Các bài suy niệm Chúa Nhật 6 Thường niên Năm A

2064

CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_A

Lời Chúa: Hc 15, 16-21;  1 Cr 2, 6-10;  Mt 5, 17-37

——-

Mục lục

  1. Đỉnh Cao Của Luật Là Sống Yêu Thương (Lm. Ngọc Dũng, SDB)
  2. Hãy Vui Sống (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  3. Luật Tân Ước – Sự Giải Thoát (Phê-rô Trần Đình Phan Tiến)
  4. Sống theo sự thật (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  5. Đường lối khôn ngoan  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  6. Hoàn thành lề luật (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  7. Sống yêu thương như Chúa dạy  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
  8. Chỉ một chữ yêu  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
  9. Luật để làm gì?  (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)
  10. Tôn trọng phẩm giá con người  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
  11. Đừng giận ghét  (Lm. Inhaxio Nguyễn Văn Đức)
  12. Lề luật mang dáng đứng tình yêu  (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
  13. Hãy nên hoàn thiện (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
  14. Thầy bảo cho anh em biết (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
  15. Công chính hơn  (Lm. Phêrô Trần Đức Cường)
  16. Anh em phải công chính hơn các kinh sư  (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
  17. Thầy đến để kiện toàn lề luật (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
  18. Luật của Chúa Giêsu (PM. Cao Huy Hoàng)
  19. Thanh toán nợ đời (Trầm Thiên Thu)
  20. Chu toàn luật của Thiên Chúa với lòng yêu mến  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
  21. Tinh thần mới trong lề luật cũ (Giuse Vinhson Ngọc Biển, SSP)
  22. Kiện toàn lề luật và đức công chính mới (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
  23. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 6 TN_A  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
  24. Yêu mến và giữ Lời Chúa  (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
  25. Khôn – Dại  (Lm. Giuse Nguyễn)
  26. Tinh thần của giới luật mới  (Jorathe Nắng Tím)
  27. Yêu thương là chu toàn lề luật  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  28. Chúa kiện toàn luật như thế nào?  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
  29. Luật hoàn thiện  (Lm. Vũ Đình Tường)
  30. Chúa Nhật 6 TN_A  (Lm. Antôn)

 

Mục lục

1. Tự do và trách nhiệm  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Biết mình giới hạn để cảm thông  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Giữ luật Chúa với tình yêu và lòng mến  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Tự do tuân giữ lề luật (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

5. Luật lệ: giữ trọn hay làm nên trọn?  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

6. Cuốn sách hai chữ  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Cuộc sống  (Trầm Thiên Thu)

8. Hòa giải  (Lm. Trần Việt Hùng)

9. Suy niệm Chúa Nhật 6 Thường niên_A  (Lm. Anthony Trung Thành)

10. Luật sống viên mãn (AM. Trần Bình An)

11. Kiện toàn lề luật (JM. Lam Thy, ĐVD)

12. Chúa Kitô, Đấng kiện toàn lề luật  (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

13. Luật  (P. Trần Đình Phan Tiến)

14. Nên công chính  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

15. Chọn lựa để hạnh phúc  (Lm. Giuse Nguyễn)

16. Bỏ qua  (Lm. Vũ Đình Tường)

17. Nếu anh em không ăn ở công chính hơn (Fx. Đỗ Công Minh)

18. Tìm Chúa vì yêu mến hay tìm sự dễ dãi  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

19. Kiện toàn lề luật- (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

20. Yêu thương là chu toàn luật (Dã Quỳ)

21. Kiện toàn luật cũ bằng luật mới yêu thương  (Lm. Đan Vinh)

22. Chúa Nhật 6 Thường niên_A  (Lm. Antôn)

 

ĐỈNH CAO CỦA LUẬT LÀ SỐNG YÊU THƯƠNG

Lm Ngọc Dũng, SDB

Hầu hết mọi người trong chúng ta thường xem luật lệ như là điều cản trở sự tự do của mình. Chúng ta nhìn điều răn hay luật lệ của Thiên Chúa và Giáo Hội như một gánh nặng hơn là phương tiện, hay đúng hơn kim chỉ nam, để thăng tiến trên con đường trọn hảo. Các bài đọc lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm về tầm quan trọng và mục đích của điều răn và huấn lệnh của Thiên Chúa.

Trong bài đọc 1, tác giả sách Đức Huấn Ca cho chúng ta thấy việc tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa là ‘một quyết định để chọn làm điều đẹp ý Đức Chúa’: “Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm điều đẹp ý Đức Chúa” (Hc 15:15). Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta giữ luật hay tạo ra những luật làm đẹp lòng người hơn là làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúng ta giữ luật vì sợ hơn là vì yêu. Ví dụ như chúng ta đi lễ mỗi Chúa nhật là vì chúng ta sợ phạm tội bỏ lễ ngày Chúa nhật hơn là vì yêu Chúa nên chúng ta đến với Ngài. Mục đích của luật là để giúp chúng ta biết rằng mình có tự do để chọn lựa: theo hay không theo luật. Tác giả Sách Đức Huấn Ca cho chúng ta biết điều này trong những lời sau: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó” (Hc 15:16-17). Nếu chúng ta chọn sống theo huấn lệnh của Đức Chúa, chúng ta chọn cho mình con đường sống, chọn cho mình sự sống vĩnh cửu. Chi tiết này khuyến cáo chúng ta về những chọn lựa mà chỉ mang cho mình sự sống tạm thời trên thế gian này mà đánh mất sự sống vĩnh cửu. Thật vậy, cái nhìn của con người thì giới hạn, chỉ nhìn thấy cái gì hữu hạn trong thời gian chứ không nhìn thấy được sự vô hạn của vĩnh cửu. Để đạt được một chọn lựa đúng, chọn lựa mang lại sự sống vĩnh cửu, con người cần đi theo huấn lệnh của Đức Chúa.

Về phần mình, thánh Phaolô chỉ cho các tín hữu Côrintô biết tất cả những gì ngài giảng dạy cho họ “là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” (1 Cr 2:6-7). Sự khôn ngoan này không thể được cân, đo, đong, đếm theo tiêu chuẩn con người. Nó được giấu kín khỏi những người tự cho mình là thông thái, là khôn ngoan theo tiêu chuẩn con người, mà chỉ được mặc khải cho những ai yêu mến Thiên Chúa. Chi tiết này cho chúng ta thấy rằng chỉ những ai yêu mến Thiên Chúa mới hiểu được tầm quan trọng của luật Chúa và sự ‘ngu dại’ của thập giá Chúa Giêsu, hay nói cụ thể hơn là những đau khổ phải chịu khi sống theo luật Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta hình ảnh Chúa Giêsu như là một Môsê mới, một Người không chỉ ban luật nhưng cắt nghĩa luật một cách mới mẻ. Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng làm ba phần: phần 1 (5:17-19) nói về khẳng định của Chúa Giêsu về tầm quan trọng của luật cũ; phần 2 (5:20) là tiêu chuẩn luân lý mới Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ; và phần 3 (5:21-37) là những áp dụng của tiêu chuẩn luân lý mới để giải thích những luật củ mà những người Pharisêu sống và bảo vệ.

Trong phần 1, chúng ta thấy thái độ rất tích cực và cảm thông của Chúa Giêsu đối với di sản của người Do Thái là toàn bộ mặc khải của Cựu Ước dù cho nhiều lần Ngài chỉ trích một vài phát triển mà Ngài xem là có hại cho đời sống yêu thương của con người: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:17-19). Chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của những lời trên theo hai nghĩa sau: (1) Toàn bộ Cựu Ước có giá trị về tôn giáo cho những người theo Chúa Giêsu và phải được tiếp tục bảo quản, cầu nguyện, học hỏi và giảng dạy; (2) những gì trong luật Cựu Ước vẫn ràng buộc cách trực tiếp những người theo Chúa Giêsu. Những điều này được thực hiện nơi chính cuộc sống của Chúa Giêsu. Ngài sống di sản của dân tộc Ngài và làm cho mọi sự được hoàn thành nơi chính cuộc sống Ngài. Nói cách khác, những gì được viết trong Cựu Ước tìm thấy sự viên mãn và hoàn thành trong Đức Kitô. Là những người theo Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi tuân giữ cách cặn kẽ những huấn lệnh của Thiên Chúa vì, “ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (5:19).

Sau khi chỉ ra tầm quan trọng của luật cũ, Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ rằng khi họ theo Ngài họ không chỉ đơn thuần sống theo mặt chữ của luật như những người Pharisêu, mà phải sống ‘tinh thần’ luật được Thiên Chúa đặt đinh khi trao ban luật cho con người: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (5:20). Theo các học giả Kinh Thánh, câu này một cách rõ ràng là được Thánh Mátthêu thêm vào với mục đích cung cấp đề tài chính cho toàn bộ chương, đó là sự ‘công chính hơn’ của những người theo Chúa Giêsu. Đây chính là một trong những đặc tính của các Kitô hữu tiên khởi. Đối với Thánh Mátthêu, bản chất của những gì Chúa Giêsu mang đến là một nền luân lý và một sự công bình trổi vượt hơn. Những gì Ngài mang đến là một nền đạo đức luân lý. Những người địch thủ của Ngài là những người thừa kết của người Pharisêu ở Jamnia. Ở đây, chúng ta cần lưu ý rằng Chúa Giêsu không nói cách minh nhiên là người Pharisêu sẽ không được vào Nước Trời. Câu này nhằm mục đích khuyến cáo các Kitô hữu phải sống theo tiêu chuẩn Ngài mang đến, nếu họ muốn vào Nước Trời.

Phần 3 là những lời giải thích của Chúa Giêsu về những luật được ghi chép lại Torah và rất quan trọng trong đời sống thường ngày của người Do Thái. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta việc Chúa Giêsu giải thích bốn trong sáu điều luật quan trọng, đó là về giận dữ, ngoại tình, ly dị và thề hứa. Tất cả đều đi theo một cấu trúc: quy chiếu về luật củ (“anh em đã nghe luật dạy rằng”), tiêu chuẩn mới được Chúa Giêsu đặt ra (“còn Thầy, Thầy bảo anh em”), việc cụ thể cần phải thực hiện. Chúng ta cùng nhau suy gẫm cách ngắn gọn những điều Chúa Giêsu dạy các môn đệ.

Đầu tiên là việc giận người khác. Chúng ta thấy trong luật củ chỉ nói đến việc giết người. Nhưng Chúa Giêsu đưa các môn đệ về ‘nguồn gốc’ của việc giết người đó là giận dữ: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (5:21-22). Khi chúng ta giận một ai, dù không ‘giết họ’ một cách thể lý, chúng ta đã giết họ trong trái tim chúng ta. Cụ thể hơn là chúng ta đã loại trừ người đó ra khỏi tình yêu của mình. Giải pháp Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ khi giận một ai đó hoặc làm một ai đó giận là hoà giải và tha thứ: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (5:23-24). Sự hoà giải và tha thứ là ‘tiền đề’ quan trong trong việc thờ phượng. Nói cách khác, để của lễ dâng lên được Thiên Chúa chấp nhận, chúng ta cần phải có một con tim biết tha thứ và cảm thông.

Vấn đề thứ hai là ngoại tình. Như chúng ta biết, trong Cựu Ước, ngoại tình thường được sử dụng như hình ảnh ám chỉ sự bội tín với Thiên Chúa của dân Israel. Họ thường chạy theo tôn thờ những ngẫu tượng. Trong bài Tin Mừng, Thánh Mátthêu nói đến hành vi ngoại tình trong đời sống vợ chồng: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (5:27-28). Trong này, Chúa Giêsu đi từ cấp độ của hành động đến cấp độ của ý hướng thèm muốn. Nói cách khác, khi một người quyết định phạm một hành vi xấu, dù chưa thực hiện nó mà chỉ mới có trong ý hướng, thì hành vi xấu đó đã hiện hữu rồi và chỉ thêm ‘trầm trọng’ bằng việc thực hiện nó. Chúa Giêsu đưa ra giải pháp là phải chặn ngay tại gốc, cắt tận gốc rễ chứ không chỉ cắt cái ngọn: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (5:29-30). Những lời này được tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Máccô (9:43- 47), nhưng không tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Luca, có thể là do dễ dàng bị hiểu lầm. Điều Thánh Mátthêu ám chỉ trong những lời trên là Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài sắp xếp lại vị trí của bậc thang giá trị. Sự hợp lý của những quyết định và chọn lựa luân lý rất quan trọng, đó là thà mất một phần của sự tự do mang tính luân lý của mình hơn là đánh mất toàn bộ sự tự do của mình.

Thứ ba là vấn đề ly dị: “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, bất cứ ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (5:31-32). Trong vấn đề này, chúng ta thấy nền tảng của đời sống xã hội của con người liên quan đến, đó là đời sống gia đình [hôn nhân]. Đây là một vấn đề quan trọng. Triết gia Aristotle nói về ly dị như sau: “Ly dị đối với gia đình giống như nội chiến đối với một quốc gia.” Bởi vì vấn đề ly dị thường là một vấn đề mang lại nhiều đau thương và nước mắt, điều cần thiết phải nhớ rằng ý định sâu xa của Chúa Giêsu không phải là mang lại nỗi đau, nhưng là bắt đầu một ý tưởng thật sáng tỏ và cao sang của các mối tương quan con người, một viễn cảnh đẹp về hôn nhân như là một giao ước tình yêu cá vị giữa chồng với vợ, điều mà phản chiếu tương quan giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài. Đáng buồn thay, viễn cảnh đẹp này về hôn nhân không luôn luôn được lưu giữ trong con tim con người.

Đề tài cuối cùng là thề hứa: “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa” (5:33). Những lời này cho thấy trong luật cũ, trọn lời thề với Đức Chúa là điều quan trọng nhất. Điều này cho thấy tương quan với Thiên Chúa là nền tảng của tương quan với con người. Trước vấn đề thề hứa, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ “đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có,’ ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (5:34-37). Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài sống thật, không giả dối. Theo các học giả Kinh Thánh, trong vấn đề này, Chúa Giêsu lặp lại cho các môn đệ về Mười Điều Răn. Mười Điều Răn không nói gì về vấn đề thề hứa, như chỉ nói rằng, ‘ngươi không được kêu tên Thiên Chúa vô cớ,’ và ‘ngươi không được làm chứng gian.’ Điều này có nghĩa là chúng ta phải luôn nói sự thật trong mọi sự liên quan đến Thiên Chúa và anh chị em mình. Chúa Giêsu nối kết hai điều răn lại với nhau bằng việc nói rằng chúng ta không được dùng tên Đức Chúa mà thề hoặc thay thế bất kỳ điều gì cho danh Ngài. Chỉ đơn giản là nói sự thật. Là những người theo Chúa Giêsu, chúng ta phải đem lời Ngài ra thực hiện, đó là chỉ nói sự thật, không nói dối.

Về mục lục

.

HÃY VUI SỐNG

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

Người chăm chỉ học tập, trí tuệ ngày càng phong phú. Người sẵn lòng cho đi hiểu biết, phúc đức ngày càng đến nhiều. Từ kinh nghiệm quý báu, người xưa nhắn nhủ chúng ta: sang trọng đâu phải đợi khi có chức tước, phú quý đâu phải đợi khi tiền nhiều. Cuộc đời sẽ tuyệt vời, khi ta đủ ý thức: chiến trường hoặc thương trường, không thích hợp cho những ai rụt rè, an phận. Muốn thành công ta không thể ngồi chờ cơ hội, dẫu rằng tiền nhân có nói: thời thế tạo anh hùng. Sống trong hoàn cảnh khó khăn hay thuận lợi, ai chẳng thích được tự do, muốn có hạnh phúc. Tuy nhiên, sống ở đời đâu có quá nhiều thời gian cho ta chờ đợi, hãy dấn thân, hãy làm việc, dù những việc bé nhỏ tầm thường, ít là làm tốt việc bổn phận đối với những ai ta có trách nhiệm.

Chắc không phải chỉ những người trẻ thao thức một phong cách sống thông thoáng, không phải chỉ một số ít có óc cầu tiến, đúng, ai cũng có quyền mơ ước, nhưng đâu là mơ ước chính đáng ? Sống mà thiếu bản lãnh, không có một chút mạo hiểm, ít có cơ hội toả sáng, dù nhiều người vẫn chủ trương: may hơn khôn. Năm xưa Đức Giêsu lưu ý các học trò: “đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri. Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Cái gì mới là đẹp, nhưng không phải cái mới sẽ thu phục được đám đông. Đẹp và chuẩn, cần thời gian để thích nghi, chẳng có thứ gì không chuẩn mà trở nên vĩ đại. Tình yêu thật, việc làm thật, không hao mòn bởi thời gian: “ai giữ và dạy người ta sống giáo huấn của Thầy Giêsu, sẽ được kể là người lớn nhất trong Nước Trời”.

Có phải hiện tại chúng ta vẫn đang trông chờ một sự cởi mở, thông thoáng hơn nơi giáo hội, nơi các chuyên viên nghiên cứu về luật luân lý, với ước muốn “luật lệ” cần thích nghi với hoàn cảnh thời đại ? Đã gọi là luật, thì luôn có tính bó buộc, hành trình ra khơi thì không thể không có sóng gió, bão táp, chẳng ai muốn bệnh tật, tai hoạ, dù ta vẫn biết nói: phòng bệnh hơn chữa bệnh. Có khi nào ta nghĩ luật lệ là sự bao bọc, bảo vệ, khi ta tuân giữ, luật lệ cũng giữ ta ? Đức Giêsu làm nóng, làm mới, tính chất của luật lệ, khi nói, “luật xưa dạy rằng: ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án. Còn Ta, Ta bảo các con: bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt”. Thực tế thì thế gian này thoải mái nhất là giầu tiền lắm của, thoải mái hơn giầu là sức khoẻ, thoải mái hơn giầu và khoẻ là biết sống theo quy định và luật lệ của trời đất.

Hãy vui sống, không phải đó là câu khích lệ suông, vì chỉ một chút kinh nghiệm bạn có thể hiểu: tiền không làm cho người ta hết bệnh, nhưng bệnh có thể làm cho người ta hết sạch tiền. Luật lệ, cản trở nhiều niềm vui của ta, nhưng chỉ những ai sống vô kỷ luật, sống không luật lệ, kẻ ấy mới phải đời đời hối tiếc. Khôn ngoan, sống đúng, sống đẹp, là tâm tình mà xuyên suốt ba bài đọc của tuần 6 thường niên mời gọi. Vâng, tự do chọn lựa, tự do sử dụng điều kiện và ơn ban luôn mở ra nhiều cơ hội cho mỗi người qua các thời đại. Đức Giêsu là tình yêu Thiên Chúa ban tặng: là môn đệ, là học trò, là chi thể sống động của Đấng Kitô, tất cả đang liên đới trong tình yêu thương. Đức Giêsu không để chúng ta mò mẫm, tìm kiếm hạnh phúc, chính xác Ngài đang dẫn dắt ta đi trong lề luật yêu thương, giúp ta trở nên công chính và được gia nghiệp Nước Trời.

Hãy vui sống, hãy tin Đức Giêsu chính là “thước đo, là lề luật”, hãy tuân giữ lề luật, mỗi người sẽ thấy rõ hơn, sức mạnh và tình yêu của Đấng cứu độ ở trong ta, luôn bao bọc che chở ta. Hãy sống vui, hãy sống trong tình hiệp thông liên đới, hãy minh chứng: ta không thể mua được tình yêu, nhưng ta có thể trả giá đắt để có được tình yêu, có được hạnh phúc thật. Như thế nào là khôn ngoan, thành công ở đời, bằng giác quan, bằng kinh nghiệm, không phải là điều khó để ta nhận biết. Đâu là thánh ý Chúa, ai là đối tượng của lòng Chúa xót thương, hãy đến với Đức Giêsu, ở trong tình yêu Giêsu ta sẽ đủ tỏ tường. Hãy sống vui, có đáng để ta bận tâm không, khi Thầy Giêsu nói thật mạnh mẽ: “hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa ngươi ra trước mặt quan toà …”.

Làm sao ta có thể hiểu hết thâm ý của các đấng bậc khôn ngoan: đừng tỏ ra đáng thương để mong được người khác thương hại, nhưng hãy tỏ ra lợi hại để người khác không dám nghĩ bạn tầm thường. Làm sao ta có thể hiểu hãy sống vui, khi có những thứ mất đi rồi, ta thấy nhẹ nhõm nhận ra, đáng lẽ ta phải bỏ nó từ lâu lắm rồi ! Làm sao ta có thể hiểu, làm sao ta có thể sống vui, khi Đức Giêsu hết sức dứt khoát: “hãy chặt tay, chặt chân, hãy móc mắt, … nếu chúng nên dịp tội cho ngươi” ? Đúng, chỉ khi đủ niềm tin, chỉ khi có Đức Giêsu, ta mới nghiệm ra: cái mới, cái hay, cái đẹp, cái tốt, không dừng lại trên môi miệng, đúng hơn, phải xây dựng trên tình yêu, phải đóng đinh đời mình trong tin yêu. Đức Giêsu là Thầy, là Thợ, Đức Giêsu vừa dạy yêu thương, vừa sống yêu thương cho đến hơi thở cuối cùng. Hãy sống vui, hãy lạc quan với tinh thần có Đức Kitô chiến đấu, có Đức Kitô chiến thắng bản thân mình. Amen.

Về mục lục

.

LUẬT TÂN ƯỚC – SỰ GIẢI THOÁT

Phê-rô Trần Đình Phan Tiến

 Thưa quý vị và các bạn, luật là một sự bảo vệ, che chắn, từ đó, luật là sự giải thoát, là tự do, chứ không phải áp bức, bắt buộc. Nhưng, thật sự, khi nói đến luật, con người thường sợ hãi.

Tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, tại vì, con người không giữ luật, con người nghĩ rằng : LUẬT là sự “gò bó”, mất tự do. Nhưng, thật ra, luật lệ là sự bảo vệ , che chắn cho con người. Luật lệ giúp cho con người thăng tiến, ai chấp hành luật pháp, thì người ấy được nể trọng.

Nhưng, người Dothai câu nệ luật pháp. Đặt nặng việc hành pháp cách máy móc, chứ không vì yêu thương. Ai yêu mến luật pháp, thì họ mới nhận ra chân giá trị của trật tự vũ hoàn. Phật giáo , nhìn nhận giá trị của luật pháp vũ trụ qua luật nhân quả, tuần hoàn, gieo và gặt.

Xã hội con người ngày càng thăng tiến, văn minh là nhờ pháp luật. Nhưng, pháp luật trần thế cũng chỉ là tương đối khi có đầy đủ chứng cứ, chứng minh. Còn trong bóng tối , họ đành bó tay.

Một xã hội càng văn minh, thì việc chấp hành luật pháp của người dân càng cao.

Chúa Giê-su đến trần gian không xóa bỏ lề luật, nhưng, Người kiện toàn. Người Dothai, họ giữ luật cách máy móc và làm tổn hại cho người yếu thế, hơn là giải thoát họ. Họ soan ra theo luật Moisen thì có hơn sáu trăm bộ luật. Nhưng, Chúa Giê-su kiện toàn lại thì chỉ có hai luật thôi, một là MẾN CHÚA trên hết mọi sự, hai là YÊU THƯƠNG người đồng loại như chính mình.

Nghĩa là sống KHIÊM NHƯỜNG và CÔNG CHÍNH là đủ.

Chúa Giê-su khẳng định Sự Công Chính của người môn đệ Chúa, nghĩa là người bước theo Chúa, phải hơn các kinh sư Dothai. Vì, các kinh sư Dothai họ giữ luật “sòng phẳng”, mắt đền mắt, răng đền răng. Theo đó, một xã hội sẽ què quặt, đui mù, vì không ai không phạm luật.

Cháu Giê-su đến để kiện toàn luật yêu thương, không phải xóa bỏ, nhưng để kiện toàn, như luật giết người, thì Chúa đâu bảo hảy cứ giết người, hoặc ai giết người sẽ đền mạng, mà là trước khi giết người thì đừng thù hận, đừng ghen ghét, hãy yêu thương. Vì, nếu yêu thương và tha thứ , sống vì tha nhân, biết hy sinh, chịu đựng thì làm gì có thù hận, làm gì có gian tham mà giết người. vì, giết người là một hành động căm phẫn ghê gớm, và gian tham kinh khủng mới dẫn đến giết người.Còn Chúa bảo, “Ai chửi rủa tha nhân, thì người ấy đã pham tội giết người rồi.”

Chúa Giê-su dạy trong suy nghĩ mà dẫn đến mưu mộ, độc ác cho,tha nhân thì pham tội giết người rồi. Tội từ trong tư tưởng. Còn, luật pháp thì phải xảy ra hành động, luật phái không thể minh chứng từ trong suy nghĩ, nhưng tôn giáo ngăn chặn tội ác từ trong tư tưởng. Không có luật nào của trần gian buộc tội từ trong tư tưởng, dù họ biết rằng: Tư tưởng phát sinh hành động, nhưng khi luận tội ai đó, thì đòi phải có hành động và chứng cứ hiển nhiên, mới gọi là tội.Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu và nắm bắt tư tưởng của con người. Muốn có tư tưởng trong sáng, tốt lành, thánh thiện, thì con người cần hấp thụ Thiên Chúa, hấp thụ sự thánh thiện của Ngài mà thôi, như chất diệp lục hấp thụ ánh sáng mặt trời vậy.

Khi và chỉ khi còn người hấp thụ Thiên Chúa, thì họ mới trở nên thánh thiện. Chính thánh Phaolo cũng phải thốt lên:” Khốn thân tôi, điều tốt tôi muốn làm, tôi lại không làm. Điều xấu tôi muốn tránh thì tôi lại làm”.

Chúng ta thấy, con người đâu dễ làm điều thiện, nếu họ không có Thiên Chúa. Chẳng qua họ sợ phạm pháp trần gian, bị bỏ tù, bị hành hạ, bị đánh đập. Chứ, nếu ai biết chu toàn lề luật vì yêu thương, mặc nhiên họ sẽ được hành phúc từ trong tâm hồn họ. Kẻ gieo điều ác, mặc nhiện không thể gặt điều lành. Cây nào sinh trái ấy.

Nhân quả của Đạo Công giáo không phải là :” Mắt đền mắt, răng đền răng”. Mà là đi trước , đó là yêu thương và tha thứ. Nhưng, trên hết chúng ta phải khôn ngoan, vì khôn ngoan là CÔNG CHÍNH.

Khôn ngoan là phải biết tỉnh thức và cầu nguyện, vì có lần Chúa dạy chúng ta:” Đừng lấy của Thánh ném cho chó, đừng lấy ngọc trai ném trước mặt con heo…”. Theo đó, “Hiền lành, nhưng, phải khôn ngoan.” Nếu, thiếu khôn ngoan, hiền là sẽ trở nên ngu dại vậy.

Chúa Giê-su dạy cho chúng ta biết tiêu chuẩn của “HIỀN LÀNH và KHÔN NGOAN “ là như Con Rắn và Bồ Câu. Satan thì khôn ngoan , nhưng độc ác, quỷ quyệt, còn người Ki-tô hữu thì hiền lành nhưng thiếu khôn ngoan thì sẽ thua satan. Như vậy, hiền lành thì cần phải khôn ngoan, đừng độc ác mà ngu dại. Theo đó, MUỐI CẦN ÁNH SÁNG, vì ÁNH SÁNG tác động làm cho muối phát huy tác dụng của nó. Muối không thể lấp lánh và mặn mà , nếu thiếu ánh sáng. Cũng vậy, luật pháp cần cho con người như MUỐI được ÁNH SÁNG tác động lên.

Luật tình yêu của Thiên Chúa cũng giống như chúng ta trồng một cái cây được rào chắn lại khi cây còn non yếu, không cho những côn trùng hay sâu bọ, hoặc những tác động khác làm cho cậy bị tiêu diệt. Luật cũng vậy, như màng lưới bảo vệ cái cây, người trồng cây chăm sóc nó, cho nó lớn lên và trưởng thành to lơn.

Vâng, đó là LUẬT TÌNH YÊU của Thiên Chúa qua Đức Giê-su – Ki-tô, Đấng đã đến thế gian vì tình yêu và dùng chính sự chết của Người để kiện toàn LUẬT YÊU THƯƠNG cho nhân loại.

Thánh Teresa Hài Đồng đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa như sau :” Hành vi bạn dù sáng chói đến đâu, nhưng không làm vì tình yêu thì coi như không có.”

Quả thật, điều ấy được biểu lộ cách rõ nét qua Thánh giá Đức Ki-tô, Đấng đã chịu treo lên vì tình yêu, hầu minh chứng sứ vụ KIỆN TOÀN LUẬT TÌNH YÊU bởi Thiên Chúa.

Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu, là Cha Toàn Năng hằng hữu , Chúa đã ban cho con người LUẬT YÊU THƯƠNG là chính Đức GIÊ-SU –KI-TÔ, Con Một yêu dấu của Cha, Người đã đến thế gian để kiện toàn luật yêu thương ấy cho thế nhân được sống và sống dồi dào. Xin cho thế nhân ngày một nhận ra tình Cha âu yếm mà phượng thờ cho phải đạo. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su – Ki-tô , Chúa chúng con ./. Amen

Về mục lục

.

SỐNG THEO SỰ THẬT

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Sống trên đời, lý tưởng và mẫu mực mà chúng ta chọn lựa không phải là một vĩ nhân nơi trần thế. Lý tưởng sống của người tín hữu là chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên bố: Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Nhờ việc chuyên chăm thực hiện giáo huấn của Đức Giêsu, chúng ta có thể sống theo sự thật và nên hoàn hảo trong cuộc đời trần thế, là bảo đảm hạnh phúc Nước Trời.

Tự bản chất, con người dễ dàng dối trá với người khác và dối trá với cả chính mình. Vì dối trá, người ta sẵn sàng xúc phạm đến tha nhân, thậm chí xúc phạm cả Thiên Chúa. Đức Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”. Bài Tin Mừng hôm nay là tổng hợp nhiều nội dung giáo huấn, nhằm giúp con người sống ngay thẳng trước mặt Chúa và đối với anh chị em đồng loại. Trong giáo huấn này, Chúa khuyên chúng ta, lòng bác ái trung thực đối với tha nhân còn quan trọng hơn của lễ dâng cho Chúa. Chính vì vậy, khi dâng lễ, nếu trong lòng còn những uẩn khúc và mâu thuẫn đối với người khác, thì điều ưu tiên là hãy làm hòa với nhau, vì Chúa chỉ nhận của lễ dâng của người có tâm hồn bình an thanh thản. Thông thường, người ta dễ dàng nói những lời hoa mỹ đối với Chúa, nhưng lại dùng những lời thô tục hoặc cứng cỏi với tha nhân. Sống theo sự thật là tạo mối tương quan chân thành với Chúa cũng như với anh chị em mình.

Nhờ sống theo sự thật mà chúng ta dễ dàng thực thi Luật Chúa. Chúa Giêsu giảng dạy như một nhà cải cách luật pháp. Người không dừng lại ở chữ nghĩa hay những công thức lý thuyết khô cứng, nhưng chú trọng đến tinh thần, đến tâm hồn của người giữ luật. Quả thật, người muốn nên hoàn thiện không chỉ giữ con mắt giác quan bề ngoài, nhưng còn giữ tâm hồn và ý tưởng của mình ngay thẳng trung thực. Vì sống ngay thẳng, nên người ta không cần thề thốt. Chúa Giêsu lên án những thói quen nơi người Do Thái bình dân thời bấy giờ. Họ thường lấy Danh Thiên Chúa hoặc Đền thờ Giêrusalem để thề, để chứng minh cho sự trung thực của mình. Chúa nói: đừng thề chi cả, nhưng có thì nói có, không thì nói không; thêm thắt đặt điều là do ác quỷ mà ra. Quả vậy, trong con người chúng ta vẫn có “ác quỷ” tức là mầm mống của sự dối trá. Bổn phận của người tin Chúa là phải làm sao để mầm mống của sự thật lớn lên và sinh hoa kết trái, đẩy lui ảnh hưởng của sự dối trá đang hủy hoại tâm hồn và làm cho con người lạc hướng.

Tác giả sách Huấn Ca dạy chúng ta hãy khôn ngoan trong cách sống và trong nhận định của mình. Nhờ khôn ngoan mà chúng ta chọn lựa những gì ích lợi thiêng liêng và bền vững, đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho những người xung quanh. Ông đã dùng một hình ảnh đơn sơ dễ hiểu: Đức Chúa đặt trước mặt con người lửa và nước, nếu muốn gì thì giơ tay mà lấy; Đức Chúa đặt trước mặt họ cửa sinh và cửa tử…Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội (Bài đọc I). Như thế, Thiên Chúa ban cho con người có tự do để chọn lựa sự sống hay sự chết cho mình, để rồi họ phải lãnh trách nhiệm về những chọn lựa cũng như những hệ lụy của chọn lựa ấy. Vì con người hay lạm dụng tự do, nên Chúa đã thiết lập lề luật làm nền tảng để lượng giá những hành động của họ. Lề luật của Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi lề luật của loài người, nên luật đó có giá trị ưu tiên. Mọi dân luật đều phải dựa trên luật của Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con người.

Nếu sự khôn ngoan là một chọn lựa và tìm kiếm để nên hoàn thiện, thì theo nhãn quan Kitô giáo, Chúa Giêsu chính là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa Cha. Đức Khôn Ngoan đã nhập thể, mang lấy thân phận con người để chung chia phận người với chúng ta. Thánh Phaolô quả quyết: rao giảng Đức Kitô là rao giảng sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Đón nhận sự Khôn Ngoan chính là đón nhận Thiên Chúa. Chính vì vậy, lý tưởng của người Kitô hữu là chính Chúa Giêsu, là Sự Khôn Ngoan vĩnh cửu và là Đấng Cứu độ trần gian. Thánh nhân cũng mời gọi chúng ta hãy hành xử theo sự khôn ngoan đích thực, chứ không phải lẽ khôn ngoan theo quan niệm thế gian. Trong tiến trình tìm kiếm sự Khôn Ngoan, có Thần Khí giúp đỡ chúng ta, để chúng ta không nản chí và không thất vọng.

Hành trình đức tin là hành trình tiến theo Sự Thật và tìm kiếm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được ơn kiên trung, để mặc dầu giữa những biến động của trần gian, chúng ta vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Một khi trung thành với Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ dễ dàng sống trung thực đối với anh chị em mình.

Về mục lục

.

ĐƯỜNG LỐI KHÔN NGOAN

Lm. Jos. DĐH.

Không biết từ bao giờ, cha ông chúng ta đã biết lưu ý con cháu: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Đâu phải tự nhiên mà các công trình xây dựng, thường thấy xuất hiện câu châm ngôn: an toàn là trên hết. Cũng đâu phải tình cờ mà các đấng bậc lại quả quyết: không phải hễ thứ gì long lanh sáng đều là vàng, không phải cứ trái đỏ đều chín. Người ta có thể đói khát do lười biếng, có thể thành đạt vì ý chí tốt quyết tâm cao, nhưng chắc chắn nhờ kiến thức rộng, người ta tự tin giải gỡ biết bao bài toán khó nơi cuộc sống. Đâu là cơ hội để làm giầu, phương pháp học nào, giúp ta trở thành người khôn ngoan, bằng suy nghĩ rất riêng tư, ai cũng có câu trả lời, nhưng thành bại, khôn hay khờ ra sao, lại là điều vô cùng mông lung. Đâu là đường lối khôn ngoan, nhiều người vẫn mơ được, ước thấy, căn bản hơn cả đó là được bình an hạnh phúc ở hiện tại và tương lai.

