CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN_A
Lời Chúa: Lv 19,1-2.17-18; 1Cr 3,16-23; Mt 5,38-48
——–
- Vòng Xoay Cuộc Đời (Lm Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc)
- Nên thánh bằng yêu thương (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Tình yêu đáp lại hận thù (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
- Tình yêu kỳ diệu (Jorathe Nắng Tím)
- Yêu kẻ thù, khó hay dễ? (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
- Học yêu (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
- Yêu thương không ấp ủ tổn thương (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
- Gặp gỡ trong yêu thương (Maria Nguyễn Huệ, MTG.Thủ Đức)
- Con đường mới cho nhân loại (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
- Giữ luật Chúa với lòng mến Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
- Yêu “kẻ thù” như thế nào đây? (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
- Hãy nên trọn lành như Cha trên trời (Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
- Hãy tha thứ. Đừng báo thù (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
- Bão lòng (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
- Yêu thương thù địch-điều không dễ chút nào (Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
- Ơn gọi nên thánh (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải)
- Yêu kẻ thù là chân lý tình yêu của Chúa (Lm. Raphael Xuân Nguyên)
- Thương thù thì thiệt thòi (Lm. Giuse Nguyễn Đức Ngọc)
- Đừng xem nhau là kẻ thù (PM. Cao Huy Hoàng)
- Hãy nên hoàn thiện (Giuse Hồng Ân)
- Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ (Jos.Vinc. Ngọc Biển)
- Nên hay dừng? (JM. Lam Thy)
- Hãy yêu thương kẻ thù (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- Sống và yêu (Trầm Thiên Thu)
- Nên một tình yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Khó nhất là làm gương (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
- Sống theo luật thương xót thay vì luật báo thù (Lm. Trần Bình Trọng)
- Vạn nẻo yêu thương để nên hoàn thiện (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
- Trả đũa (Lm. Vũ Đình Tường)
- Yêu tha nhân vô bờ bến (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
- Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 7 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
- Yêu thương tha nhân không giới hạn (Vân Mây, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)
- Khi tình yêu trở thành ánh sáng (Lm. Trương Đình Hiền)
- Tha thứ vì bản thân cần được tha thứ (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
- Nhờ Chúa con yêu cả kẻ thù (Lm. Nguyễn Xuân Trường)
- Hoàn thiện trong tình yêu (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
- Sống là để yêu (Lm. Giuse Nguyễn)
- Chúa Nhật 7 TN_A (Lm. Antôn)
1. Những nhân đức phi thường (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Lòng khoan dung (Lm. Tạ Duy Tuyền)
3. Yêu kẻ thù (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Hãy sống yêu thương và nên trọn lành (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Yêu thương (Lm. Trần Việt Hùng)
6. Hãy yêu kẻ thù (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7. Sống hoàn thiện hay sống công chính Tin mừng (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
8. Yêu thương kẻ thù (Lm. GB Trần Văn Hào, SDB)
9. Thực thi đức ái (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)
10. Nhất tự luật (Trầm Thiên Thu)
11. Quảng đại với kẻ ác (P. Trần Đình Phan Tiến)
12. Luật yêu thương (AM. Trần Bình An)
13. Luật yêu thương- (JM. Lam Thy, ĐVD)
14. Sâu đậm yêu thương (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
15. Hãy hoàn thiện như Cha anh em trên trời (Lm. Uyen Nguyen)
16. Lòng bao dung (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
17. Niềm vui gia đình là sự thánh thiện (Lm. Giuse Nguyễn)
18. Yêu kẻ thù- (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
19. Luật tình yêu hoàn thiện (Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
20. Yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình (Lm. Đan Vinh)
21. Chúa Nhật 7 Thường niên_A (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
Lm. Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc
Người ta nghèo khổ vì tiền, nhưng sẽ tủi buồn hơn nếu phải sống mà thiếu tình. Cho dẫu các đấng bậc có hơi lãng mạn một chút, thì tình vẫn được nhắc đến với cái tên thú vị: tình là gì, tình là chi mà ai cũng than khổ vì tình, khổ vì yêu ! Bậc sinh thành cớ gì không biết: nụ cười của con là hạnh phúc của cha mẹ. Phận làm con mấy ai chưa đọc: công cha nghĩa mẹ ơn thầy, mai này khôn lớn ơn dày biển sâu. Bước ra khỏi trường làng, không phải ta chỉ đối diện với tiền tài danh vọng, trung tâm nghe nhìn sẽ cho ta cảm nhận tốt xấu, xinh đẹp dơ bẩn, gọi là vòng xoay cuộc đời có thành có bại. Bằng những câu tục ngữ ca dao, cha ông ta nói rằng: khuyên ai ăn ở cho lành, kiếp này chưa gặp để dành kiếp sau. Ngày hôm nay, các chuyên gia đúc kết kinh nghiệm hết sức sâu đậm: nơi nào có một kẻ chiến thắng, nơi đó có một người thua cuộc. Nhưng chân lý cuối cùng: người biết hy sinh vì tình đồng loại, luôn luôn là người chiến thắng.
Vòng xoay cuộc đời mà Đức Giêsu chi tiết với các học trò, với chúng ta hôm nay là gì ? Để dẫn tới giáo huấn yêu thương cách trọn vẹn, Đức Giêsu nói rất rõ ràng, “các con đã nghe bảo: mắt đền mắt, răng đền răng, còn Thầy, Thầy bảo các con, đừng chống cự lại những kẻ hung ác”. Giầu sang phú quý, hiền lành xinh đẹp, tài giỏi, bằng cấp, có phải là thao thức của chúng ta không ? Thực ra, ngay từ khi có trí khôn, mỗi người đã được khắc ghi vào tâm trí: hãy sống đúng, sống đẹp, đừng bao giờ làm điều xấu xa tội lỗi. Đức Giêsu đã hướng con người vượt lên trên tự nhiên để sống giá trị thật của tình yêu, còn gọi là hãy sống đức công bằng yêu thương. Chính cơn lốc làm hư hỏng, bão táp nhận chìm mơ ước của ta, song cuộc đời phức tạp cũng không phải là bế tắc, một khi ta có đủ niềm tin vào tương lai tốt đẹp.
Vòng xoay cuộc đời được quy chiếu tất cả vào khái niệm hạnh phúc, qua đó, tất cả những ai thuộc về Đức Kitô, ở trong Đức Kitô, phải ý thức được trách nhiệm, bổn phận, trước sứ mạng yêu thương mời gọi. “Nếu ai vả má bên phải của con, hãy đưa má bên kia cho nó nữa”. Công bằng tự nhiên là ơn đền oán trả, hạnh phúc ở đời là nhiều tài sản, quyền cao chức trọng. Công bằng yêu thương mà bậc sinh thành vẫn áp dụng: chấp nhận già, xấu, hao tổn công sức, miễn sao con khôn lớn, có danh có phận. Vâng, cuộc sống căn bản luôn có “nhiều lời giải”, trong đó mỗi người tự do thực hiện theo đáp án riêng của mình. Người giầu tham công tiếc của, người nghèo cũng thao thức việc làm ổn định, thu nhập cao, chỉ người anh minh mới thèm bình an hạnh phúc.
Vòng xoay cuộc đời của ta đang ở mức độ nào, mỗi người sẽ biết rõ về mình: giầu vật chất, giầu tinh thần, cuộc sống đã ổn định hay gia đình còn nhiều bất trắc, tất cả không được ngừng hoàn thiện ơn gọi theo Thầy Giêsu. Chủ trương sống hiếu thuận hiếu hoà: nếu có thể, hãy giúp người, nếu không thể, ít nhất đừng xúc phạm ai. Đức Giêsu nhắc nhớ đến sự thật: Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ. Các môn đệ, tổ tiên ông bà cha mẹ, và chúng ta hôm nay, đều mang chung sứ mạng: vinh danh trên trời, bình an dưới thế. Đấng đang xoay cuộc đời mỗi người đến chân lý vẹn toàn: “hãy yêu thương thù địch, hãy làm ơn cho những kẻ ghét các con, cầu nguyện cho những kẻ vu khống và bắt bớ các con”. Sẽ có người lý sự, làm sao yêu được kẻ thù, làm sao cầu nguyện khi tâm trí đối diện với oan ức ? Hãy đến với Thầy Giêsu: dốt kia thì phải cậy thầy, vụng kia cậy thợ thì mày làm nên. (Ca dao).
Vòng xoay cuộc đời của cha thánh Gioan Vianey: khó khăn lớn của ngài là học lực yếu kém, nhưng do đạo đức và ý chí quyết tâm, sau trở thành Vị Thánh lớn, biến đổi được nhiều tâm hồn trở về với Chúa. Thánh nữ Monica, cả cuộc đời là cầu nguyện, chỉ thế thôi, việc còn lại là Chúa. Thánh nữ đã chứng kiến người chồng trở lại làm con Chúa. Trước khi giã từ cuộc đời, bà đã biết đứa con Augustinô hoán cải và đang sống đời tận hiến cho Chúa. Cuộc sống thật thú vị: cuối cùng một số đau khổ của các bạn, trở thành điểm mạnh, đẹp và chuẩn trước muôn thế hệ. Cuộc sống không hề có hên xui, mọi đứa trẻ đều giống nhau, khác ở chỗ đứa trẻ được chăm sóc cẩn thận, hoặc biết chăm học, chăm làm, hệ quả: thất bại, hạnh phúc, là có thật. Cuộc sống không phải là vấn đề cần giải quyết, mà là thực tế để chúng ta trải nghiệm. Đức Giêsu nói đến cơ hội mà ai cũng có: “Thiên Chúa cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.
Có hai anh bạn thân thiết lâu ngày không gặp nhau, hôm đó khi vừa gặp, bỗng có một “cái bốp”, anh kia tá hoả, ôi sao mày tát tao vậy ? Người bạn kia vừa cười vừa nói, tao mới nghe bài tin mừng chúa nhật hôm nay, Chúa nói ai vả má bên này hãy đưa cả má bên kia cho nó, tao thử xem mày đức độ tới đâu thôi ? Nhanh như chớp anh kia cát lại một cái thật mạnh, rất tiếc tao mới chỉ là kẻ tầm thường, tao mới ở mức độ hai, cần tin tưởng, cậy trông vào tình yêu và sức mạnh của Chúa nhiều hơn. Vòng xoay mà Đức Giêsu kêu gọi: “hãy nên trọn lành như Cha trên trời”. Đức Giêsu đâu muốn các học trò yêu thương nhau trên phạm vi lý thuyết. Đức Giêsu đâu muốn chúng ta chỉ có cái tên là kitô hữu. Đức Giêsu không hề muốn những ai theo Chúa làm môn đệ chỉ dừng lại ở mức độ yêu những ai yêu mình. Amen.
.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Ngay từ thời đầu của Giáo Hội, những tín hữu Kitô đã được gọi là “các thánh”. Chính Thánh Phaolô đã dùng danh xưng này để chỉ những người đã gia nhập Giáo Hội qua bí tích Thanh Tẩy. Khi gọi họ là “các thánh”, chắc hẳn vị Tông đồ vừa muốn diễn tả đời sống tốt lành của các tín hữu, đồng thời muốn nhấn mạnh tới lý tưởng, mục tiêu mà các tín hữu phải đạt tới. Kitô hữu là người đang cố gắng để thánh hóa bản thân, làm cho mình trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô, để rồi lời nói của chúng ta là lời của Chúa, việc làm của chúng ta là việc làm của Chúa, chúng ta hiện diện nơi đâu là có Chúa hiện diện ở đó.
Như vậy, nên thánh không phải chỉ là tình trạng thiên đàng sau khi chúng ta đã chết, mà là một quá trình biến đổi để hoàn thiện chính mình, để rồi ngay khi còn đang sống ở đời này, chúng ta đã được nếm hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, qua việc được chiêm ngưỡng Chúa bằng đức tin và tình mến. Nên thánh cũng không phải ảo tưởng hay giấc mơ về một thế giới xa vời, như để quên đi những đau khổ hiện tại.
Khái niệm nên thánh như đã nêu trên làm cho đời sống tín hữu không khô cứng, vô vị, nhưng luôn sống động và vươn lên không ngừng. Người ước ao nên thánh là người muốn sống ngày hôm nay tốt hơn hôm qua, và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay. Họ không dừng lại ở một cuộc sống đơn điệu, nhưng luôn khám phá ra niềm vui của đức tin và sự tốt lành của Chúa. Cuộc sống mà dừng lại sẽ giống như ao tù. Con người không lý tưởng sẽ giống như ngõ cụt. Họ không biết mình sống cho ai và để làm gì.
Nên thánh là một lệnh truyền của Thiên Chúa cho dân riêng của Ngài. Lời Chúa phán với ông Môisen cho chúng ta thấy rõ: “Hãy nói với toàn thể con cái Israen: ‘Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Bài đọc I). Lý do của ơn gọi nên thánh là: vì Chúa là Đấng Thánh. Ai muốn thuộc về Chúa thì phải nên giống như Ngài. Thánh thiện chính là được san sẻ một phần vinh quang của Chúa, để rồi ngay khi sống ở trần gian, chúng ta đã tỏa sáng trong cuộc đời qua những cử chỉ tốt đẹp của mình đối với đồng loại. Sau khi nhắc lại lệnh truyền nên thánh, tác giả sách Lêvi quảng diễn chi tiết về khái niệm thánh: đó là yêu thương anh chị em, đừng quở trách họ. Không được trả thù, không được oán hận. Trái lại phải yêu mến người khác như chính bản thân mình.
“Thương người như thể thương thân”. Đó là nét đẹp truyền thống ngàn đời của người Việt Nam. Nét đẹp này đã gặp gỡ lời dạy “Yêu đồng loại như chính mình” của Cựu Ước và còn hơn thế nữa, là lời dạy “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình” của Tân Ước. Để có thể yêu thương kẻ thù, mỗi người phải vượt lên chính mình, để chiến thắng thù hận và chấp nhận mọi thị phi. Yêu thương kẻ thù là một nhân đức anh hùng, là bằng chứng của sự từ bỏ chính bản thân và là tình yêu thương ở mức tuyệt hảo. Cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, đó là bằng chứng của lòng bao dung và tha thứ trọn vẹn.
Nên thánh không dừng lại ở một khái niệm lý thuyết, nhưng phải được thể hiện cụ thể trong việc làm và lối sống. Nên thánh trước mặt Chúa là có một lối sống ngay thẳng chân thành. Tuy vậy, sự ngay thẳng chân thành ấy phải được kiểm chứng qua mối tương quan hằng ngày với tha nhân. Một cách rất cụ thể, Chúa Giêsu nói đến luật yêu thương và những lời khuyên để đem luật đó vào cuộc sống. Đức yêu thương Chúa Giêsu truyền dạy ưu việt hơn những lệnh truyền của Cựu Ước. Vì vậy, Chúa nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng…. Còn Thầy, Thầy bảo anh em…”. Qua những lời tuyên bố trên, Đức Giêsu chứng tỏ Người có sứ mạng kiện toàn lề luật. Người dựa trên nền tảng Luật Cựu ước, đồng thời mặc cho Luật ấy một giá trị cao siêu hơn, hoàn hảo hơn. Tình yêu thương Chúa dạy không chỉ được thực hiện nơi người đồng bào, người cùng phe cánh hay người làm ơn cho chúng ta mà thôi, nhưng là hết mọi người không phân biệt. Luật mới của Chúa không chỉ bao gồm những điều cấm đoán, nhưng khuyên dạy làm những điều tích cực cho tha nhân. Chính điều này làm cho lối sống của người tín hữu khác với những thực hành của những người thu thuế và người biệt phái. Đối với người tín hữu, không có ai là kẻ thù hay người ngoại, vì hết thảy mọi người trên trái đất đều là anh chị em của cùng một Cha trên trời. Mức độ thánh thiện của một người được lượng giá qua tình bác ái mà họ thực hiện đối với người xung quanh. Một người sống khép kín, dửng dưng trước nỗi đau của người bên cạnh, không thể nên thánh.
Thánh thiện còn là nhận ra phẩm giá cao quý của mình trong cuộc đời này. Mỗi người chúng ta không hiện hữu như một đồ vật vô tri vô giác, nhưng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (Bài đọc II). Biết được phẩm giá của mình để tôn trọng thân xác và trau dồi bản thân trong những lãnh vực khác nhau. Chỉ những ai biết yêu mến trân trọng bản thân mình, thì mới có thể yêu mến trân trọng tha nhân. Tác giả thư gửi giáo dân Côrinhtô cũng chỉ rõ đâu là điều quan trọng đích thực mà chúng ta tìm kiếm: đó là Đức Kitô. Người là lý tưởng và mẫu mực cho chúng ta trong hành trình nên thánh. Một khi quy hướng về Đức Kitô, sẽ không còn chia rẽ và ganh ty bè phái như thực trạng của cộng đoàn Côrinhtô lúc bấy giờ, tức là người thì cho mình thuộc về Phaolô, người thì thuộc Apôlô, người thì thuộc Kêpha.
Nên thánh bằng yêu thương. Đó là thông điệp mà Lời Chúa muốn thông truyền cho chúng ta. Hai ngàn năm nay, Giáo Hội đã thực hiện lời mời gọi của Chúa, cổ võ tình yêu thương, phá bỏ những ngăn cách, hòa giải những bất hòa và nâng đỡ người bé mọn. Chúng ta mỗi người đều là chi thể của Giáo Hội, chúng ta có ý thức được lời mời gọi nên thánh qua việc thực thi đức yêu thương không?
“Ai không có sức mạnh để tha thứ, cũng không có sức mạnh để yêu thương” (Martin Luther King Jr.).
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự. Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
- Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
- Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?
.
Jorathe Nắng Tím
“Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ?” (Mt 5,46)
Như thế, tình yêu được Đức Giêsu định nghiã hoàn toàn khác với tình yêu con người quan niệm : yêu kẻ yêu mình, thương người thương mình, và tình yêu là tình của hai người yêu nhau ; tình yêu của Đức Giêsu đề nghị không còn là tình yêu con người thực hiện cho nhau : chỉ yêu người thương mình, chỉ thân thiện với người mình thân thương, chỉ chào hỏi người mình có cảm tình ; và giới luật mới tình yêu mà Đức Giêsu muốn những ai đi theo Ngài phải sống cũng không giống luật sống : “Mắt đền mắt, răng đền răng”, mà con người coi như nguyên tắc căn bản trong tương quan ứng xử trong đời thường.
Qủa thực, Đức Giêsu đã thay đổi hoàn toàn định nghiã của Tình Yêu, bởi từ nay, với Ngài : Yêu không còn là yêu người yêu mình, mà còn là “yêu người không yêu mình, yêu người yêu mình không hết tình, yêu người yêu mình không đúng, không đủ”.
Nhưng vẫn chưa hết, tình yêu được định nghiã lại bởi Đức Giêsu còn đi xa hơn, lạ lùng hơn, quyết liệt hơn, và cũng cam go, khó khăn, vật vã hơn rất nhiều, khi đòi phải “yêu cả kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình” (x. Mt 5,44).
“Yêu kẻ thù” thế nào được, vì đòi hỏi này hoàn toàn mâu thuẫn với luận lý bình thường, bởi có yêu thì phải yêu người đáng yêu, người yêu mình, hay ít ra là người chưa có ân oán, nợ máu, nợ xương gì với mình, chứ ai lại “ngu si, đần độn, khờ dại và liều mạng” đến độ đi yêu kẻ thù, yêu kẻ chơi xấu mình, yêu kẻ lợi dụng mình, yêu kẻ chỉ muốn dùng mình như bàn đạp, phương tiện, yêu kẻ đâm sau lưng mình, yêu kẻ chống lại mình, yêu kẻ nguyền rủa, vu khống mình, yêu kẻ lên án mình, yêu kẻ tìm mọi cách đốn gục mình, yêu kẻ muốn hãm hại mình, yêu kẻ muốn tiêu diệt mình ?
Yêu kẻ thù còn là điều không thể quan niệm trong tình yêu, vì không những vô lý, mà còn không thể thực hiện : vô lý, và bất khả thi, khi làm một điều ngược với điều lý trí “coi là bình thường”, và với điều trái tim “bình thường cảm thấy”, nhất là hoàn toàn đi ngược đường lối “khôn ngoan của xã hội” .
Tin Mừng hôm nay với Tình Yêu được Đức Giêsu đề nghị các môn đệ Ngài thực hiện không chỉ là tình yêu chịu đựng, hiền lành như “đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt 5,39) ; không chỉ là tình yêu quảng đại, hào sảng : “Ai lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài” (Mt 5,41), “Ai xin thì hãy cho ; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,42) ; tình yêu kiên trì, nhẫn nại : “ai bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm” (Mt 5,41), nhưng còn là Tình Yêu vượt qua bình diện tự nhiên, để vươn cao đến siêu nhiên, chạm được Thiên Chúa khi ‘gồng mình’ “cầu nguyện cho cả những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Đòi hỏi cầu nguyện cho kẻ thù là tột điểm của tình yêu mà Đức Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải thực hiện. Là tột điểm của tình yêu, vì là hành vi cao cả, kỳ diệu, thánh thiện, mầu nhiệm và tuyệt vời khôn sánh, bởi cầu nguyện cho kẻ thù không những vượt tầm hiểu biết, suy nghĩ, mà còn vượt khả năng thực hiện của con người.
Vì thế, trong tình yêu được đề nghị bởi Đức Giêsu sẽ không chỉ có con ngừơi yêu nhau, không chỉ là tình yêu thuộc bình diện nhân loại, tình người yêu con người, mà còn có Thiên Chúa là Tình Yêu hiện diện, có Thiên Chúa tình yêu hoạt động, có Thiên Chúa tình yêu tham dự, có Thiên Chúa tình yêu ban sinh lực và nâng đỡ, tắt một lời : trong tình yêu kỳ diệu này, luôn “có Thiên Chúa là Tình Yêu cùng yêu với”, bởi đây là tình yêu vượt ra khỏi tự nhiên, vượt lên trên con người, để đi vào vùng siêu nhiên, chạm được chính Thiên Chúa là Tình Yêu tuyệt đối.
Đó chính là lý do Đức Giêsu đã công khai tuyên bố : sự thánh thiện của con người chính là đạt đến tình yêu kỳ diệu này, tình yêu như giới luật mới của Thiên Chúa truyền ban cho con người, vì chỉ khi ra khỏi “tình yêu theo khuôn khổ tự nhiên, và định chế xã hội” để đạt đến tình yêu không biên giới, không điều kiện, không đòi đền đáp, tình yêu mang hình ảnh của Thiên Chúa, tình yêu từ nguồn thánh thiện của Thiên Chúa, tình yêu như ơn gọi trở nên con Thiên Chúa, Đấng “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45), người môn đệ Đức Giêsu mới thực sự sống theo Giới Luật mới của Thiên Chúa, và làm đẹp lòng Ngqài. Chỉ trong tình yêu “có Thiên Chúa”, với tình yêu không theo tính toán của thế gian, phù hợp với kế hoạch của loài người, bằng khôn ngoan của nhân loại, người môn đệ của Đức Giêsu mới có thể “nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48), và mới đáng được Thiên Chúa thưởng công đời đời (x. Mt 5,46-47).
Vâng, Đức Ái Kitô giáo không còn là tình yêu như người đời quan niệm, không còn là tình yêu như con người định nghiã, cũng không còn là tình yêu an nhàn, thoải mái, dễ thực hiện, nhưng đòi vượt qua nhiều biên giới, nhiều cản trở, nhiều chướng ngại, những chướng ngại của ích kỷ, tham lam, những cản trở của ganh ghét, đố kỵ, những biên giới của kỳ thị chủng tộc, giai cấp, thành phần xã hội.
Đức Ái ấy khó khăn, quyết liệt, và triệt để, đến cùng, nên khi thiếu yêu thương quên mình, thiếu chia sẻ đến thiệt thân, thiếu tha thứ đến nỗi bị đời cho là khờ dại, “người Giời”, chúng ta vẫn chưa được gọi là Con Thiên Chúa, vì bất xứng với Tình Yêu kỳ diệu, thần thánh mà Thiên Chúa muốn chúng ta đi vào. Cũng vì lý do này, Giáo Hội còn gặp nhiều khó khăn, khi những người con của Giáo Hội không sống tình yêu theo định nghiã mới của Đức Giêsu, nhưng tiếp tục để “tình yêu” theo kiểu thế gian hớp hồn, lôi cuốn.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Khó khăn ngay từ khi nghe dạy: “hãy yêu kẻ thù”. Đã là kẻ thù nghịch với mình, làm sao có thể yêu thương, còn làm ơn cho kẻ thủ ác với mình. Điều khó khăn ấy, cần xuất phát lại từ nơi tình yêu Thiên Chúa mới có thể thực hiện được việc yêu kẻ thù.
Tại sao yêu kẻ thù.
Tình yêu là trên hết mọi sự. Thiên Chúa yêu thương con người vô điều kiện, dù con người thế nào đi chăng nữa, Thiên Chúa cũng yêu thương. Sự tốt lành của Thiên Chúa thể hiện qua tình yêu giáng thế nơi chính Chúa Giêsu. “Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5,8)
Yêu thương như cách người ta vẫn sống: “Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5, 46). Yêu kẻ thù là một đòi hỏi từ nơi Chúa Giêsu với những người tin theo Chúa. Đó là một cách đảo lộn cách suy nghĩ về đức yêu thương, không xem mình là trung tâm, mọi người xoay quanh mình, mà từ nay mọi người cũng như chính mình cần lấy Chúa làm trung tâm.
Yêu kẻ thù là một đòi hỏi đức ái cao cả, khó thực hiện nhưng cũng là một hành vi giải thoát chính mình khỏi ích kỷ hữu hiệu nhất. Thông thường ghét kẻ thù ta sẽ nuôi lòng oán hận, trả thù… Nuôi những ý định, cảm xúc tiêu cực này thôi, đã tự giam hãm mình trong cái tôi ích kỷ, buồn chán, đau khổ, xấu tính…
Khi nuôi hận thù, ta có thể nói xấu, vu oan cho kẻ ta không ưa thích, ta tìm nhiều cách làm phương hại đến kẻ thù. Dù khi ta nói với người khác về cái xấu của kẻ thù, cũng làm cho người nghe e ngại tiếp cận với ta. Sự cô lập hoặc tạo thành một nhóm chuyên nói xấu người khác, điều đó tạo thành khối ung nhọt nguy hiểm cho cộng đoàn.
Yêu kẻ thù, là một đòi hỏi về đức ái.
Đức ái đó bắt đầu từ nơi chính mình. Ta cần nuôi dưỡng ta bằng những điều tốt lành, những sự thiện, những lòng nhân. Đó là đức ái với chính mình, khi Chúa mời gọi : “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.” (Lc 6, 36). Có lòng nhân từ nơi chính mình là cách nuôi dưỡng điều tích cực trong đời sống, tự giải thoát khỏi những cô đơn, đau khổ do ích kỷ ràng buộc.
Đức ái khởi đi từ chính mình như ngạn ngữ La tinh viết: “Không ai có thể cho cái mình không không có”. Có điều thiện, có lòng nhân, có sự tốt lành, ta sẽ sống với người khác hài hòa cách tự nhiên, đơn giản như vốn có. Yêu thương kẻ thù lúc ấy sẽ không khó, làm ơn cho kẻ chuốc oán cho mình cũng dễ dàng.
Để nuôi dưỡng đức ái nơi mình hãy cùng sống với Chúa Giêsu. Các môn đệ khi sống với Chúa, các ngài có một kinh nghiệm sâu xa trong đời sống cầu nguyện: “Xin ban thêm cho con đức tin” (Lc 17,6). Một cách đơn sơ, đức tin thêm cho ta biết rằng “Ơn Chúa đủ cho ta” (2Cor 12, 9). Từ nguồn tình yêu sung mãn của Chúa lấp đầy những khiếm khuyết của ta, từ nguồn tình yêu vô biên của Chúa mới mở rộng những ngõ hẹp tâm hồn của ta.
Trong lời cầu nguyện: “Xin ban thêm cho con niềm tin” tự nhận ra nơi ta cần phá vỡ mọi tự hào, tự mãn, tính khoe khoang, xem thường người khác, hoặc xem mình ở trên người khác… Phá vỡ sự kiêu căng để sống khiêm nhường, để biết cảm thông, chia sẻ, hiểu biết người khác. Chúa mời gọi ta: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.” (Mt 11,29).
Hãy yêu kẻ thù! Là bài học luyện lòng nhân, nuôi dưỡng mình bằng sự thiện, tình yêu thương, lòng bác ái, những điều tốt lành. Xin cho con thêm đức tin, để bổ khuyết nơi con những gì còn thiếu sót, khiếm khuyết trong con.
.
Bông hồng nhỏ
Đã là người, ai cũng có một trái tim biết yêu thương, nhưng ít ai trong chúng ta biết yêu thật sự. Tại sao vậy? Bao lâu chúng ta chỉ yêu với một trái tim của con người thì tình yêu nơi chúng ta chưa hoàn hảo. Tại sao người ta yêu nhau nhưng lại sợ mất nhau, lại làm cho nhau đau khổ? Bởi trong khi yêu, chúng ta vẫn còn mang nhiều sợ hãi. “Trong tình yêu không có sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1Ga 4, 18). Như vậy, chúng ta cần phải học yêu để đạt đến tình yêu hoàn hảo là chính Chúa, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 8).
Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Yêu như Thầy đã yêu là điều khó, bởi tình yêu mà Thầy Giêsu dành cho chúng ta là một tình yêu vượt trên mọi tình yêu. Thầy Giêsu đã khẳng định với các môn đệ: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 43-44). Yêu người yêu mình là điều tự nhiên mà ai trong chúng ta cũng làm được. Khi yêu, chúng ta thường gặp biết bao thử thách và gian truân. Thử thách và khó khăn là lửa để tôi luyện trái tim của chúng ta, để nó biết yêu hơn, làm cho tình yêu thêm mặn nồng và ngày càng gắn bó với nhau hơn.
Ghét kẻ thù, dường như chẳng ai trong chúng ta cần phải học để ghét kẻ khác. Xây dựng tình yêu thì khó nhưng phá đổ nó thì dễ. Cuộc sống nhiều bon chen khiến cho lòng người càng chật hẹp, cuộc sống quá vội vã làm cho lòng người ít nhạy bén để yêu thương người khác, và cuộc đời nhiều giả dối khiến lòng người ra chai cứng và vô cảm hơn. Trái tim của chúng ta đã bị tổn thương.
Tình Yêu Thiên Chúa có năng lực chữa lành và lấp đầy mọi tâm hồn. Chúng ta hãy học yêu như Thầy Giêsu. Một trái tim rộng mở để sẵn sàng đón tiếp cả những người làm hại ta, một trái tim đủ quảng đại để tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình, và một lý trí được soi dẫn bởi Thánh Thần sẽ giúp chúng ta biết yêu người khác ngay cả khi chúng ta không có được những cảm xúc yêu thương. Chỉ khi được ở lại trong tình yêu Thiên Chúa, chúng ta mới có khả năng yêu thật sự. Càng chiêm ngắm Đấng Chịu đóng đinh trên Thánh giá, chúng ta càng có sức mạnh để dấn bước trong yêu thương. Chẳng ai trong chúng ta dễ dàng quên đi những xúc phạm từng làm trái tim đau nhói, nhưng cùng với Chúa Giêsu, chúng ta dâng lên Thiên Chúa là Cha, để Người ban lại cho chúng ta một sự bình an trong tâm hồn. Chỉ khi ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa, trái tim xác thịt đầy vị kỷ của chúng ta mới dần được biến đổi, để mang lấy tình yêu của Thiên Chúa.
Nhân loại vẫn ca ngợi tiếng hát tuyệt vời từ một trái tim bị đâm thâu trên thập giá. Tiếng hát mà trong từng hơi thở cuối cùng, Người đã cất lên để xin ơn tha thứ cho nhân loại tội lỗi, cầu xin Thiên Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã giảng dạy về tình yêu, đã sống cho tình yêu và cũng đã chết cho tình yêu. Giới răn yêu thương là trọng tâm của cả đời sống Kitô giáo. Từng ngày, khi đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta sẽ được lãnh nhận nguồn sức mạnh giúp chúng ta hoán cải không ngừng, chấp nhận để Thiên Chúa vượt qua cuộc đời và cứu độ chính mình. Đó là những bước khỏi đầu trong hành trình học yêu như Thầy Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con giới răn yêu thương, để nhờ biết sống yêu thương, chúng con được trở nên con cái của Thiên Chúa. Xin giúp chúng con mỗi ngày được nên giống Chúa hơn, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa và làm cho người khác cũng yêu mến Chúa hơn. Amen.
.
YÊU THƯƠNG KHÔNG ẤP Ủ TỔN THƯƠNG
Anna Cỏ May
Luật Môsê dạy rằng: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44).
Có phải chăng lời dạy của Chúa thật khó cho mỗi người chúng ta vì có ai lại đi yêu kẻ thù bao giờ. Kẻ thù là những người đã gây ra cho chúng ta biết bao đau khổ, có khi lấy đi cả mạng sống của những người thân yêu của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ yêu những người mình thích hay chỉ yêu người hay giúp mình thôi thì đó chỉ là lẽ tự nhiên. Điều Chúa Giêsu mời gọi chúng ta là vượt trên những gì là tự nhiên để đi vào cuộc sống siêu nhiên. Ngài cho chúng ta biết rằng: “ Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu?” (Mt 5,46-47). Để yêu thương kẻ thù của mình, Chúa Giêsu đã quên mình đi, không để những tổn thương họ gây ra cho mình có chỗ bám trong lòng mình. Trong Vườn Dầu, có một người trong số những người đến bắt Chúa Giêsu đã bị ông Phêrô chém đứt tai, anh này đã được Ngài đã chữa lành. Yêu thương là thế đó, yêu cả những kẻ tìm cách bắt và giết mình. Không chỉ vậy, yêu thương là luôn mang trong mình tấm lòng vị tha và hằng cầu nguyện cho người đó. Trên Thánh Giá, trong những hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu đã ngước mắt lên Chúa Cha mà cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Lời Chúa Giêsu vẫn đang nói từng ngày với Chúa Cha khi chúng ta phạm tội. Không ai trong chúng ta là không có tội. Nếu chúng ta nói mình không có tội thì chúng ta trở thành kẻ nói dối vì Chúa Giêsu đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta kia mà. Chúng ta đã được Chúa Giêsu tha thứ thì chúng ta cũng phải tha thứ cho anh em mình. Vì chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi chính là để nên hoàn thiện như Cha trên Trời. Chúng ta nên hoàn thiện khi chúng ta biết tha thứ, biết chia sẻ những gì mình có, không thu gom tích trữ cho mình, không nói những lời vô bổ mà chỉ nói những lời của Tin Mừng.
Lạy Chúa, Chúa vẫn tha thứ cho chúng con từng ngày và không bao giờ rời xa chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con biết thông cảm và đừng bao giờ lấy ác báo ác, cũng đừng bao giờ lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng biết lấy lòng nhân hậu, sự khiêm tốn mà yêu thương tất cả mọi người. Amen.
.
Maria Nguyễn Huệ
“Gặp gỡ” là động từ giúp ta bước đến với người khác. Trong cuộc sống, không ai mà không gặp gỡ. Có câu chúng ta thường nghe: “Không ai là một hòn đảo”. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy gặp gỡ với nhiều hạng người để cuộc sống của chúng ta trở nên hoàn thiện hơn, đặc biệt với danh xưng là Kitô hữu.
Có một cuộc gặp gỡ được lưu danh, đó là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và ông Môsê. Nhờ cuộc gặp gỡ này mà họ có được một bản giao ước (Mười Điều Răn) được Thiên Chúa ban qua ông Môsê. Người Do Thái đã tiếp nối cuộc gặp gỡ đó và khai triển lề luật theo thời gian. Họ giữ Luật rất tốt và quan trọng hóa nó để rồi đánh mất giao ước của Luật là tình yêu giữa Thiên Chúa và con người mà ông Môsê đã đón nhận. Luật mà họ giữ có vẻ như chỉ còn là chữ viết.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật. Ngài thức tỉnh cho ta gặp gỡ trong Luật và trên Luật, để sống giao ước tình yêu thuở ban đầu của Thiên Chúa với dân Người. Chúa Giêsu đã dẫn ta vào cuộc gặp gỡ đó. Trng cuộc sống hằng ngày, dù đó là cuộc gặp gỡ tình cờ, do sự ác ý hay bởi lòng vị tha, tất cả đều dẫn ta tiến đến ân sủng và cùng nhau trao ban ân sủng. Sự khốn khổ đau thương mà người khác gây cho ta, ta có đón nhận và tha thứ cho họ được không? Ta muốn mình nên giống họ hay nên giống Đức Kitô, Đấng đã vị tha đến hơi thở cuối cùng trên cây thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” ( Lc 23,34).
“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 43). Điều đó thật khó có phải không? Người không làm hại ta, chúng ta còn ngần ngại đến gần; người làm ơn cho ta, có khi chúng ta còn quên cầu nguyện cho họ, huống chi là kẻ thù. Chúng ta thấy khó bởi chúng ta dựa vào lòng vị tha nhỏ bé của mình mà quên mất rằng: Thiên Chúa mới là Đấng làm cho sự dữ nên ơn lành cho ta. Chúa Giêsu không chỉ dựa vào luật để dạy ta làm điều hữu ích mà còn biết quay trở về với mục đích chính của Luật là được trở nên con cái của Chúa Cha.
“Anh em hãy nên hoàn thiên như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” ( Mt 5, 48). Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì mỗi ngày chúng con có đều có những cuộc gặp gỡ khác biệt, bổ túc và nâng đỡ cho nhau. Chúng con xin Chúa đến ban ơn thêm sức cho chúng con, để mỗi cuộc gặp gỡ là một bước tiến gần nhau hơn và gần Chúa hơn. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
- Romeo và Juliet
Cách đây mấy năm, từ Rôma tôi hành hương đến Nhà thờ Chính tòa Vêrôna và đi thăm căn nhà Juliet. Khách du lịch đến đây thật đông vì muốn xem tận mắt nơi dệt nên câu chuyện tình lãng mạn bi thương.
Romeo và Juliet là một trong những vở kịch bất hủ trên sân khấu quốc tế do William Shakespeare viết. Cốt chuyện là tình yêu say đắm với kết cục bi thảm của hai người thuộc về hai dòng họ vốn đã thù hận nhau nhiều thế hệ.
Romeo và Juliet được viết vào khoảng 1594 – 1595, dựa trên một cốt truyện có sẵn kể về một mối tình oan trái vốn là câu chuyện có thật, từng xảy ra ở Ý thời Trung Cổ.
Câu chuyện bắt đầu tại thành Verona, hai dòng họ nhà Montague và nhà Capulet có mối hận thù lâu đời. Romeo, con trai họ Montague. Juliet, con gái họ Capulet. Đôi trẻ đã yêu nhau say đắm ngay từ cái nhìn đầu tiên tại buổi dạ tiệc tổ chức tại nhà Capulet, do là dạ tiệc hoá trang nên Romeo mới có thể trà trộn vào trong đó. Đôi trai gái này đã đến nhà thờ nhờ linh mục Friar Laurence bí mật làm lễ cưới.
Đột nhiên xảy ra một sự việc: do xung khắc, anh họ của Juliet là Tybalt đã giết chết người bạn rất thân của Romeo là Mercutio. Để trả thù cho bạn, Romeo đã đâm chết Tybalt. Mối thù giữa hai dòng họ càng trở nên sâu nặng. Vì tội giết người nên Romeo bị trục xuất khỏi Verona và bị đi đày biệt xứ. Tưởng như mối tình của Romeo và Juliet bị tan vỡ khi Romeo đi rồi, Juliet bị cha mẹ ép gả cho Bá tước Paris. Juliet cầu cứu sự giúp đỡ của cha Laurence. Ngài cho nàng uống một liều thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết, thuốc có tác dụng trong vòng 24 tiếng. Ngài sẽ báo cho Romeo đến hầm mộ cứu nàng trốn khỏi thành Verona. Đám cưới giữa Juliet và Paris trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ. Cha Laurence chưa kịp báo cho Romeo thì từ chỗ bị lưu đày nghe tin Juliet chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Trên đường về chàng kịp mua một liều thuốc cực độc dành cho mình. Tại nghĩa địa, gặp Paris đến viếng Juliet, Romeo đâm chết Paris rồi uống thuốc độc tự tử theo người mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo bên cạnh đã chết, Juliet rút dao tự vẫn. Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Bên xác hai người, hai dòng họ đã quên mối thù truyền kiếp và bắt tay nhau đoàn tụ, nhưng câu chuyện tình yêu ấy vẫn mãi sẽ là nỗi đau rất lớn trong lòng những người biết đến họ.
Câu chuyện tình bất hủ Romeo và Juliet đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vỡ kịch, những bộ phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Romeo Juliet là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến đau thương cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi phát từ tâm hồn ích kỷ.
- Giáo huấn độc đáo của Chúa Giêsu
“Hãy yêu thương tha nhân và ghét thù địch”. Mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi (Lv 19,18). Theo đó, người Do thái chỉ yêu thương những người đồng loại, tức là những người thuộc dân riêng của Chúa, dân Israel. Còn dân ngoại, họ coi như thù địch. Họ còn có luật và bổn phận ghét người ngoại bang, nhất là dân Amalec, dân Moab (x. Đnl 25,18; 23,6).
Chúa Giêsu đã kiện toàn những giới hạn của luật cũ, và mạc khải cách trọn hảo về điều luật mới, khi dạy: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù” (Mt 5,43a).
Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau; Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”; Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ: lấy thiện thắng ác.Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào; Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là : Làm ơn cho kẻ ghét mình.Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.Ai lấy gì thì đừng đòi lại…Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Người đã sống yêu thương, luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với mình, mặc dù họ ghen ghét vô cớ, họ luôn tìm dịp tố cáo xuyên tạc lời Người giảng dạy. Chúa Giêsu dạy: lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nổ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.
“Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
- Con đường mới cho nhân loại
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.
Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
“Yêu thương kẻ thù” là điều không dễ chút nào xét trên bình diện con người tự nhiên. Tha thứ cho những kẻ làm hại hay xúc phạm đến mình đã là điều khó rồi, huống chi là yêu thương, làm ơn và cầu nguyện cho họ nữa. Khi đã ghét nhau, chỉ nhìn thấy mặt, nghe giọng nói đã thấy khó chịu rồi, nói gì đến yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho nhau. Quả thật, đây là một việc vô cùng khó khăn, nhưng chúng ta có thể thực hiện được nếu có ơn Chúa trợ giúp. Chính thánh Phaolô đã quả quyết điều này: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” .
Trong cuộc sống, người ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Hãy cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.Thánh Phaolô khuyên: “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Trong bài đọc 1, ông Môisen dạy: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, đừng tìm cách báo oán và cũng đừng để lòng những lời nhiếc mắng của kẻ khác. Còn thánh Phaolô đòi buộc chúng ta không được khinh rẻ người khác (bài đọc 2).
Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Lạy Chúa Giêsu, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.
.
GIỮ LUẬT CHÚA VỚI LÒNG MẾN CHÚA
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
“Thiên Chúa ban cho con người sự sống và sự chết, con người có quyền lựa chọn thích thứ nào thì được thứ ấy” (Hc 15, 17). Lời trên là một minh họa cụ thể cho Cây biết lành biết dữ và Cây Sự Sống trong sách Sáng Thế (x. St 2 , 9 ). Chúng ta không “quyết định” chọn cái ác, tội lỗi là điều không thể tránh khỏi, nhưng dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được mời gọi phân biệt sự lành và sự dữ cách tự do nhờ sức mạnh Người đã trao ban: “Nếu ngươi muốn tuân giữ các giới răn: việc trung thành giữ các giới răn là tuỳ ở ngươi”. Đây là Tin Mừng do Đức Khôn Ngoan công bố, Đức Giêsu thực hiện, chết cho tội lỗi và sống lại trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Khi tội lỗi bị bẻ gẫy, sự chết bị đập tan, Thiên Chúa ban lại cho chúng ta ơn gọi làm con cái Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu (x. 2 Pr 1, 4 ). Đó là kế hoạch khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đối với loài người: “Sự khôn ngoan vẫn được giấu kín, mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn thuở để làm nên sự hiển vinh của chúng tôi… Thiên Chúa đã mạc khải điều đó cho chúng tôi do Thánh Thần của Người ” (x. 1 Cr 2, 6-10).
Vì thế, nếu sự thật về thân phận con người là sống kết hiệp với Đức Giêsu và hiệp nhất với Ngài trong đức tin, tình yêu và lòng mến là con đường duy nhất dẫn đến Cây Sự Sống, phục hồi phẩm giá làm con Thiên Chúa và mở ra cho chúng ta tình huynh đệ phổ quát. Thì Đức Giêsu đến “kiện toàn Lề Luật và lời các Ngôn Sứ”, với mục đích soi đường chỉ lối cho chúng ta về với Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu và là Cha chúng ta nhờ sự vâng phục Lời Ngài. Tuy nhiên, sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa khác với “sự khôn ngoan của thế gian” (x. 1 Cr 2, 6), như Thánh Phaolô nói với chúng ta.
Khi con người cố gắng bằng mọi cách để bảo vệ “quyền lợi” cá nhân trong công lý, nhưng dưới cái nhìn của Đức Giêsu là chưa đủ: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu” (Mt 5, 20). Vậy thế nào là công chính hơn các luật sĩ và biệt phái?
Đức Giêsu giải thích qua một loạt các phản đề giữa các giới răn cũ và kiểu Ngài đề nghị. Mỗi lần bắt đầu: “Các con đã nghe người xưa nói rằng… “, rồi Ngài khẳng định: “Còn Thầy, thầy bảo các con… “. Chẳng hạn: “Các con đã nghe người xưa nói rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy Thầy bảo các con: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (x. Mt 5,21-22). Với sáu lần như vậy, Đức Giêsu không có ý định thêm các điều răn, nhưng Ngài tuyên bố cần phải có bước nhảy về chất lượng, Ngài chứng tỏ Ngài chu toàn các giới răn với tình yêu của Chúa Cha, và sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở trong Ngài. Đến lượt chúng ta, với niềm tin nơi Ngài, để Chúa Thánh Thần hoạt động, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta sống tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, mỗi điều răn trở thành thật sự như đòi buộc của tình yêu, vì tất cả các giới răn đều tóm về hai điều này là: trước kính Đức Chúa Trời hết lòng hết sức, và sau là yêu người như mình ta vậy. Như Thánh Phaolô quả quyết: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).
Đức Giêsu tiếp tục mời gọi chúng ta dứt bỏ tận căn: “Nếu con mắt phải của con nên dịp tội cho con, thì hãy móc nó mà ném xa con… Và nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con; vì thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục” (Mt 5,29-30). Hình ảnh thân thể người kitô hữu bị cắt xén cho thấy cuộc chiến khốc liệt này và báo trước những gì không phù hợp với sủng. Chỉ có Thần Khí mới có thể giúp chúng ta thực hiện việc hoán cải và lựa chọn dứt khoát, cứu mạng sống ta và ném xa ta những gì ngăn cản ta với Thiên Chúa, thậm trí tách ra khỏi chính thân mình như con mắt chẳng hạn. Liệu chúng ta có thể cân nhắc chọn lựa giữa ngọc trai quý hiếm với kho bạc duy nhất là Sự Sống đời đời không?
Thánh Phaolô nói: “lòng người cũng chưa từng mơ ước tới, đó là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm cho những ai yêu mến Người” (1 Cr 2, 10). Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta vượt qua quán tính của con người cũ, và sống trong tình yêu, nếu chúng ta tin kính Chúa, “Chúa nhìn đến những kẻ kính sợ Người, và thấu suốt mọi hành động của con người” ( Hc 15, 19 ); “Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng” ( Lời nguyện nhập lễ ).
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hoán cải tận căn, chúng ta là con một Cha trên Trời và là anh em với nhau. Chúng ta không đứng trước bàn thờ Chúa một mình, nhưng cùng anh em dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Vì vậy, Cha trên Trời làm sao vui mừng được, khi con cái dâng lễ vật mà đang chia rẽ nhau? Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo: “khi ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ” (Mt 5,23-24). Ai trong chúng ta là xứng đáng với lời đề nghị trên?
Lời Chúa Giêsu gửi đến mỗi người trong chúng ta, không có chuyện cắt chân cắt tay, hay là móc mắt, nhưng là cam kết dấn thân trong tình bác ái. Với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể vứt bỏ hay ném xa những gì đe dọa chúng ta kết hợp với Chúa và tha nhân, chọn Chúa làm gia nghiệp của đời ta. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời dạy của Chúa Kitô về việc không chỉ “đừng chống cự lại kẻ ác” mà còn “giơ má kia cho người ta đánh” hoặc “phải yêu kẻ thù” (x.Mt 5,38-44).
“Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai”. Lời một bài ca khá phổ biến này dường như được cảm hứng từ những lời Tin Mừng trên đây. Nếu nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình thì hẳn sẽ không có chuyện giết hay ghét bỏ. Chỉ có ma quỷ mới là kẻ thù đích thực của chúng ta.
Trước hết chúng ta cần phân định rõ lời dạy của Chúa Kitô qua đoạn tin mừng Mt 5, 38-48 mà giáo hội cho trích đọc trong Chúa Nhật VII TN A. Nội dung chính lời dạy của Chúa Kitô là cần phải vượt qua cái giới hạn của đức công bình cũng như giới hạn của đức yêu thương theo luật Cựu ước.
Thiết tưởng cần nhìn nhận mặt tích cực của luật công bình “mắt đền mắt, răng đền răng, sưng đền sưng, bầm đền bầm…”. Luật này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Chuyện bị đánh gảy một cái răng thì đánh trả lại người ta gảy nguyên cả hàm vẫn còn nhan nhản ngay trong thời đại hôm nay. Nước này phóng vào lãnh địa nước kia mười quả đạn pháo thì nước kia sẽ phóng trả đủa lại không dưới mười quả, có khi là gấp ba, gấp bảy lần. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” dường như vẫn còn giá trị của nó. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.
Chuyện thật như bịa theo ý cha Anthony de Mello: Có tay trộm choai choai lẻn vào khuôn viên nhà thờ lúc bốn giờ sáng, định cuỗm thứ gì đó. Chưa thu được chiến lợi phẩm gì thì bị “ông từ” đi đánh chuông phát giác. Hoảng quá cậu nhóc leo đại lên tháp chuông trốn tưởng rằng qua được mắt ông từ già. Nhưng rủi cho cậu nhóc là cặp mắt ông từ vẫn còn tinh. Ông từ kiên nhẫn ngồi dưới tháp chuông chờ có người đến thì la làng. Cậu nhóc đoán được ý ông từ đành làm liều nhảy đại xuống từ độ cao khoảng bốn mét (tầng cuối). Ai ngờ cậu nhóc nhảy xuống vấp phải ông từ khiến ông già trẹo một chân. Dù gảy chân nhưng ông từ vẫn ôm chặt cậu bé và la lớn tiếng. Người ta chạy đến và cậu nhóc bị tóm. Tất cả dẫn cậu nhóc vào cha xứ. Ngài hỏi cậu nhóc đã ăn trộm cái gì. Cậu ta thưa là chưa lấy được gì cả. Ngài phán tiếp: “thế thì theo luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ông từ được quyền leo lên tháp chuông và nhảy xuống để làm trẹo một chân cậu nhóc!” Mặt ông từ tái xanh.
