối. Lời cầu nguyện:
Lậy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm’. Lc 23,34.
Chúng thật sự lầm hay cố tình lầm? Bởi chúng lầm nên không phạm tội sát nhân mà là ngộ sát, hình phạt được giảm khinh. Lời cầu vắn gọn trên tóm lược điều Đức Kitô dậy môn đệ: a/ cầu nguyện cho kẻ làm hại; b/ yêu thương kẻ làm hại và cuối cùng; c/ tha cho kẻ Giết, đóng đanh Đức Kitô.
Gây đau khổ cho người khác là sai, là tội bởi ta gây đau khổ cho một thành viên của cộng đồng nhân loại, người mà Chúa dựng nên và yêu thương. Thứ hai, hành hạ người khác là ỉ vào sức mạnh, đồng thời lạm dụng quyền hành. Hơn nữa ta mất tự chủ, làm nô lệ cho cơn giận, để chúng sai khiến. Giận dữ luôn trái với bác ái, yêu thương. Thay vì chọn nhân đức, ta chọn sa đoạ. Người thiếu tình yêu Chúa trong tâm hồn, hành động chiều theo xác thịt.
Đức Kitô kêu gọi môn đệ học từ Ngài. Chúng ta đều có kinh nghiệm được Chúa yêu thương, ngay cả trong trường hợp ta phạm tội, chính ta không thể tha cho ta. Chúa không kết án, nhưng ban ơn giúp ta thống hối, nhận tội. Nhìn vào kinh nghiệm đó để dâng lời tạ ơn và tha thứ cho kẻ khác.
Việc tự xét mình là một ơn đặc biệt Chúa ban, bởi xét mình để biết rõ mình hơn và xin ơn tha thứ. Chính vì biết mình yếu đuối cần ơn tha thứ nên cần sống khiêm nhường và rộng lượng khi phải phán đoán. Có lần người ta thử Đức Kitô có nên ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đức Kitô nói với họ: Ai không có tội hãy ném trước đi. Tất cả lần lượt bỏ đi, còn lại mình người phụ nữ. Đức Kitô nói với người đó, Ta cũng không kết án con, ra về bằng an và đừng phạm tội nữa. Gioan 8:11.
Đức Kitô muốn con người sống thảnh thơi, hạnh phúc. Thù hận tạo đau khổ, mất bình an. Để sống an vui, hạnh phúc, ta cần ơn Chúa. Để có ơn Chúa cần theo con đường Chúa đi. Môn đệ không đi theo Thầy, môn đệ đó có đóng hiệu môn đệ, trong ruột là gì chính người đó biết. Trong tâm ai chan chứa tình yêu Chúa, người đó không có hận thù. Cuộc sống họ thảnh thơo bởi họ giầu tình yêu, lòng mến.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Từ ngày 8-12-2015 đến ngày 20-11-2016, Năm Thánh Lòng Thương Xót đã được cử hành trong Giáo Hội Công giáo. Đây là thời điểm đầy ý nghĩa giúp cho các tín hữu tái khám phá lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với con người. Năm Thánh cũng là lời mời gọi con người hãy thực thi lòng thương xót đối với nhau, bởi lẽ lòng nhân từ hay đức bác ái là giáo huấn cốt lõi của Kitô giáo. Thiên Chúa nhân từ. Con người cũng phải sống nhân từ đối với nhau để xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa. Người xưng mình là Kitô hữu mà không thực thi lòng nhân từ, thì đó sẽ là một thứ Kitô hữu giả mạo.
“Anh em hãy có lòng nhân từ…”. Lời mời gọi ấy trải dài qua mọi thế hệ, đến với mọi tầng lớp trong xã hội và còn vang lên giữa chúng ta hôm nay. Đoạn Tin Mừng được đọc trong thánh lễ Chúa nhật này là một trong những áng văn chương tuyệt vời của Tân Ước, bởi nó diễn tả lòng nhân từ Kitô giáo một cách đặc biệt. Nội dung bài Tin Mừng có thể chia ra làm ba phần.
– Yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù. Đây là điểm đặc thù trong giáo huấn Kitô giáo. Trong Do Thái giáo, đức yêu thương chỉ được thực hiện giữa những người cùng chủng tộc. Trong quan niệm thông thường, người ta chỉ quý mến những người có liên hệ máu huyết, bạn bè, ân nghĩa. Đức Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù. Thực ra, đối với người nhân từ, thì chẳng có ai là kẻ thù cả, bởi họ luôn tha thứ điều ác mà người khác đã làm cho mình.
– Làm phúc giúp đỡ. “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Ai trong chúng ta mà chẳng muốn người khác làm điều tốt cho mình. Vậy, Chúa dạy chúng ta hãy làm những điều tốt đẹp cho tha nhân. Chính khi chúng ta làm những điều thiện hảo cho người khác, là chúng ta nhận lãnh niềm vui cho mình. Đó là phần thưởng và là công phúc Chúa ban cho chúng ta. Sự giúp đỡ Chúa Giêsu đề nghị là sự giúp đỡ vô tư, không nhằm lợi lộc hay lời vinh danh theo kiểu người đời.
– Đừng xét đoán. Thông thường trong các cuộc gặp gỡ, chúng ta có thói quen nói về người vắng mặt với những xét đoán đôi khi vừa không chính xác vừa hàm chứa nhiều ác ý. Chúa Giêsu dạy chúng ta, Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền xét đoán. Bổn phận của chúng ta là hãy cố gắng sống trung thực, ngay lành và bác ái. Chúa là Đấng thấu hiểu và phán xét những hành vi cử chỉ của chúng ta, để rồi Ngài ban thưởng hay trừng phạt những hành vi ấy.
“Ai gieo gió, sẽ gặt bão”; “Gieo nhân nào, gặt quả nấy”, các bận Tiền nhân của chúng ta đã dạy như vậy. Chúa Giêsu cũng dùng lối nói bình dân của thời đại Người để nói với chúng ta: “Đong đấu nào, nhận đấu ấy”. Ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần kinh nghiệm điều này. Vì thế, người Việt chúng ta mới khẳng định: “Ông Trời có mắt!”, hoặc “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt”.
Phụng vụ hôm nay giới thiệu với chúng ta một gương sáng của lòng nhân hậu. Đó là vua Đavít (Bài đọc I). Ông đang bị vua Sa-un truy bắt, vì vua cho rằng Đavít có ý định chiếm ngôi vua. Trong cuộc truy bắt này, có một thời điểm mà Đavít có thể giết vua dễ dàng, nhưng ông không làm thế, vì ông tôn trọng vua là người được xức dầu. Đavít đã thể hiện lòng nhân hậu của mình, khi ông tuyên bố: “Hôm nay, Đức Chúa đã nộp vua vào tay tôi, nhưng tôi không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong”.
Giữa một xã hội bon chen và đầy lường gạt toan tính, người tin Chúa được mời gọi sống nhân từ bao dung, coi mọi người là anh em huynh đệ và người thân kẻ nghĩa. Đây quả là một thách đố lớn lao, vì chấp nhận tha thứ đôi khi bị coi là “hèn”. Thánh Phaolô đã đặt song đối giữa ông Ađam và Chúa Giêsu. Ông Ađam thuộc về đất, Chúa Giêsu thuộc về trời (Bài đọc II). Trong chúng ta có hai con người, luôn cạnh tranh khốc liệt. Một bên muốn hướng về trọn lành, một phía muốn nghiêng về tội lỗi. Một bên mang sức mạnh của Thiên Chúa, bên kia mang sức mạnh của thế gian. Ân sủng của Chúa sẽ giúp chúng ta chiến thắng, nếu chúng ta cậy dựa vào sức mạnh siêu nhiên.
Hãy yêu mến cả kẻ thù. Điều này cũng có nghĩa là đừng trở thành kẻ thù của ai. Tha thứ luôn đòi phải can đảm, vượt lên chính cái tôi của bản thân. Trong tiếng Pháp, tha thứ (Pardonner) có nghĩa là “Cho đi một quà tặng – Par-un-don”. Điều này cũng có chung một ý nghĩa trong tiếng Anh (forgive – For-a-gift). Quà tặng ở đây không phải là vật chất, nhưng là chính bản thân mình. Quả vậy, chấp nhận tha thứ là chấp nhận cho đi chính mình, chấp nhận mang lấy những lời thị phi và phê phán của người đời. Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận những lời thị phi và thậm chí cái chết trên thánh giá, nhưng rồi Người đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi và hạnh phúc đời đời cho những ai thành tâm thiện chí.
“Người đầu tiên biết nói lời xin lỗi là người dũng cảm nhất. Người đầu tiên biết cách tha thứ là người mạnh mẽ nhất. Và người đầu tiên biết cách quên đi quá khứ đau buồn là người hạnh phúc nhất” (Sưu tầm).
.
Tgm Giuse Ngô quang Kiệt
Bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay đều nói về sự tha thứ. Nhưng ở mức độ khác nhau.
Bài đọc I tường thuật sự tha thứ của Đa-vít. Đa-vít làm ơn mà mắc oán. Sau khi chiến thắng Gô-li-át, giải phóng dân Do thái khỏi tay người Phi-li-stinh, ông được dân chúng ca ngợi. Sự ngưỡng mộ của dân chúng đối với Đa-vít khiến vua Sa-un ghen tỵ. Sa-un tìm bắt Đa-vít để giết đi. Hôm nay, sau một cuộc săn lùng mệt mỏi, Sa-un ngủ thiếp đi trong hang đá. Đa-vít đến mà không ai hay biết. Có thể giết Sa-un, nhưng Đa-vít đã không làm. Trong Đa-vít có cái mà ta gọi là bao dung, độ lượng, cao thượng. Tuy nhiên sự tha thứ của Đa-vít vẫn chưa hoàn toàn tự phát. Ông không dám giết Sa-un một phần vì sợ xúc phạm đến “người được Thiên chúa xức dầu”.
Trong quan hệ giữa người với người, nếu tha thứ bạn sẽ được tiếng là độ lượng, còn người được tha thứ bị coi là thua kém bạn. Bạn được lợi còn người kia bị thiệt.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải vượt qua cái thường tình. Người muốn môn đệ vươn đến sự tha thứ hoàn hảo. Sự tha thứ hoàn hảo của Tin mừng phải biểu lộ bằng hành động cụ thể: “Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cản họ lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại”.
Không chỉ dừng lại ở hành động bên ngoài, sự tha thứ hoàn hảo phải thấm sâu vào lý trí, không lấy ác báo ác, nhưng cũng không nghĩ xấu về người khác: “Anh em đừng xét đoán, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa lên án”.
Thấm vào lý trí đã là một bước tiến dài nhưng vẫn chưa đủ, sự tha thứ còn phải lan đến tận trái tim là trung tâm của tình yêu. Khi đã chiếm lĩnh được trái tim, sự tha thứ trở nên một sức mạnh kỳ diệu dẫn đến những hành động tích cực, lấy đức báo oán, đem yêu thương xoá bỏ hận thù. Khi ấy ta mới có thể thực hành Lời Chúa dạy: “Anh em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình, phải chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”.
Với những lời dạy dỗ trên, Đức Giêsu muốn cho môn đệ của Người tha thứ và yêu thương không phải như người thường nhưng như Thiên Chúa “Người nhân hậu cả với những phường vô ân, với những quân độc ác”. Người muốn cho các môn đệ của Người “từ bi như Cha trên trời là Đấng từ bi”.
Với những lời dạy dỗ trên, Đức Giêsu muốn thanh tẩy thế giới sạch mọi oán thù. Không phải chỉ sạch oán thù ngoài mặt nhưng sạch từ trong thâm tâm mỗi người. Không phải chỉ bằng mặt mà còn phải bằng lòng. Sào huyệt vững chắc nhất của oán thù không phải ở nơi người khác nhưng ở trong lòng ta. Muốn thế giới hết oán thù, chính bản thân ta phải từ bỏ oán thù trước. Muốn thế giới sống trong yêu thương, chính ta phải yêu thương trước. Yêu thương giống như ngọn lửa thắp lên rồi sẽ cháy lan mạnh mẽ. Yêu thương giống như bầu khí toả ra sẽ lan tới từng buồng phổi, sẽ thấm vào từng mạch máu. Yêu thương chính là sức mạnh biến đổi thế giới sâu xa nhất. Yêu thương là cuộc cách mạng bền vững nhất.
Đức Giêsu không chỉ nói suông. Chính Người đã thực hành những điều Người nhắn nhủ các môn đệ. Người để cho quân lính bắt đi như con chiên hiền lành đứng trước người thợ xén lông. Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người. Người không nói một lời nào trách móc những kẻ làm điều ác cho Người. Sau cùng, lúc bị treo trên thánh giá, Người còn cầu nguyện cho những kẻ giết Người. Người đã minh chứng một tình yêu nguyên tuyền không bợn chút oán thù. Người đã minh chứng một tình yêu mãnh liệt vượt qua mọi ghen ghét.
Hạt giống yêu thương Người đã gieo xuống. Người mong ta tiếp tục vun tưới cho cây yêu thương kết trái đơm hoa. Ngọn lửa yêu thương Người đã thắp lên. Người mong ta hãy đem lửa ấy chiếu soi khắp thế giới.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Khi có người xúc phạm đến bạn, bạn thường tìm cách báo thù hay tìm cách tha thứ?
2- Mỗi khi mang mối oán thù trong lòng, bạn cảm thấy thế nào? Thanh thản hay bứt rứt?
3- Bạn đã tha thứ cho ai bao giờ chưa? Bạn cảm thấy thế nào sau khi đã tha thứ?
4- Bạn đã được tha thứ nhiều. Bạn cảm thấy thế nào mỗi khi lầm lỗi mà được tha thứ?
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan.
Khi Chúa dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6, 27). Đó là một tình yêu khó đạt tới nhất. Khó bởi nhiều yếu tố: Tình yêu là muốn người đó sống vui tươi hạnh phúc, tình yêu là một hành vi tự do, không có điều kiện, tình yêu là một hoạt động sáng tạo và tái tạo.
Tình yêu là ước mong người mình yêu được sống.
Bản chất tình yêu được thể hiện rõ nét nhất là ước mong người mình yêu, được sống, được hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, Người nói: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.” (St 1, 26). Thiên Chúa muốn con người hiện hữu trên mặt đất này, Người muốn một cách sâu thẳm nhất trong tình yêu, nên giống hình ảnh Người. Một tình yêu trao hết cho con người những gì Thiên Chúa đã dựng nên trong thiên nhiên để con người làm chủ. Không những thế, Thiên Chúa không chỉ trao ban sự sống trên đời mà còn cho họ được sống đời đời, một cuộc sống bất diệt qua việc sáng tạo và cứu chuộc.
Tình yêu mạnh hơn sự chết, đó là một tình yêu chết cho người mình yêu (Ga 15, 13). Trong tác phẩm “Anh Phải Sống” của tác giả Nhất Linh và Khái Hưng, kể lại những câu truyện tình yêu không hề phai trong tâm trí. Nhất là câu truyện “Anh phải sống” trong chương trình văn học ngày xưa, dù đã hơn bốn mươi năm, đọc lại vẫn thấy tình yêu cao quý biết bao. Trong đó, người vợ hy sinh tính mạng mình, để người chồng được sống mà lo cho các con, cho gia đình nhỏ bé của mình. Tình yêu, mạnh hơn sự chết là một tình yêu, dù có thế nào vẫn dành cho nhau sự sống. Sự sống quý giá biết chừng nào khi nhận ra giá trị của tình yêu, chỉ mong cho người mình yêu được sống và hạnh phúc.
Trong ngôn ngữ hôn nhân, khi nói “anh yêu em”, nghĩa là muốn nói: “anh cần em sống, em cần anh sống, và sống mãi muôn đời”. Đó là tình yêu đích thật, một tình yêu ước muốn sống đời với nhau. Xin Chúa chúc lành và giữ gìn những tình yêu của những gia đình luôn được như thế.
Tình yêu nhiệm mầu của tự do.
Khi đặt vấn đề hôn nhân, con người thường nghĩ đến hợp hay không hợp với tuổi, với nghề nghiệp, với gia phong lễ giáo… Nhưng dù sao vẫn có một sức manh huyền bí vượt qua lý trí, vượt qua tình cảm. Như Xuân Diệu trong bài thơ (Vì Sao): “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu! Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều, Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…”(Vì sao – Xuân Diệu)
Tình yêu vô lý. Chẳng ai có thể hiểu được, cắt nghĩa được tình yêu vượt trên cả mọi lý trí, như đứa con hư nhất trong nhà đôi khi lại là đứa con cha mẹ lo âu, và hằng chăm lo cho nó nhiều nhất, bằng cả con tim và khối óc. Và từ đó cũng thấy lòng Chúa yêu thương, tại sao Chúa đến cứu người tội lỗi, chứ không phải người công chính (Mc 2, 17), “Để lại chín mươi chín con chiên để đi tìm con chiên lạc” (Mt 18, 12 – 14), “người đến sau làm một giờ cũng lãnh một đồng bằng với người làm suốt cả ngày cũng một đồng” (Mt 20, 1 – 16)
Tình yêu làm nên cái mới.
Một tình yêu cuộc sống cần thiết biết bao. Gia đình thêm một người con, một sáng tạo mới trong nghệ thuật, trong y học, trong khoa học… Không có tình yêu trong nghề nghiệp thì không có gì cả. Tình yêu khơi nguồn sức mạnh, như lời nguyện chúc của Chúa từ khai nguyên: “Hãy sinh sôi, nảy nở cho đầy mặt đất” (St 1, 28). Sức manh của tình yêu giúp con người vượt qua trở ngại và sóng gió. Cho con người đứng vững giữa ngàn khổ đau và ngay cả sự chết.
Tình yêu không chỉ quy về mình, một tình yêu hướng tới người khác. Thương cảm, chia sẻ, thông hiểu nhiều hoàn cảnh trong cuộc đời. Một tình yêu như Chúa đã yêu thương tất cả, đón nhận tất cả, hy sinh tất cả và yêu thương đến cùng. Một tình yêu nhân loại cũng được mời gọi như thế, khi Chúa dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Vì tình yêu có một sức mạnh hoán cải lòng người, một tình yêu chữa lành mọi thương tật, tình yêu làm mới lại trong mọi sự.
Bài học yêu thương kẻ thù, Chúa dạy cho chúng con biết, yêu là muốn được cùng nhau được sống và sống hạnh phúc. Một tình yêu chết cho người mình yêu và một tình yêu phát sinh và làm mới lại. Xin cho chúng con một tình yêu đủ lớn, để sống yêu thương, bao dung, nhân ái hơn. Amen!
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Yêu thương Giới Luật Chúa truyền,
Kẻ thù dối trá, Chúa khuyên lời này.
Làm ơn cầu nguyện đêm ngày,
Cho người nguyền rủa, cãi chày dèm pha.
Cho dù vu khống ranh ma,
Mến yêu chúc phúc, thứ tha tội tình.
Có ai vả má cực hình,
Má kia đưa sẵn, tự mình xoay qua.
Áo ngoài họ lột cởi ra,
Áo trong đừng cản, không va chạm người.
Ai xin, ai lấy của đời,
Đừng đòi con nợ, kiếm lời làm chi.
Yêu thương ân nghĩa là gì?
Những phường tội lỗi, thực thi hằng ngày.
Các con hãy nhớ lời này,
Làm ơn, làm phúc, vui thay trong hồn.
Thương yêu thù địch du côn,
Tỏ lòng nhân nhậu, ngữ ngôn dịu hiền.
Xin đừng đoán xét xỏ xiên,
Chúa luôn tha thứ, tội khiên xóa nhòa.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: Các con hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét mình. Một giáo lý hoàn toàn mới lạ vượt trên đức công bình. Người xưa dậy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng và sự trả thù là thường tình. Nếu chúng ta có dịp xem những phim bộ kiếm hiệp của Tầu, chúng ta thấy hầu hết các cốt truyện dài được kết dệt bằng sự trả thù. Trả thù truyền kiếp, từ đời cha sang đời con cái cháu chắt. Chỉ khi nào giết được kẻ thù cha, câu chuyện mới kết thúc.
Đường lối mới của Chúa Giêsu vượt trên hết các giới luật của con người. Chúa đã bẻ gãy tất cả những ràng buộc và sự ngăn cản để dẫn đưa chúng ta đến tình yêu. Chúa dạy: Yêu kẻ thù, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ vu khống mình. Đây là huấn lệnh thật khó đối với mỗi người chúng ta. Yêu thương tha thứ đi ngược lại với những ước muốn trả đũa hay trả thù. Nhiều người quan niệm rằng: Ai không biết báo thù là người hèn mạt. Không phải là hiệp sĩ. Người có chí lớn phải có lòng kiên vững so tài đọ sức với kẻ thù.
Kinh nghiệm cuộc sống, thường thì chúng ta không có những kẻ thù lớn như giết cha giết mẹ, tàn sát hoặc hãm hiếp. Chúng ta có những kẻ thù nho nhỏ như những người mà chúng ta không ưa, có thể là thái độ cộc cằn, thô lỗ, vô duyên, dối trá, lừa đảo, nói hành gây chuyện và họ là những kẻ thù làm chúng ta khó thở. Họ gây cho cuộc đời của chúng ta thêm gánh nặng. Chúa dạy chúng ta hãy yêu mến họ và cầu nguyện cho họ. Thật không dễ tí nào. Chúa nói nếu chúng ta chỉ làm ơn và yêu mến những kẻ yêu mến chúng ta, thì nào có công lênh gì. Kẻ xấu họ cũng làm được như vậy.
Truyện kể rằng trong một lớp giáo lý, thầy Smith, một người khắt khe kỷ luật và hay khó chịu. Vào một ngày đặc biệt tìm vui cho mọi người. Trên tường có một vòng tròn để nhắm đích, gần đó là một cái bàn gồm những mũi tên. Thầy Smith nói học sinh vẽ hình của những ai mà mình ghét nhất và cho phép chúng phóng mũi tên vào hình người đó. Sally vẽ hình người bạn gái đã cướp mất người yêu. John vẽ hình thầy Smith với đầy đủ chi tiết. John có vẻ rất hài lòng và chờ tới phiên mình sẽ phóng tên vào mặt thầy để trả thù. Cả lớp xếp hàng, từng người phóng tên và cười nói vui vẻ. Một vài học sinh dùng hết sức phóng mũi tên vào ngay mắt và miệng để làm rách ra. Tới lượt John thì hết giờ. Thầy nói các em về chỗ ngồi. John càng giận dữ vì lỡ mất cơ hội trả thù thầy. Thầy từ từ gỡ miếng giấy làm đích ra khỏi bức tường. Sau điểm nhắm là khuôn mặt của Chúa Kitô. Thật thảm thương, cả khuôn mặt của Chúa bị các mũi tên đâm thâu. Thầy nói: Khi các con làm điều này cho các anh chị em, là các con làm cho chính Chúa.
Yêu kẻ thù không dễ, tha thứ cho họ còn khó hơn. Lạy Chúa, trên thập giá Chúa đã yêu thương tha thứ cho những kẻ giết Chúa và còn tha thứ tất cả những tội lỗi của chúng con. Xin cho chúng con biết tha thứ và yêu thương người khác.
.
Lm. Nguyễn Hưng Lợi
Một trong những huấn lệnh quan trọng nhất và tuyệt vời nhất của Chúa Giêsu là yêu thương thù địch. Đây là một giới luật xem ra nghịch với sự suy nghĩ và quan niệm của con người muôn thế hệ. Sống yêu thương là gặp Chúa vỉ Chúa là tình yêu. Sống hận thù là chối bỏ Đức Kitô. Môn đệ của Đức Giêsu không thể sống con đường nào khác là thể hiện lòng yêu thương.
SỨ ĐIỆP TIN MỪNG:
Chúa Giêsu đến trần gian không để thiết lập một mớ những nguyên tắc, một hệ thống luân lý hầu bóp nghẹt dân chúng. Chúa đến trước hết là vén mở tình yêu của Thiên Chúa và đưa con người vào mối quan hệ tình yêu với Chúa Giêsu. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa, nên họ cũng phải họa lại lối sống của Chúa. Yêu như Chúa, sống như Chúa, đó là con đường của Chúa đã vạch ra cho con người, cho nhân loại. Qua cuộc sống của Chúa, cách Ngài giao tế, tiếp xúc, cách Ngài đối xử với tha nhân, con người sẽ nhận ra được hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu. Với cái chết của Chúa trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ ra cho nhân loại thấy được tình yêu của Thiên Chúa Cha. Yêu như Chúa Giêsu có nghĩa là từ bỏ, trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người mình yêu: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”(Ga 15, 13). Do đó, yêu như Thiên chúa yêu là yêu tất cả mọi người, không phân biệt, không loại trừ, yêu ngay cả kẻ thù của mình.
NHÂN LOẠI PHẢI SỐNG VÀ YÊU NHƯ CHÚA GIÊSU:
Chúa Giêsu đã nâng sự yêu thương lên một bình diện cao hơn, mới hơn. Theo bài đọc I trích từ sách Samuen cho thấy, Đavít không khử trừ Saun, mặc dầu Saun đang ngủ và đây là cơ hội ngàn vàng để Đavít có thể loại trừ Saun: “Đừng giết vua, vì có ai đưa tay hại người Chúa đã xức dầu mà không bị phạt”. Ở đây, ta vẫn thấy còn có ranh giới của yêu thương và sự tha thứ. Và bài Tin Mừng của Luca trích đọc hôm nay đưa nhân loại có cái nhìn rộng và sâu hơn, một giới luật yêu thương thật mới mẻ, tuyệt hảo” yêu thương và làm ơn cho kẻ thù”. Chính cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu là lời chứng hùng hồn nhất về lòng yêu thương tuyệt đối của Chúa đối với nhân loại, đối với mọi người không phân biệt bất cứ ai, không loại trừ bất cứ người nào. Chóp đỉnh của yêu thương của Chúa Giêsu là chính lúc Ngài giang tay ra trên thập giá mà vẫn thưa với Cha mình: “Lạy Cha! xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Chúa Giêsu muốn dậy chúng ta phải sống như Ngài, phải yêu như Ngài vì Ngài không bao giờ chỉ nói ngoài môi miệng mà không thực hành điều Ngài nói, Ngài đã chấp nhận cho kẻ dữ đóng đinh, nhưng lại cũng chính Ngài tha thứ cho những người làm hại mình, giết mình.
HÃY THA THỨ NHƯ CHÚA ĐÃ THA THỨ:
Chúa Giêsu quả thực đã làm gương cho nhân loại bằng chính con người yêu thương của mình. Ngài đã tha thứ cho những kẻ làm khổ, đánh đập, lên án và đóng đinh Ngài. Chúa đã sống trọn vẹn tình yêu xả kỷ của Ngài đối với nhân loại, đối với con người. Chúa mời gọi con người hãy yêu thương và tha thứ không ngừng như Phêrô đã hỏi Chúa: “Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con, con phải tha thứ mấy lần? Chúa trả lời: “bảy mươi lần bảy “. Bảy mươi lần bảy có nghĩa là tha thứ và tha thứ luôn luôn, tha thứ không ngừng, không giới hạn. Chỉ có lòng tha thứ, con người mới thực sự trở nên nhân chứng sống động của tình yêu Thiên chúa đối với mọi người. Qua hành động tha thứ của Chúa Giêsu, Ngài khẳng định Ngài không bao giờ thỏa hiệp với cái xấu, Ngài loại trừ cái ác, sự dữ ra khỏi thế gian, ra khỏi con người.
GỢI Ý CHIA SẺ:
- Tại sao Chúa Giêsu lại nói: “yêu thương và làm ơn cho kẻ thù”?
- Hành động nào của Chúa Giêsu nói lên tình yêu tuyệt đối của Ngài?
- Tha thứ như Chúa Giêsu là làm sao?
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Đức Giêsu, chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi, hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ.
Chắc chắn Đức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác, hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân.
Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.” Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược.
Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc, vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu. Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới.
Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống. Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo.
“Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần.
Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai? Đó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống. Đó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi.
Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp. Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi, là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi. Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi.
Đức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân: về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện. Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động.
Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay. Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28).
Khi làm điều tốt cho kẻ thù, tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng, và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng khỏi cái tôi ích kỷ của họ.
Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế, tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa. Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi.
Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay một người làm tôi vô cùng đau khổ. Đó chẳng phải là một hành động giả hình, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên. Đó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu, nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng.
Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên. Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên… Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình, mới vào được thế giới siêu nhiên, thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha.
Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện.
Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học, nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng trên lòng ích kỷ của từng người cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ. Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương.
Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm điều tốt cho kẻ thù, bạn có kinh nghiệm về điều này chưa? Bạn có khi nào chinh phục được một người nhờ yêu mến họ không?
Theo ý bạn, tại sao lại không nên xét đoán người khác? Dựa vào hành động bên ngoài, chúng ta có thể xét đoán lòng dạ một con người không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Sự khôn ngoan đích thực được thể hiện không chủ yếu bằng lời nói nhưng bằng cách sống trong đời sống thường ngày của mỗi người.