Mọi người mọi thời đều có thể nói một cách xác tín, bậc cha mẹ nào cũng yêu thương và muốn con cháu mình: đi đúng đường, về đúng lối. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đã từng thân thưa: “lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha”. Trong tư cách là thầy dạy đức tin, Đức Giêsu hôm nay đã nói với các học trò: “chúng con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật và các ngôn sứ, Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Rõ ràng Chúa Giêsu gián tiếp cho thấy Ngài tôn trọng lời răn dạy của tiền nhân, vì tất cả đều đến từ Thiên Chúa. Khôn ngoan đối đáp người ngoài, nhiều người vẫn cho đó là “khôn lỏi” ; khôn ngoan không loại trừ nhau, biết coi nhau là “huynh đệ”, biết cùng nhau tiến tới niềm vui thật, đạt tới sự sống và hạnh phúc thật, đó mới đáng gọi là khôn ngoan.

Xưa kia các môn đệ là những học trò trực tiếp nghe lời quả quyết của Đức Giêsu: “cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm một phết trong lề luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Đức Giêsu có nghiêm khắc không, “giáo hội” của Đức Giêsu hôm nay có cứng quá không, khi đòi buộc những ai thuộc về Đức kitô, người tín hữu muốn đạt tới sự khôn ngoan thật, đều phải biết duy trì tính bất di dịch việc sống đức tin: mến Chúa yêu người. Đồng ý rằng, cái gì mới cũng đẹp, điều gì hợp lý cũng thu hút được đám đông, nhưng đường lối khôn ngoan dẫn đưa đến hạnh phúc phải là “nền tảng vững chắc” cho đạo làm người, đạo làm con Chúa. “Đường lối chuẩn mực” chính là lề luật, là hàng rào che chắn để sự xấu không xâm phạm không làm hại ai.

Hẳn Đức Giêsu rất muốn các học trò hiểu luật lệ do ông Môisê chỉ dạy, qui định do các ngôn sứ loan báo đều đến từ Thiên Chúa, đó là đường lối khôn ngoan, là con đường dẫn tới sự sống đời đời. Đức Giêsu kiện toàn, làm mới, bằng cách mời gọi mọi người hãy đặt tình yêu thương vào trong lề luật, trong qui định mà Thiên Chúa qua các đấng bậc hướng dẫn chia sẻ cho chúng ta. Không những nghiêm túc với lời răn dạy của người xưa, Đức Giêsu còn nói: “nếu các người không công chính hơn các luật sĩ biệt phái, các ngươi sẽ không được vào Nước Trời”. Nhìn xem, phân biệt thật giả tốt xấu đã là khó, biết tiên liệu, cân nhắc điều đẹp ý Chúa để tập luyện, để sống, còn phức tạp biết bao !

Truyện cổ tích Thạch Sanh – Lý Thông, từ xa xưa đã phản ánh một chân lý ở hiền gặp lành, Thạch Sanh luôn nghĩ tốt, sống tốt với mẹ con Lý Thông ; dù bị hại nhiều lần, Thạch Sanh vẫn được giải oan, được cứu thoát, và đạt tới hạnh phúc. Ngày hôm nay, người trẻ vô cùng bi quan khi nói: lấy vợ lấy chồng là hên xui, kết hôn chỉ là bổn phận, vì Thạch Sanh thì hiếm, người tình trong mơ thì mãi là cuộc tình đẹp không xuất hiện. Cổ nhân có câu: sang trọng đâu phải đợi khi có chức tước, giầu có đâu phải đợi khi tủ đầy tiền. Có khi nào bạn và tôi ước ao sẽ là người hiền đức chưa, liệu tôi và bạn có dám quảng đại, xả thân, sống như người quân tử không ? Chúa Giêsu mời gọi các thành viên gia đình nhân loại hãy quyết tâm, hãy can đảm: “nếu tay nên dịp tội, nếu mắt nên dịp tội, hãy loại bỏ, chẳng thà các chi thể bị khiếm khuyết mà vào nước Thiên Chúa còn hơn có đủ mà phải vào chốn cực hình”.

Ngày hôm nay, giáo hội, xã hội, đều kêu gọi mỗi người hãy tôn trọng nhân phẩm con người, và chúng ta không thể dửng dưng đợi chờ người anh chị em nghĩ tốt sống tốt với mình, rồi ta mới bác ái yêu thương họ. Cũng không thể đợi tới lúc già lão bệnh tật ta mới ăn chay hãm mình ; không thể nói người ta sống sao, tôi sẽ cư xử với họ như vậy, vì đường lối khôn ngoan phải là biết nghĩ tốt, sống đúng đẹp với thiên luật, là không lỗi phạm đạo lý căn bản: tốt đạo – đẹp đời. Sau hết, Chúa Giêsu còn lưu ý chúng ta, đừng thề thốt chi cả, vì con người giới hạn, hãy cậy dựa vào tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa, để chúng ta biết nói có với Chúa và tha nhân, và nói không với ma quỷ. Amen.

Về mục lục

.

HOÀN THÀNH LỀ LUẬT

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và dân được tuyển chọn là bước khởi đầu để con người sống với nhau và với Chúa trên căn bản mười điều răn. Dần dần, vì những khung lề luật ấy mở rộng ra như là những định chế để họ bám theo cách máy móc, mất đi ý nghĩa về lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự. Lề luật dẫn đến không còn vâng phục Thiên Chúa mà chỉ theo hình thức. Sự yếu kém của lề luật không chỉ ra căn rễ của tội lỗi.

Lề luật mang tính hình thức.

“Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” (Mc 7, 7). Tính giới hạn của lề luật là sống vị luật, không kèm theo giá trị cốt lõi của lề luật. Luật mang tính hướng dẫn đời sống, song cũng vì thế mà có nhiều cách né luật để theo tự do của mình.

Tuân giữ lề luật một cách nghiêm chỉnh, người thanh niên vẫn thiếu một điều chính yếu, hiến dâng tất cả (Xem Mc 10, 17 – 21). Tuân thủ mọi điều răn một cách nghiêm túc, người thanh niên còn thiếu một điều vượt trên lề luật, buông bỏ tất cả để theo Chúa.

“Nói mà không làm” (Mt 23, 3). Dạy người khác tuân giữ lề luật nhưng chính họ lại không thực thi. Lề luật áp dụng trên người khác còn chính mình thì không.

Lề luật trói buộc người khác chứ không làm cho người ta tự do trong lề luật, như luật lệ ngày Sabat mà luật sỹ thường hay hỏi Chúa được phép làm hay không được phép làm? Chúa Giêsu hỏi lại họ, làm những việc lành, cứu chữa hay là mặc kệ (Xem Mt 12, 9 – 13).

Lề luật cần trở về với đúng nghĩa của nó như điều răn thứ nhất mời gọi: “Kinh mến Chúa trên hết mọi sự”.

Lề luật cần chỉ rõ căn nguyên tội lỗi.

Lề luật có khi che giấu tâm trạng bên trong, như luật không báo thù nhưng lòng vẫn căm phẫn. Như luật chớ ngoại tình những lòng vẫn dâm ô. Chúa Giêsu bảo cái gốc rễ sự xấu ở trong con người ra chứ không phải cái bên ngoài vào (Mc 7, 15). Thanh tẩy tâm hồn để việc giữ luật được nên trọn.

Lề luật để giới hạn con người trong chừng mực chứ không có chức năng chữa lành căn nguyên tội lỗi. Quyền năng tha tội đến từ Thiên Chúa, chứ không do con người giữ lề luật mà tẩy trừ tội lỗi. Chúa Giêsu chữa cho người bất toại: “Hãy vững lòng, tội lỗi của con đã được tha” (Mt 9, 2) thay vì nói hãy trỗi dậy mà đi!.

Tuân giữ lề luật của Chúa trên hết đó là quyền làm con Thiên Chúa. Như Thánh Vịnh có chép: “Hy sinh cùng lễ vật, Người đã chẳng màng, Người đã mở tai tôi, lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người đã chẳng đòi. Bấy giờ tôi nói: Này tôi đến! trong cuốn sách đã chép dạy tôi: “Phải thi hành điều thỏa lòng Người. Lạy Thiên Chúa tôi, tôi mộ mến luật Người tận đáy lòng” (Tv 40 8 – 9).

Hoàn thành lề luật như Chúa Giêsu muốn dạy: Hoán cải nội tâm và Tin vào Tin Mừng. Nhờ vào quyền năng của Chúa để được tha thứ. Thực thi mọi sự trong lòng kính mến Chúa. Tình yêu làm cho lề luật được hoàn thành.

Về mục lục

.

SỐNG YÊU THƯƠNG NHƯ CHÚA DẠY

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Theo thống kê của Bộ Y Tế trong dịp tết Canh Tý đã có hang ngàn người vì đánh nhau mà phải nhập viện. Đa số người nhập viện là thanh thiếu niên có sức khoẻ nhưng không làm chủ được bản thân.
Vì đâu mà người Việt nên nỗi? Đừng đổ lỗi cho thầy cô giáo, vì môi trường giáo dục nào cũng dạy học sinh phải trở thành người biết yêu thương, giúp đỡ mọi người. Đừng đỗ lỗi cho tôn giáo, vì tôn giáo nào cũng dạy biết yêu thương. Nhiều người  Việt Nam rất sùng đạo, điển hình là ngày tết số lượng người đến lễ Chùa có lẽ còn đông hơn đi du lịch. Vậy tại sao nhiều người vẫn bạo lực và bất khoan dung với nhau?
Người Công giáo luôn được Kinh Thánh dạy dỗ biết sống hiền lành và khiêm nhường , biết sống bao dung và ôn hoà như Đức Ky-tô, thế mà ở đâu đó ta vẫn thấy người có đạo đã sống thiếu tình yêu. Thậm chí, có người còn nói rằng tin đạo chứ không tin người có đạo. Bởi vì vẫn còn đó những người mang danh Ky-tô hữu mà sống thiếu bác ái, thiếu công bình và thiếu tình yêu. Họ đi lễ nhưng không dám sống thánh lễ trong cuộc đời của họ. Họ có đạo nhưng hành động của họ lại ngược với giáo huấn của Chúa. Họ vẫn đến nhà thờ nhưng vẫn trộm cắp gian tham, vẫn ăn gian nói dối, vẫn cãi nhau , chửi nhau giữa chốn chợ đời …
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống theo tinh thần Phúc Âm. Hãy ăn ở ngay lành. Hãy làm việc thiện. Hãy từ bỏ những tính hư nết xấu, những đam mê tội lỗi. Đừng có đạo mà sống xa rời tình nghĩa với anh em, xa rời tình nghĩa với Chúa. Đạo không dừng lại ở việc tuân giữ điều này điều kia mà còn thể hiện tình liên đới, sự chia sẻ, cảm thông với anh em. Đạo Chúa còn coi trọng sự hoà giải với nhau hơn cả việc đến dâng của lễ. Vì khi “anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang bất bình với anh, thì hãy bỏ của lễ mà đi làm hoà trước đã rồi hãy trở lại mà dâng lễ”.
Sống giữa một xã hội đầy hận thù như vậy, người ky-tô hữu chúng ta được mời gọi phải sống triệt để giới răn yêu thương để làm chứng cho Tin mừng. Yêu thương thì “chín bỏ làm mười”. Yêu thương thì nhẫn nại đến nỗi “người ta có tát má này thì đưa má kia cho người ta tát”. Yêu thương thì luôn sống bao dung và sẵn lòng cầu nguyện cho kẻ đã xúc phạm đến mình.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã tha thứ cho mọi tội khiên của nhân loại xin cũng tha thứ cho những yếu đuối của chúng ta, và xin Ngài giúp chúng ta cũng biết sống tha thứ và hoà giải với nhau. Amen

Về mục lục

.

CHỈ MỘT CHỮ YÊU

Bông hồng nhỏ

          Chúa Giêsu là một người thầy vĩ đại vì Ngài không dạy mà còn sống như lời mình đã dạy. Bao người mộ mến đi theo Chúa và được Người yêu thương. Thế nhưng, trước những việc làm tốt đẹp của Chúa Giêsu, các người Biệt phái và những người Pharisêu tỏ ra rất khó chịu, họ tìm cách giết Người. Các môn đệ cũng lầm tưởng theo kiểu thế gian về những việc Thầy đang làm. Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Chúa Giêsu đã kiện toàn điều gì nơi Lề Luật?

          “Anh em đã nghe Luật dạy rằng,… còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Đó là cách Người gợi nhắc cho các môn đệ nhớ lại điều Luật xưa đã dạy và lắng nghe điều Thầy dạy ngay lúc này đây. Tất cả những gì Luật Môsê chỉ dẫn, các môn đệ đều phải giữ nhưng bấy nhiêu thôi thì chưa đủ. “Nếu anh em không sống công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Các kinh sư và những người Pharisêu chỉ sống công chính bằng việc giữ Luật mà bỏ qua lòng nhân ái. Sự công chính mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người phải sống đó là luật yêu thương. Luật yêu thương sẽ giúp chúng ta vươn cao hơn mãi. Tình yêu sẽ làm cho con tim của chúng ta triển nở hơn mỗi ngày. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc sống yêu thương. Yêu thương là luôn đi bước trước. “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Ai trong chúng ta sẵn sàng bỏ qua tự ái để đi làm hòa với người khác? Của lễ nào là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa? Đó chẳng phải là tình yêu thương, lòng vị tha chúng ta dành cho nhau sao. Nếu như lòng tự ái của chúng ta cao quá, chúng ta vẫn ở lại dâng lễ vật đang khi tình huynh đệ đang bị rạn nứt thì nào có đẹp lòng Chúa đâu. Để có thể làm một bước đi mới như Chúa đòi hỏi, chúng ta cần để cho lòng mình lắng lại, để cho tình yêu chiến thắng ích kỷ và hận thù trong lòng, nhờ ơn Chúa, chúng ta mới có thể bước đến với người anh em, nhất là đến với người mà ta không mấy dễ chịu. Mỗi ngày, trước những chọn lựa, trong những chọn lựa và sau những chọn lựa của chính mình, chúng ta hãy tự hỏi: “Trong trường hợp này, con muốn như thế. Còn Chúa, Chúa muốn con làm gì?”.

Lạy Chúa Giêsu! Để sống được điều Chúa dạy, mỗi ngày Chúa vẫn mời gọi con vượt qua chính mình. Xin Chúa thanh luyện tâm hồn và trái  tim con, xin thánh hóa ánh mắt con, lời nói của con và những hành động con dành cho anh chị em con. Xin Chúa luôn ở lại trong trái tim của con, trong lý trí và ở lại trên ánh mắt của con, trong lời nói của con, trên từng việc con làm, để tất cả chỉ vì một chữ yêu mà con trở nên môn đệ của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

LUẬT ĐỂ LÀM GÌ?

Anna Cỏ May

Đi tới đâu, ở bất cứ nơi nào, chúng ta điều phải tuân thủ luật lệ ở đó. Có bao giờ chúng ta suy nghĩ và tự hỏi: Luật đặt ra để làm gì? Tại sao mọi người đều phải tuân giữ?

Mỗi người có một lối suy nghĩ và có câu trả lời riêng. Tuy nhiên, điểm cốt yếu chính là luật đề ra để nhắm đến lợi ích cho đất nước và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi người. Chúa Giêsu cũng khẳng định luật lập ra để phục vụ cho con người. Ngài đã nói với các môn đệ: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Ngài nhấn mạnh luật phải dựa trên tình bác ái yêu thương và phục vụ giữa con người với nhau. Bởi vì, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong lề luật cũng không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành (x Mt 5.18).

Chúa Giêsu đã nói: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”(Mt 5,19a). Vì vậy, luật Chúa Giêsu trao cho Giáo hội mà chúng ta đang thực hành chính là các điều răn. Các điều răn đó xuất phát từ Lời Chúa là Kinh Thánh. Khi tuân giữ các điều răn đó là chúng ta cũng đang tuân giữ luật xã hội. Như thế, chúng ta đã đạt đến sự sống ở đời này và cả đời sau. Thế nhưng, ngày hôm nay, chúng ta dễ rơi vào lối sống của thuyết tương đối, nghĩa là khi phạm luật, chúng ta tự nhủ với mình hoặc với người khác rằng “phạm một lần có sao đâu”, hay một câu nói khác để biện minh cho hành động sai của mình. Từ lối suy nghĩ và hành động biện minh dẫn tới biết bao tai hại xảy ra cho đất nước và cho mọi người. Bao lâu, chúng ta không tuân giữ luật trong tình bác ái là chúng ta đang sống một cuộc sống ích kỷ và vô tâm với người khác, gây ra sự xáo trộn cho xã hội và Giáo hội. Còn khi chúng ta tuân giữ và dạy người khác tuân giữ là chúng ta đang làm chủ luật và xây dựng đất nước, hướng đến cuộc sống Nước Trời. Chúng ta sẽ trở nên người công chính ngay khi ở đời này.

Lạy Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì đã bao lần chúng con thờ ơ trong việc tuân giữ luật Chúa. Xin Chúa cho mọi người chúng con ý thức và bắt đầu lại việc thi hành luật yêu thương. Từ đó, mỗi người chúng con được sống hạnh phúc và đất nước được an bình. Amen.

Về mục lục

.

TÔN TRỌNG PHẨM GIÁ CON NGƯỜI

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Con người có phẩm giá rất cao quý

Một hôm, vị linh mục giảng tĩnh tâm cho giới trẻ giáo xứ nêu đề tài sau đây cho hai nhóm thanh niên thảo luận: “Các bạn hãy cho ý kiến: phẩm giá của bức tượng Đức Mẹ (đề cập đến bức tượng Đức Mẹ chứ không đề cập đến Đức Mẹ đâu nhé) và phẩm giá của các Kitô hữu đang sống chung quanh ta, bên nào trọng hơn?”

Thấy câu hỏi dễ ợt, không cần suy nghĩ, nhóm A giơ tay phát biểu trước: “Tất nhiên là phẩm giá của tượng Đức Mẹ cao trọng hơn.”

Nhóm B trầm tĩnh hơn, sau khi suy nghĩ chín chắn, phát biểu ngược lại: “Phẩm giá người Kitô hữu cao trọng hơn.”

Nhóm A nhao nhao phản đối, nhưng rồi đại diện nhóm B bày tỏ lập luận của nhóm mình như sau:

Sở dĩ chúng tôi quả quyết phẩm giá người tín hữu cao trọng hơn phẩm giá của tượng Đức Mẹ là vì những lý do sau:

– Thứ nhất: Tượng Đức Mẹ không phải là hiện thân của Đức Mẹ mà chỉ là hình hài tượng trưng cho Đức Mẹ, do bàn tay người phàm tạo ra bằng thạch cao hoặc bằng gỗ đá, không có linh hồn, không có sự sống; trong khi những con người chung quanh ta đây thực sự là hình ảnh sống động của Thiên Chúa, là hiện thân của Chúa Giêsu, có linh hồn, có sự sống, có trí khôn, do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Chúa.

– Thứ hai: Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Tẩy để tái sinh các tín hữu, cho họ trở nên con Thiên Chúa, cho họ được tháp nhập vào thân mình Chúa như cành nho tháp vào thân nho, như bàn tay nối liền cơ thể, để các tín hữu được trở nên chi thể của Chúa Giêsu. Các bức tượng thánh không được vinh dự đó.

– Thứ ba: Các tín hữu đều được lãnh nhận dồi dào Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức; ảnh tượng Đức Mẹ không được đặc ân rất cao quý nầy.

– Thứ tư: Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể để ban Thịt Máu Ngài cho các tín hữu, cho họ được trở nên đồng huyết nhục với Ngài, cho họ được tiếp nhận sự sống thần linh của Ngài. Các bức tượng thánh không được vinh dự tuyệt vời như thế.

– Thứ năm: Mai đây, các bức tượng thánh sẽ bị mai một theo thời gian, còn các tín hữu sống theo đường lối Chúa sẽ được lên thiên đàng hưởng phúc đời đời với Chúa. Không một bức tượng thánh nào được diễm phúc lớn lao như thế.

Đến đây thì nhóm A không thể chống chế được và tất cả đều chấp nhận rằng phẩm giá người tín hữu nói riêng, của con người nói chung, là rất cao cả. Chưa có một chủ nghĩa, một học thuyết nào của nhân loại đề cao phẩm giá con người đến thế.

Cuối cùng, vị linh mục giảng tĩnh tâm kết luận: Như thế, chúng ta chấp nhận rằng con người có phẩm giá rất cao và mọi người đều đáng được kính trọng tương xứng với phẩm giá của mình. Tuy nhiên, khi đề cao phẩm giá người Kitô hữu hơn tranh ảnh thánh không có nghĩa là bác bỏ việc tôn kính ảnh tượng thánh. Đúng ra, chúng ta phải tôn kính ảnh tượng Đức Mẹ và các thánh như Giáo Hội dạy, và mong sao chúng ta cũng có lòng tôn trọng tương xứng đối với anh chị em chung quanh.

Không được xúc phạm con người

Vì con người có phẩm giá cao cả như thế, nên Chúa Giêsu rất mực tôn trọng họ, kể cả những người tội lỗi và Chúa đã mạnh mẽ cảnh báo rằng: người nào xúc phạm đến con người, chà đạp danh dự con người, làm tổn thương phẩm giá con người sẽ phải gánh lấy những hình phạt nặng nề:

“Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” (Mat-thêu 5, 22)

Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta rằng tha nhân là hiện thân của Ngài và tất cả những gì chúng ta làm cho các anh chị em chung quanh là làm cho chính Chúa. (Mat-thêu 25,40)

Vì thế, khi chúng ta giận ghét anh em mình là giận ghét Chúa, tội đó đáng bị đưa ra toà; khi ta mắng anh em là ngốc, là khùng, chửi anh em là quân phản đạo… là chúng ta xúc phạm đến chi thể của Chúa Giêsu, tức là xúc phạm đến chính Ngài, vì thế nên đáng bị vạ lửa địa ngục như Lời Chúa phán.

* * *

Từ lâu nay, vì đánh giá thấp về người khác nên chúng ta cho rằng việc chửi mắng họ là chuyện thường tình. Nay Chúa Giêsu cho biết đó là một xúc phạm nặng đến phẩm giá cao cả của người khác, đồng thời cũng là xúc phạm đến Chúa nên phải bị luận phạt nặng nề.

Ước chi nhận thức nầy giúp chúng ta có thái độ tôn trọng tha nhân nhiều hơn và tuyệt đối không bao giờ chửi mắng, xúc phạm bất kỳ ai.

Về mục lục

.

ĐỪNG GIẬN GHÉT

Lm Inhaxiô Nguyễn Văn Đức

Chương 5,6,7 của Tin Mừng Matthêu nói về đức công chính của người môn đệ với hai nội dung chính: Tin, cầu nguyện và thể hiện niềm tin ấy trong đời sống thực hành luân lý hằng ngày.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các môn đệ thực hành niềm tin bằng cách: đừng giận ghét. Chúa dạy như vậy có khả thi không? Bởi vì trên đời này, dù một người hiền lành đến mấy cũng không tránh khỏi đôi lần nổi giận. Chính Chúa Giêsu cũng đã nổi giận với những người buôn bán trong Đền thờ kia mà!

Thưa, giận thì được nhưng đừng ghét! Nói cách khác, chúng ta không chấp nhận tội lỗi nhưng chúng ta không ghét người tội lỗi; ghét có nghĩa là loại trừ họ. Đến như nhạc sĩ Phạm Duy mà còn hát: kẻ thù ta đâu phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?

Chúa Giêsu tố cáo tội lỗi nhưng lại thương những người tội lỗi và thường đứng về họ trước sự chỉ trích của những người tự cho mình là người công chính:”bọn đĩ điếm và tội lỗi sẽ vao nước Trời trước các ngươi”. (Mt 21,32). Chúa Giêsu không chỉ nói đến sự giận dữ mà Ngài còn muốn phải làm hòa trước khi thể hiện niềm tin Chúa khi dâng lễ và cầu nguyện. (Mt 5,23-24)

Chúng ta biết giận là một trong thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục thuộc về bản tính con người.Giận là tức. Khi giận thường mất khôn và nói quá lời. Tức ai thì nói cho đã tức nhưng sau đó lại hối hận. Cũng có lúc hối hận thì đã muộn rồi. Vậy trong thực tế, một người nóng tính, hay giận (như Phêrô, nóng lên, liền chém đứt tai tên đầy tớ Thầy cả thượng phẩm) có thể chừa hay từ bỏ tính nóng giận của mình không?

Từ bỏ hẳn thì không,vì nó thuộc bản chất con người, nhưng làm chủ được nó thì có thể. Một người biết mình nóng tính, nên thường ngày tập sống tha thứ, tập sống dịu dàng, vui vẻ với mọi người; từ từ người đó sẽ làm chủ được những cơn nóng giận của mình.

Vậy lời Chúa dạy hôm nay: đừng giận ghét, thì ta phải hiểu rằng: ta không được ghét ai, nghĩa là loại trừ họ, đó là điều trái với đức thương yêu, nhưng đồng thời ta cũng phải tập làm chủ nhưng cơn nóng giận của mình. Việc đó có thể làm được với ơn Chúa và nhất là với đời sống cầu nguyện, vì đó là cách thức chúng ta dễ nâng tâm hồn lên với Chúa để Ngài thanh luyện tâm hồn chúng ta thuộc về Chúa và gần gũi với tha nhân hơn.

Về mục lục

.

LỀ LUẬT MANG DÁNG ĐỨNG TÌNH YÊU

Lm. Giuse Trương Đình Hiền

Sau khi dân Ít-ra-en được Mô-sê dẫn ra khỏi đất Ai Cập, thoát khỏi cuộc đời lầm than nô lệ, thì Thiên Chúa muốn họ hướng về tương lai trong một niềm hy vọng ngút ngàn để xây dựng cuộc đời mới trong tự do, tươi sáng.

Và để làm nền tảng cho cuộc sống mới của Đoàn Dân Được Tuyển Chọn, Chúa đã trao ban cho họ một “bảng hiến pháp” tuyệt vời, đó là MƯỜI ĐIỀU RĂN, mà Ngài đã long trọng khắc ghi vào bia đá, giao cho Mô-sê từ trên đỉnh núi Si-Nai trong khung cảnh uy hùng khói bốc, lửa dậy.

– Kể từ đây, họ sẽ được tự do thờ phượng một Thiên Chúa đích thực mà không còn phải nô lệ cho những thần tượng giả tạo hay những thứ mê tín dị đoan của người Ai Cập và dân ngoại. (Điều răn I)

– Kể từ đây, họ sẽ chọn Thiên Chúa là Cha đang đồng hành và hiện diện giữa họ, để họ có thể gặp gỡ và thân thưa cách thân tình, phụ tử, chứ không còn là một thần tượng xa vời, kết buộc con người bằng những lời thề thốt giả tạo. (Điều răn II).

– Kể từ nay, họ có một ngày nghĩ lễ Sabat tuyệt vời trong tuần để dành riêng thờ Chúa và sống đậm đà tình huynh đệ cộng đoàn, chứ không phải nơm nớp lo sợ cúi đầu để thờ phượng lung tung những thần tượng trống rỗng và bị trói buộc mỗi phút mỗi giây trước những quyền lực phù phiếm và trần tục. (Điều răn III)

Do Thái không còn có thể xảy ra việc giết người, ngoại tình, trộm cướp, làm chứng gian, cáo tội đồng loại….(Các điều răn V, VI, VII, VIII)

– Kể từ nay trong cộng đồng và trong xã hội Do Thái không ai còn nghĩ đến chuyện ham muốn nhà cửa hay mê vợ của kẻ khác, hoặc muốn chiếm hữu tớ trai tớ gái hoặc bò lừa và bất cứ vật gì của người đồng loại….(Điều răn IX, X)

Đây quả thật là giấc mơ cho tương tai hoàn toàn được giải phóng và tự do, giải phóng khỏi sự sợ hãi của những tộc ác và tự do khỏi những cơn cám dỗ, khỏi những khuynh hướng làm ác.

Nhưng rồi, qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, cho tới thời Chúa Giêsu, Bản Luật Mười Điều Răn đó, đã được người Do Thái chú giải, bày đặt, thêm thắt thành hàng ngàn khoản luật nhỏ, đến độ biến thành một “mớ bòng bong lề luật” truyền khẩu chi li, rườm rà, gần như che khuất hết vẽ đẹp rạng ngời và trong sáng thánh thiện của Mười Điều Răn. Thay vì Giới Luật của Chúa nhằm để giải thoát và cho con người được tự do trong tình yêu, lề luật đã trở thành những thứ giây chằng chịt trói buộc, biến mối tương quan giữa người và Thiên Chúa trở nên xa cách và người với người trở nên lạnh lùng.

Vì luật họ để mặc những anh chị em bịphung cùi chết dần chết mòn trong hoang mạc với cuộc sống hoàn toàn bị cách ly, gạt bỏ.

Vì luật, họ chẳng thèm giao tiếp với những anh chị em thu thuế, những người Samari, những bà con lương dân thấp cổ bé miệng.

Vì luật họ khinh thường và loại trừ những hạng người như cô gái làng chơi Maria Mađalêna, hay chàng Gia-kê trưởng ty thuế vụ, hoặc người mù từ lúc mới sinh lê lết bên bờ cuộc sống…

Họ đã biến tôn giáo mặc khải trở thành tôn giáo của luật lệ, và biến lề luật trở thành những chữ viết vô hồn trong sách vở của họ hay trên những tua áo họ mang trên mình mà hoàn toàn không còn chút sức sống của tình yêu, của con tim để dành cho Thiên Chúa là Cha và cho mọi người là anh em.

Chính Đức Kitô đã phê phán nặng nề thái độ nầy của đám biệt phái, luật sĩ đương thời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa” (Mt 15,3)

Đức Kitô đã đến để đem lại sức sống và vẽ đẹp tuyệt vời cho lề luật. Hôm nay, Ngài chính thức tuyên bố với những tay biệt phái bảo thủ, từng theo dõi mọi lời rao giảng và mọi hành vi của Ngài, những điều mà họ hoàn toàn dị ứng với nếp nghĩ và ứng xử tôn giáo của họ.

“Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.”

Và điều cốt yếu mà Đức Kitô muốn thiết lập để kiện toàn Lề Luật đó chính là Tình Yêu. Tình yêu dành cho Thiên Chúa và Tình Yêu đối với con người. Mọi luật lệ đều phải quy chiếu vào nội dung cơ bản nầy. Đức Kitô muốn những ai là môn sinh của Ngài phải chu toàn Lề Luật trong tinh thần đó:

“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

Sự công chính mới mà Ngài muốn các môn sinh của Ngài thực hiện không được dừng lại trên việc tuân thủ cách hình thức và đúng mực theo quy định của Lề Luật; nhưng tiên vàn đó là thái độ tinh thần và con tim làm nền tảng và định hướng cho mọi ứng xử.

Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy, nếu anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. …

Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. …

Qua những lời tuyên bố cụ thể đó, Chúa Giêsu muốn nội tâm hóa lề luật, để con người không chỉ dừng lại trước việc thực thi và tuân thủ máy móc; nhưng là phải có một trái tim, một tinh thần, một tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.

Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Ai yêu thương thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13,8) và thánh Augustinô cũng nhắc nhở: “Bạn hãy yêu thương đi rồi làm theo ý bạn muốn” (Ama et fac quod vis).

Chúng ta đang sống trong một xã hội mà “luật lệ thì đầy dẫy”, nhưng người ta chỉ muốn xài “luật rừng”.

Luật cấm giết người ai mà không biết. Nhưng mỗi ngày có biết bao nhiêu vụ giết người man rợ đã xảy ra. Vào đúng ngày Lễ Tình Nhân hôm qua (14/2/2014), tại Đà Nẵng đã xảy ra một vụ án mạng kinh khủng. Một chàng thanh niên đã đâm chết người yêu rồi nhảy lầu tự tử.

Luật thương mại, sản xuất có đầy đấy chứ. Nhưng ngoài thị trường hàng giả, hàng nhái đầy dẫy. Luật giao thông có đấy, nhưng hàng ngày biết bao tai nạn thương tâm vì người ta bất cần luật…

Luật cấm mê tín dị đoan có đấy chứ. Nhưng từ cán bộ trung ương đến hàng hàng lớp lớp dân chúng thay nhau mà cướp ấn của Đền Trần trong ngày hội khai ấn vừa qua tại Ninh Bình để mong được cầu tài và phúc lộc vật chất, cho dù phải dẫm đạp lên nhau, sống chết mặc kệ.

Phải chăng vì con người hôm nay đã đánh mất cái tâm, cái tinh thần tương thân tương ái, cái trái tim để yêu thương và tương kính lẫn nhau.

Như vậy, chúng ta, những người được chính Đức Kitô dạy bảo: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”, chúng ta phải là chứng nhân cho một thế giới mới, một thế giới được giải thoát khỏi những u mê lầm lạc của mê tín dị đoan và nô lệ cho những thần tượng giả mạo; một thế giới đầy tình huynh đệ yêu thương trong mái nhà của con cái cùng một Cha chung duy nhất.

Và con đường để thực thi đời sống chứng tá đó không gì khác là cùng nhau tuân giữ và thực hành Lề Luật của Thiên Chúa trong tinh thần yêu thương mà Đức Kitô đã dạy. Nói cách khác, luật của người Kitô hữu là luật mang dáng đứng tình yêu.

Về mục lục

.

HÃY NÊN HOÀN THIỆN

Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng

“Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt.5,48).

Đó là mục đích cuối cùng của Chúa Giêsu, nâng con người lên “hoàn thiện” để trở về địa vị cao cả đích thực của con người là “làm con Thiên Chúa”, Đấng là Cha trên trời – Đấng hoàn thiện.

Nhưng con đường nào dẫn con người đến hoàn thiện?

Luật trần gian

Một người phụ nữ ngoại đạo có một đứa con gái yêu một chàng trai Công Giáo. Nhiều người trong thân tộc của bà không đồng ý, vì họ đều là những tín đồ ngoan đạo của tôn giáo mà họ đang theo. Chàng trai chỉ cưới cô gái nếu cô gái cùng chung niềm tin với mình. Cô gái cũng mến mộ đạo Công giáo và muốn vào đạo. Sự quyết định cuối cùng là của người mẹ. Bà nói: “Tôi đồng ý cho con tôi vào đạo Công giáo. Tôi muốn nó lập gia đình với một người có Đạo. Đạo nào cũng được, miễn đừng vô đạo thôi”.