Chúa Giêsu đã dùng lối nói “ngoa ngữ” dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong “ngoa ngữ” thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30). Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.
Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân thì Chúa Giêsu đã long trọng nhắc lại lời Cựu ước và nhấn mạnh thêm: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Hạn từ “hết” đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ “như chính mình” làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.
Xét về đối tượng, luật Cựu ước đòi hỏi phải yêu thương người đồng bào, người đồng đạo. Luật còn dạy phải quan tâm đến người nghèo khổ, mẹ goá, con côi, khách ngụ cư, khách ngoại kiều. Chẳng hạn khi gặt lúa thì đừng gặt sát bờ, kiểu gặt sạch sành sanh, đừng mót các gié bị vương vải. Và khi hái nho cũng thế, không được lượm các quả rơi rụng…Tất cả những thứ ấy là để dành cho người nghèo, người khốn khổ… (x. Lv 19, 9-10). Tuy nhiên, dù trong luật không minh nhiên dạy phải ghét kẻ thù nhưng truyền thống và lối sống của dân Chúa xưa luôn có khoảng cách với người tội lỗi, với người bị xem là ô uế, với quân thù lân bang. Những hạng người trên tuy không bị ghét bỏ, nhưng thường không được xem là anh em, là người thân cận với người Do Thái. Một vị thông luật đã từng hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ai là người thân cận của tôi?” Nhân dịp ấy Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn “người Samaritanô nhân hậu” và qua đó khẳng định rằng chúng ta phải làm người thân cận với tất cả những ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta (x.Lc 10,25-37).
Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta là kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt…?
Nếu cho rằng yêu thuơng là một phạm trù thuộc tình cảm thì quả thật rất khó vượt qua tâm lý bình thường của kiếp người. Tuy nhiên cần lưu ý rằng yêu thương trên hết là một quyết định của ý chí tự do được biểu lộ cả bằng tình cảm và hành động. Không chỉ có những tình cảm trìu mến, quyến luyến mới phản ánh tình yêu mà ngay cả khi giận dữ, buồn phiền cũng có thể phản ánh tình yêu. Chuyện thương con cho roi cho vọt là chuyện như hiển nhiên mang tính quy luật. Không chỉ khi xúc động trước đoàn lũ đông đảo dân chúng như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu mới tỏ bày tình yêu, cũng không phải khi Người rơi lệ trước cái chết của Ladarô thì mới là yêu, nhưng cả khi Chúa Giêsu buồn phiền trước lòng chai dạ đá của một số kinh sư và biệt phái cũng là vì yêu hay khi Người xung giận bện dây thành roi đánh đuổi những người đã biến Ngôi nhà Chúa thành nơi chợ búa, thành hang trộm cướp thì cũng là yêu thương vậy.
Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn. Có thể nói rằng cách chung đối với những người tội lỗi thuộc hàng bé mọn, yếu đuối, thì Chúa Giêsu thường bày tỏ lòng khoan dung, sự trìu mến, cử chỉ khích lệ, còn với những người tội lỗi thuộc hàng phận cao, quyền trọng mà cố chấp thì Người nghiêm khắc cách tỏ tường.
Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội… Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương, nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động thái trên đây.
Phải chăng đang có đó nhiều Kitô hữu, thậm chí là nhiều tu sĩ, linh mục, giám mục những tưởng rằng mình đã yêu “kẻ thù”, đã làm ơn cho người “làm hại mình”, nhưng thực ra chỉ yêu chính mình mà thôi?
.
HÃY NÊN TRỌN LÀNH NHƯ CHA TRÊN TRỜI
Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến
Sang phần hai của đoạn chính 5,21-48, Chúa Giêsu chuyển sang nói về cách hành xử của bản thân người môn đệ, đặc biệt đối với những người chống lại mình/kẻ thù: – Đừng thề (5,33-37), – Đừng chống lại người ác (5,38-42), – Yêu thương kẻ thù (5,43-48).
Đừng chống lại người ác (5,38-42)
Câu mở đầu (c. 38) hoàn toàn giống với 5,43, và giáo huấn của Chúa Giêsu ở dạng phủ định giống với câu ở phần trước: mè + động từ nguyên mẫu (c. 34). Các câu giải thích (cc. 39b-42) gồm hai phần đối xứng nhau với hai thí dụ cụ thể ở mỗi bên.
Luật Cựu ước “mắt đền mắt và răng đền răng” (Xh 21,24, Lv 24,20; Đnl 19,21) nhằm hạn chế việc đổ máu do không kiềm chế nỗi sự hận thù. Lamech hãnh diện với vợ mình “Nếu Cain trả thù bảy lần, Lamech trả thù bảy mươi lần” (Kh 4,23-24). Luật nầy đòi hỏi trách nhiệm trong việc gây thiệt hại, và giữ sự quân bình giữa tội ác và hình phạt. Trong Tân ước còn tìm thấy cách diễn tả tương tự với luật nầy (Mc 8,38, 1Cr 3,17).
Chúa Giêsu cấm sự đánh trả người làm điều ác: “Đừng chống trả người ác” (c. 39). Động từ anthistèmi, “chống lại”, hàm ý sự thiệt hại do người ác gây nên. Người ác, ponèros, tương đương với kẻ thù, echthros, với người bắt bớ, làm sỉ nhục (x. 5,11). “Không chống lại người ác” nghĩa là không để mình bị vướng vào vòng lẩn quẩn của sự ác: bạo lực sinh ra bạo lực; một cái răng của mình bị mất đi phải đòi lại một cái răng của người khác. Mức độ đầu tiên là bất bạo động: “Khi Ngài bị sỉ nhục, Ngài không sỉ nhục lại” (1Pr 2,23). Mức độ kế tiếp cao hơn sẽ là yêu mến người làm điều ác (5,44-45; 1 Thess 5,15). Chúa Giêsu đưa ra bốn minh họa về sự bất bạo động:
– Bị đánh vào má (c. 39b), rhapizò, là hành vi hạ nhục và khinh dễ hơn là làm cho đau về mặt thể lý. Việc đưa cả hai má phải và trái cho người ác chỉ việc hoàn toàn không chống trả và sẵn sàng chịu mọi sự sỉ nhục không do lỗi mình; người tôi tớ trong Isaia cũng đã làm như thế, “Tôi đã không che mặt” (Is 5,5-6; x. Gióp 16,10). Chúa Giêsu đã bị đánh vào má trước mặt các thượng tế và Công nghị vì Ngài bị cho là phạm thượng; do đó đáng phải chết (26,67).
– Bị đoạt áo (c. 40): bối cảnh của đoạn nầy là việc thưa kiện ở toà án để đoạt lấy áo, “muốn kiện”, theolonti krithènai (c. 40; x. 18,30). Người bị kiện là một người nghèo tận cùng. Người nầy phải vay nợ để sống và không có gì để trả nợ. Chủ nợ chỉ có thể lấy áo trong, chitòn để trừ nợ, chứ không được lấy áo ngoài, mặc dù áo ngoài có giá trị hơn (x. Mc 13,16). Theo luật pháp thời ấy, chủ nợ không được cầm giữ áo ngoài như vật thế chấp, và nếu có lấy áo ngoài thì buộc phải trả lại áo cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì áo ngoài/áo choàng dùng để làm chăn đắp ban đêm (Xh 22,25-27; Đnl 24,12-13). Đứng trước người không có lòng xót thương, người nghèo có thể bị lột trần trước mặt mọi người. Ngay cả khi bị như thế, Chúa Giêsu dạy đưa luôn áo ngoài cho họ. Chúa Giêsu đã bị lột áo, cả áo trong (Ga 19,23) lẫn áo ngoài (27,31.35), và nên trần truồng hoàn toàn trên thập giá.
– Bị ép phục dịch (c. 41): động từ angareuò, “bắt ép”, mượn từ tiếng Persian. Angaroi là những người đưa thư. Những người nầy đứng tại các trạm ở các địa phương do vua xứ Persian chỉ định. Họ sẵn sàng với con ngựa để chuyển thư từ trạm nầy qua trạm kia để chuyển thư thật nhanh đến đích. Ở đây từ angareuò nầy chỉ sự ép buộc đi một hành trình, mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch nào đó do quân đội hay các viên chức trên một hay nhiều người, như trường hợp Simôn người Xirênê bị quân lính Rôma ép vác thánh giá với Chúa Giêsu (27:32).
– Cho và vay mượn (c. 42): Câu nầy vẫn còn nằm trong văn mạch của mệnh lệnh: “Đừng chống lại người ác” (c. 39a), và người môn đệ vẫn còn là nạn nhân của bạo lực hay bất công. Theo cấu trúc, câu nầy đối xứng và song song với câu 40a: tò + phân từ + ngươi + động từ. Động từ “muốn + vay mượn”, thelò, trong câu nầy mang ý nghĩa tương tự như trong câu 42 là muốn vay mượn tài sản của anh em trong đó hàm ý việc đoạt lấy; so sánh câu nầy với câu song song trong Lc 6,30: “Tất cả ai xin, hãy cho, và kẻ đoạt của ngươi, ngươi chớ đòi lại”. Hơn nữa, câu nầy liên kết với đoạn theo sau 5,43-48 bởi từ ponèros, “người xấu” (cc. 39,45), trong đó nói về việc yêu thương kẻ thù. Đây là minh họa đi trước cho việc yêu thương kẻ thù.
Việc giúp đỡ và cho vay mượn được nói rất nhiều đến trong Cựu ước, mà đối tượng nhắm đến thường là người nghèo (Xh 22,25; Lc 25,36-37; Đnl 15,2-6). Ở đây Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát và không phân biệt người được cho và cho vay: “Ai xin, ngươi hãy cho. Ai muốn vay, ngươi chớ khước từ” (c. 42; x. 5.45), trong đó bao hàm cả người ác/xấu.
Vậy qua đoạn 5,38-42 Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ mình tự do khỏi mọi hình thức bạo lực. Quyền xét xử và báo oán là của Thiên Chúa (Rm 12:19-21). Phần người môn đệ của Chúa là “không lấy oán báo oán, mà theo đuổi điều thiện cho nhau và cho mọi người” (1 Thess 5:15).
“Yêu thương kẻ thù” (cc. 43-48)
Sự công chính của người môn đệ được thể hiện ở mức tối đa là yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương nầy làm họ nên giống Cha trên trời là Đấng trọn lành (5:48) và là Đấng công chính (6:33), và cũng làm cho họ trổi vượt hơn các kinh sư và người Pharisêô về sự công chính (5:20). Đoạn nầy có cấu trúc giống như các đoạn trước, và thêm lời kết luận cho toàn phần 5:21-48. Từ ngữ chính trong đoạn nầy là agapaò, “yêu thương” (cc. 43.44.46[2x]) và echthros, “kẻ thù” (cc. 43.44).
Cựu ước nói cách rõ ràng việc yêu thương người lân cận. Người lân cận được định nghĩa là người đồng hương Israel, mặc dù cũng có thể nới rộng định nghĩa nầy ra cho người ngoại quốc đến ngụ cư (Lv 19:18, 33-34; Đnl 10:18-19). Trái lại, không thấy Kinh Thánh nói cách hiển nhiên việc ghét kẻ thù, mặc dù có thể suy diễn từ một số đoạn (x. Đnl 7:2; 20:13–18; 25:17–19; Tv 137:8–9; 139:19–22). Đối lại với câu chủ đề gồm hai mệnh đề, Chúa Giêsu cũng đưa ra một câu gồm hai mệnh đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người bắt bớ các con” (c. 44). Hai mệnh lệnh đều ở ngôi thứ hai số nhiều và thì hiện tại, chỉ sự áp dụng chung cho các môn đệ của Chúa Giêsu và cho mọi thời.
“Kẻ thù” theo mạch văn là người bắt bớ (c. 44b), người xấu (c. 45). Họ sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu đủ điều các môn đệ (x. 5:10-11), họ làm những điều bất công (x. 5:38-42); do đó việc ghét kẻ thù là điều thường tình đối với người đời. Trái lại Chúa Giêsu dạy phải yêu thương kẻ thù theo mẫu gương của Cha trên trời. Ngài “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ lẫn người lành” (c. 45; x. 22:10). Ngài làm điều tốt cho cả hai mà không phân biệt (x. Rm 212:20-21). Matthêô dùng từ ponèros, “người xấu” thay vì echthros, “kẻ thù”, trong câu liên quan đến Thiên Chúa, vì “kẻ thù” thật sự của Thiên Chúa là ma quỉ; chắc chắn là Ngài không “cho mặt trời mọc lên” trên kẻ thù nầy, mà đặt nó dưới bệ chân Ngài (13:25tt, 22:44).
Trước khi đi đến kết luận, Chúa Giêsu đưa ra hai minh hoạ về cách yêu thương mà người môn đệ không nên noi theo, “Nếu chỉ yêu thương…”, “Nếu chỉ chào hỏi…” (cc. 46-47), bằng không họ sẽ không công chính hơn người thu thuế và dân ngoại chút nào cả. Tính từ so sánh “hơn”, perisson, ở đây đóng khung đoạn 5:21-48, và liên quan đến sự công chính của các môn đệ (c. 20). Vậy ai hành động như Thiên Chúa thì sẽ nên con cái của Ngài, và con cái của Ngài phải là người xây dựng hoà bình, chứ không lấy ác báo ác (5:9).
“Nên trọn lành như Cha trên trời” (c. 48)
Từ quan trọng của câu kết luận là teleios, “trọn lành”, nghĩa là đi đến cùng và không còn thiếu gì cần thiết nữa. Matthêô dùng 3 lần từ nầy và qui chiếu về Thiên Chúa. Trong 19,21, sự trọn lành mà Chúa Giêsu chỉ cho người thanh niên là tuân giữ lề luật Chúa, từ bỏ của cải và theo Chúa. Trong câu 5,48 sự trọn lành trước tiên quy chiếu về lề luật đã được Chúa Giêsu làm trọn (5,21-48), và cũng qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha…” (c. 48b). Liên từ “như”, hòs, chỉ phẩm tính thuộc về Thiên Chúa. Vậy việc “nên trọn lành như Cha trên trời” được đặt trong tương quan Cha – con, “Cha trên trời” (c. 48) – “con cái Cha trên trời” (c. 45): sự trọn lành của con cái bắt nguồn từ sự trọn lành của Cha và có cùng phẩm tính là yêu thương, và tình yêu của Cha thể hiện qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành” để nêu gương, thì con cái cũng bắt chước gương Cha mà làm như vậy: làm điều tốt cho người khác vì yêu thương.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn mọi lề luật. Ngài đã dạy cho các môn đệ một cách cư xử mới trong tương quan với người bất hòa, phụ nữ, bản thân, người làm ác và kẻ thù. Cao điểm của cách cư xử nầy là làm điều tốt và yêu thương họ như Cha trên trời và cũng như Chúa Giêsu. Đó là con đường trọn lành mới mà Ngài muốn con người bước vào.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Hãy tha thứ và thứ tha là giới răn hoàn toàn mới của Đức Kitô. Sống trên đời người ta phải đấu tranh để sinh tồn. Do đó, ngay từ cổ thời xa xưa, có những bộ tộc đã tranh đấu với nhau để sống còn, có những dòng tộc, họ hàng đã chiến đấu với nhau để bảo vệ họ hàng, dòng tộc của mình. Trên thế giới, nhiều nước, nhiều nơi còn chiến tranh, chiếm giết để bảo vệ chủ quyền của mình, để bảo tồn nòi giống của mình. Thời Cựu Ước, luật viết: “Mắt thế mắt. Răng đền răng “là công thức của luật báo thù. Đức Giêsu khi tới trần gian lại nói: “Còn Thầy, Thầy bảo các con:hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con “, ”Hãy tha thứ thì được thứ tha “vv… Chúa Giêsu đến để làm cho luật nên hoàn thiện, nâng luật lên tầm cao tuyệt đối.
Nghiên cứu, tìm hiểu bộ luật của Sách Ngũ Kinh, chúng ta nhận ra nhiều điểm chưa hoàn thiện của luật Môsê. Chúng ta hãy xem chẳng hạn luật mắt thế mắt răng đền răng, luật về ngoại tình, luật bác ái vv…Tất cả những điều khoản này được ghi chép rất tỉ mỉ trong luật Môsê. Những luật này không những nằm trong luật của Môsê, nhưng thực tế nó vẫn tồn tại trong tâm hồn của con người. Bởi vì, đối với con người, khuynh hướng báo thù, trả oán nhiều hơn khuynh hướng tứ tha. Anh đánh tôi, tôi đánh lại hoặc sẽ tìm cách báo thù, biện hộ cho tôi…
Chúa Giêsu đến trần gian để đem cho mọi người, cho nhân loại một giới luật mới, giới luật yêu thương. Ngài dạy con người: “Hãy dập tắt mầm mống oán thù, chia rẽ đang âm ỉ trong con người. Đừng cho những hành động xấu nhen nhúm trong trái tim con người, trong lòng, trong tâm hồn của con người chúng ta”. Ngài truyền: “Đừng chống cự lại kẻ ác”.
Mầm mống báo thù luôn âm ỉ trong tâm hồn, Chúa dạy hãy dập tắt ngay và hãy có tâm hồn sám hối, sự hoán cải để sự báo oán, hờn căm, nổi giận không có cơ hội nổi dạy trong con người. “Hãy yêu thương kẻ thù” là một lệnh truyền tuyệt đối của Chúa Giêsu, Vị sáng lập Đạo Tình Thương. “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu”. Đây là một giới răn, một lệnh truyền. Bởi vì, đối với Chúa tình yêu không có chuyện mắt thế mắt răng đền răng, không có chuyện trả thù.
Chúng ta hãy đọc lại câu chuyện người con hoang đàng, người phụ nữ ngoại tình sẽ thấy lòng nhân hậu, thứ tha của Thiên Chúa tình yêu như thế nào? Sự thật tuyệt vời, bài học vô giá Chúa đã để lại cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người là sự tha thứ tuyệt vời của Chúa. Chúa đã tha thứ cho những kẻ bắt Ngài, hành hạ Ngài, kết án Ngài.
Trên thập giá, Chúa đã tha thứ và đưa vào Thiên Đàng người trộm lành biết ăn năn hối cải: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Chúa đã tha thứ ngay khi Ngài bị kết án bất công, bị đóng đinh trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Chết mới nói lên lời. Chết mới nói lên tình ây trọn vẹn, tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến.
Tha thứ, yêu thương kẻ thù là điều rất khó thực hiện. Nhưng Chúa dạy: “Các con phải trở nên hoàn thiện như cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).
Ở trần gian, con người thường muốn cho vay ăn lời, càng lợi nhuận, càng lời nhiều càng tốt. Chúa dạy: “…Ai muốn vay mượn hãy sẵn sàng”. Cho vay ở đây không lợi nhuận, không ăn lời. Cho vay là giúp đỡ, là tạo cơ hội cho con người vượt khó, giúp họ làm lại cuộc sống của họ. Sự hòa giải, quảng đại, tha thứ sẽ đem lại cho con người sự bình an. Sự an bình luôn cần thiết cho đời sống con người. Ở đời nhiều người đã hối hận đã tìm lại được nguồn vui khi họ luôn cố tình nói xấu, làm hại người, nhưng ngược lại họ luôn nhận được sự thứ tha, cảm thông và tấm lòng tốt của người khác.
Đời sống của mỗi người, thánh giá mỗi người vác hàng ngày đã nặng lắm rồi. Nếu chúng ta không chia sẻ, không cảm thông với nỗi nhục nhằn, nặng nề của kẻ khác thì chúng ta cũng đừng chất gánh nặng trên vai kẻ khác vì thánh giá họ vác mỗi ngày họ đã phải hy sinh, cố gắng lắm rồi…
Các Thánh là những người đã sống như chúng ta ở trần thế này, nhưng các Ngài đã hơn chúng ta vì đã dám sống đức tin tỏa sáng, đã dám vác thập giá, đã dám sống quảng đại, tha thứ cho cả những kẻ làm hại mình.
Lạy Chúa Giêsu, sống như Chúa yêu là điều không phải dễ, nhưng với ơn Chúa giúp, với sự tác động của Chúa Thánh Thần, chắc chắn chúng con có thể thực hiện được những điều mà Chúa mong muốn.Xin giúp chúng con biết tuân theo lời dạy của Thánh Phanxicô khó khăn: “… đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
- Tại sao Chúa lại nói yêu thương cả kẻ thù?
- Mắt thế mắt răng đền răng là gì?
- Giới răn mới của Chúa được gọi là giới răn gì?
- Yêu thương như Chúa yêu là sao?
- Thường những kẻ xúc phạm đến chúng ta, chúng ta đối xử thế nào?
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt. 5,44).
Bạn tôi lái xe xuống Phố Tầu ở Mahattan kiếm được chỗ trống đậu xe dọc theo đường lộ và đi bỏ tiền vào máy tính giờ đậu xe gần bên. Chỉ chưa đầy một phút sau, trong khi bạn trở lại với biên nhận trong tay, thì đã thấy một cảnh sát công lộ đang ghi giấy phạt vì vi phạm luật đậu xe là 90 đô. Nói qua nói lại, bạn vẫn phải nhận vé phạt. Cảnh sát nói: Nếu muốn được giảm phạt phải gởi kèm cả vé phạt và biên nhận ghi giờ parking cho Sở Tài Chánh, thành phố Nữu Ước. Vé phạt và biên nhận được gởi đi, nhân viên Sở Tài Chánh trừ cho một nửa số tiền và ghi rằng muốn được tha phạt toàn bộ, bạn phải làm hẹn ra tòa. Câu truyện nghe mà ứ máu, tuy số tiền không bao nhiêu nhưng bị oan ức. Biết chia xẻ cùng ai. Ra tòa lại mất toi một ngày làm. Trả phạt cho xong, lòng không phục!
Hãy yêu kẻ thù. Chúa Giêsu mở rộng chân trời yêu thương tới hết mọi người. Lời khuyên dạy của Chúa cao siêu và tuyệt vời qúa. Chúng ta cảm nhận rằng tình yêu thương của chúng ta đối với tha nhân và kẻ thù chỉ mới là ở bước khởi đầu. Những người dưng nước lã, những khách qua đường và những người xa lạ không quen biết, chúng ta rất ít quan tâm nói chi đến yêu thương. Chúng ta chỉ dễ dàng yêu thương những người có cảm tình và yêu thương chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu lại dậy rằng: Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? (Mt. 5,46).
Trong thực tế cuộc sống, tình yêu vị tha thường rất giới hạn. Theo quan niệm chung, yêu thương cũng phải có qua có lại chứ. Chúng ta biết rằng ngay cả anh chị em hay những bà con ruột thịt trong gia đình yêu nhau đã khó, yêu thương những người hàng xóm lại khó hơn và yêu thương kẻ thù thì khó gấp bội. Yêu thương kẻ thù trên lý thuyết chung chung hay trên môi miệng thì có thể được, nhưng yêu thật trong lòng một kẻ thù thì khó lắm. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu thương mọi người và yêu cả kẻ thù. Chúa đã nêu gương cho chúng ta qua chính cuộc sống và cái chết của Ngài. Ngài đã yêu hết mọi người, cả kẻ thù và đã tha thứ tất cả lỗi lầm của mọi người. Chúa đã chấp nhận chịu mọi cực hình oan trái đến chết để mang ơn cứu độ cho mọi người.
Với sức tự nhiên của con người, chúng ta khó vượt qua những yếu đuối của bản năng. Bản năng đòi sự công bằng tự nhiên: Mắt đền mắt, răng đền răng (Mt.5,38) là lẽ thường. Vì trong bản năng của con người có một động lực tiềm ẩn của sự báo thù do tội nguyên tổ. Khi chúng ta giận dữ thì cơn giông bão hận thù và ghen tương nổi lên trong lòng như một khao khát đốt cháy tâm can. Chúng ta rất khó cầm lòng để có sự bình tĩnh mà xét xử hơn thiệt. Người ta thường nói giận mất khôn là đúng lắm. Đôi khi trong cơn giận dữ lại có người còn thêm dầu vào lửa nữa, thì cơn giận càng có cơ hội bốc cháy. Những giận hờn, thù ghét chua cay và những gian dối che phủ mất lòng nhân ái. Hành động khi giận dữ dễ đưa đến những hậu qủa tác hại vô lường.
Truyện kể: Một hôm, một vị Samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài”. Vị Samurai nổi nóng, rú kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận”. Vị Samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. “Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Đôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đó chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi”.
Vị Samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo Samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Đừng hành động khi đang giận dữ”. Vị Samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hóa ra đó chính là mẹ ông. Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!”. Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để dọa chúng”.
Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị Samurai. Người đánh cá phấn khởi nói: “Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”. Vị Samurai trả lời: “Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi và ngươi đã trả nợ rồi”.
Ai cũng thù ghét sự bất công, gian tham và độc tài. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh những người biểu tình ở các nước Tusinia, Ai Cập, Yemen đòi quyền sống cho công lý và tự do. Sự đấu tranh, sự hận thù và ghen ghét diễn tả trên những khuôn mặt giận dữ la hét và bạo động của họ. Giận dữ vì bị đối xử bất công và bị tước đoạt mất quyền sống. Làm sao họ có thể yêu thương những kẻ làm gây oan trái và ngỗ nghịch. Sức chịu đựng của con người có giới hạn. Chúng ta cũng là những người đã từng bị đối xử cách bất công trong cuộc sống. Chúng ta hiểu được phần nào những áp bức trong cuộc sống dưới chế độ những Phát-xít và độc tài. Trong tinh thần Kitô Giáo, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nên có những cách đối xử nhân từ và rộng lượng hơn. Làm sao chúng ta có thể dung hòa để mang lời Chúa áp dụng vào cuộc sống thực tế đầy đau thương và bất công này. Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương thù địch, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con.
Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ nhưng làm lành hay yêu thương kẻ thù thì chúng ta khó có thể. Nhiều khi chỉ cần nhắc lại chuyện cũ không vui, sự tức giận đã trào nghẹn lên tới cổ.
Có những sự kiện nhỏ nhặt thôi nhưng chúng ta cũng khó lòng bỏ qua. Chỉ cần nhìn thấy bản mặt của họ là thấy ghét, làm sao chúng ta có thể dung hòa và tha thứ được chứ?. Chúa Giêsu nhắc nhở dịu dàng: Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (Mt. 5,45).Khi thực hành được lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm thấy sự yêu thương hòa giải thật tuyệt vời và đong đầy ý nghĩa. Khi thương yêu tha thứ, chúng ta không mất mát gì cả, mà còn được lợi gấp trăm. Ai cũng hiểu biết yêu là như thế đấy, nhưng đi vào thực hành tha thứ với con người cụ thể thì còn một khoảng cách cần lấp đầy. Truyện cổ Trung Hoa kể câu truyện về sự hòa giải và kết hạn: Ngày xưa ở Trung Quốc, có một người nông dân và một người thợ săn là hàng xóm của nhau. Người thợ săn nuôi một đàn chó săn rất dữ tợn và khó bảo, chúng thường nhảy qua hàng rào và rượt đuổi đàn cừu của người nông dân. Người nông dân bảo người hàng xóm của mình hãy trông nom đàn chó cẩn thận, nhưng xem ra những lời đó đều bị bỏ ngoài tai.
Một ngày nọ, đàn chó lại nhảy qua hàng rào, chúng đuổi cắn đàn cừu và làm nhiều con trong đàn bị thương nặng. Lúc này, người nông dân không thể chịu đựng thêm nữa. Anh ta bèn lên phủ để báo quan. Vị quan phủ chăm chú lắng nghe đầu đuôi câu chuyện rồi nói: “Ta có thể phạt người thợ săn và bắt anh ta xích hoặc nhốt đàn chó lại. Nhưng anh sẽ mất đi một người bạn và có thêm một kẻ thù. Anh muốn điều gì hơn: một người bạn hay một kẻ thù làm hàng xóm của mình?” Người nông dân trả lời rằng anh muốn có một người bạn hơn. Vị quan phủ nghe vậy bèn phán:“Được, vậy ta sẽ bày cho anh một cách để vừa bảo vệ an toàn cho đàn cừu, vừa giữ được một người bạn”. Người nông dân bèn nghe theo lời chỉ dẫn của vị quan phủ. Vừa về đến nhà, người nông dân liền thử làm theo những gì vị quan phủ đã bày cho anh ta. Anh ta bắt ba con cừu tốt nhất của mình và đem tặng chúng cho ba cậu con trai nhỏ của người hàng xóm. Đám trẻ rất vui thích quấn quít chơi đùa bên mấy con cừu. Để bảo vệ cho đồ chơi mới của lũ trẻ, người thợ săn đã làm một cái cũi chắc chắn để nhốt đàn chó. Từ đó trở đi, đàn chó không bao giờ quấy rầy đàn cừu của người nông dân nữa. Cảm kích trước sự hào phóng của người nông dân với những đứa con của mình, người thợ săn thường mang chiến lợi phẩm mà anh ta săn được sang cho người nông dân. Người nông dân đáp lại bằng thịt cừu và phô mai mà anh ta làm ra. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai người hàng xóm đã trở thành bạn tốt của nhau.
Chúng ta biết rằng chiến tranh bao giờ cũng có thiệt hại, đổ nát, chia cách và mất mát. Cổ nhân có dạy: “Một sự nhịn chín sự lành”. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan”. Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Eph. 4,26).
.
YÊU THƯƠNG THÙ ĐỊCH-ĐIỀU KHÔNG DỄ CHÚT NÀO
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
“Hãy yêu thương tha nhân và ghét thù địch”. Mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi (Lv 19,18). Theo đó, người Dothái chỉ yêu thương những người đồng loại, tức là những người thuộc dân riêng của Chúa, dân Israel. Nói cách khác là họ chỉ yêu thương những người đã được cắt bì mà thôi. Còn dân ngoại, họ coi như thù địch. Họ còn có luật và bổn phận ghét người ngoại bang, nhất là dân Amalec, dân Moab (x. Đnl 25,18; 23,6).
Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã phá đổ những giới hạn của luật cũ, và mạc khải cách trọn hảo về điều luật mới, khi dạy: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù” (Mt 5,43a). Thế thì, kẻ thù mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây là ai ?
Một số quý ông, quý anh bảo rằng kẻ thù của con là rượu, là thuốc lá, là cờ bạc… Chúa dạy phải yêu kẻ thù, nên con yêu luôn những thứ đó. Không phải lập luận theo kiểu lý “cùn” này. Kẻ thù mà Chúa muốn nói ở đây là những người làm cho ta đau khổ, làm cho ta bị tổn thương, những kẻ không ưa thích gì ta, v.v… Yêu thương kẻ thù là yêu thương những người như thế: “Hãy cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43b).
Qua lời dạy trên, Chúa Giêsu muốn mời gọi ta điều gì ? Thưa Chúa Giêsu muốn mời gọi ta biết vượt lên tình yêu tự nhiên, vốn nặng về cảm tính, để yêu thương hết mọi người. Và như thế, không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Đức Kitô nữa. Đây là điều mới mẻ và độc đáo của luật Tin Mừng Đức Giêsu và là mức độ cao nhất của tình yêu hoàn thiện.
Thứ đến, tình yêu thương đó được biểu hiện bằng việc làm cụ thể, mà quan trọng nhất là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ tự nhiên không được ta yêu thương. Không phải là cầu nguyện chống lại kẻ thù, cầu nguyện xin Chúa khừ trừ giùm kẻ thù của mình, như trong Thánh Vịnh:
“Còn những quân thù nghịch,
Thiên Chúa sẽ đập bể đầu;
bọn theo đường gian ác,
Người đánh cho gãy răng”.
Hay: “Lạy Chúa xin thẳng tay khai trừ bọn chúng
khỏi thế giới loài người;
Án phạt Chúa đã dành,
xin Ngài bắt chúng nuốt cho đầy bụng;
cả đàn con cũng được ăn cho thoả thích,
phần còn lại cho bầy cháu mai sau” (Tv 17,14).
Không phải là cầu nguyện kiểu đó, mà là cầu nguyện cho họ để họ được ơn hoán cải, ơn biến đổi.
Nhưng tại sao lại phải yêu thương như những kẻ thù nghịch? Đơn giản là vì chính chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương, đang khi chúng ta là kẻ nghịch thù với Chúa. Giả như Thiên Chúa đối xử với ta như cách ta thường đối xử với anh em mình, thì số là chúng ta đã bị diệt trừ từ lâu rồi. Vì trước mặt Chúa, đã nhiều lần chúng ta là kẻ thù của Chúa, đã nhiều lần làm ô danh Chúa, và đã từng chống đối Chúa, thử thách Chúa. ..
Lý do thứ hai là vì có yêu thương kẻ thù nghịch, thì ta mới đáng được gọi là con cái của Thiên Chúa, và có yêu thương như thế, chúng ta mới thực sự trở nên giống như Cha trên trời là Đấng trọn lành, Đấng đã “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45).
Dĩ nhiên, kính thưa quý…., yêu thương kẻ thù nghịch là điều không dễ chút nào xét trên bình diện con người tự nhiên. Tha thứ cho những kẻ làm hại hay xúc phạm đến mình đã là điều khó rồi, huống chi là yêu thương, làm ơn và cầu nguyện cho họ nữa. Thế nhưng chúng ta có thể thực hiện được nếu có ơn Chúa trợ giúp. Chính thánh Phaolô đã quả quyết điều này: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
Hãy yêu thương và cầu nguyện cho người kẻ mà không ưa ta, những kẻ thù ghét ta. Để rồi nhờ lời cầu nguyện của ta mà họ được hoán cải; nhờ tình yêu thương của ta mà họ được biến đổi, vì “tình yêu có sức biến đổi phận người”. Và cũng nhờ đó mà chúng ta được lớn lên trong tình yêu của Chúa.
.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Nếu hiểu trọn lành đồng nghĩa với nên thánh, thì bài đọc I, chúng ta thấy ngay từ thời Cựu ước, ngoài việc Đức Chúa Trời thiết lập giao ước và ban 10 giới răn cho dân Israel, Thiên Chúa còn kêu gọi họ: “Các con hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh”(Lv 19,2).
Lời kêu gọi này xuyên suốt trong dòng lịch sử cứu độ cho đến thời Tân ước, Đức Giêsu nhắc lại mệnh lệnh này: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”(Mt 5,48).
Nương theo giáo huấn Tin mừng, các Tông đồ cũng kêu gọi các tín hữu thời Giáo hội sơ khai với nội dung tương tự. Chẳng hạn như thánh Phêrô tông đồ nói rằng: “Anh em hãy nên thánh trong cách ăn nết ở, như Đấng thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng thánh”(Pr,15-16).
Còn thánh Phaolô tông đồ nhắn nhủ: “Thánh ý Đức Chúa trời là muốn anh em nên thánh”(Ts 4,3).
Tiếp đến, Công đồng Vat II trong Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân có viết: “Hết mọi Kitô hữu đã được rửa tội trong Giáo hội Công giáo, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, hoàn cảnh nào… đều được Thiên Chúa kêu mời để đạt đến sự trọn lành thánh thiện như Thiên Chúa Cha là Đấng Thánh”(Lg 41). Tóm lại, lý do chúng ta phải nên thánh, vì đây là một lệnh truyền chứ không phải là lời khuyên.
Khi lãnh Bí tích rửa tội, chúng ta được tái sinh trong ơn làm con Chúa. Chúa là cha, là Đấng thánh, con thì nên giống cha mình. Đồng thời, chúng ta được tháp nhập vào đại gia đình Hội thánh Chúa, mà chúng ta là phần tử của Hội thánh, nên chúng ta phải nên thánh.
Thế nhưng, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta không phải nên thánh như Đức Mẹ Maria, không phải nên thánh như thánh Cả Giuse, cũng không phải nên thánh như bất cứ vị thánh nào khác, mà nên thánh như Chúa Cha trên trời, một mẫu gương tuyệt đối hoàn hảo, nhưng chúng ta có thấy Chúa Cha bao giờ đâu mà bắt chước?
Đức Giêsu trả lời cho tông đồ Philipphê: “Ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha”. Như vậy, những ai bắt chước theo gương Đức Giêsu, và sống theo giáo huấn của Ngài dạy bảo, là chúng ta nên thánh như Chúa Cha.
Vậy thì những ai đã nên thánh rồi? Thánh Gioan Tông đồ viết: “Trong một thị kiến ban đêm tôi đã ngắm nhìn lên trời, tôi đã thấy một đoàn lũ không thể đếm được, họ thuộc mọi ngôn ngữ, màu da, lớn nhỏ…”(Kh7,9).
Như vậy, đã có vô số người nên thánh. Nói theo ngôn ngữ của thánh Âugustinô “Ông nọ bà kia đã nên thánh, thì tôi đây, tôi cũng phải cố gắng nên thánh”. Ngài nói tiếp “Khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên ta, Ngài không cần hỏi ý kiến ta, nhưng để cứu chuộc ta, Ngài cần chúng ta cộng tác”.
Thánh Phaolô tông đồ nói: “Thánh là người sống đức ái hoàn hảo; ai chu toàn đức ái người đó chu toàn lề luật”(Rm13,1).
Một hôm có người thông luật đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy! Trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất? Ngài đáp: “Giới răn trọng nhất đó là: ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức và hết trí khôn; và yêu tha nhân như chính mình ngươi”. Thế thì, tại sao ta phải thương yêu tha nhân?
Thưa vì: Tha nhân là hình ảnh của Chúa. Ta yêu Chúa thì phải yêu những gì thuộc về Chúa (St 1, 26).
Tha nhân là chi thể của Chúa. Đức Giêsu là đầu nhiệm thể, còn chúng ta là những chi thể trong thân mình mầu nhiệm ấy (1Cr 6,15).
Tha nhân là giá máu của Chúa Kitô. Đức Giêsu đã đổ máu ra để cứu chuộc từng người chúng ta, nên chúng ta cũng phải biết kính trọng tha nhân.
Tha nhân là đền thờ Chúa Thánh Thần. Ngày chúng ta lãnh Bí tích thanh tẩy, đã trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi ngự trị, vậy trong ánh nhìn đức tin, chúng ta phải tôn kính đền thờ sống động này (1Cr 6, 19).
Anh chị em thân mến,
Chỉ có Chúa là Đấng thánh, còn tự mình chúng ta không thể nào nên thánh được nếu không có ơn Chúa giúp, như lời Đức Giêsu nói: “Không có ơn Ta, các con không thể làm gì được”. Vậy để có ơn Chúa, chúng ta phải sống gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các Bí Tích, đặc biệt là Bí tích Giải tội, và Thánh Thể.
Ước gì, chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa, để mỗi ngày nên trọn lành, mà hôm nay Chúa đã mời gọi chúng ta. Amen.
.
YÊU KẺ THÙ LÀ CHÂN LÝ TÌNH YÊU CỦA CHÚA
Lm. Raphael Xuân Nguyên
Có lẽ đoạn Tin Mừng của Thánh Matthêu hôm nay đã gây rất nhiều thắc mắc và đố kỵ, nhất là đối với nhiều người không biết và không quen với tinh thần Kitô giáo, và ngay cả với các Kitô hữu không chừng. Chẳng hạn cách đây vài năm, ông tổng thống nước Iran có lần đã chê bai và lên án những người Kitô hữu là những kẻ yếu kém và nô lệ, chỉ vì tôn thờ Đức Kitô chịu đóng đinh và chết như kẻ nô lệ! Và có lẽ không một ai đã từng sống dưới chế độ cộng sản mà lại không biết hoặc không kinh nghiệm chính sách khắc nghiệt đến độ tàn bạo đối với các tôn giáo, nhất là Kitô giáo! Họ đã không thể chấp nhận được một lối sống của lý thuyết yêu thương, tha thứ ngay cả cho kẻ thù đến độ như khờ khạo và không tưởng mà Đức Kitô đã dạy và làm gương. Vì thế không lạ gì Kitô giáo loan truyền đến đâu cũng đều bị ngăn chặn, và những kẻ theo Kitô giáo thường bị bách hại.
Ngoài ra, ngay trong lòng giáo hội Công Giáo, nhiều tín hữu cũng rất hờ hững với luật yêu thương của đoạn Tin Mừng này, đó là chưa kể đa số các tín hữu đều không thể giữ trọn luật bác ái mến Chúa yêu người của Chúa Kitô trong suy nghĩ cũng như trong hành động! Câu hỏi đặt ra là phải chăng những điều Chúa Giêsu Kitô dạy trong đoạn Tin Mừng này là không tưởng, là biến người theo thành những kẻ khờ khạo, là không thể thực hiện được? v,v. . . và nếu tuân giữ những điều ấy thì được lợi ích gì?
Đây chỉ là suy tư vắn tắt mang tính suy niệm Lời Chúa, nên thiết tưởng cần cá nhân hóa những lời của Chúa Giêsu vào cuộc sống đạo, và ngay cả đời thường, sẽ thấy hiệu qủa rất phi thường của tình yêu Thiên Chúa cả trong đời sống tâm lý lẫn tinh thần và tôn giáo. Trước hết Chúa Giêsu dạy “đừng chống cự với kẻ hung ác”, (dĩ nhiên tuyệt đối không trả thù theo lối mắt đền mắt răng đền răng của đạo cũ theo luật Maisen) và còn quảng đại với họ bất cứ điều gì khi họ muốn, như bị tát má này, đưa luôn má kia… Chúng ta không hiểu vì sao Chúa Giêsu lại dạy như vậy. Tuy nhiên người ta có thể hiểu những “kẻ hung ác hoặc kẻ thù” vào thời của Ngài là những kẻ chiếm đóng quốc gia Do Thái, tức những quân quyền Rôma tàn bạo. Điều xảy ra trong thực tế cuộc sống con người, là bất cứ khi nào một hành động hung dữ hay xấu xa được đáp trả lại bằng tình yêu, lòng quảng đại, sự bao dung tha thứ, và nhất là bằng hành động tích cực yêu thương giúp đõ, thì kết quả vần là dập tắt được ngọn lửa hận thù, và có thể biến đổi đối phương. Người không trả thù thì không bị tình cảm thù hận hành hạ, và họ luôn sống trong an bình, họ có thể thoát được những dằn vặt đến độ biến họ thành “mát” hay thành khờ. Họ là những kẻ mạnh, chứ không phải kẻ thù của họ. Nhưng nếu hành động ngược lại, tức tìm trả thù, thì lập tức họ trở thành nạn nhân của sự thù hận. Chúa Giêsu đã chọn con đường yêu thương đến độ chấp nhận chết như một tội nhân, để đổi lại toàn thể những tội nhân con người thành con cái Thiên Chúa. Chân lý cứu độ của Chúa Giêsu chính là chân lý tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa đã biên đổi toàn thể nhân loại đến muôn ngàn đời. Những ai giữ lời Ngài thì hòa nhập vào tình yêu Thiên Chúa.
Lý do khác mà Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương cả kẻ thù, là vì ngay cả những người đó và chính chúng ta đều có cùng một Cha chung trên trời, Đấng làm cho mặt trời mọc lên, hoặc cho những cơn mưa xuống chung cho cả người lành lẫn kẻ dữ, cho người công chính lẫn kẻ tội lỗi. Qủa thực, suy gẫm kỹ càng sẽ thấy điều Chúa dạy rất phi thường, nhưng cũng rất thức tế. Ngài lấy hình ảnh gia đình mà người cha tràn đầy tình thương như vị trọng tài vô cùng công mình và nhân từ với mọi con cái theo hoàn cảnh của chúng. Tình thương như ánh sáng ban sự sống, và từ sự sống sẽ cảm nghiệm được tình thương của Đấng ban ánh sáng qua mặt trời sáng như vô tận. Tình thương tràn lan như nước nuôi dưỡng sự sống, và từ sự sống cũng cảm nghiệm và biết ơn Đấng ban nước qua những cơn mưa nuôi sư sống. Tất cả các con cái một khi cảm nghiệm được tình thương bao la của Cha mình, sẽ tự nhiên chia sẻ và thông cảm với nhau hơn, cũng như sẵn sàng tha thứ và giúp đỡ lẫn nhau, vì chúng đang hòa nhập trong tình yêu của cha mình.
Đạo của Chúa Giêsu là Đạo Bác Ái, Đạo Tình Yêu, vì bản tính Thiên Chúa là Tình Yêu. Con người sẽ chỉ cảm nhận được Thiên Chúa Tình Yêu là Cha mình khi ở trong tình yêu với Ngài và trong sự hòa hợp tình yêu của mình với anh chị em nhân loại gồm mọi loại người khác nhau. Người ta không thể chấp nhận được những điều Chúa Giêsu dạy, vì người ta chưa biết Thiên Chúa. Người ta không giữ được điều Chúa Giêsu dạy, vì người ta không cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa là Cha. Điều mà Thánh Gioan thánh sử công bố: Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Thiên Chúa, sẽ mãi mãi là chân lý giữa thế giới loài người. Một khi biết chấp nhận mọi người là anh chị em con cùng Cha trên trời, thì ranh giới tù hận từ từ sẽ biến đi. Là những Kitô hữu, chúng ta có thể bắt đầu thực hiện ngay hôm nay trong các gia đình mình, sẽ cảm nhận hạnh phúc và tự do tràn ngập tâm hồn mọi thành viên trong gia đình, vì hạnh phúc ấy đến từ Thiên Chúa tình yêu là Cha chung trên trời.
.
Lm. Giuse Nguyễn Đức Ngọc.
Hồi bé, một lần kia khi bị thằng bạn cùng lớp bắt nạt, tôi chạy về méc bà nội và hy vọng bà sẽ chặn đường nó, quất cho nó 1 trận hoặc chí ít cũng chửi cho nó nên thân, nhưng bà chỉ nhìn tôi và khuyên bảo: “Thôi tha thứ cho nó cháu ạ!”. Tôi xịu mặt tiu nghỉu và đành phải…..tha thứ, nhưng trong ấm ức…..(chẳng qua vì nó to con, tôi không thể đánh lại nó!!!).
Lớn lên, năm học lớp 12, khi đọc được những lời thơ của nhà thơ Tố Hữu diễn tả thái độ mà ta phải có trước kẻ thù, tôi cảm thấy hả hê: “Khóc nhục, rên hèn, van yếu đuối – Và dại khờ là những lũ người câm – Trên đường đi như những bóng âm thầm – Nhận đau khổ mà gửi vào im lặng”. Có thế chứ !!!: trước kẻ thù thì không có khóc lóc, không rên rỉ, không van xin, không im lặng mà phải vùng lên tranh đấu, phản kháng, bởi vì nhịn thì …. nhục, tha thì ….thiệt.
Các bạn thân mến, thương bạn – ghét thù, đó là những tình cảm hết sức tự nhiên của con người chúng ta. Thế nhưng lời Chúa ngày hôm nay mời gọi chúng ta vượt lên trên tình cảm tự nhiên ấy vì vị thế đặc biệt là con cái Thiên Chúa của mình. Là Kitô hữu, chúng ta phải thương bạn và cũng phải thương thù, bởi kẻ thù của chúng ta cũng là “hình ảnh của Thiên Chúa”, là con cái Thiên Chúa như ta. Nói cách khác, họ cũng là anh em của chúng ta. Tình thương đó, hơn thế nữa, phải được biểu lộ cách cụ thể bằng 3 việc : tha thứ, cầu nguyện và làm ơn cho họ. Tha thứ và cầu nguyện cho kẻ thù có lẽ đã được chúng ta thực hiện hơn 1 lần trong cuộc sống, nhưng việc làm ơn cho họ thì thật là khó. Việc làm ơn không chỉ trên lãnh vực tinh thần (đưa luôn má kia cho họ tát: nhịn nhục dù bị mất danh dự) mà còn cả vật chất (họ đòi lấy áo ngoài thì đưa cả áo trong). Đúng là thương thù thì thiệt thòi. Nhưng sự thiệt thòi đó sẽ được chính Thiên Chúa Cha đền đáp cho chúng ta sau này. Đó là niềm xác tín của mọi Kitô hữu và chúng ta đã, đang và sẽ sống mãi với niềm xác tín ấy.
Chúa Giêsu không dạy chúng ta bằng lời nói suông nhưng cả cuộc đời của Ngài đã thực hiện điều đó: Ngài có rất nhiều kẻ thù nhưng chưa bao giờ Ngài kết án ai. Ngài có những lời khá nặng nề với các luật sĩ và Pharisiêu “khốn cho các ngươi hỡi những kẻ giả hình…” nhưng không để trả thù mà là để cảnh tỉnh họ. Cuối cùng, trên thánh giá, Ngài đã thành khẩn xin Chúa Cha tha thứ : “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Các Thánh cũng đã noi gương bắt chước vị Thày Chí Thánh của mình: Thánh Stêphanô cầu nhuyện cho những kẻ ném đá mình; các Thánh Tử Đạo VN tha thứ cho những người tố cáo, ra lệnh giết mình; Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan-Phaolo II đã vào tận trong nhà giam để nói lời tha thứ cho Mehmet Ali Agca là kẻ đã cố ý ám sát Ngài bằng 4 phát súng lục ngày 13/5/1981….và bây giờ đến lượt chúng ta….. Chúng ta chưa phải là thánh, nhưng nếu chúng ta muốn gia nhập hàng ngũ các Thánh thì mỗi người cũng phải sống và cư xử như Đức Kitô và các Thánh đã làm: thương thù dù thiệt thân, với sự hỗ trợ đặc biệt của ơn Chúa Thánh Thần. Amen.
.
PM. Cao Huy Hoàng
Đất nước hòa bình, gia đình hạnh phúc, luôn là một khát vọng chính đáng của mỗi chúng ta. Gọi là khát vọng chính đáng, bởi vì vẫn luôn là điều phải vươn tới đỉnh tuyệt hảo, phải nỗ lực tìm kiếm , và phải đánh đổi bằng cái giá hy sinh của mỗi người. Bằng không, có thể là chúng ta đang bằng lòng với một loại hòa bình ảo, hạnh phúc ảo.
Hòa bình đất nước theo kiểu “khẩu phật tâm xà” hay “cái bắt tay người nầy là cái tát tai người kia” đang nhan nhản trên trường chính trị, đang là đường lối của những chủ trương mang nhản hiệu “xây dựng hòa bình”, không phải là hòa bình ảo đấy sao? Thời gian hòa bình là thời gian để rút kinh nghiệm, để ngẫm nghĩ, để nghiên cứu và để sản xuất những loại vũ khí tối tân hơn cho công cuộc phòng thủ, hay chuẩn bị cho một kế hoạch mưu hại mới …là thời gian hòa bình đúng nghĩa đấy sao?
Sự gian tà giả dối ảnh hưởng không ít đến cách sống hạnh phúc của các gia đình. Thiên đàng tình yêu, thiên đàng hạnh phúc nhường chỗ cho một địa ngục của những oán thù: vợ chồng xem nhau như thù địch, con cái oán trách cha mẹ, cha mẹ tìm cách tẩy chay con cái. Thế mà, người ta vẫn đang ung dung diễn vở kịch hạnh phúc trước mắt mọi người. Để mà chi? Có phải để chứng tỏ rằng gia đình hạnh phúc trong một đất nước hòa bình đấy sao?
Mỗi ngày có bao nhiêu tin nóng về những vụ thanh toán nhau vì thù tình, thù nghĩa, thù nợ nần, thù ảnh hưởng, thù danh vọng… và cũng không thiếu những chuyện kinh hoàng hơn: thanh trừng nhau vì tranh nhau miếng ăn, mảnh đất, chiếc ghế, chiếc lọng…
Ấy là chuyện đời, sòng phẳng như “mắt đền mắt, răng đền răng” hoặc “ác giả, ác báo”. Có phải vì không mảy may dính bén chút luân thường đạo lý chăng? Hay đã có thấm nhuần, nhưng người đời cố tình gác chuyện đạo đức sang một bên để tính cho được những lợi lộc trần thế?
