Các bài suy niệm Chúa Nhật 6 Thường niên Năm B

611

CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_B

Lời Chúa: Lv 13,1-2.44-46;  1Cr 10,31-11,1;  Mc 1,40-45

——-

Mục lục

1. Chạnh lòng thương (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Bệnh phong tâm hồn  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chữa người phong  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Cúi xuống với người khổ đau  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Nếu Chúa muốn  (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Cử chỉ nhỏ  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Phong cùi  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

8. Lòng trắc ẩn   

9. Chữa một người cùi  (Lm. Carolo)

10. Mẹ nâng đỡ các bệnh nhân  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

11. Suy niệm Chúa Nhật 6 Thường niên_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

12. Suy niệm Chúa Nhật 6 Thường niên_B.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

13. Lòng thương cảm  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

14. Giơ tay đụng vào  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

15. Niềm hy vọng  (Trầm Thiên Thu)

16. Rất cần sự cảm thông  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

17. Lòng thương xót vượt qua tất cả  (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

18. Tại sao Chúa Giêsu nghiêm giọng đuổi người phong hủi được chữa lành đi ngay?! (Trần Đình Phan Tiến)

19. Cú đụng tay đổi đời  (JM. Lam Thy, ĐVD)

20. Tấm lòng của Đức Giêsu  (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

21. Tôi muốn, anh hãy được sạch  (Fx. Đỗ Công Minh)

22. Mạnh dạn đến với Chúa Giêsu (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)

23. Đức Giêsu – Đấng chữa lành mọi bệnh tật  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

24. Chúa Nhật 6 Thường niên – Năm B  (Lm. Grêgôriô Lê Văn Hiếu)

25. Suy niệm chú giải Chúa Nhật 6 Thường niên_B (Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

26. Loại bỏ  (Lm. Vũ Đình Tường)

27. Xin cho được thoát khỏi cảnh cô lập thể xác và tinh thần (Lm. Trần Bình Trọng)

28. Nên sạch đẹp  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

29. Hậu quả đáng sợ của tội lỗi  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

30. Hiệp nhất trong Chúa Giêsu mới sống thực  (Lm. Đinh Quang Thịnh)

31. Nỗi đau khi bị chối bỏ  (Lm. Gioan Quốc Toản, CRM)

32. Đừng trở thành người phung cùi (Lm. Đinh Lập Liễm)

33. Biệt giam(Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

34. Xin ơn chữa lành bệnh cùi thể xác và tâm hồn  (Lm. Đan Vinh)

35. Suy niệm Chúa Nhật 6 Thường niên – Năm B  (Lm. Anthony Trung Thành)

36. Thiên Chúa luôn cảm thông với con người  (Lm. Giuse Nguyễn)

37. Chúa Giêsu – Đấng Cứu Thế  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)

38. Người phong cùi được lành sạch  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

39. Ăn để sống hay sống để ăn  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

40. Lạy Ngài, xin làm cho con được sạch (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

41. Chúa Nhật 6 Thường niên_B (Lm. Antôn)

 

 

CHẠNH LÒNG THƯƠNG

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
 .
Xuất phát từ một chủ đề chung là bệnh phong cùi, bài đọc trích sách Lêvi và bài Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay nêu lên sự khác biệt giữa giáo huấn của Cựu ước và giáo huấn của Tân ước. Xưa cũng như nay, bệnh cùi là một trong những chứng bệnh nan y. Bệnh nhân không chỉ đau đớn về thể xác, mà còn đau đớn về tinh thần, vì bị mọi người khiếp sợ xa lánh. Sách Lêvi quy định rõ: những ai bị bệnh này phải trùm đầu, phải sống xa khu dân cư và nếu gặp ai, phải hô lớn tiếng để cho người ta biết mà tránh (Bài đọc I). Nếu những người phong cùi bị kết án là “ô uế” thì quyền năng của Con Thiên Chúa đã làm cho người ấy nên thanh sạch. Qua việc giơ tay chạm vào người bệnh nhân, Chúa Giêsu đã vượt qua mọi định kiến của truyền thống cũng như của quan niệm tôn giáo. Chúa Giêsu không chỉ giáo huấn bằng những bài giảng thuyết, Người còn “chạnh lòng thương” và chạm tới nỗi đau của con người để chữa lành. Qua việc tiếp xúc trực tiếp với những người đau khổ bệnh tật, Chúa truyền cho họ sức mạnh và tình thương. Nơi khác trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa chạm tay vào chiếc quan tài của người đã chết,  làm cho người thanh niên sống lại và cầm tay trao cho người mẹ đang đau khổ (x. Lc 7,11-18). Sứ mạng thiên sai của Chúa là đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc, giúp họ hòa nhập với cộng đồng xã hội và hướng tới phần thưởng đời đời Thiên Chúa dành cho người công chính.
 
Người cùi không chỉ được chữa lành bệnh tật thể xác, mà anh còn được tái hòa nhập với cộng đồng xã hội. Với việc đi trình diện các tư tế, anh được những người có trách nhiệm trong tôn giáo công nhận là thanh sạch. Anh được quyền tham dự các nghi lễ ở Đền thờ và Hội đường. Anh cũng sẽ có một tương lai như biết bao người khác cùng chung sống trong các làng mạc và thành phố. Anh sẽ không bị mọi người xa lánh phân biệt, và trở thành một công dân bình thường. Chúa Giêsu đến trần gian để mời gọi con người hãy đón nhận nhau trong tình huynh đệ, không phân biệt nhơ uế hay thanh sạch, tội lỗi hay thánh thiện, giàu hay nghèo, vì tất cả là đều là anh chị em với nhau.
 
Thánh Máccô cũng nhấn mạnh đến một hành động của người phong cùi, đó là “đến gặp Chúa Giêsu”. Đối với anh, đến gặp Chúa Giêsu là một hành động bạo dạn và được thúc đẩy bởi lòng tin. Bởi lẽ, như đã nói ở trên, những người phong cùi không chỉ bị cấm tiếp xúc với người khác, mà còn phải hô lớn tiếng “ô uế! ô uế!” mỗi khi gặp người đi ngang qua. Để đến được với Chúa Giêsu, người cùi cũng phải vượt qua mọi quan niệm khắt khe, mọi rào cản của phong tục tập quán. Lòng tin mạnh mẽ đã giúp anh đến với Chúa Giêsu, vì anh tin rằng Người là Đấng quyền năng có thể làm được mọi sự.
 
Hành động “đến gặp Chúa Giêsu” của người cùi là lời mời gọi thôi thúc chúng ta hãy mạnh dạn đến với Chúa. Có nhiều người vì lý do này hay lý do khác ngại ngùng không muốn đến với Chúa và như thế, càng ngày họ càng xao lãng Đức tin. Hãy đến với Chúa, dù còn nhiều khiếm khuyết bất xứng. Chúa Giêsu vẫn đang chờ đợi chúng ta đến với Người để ban ơn phúc và dẫn dắt chỉ lối cho chúng ta trên đường đời. Người phong cùi có một quyết định quan trọng là đến với Chúa, và quyết định này đã thay đổi cuộc đời, đem lại cho anh một tương lai. Chúng ta cũng vậy, nếu dứt khoát trút bỏ những yếu hèn tội lỗi để về với Chúa, chúng ta sẽ được Người đỡ nâng và ban sức mạnh.
 
Người phong cùi, một khi được chữa lành đã trở thành người loan báo Tin Mừng. Anh muốn hét to lên niềm vui được khỏi bệnh. Anh như người đã chết mà được cứu sống, đã bị loại trừ khỏi xã hội mà nay được tái hòa nhập vào cộng đồng những người thân. Anh muốn nói cho mọi người biết Đức Giêsu là vị Ngôn sứ, là Đấng Thiên sai và là Thiên Chúa quyền năng. Noi gương người phong cùi, mỗi chúng ta, một khi đã lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, cũng hãy là những chứng nhân của lòng thương xót Chúa. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta “hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa”. Thánh nhân cũng cảnh báo chúng ta đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai, nhưng hãy nên gương sáng trong mọi hoàn cảnh (Bài đọc II).
 
Trong những ngày này, chúng ta chuẩn đị đón xuân mới Mậu Tuất. Mùa xuân đem lại sự ấm áp yêu thương của các gia đình và các cộng đoàn. Tuy vậy, nếu có những người vui niềm vui sum họp, thì vẫn còn những người đang tìm một mái ấm hoặc đang khao khát tình thương. Qua việc Chúa chữa người phong cùi, chúng ta nhận được bài giáo huấn quan tâm chia sẻ tinh thần vật chất đối với những người bất hạnh. Xuân đến, có nhiều người không có tết vì quá nghèo hoặc bị bỏ rơi. Những cử chỉ bác ái khi tết đến xuân về là một trong những nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, nhất là khi những chia sẻ ấy được thực hiện trong tinh thần bác ái Kitô giáo. Xin cho chúng ta trở nên hiện thân của Chúa Giêsu giữa đời, để đem tình thương và lòng bao dung của Người đến với anh chị em, nhất là những người bất hạnh. Khi quảng đại chia sẻ, chúng ta sẽ làm cho mùa xuân lan tỏa trong cuộc sống hôm nay.

 

Về mục lục

.

BỆNH PHONG TÂM HỒN

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.

Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.

Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.

Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.

Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.

Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.

Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.

Lạy Đức Giêsu, xin cứu độ chúng con. Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1- Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá về hành động này không?

2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?

3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?

4- Bệnh phong tâm hồn là gì?

Về mục lục

.

CHỮA NGƯỜI PHONG

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đọc Tin mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra sự xuyên suốt  của sợi chỉ đỏ, giúp chúng ta hiểu được Lòng Nhân Từ  của Thiên Chúa : Vị Thiên Chúa làm người, đã tiếp xúc với mọi lớp người, đặc biệt những con người bé nhỏ, thấp hèn, những con người bị thương tổn trong xã hội, những bệnh nhân tật nguyền, những người bị quỷ ám, những con người thấp cổ bé họng vv…Chúa chữa lành mọi thứ bệnh và xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người bị quỷ ám.

Thiên Chúa qua Con của Người là Đức Giêsu Kitô đã mang sứ điệp tình thương cho con người, đem bình an cho nhiều người. Sứ điệp ấy là Tin Mừng cứu độ, là sự an bình cho những người thiện chí tay sạch lòng thanh. Chúa đã cứu vớt nhiều người, những bệnh nan y, những bệnh tật mà xã hội tránh xa, nguyền rủa. Sứ điệp hòa bình hay Tin Mừng cứu rỗi cần phải được loan truyền cho nhiều người để càng nhiều người biết càng quý hóa, càng quan trọng.Tuy nhiên, hôm nay Chúa lại nghiêm cấm người được Ngài chữa bệnh phong cùi : “ Không được nói với ai và hãy đi trình diện với tư tế vì anh ta đã được chữa lành “. Bệnh phong cùi không biết đã có từ lúc nào, nhưng trong luật Môsê đã có những khoản rất tỉ mỉ qui định cho các người mắc bệnh phong cùi. Đến thời Chúa Giêsu, bệnh này vẫn còn xuất hiện trong nước Do Thái và vẫn có những khoản luật rất khắt khe đối với những người mắc bệnh phong cùi.Theo quan niệm của thời đó, người mắc bệnh phong cùi là người có tội nặng, bị phạt, bị nguyền rủa vv…Chúa Giêsu thương xót những người này, Ngài không xua đuổi, không né tránh họ, ai tới với Ngài xin Ngài chữa lành Ngài đều làm phép lạ chữa lành họ.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nghiêm cấm người phong cùi được Ngài chữa lành không được cho ai biết anh ta đã được Ngài chữa lành. Có lẽ Chúa Giêsu không muốn cho người khác hiểu mình chỉ là một lương y chữa bệnh. Bởi Ngài là Thiên Chúa và họ phải nhìn nhận, biết Ngài là Đấng Cứu Thế. Nhưng, người được chữa lành không thể giữ được điều lạ lùng, kỳ diệu anh ta nhận được nơi Chúa, do đó, vừa ra khỏi nơi Đức Giêsu chữa lành, anh ta liền nói về Người. Anh ta rao truyền, loan báo về quyền năng vô biên, tuyệt đối của Chúa Giêsu, Đấng vừa chữa lành cho anh. Anh ta loan báo, cao rao to tiếng khắp nơi, đến nỗi Đức Giêsu Kitô không thể công khai vào thành.

Chúa dạy chúng ta bài học nhớ đời :” Việc rao giảng Tin Mừng luôn cần thiết mọi nơi, mọi chỗ, mọi lúc “. Người loan báo Tin Mừng cần nhiệt thành, cần có tấm lòng quảng đại và cần có sự lắng nghe và thực hành lời Chúa.

Người loan báo Tin Mừng, giới thiệu Đức Kitô trước tiên phải là người đón nhận Tin Mừng từ Đức Giêsu và lãnh nhận sứ vụ được sai đi của Chúa. Mọi Kitô hữu chúng ta đều được mời gọi sống Lòng Thương Xót của Chúa và làm chứng cho quyền năng, sự tha thứ và con người nhân từ của Chúa. 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết tha thiết tìm kiếm và học hỏi Ngài để khi tìm được Ngài, chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng chính đời sống yêu thương, hiệp nhất và gắn bó với Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

  1. Tại sao Chúa lại nghiêm cấm người phong cùi được chữa lành không được noi với ai ?

2. Tư tế là ai ?

3. Phong cùi đã có thừ thời nào ?

Về mục lục

.

CÚI XUỐNG VỚI NGƯỜI KHỔ ĐAU

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người xưa có câu: “ngước lên chẳng bằng ai nhưng cúi xuống vẫn còn hơn nhiều người”. Câu này không hàm ý để tự an ủi mình và xem thường người hèn yếu hơn mình. Câu này cha ông chỉ muốn nhắc nhở chúng ta được như vậy là tốt lắm rồi, hãy cúi xuống mà chia sẻ với những anh em nghèo khó hơn ta.

Trong hạnh các thánh ta thấy một con người đã sống như thế, đó là thánh Martino. Ngài sinh ra trong một hoàn cảnh chẳng bằng ai, một người da mầu trong một xã hội kỳ thị chủng tộc, một đứa con bị bỏ rơi, một hoàn cảnh gia đình khó khăn… thế nhưng thay vì nhìn lên để phẫn uất vì hoàn cảnh “đen đủi” của mình, Martino lại biết nhìn xuống những người nghèo khó hơn mình, và luôn thể hiện một tấm lòng bác ái, quảng đại. Nhiều lần được mẹ sai đi mua đồ lặt vặt hay đi chợ, cậu bé Martino đã giữ lại một ít tiền để bố thí cho những người nghèo khổ; cũng thế, khi là một người giúp việc trong nhà Dòng, một vị thế rốt bét nhất trong một tập thể, Martino lại vẫn biết nhìn xuống để khám phá thấy có nhiều người nghèo khổ cần giúp đỡ, nhiều người bệnh tật cần được chữa trị và chăm sóc…

Martin đã cúi xuống để khám phá ra sứ vụ của đời mình chính là chăm sóc cho những người nghèo khổ hơn. Chính vì thế mà cuộc đời của Martin trở thành cuộc đời của một người sống lòng bác ái, lòng bao dung với thái độ sẵn sàng giúp đỡ tha nhân.

Martino đã họa lại chân dung đầy yêu thương nơi Thầy Chí Thánh Giê-su. Chính Chúa Giê-su đã luôn cúi xuống mọi phận người khổ đau. Ngài thấy và chạnh lòng thương xót. Ngài cúi xuống để xoa dịu nỗi đau cho họ. Phúc âm hôm nay tường thuật việc Ngài cúi xuống với người phong hủi với lòng thương cảm sâu xa. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giê-su cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui. Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giê-su, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ Chúa Giê-su, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và yêu thương.

Trong thời đại hôm nay người ta đang nói đến hiệu ứng cách sống của Đức Thánh Cha Phanxico. Nơi Đức Thánh Cha ta thấy dường như ngài không thích ngồi trên ngai tòa của mình mà lại thích cúi xuống, đến với những con người nghèo. Ngài không ngại tiếp xúc với những người khổ đau bởi bệnh tật, nghèo đói. Ngài cúi xuống ôm hôn từng phận người bất hạnh lầm than.

Chúa Giê-su năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể phán một lời thì bệnh tật có thể tan biến. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi tay để trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho anh. Ước gì từng người chúng ta hãy biết dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu dàng, những hành vi bác ái và vị tha. Ước gì người ky-tô hữu luôn ân cần cúi xuống để xoa dịu mọi nỗi đau cho anh em qua việc phục vụ, bác ái dấn thân đến mọi hoàn cảnh cuộc sống, hầu xây dựng một thế giới tràn đầy tình yêu và hạnh phúc. Amen

Về mục lục

.

NẾU CHÚA MUỐN

Bông Hồng Nhỏ

Có lời ca rằng “chạm tay nhau một giây thôi là nhớ nhau cả đời.” Bàn tay truyền hơi ấm và tình thương, lưu lại những luyến thương để khi xa nhau sẽ nhớ mãi một bàn tay. Người con trai và con gái phải lòng nhau đôi khi chỉ cần một ánh mắt, một nụ cười hay một cái chạm tay nhau như lời ca trên. Hôm nay, Thầy Giêsu đã đụng vào một con người bị xã hội xem là ô uế và chữa lành cho anh. Người ấy là một người phong hủi.

Mang trong mình căn bệnh phong hủi, anh không được phép tiếp cận với mọi người nhưng phải cách li ở một nơi chỉ dành cho những sự ô uế. Ngày xưa, bệnh này không có thuốc chữa. Điều đó đồng nghĩa với việc anh phải sống với cái tiếng ô uế suốt đời và sẽ chẳng còn tia hi vọng để trở lại với cộng đồng. Người ta tránh anh như tránh tà. Vậy mà hôm nay, vượt qua nỗi sợ hãi bị xua đuổi, vượt qua mặc cảm để đến gặp Thầy Giêsu, anh đã bày tỏ ước nguyện của mình. Thầy đã đến gần đụng vào anh. Thầy chẳng sợ người ta dị nghị càng không vì chứng bệnh phong đáng kinh hãi của anh mà tránh xa nhưng Thầy vượt lên trên tất cả những nỗi sợ rất người đó. Nơi Thầy chỉ có tình yêu. Nếu ta có một tình yêu như Thầy Giêsu, ta sẽ có khả năng vượt lên trên mọi thành kiến, những sợ hãi để trao ban một tình yêu. Khi chính ta mang trong mình một căn bệnh nào đó, ta hãy can đảm tìm đến Thầy Giêsu để được chữa lành.

Khi người bạn của ta gặp đau khổ, gặp khó khăn, ta đã đến bên an ủi hay khuyên răn. Có những khi lời khuyên của ta sao trở nên vụng về quá. Đó là khi ta chưa đứng trong vị trí của người ấy, ta chưa trải qua và chưa thật sự sống kinh nghiệm của họ nên ta chẳng thể nào chạm đến con tim. Cũng có khi nỗi sợ hãi bủa vây lấy ta khi người anh chị em đang mang một chứng bệnh có thể gây ảnh hưởng đến ta. Ta hãy nhìn lại xem cách Thầy Giêsu đối xử với người phong hủi xem sao. Ta hãy theo gương Thầy, hãy đứng vào vị trí của họ, đụng vào họ theo một cách cụ thể nhất. Thầy Giêsu có thể chỉ cần đứng xa xa và truyền lệnh là anh khỏi liền nhưng Thầy đã đến gần, đụng vào anh và chữa lành anh. Thầy chữa lành căn bệnh thể xác nhưng hơn hết Thầy còn cho anh thấy, trong mắt Thầy anh vẫn là một con người đáng thương, đáng tôn trọng chứ không phải là đồ ô uế. Thầy đã sống với con người và đã trải qua những nỗi đau của kiếp người. Đó là nỗi đau bị phản bội, bị kết án oan, bị người xỉ vả và bị bỏ rơi…

Khi nhìn ngắm anh cùi nay được khỏi, ta có thể cảm  nhận niềm hạnh phúc ngập tràn trong anh. Anh đã xin điều Thầy muốn và cũng là điều anh khao khát. “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mc 1, 40). Bằng tình thương và quyền năng Thầy đã chữa anh khỏi  bệnh. Anh đã tin rằng nếu Thầy muốn thì mọi sự đều có thể. Là người đang chứng kiến người thân của ta cần được giúp đỡ, ta cũng cần phải tin rằng mình có thể giúp họ chữa lành. Ta có tin mình có khả năng làm được điều ấy không? Ta có tin mình có thể vượt qua sợ hãi, có thể dùng một tấm lòng chân thành để chạm đến trái tim của họ không? Đôi khi không cần phải nói gì cả nhưng chỉ cần ta lắng nghe cách trọn vẹn, và bằng hành động cụ thể thôi. Chỉ cần phụ giúp họ một công việc khi thấy họ mệt, chỉ cần đến bên nói chuyện để họ không thấy mình bị cô lập… Chính tình yêu sẽ giúp ta làm được tất cả.

Lạy Chúa! Chúa đã chẳng ngần ngại khi đến đụng chạm vào trái tim của con. Chúa đã chẳng ngần ngại ngự vào trong tâm hồn bé nhỏ của con và yêu thương con. Chúa dạy con hãy ra khỏi mình và tập đứng vào vị trí của người khác để hiểu họ hơn, để yêu thương họ bằng những việc làm xuất phát từ trái tim. Lạy Chúa! Xin ban cho con một đức tin mạnh mẽ vào Chúa và nuôi dưỡng trong con niềm tin vào chính mình để con luôn tin rằng nhờ ơn Chúa con có đủ khả năng để yêu thương mọi người. Amen.

Về mục lục

.

CỬ CHỈ NHỎ

Anna Cỏ May

Cô bé la lên:

– Mẹ ơi, con gì nè, nó dài lắm. Nó có cắn không mẹ.

– Thì con đụng nó xem.

Cô bé trố mắt nhìn, tay cứ thụt ra thụt vào. Và cuối cùng nó đưa chân khiều một cái. Nó cuống lên:

– Mẹ ơi, nó cong tròn lại rồi

– Ùm con cuốn chiếu đụng vào là nó quấn mình lại.

–  A hay quá mẹ nhỉ!

Rồi, cô bé cứ ngồi chơi với con cuốn chiếu, mẹ làm gì thì làm.

Trong tình yêu mọi người hay nói “yêu là phải đụng tay, đụng chân”. Ở nơi đông người vô tình chúng ta đụng nhau liền nói lời xin lỗi với người xa lạ. Còn Chúa Giêsu, Ngài dùng cử chỉ ấy để chữa bệnh. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài đã đụng vào người mắc bệnh phong mà nói: “Tôi muốn, anh được sạch”. (Mc1,29). Ngoài ra Ngài còn có những cử chỉ khác như Chúa Giêsu cầm lấy tay con bé, nó liền trỗi dậy. (x. Mt 9,25). Bây giờ, Người sờ mắt họ và nói: “Các anh tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9,29). Với Chúa Giêsu, những cử chỉ ấy là sự thân thiện gần gũi, không một chút e ngại với ai, là những cử chỉ yêu thương với mọi người. Chính sự đụng chạm của Ngài nơi người mắc bệnh phong càng làm cho những người tư tế, kinh sư và dân chúng phải kinh ngạc. Bởi vì, dân Do thái thời xưa xem bệnh phong là là một căn bệnh hết sức kinh tởm, họ xa lánh với những ai mắc phải. Mặt khác, họ cho  rằng những mắc bệnh ấy là do họ ăn ở không tốt nên gặp quả báo. Vậy nên, những ai đụng hay tới gần là người đáng khinh và người đã bị lây nhiễm. Thế rồi, Chúa Giêsu lại dùng những điều ghê tởm này để nâng tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua sự đụng chạm, sờ nắm. Ngài lại lấy những đau đớn bệnh tật của con người vào nơi mình. Ngài nâng những con người thấp hèn lên cao và cho họ cuộc sống mới. Ngài không chỉ cho họ được lành mạnh về thân xác mà còn cho họ được vững mạnh tinh thần (x. Mc 1, 24). Đối với những người mắc bệnh phong, việc khỏi bệnh như được sống lại. Bởi đó họ sung sướng và hạnh phúc. Còn ngày nay, y học phát triển, bệnh phong đã có thuốc điều trị và bệnh nhân cũng được xã hội quan tâm hơn. Căn bệnh trong tâm hồn mỗi chúng ta mới thật kinh khủng. Vì vậy, để được chữa lành, mỗi chúng ta phải thật sự khao khát đi tìm Giêsu và cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời mình, chúng ta sẽ được chữa lành.

Lạy Chúa! Yêu thương không chỉ dừng ở những lời nói, những phần quà vật chất nhưng còn là những cử chỉ nhỏ như xoa bóp, cầm tay như Chúa đã làm cho những bệnh nhân. Tuy nhiên, đôi lúc chúng con đã vô cảm trước một người nghèo, một người bất hạnh. Xin Chúa hãy đánh thức tâm hồn mỗi người chúng con và ban cho chúng con có trái tim biết yêu tha nhân từ chính đôi bàn tay mà Chúa đã ban cho chúng con.

Về mục lục

.

PHONG CÙI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Phong cùi lở loét rời xa,
Mọi người lẩn tránh như tà hay lây.
Gia đình lối xóm sa lầy,
Bệnh tình cắt đứt mối giây thân tình.
Thân cùi đành phải hy sinh,
Vào nơi hoang vắng, một mình sống riêng.
Tình thân kết nối thiêng liêng,
Phong cùi giết chết, nên kiêng đến gần.
Khổ đau chồng chất gian trần,
Chúa thương cứu chữa, những lần van xin.
Người cùi mở miệng cầu xin,
Chữa con lành bệnh, xin tin nơi Ngài.
Thấu lòng cầu khẩn van nài,
Tà phong lành sạch, mở khai lối về.
Sướng vui xum họp mọi bề,
Hợp đoàn dân Chúa, con thề tín trung.

Người phong cùi tìm đến Chúa Giêsu xin chữa lành. Ông van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi lành bệnh.” Chúng ta biết rằng không ai chạy đến với Chúa mà bị từ chối sự giúp đỡ. Chúa đã chữa ông ta lành bệnh.

Theo luật Do Thái, những người bị bệnh phong cùi phải sống tách biệt, không ai được đến gần hay động chạm đến họ. Họ là những người đau khổ nhất. Họ bị bỏ rơi và bị khinh miệt, ngay cả với những người thân trong gia đình. Họ đang sống nhưng như người đã chết. Căn bệnh kinh khủng rỉa mòn thân xác mỗi ngày. Họ từ từ bị rụng các ngón tay, ngón chân, tai, mũi…

Họ bị xua đuổi và tự sinh sống nơi hoang địa. Phải tự lo cho cuộc sống riêng của mình. Số phận của họ thật là nghiệt ngã. Họ có thể bị ném đá, nếu mon men đến gần các thầy tư tế hoặc nhà chức trách để xin ân huệ.

Hôm nay, người phong cùi tiến gần tới Chúa Giêsu với tấm lòng khiêm cung. Họ nhận biết quyền năng của Chúa. Chúa Giêsu đã trìu mến thương cảm đón tiếp họ. Chúa chữa lành bệnh hoạn cả thể xác lẫn tinh thần. Chúa tỏ lòng thương xót và yêu mến. Chúa đã chạm đến thân xác cùi hủi của họ.

Ngày nay, trong xã hội vẫn còn nhiều người mắc chứng bệnh phong cùi. Họ cũng phải tách lìa cộng đoàn và sống riêng rẽ nơi trại phong. Họ cùng tụ họp để tự lo lắng, bảo vệ và nâng đỡ nhau trong cuộc sống. Họ ít đi lang thang để xin ăn. Họ chỉ chờ đợi lòng thương xót đến từ những nhà hảo tâm. Có nhiều trại phong được các tâm hồn quảng đại giúp đỡ. Có những người đã hy sinh cuộc đời đến ở bên họ để chăm sóc, nâng đỡ và ủi an.

Đôi khi chúng ta cũng mang những loại bệnh cùi hủi trong tâm hồn. Chúng ta cũng cần nài xin Chúa: Nếu Chúa muốn, xin Chúa chữa lành cho chúng con khỏi mọi bệnh hoạn tật nguyền. Chúng ta là con Chúa. Được mang hình ảnh của Chúa. Hãy mở rộng tay chia xẻ cho những anh em cùng khổ và kém may mắn. Chúa yêu thương và đón tiếp họ.

Xin Chúa cho chúng ta tâm hồn quảng đại để cùng cảm thông và giúp đỡ những người kém may mắn với lòng yêu thương và tôn trọng.

Về mục lục

.

LÒNG TRẮC ẨN

Ai đó đã nói rằng: “Yêu thương và lòng trắc ẩn là những thứ thiết yếu trong cuộc đời. Không có yêu thương và lòng trắc ẩn, nhân loại không thể tồn tại”. Thực vậy! Nhờ yêu thương và lòng trắc ẩn, mà con người mới dành cho nhau những nghĩa cử cao đẹp của tình người, tình đồng loại. Nhờ yêu thương và lòng trắc ẩn, con người mới tìm cách làm cho thế giới này bớt khổ hơn. Chuyện kể rằng: Một buổi sáng mùa thu, trời se se lạnh. Người đi đường thấy một bà cụ bưng rổ rau đi bán. Khi đi ngang qua cô gái, bà cụ yếu ớt rao: “Ăn hộ tôi mớ rau, cô ơi!” Đáp lại lời bà cụ, là tiếng chan chát của cô gái: “Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về cho heo!” Chàng thanh niên đi bên kia đường vội cau mày. Đợi cô gái đi khỏi, anh liền hỏi bà: “Rau này bà bán bao nhiêu?” Bà cụ mừng rỡ: “Hai ngàn một mớ!” Chàng rút tờ mười ngàn đưa cho cụ và nói: “Bây giờ con phải đi làm. Bà cho con gửi, đến chiều con về qua đây, con lấy!” Nhưng công việc bề bộn đã khiến chàng trai kia quên luôn cả mớ rau. Vài tuần sau khi trở lại, anh đau xót nghe tin: Chỉ vì đợi anh trong cơn mưa suốt buổi chiều hôm đó, mà bà cụ kia đã bị cảm lạnh và vĩnh viễn ra đi. Anh thẫn thờ ngồi bệt bên vệ đường, ôm mặt khóc. Câu chuyện trên có thực hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là trong xã hội này, chúng ta cần lắm những tấm lòng trắc ẩn như chàng trai kia. Anh đã mua mớ rau của bà, như là mua niềm vui để tặng cho bà, vì có ai đó đã cảm thông và lắng nghe lời van xin của bà. Cái chết của bà có thể chỉ là một tai nạn. Tuy rất buồn, nhưng điều quan trọng, là trong xã hội vẫn còn đó lòng trắc ẩn yêu thương dành cho nhau. 

Đọc lại Tin mừng, ta luôn thấy tấm lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu. Lòng trắc ẩn ấy không dừng lại ở sự cảm thông, mà còn bằng hành động cụ thể, để xoa dịu nỗi đau cho tha nhân. Chẳng hạn: Chúa đã trắc ẩn trước đoàn lũ đói khát đang đi theo Ngài. Chúa đã trắc ẩn trước cái chết của Lagiarô. Chúa đã trắc ẩn trước những nỗi đau của những người mang bệnh tật trong mình. Chúa còn đồng hóa mình với những phận người kém may mắn trong cuộc sống. Chúa đã làm tất cả những gì trong khả năng, để xoa dịu nỗi đau cho những ai đến với Chúa. Hôm nay, lòng trắc ẩn của Chúa đã dành cho người phong cùi. Thái độ của Chúa Giêsu khi đưa tay chạm đến người phong cùi, như muốn nói rằng: tấm lòng của Chúa luôn vượt qua mọi rào cản, để đụng đến con tim của người đau khổ. Một người bị bỏ rơi, nay được Chúa trìu mến quan tâm. Một người bị loại ra khỏi xã hội loài người, nay được Chúa chữa lành, để có thể hội nhập với mọi người. Tình thương và lòng trắc ẩn của Chúa đã cứu sống một con người, đã mang lại niềm vui hạnh phúc cho người bất hạnh đang mang trong mình căn bệnh trầm kha. 

Cuộc đời sẽ đẹp biết bao, khi mọi người có lòng trắc ẩn với nhau. Lòng trắc ẩn sẽ mách bảo cho ta biết mình phải làm gì, để xoa dịu nỗi đau. Lòng trắc ẩn là nhịp cầu dẫn ta đến với tha nhân. Lòng trắc ẩn khiến ta không còn dửng dưng với những mảnh đời bất hạnh bên ta. Nhưng đáng tiếc, thế giới ta đang sống có quá nhiều người vô cảm, dửng dưng với đồng loại. Họ chủ trương “mackeno” cho an phận. Dường như con người ngày nay đang đánh mất đi tình liên đới, để chỉ còn sống cho bản thân. Lòng trắc ẩn xem ra càng ngày càng quí hiếm. Vì thế con người hôm nay tuy sống giữa biển người bao la, nhưng vẫn rất cô đơn.

Xin Chúa giúp ta biết cởi bỏ vỏ bọc ích kỷ, để sống chan hòa tình yêu với tha nhân. Xin cho ta biết trao cho nhau những nghĩa cử yêu thương, thay cho những thái độ thờ ơ lạnh nhạt. Xin cho ta biết học nơi Chúa luôn có lòng trắc ẩn và phục vụ tha nhân.

Ave Maria

Về mục lục

.

CHỮA MỘT NGƯỜI CÙI

Lm Carolo

  1. Vấn đề

    Chuyện này có 2 chi tiết rất khó hiểu: 1/ Vừa mới chữa bệnh cho người cùi, Đức Giêsu lại nghiêm khắc “đuổi” anh; 2/ Phần người cùi, mặc dù Đức Giêsu đã cấm anh đừng nói với ai, nhưng vừa ra đi anh liền loan báo khắp nơi.

    Thực ra ta có thể hiểu 2 chi tiết trên nếu dùng ánh sáng phục sinh.

  1. Giải thích

c 40 – Một cách đột ngột không cần giới thiệu thời gian, nơi chôn và tên tuổi. Mc cho xuất hiện ngay nhân vật của câu chuyện: một người cùi đến van xin Đức Giêsu cứu chữa.

    – Muốn hiểu thái độ khẩn thiết này của anh, ta hãy nhớ lại quan niệm xã hội về bẹnh cùi: Cựu Ước xem bệnh cùi là một bệnh gớm ghiếc phần xác, là bằng chứng của tội lỗi và dấu chỉ bị Thiên Chúa trừng phạt. Vài Rabbi đương thời của Đức Giêsu còn cho rằng bệnh này là hình phạt cho 7 thứ tội đầu là vu khống, sát nhân, trộm cắp và hà tiện. Về mặt thể lý, bệnh này tàn phá dung mạo nạn nhân khiến họ trở thành gớm ghiếc đến nỗi khi gặp họ, người ta không dám nhìn, phải che mặt lại. Ngoài ra nó còn lây lan nữa. Bởi thế người ta xa lánh bệnh nhân, ngay cả liaạt Môsê cũng khai trừ bệnh nhận ra khỏi xã hội (Lv 13,45-46). Như thế người cùi được xem là một “xác chết biết đi”, một ổ “ô uế” hay lây. Chỉ có một mình hiên Chúa mới chữa khỏi được bệnh này (xem chuyện Miriam em gái Môsê ở Ds 12,1-16).

    – Khi người cùi nói với Đức Giêsu rằng “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể cho con được sạch”, anh ta tỏ ra tin tưởng Đức Giêsu có uy quyền Thiên Chúa ấy.

c 41 – Thái độ của Đức Giêsu phải khiến ta ngạc nhiên: Ngài dám đưa tay chạm vào người cùi vốn bị dư luận và luật cũ coi là đồ không được chạm đến.

c 42 – Hiệu quả xảy ra tức thì. Lời của Đức Giêsu là lời của Thiên Chúa: Ngài phán thì liền có.

c 43 – Trước đó Đức Giêsu đã “động lòng thương” thế mà  ngay sau khi chữa anh này hết bệnh. Ngài đổi thái độ liền: nghiêm khắc bảo anh đi ngay. Động từ Hy lạp ở đây không chỉ là “bảo đi” mà chính là “đuổi đi”, cùng một động từ được Mc dùng trong những tường thuật đuổi quỷ (1,34-39  3,15-22  6,13.v.v…)

c 44 – Đức Giêsu còn dặn anh chớ nói với ai. Thái độ nghiêm khắc này là bó buộc để bảo vệ bí mật Messia. Người ta chỉ hiểu được nó trên thập giá.

    – “Nhưng hãy đi trình diện với tư tế”: Lv 14,1-9 cho tư tế quyền xác nhận một người đã khỏi bệnh cùi và được phép trở lại tham gia sinh hoạt cộng đoàn. Đức Giêsu bảo anh này đi trình diện tư tế vì những lý do:

1/ để anh được kẻ có thẩm quyền xác nhận nhờ đó anh được tham gia sinh hoạt cộng đoàn.

2/ Qua sự xác nhận chính thức ấy Đức Giêsu cũng được dân chúng hiểu Ngài là Đấng Messia đã từ lâu mong đợi.

c 45 – Nhưng anh này không tuân lệnh, lại đi “loan truyền” khắp nơi. Ở đây Mc đã vượt khỏi thời gian lúc đó để nhảy sang thời gian của GH, khi mà bí mật Messia được phép bật mí. Mc muốn đưa anh cùi này ra để làm gương cho mọi tín hữu cũng phải “loan truyền” Tin Mừng.

    – Nhưng liền sau đó, Mc quay trở lại thời gian của câu chuyện: do tiếng đồn đã lan rộng nên Đức Giêsu không thể công khai vào thành, mà phải ở ngoài nơi thanh vắng. Dù vậy thiên hạ từ khắp nơi vẫn đến với Ngài.