Từ “vô đạo” ở đây, có lẽ theo ý bà, là “không có đạo”, “không theo một tôn giáo nào”. Chứ còn từ “vô đạo” mà nói chung chung, thì nghe nặng lắm. Thí dụ người ta nói: tên ấy là quân vô đạo. Vì theo cách hiểu thông thường, đạo là “phép tắt đối xử trong xã hội, ai cũng phải biết và phải tuân thủ, giữ gìn: đạo làm người, ăn ở sao cho phải đạo, đạo vợ chồng” (Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên).

Vì không phải ai cũng sống theo “đạo làm người”, nên con người phải đặt ra bộ luật rõ ràng, minh bạch để người ta tuân giữ và thưởng phạt khi cần thiết. Luật, do đó, nó chứa đựng “đạo lý con người”, như “kim chỉ nam” để con người sống cho ra người, sống đúng đạo làm người.

Nhưng, “Luật trần gian” có giới hạn của nó. Lòng tham, sự yếu đuối, cùng với khát vọng vô bờ bến, con người không thể sống tốt chỉ với những luật lệ trên giấy trắng mực đen đó. Người ta có thể lòn lách để trách né luật lệ, và có khi dùng chính luật lệ đó để bảo vệ sự an toàn cho mình và sống lạnh lùng đối với tha nhân.

Luật Thiên Chúa theo cách giảng dạy của trần gian

Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người trở về địa vị nguyên thủy của mình là “làm con Thiên Chúa”. Thiên Chúa giáo huấn cho con người một cách tiệm tiến theo dòng Lịch Sử Cứu Độ, và Ngài muốn con người được sống thăng hoa và ngày một trở nên thánh thiện với giáo huấn của Ngài qua các ngôn sứ, mà đỉnh cao trong Cựu Ước là Mười Điều Răn được truyền qua Môsê trên núi Si-nai.

Nhưng, Giới Luật Thiên Chúa cũng bị giới hạn qua cách suy nghĩ, cách diễn tả, và cách sống của con người.

Toàn bộ “Lề luật”, trong sách Luật Do Thái, được rút và diễn nghĩa từ Cựu Ước, gồm 613 điều luật, trong đó điều cấm là 365, còn điều phải làm là 248, không tính những điều luật phụ. Thoáng nhìn qua, có vẻ như rất minh bạch. Luật có hai loại “khinh luật”, và “trọng luật”, khinh luật thì bị phạt, còn trọng luật thì phải bị tử hình.

Nhưng, tuy dù là “Luật Thiên Chúa”, phàm nhân đã cắt nghĩa theo cách hiểu và ý muốn của con người, nên Luật Thiên Chúa đã thành ra gánh nặng và phương tiện trục lợi cho con người.

“Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt. 23,4).

“Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không, còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc” (Mt. 13,18).

“Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế các ông dựa và truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa.” (Mt. 15,4).

Lời Thiên Chúa không được hiểu đúng và làm đúng, vì không có sự chân thật trong lòng người. Nhưng làm sao có sự chân thật khi con người không có Tình Yêu Chân Thật đối với Thiên Chúa?

Cuối cùng, lối sống đạo đức giả của những người có trách nhiệm giảng dạy phân phát Lời Chúa đã biến đổi Lời Chúa thành thứ “Giới luật phàm nhân” phục vụ cho quyền lợi riêng họ.

“Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt.15,7).

Luật Thiên Chúa theo cách giảng dạy của Chúa Giêsu

“Thưa Thầy, trong lề luật, điều răn nào trọng nhất?”

Chúa Giêsu đã trả lời ngay ông tiến sĩ luật hỏi Ngài câu hỏi đó: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Đnl.6,5).

Nghĩa là, Luật Thiên Chúa còn đó! Đúng như lời Ngài đã khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc giáo huấn của các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, và cho đến khi mọi sự được hoàn thành, thì một chấm một phết trong sách luật cũng không thể bỏ đi được” (Mt5,17-18).

Chúa Giêsu đến, như Ngài đã nói, là để kiện toàn lề luật.

“Kiện toàn” ở đây không phải là để “đánh bóng” Lời Chúa theo ngôn ngữ loài người, mà giúp con người mở rộng lòng ra để biết đón nhận và sống Lời Chúa đúng theo thánh ý Chúa hơn. “Ta sẽ ban tặng các con một trái tim mới, Ta sẽ đặt vào lòng các con một tinh thần mới, Ta sẽ lấy trái tim chai đá ra khỏi lòng các con, và ban tặng các con một trái tim bằng thịt biết yêu thương. Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào lòng các con để làm cho các con theo đúng luật của Ta” (Ez.36,23-27).

“Trái tim mới” ấy, trái tim “biết yêu thương” ấy, là trái tim theo mẫu mực “Trái Tim Giêsu”.

Vì không có “tình yêu” nào như “Tình Yêu Giêsu”. Không có trái tim nào như “Thánh Tâm Giêsu”.

Vì chỉ có “Trái tim Giêsu” mới yêu Chúa Cha đến mức vâng phục trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa.

“Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (Lc.22,42).

Vì chỉ có “Trái Tim Giêsu” mới yêu con người đến hiến mạng vì con người. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga.15,13).

“Tình yêu Giêsu” là tình yêu giao hòa giữa con người và Thiên Chúa, giữa con người với nhau. Là Hiến Lễ Tình Yêu con người dâng lên Thiên Chúa và là Lễ Vật Tình Yêu con người trao tặng nhau.

“Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt.5,23-24).

Và, tất cả đều bắt đầu từ “một Tình Yêu”. “Yêu như Giêsu”.

Khởi nguồn là Tình Yêu con người đối với Thiên Chúa. Một tình yêu sâu đậm vượt trên tất cả. Phải có một tình yêu như thế, con người mới có thể yêu tha nhân đến quên mình, khi nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi anh em mình.

“Nhưng điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy, là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Lv.19,18).

“Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm,Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta… Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt.25,36).

Điệp ngữ “Anh em đã nghe Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết” được lập đi lập lại nhiều lần, cho thấy sự dứt khoát và quyền năng của Chúa Kitô trên Lề Luật.

“Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabát.” (Mc.2,27-28).

Lề Luật sẽ được kiện toàn nhờ lòng người thăng tiến, nhưng xem ra, con người vì tội lỗi, tham vọng và tư lợi, đã làm Lề Luật trở nên thứ ách nặng nề, nó chỉ còn là thứ trang điểm bề ngoài cho một nền đạo đức giả tạo và trên đà băng hoại. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã lưu ý các môn đệ của Ngài, cũng chính là giáo huấn chúng ta: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và nhóm Pharisêu, thì anh em sẽ chẳng vào Nước Trời”.

“Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài” (Mt.23,5).

“Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc.18,11).

Điệp ngữ “Anh em đã nghe Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” được lập đi lập lại nhiều lần, cho thấy rõ khoảng cách mức độ thăng tiến mà Chúa đòi hỏi nơi con người để Luật Chúa được kiện toàn sánh với cách con người đang “tuân giữ Luật Chúa” còn rất xa.

Một tên xã hội đen tìm được một tình yêu chân chính, anh quay lại nẻo thiện lương, hòa nhập vào xã hội, và sống hạnh phúc đời thường. Anh có vợ đẹp, con ngoan. Anh chạy xe lôi, cuộc sống vừa đủ, có phần vất vả, nhưng anh cảm thấy thanh thản tâm hồn và bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Một ngày kia, một người đàn ông mang kính râm gọi xe anh. Khi xe chạy đến một đoạn đường vắng, khách bảo dừng lại. Người khách bất ngờ rút súng chĩa thẳng vào anh. Hắn kể tội anh khi anh còn thuở giang hồ. Anh quỳ xuống xin tha. Anh xin lỗi vì nợ giang hồ, nhưng anh xin cho anh được sống để nuôi vợ con. Một tiếng nổ khô khan. Anh nằm xuống cùng với ước mơ hoàn lương không trọn.

Sự “sòng phẳng” và “công bình” kiểu con người hiểu và mong muốn không thể giúp con người hoàn thiện được.

“Anh em đã nghe Luật dạy ‘ Mắt đền mắt, răng đền răng’. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt.5,38).

Hoàn Thiện theo Gương Chúa Giêsu

Cuối cùng, chỉ có Tình Yêu – và Tình Yêu như Đức Kitô – mới nâng con người lên đỉnh “hoàn thiện”. Chỉ có Tình Yêu như Đức Kitô mới giúp con người có thể sống với Lề Luật kiện toàn mà thánh ý Thiên Chúa mong muốn qua Giáo Huấn Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, Ngài đến để kiện toàn Lề Luật.

Kiện toàn Lề Luật để con người được trở nên hoàn thiện,

Hoàn thiện theo gương của Ngài – Đức Kitô,

“Ta là Ánh sáng thế gian” (Ga.8,12).

“Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”(Ga.14,6).

và hoàn thiện như “Cha trên trời”, là Đấng hoàn thiện.

Lạy Chúa,

Xin cho con được trở nên hoàn thiện,

nhờ bền lòng vững chí,

bước đi theo con đường Thập Giá Đức Kitô. Amen.

Về mục lục

.

THẦY BẢO CHO ANH EM BIẾT

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Thiên Chúa là một nhà giáo đầy kinh nghiệm. Ngài đòi hỏi con người phải vươn lên, vươn cao lên mãi, nhưng Ngài không đòi hỏi điều vượt quá khả năng của họ.

Khi ban Mười Điều Răn cho dân Israel, qua ông Môsê, Ngài đưa họ ra khỏi tình trạng sống theo luật rừng. Luật Môsê là một tiến bộ lớn trong nền luân lý, nhưng vẫn chỉ là bước chuẩn bị cho luật của Đức Giêsu.

Luật mới này không phá bỏ, nhưng kiện toàn luật cũ.

Kitô hữu không chỉ xét mình theo Mười Điều Răn, mà hơn nữa còn xét mình theo tinh thần Bài giảng Trên núi. Lời của Chúa Giêsu phải là thước đo để ta xét mình. Có khi nào bạn tự kiểm dựa trên một đoạn Tin Mừng không?

Đoạn Tin Mừng hôm nay mời ta nhìn lại miệng và mắt, hai giác quan dễ được dùng để phạm tội.

Miệng là nơi phát xuất những lời lăng mạ, dối trá. Lời nói biểu lộ tâm hồn con người: lòng có đầy mới tràn ra miệng (x.Mt 12,34). Khi đêm về, nhìn lại những gì mình đã nói, ta thường thấy có rất ít yêu thương và sự thật, nhưng lại đầy ắp cái tôi ích kỷ, lọc lừa.

“Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng làm chủ được toàn thân (Gc 3,26).

Mắt là cơ quan tiếp thu thế giới bên ngoài. Mắt không chỉ là cửa sổ, mà là cửa chính của tâm hồn. Các cơn cám dỗ thường qua cửa đó mà đến với ta.

Mắt thích nhìn cái đẹp. Eva nhìn trái cấm, Đavít thấy người phụ nữ khỏa thân.

Cái nhìn đem lại khoái lạc và thổi bùng lên ngọn lửa thèm muốn, khiến người ta dám làm chuyện trái luân thường đạo lý.

Chúng ta đang bị bao vây trong một thế giới đầy hình ảnh. Tivi, phim ảnh, sách báo, video, thời tranh, quảng cáo… tất cả tìm cách lôi cuốn cái nhìn của ta, kích thích khoái lạc nơi con mắt và cả thân xác.

Những điều cao quý và thiêng liêng như thân xác, như đời sống thầm kín vợ chồng lại bị trở thành tầm thường, dung tục. Tình yêu chỉ còn là vội vã chiếm đoạt thân xác nhau trong cơn mê say nhất thời, chứ không phải là sự trân trọng hiến dâng chính mình trong một quyết định chín chắn và đầy trách nhiệm.

Đức Giêsu nói đến thứ ngoại tình do cái nhìn thèm muốn.

Làm sao tôi giữ được đôi mắt trong suốt của trẻ thơ?

Làm sao để trí tưởng tượng và trí nhớ không bị vẩn đục?

Làm sao để tôi nhìn người phụ nữ như chị, em của tôi?

Làm sao để chính người phụ nữ không tự biến mình thành đồ chơi để người khác ngắm nghía?

Gợi Ý Chia Sẻ

“Thành thật thường thua thiệt”, bạn có thấy điều đó đúng không? Bạn có nghĩ rằng thành thật là đức tính nền tảng cho mọi tương quan giữa người với người không?

Nơi giới trẻ đã có nhiều biểu hiện của sự trụy lạc, sa đọa. Bởi đâu có những tệ nạn như thế? Giới trẻ công giáo đóng góp gì để bầu khí xã hội được thanh khiết?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,

xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và that vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

Về mục lục

.

CÔNG CHÍNH HƠN

Lm. Phêrô Trần Đức Cường

“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì không được vào Nước Trời”

Phụng Vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật thứ VI thường niên mời gọi chúng ta sống công chính để được vào Nước Trời. Tuy nhiên không phải bất cứ thứ công chính nào mà phải là “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” mới được hưởng hạnh phúc đó. Thế nào mới là “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu”?

Trong thời Chúa Giêsu, các kinh sư và người Pharisêu tuy thuộc hai nhóm khác nhau nhưng rất nhiều kinh sư cũng đồng thời thuộc nhóm Pharisêu (Cv 23,9) như ông Ga-ma-li-ên (Cv 5,34), hoặc phần lớn ủng hộ lập trường của nhóm Pharisêu. Theo Phúc Âm kể lại, những kinh sư và người Pharisêu thường đứng chung một phe để chống lại Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu khi lên án người Pharisêu cũng gộp chung cả giới kinh sư vào một nhóm (Mt 23; Lc 11,37-53).

Các kinh sư và người Pharisêu là những người chuyên môn am hiểu Kinh Thánh; họ chuyên giải thích và áp dụng luật Môsê, một hệ thống luật chi li phức tạp mà ngoài họ ra, không mấy ai dám nói mình thông thạo. Càng ít người hơn dám nói mình chu toàn đầy đủ những khoản luật đó. Thế mà họ thì dám. Họ dám tự hào mình là những người tự hào mình là người công chính (Lc 18,9-14). Phúc Âm thánh Luca, khi nói về ông bà Dacaria và Êlisabét là “người công chính trước mặt Thiên Chúa” đã mô tả đó là những người “sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6). Nói về công chính, các kinh sư và người Pharisêu phải được kể là những nhà quán quân. Không những họ giữ mọi điều răn giới luật “không ai chê trách được điều gì” mà còn làm hơn những gì luật đòi hỏi nữa.

Giữ luật được bằng họ đã khó, thế mà Chúa Giêsu gọi họ là “những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời” (Lc 16,14) và còn yêu cầu phải công chính hơn họ mới được vào Nước Trời. Sự “công chính hơn” mà Ngài yêu cầu đó hệ tại điều gì? Cách giữ luật của các kinh sư và người Pharisêu không được Chúa Giêsu coi là công chính mà trái lại còn bị Ngài lên án là giữ luật theo hình thức bên ngoài, để tìm kiếm hư danh, chú trọng những tiểu tiết mà bỏ qua điều cốt yếu, hoặc thậm chí chỉ nói mà không thực hành (x. Mt 23,1-32; Lc 11,37-48). Vậy muốn công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì các môn đệ Chúa Giêsu phải tránh được những sai lầm mà họ đã vấp phải. Chúa Giêsu đối chiếu cho chúng ta những phương diện khác nhau giữa cách giữ luật của người Pharisêu và cách giữ luật như Chúa dạy để chúng ta biết thế nào là “công chính hơn”.

Trước tiên để trở nên “công chính hơn”, Chúa dạy phải giữ luật với cả tấm lòng, từ tận đáy lòng và là tấm lòng yêu mến. Quả thật khi giận ghét, người ta muốn loại trừ kẻ khác ra khỏi ý thức của mình, và hành vi giết người chính là đẩy tư tưởng đó trở thành hành động loại trừ sự hiện diện của người khác khỏi cuộc sống dương gian này. Vì thế, nếu chúng ta khử trừ khỏi tâm hồn chúng ta lòng giận ghét thì có thể nói chúng ta đã khử trừ tận gốc rễ hành vi giết người. Để trở nên “công chính hơn” Chúa Giêsu dạy: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.” Cũng thế, để khỏi ngoại tình bằng hành động, trước tiên phải loại bỏ những ước muốn ngoại tình trong tư tưởng đã.

Mặt khác điều làm cho chúng ta nên công chính không phải là công việc chúng ta làm mà là do tác động của ân sủng Chúa thánh hoá chúng ta. Chính Thiên Chúa là nguyên lý và xác định chuẩn mực cho cuộc sống của chúng ta từ tư tưởng, cho đến lời nói và việc làm. Chính vì thế, Chúa dạy ‘trọn lời thề với Thiên Chúa” và “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.

Và trên hết, “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” có nghĩa là công chính như Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Giêsu Kitô. Khi chứng kiến Chúa Giêsu chịu đóng đinh chịu chết trên thập giá viên đội trưởng Rôma đã tuyên xưng: “Người này đích thực là người công chính” (Lc 23,47). Sự công chính được trọn vẹn nơi Chúa Kitô hiến thân mình chịu chết để đền bù tội lỗi cho nhân loại.

Nói tóm lại sự công chính mà Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài là sự công chính có nền tảng và động lực nơi chính Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thánh thiện, sự công chính ấy phải phát xuất từ tâm hồn con người, được thực hiện với tình yêu mến trong sự kết hợp với Chúa Kitô chịu đóng đinh. Một cách cụ thể, để “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” chúng ta không chỉ giữ luật Chúa bằng công việc hình thức bên ngoài mà giữ với lòng yêu mến Chúa, giữ luật không vì lý do nào khác ngoại trừ vì Chúa muốn như thế, và để làm đẹp lòng Chúa. Và nhất là sự công chính cao cả nhất chính là noi theo và kết hợp với mẫu gương của chúng ta là Chúa Giêsu tự hiến thân mình để đền bù tội lỗi qua việc chính chúng ta cũng biết hy sinh quên mình và phục vụ anh chị em trong tinh thần khiêm tốn.

Về mục lục

.

ANH EM PHẢI CÔNG CHÍNH HƠN CÁC KINH SƯ

Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Trích từ bài giảng trên núi trong Mt, bài Tin Mừng hôm nay (5,17-37) nói về những cách hành xử cần phải có của người đồ đệ Đức Giêsu đối với người thân cận. Nhưng trước hết là lời khẳng định rằng chính Đức Giêsu là Đấng đến nói cho chúng ta biết ý muốn đích thực của Thiên Chúa: Người đến để kiện toàn Sách Thánh.

  1. “Thầy đến để kiện toàn Luật Môsê và lời các ngôn sứ” (cc.17-20)

Những người hiểu biết sự lớn lao của các lời hứa và niềm mong chờ Đấng Mêsia sẽ có thể phải cảm thấy rất hụt hẫng trước chân trời mà Đức Giêsu mang đến. Người ta trông chờ phúc lạc và cơ nghiệp đã được hứa ban, nhưng Người lại tuyên phúc cho những người nghèo khó, sầu buồn, khóc lóc, đói khát và bị bách hại. Vì thế, Đức Giêsu muốn tránh sự hiểu lầm và sự thất vọng cho các đồ đệ của Người khi họ đi theo Người. Chính trong bầu khí và ý hướng như thế mà Người tuyên bố một cách rõ ràng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (cc.17-18).

Động từ “kataluô” có nghĩa là “phá đổ” (một công trình xây dựng chẳng hạn), chứ không có nghĩa là bãi bỏ một luật. Trong Mt, động từ này luôn được dùng cho đền thờ (x. 24,2; 26,61; 27,40). “Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ” là cách thức người Do Thái gọi bộ Kinh Thánh của họ, tức là bộ Cựu Ước theo quan điểm Kitô giáo. Động từ “kiện toàn” (pleroô) liên tục được Mt sử dụng để chỉ sự thực hiện các sấm ngôn (x. 1,22; 2,15.17.23; 4,14; 8,17…). Vì thế, cách nói “kiện toàn lời các ngôn sứ” ở đây là dễ hiểu. Nhưng không chỉ lời các ngôn sứ được kiện toàn, mà cả “Luật Môsê” nữa, tức là những gì do Môsê viết. Thật ra, vẫn tồn tại một cách hiểu, theo đó, Đấng Mêsia sẽ thực hiện cuộc xuất hành chung cục mà cuộc xuất hành do Môsê lãnh đạo khi xưa chỉ là hình ảnh báo trước. Trong thực tế, Mt vẫn hiểu Lề Luật và các ngôn sứ là sấm ngôn về Đấng Mêsia. Sứ mạng của Chúa Giêsu là một sứ mạng tích cực, chứ không phải một sứ mạng tiêu cực. Người là điểm đến của tất cả Cựu Ước, và toàn thể Cựu Ước tìm được sự kiện toàn nơi Người và nhờ Người.

Vậy Đức Giêsu khẳng định rằng Người không đến để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện trong Sách Thánh. Người thực hiện và đưa đến mức độ viên mãn trọn vẹn những gì Thiên Chúa hứa trong Sách Thánh. Và Người quả quyết rằng dẫu “một chấm một phết” (dịch sát là “một chữ i hoặc một cái sừng”, tức là chữ yod, mẫu tự nhỏ nhất trong bảng chữ cái Hípri) cũng sẽ không mất hiệu lực. Nói cách khác, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất trong chương trình của Thiên Chúa được mạc khải trong Sách Thánh cũng sẽ vẫn giữ nguyên hiệu lực “cho đến khi mọi sự được hoàn thành”.

“Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (c.19). Cách nói “sẽ được gọi là nhỏ / lớn trong Nước Trời” không có ý nói về một phẩm trật thứ hạng trong Nước Trời, nhưng là một cách nói của người Do Thái để diễn tả sự bị loại ra hay được thuộc về Nước Trời.

“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (c.20). Dịch sát sẽ là: “…nếu sự công chính của anh em không vượt hơn các kinh sư…”. Vấn đề không phải chỉ là sự công chính theo nghĩa luân lý, đạo đức. Trước hết, đó là sự công chính do tin vào Đức Giêsu, Đấng kiện toàn tất cả Sách Thánh, sau đó mới là chuyện luân lý. Vậy sự công chính của các đồ đệ sẽ siêu vượt hơn hẳn sự công chính của các kinh sư, là vì nó được gắn vào và tùy thuộc vào Đấng làm cho mọi sự nên thành toàn, chứ không phải chỉ vì đời sống luân lý của các đồ đệ siêu vượt hẳn so với các kinh sư. Các kinh sư, ở mức độ cao nhất, chỉ có thể gắn sự công chính của mình trên nền tảng các lời hứa của Thiên Chúa trong Sách Thánh; nhưng chính Chúa Giêsu mới là Đấng kiện toàn các lời hứa ấy. Vì thế, có thể nói: ở câu 20 này, Chúa Giêsu đòi hỏi các đồ đệ của Người phải gắn bó thiết thân với Người và đặt sự công chính của mình trên nền tảng là chính Người, thay vì chỉ hài lòng với sự công chính theo kiểu các kinh sư, tức là sự công chính dựa vào việc tuân giữ Luật Môsê.

Như thế, một đàng Chúa Giêsu quả quyết rằng Người không hủy bỏ “Luật Môsê và các lời ngôn sứ”, nhưng đàng khác, Người cho thấy sự hơn hẳn của Người so với các thực tại thuộc nhiệm cục cũ mà không hề làm đứt đoạn sự tiếp nối sâu xa từ Cựu Ước sang Tân Ước.

  1. Giáo huấn về đức công chính mới

Đức Giêsu bắt đầu giáo huấn của Người về sự công chính hơn hẳn của người môn đệ bằng cách tập trung chú ý vào ba đề tài quan trọng: tránh xung đột với tha nhân; thủy chung; và sống trong sự thật. Đây không phải là một bài trình bày cặn kẽ và đầy đủ về các đề tài, mà chỉ là phần nêu lên những luận điểm chính yếu được hiểu như để làm mẫu mà thôi.

Hãy đi làm hòa trước đã (cc.21-26)

Đức Giêsu nói: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (cc.21-26).

Đức Giêsu đặt điều răn không được giết người trong một quan điểm khác với “Luật dạy người xưa”. Sẽ là chưa đủ nếu chỉ tránh hành động bề ngoài. Thái độ độc ác bên trong và sự giận dữ cay nghiệt đối với người anh em, cũng đã là những cách hành xử đáng bị kết án rồi. Các cách hành xử ấy được trình bày theo hướng ngày càng gia trọng, cả về tội phạm lẫn về hình phạt.

Sau đó, Chúa Giêsu chuyển sang trình bày khía cạnh tích cực trong thái độ của các đồ đệ, những người có nhiệm vụ tác tạo hòa bình. Cần phải hết sức duy trì và bảo vệ sự hiệp nhất thuận hòa, chứ không chỉ là tránh xung đột. Chính thái độ sống tích cực đó quyết định giá trị của việc thờ phượng. Cách nói “hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ” không nên được hiểu sát mặt chữ, mà cần phải được hiểu là một kiểu nói diễn tả ý muốn hòa giải và tha thứ ngay trong lòng. Sẽ là hoàn toàn vô ích việc đến gần Thiên Chúa đang khi vẫn còn hiện hữu trong sự chia rẽ, bất hòa.

Hãy thủy chung (cc.27-32)

Đức Giêsu nói tiếp: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (cc.27-30).

Luật cấm hành vi bên ngoài, sự ngoại tình. Đức Giêsu đòi hỏi một trái tim tinh sạch, một sự thuần khiết ngay từ trong lòng. Ngoại tình là bất chính, nhưng ngay cả sự thèm muốn bất chính cũng đã là ngoại tình rồi. Nói cách khác, quyền lực cuối cùng thúc đẩy và quyết định trong lãnh vực tính dục nói riêng và trong tương quan với phụ nữ nói chung, không được là những sức mạnh tự nhiên và bản năng bột phát của những thèm khát và khoái lạc tính dục.

Để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thuần khiết ngay từ trong lòng, Chúa Giêsu đưa ra lời khuyến nghị thà móc mắt phải và chặt tay phải còn hơn là “toàn thân bị ném vào hỏa ngục”. Tất nhiên sẽ là quá ngô nghê và không chính xác nếu chúng ta hiểu các lời khuyến nghị này theo sát mặt chữ. Điều quan trọng là chúng ta không được phó mặc các quan năng của mình cho bản năng thấp hèn, nhưng phải biết làm chủ chúng một cách có trách nhiệm. “Con mắt” biểu tượng cho ước muốn; “bàn tay” biểu tượng cho hành động. Cần phải loại bỏ tất cả những ước muốn xấu xa ngược với sự tinh sạch trong lòng.

Không chỉ tôn trọng vợ người khác, mà còn phải cư xử đúng đắn với vợ mình và tôn trọng sự hiệp thông trong tình yêu và sự sống với vợ của chính mình. Đức Giêsu nói: “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (cc.31-32). Sự hiệp thông sự sống và tình yêu giữa hai vợ chồng là thực tại thiện hảo bất khả chuyển nhượng. Nguồi ta phải ra sức bảo vệ và vun đắp cho sự hiệp thông đó.

Hãy sống trong sự thật (cc.33-37)

Đề tài thứ ba trong vấn đề tương quan với người thân cận mà Chúa Giêsu ban lời giáo huấn là đề tài liên quan đến sự thật. Đức Giêsu nói: “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (cc.33-37).

Sở dĩ có chuyện thề thốt trong xã hội, là vì có sự thiếu chân thành giữa người với người. Sự thề thốt, tự nó, đã là một bằng chứng rõ ràng của sự trục trặc trong tương quan giữa người với người. Các kinh sư và các người Pharisêu phận biệt hai loại thề: thề nhân danh Đức Chúa và lấy sự vật mà thề. Họ cho rằng loại thứ nhất có tính ràng buộc, còn loại thứ hai thì không, tức là người ta có thể rút lại lời thề.

Trong Nước Thiên Chúa, sự chân thật là quy luật sống và “phúc thay ai tinh sạch trong lòng”. Vì thế, sự thề thốt hoàn toàn không còn giá trị. Và Đức Giêsu dạy: “Đừng thề chi cả”.

Thực ra, cc.33-37 không nhắm nói trước hết đến chuyện thề thốt, mà là muốn nói về sự nhất mực liêm khiết của người đồ đệ: “Hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác thần” (c.37).

Về mục lục

.

THẦY ĐẾN ĐỂ KIỆN TOÀN LỀ LUẬT

Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Sau khi đã mở đầu bài diễn từ trên núi bằng 8 mối phúc. Đến phần thân bài Đức Giêsu tuyên bố: “Ngài đến không để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật”. Kiện toàn thế nào? Phải chăng một nét chấm, một nét phẩy trong sách luật không bỏ qua? Phải chăng giữ luật từng chi tiết, từng điều luật nhỏ nhất? Đức Giêsu không kiện toàn luật theo kiểu đó, bởi Ngài đã chẳng tuân giữ luật ngày hưu lễ, chẳng quan tâm đến luật tinh sạch (Mt 15,3; 19,17; 22,36). Đàng khác, những luật được Ngài trưng ra trong đoạn Tin mừng hôm nay, đã được Ngài sửa đổi. Sửa đổi bằng cách đưa về thời nguyên sơ của nó, nghĩa là vào thời kỳ Thiên Chúa đã ban nó cho Maisen. Sửa đổi bằng cách thay đổi não trạng nệ luật của con người, giữ luật vì luật, bám sát từng chữ của luật và tuân thủ một cách nô lệ từng chữ ấy, biến luật thành chủ, con người là nô lệ, quên tinh thần của luật, là để phục vụ con người. Một khi luật đã được Đức Giêsu sửa đổi, giải thích, gạn lọc, vứt bỏ những thêm thắt của con người, kiện toàn đúng tinh thần, phù hợp với chủ ý của Thiên Chúa, sẽ có một uy quyền tuyệt đối một nét phẩy, nét chấm không bỏ qua, một sự trường tồn, trời đất sẽ qua đi, nhưng thánh ý Thiên Chúa (lề luật) sẽ không bao giờ qua. Một thứ luật như thế, một điều răn nhỏ nhất cũng quan trọng, ai thực thi sẽ là người công chính hơn những Kinh sư và Pharisiêu. Để cụ thể, Đức Giêsu đã trích dẫn sáu điều luật và đưa ra các yêu sách mới của Người. Tin mừng Chúa nhật hôm nay đề cập bốn điều:

  1. Giết người

Luật dậy người xưa: “Chớ giết người. Ai giết người thì đáng bị đưa ra toà”. Đức Giêsu bảo: “Giận anh em cũng đã bị kết án”. Đây là kiểu nói của người Dothái, Đức Giêsu đã dùng để nói lên tầm quan trọng của vấn đề. Giận anh em, đâu bị đưa ra toà, mắng anh em là ngốc, đâu bị đưa ra trước Hội đồng, chửi anh em là quân phản đạo, đâu đến nỗi phải xuống hoả ngục. Đàng khác, xét về mặt tâm lý, giận là một trong “thất tình”: hỷ (mừng), nộ (giận), ai (thương xót), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét), dục (ham muốn), nghĩa là một trong bẩy thứ tình cảm tự nhiên mà người lành mạnh nào cũng có. Nếu ta biết yêu mình và tự trọng ta, ai đó đối xử bất công với ta tự nhiên ta nổi giận. Tuy nhiên, không nên giữ cơn giận mãi trong lòng. Khoa tâm bệnh học cho biết: cứ đè nén cơn giận mãi có thể hại cho tâm thần, không lợi cho sức khoẻ dễ bị ung thư. Thánh Phaolô nói: Đừng để cơn giận qua lúc mặt trời lặn. Tự nó, giận không có gì là xấu. Chính Đức Giêsu cũng từng nổi giận, khi thấy người ta buôn bán trong Đền thờ. Chỉ xấu khi nổi giận với anh em mình, không còn coi người anh em mình như anh em nữa, trái lại coi họ là người dưng, thậm chí là kẻ thù. Giận như thế đồng nghĩa với giết, không phải giết chết một mạng sống, mà giết chết một mối tình. Anh em không còn là anh em, mà là kẻ thù. Giận như thế bị kết án.

  1. Ngoại tình

Quả thực ngoại tình là một lỗi nặng, nó phá vỡ tổ ấm của người anh em, nó bị mọi nền văn minh lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội coi thường lâu dài vấn đề này chắc chắn sẽ tự tiêu diệt. Luật Dothái dậy ném đá những người phạm tội ngoại tình. Đức Giêsu chẳng những cấm ngoại tình bằng hành động, bằng hành vi bên ngoài. Người còn cấm ngoại tình từ trong lòng. Người nói: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”. Để nói lên tầm quan trọng của vấn đề, Đức Giêsu bảo: “Nếu mắt hoặc tay anh em làm cớ cho anh em vấp phạm, thì hãy móc mắt hoặc chặt tay đó đi, vì thà rằng mất phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”. Đây là kiểu nói mạnh của người Dothái, Đức Giêsu đã dùng. Bởi lẽ cho dù có móc một mắt, chặt tay, cũng không làm cho người ta khỏi sa ngã. Tội bởi trong lòng mà ra, mắt, chân tay chỉ là khí cụ. Vả lại, Đức Giêsu kết án tội ngoại tình, nhưng Đức Giêsu không ném đá người phụ nữ phạm tội.

  1. Ly dị

Luật Maisen cho phép người Dothái ly dị và dạy rằng: “Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị”. Đức Giêsu bảo: “Ai rẫy vợ mình, trừ phi nố dâm bôn, và cưới vợ khác tức là phạm tội ngoại tình”. Chỉ có Matthêu ghi lại nố trừ này. Trong Tin mừng Maccô và Luca không có, và chỉ ghi rằng: Đức Giêsu cấm tuyệt đối không được ly dị. Làm sao hai tác giả đó có thể quên một điều quan trọng như thế? Có lẽ đúng là một trong các người cuối cùng soạn bản Tin mừng của Matthêu đã thêm điều khoản ấy vào, để trả lời vấn đề các tôn sư tranh luận với nhau (những lý do cho phép rẫy vợ) và cũng là vấn đề có thể làm bận tâm những tín hữu gốc Dothái. Nếu thế thì ở đây có lẽ là một quyết định của Hội thánh có giá trị địa phương và tạm thời, như sắc lệnh của Công đồng Giêrusalem về vấn đề kiêng thịt cúng, vật chết ngạt và tránh gian dâm cho giáo đoàn Antiôkia (Cv 15, 23-29).

Tuy nhiên, Giáo hội chính thống và Tin lành cho rằng, “dâm bôn” có nghĩa là ngoại tình, đây chính là lời của Đức Giêsu, bởi thế các giáo hội đó chấp nhận cho ly hôn, khi một trong hai người phối ngẫu phạm tội ngoại tình.

Nhưng có những người khác lại cho rằng từ “dâm bôn” chỉ một hôn nhân bất hợp pháp, trái với luật Thiên Chúa, như thứ hôn nhân loạn luân ngăn trở họ máu. Luật cấm lấy nhau (Lv 18,6-18; Cv 15,28-29). Những thứ hôn nhân ấy dù là hợp pháp giữa người ngoại giáo với nhau, hay được người Do thái làm thinh nơi các người theo Do thái giáo, hẳn là đã gây rắc rối, khi những người ấy theo Kitô giáo trong những môi trường thượng luật, như môi trường Matthêu. Vì thế có chỉ thị nên huỷ những hôn nhân bất hợp pháp ấy, vì đó chỉ là hôn nhân giả tạo.