Yêu kẻ ghét mình
Đavid bị vua Saul thù ghét, săn đuổi để giết, nhưng Đavid vẫn sống theo Luật Chúa, không hại kẻ Thiên Chúa xức dầu phong vương khi có thể làm điều đó. Dưới cái nhìn nhân loại, Đavid đã hành xử dại dột, bỏ mất một cơ may “nghìn năm một thuở” để khử trừ kẻ thù mình, nhưng Đavid đã chọn Thiên Chúa, không chọn lợi ích trước mắt theo con người. Giữ luật Chúa, là yêu người, và yêu kẻ thù ghét mình.
Chúa Yêsu trong tin mừng theo thánh Luca hôm nay đã dạy: “yêu kẻ thù ngươi, làm điều tốt cho kẻ ghét ngươi, chúc lành cho kẻ nguyền rủa ngươi, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi ngươi… Cho kẻ xin ngươi, đừng đòi lại điều người ta lấy của ngươi, làm cho người khác điều ngươi muốn người khác làm cho mình… Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, không kết án thì sẽ không bị kết án. Tha thứ thì sẽ được tha thứ. Cho thì sẽ được tặng lại… Hãy thương xót như Thiên Chúa Cha là Đấng thương xót”. Nếu mỗi người sống theo những điều Chúa dạy trên, người đó sẽ sống bình an hạnh phúc.
Đức Yêsu là người đã sống trọn vẹn điều Ngài đã dạy. Những người thù ghét Ngài, tìm cách làm hại Ngài, hành hạ Ngài, giết Ngài, Ngài vẫn yêu thương. Trên thập giá Ngài vẫn xin Chúa Cha tha thứ cho họ. Ngài chỉ biết yêu mà thôi.
Không dễ để yêu kẻ ghét mình
Làm sao có thể yêu được kẻ thù ghét mình, luôn nói xấu mình, luôn tìm cách làm hại mình? Nội chuyện nhìn thấy mặt người đó, mình đã cảm thấy khó chịu, làm sao nói đến chuyện yêu người đó, thích người đó?
Yêu có nhiều mức độ, chẳng hạn không ao ước những điều chẳng lành cho họ, không muốn làm hại họ, muốn điều tốt lành cho họ. Về cảm tính, có thể mình không dễ dàng để cười hoặc nói chuyện với họ, nhưng nếu mình cố gắng vượt qua chính mình để nói hoặc cười, là mình đang “yêu” họ đó. Tình yêu không chủ yếu hệ tại cảm tính nhưng do lý trí. Chẳng hạn trong nghi thức bí tích hôn phối, vị đại diện Hội Thánh không điều tra “anh chị có yêu nhau không?”, nhưng “anh chị có tự do không?”, và lời thề hứa không là “yêu nhau” nhưng “sẵn sàng nhận X (hoặc Y) làm chồng (hoặc vợ), và hứa sẽ giữ lòng chung thủy lúc gian nan cũng như lúc thịnh vượng, để yêu thương và tôn trọng suốt đời”. Yêu thương và tôn trọng ở đây được hiểu như hành vi của lý trí và ý muốn, chứ không phải của cảm tính. Nói như vậy không muốn phủ nhận khía cạnh cảm tính, thân xác của tình yêu.
Con vật chỉ sống theo khuynh chiều của thể xác hay bản năng; con người sống theo lý trí. Sống theo lý trí, không là lừa dối mình, nhưng là sống theo ơn gọi làm người. Nếu lý trí thấy điều nào đó là đúng, là phải làm thì mới là người tốt, thì người ta phải sống theo điều đó dù mình thấy sợ, hay điều đó làm tổn hại về lợi ích vật chất của mình. Khi người ta có khunh chiều xác thịt, và lý trí thấy không được làm như vậy, vì như vậy là sai trái, thì người ta không được làm. Xin Chúa giúp mỗi người nhận ra lời mời gọi vươn lên làm con Chúa, và xin Chúa cho mỗi người có nghị lực để thực hiện những gì Thiên Chúa gợi lên trong tâm trí mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Yêu kẻ thù ghét mình, được gì và mất gì?
- Tại sao Kitô giáo là đạo “yêu thương”?
- Xin bạn liệt kê những câu Kinh Thánh nói về yêu thương.
.
Lm. Trần Bình Trọng
Theo khuynh hướng đổi chác tự nhiên của loài người, thì ai làm ơn cho mình, mình nên trả ơn cho họ; ai ghét mình, mình phải ghét lại; ai chửi mình, mình phải chửi lại họ. Theo luật công bình cũng vậy. Luật công bình trong Cựu ước đòi: mắt đền mắt; răng đền răng. Điều đó có nghĩa là ai móc mắt mình, mình có quyền móc lại mắt họ, và ai bẻ gẫy răng mình, mình có quyền bẻ lại răng họ, Luật cônh bình trong xã hội hiện tại cũng vậy. Người phạm pháp phải bị kết án tuỳ theo tội nặng nhe họ đã phạm.
Vì thế mà lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay phải yêu kẻ thù có thể trở thành đề tài cho người đời nhạo báng. Làm sao người ta có thể yêu kẻ thù? Ai lại nhu nhược đến nỗi theo lời Chúa dạy khi người khác vả má này, mình lại đưa cả má kia cho họ vả. Ai lại khờ dại đến nỗi khi người khác lấy áo ngoài, lại cho cả áo trong. Ai lại vô tư đến nỗi khi người khác lấy gì của mình, mình không đòi lại. Trong cái xã hội hưởng thụ và tranh sống, cái nguyên tắc yêu vô vị lợi của Chúa xem ra như là một giáo lý không tưởng, xa lạ với cuộc sống thực tế.
Chúa đến dạy ta luật từ bi, nhân hậu và bác ái thay vì luật báo thù báo oán. Nếu chỉ nghĩ đến chuyện tư lợi, trao đổi và đề đáp, thì đó là đổi chác và thương mại. Chúa nhận xét: Nếu anh em yêu những kẻ yêu thương mình,.. làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình,.. cho vay mà hi vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa, ngay cả người tội lỗi cũng làm như vậy (Lc 6:32-34). Và rồi Chúa bảo: Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hi vọng được đền trả (Lc 6:35). Và Chúa bảo thêm: Anh em hãy có lòng nhân từ, … Anh em đừng xét đoán, … Anh em đừng lên án, … Anh em hãy tha thứ, … Anh em hãy cho, … (Lc 6:36-38).
Hôm nay ta cần nhận thức rằng xét đoán là quyền của Chúa, và chỉ có Chúa là Đấng phán xét công minh, vì Chúa thấu suốt tâm hồn của mỗi người. Khi ta đoạt lấy quyền xét đoán của Chúa, thì cái xét đoán của ta rất dễ bị sai lầm. Ngay cả tại tòa án dân sự, mặc dầu có luật sư biện hộ cho can phạm, chánh án và bồi thẩm đoàn cũng sai lầm. Theo hiệp hội tranh đấu cho tự do nhân quyền ở Hoa ky, thì từ năm 1900 tới 1992, có 25 người bị hành quyết oan, vì toà kết án lầm và 318 người bị tù cũng vì toà án lầm lẫn. Trước toà án lương tâm của mỗi người, biết bao lần ta cũng kết án người khác cách vô căn cớ. Tệ hơn nữa ta còn kết án người khác là xấu thay vì chỉ kết cái cái hành động xấu của họ. Hành động xấu của một người có thể chỉ xẩy ra một lần vì yếu đuối hay vì bệnh hoạn. Ta kết án người khác nhiều khi chỉ dựa trên một lời nói, một cử chỉ hay một hành động của họ, thay vì dựa trên toàn diện con người của họ và dựa trên tất cả các công việc làm của họ.
Nguyên tắc từ bi, nhân hậu, bác ái của Chúa dạy ta tránh việc phê bình, xét đoán. Tuy nhiên trong cuộc sống hằng ngày, ta vẫn phê bình, chỉ trích và xét đoán. Vậy có lẽ ta cần tìm ra cái căn nguyên cội rễ của việc tại sao có chuyện phê bình, xét đoán vô cớ. Tìm ra cái căn nguyên cội rễ của việc hay phê bình chỉ trích vá xét đoán vô căn cớ là bước khởi đầu cho việc chữa trị tính xét đoán. Sở dĩ người ta phê bình, chỉ trích, xét đoán có thể là để che đậy những cái chướng, những khuyết điểm và thất bại của mình để đánh lạc hướng người khác về mình. Và đó là một hình thức tự vệ.
Sống đức ái chân thực như lời Chúa phán là cái thước đo cái mối liên hệ của mỗi người với Chúa, thước đo mức độ đời sống thiêng liêng của mỗi người. Ta không thể trở nên môn đệ đích thực của Chúa, nếu giáo lý về đức ái chân thực của Chúa không ăn nhập gì đến cuộc sống hiện tại của mỗi người.
.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Ngày Valentine vừa qua tạo bao nhiêu rạo rực cho những người đang yêu nhau. Tình yêu là một sức mạnh vô hình nối kết những người không quen biết vào một thực tại. Thực tại đó là cộng đồng tình yêu. Tình yêu không hề biết đến giới hạn. Nhưng thực tế, nhiều thách đố vẫn đến với tình yêu. Thách đố lớn nhất chính là kẻ thù bị đặt ra ngoài vòng tình yêu và cũng là dấu chứng tỏ tình yêu cũng biết đến giới hạn. Nhưng dưới mắt Đức Giêsu, tự bản chất, tình yêu không có giới hạn, vì chính Người đã phá tung giới hạn đó.
THÁCH ĐỐ
Cuộc sống tự bản chất là một cuộc giao lưu giữa những người đang sống. Từ đó biết bao thái độ và tình cảm đã đưa đẩy con người tới chỗ hợp tan tan hợp. Hỉ nộ ai cụ ái ố dục là thất tình trong nhịp sống trần hoàn. Có cách nào vượt qua những tình cảm đó mà vẫn còn là con người không? Tình cảm có thể đẩy đưa con người vào hố sâu diệt vong hay nâng cao con người tới đỉnh cao hạnh phúc. Làm cách nào Đức Giêsu giúp con người vượt qua những cái tầm thường và sống anh hùng trong tình yêu?
Khi nói “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6:27), Đức Giêsu đã đụng tới một điểm yếu sâu xa nhất của lòng người. Ai có thể chấp nhận được một khuyên nhủ xa rời thực tế như vậy? Nhưng đó lại là đặc điểm trổi vượt nhất của Tin Mừng Cứu Độ. Không chấp nhận đòi hỏi đó, không thể trở nên môn đệ Đức Kitô. Bình thường ai cũng yêu kẻ thương mình, ghét kẻ thù mình. Không ai muốn nhìn chứ đừng nói yêu kẻ thù mình. Đời có vay có trả. Ân oán giang hồ. Không ai có thể xây dựng với kẻ thù. Bởi thế chỉ có hủy hoại, chết chóc, chém giết, giận hờn. Không thể đội trời chung với kẻ thù.
Đức Giêsu không dạy chúng ta cách nhận dạng kẻ thù. Nhưng muốn chúng ta nhận dạng người anh em ngay giữa những kẻ thù đang tìm cách hại chúng ta. Đó là một nghịch lý! Nhưng Tin Mừng thường được thành hình giữa những nghịch lý như thế. Tai chúng ta không vui chút nào khi nghe: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6:28-29). Nhưng Tin Mừng không phải là một thứ văn chương hoa mỹ nhằm thỏa mãn thị hiếu người nghe. Tin Mừng đặt vấn đề rất hắc búa, có sức thức tỉnh lòng người. Ý chí lớn lao đang ngủ yên trong lòng người. Đức Giêsu muốn lôi con người vùng dậy khỏi giấc ngủ ngàn năm đó. Người muốn con người đối diện với kẻ thù với một thái độ cao cả. Kẻ thù có thể là một vấn đề hóc búa nhất. Nhưng nếu không giải quyết được vấn đề đó, Tin Mừng cũng chẳng có sức mang lại ơn cứu độ.
Tại sao Đức Giêsu lại đưa ra một đòi hỏi quá gắt gao như vậy? Trước hết, “Đức Giêsu không nói về tình cảm đối với kẻ thù, nhưng về một hành động của ý chí. Bạn không thể hiểu được loại tình yêu này – Nó đòi một nỗ lực đầy ý thức. Yêu thương kẻ thù có nghĩa là hành động vì lợi ích tối đa cho họ. Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, và có thể tìm cách giúp đỡ họ” (Life Application Study Bible 1991:1807).
Cần nhận diện rõ khuôn mặt kẻ thù. Chắc chắn kẻ thù cũng là tha nhân, nhưng là một thứ tha nhân đặc biệt. Không thể vì yêu kẻ thù, chúng ta lại tiết lộ hết bí mật và liều mạng trước âm mưu thâm độc của họ. Yêu kẻ thù một cách thiếu khôn ngoan sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đối với kẻ thù, Chúa cũng dạy chúng ta “phải khôn như rắn” (Mt 10:16) trước những âm mưu thâm độc. Nhưng đồng thời cũng không nên đề phòng quá đến nỗi kẻ thù luôn giữ một khoảng cách nguy hiểm đối với ta. Trái lại, phải cho họ thấy tất cả sức mạnh Tin Mừng. Chỉ có Tin Mừng mới lấp đầy khoảng cách giữa kẻ thù và chúng ta. Phải cho họ thấy tất cả những nét hào hùng của Tin Mừng trong thái độ và hành động của môn đệ Chúa Kitô. Chỉ có Tin Mừng mới có thể tạo nổi “những hướng dẫn giúp xây dựng Văn Minh Tình Thương bắt đầu từ việc sám hối cá nhân” (Gioan Phaolô II, Catholic World News Service, 14/2/2001). Quả thực, kẻ thù hiện diện như một dấu chỉ hối thúc chúng ta phải sám hối. Đừng mong đợi kẻ thù thay đổi, nếu chúng ta không thay đổi trước.
Khi vấn đề kẻ thù đã được giải quyết bằng tình yêu thương lớn lao đó, tình yêu trở thành sức mạnh vô song. Lịch sử Giáo hội cho thấy Thày Chí Thánh đã vạch ra con đường dẫn kẻ thù vào sự sống đích thực, bình an và hạnh phúc. Muốn đạt đến mục tiêu lớn lao, Kitô hữu cần phải đi bước trước. Bước đầu tiên Thày chí thánh đã thực hiện khi bước lên thập giá. Thày đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Sở dĩ Thày làm được như thế, vì Thày đã noi gương Chúa Cha “là đấng nhân từ” (Lc 6:36). “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:35). Còn hành vi nào vô ân và độc ác bằng việc giết Chúa không? Nhưng chính ở hành vi tha thứ, Đức Giêsu cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội ác.
NOI GƯƠNG THÀY CHÍ THÁNH
Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho kẻ thù. Chúng ta chỉ là phàm nhân, làm sao có một tấm lòng đại lượng như Thiên Chúa? Đòi hỏi của Đức Giêsu thật gắt gao. Nhưng nếu đòi hỏi một điều gắt gao đó, tất nhiên Đức Giêsu muốn nhìn thẳng vào thực tế. Thực tế đó, chính Đức Phật cũng đã vạch ra: “lấy oán báo oán, oán oán chập chùng”. Ngày xưa chính vua Đavít có một hành vi anh hùng chỉ vì ông nhận ra Saulê là “đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26: 11). “Đó là một nhận thức về trách nhiệm thánh, chứ không phải là một hành vi tha thứ hay xót thương” (Faley 1994:177). Cao hơn một bậc, Đức Giêsu đã tha thứ cho kẻ thù ngay khi đang quằn quại trong vũng máu đào. Chính sự tha thứ ấy cho thấy không còn lý do gì khiến chúng ta phải trả miếng cho kẻ thù. Không ai là kẻ thù đối với những người tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và đều đáng được xót thương. Ngay chính khi tha thứ, chúng ta cũng cần được tha thứ. Thực tế chúng ta cần được tha thứ nhiều hơn mức ta tưởng. Tất cả đều là con cái của Đấng giàu lòng thương xót. Là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta không thể nào không có tấm lòng bao dung trước những lỗi lầm tha nhân. Nói khác, mỗi lần đối xử tệ hại với người khác, nhất là với kẻ thù, vô tình chúng ta đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Vả lại, nếu không biết thương xót, chúng ta cũng sẽ chẳng được Thiên Chúa xót thương. Đó là điều Chúa nói: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:37).
Không những là hình ảnh Thiên Chúa, “chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:49) cứu độ muôn dân. Chính Người là hiện thân của lòng Chúa xót thương. Đó là động lực mạnh nhất giúp ta thắng vượt những xung động hay quyền lợi nhất thời, để hết sức hoạt động phục vụ quyền lợi thiết thực của kẻ thù. Quyền lợi đó chính là ơn cứu độ Chúa đã dầy công tạo lập cho họ. Tất cả sự nghiệp của Người là qui tụ muôn dân. Nếu còn phân biệt bạn với thù, làm sao sự nghiệp của Người có thể hoàn thành trong trần gian? Làm sao chúng ta có thể hoàn thành được những gì còn dở dang trong công cuộc cứu chuộc của Chúa?
Một hoạt động ngoạn mục của Giáo hội đang diễn ra tại Ấn độ. Giữa lúc bị một tổ chức Ấn giáo cực đoan cản trở, Giáo Hội vẫn hiên ngang đến cứu giúp 50,000 gia đình nạn nhân vụ động đất tàn khốc vừa xảy ra ngày 26/01/2001. Tổ chức đó đã từng là thủ phạm giết nhiều linh mục, giáo dân và tấn công nhiều giáo xứ Công giáo tại Ấn độ (VietCatholic, 15/02/2001). Chắc chắn Giáo hội đã vượt qua những ranh giới thường tình để thực hiện đòi hỏi Tin Mừng hôm nay. Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại một tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa ngay trên mặt đất này.
.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
“Hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình”. Đây là lệnh truyền của Đức Giêsu và là nội dung của Luật Thiên Chúa. Khi sống theo tinh thần này của Đức Giêsu, chúng ta đã đi vào cốt lõi của tình yêu, bởi vì nếu yêu thì đâu còn ranh giới giữa bạn và thù!
Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ của mình yêu thương kẻ thù. Lấy cái thiện mà thắng cái ác.
Đức Giêsu không chấp nhận sự dữ, lòng gian ác, cũng như tội lỗi. Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài loại bỏ họ, vì sứ mạng của Ngài đến để cứu người tội lỗi ra khỏi sự gian ác, biến người tội lỗi thành người công chính. Điều này đã được chứng minh qua hình ảnh nhân từ của Đức Giêsu với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, hay như Giakêu, người thu thuế, như Phêrô kẻ chối Chúa, như người trộm lành bị đóng đinh cùng… Đỉnh cao của sự tha thứ chính là lời cầu xin Chúa Cha tha tội cho kẻ giết mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta một định luật căn bản rằng: muốn được yêu thế nào thì hãy yêu người khác như vậy. Ai lại không muốn được kẻ khác yêu thương? Ai lại muốn kẻ khác ghét mình bao giờ?
Nếu yêu được cả kẻ thù thì hẳn sẽ không còn chuyện mắt đền mắt, răng đền răng… Không còn ranh giới giữa bạn và thù, không còn chuyện phe tả phe hữu. Đồng thời, khi có tình yêu với ngay cả kẻ thù, chúng ta sẽ không rơi vào tình trạng mong muốn ơn huệ theo kiểu có qua có lại như: “Ông mất chân giò, bà thò nậm rượu”. Mặt khác, chúng ta sẽ dễ vượt qua chuyện xét đoán, vì ý thức rằng mình cũng đâu hơn gì người khác, thế mà mình đã được Chúa yêu thương bỏ qua, đến lượt mình, hãy tha thứ để được thứ tha, đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm cho chúng con, để chúng con sẵn sàng đi vào và sống tận căn của Lề Luật, đó là yêu kẻ thù và làm ơn cho những người ghét chúng con. Xin cũng cho chúng con hiểu rằng, đây là điều kiện cần để được Thiên Chúa thứ tha. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN_C
Lm Giuse Đinh tất Quý
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất trong toàn bộ Tin Mừng. Xin được nói về vài nội dung:
- Nội dung thứ nhất:Chúa muốn nói với chúng ta về những sắc thái mới mẻ của luật yêu thương.
a- Như anh chị em đã thấy cuộc sống của con người trên trần gian này bị nhiều thứ luật lệ chi phối. Trong số những lề luật đó có một thứ rất quen thuộc và hầu như nó chi phối thường xuyên cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Đó là luật Công bằng. Ngôn ngữ thông thường của chúng ta thường nói là luật có đi có lại – luật vay trả.
– Cựu ước đã diễn tả luật này thành một công thức tương đối cũng rất dễ hiểu. Đó là luật:“Răng thế răng, mắt đền mắt”
– Đây là luật có tính cách sòng phẳng.
Sống như thế theo cách nhìn của trần thế kể như là cũng đã tốt lắm rồi. Thế nhưng đối với Chúa thì chưa đủ. Sống như thế theo như Chúa Giêsu nói: “người tội lỗi, những người thu thuế và cả những người dân ngoại cũng làm được.”
b- Chính vì thế mà hôm nay Chúa đề nghị chúng ta phải vươn lên tới một cuộc sống được chi phối bởi một thứ luật cao hơn. Đó là luật Bác ái. Chúa diễn ta luật ấy bằng những lời lẽ rất cụ thể như thế này:
” Hãy yêu thương kẻ thù.
Hãy làm ơn cho những kẻ ghét anh em
Hãy chúc lành cho những kẻ nguyền rủa anh em.
Hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống cho anh em
– Như thế chúng ta thấy rõ ràng Chúa đã muốn những ai muốn theo Chúa phải vượt lên trên cái lẽ thường tình của cuộc đời làm người . Những đòi hỏi của Chúa không còn nằm trên bình diện “có đi có lại nữa”. Nó đã tiến xa hơn, xa tới mức “có đi mà không có lại:
” Ai xin thì hãy cho
Ai vả má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa
Ai đoạt áo ngoài của anh em thì đừng cản nó lấy cả áo trong”
Thật không còn gì để có thể nghi ngờ. Rõ ràng là Chúa đòi hỏi những người theo Chúa phải sống một cuộc sống được chỉ đạo bằng một luật cao hơn luật Công bằng. Phải vươn lên đến luật bác ái yêu thương, yêu thương dường như không có bờ không có bến.
Và theo Chúa có sống một cuộc sống như thế thì mới xứng đáng là con Đấng Tối cao.
Đó là nội dung thứ nhất.
- Nội dung thứ hai: Chúa chỉ cho những người làm con của Chúa cách thức thực hành để sống cuộc sống như Chúa mong muốn đó..
a- Qua những chỉ dẫn này chúng ta thấy Chúa là một người rất thực tế. Chúa không đòi hỏi những gì quá sức của con người. Chúa cũng không đòi hỏi những gì quá cao siêu, quá khó hiểu. Nguyên tắc Chúa đưa ra ở đây ai nghe cũng có thể hiểu.
Chỉ có một điều hơi lạ là ở trên thì chúng ta thấy Chúa đòi hỏi một mức độ thật cao nhưng khi đưa nguyên tắc áp dụng thì Chúa lại tỏ ra rất thông cảm với con người.
Đây là nguyên tắc của Chúa :“Điều gì anh em muốn người ta làm cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” Chỉ dẫn này rõ ràng là còn nằm trên bình diện công bằng. Thế nhưng thực hành được như Chúa nói cũng không phải là một điều dễ.
b- Tôi tự hỏi: Tôi muốn người ta làm gì cho tôi.
– Điều tôi không bao giờ muốn là người ta xử tệ với tôi, người ta lừa đảo tôi, người ta nói xấu tôi, người ta thù oán tôi, người ta xỉ nhục tôi vv và vv.
– Và điều mà tôi luôn muốn là tôi được sống an bình, tôi được tôn trọng, tôi được kính nể, tôi được yêu thương, tôi được tha thứ…
c- Vâng kính thưa anh chị em tất cả những điều ấy tôi tưởng có lẽ không có gì là khó hiểu. Rất dễ hiểu là đàng khác. Thế nhưng làm được như thế có phải là dễ không?.
Tôi nhớ lại một câu truyện nhỏ trong cuộc đời của thánh Gioan Don Bosco. Một hôm Ngài đang đi trên đường thì bị một nhóm trẻ “bụi đời” làm hàng rào cản lối không cho Ngài đi qua. Ngài thản nhiên dừng lại và bằng một cử chỉ rất lịch thiệp Ngài bỏ mũ xuống và nói:
“Xin các bạn cho phép tôi đi qua”
Nhóm trẻ ngỗ nghịch ấy lập tức im lặng. Chúng ngạc nhiên về cung cách lịch thiệp của Ngài và sau đó chỉ còn biết trả lời:
” Thưa Cha, xin cha cứ việc đi”
Pascal có nói một câu rất hay:“Biết làm khơi dậy sự kính trọng lẫn nhau đó là kết quả lớn lao của lòng yêu mến”
Đó là nội dung thứ hai.
- Nội dung thứ ba: Mẫu mực và phần thưởng cho những ai dám sống đời sống yêu thương như Chúa mời gọi.
a- Mẫu mực. Đó chính là Thiên Chúa. Và phần thưởng sẽ rất lớn lao.
Chính Thiên Chúa là mẫu mực. Thánh Gioan gọi đã gọi tên Người là Tình yêu. Anh chị em thấy mấy dòng chữ mà chúng tôi gắn trên tấm bảng và treo ở dưới cuối nhà thờ: “Thiên Chúa là Tình yêu”. Có lẽ không có tên gọi nào để gọi Thiên Chúa đẹp đến như thế. Thiên Chúa là Tình yêu.
Ở cuối bài Tin Mừng hôm nay, chỉ bằng một câu nói thật vắn gọn Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Thiên Chúa thực hiện lòng yêu thương như thế nào: “Người nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”.
Thật không còn gì có thể hồ nghi về ý muốn của Chúa. Chúa muốn chúng ta nên giống Người.
Dan Clark đã thuật lại một câu truyện rất cảm động như sau: Buổi tối hôm đó trời rất lạnh. Một em bé khoảng 6-7 tuổi đang đứng tần ngần trước một cửa hàng. Đứa bé rất nghèo. Nó không có giầy. Quần áo của nó chỉ là những miếng giẻ rách được khâu lại. Bỗng có một thiếu phụ đi qua. Trông thấy cậu bé, người thiếu phụ dừng lại. Bà dư sức hiểu được cậu bé đang thèm khát những gì qua cặp mắt xanh u uẩn của nó. Bà cầm tay cậu bé, dắt cậu vào trong tiệm. Bà mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm.
Sau đó cả hai lại trở ra phố. Bà nhìn cậu bé một lần nữa và nói:
– Bây giờ cháu có thể về nhà và hưởng một ngày thật vui vẻ nhé.
Cậu bé ngạc nhiên đưa cặp mắt ngước nhìn lên người thiếu phụ và hỏi:
– Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cuời với cậu và trả lời:
– Con ơi! Không phải đâu. Bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi.
Lúc đó cậu bé nói:
– Cháu biết ngay mà bà có họ hàng với Ngài mà.
.
Trầm Thiên Thu
HÃY NHÂN TỪ NHƯ THÁNH PHỤ NHÂN ÁI
ĐỪNG XÉT ĐOÁN ĐỂ CHÚA TRỜI THỨ THA
Đó chính là “cái tâm” của các Kitô hữu – nói chung, và của các tín nhân Công giáo – nói riêng. Lòng nhân từ luôn liên quan sự tha thứ. Cụ thi hào Nguyễn Du đã biện luận: “Thiện căn ở tại lòng ta – Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Tâm không cần Tài, nhưng Tài luôn cần Tâm, nếu không thì Tài sẽ hóa Tai (tai ương, tai họa).
Chữ TÂM có khá nhiều nghĩa – đen và bóng: tâm tạng (trái tim), tâm thất (ngăn dưới trong trái tim), tâm phúc (bụng dạ, lòng, ruột), tâm cảm (lòng, tình cảm), tâm phục (thật lòng kính trọng vâng theo), tâm ý (lòng dạ và đầu óc), đồng tâm nhất trí (cùng một lòng, một ý), viên tâm (điểm giữa vòng tròn, trọng tâm, trung tâm), tâm tưởng, tâm tư, tâm niệm, tâm nguyện, tâm thức, tâm tính, tâm tình, tâm địa, tâm ý, tâm lý, tâm trí, tâm thần, tâm trạng, lương tâm, tâm hồn, tâm linh,…
Chữ Tâm được đề cập ngay ở đầu Kinh Pháp Cú: “Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả”. Chữ Tâm liên quan việc sửa mình (tu thân). Cổ nhân có câu: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị. Thử vị tu thân tại chính kỳ tâm”. Nghĩa là “nếu tâm trí không để vào đó, thì dẫu nhìn mà chẳng thấy, dẫu để tai mà chẳng nghe, dẫu ăn mà chẳng biết mùi vị. Như vậy nên gọi là sửa mình cốt ở chỗ làm cho lòng (cái tâm) mình ngay thẳng.