  1. Kết luận

Đầu câu chuyện là một người cô độc bị loại khỏi cuộc sống cộng đoàn. Người ấy đã chạy đến xin Đức Giêsu cứu giúp. Cuối câu chuyện là cả một đám đông chạy theo Đức Giêsu. Nhưng đám đông ấy – cũng như độc giả – vẫn còn phải tự hỏi: Giêsu là ai?

Về mục lục

.

MẸ NÂNG ĐỠ CÁC BỆNH NHÂN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Mở đầu Sứ điệp ngày Thế Giới các bệnh nhân 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ngỏ lời với các bệnh nhân và với những người phục vụ: “Anh chị em thân mến, việc phục vụ của Giáo hội cho các bệnh nhân và cho những ai chăm sóc họ phải luôn được tiếp tục canh tân mạnh mẽ, trong sự trung thành với sứ mệnh của Thiên Chúa (x. Lc 9: 2-6; Mt 10: 1-8; Mc 6: 7-13) và noi theo mẫu gương rất hùng hồn của Đấng sáng lập và là Tôn sư. Năm nay chủ đề của Ngày Thế Giới Bệnh Nhân được giới thiệu cho chúng ta lấy từ lời của Chúa Giêsu, khi bị treo trên thập giá, Người đã nói với Mẹ của mình là Đức Maria và thánh Gioan: “Này là con bà…. Này là Mẹ con”. Và từ giờ đó môn đệ đón Mẹ về nhà mình” (Ga 19,26-27).

Trên thập giá, Chúa Giêsu đã lo lắng cho Giáo hội và toàn thể nhân loại, và Đức Maria được mời gọi chia sẻ chính sự lo lắng ấy… (số 1). Mẹ là người mẹ yêu thương và sinh ra những đứa con có khả năng yêu thương theo lệnh truyền của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, ơn gọi làm mẹ của Đức Maria là chăm sóc cho các con cái của Mẹ, qua thánh Gioan và toàn thể Giáo hội. Toàn thể cộng đoàn các môn đệ được mời gọi tham dự vào ơn gọi làm mẹ của Đức Maria (số 2).

Ơn gọi hiền mẫu này của Giáo hội hướng đến những người túng thiếu và bệnh tật được cụ thể hóa, qua 2000 năm lịch sử, qua hàng loạt những sáng kiến phong phú hữu ích cho các bệnh nhân. Không bao giờ được quên lịch sử về sự cống hiến này. Lịch sử ấy vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, trên toàn thế giới (số 4).

Ngày thế giới các bệnh nhân sẽ được cử hành vào ngày 11.2.2018, lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria Lộ Đức. Những ai phục vụ bệnh nhân, hãy noi gương Đức Giêsu, luôn gần gũi, thăm viếng và chữa lành các bệnh nhân và hãy cầu nguyện : “Xin Mẹ giúp các bệnh nhân biết sống kết hiệp sự đau khổ của mình với Đức Giêsu, và xin Mẹ nâng đỡ những ai đang chăm sóc họ”.

Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn tỏ ra đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau. Nhiều câu chuyện chữa lành tuyệt vời được kể lại: “Thiên hạ đem đến cho người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt và Người đã chữa họ.” (Mt 4, 24); “Chúa Giêsu trên núi đi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Và kìa, một người phong hũi tiến lại…Người giơ tay đụng vào anh và bảo, tôi muốn, anh sạch đi. Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi.” (Mt 8, 1-3); “Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa các bệnh hoạn tật nguyền.” (Mt 9, 35)…

Quan niệm của Cựu Ước cho rằng bệnh gắn liền với tội. Bệnh tật như là một sự trừng phạt bởi tội lỗi gây ra. Vì thế, người ta xa lánh bệnh nhân, nhất là bệnh phong cùi. Đó là một bệnh nan y bị mọi người kinh tởm, không chỉ vì sự dơ bẩn “ô uế theo luật Do thái”, hay lây nhiễm, mà còn bị xa lánh như xa lánh kẻ tội lỗi.

Trong Đạo Do Thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng. Họ bị xua đuổi vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu phải kêu lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà tránh xa. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị coi như người mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong.

Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà coi như đã chết.

Tin Mừng Chúa Nhật VI kể câu chuyện: Chúa Giêsu đã vượt qua những biên giới cấm kỵ khi đến gần người bệnh phong. Người còn đưa tay chạm vào thân mình lỡ loét ấy. Lòng thương yêu đã khiến Chúa Giêsu làm tất cả. Vì thương người bệnh, Chúa Giêsu đã bất chấp những điều được coi là cấm kỵ của Đạo Do Thái.

Khi chữa khỏi bệnh phong, Chúa Giêsu giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay, anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ.

Khi chữa khỏi bệnh phong, đồng thời Chúa Giêsu cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn bao năm tháng qua. Khi chạm đến thân thể anh thì Người cũng chạm đến tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh, nay qua Chúa Giêsu anh cảm thấy mọi người gần gũi thân thương. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt, nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi, nay anh cảm thấy đựoc yêu thương vỗ về.

Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội, Chúa Giêsu bảo anh đi trình diện với Thầy Cả theo luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra bên lề xã hội, nay anh được đón nhận anh trở lại với xã hội loài người. Nhân phẩm được phục hồi, danh dự được tôn trọng. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người như mọi người.

Chúa Giêsu đã chữa lành thể xác và tâm hồn của người bệnh phong. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ của anh đã chạm đến lòng thương xót của Chúa. Phép lạ phát sinh từ lòng tin của bệnh nhân và từ ý muốn đầy quyền năng của Chúa Giêsu.

Có một môn đệ theo gương Thầy Chí Thánh đã đến ở giữa người cùi, cùng sống và đã chết giữa họ. Đó là Cha Đamiên “Tông Đồ người hủi”. Ngài đã được Giáo Hội phong Thánh. Trong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, Đức Hồng Y FX.Nguyễn Văn Thuận đã kể chuyện cuộc đời Cha Đamien.

Molokai, quần đảo xa xăm ấy nằm cô đơn giữa lòng Thái Bình Dương mênh mông. Trên đảo toàn là người hủi: cụt tay, đứt chân, mắt đui, môi lở, răng rụng… Một hôm, Đức Giám Mục đặc trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các Linh Mục ở Âu Châu tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một Linh Mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh hăng hái đáp lời. Đó là Cha Đamien, người về sau được thêm biệt danh: “Tông Đồ người hủi”.

Chiều hôm đó, trong Nhà Thờ ở đảo Molokai đông nghẹt những người hủi da ngăm đen với mùi hôi tanh nồng nặc, Đức Giám Mục đứng trên Bàn Thờ quay xuống giới thiệu với Giáo Dân: “Các con thân mến, các con hằng mong ước có một Linh Mục đến cùng các con, thì đây, cha Đamien, một Linh Mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết. Các con có sung sướng không ?”

Cả Nhà Thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng cạnh Đức Giám Mục chẳng hiểu tý nào. Rồi họ từ từ tiến lên Cung Thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Damien càng nhìn thấy họ đến gần mình thì càng sởn tóc gáy. Họ trông như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây ? Họ tiến đến bên cha sờ vào mặt, vào tay, vào áo cha…

Cha hỏi Đức Giám Mục: “Thưa Đức Cha, họ làm gì thế ? Họ nói gì thế ?” Đức Cha trả lời: “Họ nói, họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ, đẹp trai, không bệnh tật như cha, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin mắt mình nên mới đến sờ mó vào người cha, xem thử cha có thực sự bị phung hủi như họ không. Rồi họ nói với nhau: “Không, Cha đẹp quá!”.

Dần dần, cha Đamien hoà đồng được với họ. Ngài không còn cảm thấy tởm gớm họ như ngày đầu. Nói đúng hơn, ngài quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ nên chẳng còn thấy e sợ, gớm ghiếc chi. Một ngày kia, đến lượt cha cũng bị mắc bệnh phong hủi. Thân hình cha lở loét, nhức nhối. Mặt mày cha sù sì, đen đủi, u nần trông rất dễ sợ.

Một số báo ở Bỉ đăng hình cha Đamien để mô tả sự hy sinh vĩ đại của cha. Bà cụ thân sinh của cha mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình cũng chẳng nhận ra nổi người con yêu. Bà hỏi các con trong gia đình: “Hình ai đây mà trông mà trông ghê sợ vậy ?” Các con đều trả lời mẹ: “Thưa mẹ, đó là một trong những người hủi trên đảo Molokai của anh Đamien đấy”. Qua mặt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ… Cha Đamien đã sống với người hủi cho đến chết. Tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.

Ở Việt Nam có hai trại cùi lớn: trại Di Linh trên đường lên Đà Lạt và trại Quy Hoà ở ngoại ô thị xã Quy Nhơn. Đức Cha Jean Cassaigne đã gắn bó với anh em dân tộc K’Hor ở Di Linh bị phong cùi một thời gian dài, rồi sau 15 năm làm Tổng Giám Mục Sài gòn, đã lại xin tình nguyện quay trở về sống giữa những người bệnh cùi ở Di Linh. Ngài sống với họ thêm 18 năm rồi lây bệnh và qua đời năm 1973. Trái tim của người Việt Nam và cả thế giới đều rung cảm, ai cũng cảm phục tấm gương chứng nhân của ngài.

Cha Paul Mahu, một Linh Mục người Pháp đã từ giã quê hương với cuộc sống tiện nghi đến sống giữa những người cùi ở Quy Hoà cho đến chết. Xác ngài được chôn cất ngay giữa làng cùi bên cạnh những người ngài thương yêu nhất.

Ngày nay các Giáo Xứ khắp nơi gần xa thường tổ chức hành hương đến Di Linh, Quy Hoà để viếng mộ Đức Cha Cassaigne và Cha Mahu, thăm viếng và tặng quà cho các bệnh nhân.

Các Nữ Tu của các Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn và Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ đã đến sống phục vụ giữa những người bị xã hội xa lánh loại trừ. Chính tình yêu Chúa Kitô đã thúc đẩy các môn đệ đến sống với họ, yêu mến họ, chăm sóc phục vụ họ.

Chúa Giêsu đã cúi xuống, sờ đến người cùi và họ liền được lành sạch. Các môn đệ của Chúa cũng sờ vào người cùi, sống với người cùi đem lại cho họ tình thương, bình an và niềm vui.

Tinh thần dấn thân phục những người cùng khổ mang một ý nghĩa Tin Mừng sâu xa như lời Đức Thánh cha Bênêđictô trong Sứ điệp ngày Thế giới các bệnh nhân 2012: “Sự quan tâm và chăm sóc mục vụ cho các bệnh nhân, một đàng là dấu chỉ sự dịu hiền của Thiên Chúa đối với người đang đau khổ, và đàng khác mang lại lợi điểm tinh thần cho cả các Linh mục và toàn thể cộng đoàn Kitô, với ý thức rằng những gì được làm cho người bé nhỏ nhất, chính là làm cho Chúa Giêsu” (số 3).

Để phục vụ bệnh nhân theo đức ái Kitô giáo, Đức Thánh cha Phanxicô mời gọi hãy sống niềm tín thác: “Chúa Giêsu đã để lại nơi món quà dành cho Giáo hội quyền năng chữa lành của Người: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin… nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ (Mc 16,17-18). Chúng ta đọc thấy trong sách Tông đồ Công vụ diễn tả những hoạt động chữa lành của thánh Phêrô (Cv 3,4-8) và của thánh Phaolô (Cv 14,8-11). Món quà của Chúa Giêsu thích hợp với nhiệm vụ của Giáo hội. Giáo hội biết rằng phải mang vác trên mình các bệnh nhân với cái nhìn đầy âu yếm và từ bi của chính Chúa. Mục vụ chăm sóc sức khỏe vẫn còn và luôn là nhiệm vụ thiết yếu và cần thiết, sống động với một đà tiến được đổi mới khởi đi từ các giáo xứ cho đến những trung tâm chăm sóc sức khỏe tốt nhất”. (số 6).

“Lạy Đức Maria, Mẹ hiền diệu, chúng con muốn phó dâng tất cả các bệnh nhân trong thể xác và tinh thần, để Mẹ nâng đỡ họ trong niềm hy vọng. Chúng con cũng xin Mẹ giúp chúng con biết đón nhận các anh chị em bệnh nhân”. (Số 7).

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Tất cả những phép lạ mà Chúa Giêsu thực hiện, những phép lạ chữa lành đều biểu lộ Tình thương đầy quyền năng của Thiên Chúa và nói lên sứ mạng Thiên sai của Đức Giêsu. Thánh sử Marco đưa ra một loạt phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu. Ngài đến để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi và ma quỷ, xoa dịu nỗi khổ đau của con người.

Trong bài Tin mừng Chúa nhật VI hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành một người bị bệnh phong cùi, một việc chữa lành rất đặc biệt. Anh đến với Chúa Giêsu, quỳ gối nài xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể cho con nên lành sạch”. Chúa Giêsu động lòng thương, Người đưa tay chạm đến anh và nói: “Ta muốn anh được sạch”. Việc chữa lành này xảy ra thật nhanh chóng.

Theo luật xưa trong đạo Do Thái, bệnh phong không những được xem là một căn bệnh thể lý, mà còn là một hình thức nhơ uế trầm trọng xét về mặt tôn giáo. Người bị bệnh phong đau đớn về thể xác thì ít, nhưng đau khổ về mặt tinh thần thì nhiều: bị cách ly với cộng đoàn xã hội, với người thân, bị coi là người bị Thiên Chúa phạt, bị mắc tội “bị nhơ uế”, bị mọi người loại trừ và xa lánh. Như thế bệnh phong cùi được xem là một cái chết về mặt tôn giáo và dân sự, xã hội và việc người phong  được chữa lành là một hình thức được phục sinh, được hồi sinh…

Người phong cùi đến với Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu không xua đuổi anh, không xa lánh anh, trái lại Ngài đón nhận anh, tiếp xúc với anh, ân cần đối thoại với anh, thông cảm, thương mến anh, tôn trọng anh. Điều lý thú nhất trong câu chuyện là cách Chúa Giêsu đối xử với anh: Ngài đưa tay đụng vào anh. Như thế Ngài đã phạm luật và bị mắc nhơ uế… Tình thương vượt qua mọi ranh giới lề luật để rồi Chúa Giêsu chữa lành anh và dạy chúng ta phải tôn trọng và yêu mến con người, bởi tất cả đều là con Thiên Chúa. Đụng chạm đến người phong, Đức Giêsu muốn sửa chữa sự lệch lạc thiếu tình thương thông cảm của lề luật Do Thái. Qua việc đặt tay của Chúa Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người vì thế mà bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.

M.Carré nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ, nước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông”. Đối với anh bệnh phong, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhấm, trong lúc tâm hồn tan nát vì mọi người kinh tởm xa lánh, chính trong lúc đau khổ vô cùng, anh lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và phó thác trọn vẹn cho tình yêu của Người. Vì thế, Đức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người để làm phát sinh hiệu quả kỳ diệu là cho anh được lành lại cả thể xác lẫn tâm hồn.

Bài học mà Chúa muốn chúng ta bắt chước anh phong cùi là tin tưởng và phó thác vào quyền năng của Thiên Chúa. Như lời của G. Bossis: “Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ”.

Thánh Phanxico Salesio nói: “Chúng ta sẽ an toàn vươt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.

Các sách Tin mừng trình bày Đức Giêsu luôn làm 2 việc: Chữa lành và rao giảng Tin mừng. Hai việc làm này liên kết và hỗ trợ cho nhau tạo nên một sứ điệp duy nhất về niềm hy vọng và ơn cứu độ. Đức Giêsu vừa rao giảng vừa chữa bệnh. Việc chữa bệnh hổ trợ cho việc rao giảng. Như vậy là một cách rao giảng Tin mừng.

Người phong cùi trong bài Tin mừng được chữa bệnh mà còn được đón nhận Tin mừng. Sau khi được khỏi bệnh, chính anh lại trở thành kẻ loan báo Tin mừng. “Đi khỏi nơi đó, anh liền cao rao và loan truyền tin đó… và người ta khắp nơi tuôn đến cùng Người”.

Những thực hành cụ thể mà Chúa Giêsu muốn chúng ta phải sống:

– Tin tưởng vào tình thương đầy quyền năng của Thiên Chúa.

– Tôn trọng, yêu mến những anh em đau bệnh, nghèo khổ và tận tình giúp đỡ những người cần đến chúng ta.

– Luôn cảm tạ hồng ân Thiên Chúa và loan báo Tin vui cho mọi người như anh bệnh phong trong bài Tin mừng.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_B.

Lm. Đinh Tất Quý

  1. Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa chữa cho một người mắc bệnh phong.

Xưa cũng như nay, người mắc bệnh phong là những người bất hạnh trên đời, bởi vì họ không còn có thể sống gần gũi với mọi người nhất là họ phải chấp hành một cách hết sức nghiêm ngặt các qui định của Luật đối với họ – Luật buộc họ phải sống cách ly với mọi người. 

Sử gia Do Thái Josephus cho biết những người mắc bệnh phong “bị coi như là đã chết”. Một khi một ai đó được chẩn đoán là đã mắc bệnh phong thì tức khắc người đó sẽ bị khai trừ hoàn toàn ra khỏi cuộc sống của xã hội loài người. Sách Lv 13,45-46: “Người mắc bệnh phong phải mặc áo rách, để tóc xõa, không được cạo râu và phải kêu lên: “Ô uế! Ô uế !” khi có người đến gần mình. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế và nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” 

Vào thời Chúa Giêsu thì người phong còn bị đối xử khắc nghiệt hơn: Họ bị cấm không được ở trong thành Giêrusalem và bất cứ thành phố nào có tường bao bọc. 

Luật pháp còn liệt kể ra sáu mươi mốt trường hợp bị coi là ô uế đối với những ai tiếp xúc với người phong, và sự ô uế này chỉ đứng sau sự ô uế vì đụng vào xác chết. 

Luật còn qui định: Nếu người phong thò đầu vào nhà nào thì nhà đó bị ô uế đến tận cây kèo trên mái. Không ai được phép chào hỏi người phong ở ngoài đường và không được đến gần người phong trong khoảng cách hai mét. Nếu người phong đứng ở đầu gió người ở cuối gió phải giữ một khoảng cách bốn mươi lăm mét. Ngay cả một quả trứng, các rabi Do Thái cũng không ăn nếu bán ở chợ có người mắc bệnh phong đi qua. 

Vâng! Có lẽ không có bệnh nào lại tạo nên hố phân rẽ giữa con người với con người khắc nghiệt như thế.

Riêng người phong trong bài Tin Mừng hôm nay thì chúng ta thấy có một cái gì khá đặc biệt.

Anh tự ý đến gặp Ðức Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài.

Lời van xin của anh thật là một lời xin mẫu mực.

“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”(Mc 1,40).

Nếu Ngài muốn: anh mời gọi lòng thương xót của Chúa.

Anh để cho Chúa tự do chữa hay không chữa cho anh là tùy ý Ngài.

Dù rất muốn khỏi bệnh, nhưng anh đã phó thác số phận mình đời mình cho ý muốn của Chúa.

Anh tin là Ngài có thể. Anh tin vững vàng như thế.

Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ, phó thác của anh đã đụng rất mạnh đến cõi lòng yêu thương sâu thẳm của Chúa Giêsu.

Dường như khi nghe được những lời đó, Chúa Giêsu đã không thể cưỡng lại được. Chúa nói: “Tôi muốn.”(Mc 1,41)

Hơn nữa, không những Ngài chỉ muốn, mà còn đụng vào anh.

Bàn tay Ngài đụng vào da thịt của một con người đầy những vết thương.

Ngài không bị ô uế, nhưng Ngài làm cho anh hết ô uế.

Làm như thế xem như Ðức Giêsu vừa tự do với Lề Luật, vừa lệ thuộc Lề Luật.

Tự do vì Ngài đã vượt lên trên lề luật để làm một điều bị lề luật cấm kỵ.

Vẫn còn giữ lề luật bởi vì Ngài bảo anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ.

  1. Có hiểu như thế chúng ta mới thấy trường hợp người phong trong bài Tin Mừng hôm nay thật là may mắn.

Tin Mừng không cho chúng ta thấy anh đã được biết Chúa từ bao giờ. Nhưng qua những lời anh ta thưa với Chúa, chúng ta có cảm tưởng là anh đã được biết Chúa và tin vào Chúa từ lâu rồi. 

“Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch” (Mc 1,40) 

Hơn nữa thái độ của anh ta đối với Chúa thật táo bạo. Anh đã coi thường mọi cấm kỵ của luật pháp và khi chạy đến với Chúa quả thực anh ta đã làm một việc hết sức liều lĩnh. 

Người phong liều lĩnh nhưng Chúa Giêsu còn liều lĩnh hơn. Ngài cũng đã vượt qua mọi cấm kỵ của Luật pháp và đến với anh. Chúa đã sờ vào con người của anh. Đối với người Do Thái, không có câu nào khiến người ta phải giật mình bằng câu ghi “Đức Giêsu giơ tay sờ đến người phong.” 

Tại sao Chúa làm thế? Thưa vì Chúa thương anh. Chỉ bằng một lời nói thật vắn gọn: Ta muốn, Chúa đã trả lại cuộc sống bình thường cho anh.

Lòng tin của anh đã giúp anh chiến thắng.

Chúa đã trả lại cho anh niềm hy vọng

Đó là câu chuyện của bài Tin Mừng, của người mắc bệnh phong.

  1. Chúng ta có tìm được bài học nào qua câu chuyện này không?

Ngày nay nhờ những kiến thức y khoa, chúng ta không còn quá sợ bệnh phong Hansen như xưa nữa nhưng có một thứ bệnh phong khác còn nguy hiểm hơn. Đó là thứ bệnh phong tinh thần. Thứ bệnh này còn nguy hiểm hơn bệnh phong nơi thân xác. Bệnh phong nơi thân xác mới chỉ hủy hoại cái dáng vẻ bên ngoài của con người. Còn bệnh phong tinh thần mới thật kinh khủng. Nó có sức hủy hoại cả tâm hồn, cả cuộc đời của con người. Nó làm cho con người trở thành xa lạ, vô cảm với mọi người. 

Ebba de Pauli trong tác phẩm “Vị ẩn sĩ”, đã kể về một con người mà ngài cho là đã mắc bị bệnh phong tinh thần này như sau. Đó là một người đàn bà trung lưu và có thể nói là “đạo đức”. Bà không phải bận bịu gì với việc sinh nhai. Bà có nhiều giờ để đi nhà thờ, đọc kinh, dự lễ, và vẫn còn nhiều giờ để nói chuyện với người này người nọ. Nhưng bà không hiểu tại sao người ta cứ muốn xa lánh bà. Một nhóm người đang trò chuyện với nhau vui vẻ nhưng khi vừa thấy bóng dáng bà thì mọi người đều im bặt. Có người vừa thấy bà xa xa thì đã lẩn đi nơi khác. Bà đến hỏi ý kiến với Vị Ẩn Sĩ. Sau khi hỏi bà một số chi tiết, Vị Ẩn Sĩ đưa ra một kết luận làm cho bà ta phải kinh ngạc. 

– Sở dĩ người ta xa lánh con vì họ coi con là một con rắn độc! 

– Nhưng tại sao họ lại coi con là rắn độc chứ? 

– Vì trong đầu óc con đầy những ý tưởng độc hại, như nghĩ xấu về người khác, hằn học, đố kỵ, bi quan, ghen tương, chia rẽ, dâm đãng, thù hận v..v..v… Nghe con nói, người ta cảm thấy tâm hồn mình chùn xuống, cuộc sống của họ ….buồn thảm hơn. 

– Vậy xin ngài hãy chỉ cho con phải làm sao. 

Vị Ẩn Sĩ khuyên bà hãy thay đổi cách suy nghĩ và cách giao tiếp: từ nay hãy nuôi trong đầu mình những ý tưởng tốt lành; khi nói chuyện với người khác, hãy chia sẻ những ý nghĩ tốt lành ấy, rồi mọi sự sẽ khá hơn. 

Bà này làm theo. Và kết quả đúng như Vị Ẩn Sĩ tiên báo…Cuộc sống của bà đã được đổi thay. 

Phần chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể thanh toán được thứ bệnh phong tinh thần này. Vì là bệnh tinh thần nên chúng ta rất khó nhận diện được chúng bằng con mắt trần tục của chúng ta. Chúng có thể núp dưới những chiêu bài chia rẽ, loại trừ, phân biệt, nghi kị, kết án. Nếu chúng ta thanh toán được những bệnh phong đó, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hoàn hảo, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Ki Tô . 

Đồng thời chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ bất cứ ai trong anh em mình ra khỏi đời sống. Hãy quan tâm đến với những anh chị em bị bỏ rơi. Hãy an ủi những anh chị em đang buồn khổ. Hãy tìm cách tránh cho chị anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh chị em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh chị em. Hãy giúp cho anh chị em mình được hoà nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Được như thế tôi tưởng rằng Giáo Xứ chúng ta, cuộc đời của chúng ta sẽ mãi mãi là một Mùa Xuân của Tình thương nơi trần thế và mai sau sẽ là Mùa Xuân vĩnh cửu trên quê trời.  Amen.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG CẢM

Lm. GB. Trần Văn Hào

Lòng thương cảm đối với người cùi

Tại một thị trấn nọ có một người đàn ông sống rất chan hòa với mọi người. Dân làng quý mến ông và tỏ ra khá thân thiết đối với ông. Thế rồi một bữa nọ, ông ta thấy có một vài vết lở loét trên da thịt mình, liền vội đi tìm bác sĩ để khám bệnh. Bác sĩ chẩn đoán ông ta bị cùi. Nghiệt ngã thay, kết luận của vị bác sĩ giống như một bản án chung thân dành cho ông. Dần dần, người đàn ông bị gia đình và xã hội bỏ rơi, chẳng ai dám đến. Trẻ em nhìn thấy ông vội cắm đầu cắm cổ chạy nhanh. Không gian duy nhất còn lại dành cho ông chỉ là cái gường chật chội và căn lều nhỏ bé. Ông bị nghiêm cấm tuyệt đối không được bước chân ra khỏi nhà.

Không chịu nổi sự cô quạnh, một bữa kia người đàn ông lẻn trốn ra bờ sông cạnh nhà và tự vẫn. Oái ăm thay, khi khám nghiệm tử thi, hội đồng y khoa xác nhận nơi thân thể ông không có bất cứ một con vi trùng Hansen gây ra bệnh cùi nào cả.

Câu truyện trên lột tả số phận bi thương của những người cùi, đặc biệt trong xã hội Do Thái ngày xưa. Người bệnh phải gặm nhấm nỗi đau khi thân thể bị hủy hoại dần dần. Song sự đau đớn khủng khiếp nhất, chính là tình trạng bệnh nhân sẽ bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài.

Chúa Giêsu chạnh lòng thương cảm

Thánh Marcô đã dùng thuật ngữ ‘Splanchnizomai’ trong tiếng Hy Lạp để nói về sự thương cảm mà Chúa Giêsu tỏ hiện đối với người cùi. Trái tim của Chúa đã rung lên giai điệu đồng cảm trước nỗi đau của bệnh nhân. Ngài giơ tay sờ chạm đến anh và chữa lành cho anh. Theo luật Lêvi, ai mắc bệnh cùi sẽ bị nhiễm uế và ai đụng vào họ cũng bị nhiễm uế theo. Chúa Giêsu vẫn luôn tuân thủ lề luật, song đối với Ngài, việc chạm đến bệnh nhân không thể làm cho Ngài ra ô uế. Cho dù Chúa không khinh suốt lề luật, nhưng Chúa đã hành xử theo một lề luật mới, đó là luật của tình yêu, một thứ luật lệ vượt trổi trên tất cả mọi rào cản do con người thiết định. Người đàn ông bị bệnh đã ý thức được số phận hẩm hiu nơi mình. Anh đã đến với Chúa, không dám nài ép Chúa và chỉ thốt lên một ước muốn giản đơn : ‘Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Mơ ước này biểu thị một động thái xác quyết và đầy tin tưởng, và anh ta còn nói tiếp theo : “Ngài có thể làm được việc này”. Đây là một hành vi đức tin, biểu tỏ sự khiêm tốn và rất chân thành.

Cuối cùng phép lạ đã xảy ra. Thánh Marcô muốn từ từ vén mở chân dung cứu thế nơi Đức Giêsu, mặc dầu nơi sách Tin Mừng thứ 2, tác giả vẫn hay đề cập đến điều mà các nhà chú giải vẫn thường đề cập đến, đó là ‘Bí Mật Thiên Sai’ (Messianic Secret). Phép lạ Chúa thực hiện không phải nhằm phô diễn một kỳ tích, nhưng để diễn bày lòng thương mến sâu tận của Thiên Chúa đối với con người. Người đàn ông mắc bệnh cùi là đại biểu cho cả một thế giới đang bị vi trùng Hansen thiêng liêng tấn công và hủy hoại tâm hồn dần dần. Chúa Giêsu luôn mở rộng tấm lòng đối với tất cả chúng ta, chỉ cần chúng ta đến với Ngài và thưa với Ngài tâm tình đơn sơ gống như anh cùi hôm nay : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Tái hòa nhập với cộng đoàn

Thời Chúa Giêsu, nỗi đau lớn nhất nơi người cùi là bị xã hội bỏ rơi và bị cô lập hoàn toàn (Lêvi 13, 45 – 46). Họ bị coi là ô uế, phải sống lang thang ngoài bìa rừng như những con chó hoang và không ai dám đến gần. Họ tuy sống nhưng kể như đã chết. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu đã công bố : “Tôi đến để cho họ được sống và sống dồi dào”. Thánh giáo phụ Irênê cũng đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Chi tiết quan trọng trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, là Chúa mở toang cánh cửa để dẫn đưa người cùi trở về hội nhập với cộng đoàn và được sống như một con người. Chúa nói với anh ta :“Hãy đi trình diện tư tế vì anh đã được sạch, và hãy dâng những gì Môise đã làm để chứng thực cho người ta biết (Mc 1,44). Lòng thương cảm sâu xa của Chúa được thể hiện qua động thái này. Khi đã chữa lành cho bệnh nhân, Chúa Giêsu không chúc mừng anh bằng một cái ôm hôn thắm thiết, hay bằng một cái bắt tay thân tình. Ngài nói với anh là hãy đi làm những gì mà sách luật đã viết (Lêvi 14, 1-32) để anh được tái hòa nhập với cộng đồng. Theo luật, vị tư tế phải kiểm tra, và thời gian kiểm tra kéo dài ít là một tuần lễ. Đức Giêsu đã đem anh trở lại cuộc sống làm người cách thực sự, phục hồi cho anh những giá trị căn bản, để anh được sống và được sống dồi dào. (Ga 10,10).

Những loại bệnh cùi đa dạng

Ngày nay, biết bao cha mẹ khổ tâm vì những căn bệnh nan y nơi con cái mình. Đó không phải là bệnh hủi, hay bất toại giống như vào thời của Đức Giêsu, song còn nhiều căn bệnh khác cũng nan giải và ghê gớm không kém.

Nhiều phụ huynh đã phải đắng lòng gửi con vào những trại cai nghiện ma túy hay  nghiện games, nghiện sex, khi con cái họ có những những biến thái tâm lý bệnh hoạn và lệch lạc. Phần đã những căn bệnh này xuất phát từ sự vô tâm của những người làm cha làm mẹ, đã không biết quan tâm giáo dục con cái. Chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu. Ngài đến với bệnh nhân bằng trái tim của một vị Mục tử. Ngài biểu tỏ lòng thương cảm sâu xa để lo lắng và giúp đỡ bệnh nhân. Trong khoa sư phạm giáo dục của Don Bosco, Cha Thánh dùng thuật ngữ ‘Amorevolezza’ để diễn bày lòng thương mến này. Đó là 1 trong 3 yếu tố của sự thành công : Lý trí, tôn giáo và lòng thương mến. Nếu không có lòng thương mến, Chúa Giêsu đã không chạm đến người cùi và chữa lành cho anh. Cũng vậy, nếu thiếu vắng trái tim tình yêu, chúng ta cũng chẳng bao giờ có thể chữa lành cho con cái khi chúng sa vào những cạm bẫy của tội ác như chúng ta đang thấy đầy dẫy trong xã hội ngày hôm nay.

Kết luận

Chúa Giêsu không phải là một nhà phù thủy tài ba, cũng không phải là một con người chuyên đi làm công tác từ thiện xã hội. Ngài là một thầy thuốc cao tay ấn và thang thuốc Ngài sử dụng chính là lòng thương xót đối với con người. Người cùi hôm nay đã trải lòng mình ra để đến với Chúa và đã hưởng nhận thang thuốc qúy giá này. Còn chúng ta thì sao ?. Ngạn ngữ phương Tây cũng đã viết : “Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp bạn” (Aides toi toi-même, le ciel  t’aidera). Chúng ta hãy tự cứu chúng ta bằng cách đến với Chúa, để Chúa sờ chạm đến những vết lở loét nơi tâm hồn và chữa lành cho chúng ta.

Về mục lục

.

GIƠ TAY ĐỤNG VÀO

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Kể từ cái trải nghiệm nhỏ bé nhận được trong khóa học BISA VIII tại Bangkok – Thái Lan đúng vào mấy ngày Tết Nhâm Thìn, tôi đã có một cái nhìn rất khác về ‘phép lạ’ Đức Giê-su chữa người bị phong hủi.

BISA (Bishops’ Institute for Social Action) là khóa học dành cho các giám mục Á Châu về các đề tài liên quan tới phát triển con người theo Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội do OHD (Office of Human Development) thuộc FABC (Federation of Asian Bishops’ Conferences) tổ chức. Khóa VIII na7m đó có sự tham dự của khoảng 30 giám mục, 10 đại biểu linh mục, giáo dân đại diện cho 18 Hội Đồng Giám Mục và 06 tổ chức quốc tế. Tôi được mời tham dự trong tư cách đại diện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vì đề tài học tập liên quan đến các di dân và thổ dân. Khóa học được chia làm hai phần, bốn ngày dành cho chương trìnhthực nghiệm (immersion program) và bốn ngày cho hội nghị thuyết trình và thảo luận. Trong phần thực nghiệm, các tham dự viên được chia thành từng nhóm 4-5 người đi thực tế trong một môi trường xã hội cụ thể. Nhóm tôi gồm 04 người, trong đó có 02 giám mục, đi làm việc tại một trung tâm PCU-AIDS (Palliative Care Unit for AIDS Patient Center) tại tỉnh Sayong miền đông nam Bangkok – Thái Lan, gần biên giới Kampuchia. Công việc của chúng tôi là cùng với các y công và y tá của trung tâm chăm sóc các bệnh nhân AIDS đang trong giai đoạn cuối. Một trong các công việc tôi được trao là thay tã (tampers) và chùi rửa các bệnh nhân AIDS hoàn toàn bại liệt.

Việc phục vụ và đụng chạm trực tiếp tới những con người này (một thứ phong hủi ghê tởm hiện đại?) trong trạng thái dơ bẩn nhất của thân xác họ, đã để lại nơi tôi một ấn tượng khó quên; mọi cảm xúc tự nhiên trong mình như muốn nổi loạn, buộc tôi phải gồng mình kiềm chế. Cảm nghĩ lóe lên nhiều lần trong đầu tôi lúc đó chính là: “Ôi tình yêu nhập thể, khủng khiệp quá!” Phải, Thiên Chúa trong mầu nhiệm nhập thể đã đụng chạm trực tiếp tới tình trạng kinh tởm dơ dáy tột cùng của thể xác, nhất là của tinh thần con người  (trường hợp Người giơ tay đụng vào người mắc bệnh phong cùi ghê tởm ở đây chỉ là một chút điển hình!). Và Người làm hành đông này không có bất kỳ một thiết bị bảo hộ nào như tôi lúc đó, nào là khẩu trang, bao tay cao su, nào là các thiết bị y tế, nước sát trùng… và cả các tấm tã cực kỳ tiện lợi. Điều duy nhất mà Người được trang bị và sở đắc tới độ siêu đẳng (đồng thời cũng chính là điều tôi hoàn toàn thiếu thốn) đó là ‘Người chạnh lòng thương’! Thế đấy, tình yêu nhập thể thực quá cụ thể và chạm tới những ngõ ngách cùng tận và tăm tối nhất của kiếp người. Điều mà Đức Giê-su đã làm với người phong hủi xưa, Người sẽ còn tiếp tục làm mãi với từng con người nhân loại chúng ta, đặc biệt những ai cùng khổ bất hạnh, bệnh tật kinh tởm nhất, cả về mặt thể lý lẫn luân lý; bất cứ ai Người cũng chạm tới được miễn là họ biết ‘quỳ xuống và van xin…’ như người phong hủi xưa.

Và cũng từ trải nghiệm này tôi còn được học thêm một điều nữa, đó là việc chữa lành (hay phép lạ) không phải là điều quan trọng và cần nhấn mạnh nhất. Khi phục vụ tại CPU-AIDS tôi được cho biết, bệnh nhân nào tìm lại được ý chí muốn sống, người đó mới có cơ may kéo dài cuộc sống, ngược lại bệnh nhân sẽ tàn lụi vô phương cứu chữa. Tác động lớn nhất trong việc điều dưỡng không phải là thuốc men hay phương tiện y tế, mà chính là trả lại cho bệnh nhân niềm tin và hy vọng. Tôi đã thấy vài trường hợp điển hình ngay nơi các bệnh nhân AIDS mà tôi phục vụ (thay tã, đút cơm hay nắn bóp), một số họ đã bắt đầu tỏ ra có các dấu hiệu hồi phục rõ ràng. Một bệnh nhân AIDS-TB (lao phổi) nặng, bị mọi người xa tránh vì dễ lây nhiễm và nhầy nhụa, nhưng khi được tôi ân cần đút cơm và trò truyện, anh đã nở được nụ cười thật tươi sau nhiều ngày vật vã… Và bác sĩ cho biết, bệnh tình của anh đã có dấu hiệu khả quan hơn.