Một ý kiến khác nữa cho rằng nố trừ “dâm bôn” mà Đức Giêsu cho phép rẫy vợ đây, không phải là ly dị, nhưng là ly thân. Chính Phaolô đã hiểu theo nghĩa đó, ông đã đề cập đến trong thư thứ 1 gửi giáo hữu Côrintô (1 Cr 7-11). Giáo hội Công giáo từ xưa đến nay đã hiểu như vậy, không cho ly hôn mà chỉ ly thân khi người ta phạm tội ngoại tình.

  1. Thề thốt

Luật dạy người xưa rằng: “Chớ bội thề, nhưng hãy giữ trọn lời thề với Chúa”. Đức Giêsu bảo: “Đừng thề chi cả, có thì nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ”.

Nhiều giáo phụ cho rằng, đây là lệnh truyền nghiêm cấm tuyệt đối của Chúa, không được thề thốt chi cả, nhiều giáo phái Tin lành cũng đồng quan điểm đó. Họ từ chối không tuyên thệ bất cứ điều gì. Thực ra Đức Giêsu không nghiêm cấm cách tuyệt đối như thế. Thánh Phaolô đã thề với giáo hữu Rôma, Côrintô, Galata, (Rm 1,9; 2 Cr 1,23; 11,3; Gal 1,20). Giáo hội không những cho phép thề trước các toà án mà còn buộc phải thề trong một vài trường hợp nữa (thề chống Duy Tân chủ nghĩa). Theo thánh Augustin, lời thề tự nó không phải là điều tốt chỉ khi gặp trường hợp đáng tiếc và nghiêm trọng mới nên thề. Trong mọi trường hợp “Có phải nói có, không phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ma quỷ”.

Lạy Chúa toàn năng, Chúa đã ban lề luật cho chúng con, và đã cho Con Chúa sửa đổi lại theo ý Chúa. Xin cho chúng con được bước đi dưới ánh sáng của lề luật để chúng con được sống muôn đời. Chúng con cầu xin...

Về mục lục

.

LUẬT CỦA CHÚA GIÊSU

PM. Cao Huy Hoàng

Thiên Chúa ban cho con người có tự do và để con người tự do định đoạt số phận của đời mình: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó”. (Hc 15, 16-17).

Tuy nhiên, vì không muốn con người phải hư mất, Thiên Chúa ban Lề Luật để hướng dẫn con người sử dụng tự do của mình mà đi vào cõi sống: cửa sinh“Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội”. (Hc 15, 19-20)

Mười điều răn Môisê đã nhận lãnh để truyền cho dân, là một chuẩn bị xa để con người sống công chính mà đón nhận Tin Mừng Cứu Chuộc, Tin Mừng của Cõi Sống.

Chúa Giêsu đến, Ngài kiện toàn lề luật tích cực hơn chỉ trong một luật duy nhất: “yêu thương”, như thánh Phaolô xác quyết: “Yêu thương là chu toàn lề luật”(Rm 13,10)

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9. Ngài nói với các môn đệ hai ngàn năm trước, mà nghe như đang nói với mỗi người chúng ta, trong thế giới nầy, trong đất nước nầy, trong xã hội và giáo hội hôm nay…

Yêu thương và tôn trọng nhau

Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người”. Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi. “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23)

Chúa Giêsu dạy chúng ta biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể đức công chính của chúng ta là làm hòa với tha nhân trước, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng chúng ta ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng tha nhân. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.

Vâng, Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.

Nhìn thực tế cuộc sống đạo hôm nay, có thể chúng ta vẫn giữ luật điều răn thứ năm thật nghiêm túc là không giết người. Nhưng hình như chưa giữ luật yêu thương tôn trọng anh em. Chúng ta đang trách mắng nhau, chửi bới nhau thậm tệ trên các phương tiện truyền thông? Một bên mắng là “đồ ngốc”. Bên kia mắng lại là “quân phá đạo, quân phản đạo”. Thực ra, không thấy có ai dám mắng anh em là “đồ ngốc”, nhưng ý nghĩa các bài viết, các bản tin còn thậm tệ hơn cái “đồ ngốc” ấy nữa, nhất là đối với các những người lớn hơn mình về vai trò nhiệm vụ trong xã hội và giáo hội. Không ai dám kết án chúng ta đã xem thường nhau, rồi xúc phạm đến nhau tới mức nào, nhưng tự thâm tâm chúng ta có thể trả lời được, nếu không, hãy mở to mắt nhìn những hậu quả. Kìa, những phê phán, những đánh giá đầy tính chủ quan lại được tung ra trên diện rộng đã gây nên những hậu quả khó lường. Có cả những hậu quả thảm khốc là làm cho người bị mắng là đồ ngốc lẫn người bị chửi là quân phản đạo, vẫn sống nhưng là như đã chết rồi. Người chết cái uy tín, kẻ chết cái niềm tin, cái nhiệt tình. Người thứ ba đứng bên ngoài vỗ tay reo hò rằng: chúng nó tàn sát lẫn nhau.

Chúng ta không giết người, vì không có gươm giáo, súng đạn, nhưng vì thiếu chân thành, chỉ cần một chữ ký, một quyết định, một bài báo, một bản tin, một tờ rơi, một cái búng tay ra mật lệnh, một cú phone, một cái enter.. dễ chưa từng có… Người anh em ta sẽ chết ngay dưới lưỡi gươm công luận, dưới búa rìu comments phê phán, dưới họng súng truyền thông.

Cũng vậy, chúng ta không giết người, nhưng vì không tôn trọng con người là tuyệt phẩm của Thiên Chúa, nên chỉ cần một viên thuốc, một lời kích động, một phút tư vấn (về sức khỏe, về sắc đẹp, về hạnh phúc) là có hằng trăm con người đỏ hon hỏn phải tức tưởi tắt thở lúc chưa kịp sinh ra. Những can phạm, không ai khác, chính những người thân thiết nhất của con người: cha giết con, chồng giết vợ, mẹ giết con, vợ giết chồng, chủ giết tớ, cấp quan cấp trên có quyền hành giết cấp dân đen cấp dưới không phương tiện chống cự, không tiếng nói…

Giữ tâm hồn trong sạch, xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần

Điều răn thứ sáu dạy: “Chớ dâm dục”, và điều răn thứ 9 dạy: “chớ ngoại tình”. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.

Không đợi đến lúc vỡ lở, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội “dâm dục” hay “ngoại tình”, nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt mây mưa thì, theo Chúa Giêsu, đã thành tội rồi.

Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, thì sớm muộn, con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần.

Trước đây, người phụ nữ Á Đông rất kín đáo, rất đoan trang… Tại sao chỉ sau ba bốn chục năm, các thiếu nữ bây giờ không còn đoan trang như trước nữa? Có người cho là hội nhập văn hóa Tây Phương. Có người cho là đó là nét đẹp của Thượng Đế cần phải phô trương. Có người còn cho là không có gì là tội lỗi. Nhưng cũng có câu trả lời rằng: kẻ chống Chúa Giêsu biết cách làm cho người ta không giữ lời Chúa Giêsu dạy! Như vậy là đỗ thừa cho hoàn cảnh xã hội sao? Không, thiết tưởng, người phụ nữ không còn kín đáo nữa là do họ không những không còn quí trọng đức trinh khiết của mình và của người khác, mà còn thích thú làm cớ cho mình và người khác vấp phạm.

Cách đây 8 năm, tôi lên Sàigòn, ghé thăm anh bạn bán thuốc tây trước BV Bình Dân. Vừa nói chuyện vừa xem anh bán thuốc. Tôi thắc mắc không biết các em học sinh mang bảng tên lớp 10, lớp 11 vào mua thuốc gì mà anh bạn tôi lấy tiền rồi trao cho các em cái gì đó đựng trong túi xốp đen, đi ra. Chỉ ngồi chơi một tiếng mà có ít là 6 học sinh vào mua hàng rồi ra như vậy. Thấy tôi ngẩn ngơ, không đợi tôi lên tiếng hỏi, anh bạn tôi nói: “Mình không bán thì mấy tiệm kia cũng bán cho chúng nó thôi. Bạn lấy làm lạ phải không?” “Vâng, mình chẳng hiểu gì cả”. “Chúng nó mua que thử thai đấy. Học sinh bây giờ lớp 9 lớp 10, tụi nó thử cả rồi! Có trời mới biết chúng nó ngoan như thế nào. Khổ nỗi, cha mẹ thì chỉ biết “Con tôi nó học ngày học đêm! Tội nghiệp quá!” ….

Ấy là chuyện con nít. Còn chuyện người lớn thì “không chỉ nhìn phụ nữ, phụ nam cách thèm thuồng, mà còn đưa phụ nữ về nhà mình, hoặc đưa người tình nam về nhà mình sống chung bất hợp pháp thì còn gì để nói”. Cuộc sống không công chính vì lỗi đức trong sạch của người lớn ở bậc độc thân suốt đời, cũng như của người sống bậc hôn nhân đã làm niềm tin và lòng yêu mến của bậc bề dưới, của con cái chết dần chết mòn rồi đến giai đoạn tử vong không cứu kịp.

Giá trị hôn nhân công giáo hệ tại ở tính đơn hôn và vĩnh hôn. Vì vậy, những lạc thú ngoài hôn nhân làm mất giá trị đời sống công chính của hôn nhân công giáo. Biết thế, âm mưu của người chống lại Thiên Chúa là những chủ trương thành văn hoặc bất thành văn về việc tự do quan hệ, khuyến khích phá thai, còn tạo điều kiện tốt cho những cuộc ly hôn ly dị có pháp luật bảo đảm.

Từ đó, thế hệ những đứa con vất vưởng do những cuộc ly hôn, hoặc của những đứa con vô thừa nhận làm thay đổi cách nhìn truyền thống và giá trị của chữ Hiếu. Thế hệ trẻ của những con người nầy không còn yêu thương, kính trọng cha mẹ mình, vì cha mẹ đã không chu toàn đức công chính. “Tết em muốn về với Mẹ, mà không biết phải nói gì với chồng của Mẹ. Tết, em muốn về với Ba, cũng không biết phải nói sao với vợ của Ba”. Hoặc là, đã để lại cho chúng một dấu ấn không đẹp về cách hành xử của người lớn khi chúng không biết ba chúng nó là ai. Có trường hợp đáng tiếc, khi lớn lên nó biết ba của nó là một ông lớn trong xã hội. Thiên Chúa mà ông lớn không nhìn nhận thì huống chi là con ông.

Chúa Giêsu thật chí lý khi dặn dò chúng ta giữ tâm hồn thanh sạch. Nếu đức trong sạch được trân quí nơi ý thức của mỗi cá nhân, nơi giáo dục của mỗi gia đình, nơi chủ trương của xã hội thì ắt hẳn sẽ có một xã hội đầy nhân tính, xứng nhân phẩm, trọn vẹn nhân ái đúng nghĩa mà Thiên Chúa muốn.

Ngay chính thật thà

Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra”(Mt 5,37)

Lòng ngay chính thật thà có thể nói sẽ hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Và yêu thương chân thành sẽ là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của những lạc thú xác thịt, của những âm mưu chia rẻ, âm mưu gây hận thù, oán trách.

Con người thời nay vẫn đồng hóa tình yêu với tính dục và cho là đó là tình yêu chân thành, mà không ngộ ra rằng đó là sự xúc phạm nặng nề đến nhân phẩm của người mình yêu. Những người yêu nhau một cách xác thịt, không tin là họ đang lừa dối nhau, và mãi sống trong sự nhầm lẫn đáng tiếc vì ai cũng đang yêu chính mình.

Người công giáo phải được giáo dục tốt từ trong gia đình về đức tính thật thà. Vì nếu nơi Thiên Chúa không có gì là gian dối, thì Ngài cũng không thể chấp nhận con cái Ngài sống cách gian tà, quỷ quyệt. Cũng vậy Thiên Chúa tôn trọng sự thật, bênh vực công lý, trung tín lời hứa, và cũng muốn con cái Ngài như vậy.

Con rắn ngày xưa phỉnh gạt bà Eva ăn trái cấm. Con rắn ngày nay còn quỷ quyệt tinh xảo hơn: không cần phỉnh gạt ai cả, nhưng mở đường gian tà thênh thang cho con người đi lên tới đỉnh danh vọng, tới đích tỷ phú, tới hạnh phúc trần gian thừa mứa chán chê! Ai không đi theo đường của nó, thì nó nhẹ nhàng quyến rủ mời mọc lịch sự chưa từng có! Ai đã theo con đường của nó, tự động sẽ phát sinh những chuyện gian tà, gây nên những hỗn độn: chê bai chỉ trích điều công chính lẫn điều không công chính, làm cho không ai phân biệt được phải trái nữa. Cái nào cũng phải. Cái nào cũng trái. Lúc ấy, nó sẽ đắc thắng.

Chuyện không đáng kể, mà cũng phải kể. Đó là chuyện có vài người không đáng kể, thích thêm mắm muối ớt tỏi làm lệch lạc sự thật đáng quí, ảnh hưởng tới một số người đáng kể. Trong khi đó, đức công chính Chúa Giêsu dạy là “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra”(Mt 5, 37)

Có anh bạn từ rất xa, phone cho tôi thăm hỏi: “Lâu nay làm gì mà vắng bóng thế?” Tôi trả lời “Vẫn thế thôi mà”. Anh hỏi tiếp: “Bệnh hay là định gác bút rồi?” “Không, vẫn bình thường mà?”- “Mình chả thấy bài ông đâu cả?” “Có mà. Ông đọc trang nào?” “Mình chỉ đọc độc một trang “Nhân Viên Công Lực” thôi! Chửi nghe sướng!”. “Ồ, thế thì làm sao được! Phải đọc dăm bảy trang mới khách quan ra được chứ!”. Anh bạn tôi cúp máy!

Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi chúng con dùng tự do Chúa ban mà đi vào đường lối của Chúa là yêu thương và tôn trọng nhau. Và khi đã yêu thương tôn trọng nhau xin cho chúng con không giận ghét mắng chửi nhau, mà còn giữ cho nhau tâm hồn trong sạch cao quí xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Xin giúp chúng con tránh xa lối gian tà, nhờ tuân hành lề luật của Chúa Giêsu, Đấng là Đường, Là Sự Thật, và là Sự Sống của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

THANH TOÁN NỢ ĐỜI

Trầm Thiên Thu

Có lẽ chẳng ai không bao giờ mắc nợ, cụ thể là tiền bạc, không nhiều thì ít, dù chỉ là một số tiền nhỏ – vài ngàn, vài trăm, vài triệu (theo mệnh giá tiền VN). Nói cho “sang” thì nợ là trái khoản. Và dù ít hay nhiều cũng phải thanh toán, không thể không trả nợ, vì còn nợ ngày nào thì “nặng mình” ngày đó. Khổ tâm lắm!

Về tinh thần thì còn nợ nhiều hơn: nợ cha mẹ, nợ gia đình, nợ thầy dạy, nợ hàng xóm, nợ bạn bè,… không nợ cách này thì cách khác, không trực tiếp thì gián tiếp: Nợ tình. Đúng là nợ ngập đầu! Món nợ đó không hề vay mà vẫn nợ, phải nợ, muốn nợ, Thánh Phaolô nói rằng nên mắc “món nợ tương thân tương ái” đó. (Rm 13:8) Đặc biệt nhất là ai cũng mắc nợ Thiên Chúa – kể cả người vô thần.

Được sinh ra làm người và được sống trên đời là một hồng ân cao cả, khôn tả. Và dần dần, với vốn kinh nghiệm sống, chúng ta luôn thấy có những điều trái ngược nhau nhưng lại không thể tách rời nhau, có cái này thì ắt có cái kia: Mở – đóng, cao – thấp, trên – dưới, nam – nữ, âm – dương, phải – trái, thiện – ác, đẹp – xấu, trẻ – già,… đặc biệt là sống – chết. Cái “nghịch” mà không hề ngược, vẫn xuôi, vẫn thuận. Bởi vì trí tuệ con người nhỏ bé, nông cạn, hữu hạn, không thể hiểu thấu, thế nên người ta cho đó là “cái vòng lẩn quẩn” bí ẩn, không thể lý giải. Người đời cho đó là Luật Nhân Quả, nhưng đối với người có niềm tin Kitô giáo thì đó chính là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Về vấn đề sinh – tử, chắc hẳn ai cũng thắc mắc, đặt vấn đề, bởi vì thấy đó là một nghịch lý, thế nhưng chẳng ai có được câu trả lời thỏa đáng, chấp nhận đó là điều bí ẩn đối với con người. Thơ rằng:

Sinh ra ai cũng khóc òa

Đời vui sao chẳng cười xòa mà vui?

Đến khi chết, nước mắt rơi

Sao lại chẳng cười được thoát khổ đau?

Không chỉ là rắc rối, phức tạp, mà là nhiêu khê. Thế nhưng chẳng ai hiểu rõ cái nghịch lý đó. Khi sinh ra, ai cũng chào đời bằng tiếng khóc, đứa trẻ nào bật khóc thì cha mẹ an tâm, đứa trẻ nào không bật khóc thì cha mẹ lo lắng. Phải chăng định mệnh đã an bài như phần cứng được cài đặt mặc định? Người ta vẫn thường nói: “Đời là bể khổ!” Có lẽ vì chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Định mệnh đó là sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.

Theo quan niệm Phật giáo, cái vòng đời lẩn quẩn đó được gọi là “vòng sinh tử” – cũng gọi là “hữu luân.” Đó là “bánh xe” của sự sinh tồn, chỉ sự luân chuyển của thế giới hữu hình. Đây là cách nói và biểu tượng của người Tây Tạng ám chỉ “vòng luân hồi” (sa.saṃsāra). Tuy nhiên, chắc chắn rằng “không có vòng luân hồi” như người ta quan niệm hoặc suy diễn. Đúng là bé cái lầm!

Thuận ngôn thì nghịch nhĩ, lời thật thì chói tai, phải như thế mới có thể nên người, nhưng Thiên Chúa không ép buộc ai và cho toàn quyền tự chọn. Khôn hay khốn là tự mình mà thôi. Sách Huấn Ca cho biết: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa SINH cửa TỬ, ai thích gì, sẽ được cái đó.” (Hc 15:16-17) Rõ ràng con người được Thiên Chúa cho tự do hoàn toàn, và Ngài luôn tôn trọng quyền tự do chọn lựa của chúng ta. Lý do đơn giản, không có gì khó hiểu: “Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và TRÔNG THẤY TẤT CẢ. Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và BIẾT RÕ TẤT CẢ những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội.” (Hc 15:18-20) Minh nhiên và rạch ròi, “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ chẳng Nếu, Bởi, Tại, Vì… chi ráo trọi!

Yêu thương là Thiên Chúa, tốt lành tuyệt đối là Thiên Chúa, nơi Ngài chỉ có sự thiện mà thôi. Ngài toàn năng và toàn trí, đúng như Thánh Vịnh gia cảm nghiệm: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết.” (Tv 139:1-4) Chắc chắn chúng ta không thể giấu giếm được gì, cũng chẳng thể biện hộ được chi. Vải thưa không thể che mắt thánh!

Và như đã nói – tất nhiên ai cũng biết, đó là tất cả chúng ta được Thiên Chúa ban cho quyền tự do chọn lựa, tùy ý thích cài này hoặc cái kia. Đơn giản như việc ăn uống, người ta tự do ăn bất cứ thứ gì, không chịu kiêng cữ thì béo phì hoặc bệnh tật là hệ lụy tất yếu. Có triết lý này: Cái gì TỐT thì luôn ĐẸP, còn cái gì ĐẸP chưa chắc TỐT. Ai chọn cái tốt đẹp, đó là người khôn: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời. Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người.” (Tv 119:1-2) Theo Việt ngữ, KHÔN ngoan và KHÔNG ngoan có cách viết gần giống nhau nhưng hoàn toàn trái nghĩa – sai một ly đi một dặm.

Là những người tin vào Đức Giêsu Kitô, chắc chắn ai cũng ước mong xác định suốt đời về tín ngôn này: “Vâng lạy Chúa, Ngài đã ban huấn lệnh, truyền chúng con tuân giữ vẹn toàn. Ước mong sao con hằng vững bước theo thánh chỉ Ngài ban.” (Tv 119:4-5) Và biết chân thành cầu nguyện liên lỉ: “Xin tỏ lòng nhân hậu cùng tôi tớ Chúa đây để con được sống và tuân giữ lời Ngài. Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.” (Tv 119:17-18) Biết hành động như vậy là người thực sự khôn ngoan, bởi vì biết chọn Đường Sống chứ không chọn Đường Chết. Khó chứ chẳng dễ, khó vì phải dứt khoát.

Tuy nhiên, muốn khôn ngoan như vậy thì chỉ có cách duy nhất là “bám vào Chúa” chứ không thể ỷ sức mình, đồng thời phải thiết tha cầu xin không ngừng: “Lạy Chúa, xin dạy con đường lối thánh chỉ, con nguyện đi theo mãi đến cùng. Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ.” (Tv 119:33-34) Chắc chắn Ngài chỉ chờ có vậy, nghĩa là Ngài sẽ không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ. Đó là sống tín thác, nhận biết mình hữu hạn, nhỏ bé, yếu đuối,…

Thánh Phaolô nói về sự khôn ngoan: “Điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển.” (1 Cr 2:6-7) Thật vậy, “không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá.” (1 Cr 2:8)

Đúng như đã có lời chép: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa.” (1 Cr 2:9-10) Quả thật, chúng ta là những người rất may mắn và diễm phúc!

Vấn đề sinh – tử cũng liên quan luật pháp. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Nhưng con người yếu đuối nên dễ sa đà, thoái hóa, hư hỏng, vì thế phải có luật pháp để kiểm soát, cũng như loài ngựa dễ sinh chứng nên cần có hàm thiếc để kiềm chế. Do đó, có những người hư hỏng đã hoàn thiện nhờ nghiêm luật: “Phúc thay người được Thiên Chúa sửa trị! Chớ coi thường giáo huấn của Đấng Toàn Năng.” (G 5:17)

Khi nhập thể làm người, chính Chúa Giêsu cũng vẫn luôn tôn trọng luật pháp. Ngài đã xác định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.” (Mt 5:17-19) Luật Chúa nghiêm minh nhưng vô cùng hữu ích, như Thánh Vịnh gia xác nhận: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8)

Có nhiều thứ cần cảnh báo mà Chúa Giêsu đã cho biết, đây là một trong số các cảnh báo: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 5:20) Giết người, cướp của, gian dâm,… hoặc phạm những tội tày trời là điều hiển nhiên ai cũng ghét – ghét tội chứ không ghét người. Nhưng với Chúa Giêsu, tội nhỏ cũng không được phạm: “Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” (Mt 5:21-12) Thậm chí là điều xem chừng rất nhỏ mọn: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5:23-25) Thực sự “căng” lắm! Nhưng đã là nghiêm luật thì có “căng” cỡ nào cũng phải làm, bởi vì chính Ngài đã nói thẳng thắn và rạch ròi: “Bạn sẽ không ra khỏi đó trước khi TRẢ HẾT ĐỒNG XU CUỐI CÙNG.” (Mt 5:26) Ôi chao, đúng là “căng” thật đấy!

Ai cũng biết rằng ngoại tình là chuyện lớn, không được “lóm lém” chi cả, nhưng Chúa Giêsu cấm cả chuyện nhỏ: “Ai NHÌN người phụ nữ mà THÈM MUỐN thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt 5:28) Và Ngài thẳng thắn và dứt khoát rằng “thà mù, cụt, què mà vào Nước Trời còn hơn đẹp trai hoặc đẹp gái mà phải vào hỏa ngục.” (x. Mt 5:29-30) Chúa Giêsu luôn rõ ràng, không mơ hồ, chẳng hoa mỹ hoặc bóng gió.

Ngày xưa, trong thời Cựu Ước, luật pháp cho phép người ta ly dị, nhưng thời Tân Ước thì cấm triệt để. Chúa Giêsu cho biết: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy thì cũng phạm tội ngoại tình.” (Mt 5:32) Mọi hệ lụy đều có tính liên đới, kể cả tội lỗi.

Và còn hơn thế nữa, ngay cả việc thề thốt cũng là điều cấm: “Đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được.” (Mt 5:34-36)

Kết luận, Chúa Giêsu không dài dòng hoặc lòng vòng, mà tóm tắt cho dễ nhớ: “Hễ CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5:37) Đó là Luật Chân Lý, Luật Sự Thật, rất ngắn gọn và đơn giản, nhưng đừng tưởng là “chuyện nhỏ,” bởi vì không dễ mấy ai dám làm đâu. Cái nhỏ mà lại quan trọng: Tế bào rất nhỏ, không thể nhìn bằng mắt thường, nhưng nó lại là “nền tảng” tạo chuỗi AND kỳ diệu.

Nếu thực sự muốn thanh toán món nợ tình thì chỉ có cách là sám hối, yêu thương mọi người và tha thứ mọi sự. Tất cả mọi trái khoản sẽ được Thiên Chúa tha bổng: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông.” (Is 1:18) Tuyệt vời biết bao vì chúng ta được tận hưởng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa!

Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình và thoát khỏi “vòng lẩn quẩn” của cuộc đời này, xin thêm sức mạnh và lòng can đảm để chúng con miệt mài sống theo Thánh Luật của Ngài, giữ đúng mọi điều khoản. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CHU TOÀN LUẬT CỦA THIÊN CHÚA VỚI LÒNG YÊU MẾN

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Hội Đồng Giám Mục tại nước Đức vừa qua đã gây lo ngại sâu sắc cho Giáo Hội, khi họ tổ chức một công nghị trên toàn quốc để bàn về các giáo huấn của Giáo Hội. Một số vị cho rằng luật của Chúa và Giáo Hội quá khắt khe, họ muốn tìm ra một số những “giải pháp mục vụ” để nới lỏng các luật của Giáo Hội. Những vấn đề được đặt ra cho hội nghị này là việc nới lỏng luật độc thân của các linh mục, vấn đề các linh mục chúc lành cho những cặp hôn nhân đồng tính và nới lỏng những vấn đề liên quan đến luật bất khả phân ly của hôn nhân trong Giáo Hội cũng như phong chức linh mục cho phụ nữ. Toà Thánh đã lên tiếng cảnh báo, nhắc nhở Đức Hồng Y chủ tịch và cả công nghị về những sai lầm nghiêm trọng họ đang gây ra và có nguy cơ làm tổn thương đến sự hiệp nhất của Giáo Hội. Tuy nhiên, một số trong Hội Đồng Giám Mục vẫn phớt lờ cảnh báo của Toà Thánh và tìm cách biện minh cho quan điểm của mình.

Thiên Chúa không ép con người phải tin theo Ngài, Ngài để cho con người hoàn toàn tự do chọn lựa và quyết định. Một khi đã tin và chọn Chúa thì sẽ phải chấp nhận những điều kiện và lề luật của Chúa. Ai dám chọn thực thi theo giới răn lề luật của Chúa thì sẽ được sống, ai từ chối sẽ tự mình đi vào chỗ huỷ diệt. Bài đọc một sách Huấn Ca đã nói lên ý tưởng này: “Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm đẹp ý Người. Trước mặt con là nước và lửa…là cửa sinh và cửa tử, ai thích gì sẽ được cái đó.” Tác giả sách Huấn Ca cũng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan thượng trí, Ngài nhìn thấu cõi lòng con người, mọi hành động của con người đều bày ra trước mặt Chúa. Ai sống làm sao Chúa sẽ trả cho như vậy, ai chu toàn luật Chúa với lòng yêu mến, Chúa sẽ bênh vực và bảo vệ người ấy.

Những luật sĩ và Biệt Phái Do Thái ngày xưa giữ luật cách vô hồn, họ giữ luật mà không biết mình giữ luật để làm gì, vì thế luật trở nên nặng nề đối với họ. Đức Giêsu đến rao giảng Tin Mừng, mời gọi mọi người sống tương quan Cha – con với Thiên Chúa thay vì tương quan chủ và đầy tớ; chu toàn luật Chúa là để cho mình nên xứng đáng là con của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều người nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ cải tổ, sẽ lược bớt hoặc huỷ bỏ luật của Môsê. Vì vậy, hôm nay Chúa Giêsu công khai nói lên quan điểm của Ngài: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo anh em, trước khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong lề luật cũng không qua đi.”

Không chỉ chu toàn mọi lề luật, Đức Giêsu còn làm cho lề luật nên trọn vẹn nhờ thái độ tuân giữ lề luật của Ngài. Đức Giêsu dành cả cuộc đời để chu toàn thánh ý Thiên Chúa; làm cho mọi lời Kinh Thánh nói về Ngài được nên trọn vẹn, cho dù vì thế mà Ngài bị kể vào số các phạm nhân và phải chết một cách đau đớn nhục nhã. Vì vâng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và đặt Ngài làm thủ lãnh, làm chủ mọi loài trên trời dưới đất. Như thế, thái độ tuân giữ lề luật sẽ làm nên giá trị và đem lại kết quả hữu ích cho con người, chứ không phải chỉ chu toàn lề luật cách máy móc. Chúa Giêsu đã nói: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất và dạy người khác làm như thế, thì sẽ bị coi là kẻ nhỏ nhất…Còn ai tuân hành (đầy đủ) và dạy mọi người làm như thế, thì sẽ được gọi là người lớn trong nước trời.”

Các kinh sư và người Biệt Phái là những kẻ chỉ chu toàn lề luật để được mọi người ca tụng là bậc đạo đức. Họ giữ luật không phải vì Thiên Chúa mà vì bản thân mình, vì muốn tìm tiếng khen của người đời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài thoát khỏi lối sống hình thức, háo danh đó. Ngài muốn các môn đệ phải đi vào chiều sâu của luật, ý thức rằng luật được đặt ra không phải để kìm hãm con người, nhưng là phương thế giúp con người đứng vững và trở nên xứng đáng với tư cách là con Thiên Chúa: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các luật sĩ và Biệt Phái, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời.” Như thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta phải dám sống khác hơn, tốt hơn và thật lòng với Chúa hơn các luật sĩ và Biệt Phái thì mới có thể vào Nước Trời.

Chúa Giêsu cũng cho thấy đòi hỏi của Tin Mừng thì cao hơn, xa hơn luật cũ: “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” So sánh này của Chúa Giêsu cho thấy mức độ, đòi hỏi, của Tin Mừng quyết liệt hơn, cao hơn luật cũ. Nếu như luật cũ dừng lại bởi luật công bằng thông thường: giết người sẽ bị trừng phạt, luật của Tin Mừng còn đòi loại trừ nguyên nhân đưa đến tội ác, đó là thù oán, nóng giận, chửi bới nặng lời. Một người có tâm hồn thanh thản bình an, sẽ loại trừ được sự nỏng nảy giận hờn, thoá mạ khi trái ý; khi tâm hồn thanh thản bình an thì mới có thể đến với Chúa cách chân thành được. Chúa muốn chúng ta trước khi đến với Chúa cần giải gỡ mọi mối bất hoà dù mình gây ra hay người khác gây ra với mình: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.”

Chúa Giêsu đưa ra một số ví dụ để cho thấy luật của Tin Mừng hoàn toàn trổi vượt hơn luật của Môsê: Tội ngoại tình là tội phản bội lại tình yêu của người bạn đời, làm đổ vỡ mối dây thuỷ chung một vợ một chồng. Theo luật của Tin Mừng, tội ngoại tình được bắt đầu từ trong suy nghĩ, sự thèm muốn. Như thế, dù chỉ nhìn người khác giới mà đem lòng khát khao thèm muốn thì đã là tội trong tư tưởng rồi.

Cũng vậy, Luật Tin Mừng đòi mỗi người phải sống ngay thẳng thật thà trong lời nói, việc làm, gạt bỏ khỏi mình tất cả các hình thức gian tham, dối trá. Khi mỗi người tín hữu sống thật, nói thật và làm thật, thì không cần phải thề và cũng không cần nhân danh ai mà thề. Khi đó, lời nói của người tín hữu được bảo đảm bằng chính phẩm giá và tư cách là người tín hữu con của Chúa. Ngược lại ai nuôi dưỡng trong mình sự gian tham dối trá, nói dối, làm dối, kẻ đó thuộc về ma quỷ: Vì “có” thì nói “có”, “không” thì nói “không”; thêm điều đặt chuyện là do ác quỷ.

Có nhiều người, nhất là dân ngoại cho rằng đòi hỏi của luật Chúa quá khắt khe, khó có thể thực hiện. Thánh Phaolô trong thư Côrintô cho biết giáo lý Tin Mừng mà Ngài rao giảng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian và thế gian không thể hiểu được, nhưng là sự khôn ngoan nhiệm màu của Thiên Chúa, đã được tiền định cho chúng ta. Chỉ những ai tin và dám sống theo những đòi hỏi của luật Tin Mừng, thì mới là kẻ khôn ngoan đích thực. Thần Khí của Thiên Chúa sẽ thêm sức mạnh và thôi thúc để ta có thể chu toàn vuông tròn giới răn lề luật của Chúa.

Thưa quý OBACE, những đòi hỏi của giới răn lề luật của Chúa luôn là lời mời gọi và là thách đố cho chúng ta. Nhiều người đã tìm cách sống dễ dãi, lách luật bằng nhiều cách, có người lại muốn chỉ giữ một vài đòi hỏi tối thiểu của luật. Trong đời sống hôn nhân gia đình, một số người đã tự mình chối bỏ luật Chúa bằng việc tự ý bỏ nhau, nhiều người khác coi thường luật Chúa, đem nhau ra toà đời ly dị, để huỷ bỏ luật Chúa cách công khai trước mặt người đời. Đó là việc vi phạm luật Chúa hết sức nghiêm trọng.

Trong làm ăn, nhiều người đã nhắm mắt làm ngơ trước đòi hỏi sống công bằng, ngay thẳng, thật thà theo Tin Mừng. Họ biện minh cho sự gian dối của mình bằng nhiều cách để đánh lừa lương tâm của mình.

Xin Chúa giúp chúng ta biết đón nhận lề luật và giáo huấn của Chúa và Hội Thánh với lòng yêu mến. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng, yêu mến luật Chúa là chọn sống khôn ngoan và chu toàn luật Chúa sẽ đưa chúng ta đến gần Chúa hơn. Amen.

Về mục lục

.

TINH THẦN MỚI TRONG LỀ LUẬT CŨ

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển

Sau bài giảng trên núi về Tám Mối Phúc Thật, rồi sang Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu nói về bản chất và sứ vụ của các môn đệ là muối và ánh sáng cho trần gian. Hôm nay, Ngài đi thêm một bước nữa để dạy cho các ông về thái độ cần có đối với Lề Luật. Mặt khác, Đức Giêsu cũng làm toát lên vai trò Thiên Sai của mình khi đến để kiện toàn Lề Luật cũ và làm cho nó hoàn thiện hơn.