Còn chuyện đạo, thiết tưởng để có những gia đình hạnh phúc, đất nước hòa bình, cần thiết có những tâm hồn bình an đích thực. Và bình an đích thực chỉ có được khi người có cái tâm đạo vừa ngay chính thật thà, lại vừa khoan dung độ lượng. Tất cả đều tóm gọn trong luật yêu thương. Sống trong tình yêu thương, khoan dung, thứ tha là sống trong bình an thật .
Các Kitô Hữu Công Giáo dịp đầu xuân Tân Mão năm nay, có món quà thật quý giá của Chúa Giêsu ban tặng, đó là: tám mối dẫn đến phúc thật, dẫn đến Nước Hòa Bình, luật yêu thương tha nhân, luật tôn trọng nhân quyền cho xứng với nhân phẩm đã trải ra mấy tuần liền, như một bữa tiệc Xuân thịnh soạn.
Và Chúa nhật hôm nay, bữa tiệc Lời Chúa lại thêm một món ngon lạ lùng: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45).
Như một lời suy niệm nhỏ, như một quyết tâm nhỏ khi tôi nghe các em thiếu nhi hát:
“Yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ thù. Ai khinh ghét ta là người ta yêu nhất. Không hận thù mà tìm nhau nên thuận hòa. Luôn tha thứ và yêu người như yêu ta.
Trên thập giá, Chúa xin tha cho quân dữ. Trong cuộc đời ta thương tha kẻ thù ta”.
Vâng, các em hát mà người lớn giật mình, vì việc yêu nhất, cầu nguyện và làm ơn cho người xúc phạm mình, làm tổn thương mình, bách hại mình là một giáo lý lạ lùng nhất. Chính điều lạ lùng ấy là điều kỳ diệu của bản tính Thiên Chúa Trọn lành, mà Thiên Chúa muốn con cái ngài mặc lấy, nhận lấy như một quà tặng để nên trọn lành.
Bởi vậy, kết thúc bữa tiệc Xuân Trên Núi, Chúa Giêsu nói: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng Trọn Lành” ( Mt 5, 48 ).
Bữa tiệc Lời Chúa kéo dài mấy tuần liền là quà tặng đầu xuân để mỗi tín hữu chiếm hữu một Mùa Xuân Vĩnh Cửu, một Đất Nước Hòa Bình Thiên Thu Vạn Đại, Nước Thiên Chúa.
Khác với cái hòa bình ảo trong một thế giới thực, đời sống các tín hữu phải là một đời sống hòa bình thực trong một thế giới tạm thời, chóng qua, nếu không nói là một thế giới ảo. Hòa bình thật là sự bình an của những người có lòng ngay chính thật thà, có khát vọng vươn tới chân lý, có cố công sống đời sống của một tạo vật thượng đẳng có linh hồn, có trí khôn và có nhân tính mặc lấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa.
Bình an chỉ có nơi tâm hồn không chấp nhất nhưng cảm thông, không trách cứ nhưng tìm cách điều chỉnh cái xấu cho nên tốt, không giận hờn bỏ mặc nhưng khoan dung tha thứ, không xem ai là kẻ thù nhưng cố công xây dựng bình an trong lòng tha nhân, không mưu hại người mưu hại mình nhưng hy sinh cầu nguyện cho họ bỏ đường gian ác mà quay về chính lộ.
Nhìn vào cuộc sống thực tế, và gần hơn, thách thức lớn nhất đối với hành trình đức tin của các tín hữu, công giáo, có thể nói, không phải là Đức Tin mà là nỗi day dứt về đức Ái. Những tưởng, các gia đình công giáo phải thật sự có hạnh phúc nhờ liên kết với nguồn tình yêu hiến thân là Chúa Giêsu Kitô, nhưng tại sao còn có những người xem vợ xem chồng mình như kẻ thù, rồi đối xử với nhau cách không còn tình nghĩa: đánh đập nhau, chửi bới, mắng nhiếc, xua đuổi, cách tàn nhẫn?
Tôi còn nhớ câu chuyện vui: “Có đám tang đi qua, một chị kia nói: “thấy chồng người ta chết mà ham, thằng mắc dịch nhà mình nó hổng chết mà còn nhậu dài dài, còn đập vợ đập con nữa chứ”.
Lại chuyện ông đánh vợ la toáng lên rằng: “sao tôi lại cưới nhằm mụ vợ rất ngăn nắp ở phòng ngủ, lịch sự ở nhà bếp, và rất là lãng mạn ở phòng khách thế nầy chứ? Tôi hỏi bà có còn xem tôi là gì nữa không?”.
Chuyện hàng xóm láng giềng nơi những người công giáo, không lẽ cũng mất lòng nhau, gây gỗ nhau, tranh chấp nhau như cơm bữa được sao? Cũng người nầy kiện tụng người kia, người kia âm mưu hại người nọ được sao? Thế thì làm sao mà “người ta thấy việc các con làm mà ngợi khen Cha các con trên trời được”?
Lời Chúa hôm nay xoáy mạnh vào tâm hồn mỗi người, mỗi gia đình chúng ta: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45).
Đời sống hôn nhân và gia đình là cơ hội, là môi trường tốt nhất để con người sống tình yêu thương như Chúa đã yêu, sống lòng khoan dung tha thứ như Chúa đã khoan dung tha thứ.
Vì thế, thiết nghĩ, đừng xem nhau như kẻ thù, nhưng hãy giúp nhau tránh lầm đường lạc lối nhờ chân lý, giúp nhau nên hoàn thiện nhờ tình yêu, giúp nhau vượt qua cuộc hành trình dương thế nhờ niềm hy vọng, và giúp nhau sở hữu một bình an đích thực nhờ lòng khoan dung tha thứ…
Các Gia đình Công giáo được sống trong Giáo Hội “duy nhất thánh thiện công giáo và tông truyền” còn là niềm hạnh phúc lớn lao, khi mỗi tín hữu được sống trong một mái nhà chung chan chứa bình an thật của Thiên Chúa. Và có thể gọi Giáo Hội, mái nhà chung ấy là Nước Thiên Chúa tại trần gian nầy.
Lạy Chúa, xin cho chúng con lòng yêu thương và khoan dung của Chúa, để bắt đầu từ tâm hồn bình an trong Chúa, chúng con xây dựng gia đình hạnh phúc, làng xóm an hòa, giáo xứ hiệp nhất, đất nước yên vui và một thế giới chứa chan tình Chúa tình người: Một Nước Thiên Chúa hiển linh trên trần gian nầy, mọi người ngợi khen Chúa trọn lành, trọn hảo.
.
Giuse Hồng Ân
Đối với nhiều người trong chúng ta, hai tiếng “yêu thương” chỉ dành cho các thành viên trong gia đình, họ hàng và một vài người bạn thân cận. Có chăng chỉ là lòng “thương hại” những người nghèo khó, cô đơn và bất hạnh, vì họ là những người không làm gì hại đến mình và gia đình mình. Chúng ta chẳng bao giờ đề cập đến việc yêu thương những đối thủ của mình. Chúng ta còn gán cho họ những cái tên đáng sợ và dạy cho con cháu sống xa tránh họ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới bị chi phối bởi những thứ luật có thể nói là “luật rừng”, thứ luật mà chỉ bảo vệ cho một số kẻ có quyền, có tiền, thứ luật không có chút nào là công bằng, cướp nhà, cướp đất của người nghèo, để chia chác, để làm giàu cho những kẻ có quyền có chức, bắt người vô tội, đánh đập đàn áp những người bênh vực cho chân lý. Một thế giới đầy dẫy những toan tính ích kỷ, vì lợi ích của mình, sẵn sàng chà đạp lên công lý, diệt trừ lẫn nhau, có người phải mất mạng, nhiều người thì “thân bại danh liệt”. Anh em lỡ làm thiệt hại một thì bắt đền gấp mười. Có những người chỉ vì cái lợi trước mắt đã cố tình gây ra tai nạn, rồi nằm ăn vạ để bắt người khác phải đền oan uổng.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta không sống theo “luật rừng”, không chỉ dừng lại ở mức độ công bằng. Mà hãy sống theo giới luật Chúa truyền, đó là luật “yêu thương”, một tình yêu bao là rộng lớn, một tình yêu vượt trên sự công bằng, vượt ra ngoài sự giới hạn tình gia đình, tình bằng hữu, tình đồng hương, vượt ra ngoài chủng tộc hay tôn giáo, “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 43-44). Yêu kẻ thù, là yêu thương cả những người làm hại, khinh bỉ, nói xấu, vu khống mình, không tìm cách báo thù, không lấy ác báo ác, mà ân báo oán, luôn cầu nguyện và mong muốn cho họ gặp những điều may lành. Đavid bị vua Saul thù ghét, săn đuổi để giết, nhưng Đavid vẫn không làm hại người Thiên Chúa xức dầu phong vương khi có thể làm điều đó. Dưới cái nhìn của con người thì Đavid đã hành xử dại dột, bỏ mất một cơ hội “hiếm có” để khử trừ kẻ thù mình, nhưng Đavid đã chọn Thiên Chúa, không chọn lợi ích cho riêng mình mà làm hại đến tha nhân.
Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Ngài đã sống yêu thương, Ngài luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với Ngài, mặc dù họ ghen ghét Ngài vô cớ, họ luôn tìm dịp để tố cáo Ngài, xuyên tạc lời Ngài giảng dạy. Đối với Giuđa là kẻ phản bội, Chúa không tố cáo đích danh trước mặt các môn đệ, Chúa còn ngồi ăn cùng bàn và rửa chân cho y nữa. Khi Giuđa dẫn quân lính đến bắt Chúa trong vườn cây dầu, Chúa vẫn ôn tồn nói với Giuđa: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22, 48). Vì yêu thương Giuđa nên nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhở, cảnh tỉnh để ông ta thay đổi việc làm xấu mà được hưởng ơn cứu độ. Trên thập giá, trước khi tắt thở, Chúa vẫn dùng chút hơi tàn lực kiệt để cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Người “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Vì vậy, thánh Phaolô cũng nói: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Thánh Tê-pha-nô đã thực hành lời Chúa dạy, noi gương Thầy Chí Thánh yêu thương và cầu nguyện cho những kẻ giết mình: “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7, 59-60).
Chúa Giêsu căn dặn chúng ta, để trở nên con Thiên Chúa phải “yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44). Để được làm con Chúa, chúng ta cũng phải đối xử giống như Thiên Chúa đã đối xử tốt với tất cả mọi người không phân biệt người tốt, kẻ xấu. “Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 46). Chúng ta hãy sống lời Chúa dạy, yêu thương hết mọi người, một tình yêu không có giới hạn, không chỉ yêu thương những người thân cận, những người đồng hương, những người cùng tôn giáo, những người cùng quan điểm, những người đem lại lợi ích cho mình… Mà yêu thương cả thù địch, cả những người ghen ghét, hãm hại, nói xấu, phỉ báng mình nữa, yêu thương cả những người tội lỗi. Yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù. Nếu chỉ là một tình yêu co cụm, ích kỷ hẹp hòi, thì không phải là con Thiên Chúa. Như lời Chúa Giêsu đã dạy: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi. Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5, 46).
Chúa còn mời gọi mỗi người chúng ta hãy nên hoàn thiện “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Để nên hoàn thiện, chúng ta hãy loại bỏ thứ “luật rừng”, thứ luật luôn diệt trừ lẫn nhau, loại bỏ những toan tính, ích kỷ, hẹp hòi, tham lam, gian dối, lừa lọc. Chúng ta hãy thực thi giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy là “mến Chúa và yêu người” yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù, yêu thương và tha thứ cho những người làm thiệt hại đến mình, dù là vô tình hay hữu ý.
Thật khó để yêu thương kẻ thù, một khi đã ghét nhau, chỉ nhìn thấy mặt, nghe giọng nói đã thấy khó chịu rồi, chưa nói đến yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù, như trong bài thơ “yêu thương” của Lm Giuse Nguyễn Nhân Tài có viết:
“Anh em con đó con chưa thương
Nói chi đến kẻ con chán chường
Ghét cay, ghét đắng, ghét thậm tệ
Làm sao ôm lấy để yêu thương”.
Quả thật, đây là một việc vô cùng khó khăn, nhưng càng khó chúng ta càng phải cố gắng thực thi, vì đây là giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy, muốn trở nên con Chúa, muốn nên hoàn thiện, không còn cách nào khác ngoài cách sống “yêu thương và tha thứ”. Thánh Phaolô dạy cho ta biết: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13, 10).
.
HÃY YÊU KẺ THÙ VÀ LÀM ƠN CHO HỌ
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Mến Chúa, yêu người chính là điểm cốt lõi của đạo Công Giáo. Nếu nói mến Chúa mà không yêu người thì đó là kẻ nói dối. Mến Chúa thì dễ, nhưng yêu người lại rất khó. Hơn nữa yêu cả kẻ thù của mình thì càng khó hơn gấp bội. Tuy nhiên, là người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không thể bỏ qua hay làm ngơ khi đứng trước lời mời gọi của Đức Giêsu là yêu thương hết mọi người, kể cả người thù ghét mình nữa.
- Luật yêu thương trong Cựu Ước
Thời Cựu Ước, luật yêu thương được hiểu là không hại người anh em, phải yêu thương đồng loại:“Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19,18). Trong sách Huấn Ca, tác giả cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình. Hơn nữa, đây lại chính là điều kiện cần để được Thiên Chúa tha thứ và ban ơn cứu độ cho mình: “Vì các ngươi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6:38)”.
Tuy nhiên, luật Cựu Ước, theo lẽ công bằng thì yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (x. Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Luật công bằng cũng hiểu là: “mắt đền mắt, răng đền răng”.
Như thế, ta thấy luật Cựu Ước là một luật đem lại công bằng cho người đồng loại, nhưng được phép báo oán kẻ thù của mình. Còn đến thời Tân Ước thì sao? Chúng ta xem Đức Giêsu đến, Ngài dạy gì?
- Luật yêu thương thời Tân Ước
Sang thời Tân ước, Đức Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật bằng việc đem vào đó một tình yêu bao dung tha thứ được dành cho hết mọi người. Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương luôn cả thù địch nữa. Đức Giêsu đã phán: “Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: ‘Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con’” (Mt 5,43-44). Thánh Phaolô cũng tiếp lời giáo huấn của Đức Giêsu khi nói: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống […]Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (x. Rm 12:14, 20-21). Rõ ràng, Đức Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù nữa, bởi vì: “Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. Ngài mời gọi các môn đệ hãy tha thứ vô điều kiện: “Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7”. Như vậy, vị chi là 490 lần, tức là yêu thương không ngừng.
Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài bảo trợ cho những người phạm tội hay có những tà ý vẫn ung dung sống trong những chọn lựa sai lầm của họ, mà Ngài đã mở lối thoát cho những ai bị người đời giam hãm cách tuyệt vọng trong tội hay trong những khuyết điểm của họ, để giúp họ vượt ra khỏi vòng tội lỗi để trở về với Chúa và sống chân tình với nhau. Đức Giêsu cũng không ngừng mời gọi người môn đệ sống tinh thần đó để góp phần làm cho một xã hội tràn đầy tình thương, lòng bao dung tha thứ.
“Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”(Mt 5,43-44) là điểm sáng của người môn đệ. Nếu không tha thứ cho những người ngược đãi mình thì của lễ của chúng ta cũng không được đẹp lòng Chúa và không được Ngài chúc phúc: “Nếu mỗi ngày, anh em con xúc phạm đến con tới bảy lần, và bảy lần nó trở lại với con mà nói: Tôi hối hận thì hãy tha cho nó” (Lc 17, 4). Xa hơn nữa: “Khi con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em lỗi phạm đến con, thì hãy để của lễ lại đó, đi làm hòa với người anh em trước đã rồi bấy giờ trở lại dâng của lễ của con” (Mt 5, 23-24).
Điều đó quả thật không dễ! Khó, nhưng cần thiết biết bao, vì “tha thứ và xin thứ tha tạo ra một phẩm chất mới trong quan hệ giữa người với người, bẻ gãy xiềng xích tội lỗi trói buộc trong tâm tư những người thù hận nhau… Thánh Công đồng Vat. II cũng nhấn mạnh luật yêu thương khi nói: “Giáo Huấn của Đức Kitô còn đòi ta phải tha thứ những xúc phạm và mở rộng luật yêu thương tới mức kể luôn cả những kẻ thù của mình nữa” (MV số 28).
Tuy nhiên, Công đồng lưu ý ta phải phân biệt giữa tội và người có tội. Ghét tội, nhưng không được ghét kẻ có tội, phải tìm cách giúp đỡ họ vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi. Nếu người môn đệ Đức Giêsu chỉ yêu thương những người đồng đạo thì chưa phải là một môn đệ đích thực. Người đời họ cũng làm như thế: “Ta bảo các người: nếu đức công chính của các ngươi không vượt hẳn các Ký Lục và Biệt Phái, các người sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Ngài đã đi một bước xa hơn để diễn tả một tình yêu không phân biệt bạn và thù, để hướng tới mọi người ở mức độ tuyệt đối. Bởi vì mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.
- Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho họ
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ”. Đây là giáo huấn độc đáo của Đức Giêsu về lòng nhân ái.
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ”. Là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời: “Đấng làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ”. Đức Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là đề nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ”. Đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Nhưng Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lạy Cha, xin tha cho họ vì nó lầm chẳng biết”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may hầu sám hối và canh tân để được cứu độ.
Như vậy Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ” là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa và làm nên bản chất của người môn đệ.
- Sống sứ điệp Lời Chúa
Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù…
Là những kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán hận chống lại người khác, vì họ là đền thờ và hình ảnh của Thiên Chúa.
Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang ơn cứu độ từ trời xuống cho nhân loại, nhưng ơn cứu độ này lại được ban cách ưu tiên cho kẻ tội lỗi như Ngài đã nói: Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi, vì người khỏe thì không cần đến thầy thuốc, người đau yếu mới cần.
Như vậy, nếu các kitô hữu không cố gắng bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa, họ sẽ không tốt hơn những người khác và có khi những người không phải là Công Giáo, người ta làm tốt hơn chúng ta.
Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ: “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Đức Giêsu đã nói với Phêrô như vậy tại vườn cây dầu khi ông dùng gươm để bênh vực cho thầy của mình và đã chém đứt tai người lính đến để bắt Đức Giêsu. Khi chúng ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta.
Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua lương tâm chúng ta trước. Khi nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa để chôn chính ta. Người Hylạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Chúng ta biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Người được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Người muốn, theo mẫu gương thánh thiện của Người, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ: “hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”.
Cuối cùng, yêu thương tha thứ phải được định hướng bởi sự thật. Không có sự thật thì tình thương trở thành mù quáng. Yêu hoa, không có nghĩa là yêu luôn cả những con sâu ẩn núp trong những cánh hoa. Đức ái Kitô Giáo đòi hỏi phải đấu tranh tích cực để khử trừ tội ác và cứu vớt con người, biến kẻ thù thành anh em, biến con người thành con Chúa. Đây là một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng phải phấn đấu hằng ngày.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu và sống tinh thần yêu thương, tha thứ, làm ơn cho anh chị em, nhất là những người đang thù ghét chúng con bằng một tình yêu không giới hạn. Amen.
.
JM. Lam Thy
Cả chương 5 sách Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu trỉnh thuật Lời dạy của Đức Giê-su nhằm giúp các môn đệ và những kẻ tin trở nên người công chính: Từ “8 mối phúc” đến “muối, men và ánh sáng cho đời”. Tiếp liền theo đó, Đức Giê-su lại dạy 5 “Đừng”: Đừng giận ghét – Chớ ngoại tình – Đừng ly dị – Đừng thề thốt – Chớ trả thù; và 1 “Nên”: Phải yêu kẻ thù.
Bài Tin Mừng tuần trước (CN VI/TN-A – Mt 5, 17-37) trích Lời Đức Giê-su dạy các môn đệ 4 “Đừng”; đến bài Tin Mừng hôm nay (CN VII/TN-A – Mt 5, 38-48), Người lại dạy thêm 1 “Đừng” nữa: Chớ trả thù. Vì sao con người hay trả thù? Chung quy cũng do tự ái quá cao mà thôi, bởi tự ái là gì nếu không phải là tự yêu mình. Khi chỉ biết yêu mình một cách thái quá thì sẽ cho là mình đúng, lúc nào và trong trường hợp nào cũng đúng hết. Bởi thế nên được người khen thì chẳng nói làm gì, nhưng bị chê thì sửng cồ lên ngay. Bị phê bình trúng tim đen thì bằng mọi giá sẽ tìm cách trả đũa. Nói cách khác, khi con người tự ái quá đáng, sẽ rất dễ giận ghét và từ giận ghét sẽ đưa đến hành động trả thù.
Ngay trong Cựu Ước, Lề Luật cũng dạy: “Luật báo phục tương xứng: Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.” (Đnl 19:21); “Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta: chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy.” (Lv 24, 19-20); “Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Xh 21, 23-24). Mới nghe qua những điều khoản đó thì thấy quả thật là Lề Luật quá khe khắt. Và cũng vì thế nên đã có những bài suy niệm cho rằng hành động như vậy là phản Ki-tô giáo. Sẽ có phản biện: Nếu là phản Ki-tô giáo thì tại sao Đức Giê-su không bãi bỏ mà Người lại dạy “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn Lề Luật” (Mt 5, 17)?
Thực ra, vấn đề cũng không đến nỗi nan giải cho lắm. Trước hết, cần phải hiểu Lề Luật của Cựu Ước dù sao cũng chỉ là luật do con người đặt ra, mà đối với con người thì chỉ thích sòng phẳng theo kiểu “ân đền oán trả” (đền ơn trả oán), nên mới đòi “mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân”. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là lề luật có tính răn đe: Chỉ có nghiêm ngặt như vậy mới có thể răn đe, ngăn ngừa người ta phạm tội. Coi lại câu chuyện Nguyên tổ phạm tội thì vấn đề sáng tỏ ngay. Thiên Chúa đưa ra giới luật “trái cấm” cũng là để răn đe. Nếu con người biết vâng phục thì đâu có sao. Đã không vâng lời, còn muốn trở nên “những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3, 5) ngang bằng với Thiên Chúa, nên mới thành cớ sự. Biết là tội mà còn cứ cố tình phạm tôi, rõ ràng Nguyên tổ loài người đã tự xử án mình. tự kết án mình vậy. Đức Giê-su Thiên Chúa cũng đã từng khẳng định: “Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.” (Ga 12, 47-48).
Không những chỉ khuyên “Chớ trả thù”. Đức Giê-su còn đi xa hơn: “Phải yêu kẻ thù”. Để cụ thể hóa vấn đề, Người lại tiếp tục dùng kiểu nói “Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, để răn dạy môn đệ: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.” (Mt 5, 38-42). Đã không “ăn miếng trả miếng”, mà lại còn lấy đức độ mà đáp trả oán thù (dĩ đức báo oán), sẵn sàng chịu đựng gấp bội sự tàn độc của ác nhân, thì quả là… thiên nan vạn nan, khó lòng mà chấp hành.
Con người chỉ có thể tự yêu mình (tự ái), khó lòng yêu được người khác, chớ đừng nói đến yêu cả kẻ thù. Mà có lẽ cũng chính vì thế nên mới có vụ “cửa rộng, cửa hẹp” (“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy. Mt 7, 13-14). Như vậy thì phải làm sao? Cái đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản thân, bởi “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó” (Hc 15, 16-17). Nếu không muốn bận tâm bận trí, không muốn hy sinh này, thiệt thòi khác, con người được quyền tự do chọn cho mình cửa rộng – còn rộng thênh thang nữa kia! – còn ngược lại, sẽ được vào cửa hẹp.
Nói cách khác, con người hoàn toàn tự do khi yêu hoặc ghét, Chúa không hề ngăn cấm hay bắt buộc, Người chỉ khuyên bảo, nhắc nhở thôi. Có lẽ cũng nhờ thế mà trong cuộc sống vẫn còn nhiều thật nhiều những con người sẵn sàng quyết tâm chọn cho mình cửa hẹp. Thế thì tại sao lại cứ đưa cái tự ái lố bịch của mình lên quá cao như thế? Vâng, hãy bình tâm lại mà “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi”, để thấy được rằng mình đã “nhận” quá nhiều từ Thiên Chúa, kể cả của anh em đồng loại. Vậy tại sao lại cứ khép chặt cửa lòng, bịt chặt miệng túi, mà không biết đem chia sẻ với anh em những gì mình đã được nhận? Hãy nhớ rằng, nếu bản thân có đem “cho” anh em cái gì thì cái đó cũng chẳng phải là của riêng mình, mà là của Thiên Chúa đã ban cho, vậy đâu có mất mát thiệt thòi gì mà cứ phải ca cẩm? Vâng, Lời Chúa còn rành rành ra đó: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8).
Như vậy là đã rõ, Đức Giê-su không bãi bỏ Lề Luật, “dù một chấm một phết cũng không thay đổi”, mà Người chỉ “kiện toàn”. Nói cho dễ hiểu hơn thì Lề Luật vì do con người soạn thảo nên chưa đầy đủ, chưa nêu bật được cái cốt lõi của vấn đề (giữ Lề Luật để phụng thờ, tôn vinh Thiên Chúa). Vì thế, Người mới dùng cách nói “Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” để các môn đệ hiểu được rằng những điều Lề Luật dạy chỉ là những “lý lẽ”, những “tư tưởng của loài người”, và cần phải nhìn vấn đề theo “tư tưởng của Thiên Chúa”, đó là “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.” (Mt 23, 23). Và cũng vì “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín”, nên sau 5 lời khuyên “Đừng”, thì tiếp liền theo đó, Đức Ki-tô lại khuyên “Nên” (“Phải yêu kẻ thù”). Thay vì “lấy oán báo oán (“dĩ oán báo oán”) thì hãy lấy ơn báo oán (“dĩ đức báo oán”).
Cả 6 điều khuyên bảo “Đừng” và “Nên”, xét cho thấu đáo, đều nằm trong luật yêu thương, mà ở đây là Luật yêu thương của Thiên Chúa (vô hạn) chớ không phải của con người (hữu hạn). Nói về luật yêu thương thì chính là nói về nguyên lý tình yêu, nguyên lý ấy xuất phát từ Thiên-Chúa-Tình-Yêu. Vâng, kể từ khi Thiên Chúa dựng nên vũ trụ, muôn loài, thì đã vì tình yêu mà Người dựng nên loài người và đặt làm chủ mặt đất. Con người đầu tiên được sinh ra chỉ có một mình, Thiên Chúa lại thương “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2, 18), nên ban cho một người bạn khác giới tính để từ đó có thể sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Sự đối kháng giới tính không nhằm loại trừ nhau mà là bổ túc cho nhau, hỗ trợ nhau nên hoàn thiện. Cũng vì tình yêu, không những Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, có nam có nữ, mà Người lại ban cho con người một đặc ân là được tự do đến gần như tuyệt đối. Cũng vì được tự do như vậy, nên con người đã vượt qua giới răn của Thiên Chúa mà phạm tội. Sau khi phạm tội, con người vẫn không bị trách phạt; chẳng những thế, còn được Thiên Chúa ban Con Một xuống thế để cứu chuộc, để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi và đem lại đời sống vĩnh cửu. Nếu không vì tình yêu, thì Thiên Chúa có đối xử với con người như vậy không?
Nói tóm lai, bản chất con người vốn dĩ là thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm hơn nữa là khi thù ghét người khác thì lại không muốn người ta thù ghét mình. Nếu không vì thế, các bậc thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác), “ái nhân như ái thân” (yêu người như yêu mình). Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa, tình yêu Người dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người vì tình yêu. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn day: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 15).
Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời.
Ôi! “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi ghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái! Xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình.” (TCCĐ Kinh Hoà Bình). Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Ngày xưa, Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen nói với dân chúng :”Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng thánh”, vì Israel là dân ưu tuyển của Thiên Chúa nên họ phải nên thánh thì mới xứng đáng với danh hiệu ấy. Ngày nay, qua bí tích rửa tội chúng ta trở thành dân Israel mới, dân thánh của Thiên Chúa, nên Đức Giêsu phán :”Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện”. Đó là mệnh lệnh Đức Kitô đòi buộc chúng ta phải thi hành. Một khi đã trở nên con cái Thiên Chúa, chúng ta phải tìm cách nên giống Ngài.
Phải chăng đây là một thách thức khó khăn ? Thật vậy, chúng ta không thể nào hoàn thiện như Thiên Chúa nhưng Chúa không đòi hỏi chúng ta phải làm điều quá sức vì theo nguyên tắc :”Nemo ad impossibile tenetur” : không ai bị buộc phải làm điều không có thể. Điều Ngài muốn, đó là chúng ta cố gắng tiến gần đến sự hoàn thiện theo sức của mình. Hãy gắng sức thực thi những điều phải làm nhất là trong lãnh vực yêu thương tha nhân.
Trong Cựu ước cũng như trong Tân ước đều có luật yêu thương tha nhân : “Hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi”. Hôm nay, Đức Kitô nói với chúng ta hãy theo gương Ngài, thúc đẩy tình yêu ấy đến mức độ anh hùng : đặc biệt là tha thứ cho kẻ thù và lấy ân báo oán. Như vậy “Các con sẽ là con Cha trên trời, Đấng cho mặt trời chiếu soi kẻ dữ cũng như người lành, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Lv 19,1-2.17-18
Sách Lêvi là bộ sưu tập những khoản luật rất cổ xưa, trong đó các chương từ 17 đến 25 (đoạn được trích đọc hôm nay nằm trong phần này) được gọi là “Bộ luật về sự thánh thiện”.
Tác giả sách Lêvi nhắc nhở cho người Do thái biết rằng họ là dân riêng của Thiên Chúa, dân được ưu tuyển, họ được kêu mời phải nên thánh vì “Thiên Chúa là Đấng thánh”. Lời kêu gọi nên thánh này buộc họ phải sống yêu thương tha nhân như chính mình, tình yêu thương không được giới hạn trong dân tộc mình mà phải lan tỏa đến các dân tộc khác nữa.
Sách Lêvi diễn tả cuộc sống yêu thương theo 2 phương diện :
– Phương diện tiêu cực là “ngươi sẽ không thù ghét anh em ngươi… ngươi sẽ không báo oán, không cưu thù với anh em ngươi”.
– Phương diện tích cực là “ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình ngươi”.
Điều luật này đã được Đức Kitô lấy lại và đưa tới chỗ hoàn hảo là dạy yêu thương cả kẻ thù.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 3,16-23
Một số người ở cộng đoàn Corintô tự cho mình là kẻ khôn ngoan, có đường lối riêng biệt với những lời hoa mỹ, nên đã gây ra sự chia rẽ trong cộng đoàn.
Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Corintô nhớ rằng cộng đoàn của họ là đền thờ thiêng liêng có Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động. Vậy phải coi chừng đừng để cho các lý thuyết sai lạc phá vỡ tính hiệp nhất và sự đoàn kết, gây hoang mang bất ổn cho cộng đoàn.
+ Bài Tin mừng : Mt 5,38-48
Đức Giêsu đã khẳng định Ngài đến không phải để phá bỏ Lề Luật và giáo huấn các tiên tri, nhưng đến làm cho nó được hoàn hảo và mới mẻ hơn (Bài Tin mừng tuần trước), Vì thế Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ phải biết yêu thương, gạt bỏ tính thù oán và thay vì lấy ác báo ác thì hãy lấy ân đền oán.
Ngài bắt đầu bằng cách kết án luật công bình tức luật trừng phạt cân xứng :”Mắt đền mắt, răng đền răng”, mặc dầu nó tôn trọng sự công bình chặt chẽ. Người Kitô hữu phải vượt lên trên sự câu nệ lề luật.
Hơn thế nữa, Ngài đòi buộc các môn đệ, không chỉ đừng thù oán, nhưng còn phải yêu kẻ thù và còn làm ơn cho họ nữa. Lý do lòng yêu thương bao la ấy là chúng ta phải noi gương Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời “Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên người công chính lẫn kẻ bất lương”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
I. GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG
- Luật yêu thương trong Kitô giáo
a) Trong Cựu ước: Luật cũ Lêvi 19,18 dạy yêu tha nhân. Theo quan niệm của người Do thái, tha nhân là những người đồng chủng, nghĩa là chỉ người Do thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng không được giúp.
Trong luật không dùng tới chữ “ghét” (ghét thù địch) song dễ hiểu như vậy. Việc ghét thù địch này suy diễn ra tữ những bản văn khuyên xa tránh dân ngoại (Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Người Do thái từ chối mọi liên đới với người không cắt bì, vì cho rằng họ không có bổn phận gì về công bằng với người ngoại. Có thể đánh lừa, ăn trộm, mà không phải áy náy gì hết.
b) Trong Tân ước: Đức Giêsu đã tuyên bố Ngài đến không phải để phá bỏ luật cũ nhưng đến để kiện toàn nó, làm cho nó nên hoàn hảo hơn. Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương thù địch nữa.
Luân lý của người Do thái xưa chỉ buộc yêu thương những người gần gũi, nghĩa là những người đồng chủng, đồng bào, đồng tín ngưỡng với mình. Nhưng nay Đức Giêsu dạy phải yêu thương hết mọi người, vì mọi người là anh em với nhau như người ta thường nói :”Tứ hải giai huynh đệ” : bốn bể anh em một nhà.
- Luật Talion (luật báo thù)
Ngày xưa dân Do thái cũng như dân ngoại đối xử với nhau quá mức trong việc trả thù. Ví dụ : Cain báo thủ 7 lần, Lamek báo thù 70 lần 7 (St 4,15; 4,17-24) : vì bị thương, ta giết một người; ta trầy da, một nam nhi toi mạng (Kn 4,23-24).
Nhưng khi luật Talion ra đời, luật này qui định một hình phạt tương đối với thiệt hại đã gây ra.
Đức Giêsu khởi sự bằng cách trích dẫn luật cổ nhất thế gian : mắt đền mắt, răng đền răng, luật ấy gọi là Lex talionis (luật báo thù). Nó xuất hiện trong bộ luật cổ nhất gọi là luật của Hammurabi, vị hoàng đế trị vì Babylon từ năm 2285-2242 TC.
Luật Hammurabi phân biệt cách đối xử kỳ lạ giữa người quí phái và công nhân : nếu một người gây cho người quí phái mất con mắt thì người ấy sẽ phải mất một mắt. Nếu người ấy làm thương tật người quí phái thì người ta sẽ làm thương tật người ấy. Nếu người ấy làm cho người nghèo mất một mắt hoặc phá hoại một tứ chi của người nghèo, người ấy phải trả một mina bạc… Nếu người nào làm cho người ngang hàng gẫy răng, thì người ta cũng làm cho người ấy rụng lại một răng. Nếu người nào làm một người nghèo gẫy một răng thì người ấy phải trả một phần ba mina bạc ! Nguyên tắc thật rõ ràng và rất đơn giản : nếu ai làm cho người khác bị thiệt hại điều gì thì người ấy bị thiệt hại tương đương.
Luật ấy trở thành một phần nhỏ của đạo đức Cựu ước. Trong Cựu ước luật ấy được đề cập không dưới ba lần :
“Còn nếu có sự thiệt hại chi , thì ngươi sẽ lấy mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy chân đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương”(Xh 21,23-25).
“Khi người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó đã làm, gẫy đền gẫy, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta sẽ làm cho người ấy đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác”(Lv 24,19-20).
“Mắt ngươi chớ có thương xót, mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (TL 19,21).
Chúng ta nhận thấy rằng luật Talion đã có sự tiến bộ. Trước hết luật này có ý hạn chế luật báo thù. Luật qui định chỉ người gây thương tích mới bị hình phạt và hình phạt không được thái quá, mà chỉ tương đương với sự thiệt hại mà người ấy đã gây ra mà thôi.
Thứ đến, luật này cũng không cho cá nhân nào quyền tự trả thù, dù chỉ là một cái tát. Luật bao giờ cũng là một hướng dẫn cho quan án trong việc khoản phạt cho bất cứ hành động bất công hay vũ phu nào.
Sau cùng, luật không được áp dụng theo nghĩa đen vì có sự chênh lệch, ví dụ răng tốt hay răng xấu, mắt tốt hay mắt xấu. Nên về sau sự thiệt hại gây ra được định theo giá tiền. Và luật Do thái (Baba Kamaa) đã ấn định cẩn thận cách đánh giá sự thiệt hại.
II. HÃY YÊU THƯƠNG KẺ THÙ
Đức Giêsu đã phán :”Các con cũng đã nghe dạy rằng :”Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch”. Còn Thầy, Thầy bảo các con :”Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”(Mt 5,43-44).
- Kẻ thù là ai ?
Chắc Đức Giêsu không có ý nói kẻ thù là kẻ đang gây gỗ, lăng nhục, làm hại hay chém giết ta, nhưng kẻ thù đây có một biên độ và ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều, nghĩa là bao giờ tất cả những ai cố tình làm hại ta về mọi mặt như phẩm giá, của cải vật chất, gia đình thân thuộc mà ta biết rõ. Như thế có nhiều hạng, nhiều cấp bậc kẻ thù, nên bảo ta yêu thương tha thứ cho họ không đến nỗi quá khó khăn hay lực bất tòng tâm.
- Chúa dạy ta yêu kẻ thù
Dù sao theo bản tính hư hèn yếu đuối thì việc yêu kẻ thù luôn gây cho ta nhức nhối khó chịu vì nó đi ngược lại tình cảm thông thường. Nó đòi hỏi ta phải có một sự cố gắng không ngừng.
Để thực hiện luật yêu thương này, Đức Giêsu đơn cử ra hai việc thực hành :
a) “Hãy làm lành cho những kẻ ghét các con”. Ở đây muốn nói : Tình yêu thương tha nhân không phải thôi không giận hờn, không báo oán nữa nhưng phải tỏ ra bằng hành động cụ thể qua những cử chỉ rõ ràng là những việc lành như : giao tiếp, giúp đỡ, bác ái, cầu nguyện…
b) “Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ”. Đây là thái độ biểu lộ tình yêu tha nhân cách tích cực : lấy điều lành đền đáp lại điều dữ.
Ta có bổn phận phải thương yêu bạn hữu. Song chỉ yêu bạn thì đâu có gì đáng thưởng. Vì cho được thưởng đời đời thì nhân đức phải bắt nguồn từ suối siêu nhiên. Vì thế :
– Làm sự dữ để trả ơn lành là ma quỉ.
– Làm sự lành để trả ơn lành là nhân loại.
– Làm sự lành để trả sự dữ là Thiên Chúa
Vậy người Kitô hữu không được đứng ở chỗ nhân loại, mà phải tiến xa hơn đến chỗ Thiên Chúa. Như thế mới xứng đáng là con cái Chúa, Đấng làm ơn lành cho kẻ ghét Ngài.
Truyện : Tổng thống Nelson Mandela
Ông Nelson Mandela đã trải qua 27 năm trong nhà tù Nam Phi. Sau cùng, khi ông được phóng thích, ông đã có mọi lý do để cảm thấy chua cay, và tỏ ra quyết tâm trả thù những người đã cướp đoạt tự do của ông một cách bất công. Thay vì như thế, ông tỏ ra tươi cười và cố gắng hòa giải với những nhà lãnh đạo của chế độ đã bắt giam ông. Do đó ông trở thành viên đá góc tường của nước Nam Phi mới. Nếu ông nuôi dưỡng sự cay đắng uất hận, ai biết được điều gì đã xảy ra ?
Trong cuốn tiểu sử tự thuật “Hành trình đến tự do” (1994), ông nói với chúng ta :
“Tôi biết rằng dân chúng chờ đợi tôi nuôi dưỡng sự giận dữ đối với người da trắng. Nhưng tôi đã không làm thế. Trong nhà tù, sự tức giận của tôi với người da trắng giảm xuống, nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội đã tăng lên. Tôi muốn thấy đất nước Nam Phi thấy tôi yêu thương cả những kẻ thù của tôi trong khi tôi thù ghét hệ thống đã khiến chúng ta chống đối lẫn nhau. Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải hay chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi mới” (McCarthy, Chúa nhật và lễ trọng năm A, tr 359-360).
- Nhiều người đã thực hiện
a) Học thuyết của Khổng Tử : Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Phu Tử còn giống luật báo oán của Cựu ước. Ngài dạy học thuyết :”Dĩ trực báo oan”. Nhưng sau này, các đồ đệ của ngài muốn đi xa hơn, họ đã thêm vào học thuyết của ngài câu :”Dĩ đức báo oán”.
b) Đức Phật Thích Ca: Ngài tìm phương thế giải thoát con người ra khỏi vòng đau khổ. Ngài chủ trương giáo thuyết TỪ BI, lấy từ bi làm phương châm cho mọi hoạt động, mà đã từ bi thì phải hỉ xả, do đó, ngài không chấp nhận luật công bình, mà chỉ chấp nhận luật tha thứ. Ngài nói :”Lấy oán báo oán, oán ấy chập chồng. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan”.
c) Ông Gandhinói :”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”. Ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi ách thống trị của người Anh.
d) Mục sư Luther King: Trong tác phẩm của ông “Chỉ có một cuộc cách mạng”, ông nói :”Trong Tân ước, chúng ta thầy từ “Agapè” được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn lên đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ, chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ”.
Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu: “Các con hãy yêu thương kẻ thù”. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói :”Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi. Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đang ném bom vào gia đình nhà tôi. Tôi không có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người”.
- Phải chăng tha thứ là nhu nhược ?
Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu thương kẻ thù” là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Thay thế tình yêu cho thù hận là một việc khó khăn nhất trên đời. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa.
Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phái bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa sự nhu nhược hay thụ động. Chọn lựa bất bạo động có nghĩa tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù… Chúng ta phải cố gắng dùng điều tốt nhất để đáp lại điều xấu nhất.
Là những Kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán hận chống lại người khác. Nếu các Kitô hữu không cố gắntg bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa, họ sẽ không tốt hơn những người khác.
Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ. Một người vô danh đã nói rất đúng :”Khi chúng ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta – quyền lực này xâm chiếm giấc ngủ chúng ta, khiến chúng ta bị tăng huyết áp và đe dọa luôn cả sức khỏe lẫn hạnh phúc của chúng ta. Kẻ thù của chúng ta hẳn sẽ nhảy múa vui mừng nếu họ biết được sự căm ghét đã xâu xé chúng ta đến thế. Lòng căm ghét của chúng ta chẳng gây thương tổn cho họ chút nào cả. Nó chỉ khiến chúng ta ngày đêm bị rơi vào hỗn loạn địa ngục”.
Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua thân xác chúng ta trước. Người Hy Lạp cổ thường ví von như sau :”Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Truyện : Ông Hammelmann tha th
“Tôi đã bị bắt, cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi vốn là con người hiếu sát. Tôi đã giết bà Hammelmann và tôi cũng bắn chết luôn 4 người con của bà, tôi thấy họ nằm chết trên vũng máu.
Bây giờ tôi bị giam trong khám của Đức. Tôi đã ở trong khám trải qua 20 năm. Sau khi cảnh sát bắt được tôi và tôi bị đưa ra tòa; quan tòa đã tuyên án :”Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải ngồi tù 20 năm”.
Đang khi ở trong tù, tôi có nhận được một lá thư. Đây là một bức thư hết sức lạ lùng của ông Hammelmann, ông đã viết thư này cho tôi vì ông đã nhận được một tin là chính quyền Polish sẽ không cho phép tôi sau khi được tự do trở về quê hương của tôi là Poland. Ngay cả chính quyền Đức cũng đã nói rằng :”Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức”.
Bức thư của ông Hammelmann viết :”Tôi tha thứ cho anh về việc anh giết vợ và 4 con tôi. Tôi cũng đang vận động với chính quyền Đức để họ cho phép anh được sống tại Đức. Tôi đã nói với chính phủ Đức là anh có thể ở trong nhà tôi và tôi sẽ giúp anh sống một cuộc đời lương thiện”.
“Tại sao tôi lại muốn giúp đỡ anh ? Tại sao tôi có thể tha thứ cho anh về tội anh tàn sát gia đình tôi ? Tôi có thể làm điều này vì Đức Chúa Trời đã làm một điều lạ cho tôi. Ngài đã ban cho tôi Thánh Linh của Ngài. Thánh Linh của Đức Chúa Trời bây giờ dẫn dắt đời sống tôi và Ngài ban thêm sức cho tôi để tôi có thể tha thứ cho anh”.
Bây giờ tôi biết được rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời phải có một quyền năng siêu việt. Ngài đã cất mối tử thù khỏi lòng một người và ban cho ông ta một tấm lòng muốn giúp đỡ tôi, mặc dầu tôi đã giết vợ và 4 đứa con của ông ta (Thánh Kinh Nguyệt san, số 367, tháng 8/1969, tr 16).
III. HÃY SỐNG ĐỜI HOÀN THIỆN
Trong bài đọc 1, Thiên Chúa phán với ông Maisen :”Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel và bảo chúng : Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các người, Ta là Đấng thánh” (Lv 19,1-2). Dân Do thái là dân thánh, là dân ưu tuyển của Thiên Chúa, cũng phải sống thánh thiện mới xứng đáng là dân riêng của Ngài.
Chúng ta là dân Israel mới, nhờ bí tích rửa tội, chúng ta trở thành dân thánh của Thiên Chúa. Vì vậy, trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng khuyên bảo chúng ta :”Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Chúng ta biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Ngài được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Ngài muốn, theo mẫu gương thánh thiện của Ngài, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ.
Vì vậy, Đức Giêsu khuyên ta phải trọn lành bằng cách yêu thương thù địch cũng như yêu thương bạn bè, đừng ăn miếng trả miếng, đừng sống theo nguyên tắc :”Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”(Tục ngữ) Tình thương trọn lành không nên phân biệt đối tượng và không có ranh giới.
Truyện : Tha thứ cho kẻ thù.
Một ông bố giầu có, cảm thấy già yếu gần đất xa trời, bèn gọi ba đứa con trai lại chia gia tài đồng đều cho chúng, duy còn lại một viên kim cương gia bảo quí giá không thể chia cắt được.
Ông ta giải quyết bằng cách nói với các con rằng :”Ta sẽ trao viên kim cương cho đứa nào thực hiện được một việc lành tốt đẹp nhất. Vậy các con hãy ra đi và thực hiện cho được điều kiện đó”.
Ba đứa con lên đường và ba tháng sau trở về. Người con cả nói với bố :
– Một người ngoại quốc đã giao toàn bộ tài sản cho con và con đã thủ tín trả lại đầy đủ.
Người cha tuyên bố :
– Con đã làm phận sự của con rất tốt đẹp.
Đến lượt đứa con thứ trình :
– Thưa cha, con đã xả thân cứu được một em bé sắp chết đuối.
Người cha khen anh ta. Rồi quay sang nhìn đứa con út . Cậu ấp úng bẩm :
– Thưa cha, trong một cuộc hành trình con thấy địch thù con đang ngủ say bên một bờ vực sâu. Con nghĩ con có thể xô nó xuống vực dễ dàng, nhưng con không làm. Trái lại con đánh thức nó dậy và cứu nó.
Nghe xong, người cha ôm hôn cậu út và tuyên bố :
– Viên kim cương gia bảo thuộc về con, vì con đã làm một việc lành vĩ đại biểu lộ một tấm lòng nhân ái chân thực là yêu thương tha thứ cho kẻ thù mình.
.
Trầm Thiên Thu
Cuộc sống và tình yêu là hai trạng thái khác nhau, nhưng lại không tách rời nhau, thậm chí là “nên một” với nhau. Sống để yêu, và yêu để sống.
Không thể sống mà không yêu, yêu là sống. Người ta nói vui mà thật: “Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ. Thà chịu khổ chứ không chịu lỗ.” Không yêu thì yếu, mà yếu thì không thể yêu – tức là cần mạnh mẽ và can đảm. Vì yêu mà người ta dám chết, chết rồi lại được sống. Chúa Giêsu đã chứng tỏ điều đó, và chính Ngài xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Yêu thì khổ, chính cái khổ đó là chất hy sinh tiết ra để chứng minh tình yêu chân thật. Yêu không chỉ khổ mà còn phải “chết” – theo nghĩa bóng hoặc nghĩa đen. Đó là nên thánh. Người ta chết rồi mới được làm thánh, chưa chết mà sao làm thánh? Làm gì có chuyện “ngược đời” như thế chứ? Đúng như vậy. Nhưng cái NGHỊCH đó lại là cái THUẬN. Tại sao vậy? Chết rồi mà làm thánh là “chuyện nhỏ,” sống mà làm thánh mới là “chuyện lớn” và xứng đáng nỗ lực. Thực sự chứ chẳng bông đùa. Bởi vì Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Là mệnh lệnh thì chắc chắn phải thi hành.
Là con người, chẳng ai hoàn hảo, được cái này thì mất cái nọ, đều là tội nhân, ngay cả các thánh nhân cũng đã từng lần mò tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha: “Nếu Thiên Chúa chấp tội, chẳng ai được rỗi.” (Tv 130:3) Tuy nhiên, làm thánh hay không là dựa vào cuộc sống đời thường, sống sao chết vậy, có sống khôn thì mới chết thiêng. Người ta thường nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng.” Ở đây, cái “tiếng” mang ý nghĩa tích cực là “tiếng tốt.” Phàm nhân đầy “vết chàm,” tội nhân mà hoàn thiện thì nên thánh, nếu hoàn thiện ngay ở đời này thì là thánh sống. Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ bảo chúng ta phải làm thánh sau khi chết mà phải làm thánh ngay ở đời này – cứ hoàn thiện dần dần, bước nhỏ mà đều, bước chậm mà chắc.
Đã có các vị thánh sống trong thời đại của chúng ta – nổi bật là ĐGH Gioan Phaolô II (1920-2005) và Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997). Hiện nay, thế giới cũng đang chú ý tới ĐGH Phanxicô, một người có phong cách “ngược đời” của một thánh nhân giữa đời thường, dám nói thẳng nói thật vì công lý và chân lý, luôn khôn ngoan nói: “Xin cầu nguyện cho tôi.” Nếu thực sự muốn làm thánh thì chúng ta cũng phải có “phong cách lạ” như vậy.
Là Kitô hữu, chắc hẳn ai cũng muốn nên thánh. Nếu muốn nên thánh thì phải yêu Chúa, mức độ yêu Chúa phải được chứng minh qua việc yêu tha nhân, kể cả người không theo phe mình – yêu người là “thước đo tiêu chuẩn” về lòng yêu mến Chúa. Ai yêu Chúa thì phải từ bỏ mình, ngược lại, ai yêu mình thì mặc nhiên từ bỏ Chúa. Rất lô-gích. Phàm nhân chẳng là gì, có là gì thì chỉ là tội nhân khốn nạn, bởi vì con tim của chúng ta là “tro bụi,” hy vọng của chúng ta “hèn hơn đất,” và cuộc đời của chúng ta “tệ hơn bùn.” (Kn 15:10) Chẳng có gì đáng giá mà dám tự mãn. Thế nên phải cố gắng hoàn thiện, nỗ lực không ngừng, rán sức suốt đời – dù ngày hay đêm.