Thế đấy, tác giả Mác-cô viết: ‘Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch…’ ôi sao mà xác thực quá! ‘Chạnh lòng thương’ còn quan trọng hơn nhiều việc Đức Giê-su lấy quyền năng mà làm phép lạ… Nói cách khác, chính ‘chạnh lòng thương’ mới là phép lạ lớn hơn hết vì nó đáp ứng trực tiếp nỗi khát vọng thâm sâu nhất của bệnh nhân phong hủi này, khi anh ta thoát khỏi tình trạng bị mọi người hắt hủi, và kể từ lúc đó chứng phong hủi của anh khởi sự tiến trình hoàn toàn biến mất.

Ôi, sức mạnh của lòng thương xót thật vô song, và mong sao mọi linh mục của Đức Ki-tô không những hiểu được điều này mà còn tham gia tích cực vào quyền năng này nữa! 

 Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết cảm tạ Chúa không ngừng, không phải vì các phép lạ hoặc các ơn trọng đại con nhận được, nhưng vì đã biết tín thác vào lòng Chúa xót thương. Cho dầu không thể sửa trị được hết các yếu đuối phần hồn phần xác (sẽ không bao giờ, với bất cứ ai!), con vẫn mừng vui khôn xiết vì Chúa đã chạnh thương chạm tới sự ghê tởm, thấp hèn và tội lỗi của con, qua đó trả lại cho con niềm hy vọng tràn trề và một sức sống bất tận. A-men.

Về mục lục

.

NIỀM HY VỌNG

Trầm Thiên Thu

Niềm hy vọng là nhân đức trông cậy – một trong ba nhân đức đối thần. Người Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Còn đối với Thiên Chúa, tất cả đều nhờ đức tin (x. Mt 9:22; Mc 5:34; Lc 8:48; Lc 17:18; Lc 18:42), và tất cả đều có thể: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).

Về đức cậy, Thánh TS Augustinô cho biết: “Đức cậy khuyến cáo chúng ta coi nhẹ đời này là hư ảo, hy vọng tương lai là hạnh phúc. Người nào đem hy vọng của họ ký thác nơi chóng qua như mây khói ở đời này, đó là đi ngược lại đức cậy”. Còn Thánh TS Teresa Avila xác định: “Thiên Chúa yêu thích những linh hồn khẳng khái nhưng ước vọng vĩ đại”.

Trong ca khúc “Tôi Muốn”, NS Lê Hựu Hà có những ước muốn rất “khác người”, nhưng lại rất gần gũi với Công giáo: “Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên, tôi muốn sống như loài hoa hiền. Tôi muốn làm một thứ cỏ cây, vui trong gió và không ưu phiền. Tôi muốn mọi người biết thương nhau, không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, tôi muốn thấy tình yêu ban đầu. Em có thấy hoa kia mới nở, trong giây phút nhưng đẹp tuyệt vời, như hạnh phúc thoáng qua mất rồi, giờ đâu còn tìm được nét vui…”. Ước muốn luôn là điều quan trọng. Có ước muốn thì mới có thể quyết định hành động.

GIẢ THUYẾT

Chỉ vì không có, vì thiếu cái gì đó nên người ta mới ước muốn, khao khát. Bất cứ ai cũng có ước muốn, dù ước muốn đó nhỏ hay lớn, gần hay xa. Rõ ràng nhất là những bệnh nhân, ước muốn đơn giản và cụ thể là được khỏi bệnh. Ngày nay người ta rất sợ chứng ung thư, còn ngày xưa người ta “ngán” chứng phong hủi (cùi). Chính Đức Chúa nói với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Theo sách Lêvi, người nào hói đầu hoặc sói trán là người thanh sạch (Lv 13:40-41). Nhưng nếu chỗ hói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt thì đó lại là phong hủi loang ra (Lv 13:42).

Hồi đó, các bệnh nhân phong bị người ta xa lánh, khi tư tế khám, nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt thì người ấy bị phong hủi và bị coi là ô uế. Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!” (Lv 13:45). Theo luật xưa, “bao lâu còn mắc bệnh thì còn ô uế, người đó phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:46). Khổ thật!

Như vậy là khắt khe và bất nhân quá! Ngày xưa đã đành vậy, vì là thời Cựu ước; ngày nay cũng chẳng hơn gì, mặc dù là thời Tân ước, và mặc dù chúng ta mệnh danh là những người theo Đạo Yêu Thương. Thánh Lm Gioan Vianney phân tích: “Lý do chúng ta không có cách giải quyết tốt là vì chúng ta coi trọng mình quá nhiều”. Ôi, vẫn liên quan “cái tôi” đáng ghét!

Bệnh phong là laoị bệnh ghê gớm, ngày xưa là chứng nan y. Ngày nay, bệnh phong không còn đáng sợ, mà chứng nan y đáng sợ là ung thư hoặc HIV/AIDS. Tuy nhiên, đó là bệnh liên quan thể lý. Loại phong cùi, chứng ung thư hoặc HIV ghê gớm nhất chính là tội lỗi, thế nhưng có vẻ người ta lại… không sợ. Quái lạ!

Đối với các tù nhân, ngày được phóng thích giống như thoát khỏi địa ngục trần gian. Các bệnh nhân được khỏi bệnh như được tái sinh. Các tội nhân được tha thứ như được vào thiên đàng. Niềm hạnh phúc khác nhau nhưng có thể nói là họ có chung “đỉnh điểm” của niềm hạnh phúc, khó có thể diễn tả bằng ngôn ngữ loài người. Thật vậy, “hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Muốn chứng tỏ mình hết phong cùi thì phải trình diện tư tế. Muốn chứng tỏ mình sạch tội thì phải xưng thú tội lỗi. Tuy nhiên, khi “xưng tội ra với Chúa thì không được giấu giếm lầm lỗi của mình” (x. Tv 32:5). Chúa không hề chấp tội chúng ta (2 Cr 5:19), đó là điều chắc chắn, bởi vì chính Ngài đã hứa: “Tội các người dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững? (Tv 130:2). Ôi, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa quá bao la!

Thánh TS Augustinô phân tích: “Chúa dựng nên con thì Chúa không cần con, nhưng Chúa cứu độ con thì Chúa cần con”. Tại sao? Giả sử bạn sa xuống hố mà chỉ kêu cứu, cứ thụ động mà không chịu hợp tác thì ai có thể cứu? Ít ra bạn cũng phải đưa tay ra cho người ta kéo lên chứ! Chúa muốn mà chúng ta không muốn thì Chúa cũng… “bó tay”. “Bó tay” ở đây không có nghĩa là Chúa “bất lực”, không làm gì được, nhưng Chúa không ép ai, bởi vì Ngài hoàn toàn cho phép chúng ta trọn quyền tự do chọn lựa và quyết định số phận đời mình. Đó mới là điều chúng ta đáng quan ngại!

Là phàm nhân thì ai cũng là tội nhân, vì đã có “vốn tội” rồi: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Vì thế, không ai hơn ai trước mặt Thiên Chúa, chỉ hơn nhau ở chỗ “biết sám hối hay không”. Ngài luôn chờ chúng ta ăn năn sám hối. Hãy tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa” (Tv 32:5), và chính Ngài sẽ tha thứ tội vạ cho chúng ta, chứ không ai có quyền tha tội. Được tha tội và tin mình sạch tội sẽ trở nên công chính, vì chỉ “nhờ đức tin mà người ta nên công chính” (Rm 3:21; Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6; Gl 3:24; Dt 11:7). Và vì thế: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo” (Tv 32:11). Các vị thánh lớn đều là những “tội nhân thánh thiện”: Thánh vương Đavít, Thánh GH tiên khởi Phêrô, Thánh Phaolô, Thánh Augustinô,… và “độc đáo” nhất là “thánh trộm cướp khét tiếng” cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên đồi Canvê. Điều đó cho thấy rằng nếu thực sự ước muốn thì chúng ta sẽ được sạch, nếu chân thành xin lỗi Chúa thì Ngài sẽ tha ngay lập tức!

Tuy nhiên, có 2 trạng thái “liên lụy tội lỗi” mà chúng ta cần phải lưu ý:

  1. ĐỪNG gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách CAN DỰ VÀO TỘI LỖI CỦA NGƯỜI KHÁC.
  2. ĐỪNG gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách LÔI KÉO HỌ VÀO TỘI LỖI CỦA MÌNH.

Có những giả thuyết mãi mãi là giả thuyết, nhưng có những giả thuyết lại khả dĩ trở thành sự thật – một sự thật minh nhiên hoặc mặc nhiên.

SỰ THẬT

Người ta sẽ chú tâm hành động sau khi đã ước muốn, như thánh Phaolô dạy: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31). Vâng, làm để tôn vinh Thiên Chúa chứ không vì lý do gì khác, và “đừng làm gương xấu cho bất cứ ai” (1 Cr 10:32), dù người đó cùng đạo hay khác đạo với mình, thậm chí có vẻ không liên quan tới mình. Ai cũng phải “cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:33). Thật là khó chứ không hề đơn giản, thế nhưng ai cũng phải cố gắng thực hiện. Nếu cảm thấy khó thì hãy theo lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô: “Anh chị em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).

Thật tuyệt vời với cách nhận định của thi sĩ Paul Claudel (*) đậm “chất” đức tin: “Chúa xuống thế KHÔNG để diệt trừ khổ đau, cũng KHÔNG giải nghĩa khổ đau, mà để CHIA SỚT khổ đau”. Đó là một triết lý mang tính giáo lý cao cấp.

Trong các “mối khổ”, chắc chắn ai cũng biết rằng bệnh là khổ – dù bệnh thể lý hay tinh thần. Riêng bệnh phong thì bệnh nhân rất khổ sở, không chỉ khổ vì đau đớn thể lý mà còn đau khổ về tinh thần vì bị người ta xa lánh. Bệnh nhân phong rất đau đớn vào những mùa trăng, thế nên Hàn Mặc Tử đã “rao bán” trăng: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho”. Thấy Chúa Giêsu là một “dị nhân”, chắc chắn với lòng tin mạnh mẽ nên bệnh nhân phong đã đến gặp Người và quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Mc 1:40). Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1:41). Và phép lạ đã xảy ra: Chứng phong hủi biến khỏi anh ngay lập tức. Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” (Mc 1:44).

Chúa Giêsu không hề làm ảo thuật mà làm phép lạ thật, Ngài cũng không muốn chứng tỏ “đẳng cấp” mà chỉ muốn chứng tỏ lòng yêu thương, Ngài luôn tôn trọng luật pháp xã hội thời đó, Ngài muốn làm gương cho người khác về đức vâng lời. Vả lại, Ngài biết những người “tai to mặt lớn” sẽ tìm cách hại Ngài chỉ vì tính nhỏ nhen, vì lòng ghen ghét. Con gà tức nhau tiếng gáy, thấy người khác hơn mình thì mình “không ưa”, tìm cách trù dập, hoặc “không ăn được thì đạp đổ”, đó là tình trạng tệ hại của con người vì “cái tôi” quá lớn, nó che khuất mọi tầm nhìn mất rồi. Đúng như một danh nhân đã nhận xét: “Chỉ có người giỏi mới chân nhận tài năng của người khác”. Kinh Thánh nói: “Con chó quay lại chỗ nó mửa, đứa ngu lặp lại chuyện ngu đần” (Cn 26:11).

Hữu xạ tự nhiên hương. Mùi hương thơm có sức lan tỏa. Tiếng lành cũng được đồn xa. Đèn sáng rất dễ nhìn thấy. Thế nên vừa mới ra khỏi đó, bệnh nhân phong được chữa lành kia “bắt đầu rao truyền và tung tin khắp nơi, đến nỗi Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành, và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài” (Mc 1:45). Chúa Giêsu đúng là một “siêu sao” kỳ diệu!

Lạy Thiên Chúa là Đấng trung tín, xin ban thêm các nhân đức cần thiết cho con, xin thanh tẩy và thánh hóa con bởi vì con ô uế nhưng thật lòng ước muốn được nên sạch, mặc dù bất xứng nhưng con thành tâm tín thác vào Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của nhân loại. Amen.

—–

 (*) Paul Louis Charles Marie Claudel (người Pháp, 6/8/1868 – 23/2/1955). Ông là nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, và từng được đăng hình trên bìa báo Time. Ông sinh ở Villeneuve-sur-Fère, trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Chị của ông là nhà điêu khắc Camille Claudel. Năm 1893, ông làm ở Bộ Ngoại giao Pháp, từng làm lãnh sự và đại sứ ở nhiều nước Âu châu, Á châu, Mỹ châu. Ông được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, và năm 1946 được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Ông được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Chính ông cho biết rằng cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh, và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Ông không quan tâm “người nào là ai” mà “người đó là người nào”. Ông thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Nhiều vở kịch của ông được dựng thành phim cũng nổi tiếng.

Về mục lục

.

RẤT CẦN SỰ CẢM THÔNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bệnh phong cùi đã có từ bao đời nay. Bệnh này thường bị coi là căn bệnh nguy hiểm và cần phải né tránh bởi con người sợ bị lây nhiễm. Người Do Thái thời xưa rất sợ bệnh phong cùi, một căn bệnh nan y bất trị thường gặp lúc bấy giờ. Căn bệnh đáng sợ này có thể tấn công các đầu dây thần kinh của người bệnh, làm cho cơ thể bị thương tổn và biến dạng vĩnh viễn. Vào thời đó, người ta không biết cách chữa căn bệnh này. Người bệnh bị cách ly và bắt buộc phải cảnh báo người khác về căn bệnh của mình (x. Lv 13, 1-2. 44-46).

Giới lãnh đạo Do Thái giáo đã đặt thêm luật về bệnh phong cùi, khiến cho cuộc sống của người bệnh gặp khó khăn một cách không cần thiết. Chẳng hạn, luật lệ của giới ráp-bi cấm bất kỳ ai đến gần người phong cù, phải ở xa họ khoảng khoảng 2m. Nhưng nếu đang có gió, không ai được đến gần trong vòng khoảng 45m. Sách Lêvi đưa ra điều luật là người phong cùi phải sống “phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại”(x. Lv 13, 44-46). Tuy nhiên, một số chuyên gia luật Do Thái giải thích rằng điều luật này có nghĩa là những người phong cùi không được sống trong các thành có tường thành. Vì vậy, khi thấy một người phong cùi trong thành, một ráp-bi sẽ ném đá vào người đó và nói: “Hãy trở về chỗ ngươi ở, đừng làm ô uế người khác”.

Về mặt tôn giáo, bệnh phong cùi làm cho người ta trở nên ô uế, tội lỗi. Người Việt Nam chúng ta cũng na ná tương tự như người Do Thái, ai bị bệnh thì phải xa nhà xa cả người thân, địa phương xa lánh người gần người xa, khiến người bệnh cay đắng cực lòng.

Thời Chúa Giêsu, bệnh phong cùi vẫn bị liệt vào loại bị cấm tiếp xúc, người bị bện phải tránh xa và phải làm hiệu để người khác tránh xa mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác, bởi vì Người đến để yêu thương và cứu giúp mọi người, nên Người đã chữa lành cho người mắc bệnh phong cùi như trong Tin Mừng Marcô 1, 40-45 thuật lại hôm nay.

Người ta coi người cùi là hạng người ô uế, kẻ nào chạm tới người cùi cũng bị lây ô uế. Nhưng Chúa Giêsu đã dám đưa tay chạm tới người cùi này. Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Chúa về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do Thái lúc đó, bệnh tật còn là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối vớ tội lỗi con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi. Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật của con người.

Ngày nay bệnh cùi không còn là một chứng nan y bất trị. Nhưng vẫn còn nhiều loại “Người cùi” kiểu khác bị người ta ghê tởm tránh xa, chẳng hạn những người dơ dáy, hôi hám, những người mang cá tính bị người khác ghét bỏ, những người lỡ mang tai tiếng khiến người ta không dám tiếp xúc, họ bị liệt ra bên ngoài xã hội, thiếu sự cảm thông và tình liên đới cộng đồng. 

Con người ta, sinh, lão, bệnh, tử là lẽ thường tình. Bệnh tật là điều phải có trong kiếp sống làm người. Ai cũng có bệnh, không nhẹ thì nặng, chẳng ai thoát khỏi căn bệnh ở đời. Vì thế, chúng ta phải liên đới, hiệp thông và trợ giúp lẫn nhau với tình yêu thương, đặc biệt với những ai mắc bệnh hiểm nghèo.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vì yêu mà vượt qua ranh giới giữa Thiên Chúa với con người, giữa người khỏe với kẻ bệnh tật để chữa lành họ. Xin trợ giúp chúng con làm được những điều Chúa muốn. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG XÓT VƯỢT QUA TẤT CẢ

Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển

Có một cô gái đẹp và tính tình rất tốt. Nhan sắc cũng như đức tính của cô làm mê hồn nhiều chàng trai, khiến biết bao trai tráng trong làng mê mẩn đến điên cuồng và rất nhiều người muốn được làm chồng cô trong tương lai!

Tuy nhiên, một tai ương ập đến với cô, đó là: một hôm, cô đang nấu ăn ở trong bếp, bỗng nhiên bình ga bốc nổ, khiến lửa bốc cháy dữ dội và bén vào người làm cô bị bỏng rất nặng. Người thân của cô đưa cô đến bệnh viện, nhưng các bác sĩ chỉ có thể cứu sống cô, họ không thể làm thêm được gì hết! Kết cục, khuôn mặt và thân hình của cô bị biến dạng, trông ghê rợn hãi hùng! Cũng kể từ thời điểm đó, cô không được sự ngưỡng mộ của những thanh niên cùng trang lứa. Chẳng ai thèm để ý và hy vọng được làm chồng của cô như trước nữa. Ai nhìn thấy cô, họ cũng đều sợ hãi vì sự dị dạng bất thường nơi cô. Nhiều người còn buông ra những lời nguyền rủa không thương tiếc cho số phận hẩm hiu của nàng. Nói chung, họ đều xa tránh cô, khiến cô rất đau đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần! 

Hôm nay, câu chuyện Tin Mừng cũng trình bày về số phận của người bị phong cùi. Anh ta cũng trải qua biết bao đau đớn về thể xác và chịu đựng nỗi khốn khổ khôn nguôi về tinh thần.

Tuy nhiên, may mắn cho anh cùi trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, giữa biết bao người khinh miệt, ruồng bỏ, hất hủi, loại trừ, chà đạp và xúc phạm, anh đã gặp được quý nhân phù trợ. Đức Giêsu đã không chỉ thương anh bằng tình thương của con người với nhau, mà Ngài còn thương anh bằng trái tim và lòng thương xót của Thiên Chúa, nên anh đã được chữa lành không chỉ thể xác, nhưng còn được chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn mà bấy lâu anh đã lãnh chịu. 

  1. Căn bệnh thế kỷ và nỗi khổ khôn nguôi

Để hiểu được nỗi khổ tâm đến xót xa của người bệnh và thấy được lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu, chúng ta cần tìm hiểu về quan niệm, lối nhìn của người Dothái thời bấy giờ về căn bệnh quái ác này và thái độ của họ đối với người không may mắc phải.

Vào thời Đức Giêsu, người ta rất sợ hãi nghe được hay nhìn thấy hoặc đụng trạm đến những người bị bệnh phong. Họ coi những người này như một thứ quái dị, đồ bỏ. Vì thế, những người bị mắc phải bệnh cùi, họ bị chính người thân trong gia đình và xã hội loại ra bên lề. 

Theo quan niệm của người Dothái, bất cứ ai tiếp xúc với người bệnh phong thì đều bị coi là ô uế và nếu đụng chạm tới thì mắc tội trọng. Người mắc bệnh phong cùi thì không bao giờ được vào thành Giêrusalem cũng như bất cứ thành phố nào được bảo vệ bằng tường bao. Người phong cùi mà vô tình thò đầu vào nhà nào thì nhà ấy trở thành nhà ô uế và ngay cả cái kèo trên mái nhà cũng bị ô uế theo. Khi ra ngoài đường, họ không được chào hỏi ai và cũng chẳng được ai chào hỏi. Khoảng cách mà người bệnh và người khỏe phải giữ với nhau, đó là gần hai mét. Nếu vô tình, người bệnh đứng ở đầu gió, thì những ai ở cùng hướng gió phải cách 45 mét. Hơn nữa, người ta kiêng kỵ đến độ những vật bày bán ở nơi người phong đi qua, cũng không nên mua và chắc chắn là không ăn. 

Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở góc độ bị coi thường khinh miệt, mà chính bản thân họ, họ cũng phải tự mình ý thức là người đáng bị kinh tởm và tự nhận mình là người gây nên sự bất tiện cho mọi người. Để hiểu rõ điều này, chúng ta thấy sách Lêvi có đề cập đến như sau: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,45-46).

Chính vì sự phân biệt phũ phàng đến như vậy, nên họ bị đẩy vào rừng sâu hay nơi sa mạc hoặc ra nơi đồng ruộng để tồn tại.

Trong hoàn cảnh đó, những người bị bệnh, họ đau đớn tột cùng về thể xác, nhưng có lẽ nỗi đau tinh thần còn lớn hơn gấp bội qua việc bị khinh thường và loại trừ ngay từ những người thân. Nỗi ám ảnh về số phận và tự ti vì bị coi là tội lỗi nên mới phải chịu thứ bệnh quái ác này đã làm cho họ bị dằn vặt tinh thần rất nhiều!

Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu và chính anh cùi đã lội ngược dòng với những quan niệm của người Dothái đương thời, để giữa Ngài và anh có một mối liên hệ mật thiết qua lòng trắc ẩn của Đức Giêsu và nơi đức tin mạnh mẽ của anh, khiến Đức Giêsu đã làm phép lạ để giải thoát anh cách toàn diện, trọn vẹn. 

2. Đức tin và lòng thương xót

Vượt qua ranh giới, bất chấp lề luật, chẳng sợ lây nhiễm, nên Đức Giêsu đã tiến lại và chạm vào người bị phong cùi. Đây là hành vi phi thường đến dợn tóc gáy mỗi khi người Dothái nghĩ tới!

Còn nơi người phong cùi, anh ta có thái độ tin tưởng quá phi thường và thái độ tôn thờ đến tuyệt đối, nên đã dám đến gần Đức Giêsu, quỳ gối và van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. 

Thái độ này của Đức Giêsu hoàn toàn đi ngược lại với những nhà lãnh đạo và quan niệm của dân chúng thời bấy giờ. Nơi Đức Giêsu, Ngài không thể ngồi đó xem cách hành xử bất công của người Dothái và sự tủi nhục của người bệnh. Không! Ngài coi nó như bổn phận buộc mình phải thi hành. Điều này làm toát lên dung mạo xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. 

3. Bài học cho chúng ta

Sống trong xã hội loài người, dù thời điểm nào, người ta cũng cần lắm một tấm lòng cảm thông đối với người bất hạnh. Mặt khác, nếu chúng ta là những người bị coi là bất hạnh, thì chính mình phải là người can đảm chạy đến với Chúa để được Ngài xót thương.

 Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

Thứ nhất, hãy noi gương Đức Giêsu, luôn yêu thương và không loại  trừ anh chị em chúng ta, nhất là những người bất hạnh, nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi, buồn khổ, mặc cảm, tự ti…. Luôn biết hàn gắn những vết thương tâm hồn và tôn trọng nhân phẩm của người khác. Tránh xa sự chia rẽ và thái độ phân biệt đối xử để sống sự liên đới với mọi người.

Thứ đến, cần tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Luôn sống tình bác ái yêu thương, nhất là hãy hành động vì đức ái. Có thế, chúng ta mới đụng chạm được cốt lõi của Tin Mừng và mới có cơ hội ngửi, cảm, thấu nỗi đau khổ của anh chị em xung quanh và ra tay nâng đỡ họ. Cần can đảm loại trừ những gì làm thui chột tình thương và không phù hợp với giá trị Tin Mừng. 

Thứ đến, noi gương người phong cùi, hãy khiêm tốn và can đảm đứng dạy để tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Ngài sẽ chữa lành những ai bệnh tật, xoa dịu những tâm hồn đau thương, băng bó những cõi lòng tan nát, an ủi những ai sầu khổ và cứu chuộc những ai có lòng tin.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho đôi mắt của chúng con được mở ra và nhìn thấy những người bất hạnh; cho trái tim biết rung lên những nhịp đập yêu thương; cho khối óc biết nghĩ đến người đau khổ; cho đôi chân biết đi tới những nơi cần sự giúp đỡ; cho đôi tay biết mở ra để ban phát, và, cho đôi tai biết lắng nghe để cảm thông. Amen.

Về mục lục

.

TẠI SAO CHÚA GIÊSU NGHIÊM GIỌNG ĐUỔI

NGƯỜI PHONG HỦI ĐƯỢC CHỮA LÀNH ĐI NGAY?!

Phê-rô Trần Đình Phan Tiến

Vâng, thưa quý vị , thưa các bạn , vấn đề được đặt ra trong Đoan Lời Chúa hôm nay phải chăng là sự “lãnh cảm” của Chúa Giêsu đối với người bệnh hủi được chữa lành?

Tại sao sau khi chữa lành cho người bệnh phong, Chúa Giêsu  không “ thâu nạp” anh ta, mà lại nghiêm giọng đuổi anh ta đi ?

  • Thứ nhất : Người mắc bệnh phong, dù được sạch, nhưng vẫn mang nguồn gốc tội lỗi, hình ảnh sứt mẻ tâm hồn. Chưa trình diện tư tế và dâng lễ theo luật Moi6sen.

Nhưng, nếu vấn đề thứ nhất được đặt ra như vậy, thì chúng ta, mới thấy lòng nhân từ nới Chúa Giêsu, nếu Người không có Lòng Thương Xót, chắc chắn Người không “ chạm “ vào anh ta. Bối cảnh Tin Mừng hôm nay cho biết , Chúa Giêsu đang trên đường  rao giảng Tin Mừng và trừ quỷ tai khắp miền Ga-li –lê. Như vậy, có một người phong hủi đến gặp Người và quỳ xuống van xin rằng :” Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” ( c 40) . Lời cầu xin ấy nói lên rằng, người phong hủi nầy có niềm tin mạnh vào Chúa Giêsu.

Người chạnh lòng thương xót giơ tay đụng vào anh và bảo :” Tôi muốn, anh sạch đi !” . lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch . ( c 41 -42). Nhưng , Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay ( c 43). Điều nầy cho thấy, không phải ai cũng được Chúa Giêsu thu nạp làm môn đệ. Bệnh phong theo Cựu Ứơc là một loại bệnh rất bị kỳ thị đối với người Dothai, là một loại bệnh nan y , khó chữa. Ngày nay, theo y học thì người ta biết được do một con vi trùng Hanxen phá hủy những tế bào của có thể con người. ăn mòn xương thịt, lỡ loét rất thảm thương. Tại Việt Nam hơn 80 năm qua, các bệnh phân phong trong các trại phong Công giáo như Quy Hòa- Quy Nhơn, Thái Bình, Bắc Ninh, DI-linh, Bến sắn là những trại phong mà những người mắc bệnh không thể được chữa lành, dù hắng ngày sự chăm sóc tận tình, sự chăm sóc tối đa có thể của các “ thiên thần nữ tu” đi nữa, thì bệnh phong cũng chưa được chữa trị dứt điểm tại Việt Nam. Trong đó, chúng ta nhớ đến thi sĩ Hàn Mặc Tử, xin cầu nguyện cho ông.

Sở dĩ con xin phép được gọi các nữ tu là ” thiên thần” , bởi vì, không thể người trần thế nào có được tấm lòng quảng đại, hy sinh tối đa cho các bệnh nhân phong. Theo đó, các vị nữ tu hiện , đã, đang chăm sóc cho  những người bệnh nhân phong thật là chỉ có “tâm hồn thiên thần” mới làm được. Có thể nói, satan thì phá hủy, còn “thiên thần nữ tu” thì chữa lành, nhưng, họ cũng chỉ là ”thiên thần” không như Chúa Giêsu được, đụng vào người bệnh là có thể khỏi.

Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa, tại Pakistan, có một vị nữ tu Công Giáo gốc Đức, vừa qua đời ở tuổi 80 năm 2017, là một bác sĩ y khoa, người  đã cống hiến 50 năm cho việc nghiên cứu tìm ra thuốc đặc trị dứt điểm vi trùng Hanxen, được tổ chức y tế thế giới công nhận Chị đã rời bỏ quê hương , đất nước của mình, tức quê cha, đất mẹ để đến sống làm việc và phục vụ cho các bệnh nhân phong tại một đất nước xa xôi.

  • Thứ hai : Sứ Vụ của Chúa Giêsu không phải là Thầy lang chữa bệnh thân xác, mà là Đấng Cứu Chuộc các Linh Hồn, vì vậy, việc rao giảng Tin Mừng, mới là chính .

Như chúng ta biết , phàm nhân thiên về thân xác, bệnh tật, sức khỏe, ăn uống, nói chung là nhu cầu thể xác hơn là tinh thần. Vì vậy, nếu như Chúa Giêsu cứ làm phép lạ một cách dễ dàng, hóa bánh ra nhiều liên tục, cứ thấy ai bệnh hoạn, Người cũng đụng vào cho khỏi bệnh, thì còn gì là chương trình Cứu Độ nữa., còn gì, Người phải chịu Tử Nạn nữa, bệnh tật, hoặc đau khổ thể xác không thể so với đau khổ trầm luân. Vì vậy, Ơn Cứu Độ không chỉ cứu khổ phần thể xác, nhưng cứu giúp phần linh hồn mới quan trọng. Vì vậy, đau khổ phần thể xác giúp cho Ơn Cứu Độ hoàn hảo hơn, việc đau khổ thân xác nơi dương thế mà biết kết hợp với Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, thì sự đau khổ ấy mới có giá trị tháp nhập vào Ơn Cứu Độ.

Theo đó, giá trị chịu đựng đau khổ của phàm nhân là Kitô hữu, mặc nhiên họ được thông phần với Đức Kitô Tử Nạn và Phục Sinh. Vì, Đức Kitô không thể chịu Tử Nạn, gánh lấy đau khổ trong hư vô, trái lại phát sinh Mầu Nhiệm Cứu Độ nhân loại. Nếu gọi là ”CỨU ĐỘ” mà không chịu đau khổ thì không phải chân lý, bởi chính Chúa Giêsu, nếu không chịu đau khổ, mặc nhiên ơn cứu độ không phát sinh. Vì, khi, Người muốn, Người có thể đụng chạm vào một bệnh nhân nan y, lập tứ người ấy khỏi bệnh. Thì, làm sao quân dữ có thể  “chạm “ vào Người , nếu như , Người không muốn, và không vì “ vâng lời” Chúa Cha, tức Mầu Nhiệm Cứu Độ .

Và, nếu như, dân chúng tuôn đến với Người vì để được chữa bệnh thể xác mà thôi, thì, có nghĩa là Người không chịu đau khổ, Tử Nạn, và Phục Sinh.

Như vậy, xưa cũng như nay, đến với Chúa Giêsu là để cầu xin và đón nhận “ƠN CỨU ĐỘ” tức được chữa lành phần linh hồn, chứ không phải chỉ được chữa bệnh và cho ăn phần thể xác là chính.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng chữa trị mọi tật bệnh xác hồn, xin cho chúng con thành tâm tìm kiếm Chúa, bước theo Người trên mọi nẻo đường trần gian, hầu đến được bến bờ Thiên Quốc. Người là Thiên Chúa hằng Sống và hiển trị cùng Chúa Cha trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến  muôn đời ./. Amen

Về mục lục

.

CÚ ĐỤNG TAY ĐỔI ĐỜI

JM. Lam Thy

Theo y học thì bệnh phong (cùi, hủi) không phải là bệnh di truyền mà là một bệnh nhiễm khuẩn, gây ra bởi một loại trực khuẩn có tên khoa học là Mycobacterium lepræ (còn được gọi là trực khuẩn Hansen). Bệnh phong lây qua đường da hoặc hô hấp. Tuy nhiên, mắc bệnh hay không thì còn tùy thuộc vào đáp ứng của cơ thể mỗi người đối với vi khuẩn Mycobacterium lepræ. Bệnh có tính chất kéo dài và hay lây, có biểu hiện toàn thân nhưng nổi bật và thường xuyên nhất là triệu chứng da và một số dây thần kinh. Tuy ngày nay với tiến bộ của khoa học, có thể chữa khỏi được bệnh phong, có thể khống chế được sự lây lan, nên có quan niệm đối xử nhân đạo với bệnh nhân; nhưng ở thời xa xưa, các quốc gia Đông Tây – kể cả Việt Nam – thường coi bệnh phong là bệnh nan y, không thể chữa khỏi, phần thì cho là dơ bẩn, ô uế, nên có thái độ ghê tởm và đối xử tàn bạo với bệnh nhân. 

Có một trường hợp điển hình về quan niệm trên ở Việt Nam, đó là thi sĩ tài danh Hàn Mặc Tử – Nguyễn Trọng Trí (1912-1940). Ông không may mắc bệnh phong, mà thành kiến sai lầm cho rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm, ô uế, nên bị cộng đồng hắt hủi, ngược đãi; không những thế, gia đình ông còn bị áp lực của chính quyền địa phương đòi phải cách ly. Vì thế, gia đình phải đưa ông đi trốn tránh ở nhiều nơi. Mãi tới khi bệnh trầm trọng mới được đưa vào viện phong Quy Hòa và chết ở tuổi quá trẻ (28 tuổi). Chính Gour Vile – bác sĩ điều trị tại viện phong – đã trách gia đình không đưa bệnh nhân vào trại phong sớm và bác sĩ kết luận nhà thơ chết là do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện. Xin đơn cử một số câu thơ của thi sĩ đau khổ vì căn bệnh của mình: 

* “Gió rít từng cao trăng ngã ngửa, Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô, Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy, Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.” (Bài SAY TRĂNG).

* “Ôi ta đã mửa ra từng búng huyết, Khi say sưa với lượn sóng triền miên, Khi nhận lấy trong thân tâm cay nghiệt, Giọng hờn đau trăm vạn nỗi niềm riêng.” (Bài BIỂN HỒN TA). 

* “Thịt da tôi sượng sần và tê điếng, Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên.” (Bài HỒN LÀ AI). 

* “Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút, Mỗi lời thơ đều dính não cân ta, Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt, Cho mê man chết điếng cả làn da.” (Bài RƯỚM MÁU). 

* “Máu đã khô rồi, thơ cũng khô, Tình ta chết yểu tự bao giờ, Từ nay trong gió – trong mây gió, Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ.” (Bài TRÚT LINH HỒN). 

Với dân Do Thái thì cũng vậy, họ đã coi bệnh phong cùi là thứ bệnh ô uế và người bệnh phải bị cách ly. “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! ô uế!” Bao lâu còn mắc bệnh, người ấy sẽ còn là ô uế. Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại.” (Lv 13, 45-46). Người Do Thái không những coi bệnh nhân là người dơ bẩn ô uế, mà còn quan niệm bệnh hoạn là do tội lỗi gây ra, bệnh càng nặng thì chứng tỏ tội người ấy càng lớn. Đối với bệnh phong cùi, họ cho rằng đây là căn bệnh bất trị, người mắc bệnh này là người bị Chúa phạt, Chúa nguyền rủa bởi vì họ quá tội lỗi. 

Chính vì thế, người Do Thái xa lánh người bị bệnh phong cùi, đẩy bệnh nhân ra khỏi xã hội và ghép họ vào những thành phần bất hảo, còn sống nhưng coi như đã chết rồi. Đến ngay như ngôn sứ Isaia khi nói về Đấng Mê-si-a cũng phải thốt lên một cách chua chát: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.” (Is 53, 4). Điều đó chứng tỏ quan niệm của dân Do Thái quá thiển cận, đầy ác tính. 

Đối với người bị bệnh phong cùi trong bài Tin Mừng hôm nay (CN VI/TN-B – Mc 1, 40-45), có một điều rất đáng lưu ý là người ấy vẫn chấp hành luật lệ Do Thái nghiêm túc đối với mọi người; nhưng khi thấy Đức Giê-su Ki-tô thì người ấy đã phá lệ, thay vì kêu lớn tiếng “ô uế! ô uế!” thì người đó lại “quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mc 1, 40). Điều này nói lên rằng đức tin của anh ta rất vững mạnh. Anh đã biết và tin rằng Đức Giê-su là Thiên Chúa, mà khi Người là Thiên Chúa thì Người sẽ thương xót và chữa anh khỏi bệnh. Ước nguyện chính đáng của anh xuất phát từ niềm tin tuyệt đối đã giúp anh toại nguyện, khi “Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi! ” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.” (Mc 1, 41-42). 

Còn một điều đáng lưu ý nữa là Đức Giê-su Ki-tô, vì Người là Thiên Chúa nên chỉ cần đứng từ xa, phán một lời là bệnh nhân khỏi bệnh. Vậy mà Người lại “chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh”, trái ngược hẳn với luật lệ khắt khe của người Do Thái. Quả thật Chúa Giê-su luôn quan tâm đến với những người nghèo khó, bệnh hoạn, tật nguyền, bởi “chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (Is 53, 4). Và cũng chính vì thế nên “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2, 17). Quan điểm ấy được biểu lộ rõ ràng khi Đức Giê-su chữa cho người mù từ lúc mới sinh (“Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” – Ga 9, 2-3). 

Khi kẻ viết bài này còn đi giảng dạy tại các huynh đoàn Đa Minh, câu trả lời của Đức Giê-su: “Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” cũng gây nhiều tranh cãi trong những giờ sinh hoạt, chia sẻ Tin Mừng. Nhiều người cho rằng Đức Ki-tô nói như vậy là có ngậm ý: Vì người mắc bệnh phong tội lỗi quá nhiều nên đã bị Thiên Chúa trừng phạt (sự trừng phạt ấy được chứng minh bằng câu: “công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”). Thực ra, Đức Giê-su nói như vậy là ngụ ý khi Người chữa bệnh cho người phong hủi thì cũng chính là lúc Thiên Chúa hành sự (bởi chính Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật). Nếu không phải như vậy thì Đức Giê-su đã không “chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1, 41). Và sau khi Người đụng tay vào anh thì “Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.” (Mc 1, 42). “Công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” vào chính lúc anh ta được khỏi bệnh. 