  1. Tại sao phải kiện toàn Luật cũ?

Phải kiện toàn Luật cũ, bởi vì Luật cũ đã làm cho người ta cảm thấy nặng nề, sợ hãi và thất vọng. Vai trò của Luật trong Cựu Ước không còn giúp cho con người được hạnh phúc, trái lại, nó làm cho người phải thi hành luật thêm đau khổ và thất vọng.

Đức Giêsu đến, Ngài đã mang lại cho Luật cũ một giá trị mới, nhằm kiện toàn cho tốt hơn. Vì thế, Ngài minh định: “Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ Lề Luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5,17). Thật thế, Đức Giêsu không hủy bỏ Lề Luật, nhưng Ngài giúp cho nó hoàn thiện hơn.

Tại sao Luật cũ cũng là Luật của Thiên Chúa truyền qua Maisen và các tiên tri mà lại phải hoàn thiện! Điều đó thật dễ hiểu, vì Luật cũ chỉ nắm vai trò dẫn đường, chuẩn bị, khai mở mà thôi, mặt khác, nó đã bị những người nắm giữ vai trò giải thích Luật lạm dụng và làm cho nó trở nên nặng nề như cái gông cái ách quá nặng để đè lên vai con người, mặc dù những người đó không đủ sức mang vác.

Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài cần phải kiện toàn và bổ xung cho hoàn chỉnh; đồng thời cũng giúp cho các môn đệ hiểu và sống cho đúng tinh thần của Luật chứ không chỉ hiểu theo nghĩa đen, nghĩa thuần túy của chữ.

Đức Giêsu đã đưa các môn đệ đi vào chiều kích mới của Luật, để con người đạt được sự viên mãn và cùng đích của Luật là tình yêu.

Như vậy, Luật tình yêu được Đức Giêsu đề cập đến cụ thể trong bài Tin Mừng hôm nay là gì?

  1. Tinh thần mới trong Lề Luật cũ

Trước tiên, hiểu về vấn đề giết người:

Nếu trong Cựu Ước, giới răn thứ 5 dạy chớ giết người (x. Xh 20,13; Đnl 5,17), nhưng không có tính cách triệt để, và án tử hình được chấp nhận khi con người phạm vào một số tội trọng (x. Ds 35,16-21). Cũng vậy, trong luật chiến tranh, Maisen chấp nhận được chém giết đối phương (x. Đnl 20,13.16).

Còn Đức Giêsu, Ngài đi xa hơn nữa để dạy cho các ông hiểu rằng: khi xúc phạm tới anh em mình như chửi rủa, giận giữ hay la rày, mạt sát là đã phạm tội rồi. Bởi vì: Luật cũ dạy: “Chớ giết người”, còn Đức Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình” thì như đã phạm tội giết người. Vì thù oán anh em  là đã tiêu diệt họ ngay trong lòng mình, tuy chưa giết họ thực sự, nhưng đã giết chết họ trong trái tim. Thánh Gioan Tông đồ cũng viết: “ Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1Ga 3,15).

Thứ đến, hiểu về lời thề và làm chứng:

Trong Cựu Ước, điều răn thứ 2 dạy chớ kêu tên Ðức Chúa Trời vô cớ (x. Lv 19,12) và thứ 8 dạy chớ làm chứng dối (x. Xh 20,16). Luật cũ cho phép thề, nhưng “chớ bội thề”. Còn Đức Giêsu bảo: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Ðừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Ðừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Ðừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Ðức Vua cao cả. Ðừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay đen được. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 34-37; x. 2Cr 1,17; Gc 5,12).

Tiếp theo, hiểu về tội ngoại tình:

Luật Maisen dạy rằng: ngoại tình là một điều sai quấy và không được phép (x. Xh 20,14; Xh 20,17b; Đnl 5,18). Còn Đức Giêsu thì nhấn mạnh đến cái tâm con người, tức là tự đáy tâm hồn: không ai biết, nhưng Thiên Chúa biết mọi sự từ thâm cung bí hiểm của con người. Vì thế, Ngài nói: “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 28). Đức Giêsu coi suy tưởng để dẫn đến ngoại tình nó như là một mầm mống, để rồi từ đó sẽ mọc lên cây non và hình thành nên một lối sống. Vậy muốn diệt thì phải diệt tận gốc chứ không chỉ có cái ngọn.

Như vậy, trong vai trò Thiên Sai, Đức Giêsu đến để kiện toàn và làm cho nó tốt hơn, hoàn hảo hơn, nhân bản và đạo đức hơn nhờ vào cái gốc là bác ái và yêu thương.

Lời dạy của Đức Giêsu không đi ngược những gì Maisen đã dạy, nhưng Ngài muốn dẫn đưa con người đến mức độ trưởng thành nhằm hướng tới niềm vui trọn vẹn từ trong tâm, toát ra nơi lối sống qua mọi mối tương quan.

Sau khi chứng minh cho việc trung thành giữ Luật của mình để các môn đệ hiểu, Đức Giêsu chính thức đi xa hơn để dạy cho các ông bài học về tinh thần mới trong Luật cũ, đồng thời mời gọi các ông đi trên con đường ấy để được hoàn thiện, Ngài nói: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”(Mt 5,20).

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Trong cuộc sống, nơi gia đình hay bất kể một cộng đoàn lớn nhỏ nào, nếu chỉ có luật và người ta dùng luật để làm thước đo giá trị tâm linh, thì cộng đoàn ấy, gia đình đang tụt hậu và đi xa đường lối của Thiên Chúa. Họ đánh mất đi tình yêu và mất luôn bản chất của Đạo.

Thật vậy, nếu chỉ vì luật, người ta sẽ xử với nhau như beo cọp, gọi nhau bằng mệnh lệnh, và cấp dưới sẽ vì sợ mà phải thi hành. Một gia đình hay một cộng đoàn như vậy thì đâu khác gì một địa ngục ở trần gian? Bởi vì trong địa ngục thì không có tình yêu.

Có một linh mục tâm sự rằng: “rất nhiều người siêng dâng lễ, đọc kinh, tuần nào tiết ấy, nhưng thực chất họ làm những chuyện đó chỉ để cho người khác khen mình là người đạo đức, là tốt lành, hoặc coi những công việc đó như là chiếc bình phong để che đậy những điểm xấu xa bởi những thủ đoạn ám muội của mình gây ra, hoặc dựa trên những việc đạo đức giả tạo đó để rồi lên mặt dạy ông nọ, chửi bà kia và vênh vang với đời”.

Những người như vậy, họ giống như cái “xác vô hồn”, hay “thùng rỗng kêu to” hoặc như một “đàn gà công nghiệp”. Họ giống như những “mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế!” (Mt 23, 27-28); lòng họ không có lòng mến, nên tất cả chỉ là giả tạo theo kiểu: “Khẩu Phật tâm xà”; hay “bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.

Mong thay, mỗi chúng ta luôn nhớ rằng: việc giữ Luật không chỉ có biểu hiện bề ngoài, mà còn từ bên trong tinh thần. Cái bên ngoài chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy từ ý hướng ngay lành ở bên trong.

Cũng thế, muốn bình an, thanh thản và an vui thực sự, con người cần phải thanh tẩy tận căn từ bên trong tâm của mình. Bởi vì: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du).

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con biết sống thật với lòng mình, để đáng được gọi là con Chúa và là anh chị em của nhau. Luôn có cái nhìn bao dung với người đồng loại, và mưu cầu hạnh phúc cho những người chúng con gặp gỡ. Amen.

Về mục lục

.

KIỆN TOÀN LỀ LUẬT VÀ ĐỨC CÔNG CHÍNH MỚI

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

CÂU HỎI GỢI Ý

  1. “Làm trọn Lề luật” (5, 17) có nghĩa là gì  Phải hiểu thế nào các “tương phản” (5, 21. 27. 31. 33. 38. 43) sau khi đọc đoạn khai triển về việc làm trọn Lề luật (5, 17- 20) ? Chúa Giêsu kiện toàn “điều đã được nói cho người xưa” ở điểm nào? Đâu là sự “dư dật” của đức công chính được đề ra (c. 20)?
  2. Hãy nêu lên trong Tin Mừng những cử chỉ Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người không đến bãi bỏ Lề luật: ví dụ đối với Đền Thờ, việc nộp thuế, lễ Vượt Qua, việc chúc lành các bữa ăn, kinh nguyện hằng ngày, chính quyền, việc hành hương Giêrusalem v.v…
  3. Theo nghĩa nào Chúa Giêsu đã giải phóng Lề luật khỏi các khoản thêm thắt của Biệt phái đã khiến mục đích chân chính của Lề luật bị đổi hướng?
  4. Có thể ly dị vợ trong trường hợp gian dâm không? Khoản luật này có nghĩa gì? Phải chăng đây là một luật trừ?
  5. Sau khi kêu gọi môn đồ và dân chúng, trong các câu dẫn nhập vào Diễn từ, bằng cách phác họa cho họ thấy dung mạo con cái Nước Trời, Chúa Giêsu lập tức đề phòng một ngộ nhận: điều Người loan báo có thể xem như bãi bỏ Cựu ước (được gọi dưới cái tên Lề luật – tức bộ Ngũ Thư – và các Ngôn sứ tức là toàn thể các sách linh ứng khác), nhưng kỳ thực là không: Người không đến bãi bỏ, song để làm trọn, kiện toàn. Việc hoàn tất ấy nhắm lời Thánh Kinh xét như là tuyển tập các sấm ngôn mà Chúa Kitô đến thực hiện, và xét như là tuyển tập các luật lệ diễn tả thánh ý Thiên Chúa, mà Chúa Kitô đến kiện toàn.
  6. Một trong các bản tuyên tín cổ xưa nhất, có lẽ từ khoảng năm 35- 40, quả quyết như sau: “Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Thánh Kinh. Người đã bị chôn cất, đã sống lại ngày thứ ba, theo lời Thánh kinh” (1Cr 15, 3- 5). Niềm xác tín Chúa Kitô hoàn tất Thánh Kinh như vậy đã ăn sâu vào tâm thức Kitô hữu. Nó cấu thành niềm tin của cộng đoàn nguyên thủy, và là trọng tâm của việc họ hiểu Lời Chúa. Nhờ việc hoàn tất này, Giáo Hội xuất hiện như là đích điểm của chuyển động lịch sử mà Thiên Chúa đã lèo lái, và Chúa Kitô tỏ ra như là trung tâm bảo đảm sự duy nhất của Thánh Kinh. Người là Đấng “đã được nói đến trong Lề luật Môisen và các ngôn sứ” (Ga 1, 45): Tin lời Thánh Kinh tức là tin và Người: Vì chính về Ta mà Môisen đã viết” (Ga 5, 45). Và suốt cuốn Tin Mừng, Mt đã chú tâm làm nổi bật việc Chúa Kitô hoàn tất Thánh Kinh như vậy.
  7. Nhưng nếu Chúa Giêsu đến hoàn tất các sấm ngôn, thì Người cũng đến trình bày một cái nhìn đúng đắn hơn về tinh thần được tiềm ẩn dưới các giới lệnh chính thức của Lề luật. Ngoài ra, công cuộc kiện toàn này còn có đặc điểm là tinh thần Tin Mừng nay thấm nhập vào pháp chế cổ xưa, là cái có mục đích chuẩn bị sự nẩy nở của Tin Mừng. Như nụ hoa kết liễu và biến mất trong đóa hoa, Cựu ước cũng nở ra trong Tân ước. Thay cho văn tự ngột ngạt đè nén, này đây tinh thần đến giải phóng con người.

Các kiểu so sánh Chúa Giêsu dùng – không một chấm một phết của Lề luật sẽ bị biến mất – thoạt nhìn tưởng là có nghĩa duy trì hoàn toàn bộ luật Cựu ước bao lâu còn vũ trụ (“trời và đất”, thành ngữ cổ điển). Nhưng các ví dụ đưa ra đi ngược lại và cho thấy Người không nhằm bảo tồn chất thể tính của các giới lệnh. Người chỉ duy trì chúng bằng cách vượt trên chúng. Không phải bằng cách chồng chất thêm điều khoản, như nhóm Biệt phái và tiến sĩ luật đã làm, song là đưa vào một não trạng có tính cách tôn giáo hơn, khả dĩ làm nổ tung các khuôn khổ cũ (9, 16- 17) mà vẫn không hủy diệt các giới răn. Đây chẳng phải là việc phá hủy, song là đổi mới canh tân. Toàn bộ đóng góp tích cực về tôn giáo của Cựu ước đều được duy trì, gạn lọc khỏi các thể chế lỗi thời và thối nát.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Không một chấm một phết”: Phải giải thích câu này trong cái nhìn toàn bộ Tin Mừng Mt. Nếu Chúa Giêsu muốn đề nghị ở đây một sự tuân hành mặt chữ Lề luật, Người sẽ trực tiếp mâu thuẫn với thái độ của chính mình, vì xem ra Người đã chẳng giữ đúng các khoản luật nhỏ nhặt của Cựu ước, nhất là khoản về thu nhập và tinh sạch theo lễ nghi (15, 3 ; 19, 17 ; 22, 36. 38. 40 v.v…), hơn nữa Người sẽ mâu thuẫn với lời giảng huấn của mình, vì trong các ví dụ sau đó, Người sửa đổi Lề luật trên nhiều điểm quan trọng như khoản luật về ly dị của Đnl 24, 1. Do đấy phải xem thành ngữ của Chúa Giêsu là một kiểu nói Do thái, đặc biệt của các giáo sĩ, nhằm làm nổi bật uy quyền tuyệt đối và trường tồn của Lề luật, nhưng là một Lề luật đã được giải thích lại, được gạn lọc khỏi các yếu tố lỗi thời, được kiện toàn nhờ tinh thần tình yêu sinh động nó. Thứ Lề luật đã được chú giải lại như thế phù hợp với chủ ý nguyên thủy của Thiên Chúa, là Đấng đã ban nó cho Môisen đầu tiên. Chính trong chiều hướng ấy mà ta có thể xác quyết tính cách bền vững của Lề luật: trời đất sẽ qua đi nhưng thánh ý Thiên Chúa sẽ không qua bao giờ.

“Một trong những điều răn nhỏ hèn nhất”: Một lần nữa, đây không phải là bắt chước việc giữ luật theo mặt chữ của Biệt phái. Khi đã lưu ý đến văn mạch của Diễn từ, chớ quên rằng từ đây Luật chẳng phải là luật Môisen đối nghịch với tinh thần mới, nhưng là Luật Thiên Chúa với sự viên mãn mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Nên so với Lề luật diễn tả thánh ý Chúa Cha và được Chúa Giêsu giải thích lại như thế, thì các điều răn phụ tùy cũng có giá trị riêng của chúng. Ở đây nhấn mạnh đến việc thực hành Luật Tin Mừng, có lẽ vì muốn ám chỉ tới nhóm Biệt phái “nói mà không làm” (23, 3). Lối giải thích này được xác nhận bởi cách đặt tiếp liên các động từ (“phạm – dạy … làm- dạy”); đặt việc vi phạm hay thi hành điều luật trước, và việc dạy dỗ ra sau trong cả hai lần.

Câu 20 phát biểu chủ đề của những điều sẽ nói: “‘Nếu đức công chính của các ngươi không dư dật hơn ký lục và Biệt phái …”. Lời tuyên bố long trọng này sau đấy được minh giải qua 6 ví dụ cụ thể, trong đó Chúa Giêsu đối chiếu lời Người tái giải thích Lề luật với giáo huấn chính thức của Do thái giáo. Tất cả các ví dụ đều được kết cấu theo một kiểu như nhau: trích dẫn một điều luật đoạn đề ra các yêu sách mới (“Ta bảo các ngươi…”) . Sáu ví dụ này là: giết người (cc.21- 26), ngoại tình (cc. 27- 30), ly dị cùng tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (cc.31- 32), thề thốt (cc.33- 37), báo thù (cc.38- 42) và yêu kẻ thù nghịch (cc.43-47). Trong cả 6, sự công chính mà Chúa Giêsu rao giảng tỏ bày ra một cách sâu xa và hiện thực.

Từ luật cấm giết người (c. 21), Chúa Giêsu đi qua các yêu sách của bác ái: không nhục mạ tha nhân (c.22), song hãy làm hòa với họ. Đối với Mt, tính cách mới mẻ của Kitô giáo phát xuất từ trực giác căn bản Chúa Giêsu đã mặc khải cho môn đồ: đó là sự kiện tất cả chúng ta đều là con cái của Cha trên trời. Và sự kiện chủ yếu này đưa tới một hệ luận quan trọng: mọi người là anh em. Trước đó Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến điểm thứ nhất, đã luôn luôn quy chiếu về Thiên Chúa như là Cha từ đầu đến cuối Diễn từ. Ở đây Người chạm tới điểm 2, khi dùng chữ anh em 4 lần trong các câu 22- 24.

Trong mấy câu 22-24, chở đi tìm các phân biệt theo kiểu giải nghi học xa lạ với não trạng của Chúa Giêsu. Thực ra, Người chỉ muốn sử dụng những phạm trù pháp lý của môi trường mình và kiểu nói của các giáo sĩ, để kết án sự giận hờn như là một hành động giết người, dù nó xuất hiện dưới hình thức nào đi nữa. (Về ý nghĩa các chữ “đồ ngốc”, “đồ khùng”, “tòa án”, “công nghị”, xin xem chú thích của BJ)

“Khi ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ”: Câu này không rõ ràng mấy về chi tiết. Có thể là người sắp dâng hy lễ đã làm phật lòng tha nhân, hay tha nhân đã tức giận người dâng lễ (có duyên cớ hay không, bản văn chẳng xác định gì). Giả thuyết thứ hai có vẻ đúng hơn, vì người dâng lễ đã ở bên bàn thờ khi sực nhớ lại: điều này minh chứng cơn giận không ở trong lòng anh ta nhưng cái đó chẳng quan trọng; điều đáng kể là trong hai trường hợp, thiện ích của sự bình an đòi hỏi ta phải tìm cách giải hòa với nhau, trước khi trình diện trước mặt Thiên Chúa. Đó là sự tế nhị của lòng bác ái Chúa Giêsu mà ta không mấy thích, vì nhiều khi mình là đối tượng của một sự hờn oán bất công. Câu tiếp theo (c. 25) trình bày một dụ ngôn tiềm ẩn nhằm cụ thể hóa lời giảng huấn đi trước: cũng như người ta tìm cách thỏa thuận với chủ nợ để khỏi gặp cảnh khốn khổ hơn, thì cũng vậy phải tìm cách giải hòa gấp với nhau để tránh thoát hình phạt của Thiên Chúa. Ý tưởng sau chỉ được hiểu ngầm thôi, tuy nhiên cung cách long trọng của c. 26 gợi lên điều đó.

Về vấn đề ngoại tình (cc. 27- 30), tính cách triệt để của Lề luật được đặc biệt nhấn mạnh: người Kitô hữu chẳng những sẽ không phá vỡ tổ ấm của anh em mình qua việc lấy vợ anh em, mà còn không được để phát sinh trong lòng mình ý muốn phá vỡ đó. Sự toàn vẹn của tổ ấm gia đình phải vượt lên ngay cả trên sự toàn vẹn thể lý, là cái gì rất quý đối với con người, vì con mắt giúp đi đứng, còn tay chân lại giúp hành động. Đây là kiểu nói đại ngôn cho thấy phải coi trọng đến độ nào yêu sách tuyệt đối của Lề luật. Truyền thống giáo sĩ cũng đi theo chiều hướng ấy.

“Trừ phi là nố dâm bôn”: Câu này (được Mt 19, 9 ; Mc 10, 11- 12 ; Lc 16, 18 bổ túc) không phải là dễ hiểu, vì nó nại đến nhiều ý niệm pháp lý mà ta chẳng còn quán triệt được ý nghĩa đích xác. Dù sao đại ý vẫn rõ ràng: sự bao che của luật Môisen, được bảo đảm nhờ ly thư, trở nên thất liệu trong lời Chúa Giêsu tái giải thích Lề luật. Kết luận tổng quát này dựa trên các lý chứng sau đây:

  1. Toàn bộ Diễn từ cho thấy Chúa Giêsu muốn vượt quá Lề luật cho đến bây giờ hãy còn hiệu lực. Thế mà trong trường hợp hôn nhân, dù công nhận sự vô hạnh (gian dâm) như là luật trừ, Người vẫn không đi xa hơn mấy lập trường của Shammai, một giáo sĩ Do thái đương thời.
  2. Trong Mt 5- 7, cũng như các chỗ khác, ta chẳng hề thấy Mt phát biểu một sự chế hạn nào đó khi ghi lại một huấn thị luân lý của Chúa Giêsu; thực vậy, các bản văn ấy cho thấy Người rõ ràng không muốn sa vào lối phân biệt các nố đặc biệt như các giáo sĩ thường làm, mà chỉ nhắc lại cách đại cương trật tự sáng tạo Thiên Chúa đã thiết lập.
  3. Mc và Lc không nói đến điều khoản này. Khó mà nghĩ rằng hai ông đã bỏ qua một lời tuyên bố thật sự biến đổi nguyên tắc bất khả phân ly của hôn nhân.
  4. 1Cr 7, 10- 11, lời giải thích xưa nhất về câu nói của Chúa mà Phaolô cũng biết, xác nhận luật cấm tuyệt đối không được ly dị (tuy nhiên câu 11 nói đến trường hợp ly thân mà không tái giá).

Do đó không thể chủ trương rằng trong tâm trí Chúa Giêsu, việc ngoại tình làm thành một luật trừ, như người Tin lành và Chính thống giáo vẫn kết luận từ điều khoản đó (tuy nhiên có nhiều thần học gia Tin lành mới đây đã chấp nhận cách đại cương lời kết luận của chúng tôi). Thế nhưng các nhận xét trên đây không phải là lời chú giải điều khoản của Mt. Muốn tìm hiểu, xin khảo cứu các sách chú giải chuyên môn và các bài đăng trong tạp chí.

“Ta bảo các ngươi đừng thề thốt chi cả”: Lời nghiêm cấm này xem ra tuyệt đối đến nỗi nhiều giáo phụ đã lên án mọi sự thề hứa, cũng như có nhiều giáo phái Tin lành từ chối không tuyên thệ bất cứ điều gì. Để không lại ý kiến họ, ta có thể trưng ra sự kiện thánh Phaolô (Rm 1, 9 ; 2 Cr 1, 23 ; 11, 31 ; Ga1  1, 20 ; Pl 1, 8 ) và việc thực hành trong Giáo Hội: Giáo Hội không những cho phép thề trước các tòa án, mà còn buộc phải thề trong một vài trường hợp nữa (vd thề chống Duy tân chủ nghĩa). Điều đó giả thiết lời nghiêm cấm của Chúa Giêsu không có tính cách tuyệt đối. Người muốn nói (thánh Agustinô) trong lời thề tự nó không phải là một điều tốt. Nó phải biến mất khỏi một cộng đoàn xã hội được tổ chức theo tư tưởng của Chúa Giêsu. Chỉ khi gặp trường hợp đáng tiếc và nghiêm trọng mới nên thề. Để quán triệt tư tưởng của Chúa Giêsu, ta phải xét nó trong hoàn cảnh cụ thể của nó. Các thính giả của Chúa Giêsu là những người không phải bận tâm về tính cách chính đáng trên lý thuyết của một lời thề quy định bởi quyền bính dân sự hay tôn giáo. Họ sống trong một môi trường mà văn từ của Lề luật, theo lối chú giải của Biệt phái, coi như đi đôi với một sự lạm dụng quá trắng trợn, với một sự biến đổi rõ ràng tâm tình đạo đức. Chúa Giêsu đưa ra một hướng đi quyết liệt, Người tình bày điều duy nhất phù hợp với danh dự của Thiên Chúa và phẩm giá con người, làm quy luật mà các môn đồ Người phải theo trong các hoàn cảnh sống thông thường. Nền tảng của quy luật thực tiễn này là: con người không được dùng lời mình để cam kết cái điều thuộc về Thiên Chúa; đó sẽ là một toan tính bắt Thiên Chúa phục vụ mình, một toan tính rõ ràng là vô ích phù phiếm, vì con người không thể thay đổi ngay cả màu sắc tóc mình, theo nghĩa là không thể làm mình trẻ hơn hay già hơn được.

KẾT LUẬN

Việc Chúa Giêsu tái giải thích Lề luật luôn luôn được thực hiện trong cùng một chiều hướng: khi triệt để hóa Lề luật, vượt trên mọi toan tính phân tích từng nố nhằm giảm thiểu yêu sách của nó, Người hoàn lại cho nó chiều hướng nguyên thủy là làm cho con người trở nên huynh đệ hơn, tôn trọng nhau hơn, trung thành hơn với các lời cam kết và tình yêu, ngay chính hơn đối với anh chị em mình.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Con người luôn luôn bị cám dỗ rơi vào não trạng nệ luật, là não trạng bao giờ cũng dễ dàng vì gây cho ta mọi sự an lòng: ta vững tâm cho rằng mình sống đúng luật đối với Thiên Chúa và tha nhân, một khi làm tròn một quy luật nào đó. Nhưng Chúa Giêsu mời ta vượt qua các tính toán so đo ấy để đi vào bình diện tình yêu. Và mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.
  2. Chúa Giêsu không chỉ hài lòng với việc chu tất hay kiêng cữ bên ngoài. Người đi tìm con người tận trong căn nguyên hành vi của họ, tận trong tư tưởng, ước muốn, ý hướng của họ: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức hết linh hồn ngươi “.
  3. Khi ban Thập điều cho Israel, Thiên Chúa đã dẫn Israel bước một bước dài trong quá trình tiến bộ về mặt luân lý: so sánh với luật rừng hay tình trạng man rợ, luật Môisen tượng trưng cho một bước tiến đáng kể cho lương tâm con người. Tuy nhiên Thiên Chúa cũng lưu ý đến sự yếu đuối của dân Israel và đến các phong tục hãy còn thô lậu của thời đại: như một nhà sư phạm khôn ngoan, Ngài đã thích ứng các yêu sách của Ngài với não trạng hãy còn thô lỗ của dân, chấp nhận nhượng bộ việc ly dị, trả thù v.v… Đó là thời kỳ thơ ấu của Israel, thời kỳ tập luyện. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương tạo vật đến nỗi không muốn duy trì nó trong sự sống tầm thường. Vì thế Ngài đã sai phái Con Một Ngài để Người hoàn tất công trình Ngài và dẫn đưa con người đến tình yêu hoàn hảo. Đây là một sự liên tục đáng khâm phục trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 6 TN_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên Năm A đưa ra câu trả lời cho một vấn đề: sự khôn ngoan của Thiên Chúa cốt yếu là điều gì?

Hc 15: 15-20

Theo hiền nhân Si-rác, sự khôn ngoan của Thiên Chúa được bày tỏ qua việc tôn trọng sự tự do chọn lựa của con người.

1Cr 2: 6-10

Theo thánh Phao-lô, sự khôn ngoan của Thiên Chúa chính là sự khôn ngoan mà Tin Mừng công bố. Mầu nhiệm được ẩn dấu từ muôn thuở đã được Đức Ki-tô mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần, đó là kế hoạch của Thiên Chúa trên nhân loại, tức là cho con người được dự phần vào vinh quang của Ngài.

Mt 5: 17-37

Luật Cựu Ước được xem như diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su công bố rằng Ngài đến để kiện toàn Lề Luật: những đòi hỏi mà Ngài thêm vào Lề Luật đem lại quyền ưu tiên cho thái độ nội tâm. Lề Luật bị vượt qua một cách sâu xa khi đặt người Ki-tô hữu dưới cái nhìn của Thiên Chúa chứ không của con người.

BÀI ĐỌC I (Hc 15: 15-20)

Bản văn này rất nổi tiếng vì nó hình thành nên một trong những tham chiếu kinh điển thần học về vấn đề sự tự do của con người. Tác giả là một bậc vị vọng ở Giê-ru-sa-lem, sống vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Ông là một nhà hiền triết, nghĩa là bậc thầy dạy lẽ khôn ngoan, đã mở trường và đào tạo môn sinh; ông ghi lại những thành quả từ kinh nghiệm và những gẫm suy của ông.

Vào thời đó, dân Ít-ra-en trải qua một khúc quanh lịch sử của mình. Sau khi trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon, tiếp đó tái thiết Đền Thờ (521 trước Công Nguyên), Do thái giáo đã ý thức về chính mình. Ấy vậy, sau những cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê (336-323 trước Công Nguyên), Cận Đông mở rộng cửa đón nhận văn hóa Hy-lạp. Vào năm 250 trước Công Nguyên, nền văn hóa Hy lạp tràn ngập khắp miền Pa-lét-tin; những môi trường quý tộc ở Giê-ru-sa-lem sẵn lòng đón nhận nền văn hóa này. Ông Si-rác, tâm trí cởi mở và sáng suốt, thấy trước mối nguy: Do thái giáo có nguy cơ đánh mất tâm hồn của mình. Được nuôi dưỡng bởi nguồn mạch Kinh Thánh, ông Si-rác đem lại niềm tin và sức mạnh cho các truyền thống của cha ông. Lề Luật, mà ông đồng hóa với sự khôn ngoan, đem lại niềm tôn kính cho chức tư tế và Đền Thờ, cũng cho những thực hành nghi lễ. Ông biên soạn một thủ bản dạy cách ăn nếp ở cho người Do thái trung thành, những người cưỡng kháng lại những ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp.

Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri. Nhưng khoảng năm mươi năm sau, vào khoảng năm 130 trước Công Nguyên, cháu nội của ông dịch tác phẩm này sang Hy ngữ. Sách của hiền nhân Si-rác là một loại bách khoa; nhiều chủ đề đa dạng được đề cập ở đây, không có trật tự xác định, nhưng chung chung được hợp thành nhóm theo chủ đề. Đoạn văn chúng ta bàn đến sự tự do của con người, gồm có ba phần:

– Khẳng định con người có quyền chọn lựa.

– Khẳng định Thiên Chúa là Đấng toàn năng và toàn tri, điều này xem ra đi ngược lại với sự tự do chọn lựa của con người.

– Giải pháp được phác họa dưới hình thức hai phủ định ở nơi câu cuối cùng.

  1. Con người có quyền chọn lựa

Hiền nhân Si-rắc khẳng định rõ ràng là con người có quyền quyết định số phận của mình. Thiên Chúa đã đặt trước mặt mỗi người sự chết (“lửa”) và sự sống (“nước”), tùy thuộc vào sự tự do chọn lựa của mình:

“Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước,

con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy.

Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử,

ai thích gì, sẽ được cái đó” (Hc 15: 16-17).

Theo truyền thống Kinh Thánh, sự sống được liên kết với việc thực thi Lề Luật:

“Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn

mà trung tín làm điều đẹp ý Người” (Hc 15: 15).

Chúng ta có thể trích dẫn nhiều bản văn theo nghĩa này, chẳng hạn như Đnl 30: 15-20: “Hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai họa. Hôm nay tôi truyền cho anh em phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lới của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em được sống, được thêm đông đúc, và Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chúc phúc cho anh em trong miền đất anh em sắp vào chiếm hữu… Nhưng nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên mặt đất… Hôm nay, tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh em: tôi đã đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa…”.

Vài bản văn Cựu Ước có thể khiến chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa điều khiển mọi hành động của con người – thậm chí những hành động xấu. Tuy nhiên, sự tự do của con người được khẳng định ngay từ sách Sáng Thế ở đó rõ ràng Thiên Chúa đã cho con người quyền chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Trách nhiệm tội lỗi không thể chối cãi là trách nhiệm của con người. Các tác giả Kinh Thánh thường đề cao sự tự do chọn lựa của con người: hoặc ăn năn sám hối hay cứ ngoan cố trong sự bất tín. Nhiều lần Kinh Thánh gợi lên sự nhẫn nại của Thiên Chúa, Ngài hy vọng, chờ đợi tội nhân trở về với Ngài. Hiền nhân Si-rác cô động các giáo huấn tản mác này và phát biểu một cách thấm thía và rõ ràng.

  1. Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và Toàn Tri

Đối diện với sự tự do chọn lựa của con người, hiền nhân Si-rắc thắp sáng sự toàn năng và toàn tri của Thiên Chúa:

“Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao,

Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả” (15: 18).

Dân Hy lạp nói: “Tinh thần mực thước là giới hạn duy nhất đối với quyền năng của các thần”. Hiền nhân Si-rác, không phải là không biết tư tưởng Hy lạp, nhất là tư tưởng của phái khắc kỷ, diễn tả một ý tưởng tương tự khi đặt lên hàng đầu trí khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, nhưng trước hết Ngài là Đấng Thượng Trí. Trí khôn ngoan này đánh dấu sự giới hạn của Ngài đối với quyền tự do chọn lựa của chúng ta, nghĩa là Ngài không thể nào biết trước sự chọn lựa của mỗi người chúng ta.

  1. Chúa không cho phép ai phạm tội

Trước vấn nạn này, hiền nhân Si-rác thoáng thấy một giải pháp mà ông diễn tả bằng hai câu theo hình thức phủ định:

“Người không truyền cho ai ăn ở thất đức,

cũng không cho phép ai phạm tội” (15: 20).

Thiên Chúa muốn điều thiện chứ không điều ác. Khi đối diện với sự tự do chọn lựa của con người, trí khôn ngoan của Ngài không bỏ mặc con người. Thiên Chúa lôi kéo con người hướng về điều thiện mà không áp đặt con người:

“Chúa để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người,

và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện” (15: 19).

Nghĩa là Ngài trợ giúp con người bằng cách kêu mời nên thánh khi tuôn đổ muôn ân sủng của Ngài trên họ.

BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 6-10)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Phao-lô đã nhắc tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng thánh nhân đã trình bày Tin Mừng cho họ như thế nào: bằng những ngôn từ thật đơn sơ mộc mạc, không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu.

  1. Sự khôn ngoan của Tin Mừng

Nhưng khi ngỏ lời với những tín hữu gốc Hy lạp, thánh nhân không thể không quan tấm đến sự khôn ngoan. Thánh nhân cũng bận lòng chứng mình rằng có “sự khôn ngoan của Tin Mừng”, gắn bó với đức tin dẫn đưa chúng ta thậm chí vào tận nơi sự khôn ngoan cao cả.

Đây không là sáng kiến của thánh Phao-lô. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã được trào lưu minh triết Cựu Ước ca ngợi rồi. Nhưng sự khôn ngoan này đã mặc lấy một khía cạnh mới với sự kiện Chúa Ki-tô ngự đến giữa loài người; sự khôn ngoan này bao hàm một mầu nhiệm: mầu nhiệm này đã được mặc khải ở nơi con người của Đức Giê-su. Thánh Phao-lô dùng từ “mầu nhiệm” không theo nghĩa Hy-lạp: một bí mật phải được giữ kín, nhưng theo nghĩa của các sách khải huyền Do thái: kế hoạch mà Thiên Chúa tiền định từ trước muôn đời nay được vén mở.