Cái gì cũng có tính liên đới, cái này liên quan cái khác: Nếu muốn nên thánh một mình thì chỉ là ích kỷ – mà ích kỷ thì không thể nên thánh, nghĩa là chúng ta phải không ngừng nỗ lực nên thánh mà còn phải giúp người khác cùng nên thánh. Kinh Koran (Kinh Thánh của Hồi giáo) xác định: “Người hoàn thiện nhất là người đã giúp ích cho nhân loại nhiều nhất.” Rất chí lý!
Tất nhiên ai cũng có thể nên thánh và phải làm thánh, dù chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, trừ phi chúng ta không muốn. Đã có những tội nhân “lớn” nhưng đã làm thánh: Vua Đa-vít, tướng cướp Dismas (tên gian phi tốt bụng, Lc 23:39-43), binh sĩ Longinô (người cầm giáo đâm thấu tim Chúa Giêsu trên Đồi Sọ), Giáo hoàng tiên khởi Phêrô, Tông đồ Phaolô, Người Phụ nữ Tội lỗi (Lc 7:36-50),… và một người ít “bị” để ý là vua Salômôn, dù là người khôn ngoan nhất nhưng cũng đã cãi lệnh Chúa và đã từng sống trong tội lỗi. (1 V 11:1-13) Thực sự nhận biết mình yếu đuối và tội lỗi xấu xa thì mới nỗ lực hoàn lương để nên thánh, điều cần là đừng bao giờ mất niềm tin vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Tính hợp lý rõ ràng. Nếu không cố gắng hoàn thiện mà còn lần lữa thì vô ích, vì Thiên Chúa đã từng khuyến cáo: “Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu.” (Is 1:15)
Tuy nhiên, đôi khi chúng ta vẫn chú trọng hình thức nên chưa thể “lột xác” được. Giảng hay, nói giỏi, viết tốt,… có sức thu hút người khác, nhưng chính mình lại vẫn giậm chân tại chỗ, chẳng thay đổi được gì. Đó chỉ là “lẻo mép” hoặc “lẻo bút,” hoàn toàn vô ích mà thôi. Loài rắn và loài cua phải lột xác để phát triển, nếu con người không chịu “lột xác” thì không thể phát triển về tâm linh được, mà “lột xác” thì phải đau đớn, phải dứt khoát. Càng “lột xác” nhiều thì càng hoàn thiện, càng tiến bộ trên đàng nhân đức.
Trong một lần hiện ra tại Fátima, Đức Mẹ đã đặt vấn đề với ba trẻ: “Các con có sẵn lòng dâng mình cho Chúa và chịu những đau khổ mà Ngài gởi đến cho các con để xin ơn hoán cải cho các tội nhân không?” Thiên Chúa cũng đã xác định: “Mọi kẻ Ta yêu mến thì Ta răn bảo dạy dỗ. Vậy hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn!” (Kh 3:19)
Tội lỗi là thứ siêu vi độc hại, dễ nhiễm mà khó trị: “Khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi thì sinh ra cái chết.” (Gc 1:15) Và từ ngàn xưa, chính Thiên Chúa đã truyền cho ông Mô-sê: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.” (Lv 19:1-2) Đó là lẽ tất nhiên. Thiên Chúa là Đấng thánh thì con cái Ngài cũng phải thánh, không thể khác được. Chắc chắn ai không hoàn thiện thì không được nhìn thấy Thiên Chúa và không được ở bên Ngài. Sống thì phải yêu, biết yêu thì mới sống.
Thật vậy, Thiên Chúa cho biết tính liên đới và bí quyết hoàn thiện: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa.” (Lv 19:17-18) Thấy điều trái tai gai mắt mà làm ngơ thì có thể là bao che hoặc nhát đảm, nhưng dám lên tiếng cảnh báo thì mới là can đảm bảo vệ công lý và yêu mến chân lý. Thật vậy, người bạn thân thiết là người dám phê phán chúng ta cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta, ngoài ra không là “bạn” mà chỉ là “bè” mà thôi – loại “bè” thì vô số.
Đấng chí thánh là Thiên Chúa – Thiên Chúa duy nhất. Quả thật, chúng ta thực sự hạnh phúc khi nhận biết và tôn thờ Ngài, Đấng Thánh toàn năng và giàu lòng thương xót. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người.” (Tv 103:1-2) Phải hành động như vậy với lý do rất minh nhiên: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà.” (Tv 103:3-4) Phàm ngôn không đủ từ ngữ để mô tả tình yêu thương của Ngài – Đấng mệnh danh là tình yêu. (x. 1 Ga 4:8 và 16)
Ngài không chỉ là Đấng chí tôn cao cả mà còn hết lòng thương xót mọi người – cả người tốt và người xấu: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.” (Tv 103:8-10, 12-13) Thật vậy, Người không đành bẻ gãy cây lau bị giập, và cũng chẳng nỡ tắt đi tim đèn leo lét. (x. Mt 12:20) Và chúng ta chỉ được phép và phải tôn thờ một mình Ngài mà thôi: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.” (Xh 20:3-4)
Là thụ tạo của Ngài, chúng ta được coi là những thánh nhân theo ba chiều kích của Giáo Hội là các thánh cùng thông công – GH khải hoàn, GH đau khổ, và GH chiến đấu hoặc lữ hành. Chắc chắn chúng ta phải nên thánh vì một lý do khác nữa, như Thánh Phaolô đã đặt vấn đề: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.” (1 Cr 3:16-17) Thiên Chúa là Đấng Thánh thì không thể ở nơi ô uế tội lỗi. Chúng ta xấu xa, hèn hạ, khốn nạn và bất xứng như thế, vậy mà Thiên Chúa lại cho chúng ta trở thành Đền Thờ của Ngài. Thật không thể nào tưởng tượng nổi, thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài bằng cách cố gắng nên thành, nếu có thể thì làm thánh sống ngay ở đời này. Đó là điều hoàn toàn hợp lý, và Thiên Chúa rất muốn như vậy.
Ôi chao, có lẽ Thánh Phaolô cũng “ngược đời” khi nhắc nhở chúng ta: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài.” (1 Cr 3:18-20) Ít có ai dám “khác người” như vậy, bởi vì có thể người ta sẽ cho là “chạm điện,” người nào “không giống ai” như vậy sẽ bị ghen ghét, bị xa lánh, bị trù dập,… thế nhưng như vậy mới là “khôn ngoan thật” – khôn ngoan theo cách thức của Thiên Chúa. Đúng là không thoải mái – vừa khó vừa “căng” lắm!
Nhưng rồi chuyện gì cũng có bí quyết, có cách xử lý cụ thể, ngay cả những lúc khó khăn nhất tưởng chừng bế tắc. Thánh Phaolô kết luận rất cụ thể: “Đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; dù là Phaolô, hay Apôlô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa.” (1 Cr 3:21-23) Thánh Vịnh gia xác định: “Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời.” (Tv 118:9)
Cần có luật để kiềm chế tội ác, nhưng phải được áp dụng với tình yêu thương chứ không thể xử theo kiểu luật rừng. Con người có trước, luật có sau. Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Luật ví như dây cương và hàm thiếc để điều khiển ngựa chứng. Luật cũng đa dạng, có luật hợp lòng dân hoặc mất lòng dân. Luật hợp lòng dân là luật chứa sự nhân đạo, nhằm hoàn thiện con người – như Luật Tân Ước, nổi bật là chữ NÊN; còn luật chưa hợp lòng dân là luật chỉ nhắm tới những khung hình phạt – như Luật Cựu Ước, chú trọng chữ CẤM. Luật Cựu Ước xem chừng thoải mái, dễ thực hiện hơn, và ai cũng thích: “Mắt đền mắt, răng đền răng.” Có lý lắm, vì người ta đánh mình thì mình phải “chơi tới bến” chứ không thì người ta chê mình “dở ẹc” hoặc “lép vế.” Thế thì máu tự ái bốc tới chỏm đầu thôi, chịu gì nổi. Nếu chỉ như vậy thì chẳng có gì đáng nói!
Ngược lại, Chúa Giêsu dạy sống tích cực hơn: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn thì đừng ngoảnh mặt đi.” (Mt 5:39-41) Wow, thế thì “căng” quá chừng! Chúa Giêsu kỳ thí mồ, dạy những điều chi mà khó mần thế nhỉ? Tuy nhiên, đó lại là chuyện thật chứ không là chuyện bông đùa hoặc giả định.
Ngày xưa, Cựu Luật dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.” Như thế chỉ là “chuyện nhỏ,” các loài động vật khác cũng vẫn thực hiện như vậy, chẳng riêng gì con người. Vì thế, Chúa Giêsu dạy làm những điều mà chúng ta thấy có vẻ “chói tai” vì khó lọt nghe: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5:44) Đúng là gay go thật!
Thế nhưng không thế không được. Phải vậy thôi. Bởi vì Chúa Giêsu giải thích rạch ròi: “Như vậy, anh em mới ĐƯỢC trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5:45-48) Những bí quyết Chúa Giêsu đưa ra thật thú vị, rất “khác người,” rất “ngược đời,” nhưng mà rất chí lý vì có tính cao thượng. Quả thật, có dám “khác người” thì mới khả dĩ nên thánh, có thể làm thánh sống ngay trên thế gian này. Chân trần còn chạm đất nhưng hồn vẫn thanh thoát, bay bổng.
Khi nào thực sự nhận biết mình là tội nhân, chúng ta sẽ thấy yêu quý lời dạy của Chúa Giêsu – vừa khuyến cáo vừa động viên. Ngài dạy canh tân không ngừng bằng cách cố gắng “hoàn thiện như Cha trên trời.” (Mt 5:48) Khi định hướng rạch ròi như vậy, chúng ta sẽ thoải mái làm mọi thứ chỉ vì Chúa chứ không vì bất cứ lý do nào khác, như vậy chúng ta có thể thẳng thắn và mạnh mẽ xác định như Thánh Phaolô: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi.” (2 Cr 5:14). Và có hệ lụy rất kỳ diệu: “Yêu thương là chu toàn lề luật.” (Rm 13:8 và 10)
Cuộc sống nhiêu khê hơn chúng ta tưởng – cả thể lý lẫn tinh thần. Có những thứ cần phải bỏ – buông bỏ hoặc cở bỏ vì đáng ghê tởm, có những thứ phải bám chặt vì đáng yêu quý. Nhưng phải biết BUÔNG thì mới có thể BỎ, phải biết CỞI thì mới có thể BỎ. Đây là vài điều trong Kinh Thánh:
– Chúng ta rên siết, khổ tâm vì không muốn CỞI BỎ cái này, nhưng lại muốn TRÙM thêm lên mình cái kia, để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống. (2 Cr 5:4)
– Anh em phải CỞI BỎ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải MẶC LẤY con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. (Ep 4:22-24)
– Chúng ta hãy CỞI BỎ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta. (Dt 12:1)
Lạy Thiên Chúa chí thánh, con xin nhận tội, điều gian ác, con sẽ không dám làm; xin chỉ cho con điều con không thấy, nếu con đã bất công, con sẽ không tái phạm. (G 34:31-32) Con chân thành xin lỗi Ngài, bởi vì con viết nhiều và nói lắm mà chẳng sống được bao nhiêu. Xin giúp con biết tự làm khó mình mà cố gắng tích cực canh tân từng ngày theo định hướng của Ngài, nỗ lực hoàn thiện theo mỗi nhịp thở. Ngài là Đấng Chí Thánh thì con phải hoàn thiện thì mới xứng đáng. Xin thương biến đổi con theo Thánh Ý Ngài. Lạy Thiên Chúa nhân hậu, con đơn độc mình ên, xin cứu giúp con, ngoài Ngài ra, con đâu còn ai nữa! (Et 4:17t) Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
Lm. Jos DĐH.
Có phải yêu, ghét, giận, thương, là tình cảm tự nhiên bộc lộ làm xáo trộn tâm tính giữa tình đời tình người không ? Liệu các đấng bậc sinh thành có thoải mái, hết trách nhiệm, như lý luận của cụ Nguyễn Bính: nắng mưa là chuyện của trời, tương tư là chuyện của tôi yêu nàng ? Bậc làm cha mẹ nhiều bận tâm về con cháu, tuy nhiên, chăm sóc giáo dục chúng nên người hữu ích vẫn là ưu tiên một, vì thế: kinh nghiệm, sách vở, phương pháp truyền thống, hiện đại, luôn được quan tâm tạo nên kỹ năng sống có lý có tình. Trải qua nhiều thăng trầm, người xưa mới có thể nói lên những lời tâm huyết: lấy oán báo oán, oán chập chùng, lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.
Được là học trò, là môn đệ của Đức Giêsu, quả là một vinh dự, nhưng khi nghe Đức Giêsu mời gọi thực hành giáo huấn yêu thương, có mấy ai không hoảng sợ ! Trong khi công bằng xã hội chủ trương: “mắt đền mắt, răng đền răng” là phải đạo lắm rồi, Thầy Giêsu lại chỉ dạy các học trò: “đừng chống cự lại người gian ác”. Khi mà ở đời họ bảo nhau hãy cẩn thận trước những thói quen xấu: được đằng chân, lân đằng đầu, Đức Giêsu lại kêu gọi: “nếu ai bị vả má bên phải, hãy giơ má bên kia ra nữa” ! Rất nhiều người thuộc lòng câu nói quen thuộc: ơn đền, oán trả, thế mà Thầy Giêsu lại muốn ai là học trò của Ngài phải sống tinh thần nên một với Thầy: “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”.
Từ thời xa xưa, các đấng bậc sinh thành đều mơ ước biết cách giáo dục con cháu nên người tài đức, thời đại hôm nay cũng với một cách nói: hãy là người đẹp toàn diện. Giáo huấn của Thầy Giêsu trước sau vẫn như một: “hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Đức độ song toàn, xinh đẹp toàn diện, đã là tiêu chí khó đạt được rồi, Đức Giêsu kêu gọi phải nên “hoàn thiện như Cha trên trời”, đó là vấn đề không hề dễ với khả năng và sự khôn ngoan tài giỏi của con người. Dù cha ông chúng ta đã từng nói: không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, Đức Giêsu trong tư cách là Thầy dạy, Ngài mở ra cho chúng ta một lộ trình đầy hy vọng, nếu tin Chúa, hãy cậy dựa vào sức mạnh và tình yêu của Chúa.
Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông, trong tình yêu, không ai phân biệt tuổi trẻ hay tuổi cao, bằng cấp nhiều tiền bạc bao la, nhưng vẫn nói đến trái tim dâng trào và hạnh phúc vỡ oà. Trong Đức Giêsu, không ai nói đến vật chất sa hoa, hờn ghen ích kỷ, nhưng là nói đến quyền năng tình yêu và sự biến đổi trở nên môn đệ, nên con cái sự sáng. Chính vì quan niệm hạnh phúc theo tinh thần của Đức Giêsu, khác với hạnh phúc thế trần luôn tính toán hơn thiệt, do đó cách cư xử với anh chị em không thể dựa trên công bằng vật chất, nghĩa là ở trong Giêsu, các thành viên gia đình Đức Giêsu chỉ có công bằng yêu thương tha thứ. Tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, mỗi người sẽ được tự do để minh chứng tình yêu của mình với Chúa và tha nhân, hầu được biến đổi nên giống Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân ái.
Tình yêu không giai cấp, không phân biệt giầu nghèo, cũng chẳng cần lắm tài nhiều đức, tình yêu đó là biết thưa vâng, là sống tín thác trong Giêsu, tình yêu nên một trong Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo. Đức Giêsu chia sẻ rất thực tế với các học trò: “nếu anh em yêu thương người yêu mình, thì anh em nào có công chi, ngay cả những người tội lỗi cũng làm như thế sao” ? Tình yêu thật đâu có ai cần phải cân đo tính toán, người tốt bụng đâu ai nghĩ phải là người dư tiền dư của, người biết rộng lượng thứ tha cũng chưa phải là thánh nhân, đúng hơn, họ biết mình là ai, là người cần được yêu thương tha thứ. Cũng như đứa trẻ: biết bò, biết đứng, biết đi, rồi mới biết chạy, người tín hữu chúng ta phải biết mình là ai, tin Thầy, cậy dựa vào sức mạnh và tình yêu Giêsu, người môn đệ mới đủ hiểu tại sao cần phải nên trọn lành như Cha trên trời.
Kinh nghiệm của người xưa cho biết: người ta có thể sống thiếu anh chị em, nhưng không ai có thể sống hạnh phúc khi không có bạn bè. Người ta có thể sống thiếu trước hụt sau về của ăn thức uống, nhưng không ai có thể vui và bình an, khi tâm hồn nặng trĩu hờn giận ganh ghét. Thêm bạn, bớt thù, cũng là phương thế hữu hiệu giúp người ta tập luyện tha thứ và bao dung với chính con người tội lỗi đáng thương là cái tôi ích kỷ của mình. Trên mạng người ta có chia sẻ một câu chuyện về tình yêu thương như thế này: có một cậu bé mù loà ngồi ăn xin bên vệ đường với tấm bảng ghi nguệch ngoạc: “con bị mù, cần giúp đỡ”. Bên cạnh cậu bé mù là cái mũ. Một doanh nhân trẻ đi qua, ông chia sẻ 1 chút tiền vào cái mũ, tiện tay ông sửa vài chữ ở tấm bảng trước khi dời khỏi nơi cậu bé. Tiếp đến là người qua kẻ lại, cái mũ của cậu bé mỗi lúc một đầy lên.
Khi doanh nhân trẻ xong việc quay về, cậu bé có cảm giác hiểu được bước chân là của vị ân nhân giúp mình, cậu bé vội nói to: thưa chú, có phải chú là người đã cho con tiền và sửa lại vài từ ở cái bảng giúp con đó không ? Mà chú sửa như thế nào vậy ? Chú giữ lại nội dung của cháu, nhưng cách diễn đạt thì khác chút thôi: “hôm nay là ngày đẹp trời, nhưng con lại không nhìn thấy” ! Nên một tình yêu, nên một trong Giêsu sẽ luôn thiết thực với những ai muốn trở thành môn đệ, đó là vừa học vừa thực hành với Thầy Giêsu, là đang được biến đổi để biết yêu thương, để được nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành. Amen.
.
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Trong một lần hội thảo của các bậc cha mẹ, câu hỏi được đặt ra là: Làm cha mẹ khó nhất là điều gì? Có nhiều ý kiến cho rằng việc nuôi dạy sao cho con khỏe mạnh, ngoan ngoãn, lo cho con được an toàn là khó… Cuối cùng có một chị đã nói rằng: khó nhất là làm gương.
Mà đúng là thế! Nếu quan sát chúng ta thấy khi chưa vợ, chưa chồng thì ăn uống, ngủ, nghỉ, chơi… ra sao cùng lắm chỉ bị mẹ chửi là xong. Họ có ngồi gác chân lên ghế, có vứt áo quần bừa bãi, có ăn trong nồi, ăn bốc, có nhai phùng mồm trợn mắt… thì cũng chẳng ảnh hưởng đến “thằng Tây” nào cả!
Nhưng thử hỏi khi đã có gia đình và có con cái rồi thì những đứa trẻ ngay từ trong nôi đã luôn nhìn cha mẹ như một thần tượng, một tấm gương. Mọi việc cha mẹ làm đều được phản ánh qua hình ảnh bé tí xíu đó. Có nhiều cha mẹ đã phải vừa giật mình, vừa buồn cười khi đứa con hơn một tuổi của mình lặp lại những thói quen của cha mẹ: vứt giầy dép lung tung, dùng chân lấy đồ… đến cả cách cha mẹ dùng từ khi cáu giận… cũng được lặp lại ở chính đứa con của mình!
Thế nên, dạy con những lời hay thì dễ còn làm gương cho con cái noi theo mới là điều quan trọng.
Làm sao dạy con biết yêu thương, quan tâm đến người khác, khi bản thân bố mẹ thì sống ích kỷ, chẳng biết nghĩ đến ai? Làm sao có thể dạy con tính trung thực, trong khi cha mẹ nó buôn gian bán lận, tính toán để thu lời nhiều nhất, làm những điều khuất tất chỉ cốt lấy được tiền nhiều nhất.
Đối với người Công giáo trong mắt người ngoại đạo họ cũng cần chúng ta làm gương về đời sống bác ái yêu thương. Nhiều người vẫn than phiền rằng : đạo công giáo giáo lý thì hay nhưng người Công giáo thực hành còn quá dở! Bởi vì ở đâu đó chúng ta vẫn thấy anh chị em mình sống thiếu tình thương và đầy lòng ghen ghét. Thiếu lòng bao dung và đầy hận thù. Thiếu sự cảm thông và chất chứa đầy những toan tính hẹp hỏi, ích kỷ và thờ ơ. Chính lòng ghen ghét, lòng thù hận, và thiếu cảm thông đã đẩy con người vào bể khổ trần gian với biết bao nước mắt của oan trái, đau thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy dùng tình yêu mà xóa bỏ hận thù. Hãy yêu kẻ thù của mình vì chính Chúa đã chọn chết để xin ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi lầm lạc. Chúa còn bảo chúng ta nếu không yêu tha nhân như chính mình thì chúng ta không xứng đáng là môn đệ của Chúa. Chúa còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa để sống cho thanh sạch, cho công bằng và yêu mến sự thật. Chúa không chấp nhận là người ky-tô hữu mà gây nên gương mù gương xấu cho người khác vì tật xấu, vì đam mê thấp hèn, vì tội lỗi của mình. Nhất là vì sống thiếu tình yêu thương với đồng loại trong lời nói và hành động.
Đó chính là bài học mà Chúa đã dạy chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài. Chính Chúa đã sống một cuộc đời yêu thương. Yêu thương đến nỗi cho đi cả tính mạng của mình. Tình yêu thương đó Chúa trải rộng trên người lành kẻ dữ. Chúa không kết án tội của Lê-vi, tội của người phụ nữ ngoại tình. Chúa càng không kết án tội của những người làm điều gian ác mà chúng chẳng hay biết. “Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Chúa đã nêu gương yêu thương đến quên cả chính mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà yêu tha nhân. Hãy vì Chúa mà đối xử tốt với nhau. Hãy vì Chúa mà quên đi cái tôi để sống vị tha và nhân ái với nhau.
Xin cho cuộc đời ky-tô hữu của chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay. Amen
.
SỐNG THEO LUẬT THƯƠNG XÓT THAY VÌ LUẬT BÁO THÙ
Lm Trần Bìng Trọng
Theo luật cũ trong Cựu ước thì một người làm lỗi phải chịu trừng phạt tuỳ theo tội nặng hay nhẹ. Nếu một người làm người khác bị thương, thì phải đền bù theo luật ác giả ác báo: mắt đền mắt, răng đền răng (Lv 24:20; Mt 5:38)).
Luật đó có nghĩa là nếu ai làm gẫy một cái răng của mình, mình có quyền bẻ gẫy lại răng của họ. Nếu ai móc mắt mình, mình cũng có quyền móc lại mắt họ. Tuy nhiên không được làm sứt môi, sứt mũi họ. Kiểu nói La tinh: Do ut des, có nghĩa là: hãy làm điều người ta làm cho mình. Chúa đến để tẩy chay luật báo oán và dạy các môn đệ luật xót thương và tha thứ. Luật bác ái vượt lên trên luật công bình và đòi hỏi tinh thần xót thương và tha thứ. Ðối với người Do Thái thời Chúa Giêsu, thì yêu kẻ thù là một điều nghịch lí, không thể hiểu được. Họ được nhồi sọ cho rằng kẻ thù là người mà ngưòi ta phải ghét bỏ và tìm cách hãm hại khi có cơ hội.
Chúa đến dạy các môn đệ phải thương yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5:44). Tuy nhiên Chúa không đòi buộc người ta phải yêu thương kẻ thù với cùng một độ yêu mà người ta dành cho người thân yêu và bạn hữu. Người ta không thể yêu kẻ thù với một thứ tình yêu phát xuất tự con tim, do khuynh hướng tự nhiên thúc đẩy. Chúa bảo ta phải yêu thương kẻ thù với một thứ tình yêu do động lực siêu nhiên thúc đẩy và làm quyết định không được ghét bỏ kẻ thù, mà còn phải cầu nguyện cho kẻ thù cũng được cứu rỗi.
Ðó là dấu chỉ và là đặc tính của đạo Kitô giáo. Và đó cũng là đường đưa tới hoàn thiện. Huấn lệnh của Chúa trong Phúc âm hôm nay phải được nhấn mạnh khi ta có khuynh hướng tự đóng khung trong tâm trạng cầu danh lợi trong xã hội. Việc thiện của người đời thường nhắm đến việc đền bù đáp trả. Ta giúp đỡ người khác với hi vọng họ sẽ giúp lại mình: Tôi gãi lưng anh, anh gãi lưng tôi. Sở Trang Vương khi tha cho quan Ðường Giao là nhắm sau này ông quan sẽ nhớ ơn mà bảo vệ mình. Còn ngày xưa Quan Công tha cho Tào Tháo là để nhớ lại một chút ơn xưa nghĩa cũ.
Ðiều mà Chúa dạy ta hôm nay là việc thiện phải có tính cách vô vị lợi. Người làm việc thiện phải sẵn sàng mở rộng đón tiếp người xấu số, mà không quan tâm đến việc đền ơn báo đáp. Chính Chúa đã nêu gương trước bằng cách dạy ta bài học tha thứ cho kẻ thù. Khi bị treo trên thập giá, Chúa cầu nguyện xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm (Lc 23:34). Trong một xã hội cạnh tranh, người ta cảm thấy khó lòng sống theo lời Chúa dạy để trở nên hoàn thiện. Người ta sẽ bị coi là khờ dại, mất mát và thua thiệt, nếu sống theo lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay. Tuy nhiên đó chính là sự khác biệt giữa cái khôn của người đời và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô gọi cái khôn ngoan của người đời là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa ( lCr 3:19).
Quan sát nếu có những cá nhân để lòng hận thù, thì cũng có những dân tộc thù dai, tuỳ theo tâm tính cá nhân, cách giáo dục gia đình và xã hội. Lòng hận thù giống như xiềng xích trói buộc người ta lại. Lòng hận thù còn có ảnh hưởng tai hại đến tâm trí, đến đời sống tình cảm, đến sức khoẻ và công ăn việc làm, đến đời sống xã giao của mỗi người. Người ta không cần nhìn xa mới tìm thấy kẻ thù. Có những hận thù xẩy ra ngay trong gia đình giữa cha mẹ, vợ chồng và con cái, giữa anh chị em và bạn bè, tựu trung cũng chỉ vì tình, vì tiền và lỗi lời hứa. Làm sao để áp dụng lời Chúa vào trường hợp hận thù trong gia đình? Những chuyện đau lòng xẩy ra trong gia đình, ta phải cố gắng làm hoà để còn có thể nhìn nhau. Rồi còn phải cầu nguyện cho người gây ra chuyện đau lòng nữa.
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay đòi ta phải thương xót và tha thứ. Làm sao ta có thể tha thứ cho người mà ta đã làm ơn cho họ, nhưng lại phản bội mình? Tuy nhiên đó là điều mà Chúa đòi hỏi người môn đệ phải làm. Là người môn đệ của Chúa, ta bắt đầu dâng thánh lễ với lời cầu xin tha thứ trong tâm tình thống hối. Ðầu lễ ta có cơ hội xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, và trước khi rước lễ, ta cũng xin Chúa tha nợ như ta tha cho người mắc nợ mình. Ta đến dâng thánh lễ, ý thức về tội lỗi của mình và khi trở về đời sống hằng ngày, với ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa nhân từ, hằng xót thương và hay tha thứ.
Lời nguyện xin cho có được tâm hồn từ bi thương xót:
Lạy Chúa Giêsu là Ðấng nhân từ lân tuất.
Con xin cảm tạ Chúa đã đến dạy bảo loài người
bài học từ bi hay thương xót thứ tha.
Xin Chúa tha thứ những lần
con để lòng hận thù ghen ghét.
Xin ban cho con một tâm hồn quảng đại,
để con biết thứ tha và bỏ qua những lỗi lầm của tha nhân
hầu được Chúa quên đi những lầm lỗi của con. Amen.
.
VẠN NẺO YÊU THƯƠNG ĐỂ NÊN HOÀN THIỆN
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Vì được nhận làm con cái nên Chúa Kitô truyền dạy chúng ta phải nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Một nét hoàn thiện của Cha trên trời mà Chúa Kitô mạc khải đó là giàu lòng từ bi, chậm bất bình và hết sức khoan dung, là luôn cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn kẻ bất lương. Quả thật nếu chúng ta chỉ biết yêu thương những người dễ thương và thi ân cho những người thân thích thì có khác gì đâu nhiều anh em chưa biết Thiên Chúa và có khi còn chưa hơn gì những người được xem là tội lỗi. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vượt qua mức công bình giao hoán kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng…”, để sống yêu thương một cách quảng đại, vô điều kiện và đến cùng như Chúa Kitô mời gọi với kiểu nói “ngoa ngữ” là nếu bị vả má bên phải thì đưa cả má bên trái hoặc giả có ai muốn lấy áo trong của mình thì đưa luôn cho họ cả áo ngoài?
Trước hết cần phải hiểu rõ lối nói ngoa ngữ là kiểu nói phóng đại cốt chỉ nhằm muốn nhấn mạnh nội dung nói chứ không phải là dạy hình thức cách thế diễn tả. Khi bị bắt và bị điệu đến trước mặt Thượng tế Caipha, Chúa Giêsu đã bị một thuộc hạ ngài Caipha vả vào mặt thì Người đâu có đưa má bên kia cho anh ta vả thêm nhưng lại nghiêm giọng: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Với kiểu nói “má này, má kia; áo trong, áo ngoài, một dặm, hai dặm”, Chúa Kitô nhấn mạnh rằng nếu đã là yêu thì phải vô điền kiện, đã là yêu thì phải quảng đại và đi đến cùng. Và Người cho biết cái lý do duy nhất mà chúng ta được mời gọi sống yêu thương như trên đó là vì chúng ta đã được nhận làm con của Đấng là Cha của tất cả mọi người.
Nếu chúng ta tin nhận Đấng Toàn Năng là Cha của mình thì hệ quả tất yếu đương nhiên đến đó là phải nhận nhau và sống với nhau như anh chị em ruột thịt cùng chung một mái nhà. Cụm từ cùng chung một mái nhà muốn nói đến nghĩa tình huynh đệ, tỉ muội, khi còn ở trong vòng tay mẹ cha. Bởi chưng đã có đó chuyện lúc còn nhỏ thì anh bên em, khi có bánh anh lại chia, còn lớn lên có gia đình riêng thì ai giàu nấy ăn; lúc còn nhỏ thì chị ngã em nâng, nhưng khi đã lấy chồng thì có thể có trường hợp chị ngã, em lại đạp dìm luôn!
Thiết nghĩ rằng để có thể sống yêu thương nhau như lời truyền dạy của Chúa Kitô thì không gì hơn phải có niềm tin sâu sắc vào Đấng dựng nên chúng ta là Cha Toàn Năng chí ái và tiếp bước theo chân người Anh Cả Giêsu. Xin đừng quên những lời thắm thiết của Người đêm Tiệc ly: “Thầy truyền cho anh em giới răn mới là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34).
Yêu thương các môn đệ, Chúa Kitô không chỉ bao bọc, chở che các ngài mà còn thẳng thắn răn bảo, sửa dạy các ngài và đã có khi quở mắng là Satan. Yêu thương người đương thời thì Chúa Giêsu không chỉ chữa lành bệnh tật mà còn xua trừ ma quỷ; Người không chỉ khoan dung tha thứ cho người tội lỗi hối cải mà còn lên án, cánh báo những người cố chấp chai lì trong tội; Người không chỉ hoá bánh ra nhiều nuôi ăn dân chúng mà còn bện dây thừng thành roi đánh đuổi những người đã biến Nhà Chúa thành hang trộm cướp hay thành nơi buôn bán… Như thế yêu thương nhau không phải chỉ là bao bọc chở che nhau mà còn phải sửa bảo nhau khi cần phải sửa dạy. Thương người có 14 mối, thế mà nhiều khi chúng ta chỉ thương nhau cách bất cập, nghĩa là còn nhiều thiếu sót có khi là đáng trách. Chỉ biết trao cho nhau cơm áo gạo tiền thì cũng chưa hẳn đã là yêu nếu không biết can đảm sửa dạy kẻ mê muội, không biết răn bảo kẻ có tội.
Lời Chúa trong sách Lêvi mà Giáo Hội trích đọc Chúa Nhật này có câu: “Người không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó.” (Lv 19,17). Một sự thật mà lắm khi chúng ta vô tình hay hữu ý không dám trực diện, đó là khi người anh em lỗi phạm mà chúng ta không can đảm quở trách thì chúng ta một cách nào đó chúng ta đang “ghét” người anh em mình. Rất có thể chúng ta không minh nhiên ghét người anh em lỗi phạm nhưng chúng ta lại không dám thương họ như lời Chúa dạy vì sợ bị bách hại, sợ phải vác thập giá.
Dõi theo chân Chúa Kitô để sống yêu thương thì luôn có đó thập giá phải gánh vác. Ai không can đảm vác thập giá mình thì không xứng đáng làm môn đệ của Người. Yêu kẻ thù không phải là nhắm mắt làm ngơ hay tự bó tay chịu trận để kẻ thù mãi đắm chìm trong tội mà phải nỗ lực làm cho kẻ thù hoán cải, đổi thay. Cầu nguyện cho những người ngược đãi chúng ta không chỉ dừng lại ở động thái “lâm râm khấn vái” mà còn phải nắm tay lại giúp họ sửa đổi cung cách hành xử tàn nhẫn, bất công của họ. Tin mừng cho chúng ta hay rằng sau khi cầu nguyện thì Chúa Giêsu không ngồi đó mà chờ đợi nhưng mau mắn thực thi thánh ý Chúa Cha bằng cả mọi nỗ lực gắng công của mình, có khi sau đó lênh đênh trên thuyền giữa sóng biển mà vẫn ngủ thiếp say li bì, có khi phải toát cả mồ hôi pha lẫn máu và đến cả khi thân thể chẳng còn hình tượng người ta nữa với trái tim bầm dập nát tan.
Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới. Đã tin nhận Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Cha Toàn Năng thì phải nên hoàn thiện ngày mỗi hơn cho xứng với phận làm con.
.
Lm Vũđình Tường
Có những người chúng ta ưa thích, có những người chúng ta thích ít hơn, lại có những người chúng ta không ưa, cũng chẳng thích; lại có những người chúng ta làm ngơ, coi như họ không có trong đời. Trong giao tiếp hàng ngày, rất khó tránh khỏi những xung khắc. Xung khắc đến từ khác biệt cách suy nghĩ, cách xử thế, cách giải quyết vấn đề, quan niệm sống. Chính những điều này dẫn đến việc tranh cãi, từ đó sinh ra xung khắc, đôi khi dẫn đến ẩu đả, thù hằn. Khi điều đó xảy ra chúng ta đòi công lí. Từ đó dẫn đến thưởng phạt. Để tránh cá nhân lạm dụng sức mạnh phe cánh, trong lúc nóng giận, làm hại cá nhân khác, chính phủ can thiệp, bằng cách đưa ra luật lệ bảo vệ mọi công dân, tránh trường hợp trả thù quá đáng gây thiệt hại đến nhân mạng người khác.
Đức Kitô dậy các môn đệ không nên tìm cách trả thù theo thói xã hội cho là công bằng, hợp lí. Ngài dậy các môn đệ, thứ nhất hãy yêu thương kẻ thù và thứ hai, hãy cầu nguyện cho kẻ bách hại ta. Cầu nguyện cho kẻ thù cho biết ta đã không ghét bỏ kẻ làm hại ta, mà còn cầu cho họ được bình an trong tâm hồn. Giáo huấn này vượt khỏi mọi suy luận hợp lí, công bằng, xã hội cổ võ. Đức Kitô kêu gọi ta yêu thương mọi người. Chính Ngài yêu thương tất cả, chết cho tất cả, và sống lại ban ơn cứu độ cho tất cả. Ai đón nhận Ngài đều nhận được ơn trường sinh. Ta chọn yêu người ta thích. Đức Kitô chọn yêu mọi người.
Đức Kitô dậy dùng tình yêu xoá bỏ hận thù. Hận thù gây thêm thù hận; tình yêu xoá bỏ hận thù. Tình yêu có sức mạnh xoa dịu cơn giận, làm mềm con tim chai đá, biến hận thù thành tình bạn. Có người lí luận, sức mạnh có khả năng khống chế nghịch cảnh, bất bình. Thực tế thì sức mạnh có khả năng làm lắng dịu căng thẳng. Vấn đề không được giải quyết thoả đáng, chỉ làm dịu, bớt căng thẳng, xung khắc tạm ngủ yên, khi hoàn cảnh thuận lợi thì căng thẳng lại bùng lên. Đức Kitô cho biết giải quyết vấn đề bằng sức mạnh, lắng dịu bên ngoài chỉ là giải quyết tạm thời. Giải quyết vấn đề thực sự phải đến từ con tim yêu mến, thứ tha. Con tim biết tha thứ, nhân nhượng lẫn nhau, triệt tiêu mọi xung khắc như thế vấn đề mới thực sự được giải quyết.
Thư hai, khi người bách hại ta là kẻ có quyền, có thế, hãy ôn tồn, từ tốn, nhẹ nhàng và kiên nhẫn làm giảm căng thẳng, xung đột. Đối xử nhẹ nhàng như thế kẻ thù sẽ bỏ đi, cảm thấy mình quá đáng. Như thế làm họ suy nghĩ, hy vọng dẫn đến thay đổi, thống hối. Để có thể cầu nguyện cho kẻ bách hại ta, chúng ta không thể tự mình làm điều đó, mà cần có ơn Chúa trong tâm hồn. Không thể minh xác lời cầu của ta giúp ích kẻ làm hại ta thế nào, nhưng chính ta cảm thấy an tâm hơn, tâm hồn thảnh thơi hơn, điều đó dẫn đến tha thứ, làm hoà. Tha thứ cho kẻ thù là điều kiện căn bản nhận ơn thứ tha từ Thiên Chúa, như kinh Lậy Cha chúng ta đọc. Yêu mến, cầu nguyện cho, và giao hoà, chính là làm cho người khác cảm nhận được tình yêu Chúa thật hơn, gần gũi hơn với cuộc sống mọi người. Đức Kitô yêu mến mọi người, môn đệ Đức Kitô cũng đi theo con đường đó. Yêu mến kẻ thù cho thế giới biết chúng ta là môn đệ Đức Kitô. Ngài kêu gọi ta đối xử khác với cách xã hội kêu gọi. Ngài kêu gọi đáp lại bị đối xử tàn tệ bằng cầu nguyện cho họ; thay vì trả thù, trả đũa, ta đáp lại bằng giao hoà; thay vì ghét bỏ, khinh miệt ta đáp lại bằng tình yêu mến. Những người trong vị thế lãnh đạo cảm thấy khó chịu trong giáo lí mới mẻ trên, đặc biệt là những người tự ban cho họ quyền, họ được sinh ra để người khác phục vụ. Đức Kitô cho biết nước Ngài dành cho mọi người, tình yêu Ngài tỏ lộ rõ trên thập giá và sức mạnh của Ngài diễn tả bằng ngôi mộ trống.
.
Học viện Giáo hoàng Piô X Đà Lạt
Câu hỏi gợi ý
- Các yêu sách của Chúa Giê-su có thể thực hiện được không?
- Chúng là những chỉ thị, chỉ dẫn hay điều luật?
- Chúa Giêsu ngỏ lời với ai? Với một nhóm ưu tú? Với tất cả môn đồ? Thánh Bonaventura phân biệt hai hạng người: hạng của điều luật, hạng của lời khuyên, và cho rằng ở đây Chúa Giêsu nhắm đến hạng thứ hai. Phải nghĩ sao về ý kiến này? Các “lời khuyên” thuộc phần nào trong Tin Mừng?
- Vài tác giả khác cho rằng nghiêm chỉnh mà nói thì các lời Chúa Giêsu không thể nào thực hiện được. Từ đó họ bảo có hai nền luân lý, một có tính cách hão huyền, do Chúa Giêsu tưởng tượng ra, nhằm thúc đẩy ta ăn năn hoán cải và nhận biết mình là tội nhận; một có tính cách thực tế, tầm thường, công dụng.
Hãy rút ra phần sự thật trong lối giải thích thứ nhất (cánh chung học): Các yêu sách của Chúa Kitô tự chúng có thể thực hiện được không? Ai làm cho chúng có thể thực hiện được? Nếu không thì Diễn từ chẳng trở nên một khảo luận luân lý sao?
- Tầm mức và giới hạn của Diễn từ trên núi:
- Phải chăng đó là một chương trình sống xã hội (Tolstoi)? Một chương trình đào tạo Kitô hữu?
- Phải chăng đó là toàn bộ hiến chương Kitô giáo? Thiếu điều gì chủ yếu trong Diễn từ này không, hoặc trong các yêu sách, hoặc trong lời mặc khải mầu nhiệm Nước Trời?
- Hãy tìm tương quan giữa luật Chúa Kitô với luật tự nhiên: mối tương quan giữa luật Môisen và luật Chúa Giêsu phải chăng không tương tự với tương quan bản tính-ân sủng và với tương quan thế trần Kitô giáo?
- Tìm ý nghĩa của câu: “Hãy nên trọn lành như …” (5,48; x. Lv 19, 2; Lc 6, 36). Câu đó phải chăng không nói lên một mệnh lệnh bất khả thực hiện? Giữa sự “trọn lành” và “đức công chính dư dật” (5, 20) có tương quan gì?
- Người ta đã dày công tìm hiểu giáo huấn luân lý Do thái để xem các lời khiển trách của Chúa Giêsu, ví dụ về luật báo thù, có đúng hay không, và để xem tính cách mới mẻ của các yêu sách “mới” của Người hệ tại ở chỗ nào. Kết quả của những cuộc nghiên cứu này không bất lợi mấy cho Do thái giáo. Đối chiếu với mọi giới luật luân lý được Chúa Giêsu phát biểu một cách như khiêu khích, ta có thể trích dẫn nhiều câu tuyên bố của các giáo sĩ cũng nói ít nhiều một chuyện như thế, cũng đạt tới một tầm mức luân lý cao như thế, trên một vài điểm hoặc ít ra cũng rất tương hợp trên nhiều điểm khác. Phải thành thật mà công nhận điều đó. Tuy nhiên việc so sánh ấy làm lệch lạc quan điểm. Vì một trong những đặc điểm của truyền thống trường phái Do thái là thu gộp lại các câu nói khác nhau của các giáo sĩ, đến nỗi có nhiều ý kiến có giá trị luân lý cao đã được đặt bên cạnh các ý kiến khác từng bị Chúa Giêsu tấn công. Thành thử ta phải công nhận Tân ước như là nguồn mạch của mọi quan niệm thông thường ảnh hưởng trên tâm thức nhân gian thời bấy giờ. Sau cùng và đặc biệt, điều quan trọng đối với Chúa Giêsu, đó là một sứ điệp tôn giáo và luân lý tổng hợp, mà tìm cách mới mẻ đã được tỏ bày cùng với giờ của lịch sử cứu rỗi.
- Trong tất cả các phản đề Chúa Giêsu nêu lên, hiện ra một yêu sách duy nhất, dứt khoát. Điều thiện cần làm thì phải làm cho trọn vẹn. Ai chỉ làm một phần, với sự hạn chế, cốt cho xong mệnh lệnh bên ngoài, là không làm gì cả. Và để người ta hoàn toàn chú ý tới yêu sách đó, cái yêu sách ăn sâu đến tận tâm hồn, Chúa Giêsu dùng một thể văn đặc biệt: thể văn phóng đại. Câu tuyên bố về việc làm gương xấu và về yêu sách chặt bớt các phần thân thể là một trường hợp rõ ràng. Và ta cũng phải hiểu theo một nghĩa tương tự phán quyết của Chúa Giêsu về sự giận hờn và nhục mạ. Tuy nhiên, đừng lạm dụng hình thức giảng dạy bình dân thông dụng ở phương Đông này, để làm yếu đi các đòi hỏi khách quan mà nó chứa đựng. Vì quả thực Chúa Giêsu buộc phải triệt để xa lánh ngay cả dịp tội, chấp hành tốt tình huynh đệ không chỉ bên ngoài mà còn từ ý tưởng con tim, và từ chối mọi quyền trả thù chính đáng (5, 38- 42).
- Nố sau cùng này đặc biệt gây ra nhiều vấn đề khó giải quyết. Phải chăng như thế là Chúa Giêsu đã không phá bỏ trật tự pháp lý bên ngoài cần thiết cho đời sống xã hội? Trật tự đó há chẳng bắt nguồn từ Thiên Chúa sao? Và đặc biệt riêng về đoạn văn này, phải chăng nó không tạo nên một nền tảng Kinh Thánh vững chắc cho các luồng tư tưởng chủ hòa hiện thời, những luồng tư tưởng nghiêm cấm mọi hình thức tham chiến. Rồi người bị thiệt thòi cách bất công có thể nại đến toà án không … Đó là những câu hỏi hóc búa khó trả lời trong vài dòng chữ. Chúng ta hãy tạm đưa ra một vài nhận xét tổng quát ít nhất như những cái mốc đầu tiên của một câu trả lời.
Tất cả các quy định của luật Cựu ước mà Chúa Giêsu trích dẫn, dù chưa thực sự hoàn hảo, cũng đã nói lên một tiến bộ luân lý không thể chối cãi so với luật rừng hay tình trạng man rợ vẫn có khuynh hướng ưu thắng trong đời sống xã hội thời bấy giờ. Tất cả các quy định đó đều nhằm mục đích làm cho đời sống xã hội trở nên công bình và huynh đệ hơn. Thế mà, sở dĩ Chúa Giêsu đến kiện toàn Lề luật Môisen, chính là để kiến lập thêm công bình và huynh đệ giữa con người. Dĩ nhiên, việc kiện toàn luật Môisen chỉ có thể được thực hiện trong chiều hướng triệt để hóa các yêu sách tuyệt hảo nhất của nó. Thành ra mọi lời giải thích học thuyết luân lý của Chúa Giêsu trong Diễn từ trên núi đều phải lưu ý đến bối cảnh tổng quát đó: lối giải thích nào khuyến khích các lạm dụng và có khuynh hướng biến xã hội thành một đàn cừu phó mặc cho lũ sói cắn xé, thì không phù hợp với bồi cảnh này. Vì thế, thái độ bất kháng cự tuyệt đối trước mọi hình thức bạo lực đang hoành hành trong thế giới ngày nay, chỉ tổ khuyến khích việc bóc lột kẻ cô thân yếu đuối, tước đoạt các nhân quyền và làm phương hại phẩm giá con người cách trầm trọng.
Thứ đến, có thể tự hỏi phải chăng Chúa Giêsu chỉ muốn đứng trên bình diện pháp định hoàn toàn. Có nhiều bằng chứng cho thấy phải hiểu ngược lại. Thực vậy, các bản văn pháp luật thường mang tính cách điều độ, dùng từ ngữ chính xác, không có những hình ảnh thái quá hay kiểu nói khoa trương, đầy rẫy nhiều điều khoản tiên liệu các luật trừ v.v… Thế mà văn thể Chúa Giêsu dùng trong Diễn từ lại hoàn toàn khác biệt. Người ưa sử dụng kiểu nói đại ngôn. Hãy lấy một trường hợp điển hình: lời khuyên bảo chìa cả hai má cho kẻ vả mặt (5, 39). Hiển nhiên đây không phải là một nguyên tắc về phản lệ chính thức, song chỉ là một ví dụ cố ý phóng đại ra; cũng vậy khi nói phải móc mắt hay chặt bàn tay. Vì trong thực tế, hành động như thế chẳng có hiệu quả gì. Cũng như con mắt bị móc hay bàn tay chặt lìa không thể bảo vệ người tín hữu khỏi bị một gương xấu khác, thì cũng vậy, cái vả má thứ hai chẳng cản ngăn được cái tát thứ ba, hay làm cho người hung ác trở nên thiện cảm. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu sẽ đưa ra một lối giải thích hay nhất về câu nói của Người: đó là khi bị tên đầy tớ vả mặt, Người đã chẳng đưa má kia, song nghiêm nghị hỏi nó: “Nếu Ta đã nói không phải, thì hãy làm chứng không phải chỗ nào: còn nếu là phải, sao lại đánh Ta?” (Ga 18, 23). Hãy phân biệt rõ: một đàng là mệnh lệnh, có giá trị đối với mọi người và cho mọi hoàn cảnh, đàng kia là một ví dụ cố ý phóng đại mà chẳng xét đến các điều kiện cụ thể hằng biến đổi luôn. Chúa Giêsu công bố một lý tưởng, chứ không ban hành một đạo luật.
Lại nữa, giả thiết rằng Giáo Hội và xã hội phải tuân theo một quá trình tiến hóa có tính cách năng động, và quá trình này, ít ra trong các nguyên tắc, nhằm tinh luyện ý thức luân lý dưới tác động của Chúa Thánh Thần (như đã xảy ra trong suốt lịch sử Israel), thì có thể Chúa Giêsu đã biết đến một quá trình như vậy và muốn trình bày, trong Diễn từ trên núi, các nguyên tắc năng động sẽ hướng quá trình đó tiến về việc thực hiện ngày càng hoàn hảo một xã hội công bằng và huynh đệ. Trong viễn ảnh ấy, các lời khuyên bảo có tính cách tuyệt đối của Người có lẽ không nhằm đưa ra các mệnh lệnh cụ thể phải thực hiện tức khắc, nhưng đưa ra một đường hướng phải theo để dần dà, với thời gian, sự thiện lướt thắng sự ác.
Hiển nhiên, mọi suy luận trên đây chẳng làm mất đi tính cách khẩn trương của một nỗ lực vô điều kiện nhằm thực hiện các yêu sách luân lý của Chúa Giêsu. Vì Người cũng muốn đưa ra, không phải một bộ luật mới, song là những đường hướng mới và đòi buộc một thái độ cụ thể. Điều đó hiện ra rõ ràng qua cung giọng sai khiến của các phản đề, và được xác định bởi dụ ngôn cuối cùng về việc xây nhà, trong ấy Chúa Giêsu đối chiếu người khôn biết nghe lời Người và đem ra thực hành, với kẻ dại chỉ nghe qua mà thôi. Tuy nhiên, trong cụ thể, việc đem ra thực hành đó cũng bị chi phối bởi nhiều hoàn cảnh. Điều cốt yếu là biết cảm hứng theo lý tường mình nhận ra trong Diễn từ này và chân thành phấn đấu đưa lý tưởng đó vào trong một thế giới mà, mặc dầu bị nhiều thất bại thê thảm, cũng biết cách mù mờ rằng nó phải chọn hoặc luân lý Tin Mừng, hoặc là bị hủy diệt tiêu tan.
Chú giải chi tiết
“Mắt thế mắt, răng đền răng”: Nguyên tắc báo thù theo đó phạm nhân phải bị bồi thường tương xứng với thiệt hại đã gây nên, vẫn được áp dụng chung chung và từ lâu, trong thế giới văn minh. Nguyên tắc đã xuất hiện trong bộ luật Hammourai 2000 năm trước Chúa Giêsu. Ở đây nó quy chiếu về Xh 21, 24 (x.Đnl 19, 21 ; Lv 24, 20). Trong bối cảnh Cựu ước, nó nhấn mạnh đến tính cách nghiêm khắc cần thiết của hình phạt, song cũng đánh dấu một bước tiến quan trọng so với chế độ báo thù cá nhân hỗn loạn (xem bài ca man rợ của Lamek trong St 4, 24 chẳng hạn).