Trình thuật 1 Sm 26:2, 7-9, 12-13, 22-23 cho biết: Vua Sa-un lên đường và xuống sa mạc Díp, cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Ít-ra-en, để tìm bắt ông Đa-vít trong sa mạc Díp. Đang đêm, ông Đa-vít và ông A-vi-sai đến chỗ quân binh. Vua Sa-un đang nằm ngủ trong trại binh, cây giáo của vua cắm xuống đất, ở phía đầu vua, còn ông Áp-ne và quân binh thì nằm chung quanh.
Ông A-vi-sai nói với ông Đa-vít: “Hôm nay Thiên Chúa đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó xuống đất, một nhát thôi; cháu không cần đâm nhát thứ hai”. Ông Đa-vít nói với ông A-vi-sai: “Đừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu?”. Dù sống thời Cựu Ước, với luật “răng đền răng, mắt đền mắt”, nhưng ông Đa-vít vẫn có một tấm lòng – nhân từ và tha thứ.
Sau đó, ông Đa-vít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu vua Sa-un, rồi cả hai người ra đi. Không ai thấy, không ai hay, không ai thức dậy. Họ đều ngủ cả, vì Đức Chúa đã cho một giấc ngủ mê ập xuống trên họ. Ông Đa-vít đi sang phía bên kia và đứng trên đỉnh núi, ở đàng xa; có một khoảng cách lớn giữa họ. Ông Đa-vít nói: “Cây giáo của đức vua đây. Một trong các đầy tớ hãy sang mà lấy. Xin Đức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành của họ: hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26:22-23). Đó là cái tâm cần thiết mà ông Đa-vít đã có.
Martin Luther King (1929-1968) có triết lý sống tuyệt vời: “Yêu thương là điều duy nhất có thể biến đổi kẻ thù thành bạn hữu”. Điều đó rất phù hợp với giáo huấn mà Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Hãy yêu thương nhau” (Ga 13:34; Ga 15:12 và 17). Đó chính là dấu hiệu chứng tỏ ai thực sự là môn đệ của Ngài (Ga 13:35). Thánh Gioan nói rằng chúng ta không chỉ PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô mà còn PHẢI yêu thương nhau (1 Ga 3:23).
Cái “phải” đó không có nghĩa là ép buộc, mà là nhận thức và tự nguyện. Trong tâm tình yêu mến, Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:1-4). Lời tự nhủ đó là điều tâm niệm và tâm nguyện, đồng thời cũng là cách dẫn chứng để chính mình tâm phục khẩu phục – kể cả tha nhân.
Nhờ vào các nguồn đáng tin cậy khác nhau – từ cổ chí kim, cách riêng là chính kinh nghiệm sống tâm linh của mỗi người, chúng ta biết chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn “từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ hoài, không oán hờn mãi, không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:8-10). Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi nhân từ đến nỗi phàm nhân có lúc cảm thấy phân vân, thế nhưng Ngài thực sự là vậy, không thể khác được, bởi vì đó là bản chất của Ngài và chính Ngài xác nhận: “Ta vốn nhân từ” (Xh 22:26). Và rồi Thánh Gioan cũng đã định nghĩa về Ngài: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Một định nghĩa ngắn gọn nhưng bao hàm tất cả.
Nếu Thiên Chúa chấp tội, chẳng ai có thể nên thánh, chẳng ai có thể vào Thiên Đàng. Thế nhưng thật diễm phúc cho chúng ta, vì mọi thứ tội và tội của thế gian này cũng chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Ngài: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:12-13). Thế đấy, tội gì cũng được tha – dù nhỏ hay to, nhẹ hay nặng, khinh tội hoặc trọng tội, nhưng chỉ có một tội không được tha: tội phạm tới Thần Khí – Chúa Thánh Thần (Mt 12:31; Mc 3:29; Lc 12:10). Hữu tâm thì được tha, vô tâm thì đành chịu (hoặc ráng chịu).
Thánh Phaolô trích dẫn: “Như có lời đã chép: con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống. Loài xuất hiện trước không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ xuất hiện sau đó” (1 Cr 15:45-46). Hai con người với hai dạng “sức sống” hoàn toàn khác nhau. A-đam đầu tiên là nhân loại, A-đam cuối cùng là Đấng Tạo Hóa – Đức Giêsu Kitô.
Thánh Phaolô giải thích rõ ràng hơn: “Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến. Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:47-49). Chúng ta là loài người, mang thân bụi phận cát, nhưng được hình thành một cách lạ lùng, khiến Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (Tv 139:14).
Trình thuật Lc 6:27-38 (≈ Mt 5:38-48; 7:1-2) đề cập hai vấn đề, và cũng là hai mệnh lệnh: tình yêu thương và lòng nhân từ – yêu thương và nhân từ với bất kỳ ai – kể cả kẻ thù. Yêu thương và nhân từ không thể tách rời nhau, có cái này thì cũng có cái kia, không có cái này thì cũng chẳng có cái kia.
Nói yêu thương thì không khó, thực hành yêu thương thì rất khó, nhưng không thể không làm, vì đó là mệnh lệnh của Đức Giêsu Kitô: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại”.
Lòng yêu thương vô cùng quan trọng, là thước đo lòng mến Chúa, và là “món nợ” mà ai cũng phải trả xong cho đến đồng xu cuối cùng. Chính Chúa Giêsu đã nói chi tiết: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5:23-24). Và Thánh Gioan giải thích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Cách so sánh chí lý!
Thật vậy, Chúa Giêsu nói rất cụ thể: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Điều Ngài nói rất đời thường chứ chẳng xa rời thực tế. Tương tự, người đời cũng nhận định: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” – Mình không muốn điều gì cũng đừng làm cho người khác. Rồi Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn NHÂN HẬU với cả PHƯỜNG VÔ ÂN và QUÂN ĐỘC ÁC”. Lúa và cỏ vẫn sống chung một nguồn nước và cùng hấp thụ chất dinh dưỡng như nhau. Nắng mưa chẳng cho riêng ai – dù người đó tốt hay xấu, biết điều hay ngang ngược.
Chúa Giêsu đưa ra một loạt mệnh lệnh – mệnh lệnh xác định và phủ định: “Anh em HÃY có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em ĐỪNG xét đoán thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em ĐỪNG lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em HÃY tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em HÃY cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”. Thiên Chúa rất đại lượng và hào phóng, không ai phải chịu thiệt bao giờ. Ngài nhân lành nhưng chí công, và thời gian cũng có hạn.
Có mọi thứ mà không có đức ái thì cũng hoàn toàn vô ích! (x. 1 Cr 13:1-3). Ca dao Việt Nam so sánh rất cụ thể:
Dẫu xây chín bậc phù đồ (*)
Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người
Đó là cái Tâm mà ai cũng phải có, gọi là “đạo làm người”, loại “đạo” này không phân biệt bât kỳ tôn giáo nào, kể cả những người vô thần, bởi vì là con người thì ai cũng phải có loại “đạo” đó.
Chẳng dễ gì để sống có cái Tâm, bởi vì không chỉ mệt mỏi mà còn khổ lắm, nhưng cái khổ đó rất có giá trị. Có lòng yêu thương thì sẽ có cái Tâm, và làm được điều kỳ diệu, như Thánh Faustina Maria Kowalska cho biết: “Tình yêu cao cả có thể biến đổi những điều nhỏ thành những điều to, và chỉ có tình yêu đó mới làm cho hành động của chúng ta có giá trị”. Thánh Gioan Maria Vianney xác định: “Bạn phải chấp nhận thập giá của mình, nếu bạn can đảm vác nó thì nó sẽ đưa bạn tới Thiên Đàng”.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, luôn nhân hậu và giàu lòng nhân ái, xin biến đổi để chúng con có thể nhân từ với mọi người, sống nhân hậu như Ngài mong muốn, xin giúp chúng con biết hy sinh và chịu đựng nhau vì yêu mến Ngài, để đền tội của mình, để cầu nguyện cho tha nhân và các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
—–
(*) Phù đồ là cái Tháp, Tháp-Bà (tiếng Hoa, chữ âm kép, chứ không có nghĩa là tháp thờ bà chúa), Stupa (tiếng Phạn, nghĩa đen là “búi tóc”), hay Thạt (tiếng Lào, có gốc tiếng Phạn là Dhatu). Theo truyền thống Phật giáo, phù đồ là ngôi mộ chôn giữ một phần xá lợi (di thể của Phật) hoặc là nơi tưởng niệm Phật và môn đệ có di thể. Phù đồ cũng được gọi là Tháp Phật, Bảo Tháp, Đại Bảo Tháp.
.
THỰC THI YÊU THƯƠNG ĐỂ BIẾN THÙ THÀNH BẠN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 6,27-38
(27) Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. (28) Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. (29) Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. (30) Ai xin thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại. (31) Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy. (32) Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu ? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. (33) Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ơn với nghĩa ? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. (34) Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì ơn với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. (35) Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao. Vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ơn và quân độc ác”. (36) Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. (37) Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. (38) Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.
- Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay là bản tóm lược các lời Đức Giê-su dạy về cách cư xử đối với kẻ thù và những kẻ gian ác, để xứng đáng làm con Thiên Chúa và tóm lại như sau:
Hãy chúc lành để đáp lại những kẻ nguyền rủa; Hãy xin Chúa ban điều tốt lành cho những kẻ vu khống mình; Hãy dùng nhu thắng cương và lấy ơn báo óan; Hãy làm trước cho kẻ khác điều mình muốn họ làm cho mình. Hãy tỏ lòng khoan dung nhân từ đối với những kẻ vô ơn bạc ác với mình. Làm ơn và cho vay mượn mà không mong báo đền. Không xét đoán ý trái và đừng vội kết án tha nhân. Hãy quảng đại tha thứ và cho đi. Tất cả những điều tốt ấy sẽ không vô ích, nhưng sẽ được Thiên Chúa báo đền ở đời sau.
- CHÚ THÍCH:
– C 27-28: +Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em: Kẻ thù ở đây cụ thể là những kẻ ganh ghét làm hại ta, những người nguyền rủa, vu khống, đánh đập và tước đoạt tài sản của ta… Yêu kẻ thù không phải chỉ về phạm vi tình cảm suông, nhưng là đáp trả những việc xấu của kẻ gian ác như: Chúc lành cho kẻ nguyền rủa ta, cầu nguyện cho kẻ vu khống ta.
– C 29-31: +Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy: Đây là một nguyên tắc căn bản trong cách đối nhân xử thế. Tô-bi-a cha cũng khuyên Tô-bi-a con tương tự: “Điều con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15). Còn Đức Khổng Tử thì dạy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều mình không muốn, thì đừng làm cho người). Lời Đức Giê-su nói đây nhấn mạnh tính tích cực: Các môn đệ cần noi gương Thiên Chúa trên trời, Đấng“luôn tỏ lòng nhân hậu đối với mọi người, ngay cả phường vô ơn và kẻ độc ác”, Người sẵn sàng ban ơn lành cho những kẻ thù ghét mình.
– C 35: +Con Đấng Tối Cao: Ai đối xử khoan dung với kẻ thù như thế sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao”, một danh hiệu được ban cho vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (x. 2 Sm 7,14). Đức Giê-su cũng được gọi bằng danh hiệu này khi sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a (x. Lc 1,32). Ngòai ra, những ai “ăn ở thuận hòa” cũng được gọi là “con Thiên Chúa” (x. Mt 5,9).
– C 36-37: +Anh em đừng xét đoán… Đừng lên án… Hãy tha thứ…: Xét đoán là một hành vi nhân linh, mà mọi người cần thực hiện trong cuộc sống. Sự xét đóan khôn ngoan sẽ giúp người ta phân biệt được người tốt kẻ xấu, điều nào đúng hay sai, quan trọng nhiều hay ít, việc gì cần làm trước hay làm sau… Nếu biết xét đoán đúng và áp dụng phương pháp hữu hiệu thì mọi việc sẽ thành công. Ở đây, Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Đừng xét đoán”, nghĩa là đừng đoán xét ý trái cách bất công cho người khác, vì việc kết án chỉ dành riêng cho Thiên Chúa, “Đấng thấu suốt mọi bí ẩn” vào ngày tận thế. Còn hiện tại, Thiên Chúa không phán xét ai, không kết tội ai và luôn khoan dung tha thứ cho những kẻ tội lỗi có lòng sám hối ăn năn… Sau này chúng ta có được xét xử khoan dung hay không, là tùy thái độ của ta đối với tha nhân thế nào, như lời Chúa phán: “Anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy”. Tùy theo chúng ta có sẵn sàng tha thứ lỗi lầm cho tha nhân hay không, như lời Đức Giê-su đã dạy trong kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4).
- HỎI ĐÁP:
– HỎI: Khi dạy “Giơ má bên kia cho kẻ vả mặt mình, không cản nó lấy luôn cả áo trong.”.. Phải chăng Đức Giê-su muốn các môn đệ cứ để mặc cho kẻ gian ác lộng hành, để chúng tiếp tục làm hại nhiều người hiền lương yếu đuối?
ĐÁP: Thực ra đây chỉ là một kiểu nói nghịch lý, được cường điệu hóa theo cách nói của người Do thái, tương tự như lời Chúa đòi người ta phải tự móc mắt, chặt tay chân, nếu các bộ phận ấy nên dịp tội cho mình (x. Mt 5,29-30). Người ta không được hiểu những lời này hoàn toàn theo nghĩa đen. Bằng chứng là khi bị điệu ra xét xử, Đức Giê-su đã không đưa má kia cho tên thuộc hạ của thượng tế Khan-na khi hắn vả mặt Người, trái lại Người còn hạch lại nó rằng: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Tuy vậy, Đức Giê-su luôn đòi môn đệ phải biết nhẫn nhịn chịu đựng kẻ gian ác. Có lần Người đã quở trách hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an khi họ xin Thầy dùng sấm sét tiêu diệt dân làng Sa-ma-ri vì họ đã từ chối đón tiếp thầy trò vào ở trọ trong làng của họ (x Lc 9,55). Ngôn sứ I-sai-a cũng tuyên sấm về thái độ của người Tôi Trung của Đức Chúa, ứng nghiệm nơi Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn như sau: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Ở đây Đức Giê-su chỉ muốn dạy các môn đệ một phương thức đấu tranh bất bạo động: Hãy dùng tình thương để cảm hóa kẻ ác, lấy nhu thắng cương, lấy sự hiền lành chinh phục những kẻ cường bạo, theo nguyên tắc “thêm bạn bớt thù và biến thù thành bạn”, giúp cho những kẻ gian ác có cơ hội hòan lương.
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (Lc 6,38a).
- CÂU CHUYỆN:
1) ĐỊNH LUẬT QUẢ BÁO TRONG GIAO TIẾP XÃ HỘI:
Cách đây ít lâu có một phụ nữ viết một bài đăng trên một tạp chí tôn giáo, kể lại kinh nghiệm về định luật quả báo trong quan hệ giao tiếp với tha nhân như sau:
“Tôi là một phụ nữ tuổi trung niên và tính tình khép kín. Tôi không thích giao tiếp với bất cứ ai vì sợ bị họ quấy rầy. Chính vì thế mà tôi đã sống cô đơn nhiều năm trong một căn hộ chật hẹp với số tiền trợ cấp xã hội ba tháng một lần. Thái độ khép kín đó đã làm cho tôi bị suy nhược thần kinh. Một ngày nọ tôi bị đau nặng phải đi điều trị tại một bệnh viện miễn phí. Nằm viện đã lâu mà bệnh tình cũng không thuyên giảm. Trong thời gian này tôi cảm thấy cô đơn vì không có ai đến thăm. Chỉ có cô em gái của tôi ở nước ngoài là còn nhớ đến tôi và mỗi dịp lễ Giáng Sinh cuối năm đều gửi cho tôi một thùng quà kèm theo một thiệp chúc mừng No-en. Rồi một ngày nọ, cô em gái duy nhất kia lại bị chết đột ngột do tai nạn giao thông. Tin này khiến cho tôi càng thêm tuyệt vọng. Một hôm, tình cờ tôi đọc được một thông báo trong tập san của bệnh viện nơi tôi đang điều trị, nội dung như sau: “Tổ chức thiện nguyện chúng tôi đang cần có thêm người tình nguyện phục vụ các bệnh nhân tê liệt tại tầng lầu ba của bệnh viện”. Thế là tôi quyết định đăng ký làm thử công việc thiện nguyện này để tránh sự nhàm chán trong thời gian nhàn rỗi. Chỉ có Chúa mới biết tại sao tôi lại tình nguyện làm một việc vất vả không lương này. Nhưng theo tôi hiểu thì chắc là Người muốn dùng việc ấy để chữa lành bệnh cho tôi.
Ngày nọ, tôi được bà trưởng hội phân công đến giúp cho một bà cụ bị tê liệt mà đã từ lâu không một thân nhân nào còn đến thăm hỏi giúp đỡ. Bà cụ thường tủi thân và luôn than vãn trách móc con cháu đã đối xử tệ bạc với bà. Nhận thấy cụ cần được động viên an ủi, nên tôi hay đến ngồi bên cạnh, vừa bóp tay chân cho cụ vừa lắng nghe cụ tâm sự. Mỗi lần như vậy, cụ lại có dịp kể cho tôi nghe những nỗi đau khổ mà chồng con đã đối xử tệ bạc với cụ. Một hôm tôi ghé tai khẽ nói với cụ rằng: Tôi có một bà mẹ có nét mặt phúc hậu rất giống cụ. Tôi cảm thấy yêu cụ như yêu mẹ ruột của tôi. Nghe vậy, nét mặt cụ đột nhiên biến đổi: Cụ im lặng nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi: “Có thật vậy không hả cô?”. Tôi trả lời: “Đúng thật như vậy đó! Con rất yêu cụ như yêu mẹ ruột của con!”. Và ngay lúc ấy, tôi cảm thấy trong người tôi một mối xúc cảm lạ lùng, nó làm biến đổi con tim vốn chai lỳ của tôi. Trước đây tôi không có thiện cảm với ai, nhưng giờ đây tôi lại thấy mọi người đều dễ thương và tôi sẵn sàng tiếp xúc với những người đau khổ để đem niềm vui và tình thương đến cho họ. Cũng từ ngày đó tôi không còn cảm thấy căng thẳng thần kinh nữa và tôi quyết định không uống thuốc chữa bệnh thần kinh mỗi ngày như trước nữa. Tôi ăn ngủ bình thường và lên cân. Căn bệnh suy nhược thần kinh của tôi tự nhiên biến mất hẳn. Trong lần tái khám định kỳ, bác sĩ chữa trị cho tôi rất ngạc nhiên khi thấy tôi bình phục rất nhanh mà không cần uống thuốc mỗi ngày như trước”.
Câu chuyện nói trên cho thấy: Chính khi chúng ta thể hiện tình thương đối với tha nhân là lúc chúng ta cũng nhận được ơn chữa lành căn bệnh tinh thần của mình.
2) PHƯƠNG CÁCH TIÊU DIỆT KẺ THÙ HỮU HIỆU NHẤT :
Trong cuộc nội chiến tại nước Hoa Kỳ, sự hận thù giữa hai miền Nam Bắc ngày một thêm sâu đậm. Lần kia, tổng thống ÁP-RA-HAM LANH-CÔN (Abraham Lĩnoln) đã bị nhiều người Bắc Mỹ chỉ trích khi ông chủ trương cần đối xử khoan dung đối với những đám dân nổi loạn ở miền Nam. Những người này nhắc cho Lincoln nhớ rằng cuộc chiến tranh giữa hai miền vẫn đang tiếp diễn. Theo họ, quân đội miền Nam là kẻ thù, và tất cả bọn họ đều cần phải bị tiêu diệt. Bấy giờ tổng thống LANH-CÔN đáp: “Cách tiêu diệt kẻ thù hữu hiệu nhất chính là biến kẻ thù trở thành bạn hữu của chúng ta bằng lòng khoan dung tha thứ”.
Lời nói của Lanh-côn rất phù hợp với lời Đức Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em… Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao. Vì Người nhân hậu với cả phường vô ơn và quân độc ác” (Mt 5,27-28.35).
- THẢO LUẬN: Ta nên làm gì đối với những người đang thù ghét và nói xấu ta ?
- SUY NIỆM:
1) ÁC GIẢ ÁC BÁO:
Người xưa có câu: “Ác giả ác báo”, “Gieo gió gặt bão”: Ai làm ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm óan thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới hóa giải hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giê-su để tha thứ cho tha nhân điều họ đã xúc phạm đến ta thì phản ứng dây chuyền của sự ác là sự hận thù sẽ tăng thêm, rồi bạo lực sẽ kéo theo bạo lực và tất cả chúng ta đều rơi vào hố diệt vong.
2) HẬU QUẢ TAI HẠI CỦA LÒNG THÙ HẬN:
Một nhà tâm lý đã nói rằng: “Nếu anh nuôi lòng thù hận và muốn giết chết kẻ thù đã làm hại anh, thì anh hãy sắm sẵn hai chiếc quan tài: Một chiếc dành cho kẻ thù sắp bị anh giết, còn chiếc kia sẽ dành cho chính anh. Vì anh cũng sẽ bị chết dần chết mòn do sợ hãi bị trả thù hay sợ sự trừng phạt của công lý”. Thực vậy, hận thù gây tác hại. Nó làm tổn thương về tinh thần cho người đang nuôi oán thù trong lòng. Nó còn huỷ diệt nhân cách của họ như Ba-con đã nói: “Khi trả thù, người ta biến mình thành ngang hàng với kẻ thù. Còn khi tha thứ thì người ta sẽ vượt cao hơn kẻ thù của mình”.
3) PHƯƠNG CÁCH HÓA GIẢI HẬN THÙ:
Các chuyên gia tâm lý ngày nay đều công nhận rằng: “Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương mới làm phát triển nhân cách con người”. Tình yêu có phép mầu để biến thù thành bạn. Áp-ram Lanh-côn (Abaham Lincon) nói: “Biến thù thành bạn, tức là ta đã tiêu diệt kẻ thù rồi vậy!”. Chính Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay đã dạy chúng ta: “Anh em hãy yêu kẻ thù… Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha. Hãy cho đi thì sẽ được cho lại!”(Lc 6,35).
4) CHÚNG TA NÊN LÀM GÌ ?:
– Tìm ra nguyên nhân khiến ta bị thù ghét để khắc phục:
Hầu hết sự ganh ghét của người khác đối với ta là do nỗi sợ hãi không còn được tôn trọng và yêu thương. Việc xác định nguyên nhân ta bị ganh ghét là bước đầu cần làm để hóa giải sự thù ghét của kẻ khác. Sự ganh ghét có thể do chúng ta có ngoại hình đep hơn; được nhiều người quý mến hơn; được cấp trên tín nhiệm và trao trách nhiệm cao hơn; được hưởng phúc lộc dồi dào hơn… Sau đó, chúng ta sẽ khắc phục nguyên nhân và tìm cách hóa giải thù ghét như sau:
– Kín đáo khen ngợi những ưu điểm của đối phương:
Lời khen thành thật ưu điểm của đối phương cách tế nhị là một phương thế hữu hiệu để hóa giải hận thù và biến thù thành bạn như Tuân Tử đã nói: “Ai khen ta mà khen phải là bạn ta. Ai chê ta mà chê phải là thầy ta. Ai nịnh hót ta đó chính là kẻ thù của ta vậy.”
– Đi bước trước để làm hòa với kẻ thù ghét mình:
Sự xuất hiện của những người ganh ghét trong cuộc sống là điều không thể tránh khỏi. Ngay cả Đức Giê-su vốn là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34), nhưng vẫn bị các đầu mục dân Do thái thù ghét và chỉ trích: “Ông ta là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7,34). Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cách hóa giải những thù ghét của kẻ khác bằng cách đi bước trước đến với họ và “biến thù thành bạn”.
– Biến thù thành bạn bằng việc thực thi Lời Chúa cụ thể như sau:
+ Cầu xin Chúa ban ơn lành cho những kẻ nói xấu và vu khống cho ta;
+ Lấy ơn báo óan: Làm điều tốt cho những kẻ thù ghét làm hại ta;
+ Làm ơn và cho vay mà không mong báo đền;
+ Tránh xét đoán ý trái và không kết án tha nhân cách hồ đồ bất công;
+ Sẵn sàng tha thứ không chỉ bảy lần nhưng tha bảy mươi lần bảy;
+ Quảng đại cho đi bằng lời khen thành thật để động viên tinh thần và chia sẻ vật chất…
Đây là những việc sẽ khó thực hiện nếu không quyết tâm cao và không được ơn Chúa ban ơn trợ giúp. Khi bị người khác thù ghét nói xấu và làm hại, chúng ta cần bình tĩnh tìm cách hóa giải hận thù để ngày một nên môn đệ đích thực của Chúa Giê-su.
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trước tha nhân, nhưng biết quảng đại mở ra, biết vươn tâm hồn lên cao, vượt qua mọi ích kỷ tầm thường của loài người, để mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Xin cho con đủ sức vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen cùng mọi trả thù ti tiện. Xin cho con luôn giữ được tâm hồn bình thản, không để cho bất cứ yếu tố bên ngoài nào làm xáo trộn, khuấy động tâm can con.
– LẠY CHÚA. Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu được những người tự nhiên con có ác cảm. Xin cho vòng tay con rộng mở để ôm cả những kẻ đang ganh ghét, vu khống và làm hại con. Nhờ đó con hy vọng sẽ được Chúa tha thứ tội lỗi và xứng đáng làm con thảo của Chúa Cha trên trời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
.
Lm. Jos. DĐH.
Bậc làm cha mẹ có đủ ý chí, mơ ước, tự do, và bận tâm hơn cả là xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi dạy các thế hệ nối tiếp, khi họ hết mình xả thân vì lý tưởng: cha là núi mẹ là sông, các con hiếu thuận dòng tộc an vui. Bậc làm thầy dạy, sẽ không vì bổng lộc, họ sống bởi chữ tín thành: kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, thiếu nữ làm dáng vì người yêu mình. Khôn chết, dại chết, biết mới sống, đó là triết lý của người quân tử, tuy nhiên, chẳng ai muốn dán mác đeo bảng tên “tôi” là kẻ tiểu nhân. Từ khi sinh ra làm người cho tới khi được gọi là người trưởng thành, ai ai cũng có cơ hội, có thời gian để sống tình, sống nghĩa, trước là với cha mẹ ông bà, sau là với bậc thầy dạy, quê hương, đất nước. Có thời để yêu, có thời để nhớ, cũng bao gồm cả đời tri ân, cả kiếp người được tự do chọn lựa sống cho tương lai thế nào là hậu sinh khả uý ?
Vì muốn hiểu, muốn biết, vì sống ở đời phải có danh thơm tiếng tốt, do đó, từ cổ chí kim, xưa hay nay, mọi người luôn cần thầy khôn ngoan đức độ, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thực cho hạnh phúc gần và hạnh phúc xa. Cùng với thao thức chung của tiền nhân, Đức Giêsu đưa ra một hành động yêu thương giữa bạn bè, anh chị em làng xóm, người ghét, kẻ thương, tất cả đều được gọi là gia đình nhân loại. Tình yêu thương không phải là điều mới mẻ đối với người Do-thái, với nhân loại, có mới là mới về cách “thực hành”: “hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”. Đức Giêsu đã minh chứng tính chất mới rất âm thầm song mạnh mẽ: sống để yêu. 30 năm tại Nagiarét, Đức Giêsu học tập, suy gẫm, thực hành sứ vụ yêu thương ở hiện tại và sẽ tiếp nối hành trình yêu thương ở phía trước.
Sống để yêu, đó là “quy luật”, Chúa Giêsu sẽ còn nói với loài người qua muôn thế hệ: yêu cha yêu mẹ, yêu người yêu mình, yêu kẻ xa lạ, yêu người không đồng quan điểm với mình, yêu kẻ thù, và Ngài đã yêu đến cùng, yêu cho đến hơi thở cuối cùng trên thập giá. Tại trần thế 33 năm, Chúa Giêsu đã minh chứng cho các học trò, cho các tội nhân, Ngài đến thế gian vì yêu, Ngài sống để yêu, Ngài chết đi cho tội lỗi loài người cũng vì lý do để nói lên tình yêu luôn sống động. Bài học về tình yêu thương, sẽ không bao giờ cũ xưa, không “kỳ cục” bất thường, khi mà người ta “vả má này thì giơ má kia ra”, vì chưng, những ai có Đức Kitô trong tâm trí đều dám thực hiện điều luật “sống để yêu”.