  1. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa

Trước tiên, thánh Phao-lô đưa ra hai khía cạnh tiêu cực của sự khôn ngoan, hay đúng hơn, khía cạnh tiêu cực thứ nhất là bút chiến: sự khôn ngoan này chỉ đạt đến cho “các tín hữu trưởng thành”. Ở đây, thánh nhân nhắm đến những tín hữu Cô-rin-tô, cho thấy họ chưa trưởng thành qua những tranh cãi trẻ con. Khía cạnh tiêu cực thứ hai nhắm đến sự khôn ngoan của thế gian, tức là những thủ lãnh nắm quyền thống trị thế gian: chắc chắn vừa là những thế lực ma quỷ vừa là thế lực của những kẻ hám danh lợi trên cõi thế này, đặc biệt những quyền lực chính trị, như thánh nhân xác định sau này.

Tiếp đó, thánh Phao-lô đề cập đến khí cạnh tích cực của sự khôn ngoan Ki tô giáo, đó là biết được ý định của Thiên Chúa đã được tiền định từ trước muôn đời, nay được bày tỏ ra, tức là cho con người được dự phần vào vinh hiển của Ngài.

Không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã biết được kế hoạch của Thiên Chúa, vì thế, họ đã đóng đinh “Đức Chúa vinh hiển vào thập giá”. Thánh Phao-lô cho Đức Ki-tô một tước hiệu mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa. Thánh nhân thường hằng nhận ra Đức Giê-su là “Chúa”, như vậy hàm chứa Thần Tính của Ngài. Qua tước hiệu cao cả này, thánh nhân nhấn mạnh sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Ngoài ra, khi lấy lại từ ngữ “vinh quang”, thánh Phao-lô chỉ ra rằng chính qua Chúa Ki-tô mà chúng ta mới có thể được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa.

  1. Sự khôn ngoan cao vời khôn ví

Vận mệnh vinh quang này mà Thiên Chúa dọn sẵn cho loài người không thể nghi ngờ được. Thánh Phao-lô trích dẫn khá tự do một đoạn văn của Is 64: 3: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người”. Sự khôn ngoan cao vời của Thiên Chúa không ai có thể đạt đến được nếu không có mặc khải, “còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí”.

Đại từ “chúng ta” này chỉ ra thánh nhân và những cộng tác viên của thánh nhân. Thánh nhân thường nhấn mạnh ơn thần khải mà sứ vụ tông đồ hưởng được. Thánh nhân đã có kinh nghiệm trực tiếp về điều này. Dù thánh nhân đã không sống với Đức Ki-tô tại thế, nhưng đã lãnh nhận ơn gọi độc nhất vô nhị: ánh sáng trên đường Đa-mát không ngừng soi sáng cho thánh nhân.

TIN MỪNG (Mt 5: 17: 37)

Sau khi đã trình bày cho các môn đệ cách ăn nếp ở được chỉ ra trong bản Hiến Chương Nước Trời về các Mối Phúc, Chúa Giê-su sắp đi vào chi tiết và đối chiếu bản Hiến Chương này với Luật Mô-sê.

  1. Đức Giê-su kiện toàn Lề Luật

Khi khẳng định: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi”, Chúa Giê-su mượn kiểu nói văn chương mà các kinh sư thời đó thường lập đi lập lại: “Đừng chạm tới một chấm một phết của Lề Luật”. Qua kiểu nói này, các kinh sư lưu ý rằng họ vui thích giải thích Lề Luật, nhưng không bao giờ cho phép mình sửa đổi bất kỳ chi tiết nhỏ nhặt nào của Lề Luật.

Tuy nhiên, Chúa Giê-su hạn định lời khẳng định của mình: “cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Chắc chắn phải hiểu cho đến khi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài thiết lập một trật tự mới.

  1. Điều quan trọng của Lề Luật

Trong lời phát biểu của Chúa Giê-su, “kẻ nhỏ nhất” và “kẻ lớn nhất” không diễn tả đẳng cấp hơn kém, nhưng là kiểu nói sê-mít bày tỏ sự tán thành hay không tán thành đối với cách hành xử của một người nào đó. Việc ca ngợi Lề Luật và tuân giữ Lề Luật dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất khó ăn khớp với giáo huấn theo sau của Chúa Giê-su, Ngài sắp lật đổ thể chế Lề Luật này và thay đổi nó trên nhiều điểm quan trọng.

Nhưng đừng quên rằng thánh Mát-thêu đang ngỏ lời với độc giả Do thái cải đạo hay muốn cải đạo. Điều quan trọng là phải chỉ cho họ thấy rằng Chúa Giê-su đã không thực sự hủy bỏ Lề Luật, ít nhất những lệnh truyền luân lý của Lề Luật (những chỉ thị về nghi lễ nhất thiết trở nên lỗi thời đối với những Ki-tô hữu gốc Do thái), nhưng Ngài kiện toàn Lề Luật.

Ngoài ra, mạch văn trực tiếp không loại trừ bầu khí bút chiến chống lại những người Pha-ri-sêu. Chúa Giê-su đã trách cứ những người này không phải vì họ tuân giữ Lề Luật cho đến những chi tiết nhỏ nhặt, nhưng vì họ tin rằng việc tuân giữ này miễn cho họ khỏi thực thi những nhân đức. Phải đọc lại chương 23 ở đó Chúa Giê-su trách cứ nặng lời: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23: 23).

  1. “Luật dạy người xưa… Còn Thầy, Thầy bảo…”

Vào thời Chúa Giê-su, Lề Luật được tán dương hết mức, dù các ngôn sứ đã kịch liệt đả kích. Lề Luật bất khả xâm phạm, nó được đồng hóa với sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Thật ra, những luật luân lý đã làm cho lề luật cao hơn các luật của thế giới dân ngoại chung quanh.

Chúa Giê-su sắp kiện toàn Lề Luật, thậm chí đưa nó trở về sự tinh tuyền nguyên thủy khi định vị những yêu sách của Lề Luật trước tiên ở nơi lòng dạ chính trực và phân định luật yêu thương như luật cao hơn tất cả mọi luật khác.

Đức Giê-su phát biểu long trọng với một uy quyền tối cao: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng…Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em…”. Ngài tự đặt mình là nhà lập pháp trên ông Mô-sê, nhà lập pháp vĩ đại của dân Do thái. Đức Giê-su sắp đưa ra nhiều ví dụ, trong số đó ba ví dụ đầu tiên là sát nhân, ngoại tình, thề gian.

A. Tội sát nhân

Chúa Giê-su không chỉ kết án tội sát nhân, nhưng còn những khích động trong lòng dẫn đến tội sát nhân. Ngài đặt theo mức độ tăng dần: chỉ nóng giận, nóng giận với những lời mắng nhiếc, nóng giận với những lời chửi rủa. Những án phạt theo mức độ tăng dần: trước tiên tòa án địa phương, rồi đến Thượng Hội Đồng, và sau cùng là lửa hỏa ngục.

Nhưng sẽ không có tội sát nhân, sẽ không có tòa án, nếu luật yêu thương ngự trị giữa con người. Vì thế, trước khi dâng lễ vật lên Thiên Chúa, trước tiên phải tự mình hòa giải với người khác: “Anh hãy mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công”, nghĩa là đừng đợi đến lúc trình diện trước “quan tòa”, tức trước Thiên Chúa, rồi mới hối cải.

B. Tội ngoại tình

Luật kết án tội ngoại tình chỉ khi nào bắt quả tang. Chúa Giê-su công bố rằng ngay khi nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Không luật pháp phàm nhân nào có thể đi xa đến như vậy; Luật mới xem những tư thế sẵn sàng trong lòng còn quan trọng hơn những hành vi bên ngoài. Chúng ta luôn luôn theo hướng đi các Mối Phúc.

Chúa Giê-su nhấn mạnh tư tưởng của Ngài bằng những hình ảnh cố ý cực đoan: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc nó mà ném đi…”. Tiếp đó, Ngài tiếp tục khai triển tội ngoại tình. Luật cho phép chồng rẫy vợ. Chúa Giê-su tuyên bố rằng mọi hình thức rẫy vợ đều là tội ngoại tình, vì ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; vì thế, người chồng phải chịu trách nhiệm về tội ngoại tình của vợ. Cũng vậy, ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình. Chúa Giê-su sẽ còn tuyên bố nghiêm khắc như vậy khi Ngài nói về sự bất khả phân ly của hôn nhân: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu , không có như thế” (Mt 19: 8). Từ đây, chính luật yêu thương phải trổi vượt trên mọi lề luật.

Câu “ngoại trừ hôn nhân bất hợp pháp” của thánh Mát-thêu đã làm tốn không biết bao giấy mực. Phải chăng Chúa Giê-su tiên liệu một trường hợp theo đó việc ly dị có thể? Đây là điều người ta gọi “luật trừ của thánh Mát-thêu”. Bản văn được dịch sát từ: “trong trường hợp điều trơ trẽn”. Vài người đã thấy ở đây một ám chỉ đến sự bất trung của người vợ; thật ra, Lề Luật tiên liệu theo đó hình phạt của tội ngoại tình không là rẩy vợ, nhưng là ném đá. Những người khác nghĩ rằng đây là trường hợp vô hiệu của hôn nhân: việc ăn ở với nhau không cưới xin và đặc biệt loạn luân hay đồng tính luyến ái, tức là trường hợp mà Lv 18: 6-18, 22 đã tiên liệu và nhấn mạnh tính chất trơ trẽn của những hôn nhân này.

C. Tội thề thốt

Ví dụ thứ ba Chúa Giê-su trưng dẫn là tội thề thốt. Vào lúc đó việc người ta lạm dụng việc thề nguyền là một trong những vết thương của Do thái giáo. Sự tinh tế của các tiến sĩ Luật đã thiết lập vài biểu thức cam kết thật sự, những biểu thức khác chỉ cam kết cho có lệ. Thánh Mát-thêu trưng dẫn vài biểu thức này ở chương 23: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc… Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc” (Mt 23: 16-22).

Chúa Giê-su chứng minh rằng vì phải tuân giữ Lề Luật bên ngoài, người ta buộc phải thề nguyền, đó là phạm thánh và bội thề. Việc chỉ trời, ngai Thiên Chúa, hay đất, bệ chân Ngài, mà thề được mượn ở Is 66: 1-2; còn việc chỉ Giê-ru-sa-lem, thành của Đức Vua cao cả mà thề xuất phát từ Tv 48. Thêm một lần nữa, Ngài đưa vấn đề trở về chiều kích nội tâm của nó: chân thành với chính lòng mình. “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.

Về mục lục

.

YÊU MẾN VÀ GIỮ LỜI CHÚA

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

          Thi sĩ Xuân Diệu nói :”Đố ai định nghĩa được tình yêu”. Đúng thế, cho đến nay chúng ta chưa có được một câu định nghĩa nào về tình yêu khả dĩ có thể bao hàm được mọi khía cạnh của tình yêu.  Thi sĩ Hồ Dzếnh cũng chỉ nói được như thế :”Yêu là khó nói cho xuôi, bởi ai hiểu được sao trời lại xanh”.  Thánh Gioan cũng chỉ có thể nói :”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì : đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 13,7). Đức Giêsu chỉ khuyên người ta yêu nhau mà không hề định nghĩa tình yêu là gì, vì Ngài không muốn dùng đến những từ ngữ hay những tư tưởng trừu tượng mà chỉ khuyên người ta thực hành tình yêu thôi.

          Với những lời tạ từ trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu chỉ dùng những lời thân tình mà khuyên các môn đệ :”Nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ các điều răn của Thầy”(Ga 14,15). Nói như thế, Đức Giêsu không chấp nhận một thứ tình yêu trừu tượng, mông lung, hoa mỹ hoặc văn vẻ như trong tiểu thuyết, thi ca hay trong các nghệ thuật thứ bảy. Ngài muốn một tình yêu sinh động và cụ thể đối với Ngài và đối với nhau. Theo đó, tình yêu của chúng ta đối với Ngài là vâng phục theo đường lối của Chúa, tức là tuân giữ các điều răn Ngài truyền, vì chính Ngài đã yêu mến Chúa Cha bằng cách vâng phục và thi hành mệnh lệnh của Cha Ngài (Ga 15,10).

          Kitô hữu đích thực là dồn tất cả tham vọng của mình vào việc mô phỏng theo Đức Kitô. Người ta thường nói :”Kitô hữu, đó là Đức Kitô khác : “Alter Christus”. Không có định nghĩa nào chính xác và hay đẹp hơn. Khi đã theo Đức Kitô thì phải đi theo con đường khổ giá mà Ngài đã đi. Tuân theo thánh ý Chúa và giữ các điều răn của Đức Kitô là đang đi trên con đường khổ giá và con đường này sẽ dẫn chúng ta đến vinh quang.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          Bài đọc 1 : Cv 8,5-8.14-17.

          Các tín hữu của cộng đoàn Giêrusalem bị các người Do thái bách hại đã lánh sang vùng Samaria của dân ngoại. Thầy phó tế Philipphê được sai đến rao giảng Tin Mừng. Dân chúng hoan hỉ đón nhận Tin Mừng này, và tiếng tăm đã đồn đến tai các tông đồ.  Các ngài liền cử ông Phêrô và Gioan  đến đặt tay ban Thánh Thần cho họ  vì họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu.

          Bài đọc 2 : 1Pr 3,15-18

          Thánh Phêrô gửi thư cho các tín hữu đang bị bách hại vì đạo Chúa để chỉ dạy cho họ cách thức thể hiện niềm tin và hy vọng của mình trước mặt lương dân.  Người ta sẽ chất vấn về niềm tin của họ, thì phải trả lời cho họ bằng hai cách sau đây :

a) Hãy trả lời cho họ bằng những lời lẽ ôn hòa và trong sự kính trọng.

b) Hãy ăn ở công minh chính trực khiến cho những kẻ bách hại phải xấu hổ vì đã bách hại.

          Bài Tin Mừng : Ga 14,15-21.

          Đức Giêsu biết trước việc Ngài ra đi sẽ làm cho các môn đệ xao xuyến nên trước khi đi vào cuộc tử nạn, đã yên ủi các ông một cách chân tình. Ngài khuyên các ông hãy yên tâm vì Ngài không để các ông sống chơ vơ như những đứa con mồ côi đâu, Ngài sẽ sai Đấng Phù trợ khác đến ở với họ luôn mãi. Đấng Phù trợ khác mà Chúa Cha sẽ ban cho  đây, chính là Chúa Thánh Thần mà các ông sẽ được lãnh nhận vào dịp lễ Ngũ tuần. Chúa Thánh Thần sẽ làm cho các tông đồâ yêu mến Chúa và thi hành lời Ngài dạy.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. NHỮNG LỜI NHẮN NHỦ THÂN TÌNH.

          Trong bữa Tiệc ly, sau khi truyền cho các môn đệ phải yêu mến nhau và đặt việc yêu mến nhau  như là dấu chỉ để mọi người nhận ra họ là môn đệ đối với Ngài. Mở đầu đọan trích Tin mừng hôm nay theo thánh Gioan, Đức Giêsu nói :”Nếu các con yêu mến Thầy thì các con sẽ tuân giữ mệnh lệnh Thầy”(Ga 14,15).

          Việc yêu mến đó được Đức Giêsu liên kết với việc tuân giữ và thực hành Lời Chúa. Những ai yêu mến Đức Giêsu và giữ Lời Ngài sẽ được ở trong cộng đồng tình yêu của Thiên Chúa :”Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy”(Ga 14,21).

          Ở đây cho thấy Đức Giêsu không chấp nhận một thứ tình yêu trừu tượng, chỉ bằng tình cảm mông lung, Ngài chủ trương một thứ tình yêu sống động và được biểu lộ trong sự tuân phục theo đường lối của Chúa, tức là tuân giữ các giới răn Ngài truyền. Chính Đức Giêsu cũng đã yêu mến Chúa Cha  bằng cách giữ các lệnh truyền của Chúa Cha (Ga 15,10).

          Lúc này, chắc các môn đệ đã cảm nhận được những việc sắp xẩy ra. Họ hẳn đã cảm nhận được chuyện bi thảm đang tới gần. Nhưng Đức Giêsu đã yên ủi họ :”Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng bầu chữa khác đến với các con luôn mãi… Thầy không để cho các con mồ côi đâu”(Ga 14, 16.18). Từ ngữ “Mồ côi” dùng ở đây có nghĩa là không có cha, từ ngữ này cũng được dùng để chỉ đám môn sinh, đám học trò mất thầy, mất đi những lời dạy bảo của thầy thân yêu. Lúc Socrate chết, Platon nói về các môn sinh của Socrate rằng :” Họ nghĩ họ sẽ phải sống mồ côi suốt quãng đời còn lại như những đứa con mất cha, và họ sẽ chẳng biết phải làm gì”.

          Nhưng Đức Giêsu bảo các môn đệ rằng, trường hợp của họ thì không như thế. Ngài phán : Thầy sẽ trở lại”.  Ngài có ý nói về sự phục sinh và việc Ngài luôn có mặt bên họ sau khi phục sinh. Nhưng sự hiện diện của Ngài không thể dùng giác quan mà thấy nhưng phải dùng con maắt đức tin bởi vì Ngài hiện diện một cách vô hình.

          Sau cùng, Đức Giêsu kết luận :”Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới lả kẻ yêu mên thầy… và sẽ được Cha Thầy yêu mến”(Ga 1421). Đây là một mạc khải của Đức Kitô về tình yêu của Chúa Cha.  Mạc khải này cũng hé mở cho ta hiểu thêm  về tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa thật thâm sâu, mật thiết trên mọi bình diện (Ga 4,34; 6,38).

II. YÊU NHAU SINH TỬ CŨNG LIỀU.

  1. Yêu mến và hành động.

          Đức Giêsu luôn yêu thương các môn đệ của Ngài cả khi Ngài vắng mặt. Ngài hứa không để cho các ông sống vất vưởng như những đứa con mồ côi, nhưng sẽ sai Đấng Phù trợ đến ở với các ông để yên ủi, soi sáng, khích lệ và nâng đỡ các ông. Đáp lại, Đức Giêsu cũng đòi buộc các ông phải yêu Ngài. Tình yêu đối với Ngài không phải chỉ là những tình cảm hay một cảm xúc bồng bột nhất thời, nhưng tình yêu này phải được xây dựng trên ý chí,  nghĩa là phải vâng theo lời Ngài, phải thực hiện lời Ngài trong cuộc sống vì ngài đã nói rõ :”Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ vâng giữ lời Thầy” (Ga 14,23).

         Chữ “nếu” đây không phải là một việc làm tùy nghi nhưng là một điều kiện thiết yếu, một điều kiện mà tiếng La tinh gọi là “conditio sine qua non”, không có không được. Từ ngữ “nếu” đây liên kết hai vế của “yêu Chúa” và “giữ lời Ngài”, hễ không có vế này thì không có vế kia.  Giữ lời hay giữ giới răn không phải là một loạt những điều tùy nghi trong nhiệt tình tình yêu của chúng ta hướng về Chúa Kitô. Đây thậm chí không phải là một điều logic : nếu tôi yêu mến Chúa Kitô, tôi phải giữ các giới răn của Ngài. Tiếng “nếu” liên kết chặt chẽ hơn lòng chúng ta yêu mến Chúa Giêsu với cách ăn ở của chúng ta trong cuộc sống : tôi chỉ yêu thương khi tôi vâng lời Ngài bởi vì tình yêu thực sự, cụ thể của tôi chính là đều mà tôi làm. Nhưng thất bại của chúng ta có nguồn gốc tại đây : từ chối hiểu rằng tình yêu không phải là một từ, một giấc mơ, cũng như một nhịp đập của tim, mà là một cách cư xử (André Sève,  Tin Mừng Chúa nhật, năm A, tr 164).

          Tình yêu phải thể hiện ra bằng việc làm cụ thể, chính việc làm ấy mới bảo đảm cho tình  yêu thật.  Nếu yêu mà không thể hiện bằng hành động thì tình yêu chỉ ở trên đầu môi chóp lưỡi, hay chỉ là một cảm xúc nhất thời. Hành động đó phải được thể hiện ra trước mặt người yêu để người ấy vui lòng, và hành động theo ý người mình yêu ngay cả khi người ấy không có mặt.  Nếu không người ta sẽ nói :

Thương thương nhớ nhớ thương thương,

Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào.

                                                      (Ca dao)

          Trong cuốn sách The Living Stone có một câu truyện như sau : Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị thầy này sắp lìa trần, ông cho gọi Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ.  Nhưng lời trăn trối cuối cùng của ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ :”Hãy hành động vì lòng mến”.

          Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, Đức Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ, Ngài cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản của lòng mến :”Ai nghe và vâng giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Đức Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính, dù rằng đó cũng là điều qúi gía cho phép chúng ta tin tưởng rằng chúng ta đang yêu mến Chúa. Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn  tìm cách  làm đẹp lòng người yêu, sẵn sàng cho đi tất cả, chứ không dừng lại ở những rung cảm của thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình (Mỗi ngày một tin vui,  Phục sinh, tr 253).

          Với thánh Gioan, chỉ có một cách để trắc nghiệm tình yêu thương là sự vâng lời. Đức  Giêsu đã chứùng minh Ngài yêu Chúa Cha bằng sự vâng lời.  Ông  Barett nói :”Thánh Gioan chẳng bao giờ cho phép biến tình yêu thành một thứ cảm xúc. Tình yêu được bộc lộ dưới tính cách đạo đức, bầy tỏ ra bằng sự vâng lời”.

          Chúng ta biết nhiều người chỉ yêu thương qua đầu môi chót lưỡi, đồng thời lại làm cho những người họ yêu phải đau đớn, khổ tâm. Có những thanh thiếu niên bảo chúng yêu thương cha mẹ, nhưng lại gây buồn khổ, lo âu cho cha mẹ. Có những ông chồng bảo yêu vợ, có những bà vợ bảo yêu chồng, nhưng lại hay cộc cằn, gắt gỏng, thô lỗ, nhỏ nhen, vô tâm vô tính, làm cho chồng hay vợ mình phải đau khổ.  Vớùi Đức Giêsu, tình yêu thương chân thật không phải là điều dễ dàng, tình yêu chân thật chỉ có thể chứng minh bằng “sự vâng lời chân thật”.

  1. Hành động như thế nào.

          Một người nọ đã từng trông thấy một thiên thần đi bộ xuống phố, tay cầm bó đuốc, tay kia cầm xô nước. Người ấy liền hỏi :”Ngài làm gì với bó đuốc và xô nước vậïy” ? Vị thiên thần đột ngột đứng lại nhìn vào người ấy nói :”Ta sẽ thiêu rụi các tòa nhà trên trời bằng bó đuốc và sẽ dập tắt lửa hoả ngục bằng xô nước. Lúc đó chúng ta sẽ thấy được ai là kẻ thực sự yêu mến Thiên Chúa”.  Chủ ý của vị thiên thần muốn nói là nhiều người vâng theo lệnh Chúa là vì sợ hỏa ngục hoặc vì hy vọng phần thưởng Nước Trời. Họ không giữ huấn lệnh ấy vì yêu thương như Đức Giêsu đã nêu ra trong  Tin Mừng hôm nay :”Nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ vâng giữ lời Thầy”.

          Có hai loại tình yêu : tình yêu vô vị lợi hay vị tha và tình yêu vị lợi hay vị kỷ.

a) Tình yêu vô vị lợi.

          Đây là thứ tình yêu vị tha, một thứ tình yêu chỉ biết cho đi, chỉ lo tìm hạnh phúc cho người yêu, tình yêu không so đo tính toán, tình yêu quảng đại; và tình yêu vị tha lên đến chóp đỉnh là sẵn sàng chết cho người mình yêu như Chúa Giêsu đã nói :”Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người chết cho người yêu” (Ga 15,13).  Tình yêu này là tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người và đã được thực hiện nơi đức Giêsu chịu treo trên thập giá.

          Người đời cũng nói lên được một phần nào thứ tình yêu vô vị lợi ấy :

Yêu anh cốt rũ xương tàn,

Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh.

                   hoặc :

Yêu nhau mỗi thứ mỗi cho,

Ghét nhau thì mảnh quạt mo cũng đòi.

                                               (Ca dao)

Truyện : cha Maximilien Kolbe

          Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi”.

          Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dãy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trưởng trại. Mọi người nín thở : chuyện chưa từng có ! Viên trưởng trại đặt tay lên súng :

          – Anh muốn gì ?

          – Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.

          Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho người có vợ và các con đang đợi ở nhà.  Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục công giáo.  Cha đã được Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982 tại Roma.

b) Tình yêu vị lợi (vị kỷ).

          Đây là thứ tình yêu trá hình, Đối tượng của tình yêu không phải là người được yêu mà là chính mình. Người yêu chỉ lợi dụng người được yêu để tìm lợi ích cho mình, cho hạnh phúc của riêng mình ; còn người được yêu chỉ là phương tiện được dùng để người yêu khai thác. Tình yêu trá hình này đã được nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine diễn tả trong câu truyện con thỏ và con cọp.

          Câu truyện đó là con cáo không may bị rơi xuống hố sâu, không cách nào lên được. May thay, một con cọp đi qua, con cáo xin cứu đưa lên.  Con cọp tỏ ra thương hại muốn cứu vớt nhưng với điều kiện : khi lên bờ cáo phải chịu cho cọp ăn thịt. Cáo đồng ý. Cọp nhảy xuống hố. Cáo nhảy lên lưng cọp và nhảy ngay lên bờ, biến mất.  Cọp lên bờ buồn rầu than :”Chị đã thương em đến thế mà em không biết ơn”.

          Như vậy, cọp đâu có thương con cáo, chỉ biết thương mình thôi, đã thương sao lại còn đòi ăn thịt cáo ?  Con người chúng ta đôi lúc cũng vậy. Nhiều khi việc làm của chúng ta có vẻ lo cho người khác, nhằm ích lợi cho người khác, tạo hạnh phúc cho họ, nhưng trong thực tế, họ chỉ có một tình yêu giả tạo. Tình yêu đó được người ta gói ghém trong câu ca dao :

Thương thay những kẻ quạt mồ,

Hại thay những kẻ lấy vồ đập săng.

                                                    (Ca dao)

  1. Thái độ của ta đối với Chúa.

          Nếu thánh Giacobê nói :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết” thì chúng ta cũng có thểû nói được : tình yêu mà không được thể hiện ra bằng hành động cụ thể thì chỉ là thứ tình yêu trên mây gió, một tình yêu èo uột, một tình cảm phớt qua, có khi là một tình yêu trá hình, giả tạo. Tình yêu chân thật đòi hỏi hy sinh như Pierre l’Ermite nói :”nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật”.

          Thánh Gioan tông đồ nói :”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì : đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16). Nếu yêu là hy sinh, mà giữ luật Chúa là hy sinh, thì yêu là giữ luật Chúa. Tam đoạn luận này rất chặt chẽ, nó nối kết giữa việc yêu Chúa và giữ luật Chúa lại với nhau.

          Vậy giữ giới răn Chúa là gì ?  Giữ giới răn Chúa, nói nôm na ra là giữ đạo, là sống đạo, sống nhân đức tin mà Chúa ban cho chúng ta ngày chịu phép Rửa tội.  Chúa nhắc lại đến hai lần :”Nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ giới răn của Thầy”, và sau đó Ngài thêm :”Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con thực hành điều Thầy truyền dạy”. 

          Qua lời mời của Chúa, chúng ta thấy rằng giữ giới răn, sống đạo, có thể có hai tâm trạng và hai thái độ : một là giữ đạo vì vụ lợi, giữ đạo cho có lệ gọi là có ; hai là giữ đạo vì yêu mến Chúa… Chắc chắn ai cũng giữ đạo vì yêu Chúa, yêu Chúa là chính, còn các mục tiêu khác chỉ là phụ tùy.  Đối với từng người, tình yêu đối với Chúa cũng có cấp độ nên việc giữ giới răn cũng có cấp độ. Ta tạm chia thành ba cấp :

          * Một là có đạo : Những người đã được chịu phép rửa tội đều được gọi là có đạo vì họ đã được thanh tẩy, đã được gia nhập Hội thánh Chúa.  Nhưng họ sống hời hợt , chỉ có danh nghĩa là Kitô hữu, còn cuộc sống của họ nhiều khi như người ngoại đạo, thậm chí tệ hơn nữa, họ sống như người vô thần. Có những người chỉ đến nhà thờ 3 lần trong đời họ : ngày chịu phép rửa tội, ngày lễ hôn phối và ngày lễ an táng.

          * Hai là giữ đạo : Những người này là những Kitô hữu bình thường, giữ luật Chúa, thi hành các bổn phận của một người Kitô hữu như đọc kinh, xem lề, xưng tội rước lễ, ăn chay kiêng thịt …không có gì đáng trách trong việc giữ đạo… Nhưng họ chỉ sống theo mức bình thường, mức tối thiểu, chưa vươn lên cao hơn.

          * Ba là sống đạo : Những người này là những người sống trọn nhiệm vụ của những người Kitô hữu bình thường, nhưng họ còn vươn lên cao hơn, cuộc sống của họ là chứng nhân, những hiện thân của Chúa Kitô. Họ xứng đáng được gọi là Alter Christus. Cuộc sống của họ đã trở nên muối và ánh sáng cho đời. Họ thực hiện lời Chúa Giêsu đã phán :”Sự sáng của các con phải chiếu tỏa ra chung quanh để người ta trong việc lành các con làm mà phải ngượi khen Cha các con ở trên trời”.

Về mục lục

.

KHÔN – DẠI

Lm. Giuse Nguyễn

Có một bài đồng dao tôi thuộc từ khi còn bé: “Thiên đàng hỏa ngục hai bên, ai khôn thì về ai dại thì sa. Đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha, đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn. Linh hồn phải giữ linh hồn, đến khi ngày chết được lên thiên đàng”.

Dù gì đi chăng nữa, điều cuối cùng của chúng ta vẫn là muốn được rỗi linh hồn, muốn được lên thiên đàng ; và sợ phải sa hỏa ngục, phải mất linh hồn. Thế cho nên cái khôn của người Kitô hữu là làm mọi cách để được lên thiên đàng, và cái dại của những người có đức tin là vất vả cả đời để cuối cùng phải sa hỏa ngục.

Sự khôn – dại của mỗi người xuất phát từ sự chọn lựa của chính họ: đâu là lý tưởng cho cuộc đời. Điều đó là tự do, ơn ban cao quý của Chúa cho thiên thần và cả loài người. Song song với tự do là trách nhiệm để nhận lấy hậu quả mình đã chọn. Chính tự do này mà một số thiên thần đã phản nghịch cùng Chúa nên bị phạt trở thành ma quỷ, Satan; nhưng cũng nhờ tự do này  mà một số thiên thần đang được hưởng hạnh phúc với Chúa. Cũng chính tự do này giúp cho ông bà nguyên tổ hạnh phúc trong thời gian đầu khi chọn nghe theo Thiên Chúa; nhưng thời gian sau họ đã chọn nghe theo ma quỷ nên mất đi hạnh phúc.

Sự tự do đó được tác giả sách Huấn Ca nói đến trong bài đọc thứ nhất: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì hãy đưa tay ra mà lấy” (Hc 15, 16). Nhưng hãy nhớ một điều: “Trí khôn của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả” (Hc 15, 18). Điều căn bản trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ranh giới cho tự do của con người là: “Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội” (Hc 15, 20).

Cho nên cái khôn của con người là biết đi theo đường lối Chúa, vì Chúa là Đấng khôn ngoan. Còn cái dại là đi ra ngoài đường lối đó và sống theo đường lối của ma quỷ, của người đời.

Chính vì thế trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu muốn các môn đệ của mình phải lo kiện toàn lề luật, sống theo lề luật bằng tất cả tình yêu của mình, vì lề luật là tình yêu của Chúa dành cho họ. Bởi vì theo lời của đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevelt của nước Mỹ: “Rốt cuộc thì chúng ta luôn phải gánh chịu mọi trách nhiệm về chính sự lựa chọn của mình”. Vì thế chúng ta có nền tảng là lề luật của Chúa, để sư chọn lựa của chúng ta khỏi phải lạc hướng.

Hơn thế nữa, Tông huấn mới nhất của Đức Giáo Hoàng Phanxicô gởi tất cả mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ mang tên: “Christus Vivit – Chúa Kitô đang sống” cho thấy chúng ta không sống một mình, chúng ta không lựa chọn đơn độc, mà có Đức Kitô cùng sống, cùng lựa chọn mọi giá trị với chúng ta. Vì thế những ai sống với Đức Kitô, gặp gỡ Đức Kitô thì sẽ biến đổi cuộc đời mình vì sự lựa chọn của chúng ta là đúng đắn và chắc chắn sẽ “giữ được linh hồn”, “đến khi ngày chết được lên thiên đàng”.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xem lại sự lựa chọn những giá trị trong cuộc sống hằng ngày, vì chính sự lựa chọn đó làm cho chúng ta trở nên khôn hay dại.

Trong đời sống đức tin, nhiều người đã lựa chọn hành động như không có Chúa, như người vô đạo; hành động mà không sợ mình phải gánh lấy hậu quả, không sợ bị mất linh hồn.

Covid-19 làm chấn động cả thế giới. Nhưng nếu nhìn lại một cách sâu xa, và bằng cái nhìn đức tin chúng ta sẽ thấy rằng trước hết đó là hậu quả của việc không tin có Thiên Chúa, là kết quả của việc chọn lựa theo phe của ma quỷ chứ không theo những giá trị Chân-Thiện-Mỹ.

Tuy nhiên nhờ Covid-19 đã làm cho nhiều người biết chọn lựa những giá trị tốt hơn vì họ thấy được sự mong manh của kiếp người, thấy được những giá trị vật chất chỉ làm tạm bợ chóng qua… để họ sống đạo đức hơn, yêu thương hơn, biết cho đi nhiều hơn.

Vấn đề của chúng ta hiện giờ là dù có Covid-19 hay không thì mỗi người chúng ta cũng hãy biết chọn lựa sống theo đường lối của Chúa, để trở nên “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt 5, 48). Mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, chắc chắn chúng ta có đủ lý trí và tự do để biết mình phải chỉnh sửa điều gì; và thái độ chỉnh sửa hiện tại chính là sự lựa chọn của chúng ta để đứng về phía Thiên Chúa hay ma quỷ.

Kế đến phải tập cho trẻ nhỏ tiếp cận với những giá trị linh thánh ngay từ nhỏ, để khi lớn lên các em sẽ chọn lựa những gì đem lại hạnh phúc vĩnh cửu hơn là chọn lựa những giá trị nhất thời. Cụ thể là giúp cho các em sống trong môi trường cầu nguyện, tập cho các em những việc hy sinh, cùng với các em làm những việc bác ái…  Đó cũng là những chọn lựa của chúng ta ngay từ bây giờ để mai này được lên thiên đàng.

Thiên đàng hỏa ngục hai bên, ai khôn thì về ai dại thì sa. Đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha, đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn. Linh hồn phải giữ linh hồn, đến khi ngày chết được lên thiên đàng”.