“Đừng cự lại người ác”: Huấn thị này không nói với các quan tòa là những kẻ phải tìm cho ra phương cách mới để áp dụng luật lệ trường hợp các truyền thống giáo sĩ Do thái), nhưng trái lại ngỏ lời với người bị tổn thương để bảo họ biết phải xử trí ra sao cho hợp với tư cách môn đồ Chúa Kitô. Chúa Giêsu và các Kitô hữu đầu tiên không muốn hủy bỏ pháp chế hiện hành thời đó (như thánh Phaolô, với tư cách công dân Rôma, đã kháng cáo lên Hoàng đế để xin minh oan: Cv 25,11); song các ngài đã đưa vào xã hội một thái độ nhân bản mới làm phát hiện tính cách sơ thiển, hạn chế trong thời gian của các bộ hình luật chính thức hiện hành; các bộ luật này không bị hủy bỏ nhưng đã trở nên lỗi thời vì thái độ cụ thể của các Kitô hữu, là thái độ dù cảm hứng theo một lý tưởng, vẫn để ý tới các hoàn cảnh con người, không gian và thời gian.
“Đi một dặm”: Chắc hẳn ví dụ này ám chỉ đến một khổ dịch; binh sĩ và viên chức này xưa có thể buộc một bộ hành nào đó vác một gánh nặng (x. trường hợp ông Simon thành Xyrênê vác thập giá) hoặc đi theo họ để làm con tin hay người dẫn đường.
“Ai xin … ai muốn vay”: Lời khuyên gồm hai xác ngôn song song- hầu như đồng nghĩa: việc cho vay mượn thường tương đương với việc bố thí. “Cho đồng loại vay là làm việc từ thiện”, Hc 29, 1 khẳng định thế. Giữa người Do thái với nhau, cho vay không được ăn lời (Xh 22, 24 ; Lv 25, 35- 37 ; Đnl 15, 7- 11 ; 23, 20-21 tất cả các bản văn này đều quy chiếu về các “anh em” Do thái) và đến hưu niên (année sabbatique) thì mọi nợ nần và vay mượn đều được tha ít nhất trên lý thuyết (Đnl 15). Làm thế là vì Israel muốn mãi mãi là một dân tộc sống tình anh em. Ở đây hình như Chúa Giêsu muốn nới rộng luật ấy theo nghĩa là người yêu cầu hãy cho vay bất cứ ai xin vay, mà đừng để ý đến chủng tộc hay tôn giáo của họ. Gia đình Israel phải mở rộng cửa nhà mình cho tất cả mọi người.
“Hãy ghét địch thù “: Trong lúc mấy phản đề trên kia quy chiếu về các khoản luật đích xác của Cựu ước thì ớ đây lại khác hẳn. Quả vậy, ta chẳng tìm đâu ra trong Cựu ước mệnh lệnh minh nhiên phải ghét địch thù. Có lẽ lời huấn thị chỉ muốn chống lại tư tưởng khá phổ biến trong Do thái giáo suy đồi là: tất cả những ai không thuộc thành phần cộng đoàn quốc gia và tôn giáo đều là thù địch. Đặc biệt trong các bản văn Qumrân, ta thấy tỏa ra lòng khinh miệt ghê gớm đối với “con cái tối tăm”; các Thánh vịnh của Salomon cũng cho nhiều ví dụ tương tự. Thành thử có lẽ trong bối cảnh này, thù địch không phải là đối phương cá nhân bên trong cộng đoàn tôn giáo, cũng chẳng phải là thù địch của quốc gia theo nghĩa chính trị hay quân sự, nhưng là kẻ bách hại đức tin, kẻ thù của cộng đoàn thiên sai do các Kitô hữu đầu tiên thành lập. Trước đó, trong bản 70, chữ echthros đã thường chỉ các thù địch của dân Thiên Chúa (Tv 31, 7 ; 139, 21 v.v…) ; lời ám chỉ đến các người bắt bớ trong câu tiếp theo củng cố giả thiết vừa nói; sau cùng các thánh thư cũng cho thấy chữ này thường được dùng theo nghĩa ở thế kỷ thứ nhất (2 Tx 3, 15 ; Rm 5, 10 ; Cl 1, 21 ; Gc 4, 4). Tình yêu nói đây không phải chỉ là chẳng giận hờn, chẳng báo oán nhưng, như trong Cựu ước và Tân ước, luôn luôn là hành động cụ thể, là hiệp thông sống động biểu lộ qua các cừ chỉ rõ ràng (Vd. Lời chào hỏi nơi c.47). Cầu nguyện cho các người bắt bớ không phải là biểu thức duy nhất của tình yêu đó, song chỉ là một trong các cách biểu lộ tình yêu ; chữ khi (và) chẳng có nghĩa giải thích nhưng có nghĩa: và đặc biệt. trong khi làm các cử chỉ yêu thương này, có thể ta vẫn mang tâm trạng oán hận hay ác cảm tự nhiên đối với kẻ thù hiện gây cho ta đau khổ. Trong một trường hợp như vậy, dù cố gắng thế nào, cũng khó mà chế ngự các phản ứng nhạy cảm được. Nhưng Chúa Giêsu không đứng trên bình diện tâm lý, và chẳng muốn phân biệt giữa điều cảm thấy và điều ưng thuận như các nhà luân lý học thường làm một cách chính đáng. Người đứng trên bình diện hành lang cụ thể (vd : cầu nguyện, c.44; chào hỏi, c.47), nơi phê phán sau cùng sự chọn lựa sâu xa của con người vượt trên mọi xao động của cảm giác.
“Hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành”: Hình như lời tuyên bố này không chỉ kết thúc đoạn văn về lòng yêu thương thù địch, mà còn kết thúc cả đoạn gồm cc. 17- 48 về việc chu tất Lề luật theo quan niệm của Chúa Giêsu. “Câu nói” (logion) rõ ràng cảm hứng từ Lv 19, 2: “Hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh” và từ Đnl 18, 3: “Ngươi hãy nên trọn. lành trước mặt Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Có nhiều cách giải thích nó. Nhưng hình như phải loại bỏ ý tưởng về một sự tương đồng kiểu hữu thể học (xa lạ với tư tưởng Hy bá) hay kiểu luân lý học theo nghĩa tuyệt đối không thể phạm tội là một điều bát khả đối với tạo vật, trừ phi được đặc ân ngoại thường). Thật ra, chủ đề “trọn lành”, trong các bản văn Kinh Thánh, diễn tả ý tưởng dấn thân hoàn toàn, thuộc trọn về một mình Thiên Chúa. Đó cũng là ý nghĩa của teleios (trọn lành) được một dùng thêm một lần nữa, trong câu chuyện Chúa Giêsu đề nghị người thanh niên giàu có bán của cải anh ta có và đi theo Người nếu anh muốn nên trọn lành (19, 21). Hạn từ này xem ra liên hệ với hạn từ công chính”: người trọn lành là người thực thi tròn đầy Lề luật đã được Chúa Kitô tái giải thích.
Kết luận
Dù ta có thể nghĩ rằng các thành ngữ Chúa Giêsu dùng trong đoạn văn này có tính cách nghịch lý, thì sứ điệp căn bản vẫn rành rành: môn đồ của Chúa Giêsu được mời gọi hãy yêu thương tất cả mọi người không trừ ai và yêu thương một cách cụ thể, chứ đừng để cho tà ý hay hận thù lấn át tình yêu. Như thế, họ mới tỏ ra mình là con cái đích thật của Cha trên trời.
Ý hướng bài giảng
- Trong một thế giới bị chi phối bởi luật “do út des” (hòn đất ném đi, hòn chì ném lại), giáo huấn của Chúa Giêsu thật mở ra nhiều viễn tượng mênh mông. Nó giúp ta tránh khỏi cái vòng quỷ quái của toan tính ích kỷ, của hành động vụ lợi, của thù hận đáp trả hận thù. Chỉ tình yêu mới có thể phát sinh tình yêu. Chỉ các Kitô hữu bị thu hút bởi sức mạnh chinh phục của sự dịu dàng nơi Chúa Kitô, mới có thể tạo nên trong thế giới một cuộc cách mạng ôn hòa có sức đánh đổ việc bóc lột người hèn yếu và bạo động quá đáng.
- Các bản văn này buộc ta tự vấn về mức độ cởi mở của ta đối với kẻ khác. Phải chăng ta chỉ phục vụ, yêu thương cha mẹ và bằng hữu? Khi gặp dịp, ta có biết chấp nhận phiền toái để giúp đỡ những người xa lạ không ?
- Lý tưởng trọn lành của Kitô hữu chẳng phải là lý tưởng tránh phạm tội của Biệt phái, tiết độ của Khắc kỷ, hay vô cảm của phât giáo. Kitô hữu không nhìn đến bản thân mình nhưng nhìn đến Chúa Cha, không tìm cách trau dồi các nhân đức như người ta vun trồng cây cối hay tìm cách tạc nên bức tượng thiêng liêng của mình, nhưng chỉ cố gắng bắt chước Chúa Cha, bằng cách gieo rắc tình yêu quanh mình. Và so với lòng nhân lành vô biên của Chúa Cha, người Kitô hữu luôn cảm thấy mình thiếu sót.
- Khi thấy mình hoàn toàn không thể sống tình yêu mà Chúa Giêsu truyền dạy, Kitô hữu liền ý thức rằng chỉ ân sủng của Chúa Thánh Thần mới có thể biến đổi tâm hồn hẹp hòi của mình và làm cho mình nên giống như Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 25, 34).
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 7 TN_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VII Thường Niên Năm A mời gọi con cái Thiên Chúa phải nên thánh thiện như Cha của họ, là Đấng Thánh ngự trên trời. Sự hoàn thiện gặp thấy đỉnh cao của nó ở nơi luật yêu thương.
Lv 19: 1-2, 17-18
Bài Đọc I được trích từ sách Lê-vi, chính xác hơn từ phần được gọi “Luật Thánh Thiện” ở đó Đức Chúa đòi hỏi dân Ngài: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” và “Ngươi hãy yêu đồng loại như yêu chính mình”.
1Cr 3: 16-23
Thánh Phao-lô nhắc các tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng mọi người Ki-tô hữu là “Đền Thờ Thiên Chúa” vì họ được Chúa Thánh Thần ở cùng; họ không thuộc về sự khôn ngoan đời này nhưng sự khôn ngoan Thiên Chúa, vì họ thuộc về Đức Ki-tô và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa.
Mt 5: 38-48
Bản văn Tin Mừng Mát-thêu là phần tiếp theo diễn từ của Đức Giê-su về luật mới: “Anh em đã nghe Luật dạy… Còn Thầy, Thầy bảo anh em…”.
BÀI ĐỌC I (Lv 19: 1-2, 17-18)
Sách Lê-vi là quyển sách thứ ba trong năm quyển sách của bộ “Ngũ Thư”: sách Sáng Thế, sách Xuất Hành, sách Lê-vi, sách Dân Số và sách Đệ Nhị Luật. Năm sách này hình thành nên Lề Luật và nguồn cảm hứng của chúng, theo truyền thống, lên đến tận ông Mô-sê, nhà lập pháp vĩ đại của dân Ít-ra-en.
Sách này là cẩm nang chủ yếu dành cho các thầy tư tế hay các thầy Lê-vi, vì thế sách được gọi là sách Lê-vi vì những người này đều thuộc về chi tộc Lê-vi. Chi tộc này có một quy chế đặc biệt; họ không sở hữu đất đai và được dành riêng để phục vụ nơi thánh thay cho dân Ít-ra-en, vì thế Đức Chúa là gia nghiệp của họ. Xưa kia, tư tế và lê-vi là một. Sau này, danh xưng tư tế được dành cho những ai thực hiện những chức năng chính thức trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, trong khi các thầy Lê-vi đảm nhận những công việc thứ yếu.
Sách Lê-vi được trình bày như một bộ sưu tập các huấn thị nghi thức và các nguyên tắc luân lý thuộc nguồn gốc và niên biểu khác nhau, thường rất xa xưa, với một ý tưởng chủ đạo: hình thành nên lương tâm luân lý của một dân tộc kề cận với sự thánh thiện của Thiên Chúa của mình. Công trình biên soạn chung cuộc thì rất muộn thời: đầu thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, tức là sau thời kỳ hồi hương trở về và công việc tái thiết Đền Thờ thứ hai, tuy nhiên công việc sưu tập các bản văn và các truyền thống đã là một công trình dài lâu, khởi sự rất sớm, chắc hẳn ngay từ cuối thời quân chủ (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên).
Bản văn của chúng ta được trích từ chương 19, chương này góp phần hình thành nên một tổng thể được gọi “Luật về sự Thánh Thiện” (ch 17-26).
- Đức Chúa phán với ông Mô-sê
Phần lớn các chương của sách Lê-vi đều bắt đầu: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê”. Đối với dân Ít-ra-en, Lề Luật là cách diễn tả thánh ý của Thiên Chúa mà ông Mô-sê là người trung gian. Nhà biên soạn sách Lê-vi xây dựng hoạt cảnh, không chỉ trên núi Xi-nai, nhưng còn ở dưới chân núi, trước “Lều Hội Ngộ” nơi đặt Hòm Giao Ước. Đây không là hư cấu văn chương nhưng là ý hướng thần học: tất cả những khai triển Lề Luật chỉ là nối dài pháp luật đầu tiên và được định vị vào trong cùng một tinh thần, một sự liên tục không bao giờ bị gián đoạn.
- Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en
Thật ra, Ít-ra-en là một cộng đồng trước khi là một quốc gia; họ là “dân Thiên Chúa” và căn tính của họ chỉ được diễn tả tròn đầy ở nơi cộng đoàn phụng vụ.
Mệnh lệnh này được ban cho ông Mô-sê để ông nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en chỉ được gặp thấy một lần trong sách Lê-vi: vào lúc tấn phong các tư tế. Xem ra nhà biên soạn đã muốn đối chiếu giữa hai cách thế đi vào trong mối hiệp thông với Thiên Chúa:
Đối với sách Lê-vi, các tư tế là những người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Các sách Cựu Ước khác còn xem ngôn sứ hay vua là những người trung gian. Theo “sách Lê-vi”, phụng tự và chức tư tế cấu thành nên sự trung gian cốt yếu. Vào thời kỳ biên soạn sách Lê-vi chung cuộc, dân Ít-ra-en đã không còn vua và truyền thống ngôn sứ đang trên đường biến mất. Qua đức tin của mình và việc thực hành các quy tắc thánh thiện, các tín hữu cũng có thể đi vào trong mối thân tình của Thiên Chúa.
“Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”: Điều răn này được lập lại nhiều lần trong sách Lê-vi, và lời dạy của Chúa Giê-su cũng âm vang điều răn này: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5: 48).
Sự thánh thiện của Thiên Chúa là ý tưởng chủ đạo của sách Lê-vi. Thiên Chúa được gọi là “thánh” không chỉ vì Ngài được ban cho phẩm chất luân lý cao nhất, nhưng để nhấm mạnh khoảng cách vô tận của Ngài với phàm nhân tội lỗi, tính cách bất khả đạt của Ngài, mầu nhiệm cao vời khôn ví của Ngài. Noi theo Thiên Chúa của mình, dân Ít-ra-en được mời gọi tách riêng ra khỏi các dân ngoại, tránh xa tội lỗi, thánh hóa chính mình. Những chỉ thị của Luật Thánh Thiện chỉ cho họ con đường.
Phần thứ hai của bản văn trích dẫn vài lời khuyên bảo luân lý, mà một trong số đó cấu thành một trong những đỉnh cao Cựu Ước: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như yêu chính mình”.
“Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”: Nguyên tắc này, được đặt lại vào trong mạch văn của nó, không có tầm mức quy mô như Tân Ước sẽ ban cho nó.
“Đồng loại” là tất cả thành viên của dân Ít-ra-en. Toàn bộ đoạn văn liên quan đến những mối liên hệ xã hội ở bên trong cộng đồng. Chúng ta cũng gặp thấy những xưng hô khác như “người anh em”, “người đồng hương”. “Người anh em” trong câu: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em”, chỉ một thành viên thuộc cùng giòng dõi, cùng bộ tộc. “Người đồng hương” trong câu “Ngươi phải mạnh dạn quở trách người đồng hương”, tức là một người Ít-ra-en. Vì thế, viễn cảnh bị thu hẹp lại ở nơi câu: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”.
Tuy nhiên, khi tiếp tục đọc chương này, chúng ta gặp thấy ở câu 34: “Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình”. Câu này triển khai luật yêu thương, chắc chắn còn trong những giới hạn của việc đồng hóa người ngoại kiều với một người Ít-ra-en, tuy nhiên luật yêu thương được mở rộng rồi. Chỉ thêm một bước nữa đạt đến tầm mức của tình yêu dành cho hết mọi người mà Chúa Giê-su sẽ dạy và Ngài còn đi xa hơn nữa cho đến huấn lệnh “Phải yêu kẻ thù”.
Đức Giê-su sẽ kết hợp điều răn yêu người này với điều răn mến Chúa. Điều răn mến Chúa này được gặp thấy trong một quyển sách khác của bộ “Ngũ Thư”, sách “Đệ Nhị Luật” (Đnl 6: 5). Đức Giê-su ban cho hai điều răn này một tầm quan trọng như nhau và tóm gọn mọi Lề Luật vào trong hai điều răn này (Mt 22: 37-40; Mc 12: 29; Lc 10: 25-28). Ngài sẽ chứng mình hai điều răn này tương tự nhau khi đồng hóa mình với người đồng loại: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40).
Cựu Ước đã không hiệp nhất hai điều răn này và cũng không đồng hóa Thiên Chúa với người đồng loại. Chính Đức Ki-tô, vừa Thiên Chúa vừa con người, thực hiện sự ngang bằng này.
BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 16-23)
Bản văn này mang đến một câu kết luận cho ba lập luận của thánh Phao-lô, chứng minh cho các tín hữu Cô-rin-tô thấy rằng việc họ phân chia thành những bè phái dựa trên một ý tưởng sai lầm về Giáo Hội, một quan niệm lầm lạc về sự khôn ngoan Ki-tô giáo, một sự ngộ nhận về vai trò của các vị rao giảng.
Thánh Phao-lô vừa mới khai triển điểm thứ ba này. Thánh nhân đã so sánh công việc của các nhà rao giảng với công việc của những người kiến trúc sư: “Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác thì xây trên nền móng đó…”. Như vậy mỗi người góp phần theo cách của mình vào việc xây dựng tòa nhà, tức là Đền Thờ Thiên Chúa, vì cộng đồng Ki-tô hữu không gì khác hơn một Đền Thánh ở đó Thiên Chúa ngự.
- “Anh em là Đền Thờ Thiên Chúa”
Thánh Phao-lô dùng từ “naos”, từ này chỉ nơi cực thánh nhất, nơi Thiên Chúa ngự, nơi “ba lần thánh” của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Hình ảnh này rất gần với hình ảnh “Thân Thể Đức Ki-tô”. Thánh nhân sử dụng cả hai hình ảnh này, lúc thì luân phiên, lúc thì liên kết với nhau. Khái niệm “Đền Thờ tinh thần” cắm rễ sâu trong lịch sử của dân Ít-ra-en. Đức Chúa đã hứa với dân Ngài “Ngài sẽ ở giữa họ nếu họ tuân giữ các lề luật của Ngài” (Lv 26: 3-11). Kinh nghiệm về thời lưu đày ở Ba-by-lon, xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, vả lại bị phá hủy, đã khích lệ tâm tình của các tín hữu rằng sự kiện Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài là một thực tại tinh thần. Trước đó, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo rằng thời sẽ đến, vào thời đó tôn giáo sẽ được trở nên nội tâm hơn, thời Lề Luật sẽ được ghi khắc trong tâm khảm. Sau cùng, Đức Giê-su công bố rằng “thân thể của Ngài” là Đền Thờ mới, mà giờ đã đến, “giờ những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4: 23).
Lời khẳng định: “đền thờ ấy chính là anh em” được giải thích ngay liền sau đó: người Ki-tô hữu là “đền thờ của Thiên Chúa” vì “Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em”. Đây là chủ đề chính yếu của thần học thánh Phao-lô, đó là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở nơi mỗi người Ki-tô hữu: thần học này phù hợp với những lời hứa của Đức Giê-su và ơn thần khải của lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân lập lại thần học này ở dưới một chút: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em” (1Cr 6: 19).
Đó là sự thánh thiện của cộng đồng Ki-tô hữu vừa trong toàn thể vừa trong mỗi một thành viên. Làm nứt rạn tòa nhà do tinh thần phe phái và những chia rẽ nội bộ, chính là phạm thánh.
- Sự khôn ngoan đích thật
Thánh Phao-lô nhắc lại sự đối lập giữa sự khôn ngoan thế gian và sự khôn ngoan Thiên Chúa, mà thánh nhân đã khai triển ở trên: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì có lời chép rằng: Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái” (1Cr 1: 18-19). Thánh nhân một lần nữa viện dẫn Kinh Thánh khi trích dẫn rất tự do sách Gióp tiếp đó một câu của Thánh Vịnh 94.
Trong nỗi chán chường thất vọng, đối mặt với những quyền lực sự ác, ông Gióp diễn tả niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, Đấng cất nhắc kẻ hèn mọn, đem lại niềm hy vọng cho người phiền muộn, phá vỡ mưu đồ của hạng tinh khôn, bắt kẻ khôn ngoan bằng chính những xảo kế của chúng và đi trước mưu toan của phường xảo quyệt (G 5: 11-13), mà thánh Phao-lô tóm tắt khi nói rằng “Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của nó”. Lời phê-phán thật nghiêm khắc: rõ ràng nhắm đến những tín hữu Cô-rin-tô tự cao tự đại.
Tv 94 cũng là lời kêu gọi cứu giúp của những người công chính chống lại phường vô đạo:
“Tư tưởng phàm nhân, Chúa đều biết cả:
thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài!” (Tv 94: 11)
- Những vị rao giảng của anh em là những người phục vụ mọi người
Những chia rẽ của các tín hữu Cô-rin-tô đối với những vị rao giảng của họ làm chứng rằng họ không là những người khôn ngoan. Không ai được phép nói: “tôi thuộc về Phao-lô, hay A-pô-lô, hay Kê-pha”, vì có một sự đảo lộn: dù Phao-lô, A-pô-lô hay Kê-pha đều thuộc về anh em, họ là những người phục vụ cộng đồng Ki-tô hữu, họ hiến dâng bản thân mình cho mỗi người và cho mọi người.
- Tất cả đều thuộc về anh em
Thánh Phao-lô chuyển đổi ngạn ngữ Hy-lạp: “Tất cả đều thuộc hiền triết”, thường được các triết gia Khắc Kỷ lập lại. Hiền triết là người biết, hiểu, gắn bó với trật tự vũ trụ, vừa lý tính vừa thần linh. Người Ki-tô hữu cũng là người biết và còn biết hơn nữa, vì Đức Ki-tô đã mặc khải ý định của Thiên Chúa về nhân loại: người Ki-tô hữu cũng nắm giữ ý nghĩa “sự sống và sự chết, hiện tại hay tương lai”. Thánh Phao-lô thường ca ngợi sự hiểu biết cao cả này của người Ki-tô hữu: người Ki-tô hữu không phải cậy dựa vào con người nhưng phải đặt trọng tâm cuộc đời mình vào Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Mt 5: 38-48)
Bản văn Mát-thêu này tiếp nối bản văn Chúa Nhật trước. Đức Giê-su tiếp tục đối chiếu giữa những huấn lệnh Mô-sê và luật yêu thương mà Ngài thiết lập. Hai ví dụ mới được đưa ra để đối chiếu: luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” và luật “Yêu thương đồng loại của mình”.
- Luật “mắt đền mắt, răng đền răng”
Chúa Giê-su trích dẫn luật Cựu Ước: “Anh em đã nghe Luật dạy: ‘Mắt đền mắt, răng đền răng’”, được phát biểu trong sách Xuất Hành (21: 24) và được lập lại trong sách Lê-vi (24: 19-20). Vào thời Đức Ki-tô, luật này chỉ được áp dụng vào những trường hợp sát nhân: “mạng đền mạng”.
Vào thời đó, luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” này đã giới hạn bạo lực. Chúng ta thử đọc lại bài ca thù hận ngút ngàn được trích trong sách Sáng Thế:
“Vì một vết thương, ta đã giết một người,
vì một chút xây sát, ta đã giết một đứa trẻ.
Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4: 23-24).
Luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” đưa ra những giới hạn chặt chẻ giữa sự xúc phạm và sự trả thù. Luật này chỉ có thể áp dụng vào những tấn công về phương diện thể lý; nhưng trong việc thực hành, luật này thường tỏ ra khó áp dụng. Vì thế, những đền bù thiệt hại bằng tiền bạc dần dần được thay thế, ngoại trừ trường hợp sát nhân.
Khi trích dẫn luật xưa, Đức Giê-su muốn nói rằng không còn “ăn miếng trả miếng” nữa. Dù biết rằng ước muốn trả thù vẫn sống động trong tâm trí con người, Đức Giê-su đòi hỏi người ta không được buông theo ước muốn này, đừng tìm cách trả thù. Thái độ từ chối trả thù trực tiếp này đã được các hiền nhân Cựu Ước phác họa rồi. Hiền nhân Si-rác khuyên:
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly.
…..
Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (Hc 28: 1-7).
Sách Châm Ngôn khuyên:
“Bạn đừng nói: ‘Tôi sẽ báo thù!’
Hãy cậy trông Đức Chúa, Người sẽ cứu bạn” (Cn 20: 22).
Đức Giê-su còn đi xa hơn các hiền nhân này, khi dạy rằng “lấy thiện báo ác”, “lấy tình yêu đáp lại hận thù”. Ngài dùng những kiểu nói rất bắt mắt và mâu thuẫn để nhấn mạnh: “Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để cướp lấy áo trong, thì hãy cho nó lấy cả áo ngoài”. Áo trong và áo ngoài là y phục chính yếu miền Cận Đông. Áo ngoài còn cần thiết hơn áo trong: đây là chăn mền mà người nghèo dùng để đắp trong đêm, vì thế luật cấm giữ lại áo ngoài qua đêm. Ở đây, Đức Giê-su đòi hỏi một hành vi đặc biệt có ý nghĩa.
Động từ được dùng trong câu: “Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm”, mang nét nghĩa đầu tiên là “trưng dụng phương tiện chuyên chở”, tiếp đó được mở rộng đến mọi công việc phục dịch. Xem ra chính nghĩa này phải giữ lại, bởi vì cốt là dặm đường phải đi. Người có quyền “trưng dụng” chắc hẳn là một binh lính hay quan chức Rô-ma. Quả thật, động từ này lại xuất hiện trong Tin Mừng Mát-thêu khi những người lính Rô-ma “trưng dụng” ông Simon thành Si-rê-nê vác đỡ thập giá với Đức Giê-su.
Luật truyền thống muốn rằng của bố thí và việc cho vay không lãi chỉ được dành cho những thành viên của đại gia đình Ít-ra-en, chứ không người ngoại kiều. Hơn nữa, năm sa-bát – cứ bảy năm một lần – bao gồm việc tha nợ nần. Những quy luật được thông qua ở bên trong cộng đồng. Khi công bố rằng “Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi”, Đức Giê-su muốn rằng những cử chỉ này phải ban cho hết mọi người, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo. Luật bác ái mà Đức Giê-su dạy không có giới hạn.
- Yêu thương kẻ thù
Lệnh truyền “Hãy yêu đồng loại” được gặp thấy trong sách Lê-vi, nhưng lệnh truyền “Hãy ghét kẻ thù” không được gặp thấy ở đâu trong sách Luật cả. Động từ “ghét” này chỉ cốt làm tương phản động từ “yêu thương”, theo một cặp đối lập rất đặc thù của ngôn ngữ sê-mít. Sự đối lập này được gặp thấy trong Luật Cộng Đồng Qumran: “Ngươi phải yêu thương con cái Ánh Sáng, nhưng ghét con cái Bóng Tối”. Dù sao đi nữa, cặp động từ đối lập này trình bày một tâm thức nào đó. Chúng ta đọc thấy trong sách Huấn Ca:
“Hãy cho người đạo hạnh, nhưng đừng giúp kẻ tội lỗi.
Hãy xử tốt với người khiêm tốn,
và đừng ủng hộ quân vô đạo,
hãy khước từ, đừng cung cấp bánh ăn cho nó…
Đừng bao giờ tin vào thù địch;
vì đồng tiền ten sét thế nào,
thì sự độc ác của nó cũng vậy” (Hc 12: 4-5, 10).
Quả thật, người Do thái ghét cay ghét đắng người Sa-ma-ri, khinh miệt người thu thuế, anh em đồng bào mặt dày mày dạn của mình cộng tác với quân chiếm đóng. Người Do thái chẳng bao giờ có những mối quan hệ bạn hữu với người ngoại giáo. Sách Lê-vi dạy yêu thương đồng loại của mình, nhưng quan niệm đồng loại bị hạn chế chỉ đóng khung vào đồng bào của mình. Đức Giê-su mở rộng cho đến hết mọi người. Luật đức ái phải lật đổ những phân biệt đối xử như thế. Khuôn mẫu của tình yêu này là mẫu gương của Cha trên trời, Đấng ban cho hết mọi người, kẻ xấu cũng như người tốt, ơn mưa mốc chan hòa.
Vào thời thánh Mát-thêu ghi lại những lời này: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, chúng có một âm vang bi thảm. Đây là thời kỳ Hội Đường bách hại Giáo Hội tiên khởi không chút xót thương. Những Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh Mát-thêu ngỏ lời, phải chịu những phiền nhiễu thậm tệ về phía những đồng đạo trước đây của mình.
Nhưng những môn đệ Đức Ki-tô phải mở rộng lòng mình, không so đo tính toán hơn thiệt. Đức Giê-su đòi hỏi họ đức tính anh hùng này và kêu gọi họ hãy nên hoàn thiện, thuật ngữ này nhắc nhớ “Luật Thánh Thiện” của sách Lê-vi, trong đó Đức Chúa phán: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”; còn ở đây, Đức Giê-su truyền: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, là Đấng hoàn thiện”.
.YÊU THƯƠNG THA NHÂN KHÔNG GIỚI HẠN
Vân Mây
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương hết mọi người: kẻ thù của mình, kẻ ghét mình, kẻ ngược đãi và vu khống mình… để chúng ta được nên trọn lành giống như Chúa Cha trên trời, “là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương.”(Mt 5,45)
Từ thuở xưa, luật Môse đã dạy rằng: “Nếu hai người đàn ông đánh nhau mà có gây tổn thương… , thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm” (Xh 21,22-25). Thể hiện sự công bình giữa tương quan của con người với nhau, như vậy được coi là hợp lí. Tuy nhiên Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay lại kêu gọi môn đệ nên hoàn thiện bằng thái độ nhẫn nhịn chịu đựng và lấy tình thương xóa bỏ hận thù như sau: “Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa… Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài… Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm… Ai xin thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn thì anh đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5, 39-42).
Theo lời dạy này, với suy nghĩ của thế gian thì đó là điều rất vô lí. Tại sao chúng tôi phải chịu như thế? Nếu làm như thế không phải là khuyến khích kẻ gian ác lộng hành: “Chúng được đằng chân, sẽ lên đằng đầu”. Nhưng những người khôn ngoan lại công nhận đây là lối hành xử tối ưu để giải quyết tận gốc các xung đột xã hội và mang lại hòa bình lâu dài. Khi dạy các điều trên, chắc chắn Đức Giêsu không muốn duy trì tình trạng những người thân yếu thế cô phải cam chịu sự đàn áp của những kẻ tàn bạo gian ác. Nhưng nếu chủ trương lấy ác báo ác, thì con người sẽ lâm vào vòng xoáy bạo lực.
Có câu chuyện kể rằng:
Có hai người đàn ông thổ dân nước Nam Phi rất thù hằn ganh ghét nhau. Ngày kia một trong hai người gặp thấy đứa con gái nhỏ của kẻ thù đang dạo chơi trong rừng, liền bắt cô bé chặt đứt ngón tay út rồi thả ra. Cô bé bị đau la khóc dùng tay còn lại ôm chặt bàn tay bị chặt đứt ngón út chạy mau về nhà chữa trị, đang khi tên hung thủ la to rằng: “Ta đã trả thù được rồi!”.
Mười năm sau, cô bé bị chặt ngón đã lấy được một người chồng công giáo giàu có trong vùng. Ngày kia, một kẻ ăn xin tới xin ăn, bà chủ nhà nhận ngay ra kẻ trước đây đã chặt ngón tay của mình. Bà vào trong nhà, sai gia nhân đem cơm thịt ra đãi người ăn xin. Khi kẻ thù đã ăn no, bà mới giơ bàn tay có ngón út bị cụt ra và nói: “Hôm nay tôi đã trả thù được rồi!”.
Tên ăn mày lập tức nhận ra người đàn bà đối xử tốt với mình không ai khác hơn là cô bé năm xưa đã từng bị hắn chặt đứt ngón tay để trả thù, nên hắn rất hối hận và đã quỳ gối cám ơn bà không những không chấp nhất tội hắn mà còn đối xử nhân hậu là cho hắn một bữa ăn ngon.
Vậy đó, nếu cứ mãi thù hằn nhau thì chiến tranh không bao giờ kết thúc mà còn gây tổn thương cho cả hai. Đức Giêsu muốn các môn đệ lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu đáp trả hận thù để hóa giải và biến thù thành bạn.
Thiên Chúa không những chỉ dạy chúng ta là không nên lấy oán báo oán mà còn dạy chúng ta “hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”(Mt 5,44) người muốn chúng ta vượt lên những gì là giới hạn, mà hãy noi gương Chúa Cha là mẫu gương thiện hảo nhất.
Không chỉ dùng lời nói chỉ dạy chúng ta mà Chúa Giêsu đã dùng chính đời sống của Ngài để noi gương cho chúng ta. Ngay chính lúc bị hành hạ, bị đánh đập và cuối cùng là đóng đinh trên thập giá mà Người vẫn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Thay vì nuôi lòng thù hận, chúng ta hãy cầu xin Chúa thay đổi lòng trí kẻ thù ghét ta. Hãy tìm dịp thuận tiện để khen ngợi nói tốt cho họ. Khi nghe ai chỉ trích nói xấu họ, thay vì “đổ dầu vào lửa”, chúng ta hãy làm trạng sư để bào chữa lỗi lầm cho họ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu thương và lòng từ bi nhân hậu của Chúa, bằng thái độ bao dung cảm thông, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã nói lời xúc phạm đến chúng con, hầu chúng con nên “con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Chúa Cha” noi gương Chúa khi xưa.
.
KHI TÌNH YÊU TRỞ THÀNH ÁNH SÁNG
Lm. Trương Đình Hiền
Văn chương tiểu thuyết kiếp hiệp của Tàu, có thể nói được, hầu hết xoay quanh chủ đề “oán thù”, ân oán thù hận. Oán thù giữa môn phái nầy với môn phái khác, giữa dòng tộc nầy với dòng tộc khác, giữa dân miền nầy với dân miền khác, giữa cá nhân nầy với cá nhân khác…đan xen, vướng vít, tồn tại miên viễn qua các loại thù: “tình ái thù” (Đinh Điển- Lăng Sương Hoa trong Liên Thành quyết), “phụ mẫu thù” (Quách Tĩnh-Dương Khang trong Anh hùng Xạ điêu), “sĩ diện thù” (Chu chỉ Nhược trong Cô gái Đồ Long), “quyền lực thù” (Nhạc Bất Quần-Đông phương Bất bại trong Tiếu ngạo giang hồ), “phu thê thù” (Tiêu Viễn Sơn trong Thiên Long bát bộ hay còn có tên khác là Lục Mạch thần kiếm)…
Dưới ngòi bút đầy tính nhân văn của cố đại văn hào Kim Dung, oán thù chỉ được hoá giải qua những mối tình si của các “cặp đôi” mà mỗi người thuộc một phe đối nghịch thâm thù. Vâng, chính nhờ những mối tình bất chấp mọi trái ngang, vượt qua mọi thù oán của họ mà cái gút của hận thù oan khúc mới được hoá giải: Hoàng Dung và Quách Tỉnh, Nhậm Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung, Triệu Mẫn (Minh) và Trương Vô Kỵ…; và có lẽ một dấu chỉ, một hình tượng bi tráng và ấn tượng nhất để thuyết minh cho luận đề “tình yêu hoá giải hận thù” đó chính là cô hiệp nữ hiền diệu A Châu sẵn sàng dùng thân mình đón nhận phát chưởng ngộ nhận của người yêu Tiêu Phong (Kiều Phong), lấy cái chết để hoá giải mối thâm thù dòng tộc; và sau đó, tại Nhạn Môn quan, chính Tiêu Phong bẻ tên đâm ngực tự vẫn để Liêu quốc và Trung Nguyên dừng cơn huyết hận… (Thiên Long bát bộ).
Ý nghĩa và hình tượng của những mối tình ở “đôi bờ thù oán” trên nơi tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung phương Đông, chúng ta lại gặp thấy một cặp đôi đầy ấn tượng dưới ngòi bút của văn hào người Anh Shakespeare qua tác phẩm bi hùng kịch lừng danh Romeo-Juliette. Vâng, chỉ sau cái chết đầy oan nghiệt của đôi bạn trẻ yêu nhau nầy mà hai dòng họ không đội trời chung Montague và Capulet cùng sắp hàng theo sau hai chiếc áo quan để cùng tiến vào Thánh đường hiệp dâng Thánh lễ…
Nhưng chuyện hận thù, oan khúc đâu phải chỉ là chuyện của ngày xưa hay trong tiểu thuyết, mà là chuyện xảy ra hằng ngày như cơm bữa trong xã hội chúng ta hôm nay: Vợ giết chồng, người yêu đâm chết người yêu, cha giết con, cháu hại ông bà, bạn bè thanh toán lẫn nhau…Trên bình diện quốc gia và quốc tế cũng chẳng khá hơn gì: hận thù tôn giáo, sắc tộc, tranh chấp đất đai, quyền lợi kinh tế…đã làm dấy lên ngọn lửa oán thù, bạo lực chiến tranh liên miên hết nơi nầy đế nơi khác, thời nầy đến thời nọ. Cái chết oan khúc của cụ Lê Đình Kình mới đây trong “biến nạn Đồng Tâm” là một thí dụ điển hình !
Quả đúng như Cicéron diễn giả Lamã đã từng nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Và rồi thù oán mang theo oán thù. Oan oan tương báo. Cái vòng lẫn quẫn “oán thù” sẽ trói buộc con người trong nổi bất an và bất hạnh triền miên. Đức Khổng Tử cũng đã từng cảnh báo các đồ đệ phải tránh xa việc trả thù khi ngài phát biểu một ẩn dụ thâm thúy: “Trước khi lên đường báo thù, hãy đào hai cái huyệt”.
Hôm nay, Lời Chúa đề nghị cho chúng ta một con đường, một phương thế để thiết lập mối tương quan hoà bình huynh đệ giữa con người, để loại bỏ oán thù và thiết lập một nền văn minh tình yêu và sự sống trên mặt đất: Đó chính là con đường tìm về sự thánh thiện của Thiên Chúa “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Sách Lêvi trong BĐ 1), “hãy nên trọn lành như Chúa Cha trên trời là Đấng trọn lành” (Bài Tin Mừng); và sự trọn lành hay “hoàn thiện” mà Thiên Chúa gọi mời con người chiêm ngưỡng và bắt chước Ngài lại chính là TÌNH YÊU, là lòng nhân từ. Bởi, như Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8); và việc “hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48) cũng đồng nghĩa với việc “hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36).
Vâng, tình yêu thương chính là con đường tìm lại căn tính đích thực của chính mình “đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em” (Thư 1 Côrintô trong BĐ 2) và cũng là con đường “cách mạng nội tâm” để xây dựng lại mối tương quan mới trong cung cách ứng xử của cái tôi thường tình “oan đền oán trả”: “hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Bài Tin Mừng). Chính Đức Kitô, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng bằng chính hành động: đón nhận cái chết vì tình yêu và sẵn sàng tha thứ và cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Quả thật, chỉ với con đường “mới mẻ của Tin Mừng” nầy mới mong đẩy lùi nền “văn hoá oán thù”, nền “văn minh sự chết”, như cách định nghĩ của Michel Quoist: “Hành động duy nhất có thể làm đứt đoạn dây chuyền bạo lực, đó là tha thứ và yêu thương. Ai dám đưa cả má trái mình ra, đó là người mạnh nhất.”
Giữa một thế giới, một xã hội, một đất nước mà bạo lực, oán thù, ghen ghét đã trở thành một “phản ứng đương nhiên và thường xuyên” của con người, thì thật là thích hợp khi sứ điệp lời Chúa hôm nay vang lên lời mời gọi: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, “Hãy nên trọn lành như Chúa Cha là Đấng trọn lành”. Và như thế, lời cầu nguyện dành cho nhau và cho cả thế giới không bao giờ lỗi thời lại chính là lời Kinh Hoà Bình của Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa Từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục….”.
Và thực ra, đã có những người con của Chúa thực thi huấn lệnh nầy để gieo mầm yêu thương, khoan dung, tha thứ, cho dù phải chấp nhận cái giá là hy sinh chính mạng sống mình, như linh mục Maximilien Kolbe chết thay người bạn trong trại tù của Quốc xã Đức vào thời đệ nhị thế chiến, hay như mục sư Martin Luther King Jr. chết để hoá giải cho cuộc kỳ thị lẫn nhau, phân biệt chủng tộc giữa những người da trắng và da màu. Cùng với cái chết như một lời chứng của hoà hợp, yêu thương, chính vị mục sư nầy đã chú giải thêm sứ điệp Tin Mừng hôm nay bằng những lời cũng thật thâm thuý: “Bóng tối không thể xua tan bóng tối, chỉ ánh sáng mới làm được. Hận thù không thể xua đuổi hận thù, chỉ tình yêu mới làm được” (Darkness cannot drive out darkness, only light can do that. Hate cannot drive out hate, only love can do that).
Và có lẽ chúng ta đều đồng ý với “quy luật vật lý” cơ bản nầy của Nicola Tesla: “Nếu hận thù ghen ghét biến thành điện, thì cả thế giới sẽ được thắp sáng” (If your hate could be turned into electricity, it would light up the whole world). Hận thù chắc chắn sẽ không bao giờ trở thành “điện”; nhưng chắc một điều: tình yêu sẽ trở thành ánh sáng. Hãy yêu thương để biến ước mơ và cũng là mệnh lệnh của chính Đức Kitô trở thành hiện thực: “Các con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14).
.
THA THỨ VÌ BẢN THÂN CẦN ĐƯỢC THA THỨ
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
Trịnh Công Sơn từng viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi… để gió cuốn đi…”. Gửi tấm lòng vào gió, vị tha với cuộc đời, bạn sẽ thấy cuộc sống đẹp vô cùng, đáng yêu vô cùng.
Ta thường nghĩ, tha thứ là món quà đối với người được tha thứ. Nhưng không. Tha thứ cho bất kỳ ai lại là món quà tự tặng chính bản thân.
Tha thứ luôn là cách giúp ta thể hiện sự trân quý đối với chính cuộc sống của mình. Nó còn giúp tránh muộn phiền và cảm nhận yêu thương.
Dù đã đi qua nhiều năm và Ngoại tôi đã ra người thiên cổ, tôi vẫn chưa bao giờ quên lời Ngoại dạy. Đó là cái thuở còn sinh viên, mỗi khi bực bội ai đó, tôi lại kể cho Ngoại nghe. Lúc nào nghe xong, Ngoại cũng nhẹ nhàng bảo: “Bỏ qua được thì bỏ qua đi con. Nghĩ hoài chỉ tội mệt óc”.
Dù biết Ngoại nói đúng, tôi vẫn chống chế: “Đời này không ai thực lòng bỏ qua cho nhau đâu Ngoại à. Ngoài mặt thì tha thứ, nhưng trong bụng lại ghim gút đợi ngày trả lại cả vốn lẫn lời đó Ngoại. Ai đâu lại hiền như Ngoại!”
Ngoại lại mắng: “Nói như mày chắc ở trên đời thiên hạ đều là kẻ thù của nhau?”…
Càng lớn lên, càng hiểu biết, càng thấm thía cuộc đời, tôi lại càng khắc ghi những lời Ngoại dạy. Bởi tôi biết, chỉ có tha thứ, tâm hồn mới thông thoáng, tầm nhìn phía trước mới không vướng víu bất cứ chướng ngại nào.
Tôi biết, những gì Ngoại dạy là chính sự hấp thu của một đời Kitô hữu mà Ngoại đã trải qua. Ngoại học nơi Chúa Kitô và lắng nghe lời Chúa dạy. Bởi chính Chúa đã chấp nhận làm người, sống, chết cho một tình yêu tha thứ đến vô cùng, đến không gì có thể sánh ví. Chúa tha thứ, để mọi con người nhờ ơn tha thứ của Chúa mà đạt đến sự trường tồn muôn đời trong Nước Chúa.
Và hôm nay, lời Chúa dạy hết sức rõ ràng để mọi người khắc ghi và sống: “Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những kẻ yêu thương các con, thì còn có công gì? Nào những người thu thuế không làm như vậy ư? Và nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con mà thôi, thì các con có làm gì hơn? Nào dân ngoại không làm như vậy sao? Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”.
Chuyện kể rằng, có hai người đi trên sa mạc. Một lần, trong cuộc tranh cãi, một trong hai không giữ nổi bình tĩnh, tát vào mặt bạn mình. Người kia lặng lẽ ghi xuống cát: “Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã tát tôi”.
Rồi cả hai cùng đi. Đến một đầm có nhiều nước, họ quyết định dừng chân. Người bạn vừa bị tát trượt chân ngã xuống bùn. Anh ta càng lúc càng lún sâu xuống. Rất may, người bạn còn lại kịp thời cứu. Ngay sau khi được cứu, anh khắc lên đá dòng chữ: “Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi”.
Và anh giải thích: “Khi ai đó làm chúng ta đau, chúng ta nên viết điều đó lên cát, nơi những cơn gió của sự thứ tha sẽ xóa tan những nỗi trách hờn. Nhưng khi chúng ta nhận được điều tốt từ người khác, chúng ta phải ghi khắc chuyện ấy lên đá nơi không cơn gió nào có thể cuốn bay đi.”
Hãy tha thứ cho những hành động lỗi phạm. Hãy buông bỏ những tư tưởng chấp nhất, hận thù, trả đũa. Chỉ có như thế lòng mới nhẹ, cuộc sống mới bình an, và từng ngày trôi qua sẽ đẹp, sẽ đáng sống.
Trong cuộc sống, lúc này lúc khác, ta sẽ khó tránh khỏi những tổn thương, thậm chí tổn thương tới mức sâu sắc.
Nếu bị tổn thương, ta đau khổ. Chính vì đau khổ, ta tưởng chừng khó có thể bỏ qua, khó có thể chôn vùi lỗi phạm của người khác trong quên lãng. Nhưng rồi mọi sự sẽ qua đi. Thời gian là liều thuốc cứu vãn tất cả.
Đàng khác, bao nhiêu lần ta đã gây tổn thương người bên cạnh. Ta buộc mình phải quên những tổn thương người khác gây ra, nhưng không được quên tổn thương mình gây cho người khác. Phải như thế, ta mới có thể nung đốt trong lòng mình một tình yêu tha thứ.
Hơn nữa, ơn Chúa ban, lời Chúa dạy, tấm gương tha thứ của Chúa, tuổi đời ngày càng cao cộng với những suy tư ngày càng chín chắn hơn của bản thân, đồng thời sức mạnh của những giờ phút cầu nguyện, những giờ phút lặng quỳ bên Thánh Thể Chúa, sẽ cho ta một kinh nghiệm diệu kỳ. Đó là xem thường những lỗi phạm của người khác, không còn muốn nghĩ đến chúng, không còn muốn mang chúng theo bên đời của mình.
Lúc bấy giờ sự tha thứ sẽ ùa về như một ân ban mà bản thân không kềm chế nổi.
Tha thứ như một tất yếu phải đến sau những đổ vỡ cần chữa lành.
Tha thứ bởi quá nhiều lần, bản thân cũng cần được tha thứ, không chỉ từ Thiên Chúa mà còn từ đồng loại xung quanh…
.
Lm Nguyễn Xuân Trường
Người Việt Nam có câu: “Lành với Bụt chứ không ai lành với ma.” Nghĩa là, người tốt với ta thì ta cũng tốt với họ, còn nếu là kẻ làm hại ta thì ta cũng phải cho nó biết tay! Nhưng Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài bảo phải yêu cả kẻ thù.
Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy: Lấy oán báo oán thì oán thù chồng chất. Lịch sử Việt Nam đã trải qua những kinh nghiệm cay đắng cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt chỉ vì người ta coi nhau là kẻ thù, muốn giết kẻ thù. Và rồi, người ta nghiệm ra rằng: Như ánh sáng mới xóa tan được bóng tối, chỉ có tình thương mới xóa tan được hận thù. Biết vậy nhưng tự sức con người dường như không thể làm nổi. Nhân loại cần một sức mạnh lớn hơn đến từ bên trên là Thiên Chúa như là động lực và mục đích của việc yêu kẻ thù.
1. Tình Chúa thứ tha. Thiên Chúa yêu thương tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta như lời Đáp ca diễn tả: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Chúa tha thứ mọi điều ta sai lỗi. Tội ta phạm, Chúa ném thật xa.” Cảm nhận được tình Chúa thứ tha đó là động lực sâu nhất để ta có thể tha thứ cho kẻ thù.
2. Trở nên giống Chúa. Yêu kẻ thù không chỉ làm cho đời sống chúng ta được vui vẻ, tâm hồn được thanh thản, tình thân được hàn gắn, mà hơn thế nữa, nó giúp chúng ta đạt được mục đích cao cả nhất của đời người là trở nên giống Chúa là Đấng hoàn thiện ở trên trời.
Chúa Giêsu dạy chúng ta thực hành yêu kẻ thù bắt đầu bằng việc cầu nguyện cho người làm hại mình. Cầu nguyện cho người yêu mình thì ai chả làm được, cầu nguyện cho người ghét mình thì cần phải có trái tim giống Chúa mới làm nổi. Ngay giữa giây phút đau thương tột cùng vì bị kẻ thù đóng đinh vào thánh giá, Chúa Giêsu đã cầu xin tha thứ cho kẻ thù: “Lạy Cha xin tha tội cho họ.”
Khi yêu cả kẻ thù là chúng ta đang sống một tình yêu không còn nghĩ đến mình nữa, mà chỉ còn nghĩ đến hạnh phúc của người khác mà thôi. Amen.
.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Phụng vụ Lời Chúa của tuần này giới thiệu với chúng ta chủ đề để suy tư và áp dụng vào đời sống cụ thể hằng ngày đó là “hoàn thiện trong tình yêu đối với tha nhân.”