Sống để yêu là lời gọi trở nên học trò Đức Giêsu, tuần tự qua giai đoạn: biết mình được yêu, biết mình phải làm để tình yêu sinh hoa trái, biết mình mỗi ngày phải sống thế nào cho xứng hợp với tình yêu Đức Kitô. Người xưa có câu: quân tử hiểu về nghĩa, tiểu nhân hiểu về lợi. Giáo huấn của Đức Giêsu không dừng lại ở tình nghĩa, không chỉ nói tới nghĩa vụ giữa kẻ trên người dưới, đúng hơn, những ai là thần dân của Đức Giêsu đều phải sống đức yêu thương. “Nếu anh em chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình, thì còn gì là ân với nghĩa”. Người ta có học mà không hành thì chưa phải là học, người ta có nghĩ tới ơn cha nghĩa mẹ mà chưa có lần báo đáp, hẳn đó cũng chỉ là cảm xúc hời hời qua mau. Sống để yêu và yêu để sống, không bao giờ dễ, nếu mỗi người chưa tự nguyện làm môn đệ Đức Giêsu, chưa khiêm tốn để Ngài biến đổi và kiên trì bước theo Ngài bằng sức mạnh của ý chí con tim.
Đức Giêsu lấy tình yêu của Chúa Cha làm chuẩn mực cho tiến trình nên một tình yêu: “anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành”. Thiên Chúa là cội nguồn yêu thương, ở trong Chúa, người môn để mới thấy sự phong phú giữa mọi phần tử: “anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà không hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”. Chính Chúa Giêsu đã sống mẫu gương yêu thương tha thứ đối với các học trò bỏ thầy chối thầy, ở trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu xin với Chúa Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Có một quy luật bất thành văn: tình yêu thương cho đi hoài đi mãi, nhưng không thấy cạn, không thấy vơi ; tiền của mang cho mang biếu một vài lần đã thấy hết, vì tiếc, vì sợ… Làm sao chúng ta đón nhận được lời khuyên của tiền nhân: người tốt sẽ cho bạn hạnh phúc, kẻ xấu sẽ cho bạn kinh nghiệm, khi chúng ta chưa được trang bị công bằng tình yêu thương trong các tương quan của mình ? Làm sao chúng ta có thể hiểu, có thể biết ở trần gian là cơ hội tốt để yêu thương, khi chúng ta chưa có tình yêu của Chúa Giêsu trong tâm hồn của mình ? Trong các tương quan xã hội, Chúa Giêsu nhắc nhớ ta hãy cư xử bằng tình yêu thương tha thứ, đó cũng là căn bản mỗi người sẽ cảm nhận được vì sao ta được phép gọi Thiên Chúa là Cha. Cuộc sống này sẽ có ý nghĩa biết bao, khi chúng ta biết dành thời gian cầu nguyện, suy xét về tội lỗi của mình, đó cũng là lời thôi thúc chúng ta sống ở đời này để yêu thương hầu tiếp tục được yêu thương. Amen.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Những năm gần đây, trên các phương tiện truyền thông hay xuất hiện cụm từ “những thế lực thù địch” đang chống phá nhà nước Việt Nam.Vậy, những thế lực thù địch này từ đâu ra, sao càng ngày càng nhiều và gây lo sợ cho chính phủ đến thế?! Nhưng có một điều lạ là không ai giải thích rõ “thế lực này là ai?”, và chỉ thấy những dân oan luôn bị gán ép là bị thế lực thù địch lôi kéo , đôi khi họ cũng gán ép cho các tôn giáo bị thế lực này lôi kéo . .
Thực ra, nếu mình sống tốt thì sẽ không bao giờ có thù địch. Nhất là nguời Việt Nam luôn coi nhau là anh em vì “tứ hải giai huynh đệ”. Con người sống biết nhường, biết nhịn, biết phải, biết trái thì sẽ không có tranh chấp thù địch nhau. Gọi nhau là thù địch nghĩa là sợ tranh dành miếng ăn, chỉ biết chiếm phần mình nên ai xen vào quyền lợi của mình tức là thù địch chăng? Nếu sống bên nhau mà vẫn xem nhau là thù địch thì làm sao đất nước phát triển? Nếu vẫn xem nhau là thù địch thì vẫn còn kỳ thị và loại trừ lẫn nhau?
Người Công Giáo không có kẻ thù. Người Công giáo nhìn đâu cũng thấy mọi người là anh em con một Cha trên trời. Nếu ai nói mình là người Công giáo mà còn thù ghét anh em mình tức là không còn là môn đệ của Thầy Giê-su, vì Thầy Giê-su đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”. Điều này chính Chúa Giê-su đã làm gương.Ngài đã dùng tình yêu để có thể xoá bỏ hận thù.Ngài yêu thương con người nên nhẫn nại chờ đợi con người quay trở về để Ngài giang cánh tay ôm ấp thứ tha. Ngài luôn kiên nhẫn trong những lầm lỗi con người. Sự kiên nhẫn của Ngài không phải là ngồi đó mà là dấn thân để giúp họ cải tà quy chính. Ngài đã sống tột đỉnh của tình yêu tha thứ khi Ngài tha thứ cho người giết hại mình. Ngài đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “lạy cha, xin tha cho họ,vì họ làm mà không biết việc họ làm”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình. Vượt lên trên tình yêu tha thứ đó là lòng nhân từ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa không xét đoán tội chúng ta như chúng ta đáng tội. Ngài đã yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Cuộc sống con người luôn có những sai lầm. Sai lầm do vô tri. Sai lầm do nhẹ dạ. Sai lầm do cố ý. Những sai lầm của tha nhân khiến chúng ta bực mình. Đôi khi chúng ta muốn thanh trừng cho hả dạ. Nhưng lời Chúa luôn nhắc chúng ta hãy tha thứ để được tha thứ. Hãytha thứ để có bình an trong cuộc sống. Không tha thứ là ta đang ôm ung nhọt trong người khiến mình đau nhức cả đời. Chỉ có tha thứ mới hạnh phúc và bình an.
Nhưng đáng tiếc, nhân loại hôm nay luôn chìm đắm trong biển máu của hận thù, chia rẽ, tranh chấp và chiếm đoạt.Bản thân chúng ta đôi khi cũng khó lòng tha thứ cho những người có lỗi với chúng ta. Người trong nhà đôi khi còn nhìn nhau như kẻ thù làm sao sống yêu tha nhân được. Vợ chồng còn không tha thứ cho nhau làm sao sống thuỷ chung với nhau. Người trong một nước mà còn nhìn đâu cũng thấy thù địch làm sao chung sống hoà bình.
Hôm nay,Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau để mang lại cho thế giới sự hiệp nhất và bình an. Chúa muốn chúng ta hãy dùng những nghĩa cử tha thứ, bao dung để cho Nước tình thương của Chúa trị đến.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết nhìn nhận sự yếu đuối của mình mà sống khiêm tốn trước lời sửa dạy của anh em. Đồng thời, biết cảm thông tha thứ những lỗi lầm của tha nhân .Amen
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng, đào luyện các môn đệ và dạy dỗ dân chúng. Lời Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ, những người đang nghe Chúa nói, cũng là lời dành cho mỗi chúng ta đang nghe chính Lời Chúa qua thừa tác viên của Giáo hội giờ này : “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây” (Lc 6, 27). Chúa bảo chúng ta điều gì ? Thưa, Chúa bảo : “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình” (Lc 6, 27-28). Yêu kẻ thù ư, làm điều tốt cho kẻ không thích ta ư, chúc phúc cho ai nói xấu ta, và cầu nguyện cho ai đối xử tệ với ta ư ? Thật không dễ dàng chút nào hết. Nhưng đây là bốn chi tiết để sống đời Kitô hữu của chúng ta.
Ghét kẻ thù là lẽ thường tình, làm ơn hay chúc phúc cho kẻ thù và những người thuộc phe đối lập là chuyện ngược đời, nhưng Chúa Giêsu khuyên chúng phải lội ngược dòng và hành xử với tư cách là con cái Chúa, giống Cha trên Trời. Ý thức mình là con phải nên giống Cha, và học sống sao cho có lòng nhân từ như Chúa Cha : “Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36). Đây không phải là một câu khẩu hiệu, mà là một sự dấn thân của đời sống người Kitô hữu. Chúa là Chân, Thiện, Mỹ, là Đấng toàn năng, toàn thiện. Sự hoàn hảo của Thiên Chúa khích lệ chúng ta trở nên giống như Ngài, đầy tràn tình yêu và lòng trắc ẩn. Trở nên giống Thiên Chúa là trở nên hoàn hảo, nghĩa là hãy ở nhận từ và biết xót thương anh em.
Có người hỏi: Liệu những lời của Chúa Giêsu có thực tế không? Chúng ta là những con người sống trong thế gian làm sao có con tim đầy ắp yêu thương để yêu thương người khác như Thiên Chúa yêu và sống nhân từ như Chúa sống?
Nhìn vào lịch sử cứu độ, chúng ta khám phá ra rằng toàn bộ mạc khải của Thiên Chúa là một lịch sử tình yêu đối với con người. Thiên Chúa giống như một người cha hay người mẹ yêu thương hết mọi loài, đặc biệt con người bằng một tình yêu cao với khôn ví. Thiên Chúa không nói xuông, mà Ngài đã làm trước, bằng chứng là “không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta” (1Ga 4,10). Thánh Gioan còn viện lý : “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11). Đavit đã không dám tra tay đụng đến Saolê, người đã được Chúa xức dầu, ông việc cớ : “Chớ giết ngài, vì có ai đưa tay phạm đến Đấng Chúa xức dầu mà vô tội đâu?” (1 Sm 26, 22-23). Cái chết của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa trên thập giá là đỉnh cao của lịch sử của tình yêu ấy. Thiên Chúa là Tình Yêu, còn chúng ta là kẻ có tình yêu, nên chúng ta có lúc yêu lúc ghét, nghĩa tình yêu của chúng ta sẽ luôn có khiếm khuyết. Khi Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ở nhân từ như Chúa Cha, Chúa muốn chúng ta hãy trở thành dấu chỉ, và chứng nhân của lòng từ tâm Chúa giữa thế gian.
Thế còn Giáo hội, vì được cấu thành bởi những con người bất toàn như chúng ta, Giáo hội cũng khó có thể, nhưng Giáo hội trở thành bí tích của lòng nhân từ Chúa trong thế giới, chúng ta được mời gọi để trở thành chứng nhân của lòng Chúa từ tâm. Lòng từ tâm ấy được thể hiện bằng hai động từ: “Tha thứ” và “Cho đi” như Chúa bảo : “Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ” ( Lc 6, 37).
“Đứng xét đoán” (Lc 6,37) ở đây không phải là không phê phán ai cho dù người ấy gây gương mù gương xấu. Nếu hiểu chữ xét đoán như thế thì tại sao Chúa Giêsu lại lên án những kẻ gây gương mù.
Chữ “xét đoán” ở đây được hiểu là chỉ trích, phê bình, lên án người khác cách vô trách nhiệm. Chúng ta thường hay xét đoán không tốt cho người khác là điều mà Chúa cấm. Chúa Giêsu cũng đã từng so sánh thái độ của người con Chúa với thái độ của các luật sĩ, biệt phái… họ thường ra vẻ đạo đức, hay lên án người khác và cho rằng chỉ có mình mới tốt, còn tất cả mọi người anh em khác là không tốt bằng.
Tại sao Chúa dạy người con Chúa không được xét đoán và lên án ? Thưa là vì con người nhân vô thập toàn không có quyền lên án, chũng không thể xét đoán đúng và công bằng được. chỉ có Chúa là Đấng công mình, cầm quyền sinh tử mới có quyền lên án, kết án con người. Ngài là Đấng nhân từ đã không lên án, vậy cớ sao ta lại lên án nhau. Tuy nhiên, Chúa cho phép con người nhận định về nhau, phê bình nhau với tình yêu thương xây dựng, và giúp nhau thăng tiến.
Còn câu Chúa nói : “Đừng lên án các người sẽ không bị lên án” (Lc 6, 37). Câu này không có nghĩa là nếu chúng ta không bao giờ lên án ai thì Chúa không lên án chúng ta dù chúng ta tội lỗi. Thưa không phải thế. Cầu này chỉ muốn nói với chúng ta rằng, nếu chúng ta không muốn người khác khắt khe với mình thì trước hết chúng ta đừn đối xứ với họ như vậy, đó là cách xử từ tâm.
“Hãy tha thứ” Chúa bảo chúng ta phải tha thứ. Đơn giản vì chúng ta đã được Thiên Chúa thứ tha.
“Hãy cho…Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Thiên Chúa đã cho chúng ta quá nhiều, vượt xa công trạng của chúng ta. Chúa Giêsu không nói điều gì sẽ xảy ra nếu người ta không cho đi, nhưng nếu chúng ta thấy rõ có một luận lý chắc chắn: theo cách mà người ta nhận lãnh từ Thiên Chúa, thì người ta hãy cho anh em mình như thế, và theo đúng cách mà người ta cho một người anh em, thì người ta sẽ nhận lãnh từ Thiên Chúa!
Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp cho chúng con, để chúng con ngày một nên giống Chúa hơn. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen. Luật mới kiện toàn luật cũ. Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:
- Luật cũ cấm giết người. Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em. Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.
- Luật cũ cấm hành vi ngoại tình. Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn. Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…
- Luật cũ quy định thủ tục li dị. Luật mới triệt để cấm li dị.
- Luật cũ cấm thề gian. Luật mới dạy sống chân thực. Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.
Trang Tin mừng Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.
- Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.
- Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”. Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.
- Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào. Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là:
- Làm ơn cho kẻ ghét mình.
- Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.
- Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
- Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.
- Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.
- Ai lấy gì thì đừng đòi lại…
Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.
“Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quãng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.
Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Tại sao phải yêu kẻ thù?
Yêu người yêu mình thì dễ. Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao! Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan. Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi. Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực. Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vỡ kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ. Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.
Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai? Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi. Nhân vô thập toàn. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh. Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền. Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này. Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.
Bài đọc 1 kể chuyện Đavit. Với những chiến thắng ngoài mặt trận, Đavit được quần chúng mến mộ suy tôn. Điều đó khiến vua Saun coi ông như là một mối đe dọa và tìm mọi cách để giết chết. Đavit có một cơ hội để giết chết Saun, nhưng ông đã từ chối làm điều đó vì trong mắt ông, Saun vua Itraen là một nhân vật thiêng liêng.Tình yêu giải phóng những năng lực phi thường trong con người.Quyền năng của tình yêu lớn hơn quyền năng của những điều xấu.Một trong những điều khó khăn nhất của mỗi người là yêu thương một người thù ghét mình.Vì thế, tình yêu đích thực là yêu thương người ghét mình.Lòng nhận hậu mạnh hơn thù oán. Phải có sức mạnh cảu tình yêu để vượt qua những cảm giác đắng cay và lòng muốn trả thù khi bị người khác đối xử tệ hại. Sự tha thứ không bao giờ dễ dàng. Phải cầu nguyện để tha thứ chiến thắng.
Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, nhân hậu và giàu lòng thương xót. Chúa Giêsu đến thế gian dùng tình yêu để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi. Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt. Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu.Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: ”Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được. Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả. Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ. Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng: Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả?
Hoa hồng trả lời:Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi. Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?
Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.
Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.
.
VÀ BẠN SẼ NHẬN LẠI NIỀM VUI
Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng
Nhiều người trong chúng ta thường có hình ảnh rất lệch lạc về Thiên Chúa. Ngài thường được xem như là một vị “cảnh sát” nghiêm khắc, luôn “rình rập” để bắt lỗi và phạt chúng ta. Điều này phản ánh cách rõ ràng qua việc chúng ta đến nhà thờ mỗi Chúa Nhật. Đa số chúng ta đi tham dự thánh lễ vào Chúa nhật là vì chúng ta “sợ phạm tội”chứ không phải vì lòngyêu mến Chúa. Giáo Hội, qua lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay, trình bày cho chúng ta một hình ảnh đẹp và trung thực về Thiên Chúa mà chúng tatôn thờ. Hình ảnh này được tìm thấy trong lời của Thánh Vịnhtrong câu đáp ca: “Chúa là Đấng từbi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 8-10).
Vì có một Thiên Chúa đầy yêu thương và nhân hậu như thế và chúng ta được tạo dựng nên theo hình ảnh và giống Ngài, nên chúng ta cũng được mời gọi đối xử với nhau như Ngàiđã đối xử với chúng ta. Người ta thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.” Nếu Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, là con cái của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để trở nên từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tìnhthương. Tư tưởng về việc sống xứng đáng làhình ảnh của Thiên Chúa được tìm thấy trong bài đọc 2. Thánh Phao lô nhắc nhở chúng ta rằng nhưchúng ta mang hình ảnh của Adam thế nào, thì chúng ta cũng mang hình ảnh của Đấng từ trời đến là Đức Giêsu Kitônhư vậy: “Người thứ nhất bởi đng kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽđược mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:47-49). Vì vậy, chúng ta phải sống một cuộc sống như Đức Giêsu Kitô đã sống!
Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy thái độ từ bi nhân hậu của Thiên Chúa được Vua David tỏlộvới Saun, người tìm cách giết mình. Sau khi giúp vua Saun đánh bại quânất mà ra thì thuộc vềđất; còn người thứhai thì từ trời mà đến.Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻbởi đất mà ra; còn nhữ Philistine, David được nhiều người mến mộ. Thấy thế, vua Saun trở nên ghen tỵ và biến David thành kẻ thù số một cho ngôi vương của mình và tìm cách giết David. Đây chính là bối cảnh của bài đọc 1 sách Samuen Quyển Thứ Nhất mà chúng ta nghe ngày hôm nay. Tuy nhiên, dù vua Saun xem ông là kẻ thù, David vẫn không xem vua Saun là kẻthù và vẫn tôn trọng ông như người đã được Đức Chúa xức dầu: “Xin Đức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành của họ: hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong”(1 Sam 26:23). Chính lòng từ bi nhân hậu của David đã cải hoá vua Saun chứ không phải lòng hậnthù. Chân lý trong cuộc sống là: Chúng ta không thể bẻ gãymột chuỗi sự dữ bằng một sự dữ khác, vì khi làm như thế, chúng ta lại thêm một mắt xích vào nữa chuỗi sự dữđã tồn tại. Chúng ta chỉ có thể bẻ gãychuỗi sự dữ bằng sựthiện, bằng một hành động tốt. Ví dụ, chúng ta chỉ có thể kết thúc chuỗi hận thù bằng tha thứchứ không phải bằng một hành vị trả thù khác; hoặc chúng ta chỉ có thể kết thúc chuỗi nói dối bằng hành vi nói thật chứ không phải một hành vi nói dối khác.
Tuần trước chúng ta nghe về những mối phúc của những người môn đệChúa Giêsu. Và mục đích của các mối phúclà làm cho chúng ta trở nên từ bi nhân hậu như Cha của chúng ta Đấng ngự trên trời. Nói cách khác, bài Tin Mừng hôm nay chính là “hiện thực hoá” bài Tin Mừng chúng ta nghe tuần trướcvềcác mối phúc. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ của Ngài phải nên như Cha ở trên trời: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).Tức là, chúng ta không có một “thần tượng” nào khác ngoài Thiên Chúa. Theo các học giả Kinh Thánh, Chúa Giêsu trình bày trong tư tưởmg này một nền luân lý gọi là “luân lý hỗ tương,” tức là khi một người nhận điều gì thì người đó có bổn phận chia sẻ cho người khác, nhất là những người túng thiếu. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không muốnngười đó dừng lại ởđó mà đi đến nền “luân lý của tình yêu cụ thể và vô điều kiện,”tức là người đó phảichia sẻ cho người khác không phải vì “gánh nặng” của trách nhiệm, nhưng với “ước nguyện” nên giống Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Chúng ta có thểrút ra những thái độc hứng mình rằng chúng ta là con cái của Cha nhân lành trên trời.Đó là những thái độ cần thiết sau:
Thứnhất, chúng ta phải yêu kẻ thù của mình và làm điều tốt cho những người làm mình đau khổ: “Thầy nói với anh em lànhững người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6:27-28). Khi chúng ta yêu kẻ thù của chúng ta là chúng ta đi vượt qua bản tính tự nhiên được sinh ra bởi Adam để sống với bản tính của Thiên Chúa mà chúng ta được chia sẻ trong Đức Kitô: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ” (Lc 6:32). Chính điều này làm cho chúng ta giống với Thiên Chúa là Đấng yêu mến chúng ta ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân.
Thứ hai, chúng ta phải là những người hiền lành và khiêm nhường, không đáp trả bạo lực bằngbạo lực: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6: 29).Trongcâu nói này, Chúa Giêsu muốn chúng ta đi vượt ra khỏi khuynh hướng tự nhiên là đặt việc bảo vệ chính mình lên hàng đầu khi có người tấn công hoặc muốn chiếm đoạt tài sản của mình. Điều này không có nghĩa là Chúa Giêsu không muốn chúng ta bảo vệ chính mình và tài sản của mình khi có những người xâm hại cách bất công. Điều Chúa Giêsu muốn nói đến ởđây chính là những thứđó không phải là điều chính yếu trong cuộc sống. Chúa Giêsu muốn thay thế lối hành xử đặt lợi ích của mình lên hàng đầu bằng việc đặt lợi ích của người khác lên hàng đầu. Nhiều khi bị hạ nhục hoặc mất ít của cải vật chất nhưng giữđược những mối tương quan chúng ta đã xây dựng từ lâu thì cũng đáng. Chúng ta đọc báo hoặc chứng kiến trong đời sống thường ngày rằng: Con cái kiện cha mẹ, anh chị em kiện nhau, vợ chồng mâu thuẫnvới nhau chỉ vì một số tiền hoặc đất đai. Được một khoản vật chất chóng qua mà đánh mất đi những tương quan thật thiêng liêng thì có đáng không?
Thứ ba, chúng ta phải luôn quảng đại với mọi người: “Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại” (Lc 6:30).Chúng ta thường làm ơn cho người khác với nhiều động lực khác nhau, nhất là khi chúng ta cho người khác mượn gì, chúng ta thường mong chờ người đó trảlại. Tệ hơn là đôi khi chúng ta cho người khác mượn một và lấy lời hai. Nếu chúng ta làm như thế thì chúng ta có khác gì những người tội lỗi như Chúa Giêsu khuyên dạy: “Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn đểđược trả lại sòng phẳng” (Lc 6:33-34). ĐiềuChúa Giêsu muốn chúng ta ở đây là phải luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác, vì khi họđến cầu cứu chúng ta, tức là họ thật sựđang rơi vào cảnh túng thiếu.
Thứ tư, chúng ta phải luôn trao ban niềm vui cho người khác chứ không phải đau khổ. Có câu nói trong đời rằng: “Bạn cho cuộc đời cái gì, thì cuộc đời cũng sẽ cho bạn lại cái đó. Nếu bạn cho cuộc đời tình yêu chân thật thì nó sẽ cho lại bạn tình yêu chân thật, còn nếu bạn cho đời sựdối trá thì bạn cũng sẽ nhận lại sự dối trá trong cuộc đời của bạn.” Đây chính là diễn tả cụ thểnhất của “thước đo vàng” mà chúng ta nghe Chúa Giêsu nói và giải thích trong bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6:31).Chúa Giêsu sử dụng “thước đo vàng” để nóiđến cách hành xử căn bản của chúng ta.Và Ngài giải thích “thước đo vàng” này trong những câu 32-36.
Tóm lại, để có lòng nhân từ nhưChúa Cha ở trên trời là Đấng nhân từ, chúng ta làm những điều ngược lại với những gì mà người khác hay làm. Tư tưởng nàytiếp nối bài giảng về các mối phúc và hoạ mà chúng ta nghe Chúa Nhật trước. Cụ thể là những giá trị của người môn đệluôn ngược với những giá trị mà thế gian đón nhận: “Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽlớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:35).Hơn nữa, trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra những việc thực hành cụ thểđể chúng ta thực hiện: (1) không được xét đoán:“Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán” (Lc 6:37); (2) không lên án: “Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án” (Lc 6:37); (3) luôn tha thứ: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:37); (4) luôn sống quảng đại trao ban: “Anh em hãy cho, thì sẽđược Thiên Chúa cho lại” (Lc 6:38).
Chi tiết cuối cùng đáng để chúng ta suy gẫm là việc xét lại thái độ sống của chúng ta với những người khác vì Thiên Chúa “sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6:38). Trong câu này, có một cái gì đó công bằng, nhưng cũng có một cái gì đó thật an ủi cho chúng ta: Công bằng ở chỗ là Thiên Chúa sẽ đong lại cho chúng ta bằng đấu chúng ta đong cho người khác. Tuy nhiên, điều an ủi ở đây chính là đấu của Thiên Chúa luôn “đầy tràn” tình thương và tha thứ vì Ngài “không cứtội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 8-10).Hãy đối xử với người khác như Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta!
.
JM. Lam Thy
Khổng Tử ngày xưa dạy học trò: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Điều mình không muốn, đừng làm cho người khác – xc. sách “Luận ngữ – Chương Nhan Uyên”). Câu này ngụ ý: Nếu mình không muốn người khác đối đãi với mình thế nào, thì bản thân mình cũng không nên đối đãi với người khác như thế. Quan hệ qua lại giữa người với người thực sự cần phải kiên trì nguyên tắc này, đó là thể hiện lòng tôn trọng người khác, bình đẳng đối xử. Cùng một ý nghĩa như vậy, nhưng mang tính tích cực hơn, là Lời dạy của Đức Giê-su Ki-tô trong bài Tin Mừng hôm nay (CN VII TN-C – Lc 6, 27-38): “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.”
Chúa Giê-su không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Người đến trước hết là để mạc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình yêu, nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Chúa Giê-su cho biết không hề có sự cách biệt giữa “mến Chúa” và “yêu người”, vì đó là hai khía cạnh của một điều răn duy nhất: điều răn “Yêu thương”. Vì thế, người tín hữu không thể hẹp lòng với tha nhân, kể cả với kẻ thù, mà vẫn nghĩ rằng mình mở lòng với Thiên Chúa. Hẹp lòng với tha nhân cũng là hẹp lòng với Thiên Chúa.
Các mối phúc đã phác họa dung mạo người môn đệ Chúa Giê-su, biết chấp nhận những thua thiệt trong cuộc đời và bị bách hại về thể xác cũng như tinh thần vì họ muốn sống theo giáo lý của Người. Phản ứng tự nhiên của người bị bách hại là không thể đội trời chung với kẻ thù đã bách hại mình, chứ nói chi tới việc yêu thương kẻ thù. Thật thế, Kinh Thánh Cựu Ước đã chứng minh: “Luật báo phục tương xứng: Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.” (Đệ nhị luật 19, 21). Có lẽ vì thế mà Tin Mừng Lu-ca đặt vấn đề yêu thương kẻ thù ngay sau các mối phúc, coi như một điều kiện căn bản để có thể sống những mối phúc nói trên.
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục quảng diễn những mối phúc bằng những trường hợp cụ thể rút từ lối sống của người đời và đòi hỏi người môn đệ phải sống ngược lại lối sống ấy thì mới nói lên được căn tính của người đi theo Chúa. Lời dạy của Đức Ki-tô về hạnh phúc đi ngược lại não trạng con người ngày nay rất nhiều. Cũng không hẳn là ngày nay, mà ngay cả ngày xưa thì “não trạng con người” cũng không chấp nhận: Điển hình là khi nghe Đức Ki-tô giảng dạy thì cả đến những môn đệ, người thân cận, đồng hương với Người cũng phát biểu “lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi” (Ga 6, 60); “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” (Lc 4, 28-29).
Bình thường ai cũng yêu kẻ yêu thương mình, ghét kẻ thù mình. Không ai muốn nhìn chứ đừng nói là yêu kẻ thù. Đời có vay có trả vì ân oán giang hồ, không ai có thể xây dựng tình yêu với kẻ thù. Bởi thế chỉ có hủy hoại, chết chóc, chém giết, giận hờn; không thể đội trời chung với kẻ thù. Đối nghịch với thói đời khi nói “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6, 27), Đức Giê-su đã đụng tới một điểm yếu sâu xa nhất của lòng người. Không ai có thể chấp nhận được một khuyên nhủ xa rời thực tế như vậy; nhưng đó lại là đặc điểm trổi vượt nhất của Tin Mừng Cứu Độ. Không chấp nhận đòi hỏi đó, không thể trở nên môn đệ Đức Ki-tô.
Đức Giê-su không dạy cách nhận dạng kẻ thù; nhưng muốn người tín hữu nhận dạng người anh em ngay giữa những kẻ thù đang tìm cách hãm hại mình. Đó là một nghịch lý, nhưng Tin Mừng thường được hình thành giữa những nghịch lý như thế (“Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong.” – Lc 6, 28-29). Tin Mừng không phải là một thứ văn chương hoa mỹ nhằm thỏa mãn thị hiếu người đọc, người nghe; mà đặt vấn đề rất khó nghe, nhưng có sức thuyết phục, thức tỉnh lòng người. Đức Giê-su muốn lôi con người thoát khỏi giấc ngủ mê ngàn năm trong cảnh thù hằn, hãm hại. Người muốn con người đối diện với kẻ thù bằng một thái độ cao cả. Đó là một vấn đề hóc búa nhất; nhưng nếu không giải quyết được vấn đề đó, Tin Mừng cũng chẳng có sức mang lại ơn cứu độ.