Ngay ở Việt Nam cũng đã có một bản sao trung thực hình ảnh “Đức Giê-su chạnh lòng thương chữa người bị phong hủi”, đó chính là Đức Giám mục Jean Cassaigne (30/01/1895 – 31/10/1973). Ngài thuộc Hội thừa sai Paris, năm 1927 sang truyền giáo tại Việt Nam, ngài được cử làm linh mục chính xứ Di Linh. Với tâm huyết “Việt Nam, quê hương của tôi”, ngài đã sống và chết với những người mắc bệnh phong, cống hiến cả cuộc đời cho các dân tộc thiểu số vật lộn với bệnh phong nơi rừng rậm thâm u trên cao nguyên, nơi con người hàng ngày quằn quại chiến đấu với bệnh tật và tử thần. Ngài sáng lập trai phong Di Linh và tận tụy chăm sóc bệnh nhân phong cùi cho đến cuối đời. 

Vì thế ngài được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tôn phong là “Giám mục phong cùi của người phong cùi”. Khẩu hiệu “Bác Ái và Yêu Thương” do ngài chọn đã nói lên điều đó rất nhiều. Sống “Bác Ái và Yêu Thương” đến độ sẵn sàng từ chức giám mục Giáo phận Saigon, để về trại phong sống tới cuối đời. Trang web Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã phác họa “Chân dung linh mục Việt Nam: Đức cha Jean Cassaigne” thời gian đó như sau:

Ngày 20-2-1941, cha sở Di Linh Jean Cassaigne nhận được bài sai về kế nhiệm Đức Giám mục Địa phận Saigon vừa tạ thế. Ngày 24/6/1941, ngay từ 7 giờ sáng, chuông các nhà thờ Saigon đồng loạt đổ vang, báo tin lễ tấn phong Đức cha Cassaigne. Tuy nhiên, sau sáu tháng phục vụ Tông tòa Saigon, rong ruổi khắp địa phận rộng lớn, công việc vất vả đã làm cho các bộ phận cơ thể ngài vốn mệt mỏi, lại bị suy yếu, đến nỗi bệnh phong cùi nằm phục từ lâu, nay phát tác. Làm Giám mục chính tòa Saigon được 14 năm, tới ngày 5/3/1955, ngài xin từ chức và rút lui về trại phong Di Linh. Vào lúc 10g00 đêm ngày 30/10/1973, Đức cha lãnh nhận bí tích xức dầu lần cuối do cha sở họ Di Linh và rạng sáng hôm sau Đức cha đã được Chúa gọi về hồi 01g25.

Trên thế giới ngày nay, bệnh phong cùi không còn là bệnh nan y nữa, nhưng mặc cảm khinh chê ghê tởm đối với căn bệnh này vẫn không phải là đã chấm dứt. Người ta vẫn kinh sợ, vẫn còn cái nhìn ghẻ lạnh, thiếu thiện cảm với những con người mắc phải bệnh đó. Kể ra, để gột sạch được mặc cảm ấy cũng không phải là chuyện đơn giản, vì con số người tin vào Đức Giê-su Thiên Chúa vẫn còn là thiểu số trong cộng đồng nhân loại. Nhưng cái đáng sợ không phải là phong cùi thể xác, mà là phong hủi tinh thần. Phải chăng khi con người chẳng hề nghĩ đến những người anh em đang gặp cảnh khốn cùng vì bệnh hoạn, vì thiên tai, mà co cụm vào trong lâu đài ích kỷ, thì đã là người bị phong hủi tinh thần? Đáng ngại nhất là những người lòng chai dạ đá trước những người anh em đang quằn quại rên siết với không chỉ phong hủi mà là đủ thứ bệnh quái ác. 

Bệnh tật là do định luật tự nhiên của con người (sinh – lão – bệnh – tử). Ai cũng có bệnh, không bệnh nặng thì bệnh nhẹ. Chẳng ai thoát khỏi cái vòng kim cô ấy. Bệnh tật là điều bình thường của kiếp sống con người. Không phải có tội là bị bệnh, có người bị bệnh nhưng không có tội (Ga 9, 2-3), nhưng cũng không hiếm trường hợp khoẻ như voi mà tội lỗi đầy mình. Tội lỗi cũng như bệnh tật, chẳng ai là không có tội. Ấy cũng bởi vì “Lầm lỗi là bản tình của con người” (“errare humanum est” – châm ngôn La ngữ), duy có điều là có biết nhìn lại mình để biết mình có tội và ăn năn hối cải hay không mà thôi. Nên nhớ khi con người phạm tội mà không tự biết, cứ tưởng mình là thánh sống, hiu hiu tự đắc, thì tội chồng lên tội. Vì thế, cũng như khi bị bệnh về thể xác phải tìm thầy chạy thuốc thế nào, thì khi mắc bệnh tâm linh cũng phải biết tìm đến Thầy Thuốc chí thánh xin Người chữa trị cho. 

Hiểu được như vậy, người Ki-tô hữu đừng lo sợ thái quá mà hãy NHÌN LẠI mình để biết mình tội lỗi, nhiên hậu NHÌN LÊN Đấng mà mình đã biết và đã tin: Đức Giê-su Ki-tô; cầu xin “Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào” đáy sâu tâm hồn của mình, chắc chắn ngay lập tức “chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch“. Anh vui mừng phấn khởi vì đã được sạch, ngoài việc tạ ơn Người đã cho anh khỏi bệnh, anh còn cần phải NHÌN RA xung quanh, để cảm thông, giúp đỡ và chia sẻ với những anh em bị bệnh, đặc biệt đối với những người mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo. Chỉ có như thế mới không phụ lòng Người Thầy Thuốc Chí Nhân Chí Lành – Đức Giê-su Chí Ái – đã chữa lành cho anh và cũng chính Người đã dạy anh, dạy tất cả chúng ta: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em“ (Ga 15, 12). Môt cách cụ thể, hãy sống với châm ngôn: “Vui với người vui, khóc với người khóc“ (Rm 12, 14). Ước được như vậy. 

Người Ki-tô hữu hãy cùng với Hàn Mặc Tử cầu nguyện cùng Đức Trinh Nữ Maria để “Nhờ Mẹ, đến với Chúa Giê-su – Ad Jesum per Mariam”, xin Người “chạnh lòng thương đụng tay vào” con người bất toàn của minh:

 

AVE MARIA

Như song lộc triều nguyên ơn phước cả,

Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng,

Thơm tho bay cho đến cõi Thiên đàng,

Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể.

Và Tổng lãnh Thiên thần quỳ lạy Mẹ,

Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa,

Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa,

Trí miêu duệ của muôn vì Rất Thánh.

Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh!
Run như run thần tử thấy long nhan.
Run như run hơi thở chạm tơ vàng…
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.
Lạy Bà là Đấng trinh tuyền thánh vẹn,
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi,
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy,
Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế.
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ,
Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ,
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua,
Trí tôi hớp bao nhiêu là khí vị,
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí,
Và trong tay nắm một nạm hoà quang,
Tôi no rồi ơn võ lộ hoà chan.

Tấu lạy Bà. Bà rất nhiều phép lạ,
Ngọc như Ý vô tri còn biết cả,
Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh,
Tôi ưa nhìn Bắc Đẩu rạng bình minh.
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới,
Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi,
Thơm dường bao cho miệng lưỡi không khen,

Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en,
Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ,

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú,
Người có nghe náo động cả muôn trời,
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời,
Để ca tụng – bằng hương hoa sáng láng,
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng,
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh,
Đây rồi đây rồi chuỗi ngọc vàng kinh,

Thơ cầu nguyện là thơ quân tử ý,

Trượng phu lời và Tông đồ triết lý,

Là nguồn trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh,

Là nguồn đau chầu lụy Nữ Đồng Trinh.

Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp,

Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập,
Cả Hàn Giang, cả màu sắc thiên không,
Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng,
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyện ước.

Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương
Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng
Lòng vua chúa cũng như lòng lê thứ
Sẽ ngất ngây bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu Bi.”
 

Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì,

Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu

Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu

Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang.

 

Ôi! “1- Ave Maria! Con dâng lời chào Mẹ. Ave Maria! Con dâng lời chào Mẹ. Khi tàn mầu nắng chiều và khi sương đêm nặng gieo. Con say sưa lời ca chào Ave Maria. Con dâng lên Mẹ lời mừng Maria đầy phúc, Maria đầy ơn, Mẹ luôn có Chúa ở cùng. Maria Mẹ hiền từ, xinh hơn muôn phụ nữ. Con dâng lên lời ca, Mẹ tươi hơn muôn ngàn hoa. 2- Ave Maria! Con dâng lời chào Mẹ. Ave Maria! Con dâng lời chào Mẹ. Khi đời đầy môi cười và khi cô đơn lệ rơi. Con say sưa đọc lên lời Ave Maria! Qua bao năm lạc đường đời bao đêm sương mờ tối, Maria Mẹ ơi, hồn con héo úa rã rời. Con trông lên Mẹ dịu dàng, ôi sao mai bừng sáng. Maria tình thương, Mẹ ơi trông xem hồn con.” (TCCĐ “Ave Maria”). 

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, xin tuôn đổ hồng ân giúp chúng con ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN VI/TN).

Về mục lục

.

TẤM LÒNG CỦA ĐỨC GIÊSU

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Đức Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo:

“Tôi muốn, anh hãy được sạch!”

 Lập tức bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sạch.

I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,40-45):

(40) Khi ấy, có người bị phong đến gặp Đức Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng:  “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”  (41) Đức Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch!” (42) Lập tức bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sạch. (43) Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, (44) và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế; và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” (45) Nhưng vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi, đến nỗi Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,40-45):  

2.1 Bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta một bức tranh hết sức sống động về tấm lòng của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người. Đức Giê-su có một tấm lòng nhạy cảm nên Người chạnh lòng thương đối với người phong cầu cứu Người. Trái tim Người cũng sẽ rung động trước mọi nỗi thống khổ của con người. Từ đó Người giơ tay chữa lành những con người tật nguyền chạy đến kêu xin Người cứu chữa.  

Qua cách thể hiện tình yêu thương,  Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, dẫn đưa tất cả những ai đã được Người chữa lành đến với tấm lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa Cha. Cha còn yêu thương loài người khốn khổ hơn cả Đức Giê-su khi Cha sai Con Một xuống trần gian để Con Cha rao giảng Tin Mừng và hiến dâng mình trên Cây Gỗ hầu đem ơn cứu chuộc đến cho loài người bất trung bất hiếu. 

2.2 Tấm lòng yêu thương của Đức Giê-su chẳng những chữa lành người bị bệnh phong mà con chinh phục tâm hồn người ấy khiến người ấy không thể cầm lòng im lặng trước ân huệ lớn lao của Đức Giê-su nên đã rao truyền về Đấng Chữa Lành cho mọi người biết. 

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,40-45):

3.1 Mỗi chúng ta cũng đã được Đức Giê-su chữa lành như người bệnh phong trong Phúc âm: Biết bao tội chúng ta đã phạm vì yếu đuối, đam mê hay vì thiếu sót đã được Chúa thứ tha xóa bỏ trong Bí Tích Sám Hối. Biết bao ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta mà chúng ta không biết cảm tạ Chúa. Chúa vẫn cho chúng ta sống và vẫn tiếp tục yêu thương chữa lành cho chúng ta.

3.2 Mỗi chúng ta cũng phải rao truyền Lòng Yêu Thương và Ơn Chữa Lành của Đức Giê-su cho mọi người xung quanh như người bệnh phong trong Phúc âm. Im lặng là chúng ta mắc tội vô ơn thêm một lần nữa với Đấng yêu thương và ban ơn cho chúng ta.

IV.  CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,40-45):

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã chạnh lòng thương trước nỗi khổ của người bị bệnh phong. Chúa đã giơ tay chữa lành cho người ấy. Chúa cũng đã chạnh lòng thương trước nỗi khổ của con và giơ tay tha thứ và chữa lành cho con biết bao lần. Con xin dâng lên Chúa lời cảm tạ chân thành.

Con sẽ cao rao Tình Thuơng và Quyền Năng của Chúa trong những năm tháng con còn sống, để những người quen biết con biết rằng Chúa tha thứ và chữa lành con.

Xin Chúa giơ tay chữa lành các bệnh nhân đang mong chờ sự can thịep của Chúa để họ đuợc khỏi bệnh và sống an bình trong Tình Thương của Chúa.

Con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn ngàn đời. Amen.

Về mục lục

.

TÔI MUỐN, ANH HÃY ĐƯỢC SẠCH

Fx Đỗ Công Minh

              Những ngày xuân mới đang trở về trên quê hương đất Việt của chúng con, người người, nhà nhà đang nô nức chào đón bằng việc dọn cửa dọn nhà, trang trí trong ngoài căn nhà vật chất. Nhưng người tín hữu chúng con cũng nhân những ngày này dọn tâm hồn, căn nhà thiêng liêng để đón Chúa là Mùa xuân vĩnh cửu.

             Trong những ngày đón xuân này Giáo hội cho chúng con được dịp suy niệm về tình thương bao la của Thiên Chúa qua bài Tin Mừng chúa nhật thứ 6 thường niên, thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người bị bệnh Phong. Phong cùi là một loại bệnh khó chữa thời ấy, đã có từ hàng ngàn năm trước. Không chỉ ở Do Thái mà còn ở nhiều nơi khác, người bị bệnh Phong bị xã hội kì thị,họ phải sống xa khu dân cư, không được tiếp xúc với mọi người. Trong Kinh Thánh còn ghi lại việc những người bị bệnh Phong khi thấy có người đi đến gần phải la lên “ô uế, ô uế “ để họ biết mà tránh xa(Lv 13;45). Những người trót mang căn bệnh, ngoài sự đau đớn về thân xác, sự ruồng bỏ của cộng đồng. Về phía tôn giáo còn bị coi là người tội lỗi, bị Chúa phạt . . .  Mãi cho đến thế kỷ 20, con người mới khám phá ra thuốc điều trị và ngăn ngừa bệnh này. Người bị bệnh cũng đã được đối xử tốt hơn qua các tổ chức y tế, bác ái từ thiện , tuy vẫn còn ít nhiều dị ứng của xã hội. Chúa Giêsu rất thấu hiểu nỗi niềm của những bệnh nhân này. Người không ngại tiếp đón, lắng nghe và còn sẵn sàng đáp lời kêu cầu của người mắc bệnh phong. Sẵn sàng cúi mình xuống, chạm vào người bệnh và chữa lành . “ Tôi muốn, anh hãy được sạch !”. Lập tức bệnh phong biến khỏi anh và anh ta được sạch.

            Đức Giêsu Kitô, đấng cứu độ con người. Người đến xóa mọi bất công, Người đến cứu kẻ cơ hàn. Người đến rao giảng Tin Mừng về một Thiên Chúa là Cha yêu thương hết mọi người. Chúa đã trở nên một con người như chúng con, ngoại trừ tội lỗi, để nâng con người lên trở thành người như Chúa đã làm người. Chúa không những chữa lành các bệnh tật con người về thể lý mà còn là chữa trị những tật bệnh về phần linh hồn, tẩy xóa mọi vết nhơ tội lỗi, xóa đi những gì là nhơ bẩn để con người trở nên thanh sạch, không còn bị mang tiếng là ô uế trước mặt Thiên Chúa và đồng loại.

            Ngày hôm nay, không ít người trong chúng con đây cũng đang mắc đủ thứ bệnh. Nhẹ thì đau lưng nhức mỏi, tăng áp huyết, mỡ trong máu. Nặng hơn thì tiểu đường, bị Gút, suy nhược toàn thân. Nặng hơn nữa thì ung thư, lao hạch. . . chúng con xin Chúa thương chữa lành như xưa Chúa đã chữa cho biết bao người có lòng tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. Nhưng cũng còn biết bao căn bệnh linh hồn. Khi chúng con tự tách mình ra khỏi cộng đồng những kẻ tin, không những bản thân ô uế mà lại còn làm cho nhiều người khác sinh ra ô uế. Nghe tiếng Chúa mời gọi, biết Chúa là đấng toàn năng có thể chữa mọi bệnh tật linh hồn, xóa đi mọi vết nhơ tội lỗi nhưng vẫn cố tình chìm đắm trong sự ô uế, ngoảnh mặt đi trước những lời mời gọi của Chúa, khước từ vị Thầy thuốc từ trời đến, để được tự do sống trong đam mê dục vọng,tham lam, ích kỷ, tự do suy nghĩ và hành động theo ý riêng mình. Rồi một lúc nào đó người bệnh sẽ cần đến thầy thuốc, con biết con cần đến Chúa trong cuộc đời. Nhưng lúc ấy là lúc nào và con có đủ can đảm như người bệnh Phong trong Tin Mừng thưa lên : “ Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch” ?

           Xin cho con biết “ Nếm thử mà xem, Chúa ngọt ngào dường bao “ mỗi ngày, mọi ngày. Biết trở về, biết sám hối và tin vào Tin Mừng và “ cao rao loan truyền tin đó” như  người bệnh phong trong Tin mừng sau khi đã được Chúa chữa lành  . AMEN.

Về mục lục

.

MẠNH DẠN ĐẾN VỚI CHÚA GIÊSU

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Bệnh phong hủi là một trong những bệnh lây nhiễm thuộc hạng tứ chứng nan y của xã hội ngày xưa. Để tránh lây nhiễm, người mắc bệnh phong phải sống ở một nơi riêng biệt ngoài đồng ruộng, nơi rừng núi hay trong sa mạc, không được phép giao du tiếp xúc với mọi người, kể cả người thân.

Hơn nữa, theo quan niệm bình dân, người mắc bệnh phong là kẻ tội lỗi hơn người khác, nên bị Trời đánh, Thánh phạt. Ai tiếp xúc với người phong thì mang tội, bị mắc uế. Bị kỳ thị cô lập như thế, người bệnh rất đau khổ: Đau đớn thể xác! Đau khổ tinh thần! Sống mà như thế coi như đã chết !

Bài đọc 1 trích từ sách Lêvi đã giúp ta mường tượng và cảm nghiệm một phần nào nỗi đau khổ của người bệnh phong: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc che râu và kêu lên: Ô uế! Ô uế! Bao lâu còn mắc bệnh người ấy sẽ còn là ô uế. Người ấy phải ở riêng ra bên ngoài trại”.

Thế mà anh chàng phong hủi trong bài Tin Mừng hôm nay lại xé rào. Anh ta ngang nhiên đến gặp Chúa Giêsu, sấp mình xuống van xin Chúa chữa lành căn bệnh quoái ác cho anh: “Lạy Thày, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Tại sao anh chàng phong hủi lại dám làm thế? Tại Chúa Giêsu. Vâng, tại Chúa Giêsu mà anh bất chấp tất cả! Nếu không phải là Chúa thì chắc chắn là không bao giờ, không bao giờ anh dám làm thế!

Thái độ bạo dạn, đầy lòng tin tưởng của người phong hủi đã được Chúa Giêsu đáp đền qua việc Ngài đụng chạm vào da thịt lở loét của anh và bảo: “Tôi muốn anh hãy được sạch. Tức thì bệnh phong biến mất”!

Đụng chạm vào thân thể người phong hủi. Đó là việc tày trời, là hành động cách mạng của Chúa Giêsu trước luật lệ cấm kỵ, sạch dơ trong xã hội và tôn giáo Dothái đương thời.

Tại sao Chúa Giêsu lại làm thế? Phải chăng Chúa là người quấy rối, cố tình vi phạm luật lệ của Thiên Chúa và tiền nhân đã được ghi chép trong Kinh Thánh?

Chúa không phải kẻ quấy rối, phá bỏ lề luật. Ngài là hiện thân của tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa trên trần gian. Đi tới đâu, Ngài thi ân giáng phúc tới đó. Ngài đến để tìm và cứu chữa những gì đã hư mất, hầu giải phóng con người khỏi ách nô nệ của tội lỗi, bệnh tật và lề luật: “Ta đến không phải để phá huỷ lề luật mà là để kiện toàn” (x. Mt 5,17).

Chúng ta không mắc bệnh như anh chàng phong trong Tin mừng, nếu có thế giới ngày nay đã chữa trị được căn bệnh này. Nhưng thế giới và bản thân mỗi người chúng ta đang phải gánh chịu những căn bệnh nan y khác. Đó là bệnh Sida- HIV, bệnh khô khan biếng trễ việc đạo, bệnh chồng chung vợ chạ, bệnh ghen ghét thù oán người đồng loại, bệnh kêu ngạo coi trời bằng vung, bệnh nói hành nói xấu nhau, bệnh gian dối cẩu thả, bệnh tham ô hối lộ, bệnh keo kiệt hà tiện, bệnh thành tích hình thức, bệnh cắt xén xuyên tạc sự thật, bệnh tiêu xài hoang phí tiền của, sức khoẻ và thời giờ v.v. Chúng là những biến tướng của bệnh phong, là đại hoạ cho gia đình và xã hội. Cần phải noi gương bắt chước Chúa Giêsu, để cùng nhau bắt tay bài trừ, tiêu diệt tận gốc những căn bệnh quái ác này.

Thánh Phao-lô đã noi gương bắt chước Chúa Giê-su trong mọi hoàn cảnh, để tôn vinh Thiên Chúa và làm cho nhiều người được cứu độ như bài đọc 2 trích từ thư thứ nhất của ngài gửi cho tín hữu thành Cô-rin-tô mà chúng ta vừa nghe (x. 1Cr 10,31-11,1).

Muốn được như vậy,  chúng ta phải mạnh dạn đến với Chúa Giê-su, tin tưởng vào Chúa Giêsu như anh chàng phong hủi, để xin Ngài chữa lành. Chúng ta có làm được như thế không? Có phải vì tin vào Chúa và muốn làm vinh danh Chúa mà chúng ta đến với Chúa không?

Nếu không vì yêu mến Chúa và vinh danh Chúa, thì hãy ở nhà mà làm ăn buôn bán, kẻo mất thời gian tốn công vô ích. Nếu vì yêu mến Chúa và vinh danh Chúa, ta hãy an tâm ở lại, mạnh dạn trút đổ, trao phó cho Chúa những bệnh tật của bản thân, gia đình, làng xã, xứ đạo và xã hội ta đang sống. Xin Chúa hãy giơ tay đụng chạm đến những ung nhọt tội lỗi ấy và làm cho nó tan biến đi, nhờ đó ta được sống trong an lành, thanh khiết.

Có phải ta làm việc tông đồ và rao giảng Tin mừng để làm vinh danh Chúa và giúp cho mọi người nhận biết và tôn thờ Chúa, là Chúa tể trời đất, là căn nguyên cội rễ mọi sự, là nguồn mạch mọi phúc đức không? Nếu không, ta đừng làm, đừng rao giảng, chỉ tổ chuốc lấy những khó nhọc, vất vả vào thân! Nếu phải, ta hãy nhiệt tâm làm việc tông đồ, mạnh mẽ can đảm mà rao giảng Tin Mừng! Đừng sợ gì cả! Chúa sẽ biến đổi lòng người.

Lạy Chúa, Chúa đã biến đổi Phaolô từ một người biệt phái hăng say bách hại đạo Chúa trở thành vị tông đồ nhiệt thành đem Tin mừng cho dân ngoại. Chúa đã chữa lành người phong hủi làm cho anh lành lặn tươi tắn và tái gia nhập cộng đoàn. Xin Chúa biến đổi, chữa lành bản thân và gia đình con, xứ đạo và làng xã con, tổ quốc và thế giới con đang sống, hầu danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa được hiển trị, thế giới được hoà bình, xã tắc được an ninh – thịnh vượng, gia đình được yên vui – hạnh phúc. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU – ĐẤNG CHỮA LÀNH MỌI BỆNH TẬT

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Một khi đã tin vào Đức Giêsu nhờ lời rao giảng, các tín hữu tiên khởi tiếp tục tìm hiểu về Đức Giêsu qua những gì các tông đồ kể lại, và phần lớn những điều này được ghi lại nơi các sách Tin Mừng.

Niềm tin vào Đức Giêsu làm thay đổi cuộc đời tín hữu, khi họ nhận ra Thiên Chúa hằng yêu thương họ, một cách rất đặc biệt qua Đức Giêsu.

1) Tội còn khủng khiếp hơn bệnh phong cùi nhiều

Ngày nay với tiến bộ của y khoa, người ta đã chế ngự được bệnh phong. Bệnh phong ngày nay cũng chỉ là một bệnh như bao bệnh khác. Ngày nay người ta hay có thái độ xa cách đối với những người mắc bệnh hư miễn nhiễm (HIV, AIDS) như ngày xưa người ta đã có đối với những người mắc bệnh phong cùi. Kitô hữu tuy phải khôn ngoan để không bị lây nhiễm, nhưng không được có thái độ thiếu bác ái trong cách cư xử đối với những người anh chị em bị mắc những bệnh này.

Ngày xưa khi chưa khắc phục được bệnh phong cùi, thì bệnh này là một nỗi kinh hoàng cho những người bị nhiễm và cho cả những thân nhân của người bệnh nữa. Vì là bệnh truyền nhiễm nên người ta đã phải có biện pháp để bảo vệ những người khác cho khỏi bị lây nhiễm, nghĩa là, bảo vệ xã hội khỏi bị tiêu diệt, vì thế thậm chí đôi khi người ta áp dụng những biện pháp rất khắc nghiệt. Người bệnh phải sống tách biệt với người khác, kể cả những người thân thuộc như vợ chồng con cái. Dù rất yêu nhau, họ cũng phải sống xa cách, và không được phép lại gần nhau; điều này áp dụng không chỉ với hai người nam nữ yêu nhau, nhưng cả đối với người mẹ và người con còn thơ dại.

Mọi tật bệnh và đặc biệt bệnh phong cùi, theo quan điểm của người Do Thái, là hậu quả của tội. Qua cái gì cụ thể hữu hình là bệnh, người ta thấy nơi tội một cái gì tương tự như bệnh phong cùi gây cho con người. Tội là thái độ hận thù ghen ghét anh chị em mình và không sống như con Thiên Chúa. Tội làm người ta xa nhau, làm người ta bị cô lập với cộng đoàn, làm người ta mất bình an mất vui và không được hạnh phúc.

2) Đức Giêsu- dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện

Nếu đặt mình vào trường hợp và tâm trạng của anh bị bệnh phong được Đức Giêsu chữa lành hôm nay, người ta sẽ thấy anh ta mong ước được khỏi bệnh “khủng khiếp” này đến độ nào. Ao ước này đặc biệt rất mãnh liệt nếu anh ta có vợ và con thơ yêu dấu. Ai có thể giúp anh ta được? Đức Giêsu xuất hiện như niềm hy vọng của anh ta. Anh ta đã qùy xuống nài xin Đức Giêsu! “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi!”

Làm sao anh ta có thể tin Đức Giêsu như vậy? Qua cách sống, lời giảng dạy, và những dấu lạ Đức Giêsu làm, người ta tin vào Đức Giêsu hơn. Xưa tiên tri Elisa cũng đã chữa viên quan Naaman của Syria, một người bị bệnh cùi chỉ bằng lời truyền cho ông đi tắm bảy lần ở sông Yordan (2V.5, 1-27); bây giờ, nếu Thiên Chúa muốn, nếu vị tiên tri Giêsu này muốn, thì Ngài cũng có thể làm như tiên tri Elisa đã làm chứ. Đức tin của người bệnh phong cùi này phản ảnh đức tin của con người thời đó đối với Đức Giêsu; hơn nữa, qua anh ta người ta nhận ra Thiên Chúa đang tác động nơi anh ta, làm anh ta tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã xúc động và thương anh ta thật sự. Ngài đọc được nỗi khổ của người bị bệnh phong cùi này. Ngài thấy được khao khát của anh ta qua việc anh qùy gối trước Ngài để nài xin ân huệ được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã đưa tay ra, chạm vào anh và nói: “dĩ nhiên là tôi muốn, anh hãy lành đi.” Đức Giêsu thương anh ta, và qua anh ta, thương tất cả con người đang đau khổ bệnh tật. Đức Giêsu thương con người, Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa không muốn con người khổ não, Ngài muốn con người bình an và hạnh phúc. Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện để yêu thương, để chữa lành và nối kết con người lại với nhau và với Thiên Chúa.

3) Đức Giêsu không chỉ là một con người

Tại sao Đức Giêsu không chữa tất cả những người bị bệnh phong cùi thời đó? Tại sao Đức Giêsu không chữa lành tất cả mọi bệnh tật của con người? Tại sao Đức Giêsu không biến đổi tất cả để làm con người đừng thù ghét nhau nữa nhưng luôn yêu thương và giúp đỡ nhau? Đức Giêsu là một người như tất cả mọi người, nên Ngài không thể làm được điều đó. Nếu Ngài làm được điều đó, người ta sẽ nói Ngài không là người thật vì Ngài không chia sẻ nỗi bất lực trước nỗi khổ của con người. Ngài là người, Ngài bất lực và thậm chỉ không biết cả tương lai nữa. Những gì con người không biết và không làm được, mà Ngài biết và làm được, thì đó là ơn huệ và là dấu chỉ Thiên Chúa ban để giúp con người nhận biết chân tướng của Ngài mà thôi.

Đức Giêsu chữa người bị bệnh phong cùi không bằng cách như tiên tri Elisa đã làm đối với Naaman, viên quan của Syria, nhưng bằng một lời: “tôi muốn chứ, anh khỏi đi.” Cách chữa bệnh bằng lời của Đức Giêsu, cho người ta biết hơn về chân tính của Ngài. Ngài có uy quyền, trổi vượt hơn cả các tiên tri trước, kể cả Môsê. Thời Môsê, mấy người chống đối ông bị phạt mắc bệnh phong cùi; những người này đã hoảng sợ và xin ông Môsê cầu khẩn Thiên Chúa tha thứ cho họ; ông Môsê đã xin Chúa, và Chúa đã cho họ được khỏi. Đức Giêsu đã không chữa người bị bệnh này như vậy; Ngài làm như thể Ngài có quyền chữa bệnh vậy, và cách nói của Ngài làm người ta hiểu như thể quyền đó từ Ngài mà ra.

Qua cách trình bày của Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu là người rất đặc biệt. Ngài thương yêu con người, rung động trước nỗi khổ của con người, Ngài yêu thương và chữa lành con người, giúp họ trở lại với cộng đoàn con người, trở lại với người thân yêu và nhận ra Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương họ. Đức Giêsu còn là một người trổi vượt hơn những người khác, hơn các tiên tri nổi tiếng ngày xưa là Elisa và Môsê. Như thể tự Ngài, Ngài có quyền chữa lành bệnh tật. Ngài là người, và hơn là một con người. Ngài là Đấng “từ trên.”

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Với cách hành xử của Đức Giêsu hôm nay, bạn được đánh động ở điểm nào? Xin chia sẻ?
  2. Thánh Phaolô viết: “vậy dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr. 10, 31). Bạn có thể làm được điều này không? Bằng cách nào?

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN – NĂM B

Lm. Grêgôriô Lê Văn Hiếu

 “Có người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: ‘Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Mc 1,40).

 Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,

Sinh ra trong cuộc đời; là con người ai ai cũng phải chấp nhận những khổ đau của kiếp nhân sinh. Thi sĩ hương quê Lê Hiếu cảm tác những đau khổ về phận người “Trước khi chào đời cất tiếng oa oa. Già nua tuổi tác thấy đời hiu quạnh. Bệnh tật hao gầy trông đời thấu khổ. Tử thần rình rập chồng chất âu lo”.v.v. Nhận thấy đời là bể khổ, nên Đức Phật đã tìm cách để diệt khổ. Nhưng cuộc đời dễ có mấy ai có thể xuất thế để diệt khổ được như ngài. Người phong cùi được nói đến trong bài đọc I, trích từ sách Lêvi của thời Cựu ước cũng như trong trình thuật Tin mừng của Thánh Máccô hôm nay là tiêu biểu cho nỗi khổ đau bất hạnh mà trong tứ diệu đế cũng đề cập đến. Có thể nói bằng từ ngữ để gọi cho nỗi đau của người phong cùi hôm nay bằng một cụm từ trong ngoặc kép “còn sống mà như đã chết”. Anh người phong cùi còn đang sống mà như đã chết! 

Thật vậy, anh phong cùi đã chết bởi những định chế cấm kỵ và quy định của thời bấy giờ thật khắc nghiệt; chết với bệnh tật thể xác mà mình đã mang; chết với nỗi đau khốn cùng của cơn bệnh hiểm nghèo. Người phong cùi trong thời Chúa Giêsu cũng như trước đó phải theo luật định đã đau cùng đớn khổ vì bị cách ly với gia đình, với quần thể xã hội mà anh đang sống. Người phong cùi không chỉ đau về mặt thể xác với bệnh tật dày vò, mà còn đớn cùng khổ đau về phương diện tâm lý xã hội, về mặt tinh thần tâm can và thậm chí cả đời sống tâm linh tôn giáo nữa. Nỗi đau ấy là nỗi đau của đoạn trường xa lìa chia cách; nỗi đau của bản thân và từ trong gia đình; của sự ngăn ngừa kiểm chứng bệnh tật. Cụ thể sách Lêvi trong bài đọc I hôm nay cho thấy: Người phong cùi lấy thân che áo; lấy đầu che mũ; lấy tóc che mặt; lấy áo che miệng và đi đến đâu thì phải la to rung chuông báo hiệu cho mọi người biết là mình ô uế; để rồi tránh xa kẻo bị lây nhiễm vì sự ô uế bệnh tật của mình. (x. Lv13,45 – 46).

Thật là một đau khổ mà người phong cùi phải ngậm đắng nuốt cay. Nuốt cả những bất hạnh của chính mình trong bệnh tật và biệt giam trong cảnh khốn cùng trong tương quan với tha nhân. Người phong cùi được coi là xác chết biết đi hay gọi “còn sống mà như đã chết”. Cái chết của sống cùng sống với; cái chết trong chiều kích xã hội; cái chết trong yếu tố chính cấu thành yếu tính của con người. Và thậm chí chết đi cả về mặt tâm linh tôn giáo của thời bấy giờ; bởi bệnh tật được xem như là tội lỗi và là điều mà Thiên Chúa chúc dữ.

Cảm thương và xót xa cho con người đã bị cô độc giữa rừng người; Chạnh lòng xót thương với những hoàn cảnh bi đát khốn cùng của căn bệnh phong dày vò. Cảm thông với nổi tủi thân bất hạnh mà con người được sinh ra để sống cùng, sống với mà xã hội như hất hủi, tẩy chay loại trừ và ruồng bỏ. Cảm thông với căn bệnh không một bác sĩ chữa trị cũng như không một bệnh viện nào có thể chữa lành được và nhất là cảm thấu được lòng ước muốn kêu xin đầy tin tưởng và lạc quan của người phong cùi “Lạy Thầy, nếu Thầy muốn Thầy có thể chữa tôi nên sạch”.

Người phong cùi đã được Thầy thuốc Giêsu chữa lành và đi trình diện với các tư tế là hình ảnh “đã chết mà nay được sống”. Được sống bởi anh đã được chữa lành. Được sống để anh đi trình diện với các tư tế theo luật Môsen đã truyền; được sống bởi anh biết vượt qua mọi rào cản trở ngại tứ bề để đến và gặp được Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự sống. Được sống bởi lòng tín thác cậy trông vào Đấng đã đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất và được sống bởi anh biết quẳng gánh âu lo vào trong chính Đấng giàu lòng thương xót như Đấng đã từng mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề; hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi và bổ sức cho” (Mt 11, 28).

Thật vây, Đức Kitô đến! Ngài đã mang vương quốc Tình Yêu và Sự sống của Thiên Chúa vào trong trần gian này. Người đến với sứ mạng thi ân giáng phúc và rộng mở tay ban. Các sách Tin mừng đều đề cập: Người chữa lành những kẻ ốm đau tật nguyền… Người có uy quyền trên tất cả, trên bệnh tật, trên sự dữ và ngay cả trên tử thần. Người nhập thể và nhập thế; Người không cất khỏi những khổ lụy của trần gian, của đời là bể khổ. Nhưng Người cất lấy và mang lấy tất cả những ách nặng nề và khổ lụy của kiếp nhân nhân sinh trên Thập Giá Tình Yêu và trong vinh quang Phục Sinh khi Người từ trong cõi chết sống lại.

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,

Ngày hôm nay bệnh phong cùi không còn là một chứng bệnh nan y như cách đây trên 2000 năm. Với thời đại khoa học thông tin phát triển; nghành y có thể khống chế được chứng bệnh hiểm nghèo này. Điều đáng sợ của căn bệnh phong cùi trong thời đại mà chúng ta đang sống là làm cùi dần cùi mòn về thiên nhiên, về vũ trụ mà Thiên Chúa đã tạo dựng và ân ban cho con người. Bệnh phong cùi có thể lây lan và làm chết dần chết mòn nhiều nơi, nhiều người về nhân bản; về đạo đức, về cách cư xử lẫn nhau trong tương giao giữa người với người. Nói một cách cụ thể, chung quanh chúng ta, trong xóm làng, trong xứ đạo, trong họ hàng bà con thân tộc, có lẽ không có ai mắc phải chứng bệnh phong cùi thể xác để chúng ta phải tránh xa. Nhưng nói một cách nào đó dù vô tình hay hữu ý chúng ta đã có những thái độ đối xử với nhau như người mắc bệnh phong cùi cách đây trên 2000 năm. Khi chúng ta cố tình xa tránh, xua đuổi, ruồng bỏ, hất hủi, tẩy chay, gây khó chịu cho một người nào đó; cho dù người ấy là cha mẹ, anh chị em, bạn bè, người hàng xóm láng giềng hay bất cứ ai khác, thì chúng ta đang đối xử với họ chẳng khác gì người ta đã đối xử với những người phong cùi xấu số ngày xưa. Tất cả những thái độ đối xử như thế đều không phải là cách đối xử giống như Đức Kitô. Đối xử như Đức Kitô mà Thánh Phaolô bắt chước Người, để rồi thánh nhân khuyên dạy cho hậu lai chúng ta như ngài đã khuyên trong giáo đoàn Côrintô trong bài đọc thứ II mà hôm nay chúng ta được nghe: “Dầu anh em ăn, dầu anh em uống, dầu anh em làm việc gì khác, anh em hãy làm mọi sự cho sáng danh Chúa. Anh em đừng nên cớ cho người khác vấp phạm. Hãy tìm điều lợi ích cho nhiều người để họ được cứu rỗi. Hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Kitô”. (1 Cor 10, 31-11,1)

Người mắc bệnh phong hủi trong câu chuyện Phúc Âm chúng ta vừa nghe đã “đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: ‘Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Mc 1,40) và Chúa Giêsu đã chữa cho anh ta được lành sạch. Chớ gì mỗi một người trong chúng ta cũng biết học theo như anh người phong cùi ấy, để ý thức về tình trạng của chính mình và luôn biết chạy đến cùng Chúa Giêsu để khẩn cầu Người chữa lành cho mình.