1- Vượt trên luật “mắt đền mắt”
Bản văn mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc I trích từ sách Lêvi, là một trong năm cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước. Trong đó, Thiên Chúa phán với Ítraen, dân riêng rằng: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19,2). Như thế, dân Chúa phải sống thánh thiện bởi vị họ thuộc về Thiên Chúa và bởi vì Thiên Chúa là Đấng Thánh và sự thánh thiện này được diễn tả trong tình yêu nhưng không, một tình yêu không có sự căm thù đối với anh chị em dẫu chúng ta phải sửa lỗi, hoặc thẳng thắn góp ý cho những người anh chị em khi họ sai lỗi. Nó phải được thực hiện với lòng yêu mến, chứ không phải với một sự nóng nảy, tức tối, và càng không có chỗ cho những sự thù oán, hận thù trong trái tim chúng ta. Tuy nhiên, như chúng ta thấy, anh chị em được nói tới trong sách Lêvi thì khá giới hạn. Theo họ, những anh chị em của mình chỉ là những thành viên của Ítraen, chỉ những ai thuộc về dân thánh mà thôi.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô nói với các tín hữu ở Côrintô rằng Giáo Hội là thánh thiện, bởi vì, Chúa Thánh Thần cư ngụ ở trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần của Thiên Chúa là tình yêu và sự sống, làm cho cộng đoàn trở nên thánh thiện, chứ không phải nhờ vào công trạng, cũng không phải nhờ vào cố gắng luân lý của chúng ta, vì chúng ta là những tội nhân. Sự thánh thiện chính là sự cư ngụ của Chúa Thánh Thần, chính Người ở trong Giáo Hội và làm cho Giáo Hội nên thánh thiện. Tuy nhiên, để nên thánh thiện, chúng ta có trách nhiệm đối với chính mình và với Giáo Hội nếu chúng ta muốn sống sự thánh thiện của Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng ta phải sẵn sàng để trở nên giống những người “điên rồ” trong thế giới hôm nay vì sự khôn ngoan của Thánh Thần rất khác biệt với sự khôn ngoan của thế gian. Tình yêu của thế gian này thì rất khác biệt với tình yêu mà Chúa Thánh Thần ban tặng và ảnh hưởng trên chúng ta.
2- Yêu thương không oán thù
Điều này được minh chứng trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” Đây là sự thay đổi của bài đọc thứ nhất: “Anh em hãy nên thánh vì Ta là Đấng thánh.” Sự hoàn thiện của Thiên Chúa ở trong sự thánh thiện. Và sự hoàn thiện của những môn đệ Chúa Kitô cũng ở trong sự thánh thiện. Nhưng một câu hỏi lại xuất hiện với chúng ta ở đây: Sự thánh thiện là gì? Chúng ta nghe âm hưởng từ bài đọc I, nhưng ở đây phạm vi và ý nghĩa được Chúa Giêsu mở rộng một cách tuyệt vời. Trong phần thứ nhất, Chúa Giêsu nói về châm ngôn, hay luật Cựu Ước: “Mắt đền mắt, răng đền răng.” Luật này được chấp nhận vào thời đại đó. Bạn móc mắt tôi, tôi sẽ móc mắt bạn ra; bạn bẻ răng tôi, tôi sẽ bẻ răng bạn. Luật công lý này dựa trên sự công bằng, và nó có những giới hạn, nó mang tính trả thù, anh móc mắt tôi nên tôi sẽ móc mắt lại anh. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu nói: Không, không được làm thế, vì đây không phải là cách hành xử của những người quảng đại và cao thượng đối với những ai đã làm bạn tổn thương và Chúa Giêsu muốn đi xa hơn, là không oán thù, bạo lực giống như người đã xúc phạm đến bạn. Không có dùng bạo lực, trả thù đối với bất cứ ai để trả lời cho những ai đã làm cho bạn bị tổn thương. Thay vào đó, thay vì bạo lực, chúng ta hãy trở nên nhân từ, quảng đại, hào hiệp đối với họ: “Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,39-42). Đây là luật mới của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ của Người.
3- Yêu thương cả kẻ thù
Con người sẽ cho rằng đây là sự điên rồ, như được nói trong bài đọc II, nhưng đây là sự hoàn thiện của sự thánh thiện mà Thiên Chúa muốn các môn đệ Chúa Kitô phải sống. Nếu chúng ta bị xúc phạm, bị tổn thương, chúng ta không báo đáp lại bằng việc làm cho người khác bị xúc phạm và tổn thương một cách tương tự. Không có chỗ trong trái tim của người môn đệ Chúa để chứa đựng bạo lực, oán thù và giận hờn, chỉ có tình yêu làm cho bạn và tôi quảng đại đối với tha nhân.
Phần thứ hai của Tin Mừng làm rõ vấn đề này hơn và xem ra càng ngớ ngẩn hơn đối với thế gian và những lề luật liên quan đến những tội phạm. Bài đọc I, như chúng ta thấy, những nạn nhân được mời gọi hãy yêu thương anh chị em mình và có thể ghét kẻ thù. Các anh chị em là những thành viên của dân thánh. Ở đây, Chúa Giêsu không nói như thế: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Kẻ thù ở đây không chỉ là những người không thích chúng ta, nhưng là những người đang bách hại chúng ta, những kẻ đang tìm cách chống đối và hủy diệt chúng ta. Chúa muốn chúng ta đối xử với họ bằng tình yêu mà xem ra nó rất là ngớ ngẩn đối với thế gian, bởi vì đó không phải là cách thế của tình yêu của thế gian, nhưng là cách thế của tình yêu Chúa Cha trên trời. Nếu chúng ta đối xử với kẻ thù bằng bạo lực và thù oán, như người khác chờ đợi, Chúa Giêsu nói rằng đây là cách thế của những người đời, đó là cách thế của người tội lỗi, như thế, chúng ta không có sự khác biệt gì so với những người đó. Nhưng nếu chúng ta là con cái Thiên Chúa, thì đây là cách thế chúng ta phải sống nếu chúng ta yêu thương cách thế mà Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa yêu hết mọi người, người tốt cũng như người xấu. Người cho mặt trời chiếu xuống trên cả hai. Như thế, nếu tình yêu của chúng ta hướng đến mọi người. Nếu người này là kẻ thù của bạn nhưng bạn nhìn họ như là anh chị em mình, bạn yêu họ. Nếu những người này làm bạn bị thương tổn, bạn đừng nhìn như là người đã làm tổn thương bạn, nhưng hãy nhìn họ như là người cần đến tình yêu của bạn. Bạn sẽ nói rằng điều đó quá vô lý và ngớ ngẩn, đúng thế, nhưng đây là cách thế mà những con cái Thiên Chúa hành xử theo Chúa Cha trên trời đã thực hiện với loài người.
Chúng ta có một mẫu gương về lòng nhân từ đối với kẻ thù, đó là Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, ngài bị bắt bớ, tù đày trong nhiều năm dưới chế độ Cộng Sản. Trong nhà tù, ngài sống yêu thương những người cai tù, nên có một số người đã trở lại. Sau này, khi giữ những chức vụ quan trọng ở giáo triều Rôma, nhiều người mong muốn ngài phải tỏ ra chống đối và lên án chế độ, nhưng thay vào đó, ngài nói về hòa bình, về hòa giải và tha thứ, nhất là bày tỏ lòng yêu thương đối với những con người đã gây đau khổ cho ngài. Đó là cách hành xử, là luật mới mà Chúa Giêsu hôm nay muốn chúng ta sống và áp dụng để trở nên những môn đệ đích thực của Chúa Kitô bằng việc sống một tình yêu vô vị lợi đối với tha nhân. Amen!
.
Lm. Giuse Nguyễn
Có nhiều con đường để nên thánh. Ví dụ trong việc bác ái như Mẹ Têrêxa Calcutta, hay việc giáo dục như cha Gioan Boscô, hoặc một đời sống phi thường như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II… Nhưng trong tất cả những con đường đó, không thể thiếu vắng tình yêu. Vì vậy Kitô hữu sống là để yêu, và yêu để nên thánh như lời mời gọi của Thiên Chúa : ““Các ngươi phải thánh thiện vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19, 2).
Tình yêu để thánh thiện là tình yêu như Đức Giêsu dành trọn vẹn cho người mình yêu. Con tim thao thức bồi hồi cũng chỉ vì đối tượng được yêu. Cả cuộc đời, dù bị phản bội, dù lắm chua cay, dù ê chề nhục nhã vẫn không ngừng yêu nên “yêu xả láng”, “yêu hết ga”, “yêu đến cùng”.
Có một vở kịch viết về một linh mục sống già đơn sơ, nghèo khổ, tiết kiệm không dám mua sắm thứ gì cho bản thân, khiến nhiều người cho là cha keo kiệt, bủn xỉn… Đến khi cha qua đời trong một nhà xứ sập xệ, nhà thờ đến lúc phải xây dựng lại, giáo dân nghĩ là ông cha này chẳng làm gì được cho giáo xứ, sống chẳng có gì là niềm vui, sống uổng phí?! Nhưng họ không ngờ trong di chúc của cha có một số tiền khủng với những dòng tâm sự: “Cả cuộc đời của tôi xin dành cho Giáo hội, tôi hy sinh tất cả cho Giáo xứ này. Xin dùng số tiền mà tôi dành dụm suốt cả đời để xây nhà xứ và nhà thờ mới khang trang hơn cho anh chị em. Xin cầu nguyện cho tôi để tôi có được niềm vui trên thiên đàng.”
Sống là để yêu. Yêu là cho đến cùng. Cho đến cuối cùng mới biết được ta đã sống, đã yêu như thế nào.
Tình yêu đó không phân biệt đối tượng: tội lỗi – thánh thiện, cao sang – thấp hèn, dễ thương – khó chịu… Đức Giêsu đã nói với các môn đệ của mình : « Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ?». Đức Giêsu đã yêu mọi người : các môn đệ, những người thân cận, lương dân, những kẻ thù ghét muốn hãm hại Ngài, người tội lỗi, người tốt lành,… Trong Chúa không ai bị loại trừ. Yêu hết, yêu tất cả.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là tấm gương của việc yêu thương cả những kẻ bách hại mình. Tình yêu ấy hóa giải hận thù để biến cả những người cai ngục cũng trở thành bạn, có thiện cảm đặc biệt với ngài. Ngài đã học theo gương của Đức Giêsu trên thập giá : « Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm»
Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi nên thánh vì chúng ta có Thiên Chúa là Đấng Thánh. Sự thánh thiện xuất phát bởi tình yêu chân thành. Tình yêu đó được phụng vụ Lời Chúa hôm nay triển khai, mở rộng bằng việc yêu trọn vẹn, yêu tất cả. Hay nói cách khác là yêu thả ga, yêu tất cả.
Thánh Augustinô đã nói : « Yêu đi rồi làm ». Có tình yêu sẽ có tất cả. Vì vậy chúng ta xin Chúa cho mình « Hãy làm mọi sự vì Đức Ái ».
Hơn bao giờ hết, nhân loại đang cần tình yêu để cùng nhau vượt qua cơn gian nan thử thách là đại dịch Covid-19. Có những người đã mạnh dạn dấn thân vào vùng dịch để chăm sóc sức khỏe, để an ủi bệnh nhân, để cùng sống với những bệnh nhân của Covid-19. Nhiều người đã san sẻ những gì cần thiết cho những người và những nơi đang gặp nguy hiểm… Rất nhiều những lời kinh nguyện, những việc hy sinh bác ái, những việc lành phúc đức được thực hiện trong lúc khó khăn này.
Chính lúc này đây con người thấy được điều cần thiết nhất trong cuộc sống là tình yêu chân thành. Vì vậy hãy chân thành để sống cho tình yêu, một tình yêu với Thiên Chúa là Đấng Thánh, một tình yêu với mọi người là anh chị em.
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria và các thánh cho nhân loại chúng con dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng hãy thể hiện tình yêu thương với mọi người.
.
Lm. Antôn
Bài đọc một hôm nay trích sách Lê-vi, cuốn thứ ba trong cuốn Kinh thánh. Sách Lê-vi có nhiều luật lệ cho tư tế trong Cựu ước, và những hy lễ cử hành trong đền thờ, nhưng sứ điệp chính là kêu gọi dân Chúa sống thánh thiện. Lời kêu gọi sống thánh thiện trong chương này bao gồm 10 điều răn và những luật lệ khác, nhưng tất cả được tóm lại trong giới luật yêu người như chính mình.
Chúng ta thấy trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su, sau khi giảng dạy về Phúc thật Tám mối, đã quảng diễn các giới răn này, đặc biệt 2 giới răn, thứ nhất là sự trả thù, và thứ hai là yêu thương tha nhân, kể cả kẻ thù.
Vào một buổi tối, một người tài xế xe vận tải ghé vào nhà hàng bên đường để kiếm gì ăn. Trong lúc đang ăn, 3 người lái xe mô tô trông dữ dằn đi vào. Sau đó, không biết lý do tại sao, 3 người này tiến đến bàn chỗ người tài xế xe vận tải đang ngồi ăn, một người rắc muối lên đầu người tài xế xe vận tải, một người hất dĩa thức ăn xuống đất và người khác đổ lý cà phê vào thùng rác. Người tài xế xe vận tải đứng dậy trả tiền cho bữa ăn, không nói một lời đi ra cửa. Một người trong nhóm cười nhạo báng và nói với nhau: “Tên này không phải là đối thủ.” Một lát sau, người đàn bà chạy bàn nhìn ra cửa số thấy chiếc xe vận tải đang đè bẹp 3 xe mô tô, bà nói với nhóm này: “Ông ta cũng không phải là tài xế giỏi, đang đè bẹp 3 xe mô tô ở bãi đậu xe.” Thì ra, người tài xế xe vận tải biết mình không là đối thủ với 3 người dữ dằn này, cho nên ông đã trả thù bằng cách dùng xe vận tải đè bẹp 3 chiếc xe mô tô của họ.”
Có lẽ chúng ta cũng cảm thấy bằng lòng vui thích khi thấy những người xấu, những người độc ác, những người phạm pháp trả giá cho những hành động của họ. Và chúng ta biết khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn trả thù người làm hại hay những người gây ra những thiệt hại cho chúng ta. Sự trả thù thì thường nặng, mạnh và to hơn sự thiệt hại, cho nên chúng ta nghe nói: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.” Chì thì nặng hơn đất, gây nguy hiểm và đau đớn hơn đất nhiều. Nhiều khi người ta còn cầu những sự dữ và thật dữ xảy đến cho người làm hại. Ngày xưa trong thời Cựu ước, luật trả thù cho phép trả thù thăng bằng vì thế chúng ta nghe: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, có nghĩa là trả thù ít hay bằng thôi, không được hơn. Nhưng Chúa Giê-su dạy: không được trả thù, mà còn phải yêu thương, tha thứ, làm ơn và hãy cầu nguyện cho những người thù oán hay làm hại chúng ta.
Tha thứ cho kẻ thù rất khó. Vì thế khi cảm thấy khó tha thứ và yêu thương kẻ thù, Chúa dạy chúng ta hãy cầu nguyện. Cầu nguyện để xin Chúa ban cho chúng ta ơn tha thứ. Khi chúng ta cảm thấy khó yêu thương, là vì chúng ta không có sự tha thứ, vì vậy chúng ta phải thành khẩn cầu xin ơn Chúa. Nếu Chúa dạy chúng ta giới luật thương yêu kẻ thù, thì chắc chắn Chúa cũng sẽ ban cho chúng ta ơn tha thứ để giúp chúng ta thực hành giới răn đó. Chúa đã làm gương khi Ngài bị đánh đòn, đóng đinh và chết trên thập giá cho chúng ta là những người tội lỗi, không xứng đáng. Chúng ta thấy Chúa đã cầu nguyện cho những người đóng đinh Ngài vào thập giá “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết điều họ làm.” Do đó, một điều quan trọng và cần thiết là chúng ta phải chân thành cầu xin ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta phải cảm nghiệm được lòng nhân từ, thương xót và tha thứ của Chúa cho chúng ta, thì chúng ta mới có ơn tha thứ để thứ tha và yêu thương người khác, nhất là kẻ thù.
Giới răn thứ hai Chúa dạy là yêu thương tha nhân, kể cả kẻ thù. Đây là giới răn cao trọng nhất và cũng là giới răn khó thực hành nhất. Một điều Chúa giảng và dạy về giới răn này mà tôi cảm thấy thực tế và dễ thực hành nhất đó là: “Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con.” Một người đã tâm sự rằng mấy năm trước đây đã bị người khác lừa dối và làm hại, cho nên mỗi khi nghĩ đến và nhìn thấy họ thì áp huyết máu bừng lên và sự oán thù bốc lên trong lòng. Ngày kia, khi người đó cảm thấy rất giận dữ, oán thù, thì ngay lúc đó bỗng nhiên nhớ tới lời Chúa nói: “Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con”, liền thầm cầu nguyện cho họ, cho nên bây giờ mỗi khi nghĩ đến họ, thì cầu nguyện và dần dần sự thù oán và cay đắng biến mất. Người đó cũng thú nhận rằng điều đó không làm cho họ trở nên hoàn toàn thánh thiện, nhưng cảm thấy bình an và vui.
Tóm lại, khi chúng ta cảm thấy khó tha thứ, khó yêu thương kẻ thù, Chúa dạy chúng ta ngoài việc cầu nguyện xin ơn tha thứ, chúng ta có thể đặt mình vào trong tình cảnh của người đó, hay đặt họ dưới ánh sáng mới. Một người khác cũng đã tâm sự rằng: “Nếu tôi có thể đi vào con người và tâm hồn của họ, thì tôi có thể nhận ra những nỗi đau buồn, khổ cực và bất an của họ, và cảm nhận này sẽ giúp từ từ bớt đi sự muốn trả thù và thù oán.” Chúng ta phải nhớ rằng: người giữ những sự thù oán, ghen ghét trong tâm hồn hay cuộc sống, và những người nuôi ý định trả thù thì sống trong sự bất an, và sẽ sinh ra những bệnh tật. Chắc chắn chúng ta không muốn làm hại chính chúng ta. Còn người làm hại người khác thì sẽ luôn luôn sống trong lo sợ, vì sớm hay muộn sẽ phải trả giá vì “gieo gió thì sẽ gặt bão.” Vì vậy, chúng ta phải cầu nguyện xin ơn tha thứ cho mình, chân thành tha thứ cho người làm hại chúng ta, đặt họ dưới ánh sáng mới, và nhìn nhận họ cũng là con cái của một Cha trên trời. Chúng ta phải xác tín rằng Chúa Giêsu đã chịu chết trên thập giá vì tội của họ và của chúng ta. Đức cố Hồng y Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận, Người Tôi Tớ Chúa, là một gương thánh thiện và tha thứ cho chúng ta noi theo. Trong thời gian bị biệt giam trong phòng kín, ngài bị hành hạ và đối xử một cách tàn nhẫn, nhưng sau đó khi được thả ra và sống ở ngoại quốc, ngài không thù oán và không trả thù. Ngài thường chia sẻ là đã tha thứ hoàn toàn và luôn luôn cầu nguyện cho họ.
Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn quảng đại, một con tim tràn đầu yêu thương và tha thứ, để chúng ta xứng đáng là đền thờ của Chúa ngự, luôn sống trong an bình và ân sủng của Chúa.
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Theo lẽ tự nhiên, những lời giáo huấn của Chúa trích trong Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay xem ra cứng cỏi và khó thực hiện: Ai muốn lấy áo trong, cho luôn cả áo ngoài; ai bắt đi một dặm, thì đi luôn hai dặm; ai vả má bên phải, cho vả luôn má trái… Tình yêu mà Chúa Giêsu đề nghị không khép kín nơi đồng bào hay những người thân nghĩa, mà còn đối với cả kẻ thù. Thật là khó! Bởi lẽ, trong tương quan con người với nhau, cách xử sự mà Chúa đề nghị trên đây sẽ bị coi là hèn hạ, yếu thế. Trong một bối cảnh xã hội đầy bon chen toan tính và loại trừ lẫn nhau, người tín hữu làm thế nào để giữ được lời dạy của Chúa?
Chính Chúa Giêsu đã đưa ra lời giải thích: nếu anh em xử sự theo lẽ thông thường và theo quan niệm người đời, thì chẳng có chi đặc biệt, vì “người thu thuế và người ngoại cũng làm như thế”. Dưới mắt người Do Thái, người thu thuế và người ngoại là hai hạng người không ra gì. Họi bị khinh thường bởi họ là những người gian tham và không nhận biết Thiên Chúa. Vậy, những ai tự hào cho mình là nhận biết Thiên Chúa, thì phải sống thánh thiện và vượt lên những suy nghĩ thông thường. Lối sống của những người tin Chúa đôi khi đạt tới mức phi thường, nhờ đó mới có thể thực hiện được những gì Chúa Giêsu đã dạy trên đây.
Một khi khước từ lời dạy của Chúa, cuộc đời sẽ mất an vui. Quả vậy, vì thiếu nhường nhịn mà gia đình tan vỡ, huynh đệ tương tàn, xóm giềng chia rẽ. Vì người ta còn duy trì quan niệm cổ xưa “mắt đền mắt, răng đền răng”, mà bạo lực tràn lan trong xã hội. Vì thiếu kiên nhẫn mà tình yêu vợ chồng vốn gắn kết keo sơn đã trở thành kẻ thù không đội trời chung. Những gì chúng ta thấy trong cuộc sống hôm nay là hậu quả của thiếu tình người và thiếu kiên nhẫn khoan dung.
Nhờ thực thi những nhân đức phi thường Chúa dạy, người tín hữu tiến dần trong hành trình nên thánh. Nên thánh là lời kêu gọi của Chúa, đồng thời cũng là lý tưởng của mỗi chúng ta. Tác giả sách Lêvi đã ghi lại huấn lệnh này. Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh. Ngài muốn cho chúng ta nên thánh, tức là nên giống Ngài. Ngài kêu gọi và ban ơn nâng đỡ chúng ta để chúng ta có thể đạt tới mức hoàn thiện. Sau lời kêu gọi: Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh, chính Chúa đã giải thích cho chúng ta thế nào là nên thánh: không trả thù, không oán hận, trái lại, hãy yêu đồng loại như mình. Như thế, nên thánh là kết quả của những cố gắng để thực thi tình yêu thương. Nhiều người trong chúng ta có quan niệm “thánh thiện” là tình trạng của một người đã được hưởng hạnh phúc thiên đàng sau khi đã chết. Không phải vậy, nên thánh là một quá trình biến đổi để hoàn thiện chính mình, để rồi ngay ngày hôm nay, khi còn đang sống ở đời này, chúng ta đã được nếm hưởng hạnh phúc thiên đàng, qua việc được chiêm ngưỡng Chúa bằng đức tin và tình mến.
Khái niệm nên thánh như đã nêu trên làm cho đời sống tín hữu không khô cứng, vô vị, nhưng luôn sống động và vươn lên không ngừng. Người ước ao nên thánh là người muốn sống ngày hôm nay tốt hơn hôm qua, và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay. Họ không dừng lại ở một cuộc sống đơn điệu, nhưng luôn khám phá ra niềm vui của đức tin, sự hiện diện của Chúa và những ân huệ Ngài ban. Cuộc sống không có phấn đấu vươn lên sẽ giống như ao tù. Con người không có lạc quan hy vọng sẽ giống như ngõ cụt. Họ không biết mình sống cho ai và để làm gì. Người không thao thức nên thánh sẽ thấy cuộc đời đơn điệu vô nghĩa.
Nên thánh là cố gắng nên giống Chúa. Tuy vậy, khởi đầu của hành trình nên thánh là ý thức và tôn trọng phẩm giá cao quý của mình trong cuộc đời này. Mỗi người chúng ta không hiện hữu như một đồ vật vô tri vô giác, cũng không như những loài động vật cỏ cây, nhưng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (Bài đọc II). Biết được phẩm giá của mình để tôn trọng thân xác và trau dồi bản thân trong những lãnh vực khác nhau. Chỉ những ai biết yêu mến trân trọng bản thân mình, thì mới có thể yêu mến trân trọng tha nhân.
Tình yêu Kitô giáo được gọi là lòng “bác ái”, tức là yêu thương rộng khắp, không phân biệt và không giới hạn. Bác ái là cốt lõi của giáo huấn Tin Mừng. Tiêu chí cho đức bác ái được chính Chúa đặt ra: yêu người như bản thân vậy. Hai ngàn năm nay, Giáo Hội đã thực hiện lời mời gọi của Chúa, cổ võ tình yêu thương, phá bỏ những ngăn cách, hòa giải những bất hòa và nâng đỡ người bé mọn. Chúng ta mỗi người đều là chi thể của Giáo Hội, có những lúc chúng ta được mời gọi thực hiện những nhân đức phi thường để nêu cao tính siêu việt của giáo huấn Tin Mừng, góp phần làm tỏa sáng sự thánh thiện giữa trần gian.
.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Khoan dung nói thì dễ mà thực hiện lại có mấy ai đã làm được? Khoan dung là không nhận xét dèm pha người khác một cách bất công. Khoan dung là cắt nghĩa tốt về lỗi lầm của tha nhân. Khoan dung khó nhất vẫn là học được chữ nhịn khi người khác làm nhục hay làm tổn thương đến chúng ta. Bởi vì trong con người ai cũng có cái tôi quá lớn đến nỗi không nhịn được sự tổn thương từ người khác mang tới. Xem ra Khoan dung với người khác không phải là đức tính tự nhiên mà có. Nó là kết quả của sự vun đắp dài lâu thông qua sự làm gương và những lời chỉ bảo của cha mẹ, của bề trên và sự nỗ lực tập luyện của bản thân.
Tôi nhớ hồi còn đi học có lần các bạn mách cô giáo về một bạn có tính táy máy, hay lấy đồ của các bạn trong lớp. Nhưng cô giáo đã khuyên chúng tôi: “Bạn ấy nhà nghèo mà lại ham đọc sách, thế là rất quý. Con đừng trách bạn. Một người ăn trộm sách không phải là kẻ trộm quá xấu. Con cứ nói với bạn ấy rằng đọc xong trả lại, con sẽ cho bạn ấy mượn thêm những cuốn khác nữa ”.
Quả nhiên bạn ấy đã bỏ được tính táy máy mà còn là người luôn thân thiện với mọi người.
Và có lần tôi chứng kiến một bạn trai vì bênh vực ngưòi yêu mà có lời không được lễ phép lắm với cha mẹ. Thấy tôi ái ngại ông bố đó đã ôn tồn nói rằng: “Khi người ta yêu, thì người yêu là nhất. Ai ngăn cản, tự nhiên sẽ trở thành kẻ thù. Ngày trước bọn mình yêu nhau, ông bà nội cũng không đồng ý. Có lúc hận ông bà và nghĩ sẽ bỏ nhà ra đi. Tuổi trẻ bồng bột. Sẽ có lúc nó nghĩ lại khi sóng tình đã dịu. Phải tập sống khoan dung để cho con cái có cơ hội sửa đổi”.
Nếu trong cuộc sống ai cũng biết nghĩ tích cực và nói những điều tích cực sẽ không có tổn thương, không ân oán oan gia. Nếu trong cuộc sống ai cũng biết nhịn nhường lẫn nhau thì không có lời cay đắng nói xấu hay kết án lẫn nhau. Cuộc sống sẽ là thiên đường nếu ai cũng nhường nhịn và “chín bỏ làm mười” với nhau.
Hôm nay Chúa dạy chúng ta về lòng bao dung ky-tô giáo. Chúa dạy chúng ta đừng bao giờ có kẻ thù. Hãy dùng tình yêu mà xóa bỏ hận thù. Hãy yêu kẻ thù của mình như Chúa đã từng cầu xin cho kẻ làm hại mình bằng một lời rất từ bi: “xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Chúa còn bảo chúng ta nếu không yêu tha nhân như chính mình thì chúng ta không xứng đáng là môn đệ của Chúa. Chúa còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa để sống cho thanh sạch, cho công bằng và yêu mến sự thật. Chúa không chấp nhận là người ky-tô hữu mà gây nên gương mù gương xấu cho người khác vì tội lỗi của mình. Nhất là vì sống thiếu tình yêu thương với đồng loại trong lời nói và hành động.
Đó chính là bài học mà Chúa đã dạy chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài. Chính Chúa đã sống một cuộc đời yêu thương. Yêu thương đến nỗi cho đi cả tính mạng của mình. Tình yêu thương đó Chúa trải rộng trên người lành kẻ dữ. Chúa không kết án tội của Lê-vi, tội của người phụ nữ ngoại tình. Chúa đến để thu phục người tội lỗi bằng chính hành động bao dung của mình. Chúa bẻ bánh và trao cho các môn đệ trong đó có cả Giu-đa. Chúa cúi xuống rửa chân cho các môn đệ từ Phê-rô cho tới Giu-đa. Chúa đã nêu gương yêu thương đến quên cả chính mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà yêu tha nhân. Hãy vì Chúa mà đối xử tốt với nhau. Hãy vì Chúa mà quên đi cái tôi ích kỷ để sống vị tha và nhân ái với nhau.
Có ai đó nói rằng: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người đều trở nên mù lòa”. Cuộc đời sẽ là thảm họa nếu thiếu lòng bao dung và yêu thương. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quên đi cái tôi để đón nhận mọi người trong yêu thương tha thứ. Xin cho cuộc đời ky-tô hữu của chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay. Amen.
.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Kẻ thù là ai? Người không thích ta, và ngay trong ta, cái xấu ta không thích vẫn cứ theo ta dai dẳng. Yêu kẻ thù, không được ra tay với kẻ thù khi có cơ hội trả thù. Yêu kẻ thù, việc chính yếu Chúa dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44).
Kẻ thù, người không thích ta, người hay để ý để gièm pha ta. Kẻ thích ném đá sau lưng ta, kẻ luôn muốn phá vỡ bình an của ta. Những người ghét ta luôn luôn có. Nếu luôn để tâm đến kẻ ghét ta, ta chẳng bao giờ có sự yên tĩnh trong tâm hồn.
Kẻ thù, kẻ gây cho ta nhiều đau khổ, kẻ đàn áp ta bằng những điều bất chính. Kẻ cướp lấy những gì ta có để sống. Kẻ thù ta, những kẻ tham lam, trục lợi trên công sức của ta, làm giàu trên mảnh đời còm cõi của ta. Kẻ thù luôn có nhiều trong thời độc tài, toàn trị. Yêu kẻ thù để thức tỉnh lương tri của kẻ thù, để kẻ toàn trị trở thành những con người thật sự cần thiết cho xã hội. Chúa Giêsu dạy bài học yêu kẻ thù, kẻ làm hại mình để xây dựng một nền văn minh tình thương, một nền văn minh tái khám phá tình yêu lớn lao để có hòa bình. Trong bài diễn văn của Đức Giáo hoàng Phanxicô lại tòa Lưỡng Viện Hoa Kỳ phát biểu: “Một đất nước chỉ có thể được xem là vĩ đại, khi nó ủng hộ cho tự do như tổng thống Lincoln đã làm; khi nó cổ vũ cho nền văn hóa giúp người dân có thể ‘mơ’ về những quyền lợi chính đáng nhất cho tất cả đồng bào của mình, như mục sư Martin Luther King đã theo đuổi; khi nó dám tranh đấu cho công bình và chống lại sự áp bức, như Người-tôi-tớ-của-Chúa là bà Dorothy Day đã miệt mài thực hiện; như hoa trái Đức tin đã trở nên những cuộc đối thoại và gieo rắc hạt giống hòa bình trong lối chiêm niệm của nhà thần bí Thomas Merton.”
Kẻ thù ở trong ta.
Đó là dạng kẻ thù luôn tiềm ẩn trong cái xấu ở trong ta. Để thắng tật xấu luôn luôn tập nhân đức đối nghịch với tật xấu. Lấy điều tốt thay cho điều xấu, làm sự lành thay cho sự dữ, nói điều hay thay cho lời chế giễu dèm pha, lấy ý ngay lành thay cho ý đồ xấu… Đó là phương cách yêu kẻ thù ở trong ta. “Nếu bạn muốn người khác hạnh phúc, hãy luyện tập tâm từ bi. Nếu bạn muốn chính mình hạnh phúc, hãy luyện tập tâm từ bi.” (Đức Đạt Lai Lạt Ma).
Không nuôi thù hận, không trả thù khi có cơ hội. Tình yêu không phải là một cảm xúc nhất thời, “khi yêu củ ấu cũng tròn”, tình yêu đích thực là một thiện chí hướng tới điều cao thượng, hoán cải sự dữ ra điều lành. Yêu kẻ thù bằng con đường xây dựng đức ái trọn hảo : “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.” (1Cor 13, 4- 6).
Yêu kẻ thù không có nghĩa là thích kẻ thù. Yêu kẻ thù là yêu lấy linh hồn họ đang bị đánh mất bởi sự dữ chiếm hữu họ, và vì sự dữ nơi họ lá nguyên nhân gây ra đau khổ cho ta và người khác. Bởi thế, Chúa Giêsu dạy: “Cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình” (Mt 5, 44). Tại Brazil khi nói với các bạn trẻ Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Tôi muốn nói một điều cuối cùng, một điều cuối cùng. Ở đây, cũng như trong toàn thể nước Ba Tây, có rất nhiều người trẻ. Hỡi các người trẻ! Các con, các người trẻ thân yêu, các con đặc biệt nhạy cảm đối với những bất công, nhưng các con thường thất vọng bởi sự kiện nói về tham nhũng, về những người thay vì đi tìm công ích, lại tìm quyền lợi riêng của mình. Với các con cũng như với tất cả mọi người, cha nhắc lại: không bao giờ được chán nản, đừng mất niềm tin, đừng bao giờ để cho niềm hy vọng của các con bị dập tắt. Thực trạng có thể thay đổi, con người có thể thay đổi. Các con hãy tìm cách là những người đầu tiên mang lại điều lành, đừng học thói quen làm điều ác, nhưng đánh bại nó bằng điều lành. Hội Thánh đồng hành với các con, mang đến cho các con sự tốt lành quý giá nhất là đức tin, mang đến cho các con Chúa Giêsu Kitô, Đấng “đến để cho con người được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).” (Cộng đồng Varginha ở Rio de Janeiro, ngày 25 – 07 2013).
Kẻ thù ở bên ngoài con, ở trong con. Lạy Chúa, xin cho con biết con trong những yếu đuối và cho con biết chiến thắng được chính con, bằng con đường hoán cải của tình yêu. Xinh tình yêu của Chúa cho con được đổi mới và con có thể đổi mới những người anh chị em chung quanh con và xã hội con đang sống.
.
HÃY SỐNG YÊU THƯƠNG VÀ NÊN TRỌN LÀNH
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Kết thúc “Bài giảng trên núi”, căn tính của người kitô hữu là muối là ánh sáng. Tiếp theo sau đó, Chúa Giêsu tiếp tục mạc khải cho khi dạy các môn đệ và cũng dạy chính chúng ta về thái độ cần phải có cũng như thực hành trong đời sống: “Các con đã nghe bảo… Còn Thầy, Thầy bảo các con “. Vậy nghe bảo gì? Và cụ thể giáo huấn của Chúa Giêsu cho các môn đệ mình ra làm sao?.
Khi Chúa Giêsu khi trích dẫn câu nói của người xưa về luật công bằng khi trả thù đã được ghi rõ trong Cựu Ước “Mắt đền mắt, răng đền răng ” ( Xh 21,24). Chúng ta phải thừa nhận rằng, đây là một bước tiến lớn trong tương quan hành xử giữa người với người so với thời Lamek, bởi Lamek đã từng nói với hai vợ : “Vì một vết thương, ta giết một người, (Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng. Vì Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy! ” (St 4,23-24) Vậy là trả thù mãi mãi. Luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” ( Xh 21,24) giúp con người khỏi rơi vào tình trạng thái quá. Trái lại, Luật của tình yêu phủ nhận sự đồng nhất với kẻ thù : “Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác” (Mt 5, 39).
Theo Chúa Giêsu, yêu thương là vượt ra khỏi vòng tròn luẩn quẩn của cái ác và sống tình huynh đệ đại đồng, nên khi Ngài bảo chúng ta “đưa má bên kia cho nó nữa, ” là Ngài muốn chúng ta xây đắp tình hiệp thông anh em. Đưa má bên kia là cố tình giúp đối phương khám phá ra tình yêu và rằng thực hành bác ái là điều có thể. Đưa má bên kia còn muốn nói với kẻ ác rằng nó đã nhận được người anh em như nó là anh em. Một hành động đáng tin cậy như thế sẽ phá tan bạo lực.
Chúa Giêsu yêu cầu gia tăng thêm tình yêu và lòng tha thứ càng nhiều càng tốt! Vì tình yêu có sức mạnh giúp đối phương xích lại gần ta hơn bằng tình người. Như thế, bằng cách trao ban, chúng ta nhận nó là anh em.
Cho nó cả áo choàng, đi với nó hai dặm không phải một mà áp đặt, nhưng chứng minh con người luôn có sáng kiến về tình yêu. Vì đó là điều đẹp lòng Chúa, nên chúng ta từ bỏ điều có đi có lại và chủ động xây đắp tình hiệp thông trong tình yêu. “Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ ” (Mt 5, 44).
Tình yêu phải được thực hiện theo châm ngôn: “Hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con” (Mt 5, 44). Chúa Giêsu không chỉ lên án một hệ thống dùng bạo lực để trả thù cho cân, Ngài còn muốn chúng ta hủy bỏ luật ăn miếng trả miếng xưa. Tình yêu không gia tăng theo kiểu có đi có lại – người ngươi yêu mến là một người anh em ngươi, một người ngươi yêu mến là người bạn ngươi. Tình yêu là quà tặng, nhưng không dựa trên sự khác biệt tối thiểu. Sự khác biệt của tình yêu là không giống nhau, là người khác chứ không phải là người họ hàng, nhưng là người chúng ta cảm thấy gần. Như Chúa Giêsu đã nói : đó là người thân cận của ngươi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không bác bỏ sự phân biệt của chúng ta. Người khác không phải luôn là một người bạn, nó có thể trở thành kẻ thù. Điều quan trọng là tất cả mọi người là anh em với nhau.
Thật phù hợp để người kitô hữu khẳng định căn tính là con Thiên Chúa của mình khi thực hành lời Chúa Giêsu dạy để trở nên con cái của Cha trên Trời. Giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu để lại đã mạc khải rõ về hồng ân yêu thương. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương ngay cả kẻ thù, kẻ muốn cắt đứt tương quan là con Thiên Chúa và anh em với ta. Luật ăn miếng trả miếng không còn tồn tại. Chỉ có tình yêu mới biến đổi được hận thù, tình yêu làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và thể hiện chức phận là con đối với Người.
Như thế, chúng ta đi đến cùng lời Chúa Giêsu dạy về thánh ý Thiên Chúa trong đời sống: “Các ngươi hãy thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 19,1). Bằng những lời này, Thiên Chúa mời gọi dân Israel và cả chúng ta ngày hôm nay thể hiện lòng trung thành với giao ước Thiên Chúa đã thiết lập, đồng thời đặt luật lệ xã hội trên giới răn “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,18). Tuy nhiên, phải đi xa hơn để tình yêu của chúng ta được phổ quát nhằm cho luật cũ được kiện toàn. Khi yêu như thế, ta đang thực hiện lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành ” (Mt 5,48).
Nhưng ai có thể nên trọn lành? Sống trọn lành là thi hành thánh ý Chúa trong tư cách là con. Thánh Xip-ri-a-nô từng viết: “Cách hành xử của con cái Thiên Chúa phải tương hợp với tình phụ tử của Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa được tôn vinh và ca tụng từ những việc tốt lành của con người ” (De zelo et livore, 15: CCL 3a, 83). Như thế, con người có thể trở nên trọn lành khi sống tròn đầy cương vị làm con cái Thiên Chúa. Chúa Cha làm khác chúng ta là những người bỏ người này chọn người kia. Chúa Cha làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Chúa Cha quan tâm đến cả hai, người lành cũng như kẻ dữ ; con cái Thiên Chúa cũng phải trở nên trọn lành ” như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành “(Mt 5, 48).
Xem ra có thể khó, nhưng Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta trước khi nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 44-45). Ai đón nhận Thiên Chúa trong đời sống mình và yêu mến Người hết lòng, người ấy có khả năng bắt đầu một chặng đường mới, có thể chu toàn thánh ý Thiên Chúa hầu hiện thực hoá một hiện hữu mới được nuôi sống bởi tình yêu và hướng đến sự vĩnh cửu. Tình yêu là điều vĩ đại, chúng ta đọc thấy trong sách Gương Chúa Giêsu, một điều tốt làm nhẹ đi những nặng nhọc và nâng đỡ những điều khó khăn. Tình yêu thôi thúc ta hướng lên cao mà không còn bị vướng bận vào bất cứ điều gì thuộc trần thế.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng là con Cha trên Trời. Amen.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Lời khuyên Chúa dậy hôm nay,
Thi hành đức ái, đẹp thay cuộc đời.
Người xưa ân óan đối lời,
Mắt thì đền mắt, răng rời đền răng.
Thù hành đáp trả được chăng?
Chi bằng tha thứ, gia tăng tình người.
Nhịn ai chống cự ở đời,
Nhường người hung ác, gọi mời thứ tha.
Kẻ nào vả má chạm va,
Cố tình đoạt áo, cởi ra biếu liền.
Ai mà vay mượn số tiền,
Rộng lòng quảng đại, đừng phiền khó khăn.
Yêu thương thù địch làm lành,
Nguyện cầu cho kẻ, thù hằn ghét ghen.
Chúng con nhân chứng muối men,
Trở thành ánh sáng, đài sen rạng ngời.
Yêu thương tha thứ trong đời,
Thực hành nhân đức, yêu người thế gian.
Kẻ lành người dữ tràn lan,
Yêu người yêu Chúa, chứa chan phúc lành.
Chúng ta hãy nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành. Ngày xưa người ta đối xử với nhau một cách sòng phẳng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Họ chưa có quan niệm về lòng từ bi hỉ xả. Họ chưa học biết sự yêu thương tha thứ. Có lẽ cách đối xử, ăn miếng trả miếng như thế được coi là sự công bằng. Công bằng nhưng thiếu đức bác ái, thiếu lòng nhân thì công bằng trở nên què cụt. Đây chỉ là thực hiện những hành vi tiêu cực.
Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy bảo chúng ta những điều tích cực hơn. Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương mọi người, yêu cả kẻ thù và còn cầu nguyện cho họ. Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống và ghen ghét chúng con. Những điều Chúa dạy thật cao cả và khó tưởng tượng. Tình yêu không có biên giới. Sự tha thứ không có tính toán. Đôi khi thực hành điều Chúa dậy, chúng ta cảm thấy như mất mát, thua thiệt và chịu nhục nhã.
Chúa muốn chúng ta bước lên cao hơn một bước mà mọi người bình thường cư xử với nhau. Thói thường thì chúng ta nghĩ ai làm hại tôi, tôi trả lại họ như thế; ai nói hành tôi, tôi nói lại và ai lừa dối tôi, tôi lừa lại. Như thế chúng ta nghĩ rằng có qua có lại mới toại lòng nhau. Ở đời, chúng ta thường xử với nhau như thế và cho đó là có tình có nghĩa và công bằng.
Chúa dạy chúng ta hãy có thái độ cao thượng hơn. Hãy đem yêu thương vào nơi thù ghét và đem tha thứ vào chỗ lỗi lầm. Cầu nguyện và yêu thương kẻ xỉ vả, lăng nhục và nói gian nói dối về chúng ta. Chúa dạy chúng ta và chính Chúa đã hành động trước. Chúa tha thứ cho những kẻ bách hại, đánh đập và vu khống cho Chúa. Trên thập giá, Chúa cầu nguyện xin Cha tha thứ cho họ.
Thực hành đức công bằng luôn đi kèm theo đức bác ái. Trong hoàn cảnh cuộc sống hiện nay, chúng ta không bao giờ có sự công bằng đích thực, nhưng chúng ta có đức bác ái đích thực. Đức ái đó là sự yêu thương tha thứ. Tha thứ dẫn chúng ta đến sự hòa giải. Sự hòa giải dẫn đưa chúng ta đến niềm vui và hạnh phúc.
Chỉ có tình yêu mới có thể xóa đi hận thù và chúng ta có thể hưởng phúc bình an. Chúa chính là nguồn tình yêu. Xin tình yêu Chúa bao trùm cuộc sống để mỗi hành động chúng ta thực hiện trong tình yêu. Lạy Chúa, xin nâng đỡ chúng con mọi nơi và mọi lúc để chúng con sống xứng đáng là môn đệ Chúa.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước.
Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu là Môisen mới, đứng trên núi Sinai mới (núi Bát Phúc) công bố luật mới của Nước Trời (Tám mối Phúc thật).
Chúa Nhật V, sau khi công bố Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Người ra thi hành. Sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời là muối cho đời, ánh sáng thế gian.
Chúa Nhật VI, Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen. Luật mới kiện toàn luật cũ. Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:
- Luật cũ cấm giết người. Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em. Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.
- Luật cũ cấm hành vi ngoại tình. Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn. Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…
- Luật cũ quy định thủ tục li dị. Luật mới triệt để cấm li dị.
- Luật cũ cấm thề gian. Luật mới dạy sống chân thực. Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.
Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.
- Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.
- Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”. Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.
- Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào. Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.
- “Hãy yêu kẻ thù”
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là :
- Làm ơn cho kẻ ghét mình.
- Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.
- Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
- Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.
- Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.
- Ai lấy gì thì đừng đòi lại…
Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nổ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quãng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.
Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
- Tại sao phải yêu kẻ thù?
Yêu người yêu mình thì dễ. Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao! Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi. Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực. Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vỡ kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ. Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.
Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai ? Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi. Nhân vô thập toàn. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh. Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền. Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này. Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.
- Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu.
Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Ep 4,26).
Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó chứ ? Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi. Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt. Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: ”Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được. Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả. Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ. Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng:Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả ?
Hoa hồng trả lời:Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi. Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu ?
Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.
Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.
.
SỐNG HOÀN THIỆN HAY SỐNG CÔNG CHÍNH TIN MỪNG
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
‘Thiên Chúa là đấng trọn lành, thánh thiện’, điều này thật hiển nhiên và mọi người chúng ta đều sẵn sàng công nhận. Tuy nhiên nội dung của trọn lành và hoàn thiện này là gì thì có thể mỗi người nghĩ mỗi khác. Hoàn thiện thông thường được hiểu là không có một khuyết điểm nào, mọi cái đều cao đẹp, hoàn hảo…, cách hiểu này khi được áp dụng cho Thiên Chúa thời quả là chí lý: Thiên Chúa là Đấng duy nhất hoàn thiện. Do nhận thấy nơi mình đầy dẫy những khiếm khuyết (nhân vô thập toàn), nên con người suy ra: phải có một Đấng thập toàn trọn hảo (Deus bonus est). Cũng tương tự như thế khi ta gán cho Thiên Chúa nhiều yếu tính khác mà con người giới hạn không thể tìm thấy nơi mình như, Thiên Chúa toàn năng, thông minh vô cùng, ở khắp mọi nơi… Riêng về sự trọn lành và hoàn thiện của Thiên Chúa thì, trước khi Đức Giê-su xuất hiện, con người đã chỉ có thể mường tượng chứ chưa thể xác định: thực chất nó hệ tại ở điều gì. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su như muốn xác định cho chúng ta: trong nhãn quan Thiên Chúa, hoàn thiện chính xác phải được hiểu như thế nào.
“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là đấng hoàn thiện!”
Trước đó Đức Giê-su đã từng kêu gọi các môn đệ của Người, nếu muốn được vào Nước Trời, thì hãy “ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu” (Mt 5:20). Nếu hoàn thiện có nghĩa là nên trọn lành thánh thiện, đầy đủ các nhân đức…, như chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa có, thì đòi hỏi này hoàn toàn bất khả thi vì không một ai có thể chu toàn cho nổi; mà bất cứ đòi hỏi nào, cho dầu cao đẹp tới mấy mà bất khả thi, thì cũng đều trở thành vô nghĩa. Cũng vậy nếu ‘công chính’ hệ tại ở việc căn kẽ nắm giữ lề luật, thì đòi các môn đệ là những người bình dân phải công chính hơn cả các kinh sư và người Pha-ri-sêu là đòi một điều vô vọng; …tương tự như ngày nay bắt ‘người đời’ phải ‘thánh thiện’ hơn các tu sĩ trong việc đạo đức, giữ giờ giấc thiêng liêng hay kiêng giữ vậy.Cũng may là cuộc sống của Đức Giê-su rất nhất quán và cụ thể, cũng vậy các lời rao giảng và đòi hỏi của Người cũng rất cụ thể và luôn trong tầm với.
Từ sinh thời cho tới lúc chết trên Thập Giá – tức trọn cuộc sống – Đức Giê-su chỉ muốn làm sao cho chúng ta biết về Thiên Chúa trong yếu tính quan trọng nhất của Ngài, đó là: ‘Thiên Chúa là Đấng cứu độ và từ nhân, hay thứ tha và giầu lòng xót thương’. Đồng thời mạc khải lớn nhất đó cũng chỉ có thể tìm thấy nơi con người Đức Giê-su (Verbum Dei) trước cả những lời Người giảng dạy, vì “Không ai đã lên trời (để biết về Thiên Chúa)…, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13). Do đó sự hoàn thiện của Thiên Chúa, như Đức Giê-su đã dùng chính cuộc sống mình để minh chứng, chính là “Thiên Chúa yêu thế gian (tội lỗi) tới nỗi đã ban Con Một”. Theo Người, đón nhận ‘sự hoàn thiện’ của Thiên Chúa trước hết và trên hết là ‘tin vào Con của Người’ – Đấng đã đến xóa bỏ tội trần gian (Ga 3:16).
Và tất cả những ai tin vào Người Con ấy, Đức Giê-su khảng định, cũng sẽ sống sự hoàn thiện độc đáo của Thiên Chúa cách rất cụ thể: họ sẽ không trả thù, sẽ yêu thương thù địch, sẽ làm ơn cho những kẻ hại mình. Và lý do Người đưa ra rất đơn giản: Thiên Chúa hoàn thiện vì Người nhân từ; do đó bất cứ ai tin vào Thiên Chúa cũng phải nên hoàn thiện theo cùng một cách thức đó. Tương tự như thế, qua yêu cầu: “anh em hãy thương yêu nhau… như chính Thầy yêu thương anh em”, Đức Giê-su trưng ra sự hoàn thiện của Chúa Cha như tấm gương mà mọi Ki-tô hữu phải học đòi: “anh em hãy nhân từ… như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36). Như thế ‘hoàn thiện như Thiên Chúa’ hay ‘công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu’, mà Đức Giê-su đòi các môn đệ Người phải đạt tới, trở nên vô cùng rõ ràng, rất mới mẻ và đậm nét Tin Mừng. Trong nội dung đó, tôi thiết nghĩ, khi yêu cầu ‘nên hoàn thiện như Cha trên trời’, Đức Giê-su đã không đưa ra một yêu sách mà con người không thể thực hiện được, nhất là đối với các Ki-tô hữu, khi mà niềm tin của họ hoàn toàn dựa trên khiêm tốn nhìn nhận rằng: tự bản chất con người, mình là kẻ tội lỗi và bất toàn. Thậm chí thánh Gio-an còn dám khảng định: “Ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối” (1 Ga 4:20). Yêu hết mọi người, yêu cả kẻ thù đúng là giới răn hoàn thiện (chứ không chỉ một lời khuyên hay khích lệ) dành cho hết thảy mọi Ki-tô hữu, vì họ là những người duy nhất trên trần gian nhận biết: Thiên Chúa là Đấng nhân từ như thế nào.