Khi vấn đề kẻ thù đã được giải quyết bằng tình yêu thương lớn lao, tình yêu trở thành sức mạnh vô song. Lịch sử Giáo hội cho thấy Thầy Chí Thánh Giê-su đã vạch ra con đường dẫn người tín hữu vào sự sống đích thực, bình an và hạnh phúc. Muốn đạt đến mục tiêu lớn lao đó, người Ki-tô hữu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cần phải đi bước trước (trước khi rao giảng, hãy thực hành Lời Chúa). Chính Thầy Chí Thánh đã nêu gương thực hiện khi bị treo trên thập giá: Thầy đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Còn hành vi nào vô ân và độc ác bằng việc giết Chúa không? Sở dĩ Thầy làm được như thế, vì Thầy đã noi gương Chúa Cha là đấng nhân từ (“Chúa Cha nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác. Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.” – Lc 6, 35-36). Chính ở hành vi tha thứ, Đức Giê-su cho thấy tình yêu Thiên Chúa là sức mạnh vô song, cao vời khôn ví.
Tóm lại, việc yêu thương kẻ thù là một việc vô cùng khó khăn, nhưng càng khó người tín hữu càng phải cố gắng thực thi, vì đây là giới luật Chúa Giê-su đã truyền dạy: Muốn trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa, muốn nên hoàn thiện, không còn cách nào khác ngoài cách sống “yêu thương và tha thứ”. Một tấm gương vĩ đại là chính Phao-lô – người đã từng bách hại những người theo Ki-tô – đã được chữa lành khỏi căn bệnh “mù nội tâm”. Chính ngài đã dạy cho tín hữu Rô-ma, và nói chung là giảng dạy cho mọi người biết: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật.” (Rm 13, 10). Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp mọi người chúng con hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm để thực thi những điều đẹp ý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN VII.TN).
.
Lm Vũđình Tường
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm có lúc mình là nạn nhân của bạo hành, lúc khác mình lại gây bạo hành làm tổn thương đến danh dự người khác. Bạo hành gây ra hoặc do lời nói hoặc do việc làm. Khi đau khổ do bạo hành xẩy ra cần phải tìm cách giải quyết. Theo thói thường xã hội quan niệm công bằng theo nghĩa : có ăn, có trả; làm lỗi tất phải thường. Gây thiệt hại, đương nhiên phải đền bù. Đức Kitô dậy các môn đệ cách đối xử cách lành mạnh, cao thượng hơn. Ngài kêu gọi tránh dữ, làm lành; tránh trả đũa nhưng gây thiện cảm. Gây thiện cảm với người làm cho mình đau khổ là điều tưởng khó hơn ngồi tù ngục tối. Theo Đức Kitô, gây thiện cảm không phải là cách hành xử cao thượng mà chính là lối sống của người Kitô hữu. Để giao hoà với kẻ nhục mạ, làm khổ mình, Kitô hữu cần sức mạnh nội tâm qua cầu nguyện, phải can đảm đánh thắng cái tôi trong mình và í chí kiên quyết mới có thể thực hiện được điều đó.
Đức Kitô kêu gọi ‘hãy yêu mến kẻ thù’ c.27 bởi Kitô hữu cần có thái độ sống, không phải theo lề thói xã hội, mà sống theo gương Thầy Chí Thánh. Hành xử theo gương Đức Kitô chính là không vui mừng khi thấy kẻ làm hại mình gặp đau khổ, trái lại Kitô hữu hãy ‘làm ơn cho kẻ ghét anh em’. c. 27b.
Thứ đến ‘chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em’ c.28a bởi vì thù oán gây chiến tranh; trong khi chúc lành và tha thứ kiến tạo hoà bình.
Quan trọng hơn cả là ‘cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em’ c.28b. Sức mạnh của cầu nguyện không phải chỉ mang ơn phúc đến cho người mình cầu cho mà chính người cầu nguyện được hưởng ân phúc Chúa ban. Lời cầu giúp Kitô hữu nhận biết không phải nhu cầu của riêng mình, mà giúp nhận ra nhu cầu của kẻ làm hại mình. Họ có đau khổ riêng của họ và chính những đau khổ tiềm ẩn đó là nguyên nhân dẫn đến hành động làm hại người khác. Nhận biết đau khổ của kẻ làm hại mình là bước đầu dẫn đến tha thứ, giao hoà. Sức mạnh của cầu nguyện còn làm cho người làm hại ta nhận biết cái sai trái của chính cá nhân họ và từ đó họ tìm cách thay đổi lối sống tốt lành hơn.
Công lí Đức Kitô truyền dậy không phải là kết án hay luận phạt mà chính là tha thứ và yêu thương. Thiếu đời sống cầu nguyện sẽ rất khó tha thứ bởi tự ta không thể tha thứ dễ dàng cho kẻ làm hại mình. Cần ơn Chúa. Với ơn Chúa thì mọi sự đều có thể bởi lúc đó ta không còn phải tự sức riêng mình, mà có ơn Chúa phù trợ, thúc đẩy việc giao hoà trở nên dễ dàng hơn, dễ thực hiện hơn. Thánh Phaolô đã khẳng định điều trên khi Ngài viết:
Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta’. Rm 8,31
Trả thù, trả đũa chính là hành xử cùng cung cách xã hội quan niệm về công lí. Trả đũa hay trả thù dễ hơn là tha thứ và đại đa số chọn cách dễ. Thực ra, trả đũa là đồng hoá mình thành một thành phần của kẻ làm hại ta. Hành xử cùng cung cách xã hội không phải là cách Đức Kitô hướng dẫn. Đời sống Kitô hữu không theo thói thường là kết án, hay đầy ải, tù đầy mà chính là tha thứ và yêu thương. Đây chính là cách Đức Kitô đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: ‘Tôi không lên án chị đâu, chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa’ Gn 8,11.
Món quà cao quí nhất Kitô có để cho đó là món quà tha thứ. Tha thứ cho lỗi lầm riêng mình và tha thứ cho lỗi lầm của anh em. Kẻ giầu có, quyền thế trong xã hội thường cố gắng có thêm tiền, thêm quyền mà ít quan tâm đến như cầu của người nghèo khó. Kết quả là kẻ giầu càng giầu, kẻ nghèo càng đói. Đức Kitô dậy các Kitô hữu cách sống tha thứ và yêu thương để thay đổi quan niệm sống trong xã hội.
.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề nghị chúng ta thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại của Tin Mừng là tha thứ, yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Dưới hình thức những câu danh ngôn, Chúa Giêsu cho chúng ta một khuôn vàng thước ngọc để hành xử và qua đó Người nói cho chúng ta biết rằng yêu thương kẻ thù là cách thế để “chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.”
1- Yêu thương kẻ thù, thước đo và động lực
Thước đo của cách hành xử bao gồm hai phần: phần một liên quan đến tình yêu đối với kẻ thù, và phần hai là sự thấu hiểu huynh đệ. Trước hết là yêu kẻ thù: lý tưởng này được khai triển dựa trên những ví dụ cụ thể: ai vả má phải thì đưa cả má trái, ai lột áo ngoài thì nhường cả áo trong, ai xin thì hãy cho và cho vay mà không đòi lại. Tiếp theo là sự thấu hiểu để tránh xét đoán người khác. Khía cạnh này ngắn hơn. Chúa Giêsu dạy chúng ta thực hành những điều đó theo mẫu gương của Chúa Cha: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.” Người kết luận: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”
Quả thật, giáo huấn của Chúa Giêsu về việc yêu thương kẻ thù phải trở thành quy luật hành xử của mỗi người môn đệ Chúa. Với khái niệm “kẻ thù,” có nhiều mức độ thù địch khác, ví dụ: từ sự ác cảm tự nhiên và từ việc không hợp tính khí, đến sự ganh đua bên trong hay thể hiện ra ngoài, từ thái độ thô lỗ và tính kiêu căng, sự xảo trá và lừa lọc, tà ý và phản bội, cuối cùng là sự thù oán và thù ghét, dẫn tới sự bách hại và giết chết.
Thứ đến động lực của tình yêu này đối với kẻ thù được tìm thấy trong việc noi gương bắt chước tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với loài người: “Và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” Lý do này kết hợp với lý do thần học “nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ,” nó làm dội lại lý do phổ quát khác: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Quả thế, những tiêu chuẩn này phải là nền tảng của cách hành xử chúng ta đối với tha nhân, đặc biệt đối với kẻ thù: đó là phải có lòng tốt, thương xót và sự thánh thiện của Thiên Chúa.
Khi chúng ta yêu hết mọi người với thái độ bao dung và nhân ái này, chúng ta trở nên giống Thiên Chúa và hình ảnh con người mới trong Chúa Kitô được tái hiện trong chúng ta. Yêu thương kẻ thù là giáo huấn cao thượng nhất giúp chúng ta đạt tới sự viên mãn và trưởng thành nhân bản, xét như là hữu thể được tạo dựng để yêu thương và được yêu thương. Chỉ khi nào yêu thương một cách vô vị lợi, con người mới có thể đạt tới hạnh phúc, và với tư cách là Kitô hữu, chúng ta đạt tới tầm mức con người mới trong Chúa Kitô. Như thế, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, Đấng yêu thương tất cả mọi người.
2- Một thông điệp “chói tai”
Tin Mừng hôm nay rất cao thượng, nhưng rất khó để sống, và dường như đôi khi là không thể thực hiện. Chúng ta có cảm tưởng “chói tai” khi nghe đoạn Tin Mừng này. Chúng ta khó chấp nhận tính cao thượng này vì bản thân luôn yếu đuối và giới hạn. Bởi lẽ, trong thực tế, người ta đối xử với nhau rất khác so với lý tưởng này. Chúng ta bị cám dỗ khi nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ là người xa rời thực tế, không hiểu thấu con tim con người. Có lẽ Người không biết rằng chúng ta mang trong mình một quy luật bẩm sinh về sự trả thù mà Cựu Ước nói tới: “Mắt đền mắt, răng đền răng.” Xin thưa rằng: không! Nhưng chính vì điều này mà Chúa Giêsu đề nghị chúng ta tiến đến một con đường giải thoát và hạnh phúc, không bằng bạo lực thù oán, nhưng bằng sức mạnh của tha thứ và yêu thương. Đây cũng là sự vĩ đại nhân bản mà Đavít đã thể hiện khi tha thứ cho kẻ thù đáng phải chết của mình là vua Saul, một người được xức dầu của Thiên Chúa (bài đọc I).
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương kẻ thù luôn mãi, bởi vì chúng ta luôn bị thúc đẩy báo thù vì sự bất công và thù hận. Những cuộc tranh chấp và báo thù xảy ra hằng ngày không chỉ ở phạm vi cá nhân, gia đình mà còn ở phạm vi quốc gia và quốc tế nữa, con người thù địch lẫn nhau, quốc gia này thù địch với quốc gia kia.
Nếu không hành xử theo tình yêu và tha thứ mà Chúa Giêsu dạy, chúng ta không thể là Kitô hữu chính danh. Chúng ta được mời gọi đối xử với những kẻ thù của mình với lòng nhân từ mà Chúa Giêsu dạy. Mặc dầu chúng ta biết rằng việc thực hành những điều trên không dễ dàng chút nào.
Hơn nữa, chúng ta cũng cần biết rằng điều xem ra không thể đối với con người lại là điều có thể đối với Thiên Chúa. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta có thể thực hiện được những điều vĩ đại và cao cả trong đời sống mình, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa.
3- Yêu thương không cần đền đáp
Bởi thế, Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa?” Điều này những người khác đều làm, cả người xấu xa và kẻ vô đạo. Đối với các môn đệ, Chúa Giêsu đòi hỏi nhiều hơn: yêu thương cả những kẻ thù ghét mình, những kẻ không chào hỏi mình, những kẻ thô lỗ, những kẻ phản bội, làm hại và vu khống chúng ta, tóm lại, những kẻ thù của chúng ta.
Điều làm cản trở chúng ta khi sống giới răn yêu thương này đó là sự ích kỷ, toan tính và vụ lợi. Đặc biệt, khi đối diện với những người bị loại trừ, người nghèo, người già, người tàn tật, những nạn nhân xã hội, hay kẻ thù của mình…, chúng ta đặt câu hỏi: tôi kiếm được gì với những người này? Và câu trả lời: không gì cả!
Như thế, chúng ta khép lòng lại thay vì phải sống theo Lời Chúa dạy là quảng đại, nhân ái, thấu hiểu, đón tiếp, gần gũi, vui vẻ chia sẻ, yêu thương tha thứ cho họ.
Như thế, yêu thương kẻ khác với tấm lòng bao dung và phổ quát phải là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống chúng ta đối với tha nhân. Yêu thương kẻ thù là tình yêu lớn nhất và là dấu chứng khả tín nhất về việc chúng ta nên giống Chúa trong cách hành xử của mình. Amen!
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 7 TN_C
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VII Thường Niên năm C mời gọi chúng ta phải thương yêu hết mọi người, ngay cả kẻ thù nữa.
1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23:
Đa-vít có cơ hội thuận tiện để giết vua Sa-un, kẻ đã truy sát mình, nhưng Đa-vít đã tha chết cho vua bởi vì ông tin làm như thế là chống lại với người được Thiên Chúa xức dầu tấn phong.
1Cr 15: 45-49:
Thánh Phao-lô so sánh A-đam với Đức Ki-tô. Nhờ A-đam, chúng ta được sự sống tự nhiên; nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng.
Lc 6: 27-38:
Đức Giê-su nhấn mạnh đến bổn phận yêu thương kẻ thù và những trách nhiệm của đức ái huynh đệ.
BÀI ĐỌC I (1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23)
Sách Sa-mu-en quyển một là một tác phẩm quan trọng đặc biệt vì sách ghi lại bước ngoặc “lịch sử” đã dẫn đưa dân Ít-ra-en lần từng bước từ “thể chế các thủ lãnh” sang “thể chế các vua”. Ba vĩ nhân thống trị tất cả mọi biến cố của giai đoạn lịch sử này là ngôn sứ Sa-mu-en, vua Sa-un và vua Đa-vít.
- Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất:
Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất trong toàn bộ lịch sử Ít-ra-en. Ông có tất cả những nét quyến rũ của những anh hùng huyền thoại. Ông khôi ngô tuấn tú: “Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn” (1Sm 16: 12); nghệ sĩ đàn hạc (1Sm 16: 16, 23); dũng cảm đến độ liều lĩnh (1Sm 17: 34-36, 40t; 18: 6-9, 26-27); không biết mệt mõi, hiếu động, nhất là sau khi đã phải trốn chạy khỏi triều đình Sa-un, ông sống cuộc sống phiêu bạt rày đây mai đó (1Sm 21-30).
- Đa-vít có tấm lòng khoan dung nhân từ:
Sách Sa-mu-en quyển một kể cho chúng ta một trong những câu chuyện Đa-vít phải rời bỏ triều đình vua Sa-un mà trốn chạy khỏi sự truy sát của vua Sa-un. Vua Sa-un dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng bắt Đa-vít. Một đêm, vua Sa-un ngủ mê miệt trong trại thì Đa-vít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đa-vít thấy đây là một dịp may hiếm có nên xúi Đa-vít giết chết vua Sa-un. Nhưng Đa-vít không nghe theo. Ông chỉ lấy cây giáo của Sa-un rồi sang phía bên kia hô lớn bảo vua Sa-un thức dậy cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Sa-un cảm động và phải thừa nhận Đa-vít là người sau này sẽ hoàn thành nghiệp lớn.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 45-49)
- Nhờ A-đam, chúng ta có được sự sống tự nhiên:
Một lần nữa thánh Phao-lô chú ý đến A-đam (x. 15: 22-23). Cách thức chúng ta sống hiện nay, bản chất hiện nay, hình dáng, vẻ bên ngoài của chúng ta (“thân thể” của chúng ta) được tạo dựng theo khuôn mẫu của A-đam. Chúng ta được tạo nên hình thể từ đất nhưng chúng ta sống nhờ hơi thở mà Thiên Chúa thổi vào chúng ta. Chúng ta là một “sinh linh” (St 2: 7); chúng ta là một “thân thể có sinh khí” (1Cr 15: 44). Thân thể này có những đặc tính của một thân thể địa giới: kiếp sống phàm nhân phải chết, hèn hạ và yếu đuối (15: 42-43). Chúng ta ghi nhận rằng ở dây thánh Phao-lô trở lại quan điểm Kinh Thánh cựu trào hơn, khi nối kết cái chết với thân phận con người chứ không với tội lỗi.
- Nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng:
Trái lại, nhờ Đức Ki-tô phục sinh, người Ki-tô hữu có được sự sống thần thiêng (15: 45). Thân thể của Ngài từ “trời mà đến” (15: 40), chứ không từ đất mà ra, vì thế là “thân thể có thần khí” (15: 44). Thân thể sống lại của chúng ta sẽ không là thân thể có sinh khí, nhưng thân thể có mối liên hệ với Thần Khí Thiên Chúa. Thân thể chúng ta sẽ không giống như mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, nhưng giống như thân thể của Đức Ki-tô phục sinh (15: 49), vì chúng ta được thông phần sự sống của Ngài.
Khi gọi Đức Ki-tô là “A-đam cuối cùng” (15: 45), thánh Phao-lô công bố rằng Ngài là người đầu tiên khai mở mục đích tối hậu của lịch sử. Thánh nhân cũng công bố rằng A-đam đầu tiên dự kiến A-đam sau cùng: con người, như mục đích tự nhiên của mình, phải mang hình ảnh của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Lc 6: 27-38)
Tin Mừng hôm nay áp dụng “Các Mối Phúc và các Mối Họa” của Tin Mừng tuần trước vào cuộc sống cụ thể của con người. Tin Mừng bắt đầu với lời của Đức Giê-su: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây” (6: 27) nhắc nhớ đến đám thính giả vây quanh Đức Giê-su để nghe Người giảng dạy và để được chữa lành bệnh tật (6: 17-19).
- Yêu thương kẻ thù (6: 27-35):
Sau các Mối Phúc ngỏ lời với những người bị đè bẹp trong cuộc sống và các Mối Họa được gởi đến cho những người chỉ coi sự giàu sang phú quý như cứu cánh cuộc đời mình, thì phần này mở ra và đóng lại với huấn lệnh “hãy yêu thương kẻ thù” (6: 27 và 6: 35). Những kẻ thù ở đây được nhận dạng qua những hành vi họ làm: “nguyền rủa anh em” và “vu khống anh em” (6: 28), đó là những kẻ bách hại các Ki-tô hữu đã được nói đến ở Mối Phúc thứ tư (6: 22).
Ở trung tâm của phân đoạn này là luật vàng: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (6: 31). Luật này được giải thích bởi những huấn lệnh vây quanh, trước hết những huấn lệnh thuộc thể truyền lệnh ở ngôi thứ hai số ít: “Anh” (6: 29-30) và sau đó những mệnh lệnh thuộc thể điều kiện ở ngôi thứ hai số nhiều: “Anh em” (6: 32-34). Hình ảnh đưa cả má bên kia cho người ta tát và trao luôn cả áo trong cho kẻ khác, xin thì cho, lấy thì đừng đòi lại, đó là một thái độ bất bạo động không tìm cách chống cự lại kẻ ác. Để ý đến việc chuyển từ ngôi thứ hai số ít sang ngôi thứ hai số nhiều gợi lên sự vượt quá tương quan liên bản vị. Như thế luật vàng được trình bày một cách tích cực: tính hỗ tương mà luật này phải dựa vào: làm cho người khác điều thiện mà mình muốn người khác làm cho mình được xác định trong các câu 29-30, ngay cả vượt qua trong các câu 32-34. Thực vậy, ba câu hỏi nhắc lại rằng chỉ có việc không tính toán, không cho để được cho lại, hoàn toàn vô vị lợi mới phân biệt cách ăn nếp ở của người tín hữu với cách ăn nếp ở của những người tội lỗi, những người này cũng biết nhân ái đối với những ai đối xử với họ như vậy. Trong phân đoạn này, thính giả được mời gọi hằng ngày phải vượt qua chính mình, phải sáng tạo để “làm điều thiện” cho tha nhân, nhất là cho những kẻ không muốn làm điều thiện cho mình.
Tất cả những thực hành trên phải được hiểu theo quan điểm của cặp đóng khung (6: 27 và 35): lòng yêu thương đối với kẻ thù được đòi hỏi cách triệt để ở đây. Những thực hành như thế không mong được đền ơn đáp nghĩa nào trên bình diện con người; nếu có đó chỉ là phần được ban mà thôi. Người tín hữu chỉ trông chờ lời đáp của Thiên Chúa. Đáp lại ba hành vi phục vụ người khác (6: 35a) là phần thưởng đến từ Thiên Chúa (6: 35b). Ở đây cũng như Mt 5: 9, 45, chính trên cơ sở những tương quan liên vị mà người tín hữu được đồng hóa với Đấng là Con duy nhất của Thiên Chúa. “Ở nơi việc yêu thương kẻ thù chiếu sáng trong chúng ta họa ảnh của Thiên Chúa, Cha chúng ta, Ngài, qua cái chết của Con của Ngài, đã chuộc lại khỏi sự hư mất đời đời và hòa giải với Ngài nòi giống con người, trước đây vốn đã không thân thiện và thù ghét Ngài” (St Pius V Catechism, IV, 14, 19).
- Phải có lòng nhân từ(6: 36-38)
Lời mời gọi của Đức Giê-su: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, là câu then chốt của đoạn Tin Mừng này, tức lả “bắt chước Thiên Chúa”, như Fray Luis giải thích: “Phẩm chất đầu tiên của nhân đức này chính là nó làm cho con người nên giống Thiên Chúa và giống đức tính vinh quang nhất ở nơi Người, lòng từ bi nhận hậu của Ngài (Lc 6: 36). Vì chắc chắn sự hoàn thiện bậc nhất một thọ tạo có thể có là phải nên giống Đấng Tạo Hóa của mình; và càng nên giống Người, càng nên hoàn thiện” (Book of Prayer and Meditation, third part, third treatise).
Khuôn mẫu của lòng nhân từ mà Đức Giê-su phô bày trước chúng ta là chính Thiên Chúa, Đấng mà thánh Phao-lô nói về Người: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn năng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2Cr 1: 3-4). Đức Pi-ô X dạy rằng “Đây là luật mà một người Ki-tô hữu phải áp dụng: phải có lòng nhân từ đối với những ai lâm cảnh gian nan khốn khó như thử chính chúng ta, và cố gắng chữa trị họ. Giáo Hội công bố luật này khi cho chúng ta một loạt những công việc vật chất đầy lòng nhân ái như thăm viếng và săn sóc bệnh nhân, cho người đói khát của ăn thức uống… và những công việc tinh thần đầy lòng nhân ái như dạy những người thất học, sửa lỗi người bị lầm lạc, tha thứ những xúc phạm…”(Catechism, 944t.).
Như vậy, những câu 37-38 cũng minh họa điều mà lòng nhân ái phát sinh. Bằng bốn ý tưởng: hai câu phủ định: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án”, và hai câu khẳng định: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại”, Chúa Giê-su kêu gọi đừng phê phán người khác, đừng giam hãm người ta mãi mãi theo cách đánh giá chắc chắn như đinh đóng cột. Người tín hữu không có thể thay thế Thiên Chúa để lên án người khác, cũng không muốn người khác đối xử với mình như vậy, đấy là công việc của một mình Thiên Chúa mà thôi: rốt cuộc chính Ngài sẽ xét xử, sẽ lên án hay tha thứ, sẽ ban ơn dư dật. Cách hành xử của tôi đối với người khác như thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ cư xử với tôi như vậy.
Chúng ta đã đọc trong Kinh Thánh chuyện tích bà góa xứ Xa-rếp-ta, bà mà Thiên Chúa đã truyền nuôi ngôn sứ Ê-li-a thậm chí dù chỉ với một nắm bột còn lại trong hũ và chút dầu còn lại trong vò. Ấy vậy, Người đã thưởng cho tấm lòng quảng đại của bà với một hũ bột không vơi và vò dầu không cạn (1V 17: 9tt.). Sự việc cũng đã xảy ra như thế khi một cậu bé đã sẵn lòng dâng hiến năm chiếc lúa mạch và hai con cá cho Đức Giê-su mà Người hóa nhiều để nuôi một đám đông dân chúng (x. Ga 6: 9). Đây là hai ví dụ sống động về điều Thiên Chúa làm khi chúng ta cho Ngài điều chúng ta có, ngay cả nếu quà tặng của chúng ta chẳng là bao nhiêu. Thiên Chúa không để cho ai đó vượt qua mình về tấm lòng quảng đại: “Hãy đến với Người với lòng quảng đại và hỏi Người như trẻ thơ: Còn gì mà Chúa không cho con khi Chúa đã đòi con ‘điều này’?” (Bl. J. Escriva, Con Đường, 153). Chúng ta cho Thiên Chúa bao nhiêu trong cuộc đời này, Ngài sẽ cho chúng ta bấy nhiêu, thậm chí còn nhiều hơn trong cuộc đời mai sau.
- Không thỏa hiệp với sự gian ác:
Tuy nhiên, việc từ chối xét đoán người khác không đồng nghĩa với thái độ dửng dưng với điều chân và thiện. Đôi khi, trong hoàn cảnh mà kẻ gian ác là người có thế lực và quyền hành, viện cứ yêu thương kẻ thù mà từ chối xét đoán lại trở nên đồng lõa với hành động của kẻ gian ác. Đó không là đức ái mà Đức Giê-su đã dạy, như lời dạy của Công Đồng Vatican II: “Thực ra, đức ái và lòng nhân hậu này không bao giờ cho phép chúng ta trở nên dửng dưng với điều chân và thiện. Hơn thế nữa, chính đức ái thúc bách các môn đệ Chúa Ki-tô loan báo cho mọi người chân lý cứu rỗi. Nhưng phải phân biệt lầm lỗi, điều luôn luôn phải loại bỏ, với người lầm lỗi vì người lầm lỗi vẫn còn giữ được nhân phẩm, ngay cả khi họ có những ý niệm sai lầm hoặc hơi lệch lạc về tôn giáo. Chỉ có mình Thiên Chúa là quan tòa và là Đấng thấu suốt mọi tâm hồn: bởi vậy Ngài ngăn cấm chúng ta xét đoán tội lỗi bên trong của bất cứ người nào” (Gaudium et spes, 28).
.
YÊU KẺ THÙ, LÒNG NHÂN ÁI TỪ BI
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1. Những người giàu có mà Chúa Giêsu đã chúc dữ trong đoản văn trước đây đã ra đi, nên bây giờ Chúa Giêsu quay lại nói với các môn đệ đang có mặt. Ngài phán bảo với họ cách uy quyền: “Nhưng Ta bảo các con”. Lời Ngài mói là lời đến từ Thiên Chúa. Ngài nói như kẻ có quyền, chứ không như các tiến sĩ luật và các người biệt phái (Mt 7,28). Chúa Giêsu đã thu tóm cả lề luật tức là việc chu toàn ý muốn Thiên Chúa vào giới luật tình yêu: “ngươi phải yêu mến Thiên Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi; và yêu đồng loại như chính mình” (10,27). Được phần trước với những lời chúc phúc và chúc dữ, Chúa Giêsu đã cho biết cách thế để yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Bây giờ Ngài đề cập đến vấn đề yêu thương tha nhân.
Cựu ước cũng nói đến giới luật yêu thương tha nhân: “Hãy yêu thương tha nhân như chính mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu tách riêng giới luật này và nâng nó lên trên mọi giới luật khác trong lề luật để nói lên tầm quan trọng to lớn của nó: Ngài cũng đem lại một lối giải thích mới. Tha nhân chính là mỗi người. Dù là kẻ thù ta. Từ lối giải thích căn bản về tình yêu, nghĩa là phải yêu cả kẻ thù. Trong Lc, toàn bộ luân lý trong diễn từ công bố trên đồng bằng dựa trên cơ sở lối chú giải căn bản về tình yêu kể cả việc yêu kẻ thù.
“Kẻ thù các con” (c.27) chính là những người thù nghịch với nhóm môn đệ, những kẻ vu khống, những người bách hại, những kẻ thù của mỗi một môn đệ. Chúa Giêsu buộc phải yêu thương họ. Tình yêu lòng thiện cảm, có thể bị ép buộc không? Người ta có thể dễ dàng chiếm được tình cảm, tình yêu chăng? Tình yêu mà Chúa Giêsu truyền dạy chính là làm điều thiện, là chúc phúc, là cầu bầu. Theo Chúa Giêsu, yêu không nhất thiết là cảm nghiệm một tình cảm nào đó (càng tốt nếu từ một tâm tình tiêu cực biến đổi thành một tâm tình tích cực, tuy nhiên, không phải luôn luôn như thế); yêu thích làm điều gì đó cho một ai, cho cả người ghét ta, nguyền rủa ta, bạc đãi ta.