Tôi xin mượn câu Thánh Vịnh 31,11 vừa được xướng lên trong đáp ca để cầu chúc cho anh chị em đang hiện diện và đang hết lòng tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa nơi đây: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo” (Tv 31,11). Ước gì được như vậy. Amen.     

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên năm B có chung một chủ đề về sự thanh sạch và sự ô uế.

Lv 13: 1-2, 45-46

Đoạn trích sách Lê-vi cho thấy rằng bệnh phong hủi làm cho con người trở nên ô uế trầm trọng. Người phong hủi đau đớn không chỉ về phần xác nhưng cả phần hồn nữa, vì bệnh ấy bị coi là hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong hủi mà thôi.

1Cr 10: 31-11: 1

Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chỉ cho thấy làm thế nào sự tự do của người Ki-tô hữu vượt lên trên vấn đề thanh sạch và ô uế về những lệnh cấm thức ăn, thức uống. Bởi lẽ Chúa Ki-tô đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ.

Mc 1: 40-45

Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giê-su không ngại chạm đến người phong hủi để chữa lành anh ta. Ngài cũng đối xử theo cùng một cách như vậy đối với những tội nhân. Ngài đến để thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi.

BÀI ĐỌC I (Lv 13: 1-2, 45-46).

Sách Lê-vi là một trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh được gọi là Ngũ Thư hay sách Luật (To-ra). Theo truyền thống, nguồn gợi hứng của bộ sách này lên đến tận ông Mô-sê.

Sách Lê-vi là bộ luật Tư Tế hay Lê-vi, được gọi như vậy vì những tư tế đều phải thuộc chi tộc Lê-vi. Xưa kia, chi tộc Lê-vi chỉ định các tư tế phục vụ những đền thánh khác nhau, sau nầy, khi phụng tự được tập trung vào một nơi, họ phục vụ Đền Thánh Giê-ru-sa-lem. Sau nầy, có một sự phân chia giữa các tư tế chuyên lo phụng sự Đền Thánh và các thầy Lê vi đảm nhận những công việc thứ yếu, được gọi là các thầy trợ tế như chúng ta gặp thấy trong dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành (Lc 10: 31-32).

  1. Nỗi khốn cùng về phương diện xã hội:

Bộ luật tư tế nầy dâng hiến một chương dài cho “luật thanh sạch”. Tất cả những ai mắc phải những triệu chứng phong hủi, bao gồm cả các chứng bệnh ngoài da, đều là những người ô uế, vì thế phải bị cách ly ra khỏi thành phố, làng mạc và không được tiếp xúc với bất kỳ ai. 

Cách ăn mặc cũng như kiểu tóc là dấu hiệu đẳng cấp xã hội. Vì thế, kẻ bị khai trừ cũng phải ăn mặc rách rưới, đầu tóc bù xù, phải che mặt và kêu lớn tiếng: “Ô uế! Ô uế!” để mọi người biết sự hiện diện của mình mà tránh.

  1. Nỗi khốn cùng về phương diện tâm linh:

Khái niệm về thanh sạch và ô uế chung cho tất cả mọi tôn giáo cổ xưa. Khái niệm nầy liên kết chặc chẽ với ý tưởng thánh thiêng. Ở Ít-ra-en, cộng đoàn cốt yếu là một cộng đoàn thánh, một cộng đoàn phụng tự, vì thế, những ai ô uế không được tham dự lễ tế, bị loại ra khỏi đời sống phụng vụ.

Bệnh phong hủi gợi ra không những sự ghê tởm về mặt thể lý, nhưng còn một hậu ý luân lý được nối kết vào đây: bệnh phong hủi là dấu chỉ của tội lỗi. Về phương diện tinh thần, bệnh phong hủi được xem như hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ những tư tế mới có thẩm quyền áp dụng những quy định đối với người phong hủi: “Nếu trên da thịt người nào có những triệu chứng bệnh phong cùi, thì phải đem người ấy đến với thầy tư tế”. 

Những người phong hủi bị coi là “đồ ô uế”, là “đồ bỏ đi”, là “kẻ bị khai trừ”, là người mà Cựu Ước thường gọi họ “ai thấy cũng che mặt không nhìn”. Vì thế, Người Tôi Trung của Đức Chúa được mô tả như một người phong hủi, vì Ngài gánh tội và đền tội cho muôn người: 

“Người bị người đời khinh khi ruồng rẫy, 

phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. 

Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, 

bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53: 3).

Đó là thân phận bi thương của những người phong hủi được mô tả trong đoạn trích sách Lê-vi này. Họ đau đớn không chỉ về mặt thể xác: bệnh phong hủi ăn sâu trên da thịt mình; nhưng cả về mặt xã hội: vì là chứng bệnh truyền nhiễm, họ bị loại ra ngoài đời sống xã hội; lẫn về mặt tâm linh: vì là tội lỗi, họ bị khai trừ khỏi đời sống phụng vụ và không được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 31-11: 1)

Đoạn trích thư Thánh Phao-lô nầy làm chứng một cuộc cách mạng. Thánh nhân ngầm nhắc nhở các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo rằng không có bất kỳ phân biệt nào giữa thức ăn thanh sạch hay thức ăn ô uế. Điều cốt yếu là tạ ơn Thiên Chúa, dù ăn hay uống bất cứ điều gì. Vả lại, không có bất kỳ hành động vô tình nào. Tất cả những gì chúng ta làm là để tôn vinh Thiên Chúa.

  1. Quy luật về thức ăn thức uống: 

Sách Lê-vi trình bày nhiều lệnh cấm về thức ăn mà dân Chúa chọn phải tuân giữ. Vào thời thánh Phao-lô, những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã từ bỏ luật Mô-sê và không còn bận lòng về vấn đề nầy nữa. Tuy nhiên có một vấn đề khác được đặt ra cho họ nhưng cũng cho những người Ki-tô hữu gốc lương dân: người ta có được phép ăn thịt cúng mà lương dân dùng để dâng cúng các thần linh của họ không?

  1. Giải pháp của thánh Phao-lô:

Đoạn trích nầy là lời kết của một đoạn văn dài, đồng thời cũng là bản tóm tắt. Những ám chỉ ở đây cần được soi sáng.

“Anh em đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai”. Quả thật, người Ki tô hữu hoàn toàn tự do dùng bất cứ thức ăn và thức uống nào, vi thế họ có thể gây nên gương xấu. Thế nên cần phải thận trọng khi ăn khi uống.

Để hiểu được câu trả lời của thánh Phao-lô về vấn đề này, chúng ta biết rằng thánh nhân thường có thói quen đẩy cuộc tranh luận lên cao và tinh thần hóa những mối bận lòng. Trong thư thứ nhất gởi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô diễn tả tư tưởng của mình rất rõ ràng: “Thật vậy, tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1Tm 4: 4).

Ngay ở 1Cr 10: 25-30 trước đoạn trích hôm nay, thánh nhân triển khai lời dạy của mình một cách tinh tế như sau: nếu có người ngoại giáo nào mời anh em, thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần đặt vấn đề lương tâm. Nhưng nếu có người báo trước cho anh em: “Đây là của cúng”, thì anh em đừng ăn, để tránh gây gương xấu cho người đó trên con đường hiểu biết Ki-tô giáo. Đối với người Do thái không cải đạo cũng vậy, hãy cẩn trọng đừng gây gương xấu cho người ấy. Nói cách khác, phải “thích nghi vào mọi hoàn cảnh” với một bận lòng duy nhất, đó là “cứu độ tha nhân”. Đây là luật vàng của Đức Ái.

TIN MỪNG (Mc 1: 40-45)

Thánh Mác-cô tiếp tục kể cho chúng ta sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su ở Ga-li-lê và nhấn mạnh những “dấu chỉ” đi kèm theo, đặc biệt việc chữa lành bệnh tật. Trong đoạn văn nầy, Chúa Giê-su chữa lành một người phong hủi.

Bài Đọc I đã mô tả cho chúng ta hoàn cảnh bi thương mà người phong hủi phải chịu dưới Luật Mô-sê. Trong đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giê-su vừa vượt qua Lề Luật vừa tuân thủ Lề Luật. Cuộc gặp gỡ của Ngài với người phong hủi bày tỏ sự đồng cảm của Ngài, đồng thời quyền năng siêu việt ở nơi Ngài.

  1. Vượt qua Lề Luật:

Trước một con người bị xem là đồ ô uế và bị cách ly khỏi đám đông, không ai dám đến gần, Đức Giê-su “chạnh lòng thương”, một diễn ngữ mà Tân Ước thường dùng cho Đúc Giê-su để diễn tả sự đồng cảm sâu sắc dâng lên tận đáy lòng đến nỗi Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn được, như Đức Giê-su “chạnh lòng thương” một bà góa có người con trai một qua đời (Lc 7: 13) hay Đức Giê-su “chạnh lòng thương” hai người mù tại Giê-ri-cô (Mt 20: 34).

Vả lại, nhiều lần Ngài để lộ nỗi bận lòng của Ngài đối với những người phong hủi và xem việc chữa lành phong hủi như một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai. Với những người được Gioan Tẩy giả sai đến, Ngài nói: “Các ngươi cứ về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn đệ Ngài sai đi truyền giáo, Ngài vạch ra như một chương trình hành động: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh…” (Mt 10: 8). Một ngày kia, Đức Giê-su chữa lành một nhóm mười người phong hủi (Lc 17: 11-9).

Đức Giê-su không ngại đi ngược lại tập tục và quy chế lề luật về người phong hủi bị cách ly khỏi đời sống xã hội và đời sống tâm linh: Ngài giơ tay chạm đến người phong hủi. Đức Giê-su biết và Ngài sẽ nói thẳng ra rằng điều làm cho con người ra ô uế không đến từ bên ngoài nhưng từ những tư tưởng gian tà ở trong lòng của con người. Đó mới thật sự làm cho con người ra ô uế (Mt 15: 17-20).

  1. Tuân thủ Lề Luật:

Đồng thời, Đức Giê-su cho thấy Ngài trung thành tuân thủ Lề Luật khi bảo người phong hủi: “Hãy trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm bằng chứng cho người ta”. Quả thật, chỉ vị tư tế mới có thể cho phép anh ta gia nhập trở lại đời sống cộng đoàn khi chứng thực rằng anh ta khỏi bệnh và đã chu toàn “nghi thức thanh tẩy” như luật định. 

Ngoài ra, Đức Giê-su còn cảnh báo nghiêm khắc: “Coi chừng không được nói gì cho ai cả”. Chúng ta lại gặp thấy ở nơi Đức Giê-su cùng một thái độ như trước đây: tránh sự cuồng nhiệt của đám đông làm phương hại đến sứ mạng của Ngài. Tuy nhiên, người phong hủi đã không tuân giữ lệnh im lặng nầy nên “Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành”. Làm thế nào anh ta có thể kiềm chế được niềm vui tái sinh mà anh vừa mới lãnh nhận từ Ngài được chứ?

  1. Bệnh phong hủi của tâm hồn:

Quả thật, Đức Giê-su đối xử người phong hủi đáng thương này như thế nào, thì Ngài cũng đối xử những người tội lỗi cũng như vậy. Ngài không ngại tiếp xúc họ. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy Ngài để cho một phụ nữ tai tiếng chạm đến mình, và thậm chí Ngài còn đồng bàn với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi. Như vậy, Ngài muốn bảo đảm với chúng ta: Ngài không ghê tởm tội lỗi của chúng ta. Ngài không muốn khai trừ chúng ta, nhưng ngược lại là đàng khác khi Ngài công bố: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9: 12; Mc 2: 17). Chỉ qua nhân tính của Đức Giê-su, tội nhân mới có thể tiếp xúc với Thiên Chúa.

Về mục lục

.

LOẠI BỎ

Lm Vũđình Tường

Thời phân chia giai cấp nô lệ và chủ nhân đã đi vào quá khứ. Thời đó người ta loại bỏ anh em mình vì sống trong sợ hãi. Sợ lây bệnh, sợ bị liệt vào giai cấp thấp, sợ mất quyền lợi dành riêng cho giai cấp cao, sợ bị liệt vào thành phần thiếu trí thức. Chính những sợ hãi đó biến bao người trở thành nạn nhân. Ngày nay chỉ còn hai giai cấp chủ nhân và công nhân. Công nhân thành lập công đoàn bảo vệ quyền lợi và tiếng nói của họ. Xã hội đa văn hoá cấm kì thị chủng tộc và bảo vệ quyền lợi mọi công dân. Trên lí thuyết kì thị không còn nữa, bị luật giết chết lâu rồi vì thế kì thị biến hình, đổi dạng sang các hình thức khác. Hình thức loại bỏ, phân biệt, ngấm ngầm khinh khi, coi thường người khác. Các hình thức đối xử bất công ở trường học, nơi công xưởng, vũ phu tại gia, la mắng, to tiếng thể hiện bản chất lạm quyền. Nó xảy ra cách tinh vi, hợp pháp, trước mắt mọi người nhưng không ai có thể nêu ra bằng chứng mình bị kì thị, bị coi thường, bị đối xử bất công.

Khoa học, kĩ thuật ngày nay đang chiếm thế thượng phong. Nhiều người đặt niềm tin mãnh liệt vào chúng. Thay vì tôn thờ Thiên Chúa họ loại bỏ Ngài, quay sang tôn thờ sáng chế khoa học, người kiến tạo chúng và và dành hết thời giờ cho chúng. Số khác trở thành nạn nhân của các trò chơi, một loại bệnh ghiền mới phát sinh của thời đại. Số khác dựa vào thành quả khoa học, kĩ thuật tự phong cho con người làm chúa tể. Loại bỏ vai trò của Thiên Chúa trong lòng họ và trong vũ trụ. Đây chính là một lầm lỗi trí thức. Bệnh trí thức là bệnh nguy hiểm hơn cả bởi kiêu ngạo người ta tự chữa trị, chối bỏ giúp đỡ từ trời cao.

Không ai chối bỏ vai trò quan trọng của con người. Quí khôn ngoan, mến thông thái, trọng khéo léo, thích giảo hoạt và vui hài hước là điều cần mến chuộng và cổ võ. Dù tài giỏi đến đâu, khéo léo đến mức nào chăng nữa con người cũng cần nhận ra và nhớ là con người bị giới hạn, nhất là về vấn đề tâm linh. Khôn ngoan có lúc cạn, thông thái có lúc mòn, khéo léo bị vụng về tranh ngôi, giảo hoạt bị lỡ lời thiêu rụi và hài hước cũng có lúc nắng hạn. Khi những điều trên qua đi đau khổ và mất tự tin là điều không thể tránh. Con người tài giỏi chữa các bệnh thể lí và đang tìm hiểu nhiều về vấn đề tâm lí và biết rất giới hạn về vấn đề tâm linh. Tâm linh thuộc về niềm tin và lòng mến chân thành phát xuất tự con tim yêu mến nồng nàn. Khi lửa yêu tàn lụi, lòng mến nguội lạnh con tim trở nên chai đá. Vật chất không thể hâm nóng con tim, chào tạm biệt. Con tim cần tình yêu chân chính và ân sủng. Đức Kitô là Đấng duy nhất mang đến tình yêu chân chính và ân sủng, là Đấng chữa lành bệnh tâm linh và giúp người ta nhận ra giá trị thật của thân phận con người.

Khi việc xấu xảy ra nhà hữu trách sẽ đưa thêm luật để bảo vệ nhân phẩm con người. Luật là rào cản, ngăn cản, giới hạn sự việc xấu nhưng luật không giúp chữa trị cho nạn nhân bởi điều xấu đã xảy ra, con tim đang rỉ máu, vết thẹo tim hoành hành. Đức Kitô xuất hiện. Phúc âm ghi lại khi con người đầu hàng. Con bệnh ngày nín thở nhịn đau, đêm cắn răng chịu khổ. Đức Kitô đến với họ và những ai thành tâm đến với Ngài đều được chữa lành cả xác lẫn tâm linh. Bình an xuất hiện trong tâm hồn, tâm trí tràn đầy niềm vui, tương lai trong sáng, hy vọng bừng lên như ánh bình minh và nỗi nhục từng che dấu tan biến vào không khí. Cái thời trốn chui, trốn nhủi đã qua, cộng đoàn họ từng sống nay giang tay đón chào, vui mừng chia sẻ niềm vui chữa lành và vị thế xã hội được tái tạo. Học từ Đức Kitô, đón chào anh em mình, giang tay giúp đỡ khi có thể, an ủi kẻ âu lo, vỗ về kẻ cùng khổ, thành chân tay của Đức Kitô xoa dịu vết thương lòng và quan trọng nhất là đến với anh em bằng con tim của Đức Kitô.

Về mục lục

.

XIN CHO ĐƯỢC THOÁT KHỎI CẢNH CÔ LẬP THỂ XÁC VÀ TINH THẦN

Lm Trần Bình Trọng

Ngay từ thời cổ xưa, bệnh phong cùi đã gây ra mối lo sợ cho loài người, tương tự như mối lo sợ của người đời nay về những bệnh nan trị như ung thư, bệnh aids hay si-đa.

Ngoài việc phải phấn đấu với chứng bệnh hủy hoại thân thể, người phong cùi còn phải chịu một hình phạt thấm thía hơn về tinh thần: đó là bị người đời xa tránh.

Người phong cùi thời xưa phải sống tách biệt khỏi người lành mạnh. Sách Lêvi ghi lại: Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại (Lv 13:46). Nếu gặp người mạnh khoẻ ngoài đường, họ phải hô hoán lên: Ô uế (Lv 13:45) cho người khác biết mà đề phòng. Ngoài ra người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì bệnh phong cùi bị coi là nhơ bẩn. Vì thế mà người phong cùi trong Phúc âm hôm nay quyết tâm đến gặp Chúa để xin được chữa lành: Nếu Ngài muốn, xin Ngài cứu chữa tôi (Mc 1:40). Ðộng lòng thương xót, Chúa giơ tay động vào người phong mà bảo: Tôi muốn, anh hãy được sạch (Mc 1:42).

Ðọc những vần thơ của Hàn Mặc Tử, người thi sĩ trẻ tuổi tài cao mắc bệnh phong cùi, phải vào ở trại Qui Hoà, biểu lộ những rung cảm trong cảnh buồn tủi và sầu khổ, ta mới hiểu được nỗi đau đớn trong cảnh cô đơn thất vọng của người mắc bệnh như thế nào! Cuối cùng người thi sĩ bệnh phong đã tìm nương tựa vào Chúa và niềm an ủi nơi trinh nữ Maria.

 Hình ảnh linh mục Ða-miêng, vị tông đồ người cùi, cho thấy một đời hi sinh quên mình. Khi Ðức cha ở đảo Molokai giới thiệu cha Ðamiêng với dân cùi ở đảo là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Ðamiêng rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Ðức cha giải thích cho cha Ðamiêng là họ không thể hiểu nổi tại sao một người ở phương xa từ Bỉ quốc, không liên hệ gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, không bệnh tật như họ, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của mình nên mới đến sờ thử vào người cha, xem cha có thực sự mắc bệnh cùi không? Rồi họ nói với nhau: Không đâu. Dần dần cha Ðamiêng hoà đồng được với họ và không còn cảm thấy ghê tởm như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi [1].

Một vị tông đồ khác, Ðức cha Cassaigne, từ chức tổng giám mục Sàigòn để lên phục vụ người cùi ở Di Linh. Ðức cha viết thư về Pháp kể lại: khi những ung nhọt bắt đầu lở loét, khiến người xung quanh tởm ghớm, người cùi không tự giúp mình được nữa, thì dân làng đưa họ vào xó rừng, để người cùi ở lại đó một mình, cô đơn, hiu quạnh, đói khổ mà chết dần chết mòn. Cuối cùng Ðức Cha Cassaigne cũng chết vì mắc bệnh cùi. Tình yêu Chúa còn thúc đẩy những nữ tu và giáo dân như Sơ Maria Goretti và chị Anna Xuân đã phục vụ những trại cùi ở quê nhà. Nữ tu Nguyễn Thị Khuyên sau hai mươi năm săn sóc người cùi ở trại Ja Lai, Kông Tum cũng mắc bệnh mà chết [2].

Khi tổng Giám mục Fulton Sheen, một nhà giảng thuyết hùng biện và cự phách trên truyền hình Mĩ, thấy một chiêu đãi viên trẻ đẹp trên máy bay chở hàng giám mục Mĩ sang La mã họp Công Ðồng Vaticanô II, Ðức cha ghé vào tai hỏi có bao giờ cô đã tạ ơn Chúa về sắc đẹp Chúa ban chưa? Sau đó một thời gian, cô đến xin ý kiến tổng Giám mục Sheen xem cô phải làm gì để tạ ơn Chúa. Bất chợt không sửa soạn, mà lại vừa được tin Tổng Giám mục Sàigòn xin từ chức để phục vụ người phong cùi ở Di Linh, Ðức Cha Sheen đề nghị cô nên sang Việt Nam giúp Ðức Cha Cassaigne phục vụ người cùi ở đây một thời gian để làm dịu bớt những đau khổ và lẻ loi của người xấu số. Thất vọng về lời đề nghị, cô quay ngoắt ra về mà không thèm chào. Không ngờ đến năm 1963, báo chí Sàigòn loan tin về một chiêu đãi viên trẻ đẹp, hãng máy bay PANAM Mĩ, tình nguyện sang phục vụ người phong cùi ở trại Di Linh sáu tháng. Nghe nói cô chiêu đãi viên trở về Mĩ xin vào dòng tu làm bà Sơ. Tin này chưa được tác giả kiểm chứng.

Hiện nay vẫn còn có những trại phong cùi trên thế giới. Năm 2005, Liên Hiệp Quốc nhận được con số kê khai là 47.596 người mắc bệnh phong cùi ở Phi châu, 36.877 ở Mỹ châu, 5.398 ở miền tây Ðia Trung Hải, 186.182 ở Ðông Nam Á châu (gồm Việt nam với 28 trại phong cùi) và 10.010 ở phía Tây Thái Bình Dương. Ngày nay vẫn còn có những linh mục, nữ tu, và giáo dân tình nguyện phục vụ họ. Vào Ngày Phong Cùi Thế Giới 29 tháng 01, 2006 Ðức giáo hoàng Bênêđítô XVI cho rằng nguyên nhân của bệnh phong cùi là do sự nghèo đói và kêu gọi cộng đồng quốc tế tìm cách diệt trừ mầm mống của bệnh này. Bệnh phong cùi ngày nay, nếu được phát hiện sớm, cùng mới thuốc men chữa trị, thì được chữa lành.

Có dịp đi thăm một trại phong cùi, với cặp mắt quan sát bệnh nhân cũng như những người phục vụ họ, cùng với đầu óc suy tư và ghi nhận, ta sẽ thấy đời sống thay đổi. Rồi sẽ thấy mình bớt phạm tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Và rồi mình cũng sẽ tự hỏi mình xem yếu tố nào đã thúc đẩy những người tình nguyện dám hi sinh quên mình để phục vụ người xấu số như vậy?

Giới tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường ví tội lỗi như một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi, cũng khiến người ta bị cô lập về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Chúa và tha nhân. Có những tội khiến người ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Có những tội khiến người ta muốn tránh né người khác vì mắc cở. Người khác cũng không muốn gặp người đã xúc phạm đến họ vì không muốn gợi lại những kỉ niệm đau lòng quá khứ và cũng không muốn trở thành nạn nhân lần thứ hai.

 Ðể được thoát khỏi cảnh tuyệt vọng, người phong cùi đã tìm đến Chúa để xin được ơn chữa lành. Bệnh nhân đã không để cho thất vọng đè bẹp. Anh ta đã đến kêu cầu với Chúa. Ðiều mà người mắc bệnh cùi thiêng liêng cần có là đức tin và lòng cậy trông như niềm tin cậy của người phong cùi vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Ðể có thể nại đến lòng thương xót và quyền năng của Chúa, người ta phải nhận mình có bệnh hoặc có tội. Người không nhận mình có bệnh hay có tội, thì không tìm đến thầy thuốc. Họ là những người vô phương cứu chữa.

 Lời cầu nguyện cho bệnh nhân phong và những người phục vụ họ:

 Lạy Chúa, Chúa đã đến chữa người phong cùi thuở xưa.

Xin Chúa cũng chữa bệnh phong trong thời hiện đại,

ban cho bệnh nhân lòng tin cậy, phó thác vào Chúa.

Xin soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia

để họ tìm ra thuốc men và cách thế trị bệnh.

Còn những người phục vụ bệnh nhân,

xin Chúa là nguồn sức mạnh và kiên nhẫn của họ

và gìn giữ họ khỏi bị nhiễm bệnh. Amen.

_______________________

  1. Trần Phúc Long: Những Trại Cùi Việt Nam. Costa Mesa, California. Printed by Mekong Printing, 1993, trang 4-5.
  2. , trang 6-7.

Về mục lục

.

NÊN SẠCH ĐẸP

Lm. Jos. DĐH.

Tiền hết, tình tan, đời tàn, sẽ là nỗi khổ đau cùng tận: lệ rơi, nuối tiếc, thôi đã hết rồi, còn gì để sống… ! Thực ra, bèo hợp rồi bèo tan, tình đến rồi tình đi, ai chẳng buồn, hơn nữa, đâu phải cứ thành công lớn thành công nhỏ đều mang tới vinh quang. Nếu có nhà mới, đồ dùng mới, nhưng các thành viên gia đình nhem nhuốc bẩn thỉu, không khoẻ mạnh, có khác gì rượu ngon thiếu bạn hiền, hoặc mâm cao cỗ đầy, mà người thân đang đau răng đau miệng ! Mơ ước trẻ khoẻ, thích xinh đẹp, muốn có công danh sự nghiệp, gia đình hạnh phúc, đó là khát vọng chính đáng, mà cuộc đời đâu dễ chấp nhận để chúng ta dừng lại ở thích hay muốn, ai cũng phải dầu tư, dấn thân xây dựng hạnh phúc bền vững trong tình yêu thương nên một.

Dơ bẩn, xấu xa, hôi thối, bệnh tật, tâm lý tự nhiên người ta thường “ghê sợ”, không muốn tiếp xúc gặp gỡ, dù họ xa lạ, hay thân quen. Cùi hủi, si-đa, xã hội vẫn coi là bệnh nan y, đau khổ hơn là bị ruồng bỏ, nghi ngờ do quá trình ăn chơi trác táng, nhẹ hơn là nghĩ họ bị lây nhiễm với một quan niệm xấu: đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Vì sao người mắc bệnh nan y biết Đức Giêsu chính là thầy thuốc giỏi, Ngài sẽ không từ chối hoặc bỏ chạy thoát thân như biết bao kẻ khác ? Có phải Đức Giêsu là đối tượng của Đấng giầu lòng thương xót không, khi người mắc bệnh phong cùi biết tìm gặp, xin được lành sạch ? Đức Giêsu không thẩm vấn lý do mắc bệnh, cũng chẳng hỏi người phong hủi có tiền hoặc có tin Thiên Chúa quyền năng không ?

Đám đông năm xưa hết sức ngạc nhiên vì cách chữa trị của Đức Giêsu quyền năng: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh”, Vị Thầy không ham hố tiền của, chẳng vòng vo tình cảm, không cần hạch hỏi lý do. Chắc hẳn cũng có những kẻ hoài nghi, tại sao chữa lành cho người bệnh, Đức Giêsu lại ngăn cấm “anh hãy ý tứ, đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môisen để minh chứng mình đã được khỏi bệnh”. Vâng, Đức Giêsu không hành sử cảm tính kiểu “anh hùng cứu mỹ nhân”, cũng không phải động cơ chính trị, nhưng bằng tình yêu, phép lạ chữa bệnh, tất cả đều phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa cứu độ.

Thời đại công nghệ hôm nay, người ta biết tận dụng khôn ngoan để làm sạch đẹp cả bên ngoài bên trong gia đình, các tương quan xã hội, và ai cũng thấy nhu cầu làm đẹp là thiết thực. Rất nhiều người đã nhận ra muốn xây dựng một đất nước hiện đại, phải có các thành viên tài giỏi đức độ, không tham nhũng, phải có những tâm hồn sạch đẹp, thật sự quảng đại, dám dân thân phục vụ vì Tin mừng Đức Kitô. Chúa Giêsu dùng quyền năng chữa lành vết thương thể xác cho người bệnh cùi, rồi sau đó Chúa còn mong người phong cùi hãy nhận ra tội lỗi nơi tâm hồn xấu xa của anh đang cần được tẩy xoá.

Kinh nghiệm cho thấy cảm cúm sơ sơ, không cần phải đi khám chữa nơi bệnh viện cao cấp, muốn được sạch đẹp hình thức bên ngoài, chỉ cần bỏ ra một số tiền là có người phục vụ như ý. Nếu cha ông chúng ta nói: nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm, ít ra các ngài cũng có ý nhắc đến một sự sạch đẹp toàn diện, sạch đẹp thể xác, sạch đẹp tâm hồn, đó mới là hạnh phúc. Nếu ta ốm đau trầm trọng, mắc bệnh nan y, hẳn ta sẽ rất cần đến bác sĩ giỏi ; nhưng muốn được sạch đẹp tâm hồn cần phải có niềm tin, có Đức Giêsu chữa trị. Bệnh nặng bệnh nhẹ, đều cần được chữa khỏi, tội lớn tội nhỏ ai mà chẳng cần đến tình thương tha thứ của Đấng Kitô, dù lòng sám hối nơi chúng ta còn hời hợt.

Điều đẹp ý Chúa là người mắc bệnh phong cùi được lành sạch tội lỗi, chứ không phải chỉ được chữa trị thứ thứ bệnh nan y thể xác. Lời khuyên của Chúa Giêsu là hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môisê để minh chứng mình được khỏi bệnh, điều cần thiết là biết hoà nhập với tình yêu thương của cộng đoàn giáo xứ, chứ đâu phải cao rao một thầy thuốc tài giỏi. Bệnh cùi đáng sợ là những tội lỗi ghê tởm cắt đứt tình hiệp thông với Chúa và anh chị em mình. Bệnh nan y không thể chữa lành chính là cố ý, là bất cần đến tinh yêu thương của tha nhân, phủ nhận ơn tha thứ và chữa lành của Chúa Giêsu.

Làm sao để chúng ta khoẻ mạnh, ăn uống như thế nào gọi là hợp lý không vấp ngã trong đời sống siêu nhiên, ai có thể giúp ta kiện toàn con người mỏng giòn của mình ? Có thể rất nhiều thắc mắc và nhiều câu trả lời việc ta nên làm, và điều ta nên xa tránh ở hiện tại, nếu muốn mơ ước hạnh phúc thật ở tương lai. Chúa Giêsu vẫn mãi là Vị Thầy giải đáp mọi thắc mắc, Chúa Giêsu vẫn thật sự là Thầy thuốc chữa lành, và làm sạch đẹp các tâm hồn tội lỗi bất xứng. Chúa Giêsu đã xoá sạch mọi u nhọt lở loét cho người phong cùi, Ngài còn có ý chữa lành bệnh cùi hủi tâm hồn cho anh ta, cho cả nhân loại chúng ta. Hãy cầu nguyện, hãy đến cùng Chúa Giêsu, hầu tất cả được nên một trong ơn cứu độ của Thiên Chúa yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

HẬU QUẢ ĐÁNG SỢ CỦA TỘI LỖI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Tội lỗi dưới mọi hình thức (như kiêu căng, tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, gian dối…) là những thứ bệnh tật của tâm hồn, làm cho con người ra nhơ uế, khả ố, đáng khinh…

Thông thường, khi mắc phải tội lỗi mà chưa bị người ngoài phát hiện, chúng ta vẫn thanh thản như không có chuyện gì xảy ra và cũng không cảm thấy cần phải ăn năn hối cải.

Khi đó, việc cần phải làm là cố gắng che đậy những tội lỗi xấu xa của mình đi, không để cho ai nhìn thấy; mà vì che đậy kỹ quá, khéo quá nên dần hồi, ngay cả bản thân ta cũng không còn nhận ra những tội lỗi và thói xấu của mình.

Thế rồi, khi ai đó phát hiện được những thứ tội ta mắc phải và rêu rao với người chung quanh rằng ta là người kiêu căng, tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, gian dối … thì ta cảm thấy thanh danh của mình bị xúc phạm, phẩm giá bị tổn thương nặng nề. Ta giận điên lên; ta oán ghét thậm tệ người đã vạch áo ta cho người khác xem lưng.

Giả như chúng ta mắc bệnh phong cùi và cố tình che giấu không cho ai biết, lại có người tiết lộ chuyện này ra cho mọi người biết, có lẽ ta sẽ không buồn, không giận cho bằng kẻ đã phơi bày tội lỗi của chúng ta ra trước mặt người khác.

Thế là cho đến lúc này, ta mới thấy được những tội lỗi mà lâu nay mình ra sức che đậy, giấu giếm, gây hại cho ta hơn cả bệnh phong cùi, vì chúng hạ thấp phẩm giá của ta, làm tổn thương danh dự ta, làm mất mặt ta!

Tội lỗi tai hại và đáng ghê tởm hơn bệnh phong cùi

Tội lỗi tai hại hơn bệnh phong cùi vì  ba lý do sau đây:

Thứ nhất: Bệnh phong chỉ làm hại thân xác người bệnh mà thôi, trong khi đó, có nhiều thứ tội không chỉ làm hỏng cuộc đời của người mang tội mà còn gây thiệt hại nặng nề cho bao người chung quanh.

Tội tham lam (tham của, tham tiền, tham quyền…) đã gây ra biết bao thiệt hại về người và tài sản vì chúng gây ra chiến tranh, tham ô, cướp của, giết người, lừa đảo…

Tội ganh tỵ nơi Ca-in khiến anh đang tâm sát hại đứa em vô tội của mình là A-ben (Sáng Thế 4, 1-8); Tội tà dâm trong lòng vua Đa-vít khiến nhà vua cướp vợ người khác, đồng thời giết hại tôi tớ trung thành của mình là U-ri-gia (2 Samuen 11,1-16).

Thứ hai: Bệnh phong có thể được chữa trị dứt điểm cách dễ dàng sau chừng 6 đến 12 tháng điều trị, trong khi nhiều thứ tội lỗi ăn sâu vào tâm khảm con người rất khó điều trị dứt điểm và nhiều người đành mang tội xuống mồ.

Thứ ba: Tội lỗi đáng ghê tởm hơn bệnh phong cùi, vì bệnh phong không làm mất thanh danh của ta, không làm cho ta nên khả ố trước mặt mọi người, không làm cho phẩm chất của ta bị sa sút trầm trọng, trong khi đó, tội lỗi gây nên tất cả những hậu quả đáng tiếc đó.

Chỉ khi nào chúng ta thấy tội lỗi gây ra nhiều điều tai hại và còn tệ hại hơn cả bệnh phong cùi, làm cho ta trở nên khả ố, mất phẩm chất cao đẹp… thì ta mới quyết tâm tìm thầy chạy thuốc để cứu lấy mình.

Chúa Giê-su là đấng đã từng chữa lành bệnh phong hủi như thánh sử Mác-cô thuật lại sau đây:

Hôm ấy “có người bị phong hủi đến gặp Chúa Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi! “Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (Mc 1, 40-45).

Vậy, chúng ta cũng hãy đến với Chúa Giê-su, cầu xin Ngài ban ơn cứu chữa, nhổ sạch cội rễ của mọi thứ tội lỗi là thứ “bệnh” đáng sợ hơn cả phong cùi, để chúng ta được trở nên người thánh thiện, xứng tầm người con Thiên Chúa. 

Lạy Chúa Giê-su,

Như người phong hủi năm xưa đến gặp Chúa và xin Chúa chữa lành, chúng con cũng tha thiết nài xin Chúa cứu chữa chúng con khỏi tội lỗi và thói hư tật xấu đang thống trị đời mình.

Xin cho chúng con thấy rằng tội lỗi tai hại và đáng sợ hơn cả bệnh phong cùi để quyết tâm xa lánh.

Xin cho chúng con biết vận dụng lời Chúa như phương dược diệu kỳ, để thanh tẩy mình khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, để tâm hồn được trở nên trong sáng, cho phẩm chất được nâng cao.

Về mục lục

.

HIỆP NHẤT TRONG CHÚA GIÊSU MỚI SỐNG THỰC

 Lm Đinh Quang Thịnh

            Thánh Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 9 đã khẳng định : “Thiên Chúa không cứu con người cách riêng rẽ thiếu liên kết.”

            Phụng vụ Chúa nhật 6 Thường niên năm B này hướng dẫn ta sống liên kết theo hai chiều kích :

  • Chiều dọc : Liên kết với Chúa Kitô.
  • Chiều ngang : Liên kết với mọi người, nhất là liên kết với cộng đoàn Phụng Vụ.