Về mục lục

.

TINH THẦN CỦA GIỚI LUẬT MỚI

Jorathe Nắng Tím 

Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã nhiều lần tỏ ra bất chấp lề luật, như khi chữa người bị bại tay trong ngày Sabát, điều mà Luật Môsê cấm không được làm trong ngày dành cho Thiên Chúa. Tin Mừng Matthêu đã kể lại chi tiết : Đức Giêsu đi vào hội đường của người Do Thái, tại đây, có người bị bại một tay. Người ta hỏi Đức Giêsu rằng : “Có được phép chữa bệnh ngày sabát không ?”. Họ hỏi thế là để tố cáo Người. Người đáp : “Ai trong các ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày sabát, lại không nắm lấy nó và kéo lên sao ? Mà người thì qúy hơn chiên biết mấy ! Vì thế, ngày sabát được phép làm điều lành”. Rồi Đức Giêsu bảo người bại tay : “Anh giơ tay ra ! Người ấy giơ tay ra và tay liền trở lại bình thường lành mạnh như tay kia” (Mt 11,10-13). Tin Mừng Máccô còn ghi thêm qủa quyết vững chắc của Đức Giêsu : “Ngày sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn ngày sabát” (Mc 2,27).

Nhưng cũng trong Tin Mừng Mátthêu, Đức Giêsu lại hết lời bênh vực Lề Luật : “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các Ngôn Sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Ngài còn đi xa hơn : “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng : Chớ giết người ; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt” (Mt 5, 21-22).

Chúng ta cần ghi nhận những điều quan trọng  Đức Giêsu muốn nói với chúng ta :

  1. Đức Giêsu không mâu thuẫn trong giáo lý và Giới Luật mới Yêu Thương của Ngài :

Trong cả hai đọan Tin Mừng xem ra như đối nghịch, mâu thuẫn, Đức Giêsu đều nhấn mạnh giới luật Yêu Thương : đoạn Tin Mừng chữa người bại tay trong ngày Sabát là ngày Luật Môsê cấm làm việc, Đức Giêsu đã tuyên bố : ngày Sabát được làm ra cho con người, và ưu tiên ở đây là thực hiện đức ái đối với người bị bại tay đang cần được cứu chữa. Nói cách khác, bất cứ lề luật nào, bất kỳ khoản luật nào của bộ luật sẽ chỉ có giá trị khi quy chiếu về tình yêu phục vụ, bởi theo Đức Giêsu : lề luật được làm ra là để phục vụ hạnh phúc của con người, chứ con người không làm nô lệ cho lề luật.

Cũng trong ý hướng duy nhất đó, Đức Giêsu đi đến tận nguồn cội, cốt lõi của giới luật mới Tình Yêu, khi đòi buộc chúng ta phải quan tâm, lưu ý đến cả những chi tiết của tình yêu, những việc nhỏ trong giới luật Tình yêu, những chi tiết và việc nhỏ mà luật Môsê không để ý, cũng không đề cập đến, nhưng trong thực tế lại là nguyên nhân làm người khác bị tổn thương, đau khổ nhiều và thường xuyên như giận dỗi anh em, mắng nhiếc anh em là đồ ngu ngốc, chửi rủa anh em là đồ phản đạo (x. Mt 5,22).

  1. Tính cách luôn tích cực của Giới Luật mới Yêu Thương :

Lề Luật Môsê chỉ dừng lại ở Công Bình, với nguyên tắc : “Mắt đền mắt, răng đền răng” (x. Mt 5,38), cũng như “chớ giết người ; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà” (Mt 5,21), nghiã là nếu anh giết người thì anh sẽ bị ra toà, và quan toà sẽ nhân danh luật “máu đòi máu, mạng đền mạng” để bắt anh phải chết, nhưng Luật cũ Môsê không đi xa hơn, không vươn cao hơn, không chủ động tích cực, để có thể vượt ngưỡng Công Bình bước vào Bác Ái, mà thực hiện đòi hỏi của Đức Ái sâu thẳm và nền tảng như “khi sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Cũng như “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm” (Mt 5,39-41).

Qủa thực, chuyện “bỏ của lễ lại đó trước bàn thờ mà đi làm hoà với anh em”, đi xin lỗi người mình xúc phạm, làm buồn lòng, chuyện người ta tát má phải lại chừa thêm má trái, ai xin áo ngoài, cho cả áo trong, ai đòi dẫn đi một cây số, sẽ không ngại đi hết cây số thứ hai với họ, thì chỉ có Giới Luật mới Yêu Thương của Đức Giêsu mới đề cập và đòi buộc, chỉ có người đi theo Đức Giêsu mới dám dấn thân thực hiện, và chỉ với ơn của Thánh Thần Tình Yêu, người tín hữu của Đức Giêsu mới có thể sống trọn vẹn tinh thần của  giới luật yêu thương.

  1. Tinh Thần của Lề Luật:

Một điều rất quan trọng khác Đức Giêsu muốn nói trong đọan Tin Mừng này là : chân trời của Lề Luật phải được mở ra cho tương quan giữa con người với con người. Điều này có nghiã : tất cả khoản luật trong luật Môsê phải được hướng đến Giới Luật mới của Tân Ước, tức Luật Yêu Thương giữa con người với con người của Đức Giêsu, mà chân trời của Giới Luật này là hạnh phúc của con người được Thiên Chúa yêu thương, cứu độ, và nhờ đó, tất cả mọi người hoà giải được với nhau và  sống với nhau trong tình yêu, khi tuân giữ giới luật của chính Thiên Chúa ban cho con người : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13,34).

Lề Luật từ nay không còn là những khoản luật lạnh lùng mà con người phải chu toàn một cách máy móc, trong trạng thái đầy lo âu, sợ sệt như sẽ bị trừng phạt, nếu sai phạm, thiếu sót, nhưng là tinh thần phân định để sống Luật Yêu Thương  của Thiên Chúa là Tình Yêu dưới cái nhìn của Thiên Chúa và Lời  Ngài. Tinh thần phân định này là ơn sủng của Thần Khí, như thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côrinthô đã viết : “Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cr 2, 10). Chính tinh thần phân định đượcThần Khí ban đã giúp chúng ta sống Lề Luật một cách trọn hảo, và đẹp lòng Thiên Chúa.

Sau cùng, Lề Luật từ nay không chỉ là những tội danh được gọi tên như giết người, ngoại tình… nhưng là sống tinh thần hoà giải của lề luật, sống sự thật của tâm hồn, sống trung thành với Lời hằng sống, và như thế Lề Luật luôn mang tính giải phóng, thăng tiến, xây dựng con người dưới bầu trời yêu thương, quan phòng của Thiên Chúa.

Vâng, Đức Giêsu không phá hủy Lề Luật Môsê của Cựu Ước, vì Luật này đã được làm nên cho Dân riêng của Thiên Chúa, với mục đích chuẩn bị cho Giới Luật mới Yêu Thương của Đức Giêsu sẽ được công bố trong Tân Ước, cũng như Ngài không xóa bỏ lời các ngôn sứ, bởi các ngôn sứ đã được sai đến để loan báo công cuộc Nhập Thể và Cứu Độ của Con Thiên Chúa trong thời kỳ mới, ở đó Thiên Chúa lấy chính máu của Con duy nhất mình mà ký Giao Ước mới với nhân loại.

Thực vậy, Đức Giêsu không hủy bỏ, nhưng kiện toàn, và làm cho nên hoàn hảo bằng ban cho Luật cũ một tinh thần mới của Thần Khí, Thần Khí của Thiên Chúa là Tình Yêu, để từ nay chỉ còn một Giới Luật mới là “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong ngày Chúa Nhật VI thường niên năm A, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về chủ đề “tuân giữ luật Chúa phát xuất từ con tim chân thành.” Việc tuân giữ luật Chúa không chỉ là thực hành luật Chúa hay ý Chúa một cách bề ngoài và hình thức, nhưng phải được bắt đầu với một trái tim mà ở đó có sự vâng phục, việc làm theo thánh ý Thiên Chúa được thực hiện.

Trong bài đọc I, sách Huấn Ca nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta tự do để vâng phục Thiên Chúa. Sự vâng phục không phải là điều gì đó ép buộc chúng ta. Nó cũng không phải là điều gì áp đặt trên chúng ta, nhưng nó là một phần của món quà tự do mà Thiên Chúa ban cho trái tim con người, nó phát xuất từ trong sâu thẳm của tâm hồn chúng ta. Quả thế, nhờ tự do, chúng ta có thể trung thành với Thiên Chúa, nhưng cũng nhờ tự do mà chúng ta có thể nói không với Thiên Chúa. Hy vọng mỗi người chúng ta có thể sử dụng tự do này, như một phần chính yếu của tâm linh con người, của trái tim con người để sống và trung thành với lề luật của Thiên Chúa.

Trong bài đọc II, thánh Phaolô nói với các tín hữu Côrintô về sự khôn ngoan của Thần Khí mà mỗi người có thể có nhờ sự trưởng thành tu đức. Sự khôn ngoan này rất khác biệt với sự khôn ngoan của thế gian; nó cũng khác biệt với sự khôn ngoan của những người lãnh đạo thế giới này. Sự khôn ngoan của thế gian thường đưa ra những yêu, họ bắt phải làm điều này, buộc phải làm điều kia, nhưng chúng ta đều biết rằng nghe theo những mệnh lệnh của những người lãnh đạo trần thế, hay của sự khôn ngoan thế gian có thể dẫn chúng ta tới sự diệt vong, trái lại, chúng ta được mời gọi tuân theo sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Bởi vì Thiên Chúa đổ vào lòng chúng ta Thánh Thần tình yêu và sự khôn ngoan của Người. Chúa Thánh Thần, Đấng thấu suốt mọi mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, sẽ là Thần Khí ngự trong lòng chúng ta, hướng dẫn đời sống chúng ta. Người là tiếng nói nội tâm, Người nói trong lương tâm chúng ta, nhờ đó, chúng ta có thể làm lành lánh dữ; chúng ta có thể vâng phục thánh ý Thiên Chúa và trung thành với Thiên Chúa bằng việc sống theo giới răn của Người.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu tuyên bố rằng Người đến không phải để hủy bỏ lề luật, cũng không phải đến để dạy chúng ta sống bất tuân lề luật. Không! Người đến để hoàn tất lề luật và chỉ cho chúng ta biết lề luật sẽ được hoàn tất như thế nào. Người nói với chúng ta về ba điều liên quan đến ba giới răn. Và ở đây, đối với Chúa Giêsu rõ ràng việc vi phạm lề luật Thiên Chúa không chỉ xảy ra khi chúng ta đã có những hành động bên ngoài chống lại lề luật của Thiên Chúa. Nói một cách khác, chúng ta có thể nói rằng sự vâng phục đối với thánh ý Thiên Chúa hay với lề luật Thiên Chúa không chỉ xảy ra khi chúng ta có hành động một cách bề ngoài. Sử dụng những hành vi bên ngoài để giải thích như là sự vâng phục thôi thì chưa đủ. Không! Đối với Chúa Giêsu, yếu tố của sự chu toàn lề luật phải được bắt đầu từ trái tim, nơi mà mọi sự phát xuất, một trái tim được Thiên Chúa ban tặng sự tự do và với tự do đó, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng tâm hồn chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần và là nơi mà sự khôn ngoan Thiên Chúa ngự trị. Như thế, việc chu toàn lề luật không chỉ được đánh giá theo thước đo này là tôi đã tránh được tội lỗi một cách bên ngoài như thế nào, nhưng chúng ta phải đi vào bên trong, nơi lòng của chúng ta là căn nguyên của thiện ác, lành dữ, để chúng ta xem sự vâng phục và sự tuân giữ lề luật được thực hiện như thế nào.

Điều liên quan đến giới răn thứ nhất của lề luật đó là không được giết người. Nhưng Chúa Giêsu nói: nếu trong lòng, bạn nóng giận với anh chị em của mình, thì tội giết người đã bắt đầu rồi. Việc dùng ngôn ngữ để chửi bới đã là một tội giết người và nếu bạn không sẵn sàng để hòa giải với anh chị em, là những người đã đôi lần có điều gì đó xúc phạm đến bạn, lúc đó, bạn cũng đã vi phạm đến lề luật Thiên Chúa là không được giết người, không được làm hại người khác. Vì thế, việc giết người không chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, tôi không có hành vi giết người bên ngoài nào cả, nên tôi không có tội gì. Nhưng Chúa Giêsu quả quyết đó không phải là ý nghĩa của việc chu toàn lề luật Thiên Chúa. Hãy đi vào cõi lòng bạn, ở đó nếu có giận hờn, ghen ghét, thù hận đang hướng dẫn bạn sử dụng ngôn ngữ bạo lực đối với tha nhân và sự cứng lòng không muốn hòa giải với tha nhân.

Điều thứ hai đó là tương quan với phụ nữ, người không có liên hệ với tôi, một người phụ nữ không phải là người vợ của tôi và với một người phụ nữ khác là người liên hệ với tôi như là vợ của tôi. Vâng, tôi không có tình nhân nào cả, nên tôi không có vi phạm đến luật Chúa liên quan đến điều này, tôi không có phạm tội ngoại tình. Nhưng Chúa Giêsu nói rằng: Nếu bạn nhìn một người phụ nữ không phải là vợ của anh, mà ước muốn trong lòng, bạn đã phạm tội ngoại tình với người đó rồi, bạn đã phạm tội rồi.

Nếu bạn ly dị vợ mình, bạn đuổi vợ mình ra khỏi nhà và bạn lại sống với một người phụ nữ khác chưa lấy chồng, khi đó bạn cũng đã bắt đầu lỗi phạm đến luật Chúa rồi. Như thế, ở đây, tất cả tội lỗi chúng ta bắt nguồn từ trong lòng của mình.

Cuối cùng sự chân thành với chân lý không cần phải những người làm chứng, bạn và tôi không cần phải dùng những lời hoa mỹ hay tất cả mọi hình thức bên ngoài để che dấu sự dối trá hay thiếu chân thật của mình. Nhưng Chúa Giêsu mời gọi bạn và tôi phải một lòng thành thật, có thì nói có, không thì nói không, gian dối là do ma quỷ.

Như thế, sự chu toàn lề luật phải được bắt đầu từ trong chính trái tim của chúng ta, đó là trái tim chứa đựng một tình yêu vô vị lợi đối với tha nhân. Đó là một trái tim chứa đầy sự kính trọng đối với tha nhân, đặc biệt là đối với phụ nữ, một trái tim chân thành và trung tín. Đó là nơi mọi sự lành hay dữ phát xuất. Đó cũng là nơi mà sự vâng phục hay bất tuân phát xuất.

Như thế, Lời Chúa hôm nay trình bày sứ vụ của Chúa Giêsu là hoàn tất lề luật, Người tóm tắt lề luật vào trong giới răn mến Chúa và yêu người. Chúng ta cử hành ngày “valentine day,” ngày lễ của tình yêu. Đây là ngày mà mỗi người yêu nhau bày tỏ tình yêu, hay làm mới lại tình yêu. Đây là ngày tuyệt vời dành cho những ai đang yêu nhau.

Nếu chúng ta không có cơ hội để tổ chức những bữa tiệc, những cuộc đi chơi lãng mạn, những chuyến du lịch bằng tàu cruise trên biển để bày tỏ tình yêu, thì bạn hãy nhìn vào trái tim mình và hãy tự hỏi mình rằng: tôi có đối xử với tha nhân và những người mình yêu thương với sự kính trọng, với lòng trong sạch, hay với sự chân thành không? Khi đó, bạn sẽ biết thế nào là tình yêu. Amen!

Về mục lục

.

CHÚA KIỆN TOÀN LUẬT NHƯ THẾ NÀO?

Lm JB Nguyễn Minh Hùng

“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Vậy Chúa kiện toàn lề luật như thế nào?

1. Chúa Giêsu nâng cao lề luật của Cựu Ước.

Từ khi ban luật Tân Ước, Chúa Giêsu mặc cho lề luật giá trị cao siêu:

– Không cần đợi đến sát nhân thì mới phải ra tòa. Từ nay chỉ cần ai giận ghét anh chị em, chửi mắng, rủa xả, thóa mạ họ, đã đáng trầm luân nơi hỏa ngục.
– Luật mà Chúa Giêsu dạy nhằm bảo vệ và cổ võ thực thi bác ái giữa đồng loại với nhau. Giữ luật mà không nhắm đức bác ái là sai tinh thần luật.
– Luật mà Chúa Giêsu dạy đòi người giữ nó phải luôn khiêm tốn. Bởi nếu không khiêm tốn, người giữ luật sẽ cho rằng mình trọn hảo, mình tốt lành và dễ đánh giá người khác theo cái nhìn chủ quan của bản thân.

2. Luật là phương tiện chứ không phải mục đích.

Đã là phương tiện, phải nhằm phục vụ mục đích. Để đạt một mục đích, có nhiều phương tiện. Phương tiện mà không thể đạt mục đích hay lệch mục đích thì phương tiện không còn cần thiết.

Mục đích của Kitô hữu là tìm kiếm và đạt tới hạnh phúc. Giữ luật mà như gánh nặng, việc giữ luật ấy thất bại. Do đó, ta cần tinh thần tự do để giữ luật.

Ví dụ: Hai người đàn ông cuốc đất để trồng cây trên hai mãnh đất có diện tích như nhau. Nhưng một người là tù binh, người kia không hề bị giam cầm.

Chắc chắn cây trái trên mãnh đất của người tự do sẽ tốt hơn nhiều, xanh tươi hơn nhiều, cho ra kết quả lớn hơn nhiều.

Người bị tù không trông mong quyền lợi bản thân trên mãnh đất mà anh trồng tỉa. Hơn nữa, anh chỉ trồng vì ép buộc, kỹ luật, hoàn toàn thiếu tự do, chắc chắn vườn cây của người bị cầm tù không sánh nổi vườn cây của người tự do.

Cũng vậy, giữ luật trong đức tin vì mục đích yêu mến Chúa, muốn thăng tiến bản thân trên đường nhân đức, việc giữ luật ấy tốt đẹp, hạnh phúc. Trường hợp này, luật là phương tiện đưa người gắn bó với nó tiến xa trên đường đạo đức.

Nhưng ai không có lòng mến, chỉ giữ luật như bị buộc, suốt đời Kitô hữu sẽ không có niềm vui. Ngày qua ngày, luật chỉ là gánh nặng, chỉ là sự cồng kềnh…

3. Giữ luật phải đưa tới ơn nên thánh.

Chúa muốn ai sống lề luật là phải nên thánh. Giữ luật là phải đạt tới mục đích nên thánh. Giữ luật mà không đưa tới ơn nên thánh, việc giữ luật ấy sai, phải chỉnh đốn lại.

Vì thế, người tín hữu cần xem lề luật như là đường lối dẫn mình đi về phía Chúa, đi về cõi đời đời trong ơn nghĩa Chúa.

Người tín hữu cần có luật để bảo đảm con đường mình đi là con đường của đức tin, củng lòng mến Chúa.

Luật mà mình mang theo suốt đời là ánh sáng soi tâm hồn, là cách để mình nhắm đúng hướng, khi phải sống giữa cuộc đời trần thế còn nhiều khó khăn, dễ làm chúng ta trật đường.

4. Đặt luật vào đúng vị trí của nó: Có hai thứ: Thiên luật và nhân luật.

Thiên luật là luật do Thiên Chúa ấn định và trao ban. Thiên luật thì trên hết, bất di bất dịch, mọi người đều phải tuân giữ và ưu tiên trên mọi ưu tiên.

Còn nhân luật là luật do con người làm ra, có tính tương đối. Luật của con người có thể thay đổi và cần được thay đổi.

Ví dụ: Bảo vệ sự sống con người là Thiên luật. Do đó, không ai có quyền sát hại hay cho phép sát hại con người từ khi bắt đầu thành thai đến khi chết bằng một cái chết tự nhiên.

Trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta khẳng định rằng, luật của con người phải nhắm phục vụ luật của Thiên Chúa. Do đó, luật của con người cần phải lấy luật của Thiên Chúa để quy chiếu và không được trái với luật của Thiên Chúa.

Vì thế, giữ luật phải đưa tới tình yêu. Tình yêu là luật bất di bất dịch đến từ Thiên Chúa. Giữ luật mà làm cho tình yêu, sự cảm thông, lòng bác ái bị chèn ép, thì đó là giữ luật sai, cần chỉnh đốn lại.

5. Luật yêu thương là luật tối thượng.

Chúa Giêsu đã nhiều lần minh định: Phải kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình (x. Mt 22, 34-40; Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28).

Dù xác định mến Chúa yêu người là giới răn trọng nhất, nhưng chúa Giêsu đã phân thành hai điều trên dưới khác nhau: mến Chúa và yêu người.
Chính nhờ biết kính mến Thiên Chúa nên chúng ta mới có thể yêu thương tha nhân vượt quá cảm tính thường tình để rồi có thể yêu thương cả kẻ thù, yêu thương người bắt bớ, làm hại mình (x. Mt 5, 43-48).

Trong Giáo huấn của Chúa Giêsu, yêu thương không dừng lại ở những cấm đoán (không được: ngoại tình, trộm cắp, rẫy vợ, giết người…), nhưng tiến xa hơn bằng thực thi việc tốt cho tha nhân, đến mức yêu tha nhân như bản thân.

Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta về việc Người hy sinh chính bản thân của Người để chết cho ta.

Ước mong từng người Kitô hữu luôn biết thanh tẩy tâm trí mình để sống đúng tinh thần luật mà Chúa Giêsu đã dạy và nêu gương. Ước mong mỗi Kitô hữu luôn ý thức, giữ luật không là thể hiện bên ngoài, mà là đào tạo cõi tâm theo tinh thần luật. Nếu tinh thần luật có được thể hiện ra bên ngoài, thì nó đã thật đầy trong tâm.

Về mục lục

.

LUẬT HOÀN THIỆN

Lm JB Nguyễn Minh Hùng

“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Vậy Chúa kiện toàn lề luật như thế nào?

1. Chúa Giêsu nâng cao lề luật của Cựu Ước.

Từ khi ban luật Tân Ước, Chúa Giêsu mặc cho lề luật giá trị cao siêu:

– Không cần đợi đến sát nhân thì mới phải ra tòa. Từ nay chỉ cần ai giận ghét anh chị em, chửi mắng, rủa xả, thóa mạ họ, đã đáng trầm luân nơi hỏa ngục.
– Luật mà Chúa Giêsu dạy nhằm bảo vệ và cổ võ thực thi bác ái giữa đồng loại với nhau. Giữ luật mà không nhắm đức bác ái là sai tinh thần luật.
– Luật mà Chúa Giêsu dạy đòi người giữ nó phải luôn khiêm tốn. Bởi nếu không khiêm tốn, người giữ luật sẽ cho rằng mình trọn hảo, mình tốt lành và dễ đánh giá người khác theo cái nhìn chủ quan của bản thân.

2. Luật là phương tiện chứ không phải mục đích.

Đã là phương tiện, phải nhằm phục vụ mục đích. Để đạt một mục đích, có nhiều phương tiện. Phương tiện mà không thể đạt mục đích hay lệch mục đích thì phương tiện không còn cần thiết.

Mục đích của Kitô hữu là tìm kiếm và đạt tới hạnh phúc. Giữ luật mà như gánh nặng, việc giữ luật ấy thất bại. Do đó, ta cần tinh thần tự do để giữ luật.

Ví dụ: Hai người đàn ông cuốc đất để trồng cây trên hai mãnh đất có diện tích như nhau. Nhưng một người là tù binh, người kia không hề bị giam cầm.

Chắc chắn cây trái trên mãnh đất của người tự do sẽ tốt hơn nhiều, xanh tươi hơn nhiều, cho ra kết quả lớn hơn nhiều.

Người bị tù không trông mong quyền lợi bản thân trên mãnh đất mà anh trồng tỉa. Hơn nữa, anh chỉ trồng vì ép buộc, kỹ luật, hoàn toàn thiếu tự do, chắc chắn vườn cây của người bị cầm tù không sánh nổi vườn cây của người tự do.

Cũng vậy, giữ luật trong đức tin vì mục đích yêu mến Chúa, muốn thăng tiến bản thân trên đường nhân đức, việc giữ luật ấy tốt đẹp, hạnh phúc. Trường hợp này, luật là phương tiện đưa người gắn bó với nó tiến xa trên đường đạo đức.

Nhưng ai không có lòng mến, chỉ giữ luật như bị buộc, suốt đời Kitô hữu sẽ không có niềm vui. Ngày qua ngày, luật chỉ là gánh nặng, chỉ là sự cồng kềnh…

3. Giữ luật phải đưa tới ơn nên thánh.

Chúa muốn ai sống lề luật là phải nên thánh. Giữ luật là phải đạt tới mục đích nên thánh. Giữ luật mà không đưa tới ơn nên thánh, việc giữ luật ấy sai, phải chỉnh đốn lại.

Vì thế, người tín hữu cần xem lề luật như là đường lối dẫn mình đi về phía Chúa, đi về cõi đời đời trong ơn nghĩa Chúa.

Người tín hữu cần có luật để bảo đảm con đường mình đi là con đường của đức tin, củng lòng mến Chúa.

Luật mà mình mang theo suốt đời là ánh sáng soi tâm hồn, là cách để mình nhắm đúng hướng, khi phải sống giữa cuộc đời trần thế còn nhiều khó khăn, dễ làm chúng ta trật đường.

4. Đặt luật vào đúng vị trí của nó: Có hai thứ: Thiên luật và nhân luật.

Thiên luật là luật do Thiên Chúa ấn định và trao ban. Thiên luật thì trên hết, bất di bất dịch, mọi người đều phải tuân giữ và ưu tiên trên mọi ưu tiên.

Còn nhân luật là luật do con người làm ra, có tính tương đối. Luật của con người có thể thay đổi và cần được thay đổi.

Ví dụ: Bảo vệ sự sống con người là Thiên luật. Do đó, không ai có quyền sát hại hay cho phép sát hại con người từ khi bắt đầu thành thai đến khi chết bằng một cái chết tự nhiên.

Trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta khẳng định rằng, luật của con người phải nhắm phục vụ luật của Thiên Chúa. Do đó, luật của con người cần phải lấy luật của Thiên Chúa để quy chiếu và không được trái với luật của Thiên Chúa.

Vì thế, giữ luật phải đưa tới tình yêu. Tình yêu là luật bất di bất dịch đến từ Thiên Chúa. Giữ luật mà làm cho tình yêu, sự cảm thông, lòng bác ái bị chèn ép, thì đó là giữ luật sai, cần chỉnh đốn lại.

5. Luật yêu thương là luật tối thượng.

Chúa Giêsu đã nhiều lần minh định: Phải kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình (x. Mt 22, 34-40; Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28).

Dù xác định mến Chúa yêu người là giới răn trọng nhất, nhưng chúa Giêsu đã phân thành hai điều trên dưới khác nhau: mến Chúa và yêu người.
Chính nhờ biết kính mến Thiên Chúa nên chúng ta mới có thể yêu thương tha nhân vượt quá cảm tính thường tình để rồi có thể yêu thương cả kẻ thù, yêu thương người bắt bớ, làm hại mình (x. Mt 5, 43-48).

Trong Giáo huấn của Chúa Giêsu, yêu thương không dừng lại ở những cấm đoán (không được: ngoại tình, trộm cắp, rẫy vợ, giết người…), nhưng tiến xa hơn bằng thực thi việc tốt cho tha nhân, đến mức yêu tha nhân như bản thân.

Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta về việc Người hy sinh chính bản thân của Người để chết cho ta.

Ước mong từng người Kitô hữu luôn biết thanh tẩy tâm trí mình để sống đúng tinh thần luật mà Chúa Giêsu đã dạy và nêu gương. Ước mong mỗi Kitô hữu luôn ý thức, giữ luật không là thể hiện bên ngoài, mà là đào tạo cõi tâm theo tinh thần luật. Nếu tinh thần luật có được thể hiện ra bên ngoài, thì nó đã thật đầy trong tâm.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 6 TN_A

 

Về mục lục

.

 

TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Tự do lựa chọn một quyết định và gánh trách nhiệm về quyết định của mình, đó là đặc tính căn bản làm cho con người khác biệt với mọi loài tạo vật. Thiên Chúa sáng tạo con người không giống như một chiếc máy cho ra lò hàng loạt sản phẩm cùng một mẫu mã như nhau. Ngài tạo dựng con người mỗi cá nhân đều khác biệt và cho họ có tự do để lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu. Tác giả sách Huấn Ca đã dùng một hình ảnh đơn sơ dễ hiểu: Đức Chúa đặt trước mặt con người lửa và nước, nếu muốn gì thì giơ tay mà lấy; Đức Chúa đặt trước mặt họ cửa sinh và cửa tử…Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội (Bài đọc I).
 
Nếu Thiên Chúa ban cho con người có tự do, là để họ dùng tự do ấy một cách đúng mức và để họ có trách nhiệm về những việc mình làm. Vì con người hay lạm dụng tự do, nên Chúa đã thiết lập lề luật làm nền tảng để lượng giá những hành động của họ. Lề luật của Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi lề luật của loài người, nên luật đó có giá trị ưu tiên. Mọi dân luật đều phải dựa trên luật của Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con người.
 
Chúa Giêsu đã quả quyết, luật căn bản nhất mà con người phải tuân giữ, đó là luật yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay chứa đụng giáo huấn rất phong phú về nội dung này. Không thể viện cớ một luật lệ hay một tập quán thế tục để hành động ngược với giới luật yêu thương. Khởi đi từ luật yêu thương này, người ta mới có thể xây dựng tình bằng hữu, đạo gia đình và tình nghĩa phu phụ.
 
Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật của Cựu Ước. Hơn thế nữa, Người mặc cho lề luật một giáo trị cao siêu hơn. Nếu luật Cựu Ước quy định kẻ sát nhân phải ra tòa, thì luật Tân Ước, những ai giận ghét anh chị em mình hoặc chửi mắng rủa xả họ với những lời thóa mạ, thì đã đáng hình phạt hỏa ngục trầm luân. Những quy định của luật Tân Ước nhằm bảo vệ và cổ võ thực thi bác ái giữa những người đồng loại. Trong Giáo huấn của Chúa Giêsu, luật yêu thương không chỉ dừng lại ở những cấm đoán, nhưng còn tiến xa hơn bằng những lời khuyên làm việc tốt cho tha nhân, đến mức yêu tha nhân như chính mình. Để giáo huấn của mình có độ xác tín, Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta noi theo qua việc rửa chân cho các môn đệ và nhất là qua cái chết trên thập giá.
 
Để có thể hành động đúng với ý Chúa và để có thể thực thi được đức bác ái hoàn hảo, một điều kiện căn bản là mỗi chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận vị trí và khả năng của mình trong cuộc sống hiện tại. Nghịch lại đức khiêm tốn là kiêu ngạo. Người kiêu ngạo thường lấy mình làm tiêu chuẩn để đoán xét người khác. Họ coi mình là trung tâm vũ trụ, nên hành động và quyết định mà không nghĩ đến quyền lợi và phẩm giá của anh chị em mình. Khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ; Kiêu ngạo một chút đã là thừa. Lối sống khiêm hạ là phương pháp Đức Giêsu đã dùng để cứu độ trần gian. Đối với mỗi tín hữu chúng ta, khi khiêm nhường là chúng ta nên giống Đức Giêsu và như thế chúng ta có thể sống đức yêu thương như Người truyền dạy.
 
Sống như một người có trách nhiệm cần phải có ơn Chúa, nhất là ơn khôn ngoan. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy hành xử theo sự khôn ngoan đích thực, chứ không phải lẽ khôn ngoan theo quan niệm thế gian. Lẽ khôn ngoan này là chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để chỉ cho chúng ta con đường về quê trời.
 
“Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”. Một điều xem ra quá đơn giản và dễ dàng mà chúng ta không phải lúc nào cũng áp dụng được. Cuộc sống này vẫn còn những tranh cãi bất hòa và căng thẳng, vì chúng ta thường có khuynh hướng nói ngược lại: ‘có’ lại nói ‘không’ và ‘không’ lại nói ‘có’.
 
Con người không phải là một ốc đảo trong đại dương mênh mông là cuộc đời này. Mỗi cá nhân là một người có tự do và có trách nhiệm. Nên thánh chính là biết sống quân bình giữa tự do và trách nhiệm trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em. Xin Chúa cho chúng ta biết sử dụng tự do để lo phần rỗi bản thân và góp phần đem lại hạnh phúc cho đồng loại.

Về mục lục

.

BIẾT MÌNH GIỚI HẠN ĐỂ CẢM THÔNG

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Hai vợ chồng lớn tuổi ghé vào một quán ven đường đề điểm tâm. Ăn xong, khi đã lên xe đi được khá xa, bà vợ mới sực nhớ là mình quên cặp kính trên bàn ăn. Suốt quãng đường trở lại quán, ông chồng luôn mồm cằn nhằn tính đoản vị, hay quên của bà vợ. Đến chỗ cũ, khi bà vợ tất tả chạy vào tìm kính, ông chồng dặn với theo:
– Bà nhớ cầm ra luôn cho tôi cả mũ lẫn ô nhé!

Đôi khi chúng ta hay trách người này chê người kia. Có khi kết án ông này bà nọ. Sự kết án của chúng ta khiến nhiều người bảo rằng: bạn hãy nhìn lại bản thân mình xem tốt chưa mà chê người khác? Vì có khi những điều sai lầm ấy chính chúng ta cũng đang hay đã từng mắc phải?

Điều quan yếu trong cuộc sống không phải là kết án nhau mà là biết sống tốt từ bản thân của mình để nên gương sáng cho anh em. Đừng sống theo kiểu mà cha ông ta từng chê trách:

“Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống theo tinh thần Phúc Âm. Hãy ăn ở ngay lành. Hãy làm việc thiện. Hãy từ bỏ những tính hư nết xấu, những đam mê tội lỗi. Đừng mang danh con cái Chúa mà lại sống xa rời tình nghĩa với anh em, xa rời tình nghĩa với Chúa. Đạo không dừng lại ở việc tuân giữ điều này điều kia mà còn thể hiện tình liên đới, sự chia sẻ, cảm thông với anh em. Đạo được quy chiếu vào Lòng Mến. Mến Chúa thì phải yêu mến anh em. Tình yêu đó đòi hỏi phải sống hiệp thông với nhau trong yêu thương và tha thứ. Tình yêu đó đòi hỏi tránh xa những mâu thuẫn, những ghen ghét, giận hờn. Chúa còn coi trọng sự hoà giải với nhau hơn cả việc đến dâng của lễ. Vì khi “anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang bất bình với anh, thì hãy bỏ của lễ mà đi làm hoà trước đã rồi hãy trở lại mà dâng lễ”.