Tình yêu tha nhân không chỉ hệ tại việc tha thứ những bất công mình phải chịu. Yêu thì không còn nói đến tha thứ, phải giả thiết là đã tha thứ trước rồi. Môn đệ Chúa Giêsu dĩ nhiên phải chu toàn tất cả những gì có lợi cho kẻ thù. Người môn đệ phải lấy ơn báo oán, chúc phúc cho những người chúc dữ, cầu nguyện cho những người bạc đãi mình. Ai yêu kẻ thù mình thì không chỉ tự mình dấn mình phục vụ kẻ thù bằng việc thiện mình làm cho họ, nhưng còn làm Thiên Chúa nhập cuộc giúp đỡ kẻ thù bằng cách cầu xin Ngài ban cho kẻ thù mình điều mình không có khả năng thực hiện. Đối với các môn đệ thì lòng yêu thương kẻ thù phải thâm nhập vào trong mọi lãnh vực của cuộc sống họ: trong hành động cụ thể bên ngoài, trong những ước muốn, trong lời nói, ngay cả trong tâm hồn.
2. Yêu kẻ thù thật khó, chúng ta phải tự vệ chống bất công, muốn trả thù khi người cư xử bất công với chúng ta. Một cách nào đó chúng ta muốn ngăn cản điều ác lan tràn bằng cách trả đũa, báo phục nghiêm khắc: “Ta làm cho ngươi điều mà ngươi đã làm cho ta: mắt đền mắt, răng đền răng” (x. Mt 5,38). Chúa Giêsu đòi buộc không được lấy ác báo ác, cũng như đừng nên làm gì chống lại điều ác. Ngài đòi buộc phải lấy thiện thắng ác. Những nguyên tắc này có giá trị đối với những bất công cá nhân chúng ta phải chịu: “Với người tát má con…” (c.29) chúng cũng có giá trị khi người ta vi phạm tư sản của chúng ta: “Với người lấy áo choàng con…” (c.29).
Người môn đệ của Chúa Giêsu phải vui mừng phân phát, ban tặng cách vô giới hạn. “Phàm ai xin, con hãy cho” (Lc 30), chứ đừng xét đến quốc tịch, tín ngưỡng, tư tưởng hay thái độ cá nhân, phẩm giá của người đó…” Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa: dù tài sản ta có bị cướp mất do bạo lực hay mưu mô, ta chớ đòi bồi hoàn. Ai phải chịu hoàn cảnh như thế, đừng tự vệ, đừng tìm cách lấy lại những gì đã mất. Sự bất công phải chăng phải trở nên công bình?
Chúng ta không thể bình thản nghe những yêu sách như thế của Chúa Giêsu? Không có gì trong chúng ta phản kháng lại các đòi buộc như thế? Phải chăng thâm tâm ta không có gì biện bác chống lại hay sao? Phải chăng như thế là đã chối bỏ nhân vị và quyền lợi cá nhân? Phải chăng như thế là mở ngõ cho sự ác hoành hành? Là khuyến khích cho những bản năng xấu xa đê hèn nhất của con người tăng triển ?
Những gì được đưa ra ở đây gây quá nhiều ngạc nhiên, chúng ta xem ra có vẻ nghịch lý, bởi vì thực tế con người cư xử với nhau theo những luật lệ hoàn toàn khác thế. Các ví dụ này cho thấy lối cư xử thường tình của con người trái ngược biết bao với ý muốn Thiên Chúa và cũng cho thấy Nước Thiên Chúa cần chiếm hữu họ để biến đổi họ. Chúng ta nghĩ sự ác sẽ bị tiêu diệt, nếu chúng ta chống lại sự ác, lấy ác báo ác. Nhưng Chúa Giêsu công bố: chỉ có điều thiện mới thắng điều ác. Ngài mang nước Thiên Chúa đến, và nhờ mọi thiện hảo trong Ngài lan tỏa, sự thiện sẽ chiến thắng sự ác.
Cách thức Chúa Giêsu diễn tả rất gợi hình, cụ thể, cứng rắn. Ngài muốn gieo rắc ưu tư lo lắng, muốn thức tỉnh lay động, hoán cải những tâm hồn xấu xa. Những thí dụ Ngài đưa ra đây minh giải cho một thái độ, một trạng thái tinh thần mà Ngài muốn phổ biến. Đây không phải là một bài học luân lý với những điều kiện này thì phạm tội, những tuân giữ kia thì không phạm tội. Ngài không có chủ ý ban hành một lề luật mới gồm bốn phần: phần thứ nhất: khi ai đánh con má này…Thứ hai: khi ai lấy áo con… Thứ ba: …Nếu hiểu như thế là chưa quán triệt lời Ngài. Những thí dụ này là những hình ảnh nói lên cách cụ thể một thái độ căn bản. Đó là thái độ mà chính Chúa Giêsu muốn có, và môn đệ là người thể hiện hành động trong muôn vàn hoàn cảnh của cuộc sống hiện tại cụ thể.
3. Làm thế nào để thể hiện lòng yêu thương kẻ thù bằng hành động cụ thể? Tôi phải làm gì cho tha nhân? Cho cả kẻ thù tôi? Các bậc khôn ngoan, các tiến sĩ luật Do thái và ngoại giáo đã nói về điều này qua “luật vàng”. Ông già Tobia đã truyền luật này lại cho con: “Điều chính con không thích, đừng làm cho kẻ khác” (Tob 4,15). Một tiến sĩ luật Do thái, ông Hillel, phát biểu một châm ngôn tương tự: “Đừng làm cho tha nhân điều ngươi không thích” (x. J.Bonsirven, Textes rabbiniques số 633). Học thuyết khôn ngoan của người Hy lạp cũng đã biết luật này từ lâu. Những người thuộc phái khắc kỷ đã diễn dịch luật này như sau: “Điều ngươi không muốn người ta làm cho chính ngươi, thì ngươi cũng đừng làm cho kẻ khác”. Con người mang sẵn trong mình sách Lề luật và qui tắc đích thực về thái độ phải có đối với những người đồng loại. Chính những hoài bão, nhu cầu con người muốn tạo cho họ dạy họ điều phải làm.
“Điều các con muốn… các con hãy làm cho người ta như vậy” (c.31). Các bậc khôn ngoan đưa ra một qui luật để con người đừng làm cho tha nhân điều gì có thể làm cho chính mình khó chịu. Hiển nhiên ở đây họ cũng trình bày “luật vàng” ấy cách tích cực, nhưng họ chú ý ngay đến cả những hậu quả tốt mà người thực thi luật đó được hưởng đến nỗi châm ngôn ấy một cách luẩn quẩn nói lên tính ích kỷ: tôi chỉ làm cho kẻ khác điều tôi mong chờ họ làm cho tôi, hay hơn nữa, tôi có thể làm cho họ điều tôi ước ao cho chính tôi. Chúa Giêsu đổi mới “luật vàng” này trong hai điểm: không phải làm điều thiện để được lại điều thiện, nhưng phải khai mào cho điều thiện mà không cần được đáp trả. Đàng khác (nhưng bản văn Lc không nói đến điểm này vì Lc viết phúc âm cho những Kitô hữu từ ngoại giáo trở lại) luật này được trình bày như là bảng tóm lược tư tưởng thánh kinh: lề luật và các tiên tri (Mt 5,12 và 22,40).
4. “Và nếu các con yêu mến những kẻ yêu mến các con, thì còn ân nghĩa gì?” (c.32). Các môn đệ Chúa Giêsu phải chu toàn ý muốn Thiên Chúa trong một mức độ toàn vẹn và triệt để hơn các người khác. Họ không thể sống như các người tội lỗi. Họ là muối đất, là ánh sáng, là thành xây trên núi (Mt 5,13tt). Chính vì thế họ phải yêu thương mà không cần đáp trả, tình yêu của họ không đặt nền tảng trên tính cách hỗ tương. Nếu chỉ yêu thương những kẻ yêu thương họ, thì họ không hơn gì người tội lỗi. Họ phải yêu thương ngay cả những kẻ mà họ không thể mong chờ đáp trả hay thưởng công. Phải yêu thương như vậy bởi vì đó là ý muốn của Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa cũng hành động như thế. “Khi con bố thí, thì tay trái đừng biết việc tay phải làm, hầu việc con bố thí được giữ kín; và Cha là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ hoàn trả lại cho các con” (Mt 6,3tt).
Tình yêu biểu lộ qua việc thiện ta làm, qua việc cho vay mà không hy vọng lấy lại (c.34). Kẻ biết yêu thương đều có mặt ở những nơi khốn khổ. Tình yêu mà Chúa Kitô muốn nói là một tình yêu sinh động. “Hỡi các con nhỏ, chúng ta đừng yêu thương bằng lời nói, bằng đầu lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân lý” (1Gio 3,18). Vậy Chúa Giêsu có thể đòi buộc yêu thương, bởi vì đó là một tình yêu, biểu lộ qua hành động. Tình yêu đó có thể tỏ hiện trong người sẵn sàng cởi mở và cảm thông những nỗi cùng cực của tha nhân. Kẻ nào thực sự quan tâm đến tha nhân thì có năng lực yêu thương thật sự.
Chúa Giêsu hứa ban thưởng cho kẻ biết yêu thương như thế. Thì còn ân với nghĩa gì? Thiên Chúa biết rõ những hành động của con người. Ngài thi ân giáng phúc và ân cần săn sóc cho những ai hành động đẹp lòng Người.
5. “Không trông báo đền” (c.35), đó là dấu chỉ tình yêu nơi các môn đệ. Không được người ta biết ơn, tán tụng, đền đáp. Yêu thì không tính toán. Tình yêu phát xuất từ thâm sâu con người và lan rộng. Ngay cả khi cho vay, người môn đệ cũng đừng trông mong được bồi hoàn nhưng cho vay chỉ vì muốn giúp đỡ kẻ khác. Vì khi yêu thương kẻ thù phải loại bỏ hy vọng được yêu lại; chính vì thế yêu kẻ thù là tình yêu đích thực nhất của các môn đệ Chúa Giêsu. Điều thúc đẩy các môn đệ yêu thương chính là ý muốn của Thiên Chúa, quyền năng của Ngài, gương mẫu của Chúa Giêsu thày chúng ta, và lời Ngài.
Người môn đệ chu toàn giới luật yêu thương kẻ thù này sẽ được thưởng lớn, người đó sẽ được gọi là con Đấng tối cao. Đây chính là danh từ được gán cho Chúa Giêsu trong cảnh truyền tin: “người này sẽ được nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao; Thiên Chúa sẽ ban cho người ngôi báu Đavit, tổ phụ Ngài” (1,31). Kẻ nào chu toàn giới luật yêu thương kẻ thù, sẽ được quyền làm con Thiên Chúa và như thế sẽ được tham dự vào quyền cai trị của chính Chúa Giêsu.
Làm con Thiên Chúa không chỉ là một thực thể đáng mong ước và chỉ xảy ra vào thời thế mạt; con người đã được làm con Thiên Chúa ngay từ lúc thực sự biết yêu thương kẻ thù. Do tình yêu không vụ lợi không đòi đáp trả người môn đệ trở nên giống Thiên Chúa; bởi Thiên Chúa cũng hoàn toàn tốt lành đối với kẻ vô ơn và ác đức. Người môn đệ trở nên con của Đấng tối cao, của Đấng tốt lành vượt trên mọi hành động của con người.
6. Người “xót thương” là người biết cảm xúc trước nỗi cùng cực của con người, biết mở lòng cảm thông nỗi khắc khoải và cùng cực của tha nhân, biết cứu giúp tất cả những ai thống khổ.
Chúa Giêsu công bố Thiên Chúa là một người Cha đầy thương xót. Nước Thiên Chúa được khởi đầu bằng việc loan báo ơn giải thoát cho kẻ bị giam cầm, bằng việc giãi chiếu ánh sáng cho người mù tối, giải phóng những kẻ bị áp bức. Chúa Giêsu được sai phái đến thế gian để loan báo thời cứu độ đã đến và mang ơn cứu độ đến. Ngài đã rảo khắp xứ để thực thi việc thiện. Ngài tha tội lo lắng cho tội nhân, nói đến niềm vui của Chúa Cha trên trời khi có tội nhân trở về với Ngài trong thời kỳ ân sủng này (5,11-32). Sứ mệnh của Chúa Giêsu được diễn tả một cách chủ yếu trong lời Ngài kêu mời vào giao tế với các tội nhân (Lc 15,4-10; 7,36-47; 18,10-14; 19,1-10).
Lòng thương xót của Chúa Cha dạy cho các môn đệ biết điều chính họ phải làm. Chúa Giêsu đòi hỏi người ta phải thực hiện điều mà người Do thái gọi là “bắt chước Thiên Chúa”. Cũng như Thiên Chúa đã cho con người trần truồng áo mặc. Cũng như Thiên Chúa đã viếng thăm những kẻ bệnh hoạn (Stk 18,1), ngươi cũng hãy thăm viếng bệnh nhân… Cũng như Thiên Chúa được gọi là Đấng đầy xót thương và tốt lành, ngươi cũng hãy cố gắng sống để được gọi là người biết xót thương và tốt lành, ngươi hãy bố thí mà không chờ phần thưởng… Cũng như Thiên Chúa được gọi là tốt lành… Cũng thế ngươi hãy sống tốt lành.
Vậy tình yêu có hai qui tắc nhờ đó con người có thể đo lường và cảm nghiệm được lối cư xử cụ thể của mình. Đó là ước muốn của chính tâm hồn mình: yêu tha nhân như chính mình – và lòng xót thương của Cha trên trời. Hai qui tắc đó trong thực tế chỉ là một; vì người môn đệ là con của Đấng tối cao, là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu tái tạo hình ảnh của Thiên Chúa trong con người bởi vì Ngài đến loan báo quyền thống trị của Đấng tối cao, là Cha đầy thương xót của chúng ta.
7. Thương xót và yêu thương con người trước tiên là không xét đoán họ: “Đừng xét đoán…” (c.37). Kẻ nào tìm hiểu xem tha nhân có đáng được xót thương và yêu mến không, người đó đã vi phạm giới luật yêu thương; vì tình yêu là nhưng không, do lòng xót thương trước nỗi cùng cực của tha nhân. Xét đoán chỉ có hai giai đoạn: lượng giá và kết án. Chúa Giêsu không muốn lượng giá và xét đoán ai. Hẳn nhiên, ở đây không có vấn đề xử dụng quyền tư pháp như trong một xã hội nào đó (Chúa Giêsu đã không bao giờ lên án việc xử dụng quyền tư pháp trong các dụ ngôn của Ngài hay ở những nơi khác). Ở đây chỉ có những phán đoán được thể hiện qua tư tưởng hay lời nói. Những lời phán đoán đó không bỏ lượng giá luân lý về hành động, nhưng cấm tuyên bố người hành động như thế là có tội.
Chúa Giêsu đã đòi buộc phải yêu thương kẻ thù và phải có lòng thương xót: “Hãy yêu thương kẻ thù – hãy biết xót thương”. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng xét đoán mới có thể đòi hỏi con người trả lẽ vào thời của Ngài. Kẻ nào đặt mình là người xét xử tha nhân, thì Thiên Chúa sẽ xét đoán người ấy. Cách thức tôi đối xử với tha nhân sẽ định rõ cách thức Thiên Chúa đối xử với tôi.
8. Tội phạm và lầm lỗi mà tha nhân đã có thể gây ra cho tôi, rất có thể ngăn cản tôi xót thương và yêu mến họ. Chúa Giêsu chỉ cho ta hai con đường để vượt qua trở ngại đó: là biết tha thứ và ban tặng chính mình. Nhờ tha thứ, hàng rào ngăn cách giữa tôi và tha nhân không còn nữa; nhờ trao ban chính mình, tôi được nối kết với tha nhân.
Đòi buộc phải tha thứ cũng như đừng kết án lại được đặt vào trong viễn tượng Ngày Thẩm phán cuối cùng đang đe dọa con người. “Các con sẽ được tha thứ” và “các con sẽ được người ta cho lại”, hai câu này qui chiếu về ngày thẩm phán sau hết. Bấy giờ, Thiên Chúa sẽ xét đoán chúng ta theo lối cư xử của chúng ta. Một cách nào đó, lời phán xét chung thẩm đang ở trong tầm tay ta. “Xin tha tội chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (11,4).
Ngày thưởng công sẽ đến. Đó là một ngày thu hoạch rất phong phú cho những ai đã biết ban phát. Thiên Chúa giống như một nông gia trả lương rất hậu cho công nhân của Ngài (đồng lương ở đây được diễn tả qua hạt lúa). Một nông gia hà tiện đổ đầy đấy lúa, rồi gạt cho sát, hầu khỏi phải cho quá số lượng cần thiết. Một nông gia đại độ sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn đã lắc, hầu có thể ban phát nhiều hơn số lượng cần thiết, ông đổ đầy, tràn đấu lúa. Thiên Chúa giống như nông gia đại độ ấy. Ngài rất đại lượng trong việc thưởng công. Đồng lương Ngài ban phát cho không phải là đồng lương người ta đáng được, nhưng là một món quà tặng do lòng rộng rãi của Ngài, Ước gì ý niệm thưởng công, trả lương, không làm cho chúng ta thu hẹp lối diễn tả tình yêu vô biên của Thiên Chúa nơi chúng ta. Điều mà Thiên Chúa ban, luôn là vô hạn nhiều hơn điều chúng ta đã phân phát. “các con hãy vui mừng và hoan lạc vì phần thưởng các con trên trời rất lớn lao”.
Dầu vậy, dù Thiên Chúa không hẹp hòi khi ban ân huệ, Ngài cũng chỉ ban phát cho những ai đã biết trao ban.
Diễn từ về lòng thương yêu kẻ thù được loan báo trong viễn tượng ngày chung thẩm cuối cùng. Nhưng nó không kết thúc sau lời đoán xét và án phạt của Thiên Chúa, mà lại kết thúc với lời mô tả lòng tốt vô biên của Ngài. Lối hành văn của các câu trước có một nhịp điệu như nhau, nhưng đến câu nói của lời Chúa ban ân huệ: “Và các con cũng sẽ được ban cho” lại có cung điệu trang trọng hơn. Như thế trọng tâm của vấn đề được dời từ sự nghiêm khắc qua lòng tốt của Thiên Chúa, từ xét đoán qua hạnh phúc, từ lời đe dọa qua lời hứa, từ sợ hãi qua hy vọng.
Phần kết luận (c.38b) là một lời canh chừng: đong đấu nào, trả đấu ấy. Kẻ nào cho ít, sẽ nhận được ít. Kẻ nào cho dư đầy – hình ảnh về Thiên Chúa đại độ hiểu ngầm dưới đây – sẽ nhận được dư đầy. Tuy nhiên lòng thương xót vượt quá mọi giới hạn, mọi điều công bình mà Thiên Chúa sẽ chứng tỏ trong ngày Ngài thẩm phán không phải là không có điều kiện. Kẻ nào biết trao ban và tha thứ cho con người, sẽ nhận được dư đầy ân huệ và được Thiên Chúa tha thứ. Kẻ nào không biết trao ban và tha thứ thì đừng có hy vọng được Thiên Chúa ban và tha thứ.
KẾT LUẬN
Điều Chúa Giêsu muốn dạy qua những câu nói thẳng thừng này, với một cung giọng đông phương và rất gần với não trạng của thính giả là: trong các tương giao xã hội của con cái Thiên Chúa, dù đối xử với nhau, dù đối xử với kẻ khác hay ngay cả với kẻ thù, thì họ phải dùng một thứ lề luật khác vì lề luật báo thù hay luật công bình giao hoán mà con người thời cổ thường dùng. Bởi thế, các mối tương giao ấy nhất thiết phải là có tính cách huynh đệ: chúng ta tất cả là con cùng một cha trên trời. Qui luật tối thượng trong các tương quan giữa con người không phải là công bình nhưng là tình yêu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Kẻ thù mà đoạn sách phúc âm này nói đến là kẻ thù ở trong nhóm, hay trong quốc gia đang sống. Vấn đề không phải là thay đổi các tâm tình sâu xa đối với kẻ thù, vì những tâm tình này độc lập với ý muốn chúng ta cho con. Nhưng vấn đề được đặt ra lúc có dịp cụ thể chúng ta phải có những hành động cụ thể giúp đỡ kẻ thù: cho kẻ thù đói khát ăn, săn sóc nếu họ bị thương, chôn cất một tử thi… Điều này đôi lúc đòi ta phải anh hùng can đảm, không những chỉ để vượt lên trên mối ghê tởm tự nhiên đối với họ, nhưng để tỏ ra mình cũng có “thiện cảm” với kẻ thù dân tộc. Hẳn nhiên, ở đây không có vấn đề giúp đỡ về quân sự (vì như thế là chống lại huấn lệnh về tình yêu, bởi chưng giúp đỡ về quân sự chính là trở lại chống đối người thân cận mình). Nhưng vấn đề ở đây là khi có thể trả thù kẻ thù bị ta bắt giam, ta hãy đối xử cách nhân bản và theo đức ái Kitô giáo.
2. “Kẻ thù” mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống hàng ngày là tất cả những ai lân cận hay quen biết chúng ta mà lại phỉnh gạt chúng ta dưới bất cứ hình thức nào, là tất cả những ai tự nhiên có ác cảm với chúng ta, tất cả những ai luôn chống đối lại chúng ta khi chúng ta lên tiếng. Tất cả những ai lợi dụng sự cộng tác của chúng ta, tất cả những ai không tôn trọng chúng ta, tất cả những ai nói xấu sau lưng chúng ta, tất cả những ai bóc lột, chà đạp, vô ơn với chúng ta… Những kẻ thù ấy luôn đi sát ta. Chính Chúa Giêsu đòi chúng ta phải yêu thương giúp đỡ họ khi gặp cơ hội thuận tiện, phải tha thứ họ tận đáy lòng. Hẳn nhiên một thái độ như thế không có gì là “tự nhiên” hay tự phát cả. Trong một vài trường hợp chúng ta có lẽ muốn chết đi hơn là làm hòa với một ai đó sống cạnh chúng ta mà đã phỉnh gạt chúng ta. Và đó chính là điều mà Chúa Giêsu đòi buộc nếu chúng ta muốn trở nên môn đệ Ngài: chết đi cho những cảm tình tự nhiên để mặc lấy một lần thay cho tất cả tâm hồn quảng đại của Đức Kitô, Đấng đã tha thứ cho kẻ thù khi hấp hối trên thập giá. Điều Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta không thể thực hiện được nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào bản tính con người. Nhưng Thiên Chúa sẽ ban ân sủng, sức lực siêu nhiên để giúp chúng ta vượt lên trên sự đối kháng nội tâm, và thực sự trở nên những con người mới phát sinh từ Chúa Thánh Thần, những con người đích thực của Đấng tối cao (c.35). Không thể trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu khi chưa chịu chết đi cho chính mình. Nhưng nếu bằng lòng chết đi cho chính mình, bấy giờ chúng ta sẽ khám phá ra một cuộc sống mới trong Chúa Kitô, vì chính Chúa Kitô sẽ biến đổi tâm hồn chúng ta và ban cho chúng ta tâm tình yêu thương tất cả mọi người như anh em. Bấy giờ, trong vui mừng và hoan lạc, chúng ta có thể nói với thánh Gioan: “Chúng tôi biết chúng tôi đã đi từ cõi chết đến sự sống bởi vì chúng tôi đã yêu mến anh em mình” (1Gio 3,14)
.
HÃY CÓ LÒNG NHÂN TỪ NHƯ THIÊN CHÚA CHA
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (1 Sm 26:2, 7-9, 13, 22-23; 1 Cr 15:45-49; Lc 6:27-38)
Mục đích chính của Phụng vụ Lời Chúa mùa Thường niên là để đào tạo đời sống thiêng liêng của chúng ta theo những tiêu chuẩn của Tin Mừng. Lời giảng của Chúa Giê-su là những bài học căn bản giúp chúng ta xây dựng một lối sống đặc biệt của những người con cái Thiên Chúa trong mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau. Lời Chúa trong mấy Chúa Nhật trước đã nói đến mối tương quan giữa Thiên Chúa với chúng ta, nhất là những công việc Người muốn thực hiện để chúng ta thấy được Người yêu thương chúng ta dường nào. Người sai Con Một đến để trực tiếp dạy dỗ chúng ta nên hoàn thiện. Người mong chúng ta tin vào tình yêu và lòng thương xót của Người. Đặc biệt hôm nay, lời Chúa đưa ra một phương thức cụ thể giúp chúng ta nên hoàn hảo: Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.
Trước hết bài đọc Cựu Ước kể lại một câu chuyện cảm động về lòng nhân từ. Như chúng ta đọc trong sách 1 Sa-mu-en, sau khi Đa-vít trở nên nổi tiếng thì vua Sa-un đâm ra ghen tương, muốn loại trừ Đa-vít. Đa-vít đã phải chạy trốn vào sa mạc Díp, nhưng vua Sa-un vẫn không tha, cố tìm giết Đa-vít. Ban đêm đang khi vua Sa-un nằm ngủ trong trại binh, Đa-vít và ông A-vi-sai lẻn đến chỗ vua Sa-un ngủ và có cơ hội giết vua. Nhưng thay vì sát hại vua, Đa-vít đã tha mạng cho vua, chỉ lấy đi cây giáo và bình nước để ở phía đầu vua Sa-un. Rồi Đa-vít đứng trên đỉnh núi đối diện với sa mạc, cầm trong tay cây giáo của vua Sa-un và nói với vua: “Hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong”. Cảm động trước lòng nhân từ của Đa-vít, vua Sa-un thề sẽ không giết hại Đa-vít nữa và nói với ông: “Đa-vít con cha ơi, con được chúc phúc! Chắc chắn con sẽ làm việc lớn, và sẽ thành công.” Sau này, chính vua Đa-vít cũng phạm những lỗi lầm to lớn trước mặt Chúa, nhưng vua đã tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa và hết lòng ăn năn sám hối. Vua đã trở thành mẫu gương sám hối và tín thác vào lượng từ bi của Thiên Chúa. Vua Đa-vít cũng để lại cho chúng ta một lời kinh có lẽ được đọc nhiều nhất, đó là Thánh vịnh 51.
Vua Đa-vít là một gương mẫu sống lòng nhân từ. Hai mươi tám thế hệ sau vua Đa-vít, hậu duệ của vua là Chúa Giê-su Ki-tô, đã được Chúa Cha sai đến để giảng dạy và biểu lộ lòng nhân từ của Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay là giáo huấn Người nói về việc tỏ lòng nhân từ đối với kẻ thù của chúng ta. Như chúng ta biết, trong sách Tin Mừng có hai cách trình bày con đường trở nên hoàn thiện. Đối với sách Tin Mừng Mát-thêu, con đường ấy là “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”, còn đối với sách Lu-ca, đó là “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”. Chúng ta có thể thắc mắc về sự khác biệt ấy. Thánh Mát-thêu viết sách Tin Mừng cho Ki-tô hữu gốc Do-thái, do đó ngài trình bày giáo lý theo khuôn mẫu Lề Luật mang tính cách lý thuyết. Với thánh Lu-ca thì khác, độc giả của ngài là Ki-tô hữu gốc dân ngoại, cho nên ngài trình bày giáo lý theo phương thức thực hành, nghĩa là dựa trên hành động cụ thể, đó là “anh em hãy có lòng nhân từ” và hãy biểu lộ lòng nhân từ ấy qua việc yêu thương kẻ thù, như chúng ta đọc thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giê-su không dài dòng giải thích ý nghĩa của lòng nhân từ, nhưng Người đưa ra những hành vi nói lên cách đối xử của người Ki-tô hữu với kẻ thù. Đan cử một số những hành vi ấy là chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình, ai vả má bên phải thì mình hãy đưa má bên trái cho họ vả… Tất cả đều là những hành vi mà người đời sẽ không làm cho kẻ thù của mình. Vậy thì tại sao Ki-tô hữu lại làm khác với người đời? Câu trả lời giản dị, đó là họ làm theo những gì Thiên Chúa đã làm. Chúng ta, vì là những kẻ tội lỗi, đều là kẻ thù của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa lại không đối xử với chúng ta như với kẻ thù, mà luôn luôn như với con cái của Người. Lý do Người đối xử như thế là “vì Cha anh em là Đấng nhân từ”. Người nhân từ với kẻ tốt cũng như người xấu, với người thánh thiện cũng như kẻ tội lỗi. Vậy nếu Người yêu thương cả những kẻ tội lỗi là kẻ thù của Người, thì tại sao chúng ta lại không làm giống như thế?