I. LIÊN KẾT VỚI CHÚA GIÊSU.

            Vì Ngài là Đấng yêu thương và là Đấng toàn năng muốn cứu độ muôn dân. Ngài yêu loài người hơn lòng mơ ước. Thánh Tông Đồ nói : “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ ! Xin tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới” (Ep 2,4-5 ; 3,20). Do đó, ai đến khẩn cầu Ngài thì không được nói “nếu Ngài muốn”, nơi Ngài không có “nếu”, vì Ngài là Đấng “CÓ” (Giavê) ;  cũng không được nói “Ngài có thể”, vì Ngài TOÀN NĂNG. Do đó khi Đức Giêsu nghe lời van xin của anh bị phong hủi : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” đã làm cho Ngài “phẫn nộ” (x Mc 1,40-41a : Tin Mừng). Mà cho dù anh này có làm phật lòng Đức Giêsu thì Ngài cũng vẫn thương cứu chữa, không phải Ngài chỉ “xuất chưởng muốn” mà còn đụng vào người anh. Theo Luật Do Thái, ai đụng vào người cùi là bị dơ từ sáng đến chiều (x Lv 14,46). Vì vậy,người ta phải tránh xa (x Lv 13,45-46 : Bài đọc I), còn Đức Giêsu thì lại cố ý đụng vào anh cùi, bất chấp luật lệ và miệng lưỡi thế gian. Đó chính là dấu phục vụ vì yêu, chấp nhận mất mát, thiệt thòi, và như vậy còn là để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia tiên báo về Đấng Mêsia qua hình ảnh Người Tôi Tớ của Giavê : “Chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53,4).

            Để qua dấu này, những kẻ chứng kiến phép lạ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến để cứu những ai tin vào Ngài là Chúa Cứu Độ duy nhất (x Cv 4,12). Vì bệnh tật (tội lỗi) của chúng ta Ngài đã mang lấy cả.

II. LIÊN KẾT VỚI ĐỒNG LOẠI.

            1/ Liên kết với mọi người trong xã hội.

            Thánh Tông Đồ dạy : “Trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.” (1Cr 10,33 : Bài đọc II).

            Như thế, khi ta quên mình, biết đặt quyền lợi của người anh em trên quyền lợi bản thân, thì ta mới tạo nên một cộng đoàn sống hài hòa.

            2/ Hiệp thông với cộng đoàn Phụng Vụ trong Hội Thánh.

            Mục đích Đức Giêu đến trần gian không nhằm chữa bệnh, nhưng để tha tội và liên kết mọi người trong cộng đoàn Phụng Vụ của Hội Thánh. Do đó, sau khi Ngài làm cho anh bị phong cùi được lành mạnh, thì Ngài ra lệnh cho anh phải đến trình diện với các tư tế để anh được xác nhận khỏi bệnh và được trở lại tham dự Phụng Vụ với mọi người nơi Đền Thờ (x Mc 1,44 : Tin Mừng). Vì thế ai được ơn Chúa ban về thể xác vào thời Tân Ước, thì phải siêng năng sốt sắng tham dự Thánh Lễ mỗi ngày, đó là cách hiệp thông bền vững nhất trong Chúa Giêsu và mọi thành phần trong Hội Thánh. Có thế mới đạt mục đích Chúa ban ơn, vì “chính Chúa là nơi con ẩn náu, khắp bốn bề trỗi vang những khúc ca mừng con được giải thoát” (Tv 32/31,7 : Đáp ca).

III. NGUYÊN LÝ CỦA SỰ HIỆP NHẤT.

            Ai nhiệt tình loan báo Lời Chúa để sinh ơn cứu độ cho người có tâm khao khát chân lý, thì cả đến Đức Giêsu cũng không “cấm” nổi.

            Trong Tin Mừng Marcô ghi lại bốn lần Đức Giêsu cấm người đã thụ ơn Ngài không được nói cho ai biết về Ngài, nhưng hai lần (lần 1và 3) lệnh cấm không được tôn trọng :

  1. Chữa lành anh bị phong cùi.  (x Mc 1,40t)
  2. Phục sinh con gái ông Giairô. (x Mc 5,3t)
  3. Chữa lành anh điếc và ngọng. (x Mc 7,36)
  4. Cho anh mù được sáng mắt. (x Mc 8,26)

            Sự nghịch lý này có ý nhấn mạnh : Trong mọi trường hợp ai làm trái lệnh Chúa đều có tội. Nhưng chỉ duy lệnh cấm nói về Chúa mà không tuân theo, lại có phúc lớn! Vì việc loan báo Tin Mừng không phải do Luật buộc mà bởi tình yêu Đức Kitô thúc bách (x 2Cr 5,14). Bởi đó thánh Tông Đồ nói : “Khốn cho tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng, tự ý làm việc đó thì tôi có công, còn nếu ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi” (1Cr 9,16-17). Cho nên : “Tôi có sự thật về Đức Kitô, thì không ai bịt miệng tôi được!” (2Cr 11,10).Mà việc rao giảng Tin Mừng không nhất thiết là phải giống như tông đồ Phaolô, miễn là làm bất cứ việc gì đều có ý hướng làm vinh danh Chúa, vì thế thánh Phaolô khuyên dạy : “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên ChúaAnh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do Thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.” (1Cr 10,31-11,1 : Bài đọc II). Như thế cũng đã là bắt chước đời sống của thánh Phaolô nối dài và mở rộng sứ mệnh Vị Ngôn Sứ vĩ đại là Chúa Giêsu, vì “Vị Ngôn Sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7,16 : Tung Hô Tin Mừng).

            Luật chơi dế, dế phải gáy, phải đá, con nào không gáy, không đá, thì lấy sợi tóc cột vào đầu nó rồi quay tít, để khi nó gặp đối thủ, nó phải gáy, phải đá. Làm thế, mà dế không gáy, không đá, thì nó bị ngắt đầu lấy tăm ghim đầu nó, kích cho con khác gáy, đá ! Thế thì kẻ không biết nói về Chúa Kitô, có nên xử nó để kích người khác rao truyền về Chúa Kitô hay không ?

Năm 1974, ông Jacques Lebreton 78 tuổi, được Đức Giám mục địa phận Beauvais nước Pháp truyền chức Phó tế cho.

Người ta thắc mắc   :

  • Trước đây ông là một đảng viên Cộng sản vô thần, vì một tai nạn xe hơi, ông đã bị cụt hai tay, và mù cả hai mắt ! Chức Phó tế cần phải đọc sách mới có khả năng giảng. Mắt đâu? Cần cử hành Bí tích Thánh Tẩy cho người ta. Tay đâu? Thế thì truyền chức Phó tế cho ông để làm gì ?!

            Đức Giám mục trả lời :

  • Jacques Lebreton còn trái tim.

            Quả thực, sau khi lãnh chức Phó tế, thầy Jacques Lebreton đã giảng mỗi năm khoảng 200 bài Thánh Kinh trong các trường Đại học, được rất nhiều sinh viên ca tụng.

            Tâm tình của thầy Jacques Lebreton rất giống tâm tình của thánh Phaolô : “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng, tự ý làm việc ấy thì tôi có công, còn nếu ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi !” (1 Cr 9,16-17).

THUỘC LÒNG

            Tôi có sự thật về Đức Kitô, thì không ai bịt miệng tôi được! (2Cr 11,10)

Về mục lục

.

NỖI ĐAU KHI BỊ CHỐI BỎ

Lm. Gioan Quốc Toản

Bài đọc 1, trích từ Sách Levi, liệt kê một số quy tắc khắt khe mà cộng đoàn Môsê thiết lập để đề phòng khỏi nhiễm lây bệnh phong cùi. Thời xưa, bệnh phong cùi được coi như là căn bệnh biến dạng, bất trị và truyền nhiễm. Những người phòng cùi bị gia đình và láng giềng ruồng bỏ và buộc phải sống xa cộng đoàn, sống ngoài thị trấn và làng mạc. Họ là những người sống nhưng xem như đã chết. Đối với người xưa thì họ hình như bị Chúa chúc dữ vì đã phạm tội hoặc một lý do nào đó. Những người phong cùi phải ăn mặc rách rưới và để đầu trần như bài đọc một cho thấy, họ phải “mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế.” Bất kể những ai va chạm đến người phong cùi sẽ được coi là ô uế như họ.

Hãy tưởng tượng, nếu có thể, cảm giác của họ như thế nào. Cơ thể bị hủy hoại và bị Thiên Chúa cũng như con người ruồng bỏ. Nỗi đau lớn nhất của họ là cảm giác bị mọi người xa lánh và lãng quên. Tuy nhiên, trong Tin Mừng hôm nay, một người trong bọn họ đã mạnh dạn bước ra khỏi nhóm, vượt trên sự cô đơn và quên lãng để đối diện với Chúa Kitô, một người mà anh nghĩ là sẽ không từ chối anh. Và quả thật, Chúa Kitô đã không chối từ anh ta, nhưng đã chữa anh khỏi bệnh. Ở đây, điểm cần chú ý, không phải là việc Chúa Giêsu đã chữa anh ta, nhưng là thái độ quan tâm khi Ngài chữa anh.

Trong cuộc sống hằng ngày, tha nhân giúp đỡ nhau là chuyện bình thường, nhưng chỉ giúp cách gián tiếp chứ không trực tiếp gắn bó mật thiết với người mà chúng ta giúp đỡ. Ví dụ, các bác sĩ thường viết toa và cho thuốc thay vì trực tiếp dành thời giờ chăm sóc bệnh nhân. Cha mẹ thường nói với những đứa con nghịch nghợm, “Đi lên phòng hoặc đi xem TV đi,” thay vì ngồi xuống và lắng nghe chúng. Nói cách khác, một cách nào đó chúng ta nói: xin tránh xa và đừng chạm đến tôi.

Chúa Giêsu đã không đối xử với người phong cùi như thế. Ngài để cho anh ta đến với Ngài. Chúa Giêsu đã làm một việc không thể tưởng tượng, Ngài đã giơ tay ra và chạm đến người phong cùi. Chúng ta có thể tưởng tượng nỗi sung sướng của anh ấy…Anh được coi như đã chết, bị mọi người chối bỏ và lãng quên và bây giờ Chúa Giêsu đến và chạm đến anh. Thật là một cảm giác hạnh phúc, sung sướng, và an ủi. Chúa Giêsu đã chữa lành viết thương tinh thần của người phong cùi trước khi chữa viết thương thể lý. Ngài đã chữa lành viết thương gây nên do bị chối bỏ và lãng quên; qua đó, Ngài làm cho người phong cùi cảm nhận mình rất đặc biệt và được quý yêu trong tầm mắt của Thiên Chúa.

Ngày nay người phong cùi không sống chúng với ta, nhưng chúng ta lại đối xử với tha nhân như những “người phong cùi” khi chối từ họ. Họ luôn hiện diện trong xã hội. Người già bị ruồng bỏ, người trẻ trong những gia đình tan vỡ không được yêu thương, và những thai nhi bị hủy hằng ngày…Hơn nữa, người phong cùi có thể gần gũi hơn, tức là bất kỳ ai mà chúng ta hất hủi, khinh rẻ, và coi thường. Người đó có thể đang sống chung một mái nhà với ta. Chúng ta có thể chối bỏ họ bằng những cử chỉ nhỏ nhưng khôn khéo như qua giọng nói hoặc ánh mắt mà qua đó chúng ta gửi thông điệp đến họ là mình không thích họ…như thế, chúng ta đã chối bỏ họ. Nếu nhìn lại chính mình, chúng ta sẽ ngạc nhiên là chúng ta không ý thức là mình không để ý đến những cách mình chối bỏ tha nhân.

Một người sẽ cảm thấy rất đau khi bị chối bỏ! Nó để lại một vết thương sâu đậm. Nó làm cho con người cảm thấy mình vô dụng và đưa đến thái độ tự ty mặc cảm. Nếu chúng ta nhận thấy mình có thái độ chối từ tha nhân thì đó là một dấu hiệu chắc chắn là tâm trạng của chúng ta không ổn. Đây là thời điểm để đổi thay! Đón nhận là đối nghịch với chối bỏ. Đón nhận làm cho tha nhân ý thức là mình được yêu. Đón nhận đòi hỏi một mối liên quan sâu xa và yêu thương với tha nhân.

Chúng ta là con cái Thiên Chúa nên cần phải sống như Chúa Kitô. Hôm nay, Chúa Kitô dạy chúng ta cách mở lòng và đón nhận tha nhân vào trong cuộc sống của mình, đặc biệt là những người bị thương tích, cô đơn, và lãng quên trong xã hội. Làm như thế chúng ta sẽ mang lại cho họ sự bình an và ơn chữa lành. Liều thuốc duy nhất có thể chữa lành nỗi đau của sự bị chối bỏ là Tình Yêu. Tất cả chúng ta đều có khả năng yêu thương. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết xử dụng tối đa khả năng yêu thương như Mẹ.

Về mục lục

.

ĐỪNG TRỞ THÀNH NGƯỜI PHONG CÙI

Lm. Đinh Lập Liễm

Theo luật Do Thái, những ai mắc bệnh cùi không được sống trà trộn trong dân chúng vì bệnh này là bệnh nan y và hay lây. Vì vậy số phận của họ đã khổ vì bệnh hoạn lại còn khốn nạn hơn vì tình trạng cô đơn.

Căn bệnh đáng sợ nhất đối với người Do Thái ngày xưa chính là bệnh cùi. Nó như cơn đại dịch truyền nhiễm gieo rắc biết bao khiếp sợ cho những nạn nhân của nó vì hồi đó không có hy vọng cứu chữa. Số phận của người bệnh cùi thực sự rất đáng thương. Ngay khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh, người bệnh bị cách ly khỏi mọi đời sống xã hội và ép buộc phải trốn tránh xã hội. Điều này có nghĩa là người bệnh phải thốt ra lời từ biệt gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả cuộc sống nghề nghiệp và tất cả mọi người thân thương quen biết. Một lần vĩnh biệt như là đã chết. Tâm trạng âu lo hoảng loạn và nỗi đau lòng khổ tâm vì bị loại trừ hoàn toàn ra khỏi cộng đồng xã hội, phải nói thật là có sức tàn phá khủng khiếp. Hơn nữa, người bệnh bị mang danh là người tội lỗi bị Thiên Chúa phạt.

Có những triệu chứng để xem biết ai đã mắc chứng bệnh này. Nó có thể bắt đầu bằng những mụn nhỏ và lở loét, những chỗ ung lở thì có mùi tanh hôi. Ở trên mặt thì lông mày rụng hết, mặt lộ ra, thanh quản bị lở, giọng nói trở nên khàn đặc, hơi thở khò khè… Trung bình bệnh này phát triển trong 9 năm, cuối cùng điên loạn, hôn mê và chết.

Cũng có thể bắt đầu bằng tình trạng mất cảm giác ở một vài phần thân thể, dây thần kinh bị nhiễm trùng, gân cốt co lại làm cho hai bàn tay trông giống như móng thú vật. Tiếp theo là tay chân bị lở loét, ngón tay ngón chân rụng dần cho đến khi cả hai bàn tay bàn chân rớt hẳn ra. Trường hợp này có thể kéo dài từ 20 đến 30 năm. Đó là cái chết tiệm tiến kinh khủng làm cho con người chết từng phần một.

Đau khổ tinh thần còn lớn hơn đau khổ về thể xác. Theo sách Lêvi, người phung cùi phải sống tách biệt khỏi gia đình và bạn hữu, bị coi như đã chết. Và sách còn cho biết thêm: ”Người mắc bệnh phung hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ”Ô uế, ô uế.” Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế, nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là là một nơi bên ngoài trại (Lv 13, 45-46). Nếu gặp người mạnh khỏe ngoài đường, họ phải hô hoán lên cho người ta biết là mình mắc bệnh, như là dấu hiệu đề phòng cho người khác. Ngoài ra, người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì phong cùi bị coi là nhơ bẩn và còn bị coi là bị Chúa phạt.

Thời trung cổ, người nào mắc bệnh phung cùi thì thầy cả mặc áo lễ, cầm thánh giá đưa người bệnh vào nhà thờ và cử hành lễ an táng.

Đọc những vần thơ của thi sĩ Hàn mặc Tử, người thi sĩ thời danh mắc bệnh cùi cách đây không lâu ở trại cùi Qui hoà, biểu lộ những rung cảm trong cảnh sầu khổ ta mới hiểu được nỗi đau đớn trong cảnh cô đơn thất vọng của người bị bệnh cùi như thế nào.

Đọc chuyện cha Đa-miêng, vị tông đồ người hủi, ta mới thấy xúc động và cảm phục. Khi Đức giám mục ở đảo Hawaii giới thiệu cha Đa-miêng với dân cùi ở đảo là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Đa-miêng rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức Cha giải thích cho cha Đa-miêng là họ không thể hiểu nổi một người ở phương xa, không bà con huyết thống gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của họ nên mới đến sờ thử vào con người cha, xem có thực sự mắc bệnh cùi không. Rồi họ nói với nhau: ”Không.” Dần dần cha Đa-miêng hoà đồng được với họ, và không còn cảm thấy như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.

Người Do Thái rất sợ người phung cùi vì họ là người ô uế phải tránh xa. Không ai được phép chào hỏi một người phung ở ngoài đường, không được đến gần 2 mét. Nếu người phung hủi đứng đầu gió thì người ở cuối gió phải cách xa 45 mét. Ngay cả một quả trứng, các rabbi Do Thái cũng không ăn nếu bán ở đường phố có người phung hủi đi qua.

Vì có những sự kỳ thị và cấm kỵ quá mức như vậy, chúng ta cần xem thái độ của người phung và của Đức Giêsu trong phép lạ chữa bệnh này.

Theo nguyên tắc, người mắc mệnh phung không được đến gần người lành. Đây là một cấm kỵ. Nhưng người phung hủi đây bỏ mọi mặc cảm đến với một lòng tin tưởng: anh chắc chắn nếu Chúa muốn Ngài có thể chữa lành. Nếu không tin, anh đã không dám làm thế vì không một người phung hủi nào dám đến gần một vị bác sĩ vì biết sẽ bị ném đá đuổi đi. Nhưng người này đã đến với Đức Giêsu. Anh hoàn toàn tin tưởng Ngài sẵn sàng tiếp đón một người bị mọi người xua đuổi. Lòng tin tưởng đã khiến anh liều mình bị ném đá khi đến gần Đức Giêsu vì anh đã vi phạm luật.

Anh còn đến với Chúa với tấm lòng khiêm cung khi anh ta nói: ”Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được lành” (Mk 1:40). Nói như thế, anh ta dường như muốn nói với Đức Giêsu rằng: ”Tôi biết mình chẳng ra gì, mọi người xa lánh, khinh dể tôi, tôi biết tôi không có quyền gì kêu cầu Ngài, chỉ mong Ngài đoái thương đến cảnh cùng khốn của tôi.” Chính lòng khiêm nhường nhận biết sự bất xứng và nhu cầu của mình, người bệnh tìm đến với Đức Giêsu.

Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu rất xúc động cảm thông khi gặp thấy người cùi; thấy người phung cùi tiến đến, Chúa bầy tỏ lòng thương xót ngay. Dầu luật pháp không cho phép đụng đến người phung hủi, chỉ đến gần 2 mét đã bị ô uế rồi, thế mà Đức Giêsu giơ tay ra đụng đến anh ta. Đối với Đức Giêsu, trong cuộc sống chỉ có một bó buộc duy nhất là luật yêu thương. Đây là lần duy nhất trong số những người tiếp xúc giữa Chúa và người bệnh mà Ngài tỏ ra động lòng trắc ẩn rõ ràng nhất. Điều này nói lên một điều gì đó sâu xa nơi Con Người đang-ra-tay-chữa-lành kia, như là dấu chỉ của lòng thương xót, đồng thời giúp chúng ta nhìn sâu vào trong lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn quan tâm săn sóc mọi thứ bệnh tật phần xác cũng như phần hồn.

Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thế xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi, cũng khiến người ta bị cô lập hoá về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân.

Để được thoát khỏi cảnh tuyệt vọng, người phung cùi đã tìm đến Chúa để xin được chữa lành. Người cùi đã không để cho thất vọng chi phối. Anh ta đã đến kêu cầu Chúa. Cái điều mà tội nhân cần có là đức tin và lòng trông cậy của người cùi vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Để có thể nại đến quyền năng và lòng thương xót của Chúa, người ta phải nhận mình có bệnh và có tội. Người không nhận mình là có bệnh và có tội, thì không tìm đến thầy thuốc. Họ là những người vô phương cứu chữa.

Khi phạm tội trọng, đó là lúc linh hồn bị bệnh phong cùi, linh hồn còn sống mà đã như chết trước mặt Chúa, chỉ có phép giải tội mới làm cho linh hồn được khỏi bệnh phong, mới làm cho linh hồn được trong sạch và được sống lại. Thiên Chúa không trực tiếp chữa bệnh phong linh hồn nhưng Ngài nhờ tay Linh mục để sửa chữa và làm cho sống lại.

Sau khi xưng tội thành tâm, linh hồn ta bắt đầu reo vui vì sự yêu mến thiêu đốt của Chúa Giêsu, đổ xuống chan chứa trong linh hồn ta. Chúa Giêsu vào ở lại trong linh hồn ta tràn trề sự vui, và tiếp theo sau Chúa Giêsu một mãnh lực như đồng như sắt chỗi dậy: đó là ý muốn quyết định bắt đầu một cuộc đời mới mẻ, đẹp hơn và thanh sạch hơn. Phải làm thử đã thì mới nghiệm biết phép lạ Chúa làm trong linh hồn ở tòa giải tội. Bởi vì sự dựng nên thế giới là điều ít cao siêu hơn là sự linh hồn chết được sống lại (GM Toth – Phêrô Thông, Tôn giáo với thanh niên, 1949, tr 235).

Đứng trước những nạn nhân phong cùi đau khổ này, chúng ta phải có một quyết tâm không bao giờ tự làm cho mình thành người cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình một pháo đài ích kỷ, lập dị… Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử…chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do Thái xa lánh người cùi.

Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.

Thái độ tiếp theo của chúng ta là phải yêu thương và tôn trọng người đau khổ, nhất là những người phong cùi về thể xác cũng như linh hồn. Xử đối tốt với người đau khổ là món quà quí giá chúng ta tặng cho họ, không gì làm cho họ sung sướng hơn. Người ta thường nói: “Của cho không quí bằng cách cho” (Tục ngữ)

Chúa Giêsu luôn tiếp đón mọi người một cách lịch sự và yêu thương, không bao giờ Ngài có thái độ cứng rắn hay khinh miệt người đau khổ và tội lỗi. Có biết bao gương tốt đẹp của Chúa Giêsu đã được ghi trong sách Tin Mừng, tất cả đều nói lên tình thương và tôn trọng mọi người, không phân biệt sang hèn hay màu da ngôn ngữ, kẻ lành hay người dữ.

Một hôm Tolstoi, một đại văn hào người Nga, đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá trong một công viên gần nhà, thì bỗng có người đàn ông lớn tuổi, áo quần nhếch nhác, đến gần và giơ chiếc mũ cũ rách ra trước mặt nhà văn để xin giúp đỡ. Nhà văn liền thò tay vào túi áo định lấy tiền cho người ăn xin, nhưng tìm hết túi áo này sang túi áo khác mà không kiếm thấy đồng nào. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói với sự hối tiếc như sau: ”Này người anh em, xin thứ lỗi cho tôi, vì hôm nay tôi rất tiếc đã để quên ví tiền ở nhà rồi!” Bấy giờ, người ăn xin thay vì buồn giận, thì đã mỉm cười và nói: ”Tôi thật không biết phải cảm ơn ông thế nào cho xứng, vì hôm nay ông đã cho tôi một món quà quí báu hơn tiền bạc. Đó là ông đã không những không khinh dể tôi, mà còn tôn trọng tôi khi gọi tôi là ‘Người anh em’.”

Về mục lục

.

BIỆT GIAM

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Con người là con vật có tính xã hội. Có thể nói rằng tính xã hội một cách nào đó chính là một trong những yếu tố cấu thành yếu tính của con người. Thiếu vắng tha nhân thì ta như không còn là ta. Thi hào Nguyễn Du đã mở đầu pho “Truyện Kiều” bằng vần thơ: “Trăm năm trong cõi người ta”. Có người thì mới có ta. Và có ta thì hẳn phải có người. Quả thật rất nhiều dã thú lẫn vật nuôi, nếu tách riêng, nuôi chúng một mình thì chúng vẫn lớn lên thành chúng. Trái lại, con người khi bị tách biệt khỏi xã hội hoặc sống tự cô lập mình thì sẽ không thể phát triển thành người cách đúng nghĩa.

Một trong những mục đích mà các nhà nước pháp quyền khi sử dụng hình thức giam tù phạm nhân, đó là cách ly họ ra khỏi cộng đồng xã hội. Vi phạm pháp luật mà bị toà kết án tù ở là một thảm hoạ. Bị ở tù mà bị biệt giam thì đúng là đại hoạ. Henri Charierre trong tác phẩm nổi tiếng “Papillon, người tù khổ sai” đã từng kể lại chuyện nhiều tù nhân bị biệt giam đã phải chọn con đường tự vẩn, vì không chịu nổi cảnh bị tách biệt khỏi xã hội loài người.

Phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa Nhật VI TN B, đặc biệt qua bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng xoáy sâu vào hình ảnh người bệnh phong hủi, đặc biệt là số phận bất hạnh của họ mà xã hội, qua các luật lệ, đã áp chế trên họ. Với hoàn cảnh xã hội cách đây trên hai nghìn năm, chúng ta có thể thông cảm với những thể chế, quy định áp dụng cho những người mắc bệnh phong hủi, một thứ bệnh truyền nhiễm được xem là nan y, bất trị, với thời bấy giờ. Thế nhưng khi đọc các khoản quy định như: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoả tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh người ấy sẽ còn là ô uế. Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại.” (Lv 13,45-46), thì chúng ta không thể không xót xa.

Nỗi bất hạnh đáng nói của người bị phong hủi là bị liệt vào hàng tội lỗi ghê gớm, bị cả Thiên Chúa chúc dữ, mặc dầu bản thân họ chưa hẳn là người có tội. Bênh cạnh nỗi tủi nhục ấy thì người bị phong hủi lại còn bị tách biệt khỏi cộng đoàn xã hội. Sự tách biệt này khiến cho họ không chỉ bị xem như là tội nhân mà còn như không phải là người. Ngày nay, khi nền y học đã khống chế được căn bệnh phong hủi thì những người đã mắc căn bệnh này vẫn còn “bị”một số nhà nước các quốc gia cho sống tập trung biệt riêng ra một nơi để ngăn ngừa sự lây lan và để chữa trị hữu hiệu. Dù với mục đích và ý hướng tốt cho người bệnh, nhưng cái hậu quả là gây mặc cảm tâm lý cho bệnh nhân, khi phải sống tách riêng, một cách nào đó vẫn tồn tại. Cái mặc cảm tâm lý này nhiều lúc gây ra sự bất cần đời và không muốn gặp mặt những người không mắc bệnh phong hủi, vì không muốn cần “sự thương hại” của những người “may mắn” hơn mình.

Đã từng có mười người phong hủi xin Chúa Giêsu chữa bệnh, nhưng chỉ đứng xa xa mà kêu lớn tiếng (x. Lc 17,12). Thế nhưng, vượt qua rào cản tâm lý tự ti, vượt qua cả quy định của lề luật bấy giờ, nguời phong hủi trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay đã đến gần Chúa Giêsu, nài xin Người chữa bệnh. Chúa Giêsu không chỉ phán lời chữa bệnh mà còn đặt tay trên người anh ta. Sức mạnh của tình yêu đã làm cho con người xích lại gần nhau và làm cho con người nên thanh sạch. Hơn nữa, chính tình yêu làm cho con người thành người trong cộng đoàn xã hội.

Con người thường thích biểu lộ tình yêu hay ý muốn của mình bằng uy quyền, còn Thiên Chúa lại thích biểu lộ ý muốn và quyền năng của Người bằng tình yêu. Uy quyền hay quyền năng vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống xã hội, nếu không sẽ rất dễ đi đến tình trạng rối loạn kiểu “vô chính phủ”. Tuy nhiên quyền uy nhiều khi lại dễ trở thành cớ khiến người ta xa cách nhau. Trái lại, với tình yêu và trong tình yêu thì kẻ sạch và người nhơ vẫn có thể chung sống, người công chính lẫn tội nhân đều có thể chung tình.

Khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã biểu lộ uy quyền giúp Phêrô được một mẻ cá lạ lùng chất nặng hai thuyền gần chìm. Chứng kiến quyền uy của Chúa Giêsu, Phêrô đã khẩn khoản xin: “ Lạy Thầy, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Thế nhưng sau ba năm chung sống với Thầy, nhất là khi cảm được cái tình của Thầy, thì cũng trước mẻ cá lạ lùng mà nay thì trên bờ hồ Giênêgiarét, Phêrô đã hăm hở khoác vội cái áo mà bơi vào với Thầy (x.Ga 21,1-8).

Xã hội hôm nay đã tiến bộ nhiều mặt. Nền y học ngày càng hiện đại. Căn bệnh phong hủi không còn là bệnh nan y hay bất trị. Thế nhưng với “uy quyền” chữa bệnh, các y bác sĩ vẫn rất khó đưa những con người dù đã hết bệnh, hoà nhập với cộng đoàn xã hội. Thực tế cho thấy nhiều người bị phong hủi đã được chữa lành nhưng vẫn còn mang mặc cảm mình “chưa thực sự là người” như mọi người. Trái lại với con tim dạt dào tình yêu, mẹ Têrêxa thành Cancutta đã làm cho biết bao người bất hạnh được “trở lại làm người” trong cộng đoàn xã hội.

Vẫn có đó nhiều người không ở tù nhưng đang bị biệt giam. Người ta có thể bị biệt giam ngay giữa đời thường, giữa phố người đông đúc bằng sự phân biệt đối xử do thành kiến hay do chính kiến của người có quyền, có chức. Khi thể hiện ý muốn của mình bằng quyền uy, những người xây tháp Babel năm xưa đã tự chia rẽ và bị phân tán. Trái lại khi thể hiện quyền năng bằng tình yêu tự hiến, chịu chết trên thập giá, Chúa Kitô đã không chỉ chết cho toàn dân được nhờ mà còn để “quy tụ con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,62). Chỉ trong tình yêu, với tình yêu của người anh cả, Giêsu Kitô, người ta mới thực sự là người, không còn là Do Thái hay Hy Lạp, không còn là nô lệ hay tự do…mà tất cả đều là anh em với nhau, con cùng một Cha trên trời.

Người phung hủi đã can đảm vượt qua rào cản lề luật bấy giờ để đến với Chúa Giêsu. Một lý do phải thừa nhận đó là vì anh ta xác tín mình đến gặp một lương y chứ không phải là một vị thẩm phán vô tình, đến với một mục tử nhân lành chứ không phải là một kẻ chăn thuê, đến với một người tôi tớ hiền hậu chứ không phải một ông chủ khắc nghiệt hay một công chức quan liêu hống hách. Đây có thể là một tiêu chí xét mình cho các vị lãnh đạo trong giáo hội cũng như ngoài xã hội. Vì sao còn đó nhiều người thấp cổ bé phận, nhiều người đau yếu tật nguyền phần thể lý hoặc tâm linh đang ngần ngại đến với tôi? Họ là những người bệnh phung hay tôi mới là người đang mắc bệnh hủi được che đậy dưới lớp vỏ cân đai áo mão, dưới chức trọng, vị cao?

Về mục lục

.

XIN ƠN CHỮA LÀNH BỆNH CÙI THỂ XÁC VÀ TÂM HỒN

Lm. Đan Vinh 

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 1,40-45.

(40) Có người bị phong hủi đến gặp Người. Anh ta quì xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. (41) Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!”. (42) Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. (43) Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay (44) và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết”. (45) Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.

  1. Ý CHÍNH: CHỮA LÀNH PHONG HỦI, DẤU CHỈ TRIỀU ĐẠI THIÊN SAI.

Với tư cách là Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su đã cảm thông với nỗi bất hạnh của một người phong cùi, tượng trưng cho người tội nhân có lòng sám hối ăn năn. Do tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai giàu tình yêu thương và đầy quyền năng, anh cùi đã can đảm chạy đến với Người, quì xuống trước mặt Người và kêu xin Người thương chữa anh được lành sạch. Trước thái độ khiêm tốn và lòng tin cậy phó thác lớn lao như vậy, Đức Giê-su đã chạnh lòng thương, đưa tay ra chạm vào người anh và lập tức anh được lành bệnh.

  1. CHÚ THÍCH:

(c 40-42): + Có người bị phong hủi: Luật Mô-sê qui định: vì phong hủi là bệnh nan y và hay lây, nên những ai mắc phải bệnh này đều phải rời bỏ gia đình, sống thành nhóm riêng ở nơi hoang vắng như trong nơi nghĩa trang chôn cất người chết. Mỗi khi thấy có người nào đến gần, bệnh nhân phải la lên: “Ô uế! Ô uế!”, để người ta biết mà tránh xa ra. Luật cũng cấm những sự đụng chạm tiếp xúc với người phong hủi. Người ta sẽ lập tức bị ô uế nếu đứng gần nói chuyện hay đụng chạm tới họ. Do đó số phận của người cùi hủi vốn đã bị đau khổ do bệnh tật và thiếu thốn các nhu cầu vật chất tối thiểu, lại càng bất hạnh hơn về tinh thần do bị cô đơn. Dân Do Thái quan niệm bệnh phong hủi là hình phạt của Thiên Chúa dành cho những tội nhân phản nghich với Ngài như bà Mi-ri-am là chị ông Mô-sê đã bị Chúa phạt bị bệnh cùi vì đã chống đối Mô-sê (x. Ds 12,14). 

 + Đến gặp Người: Người bệnh phong hủi ở đây bất chấp sự cấm đoán của luật pháp, do tin cậy vững vàng vào lòng từ bi nhân hậu của đức Giê-su, nên thay vì tránh xa thì anh lại chạy đến gần để gặp Người. + “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”: Đây là một lời cầu nguyện hoàn hảo đẹp lòng Chúa, vì nó biểu lộ lòng tin cậy phó thác của bệnh nhân vào Đức Giê-su. Anh ta không đòi Đức Giê-su chữa bệnh theo ý muốn của anh, mà để Người tự do hành động theo ý muốn của Người. + Người chạnh lòng thương: Chính thái độ khiêm tốn, đầy lòng cậy trông và phó thác ấy đã khiến Đức Giê-su chạnh lòng xót thương anh và chữa cho anh lành bệnh. + Giơ tay đụng vào anh ta: Giơ tay đụng vào người phong cùi là vi phạm Luật Mô-sê. “Đụng vào” cũng có thể hiểu là sự “đặt tay trên đầu bệnh nhân”, một cử chỉ Đức Giê-su thường làm khi đặt tay chúc lành cho trẻ em (x. Mc 10,16), đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Lc 4,40 ; Mc 16,18). Qua cử chỉ đặt tay trên người phong cùi này, Đức Giê-su đã thông ban sinh lực của Người để chữa bệnh cho anh. Tuy nhiên Đức Giê-su không phá hủy Luật Mô-sê, nhưng để kiện toàn những gì sai sót (x. Mt 5,17). + “Tôi muốn. Anh hãy sạch đi: Lời nói biểu lộ ý muốn của Đức Giê-su đã lập tức sinh hiệu quả, khiến bệnh phong biến mất và bệnh nhân được lành sạch.

(c 43-44): + “Đừng nói gì với ai cả…”: Đức Giê-su cấm người phong hủi nói ra ơn lành bệnh lạ lùng mà Người vừa làm cho anh. Lý do của lệnh cấm này là vì Người sợ dân Do Thái đang trong tâm trạng nôn nóng mong Đấng Thiên Sai mau đến để đánh đuổi quân Rô-ma, sẽ làm hỏng sứ mạng cứu thế về thiêng liêng tinh thần theo thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu yêu cầu kẻ Ngài tẩy sạch khỏi bệnh phong cùi làm một việc hoán cải nghiêm túc và rõ rệt. Sự thinh lặng mà anh ta phải giữ về biến cố anh được chữa lành sẽ ngăn cản anh khỏi gán cho mình công trạng của việc thanh tẩy này, hoặc dùng nó để thu hút sự chú ý đến mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ anh khỏi chơi trò anh hùng, điều này sẽ gây ra kiêu ngạo và phát sinh tội lỗi nữa.

+ hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền: Việc truyền cho anh cùi trình diện với tư tế và dâng lễ vật theo Luật Mô-sê nhằm để xác minh việc anh được khỏi bệnh và được quyền sinh hoạt lại với cộng đoàn.

 (c 45): + Anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi: Do lòng biết ơn thôi thúc, người vừa khỏi bệnh cùi không cầm lòng được lâu, nên đã loan truyền phép lạ được khỏi bệnh đi khắp nơi. + Đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được…: Dân chúng nghe biết Đức Giê-su chữa được bệnh phong cùi, đã nô nức đi tìm kiếm Người, phần để thỏa mãn sự tò mò, phần để được Người chữa lành bệnh. Vì sợ dân chúng đi theo quá đông gây ồn ào ảnh hưởng đến an ninh chính trị khiến quân Rô-ma có cớ can thiệp, nên Đức Giê-su đã không vào thành. Người chỉ giảng dạy và chữa bệnh tại những nơi vắng vẻ bên ngoài thành phố (1,45). Qua đó cho thấy ai đã thực sự gặp được Đức Giêsu và được Người “chữa lành”, thì sẽ đương nhiên “rao giảng về Đức Giêsu” khiến “nhiều người khác cũng đến gặp Người”. Chính niềm vui và hạnh phúc được khỏi bệnh đã thúc bách anh cùi mở miệng để chia sẻ cho tha nhân, giống như về sau, khi bị Thượng Hội Đồng Do thái cấm rao giảng danh Đức Giê-su, hai Tông đồ Phê-rô và Gio-an đã đáp lại như sau: “Chúng tôi không thể không nói lên những điều mắt thấy tai nghe” (Cv 4,20). 