Nếu tôi thật sự tin Thiên Chúa đã yêu thương và chết cho tôi, thì tôi cũng sẽ có khả năng tha thứ và yêu thương kẻ thù; và trong cách đó tôi đúng là đã trở nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng từ nhân; còn nếu như tôi không chấp nhận tha thứ và yêu thương dầu chỉ một người thù nào đó, thì chính niềm tin vào Đức Giê-su Thập Giá của tôi đang có vướng mắc nghiêm trọng. Lúc đó, cho dầu có đạt được tới độ siêu việt mọi thứ nhân đức trên đời, tôi cũng vẫn không thể xác quyết được rằng: mình đã tới gần được sự hoàn thiện của Thiên Chúa, Đấng trong Đức Ki-tô đã tha thứ và hiến mình cho các tội nhân.
Nếu thế thì trong tư cách mục tử – tu sĩ của Đức Ki-tô, tôi biết rõ: chính mình trước hết – rồi cùng những người mà tôi có bổn phận dẫn dắt, phải hướng tới sự hoàn thiện trọn lành nào!
Lạy Thiên Chúa trọn lành và thánh thiện vô cùng, khi đòi con phải trở nên hoàn thiện như Cha, Cha đã cho con một tấm gương hoàn thiện mà con hằng phải chiêm ngắm, đó là Đức Giê-su chết treo trên Thập Giá; đồng thời Cha cũng gieo vào lòng con nguồn mạch của sự hoàn thiện là Thần Khí Cha. Xin cho con luôn biết lắng nghe Thần Khí tình yêu nhắc nhở, nhất là mỗi khi gặp trái ý, thù nghịch, để con biết rộng mở cho tha thứ và yêu thương như Cha, nhờ đó con có thể trở nên hoàn thiện như Cha nhân ái trên trời. A-men.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Bộ phim ‘Chú bé Karatê’ (Karate kid) thuật lại câu chuyện về một đứa bé đến gặp một võ sư Nhật Bản để xin thụ giáo. Vị võ sư nhìn vào thằng bé và hỏi: “Con đến xin ta dạy võ để làm gì?” Chú bé thành thật trả lời: “Thưa thầy, con đến xin thầy dạy võ cho con để con về nhà trả thù”. Suy nghĩ một lát, vị võ sư trả lời: “Được, nhưng trước hết con hãy về nhà và đào sẵn 2 cái huyệt, một cái để chôn kẻ thù của con, còn cái kia để chôn chính con”. Vị võ sư đã trích dẫn câu ngạn ngữ Trung Hoa để nhắc cho đứa học trò biết rằng, khi lòng chúng ta mang nặng thù hận và không biết quảng đại tha thứ, chúng ta đang tự đào hố chôn mình.
Nên hoàn thiện như Cha trên trời.
Đây là quy chuẩn tuyệt đối và trọn hảo mà Chúa Giêsu đã nêu ra trong bài Tin mừng hôm nay. Sau khi giải thích cho các học trò về các lề luật cũ với 1 chiều kích mới, Chúa đã tóm kết bằng một định thức đơn giản: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ Đức Ái cũng đã viết trong khảo luận của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu.” Đức ái ở đây là thuộc tính căn bản của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã khẳng quyết: “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,16b). Ngàyhôm nay, nhiều cá nhân hay nhiều đoàn thể vẫn hay tổ chức những việc bác ái xã hội. Điều đó rất đáng trân quý. Nhưng nếu không xuất phát từ tình yêu dành cho Thiên Chúa theo khung Đức Ái từ nơi Ngài, thì những công việc từ thiện đó chỉ mang tính hình thức bên ngoài, đôi khi rất giả tạo. Trong 3 năm trời, Đức Giêsu đã bôn ba đi khắp các làng mạc để rao giảng và chữa lành. Những công việc này nhằm quảng diễn lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu không phải là chuyên viên đi làm công tác xã hội. Ngài chẳngbao giờ đi cứu trợ các nạn nhân lũ lụt với các bao gạo hay với các thùng mì gói. Ngài cũng không hềnhúng tay vào việc xây cấtcác nhà tình thương cho người nghèo, cũng chẳng đem tiền bạc dư thừa đến vùng quê để xây trường học hay bệnh viện. Nhưng Chúa Giêsu đã cho đi tất cả, đã hiến dâng tất cả, đã hiển thị “Đức Ái’một cách tròn đầy nhất qua chính cái chết của Ngài trên Thập giá. Một nhà tu đức nọ đã phát biểu : “Thiên Chúa đã thực hiện một giấc mơ hết sức điên rồ là phân thây xẻ thịt chính người con một yêu dấu để ban tặng chúng ta. Đó là món quà tình yêu vô giá, cao cả nhất và vĩ đại nhất. Đức Giêsu cũng đã từng nói với các môn sinh : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu (Ga 15,13). Đức Giêsu không phải là nhà mô phạm chỉ biết đứng trên bục giảng và dạy các học trò bằng lý thuyết, nhưng đã hiển thị những lời giáo huấn qua chính gương mẫu cụ thể nơi Ngài. Chúa đi bước trước để mời gọi chúng ta là những môn sinh tiếp bước dấu chân của vị Tôn sư trên con đường trọn lành : “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Trong bài đọc 1, tác giả sách Lêvi cũng nhắc lại lề luật cũ mà Đức Chúa đã ban bố trên núi Sinai : “Các ngươi phải thánh thiện, vì ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh”. Nhưng lề luật tuyệt đối này dần dần đã bị xã hội Do Thái cắt nghĩa méo mó với nhiều giới hạn. Ví dụ,yêu mến tha nhân tức là phải thương yêu đồng loại và phải ghét kẻ thù. Điều này Chúa Giêsu đã nhắc lại trong bài Tin mừng hôm nay. Ngài đến trần gian để mặc cho lề luật cũ một chiều kích mới, đó là chiều kích thánh thiêng và tuyệt đối của Đức ái.
Trong chương 13 thơ thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô đã nêu ra những cách thức cụ thể để thực thi Đức ái. ‘Bài ca Đức Ái’ được thánh Phaolô viết ra, vang vọng lại những giáo huấn mà Chúa Giêsu nói tới trong bài Tin mừng hôm nay.
Hãy yêu kẻ thù.
Giáo huấn này xem ra có vẻ nghịch thường và rất khó chấp nhận. Con người từ xưa đến nay vẫn sống theo nguyên tắc mà triết gia Darkwin đã đềxướng : “Sống là tranh đấu”(struggle for life). Phải chiến đấu chống lại kẻ thù. Người Việt Nam vẫn thường nghe câu tục ngữ ‘Giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh’. Chẳng có ai khi bị người ta tát má bên này lại giơ cả má bên kia ‘kính mời’ đối phương tát tiếp. Qủa là những huấn giáo ngược ngạo và chướng tai. Chúng ta chẳng lạ gì khi thấy một số các môn đệ đã bỏ đi sau khi nghe Chúa Giêsu công bố những điều nghịch thường. Họ không thể chấp nhận và nói với nhau : “Lời này chói tai quá, ai nghe cho nổi”(Ga6,60).
Chỉ đi sâu vào mầu nhiệm Thập giá, chúng ta mới dần cảm thấu những nghịch lý nơi giáo huấn của Đức Giêsu. Trên con đường dẫn đến núi Sọ, Chúa Giêsu bị người ta chửi bới, bị tát vào mặt, bị nhổ nước bọt tỏ dấu khinh bỉ, bị đội triều thiên bằng gai nhọn để chế giễu,… Ngài vẫn câm nín như ‘Con chiên hiền lành bị đem đi xén lông mà không kêu ca hay mở miệng’. Trước khi tắt thở, Chúa còn ngỏ lời với Chúa Cha : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đây là cách thái tuyệt hảo nhất để quảng diễn Đức ái mà Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta.
Kết luận.
Thời thế chiến thứ hai có một tên trùm mật vụ khét tiếng của phát xít Đức tên là Ithacos. Anh có bề dầynổi bật về những thành tích tàn phá Giáo hội, sát hại các linh mục và đập phá các nhà thờ, trong đó có nhà thờ thánh Phaolô ngoại thành. Sau năm 1945, phát xít Đức thất trận. Anh ta bị bắt và bị kết án tử hình. Trong trại giam chờ ngày hành quyết, anh đã viết thơ xin Đức Thánh Cha Piô XII tha thứ vàmong muốn được xưng tội. Đức Thánh Cha đã chấp thuận và gửimột linh mục đến giải tội cho anh ta. Ngài còn trao tặng kẻ sát nhân một cỗ tràng hạt và nhờ linh mục giải tội đem đến. Anh ta rất cảm động và nói với Cha giải tội: “ Thưa Cha, tội con đáng nguyền rủa vì đã tàn phá Giáo hội cách khủng khiếp. Con bị kết án là điều hợp lẽ công bằng. Nhưng con rất cảm động vì Đức Thánh Cha đã tha thứ cho con, và đó là điều con không bao giờ dám nghĩ tới. Xin Cha hãy đeo cỗ tràng hạt này vào cổ con vì con hoàn toàn bất xứng. Bây giờ, con cảm thấy rất bình an dù phải đón nhận cái chết”. Sự tha thứ đã giúp hoán cải một tâm hồn, cho dù người đó đã từng là kẻ thù của chúng ta.
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta vẫn lớn tiếng cất lên lời kinh ‘Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con’. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, là ‘kẻ thù’ của Thiên Chúa, vì đã chống lại Thiên Chúa mỗi khi chúng ta phạm tội. Chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ và chữa lành. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta hãy khắc sâu lời giáo huấn của Chúa Giêsu ngày hôm nay: “Hãy yêu thương kẻ thù… và anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
.
Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng
“Chúng con hãy nên hoàn thiện, như Cha chúng con ở trên trời, là Đấng hoàn thiện”.
Đế sống hoàn thiện như Chúa Giêsu dạy, chúng ta hãy thực thi đức ái, nhưng phải thực thi đức ái như thế nào?
- Thức thi bác ai để khỏi bị quấy rầy chăng? Một người nghèo đói nào đó đến ăn xin ở cửa nhà ta, ta giúp họ không vì lòng thương, nhưng để họ khỏi quấy rầy,… Kẻ nghèo khó đôi khi vì tự ái không thèm nhận của ta bố thí. Thánh Phaolô dạy: “Anh em có vui lòng giúp đỡ kẻ khác, mới đẹp lòng Thiên Chúa”. Một văn sĩ nói rằng: “Cách cho có thể làm tăng hay làm giảm giá trị của cho”.
- Có kẻ thực thi bá ái trên loa phóng thanh. Họ thực thi bác ái theo cách của những người biệt phái: Họ khoe khaoang, họ kể công, họ không muốn “áo gấm đi đêm”. Người đời thường khoe khoang như thế, còn Chúa Giêsu dạy: “Khi chúng con làm phúc bố thí, tay mặt đừng cho tay trái biết”. Thực thi bác ái như thế mới được Chúa ghi công. Và kẻ được giúp, đỡ mặc cảm và vui lòng nhận. Hãy nhớ rằng: “Cho thì sung sướng hơn nhận”. Nên ta hãy rộng tay bố thí coh kẻ cùng khổ.
- Có kẻ lại thực thi bác ái theo kiểu hàng hai chiều: Nghĩa là cứ: “Bánh sáp đi, bánh qui lại”, và hễ “Ông đưa chân giò, bà thò chai rượu”. Hay “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Xử sự với nhau như thế mới chỉ là giữ đức công bằng giao hoán, và sự hoán đổi hai chiều, chứ chưa phải là thực thi bác ái. Chúa Giêsu dạy: “Người xưa bảo: Mắt thế mắt, răng đền răng! Còn Thầy dạy: Đừng chống lại với kẻ hung ác,…Nếu ai vả má bên phải của con, con hãy đưa luôn má bên trái. Ai muốn đoạt áo ngoài của con, con hãy đưa luôn cả áo trong”.
Những đòi hỏi trên của Phúc âm xem ra khó thực hiện. Nhưng nếu ta thực thi được như thế, ta thực là quân tử.
Ngược lại, nếu ai chửi ta, ta chửi lại. Ai đánh ta, ta đánh lại. Ai nói xấu ta, ta nói xấu lại. “Ăn miếng trả miếng”, “nợ máu trả máu”. Đó là cách cư xử thường tình của người đời. Còn Chúa Giêsu dạy: “Đừng chống cự với kẻ hung ác. Hãy yêu thù địch. Hãy làm sự lành cho kẻ ghét con. Hãy cầu nguyện cho kẻ bắt bớ con”. Xử sự như thế, xem ra có vẻ thua, có kẻ cho là hèn nhát. Nhưng xét cho kỹ, chỉ có bậc quân tử mới xử sự được như thế.
Đức phật thích ca cũng dạy: “Hãy lấy ân mà báo oán. Nếu ta lấy oán báo oán, oán ấy chồng chất. Nhưng nếu ta lấy ân mà báo oán, oán kia tiêu tan”.
Những đòi hỏi Tin mừng hôm nay giúp chúng ta sống theo Chúa, Ngài sống hiền lành, khiêm nhường, Ngài luôn yêu thương và tha thứ.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết yêu thương hết mọi người chẳng trừ ai.
.
Trầm Thiên Thu
Tác giả Thánh Vịnh nhận định: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Thật là trên cả tuyệt vời!
Luật Chúa tóm tắt thành Thập Giới (Mười Điều Răn), nhưng cũng có thể tóm gọn trong một chữ YÊU – và xin được gọi là Nhất Tự Luật. Thánh Vịnh 119 là Bản Trường Ca đề cao Luật Chúa. Tuân giữ Luật Chúa là một trong các mối phúc: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời. Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người” (Tv 119:1-2).
Quốc gia nào cũng có luật pháp, ngay cả một nhóm nhỏ cũng cần có luật pháp – thường gọi là quy luật, quy ước, nguyên tắc, nội quy,… Người đời có luật riêng, Giáo Hội có luật riêng – giáo luật.
Bản chất của luật pháp phản ánh bản chất của nhà nước đặt ra nó, nhà nước kiểu nào thì luật pháp kiểu đó. Chính vì vậy, luật pháp có tính giai cấp. Luật pháp còn có tính xã hội, vì nó chứa đựng các chuẩn mực chung được đa số ủng hộ, nếu không thì luật pháp sẽ bị chống đối. Luật pháp cũng có tính dân tộc, nghĩa là phù hợp với truyền thống, tập quán, giá trị đạo đức của các dân tộc trong đất nước. Bản chất này cho phép luật pháp gần gũi với dân, được dân ủng hộ, do đó mà có hiệu quả điều chỉnh đối với các quan hệ xã hội. Luật pháp cũng có tính thời đại, nghĩa là phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của đất nước, có khả năng hội nhập với luật pháp quốc tế.
Nói về luật pháp, văn hào Victor Hugo (1802-1885, Pháp quốc) xác định: “Với nhân dân, quyền lực duy nhất là luật pháp; với cá nhân, quyền lực duy nhất là lương tâm”. Luật pháp không hề đơn giản, nhà lãnh đạo Mahatma Gandhi (1869-1948, Ấn Độ) nói: “Luật lệ bất công tự nó đã là một dạng bạo lực”.
Văn sĩ Honoré de Balzac (1799-1850, Pháp quốc) đề cập một thực tế phũ phàng: “Luật pháp là mạng nhện mà ruồi lớn thì bay qua còn ruồi con thì mắc kẹt”. Cuộc đời là thế, như tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Miệng nhà giàu có gang, có thép”. Cướp giật vài ổ bánh mì vì đói thì bị kết án tù, cướp hàng tỷ đồng thì chỉ “bị” làm kiểm điểm và rút kinh nghiệm; mua hai thớt gỗ thì bị kết tội “phá rừng”, phá cả khu rừng thì được coi là “đại gia”; hại một người thì bị kết án tù, giết cả triệu người thì cho là “vĩ đại”. Những dạng luật pháp như vậy người ta gọi là “luật rừng”. Kinh khiếp quá! Còn chính khách Benjamin Franklin (1706-1790, Hoa Kỳ) lại đề cập tính bất cập: “Luật pháp nghiêm khắc nhất đôi khi là sự bất công trầm trọng nhất”.
Luật pháp của con người chỉ là tương đối, còn luật pháp của Thiên Chúa tuyệt đối và bất biến, đúng như Chúa Giêsu nói rõ: “Trước khi trời đất qua đi, một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).
Luật pháp có hai dạng chính: CẤM làm và PHẢI làm hoặc KHUYÊN làm (dạng “phải” thì bắt buộc, dạng “khuyên” thì tùy ý – làm thì có lợi, không làm thì bất lợi). Ngày xưa, Đức Chúa truyền điều này cho ông Môsê: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi PHẢI thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19:1-2). Rõ ràng “nên thánh” là dạng bắt buộc chứ không tùy ý, và chắc chắn rằng không làm thánh thì làm quỷ. Chỉ có thể chọn MỘT trong hai, không có cách chọn lựa thứ ba.
Đức Chúa mạnh mẽ truyền lệnh thêm: “Ngươi KHÔNG ĐƯỢC để lòng ghét người anh em, nhưng PHẢI mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ KHỎI MANG TỘI vì nó. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC trả thù, KHÔNG ĐƯỢC oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi PHẢI yêu đồng loại như chính mình. Ta là ĐỨC CHÚA” (Lv 19:17-18). Các mệnh lệnh “không được” (cấm) và “phải” (bắt buộc) rất rõ ràng, rất rạch ròi. Chúng ta không có cách nào để tự biện hộ. Và rồi chỉ có cách YÊU thương để nên THÁNH, rút gọn cho dễ nhớ là YÊU – THÁNH.
Chỉ có một cách, một lối, một hướng, một quyết định, nhưng không có nghĩa là bị triệt buộc, vì Thiên Chúa vẫn cho chúng ta hoàn toàn tự do chọn lựa. Hiểu được như vậy thì không thể không yêu. Tác giả Thánh Vịnh đã yêu nên không thể im lặng, mà phải chia sẻ và mời gọi người khác cùng yêu, cùng tôn vinh Thiên Chúa: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:1-4). Vâng, Thiên Chúa quá tốt lành hơn mức chúng ta có thể tưởng tượng. Kỳ diệu quá chừng!
Thật vậy, “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Ngài chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103:8), mặc dù chúng ta luôn nổi loạn và vô ơn bạc nghĩa. Chỉ có ý sám hối là Ngài tha thứ ngay, và “Ngài không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:10). Chúng ta có tha cho ai lầm lỗi nào thì nhớ dai lắm, đôi khi còn “nhắc đi nhắc lại” để chứng tỏ mình tốt bụng, nhưng Thiên Chúa không như vậy, Ngài tha rồi quên luôn, không còn biết quá khứ của chúng ta thế nào, Ngài chỉ biết hiện tại của chúng ta là người đã sám hối và mong tương lai của chúng ta sẽ trong sạch. Về tội lỗi trong quá khứ của chúng ta, Thiên Chúa có cách quên thế này: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:12-13). Tội nhân bỗng trở thành chính nhân, sống đời chính nhân chính là trở nên thánh nhân. Nhưng được như vậy là nhờ hồng ân thương xót của Thiên Chúa, chứ chúng ta chẳng làm được gì “đáng công”, vì thế đừng vội khoe mẽ khi làm được điều gì đó có vẻ “hơn” người khác một chút!
Tại sao phàm nhân chúng ta PHẢI nên thánh? Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3:16). Cách nói nghi vấn đã có câu trả lời, đó là dạng xác định mạnh mẽ. Bảo vệ một cái cây không chỉ là không phá hại mà còn phải chăm sóc, vui xới. Với Đền Thờ bằng vật chất cũng vậy, ngoài việc bảo trì chúng ta còn phải tu sửa. Thánh Phaolô nói rõ: “Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1 Cr 3:17). Câu này cũng có thể hiểu về việc bảo vệ sự sống (phò sinh – pro-life). Phá thai, giết người hoặc hành hạ người khác là phạm tội phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, và chắc chắn Thiên Chúa sẽ hủy diệt bất cứ ai dám phá hủy sự sống.
Thánh Phaolô khuyên: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài” (1 Cr 3:18-23). Thánh nhân bảo chúng ta đừng ảo tưởng, đừng sống trên mây trên gió, đồng thời cũng bảo chúng ta đừng giả hình, mà hãy sống thực tế với đức tin của chính mình.
Trong trình thuật Mt 5:38-48, Chúa Giêsu dạy chúng ta hai điều: [1] CHỚ trả thù (tương đương Lc 62:9-30), [2] PHẢI yêu kẻ thù (tương đương Lc 6:27-28, 32-36). Một điều CẤM và một điều BẮT BUỘC.
Phần một, Mt 5:38-42 đề cập điều cấm: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: ĐỪNG chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai XIN thì hãy CHO; ai muốn vay mượn thì ĐỪNG ngoảnh mặt đi”.
Chúa Giêsu CẤM trả thù, tức là PHẢI tha thứ. Gương tha thứ điển hình là Thánh Maria Goretti đã tha thứ cho Alessandro, kẻ đã sát hại mình; và Thánh GH Gioan Phaolô II, khi còn sinh thời, ngài đã bị Mehmet Ali Ağca – thành viên của tổ chức Grey Wolves (Sói Xám, thuộc nhóm Hồi giáo cực đoan) – ám sát tại quảng trường Thánh Phêrô ngày 13-5-1981, sau đó ngài đã đích thân đến tận nhà tù để tha thứ cho hắn. Tất nhiên gương tha thứ vĩ đại nhất là Chúa Giêsu: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).
Tha thứ là điều không dễ, nhất là khi vấn đề nghiêm trọng, thế nhưng PHẢI tha thứ cho nhau, có như thế thì mới có thể nên thánh. William Arthur Ward (1921–1994, nhà giáo dục người Mỹ) nhận định: “Trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ – Before you pray, forgive”. Ý tưởng rất phù hợp với ý Chúa, vì Chúa Giêsu đã có lần cảnh báo: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5:23-24).
Phần hai, Mt 5:43-48 đề cập điều bắt buộc: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy YÊU kẻ thù và CẦU NGUYỆN cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì NẾU anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên HOÀN THIỆN như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Rõ ràng, rạch ròi, chi tiết. Tha thứ cũng chưa đủ, còn phải yêu thương và cầu nguyện cho những người ghét mình, đối lập với mình. Kể cũng “căng” lắm đấy, nhưng các thánh đã làm được, dù các ngài cũng là phàm nhân như chúng ta, thế thì chúng ta cũng làm được – nếu thực sự muốn nên thánh.
Thánh Luật của Thiên Chúa là Nhất Tự Luật: YÊU. Và Luật Yêu cũng là Đệ Nhất Luật. Thật vậy, Kinh Thánh đã xác định: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13:10). Điều này cũng được đề cập trong Rm 13:8, Gl 6:2, Gc 2:8.
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu vĩnh hằng, xin giúp con biết chạnh lòng thương bằng cách thức thưng xót của Ngài, xin giúp con cố gắng trở nên khí cụ yêu thương và bình an để Ngài sử dụng theo Tôn Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một chân lý, một chân lý duy nhất đó là “yêu thương kẻ thù”. Vâng, khác với người đời, người môn đệ của Đức Kitô phải biết tha thứ cho kẻ làm hại mình.
Một chân lý không dễ dàng, vâng đúng như vậy. Nhưng, chúng ta không làm một mình , mà chúng ta có Chúa Giêsu ở trong chúng ta. Đoạn Lời Chúa hôm nay ( Mt 5, 38 -48) không dễ thực thi, không xa lạ với người đọc. Có thể là đoạn Lời Chúa khó nhất trong tất cả. Khi dạy chân lý nầy, Chúa Giêsu đã biết rất khó đối với phàm nhân.
Vậy , ai chấp nhận và làm theo , thì người ấy là mộn đệ của Đức Kitô.
Trước khi hiểu được Lời Chúa và thực thi, chúng ta hãy tìm hiểu về dân tộc tính của người Dothai, họ là dân riêng của Thiên Chúa, là dân tộc Thiên Chúa chọn trước tiên, họ có một “ưu điểm” là rất thông thái, vì vậy, sự thông thái mà Thiên Chúa ban cho họ là ân huệ lớn lao, từ đó họ đánh mất “ lòng thương xót”, còn lại là sự ”trả đũa”, một sự “ sòng phẳng “ đến tàn nhẫn. Họ căn cứ vào luật cũ và thực thi một cách máy móc, như cỗ máy, chứ không phải “ nhân tâm “.
Và vì vậy, chính Đấng “ Cứu Thế ” là “ đối tượng” của họ bị “xử” theo luật Dothai. Lòng nhân của Thiên Chúa đứng trên tất cả mọi tội lỗi, gian ác của thế nhân. Vì thế, “phương pháp” trả thù tốt nhất là “ không thù oán “, muốn vậy, phải làm cho kẻ muốn hại mình bằng cách “thỏa mãn” cơn khát hận thù bằng sự “ tha thứ ”. Thực ra, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một “ phương pháp” đi trước một bước , có nghĩa là :sẵn lòng tha thứ cho kẻ làm haị mình, như vậy là “ chận đứng” được kẻ thù. Vậy lời Chúa hôm nay cho chúng ta hai phương pháp:
- Một là : Chặn đứng kẻ thù , không tạo ra kẻ thù.
- Hai là: Hành động cao thượng của sự tha thứ. Sẽ làm cho kẻ thù khuất phục.
Nếu chúng ta không chuẩn bị sẵn sàng cho những tâm tình trên, chúng ta rất khó thực thi Lời Chúa, đối phó với kẻ làm hại chúng ta. Vì , khi kẻ muốn đoạt của chúng ta điều gì, ngoài kẻ trộm cướp, tức sự bất ngờ, còn lại là những người thân, quen của chúng ta. Lời Chúa cho chúng ta sự phòng xa, dự bị trước, là” làm thoãn mãn” điều đối phương “ muốn “ không phải chiều theo sự ác, nhưng “ biểu lộ “ sự quãng đại, sự cho đi. Tức tránh thái độ ích kỷ, tự nhiên chúng ta không có kẻ thù.Khi chúng ta học được sự phòng bị nầy, chúng ta mới có thể dễ tha thứ cho kẻ thù.
Thường chúng ta nghĩ “ trả thù” mới là người khôn ngoan, nhưng thật ra là người “ dại dột” , bởi vì, thứ nhất chúng ta sẽ bị ” lỗ ” về thì giờ. mưu tính, hành động để tar3 thù. Nhưng, khi chúng ta tha thứ, chúng ta quên ngay “ tất cả” như vậy, chúng ta sẽ “ lời”. Như vậy, tha thứ là hành động của khôn ngoan, chứ không phải của ngu dại.
“Mắt đền mắt, răng đền răng” là sự công bằng đưa đến “ sự chết”, bởi vì, hai đối phương sẽ bị thiệt thòi, xã hội què quặt. Một xã hội đui điếc, què quặt, thương tật về mặt thể lý, tất nhiên , sẽ đau yếu về mặt tâm linh. Vì tha thứ đem lại sự sống, trả thù dẫn đến tiêu vong.
Chúa Giêsu không trả thù ai hết, nhưng biến kẻ thù phải” quỳ “ sụp lạy để tôn thờ Người là Thiên Chúa, vì hành động yêu thương, tha thứ.
Nhưng thật ra, Lời dạy của Chúa Giêsu không dễ thực thi, vì : “ Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người…” ( Gr 17, 9 ). Nhưng, người môn đệ Đức Kitô có thể thực thi, bởi vì họ có Chúa ở trong họ.
Kẻ thù là kẻ muốn “ chiếm đoạt” bất công của người khác, tùy mức độ, nhưng là kẻ gian ác. Luôn có sẵn nơi lòng người. Vì thế, khi sẵn sàng tha thứ theo Lời dạy của Chúa Giêsu, là họ biệt thay thế” lòng gian ác “ của phàm nhân ,bằng “ lòng thương xót” của Thiên Chúa.
Vậy, xã hội nào, nhà cầm quyền nào biết cổ võ Đaọ Công giáo, thì xã hội đó sẽ mạnh mẽ, hùng cường, vì không có công dân “ què quặt” thể chất cũng như tinh thần.
Cái ác xảy ra hằng ngày, nhưng luôn nằm dưới sự quan phòng của Thiên Chúa, vì lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay minh chứng cho điều ấy.
Trong năm 2016, người ta thống kê được trên thế giới có con số triệu người Công giáo bị bách hại. Như vậy, Lời Chúa quả là một sự thách thức lớn đối với người tín hữu. Nhưng, gương chứng nhân như cha Phanxico Xavie Trương Bửu Diệp là một minh chứng cho Lời Chúa hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù, vì cính là để thay thế “ con tim “ gian ác “ của họ bằng “ con tim “ nhân từ của Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết thực thi Lời Chúa dạy, ngõ hầu như đèn sáng được đặt trên giá./. Amen.
.
AM. Trần Bình An
Câu chuyện bắt đầu từ thập niên 1920, khi 2 anh em nhà Dassler trở thành đối tác làm ăn tại công ty Dassler Brother Sports Shoe Company. Cá tính 2 người hầu như trái ngược nhau. Adolf (Adi) Dassler trầm lặng, ít nói. Anh phụ trách khâu thiết kế và làm ra các đôi giày. Còn người anh Rudolph (Rudi) lại rất nóng nảy, phụ trách kinh doanh. Họ đã chiêu dụ được vận động viên chạy nước rút người Mỹ gốc Phi Jesse Owens mang giày của họ, khi hoàn thành chặng đua và giành 4 huy chương vàng tại Thế Vận hội Olympic năm 1936. Chiến thắng của Owens đã mở đường cho thương hiệu giày của 2 anh em ra thế giới. Doanh số của Công ty Dassler từ đó tăng vụt.
Nhưng thành công này đã tạo ra những căng thẳng mới trong quan hệ của 2 anh em, vốn trước đó đã có nhiều xích mích giữa vợ của 2 người. Mặc dù không ai chắc là điều gì dẫn đến sự thù địch, nhưng nó được cho là do hiểu nhầm trong giao tiếp. Adi đã trú ẩn trong một hầm trú bom và Rudi cùng gia đình cũng đến trú tại đó. Lúc ấy, Adi đã thốt lên: “Bọn khốn kiếp đó lại trở lại rồi”, ý muốn ám chỉ máy bay đánh bom của quân Đồng Minh. Rudi lại tưởng rằng câu chửi ấy là nhắm vào mình và gia đình, nên đã rất tức giận. Mối thù nghịch giữa 2 anh em đã bắt đầu từ đó.
Mâu thuẫn càng leo thang khi 2 anh em chia tách công ty vào năm 1948. Nhân viên được tự do chọn phe. Adi đặt tên công ty là Adidas, ghép các ký tự đầu trong tên và họ của mình. Rudi cũng làm như thế. Mới đầu anh đặt tên công ty là “Ruda” nhưng cuối cùng lại đổi thành tên Puma để nghe cho thể thao hơn.
Sau khi chia tách công ty, cả 2 anh em cũng đoạn tình đoạn nghĩa, từ đó chưa bao giờ nói chuyện lại với nhau. Họ đã xây dựng các nhà máy ở 2 bên bờ sông Aurach. Các nhà máy này cạnh tranh với nhau và mỗi lần bên nào đưa ra công nghệ cải tiến mới là bên kia “phản kích” lại.
Vì cả thị trấn bị lôi vào cuộc chiến gia tộc Dassler, nên sự thù địch này cũng trở nên cực kỳ vô lý. Do người dân hay họ hàng đều làm cho Adi hoặc cho Rudi, nên họ buộc phải chọn phe. Dân cư Herzogenaurach chia rẽ do ảnh hưởng sự thù hằn giữa hai anh em ruột. Tuy nhiên, đau một nỗi là do quá lo cạnh tranh mà họ đã bỏ quên mất một đối thủ đáng gờm là Nike. Rốt cuộc, Nike đã dần thống lĩnh thị trường giày thể thao, bỏ xa Puma và Adidas.
Mãi đến tháng 9.2009, các nhân viên của 2 công ty mới kỷ niệm việc chấm dứt mối thù hằn kéo dài 60 năm, bằng một trận bóng giao hữu. Lúc đó cả 2 anh em nhà Dassler đều đã mất (mất cách nhau trong vòng 4 năm vào thập niên 1970). Thậm chí khi chết, mối hận vẫn tiếp tục, khi 2 người được chôn ở 2 đầu của nghĩa trang Herzogenaurach. Qua đời rồi nhưng họ vẫn muốn ở cách người kia càng xa càng tốt. (Mối thù anh em nhà Puma & Adidas, Nhịp cầu đầu tư)
Tuy hai anh em ôm mối hận thiên thu xuống tuyền đài, nhưng đã gây hệ luỵ rất đáng tiếc đến biết bao người. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu giải thích cặn kẽ luật tình yêu, xoá bỏ thù hận, hoàn chỉnh Luật Môsê xa xưa. Người đòi hỏi những ai theo Chúa cần bỏ mình, khoan dung, quảng đại, tha thứ và yêu thương kẻ thù.
Bỏ mình & nhẫn nhục
Đức Giêsu phán dạy: “Đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa.” Đó là lấy nhu thắng cương, lấy tịnh khử động, lấy sức mạnh tinh thần chế ngự bản năng, nặng tính sinh tồn đáp trả lại “mắt đền mắt, răng đền răng,” như Luật cũ cho phép. (Xh 21, 23-25; Lv 24, 19-20)
Đức Giêsu mong muốn tín hữu tha thứ, cự tuyệt việc trả thù, hòng giữ lòng thanh thản, bình an, khỏi nhiễm độc sự gian ác, bạo lực xâm chiếm tâm hồn. Thánh Phêrô khuyên mọi người noi gương Đức Giêsu hành xử như Người đã giảng dạy: “Bị nguyền rủa, Ngài không nguyền rủa đáp lại, chịu nạn chịu chết, Ngài không để lời, nhưng Ngài đã phó thác cho Ðấng xét xử công minh.” (1Pr 2, 23)
Khoan dung & tha thứ
“Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm.” Một khi làm chủ được bản thân, hoàn toàn xả kỷ, xoá đi hận thù, tấm lòng mới có thể rộng mở, khoan dung, nhân ái, từ bi, nhường nhịn, chia sẻ, quảng đại cho đi. “Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ.”
Thánh Phaolô cũng khuyên răn thái độ ân cần đối với kẻ thù: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ…Nếu kẻ thù ngươi đói, hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống…Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ.” (Rm 12, 14, 20-21)
Yêu thương & vị tha
Đây là cao điểm tình yêu, xoá nhoà mọi ranh giới kỳ thị, phân biệt, ứng xử, cũng là điều vô cùng khó khăn cho bất cứ ai muốn theo Chúa.“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em,
Tuy nhiên, muốn trở nên con cái Thiên Chúa, thì tiên vàn noi gương Ngài công bằng, chính trực, đầy lòng thương xót, khoan dung, độ lượng, không phân biệt đối xử đối với bất cứ ai. “Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.”
Hơn nữa, Thiên Chúa còn biểu lộ lòng từ bi nhân hậu. “Còn Thiên Chúa thì lại thi thố lòng yêu mến của Người đối với ta là Ðức Kitô đã chết vì ta, ngay lúc ta còn là tội nhân!” (Rm 5, 8) Thiên Chúa yêu thương con người tội lỗi, đã cho Đức Giêsu nhập thể chịu chết thay, hà cớ sao mình lại đi chấp lỗi đồng loại vấp phạm? Do vậy, thay vì hiềm khích trả thù, thì tín hữu Kitô tỏ lòng nhân ái với kẻ thù bằng hành động cụ thể, như cầu nguyện, giúp đỡ, khuyên nhủ họ sám hối. Đây còn là bổn phận, nghĩa vụ mỗi người đối với tha nhân. “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 3, 18)
Hãy yêu thương nhau không bằng lời nói mà bằng việc làm. Hãy yêu thương nhau bằng tay mặt mà tay trái không biết. “Hãy yêu thương nhau như Thày yêu thương chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 755)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu thương mọi người, dẫu bị đố kỵ, ganh ghét, thù địch, hãm hại. Xin cho chúng con theo gương Chúa, biết tha thứ, cho đi và làm phúc.
Khấn xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn mở rộng con tim, yêu thương, làm lành và cầu nguyện cho những kẻ thù địch, để chúng con trở nên con cái Chúa, Đấng trọn lành. Amen.
.
JM. Lam Thy
Liên tục từ Chúa nhật IV/TN-A, các bài Tin Mừng đều trích từ “Bài giảng trên núi” (Mt 5, 1-48). Chúa nhật trước (CN VI/TN-A – Mt 5, 17-37) đã có dịp suy niệm và biện giải vì sao Đức Ki-tô phải kiện toàn luật Mô-sê. Bài Tin Mừng hôm nay (CN VII/TN-A – Mt 5, 38-48) vẫn trích từ “Bài giảng trên núi”, tiếp tục trình thuật hai Lời dạy của Đức Giê-su: “Chớ trả thù” và “Phải yêu kẻ thù”. Vì sao Đức Giê-su phải nhấn mạnh đến vấn đề này? Đó chính là vì – như tuần trước đã trình bày – sự kiện ông Mô-sê biện giải Lời Chúa theo ý riêng của mình. Thực chất điều này trong Giao ước Si-nai là: “Giết người không có mưu tính trước thì được tha, nhưng cố tình thì sẽ bị giết chết (tội ngộ sát và cố sát ngày nay). Đánh đập gây thương tích nhưng không làm chết người, vẫn được tha; nhưng phải bồi thường thiệt hại cho người bị đánh (do nghỉ làm việc và tiền thuốc thang).” (Xh 21, 12-25).
Bài đọc 1 hôm nay (Lv 19, 1-2.17-18) lại thêm một bằng chứng minh họa cho vấn đề này: Điều mà Mô-sê nói “mắt đền mắt, răng đền răng” với ngụ ý nói đến luật công bằng, mà các tác giả khác lại coi là “luật báo phục (báo thù) tương xứng” (Đnl 19, 21) thực chất đã được ngôn sứ Lê-vi giải thích rõ ràng: “ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử: không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. Ngươi không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết. Ta là ĐỨC CHÚA. Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là ĐỨC CHÚA.” (Lv 19. 15-18). Lời dạy này rõ ràng là dành cho những quan tòa xử án (tức là những kinh sư, luật sĩ Do-thái thời đó).
Thực ra nếu chỉ đọc Lời dạy của Đức Giê-su trong Tân Ước về vấn đề “mắt đền mắt răng đền răng” thì thấy là Luật Mô-sê đã quá khắt khe. Nhưng nếu đọc kỹ trong sách Xuất hành hay Lê-vi sẽ thấy mức độ không đến nỗi như vậy. Vấn đề này các sách viết rất dài, chỉ xin trích một đoạn ngắn nói về “mắt đền mắt răng đền răng”. Đó là: “Nếu có ai đánh vào mắt tôi tớ nam nữ của mình, và làm hư mắt đó, thì phải phóng thích nó để đền mắt. Nếu có ai làm gãy răng tôi tớ nam nữ của mình, thì phải phóng thích nó để đền răng.” (Xh 21, 26-27). Phóng thích để đền mắt, đền răng đâu có phải là “mắt đền mắt, răng đền răng” theo kiểu giải thích của Mô-sê “ăn miếng trả miếng” (làm mù mắt ai thì mắt mình phải bị làm cho mù như vậy, làm gãy răng ai thì mình cũng phải bị đánh cho gãy răng như vậy).
Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay (Mt 5, 38-48), để kiện toàn Luật Mô-sê, Đức Giê-su lại tiếp tục dạy về vấn đề thương yêu (“Chớ trả thù” – Mt 5, 38-42 ; “Phải yêu kẻ thù” – Mt 5, 43-48). Như vậy, ở bài Tin Mừng Chúa nhật trước, Đức Giê-su dạy các môn đệ “4 đừng”: “Đừng giận ghét” (Mt 5, 21-26); “Chớ ngoại tình” (Mt 5, 27-30); “Đừng ly dị” (Mt 5, 31-32); “Đừng thề thốt” (Mt 5, 33-37). Bài Tin Mừng hôm nay, Người lại dạy thêm “1 đừng” nữa: “Chớ trả thù” (Mt 5, 38-42). Vì sao con người hay trả thù? Chung quy cũng do tự ái quá cao mà thôi. Bởi tự ái là gì nếu không phải là tự yêu mình. Khi chỉ biết yêu mình một cách thái quá thì sẽ cho là mình đúng, lúc nào và trong trường hợp nào cũng đúng hết. Bởi thế nên được người khen thì chẳng nói làm gì, nhưng bị chê thì tức tối sửng cồ lên ngay. Bị phê bình trúng tim đen thì bằng mọi giá sẽ tìm cách trả đũa. Nói cách khác, khi con người tự ái quá đáng, sẽ rất dễ giận ghét và từ giận ghét sẽ đưa đến hành động trả thù.
Sau 5 lời khuyên “Đừng”, thì tiếp liền theo đó, Đức Ki-tô lại khuyên “Nên” (“Phải yêu kẻ thù”). Cả 6 điều khuyên bảo “Đừng” và “Nên”, xét cho thấu đáo, đều nằm trong luật yêu thương, mà ở đây là Luật yêu thương của Thiên Chúa (vô hạn) chớ không phải của con người (hữu hạn). Nói về luật yêu thương thì chính là nói về nguyên lý tình yêu, nguyên lý ấy xuất phát từ Thiên-Chúa-Tình-Yêu. Vâng, kể từ khi Thiên Chúa dựng nên vũ trụ, muôn loài, thì đã vì tình yêu mà Người dựng nên loài người và đặt làm chủ mặt đất. Con người đầu tiên được sinh ra chỉ có một mình, Thiên Chúa lại thương “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2, 18), nên ban cho một người bạn khác giới tính để từ đó có thể sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Sự đối kháng giới tính không nhằm loại trừ nhau mà là bổ túc cho nhau, hỗ trợ nhau trở nên hoàn thiện. Cũng vì tình yêu, không những Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, có nam có nữ, mà Người lại ban cho con người một đặc ân là được tự do đến gần như tuyệt đối. Cũng vì được tự do như vậy, nên con người đã vượt qua giới răn của Thiên Chúa mà phạm tội. Sau khi phạm tội, con người vẫn không bị trách phạt; chẳng những thế, còn được Thiên Chúa ban Con Một xuống thế để cứu chuộc, để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi và đem lại đời sống vĩnh cửu. Nếu không vì tình yêu, thì Thiên Chúa có đối xử với con người như vậy không?
Và khi vì tình yêu, Đức Giê-su Ki-tô vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, thì Người đã thi hành sứ vụ tình yêu bằng cách khuyên răn, dạy dỗ mọi người sống với nhau bằng tình yêu đích thực, như Người đã thể hiện qua thời gian ngắn ngủi sống trên trần gian và nhất là qua cái chết trên thập tự. Tất cả những Lời truyền dạy, răn đe, những việc làm, nhất là sự hy sinh tột bậc của Người (hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người), chung quy cũng chỉ mong muốn cho con người trở nên hoàn thiện, hầu xứng đáng là một công dân Nước Trời. Mà con người muốn nên hoàn thiện, đáp lại Tình yêu Thiên Chúa thì phải làm sao? Nói gọn lại thì chính là “yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình”. Triển khai ra thì chẳng phải là “5 đừng + 1 nên” đó sao?
Nói tóm lai, bản chất con người vốn dĩ là thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm hơn nữa là khi thù ghét người khác thì lại không muốn người ta thù ghét mình. Nếu không vì thế, các bậc thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác), “ái nhân như ái thân” (yêu người như yêu mình). Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa, tình yêu Người dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người vì tình yêu. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn day: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.” (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 15).
Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Chân lý cuối cùng trên cõi đời này vẫn là yêu thương (Voltaine). Khẳng định đó nói lên một sự thật, dù chúng ta có tìm kiếm địa vị, ưu tư chuyện cơm áo gạo tiền, mơ ước sống trong nhung lụa, cũng chỉ là những bước lòng vòng đầy mâu thuẫn. Xuân Diệu thì cụ thể “yêu thương” khi nói: đố ai sống được mà không yêu, không nhớ không thương một người nào. Quan điểm của cha ông chúng ta lại cho rằng: sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Chúa Giêsu hôm nay không chỉ các môn đệ kỹ thuật dò tìm tấm lòng của anh chị em mình, không chỉ dạy một vài điểm quan trọng ở đời, nhưng mời gọi: “hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”.
Trong khi xã hội luôn đòi hỏi tính sòng phẳng, công bằng: ơn đền oán trả, nợ ơn trả ơn, nợ tiền trả tiền, nợ máu phải trả bằng máu… Chúa Giêsu thì kêu gọi các học trò của Ngài, hãy cùng làm cho giới luật yêu thương sâu rộng, đậm đà, chi tiết và cụ thể hơn. Công lý yêu thương không giới hạn ai là người thân, ai là thù nghịch: “ai vả má bên phải các con, thì hãy đưa má bên kia cho nó ; ai xin thì hãy cho, ai vay mượn, các con đừng khước từ”. Sống trên đời, để biết yêu và được yêu đã khó rồi, Chúa Giêsu lại lưu ý chúng ta, trong yêu thương không hề có khó hay dễ, vì điểm đến của hạnh phúc là ta có tự do, có tự nguyện hy sinh cho người mình yêu không ?
Triết lý khôn ngoan ở đời là: hãy cẩn thận với những người không còn gì để mất, điều ấy không bao giờ thừa, ví như kẻ điếc nào còn sợ súng, người cùi đâu còn sợ lở loét. Hoặc khôn ngoan thì phải biết đề phòng rủi ro: thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ bần cùng liều thân. Đức Giêsu không chỉ dạy các môn đệ né tránh kẻ bần cùng liều thân, cũng không phải tự tìm kiếm đau khổ và cái chết, nhưng Ngài có ý giúp ta phân biệt hai lối sống: khôn ngoan thế gian, và khôn ngoan trong Chúa. Yêu người mình yêu, yêu bằng đầu môi chót lưỡi, đó chỉ là giả dối ; yêu bằng con tim khối óc, là phải trưởng thành hơn như Chúa Giêsu dạy: “hãy yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét các con”. Muốn trở nên con cái Cha trên trời, ai cũng phải sống theo đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa, đặt để tình yêu thương sâu đậm hơn trong đối nhân xử thế.
Ở đời nói chung, chúng ta có thể say mê danh lợi thú, mơ được tài giỏi giầu sang để giúp đời, giúp người ; không dừng lại ở mơ ước, Chúa Giêsu muốn chúng ta tiếp khám phá như thế nào là nét đẹp của tình yêu. Mở túi, mở kho lẫm, mở trí, mở tấm lòng bao dung, hoặc mở cả con tim, cũng chỉ là “mơ hồ”, nếu ta không để Chúa Giêsu hiện diện, bổ sức, thì đức công bình yêu thương của ta sẽ chỉ ở mức độ: mắt đền mắt, răng đền răng. Con người tự nhiên ai cũng có kinh nghiệm: một miếng khi đói bằng gánh khi no. Tất nhiên không phải nghèo đói mới cần ăn uống, cần được khích lệ tinh thần, chính xác là giầu nghèo, tài đức, thánh thiện hay tội lỗi, đều cần được yêu thương, cảm thông.
Cuộc sống hiện tại vẫn cho chúng ta nhiều kinh nghiệm: một kẻ thù không phải là ít, trăm người bạn tốt chưa phải là nhiều. Phương thế hữu hiệu nhất để được thêm bạn bớt thù cũng là cách nói cần nới rộng yêu thương, chứ không phải loại trừ hoặc cắt đứt liên lạc với những ai không thuận với ta. Chính vì yêu thương bị cân đo đong đếm dựa trên sự công bằng vật chất, do đó mà người ta vẫn sợ mang tiếng là hèn nhát, nhu nhược, sợ đối phương thắng thế khi thấy ta lùi bước. Chính vì quan niệm yêu thương là: có qua có lại mới toại lòng nhau, nên người ta không thể “cập nhật”được tính chất cao đẹp mà Chúa Giêsu nói tới: “hãy làm lành cho kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống các con”.
Chính tình yêu mới làm cho trái tim băng giá của chúng ta tan chảy, chứ không phải hận thù bạo lực ; chính vì yêu thương mà Thiên Chúa cho mưa ơn lành xuống trên cả người tốt người xấu. Nghịch lý trong đối nhân xử thế, một là ta yêu, hai là ta ghét, khi yêu củ ấu cũng tròn, khi ghét thì bồ hòn cũng méo. Bao dung tha thứ, dĩ hòa vi quý, một sự nhịn, chín sự lành, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm. Làm sao chúng ta có thể rộng mở tâm hồn để Đức Kitô tẩy rửa tội lỗi và tư cách thông thoáng của chúng ta ? Bằng cách nào để mỗi người biết sống quảng đại, biết xích lại gần Chúa và gần nhau hơn, nếu như chúng ta không để Đức Kitô biến đổi con người giới hạn của ta nên xứng hợp với tình yêu của Cha trên trời. Amen.
.
HÃY HOÀN THIỆN NHƯ CHA ANH EM TRÊN TRỜI
Lm Uyen Nguyen
Chúa Nhật hôm nay tiếp nối Chúa Nhật vừa qua, trong bài giảng trên núi, ĐGS liên tục nói về chính tinh thần của Người là việc giữ luật và kiện toàn luật. Tuy Chúa Nhật này không đề bạt rõ giới luật nào cụ thể mà chỉ nêu lên những cho phép của người xưa là hoàn toàn không phù hợp cần phải được tu chỉnh để có được lối suy nghĩ và phong thái sống hoàn hảo dành cho những ai được gọi là môn đệ Nước Trời.
Vậy đâu là những cho phép của ngươi xưa và điều được ĐGS đưa vào thay thế để hoàn chỉnh cách sống hoàn hảo đúng đắn cho các môn đệ?
ĐGS đưa ra hai lập luận mà người xưa cho phép. Thú nhứt, trích lại khoản luật trong sách Xuất Hành: ‘Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay chân đền chân, vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm’ (Xh.21, 24-25).
Với ĐGS, ‘Người dạy: Đừng chống cự người ác’ (c.39). Trái lại hãy sống tích cực với tấm lòng quả cảm quảng đại, quên đi điều họ làm khốn mình, chúc phúc cho họ. Ai xin cứ cho, ai đòi hỏi gì hãy đáp ứng để được hài hòa, tỏ dấu hào phóng như TC cho mưa nắng mãi cứ đổ xuống trên kẻ lành người dữ.
Điều thứ hai, trích lai khoản luật cho phép trong sách Lêvi. : ‘Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình (Lv.19.18).
Với ĐGS, Người dạy: ‘Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em’ ( 5,43). Đó là cách sống tích cực cũng trong hình ảnh mưa nắng đổ xuống tất cả những hữu ích cho mọi sự đều được hường dùng, cả kẻ lành người dữ. Lối sống tích cực ấy sẽ mang lại sự gặt hái phong phú lợi ích cả về phần thiêng liêng lẫn về vật chất tạm bợ trên đời như ĐGS nói: ‘Chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình thôì thì nào có công chi?’ (c.45).
Để kết thúc phần nói về tinh thần tôn trọng luật của ĐGS cũng như tinh thần cố kiện toàn luật, Người đưa ra một lời kết: ‘Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện’ (c.45). Lời kết mang hai ý: một lời giáo huấn đầy khích lệ cổ vũ, và hé lộ để biết tính chất bất biến tự bản thể cũng như những phẩm tính tuyệt đối cao vời Đấng là chủ tể trời đất: thánh thiện, tốt lành, nhân từ, và chân thật.
Vì đâu ĐGS phải đưa ra những lập luận riêng của Người là Lời của TC hằng hữu và hằng sống như thế? Luật cũ có thiếu sót và với lý do nào cần điều chỉnh?