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúa Giê-su đã nói với chúng ta về lòng nhân từ qua những kinh nghiệm thực tế trong cách đối xử. Riêng đối với thánh Phao-lô, ngài muốn trình bày lòng nhân từ dựa trên suy tư thần học, để giúp chúng ta trở nên giống Cha trên trời là Đấng nhân từ. Ngài viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến”. Ở đây, thánh Phao-lô muốn trình bày một cuộc biến đổi con người chúng ta, từ “hình ảnh người bởi đất mà ra” sang “hình ảnh Đấng từ trời mà đến”. Đúng vậy, từ thân phận tội lỗi và kẻ thù của Thiên Chúa, chúng ta đã được Chúa Ki-tô cứu chuộc và phục hồi cho chúng ta thân phận làm con Thiên Chúa. Người mời gọi chúng ta hãy “trở nên đồng hình đồng dạng” với Người, nghĩa là rập theo lối sống của Người. Người đã tỏ lòng nhân từ khi tha thứ cho những người tội lỗi, yêu thương những kẻ bị xã hội loại bỏ, thì cũng thế, ta cũng phải tha thứ cho những người làm ta bị tổn thương và phải quan tâm đến những người bị xã hội khinh chê.
.
Lm. Giuse Nguyễn
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…” (Xuân Diệu)
Vâng, đúng vậy, không ai cắt nghĩa được tình yêu, nhưng mọi người đều cảm nhận được tình yêu. Một người mẹ ôm đứa con bại não lưỡi lè một bên, mắt trợn ngược, tay chân gồng cứng tong teo… hôn lấy hôn để trước sự ghê sợ của người khác. 22/12/2018, 18 tiếng trước khi qua đời, Heather Lindsay nhà tâm lý học người Mỹ, 31 tuổi, mắc bệnh ung thư vú đã trao lời hẹn thề với hôn phu trên giường bệnh, dưới sự chứng kiến của gia đình, bạn bè và các bác sĩ… Nhiều lắm, tình yêu muôn màu muôn vẻ, không ai giải thích được tình yêu. “Yêu thương là thế đó, tình yêu ôi đắm đuối nhiệm mầu!”
“Thiên Chúa là Tình yêu!” Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có tình yêu. Ngược lại, ở đâu có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa hiện diện. Và “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Nhưng tình yêu thì nhiệm mầu và thiên hình vạn trạng, làm sao để biết và sống tình yêu? Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một mặt của tình yêu.
Sách Samuel trong bài đọc thứ nhất kể lại câu chuyện vua Saul trên đường đi lùng bắt Đavit vì ganh tị. Đang đêm, khi nhà vua nằm ngủ trong trại binh, Đavit đi vào mà không ai hay biết. Ông có thể giết kẻ thù của mình, nhưng ông đã không làm thế vì:“Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu?” (1Sm 26,9b).Thái độ của ông là thái độ của kẻ tin. Dù người được chọn không xứng đáng, nhưng ông vẫn kính trọng người được Thiên Chúa xức dầu. Như vậy việc Đavit tha chết cho Saul được gọi là một tình yêu cao thượng, không ăn miếng trả miếng nhưng sẵn sàng tha cho kẻ hãm hại mình. Đó là tình yêu xuất phát từ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng Lc 6, 27-38, Đức Giêsu đưa ra tiêu chí cho tình yêu rất lạ lùng:“Yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6, 27). Thường người đời chỉ yêu những kẻ yêu mình và làm ơn cho những người làm ơn cho mình. Đức Giêsu nói đó là chuyện bình thường ai cũng làm được, thậm chí là dân ngoại và quân tội lỗi cũng làm được, còn con cái Thiên Chúa phải “nhân từ như Cha anh em trên trời là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36). Đây không phải chỉ là một lời khuyên nhân bản, mà là sự thật về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu như thế. Ngài đã yêu và đối xử tốt với những kẻ làm hại mình. Ngài đã yêu và vẫn yêu những kẻ phản bội Ngài. Ngài vẫn chờ đợi cho dù ta bất tín…
Từ sự thật như thế ta yêu mến Chúa nhiều hơn vì dù ta có như thế nào Chúa cũng vẫn yêu thương ta. Ngài đối xử với ta không bằng đẳng cấp luân lý hay đạo đức, mà đối xử với ta bằng bề dày nghĩa tình.
Từ đó Ngài mời gọi ta hãy yêu như Ngài. Yêu không toan tính. Yêu không lý do. Yêu không so đo. Yêu không cần hợp lý… đơn giản vì ta có niềm tin.
Để sống tình yêu này trong cuộc đời, trước hết phải gắn bó với Chúa để cảm nhận được tình yêu của Chúa ngày càng nồng nàn thắm thiết hơn. Gắn bó trong việc chung thủy với Ngài, không “ngoại tình” với những thần minh và thế lực khác, vì như thế ta sẽ không cảm nhận được tình yêu của Chúa một cách trọn vẹn. Gắn bó trong việc chạy đến với Ngài thường xuyên hơn, nhất là quyết tâm đọc kinh hôm kinh mai cho tốt và tham dự Thánh lễ ngày thường khi có thể. Gắn bó với Ngài bằng việc tha thiết với những việc đạo đức trong cộng đoàn, trong Họ đạo… Khi một tâm hồn gắn bó với Chúa như thế, con người sẽ thấy được giá trị của mình vì được Chúa yêu thương, không phải vì ta xứng đáng, mà đơn giản vì Thiên Chúa là tình yêu.
Từ tình yêu đó mời gọi ta hằng ngày hướng đến anh em không phải vì họ xứng đáng, mà vì Chúa muốn ta yêu như Ngài để đối xử tốt với mọi người. Ai đối xử với mình ra sao cũng mặc, miễn là ta muốn yêu mến họ. Đặc biệt với những gia đình gặp khó khăn, hãy luôn đồng hành để họ thấy Thiên Chúa không chê ghét hoàn cảnh của họ. Đồng hành bằng chính kinh nghiệm cá nhân của ta, vì ta cũng không xứng đáng nhưng đã cảm nghiệm được tình yêu. Đồng hành không phải để hướng dẫn, nhưng đồng hành để cùng đi cho đỡ buồn, đỡ chán, cho vơi đi gánh nặng, cho thêm phấn khởi trong cuộc hành trình.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến Chúa thật nhiều để biết yêu mến anh em con nhiều hơn.
.
Lm. Nguyễn Văn Nghiã
Khi nói đến Phật giáo thì người ta nghĩ ngay đến cụm từ “từ bi – hỉ xả”, nói đến Khổng giáo thì không thể không liên tưởng đến “trung dung – chính danh chính phận, nói đến Lão giáo thì phải nói đến “vô vi” còn khi nói đến Công Giáo thì người ta thường nhấn mạnh đến “công bình – bác ái”. Có thể nói đó là những nét đặc trưng của từng tôn giáo để người ta phân biệt. Đã từng hỏi bà con tín hữu rằng bác ái là gì thì dễ thường được câu trả lời là yêu thương. Tuy nhiên khi hỏi rằng nếu chỉ hiểu yêu thương theo nghĩa luân lý thì có khác gì tổ tiên ông cha dạy chúng ta “thương người như thể thương thân” hay “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” thì chắc chắn còn đó nhiều tín hữu Kitô không thể trả lời cách rõ ràng và chính xác dĩ nhiên là cách tương đối mang tính khả tín.
Có thể trả lời không sợ sai lầm rằng bác ái là yêu thương nhau nhờ, trong, với và như Chúa đã yêu thương chúng ta, đặc biệt qua Đức Kitô, Con một Thiên Chúa đã làm người. Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật VII TN C mà Giáo hội cho trích đọc, cách riêng qua bài đọc thứ nhất trích Sách Samuel quyển thứ nhất (1Sam 26, 2.7-9.12-13.22-23) và bài Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 6,27-38) trình bày tiến trình yêu thương cách cụ thể khởi đi từ mặt tiêu cực đến động thái tích cực.
-Yêu thương theo nghĩa tiêu cực là không làm hại tha nhân. Các triết gia và hiền giả xưa đã từng khuyên dạy điều này. “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Khổng Tử); “Điều gì anh ghét chịu đựng thì đừng làm cho bất cứ ai” (Philô); “Những gì khiến anh bực bội bởi tay người khác gây ra, thì đừng làm những sự ấy cho tha nhân” (Socrates). Ông Tobia cha cũng khuyên dạy cậu Tôbia con: “Điều gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15).
Bài đọc thứ nhất trích Sách Samuel tường thuật câu chuyện Đavít trong một tình huống thuận lợi tình cờ có thể giết chết Saolê nhưng ông đã không ra tay mặc dầu khi ấy Saolê đang lùng giết ông. Lý do mà Đavit đưa ra để ngăn không cho Abisai giết vua Saolê là vì Saolê là người đã được Thiên Chúa xức dầu.
-Yêu thương theo nghĩa tích cực là nỗ lực thực thi điều tốt, điều tốt nhất cho tha nhân theo khả năng và hoàn cảnh của mình bất kể họ là người thân hay kẻ lạ, là người dễ thương hay là đáng ghét, là người yêu thương mình hay là kẻ đang thù ghét mình và làm hại mình. Chúa Giêsu truyền dạy: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, và hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Để làm nổi rõ chân lý này Chúa Giêsu đã dùng lối nói ngoa ngữ nghĩa là nói quá đi như “ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,1-27-30). Và lý do Chúa Giêsu đưa ra để đòi hỏi chúng ta phải sống yêu thương cách tích cực và đến cùng đó là vì tất cả mọi người dù là công chính hay tội nhân đều là con cái của Thiên Chúa, Đấng nhân hậu từ bi, là Cha toàn năng chí ái. Động thái yêu thương theo nghĩa tích cực này được tóm lại trong lề luật vàng mà Chúa Giêsu đã khẳng định là trọng tâm của mọi lề luật và lời các ngôn sứ: “Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31; x.Mt 78,12).
Vấn đề đặt ra là làm sao ta có thể vượt qua tâm lý tự nhiên thường tình để yêu thương kẻ đang thù ghét ta, để làm ơn cho những người đã hãm hại ta cách bất công và vô cớ? Thiết nghĩ rằng chỉ có niềm tin được thể hiện qua việc rèn luyện nhân đức và nhất là biết nhìn vào Chúa Giêsu để biết sống yêu thương đúng cách thế phù hợp với từng đối tượng theo từng hoàn cảnh. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ bày tỏ tình yêu khi động viên khích lệ người yếu đuối, cùng khổ, khi nhân hậu tha thứ người có tội biết khiêm nhu mà cả khi Người nghiêm khắc vạch trần những sai lầm của nhiều vị lãnh đạo trong Do Thái giáo hay cả vua Hêrôđê thì cũng là yêu thương họ muốn làm ơn cho họ.
Hội Thánh Công Giáo đã cụ thể hóa đạo yêu thương trong kinh “Thương người có mười bốn mối: Thương xác bảy mối – Thương linh hồn bảy mối”. Yêu thương không chỉ là biết cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống… mà còn phải biết răn bảo kẻ có tội, mở dạy kẻ mê muội… Vấn đề là chúng ta phải biết áp dụng mối yêu thương nào cho đối tượng nào, hoàn cảnh nào cho phù hợp với cả tấm lòng son. Để thực hiện lý tưởng này chắc chắn cần phải có sự xác tín và cảm nghiệm sâu xa về tình Cha trên trời được thể hiện qua Đấng làm người là Giêsu Kitô, đồng thời không thể thiếu sự luyện tập sống yêu thương quảng đại cách tiệm tiến cụ thể từng ngày.
.
Bông hồng nhỏ
“ Dù anh biết tất cả đã mãi xa rồi / Chỉ có những ký ức ở lại / Nhưng dường như anh hoài chưa quên / Và dường như đâu đâu anh cũng thấy em.”
Lời ca của một người nhắc nhở về một mối tình trắc trở. Tình yêu làm cho người ta say đắm trong hạnh phúc nhưng cũng chính tình yêu làm cho người đó trống trải, đớn đau khi tình yêu vụt mất. Yêu một người có dễ không? Nếu yêu một người không hề dễ dàng thì yêu nhiều người và thậm chí yêu cả kẻ thù thì khó có ai có thể làm được?
Từ trên thánh giá, có một lời ca khiến cho con người mọi thời đại vẫn còn ngất ngây, lời ca ấy vẫn luôn là lời ca đẹp nhất của một trái tim hiến dâng trọn vẹn cho tình yêu: “ Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Trong những bài giảng của Thầy Giêsu, ta rất ấn tượng với bài giảng: “yêu thương kẻ thù” (x.Lc 6, 27-35). Lời của Thầy đã vang lên hơn hai ngàn năm qua và hôm nay vẫn trở nên rất thực tế đối với người môn đệ. Lời mời gọi ấy đòi hỏi người môn đệ sống một tình yêu phi thường. Yêu như Thầy Giêsu đã yêu là một điều không hề dễ dàng. Theo tự nhiên, ta dễ yêu người làm ơn cho ta và người quý mến ta cũng như ta quý mến họ. Khi cho ai của gì hay cho vay mượn dù ta tự nguyện và cho cách quảng đại nhưng trong lòng ta vẫn mong chờ một lời cảm ơn, một sự đền đáp nghĩa tình. Yêu như thế là rất người. Là môn đệ của Thầy Giêsu, trái tim ta phải rộng mở hơn, hay nói khác đi, tình yêu trong ta không được dành riêng cho một số người ta thích nhưng là dành cho tất cả mọi người. Đến như yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét ta thì ta có còn là người bình thường nữa không? Vậy mà Thầy Giêsu đã yêu như thế đó. Có lẽ, chẳng ai phải đau đớn như Thầy, đến lúc cận kề cái chết mà vẫn bị người ta sỉ nhục, lăng mạ đủ điều (x. Lc 23, 35-38). Vậy mà từ trong cái tột cùng của đau đớn, Thầy Giêsu có thể tìm đau ra được một chỗ cho tình yêu, để có thể bào chữa cho những kẻ tra tay giết mình, những kẻ năng nhục thoái mạ mình. “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Thật khó có thể hiểu được tình yêu của Thiên Chúa.
Phần thưởng là một điều luôn hấp dẫn. Phần thưởng của người môn đệ khi theo Thầy Giêsu và yêu như Thầy Giêsu là gì? Thầy Giêsu đã hứa cho những ai sống tình yêu như Thầy sẽ nhận được phần thưởng lớn lao, và hơn hết sẽ trở nên con Thiên Chúa. (x. Lc 6, 35-36). Là người Kitô hữu, ta không thể chỉ sống bình thường, yêu tự nhiên như mọi người vẫn yêu. Nhưng sống là yêu như Thiên Chúa yêu vì ta có Chúa trong lòng. Thiên Chúa là tình yêu. Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình (x. 1Ga 4, 8.21). Vì ta là con của thiên Chúa, ta có thể có khả năng để yêu hết mọi người, yêu cả kẻ thù ghét ta, kẻ làm cho ta đau đớn. Chính Chúa Giêsu trên thập giá đã dạy ta tất cả.
Lạy Chúa! Chúa đã yêu con đến cùng. Tình Yêu của Chúa làm cho con hạnh phúc. Con sẽ yêu như Chúa yêu. Con chỉ có thể yêu người khác khi con có Chúa. Vậy con tha thiết xin Chúa cứ giữ chặt con trong tình yêu của Chúa và xin Chúa hãy dẫn con đến với những người Chúa muốn con yêu họ, và khi sống cùng họ, xin Chúa cứ để con tự do yêu họ như cách Chúa muốn. Mỗi lần con không muốn yêu, chỉ muốn ghét bỏ ai, xin Chúa cho con biết nhìn lên Chúa đang Chịu Đóng Đinh trên thánh giá vì con, để tình yêu Chúa bao phủ con và phá tan rào cản ngăn cách con. Amen.
.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Con người sinh ra trong đời này là để yêu thương và được yêu thương. Tình yêu thương ấy được bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thương này là cốt lõi trong Đạo và trở thành giới luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi; ngươi phải yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Giới luật này đã được ghi trong sách Thứ luật và sách Lêvi. Các bậc khôn ngoan, các tiến sĩ luật Do Thái và ngoại giáo đã đưa ra áp dụng luật này vào trong thực tế: “Điều ngươi không muốn người ta làm cho chính mình, thì ngươi cũng đừng làm cho ai khác”. Như thế, con người mang sẵn trong mình sách lề luật và quy tắc đích thật về thái độ phải có đối với đồng loại.
Thưa anh chị em, bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta thấy một mẫu gương sáng chói về thái độ yêu thương và tha thứ cho kẻ thù: chỉ vì ghen tức mà vua Saolô đã xua quân lùng bắt Đavít, người tôi trung tài giỏi. Dù vậy, đứng bên đầu giường có sẵn cây giáo của Saolô đang ngủ say li bì, Đavít cũng không hạ sát kẻ đã gây đau thương tột độ cho mình. Ông chỉ lấy cây giáo và bình nước của Saolô và lẳng lặng ra đi khỏi doanh trại địch, rồi gọi bầy tôi của Saolô tới mà nhận về. Dù sống trong luân lý: “răng đền răng, mắt đền mắt” nhưng Đavít cũng đã thực hiện được giáo huấn mới của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình”. Vì, “Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy”. Phải yêu thương như vậy, vì đó là ý muốn của Thiên Chúa: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”. Với luật mới của Chúa Giêsu, tha nhân không chỉ là những người đồng chủng, những người yêu thương, làm ơn cho mình nhưng là tất cả mọi người. Đàng khác, Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Người phải đạt mức độ toàn vẹn và tuyệt đối hơn nữa, yêu thương cả kẻ thù và “Đừng xét đoán thì các con khỏi bị xét đoán. Đừng kết án thì các con khỏi bị kết án”. Vì, Thiên Chúa sẽ xét đoán chúng ta theo lối cư xử của chúng ta trong ngày phán xét chung thẩm.
Có câu chuyện kể rằng, trong thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang quằn quại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: “Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy!”. Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thanh niên trên vai và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra giữa chiến hào, tháo chiếc Thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hình ảnh và gương bác ái của viên sĩ quan Anh giúp chúng ta suy nghĩ về đời sống của mình, đồng thời hướng cái nhìn của chúng ta vào Chúa Giêsu, Thầy dạy và là tấm gương toàn vẹn về lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúa dạy chúng ta phải yêu thương, tha thứ cho những ai làm hại chúng ta. Vì chúng ta là con cái Thiên Chúa, Đấng nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác. Chúng ta đong đấu nào thì cũng sẽ được đông trả bằng đấu ấy. Vì thế, chúng ta muốn Thiên Chúa tha tội của chúng ta thì chính chúng ta cũng phải yêu thương tha tội cho những người xúc phạm đến chúng ta.
Nguyện xin Chúa xót thương và ban ơn trợ giúp để chúng ta biết thành tâm tìm kiếm và thực thi những điều đẹp ý Chúa. Amen.
.
Lm.Giuse Đỗ Đức trí
Một trong những di chứng mà chế độ Cộng sản tạo ra trong thế giới ngày nay đó là bạo lực, căm thù và trả thù. Sự căm thù, trả thù bằng bạo lực một thời được người ta đưa vào giảng dạy, tuyên truyền nhồi nhét trong nhà trường cho các học sinh. Từ đó những con người thiếu lòng bao dung tha thứ được tạo ra cho xã hội và họ đang cư xử với nhau bằng bạo lực và thù oán. Chúng ta có thể thấy trong cách ứng xử theo kiểu trả thù từ chính quyền, công an cho đến dân thường. Chính quyền, công an trả thù theo kiểu của kẻ có quyền lực, người dân trả thù nhau theo kiểu bạo lực của người dân, dân làm ăn trả thù theo kiểu dân làm ăn, các băng đảng trả thù theo kiểu các băng đảng. Hầu như các tấm gương sống quảng đại, bao dung, tha thứ càng ngày càng trở nên khan hiếm trong xã hội của chúng ta. Hôm nay Lời Chúa nhắc lại cho chúng ta về lối sống và cách cư xử của người môn đệ, đó là sống quảng đại và tha thứ.
Bài đọc một kể lại tấm gương tha thứ của Đavít đối với vua Saolê: Lúc đó Đavít đang phục vụ vua Saolê, ông cầm quân đánh thắng được nhiều kẻ thù, diệt được tướng khổng lồ Gôliat, được dân chúng ca tụng như một vị anh hùng. Vua Saolê đã ghen tị với sự thành công và được nhiều người ngưỡng mộ của Đavít, ông đã toan tính tiêu diệt Đavít. Đavít cùng với những người thân đã phải bỏ trốn vào sa mạc tránh khỏi sự truy sát của vua Saolê và đoàn quân tinh nhuệ của vua. Khi đêm xuống Saolê và đoàn quân đang ngủ, Đavít và những người theo ông đã đột nhập vào giữa doanh trại của Saolê mà không ai hay biết. Cận thần của Đavít đề nghị ông lấy giáo hạ sát Saolê, nhưng Đavít đã không làm như thế, ông chỉ lấy đi cây giáo và bình nước của Saolê như một bằng chứng ông đã tha thứ cho Saolê. Hôm sau từ bên kia thung lũng, Đavít đã gọi vua Saolê và nói cho nhà vua biết ông không hề mang thù oán, không muốn trả thù nhà vua, ông trả lại nhà vua cây giáo và bình nước với sự kính trọng. Lý do Đavít không ra tay sát hại Saolê vì ông kính trọng nhà vua là Đấng đã được Chúa xức dầu. Ông nói: “Có ai ra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà được vô sự đâu?”Điều này cho thấy cái nhìn đức tin của Đavít. Mặc dù Saolê đang là kẻ truy sát ông, Saolê đang để cho sự ghen tị thù oán chiếm hữu và làm chủ mình, nhưng Đavít vẫn nhìn nơi Saolê là người được Chúa chọn. Đavít kính trọng Saolê không phải vì cá nhân ông ta nhưng vì là người của Chúa, vì lòng kính sợ Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu giải thích rõ hơn lý do tại sao chúng ta phải sống quảng đại và tha thứ đối với anh chị em: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em”.Đây là một trong những nét nổi bật trong giáo lý của Chúa Giêsu. Sống trong một xã hội mà cách cư xử mắt đền mắt, răng đền răng, ăn miếng trả miếng, thì đòi hỏi này của chúa Giêsu quả là một bước đi thật dài và thật cao, là tiêu chuẩn đòi người môn đệ phải vượt qua. Thông thường, người ta có khuynh hướng yêu người mình yêu, thích người mình thích, xa tránh kẻ thù, nhưng ở đây Chúa đòi các môn đệ của Ngài phải có hành động chủ động và cụ thể hơn, đó là lấy ơn đáp lại oán, lấy yêu thương đáp lại ghen ghét, lấy tha thứ đáp lại sự thù hằn.
Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ của Ngài phải đi xa hơn thế nữa khi dạy rằng: Ai vả má bên này, thì giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì thì đừng đòi lại. Dạy những điều trên, Chúa không khuyến khích một lối sống nhu nhược, không làm ngơ trước bất công, nhưng Chúa muốn chúng ta không bao giờ dùng bạo lực để đáp lại bạo lực, không dùng thù oán đáp lại thù oán. Vì dùng bao lực đáp lại bạo lực, chỉ có thể gia tăng bạo lực. Cũng vậy, dùng thù oán đáp lại hận thù thì chỉ đào sâu và gia tăng sự thù oán mà thôi và nó là nguyên nhân đưa đến hủy diệt và giết chóc. Trái lại, khi dùng sự quảng đại và tha thứ để đối xử với nhau sẽ hóa giải được bạo lực và còn có thể chữa lành những tổn thương trong tâm hồn.
Lý do Chúa Giêsu đưa ra để giải thích cho những đòi hỏi của Ngài là: Vì chúng ta là môn đệ của Chúa và vì tất cả mọi người đều là con của Cha trên trời, là anh em với nhau. Vì thế, Chúa đòi chúng ta phải chủ động và tích cực đi bước trước trong việc tha thứ và trong cách cư xử quảng đại yêu thương với anh chị em chung quanh. Các nhà hiền triết trước đó như Khổng Tử chỉ yêu cầu: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”có nghĩa là: nếu mình không muốn điều gì, thì đừng làm cho người khác. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải chủ động hơn: “Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình, thì hãy làm cho người khác như vậy”.Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Ngài vượt trên tất cả cách cư xử thông thường và vượt trên lời dạy của các tôn giáo khác: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân nghĩa, vì người tội lỗi cũng yêu thương người yêu thương họ. Nếu anh em chỉ làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì dân ngoại cũng vẫn làm như thế”.Dạy điều này, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải dám sống khác với cách cư xử có qua có lạicủa người đời vì chúng ta là môn đệ của Chúa.
Lý do quan trọng hơn nữa, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết tại sao chúng ta phải cư xử tốt với nhau, quảng đại và tha thứ cho nhau, vì chúng ta là con Thiên Chúa: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là đấng nhân từ”.Thiên Chúa của chúng ta trước hết là một người Cha nhân từ hằng yêu thương ta và quảng đại tha thứ cho chúng ta. Vì thế, khi chúng ta cư xử với nhau bằng tình yêu và sự quảng đại, chúng ta không chỉ thể hiện lòng kính trọng Thiên Chúa là Cha, mà còn giúp chúng ta trở nên giống Thiên Chúa.
Mỗi người đều có kinh nghiệm về tình thương của Chúa, cảm nhận được Chúa yêu thương. Nhiều lần chúng ta sai lỗi, ngỗ nghịch chống lại Thiên Chúa, nhưng Chúa là Cha vẫn tha thứ cho chúng ta, Ngài không bao giờ kết án, nhưng chỉ biết yêu thương và tha thứ. Vì thế, chúng ta được mời gọi cư xử với nhau giống như Thiên Chúa đã đối xử với ta: “Đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên chúa xét đoán. Hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Hãy cho, thì Thiên Chúa sẽ cho lại gấp trăm và đầy tràn. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”.
Thưa quý OBACE, sống trong một xã hội đầy sự thù oán và bạo lực, người tín hữu dễ bị cám dỗ sử dụng bạo lực để giải quyết vấn đề. Phim ảnh, sách báo ngày nay hầu như khuyến khích sự trả thù theo kiểu: “Quân tử trả thù mười năm cũng không muộn”nhiều hơn là những gương sống đẹp, sống cao thượng và tha thứ. Suy nghĩ này đang ảnh hưởng trên nhiều người chúng ta. Sống trong xã hội chộp giật, mánh khoé, gian dối, chúng ta cũng bị cám dỗ hành xử như vậy. Thực tế, nhiều người đã đánh mất sự bao dung trong cách sống, sử dụng bạo lực ngay trong gia đình, thiếu kiên nhẫn khi giải quyết các vấn đề, nhất là thiếu tình yêu thương, bác ái trong cách cư xử với những người mình không ưa, không thích. Trong tương quan xã hội, trên các trang mạng, nhiều người đã không dùng những lời lẽ thiện chí, mang tính xây dựng, những lời mang tính yêu thương của đạo để nói với nhau, trái lại họ dễ dàng sử dụng ngôn ngữ côn đồ, bạo lực để phê bình, ném đá nhau, gây tổn thương cho nhau. Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc chúng ta xét lại cách sống và cách cư xử của mình đối với những người chung quanh. Là những người thuộc về Chúa Kitô, chúng ta phải dám sống khác với dòng chảy, xu thế, cùng những lôi kéo tầm thường của xã hội ngày nay. Chúng ta được mời gọi sống, cư xử với nhau bằng tình yêu thương thực sự, không giả dối; nhìn nhau theo cái nhìn của Chúa vì chúng ta đều là con của Chúa. Hơn nữa, chúng ta được mời gọi mỗi ngày phải nên giống Thiên Chúa là Đấng nhân từ và quảng đại với hết mọi người, dù là những người ta yêu ta thích, những người thích ta yêu ta và cả những người ta không yêu không thích, những người không thích ta, không yêu ta nữa. Đòi hỏi này tuy khó, nhưng chúng ta có thể thực hiện được với sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Xin cho chúng ta biết bắt đầu thực hiện những đòi hỏi của Chúa hôm nay từ trong gia đình, đến hàng xóm láng giềng và những người chúng ta gặp mỗi ngày. Amen.
.
Lm. Giuse Lê Danh Tường
Câu chuyện của Lời Chúa trong Chúa nhật VII Thường niên năm C xoay quanh cặp phạm trù yêu thương và thù hận. Yêu thương thì ai cũng muốn và thù hận chẳng ai muốn vướng vào. Yêu đi với yêu, và thù đi với thù, đấy là lẽ thường ở đời. Đối với Chúa Giê-su, cái lẽ thường ấy ai mà chẳng làm được. Con đường của Giê-su mời gọi là “hãy yêu kẻ thù”. Lạ đấy và khó đấy, nhưng nó là con đường nên thánh, con đường tới Nước Trời mà Giê-su đã đi.
Tình yêu đơn phương
Ở đời, ai cũng muốn được sống trong yêu thương. Tôi yêu bạn và bạn yêu tôi. Tình yêu ấy hoàn hảo và đáng ước ao. Nhưng nhân gian chứng kiến bao cảnh đời éo le mang một tình yêu xuất phát từ một hướng và không được đáp lại. Nhiều cuộc tình tréo ngoe kiểu tôi yêu bạn nhưng bạn không yêu tôi. Còn người yêu tôi thì tôi lại không yêu họ.