  1. CÂU HỎI: 1) Hãy cho biết Luật Mô-sê qui định thế nào về cách đối xử với bệnh nhân phong cùi? 2) Tại sao người phong hủi trong Tin Mừng hôm hay cố tình vi phạm Luật khi đến gần Đức Giê-su thay vì lẽ ra phải tránh xa? 3) Lời nói nào cho thấy lòng tin cậy phó thác của người cùi đối với Đức Giê-su? 4) Đức Giê-su làm cử chỉ nào để chữa lành người cùi? 5) Khi chạm tay vào người cùi, Đức Giê-su có vi phạm Luật Mô-sê không? Người muốn nói lên lập trường của Người thế nào đối với Lề Luật? 6) Tại sao Đức Giê-su cấm người cùi nói ra phép lạ chữa bệnh phong cùi mà Người vừa thực hiện? 7) Tại sao người cùi đã bỏ ngoài tai để mở miệng rao truyền ơn lành đã nhận được?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Ta muốn. Anh hãy lành bệnh!” (Mc 1,41).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) HIẾN THÂN TRỌN ĐỜI PHỤC VỤ NGƯỜI CÙI:

ĐA-MIÊNG là người Bỉ, gia nhập dòng Trái Tim Chúa và Mẹ Maria. Sau khi làm linh mục, ngài được bề trên sai đi giảng đạo tại Hạ Uy Di. Sau đó ngài tình nguyện đi giúp những người cùi hủi ở đảo Molokai. Ngài đã hy sinh trót cả cuộc đời, sống với họ, giúp đỡ họ và chết giữa họ.

Chiều hôm đó, trong ngôi nhà thờ rất đông bệnh nhân phong cùi, đức giám mục đứng trên bàn thờ giới thiệu với mọi người: “Các con thân mến, các con luôn mong ước có được một linh mục đến ở cùng các con, yêu thương săn sóc các con, thì đây cha Đa-Miêng, một linh mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết, các con có thích không?” Cả nhà thờ đều xôn xao và thì thầm to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng cạnh đức giám mục nghe họ nói mà không hiểu gì. Rồi họ lần lượt tiến lên cung thánh với vẻ mặt thân thiện. Khi thấy họ đến gần, cha sợ nổi da gà giống như thấy những thây ma còn sống. Họ tiến đến bên cha, người thì sờ vào mặt, người thì sờ vào tay, người thì sờ vào áo cha. Cha hỏi đức giám mục: “Thưa đức cha, họ làm gì vậy?” Đức cha trả lời: “Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng có bà con huyết thống với họ, trẻ trung, đẹp trai, không bệnh tật như họ, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt mình nên đến sờ vào người của cha, xem cha có bị bệnh phong như họ không, và họ nói: “Không, cha đẹp quá, cha không bệnh tật gì cả, cha thương chúng ta quá !”.

Sống với những người phong ở đây được một thời gian, dần dần Cha Đa-Miêng đã hòa đồng được với họ, nói tiếng của họ, cha không còn cảm thấy tởm gớm họ như những ngày đầu. Cha đã quá yêu Chúa Giê-su bị bỏ rơi trong họ, nên chẳng còn thấy ghê sợ nữa. Sau nhiều năm cha cũng bị lây bệnh phong, thân mình lở loét, nhức nhối, mặt mày sần sùi, trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha và kể lại sự hy sinh vĩ đại của cha. Thân mẫu của cha, mắt mờ không đọc chữ được, nhìn vào bức hình bà cũng chẳng nhận ra đứa con trai thân yêu ngày nào. Bà hỏi đứa cháu: “Hình ai đây mà trông đáng sợ vậy?” cô cháu trả lời: “Một người bị bệnh phong trên đảo Mô-lô-kai của cha Đa-Miêng đấy”. Qua mắt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả mắt đều ngấn lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với người phong trên hòn đảo này cho đến chết. Chính tình yêu Chúa đã giúp cha can đảm hy sinh suốt đời vì họ.

Phong, hủi hay cùi là một thứ bệnh nan y và đáng sợ, nó làm cho cơ thể người ta bị lở loét. Người mắc bệnh dù còn sống nhưng đã trở thành một xác chết biết đi, với một thân hình nhớp nhúa hôi thối. Đó cũng chính là hình ảnh của một tâm hồn tội lỗi, bởi vì tội lỗi cũng làm cho người ta trở nên nhơ uế như vậy. Tuy nhiên chúng ta đã có một vị lương y tài giỏi là Chúa Giêsu. Nếu muốn được chữa lành, hãy noi gương người phong cùi đến sấp mình cầu xin Chúa xót thương. Người sẽ dạy chúng ta đến gặp linh mục trong tòa giải tội để nhận được ơn tha thứ tội lỗi.

2) TÌNH YÊU CHÚA THÚC BÁCH MỘT LINH MỤC SẴN SÀNG PHỤC VỤ NGƯỜI CÙI:

Đức Cha CÁT-XE (JOHN CASSAIGNE) sinh năm 1895, là Linh Mục thuộc Hội Truyền giáo Ba lê đã được nhà dòng phái sang Việt Nam truyền giáo (1926). Năm 32 tuổi Linh mục Cát-xe đã được đặt làm Cha Sở của một giáo xứ ở miền cao nguyên Di Linh. Sau mười lăm năm xây dựng công việc truyền giáo từ chỗ không có một người dần dần lên đến 400 người, biến một buôn người thượng trở thành một xứ đạo sầm uất. Về sau dù đã được thăng lên làm giám mục cai quản giáo phận Sài-gòn (1941), nhưng ngài vẫn thương yêu làng cùi với 133 người con mà ngài đã chăm sóc. Rồi đến khi phát hiện ra dấu hiệu bị bệnh cùi (1943). Ngài đã xin và được bề trên chấp thuận cho từ chức Giám Mục Sài-gòn để quay về sống với giáo dân làng cùi suốt 30 năm trời cho đến chết.

Sáu tháng cuối đời khi bị đau đớn do bệnh cùi, ngài đã nói với các tín hữu con cái rằng: “Tôi hy vọng Chúa nhân lành sắp đưa tôi về nước Chúa, nhưng tôi hứa sẽ vẫn ở bên anh chị em luôn mãi”. Trong tờ di chúc, ngài viết: “Tôi ao ước được chịu đau khổ vì danh Chúa. Tôi cũng ao ước được luôn chịu đau khổ với anh chị em. Tôi ước ao được yên nghỉ giữa những người anh em đau khổ. Tôi sung sướng được hiến thân cho quê hương Việt Nam trọn đời của tôi” (từ năm 1895 đến năm 1973). Rồi ngài đã chết trong bình an và được an táng ở giữa làng cùi vào ngày 5-11-1973.

3) HÀN MẶC TỬ – THI SĨ THIÊN TÀI BỆNH CÙI:

Hàn mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Ngày 20 tháng 9 năm 1940, Trí được nhập trại phong tại Quy Hòa thời Mẹ Bề Trên Ma-ri-a Ju-et-ta. Sau ba tuần được điều trị, nhờ được các nữ tu Phan Sinh (Franciscaine) tận tụy chăm sóc mà bệnh tình của Trí đã thuyên giảm. Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt hằng ngày của anh cứ đều đều: 5 Giờ sáng thức dậy ra nhà nguyện đọc kinh dâng lễ và rước lễ sốt sắng. 7 giờ, Trí cùng anh em bệnh nhân ăn sáng với cháo trắng và đường tán đen. 8 giờ được chăn băng bó, uống thuốc và nói chuyện với anh em đồng bệnh. 11 giờ ăn cơm trưa rồi nghỉ ngơi. 14 giờ 30 lên nhà nguyện đọc kinh lần hạt đến 17 giờ thì dùng cơm chiều… Trí là một người rất có lòng sùng kính Đức Maria, luôn cầu nguyện với Đức Mẹ và thứ bảy nào cũng đi xưng tội. Năm 1940, Trí bị bệnh kiết lỵ nặng nên kiệt sức! Đêm ngày 8. 11. 1940 Trí sáng tác bài thơ cuối cùng “Tâm Hồn Thanh Khiết” để ca tụng Đức Maria cùng các bà mẹ ở dưới đất là thân mẫu anh và các nữ tu Phan Sinh đã săn sóc cho anh. Cuối cùng Hàn Mạc Tử đã chết an bình vào ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi.  Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời nhiều bài thơ rất hay và đầy lòng kính tin sùng mộ.

4) PHƯƠNG THUỐC HỮU HIỆU ĐIỀU TRỊ TẬN GỐC BỆNH CÙI TINH THẦN:

Câu chuyện về một bà “đạo đức” kia có kinh tế gia đình ổn định, không phải bận bịu với việc sinh nhai hằng ngày, nên bà có nhiều gian tới nhà thờ dự lễ và còn có nhiều giờ gặp gỡ bạn bè để “tám” chuyện. Nhưng bà thắc mắc tại sao có nhiều người sau lần gặp đầu đều không muốn nói chuyện với bà. Một nhóm người đang trò chuyện vui vẻ, nhưng khi vừa thấy bà đến gần muốn nhập bọn thì họ liền im bặt. Có người vừa thấy bà từ đàng xa đã vội quay đi hướng khác. Bà đã đến hỏi ý kiến một linh mục giàu kinh nghiệm mục vụ. Sau khi hỏi bà thêm một số chi tiết, vị linh mục đã đưa ra kết luận như sau: “Sở dĩ người ta xa lánh bà vì họ coi bà là giống như một con rắn độc !” Sau đó cha giải thích thêm: “Vì trong đầu bà chứa toàn những ý nghĩ không tốt về người khác, nên dẫn đến chỗ hay xét đoán ý trái cho người này, ganh tị nói xấu người kia, hoặc kết án bất công cho người mình không ưa… Mọi người có dịp nói chuyện với bà đều cảm thấy tâm hồn bất an. Nghe cha giải đáp lý do khiến mình bị người khác xa lánh, bà đã quyết tâm sửa lỗi và hỏi cha mình phải làm gì? Cha linh hướng khuyên bà nên gia nhập vào nhóm học sống Lời Chúa để hằng tuần hội họp nhau tìm hiểu Lời Chúa và quyết tâm sống theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giê-su. Sau một thời gian được Lời Chúa thanh luyện, bà đã được ơn Chúa biến đổi nên tốt và đã gây được thiện cảm của mọi người.

  1. THẢO LUẬN: Để nên giống Đức Giê-su là Đấng từ bi và hay thương xót, mỗi người chúng ta nên có thái độ thế nào đối với các bệnh nhân phải chịu nhiều đau khổ như phong cùi, ung bướu, HIV-AIDS và những người bị khinh thường như cô ca-ve, những cô lỡ mang bầu trước hôn nhân?
  2. SUY NIỆM:

1) THÁI ĐỘ XƯA NAY CỦA NGƯỜI ĐỜI ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN PHONG CÙI:

– Chiếc xe buýt Buôn Trấp, ngoại ô thành phố Buôn Mê Thuột tạt vào trạm đón khách. Môt nữ tu nhỏ nhắn Dòng Nữ Vương Hòa Bình nhanh nhẹn bước lên. Người soát vé hỏi đi đâu. Nữ tu nhanh nhẩu đáp: “Làm ơn cho tôi xuống trại cùi E Ana !” Nghe thế, hành khách đang nêm kín trên xe, bỗng nhiên tự động tránh xa nữ tu ấy. Thấy ghế trống do khách bỏ lại, nữ tu liền nhìn quanh cúi đầu, mỉm cười cám ơn, rồi lặng lẽ ngồi xuống lần hạt. Hình ảnh đó lâu nay đã trở nên qúa quen thuộc trên tuyến đường này. Thậm chí người soát vé cũng ngần ngại, chẳng dám đến gần, để thu tiền vé của nữ tu đang phục vụ trại cùi ấy !

– Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta một hôm đang săn sóc một bệnh nhân mình đầy thương tích bên vệ đường. Thân mình anh phát ra mùi hôi thối không thể chịu nổi. Khi mẹ Tê-rê-sa đang lau rửa các vết thương cho anh, thì một khách qua đường trông thấy, đã nói với Mẹ Tê-rê-sa như sau: “Trả cho tôi một triệu đô-la thì tôi cũng không thể làm được công việc tởm gớm này !”. Mẹ Tê-rê-sa liền ngẩng đầu lên trả lời ông ta: “Tôi cũng vậy !”

Tiền bạc, của cải, vật chất hay bất cứ sự gì trên thế gian này cũng không thể làm cho người ta sẵn sàng hy sinh mọi sự để săn sóc các bệnh nhân bị bệnh phong cùi lở loét và hôi thối như vậy. Nhưng nhờ tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể. Vì “Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).

2) SỐ PHẬN ĐAU THƯƠNG CỦA BỆNH NHÂN PHONG CÙI THEO LUẬT MÔ-SÊ:

Cho đến thời Chúa Giêsu, luật Mô-sê tỏ ra rất khắt khe đối với những bệnh nhân bị phong cùi. Các luật lệ này được ghi trong chương 13 sách Lê-vi, qui định tỉ mỉ rõ ràng những trường hợp nào là bị bệnh cùi và cách thức người ta phải đối xử với kẻ ấy: Khi thấy những triệu chứng bệnh ngoài da, người bệnh phải đến gặp vị tư tế để được khám nghiệm xem có bị bệnh cùi không. Nếu bị xác định là bị bệnh phong cùi thì vị tư tế sẽ tuyên bố người đó đã trở nên nhơ uế. Từ lúc đó họ không còn được ở chung với người lành, không được sống trong làng, mà phải ra sống biệt lập tại nơi hoang địa, và không được tham gia bất cứ sinh hoạt nào chung với cộng đồng, Họ không được tới gần người lành, và không được để cho người lành tới gần mình. Họ phải mặc áo rách, để tóc tai bù xù, và khi thấy người lành nào tới gần thì phải hô to lên: “Dơ đấy ! Dơ đấy !” để cho người ta biết mình bị bệnh cùi mà tránh xa ra. Nếu người bệnh đụng tới người lành hoặc có người lành nào đụng tới họ thì sẽ trở thành dơ uế và bị khai trừ và bị cấm tham dự sinh hoạt trong một thời gian.

Người cùi bị lâm vào hoàn cảnh khốn cùng: Thân xác tiêu hao, tinh thần băng hoại, đời sống chỉ còn là những tháng ngày rên siết trong đau khổ tuyệt vọng.

3) THÁI ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊ-SU ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN CÙI:    

– Tin Mừng hôm nay đề cập đến phép lạ Đức Giê-su chữa lành cho một người phong cùi. Người cùi khi nhìn thấy Đức Giê-su, thay vì phải tránh xa như Luật dạy, thì anh lại đến gần và kêu xin Người chữa lành: ”Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch “ (Mc 1,40). Đây là một lời cầu xin đẹp lòng Đức Giê-su. Vì qua câu “Nếu Ngài muốn”, anh coi ý muốn của Chúa quan trọng hơn ý muốn của anh, và anh phó thác để Người toàn quyền quyết định cứu chữa cho anh hay không.

Còn chúng ta, đã có khi nào chúng ta cầu xin Chúa với tâm tình phó thác cậy trông vào tình thương và quyền năng của Chúa như người phong cùi hôm nay không? Đã có lần nào khi cầu xin, chúng ta đặt ý muốn của Chúa lên trên ý muốn của chúng ta hay chúng ta thường làm ngược lại là muốn được Chúa thỏa mãn theo ý chúng ta: “Xin cho con được như ý”, thay vì lẽ ra phải cầu nguyện như Đức Giê-su phó thác mọi sự trong tay Chúa Cha: “Lạy Cha. Nếu được, thì xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39), hoặc như lời cầu của người cùi hôm nay: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

– Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại thái độ của Đức Giê-su đối với bệnh nhân cùi như sau: “Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo: Tôi muốn, anh sạch đi ! Lập tức, chứng phong cùi liền biến mất, và anh liên được lành sạch” (x. Mc 1,41-42).

Chính do chạnh lòng thương xớt nên Đức Giê-su đã vượt qua rào cản của Luật Mô-sê để đến gần người bệnh phong hủi thay vì tránh xa họ. Người không sợ bị ra ô uế theo Luật khi giơ tay ra đụng chạm vào các vết thương lở loét của anh để ban ơn chữa lành cho anh.

Do chạnh lòng thương nên Người truyền cho anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo Luật Mô-sê để được tái hòa nhập với gia đình và xã hội, mà trước đó anh đã bị cách ly ra sống trong nghĩa trang, vì bị coi như là người đã bị chết.

Ngày nay, mỗi khi lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, mỗi người chúng ta cũng được Chúa “chạnh lòng thương” chạm đến, hầu ban ơn chữa lành bệnh tật về thể xác và tâm hồn. 

4) THÁI ĐỘ CỦA BỆNH NHÂN CÙI SAU KHI ĐƯỢC CHỮA LÀNH:

– Niềm vui được Đức Giê-su chạm đến và ban ơn chữa lành khiến người cùi trong Tin Mừng hôm nay quyết tâm chu toàn những điều luật đòi hỏi. Nhưng anh ta không thể im lặng, giữ riêng cho mình niềm vui ơn cứu độ anh đã nhận được, nên đã nói ra cho mọi người được biết ơn lành Chúa đã thương ban. Đây là thái độ nhiệt tình truyền giáo mà mỗi chúng ta cần học tập noi theo.

– Mỗi lần xưng tội rước lễ, chúng ta cũng được Chúa chạm đến để chữa lành tội lỗi và các thói hư, chúng ta cũng phải mở miệng cao rao lòng thương xót của Chúa, để làm cho “danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến” và chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng theo lênh truyền của Chúa: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

  1. LỜI CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU, qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con đã học được nơi Chúa tình thương và sự cảm thông với những người đau khổ bất hạnh: Chúa đã chạnh lòng xót thương người phong hủi, nên đã không sợ bị nhơ uế theo Luật định, Chúa đã giơ tay chạm đến người bệnh và làm cho anh nên trơn sạch. Lạy Chúa, nhiều lần khi đi thăm trại cùi để tặng quà và sinh hoạt với trẻ em trong trại… con thấy mình không mấy thoải mái khi phải giao tiếp với những bệnh nhân cùi. Con muốn được đeo khẩu trang và mang găng tay cho an toàn, và mong sao cuộc thăm viếng sớm kết thúc… Hôm nay con rất hổ thẹn khi biết Chúa đã giơ tay ra chạm vào người cùi để bày tỏ sự cảm thông với họ. Con cũng cảm phục các chị nữ tu, tuy tuổi đời còn trẻ mà đã tình nguyện dâng hiến tuổi thanh xuân, đến sống chung và phục vụ các bệnh nhân phong cùi ! Con thấy chị em không quá sợ bị lây bệnh như con ! Xin Chúa chúc phúc và trả công bội hậu cho các chị em này. Xin cũng giúp con sẵn sàng đến với những bệnh nhân khác như bệnh nhân bị ung bướu, HIV-AIDS,… Đến với những cụ già cô đơn bất hạnh, những tù nhân trong nhà tù… để xoa dịu phần nào nỗi đau của họ, và giúp họ vượt qua hoàn cảnh, luôn tín thác vào tình thương bao dung của Chúa.        

– “Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết tỏa hương thơm của Chúa đến mọi lúc mọi nơi.

Xin hãy đổ tràn đầy tâm hồn chúng con bằng lửa Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống của Chúa.

Xin hãy chiếu ánh sáng tình thương của Chúa qua lời nói và hành động của chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng chính cuộc sống chứng tá, hy sinh quên mình và phục vụ với trái tim tràn đầy tình yêu thương của Chúa.- (Lời cầu của Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta)

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN – NĂM B

Lm. Anthony Trung Thành

Bài đọc I và Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến bệnh phong cùi. Vì thế, trong bài suy niệm hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Bệnh phong là gì? Số phận người mắc bệnh phong thời Đức Giêsu như thế nào? Chúng ta có mắc chứng bệnh phong không?

  1. Bệnh Phong là gì?

Theo bách khoa toàn thư mở (vi.wikipedia.org): Bệnh phong, còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẩn Hansen gây ra. Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi bị nặng, vết thương lõm vào da thịt. Lông mày rụng, mắt lộ ra, thanh quản bị lở nên giọng nói khàn. Người bệnh cũng không còn cảm giác nóng, lạnh và đau.Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng, ngón tay ngón chân rụng dần.

Bệnh phong chỉ lây khi tiếp xúc lâu dài với các thể phong nặng (phong hở) như phong ác tính, phong đang tiến triển, chảy nước mũi nhiều và có tổn thương lở loét ở da, ở bàn tay, bàn chân. Các thể phong nhẹ khác ít có khả nǎng lây hơn nhiều. Tỷ lệ lây giữa vợ chồng chỉ là 2-3%. Bệnh không di truyền và có thể chữa khỏi. Hiện có nhiều loại thuốc điều trị rất có hiệu quả. Trong đó khi dùng thuốc Rifampicine sau 5 ngày sẽ hạn chế khả năng lây lan của vi khuẩn tới 99,9%.

Trên thế giới có khoảng 15 triệu bệnh nhân phong cùi. Riêng ở Việt Nam hiện nay, con số bệnh nhân phong cùi tiềm tàng có từ 120.000 đến 150.000 người. Có 23.371 bệnh nhân đã được chữa lành, 18.000 bệnh nhân còn biểu hiện di chứng, tỷ lệ mắc phải 0,1/10.000 (1/100.000 dân), tổng số làng phong đếm được là 13: Bến Sắn (Bình Dương); Bình Minh (Đồng Nai); Cẩm Thủy (Thanh Hóa); Di Linh (Lâm Đồng); Đắc Kia (Kontum); Phú Bình (Thái Nguyên); Phước Tân (Đồng Nai); Quả Cảm (Bắc Ninh); Qui Hòa (Qui Nhơn); Quỳnh Lập (Nghệ An); Sóc Sơn (Hà Nội); Thanh Bình (Saigon); Văn Môn (Thái Bình). (Nguồn: vi.wikipedia.org)

  1. Thời Đức Giêsu, số phận người mắc bệnh phong như thế nào?

Bài đọc I, trích sách Lêvi, cho chúng ta một số điểm để xác nhận người có thể có dấu hiệu mắc bệnh phong cùi: “Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường, hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông.”(Lv 13,1-2). Khi những người có dấu hiệu như thế hoặc các dấu hiệu tương tự khác như lác, ung, phỏng, chốc, lang ben, sói đầu (x. Lv 13, 3-43) thì được đưa đến các tư tế và các tư tế có nhiệm vụ khám. Sau khi khám, vị tư tế đó kết luận có phải là mắc bệnh phong cùi hay không. Nếu tư tế kết luận bệnh nhân mắc bệnh phong cùi thì bệnh nhân đó phải chấp nhận những luật lệ sau đây: “Vậy ai mắc bệnh phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại.”(Lv 13, 44-46).

Như vậy, khi xác định là bệnh nhân phong cùithì người bệnh không những chịu đau đớn về thể xác do bệnh phong cùi gây ra mà họ còn phải chịu muôn vàn đau khổ khác về tinh thần:

Đau khổ thứ nhất là họ phải ở riêng, tức là phải sống cách ly với người thân, với gia đình, với cộng đoàn. Từ nay, họ không được sinh hoạt với gia đình với cộng đoàn, họ không được tham dự các lễ nghi tôn giáo như trước nữa. Sự cách ly này có thể vĩnh viễn cho đến chết. Bởi vì, vào thời Đức Giêsu, bệnh phong cùi thuộc loại bệnh nan y, tức là không có thuốc chữa khỏi. Đó là một đau khổ lớn lao đối với người mắc bệnh phong cùi.

Đau khổ thứ hai là khi đi ra ngoài hay khi gặp người khác họ phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình bị bệnh truyền nhiễm và ô uế. Làm như thế, để cho người khác biết mà xa tránh họ. Đó là một nỗi tủi nhục và đau khổ đối với họ.

Đau khổ thứ ba là họ mang tiếng bị Chúa phạt. Bởi vì, theo người Do thái, bệnh là do tội, vì tội cho nên Chúa phạt. Người bị bệnh phong cùi là do Chúa phạt. Đây là đau khổ lớn nhất mà người phong cùi phải chịu.

May mắn thay có một số bệnh nhân được Đức Giêsu chữa lành. Chẳng hạn, trường hợp được khỏi bệnh mà Tin mừng hôm nay tường thuật lại hay trường hợp mười người phong cùiđược sạch (Lc 17, 11-19). Tuy nhiên, con số được Đức Giêsu chữa khỏi không phải là nhiều so với vô vàn vô số người phải chấp nhận sống chung với bệnh, họ sống mà như đã chết.

  1. Chúng ta có mắc bệnh phong cùi không?

Có lẽ ít ai trong chúng ta mắc thứ bệnh phong cùi về thể xác. Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân này. Đồng thời, tùy khả năng và hoàn cảnh cho phép chúng ta cầnquan tâm đến những bệnh nhân phong cùi bằng cách: Dành thời gian tới các trung tâm để thăm viếng họ, đóng góp tiền của để giúp đỡ họ.

Tội lỗi cũng là loại bệnh phong cùi thiêng liêng. Ít ai tránh khỏi tội lỗi, nên ít aitránh khỏi bệnh phong cùi thiêng liêng. Chúng ta mắc bệnh phong cùi thiêng liêng khi chúng ta lỗi luật Chúa, lỗi luật Hội Thánh: Có người mắc bệnh phong cùi do lỗi công bằng, bác ái yêu thương; có người mặc bệnh phong cùi do tham nhũng; có người mắc bệnh phong cùi do ích kỷ; có người mắc bệnh phong cùi do ham mê tửu sắc danh lợi; có người mắc bệnh phong cùi do kỳ thị hận thù; có người mắc bệnh phong cùi do ngoại tình; có người mắc bệnh phong cùi do thiếu sự hiếu thảo với ông bà, cha mẹ…Ngoài ra, chúng ta cũng có thể mắc bệnh phong cùi khi chúng ta tự cách ly mình với anh em, với cộng đoàn, với những người xung quanh: Đó là khi chúng ta sống ích kỷ không quan tâm đến những người xung quanh; đó là khi chúng ta gây chia rẽ, hận thù, làm cho cuộc sống giữa chúng ta và tha nhân bị ngăn cách.

Những thứ bệnh phong cùi thiêng liêng này cũng làm cho chúng ta sống mà như đã chết. Chúng ta bị cách ly với Chúa và cộng đoàn. Nếu không được chữa khỏi, chúng ta sẽ phải cách ly vĩnh viễn với Chúa đời này và đời sau. Vì thế, hãy đến với Đức Giêsu qua bí tích Giao hòa để được chữa khỏi, vì chỉ Ngài mới có thể chữa khỏi bệnh phong cùi thiêng liêng này.

Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chữa những nạn nhân bị bệnh phong cùi. Xin cho chúng con thoát khỏi những bệnh phong cùi thiêng liêng. Amen.

Về mục lục

.

 

THIÊN CHÚA LUÔN CẢM THÔNG VỚI CON NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn

Một nhóm giáo sư người Mỹ đã nghiên cứu trên loài chuột và nhận thấy rằng sau khi đã cho hai con chuột làm quen với nhau, người ta nhốt một con, còn con kia để ở bên ngoài. Con chuột ở bên ngoài sẽ loay hoay xung quanh chiếc lồng và tìm cách cứu con chuột bạn của mình cho đến khi thoát được thì thôi. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy con chuột bên ngoài bị kích động mạnh khi thấy bạn mình mắc kẹt. Đó là hình thức đơn giản nhất của sự cảm thông. Các nhà khoa học đưa ra nhiều nhận xét khác nhau, trong đó có một người nhận xét rằng: “Khi con người hành động mà không có sự cảm thông, con người đang chống lại với quy luật của sự sống”. Nhạc sĩ Trần Long Ẩn viết trong bài hát “Một đời người một rừng cây” như sau: “Sống gần nhau thân mới thẳng, có một cây là có rừng, và rừng sẽ nên xanh…”. Cây cối còn biết cảm thông, biết nâng đỡ và biết cần nhau, còn con người thì sao?

Thiên Chúa cho Con Một của Ngài xuống thế làm người là vì yêu thương và cảm thông với con người. Sự cảm thông của Ngài làm nhiều tấm lòng tan vỡ được chữa lành, nhiều cảnh đời đau thương được cứu chữa; và cụ thể trong bài Tin Mừng hôm nay, một anh cùi được sạch.

Sách Lêvi trong bài đọc thứ nhất (Lv 13, 1-2. 45-46 ) cho chúng ta thấy những luật lệ về sự thanh sạch. Đoạn chúng ta vừa nghe đọc chỉ dẫn rõ ràng về bệnh cùi. Quan niệm về bệnh cùi thời đó không giống như bây giờ. Tất cả những ai có hiện tượng về da liễu: mụn nhọt, lác, da ửng đỏ, và cả bệnh cùi do vi trùng Hansen nữa… đều nói chung là bị cùi. Họ còn quan niệm bệnh này rất lây, cho nên buộc những người bị bệnh phải ở riêng một nơi. Đặc biệt người ta cho rằng bệnh này liên quan đến tôn giáo: trong cái nhìn chung rằng tất cả mọi sự dữ, bệnh tật đều là hình phạt của tội lỗi, và bệnh cùi là thứ bệnh nặng nhất; như vậy đương nhiên người mắc bệnh cùi là người phạm tội rất nặng. Những ai thấy mình có bệnh cùi phải đi trình diện các tư tế. Nếu hết cùi cũng phải đi báo cho các tư tế biết để làm nghi thức thanh tẩy hầu có thể hòa nhập với cộng đoàn. Trên thực tế, chỉ những ai mắc bệnh da liễu như ung nhọt, lác, hoặc dị ứng da mới có thể được sạch, còn người bị bệnh cùi thực sự thời đó là vô phương cứu chữa. Vì vậy, những ai chữa được bệnh cùi chứng tỏ người đó có quyền năng đặc biệt từ Thiên Chúa; những ai được chữa khỏi bệnh cùi, chứng tỏ người đó được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt.

Hành động của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay vượt lên trên hai rào cản: rào cản của sự ghê sợ khi dám đụng chạm đến người bị bệnh cùi, anh này là cùi thực sự chứ không phải bị da liễu như một số bệnh chúng ta vừa kể; rào cản thứ hai là rào cản của tôn giáo. Những ai đụng chạm đến người cùi thì cũng bị ô uế và tất nhiên cũng bị loại trừ ra khỏi cộng đoàn, cho đến khi đủ thời gian để làm nghi thức thanh tẩy theo luật định. Những người đạo đức theo kiểu biệt phái và Pharisêu thì tuyệt nhiên phải giữ luật này, còn Đức Giêsu thì chẳng màng tới nó vì Ngài biết cảm thông với con người, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật. Qua đó cho chúng ta biết  thêm một sự thật về Thiên Chúa, đó là Ngài yêu thương người bệnh tật. 

Đọc Kinh Thánh chúng ta sẽ thấy rõ Thiên Chúa hằng cảm thông với con người.

Khi dựng nên ông bà nguyên tổ, Thiên Chúa đã cho họ được hưởng hạnh phúc trong vườn địa đàng, nhưng vì kiêu ngạo nên họ đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa đã phạt họ vì lẽ công bằng. Cảm thông với thân phận yếu đuối mỏng giòn của loài người, nên Ngài đã cho Con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu độ con người.

Khi xuống thế làm người, Đức Giêsu đã chia sẻ kiếp người với chúng ta chỉ trừ tội lỗi. Đặc biệt Tin Mừng đã ghi lại 3 lần Đức Giêsu rơi lệ. Lần thứ nhất là khóc thương thành Giêrusalem khi thấy trước sự sụp đổ của nó. Lần thứ hai là khóc thương con trai bà góa thành Naim. Lần thứ 3 là khóc thương trước nấm mồ của Lazarô, bạn Ngài. Đó là 3 trường hợp điển hình Đức Giêsu tỏ ra sự thông cảm với con người.

Thánh Phaolô đã đưa ra một học thuyết mới về Giáo Hội. Giáo hội là thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô, có Đức Kitô là đầu, mọi thành phần trong Giáo Hội là chi thể. Vì vậy, Giáo Hội phải hiệp thông với nhau. Ngài đưa ra lời khuyên: “Vui với người vui, khóc người khóc”.

Như vậy chúng ta thấy rõ Thiên Chúa luôn cảm thông với con người. Sự cảm thông đó được thể hiện rõ nét nơi Đức Giêsu Kitô. Đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay là sự cảm thông với những mảnh đời tan vỡ do bệnh hoạn tật nguyền. Nhưng sâu xa hơn nữa là vì bệnh hoạn tật nguyền đó đã không cho họ được hiệp thông với Thiên Chúa, với Giáo Hội. Ngài đã cứu chữa họ.

Là những con người, theo quy luật của sự thừa kế sinh học, chúng ta phải biết cảm thông với nhau. Hơn nữa, là những Kitô hữu, chúng ta là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Vì vậy, tự bản chất chúng ta đã có sự hiệp thông. Tuy nhiên, sự hiệp thông này phải được thể hiện ra bên ngoài cuộc sống của chúng ta.

Theo trình thuật của Maccô trong bài Tin Mừng hôm nay, sự cảm thông được khởi đi từ việc nhìn thấy. Nếu không thấy anh cùi, Đức Giêsu không thể cảm thương và không thể cứu chữa cho anh ta. Biết bao nhiêu cảnh đời đang diễn ra trước mắt chúng ta: nghèo khổ, bệnh tật, tai nạn, thất nghiệp, thất học, nhất là tội lỗi… Có bao giờ chúng ta nhìn thấy những con người đó đi ngang cuộc đời chúng ta, hay đợi họ chạy đến van xin mình cứu giúp hoàn cảnh của họ? Nhiều khi họ chạy đến, mình cũng không nhìn thấy với lý do tôi đang bộn bề với công việc, sợ liên lụy, phiền phức hoặc tốn kém.

Khi nhìn thấy anh cùi, Đức Giêsu đã “chạnh lòng thương”. Tội nghiệp quá mà! Người không ra người, tay chân rụng đâu mất hết rồi, thịt da lở loét… nhưng nhất là Đức Giêsu đã cảm thương với nỗi đau tinh thần của anh ta, khi anh ta bị mọi người xa lánh, loại trừ… Nhiều khi chúng ta cũng thấy những cảnh đời bất hạnh, nhưng chúng ta chưa cảm thương, hoặc cảm thương chưa đủ. Một đứa bé bán vé số đen đúa, hôi hám thì làm sao dễ thương bằng đứa bé con nhà giàu, mặc bộ đồ đẹp, da thịt thơm tho. Một người thất học, ăn nói cục mịch, quê mùa thì làm sao “hợp gu” với chúng ta cho bằng một con người có trình độ, hiểu biết, ăn nói ngọt ngào, khéo léo. Một người tội lỗi công khai thì làm sao chơi với tôi được, người ta nói tôi chết! người ta hạ giá con người tôi.v.v.

Nhờ nhìn thấy, cảm thương, nên Đức Giêsu đã “chạm đến” để cứu chữa cho anh cùi được sạch. Nhiều khi chúng ta cũng chạm đến người khác, nhưng không phải chạm đến để cứu chữa, mà chạm đến để xoi mói, để bươi móc, để cười chê, để khinh bỉ. Chúng ta không chạm đến để khơi lên nỗi đau, nhưng chúng ta chạm đến để có thể cứu chữa, ít nhất là sự cảm thông, rồi sau đó tùy hoàn cảnh, tùy trường hợp mà chúng ta có thể giúp đỡ. Nhưng một việc chúng ta có thể làm và cần thiết nhất đó là cầu nguyện cho họ.

Chúng ta có thể tóm tắt sự cảm thông như hành trình từ ánh mắt (nhìn thấy) đến trái tim (cảm thương), cuối cùng dẫn đến đôi tay (chạm đến). Xin Chúa cho chúng con một cặp mắt bao dung rộng lượng để có thể nhìn thấy những cảnh đời bất hạnh đang diễn ra trong gia đình, trong lối xóm, và trong cuộc đời con. Xin Chúa cho con một trái tim nhạy cảm để có thể rung lên trước những cảnh đời bất hạnh, đau thương, khốn khổ. Xin Chúa cho chúng con một đôi tay rộng mở để cứu giúp người khác trong khả năng của chúng con. Như vậy chúng con đang tha thiết xin Chúa cho chúng con càng ngày càng trở nên giống Chúa hơn, một con người biết cảm thông.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU – ĐẤNG CỨU THẾ

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Đau yếu, bệnh tật là nỗi thống khổ bất hạnh của con người. Có những con người mang những chứng bệnh hiểm nghèo, nan y làm cho họ càng đau khổ và càng tuyệt vọng bấy nhiêu. Đau khổ về mặt thể xác, đau khổ về mặt tinh thần, và có khi đưa đến tuyệt vọng vì những phương tiện của y học đều bất lực.

Thưa anh chị em, theo sách Lêvi, bệnh phong là “biểu tượng” của tội lỗi, là hậu quả của tội, là hình phạt do tội lỗi, là hoạt động của ma quỷ. Vì vậy, khi thấy có những dấu hiệu lạ trên thân thể như lác, đốm, phong hủi kinh niên, ung …, bệnh nhân phải được vị tư tế khám và quyết định tình trạng sống biệt lập của họ. Bệnh nhân trở thành ô uế ra khỏi nhà, sống cách ly với những người khác, không được sinh hoạt với cộng đồng xã hội và tôn giáo, bệnh nhân phải mặc áo rách, không được chải đầu, không được cạo râu, phải kêu la làm chứng mình đã bị Chúa phạt và ma quỷ đang hoành hành trên thân xác mình, không được tiếp xúc với ai và cũng không được để ai đến gần. Nếu có ai không biết mà tiến lại, thì bệnh nhân phải la lớn tiếng ‘ô uế’ để những người khác biết mà tránh kẻo bị ô nhiễm. Nếu ai đụng phải đến bệnh nhân thì lập tức bị ô uế, người đó không được tham dự vào các nghi lễ nếu chưa được cử hành thanh tẩy. Người bệnh thật bất hạnh, họ phải sống trong đau khổ và chỉ còn biết làm bạn với những người đồng cảnh ngộ.