Điều mà con người làm ra ít nhiều có bất toàn, và như thế, ắt cần có sự điều chỉnh hoặc sửa đổi theo thời gian vì với những hoàn cảnh đổi thay hay các thế hệ sống nối tiếp nhau mang lại nhiều trào lưu tiến bộ về mọi mặt. Hơn thế, lý do nặng ký để dựa vào đó điều chỉnh những khiếm khuyết của luật cũ người xưa, ĐGS khát khao đời sống môn đệ Nước Trời thiết cần hoàn hảo về mọi mặt cũng như về mọi lãnh vực. để khỏi vấp ngã trước ‘chiếc lưới trời’ chụp xuống bất chợt: ‘thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu’. Vì đó với những lý do sau đây, luật xưa cần được kiện toàn:
Trước tiên, nhân danh Nước Trời. Nước Trời như chiếc lưới, tự bản chất, có chọn lọc, chọn cá tốt bỏ vào Nước Trời, cá xấu vất ra ngoài. Nước trời giống như hạt cải, tuy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt khác, nhưng lại có sức thể hiện mình phát triển to lớn. hình ảnh của sự khiêm nhường, thua thiệt hiện tại nhưng mang lại thành quả tương lai không có gì sánh bằng. Nước Trời giống như thuở ruộng, chủ gieo hạt giống tốt đặc sản, kẻ thù gieo cỏ lùng. Khi chủ không tỉnh táo ra ruộng nhổ cỏ lùng, có thể nhổ nhằm lúa, hành vi đó tự gây hại cho chủ. Thà cứ để đến mùa gặt, gặt cả hai và lựa ra xếp riêng. Lúa đưa vào kho lẫm, cỏ lùng gom lại bỏ vào lửa thiêu đốt.
Thứ hai nhân danh phẩm tính TC. Phẩm tính TC là những gì phát xuất từ bản thể của Ngài, đời đời tự hữu hằng có. Bản thể đó có được những phẩm chất như đã nói trên: thánh thiện, tốt lành, nhân từ và chân thật. Tất cả những gì ngược lại những phẩm tính đó đều thuộc về ác quỷ, hoặc để gây rối, để xúi giục, hoặc để kết bè lũ chống báng TC. Con người là con cái TC mang hình ảnh TC cần giải phóng các ác tính của tội dể nguyên vẹn sống hình ảnh đó đạt đến sự hoàn thiện.
Thứ ba, nhân danh điều tóm lược nơi mười điều răn: yêu TC trên hết và yêu tha nhân như chính mình. Đặt biệt yêu tha nhân như chính mình không cho phép có hành vi nào dành cho người mà chính mình lại không muốn chúng xảy ra cho mình.
Tóm lại, ĐGS dạy hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện, không có lời dạy nào phù hợp hơn dành cho những kẻ được kêu gọi vào Nước Trời. Kẻ vào được Nước Trời chính là những công dân mới, đầy đủ ý chí và tự do tha thiết tuân hành luật cũ được kiện toàn nên mới đúng điều kiện đòi hỏi của Nước Trời: ‘Không ai biết được những gì trên trời ngoài Con Người từ trời xuống’.
Lạy Chúa, này con đây, một đời ‘bé nhỏ’ sống vâng theo ý Chúa, tuy có không ít chông chênh chao đảo lắm lắm phen. Vẫn xin Chúa đoái thương đón nhận như tên đầy tớ vô dụng vẫn còn cố trung tín trong niềm tin-cậy-mến.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trả thù, báo oán là hạ sách
Luật trả thù báo oán kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa, thế mà ngày nay không ít người vẫn muốn ứng xử với nhau theo thứ luật rừng man rợ nầy. Nhiều người vẫn chủ trương sống theo luật “mắt đền mắt, răng đền răng.”
Trước hết, đây là cách ứng xử thông thường của loài cầm thú, như gà chọi chẳng hạn: Con nầy đá qua, con kia mổ lại, đấu đá nhau cho đến khi cả hai đều gục xuống, kiệt sức, mình mẩy đầy máu me!
Đây cũng là phản ứng tự nhiên của những con trâu điên, của những con chó dại: Trâu nầy húc qua, trâu kia báng lại cho đến khi cả hai không còn hơi sức.
Những cách ứng xử như trên thật là man rợ, rừng rú, chỉ thích hợp cho một số loài động vật hung hãn. Là người, chúng ta không thể sống theo bản năng hạ cấp mang đầy thú tính như vậy.
Nhiều cuộc xung đột trên thế giới được giải quyết theo kiểu “mắt đổi mắt, răng đền răng”, tức giải quyết bằng chiến tranh, trả thù, báo oán và đã đưa đến hậu quả vô cùng bi đát. Lịch sử chiến tranh giữa các dân tộc qua bao thời đã cho thấy điều đó.
Bao dung tha thứ cho kẻ thù là thượng sách
Qua trích đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su đề xuất một giải pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” và “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39.44)
Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.
Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra, bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn!
Nhưng khi người ta quai búa giáng mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là nước thắng lợi vẻ vang!
Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu quả là chúng bị gãy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo chiều gió nên chúng được an toàn.
được quy luật đó nên Lão tử đã dạy môn sinh từ mấy ngàn năm trước: “Nhu thắng cương, nhược thắng cường.” Vị sư tổ của môn phái Judo cũng đã dựa vào quy luật nầy để sáng lập nên môn phái Judo (nhu đạo), một môn võ thuật lấy mềm dẻo để chiến thắng tính hung bạo cứng rắn.
Tha thứ đem lại bình an cho tâm hồn
Khi oán ghét, giận hờn, căm thù người khác, ta cảm thấy tâm hồn mình như một mặt hồ đang yên bình bỗng nhiên nổi sóng. Ta cảm thấy bực bội, cay cú và như muốn phát khùng. Thế là ta đánh mất sự bình an trong tâm hồn: ăn không ngon, ngủ không yên, huyết áp lên cao, bệnh tật phát sinh và tất nhiên, nếu cứ lặp lại tình trạng nầy nhiều lần thì ta bị tổn thọ.
Trong khi đó, người bị ta giận ghét thì vẫn sống hồn nhiên, vẫn vui đùa, vẫn thanh thản hạnh phúc như không có gì xảy ra. Nỗi căm hờn giận ghét của ta dành cho y không làm y đau khổ, mà chỉ làm cho ta đau khổ thôi.
Như thế, khi nuôi lòng giận ghét căm hờn người khác, là ta tự phạt mình, tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, tự gieo thêm bệnh tật cho mình, tự cắt ngắn tuổi thọ của mình. Làm thế thì chẳng phải là thiếu khôn ngoan sao!
Thế thì ta hãy thôi đày đoạ và tự làm khổ mình, hãy trả lại bình an cho tâm hồn mình, trả lại hạnh phúc cho cuộc đời ta bằng cách tha thứ, xoá bỏ và quên đi lầm lỗi của người khác. Chỉ bằng cách nầy, ta mới tìm lại được bình an cho tâm hồn, tìm được hạnh phúc cho cuộc sống.
Lạy Chúa Giê-su,
Hình ảnh đẹp nhất trên đời là hình ảnh của Chúa năm xưa trên đồi Can-vê, dù đang bị đám đông bạo ngược phỉ báng, hành hạ, đóng đinh vào thập giá mà Chúa vẫn tha thiết cầu xin Thiên Chúa Cha thứ tha cho bao kẻ xúc phạm đến Ngài.
Xin ban cho chúng con có đủ yêu thương, có đủ bao dung và thông cảm để sẵn sàng tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng con, và sẵn sàng yêu thương, cầu nguyện cho họ như Chúa đã nêu gương.
.
NIỀM VUI GIA ĐÌNH LÀ SỰ THÁNH THIỆN
Lm. Giuse Nguyễn
Hội đồng Giám mục Việt Nam có chương trình mục vụ cho 3 năm (2016-2019) với chủ đề “Mục vụ Gia đình”. Giáo phận Cần Thơ chọn năm đầu tiên (2016-2017) là “Năm Gia Đình 2017” với khẩu hiệu “Niềm Vui Tình Yêu Gia Đình”, để “chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân”. Thiết nghĩ, để chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân và để gia đình có được niềm vui, không gì khác hơn là phải sống thánh thiện như Thiên Chúa đã truyền dạy.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: Lv 19, 1-2.17-18
Sự thánh thiện là một trong những ý niệm chính của Lêvi và cả Cựu ước, nó bao gồm tất cả những mầu nhiệm cao cả về Thiên Chúa, vượt lên trí mọi phẩm tính của tạo vật nói chung và con người nói riêng. Tuy nhiên Đấng cao cả ấy lại cho cho người đến với mình, sự thánh thiện của Ngài được ban cho con người: “Các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Đấng thánh” (Lv 19, 2). Nghĩa là dân riêng của Thiên Chúa phải khác biệt với dân ngoại về ý thức mình được Thiên Chúa chọn làm dân riêng, và cả về đời sống luân lý, tức là những hành vi của con người. Ý thức và hành vi đó phải có sự hiện diện của Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Đó là sự thánh thiện.
Trong đoạn sách Lêvi 19, 17-18, Thiên Chúa chỉ dạy cho dân chúng những hành động thánh thiện trong mối tương quan với đồng loại: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em,… ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.
- Tin Mừng: Mt 5, 38-48
Tiếp tục đề tài giảng dạy về cung cách của một công dân Nước Trời, hôm nay Đức Giêsu nói về việc chớ trả thù, ngược lại phải yêu thương kẻ thù: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44b). Lý do là vì: “Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng người xấu cũng như kẻ tốt, cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 45). Như vậy nên thánh là phải học cung cách của Thiên Chúa để được “Nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” ( Mt 5, 42).
Việc nên thánh không phải là nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!’’ mà phải cư xử giống cung cách của Thiên Chúa. Cung cách đó tách biệt và vượt lên trên lối hành xử của người đời. Như vậy con cái của Thiên Chúa mới được gọi là thánh, và ơn gọi của Kitô hữu là nên thánh.
II. ĐỂ CÓ NIỀM VUI TRONG GIA ĐÌNH
- Các người phải thánh thiện
Lời Chúa trong sách Lêvi ngày hôm nay nhắc lại cho tôi lời của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Ơn gọi của Kitô hữu là nên thánh”. Đó cũng là cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối. Kitô phải thánh thiện để trở thành ánh sáng cho thế gian.
Thiên Chúa chính là sự thánh thiện tuyệt đối, vì vậy con người được mời gọi nên giống Thiên Chúa hơn mỗi ngày trong suy nghĩ, lời nói và việc làm, nói chung là trong cung cách sống.
Sự thánh thiện của Kitô hữu phải chăng là luôn luôn hoàn hảo, không vướng mắc bất cứ một tội lỗi nào, không bao giờ làm điều sai trái? Hãy nghe lời giáo huấn của ĐGH Benedict XVI: “Sự thánh thiện không bao gồm việc không sai lầm hoặc không phạm tội. Sự thánh thiện làm tăng khả năng hoán cải, sám hối, sẵn sàng bắt đầu lại, đặc biệt là hòa giải và tha thứ… Như vậy, điều đó không phải là chúng ta không bao giờ sai lầm mà là có thể hòa giải và tha thứ, điều đó làm chúng ta nên thánh. Chúng ta có thể học cách sống thánh thiện”. Sự thánh thiện là khả năng để bắt đầu lại. Chính vì thế tòa giải tội là phương thế tốt nhất để nên thánh, và Bí tích giải tội là liều thuốc mà ma quỷ sợ nhất.
Nhìn vào tấm gương của các thánh, chúng ta nhận ra một điều, các ngài cũng có những sai lầm, cũng phạm tội, nhưng các ngài tiếp tục phát triển tình yêu dành cho Chúa, và cuối cùng tình yêu này trở nên sức mạnh trong cuộc đời họ. Tình yêu này trở nên mạnh hơn xu hướng phạm tội. Các thánh biết rằng tình yêu của Chúa và ước muốn của Chúa là tha thứ. Điều chính yếu là các ngài luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa. Vì vậy nên thánh không phải là chuyện của ông này bà nọ, mà tôi và bạn, chúng ta đều có thể nên thánh.
Tuy nhiên, thời nào cũng vậy, ma quỷ hoạt động rất mạnh mẽ dưới nhiều hình thức, những hình thức đó rất tinh vi và phù hợp với từng thời đại. Mục đích của nó là để con người không còn kết hợp với Chúa, vì thế họ xa cách Chúa và mất đi sự thánh thiện. Chúng ta đừng để mình mất ý thức về sự thánh thiện.
Ngày nay vẫn có những trường hợp mà người ta gọi là bị quỷ nhập khiến nhiều người tò mò. Đối với tôi, ma quỷ là có thật, nhưng quỷ nhập với hiện tượng làm cho nạn nhân mất ý thức dẫn đến những hành động lạ như la hét, quấy phá, nói những chuyện trong quá khứ… không đáng sợ bằng việc quỷ nhập mà con người ta vẫn tỉnh táo, vẫn sống, vẫn hoạt động bình thường, chỉ có điều người ta mất đi ý thức về sự thánh thiện và đang sống trong tội lỗi. Vì thế, có khi bản thân chúng ta bị quỷ nhập, có khi người thân sống bên cạnh chúng ta đang bị quỷ nhập.
Người ta tò mò và lo chạy chữa cho người bị quỷ nhập về thể lý, mà ít người quan tâm đến việc bị quỷ nhập trong tâm hồn. Nhiều người trong gia đình chúng ta vẫn không đi lễ, vẫn làm ăn bất chính, vẫn sống trong những đam mê tội lỗi của mình… Xin nhắc lại, hành động của ma quỷ là để chúng ta xa cách Chúa và quen dần với những điều xấu.
Mỗi người chúng ta hãy để cho lời Chúa vang vọng trong tâm hồn của mình: “Các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 19, 2). Từ đó cố gắng giải gỡ cho mình thoát khỏi những đam mê, những tội lỗi mà ma quỷ đã ràng buộc chúng ta bằng Bí tích Giải tội; đồng thời phải có sự hiệp thông, gắn bó với Chúa trong những điều lành. Nếu tiếp cận nhiều với những giá trị linh thánh thì con người chúng ta sẽ quen dần với sự thánh thiện. Còn nếu cứ tiếp cận với những giá trị phàm tục thì con người sẽ trở thành con cái ma quỷ.
Ngoài việc nên thánh cho chính mình, chúng ta còn phải giúp những người thân trong gia đình, bạn bè và những người xung quanh thoát khỏi những ràng buộc của ma quỷ để họ cũng được nên thánh.
- Tha thứ cho nhau
Để có được niềm vui trong gia đình, như lời Đức Giêsu dạy về đức công chính của người môn đệ, không phải chỉ là “Lạy Chúa! Lạy Chúa!”, mà còn phải biết thực hành lời Chúa để “tha thứ cho nhau”. Như vậy sự thánh thiện thực sự là phải gắn bó với Thiên Chúa và yêu thương con người, vì tất cả đều là con cùng một Cha trên trời. Tình yêu thương đó được Đức Giêsu cụ thể hóa trong việc tha thứ cho người khác.
Tha thứ cho người khác là đề tài muôn thuở, vì đó là lý tưởng rất dễ trong lý thuyết nhưng khó khăn trong thực hành, đến nỗi có những người đã thốt lên: “Sống để bụng, chết mang theo”.
Cha Piô Ngô Phúc Hậu kể câu chuyện 2 gia đình xích mích dẫn đến ẩu đả, một người bị trọng thương và sắp chết. Người ta rước cha sở đến ban những Bí tích sau cùng. Cha sở khuyên ông tha thứ cho gia đình bên kia, nhưng ông lắc đầu. Cha sở dùng phương pháp mạnh, cầm tượng chuộc tội giơ lên cao và nói: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi truyền cho ông phải tha thứ cho người khác”. Nhưng ông quay mặt vô tường và trút hơi thở. Rõ ràng tha thứ cho những kẻ xúc phạm và làm hại mình là một chuyện rất khó. Tuy nhiên khó khăn không phải là không làm được.
Gương của Đức Giêsu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Hay như thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi cũng đã bắt chước Thầy Chí Thánh để cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Đức Thánh Cha Phanxicô đứng trước những người chống đối và nói xấu Ngài, Ngài vẫn bình tâm nói rằng: “Họ vẫn là bạn của tôi”…
Một trong những lý do khiến các gia đình đổ vỡ là vì họ không biết tha thứ cho nhau, đôi khi chỉ là một việc rất nhỏ. Vì thế để có được niềm vui trong gia đình, mọi người phải học tha thứ. Vợ chồng tha thứ cho nhau, Cha mẹ tha thứ cho con cái, con cái tha thứ cho cha mẹ, anh chị em tha thứ cho nhau.
Để có thể tha thứ, trước hết hãy nhớ mình cũng là kẻ có tội, vì vậy tha thứ để được thứ tha. Kế đến phải nhớ rằng nếu không tha thứ, chính bản thân chúng ta là người chịu thiệt vì cứ nuôi mãi những điều xấu trong lòng. Và quan trọng nhất, tha thứ để chúng ta nên giống Cha trên trời, là Đấng hoàn hảo. Vì vậy chỉ những ai có sự thánh thiện mới dễ dàng tha thứ cho người khác, vì đó là đòi hỏi để họ được nên thánh.
Để gia đình có được niềm vui thực sự, phải có sự thánh thiện trong từng thành viên. Sự thánh thiện đó là biết gắn bó với Chúa và loại trừ những điều xấu; sự thánh thiện đó là việc biết tha thứ cho nhau.
Gia đình 3 vị thánh của chị Têrêxa Hài Đồng Giêsu có được niềm vui khi mỗi người trong gia đình đều là những con người biết hướng đến sự thánh thiện, là những con người biết yêu thương nhau.
Hãy làm cho gia đình của chúng ta có được niềm vui khi cùng nhau đọc kinh thờ phượng Chúa, khi bỏ đi những lôi kéo thuộc về thế gian để hướng đến sự sống đời đời. Hãy nhắc nhở cho những ai bê trễ, nguội lạnh để họ biết sợ sự xa cách Chúa chính là hỏa ngục để mau trở lại gắn bó với Chúa. Hãy thường xuyên lãnh Bí tích Giải tội để có sức mạnh mà tha thứ cho người khác.
Lạy Chúa, xin làm cho gia đình con tràn ngập niềm vui ân sủng của sự thánh thiện và tha thứ.
.
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Từ xưa đến nay, đạo Công Giáo vẫn được biết đến như một đạo yêu thương và tha thứ. Đây cũng là nét đặc trưng giúp cho nhiều người có thể phân biệt đạo Công Giáo với các tôn giáo khác. Bởi vì, chính Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của Ngài phải đi đến một bậc cao nhất trong tình yêu đối với anh em, đó là tha thứ. Không chỉ tha thứ cho những người thân hoặc bạn hữu, những người làm tổn thương mình, nhưng Chúa muốn chúng ta phải yêu thương, tha thứ cho cả kẻ thù và những kẻ làm khổ mình.
Đoạn Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay là điểm sáng về tình yêu thương tha thứ trong các lời dạy của Chúa được thánh Matthew ghi lại. Với những lời dạy này, Tin Mừng cho thấy sự trổi vượt trong giáo lý của Chúa Giêsu so với Cựu Ước. Anh em đã nghe Luật dạy rằng: mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì giơ cả má bên trái nữa. Thời Cựu Ước, luật Mose cho phép được báo thù ngang bằng, tương xứng: mắt đền mắt, răng đền răng. Tuy nhiên, sự báo thù này không giải quyết được vấn đề, cũng không đem đến hòa bình, trái lại, báo thù chỉ có thể đem đến bạo lực và gia tăng bạo lực mà thôi.
Trước hết, Chúa Giêsu muốn môn đệ của Ngài phải từ bỏ tất cả nguyên nhân đưa đến bạo lực, báo thù và thay thế nó bằng sự tha thứ và yêu thương: Đừng chống cự người ác, ai vả má bên phải thì đưa cho nó cả má bên trái. Việc làm này không phải là nhu nhược, cũng không phải làm ngơ cho sự ác xảy ra. Chúa Giêsu khi đứng trước dinh thầy thượng tế Anna, một tên lính vả mặt Người, Chúa Giêsu đã nói với anh ta: Nếu tôi nói sai, thì chỉ cho tôi biết sai ở chỗ nào, nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ? Như thế, Chúa không bỏ qua sự bất công, Chúa đòi anh ta phải hành động theo chuẩn mực là sự thật.
Khi dạy: Ai vả má bên phải thì đưa cả má bên trái, điều đó có nghĩa là gì? Theo thói quen của người Do Thái, khi dùng lưng bàn tay để vả người khác, có nghĩa là làm nhục công khai; khi dùng lòng bàn tay chạm vào má bên trái là dấu chỉ của yêu thương, chúc phúc. Như thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta không phải đưa má ra để thách thức người khác, nhưng đối xử thế nào để biến kẻ thù ghét thành người yêu thương mình, biến kẻ làm đều ác thành người làm điều lành. Để làm được như thế, cần phải có một tấm lòng quảng đại, tha thứ và yêu thương. Ai muốn lấy áo trong thì cho nó cả áo ngoài, ai muốn anh đi với nó một dặm thì hãy đi với nó hai dặm; ai xin thì hãy cho, ai vay mượn thì đừng từ chối.
Không chỉ không trả thù, Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ của Ngài phải nói điều tốt và làm điều tốt cho những kẻ bách hại, kẻ làm khổ mình. Luật xưa dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét địch thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em, hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em. Đòi hỏi này thật khó, nhưng chúng ta buộc phải đi đến mức thực hành này. Trong cuộc sống, người ta thường hay để lòng thù ghét nhau. Có những mối thù được cất giữ nhiều năm, có khi được truyền lại từ đời này qua đời khác. Chúa Giêsu không muốn chúng ta nuôi dưỡng hận thù, nhưng phải biến kẻ thù thành người được yêu thương, làm cho kẻ ghét mình trở thành người mình quan tâm, làm mọi điều tốt đẹp cho kẻ thù. Muốn thực hành được điều này, chúng ta phải dám tha thứ, bỏ qua giận hờn và không bao giờ để sự thù oán trong tâm hồn mình.
Chỉ khi thực hành được như thế, chúng ta mới xứng đáng là con Cha trên trời. Vì, không cha mẹ nào có thể an vui khi thấy con cái giận hờn, thù oán nhau. Thiên Chúa là Đấng quan phòng và thương xót tất cả mọi người, cho dù họ là người tốt hay kẻ xấu, thì không lẽ gì chúng ta lại phân biệt đối xử hoặc thù oán lẫn nhau. Nếu chúng ta chỉ cư xử với nhau theo kiểu có đi có lại, có yêu có ghét, thì chúng ta không hơn gì dân ngoại. Dân ngoại có thể yêu kẻ yêu mình, ghét kẻ ghét mình, nhưng người môn đệ của Chúa phải yêu những người không yêu mình, thích những người không thích mình; yêu những người mình không muốn yêu và thích những người mình không ưa thích. Chỉ khi hành xử như thế, chúng ta mới xứng đáng được gọi là con Cha trên trời, trở nên hoàn thiện như lời mời gọi của Chúa: Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Trở nên hoàn thiện như Thiên Chúa là lời mời gọi đòi chúng ta phải cố gắng mỗi ngày. Con người tự nhiên bị chi phối bởi cái tôi và sự tự ái, tính ích kỷ, khiến chúng ta khó để hành xử cách quảng đại, yêu thương, tha thứ như Chúa muốn. Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta biết, có một Đấng Trợ lực và ban sức mạnh để ta có thể chu toàn được những đòi hỏi của Tin Mừng, đó là Thánh Thần. Thánh Thần đang hiện diện trong tâm hồn mỗi người như trong đền thờ của Ngài. Vì thế, mỗi khi phải đối diện với đòi hỏi yêu thương và tha thứ cho những kẻ làm khổ mình, hãy xin với Thánh Thần để Ngài ban sức mạnh trợ giúp chúng ta. Thánh Thần còn làm cho ta luôn thuộc về Chúa Kitô và giúp ta biết sống và hành động theo gương Chúa Kitô.
Trong thực tế, việc yêu thương tha thứ cho nhau vẫn là cái ngưỡng, không phải ai cũng có thể vượt qua. Sự thù oán giận dữ vẫn đang diễn ra nơi nhiều người, nhiều gia đình. Có những gia đình cha mẹ con cái không còn nhìn mặt nhau, anh chị em giận hờn thù oán từ năm này qua năm khác. Để có thể tha thứ, làm hòa, mỗi bên phải hạ mình xuống, nhìn nhận sự sai lỗi của mình, chủ động đi bước trước đến với anh em và thực tâm hòa giải. Kế đến, hãy loại bỏ khỏi mình tư tưởng và tất cả mọi hành động trả đũa trả thù, nhưng biết nói điều tốt và làm điều tốt cho nhau, cho dù người kia có làm tổn thương đến mình. Tiếp đến là hãy cư xử bao dung độ lượng và cầu nguyện cho nhau, xin Chúa giúp ta loại trừ khỏi mình sự giận dỗi để biết đón nhận người khác. Kiên trì và quyết tâm thực hiện như thế, Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ gia tăng sức mạnh và tình yêu trong ta, để ta có thể hàn gắn được rạn nứt, nối lại tương quan tốt đẹp với anh chị em.
Hãy bắt đầu thực hành việc yêu thương tha thứ từ trong gia đình. Đừng nhìn vợ, chồng mình như kẻ thù, mà hãy nhìn nhau như món quà Chúa trao tặng để biết đón nhận cách trân trọng, cho dù món quà đó không như mình mong đợi. Hãy can đảm tha thứ, yêu thương kể cả khi bị vợ, chồng xúc phạm, làm tổn thương hoặc khi bị phản bội, vì cũng đã nhiều lần chúng ta làm tổn thương hoặc phản bội người khác. Anh em trong gia đình hãy can đảm để tha thứ cho nhau những bất đồng, những hiểu lầm xích mích có thể xảy ra. Con cùng một cha, gà cùng một mẹ, chúng ta không thể thù ghét, hoặc nhìn nhau như kẻ thù, nhưng đón nhận nhau trong tình ruột thịt để yêu thương, cảm thông và quảng đại với nhau.
Xã hội ngày nay, cùng với phim ảnh, dường như đang cổ võ cho sự trả thù báo oán và bất khoan dung với nhau. Sống trong xã hội như thế, chúng ta càng phải thể hiện tư cách là những người tuyên xưng Chúa là Cha và nhìn nhận nhau là anh em qua chính cách cư xử của mình. Xã hội này sẽ trở nên hòa bình khi mỗi người loại trừ thù oán ; cuộc sống sẽ trở nên dễ chịu thoải mái khi mỗi người biết sống bao dung. Xã hội sẽ thay đổi nên tốt hơn, cuộc sống sẽ yên bình hơn khi mỗi chúng ta biết tha thứ và biến những kẻ thù thành những người đáng yêu mến.
Xin Chúa Thánh Thần thêm sức mạnh giúp chúng ta thi hành được đòi hỏi của Tin Mừng hôm nay. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta thấy Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn một khoản luật nữa của Cựu Ước, đó là luật của sự “ăn miếng trả miếng”. Trong bài ca man rợ mà nhân vật La-méc đã hát có câu: Cain được báo thù gấp bảy (1 trả 7 lần) thì La-méc được báo thù gấp 77 (1 trả 77 lần). Đến thời của Môisê, đã có một sự tiến bộ hơn: một trả một, tức là luật “ăn miếng trả miếng”, hay là luật “răng đền răng, mắt đền mắt”. Đây là giới hạn lẽ công bằng theo nghĩa chặt.
Vậy Chúa Giêsu kiện toàn theo nghĩa nào? Luật mới của Chúa Giêsu đó là gì? Luật mới của Chúa Giêsu đó là luật của tình yêu hoàn thiện, khi khoan dung với kẻ ác. Cụ thể là khoan dung với kẻ xúc phạm danh dự và phẩm giá của mình: “Ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,39). Khoan dung với kẻ trấn lột, tước đoạt những thứ mình sở hữu: “Ai kiện lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy luôn cả áo ngoài” (Mt 5,40). Khoan dung với kẻ hành hạ bóc lột sức lực của mình: “Nếu có ai bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm” (Mt 5,41).
Nhưng tại sao lại phải khoan dung với kẻ ác? Phải chăng là Chúa Giêsu muốn cỗ võ thái độ nhu nhược và cam chịu cách thụ động? Hay Ngài muốn khuyến lệ sự bất công khi dung dưỡng cái ác? Thực ra khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải có thái độ khoan dung như thế là có lý do của mình:
Thứ nhất là nhằm ngăn chặn vòng xoáy của sự ác, sự leo thang của bạo lực theo nghĩa “lấy oán báo oán, oán càng chồng chất”. Thứ hai là nhằm chinh phục và cảm hoá kẻ ác vốn cũng là con người, vì sự bao dung tha thứ có khả năng biến thù thành bạn, như Chúa Giêsu đã nói: “Như vậy là các con đã được lợi một người anh em”. Thứ ba là để có được một tâm hồn bình an, thanh thản của con cái Thiên Chúa. Và thứ bốn là để trở nên giống như Cha trên trời là Đấng nhân từ, bao dung và khoan thứ.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn trả đũa, và khi trả đũa thì thường muốn trả nặng hơn mức người ta gây cho mình: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Hòn chì chắc chắn là cứng hơn và nặng hơn hòn đất rồi. Chẳng thế mà khi chứng kiến đội chủ nhà Áo (tại Eurô 2008) được trọng tài cho hưởng quả phạt đền ở phút cuốn trận đấu, đẩy đội Ba Lan vào tình thế chắc chắn xếp vali về nước, Tổng thống Ba Lan đã thốt lên rằng: “Tôi chỉ muốn giết ngay viên trọng tài đó”.
Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B, vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.
Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, tìm cơ hội để báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… (Mt 5, 38-39).
Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa. Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông B.
Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho đến mãn đời.
Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho các xung đột giữa đôi bên. Chính Chúa Giêsu, muốn các môn đệ của Ngài xưa cũng như nay phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5,39). Hơn thế nữa, Ngài còn nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, tha thứ cho những xúc phạm của anh em đối với mình, như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” Lc 23,34). Như vậy, bao dung tha thứ không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó là thái độ của kẻ mạnh, kẻ mạnh về tình yêu thương. Vì chỉ người nào có một tình yêu thương rất mạnh mới có khả năng chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình.
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta thường xử sự với anh em mình theo luật nào? Luật của sự “ăn miếng trả miếng” hay luật tình yêu bao dung mà Đức Kitô đã dạy?
Nếu ta muốn trở nên môn đệ chân chính của Chúa Giêsu thì ta không thể sống khác hơn những gì mà Chúa Giêsu đã sống, đó là bao dung tha thứ luôn luôn. Amen.
.
YÊU KẺ THÙ VÀ LÀM ƠN CHO KẺ GHÉT MÌNH
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 5,38-48.
38 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. 39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. 40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. 41 Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. 42 Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.
43 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. 44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.45Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. 46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? 47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? 48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.
- Ý CHÍNH: Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương hết mọi người: kẻ thù của mình, kẻ ghét mình, kẻ ngược đãi và vu khống mình… để chúng ta được nên trọn lành giống như Chúa Cha trên trời, “là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương.”
- CHÚ THÍCH:
– C 38-39: + Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng: Đây là luật hình sự dựa trên nguyên tắc đối trọng: ai đã gây thiệt hại, thì phải sửa chữa thiệt hại đã gây ra. (x. Xh 21,23-25; Lv 24,19-20; Đnl 19,21). + Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa: Đức Giê-su dạy môn đệ khi bị kẻ khác xúc phạm, hãy đối xử từ bi nhân ái để biến thù thành bạn.
– C 41-42: + Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm: Có lẽ đây là một dịch vụ do người Rô-ma bắt buộc người Do thái phải làm, như trường hợp quân Rô-ma bắt ông Si-môn Ky-rê-nê vác đỡ thập giá của Đức Giê-su. + Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi: Ở bên đất thánh Pa-lét-ti-na, “cho vay” cũng giống như “bố thí” (x. Hn 29,1). Nghĩa là người Do thái không được cho người đồng chủng Do thái vay tiền để lấy tiền lãi (x. Xh 22,24).
– C 43-44: + Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em: Đức Giê-su muốn các môn đệ mở rộng tình thương đến các người dân ngoại và cả với những kẻ đối xử không tốt hoặc có hành vi ngược đãi mình.
– C 45-48: + Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện: Đức Giê-su dạy môn đệ phải có tình thương tột đỉnh noi gương Thiên Chúa Cha trên trời, đã không phân biệt đối xử khi ban ơn cho cả những kẻ xấu và kẻ bất lương.
- CÂU HỎI: 1) Luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” là luật gì và có nghĩa thế nào? 2) Đức Giê-su muốn dạy các môn đệ chúng ta điều gì qua bài Tin Mừng hôm nay: “Đừng chống cự người ác; sẵn sàng đi gấp đôi số dặm mà những kẻ mạnh thế bắt mình phải đi; quảng đại đáp ứng nhu cầu của kẻ ăn xin vay mượn; yêu kẻ thù…” ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Chúa phán: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
- CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH HOÁN CẢI TỘI NHÂN CỦA LÒNG NHÂN ÁI:
Ngày kia thánh Clementê đi vào một tiệm ăn, ngửa tay ra và nói:
– Xin quý ông rộng lượng bố thí cho các em mồ côi một miếng cơm, một manh áo.
Tức thì các thực khách cười lên hô hố tỏ vẻ khinh bỉ. Sau đó, một anh thợ giày đã nói:
– Một miếng ư, được lắm.
Rồi anh ta uống một ngụm bia, phùng má trợn mắt phun thẳng vào mặt thánh nhân. Chúng ta thử tưởng tượng xem thánh nhân đã phản ứng thế nào? Có lẽ ngài sẽ giáng cho anh ta một cái tát tai. Nhưng không, ngài vẫn bình tĩnh, rút khăn lau mặt, rồi lại ngửa tay và nói:
– Thưa quý ông, đó là phần của tôi, còn phần của các em mồ côi đâu chưa thấy.
Anh thợ giày bỗng té nhào xuống đất như bị một cú đấm thôi sơn, vì anh ta không thể rằng trên cõi đời nham nhở này mà lại có người khí phách như vậy. Anh lồm cồm ngồi dậy và lắp bắp nói:
– Tôi… tôi sẽ gởi tặng cho các em.
Sau đó, anh đã dành một phần sản nghiệp và trao tận tay thánh nhân số tiền lớn để tạ lỗi.
2) GIÓ VÀ MẶT TRỜI AI MẠNH HƠN AI?
Một lần nọ, gió bão và mặt trời tranh cãi nhau xem ai có sức mạnh hơn. Cả hai đều kể lại những chiến tích oai hùng của mình để chứng minh mình có sức mạnh hơn đối phương. Vừa lúc đó có một khách bộ hành đang từ xa tới gần. Cả hai đồng ý kiểm tra sức mạnh bằng cách cố cởi cái áo choàng của người khách bộ hành đang mặc trong thời gian ngắn nhất.
Cơn gió bão đòi ra tay trước. Nó tạo ra một luồng gió xoáy dữ dội nhất từ trước đến giờ, và ngay từ lần cố gắng đầu tiên, gần như nó đã có thể xé rách cái áo choàng của người bộ hành. Nhưng người đàn ông kia đã dùng tay ôm chặt chiếc áo choàng, và còn nằm đè lên chiếc áo choàng, khiến gió bão dù tốn rất nhiều sức lực mà vẫn không làm cho chiếc áo bung ra khỏi người khách bộ hành được. Sau cùng cơn gió bão đành chấp nhận chịu thua.
Đến lượt mặt trời ra tay. Đầu tiên mặt trời xua tan những đám mây đen giăng kín bầu trời và rọi những tia nắng xuống đầu người khách bộ hành. Một vài phứt sau, cảm thấy mồ hôi xuất ra do nhiệt độ tăng đột ngột, người khách bộ hành vội vã cởi chiếc áo choàng ra phơi và đến chỗ cây có che bóng râm gần đó tránh nắng, và chung cuộc mặt trời đã chiến thắng gió bão.
Như vậy trong việc giáo dục con người, dùng tình thương thuyết phục sẽ có hiệu quả hơn dùng biện pháp đánh phạt chửi mắng.
3) TÔI ĐÃ TRẢ THÙ ĐƯỢC RỒI ! :
Có hai người đàn ông thổ dân nước Nam Phi rất thù hằn ganh ghét nhau. Ngày kia một trong hai người gặp thấy đứa con gái nhỏ của kẻ thù đang dạo chơi trong rừng, liền bắt cô bé chặt đứt ngón tay út rồi thả ra. Cô bé bị đau la khóc dùng tay còn lại ôm chặt bàn tay bị chặt đứt ngón út chạy mau về nhà chữa trị, đang khi tên hung thủ la to rằng: “Ta đã trả thù được rồi!”.
Mười năm sau, cô bé bị chặt ngón đã lấy được một người chồng công giáo giàu có trong vùng. Ngày kia, một kẻ ăn xin tới xin ăn, bà chủ nhà nhận ngay ra kẻ trước đây đã chặt ngón tay của mình. Bà vào trong nhà, sai gia nhân đem cơm thịt ra đãi người ăn xin. Khi kẻ thù đã ăn no, bà mới giơ bàn tay có ngón út bị cụt ra và nói: “Hôm nay tôi đã trả thù được rồi!”.
Tên ăn mày lập tức nhận ra người đàn bà đối xử tốt với mình không ai khác hơn là cô bé năm xưa đã từng bị hắn chặt đứt ngón tay để trả thù, nên hắn rất hối hận và đã quỳ gối cám ơn bà không những không chấp nhất tội hắn mà còn đối xử nhân hậu là cho hắn một bữa ăn ngon.
- SUY NIỆM:
1) “ĐỪNG CHỐNG CỰ NGƯỜI ÁC…”:
– So sánh Luật đạo cũ với đạo mới: Luật Mô-sê đã tiến bộ hơn nếu so sánh với thời đại trước đó, vì về việc báo oán, Luật Mô-sê chỉ đòi kẻ tấn công bị đối xử ngang bằng điều xấu mà hắn đã gây ra cho nạn nhân. Thực vậy, sách Sáng thế ký đã ghi lại lời của La-méc: “Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy” (St 4,24), đang khi Mô-sê ra luật trả báo công bình như sau: “Nếu hai người đàn ông đánh nhau mà có gây tổn thương… , thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm” (Xh 21,22-25). Tuy nhiên Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay lại kêu gọi môn đệ nên hoàn thiện bằng thái độ nhẫn nhịn chịu đựng và lấy tình thương xóa bỏ hận thù như sau: “Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa… Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài… Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm… Ai xin thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn thì anh đừng ngoảnh mặt đi” (c 39-42).
– Trước những lời dạy nầy của Đức Giê-su, những kẻ suy nghĩ nông cạn vội cho đây là thái độ của kẻ hèn nhát nhu nhược, khuyến khích kẻ gian ác lộng hành: “Chúng được đằng chân, sẽ lân đằng đầu”; Nhưng những người khôn ngoan lại công nhận đây là lối hành xử tối ưu để giải quyết tận gốc các xung đột xã hội và mang lại hòa bình lâu dài. Thực vậy, nếu bị kẻ ác đánh một cái mà ta đánh lại, thì chắc chắn chúng sẽ đánh tiếp và bạo lực sẽ ngày một gia tăng. Nhưng nếu ta chịu đựng và nói chuyện phải quấy thì có thể kẻ đó sẽ bị khuất phục. Chúng ta có thể ví bạo lực giống như sức mạnh của cây búa tạ trong tay thợ đập đá, tảng đá dù cứng rắn đến đâu, cũng sẽ bị bể tan! Đang khi hồ nước mềm mại có bị búa tạ bổ xuống vẫn không hề hấn gì, trái lại còn có thể nhấn chìm cây búa tạ kia xuống đáy hồ. Trước cơn bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp kháng cự lại sẽ bị gãy cành trốc gốc, đang khi rặng tre, lau sậy chịu uốn mình theo chiều gió nên vẫn được an toàn. Thế nên Lão tử đã dạy các môn sinh: “Lấy nhu thắng cương, nhược thắng cường”. Môn phái Judo cũng theo quy luật nầy dùng sự mềm dẻo để tự vệ, đánh bại đòn tấn công hung hãn của đối phương.
– Khi dạy các điều trên, chắc chắn Đức Giêsu không muốn duy trì tình trạng những người thân yếu thế cô phải cam chịu sự đàn áp của những kẻ tàn bạo gian ác. Nhưng nếu chủ trương lấy ác báo ác, thì con người sẽ lâm vào vòng xoáy bạo lực: Thay vì chỉ có một kẻ ác, giờ đây lại thêm kẻ ác thứ hai là người đang bị áp bức. Đức Giêsu muốn các môn đệ lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu đáp trả hận thù để hóa giải và biến thù thành bạn. Nhưng giả như kẻ ác vẫn cố chấp thì bấy giờ mới xử lý, giống như Đức Giê-su trước Thượng Hội Đồng Do thái đã bị một tên gia nô của thượng tế Khan-na tát, đã không giơ má kia, nhưng hạch lại hắn: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào. Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23).
2) HÃY YÊU KẺ THÙ VÀ CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG KẺ NGƯỢC ĐÃI ANH EM:
– Thái độ thông thường của người đời chúng ta là yêu ai yêu mình, và ghét những kẻ ghét hại mình và chống lại Thiên Chúa như Sách Thánh đã ghi lại lời cầu nguyện của dân Do thái: “Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà… Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét? Con ghét chúng, ghét cay, ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139,19-22).
– Nhưng Đức Giê-su dạy các môn đệ phải vượt lên những điều bình thường này bằng cách yêu những kẻ ghét mình noi gương Chúa Cha: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,44-45).
3) HÃY NÊN HOÀN THIỆN NOI GƯƠNG CHÚA CHA NHƯ ĐỨC GIÊ-SU:
– Đức Giê-su đã yêu thương tha thứ cho những kẻ thù ghét làm hại mình: Người nhẫn nhịn chịu đựng khi bị xét xử bất công, bị xỉ vả đánh đập, bị lột áo trong áo ngoài, bị hành hình đóng đinh tay chân vào thập giá giữa hai tên trộm cướp… Người đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
– Chúng ta cũng phải tha thứ cho tha nhân: khi giận hờn, căm ghét người khác, tâm hồn chúng ta sẽ mất bình an, ta sẽ không còn thiết ăn uống vì dạ dày không làm việc, sẽ hay suy nghĩ thở dài và không ngủ yên giấc, bệnh tim mạch gia tăng và sẽ bị đột quỵ… trong khi kẻ bị ta thù ghét vẫn sống yên ổn! Như vậy sự giận ghét không những không làm hại kẻ thù mà còn quay ra làm hại chính ta và cắt ngắn tuổi thọ của ta. Vậy chúng ta còn đợi gì mà không tha thứ cho tha nhân theo lời Chúa dạy?
– Hãy cầu nguyện và làm điều tốt để đáp trả kẻ đang thù ghét làm hại mình: Thay vì nuôi lòng thù hận, chúng ta hãy cầu xin Chúa thay đổi lòng trí kẻ thù ghét ta. Hãy tìm dịp thuận tiện để khen ngợi nói tốt cho họ. Khi nghe ai chỉ trích nói xấu họ, thay vì “đổ dầu vào lửa”, chúng ta hãy làm trạng sư để bào chữa lỗi lầm cho họ…
- THẢO LUẬN: 1) Bạn có đồng ý về các tai hại của thái độ giận ghét và ích lợi của thái độ khoan dung tha thứ các lỗi lầm cho tha nhân không? Tại sao? 2) Hãy tự xét xem hiện giờ bạn đang giận ghét người nào nhất? Bạn sẽ làm gì để thực hành lời Chúa dạy hôm nay?
- LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su,
Hình ảnh đẹp nhất là hình ảnh của Chúa xưa kia trên núi Sọ: Dù đang bị đám đông thù ghét phỉ báng, hành hạ, đòi phải đóng đinh vào thập giá mà Chúa vẫn nhẫn nhịn chịu đựng và còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình. Xin ban cho chúng con tình yêu thương và lòng từ bi nhân hậu của Chúa, bằng thái độ bao dung cảm thông, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã nói lời xúc phạm đến chúng con, hầu chúng con nên “con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Chúa Cha” noi gương Chúa khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su kiện toàn và dạy chúng ta giáo huấn cao trọng yêu thương và tha thứ. Nhưng yêu thương thì bao la, mênh mông bát ngát, làm sao nói hết được, làm sao diễn tả cho thấu suốt được. Chúng ta biết yêu thương qua lời nói suông, mà không đi đôi với hành động, thì không chính đáng và không thể hiện hoàn toàn giá trị giáo huấn, chân lý Chúa dạy, vì thế Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta chú ý, quan tâm đến khía cạnh yêu thương kẻ thù trong đời sống.
Như chúng ta biết trong cuộc sống hàng ngày, yêu thương những người thân thuộc như ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt, cũng như bạn bè hay những người giúp đỡ chúng ta là chuyện bình thường. Nhưng yêu thương những người thù ghét hay vu khống và làm hại chúng ta thì là một đòi hỏi không đơn giản và không dễ dàng thực hiện.
Cách đây mấy năm, một tuần báo nổi tiếng có đăng một câu chuyện rất cảm động. Điều làm cho người đọc chú ý vào câu chuyện là một tấm hình 3 đứa bé trai tuổi từ 7 đến 14, đang quì ở hàng ghế đầu trong nhà thờ. Bên dưới tấm hình có một hàng chữ “This Was Left Behind”, Xin được tạm dịch là: “Đây là phần còn lại”.
Câu chuyện kể rằng cậu bé lớn nhất tên là Jeff, có một thói quen mỗi buổi sáng sau khi thức dậy thích nghe tin tức trên TV. Sáng hôm đó TV loan tin người nào đó đã đặt một quả bom trong một chuyến bay, và máy bay đã nổ tung trên bầu trời, làm thiệt mạng tất cả mọi người. Sau khi đã mặc quần áo chỉnh tề chuẩn bị ăn sáng và đi học, cậu Jeff xuống cầu thang và khi xuống đến bậc cuối, cậu nhìn thấy bà nội và linh mục chánh xứ đang đứng dưới chân cầu thang. Cậu Jeff dừng lại một lát, nhìn vào hai người và hỏi, “Có phải cha mẹ trong số hành khách bị thiệt mạng trong chuyến bay không?” Cậu Jeff đoán đúng.
Buổi chiều ngày hôm đó, học sinh trong trường Công giáo nơi mà 3 anh em đang học, đã tổ chức một buổi cầu nguyện cho 3 em và cha mẹ mới thiệt mạng. Trước buổi cầu nguyện, linh mục chánh xứ đã gặp cậu Jeff, và hỏi cậu có đồng ý buổi cầu nguyện không. Cậu đồng ý và cũng xin mọi người cầu nguyện cho người đã giết hại cha mẹ của mình.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện cảm động trên đây là một minh chứng thực tế cho giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Hãy yêu thương thù địch các con. Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con.”
Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm thấy rất xúc động và ngạc nhiên vì nhân vật chính trong câu chuyện lại là một cậu bé. Một cách nào đó, hình như những em nhỏ hiểu được giáo huấn khó khăn của Chúa Giêsu dạy hơn những người lớn chúng ta. Có lẽ vì lý đó mà Chúa đã dạy chúng ta, “Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời.” (Mt. 18, 3)
Sự kiện này đưa ra những thách thức cho chúng ta: “Chúng ta phải làm gì khi chúng ta cảm thấy khó yêu thương kẻ thù?” “Chúng ta phải làm gì để có thể tha thứ cho họ?”
Chúng ta biết khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn trả đũa, trả thù người làm hại, người lừa dối mình, và trả thù thì thường nặng hơn mức người ta gây ra cho mình: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.” Chì thì nặng hơn đất, nguy hiểm và đau đớn hơn đất nhiều. Nhiều khi chúng ta còn cầu những sự dữ, và thật dữ xảy đến cho người làm hại chúng ta. Nhưng Chúa dạy chúng ta: hãy yêu thương kẻ thù; hãy tha thứ, làm ơn cho kẻ ghét mình; và hãy cầu nguyện cho họ. Đó là 3 điều Chúa muốn chúng ta thực hiện trong đời sống hàng ngày, khi chúng ta cảm thấy khó yêu thương những người làm hại, lừa dối và vu khống cho chúng ta. Thứ nhất chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn tha thứ. Khi chúng ta cảm thấy khó yêu thương, là vì chúng ta không có sự tha thứ, vì vậy chúng ta phải cầu xin ơn Chúa. Nếu Chúa đã cho chúng ta giới luật thương yêu kẻ thù, thì chắc chắn Chúa cũng sẽ là Người ban cho chúng ta ơn sủng tha thứ để giúp chúng ta sống giới răn đó. Chúa đã chứng tỏ ơn tha thứ khi Ngài chết trên thập giá cho và vì chúng ta là những người tội lỗi, không xứng đáng. Do đó, một điều quan trọng và cần thiết là chúng ta phải chân thành cầu xin Chúa. Chúng ta phải cảm nghiệm lòng nhân từ, thương xót, ơn tha thứ của Chúa cho chúng ta, thì chúng ta mới có ơn tha thứ để tha thứ người khác.
Điều thứ hai, như cậu bé Jeff trong câu chuyện trên, chúng ta cầu nguyện cho họ như chính Chúa Giêsu đã làm. Chúa đã cầu nguyện cho những người đóng đinh Ngài vào thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết điều họ làm.” Những người đã cầu nguyện cho kẻ thù chứng thực một điều lạ lùng đã xảy ra cho họ là thái độ thù ghét dần dần biến mất. Họ khẳng định rằng điều đó thực sự xảy ra trong đời sống của họ.
Điều thứ ba mà Chúa muốn dạy chúng ta thực hành là, ngoài việc cầu xin ân sủng tha thứ và cầu nguyện cho người làm hại mình, chúng ta có thể đặt mình vào trong tình cảnh của người đó. Một người đã tâm sự rằng, “Nếu tôi có thể đi vào con người và tâm hồn của họ, thì tôi có thể nhận ra những nỗi đau buồn, khổ cực và bất an của họ, và cảm giác này sẽ dần dần làm bớt đi sự muốn trả thù và thù oán. Và chúng ta có thể nhận ra họ cũng là con cái của một Cha trên trời, có những cách sống hay những hoàn cảnh khó khăn riêng. Chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu đã chịu chết trên Thánh giá vì tội lỗi của họ và của chúng ta.”
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa dạy chúng ta yêu thương tha nhân và kẻ thù, và nếu chúng ta cảm thấy khó yêu thương hay tha thứ cho kẻ thù, cho những người vu khống, làm hại chúng ta, thì chúng ta có thể thực hành 3 điều Chúa dạy. Thứ nhất, cầu nguyện xin ơn để tha thứ cho chính mình; thứ nhì, cầu nguyện cho họ; và thứ ba, đặt mình vào hoàn cảnh và cố gắng nhìn họ qua một ánh sáng mới.
Đức cố Hồng y Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận, Người Tôi Tớ Chúa, là một gương thánh thiện cho chúng ta noi theo. Ngài đã bị biệt giam, bị hành hạ và đối xử một cách tàn nhẫn, nhưng sau đó, ngài không thù oán, không trả thù. Ngài tha thứ và cầu nguyện cho họ. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn quảng đại, một con tim tràn đầu yêu thương và tha thứ, để chúng ta xứng đáng là đền thờ của Chúa ngự, luôn sống trong an bình và ân sủng của Chúa.
.