Nếu đi tìm một nhân vật điển hình luôn đau khổ rằn vặt cả đời trong mối tình đơn phương, thì đó là Giê-su. Tâm hồn Giê-su buồn bã nhìn những người mà Ngài yêu mến quay mặt bỏ đi, nhìn họ bước vào con đường chết mà không khuyên can được. Ngài đã khóc vì họ chẳng nghe theo mình để được sống. Cái đau khổ tột cùng khi bị chính người mình yêu sỉ vả và xua đuổi, vung tay đóng đinh mình vào cây thập giá.
Lòng thù đơn hướng
Nếu tình yêu đối đáp là thứ hoàn hảo đáng ước ao, thì lòng thù qua lại luôn là điều bị lên án xưa nay. Nếu tình yêu đơn phương tha thiết không nhiều trong xã hội, thì lòng thù đơn hướng cũng hiếm hoi vậy. Người ta dễ dàng trả thù cho những người làm hại mình, ruồng bỏ những ai đối xử tệ với mình.
Tình yêu giúp tôi luôn có lòng tha thứ, sẵn sàng phục vụ vô vị lợi cho người tôi yêu; Lòng thù khiến tôi luôn tìm cách bắt lỗi, tìm cơ hội để làm hại người tôi thù ghét. Yêu thương hay thù hận sẽ thay đổi cách thế hành xử của tôi với tha nhân.
Vua Saole coi Đavit là kẻ thù nên nhà vua truy sát Đavit đến cùng. Vua nhìn những chiến công của Đavit chỉ là những mưu mô làm hại mình. Abisai, cận thần của Đavit coi vua Saole là kẻ thù nên muốn giết vua. Đứng trước cơ hội, Abisai chỉ tìm cách làm sao để hại nhà vua nhanh nhất. Nhưng với Đavit, ông nhìn nhận vua Saole là “người được Chúa xức dầu”, ông không coi vua Saole là kẻ thù nên ông không hạ sát nhà vua. Đavit tìm cách bảo vệ nhà vua, tìm cách thức tỉnh nhà vua cho dù vua Saole tìm cách giết hại ông.
Giê-su chẳng thù ghét ai nên Ngài chẳng tìm cách hại người, chẳng oán ghét hay sát phạt người nào. Giê-su yêu hết thảy mọi người, dù với nhiều người chỉ là mối tình đơn phương. Bởi thế Giê-su luôn tìm cách cứu người, giúp người, nâng đỡ con người cho dù họ chấp nhận hay không, cho dù họ phản bội hay hạ sát mình.
Herode thấy sự xuất hiện của Giê-su là mối hoạ cho ngai vàng của mình. Hêrode thù ghét Giê-su nên tìm hạ giết Giê-su. Người ta vẫn có thể tìm thấy đâu đó những người coi Giê-su là kẻ thù. Nhưng tất cả họ đều là những người mà Đức Giê-su yêu thương. Họ là những người mang trong mình lòng thù đơn hướng. Họ thù hận Giê-su nhưng Giê-su đâu có thù ghét họ. Ở nơi Đức Giê-su không có lòng hận thù nên chẳng người nào thù oán ngài mà bị Ngài đáp trả. Chẳng có ai trên cõi đời này là kẻ thù của Giê-su cả. Giê-su đã yêu cháy bỏng cả nhân loại, yêu từng con người, yêu cho đến cùng
Yêu đến cùng
Mệnh lệnh “hãy yêu kẻ thù” có vẻ là điều không tưởng, nhưng đối với Giê-su đó lại là điều tất yếu. “hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình” – Những mệnh lệnh ấy làm sao ta làm được khi ta mang trong mình lòng thù hận. “Ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại” – Làm sao ta có thể làm được những điều ấy khi lòng mình chẳng có tình yêu thương.
Yêu tha nhân đến cùng, yêu đến chết và sẵn sàng bị hao mòn, bị chết vì người mình yêu. Giê-su đã yêu con người như thế, và Ngài muốn con người cũng yêu nhau như thế. Giê-su khát khao biến đổi trái tim con người nên giống trái tim Ngài. Phúc cho ai trở nên ngoan nguỳ trước tình yêu của Giê-su.
Yêu thương tất cả và không thù hận ai là lời mời gọi bước tới trên con đường thiện hảo. “Hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” là lời mời gọi kèm theo bảo đảm cho những ai tiến bước. Thánh Phaolo đã biện giải trong bài đọc 2: nếu ta là người thuộc Adam, ta thuộc về đất mang trong mình thân phận mỏng manh và hậu quả của tội lỗi; thì khi ta theo Đức Ki-tô, ta thuộc về thiên giới mang trong mình ân sủng chứa chan và hưởng nhờ hiệu quả ơn Cứu Độ. Bước theo Đức Giê-su là bước đi trên đường trọn lành với sự bảo đảm của Ơn Chúa luôn ở cùng ta.
Lạy Chúa, xin kéo con về trong vòng tay ân ái của Ngài, cho con được gục đầu bên trái tim Ngài để con được cảm nếm tình yêu vĩnh cửu; xin uốn nắn trái tim con để con có thể yêu thương và mãi mãi yêu thương mà thôi.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN_C.
Lm. Anthony Trung Thành
Tòa án nhân dân thành phố Hán Trung, tỉnh Thiêm Tây, Trung Quốc vừa tuyên án tử hình đối với Zhang Koukou, 36 tuổi.
Zhang phạm tội giết hại 3 người hàng xóm, bao gồm ông Wang Zizin (70 tuổi) cùng hai con trai Wang Zhengjun (40 tuổi) và Wang Xiaojun (46 tuổi) ngụ tại huyện Nam Trịnh, thành phố Hán Trung.Án mạng xảy ra ngày 15/12/2017 đúng vào dịp Tết Nguyên Đán.
Mới đây, tại phiên xử ngày 8/1/2019, tòa cho biết bị cáo Zhang đã theo dõi gia đình nạn nhân khi họ viếng mộ vào buổi tối; kế đó đâm chết 2 người con trai của gia đình Wang đang trên đường về nhà.
Tiếp theo, bị cáo đột nhập vào nhà họ Wang, đâm liên tiếp vào nạn nhân Zixin cho đến khi ông cụ thiệt mạng.
Bị cáo trở về nhà lấy 1 con dao khác và 2 bình xăng, sau đó đập nát cửa kính ô tô của Wang Xiaojun, đặt thi thể các nạn nhân vào trong rồi châm lửa đốt để phi tang chứng cứ. Nhưng cuối cùng, sự thật cũng được phơi bày và kẻ thủ ác đã phải trả giá cho tội lỗi của mình.
Theo phiên tòa, động cơ giết người đã bắt nguồn từ 22 năm trước. Năm 1996, mẹ bị cáo cãi nhau với cậu thanh niên nhà hàng xóm là Wang Zhengjun, đập vào đầu anh ta bằng một mảnh kim loại.
Wang Zhengjun kế đó lấy khúc gỗ đập vào đầu người phụ nữ dẫn đến tử vong. Cậu bé Zhang Koukou lúc đó 13 tuổi cũng có mặt tại hiện trường, tận mắt chứng kiến cái chết của mẹ và nung nấu ý định trả thù suốt hơn 20 năm nay.
Trở lại năm 1996, xét thấy Wang Zhengjun chỉ mới 18 tuổi, hơn nữa người phụ nữ còn tấn công trước, tòa đã xử phạt Zhengjun 7 năm tù giam và yêu cầu bồi thường cho gia đình nạn nhân 9.639,3 nhân dân tệ (tương đương 32,8 triệu đồng theo tỷ giá hiện nay). (Theo SCMP)
Nhìn lại lịch sử loài người có lẽ không lúc nào mà không có những câu chuyện thương tâm về việc báo thù:Báo thù giữa các quốc gia, báo thù giữa các bộ lạc, báo thù giữa các dòng họ, báo thù giữa các gia đình, báo thù giữa các tập thể và cá nhân, thậm chí báo thù ngay trong các thành viên của một gia đình. Người ta báo thù vì quyền, vì tiền, vì tình.Người ta cũng có thể báo thù chỉ vì người khác đẹp hơn, giàu có hơn, tài giỏi hơn mình. Trường hợp xảy ra trong bài đọc thứ I là một ví dụ: Vua Saolê ghen tức Đavít, tìm cách trả thù Đavít chỉ vì Đavít tài giỏi hơn, đánh được nhiều kẻ địch hơn, được dân chúng mến mộ hơn mình. Có lẽ nhiều lúc chúng ta cũng nuôi hận thù, tìm cách trả thù người khác vì những lý do trên hay vì những lý do không đâu. Nhưng dầu là lý do nào đi chăng nữa thì đối với người kitô hữu không bao giờ được phép báo thù. Tin mừng hôm nay Đức Giêsu dạy chúng ta rằng:“Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình.” (Lc 6,27-38). Như vậy, Đức Giêsu dạy chúng ta không những không được báo thù mà còn phải yêu kẻ thù, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ nữa.
Chính Đức Giêsu không chỉ dạy chúng ta mà Ngài còn làm gương cho chúng ta.Trong ba năm cuộc đời công khai, Ngài đã từng tha thứ tội lỗi cho nhiều người: Cho Giakêu, cho Lêvi, cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình… Dù biết Giuđa là kẻ phản bội, nhưng Ngài vẫn nhiều lần dùng cách này hay các khác để can ngăn, nhằm giúp Giuđa từ bỏ ý định phản bội của mình. Khi Phêrô chém đứt tai một tên lính đến bắt Ngài, Ngài không coi nó là kẻ thù, trái lại đã lập tức chữa lành tai cho hắn. Đặc biệt, trên thập giá trước khi trút hơi thở cuối cùng, Ngài đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34).
Các thánh cũng đã làm gương cho chúng ta: Đứng trước những cơn mưa đá người ta ném vào Ngài, Thánh Stêphanô bình tĩnh cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông qùi xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa xin đừng chấp họ tội này.”(x. Cvtđ 7, 59-60).Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến nhà tù thăm, nói chuyện và tha thứ cho Ali Agca là kẻ bắn Ngài tại quảng trường Thánh Phêrô ngày 13/05/1981.Trước khi trút hơn thở cuối cùng, Thánh Maria Goretti đã nói với Cha giải tội rằng: “Con muốn anh Alexandro cũng được ở trên Thiên đàng với con.”Chính Alexandro là kẻ giết Ngài.
Bài đọc thứ nhất hôm nay kể lại cho chúng ta biết về sự kiện vua Saolê cùng với ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphô để vây bắt Ðavít.Nhưng trong một tình huống khó lường.Chẳng những vua Saolê không làm gì được Đavít, trái lại Đavít có thể lấy mạng vua Saolê một cách dễ dàng khi vua còn ngủ.Nhưng Đavít đã không làm thế.Đavít đã không giết kẻ đang làm hại chính mình.
Tóm lại, yêu kẻ thù là lời dạy của Đức Giêsu, là nét đặc trưng trong cách sống của người kitô hữu.Tuy vậy, lời dạy này vẫn luôn khó thực hiện đối với mọi người.Vì thế, trong cuộc sống ít nhiều chúng ta đã nuôi hận thù trong tư tưởng, lời nói, thậm chí đã từng trả thù người khác.Xin Chúatha thứ cho chúng ta, đồng thời xin cho mọi người chúng ta biết noi gương Chúa, noi gương các thánh, noi gương hành động của Đavít trong bài đọc thứ nhất, luôn biết yêu kẻ thù, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ nữa.Làm được như vậy mới xứng đáng là người kitô hữu, như một giáo phụ đãkhẳng định rằng: “Ai không yêu thương kẻ thù của mình, thì người đó không phải là Kitô hữu.”
.
Lm. Anphong Nguyễn Công Minh
Những ai phải dọn bài giảng, gặp được đoạn Tin Mừng hôm nay thì đúng là tin mừng, mừng lắm luôn bởi vì có quá nhiều điều có thể rút ra, có quá nhiều đề tài nói đến, chứ không như một số đoạn PÂ, đọc mãi mà vẫn không giải được một ý gì cả để lên đề tài. Trong khi các đề của đoạn Tin Mừng hôm nay thì nhiều vô kể như : -Hãy yêu kẻ thù : kẻ thù là ai ? Yêu họ thế nào ? -Hãy tha thứ ; tha thứ cái gì, có khó không ? -Hãy nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ -Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Ba cái HÃY và 1 cái ĐỪNG. Tôi xin dừng ở cái Đừng đó với câu hỏi : Tại sao Chúa nói “Đừng xét đoán.” Tại sao Chúa cấm xét đoán ?
Trả lời cho câu hỏi này cũng không khó lắm, nhưng chúng ta có thể chuyển đề tài bằng cách trả lời 1 câu hỏi khác mà vẫn không đi xa đề : Tại sao Chúa cấm xét đoán à chuyển thành : Khi nào ta được phép xét đoán ?
Theo thánh Tôma, tiến sĩ vĩ đại của Giáo Hội, ta được phép xét đoán khi có đủ 3 điều kiện này : -khi được trao quyền xét đoán -khi biết rành mạch sự việc phải xét đoán -khi hoàn toàn thanh sạch mọi thành kiến. Cả 3 điều kiện này, được uỷ quyền, biết rành mạch, sạch thành kiến ít ai có thể đạt được cả 3 nên hay nhất là đừng xét đoán. Ta có thể nghe Chúa Giêsu sẽ nói như sau: Các con đừng xét đoán vì các con không hội đủ điều kiện khắt khe của người xét đoán đâu 1. Được trao quyền xét đoán.
Thánh Giacôbê trong thư của ngài đã nói 1 câu nghe giật mình : Chỉ có một mình Thiên Chúa đặt ra lề luật và có quyền xét xử. Còn ngươi là ai mà dám xét đoán tha nhân. (Gc 4,12) Chỉ một mình Chúa mới có quyền xét đoán. Nhưng Chúa cũng thông quyền này cho các Tông đồ, Giám Mục, Linh mục. Chúng ta đừng ham quyền này ! Khổ lắm . Honor, Onus: vinh quang quàng nặng.
Các LM khi ngồi toà Giải tội là đóng vai trò xét xử. Thử hỏi các LM, nhất là lớn tuổi khổ nhất là gì. Các LM cha xứ : khi người này người kia vào trình bày sự việc, xin cha : ý cha thế nào, kiến cha làm sao? Lại phải xét phải đoán. Chẳng sung sướng gì đâu. Cha mẹ trong gia đình cũng được chia quyền này. Khổ.
Vì thế những ai chẳng được giao phó cho quyền này, hãy vui lên tạ ơn Chúa chứ đừng nhận vào mà lãnh đủ.
Rồi khi hội đủ điều kiện 1, phải có điều kiện 2 nữa : 2. Phải biết rành mạch sự việc : Một LM ngồi toà phải trải qua muôn luân lý dài và rắc rối, mới có thể xét định được đâu là tội, đâu là không . Nếu không rành, rất nguy hiểm cho người đi xưng tội : tội giải được không giải, tội không giải được lại giải, có tội thì nói không sao, không sao thì bảo là nặng lắm… Một trong những điều kiện để chọn lựa ơn gọi tu trì, nhất là ơn gọi LM là óc phán đoán, óc phân biệt. Nếu thíếu, nếu yếu, thường được khuyên rút lui. Nếu không tự ý rút lui, sẽ cưỡng chế cho về. Còn khi đã là linh mục, gặp tai nạn chấn thương phần não, trở nên mát mát, hâm hâm, thì có thể làm lễ, nhưng không được ngồi toà… xét xử.
Điều này cho ta thấy để xét đoán, ngoài quyền được trao, còn phải rành sự việc mà sự việc ở đây đâu phải là chiếc búa, cái đinh, mà là con người có dáng vẻ bề ngoài nhưng cũng có phần tâm linh bí ẩn, ai dò cho thấu.
Kinh-thánh đã nói người ta chỉ xem xét được bên ngoài, chỉ có Chúa mới là đấng thấu suốt tâm can. Một việc bề ngoài ta coi là lỗi, nhưng biết đâu lại chẳng trở thành nhân đức.. nhờ thiện chí, nhờ ý tốt. Ta sẽ nói thêm khi kết luận.
Có quyền xét xử rồi lại phải am tường sự việc con người nữa. Nhưng để xét đoán tốt như vậy vẫn chưa đủ, còn phải :
3. Sạch mọi thành kiến nữa Einstein nói : Phá vỡ 1 thành kiến còn khó hơn phá vỡ 1 nhân nguyên tử ! Do đó, ta thực là khó để loại sạch mọi thành kiến được: không ưa thì dưa có giòi. Đã thích ai thì thích cả lối đi. Đã ghét ai thì ghét cả tông chi họ hàng. Có thiện cảm với ai thì dễ gì nhìn thấy lỗi họ được. Có ác cảm, yên trí với ai rồi, khó xử tốt. Ngôn ngữ bình dân gọi yên trí là tật. Tật là khó chữa. Tật yên trí. Có cả trăm câu chuyện để làm ví dụ cho tật yên trí này. mỗi người trong chúng ta chắc ai cũng đã có hơn một lần kinh nghiệm.
Tại sao Chúa nói : Đừng xét đoán. Ta đã trả lời gián tiếp: vì 3 điều kiện để được xét đoán quá khắt khe ít ai đạt được : quyền xét đoán, biết rành mạch, sạch thành kiến. Nên ta đừng xét đoán. Đây không chỉ là 1 lời khuyên, nhưng còn là 1 lời hứa, mà Chúa nói rõ, đừng xét đoán sẽ không bị Chúa xét đoán. Ta không khai thác điểm này, mà sẽ trở về với điều kiện 2, để xét đoán phải rành sự việc. Số là:
Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Ngày đầu tiên đến đất Tề, đói khát, may có người đem biếu ít gạo. Khổng Tử phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi là đệ tử Khổng Tử cưng nhất, ở nhà thổi cơm. Khổng Tử là thầy, nằm đọc sách. Đang đọc, nghe cái “cọc” từ bếp vọng lên. Liếc nhìn xuống bếp thấy Nhan Hồi lấy đũa xới cơm cho vào tay vắt lại, rồi liếc mắt nhìn quanh, không thấy ai, Nhan Hồi đưa cơm vào miệng. Khổng Tử thấy hết, nên ngửa mặt lên trời than: người học trò ta tin tưởng nhất, lại ăn vụng thầy, ăn vụng bạn, đốn mạt đến thế là cùng. Chao ôi, bao kỳ vọng đặt vào Nhan Hồi, thế là trôi theo mây khói.
Sau đó, Tử Lộ và nhóm hái rau từ rừng về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử nằm im đau khổ. Rồi cơm rau dọn lên, môn sinh chắp tay mời thầy. Khổng Tử ngồi dậy nói:
-Các con ơi, ta đi từ Lỗ sang Tề, đường xa vạn dặm. Hôm nay, ngày đầu tiên trên đất Tề, thầy nhớ quê hương đất Lỗ, nhớ đến tổ tiên, thầy muốn dâng bát cơm đầu tiên nhớ đến cha mẹ thầy. Các con nghĩ có nên không?
Trừ Nhan Hồi, các đệ tử đều đáp, thưa thầy nên. Khổng Tử nói: Nhưng không biết nồi cơm này có sạch không?
Học trò ngơ ngác không hiểu ý thầy, chỉ trừ Nhan Hồi chắp tay nói: thưa thầy nồi cơm này không được sạch. Khổng Tử hỏi tại sao? Nhan Hồi đáp :
-Khi cơm chín, con mở vung xem cơm đã thực chín đều chưa, thì một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi từ trên rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con cũng nhanh tay đậy vung, nhưng không kịp. Sau đó, xới cơm bẩn định vất đi… thì con chợt nghĩ, cơm thì ít, anh em thì đông, bỏ lớp cơm bẩn đi, vô tình bỏ mất một xuất cơm, anh em phải ăn ít lại, nên con ngưng vất đi và đã mạn phép thầy và anh em con ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn cơm sạch xin để phần thầy và anh em. Như vậy con đã ăn phần cơm, bây giờ chỉ xin ăn phần rau nữa thôi. Và thưa thầy, vì nồi cơm con đã ăn trước rồi, nên không nên dùng để cúng nữa ạ!
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời mà than: “Chao ôi, thế ra trên đời có nhiều việc chính mắt ta trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu đúng sự thật. Chao ôi, suýt nữa Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ.”
Vậy ta còn ham xét đoán nữa không ?
.
Lm. Đaminh Nguyễn Xuân Trường
Trong đời các cụ thường dạy “Lành với bụt chứ không ai lành với ma.” Ai tốt với ta thì ta cũng tốt với họ, còn ai chơi xấu ta thì ta cũng phải cho nó biết tay chứ! Trong phim ảnh, báo thù được coi như bổn phận thiêng liêng, để rồi khi thù đã trả xong thì khán giả mới thấy hả lòng hả dạ. Ấy thế mà Phúc Âm tuần này Chúa lại mời gọi chúng ta vượt qua biên giới bạn thù để yêu cả kẻ thù.
Yêu người dễ thương thì thấy hứng thú chứ yêu kẻ thù đáng ghét thì có lợi lộc gì đâu; Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình thì có sơ múi gì đâu. Thế nhưng chính khi làm như vậy thì sẽ bộc lộ ra tình yêu mà Chúa Giêsu công bố, đó là tình yêu quên mình đi chỉ nghĩ đến người khác.
Tự mình yêu thù không hề dễ. Chúng ta cần nhờ động lực thiêng liêng đó là tình yêu tha thứ của Chúa. Chúa chậm giận và giàu tình thương. Chính Chúa đã tha thứ muôn ngàn tội lỗi chúng ta. Một khi cảm nhận mình đã được Chúa tha thứ, thì ta sẽ dễ cảm thông và tha thứ, để có thể yêu kẻ thù.
Cùng với động lực là mục đích cao cả của chúng ta: khi yêu kẻ thù là lúc chúng ta mang trong mình trái tim tình không biên giới của Thiên Chúa là Đấng “nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” Khi yêu kẻ thù là lúc chúng ta có lòng nhân từ như Chúa là Đấng nhân từ.
Chắc chúng ta đều biết: Ngay giữa giây phút đau thương tột cùng vì bị kẻ thù đóng đinh vào thánh giá, Chúa Giêsu đã thốt lên: “Lạy Cha xin tha tội cho họ.” Đó là giây phút đẹp nhất đời Chúa Giêsu, giây phút làm cho điều không tưởng trở thành hiện thực, làm cho lí thuyết trở thành sự sống. Chúa Giêsu đã thực sự yêu kẻ thù. Ôi, tình không biên giới! Amen.
.
Lm. Antôn
Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giê-su giảng dạy về bốn mối phúc, một trong mối phúc là người nghèo khổ, và bốn điều bị chúc dữ, mất hạnh phúc, những người giàu có, no nê, thoáng nhìn xem ra rất lạ lùng. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta về một giáo lý mới xem ra cũng làm cho chúng ta cảm thấy khó chịu, đó là sự tha thứ, và yêu thương, cầu nguyện cho cả kẻ thù. Chúa dạy: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc, cầu nguyện cho những làm hại, vu khống mình. Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy.”
Một điều phải xác định rõ ở đây là: kẻ thù là những người thù ghét, vu khống gian dối và làm hại chúng ta, chứ không phải là những người chúng ta thù ghét họ, vì các môn đệ và Ki-tô hữu của Chúa không được thù ghét ai. Thế thì đối với kẻ thù, người làm hại chúng ta, phải đối xử với những người ấy như thế nào?
Thứ nhất, theo thường tình ở đời, đối với những người thù ghét chúng ta, thì theo bản tính tự nhiên của con người là trả thù. Ai cũng có khuynh hướng và hầu hết đều cư xử như thế, lý do là vì bản năng sinh tồn đòi hỏi hay vì sự tự ái thúc đẩy. Nếu không trả thù thì sẽ chịu thiệt thòi, tổn thương hay còn bị cho là tiếp tay với kẻ dữ, kẻ ác, hay bị cho là hèn nhát hay không công bằng. Vì: mắt thì phải đền bằng mắt, răng thì phải đền bằng rang thì mới công bằng, sòng phẳng. Thế nhưng trên thực tế sự trả thù nhiều khi còn đi xa hơn: mắt không chỉ đền bằng mắt, mà còn đền bằng tính mạng, cho nên chúng ta thường nghe nói: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.” Có những người còn cầu những sự dữ và thật dữ xảy đến cho người làm hại mình.
Một linh mục đã kể lại câu truyện như sau. Một lần, sau khi đã giảng bài Tin mừng hôm nay cho một nhóm trẻ, và nhấn mạnh đến những lời giảng dạy của Chúa, và muốn các em thực tập sống Lời Chúa như thế nào, linh mục liền bảo em gái 8 tuổi đến thử tát người anh 10 tuổi đang ở nhóm khác xem coi anh mình phản ứng thế nào. Người em liền đi đến nhóm của người anh và lấy hết sức tát người anh một cái như trời giáng. Người anh quay lại và túm lấy em đánh túi bụi ngay khi đang tham dự Thánh lễ trước sự chứng kiến của cha mẹ và nhiều người. Cha mẹ phải đến can hai anh em. Vị linh mục không ngờ người em lại tát anh mình một cái tát mạnh như thế, có lẽ là tích tụ của bao năm bị anh bắt nạt! Sau đó, linh mục hỏi người anh: “Tại sao cha mới dạy em về cách hành xử theo lời Chúa Kitô dạy là hễ ai tát má này, hãy đưa má khác cho người ta, mà con đã không đưa má khác thì chớ lại còn đánh em túi bụi?” Người anh trả lời: “Tại vì nó tát con đau quá! Nếu nó chỉ tát nhẹ thôi, con sẽ đưa má khác cho nó!”
Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy tha thứ, yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho người thù ghét, làm hại mình. Ai cũng biết lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có tình thương tha thứ mới dập tắt, làm tiêu tan được hận thù mà thôi. Tuy nhiên vì tự ái và vì muốn đòi sự công bằng, người ta luôn theo đuổi sự trả thù.
Thái độ thứ hai phản ứng lại với kẻ thù là tha thứ. Khi bị người khác làm hại mà không trả thù thì đã là cao thượng, anh hùng và bác ái lắm rồi. Bài đọc 1 cho chúng ta thấy Đa-vít bị vua Sao-lê truy nã để giết, nay có cơ hội để trả thù, thế mà Đa-vít đã không dám giết vua Sao-lê vì sợ Chúa, chỉ để cây gươm và bình nước bên cạnh Sao-lê mà thôi. Hành động của Đa-vít được dân chúng ca ngợi là độ lượng, quảng đại. Có lẽ Đa-vít đã phải chiến đấu một cách mãnh liệt với bản năng muốn trả thù của mình thì mới có hành động tha thứ như thế. Tuy nhiên, với những người tin theo Chúa là tất cả chúng ta đây, Chúa muốn và đòi hỏi chúng ta phải vươn cao hơn nữa, đó là không những không trả thù mà còn yêu thương, cầu nguyện, làm ơn, làm những điều tốt lành cho những người làm hại chúng ta. Chúa Giê-su đã nêu ra cho chúng ta một tấm gương của Thiên Chúa để chúng ta noi theo, và Người nói cho chúng ta biết: “Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như người dữ, cho mưa trên người công chính cũng như kể bất lương.” (Mt. 5, 45) Khi Chúa Giê-su bị treo trên thập giá và trước khi hấp hối, Người đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã đánh đập và giết Người. Và qua cuộc khổ nạn và cái chết đau thương trên Thánh giá, Chúa đã tuôn đổ tình yêu tha thứ và ơn cứu độ xuống trên tất cả mọi người.
Chúng ta biết chắc chắn là việc tha thứ, yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho người làm hại mình là một điều thật khó nếu không có ơn Chúa giúp. Chúng ta cũng phải luôn xác tín rằng Chúa không bao giờ dạy chúng ta làm một điều gì mà Chúa biết rõ chúng ta không có khả năng làm được. Thật ra, tha thứ, yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ làm hại mình không phải là một thái độ có sẵn trong con người, nhưng là ơn sủng bắt nguồn từ Thiên Chúa. Khi chúng ta đối xử bằng tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa, thì Cha trên trời sẽ càng rộng lượng hơn đối với chúng ta: “Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy.” Khi chúng ta tha thứ, yêu thương và làm ơn thì chúng ta sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa hơn như lời Chúa kêu gọi: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ.”
Bài giáo lý về tha thứ và làm ơn cho người làm hại mình của Chúa dạy trong bài Tin mừng hôm nay không phải dành cho những người muốn trở thành anh hùng hay siêu nhân, hay những người muốn nổi danh, mà dành cho những ai muốn làm con Thiên Chúa, và muốn được hưởng bình an và hạnh phúc đời này và đời sau Nước Trời.
.