Đấng trước nỗi bất hạnh ấy, trang Tin Mừng hôm nay thuật lại, một bệnh nhân phong cùi đến gặp Chúa Giêsu. Trong đau khổ, anh tìm đến Chúa Giêsu với thái độ rất khiêm tốn và van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. Thái độ và lời kêu van này nói lên niềm hy vọng cuối cùng của anh, và niềm tin trọn vẹn của anh đã được Chúa đáp trả. Chúa Giêsu động lòng thương, đưa tay chạm đến anh và nói với anh: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”. Đối với Chúa Giêsu, trong cuộc sống chỉ có một bó buộc duy nhất là luật yêu thương. Vì thế, khi mô tả những cử chỉ của Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của người cùi, chúng ta cũng hiểu được thái độ đầy yêu thương của Chúa Giêsu dành cho người này. Điều đó, nói lên thời đại thiên sai của Đấng Cứu Thế đang ở giữa chúng ta, Người đến để cứu chữa con người, chữa lành bệnh tật, làm cho con người được mạnh khoẻ tinh thần và thể xác, giúp con người được hội nhập vào đời sống cộng đoàn.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Đức Cha Gioan Cassaigne sau 15 năm làm Giám mục Sài gòn, ngài đã tình nguyện về sống giữa các bệnh nhân cùi thân yêu ở Di Linh, trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Tuy không còn giữ một địa vị nào trước mặt xã hội, nhưng ngài thật là một chứng nhân tình yêu Thiên Chúa, một con người của bác ái vị tha. Mười tám năm ngài sống trong thịnh lặng và âm u, với những bệnh nhân quê mùa chất phác, không mấy ai biết rõ, nhưng khi quả tim vị anh hùng ấy ngừng đập, thì quả tim của dân Việt cũng như toàn thể thế giới đều rung cảm lên. Ai nấy đều cảm phục tấm gương chứng nhân anh dũng của ngài.

Hình ảnh của Đức Cha Gioan Cassaigne đã trở nên dấu chỉ của lòng thương xót Chúa giữa anh em đồng loại. Chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương và tôn trọng người đau khổ, nhất là những người phong cùi về thể xác cũng như linh hồn. Đối xử tốt với người đau khổ là món quà quí giá chúng ta tặng cho họ, không gì làm cho họ sung sướng hơn. Thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta hãy làm tất cả mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa: “dù ăn dù uống, dù làm việc gì khác, anh em hãy làm vì danh Chúa. Anh em đừng làm bất cứ điều gì để nên cớ vấp phạm cho người khác”.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta xác tín vào lòng thương xót của Chúa bằng một niềm tin vững mạnh và chân thật trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Xin Chúa cứu chữa trong ngoài chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI PHONG CÙI ĐƯỢC LÀNH SẠCH

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Cho đến hôm nay, bệnh phong trên thế giới đã được kiểm soát. Tổ chức Y Tế thế giới mong muốn sẽ xóa sổ hoàn toàn bệnh phong trong thế kỷ 21 này. Tuy nhiên, những di chứng của căn bệnh ghê sợ này, vẫn đang dày vò nhiều con người xấu số. Nhiều người trong họ đã không còn lành lặn, bị mất chân tay, bị hạn chế rất nhiều trong sinh hoạt. Mặc dù những người này không còn bị vi trùng Hansen gặm nhấm nữa, nhưng đau khổ triền miên đối với những người phong, là họ vẫn không được cộng đồng chấp nhận. Mọi người nhìn họ bằng con mắt nghi ngờ, xa lánh. Con cái người bệnh phong không thể theo học trường công với các bạn đồng tuổi khác, nếu không dấu được gốc tích thân phận là con cháu những người bệnh phong. Từ thực tế vừa nêu, chúng ta thấy người bệnh phong vẫn phải sống trong những làng riêng, mà người dân gọi bằng một cái tên hết sức đề phòng và khinh miệt: làng cùi. Điều đó chứng tỏ rằng, đau khổ thể xác và tinh thần vẫn liên tục dày vò những con người đáng thương này. 

Cách đây mấy ngàn năm, bệnh phong còn kinh khủng hơn như thế nữa. Từ thời ông Mose đã có quy định hết sức ngặt nghèo: Khi trên da thịt người nào xuất hiện những vết đốm, đều bị coi là triệu chứng bệnh phong. Những người này phải trình diện các tư tế để xem xét. Nếu bị mắc bệnh phong thật, người đó sẽ bị ô uế, phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu, bị cách ly khỏi cộng đồng. Khi có ai tới gần thì phải kêu to: Ô uế, ô uế, để cho mọi người tránh xa. Chỉ nghe những quy định như thế cũng có thể hình dung tình trạng tồi tệ mà người bệnh phải gánh chịu, đau đớn vị bệnh, nhục nhã vì bị cách ly. Hơn nữa, trong cái nhìn của người Do Thái, bệnh tật là do hậu quả của tội lỗi. Vì bệnh phong ghê tởm như vậy, chắc hẳn là phải có nguyên nhân từ một tội nào đó rất nặng, bị Thiên Chúa trừng phạt. Quan điểm và cách cư xử này kéo dài cả hàng ngàn năm trong phong tục Do Thái.

Chúa Giêsu không nhìn người bệnh phong như những người Do Thái khác. Ngài không đánh giá, không cử xử với họ theo quy định của sách Lêvi, nhưng Ngài nhìn họ bằng cái nhìn chạnh thương của Thiên Chúa và cư xử với họ bằng trái tim xót thương. Thánh Marcô thuật lại: Có một người bệnh phong đến gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống van xin: Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch. Vì lòng tin thúc đẩy, anh đã đến với Đức Giêsu. Anh đã tin Thầy Giêsu là Đấng có khả năng chữa lành cho anh. Chính anh đã phá vỡ sự ngăn cản của luật, anh không la to để cho Chúa tránh xa anh, nhưng anh lại tìm đến để gặp Đức Giêsu. Chắc chắn lòng anh rất muốn được khỏi bệnh, được thoát sự nhục nhã mà anh đang phải chịu, nhưng anh vẫn để cho ý Chúa vượt trên ý của anh. Anh chỉ dám thưa với Chúa: Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.

Chúa Giêsu cũng phá vỡ các quy định khắc nghiệt do luật trói buộc, làm tổn thương đến danh dự phẩm giá của bệnh nhân. Chạnh lòng thương trước nỗi đau khổ thể xác và tinh thần của người bệnh, Chúa Giêsu giơ tay chạm vào anh và bảo: Tôi muốn! Anh hãy được sạch. Với quyền năng của một vị Thiên Chúa, Chúa Giêsu không cần phải chạm đến anh. Nhưng Chúa đã đưa tay ra chạm vào con người lở loét của anh, chạm vào tâm hồn anh, như người mẹ chạm vào vết trầy xước của con mình và thổi lên đó những hơi thở của tình thương. Vết thương thể xác và tâm hồn của người phong được chữa lành bởi tình thương ân cần, của một vị Thiên Chúa yêu thương con người bằng trái tim của người mẹ.

Chữa lành bệnh thể xác và tâm hồn cho người bệnh phong, Chúa Giêsu còn muốn trả lại anh về với cộng đoàn và gia đình. Chúa truyền cho anh phải đi trình diện các thầy tư tế, để được tuyên bố là đã khỏi bệnh và dâng của lễ tạ ơn Thiên Chúa để chứng minh mình đã khỏi. Sau khi thực hành theo những chỉ dẫn như vậy, anh sẽ được trở lại với gia đình và cộng đồng, được tham dự các ngày lễ và các cuộc tế tự của cộng đồng. Chúa Giêsu muốn anh không nói gì về việc này, Ngài muốn cho anh mau chóng tìm lại được danh dự của một con người trong cộng đồng. Tuy nhiên, niềm vui và hạnh phúc vì được chữa lành đã khiến anh không thể giữ im lặng. Lập tức, anh rao truyền và loan báo tin vui khắp nơi, khiến Chúa Giêsu không công khai vào thành được nữa, vì dân chúng đến với Ngài quá đông, đến nỗi Chúa phải gặp gỡ đám đông dân chúng ở ngoài cánh đồng hoang vắng.

Chúa Giêsu đến không chỉ để cứu với linh hồn con người, nhưng còn để chữa lành đau khổ thể xác và tâm hồn, cũng nhưng để trả lại tự do và phẩm giá mà con người đã đánh mất. Vì yêu thương nhân loại, Chúa đã mang lấy thân phận con người, biết no, biết đói, biết vui, biết buồn, biết chạnh thương đến những nỗi thống khổ của con người. Chúa Giêsu không đứng từ xa, cũng không ngại tiếp xúc, nhưng Ngài đã bước đến, đã cúi xuống và chạm vào những vết thương của nhân loại, để xoa dịu và chữa lành. Chúa Giêsu đã làm tất cả mọi việc vì yêu mến và muôn tôn vinh Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, để qua hành động và con người của Chúa Giêsu, nhân loại được gặp, được đụng chạm đến chính Thiên Chúa Cha.

Ngày nay con vi trùng Hansen đã bị kiềm chế, bệnh phong giảm bớt, nhưng có thể, những loại vi trùng Hansen khác đang gặm nhấm hủy hoại tâm hồn nhiều người. Có những thứ vi trùng là tội lỗi như vi trùng dửng dưng, vô cảm, cử xử bất công, làm điều gian ác làm cho tâm hồn nhiều người tê liệt. Có những thứ vi trùng gian dối, ham muốn dục vọng xác thịt, lười biếng, đang làm cho tâm hồn nhiều người bi lở loét, khiến cho họ không tham dự trọn vẹn vào việc dâng lễ, rước lễ. Noi gương người bệnh phong trong Tin Mừng, chúng ta tìm đến gặp Chúa Giêsu nơi tòa giải tội, khiêm nhường quỳ xuống để xin với Chúa: Xin Chúa tẩy rửa con nên trong sạch. Chúa cũng sẽ đưa tay ra chạm vào tâm hồn ta và nâng chúng ta chỗi dậy khỏi tình trạng tội lỗi.

Có những anh chị em di dân, có những người vì mặc cảm tội lỗi hay vì lý do nào đó, đang tự tách khỏi cộng đoàn. Có người bị tách khỏi cộng đoàn, là do chính chúng ta đã thiếu quan tâm, nâng đỡ. Có người bị loại trừ do sự kỳ thị, phân biệt, hoặc đang bị cái nhìn soi mói hẹp hòi của người bên cạnh, khiến họ không thể bước đến với cộng đoàn. Thánh lễ, là ngày xum họp của cộng đoàn, nhưng có nhiều người lại biến mình thành kẻ phong cùi, khi họ tách mình ra khỏi nhà thờ, họ đứng từ xa xa giống như người bệnh phong. 

Con vi trùng bệnh phong, bệnh vô cảm dửng dưng có thể cũng đang gặm nhấm nhiều gia đình, khiến cho gia đình luôn xảy ra cãi vã sứt mẻ, bạo lực. Các gia đình ngày nay còn bị các loại vi trùng khác tấn công như vi trùng bài bạc, cá độ, nghiện ngập, say sưa đang hủy hoại hạnh phúc của rất nhiều gia đình, khiến vợ chồng con cái phải chia lìa. Chúng ta xin Chúa Giêsu bước đến với gia đình mình qua các giờ kinh, qua việc tham dự thánh lễ và rước lễ, Chúa sẽ tiêu diệt các thứ vi trùng gây hại cho gia đình.

Hàn Mặc Tử một thi sĩ Công giáo nổi tiếng. Anh bị bệnh phong gặm nhấm thể xác, nhưng anh lại có một tâm hồn trong trắng của một thiên thần, một tâm hồn bay bổng của một thi sĩ. Mặc dù vô cùng đau đớn vì mỗi ngày thức dậy, lại thấy tay chân mình rụng rời từng đốt xương, nhưng trong những lúc đau đớn nhất, anh đã dệt nên những vần thơ đẹp nhất, đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và lòng yêu mên dành cho Đức Mẹ. Đau khổ thể xác, bị mọi người xa lánh không làm Hàn Mặc Tử mất hy vọng và niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Trong cuộc sống, không thiếu những lúc chúng ta gặp thử thách khó khăn, có những khi yếu đuối sa ngã, phạm tội. Điều quan trọng là chúng ta không để mất niềm hy vọng vào lòng thương xót của Chúa, không nằm lỳ trong tình trạng tội, nhưng tìm đến với Chúa để xin Chúa thứ tha và chữa lành. Hãy mạnh dạn thưa với Chúa: Lạy Chúa xin làm cho con nên trong sạch. Chúa sẽ thanh tẩy tâm hồn và cuộc sống chúng ta nên xinh đẹp trước mặt Chúa. Amen.

Về mục lục

.

ĂN ĐỂ SỐNG HAY SỐNG ĐỂ ĂN

 Lm. Bosco Dương Trung Tín

Dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (x.1Cor 10,31).

  Vậy ta phải ăn thế nào, uống thế nào và làm thế nào để tôn vinh Thiên Chúa bây giờ? Để tôn vinh Thiên Chúa, ta phải ăn, phải uống và phải làm để sống; chứ không phải sống để ăn, để uống và để làm.

  Ông bà ta nói: “Ăn để sống chứ không phải sống để ăn”. Và tương tự ta cũng có thể nói, uống để sống chứ không phải sống để uống; làm để sống chứ không phải sống để làm.

Ăn để sống chứ không phải sống để ăn”. Ta cùng phân tích câu này. Câu này rất hay và rất có ý nghĩa. Mục đích hai vế của câu thật khác nhau và thật rõ ràng. Một đàng “để sống”; một đàng là “để ăn”. Là con người, muốn sống ta phải ăn, không ăn ta sẽ không làm được gì và sẽ chết. Thế nhưng mục đích của ta là gì, “để sống” hay “để ăn”.

  Nếu mục đích của ta là “Để sống”, thì ta phải ăn điều độ; ta phải ăn gì, ăn bao nhiêu thì được, thì tốt cho sức khỏe của ta thì ta ăn; chứ không phải bạ cái gì cũng ăn; ăn xả láng, ăn vô độ. Ta “Ăn để sống”, nên SỐNG là quan trọng chứ không phải là ĂN. Điều đó có nghĩa là ta phải ăn làm sao cho ta có sức khỏe tốt và không bệnh tật. Ta ăn sao cho ta sảng khoái và có nhiều bổ dưỡng cho cơ thể. Ta ăn sao cho ta sống vui, sống khỏe và sống lâu. Đó mới là nói về sự sống của cơ thể thôi.

  Ta còn có sự sống linh hồn nữa, nên ta cũng phải cho linh hồn ta ăn nữa. Vì ta sống đâu chỉ có thân xác, mà còn có đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng nữa. Chính đời sống tinh thần và đời sống thiêng liêng mới nâng phẩm giá của ta lên, phẩm giá của một con người. Nếu không, ta sẽ ăn như con vật. Có nghĩa là “Sống để mà ăn”.

“Sống để ăn”, thì sẽ giành giựt nhau mà ăn, ăn bẩn, ăn hớt; ai chết thì chết, tôi ăn cái đã. Như thế, như thánh Phao-lô nói: “Chúa của ta là cái bụng”. Ăn là nhất; cứ có ăn là được; ăn cho no, ăn cho đã. Điều đó sẽ kéo con người của ta xuống, chứ không nâng ta lên. Sống để ăn như thế, sớm muộn gì thì ta cũng béo phì và sinh bệnh thôi.

Bởi đó ta phải chăm lo cho đời sống tinh thần và đời sống thiêng liêng của ta nữa, để có sự thăng bằng, có sự quân bình và thăng hoa. Về đời sống tinh thần, ta có thể thích đọc sách, chơi thể thao, nghe nhạc, xem phim, xem tin tức, vv…..hay sưu tầm, học hỏi những điều hay, ý đẹp của người xưa, người nay; của người này người nọ, để ta có thêm nhiều kiến thức, có được nhiều những kinh nghiệm sống.

   Về đời sống thiêng liêng, đời sống tôn giáo, đời sống đức tin, ta cũng phải lo tài bồi. Ta phải lo học hỏi, đào sâu những gì ta tin. Ta đọc sách đạo; đọc Thánh Kinh; đọc hạnh các thánh; ta đọc các bài suy niệm; ta cầu nguyện, ta đi dâng lễ; ta nguyện gẫm, vv….

  Chỉ con người mới có khả năng thưởng thức cái hay, cái đẹp và cái ngon. Con vật không có khả năng này, chúng chỉ theo bản năng, sống để ăn và ăn xong rồi chết và chết là hết. Bởi thế, dù biết chết chúng vẫn cứ lao vào mà ăn. Con người của ta thì không, dù có chết cũng không ăn; để chết một cách anh hùng, chết một cách anh dũng. Vì ta ăn để sống; ta có sự sống tinh thần, sự sống thể xác và sự sống linh hồn. Chết không phải là hết.

  Nếu ta ĂN như thế, là ta Ăn để sống. Không những thế, mà ta còn ĂN để tôn vinh Thiên Chúa nữa.

  Uống cũng vậy. Nhất là uống rượu và uống bia. Ta cũng phải uống cho có điều độ. Uống rượu cho khỏe; uống bia cho dễ tiêu hóa; uống rượu, uống bia trong những bữa tiệc mừng, nhưng đừng để say xỉn; bỏ bê công việc; đừng có phá làng, phá xóm và nhất là đừng để mất lý trí mà làm những việc không nên làm.

  Ta uống để sống chứ không phải sống để uống và ta uống để tôn vinh Thiên Chúa. Bởi đó, ta phải uống cho có chừng, có mực, kẻo có hại cho cơ thể cũng như làm mất phẩm giá của mình. Nhất là trong việc lái xe. Say xỉn dễ gây ra tại nạn chết người và chết cả mình.

  Làm việc cũng thế. Ta làm để sống chứ không sống để làm. Nên ta đừng vì tiền mà làm đầu tắt mặt tối; làm đêm làm ngày. Làm việc cũng có giờ có giấc. Có làm để lo lắng cho thân xác mình thì ta cũng phải làm việc cho linh hồn mình nữa. Ta làm việc bổn phận và làm nghề nghiệp của mình để có của nuôi thân, nuôi gia đình và để phát huy tài năng mình nữa.

  Ta có sáu ngày để làm việc và ngày Chúa Nhật ta nên nghỉ ngơi để cầu nguyện, đi tham dự Thánh Lễ. Ngày Chúa Nhật là ngày của Chúa, nên ta phải dành cho Chúa. Đi tham dự Thánh lễ là ta tỏ lòng hiếu thảo đối với Chúa, Đấng đã ban cho ta suốt một tuần biết bao ơn lành. Nên ta đi tham dự Thánh lễ để thờ phượng Chúa là Chúa của ta; để ta ca khen Chúa, để ta cảm tạ Chúa và để ta xin ơn Chúa cho một tuần mới của ta. Ta vừa được nghỉ ngơi về phần xác, lại được bồi bổ về tinh thần. Thế không tốt cho ta lắm sao.

  Rồi một ngày ta có 24 tiếng, ta hãy dành một phút cầu nguyện ban sáng, khi thức dậy, để cảm tạ Chúa đã ban cho ta một đêm ngon giấc và xin Chúa thánh hóa ngày sống mới của ta. Một phút cho việc cầu nguyện trước khi đi ngủ, để ta cám ơn Chúa vì những gì tốt đẹp trong ngày và xin Chúa thứ tha những lầm lỗi ta đã phạm.

  Thế là ta đã làm việc trong Chúa, trong tình thương của Chúa, để nuôi sống thân xác ta, để nuôi dưỡng linh hồn ta và để tôn vinh Thiên Chúa. Để tôn vinh Thiên Chúa, ta phải làm việc cho đoàng hoàng, đâu ra đó. Ta làm cách hăng say, ta làm trong phấn khởi, nhiệt tình; ta làm những điều tốt, điều hay; ta làm trong yêu thương và công bằng; ta làm trong công minh và chính trực; ta làm với con tim, khối óc và đôi bàn tay của mình. Ta làm trong kiên trì và khiêm nhường; ta làm để phục vụ và giúp đỡ, vv…

Là con người, ta phải ăn, phải uống, phải làm, nhưng ta ăn, ta uống, ta làm để sống chứ không sống để ta ăn, ta uống, ta làm. Ta ăn, ta uống, ta làm không chỉ cho chính ta mà còn cho người khác và còn để tôn vinh Thiên Chúa nữa. Ta không chỉ để cho ta có một thân xác cường tráng, khỏe mạnh mà còn để cho ta nên thánh nên thiện nữa.

  Vậy ta hãy nhớ lời thánh Phao-lô dạy, để “dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa”. Điều đó có nghĩa là ta ăn, ta uống, ta làm để sống chứ ta không sống để mà ăn, để mà uống, để mà làm. Ta hãy nhớ điều đó và thực thi trong cuộc sống của mình. Ta sẽ có một cuộc đời thanh thản, vui tươi và hạnh phúc.

Về mục lục

.

LẠY NGÀI, XIN LÀM CHO CON ĐƯỢC SẠCH

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Tiếp tục chủ đề về đau khổ và lòng thương xót của Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay đề cập đến một trong những nổi đau khổ nhất của con người, đó là bệnh phong cùi.

1- Bệnh phong cùi, nổi ám ảnh lịch sử

Ngay hôm nay, nhờ y khoa phát triển, bệnh phong cùi không còn là một bệnh nan y, bất trị nữa, nên nó không còn là nổi ám ảnh đáng sợ nhất của nhân loại. Nhưng trong lịch sử, bệnh phong cùi là một bệnh gây nên nhiều đau khổ nhất của con người từ hàng ngàn năm.

Hai yếu tố bên ngoài đã góp phần làm gia tăng nỗi kinh sợ khi đối diện với bệnh phong cùi. Yếu tố thứ nhất đó là người ta quan niệm rằng bệnh phong cùi là thứ bệnh nan y, không thể chữa trị, nhưng lại rất dễ lây lan. Nó có thể lan truyền đến bất cứ ai đã tiếp xúc với người bệnh. Yếu tố thứ hai đó là bệnh phong cùi được coi một hình phạt do tội, một sự chúc dữ của Thiên Chúa. Vì thế, bệnh phong cù được coi dấu chỉ bất hạnh nhất; người phong cùi bị cô lập, bị loại trừ khỏi cộng đoàn và xã hội. Họ phải sống trong một hoàn cảnh bi đát, phi nhân bản nhất.

Một người đã đóng góp lớn nhất cho sự thay đổi thái độ và lề luật liên quan đến những người bệnh phong cùi là ông Raoul Follereau (1903-1977), một nhà văn và một nhà báo người Pháp. Vào năm 1954, ông đã thành lập ngày Quốc tế chống bệnh phong cùi. Ông đã tổ chức các hội nghị khoa học để truyền bá mọi người hiểu rằng bệnh phong cùi là một bệnh giống như những bệnh khác có thể chữa trị và phục hồi hoàn toàn. Cuối cùng vào năm 1975, ông đã thành công trong việc đưa ra các đạo luật về việc phân biệt những người phong cùi đã bình phục.

Liên quan đến hiện tượng phong cùi, các bài đọc của Chúa Nhật này trình bày thái độ của Luật Môsê và thái độ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng.

Bài đọc I trích từ sách Lêvi cho biết khi một người bị nghi ngờ về những triệu chứng của bệnh phong cùi, họ phải được mang đến cho một tư tế để minh xác về bệnh này và để tư tế tuyên bố “người đó là ô uế.” Vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi người phong cùi tội nghiệp này bị loại trừ khỏi cộng đoàn nhân loại, họ phải tránh xa mọi người, họ phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: Ô uế! Ô uế!. Bao lâu còn bệnh, người ấy phải ở riêng ra, bên ngoài trại (Lv 13,1-2.44-46).

2- Thái độ của Chúa Giêsu đối với người phong cùi

Chúng ta hãy xem Chúa Giêsu đã đối xử như thế nào với người phong cùi trong bài Tin Mừng: Anh đến quỳ xuống van xin Người để xin Người chữa cho anh: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch. Đức Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: Tôi muốn, anh hãy được sạch. Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sạch.”

Chúa Giêsu không sợ mình bị lây nhiễm; Chúa cho phép người phong cùi đến với Người và quỳ gối trước mặt Người. Hơn thế nữa, khi người phong cùi đến gần, Chúa “giơ tay đụng vào anh.” Chúng ta không được phép nghĩ rằng tất cả những điều này được thực hiện một cách ngẫu nhiên và Chúa Giêsu không phải trả giá gì cả.

Với tư cách một con người, Chúa Giêsu cũng chia sẻ với mọi người và xã hội trong thời đại của Người về những quan niệm đối với bệnh phong cùi và cả những vấn đề khác. Nhưng trong Người, lòng cảm thương đối với người phong thì mạnh hơn nỗi sợ hãi đối với bệnh phong.

Trong hoàn cảnh này, Chúa Giêsu tuyên bố một câu đơn giản nhưng rất quan trọng: “Tôi muốn anh được sạch.” Khi người phong cùi nài xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể.” Anh bày tỏ niềm tin mạnh liệt của mình vào quyền năng của Đức Giêsu Kitô. Với niềm tin đó, Chúa Giêsu minh chứng cho anh biết rằng Người có thể làm cho anh được lành bệnh. Khi trình thuật phép lạ này, thánh Máccô muốn giới thiệu Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Độ quyền năng; Người là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa giữa nhân loại. Người đã chữa anh khỏi bệnh phong cùi và đưa anh trở lại hội nhập với cộng đoàn xã hội. Sau khi được chữa lành, anh chu toàn những điều luật đòi hỏi và trở thành người loan truyền lòng thương xót Chúa cho mọi người.

3- Chúng ta chọn thái độ nào?

Khi chúng ta phân tích và so sánh hai thái độ của luật Môsê và thái độ của Chúa Giêsu đối với người bị bệnh phong cùi, chúng ta tự hỏi: Trong hai thái độ đó, thái độ nào gợi cảm hứng cho tôi nhiều hơn?

Ngày nay, bệnh phong cùi không còn là bệnh nan y nữa. Nếu phát hiện đúng lúc thì bệnh này sẽ được chữa lành hoàn toàn. Nhiều quốc gia trên thế giới đã triệt tiêu chúng một cách hoàn toàn. Tuy nhiên, trên thế giới vẫn còn có khoảng 10 triệu người bị phong cùi, mỗi ngày có khoảng 10 trường hợp mới bị bệnh.

Trong lịch sử Giáo Hội, có những vị thánh đã yêu mến và hoàn toàn dấn thân phục vụ người phong cùi như thánh Phanxicô Assisi đã thay đổi hoàn toàn đời sống khi gặp người phong cùi; cha Damiano Kolbe, người Bỉ, ngài đã tự nguyện đến ở đạo Molakai, đã hy sinh trót cả đời sống với họ, phục vụ họ và chết giữa họ.

Mẹ Têrêxa Calcutta cũng là một trong những mẫu gương sáng chói về việc phục vụ người theo theo tinh thần Tin Mừng, cách riêng là phục vụ những người phong cùi. Mẹ đã đi chăm sóc các vết thương cho người phong cùi với một tấm lòng yêu thương của Chúa Giêsu.

Ở Việt Nam, một nhân vật nổi tiếng của người phong cùi đó là Đức Cha Jean Cassaigne (Cátxe), thuộc Hội Truyền Giáo Paris, đã đến truyền giáo ở Việt Nam và làm cha sở ở miền cao nguyên Di Linh. Tại đây, ngài đã thành lập trại phong Di Linh để quy tụ trên 400 người phong cùi. Ngày tình nguyện ở lại phục vụ những người bệnh phong cùi suốt 30 năm trời. Cuối đời, ngài cũng bị chứng phong cùi và chết giữa những người phong cùi vào năm 1973. Trong di chúc, ngài nói: “Tôi ao ước được yên nghỉ giữa những người anh em đau khổ. Tôi sung suống được hiến thân cho quê hương Việt Nam trọn đời tôi.”

Những mẫu gương trên đây là hiện thân của Chúa Giêsu đối với những ai đau khổ, nhất là đối với những người bị phong cùi. Thái độ và chứng tá sống động đó mời gọi chúng ta cũng hay biết thương xót, chia sẻ và phục vụ với những người bị bệnh tật, nhất là những người bị phong cùi…

Điều Raoul Follereau đã đề nghị với mọi người trên thế giới là cố gắng giảm bớt sự cô lập và loại trừ khỏi xã hội đối với bệnh phong cùi truyền thống. Đề nghị đó cũng có thể áp dụng cho những bệnh nan y hôm nay là chúng ta hãy cố gắng giảm bớt sự cô lập và loại trừ đối với các bệnh nhân nan y như bệnh sida, đồng thời mang đến cho họ sự quan tâm nâng đỡ về tinh thần cũng như vật chất để họ tìm được sự an ủi trong cuộc sống.

Nhưng sứ điệp lớn lao mà Lời Chúa hôm nay muốn gửi tới chúng ta khi nghỉ đến người phong cùi, chúng ta phải nghỉ đến chứng bệnh phong cùi thiêng liêng trong chúng ta. Đó là khi chúng ta bị những khuynh hướng xấu, môi trường xấu, những con người xấu và ma quỷ làm chúng ta trở nên ô uế vì đã phạm tội. Chúng ta cần được Đức Kitô cứu chữa cho lành. Chúng ta cần được người chạm đến qua các bí tích, đó là bí tích Rửa Tội, Giải Tội và Thánh Thể. Nơi đó, Chúa vẫn tiếp tục giang cánh tay yêu thương và quyền năng của Người để chữa lành cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương người phong cùi hôm nay, chạy đến với Chúa, quỳ gối xuống xin Người rằng: “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, xin làm cho con được nên sạch.” Và cũng như người phong cùi, sau khi đón nhận được ơn chữa lành, chúng ta cũng hãy loan truyền lòng thương xót của Chúa cho những người xung quanh. Amen!

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Chúng ta biết ngày xưa bệnh phong cùi là một sự lo sợ và đau khổ cho loài người, tương tự như sự lo sợ, sầu khổ của những người mắc những chứng bệnh nan giải như ung thư hay si-đa.  Ngoài việc phải chịu sự đau đớn huỷ hoại thân thể, người phong cùi còn phải chịu một sự đau đớn to lớn hơn về tinh thần, đó là bị người khác xa tránh.  Theo sách Lê-vi trong Kinh thánh Cựu ước, người phong cùi phải sống tách biệt khỏi gia đình, thân nhân và bạn hữu, và phải ra dấu báo cho người khác biết để đề phòng đừng tới gần. Ngoài ra người phong cùi không được phép đến nơi công cộng hay thờ phượng vì bị coi là dơ bẩn.  Đó là lý do tại sao người phong cùi trong Tin mừng hôm nay, với niềm xác tín, quyết tâm gặp Chúa để xin được chữa lành mặc dầu biết đó là lỗi luật và đã khẩn khoản nài xin: “Nếu Ngài muốn, xin Ngài cứu chữa tôi.”  Động lòng xót thương, Chúa đã chữa cho người phong cùi được lành sạch.  

Khi nói đến phong cùi, thì chúng ta nhớ đến thánh linh mục Đa-miêng người Bỉ là vị tông đồ người cùi.  Năm 1864, cha đã hy sinh tình nguyện đến phục vụ những người bị bệnh phong cùi ở Hawaì.  Bệnh nhân phong cùi trong trại không thể hiểu nổi một người ở phương xa, không bà con thân thuộc gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai và không bệnh tật như họ, lại có thể đến phục vụ họ nơi khốn khổ này.  Họ không tin vào đôi mắt của mình nên đến sờ vào thân thể của cha, xem cha có thực sự mắc bệnh cùi không.  Lúc đầu cha Đa-miêng rởn tóc gáy nổi da gà khi nhìn thấy họ đến và sờ vào thân mình. Nhưng dần dần cha Đa-miêng hiểu được hoàn cảnh cũng như tâm tư của họ, vì vậy cha sống hoà đồng và không còn cảm thấy ghê tởm như những ngày đầu. 

Thật vậy, cha Đamiên đã thể hiện tình thương và sống lòng nhân từ của Chúa Giêsu với những người bệnh bị hất hủi một cách cao quí.  Một thời gian sau đó, vì sống chung với họ, cho nên cha cũng bị mắc bệnh cùi, và cuối cùng cha Đa-miêng cũng đã chết vì bệnh phong cùi.  Chúng ta thấy ngày nay, vì muốn thể hiện tình yêu và lòng thương xót của Chúa, vẫn còn có nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân tiếp tục phục vụ những bệnh nhân trong những trại phong cùi ở quê nhà Việt Nam.  Như thánh Đa miêng, họ hy sinh thể hiện tình yêu cao quí và vị tha với những người khốn khổ cần sự giúp đỡ.

Ngày nay nhờ những tiến bộ về khoa học và y khoa bệnh phong cùi không còn là một thứ bệnh quá nguy hiểm và khốn khổ cho loài người nữa, nhưng có một thứ bệnh phong cùi khác còn nguy hiểm hơn nữa, đó là thứ bệnh phong cùi tinh thần.  Thứ bệnh này còn nguy hiểm hơn bệnh phong cùi nơi thân xác.  Bệnh phong cùi chỉ hủy hoại cái dáng vẻ bề ngoài của con người.  Còn bệnh phong cùi tinh thần mới thật kinh khủng.  Nó có thể hủy hoại tâm hồn và cả cuộc đời cá nhân, mà còn hủy hoại tình đoàn kết, hiệp nhất của cộng đồng. Nó làm cho con người trở thành xa lạ với mọi người và mọi người với nhau.

Trong cuốn sách có tựa đề là “Vị ẩn sư” kể lại một câu truyện về người bị mắc bệnh phong cùi tinh thần như sau.  Một người đàn bà trung lưu giàu có, không phải bận bịu với công việc hay gia đình và có thể nói là đạo đức. Bà có nhiều giờ để đi nhà thờ, đi đọc kinh và còn có thời giờ để nói chuyện với người này, với nhóm nọ.  Nhưng không hiểu tại sao người ta cứ muốn xa lánh bà.  Một nhóm người đang trò chuyện với nhau vui vẻ, nhưng khi vừa thấy bóng dáng bà thì mọi người im lặng. Nhiều người thấy bà thì kiếm cách hay lý do đi chỗ khác hay ra về. 

Một hôm bà tìm đến hỏi ý kiến của vị ẩn sĩ.  Sau khi hỏi bà một số chi tiết, vị ẩn sĩ đưa ra một kết luận làm cho bà phải kinh ngạc và buồn.  Vị ẩn sĩ nói cho bà biết sở dĩ người ta xa lánh bà, vì họ coi bà là một con rắn độc.  Bà gằn tiếng hỏi lại vị ẩn sĩ tại sao họ lại coi bà như một con rắn độc chứ. Vị ẩn sĩ trả lời vì trong đầu óc của bà đầy những ý tưởng độc hại như nghĩ và nói xấu về người khác, có những ý tưởng ghen ghét, hằn học gây thù hằn và nhất là gây chia rẽ. Ngoài ra bà còn tự cao, có đời sống ích kỷ và tham lam.  Vị ẩn sĩ nói tiếp cho bà biết: nghe bà nói và thấy cuộc sống của bà làm cho người khác cảm thấy bực bội, buồn thảm hơn, mất đi niềm hy vọng và đoàn kết.  Nghe vị ẩn sĩ nói như thế, tâm hồn bà chùng xuống và xin vị ẩn sĩ chỉ cho phải làm sao.  Vị ẩn sĩ khuyên bà hãy thay đổi cách suy nghĩ và giao tiếp cũng như cuộc sống.  Từ nay hãy nuôi trong đầu những ý tưởng tốt lành, cố gắng nhìn vào những điểm tốt, hay và tích cực.  Khi nói chuyện với người khác hãy chia sẻ những ý nghĩ tốt lành đó, cố gắng sống hy sinh, bác ái và quảng đại hơn, rồi mọi sự sẽ khá và tốt đẹp hơn. Bà đã nghe và làm theo lời khuyên bảo của vị ẩn sĩ.  Kết quả đúng như vị ẩn sĩ tiên đoán.  Cuộc sống của bà đã thay đổi hẳn.

Là những Ki-tô hữu, chúng phải cầu xin Chúa cho chúng ta có sức mạnh để chúng ta cố gắng loại trừ thứ bệnh phòng cùi tinh thần nguy hiểm này ra khỏi cuộc sống. Vì là thứ bệnh tinh thần nên rất khó nhận diện được chúng bằng con mắt trần tục của chúng ta.  Chúng có thể ẩn núp dưới những chiêu bài, cạm bẫy ngon ngọt, ưa thích và thoải mái của ma quỉ như tự cao, ích kỷ, loại trừ, nghi kỵ, kết án, phê bình, gian dối và tham lam.  Tin mừng cho chúng ta biết Chúa Giêsu là một thầy thuốc bài ba, tốt lành đầy lòng nhân từ và thương xót. Những ai đến với Chúa đều được chữa khỏi, nhưng điều quan trọng là phải có lòng xác tín vào Chúa và lời Ngài dạy.  Xác tín không phải chỉ có niềm tin trong tư tưởng, mà còn phải thể hiện bằng hành động trong cuộc sống. Vì thế, chúng ta phải chân thành lắng nghe và sống lời của Chúa Giê-su, là Vị Ẩn Sĩ tốt lành và nhân từ khuyên bảo chúng ta.

Chúa đã đến chữa người phong cùi thuở xưa. Xin Chúa cũng chữa bệnh phong cùi trong thời hiện đại, ban cho bệnh nhân lòng tin cậy, phó thác vào Chúa. Xin soi sáng cho các khoa học gia và bác sĩ để họ tìm ra thuốc men và cách thế trị bệnh. Xin cho những người phục vụ, chăm sóc bệnh nhân luôn tin vào Chúa là nguồn sức mạnh và kiên nhẫn của họ, và gìn giữ họ khỏi bị nhiễm bệnh.

Về mục lục

.