Nhìn vào thế giới hôm nay đó là một thế giới đầy bạo lực. Con người không cần lý lẽ. Người ta có thể dùng quyền để bẻ cong công lý. Người ta dùng sức mạnh để đè bẹp tự do và xâm phạm quyền sống của tha nhân. Vâng, giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng bạo lực, bằng gươm đao. Giữa một thế giới mà lòng nhân đã đánh mất chỉ còn sự giả hình, hay nhẹ hơn là mạnh ai nấy lo, sống thiếu tình liên đới với nhau. Người kytô hữu cần phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa mà chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa mà chúng ta hãy nhịn nhục lẫn nhau. Vì Chúa mà chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Vì Chúa mà chúng ta hãy “chín bỏ làm mười”, sống vị tha và bác ái với nhau.

Điều đáng trách là nhiều người mang danh ky-tô hữu nhưng lại sống thiếu tình yêu. Bởi vì vẫn còn đó những người siêng năng đi lễ nhưng không dám sống thánh lễ trong cuộc đời của họ. Họ có đạo nhưng hành động của họ lại ngược với giáo huấn của Chúa. Họ có đạo nhưng họ vẫn sống rối vợ rối chồng, vẫn chồng chung vợ chạ, vẫn lăng nhăng, vẫn ngoại tình . . . Họ đến nhà thờ nhưng vẫn lỗi công bình bác ái trong lời nói và hành động. Họ mang danh Chúa Ky-tô nhưng lại sợ hy sinh, sợ trách nhiệm và trốn tránh bổn phận với gia đình và giáo hội.
 
Nguyện xin Chúa là Đấng đã tha thứ cho mọi tội khiên của nhân loại xin cũng tha thứ cho những yếu đuối của chúng ta, và xin Ngài giúp chúng ta cũng biết sống tha thứ và hoà giải với nhau. Amen.

Về mục lục

.

GIỮ LUẬT CHÚA VỚI TÌNH YÊU VÀ LÒNG MẾN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

“Thiên Chúa ban cho con người sự sống và sự chết, con người có quyền lựa chọn thích thứ nào thì được thứ ấy” (Hc 15, 17 ). Lời trên là một minh họa cụ thể cho Cây biết biết lành biết dữ và Cây Sự Sống trong sách Sáng Thế (x. St 2 ​​, 9 ). Chúng ta không “quyết định” chọn cái ác, tội lỗi là điều không thể tránh khỏi, nhưng dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được mời phân biệt sự lành và sự dữ cách tự do nhờ sức mạnh Người đã trao ban: “Nếu ngươi muốn tuân giữ các giới răn: việc trung thành giữ các giới răn là tuỳ ở ngươi”. Đây là Tin Mừng do Đức Khôn Ngoan công bố, Đức Giêsu thực hiện, Người chết cho tội lỗi và sống lại trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Khi tội lỗi bị bẻ gẫy, sự chết bị đập tan, Thiên Chúa ban lại cho chúng ta ơn gọi làm con cái Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu (x. 2 Pr 1, 4 ) . Đó là kế hoạch khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đối với loài người : “Sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa vẫn được giấu kín, mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn thuở để làm nên sự hiển vinh của chúng tôi… Thiên Chúa đã mạc khải điều đó cho chúng tôi do Thánh Thần của Người “ (x. 1 Cr 2, 6-10) .

Vì thế, nếu sự thật về thân phận con người là sống kết hiệp với Đức Giêsu và hiệp nhất với Ngài trong đức tin, tình yêu và lòng mến là con đường duy nhất dẫn đến Cây Sự Sống, phục hồi phẩm giá làm con Thiên Chúa và mở ra cho chúng ta tình huynh đệ phổ quát. Thì Đức Giêsu đến “kiện toàn Lề Luật và lời các Ngôn Sứ”, với mục đích soi đường chỉ lối cho chúng ta về với Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu và là Cha chúng ta nhờ sự vâng phục Lời Ngài. Tuy nhiên, sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa, khác với “sự khôn ngoan của thế gian” (x. 1 Cr 2, 6), như Thánh Phaolô nói với chúng ta. 

Khi con người cố gắng bằng mọi cách để bảo vệ “quyền lợi” cá nhân trong công lý, nhưng dưới cái nhìn của Đức Giêsu là chưa đủ: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu” (Mt 5, 20).  Vậy thế nào là công chính hơn các luật sĩ và biệt phái?

Đức Giêsu giải thích qua một loạt các phản đề giữa các giới răn cũ và kiểu Ngài đề nghị. Mỗi lần bắt đầu: “Các con đã nghe người xưa nói rằng… “, rồi Ngài khẳng định: “Còn Thầy, thầy bảo các con… “. Chẳng hạn: “Các con đã nghe người xưa nói rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy Thầy bảo các con: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (x. Mt 5,21-22). Và sáu lần như vậy. Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý định thêm các điều răn, nhưng Ngài tuyên bố cần phải có bước nhảy về chất lượng, Ngài chứng tỏ Ngài chu toàn các giới răn với tình yêu của Chúa Cha, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở trong Ngài. Đến lượt chúng ta, với niềm tin nơi Ngài, để Chúa Thánh Thần hoạt động, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta sống tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, mỗi điều răn trở thành thật sự như đòi buộc của tình yêu, vì tất cả các giới răn đều tóm về hai điều này là : trước kính Đức Chúa Trời hết lòng hết sức, và sau là yêu người như mình ta vậy. Như Thánh Phaolô quả quyết: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).

Đức Giêsu tiếp tục mời gọi chúng ta dứt bỏ tận căn : “Nếu con mắt phải của con nên dịp tội cho con, thì hãy móc nó mà ném xa con; vì thà mất một chi thể còn lợi hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con; vì thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục” (Mt 5,29-30).  Hình ảnh thân thể người kitô hữu bị cắt xén cho thấy cuộc chiến khốc liệt này và báo trước những gì không phù hợp với sủng. Chỉ có Thần Khí mới có thể giúp chúng ta thực hiện việc hoán cải và lựa chọn dứt khoát, cứu mạng sống ta và ném xa ta những gì ngăn cản ta với Thiên Chúa, thậm trí tách ra khỏi chính thân mình như con mắt chẳng hạn. Liệu chúng ta có thể cân nhắc chọn lựa giữa ngọc trai quý hiếm với kho bạc duy nhất là Sự Sống đời đời không?

Thánh Phaolô nói: “lòng người cũng chưa từng mơ ước tới, đó là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm cho những ai yêu mến Người” (1 Cr 2, 10). Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta vượt qua quán tính của con người cũ, và sống trong tình yêu, nếu chúng ta tin kính Chúa, “Chúa nhìn đến những kẻ kính sợ Người, và thấu suốt mọi hành động của con người” ( Hc 15, 19 ) ; “Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng” ( Lời nguyện nhập lễ ).

Đức Giêsu mời gọi chúng ta hoán cải tận căn, chúng ta là con một Cha trên Trời và là anh em với nhau. Chúng ta không đứng trước bàn thờ Chúa một mình, nhưng cùng anh em dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Vì vậy, Cha trên Trời làm sao vui mừng được, khi con cái dâng lễ vật mà đang chia rẽ nhau ? Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo: “khi ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ” (Mt 5,23-24).  Ai trong chúng ta là xứng đáng với lời đề nghị trên?

Lời Chúa Giêsu gửi đến mỗi người trong chúng ta, không có chuyện cắt chân cắt tay, hay là móc mắt, nhưng là cam kết dấn thân trong tình bác ái. Với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể  vứt bỏ hay ném xa những gì đe dọa chúng ta kết hợp với Chúa và tha nhân, chọn Chúa làm gia nghiệp của đời ta. Amen.

Về mục lục

.

TỰ DO TUÂN GIỮ LỀ LUẬT

Lm. GB. Trần Văn Hào

Tinh thần tự do và việc tuân giữ lề luật.

Xã hội hôm nay luôn đề cao chủ trương ‘Sống và làm việc theo pháp luật’. Đã có một thời người ta vẫn nhắc đi nhắc lại khẩu hiệu ‘Không có gì quý hơn độc lập và tự do’. Tự do và tuân thủ pháp luật là cặp phạm trù luôn đi song đôi mà trong bất cứ tổ chức nào, người ta vẫn thường hay nhắc tới. Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh về 2 điều này. Ngài khẳng quyết : “Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn. Cho đến khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong lề luật sẽ không qua đi”(Mt 5, 18). Nhưng Đức Giêsu đã mặc cho lề luật cũ một tinh thần mới, đó là chiều kích nội tâm với sự tự do đích thực. Tuân thủ lề luật một cách cứng ngắc và vụ hình thức sẽ giết chết chúng ta, nhưng trong tự do của Thần Khí, chúng ta sẽ đi vào cốt lõi của lề luật như lời giải thích của Chúa Giêsu hôm nay.

Luật trong Cựu ước.

Trong trình thuật Tin Mừng, Chúa Giêsu đã 4 lần nhắc đi nhắc lại: “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng…” Ngài nêu ra 4 ví dụ tiêu biểu về luật cũ, và giải thích theo tinh thần mới.Luật cũ mà người Do Thái vẫn tuân giữ rất cặn kẽ được viết lại trong sách Torah. Bộ sách gồm 5 quyển, chứa 613 điều khoản, gồm 365 khoản cấm và 248 khoản buộc. Ngoài 613 điều khoản này, Do Thái giáo theo dòng thời gian còn qui định thêm những tập tục khác và truyền lại cho các thế hệ mai sau. Các tập tục đó được tóm lược trong bộ sách Talmud. Có nhiều tập tục đã quá lỗi thời và lạc điệu ngay cả vào thời của Chúa Giêsu, ví dụ việc giữ ngày Sa- bát 1 cách rất chi tiết và nặng hình thức. Cụ thể như trong ngày Sa-bát, người Do thái không được đi xa hơn 1000 bước chân, không được tắm rửa, không được soi gương, không được mang răng giả v.v..Có lần các môn đệ Chúa Giêsu đã bứt lúa để ăn trong ngày Sa-bát vì đói và đã bị những người Pharisiêu khiển trách (Mc 2, 24). Những lề luật và những tập tục cũ đã trở nên như một gánh nặng cho dân chúng (Mt 11,28), và Đức Giêsu đã đến để ‘giải phóng’, giúp trút bỏ những gánh nặng cồng kềnh ấy để con người chúng ta được tự do hoàn toàn.

Luật trong Tân ước.

Chúa Giêsu đến trần gian để thiết lập một giao ước mới. Trong giao ước đó, Ngài chỉ nêu ra 1 khoản luật duy nhất, đó là luật của tình yêu. “Thầy để lại cho anh em 1 điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”(Ga 13,34a). Mô thức của lề luật mới mà Chúa đã thiết định chính là cái chết của Ngài trên Thập giá. Vì thế, chỉ duy nhất một mình Đức Giêsu mới có thể nói cho các học trò của mình : “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34b). Chúa Giêsu không phải là một nhà mô phạm lý thuyết. Ngài quảng diễn bài học yêu thương qua chính hình ảnh cụ thể nơi Ngài. Chúng ta hãy đọc lại thư Rôma, trong đó Thánh Phaolô đã cắt nghĩa rất sâu sắc về khoản luật mới này. Ngài viết : “Anh em cần phải cắt bì trong tâm hồn theo tinh thần lề luật, chứ không phải theo chữ viết của lề luật” (Rm2,29b). “Chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới chứ không phải theo văn bản cũ của lề luật (Rm 7,6). Cuối cùng, thánh Tông đồ đã tóm kết toàn bộ lề luật vào một định thức đơn giản và viết cách vắn gọn : “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,16). Từ chương 5 đến chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa thế nào là việc thực hành lề luật mới, bằng cách sống theo Thần khí. ‘Spiritus’ có nghĩa là ‘Thần Khí’ và spiritus cũng có nghĩa là tinh thần (của lề luật). Thánh nhân đã tóm kết : “Lề luật (cứng ngắc) thì giết chết, nhưng tinh thần của lề luật, tức sống theo Thần Khí mới làm cho chúng ta sống (Lex occidit, Spiritus vivificat).

Người biệt phái ngày xưa giữ luật rất nghiêm túc và tỉ mỉ. Xét bề ngoài, họ là những con người rất đạo đức. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ vạch trần thái độ cao ngạo trịnh thượng và sự rỗng tếch nơi họ. Họ đến trình diện trước Chúa chỉ để khoe khoang những thành tích đạo đức giả tạo nơi mình. “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng 1 phần 10 huê lợi của con cho Chúa” (Lc 18, 12). Chúa Giêsu đã nói thẳng vào mặt họ : “Đồ giả hình và gian ác” (Mt 23,30). Nhiều khi, chúng ta cũng giữ đạo một cách máy móc và giả hình giống như thế.

Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa : “Lạy Chúa, Ngài biết rõ con hơn cả chính con biết con”(trích trong sách Tự thuật). Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn mỗi người chúng ta. Một nhà tu đức đã nói : “Khi chúng ta đến trước mặt Chúa, Chúa không thích chúng ta trưng ra những bằng khen hay những giấy khen. Chúa cũng chẳng ưa ngắm những bộ huy chương chúng ta đeo trên ngực để phô diễn những kỳ tích đạo đức của mình. Điều Chúa thích nhất, là Ngài cứ mân mê sờ nắn những vết sẹo hằn sâu nơi tâm hồn con người. Những vết sẹo đó là dấu tích tội lỗi chúng ta đã phạm nhưng đã được Thiên Chúa yêu thương và chữa lành”.

Kết luận

Cha Anthony de Mello đã viết một câu chuyện ngắn như sau. Một ông vua nọ rất trác táng, suốt ngày chỉ lo nhậu nhẹt và lao vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sỹ già với áo quần cũ kỹ, nhầu nát, còn khuôn mặt thì nhợt nhạt và xanh xao. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sỹ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sỹ già. Nhìn áo quần lếch thếch và gương mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”. Vị tu sỹ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào. Một lát sau, Ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ: “Thần xin cám ơn bệ hạ, còn tôi nhìn khuôn mặt đức vua trông giống như một vị thánh.” Nhà vua kinh ngạc hỏi lại:” Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn cũng chẳng giận, còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh, tại sao thế?” Vị tu sỹ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một con người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, thì nhìn ai cũng giống heo. Ngược lại, một con người có tâm hồn và trái tim của một ông thánh, sẽ thấy mọi người giống các vị thánh”. Nói xong, vị tu sỹ lặng lẽ bỏ đi còn nhà vua đứng chết lặng.

Chúng ta giữ đạo và giữ luật với trái tim của loài heo hay của một vị thánh? Chúng ta tuân thủ các điều luật trong Giáo hội với tâm hồn của những người Pharisiêu năm xưa hay với trái tim nhân hậu của ChúaGiêsu? Chúng ta hãy tự lục soát lương tâm và nhìn thẳng vào nội tâm nơi chính mình để tìm ra câu trả lời.

Về mục lục

.

LUẬT LỆ: GIỮ TRỌN HAY LÀM NÊN TRỌN?

Lm Gioan Nguyễn Văn Ty

Đối với người Do Thái, Lề luật có tầm quan trọng số một. Thái độ trước lề luật chính là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người. Đức Giêsu cũng được các đồng bào Người đánh giá và chấp nhận dựa trên tiên chuẩn này; vì thế mà Người lên tiếng tuyên bố: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” lề luật. Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật. Trong Ít-ra-en, chỉ mình Đức Chúa Gia-vê có quyền này; ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là người truyền đạt cho dầu luật có mang tên ông. Luật này cũng không cần được ai kiện toàn vì nó đã hoàn hảo; có chăng chỉ là giải thích và đó là bổn phận dành riêng cho các luật sĩ. Hiểu như thế thì lời công bố của Đức Giêsu có thể bị coi là lộng ngôn, vì không ai có quyền bãi bỏ cũng như không ai được phép ‘kiện toàn’ – sửa chữa bộ luật Môsê đã truyền lại.
 
Thông thường thì người ta sẽ coi như phá luật những kẻ không cặn kẽ tuân giữ lề luật. Rõ ràng nhóm Biệt Phái và luật sĩ đã nhận xét Đức Giêsu là như thế, do đó đã liệt Người vào hạng tội lỗi, vì cho rằng Người có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ ngày Sa-bát và các nghi thức tẩy rửa.
Về phần Đức Giêsu, Người luôn khảng định việc căn kẽ giữ luật là cần thiết “một chấm một phết trong lề luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Các môn đệ hiểu rõ điều đó cho nên sau này, kể cả khi Đức Giêsu đã về trời, họ vẫn tuân giữ căn kẽ mọi lề luật Môsê. Các tông đồ còn muốn mọi tín hữu (nhất là các người gốc Do Thái giáo) phải tiếp tục giữ trọn luật pháp theo lời Chúa dạy: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”. Tuy nhiên, sứ mạng đích thực của Đức Giêsu không nhằm kêu gọi dân chúng giữ luật. Điều này đã được các Pharisêu, các luật sĩ… và Gioan Tiền hô làm bằng nhiều cách. Người khảng định: “Thầy đến… để kiện toàn luật Môsê!” Và không chỉ Người, mà bất cứ kẻ nào tin vào Người cũng phải kiện toàn lề luật như thế: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vài Nước Trời”. Tác giả Matthêu thẳng thắn muốn các tín hữu gốc Do Thái (đối tượng chính của sách Tin Mừng ông viết) phải hiểu rằng: Đức Giêsu và các lời Người dạy tuy không chống lại nhưng cao trọng hơn luật Môsê rất nhiều, “Luật xưa dạy rằng…. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” Thế thì ta phải hiểu điều các khảng định này theo ý nghĩa nào?
Trước hết ở đây ta không được hiểu Đức Giêsu tự giới thiệu mình là một nhà lập pháp mới (legislator novus), theo nghĩa giao ước mới thì đòi phải tuân giữ luật mới, cũng như giao ước cũ phải tuân giữ luật cũ của Môsê. Không! Giêsu không phải là người làm luật, nhưng là người làm cho mọi luật được nên trọn. Không có Người, luật lệ cho dầu có thể là rất tốt, rất hoàn chỉnh, vẫn chưa có thể được coi là trọn; và duy nhất chỉ một mình Người mới làm được điều đó. Ai tin vào Đức Giêsu, đặc biệt qua biến cố tử nạn và phục sinh của Người, đều có khả năng kiện toàn, hay làm cho nên trọn bất kỳ luật lệ nào họ nắm giữ (dầu là luật dân sự bất toàn hay luật tôn giáo thánh thiện). Lòng thương xót, từ ái cứu độ của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu mạc khải, mới là nền tảng duy nhất để canh tân và kiện toàn mọi thứ luật lệ. Chỉ cần nhìn vào các trường hợp được nêu trong bài Tin Mừng: không giết người, không ngoại tình, ly dị, thề gian dối… ta mới thấy chỉ Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa mới có thể kiện toàn và làm cho chúng được nên trọn tới thế. Sự nên trọn này chắc chắn không hệ tại ở luật pháp hoàn hảo hơn hay kém, nhưng hệ tại ở thái độ bình an và tự do ta có khi nắm giữ các lề luật đó, trong tư thế của một người con được Chúa Cha yêu thương. Không tin tuyệt đối vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Kitô Giêsu, ta sẽ không bao giờ có được thái độ này, và đương nhiên sẽ thấy khó có thể chấp nhận các đòi hỏi của luật pháp, kể cả những lề luật hoàn thiện và cao đẹp nhất.
Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của luật Môsê, nhưng cũng chính vì thế mà ông càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng. Trong chương 3 thư gởi giáo đoàn Ga-lát ông lấy hình ảnh người giám hộ để chỉ luật Môsê rất thánh thiện (và bất cứ luật lệ nào khác, kể cả luật Hội Thánh), và hình ảnh con cái tự do để chỉ sự ‘kiện toàn – nên trọn’ của niềm tin vào Đức Kitô Giêsu. Tôi thiết nghĩ ông quả đã nắm bắt rõ vấn đề: “Khi đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám hộ nữa… vì tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa…” (Gl 3,25-26)
 
Ôi, niềm tin Kitô hữu vào tình yêu Thiên Chúa nhân ái thứ tha có khả năng nâng chúng ta lên cao biết mấy, vượt xa sự kiểm tỏa của luật pháp, cũng như mọi lo lắng sợ hãi của thưởng phạt nghiêm minh!  
Trong tư cách là công dân Việt Nam, là Kitô hữu, là tu sĩ – linh mục… con phải khoác lên mình biết bao nhiêu thứ luật lệ. Con thâm tín một điều rằng không một luật lệ nào trong số đó tự nó có thể cứu thoát được con. Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con được như Phaolô xác tín rằng: chỉ có niềm tin vào Chúa cứu độ và từ nhân mới giúp con làm cho các luật trên được nên trọn, đồng thời biến con thành con cái tự do đích thực của Cha trên trời. A-men

Về mục lục

.

CUỐN SÁCH HAI CHỮ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 Chúa Giêsu khẳng định: “Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”.

Luật Môsê là Luật của Thiên Chúa ban. Môsê đã làm nhiệm vụ trung gian trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy. Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê. Lề Luật là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người. Lề Luật có tầm quan trọng số một đối với người Do thái.

Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật. Trong Israel, chỉ mình Đức Chúa có quyền này, ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là trung gian truyền đạt.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê, nhưng Ngài giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa, Ngài làm cho mọi luật được nên trọn hảo. Chúa Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau : “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.

Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật”. Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong Nước Trời. Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm: “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,28; Mc 1,22; Lc 4,31). Kiện toàn Luật Môsê và các Ngôn sứ là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.

Chúa Giêsu kiện toàn nội dung của Luật gồm luật Sabát, luật thanh sạch, luật hôn nhân, luật báo oán…Đối với Chúa Giêsu, tất cả các khoản luật được lập ra là nhằm mục đích phục vụ con người, chứ không phải phục vụ cơ chế hay quyền lợi của một nhóm người nào. Luật phải vì con người chứ không phải con người vì luật.Luật quan trọng nhất được khắc khi trong tâm hồn mà mọi điều luật khác phải qui về, đó là luật bác ái yêu thương. Luật nào không còn phục vụ và làm thăng tiến con người trên phương diện tình yêu đều không còn lý do để tồn tại.

Chúa Giêsu kiện toàn tinh thần giữ luật. Giữ luật vì lòng yêu mến chứ không phải vì hình thức vụ luật. Óc nệ luật, vụ hình thức làm tê liệt sáng kiến và cầm chân con người trong thái độ tiêu cực, máy móc, cằn cỗi.

Như vậy, Chúa Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách đặt cho nó một linh hồn là yêu thương. Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9, điều răn thứ 2 và thứ 8.

  1. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 5

Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người“. Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi : “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23).

Chúa Giêsu dạy cho con người biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể về đức công chính là làm hòa với tha nhân trước đã, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng người ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng nhau. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.

Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.

  1. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 6 và thứ 9

Điều răn thứ 6 dạy: “Chớ dâm dục“, và điều răn thứ 9 dạy: “chớ ngoại tình“. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.

Không đợi đến lúc vở lỡ, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội “dâm dục” hay “ngoại tình”, nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt thì đã thành tội rồi.Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, sớm muộn con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!

  1. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 2 và thứ 8

Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5,37). Lòng ngay chính thật thà hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Yêu thương chân thành là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của lạc thú xác thịt, của chia rẻ hận thù báo oán.

  1. Cuốn sách hai chữ : Yêu Thương.

Một câu chuyện kể rằng, có nhà vua kia lệnh cho các nhà thông thái trong đất nước của ông là hãy tóm gọn tất cả mọi chân lý vào trong một cuốn sách. Thời gian trôi qua hàng chục năm mà chưa ai thực hiện được. Vị quan được trao phó trách nhiệm công việc này đến thưa với vua, xin vua khất cho thời hạn. Một năm sau, vua hỏi, vị này vẫn chưa làm được điều gì. Vì kiến thức là một biển cả mênh mông, không thể tóm trong một cuốn sách, phương chi là một vài chục năm. Không may, nhà vua bị bệnh, mỗi ngày một suy yếu. Thời gian không còn tính theo năm nữa mà tính theo tháng. Rồi bệnh của vua càng ngày càng trầm trọng. Nhà vua hối thúc vị quan được trao phó trách nhiệm. Vị quan này gấp rút dồn lại trong một cuốn sách. Nhưng nhà vua nói: Bây giờ thì ta không thể đọc được nữa rồi, ngươi hãy thu ngắn lại nữa. Cuối cùng một cuốn sách chỉ còn lại một chương. Một chương, nhà vua cũng không còn sức để đọc được nữa. Bệnh đã nặng, hết hơi, sức đã tàn. Sau cùng, nhà vua nói với viên quan kia: ngươi hãy tóm lại trong một chữ thôi. Viên quan đã tận tâm và thưa : muôn tâu hoàng thượng, nếu tất cả chân lý chỉ tóm lại trong một chữ thì thần xin bệ hạ hai chữ là: Yêu Thương.

Thánh Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của Luật Môsê, nhưng chính vì thế mà ngài càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng  Chúa Giêsu (x. Gl 3,25-26). Đối với Phaolô: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10). Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người. Mỗi người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài. Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương nhau.

Chúa Giêsu tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu. Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9). Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, chúng ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho chúng ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết làm tất cả mọi việc chỉ vì lòng mến Chúa và yêu người. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC SỐNG

Trầm Thiên Thu

Có lẽ khó có thể định nghĩa đầy đủ về cuộc sống hoặc cuộc đời, nhưng ai cũng cảm nghiệm rất cụ thể và “trọn vẹn” ở một mức độ nào đó. Người ta nói “đời là bể khổ”, cách nói này có thể tiêu cực hoặc tích cực theo tầm nhìn của mỗi người – để bi quan yếm thế hoặc để nỗ lực sống tốt.

Cuộc sống trần gian vốn dĩ bình thường nhưng lại rất phức tạp, vì thế cần phải biết đơn giản hóa cuộc sống để vượt qua chính mình và vượt qua tất cả mọi sự đời. Đó là cách “buông thả” để tự giải thoát mình khỏi mọi thứ rắc rối – buông thả chứ đừng buông xuôi. Tỷ phú Bill Gates (“cha đẻ” của Microsoft, sinh năm 1955) nhắn nhủ: “Đừng so sánh mình với bất cứ ai trên thế giới này. Nếu bạn tự so sánh như vậy tức là bạn sỉ nhục chính mình. Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó”. Một câu nói đáng để chúng ta “vắt tay lên trán” mà suy nghĩ lắm.

Không có hoàn cảnh nào tuyệt vọng, chỉ có người tuyệt vọng vì hoàn cảnh. Thượng Đế khép lại cánh cửa này thì lại mở cánh cửa khác để người ta tiếp tục sống. Thượng Đế rất công bằng. Chúng ta không có quyền chọn nơi sinh nhưng chúng ta có quyền chọn cách sống. Hãy cứ là chính mình, có thể cuộc sống của chúng ta không có gì nổi trội, rất ư bình thường nhưng vấn đề là đừng sống tầm thường. Đó là sự tự do mà Thiên Chúa đã trao ban cho mỗi chúng ta.

Sách Huấn Ca có đề cập sự tự do của con người, với cách đặt vấn đề giản dị và tự nhiên: “Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm điều đẹp ý Người” (Hc 15:15). Chữ “nếu” xem chừng đơn giản mà lại phức tạp, ngắn gọn mà dài lê thê. Tác giả sách Huấn Ca nói cụ thể: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì sẽ được cái đó” (Hc 15:16-17). Muốn gì, cứ lấy; thích gì, được nấy. Trong cuộc sống hằng ngày, người Việt cũng thường nói: “Thích thì chiều”. Vừa khôi hài, vừa nghiêm túc. Đó là cách đề cập sự tự do. Sự tự do quý giá, nhưng con người phải trả giá cao về cách chọn lựa của mình. Quả là gay go thật!

Gọi là tự do nhưng cũng có giới hạn, trong “phạm vi tự do” đúng nghĩa – tức là tự do làm điều tốt mà thôi. Trong cuộc sống, cái gì cũng có lý do riêng và mang tính đặc thù. Kinh Thánh lý giải: “Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả. Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Người KHÔNG truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng KHÔNG cho phép ai phạm tội” (Hc 15:18-20).

Sử dụng quyền tự do để làm điều ác thì sẽ nhận phần đau khổ, sử dụng quyền tự do để làm điều tốt thì sẽ nhận phần hạnh phúc. Người ta cũng nói là “ác giả, ác báo” hoặc gọi là “luật nhân – quả”. Luật Chúa là những gì rất tự nhiên, rất bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời. Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người” (Tv 119:1-2).

Cuộc sống là chuỗi ngày tháng tìm kiếm Chúa. Tìm thì sẽ gặp, gặp Ngài qua việc tuân giữ Thánh Luật. Ngài vẫn “hóa trang” thành những con người nghèo khổ trong cuộc sống đời thường. Tác giả Thánh Vịnh vẫn luôn tâm niệm: “Vâng lạy Chúa, Ngài đã ban huấn lệnh, truyền chúng con tuân giữ vẹn toàn. Ước mong sao con hằng vững bước theo thánh chỉ Ngài ban” (Tv 119:4-5). Ước mong sao các Kitô hữu cũng luôn tâm nguyện như vậy để làm chứng về Thiên Chúa và cũng là cách sống thánh giữa cuộc đời này.

Chính nhân còn sai lầm mỗi ngày bảy lần, huống chí phàm phu tục tử, vì thế mà luôn cần ơn tha thứ của Thiên Chúa: “Xin tỏ lòng nhân hậu cùng tôi tớ Chúa đây để con được sống và tuân giữ lời Ngài. Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (Tv 119:17-18). Thật là không dễ hoàn thiện khi còn bị giằng co giữa tinh thần và xác thịt, sơ sảy một chút là “chết chắc”. Biết vậy không phải là để buông xuôi mà là để cố gắng, và không ngừng tự nhủ: “Lạy Chúa, xin dạy con đường lối thánh chỉ, con nguyện đi theo mãi đến cùng. Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ” (Tv 119:33-34).

Thông minh không phải để tự tôn hoặc làm điều gì khác người, mà là để “hết lòng tuân giữ Thánh Luật của Thiên Chúa”. Đó là sống khôn ngoan, cách sống này cần thiết lắm. Salômôn đã thực sự khôn ngoan khi ông chỉ xin ơn khôn ngoan. Ai tuân giữ Luật Chúa là người khôn ngoan, như Kinh Thánh xác định: “Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là KHÔN NGOAN và THÔNG MINH” (Đnl 4:6). Cách sống khôn ngoan cũng là cách sống thông minh, thật kỳ diệu về mối liên quan này.

Đề cập sự khôn ngoan, Thánh Phaolô phân tích: “Điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” (1 Cr 2:6-7). Thiên Chúa quan phòng và tiền định mọi sự, nhưng Ngài tiền định điều tốt, sự lành, chứ Ngài không ấn định sự dữ, điều ác. Thuyết Nhị Nguyên (Dualism) và các thuyết liên quan (như Albigensianism, Manichaeism, Priscillianism,…) là các tà thuyết đối lập với Thiên Chúa, và trái ngược với Công giáo.

Thánh Phaolô cho biết thêm: “Không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá. Nhưng, như đã chép: Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cr 2:8-10). Cách thức của Thiên Chúa luôn trái ngược với cách thức của phàm nhân: Không mà Có, Yếu mà Mạnh, Dốt mà Giỏi, Nhỏ mà Lớn, Thua mà Thắng, Chết mà Sống,…

Thiên Chúa khác hẳn đối với chúng ta về mọi thứ. Chúng ta cứ tưởng thế này rồi áp đặt hoặc khinh chê người khác, vì chúng ta suy diễn theo cách của mình, thậm chí có khi còn áp đặt cả đối với Thiên Chúa. Ngài cũng phải “chịu đựng” cái thói suy diễn của chúng ta lắm đấy.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Mt 5:17-37) có năm vấn đề – tuy ngắn gọn nhưng đầy đủ và hàm súc, tất nhiên là cũng “chói tai” nữa.

– Vấn đề thứ nhất về Lề Luật. Chúa Giêsu đến để kiện toàn luật Môsê nhưng chúng ta lại cứ tưởng Ngài đến để phá bỏ Lề Luật cũ. Chính Ngài đã xác định: “Trước khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18). Và Ngài kết luận: “Ai bãi BỎ dù chỉ là MỘT trong những điều răn NHỎ NHẤT ấy và DẠY người ta làm như thế thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (Mt 5:19). Chúa Giêsu xác định rõ ràng như vậy, nhưng trong thự tế đời thường vẫn có tình trạng “so sánh” vì chúng ta vẫn nhìn nhau bằng con mắt phàm phu tục tử, “con chiên” nào béo thì vẫn được lưu ý đặc biệt!

Để nhấn mạnh, Chúa Giêsu đòi hỏi nghiêm túc về Đức Công Chính của người môn đệ: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em KHÔNG ăn ở công chính HƠN các kinh sư và người Pharisêu thì sẽ CHẲNG được vào Nước Trời” (Mt 5:20). Ai dám vỗ ngực mình là người công chính? Vì có “máu” Pharisêu nên người ta vẫn ưỡn ngực và vỗ rất mạnh để người khác phải chú ý. Tình trạng này không hiếm thấy trong cuộc sống hằng ngày đâu!

– Vấn đề thứ nhì về Tính Giận Ghét (cũng đề cập trong Lc 12:57-59). Chúa Giêsu đưa ra Luật xưa: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Đúng, không sai. Nhưng như vậy còn tiêu cực, và Ngài muốn chúng ta phải sống tích cực: “Ai GIẬN anh em mình thì đáng bị đưa ra toà. Ai MẮNG anh em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai CHỬI anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5:22). Những lời nhẹ nhàng mà nhức nhối lắm, nếu không “nghe tai này qua tai kia”. Điều luật tích cực chắc chắn khó hơn nhiều so với điều luật tiêu cực.

Và còn hơn thế nữa, Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5:23-24). Sự thể có vẻ bình thường mà lại rất bất thường, không hề giống như chúng ta tưởng.

Cụ thể hóa vấn đề, Chúa Giêsu giải thích chi tiết: “Hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng(Mt 5:25-26). Đó cũng là bí quyết Ngài chỉ cha chúng ta cách sống đúng đắn và tích cực về đức ái, cũng chính là sống lòng thương xót vậy.

– Vấn đề thứ ba về Chuyện Ngoại Tình. Luật cũ cấm chung: Chớ ngoại tình. Chúa Giêsu rạch ròi chi tiết hơn: “Ai NHÌN người phụ nữ mà THÈM MUỐN thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5:25). Loại tội này không ai biết, chỉ có chính mình biết và Chúa biết mà thôi. Bề ngoài nghiêm nghị chưa chắc là đạo đức, cúi đầu chưa chắc là vâng phục, khúm núm chưa chắc là ngoan ngoãn,… đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Chúa Giêsu xoáy sâu và cụ thể luôn: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy MÓC mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh LÀM CỚ cho anh sa ngã thì hãy CHẶT mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt 5:25-30). Quả thật, những lời nói kiểu này rất “khó nghe”, nhưng sự thật thì mãi là sự thật, không thể khác được.

– Vấn đề thứ tư về Chuyện Ly Dị (cũng đề cập trong Mt 19:9; Mc 10:11-12 và Lc 16:18). Luật Cựu Ước dạy: “Ai rẫy vợ thì phải cho vợ chứng thư ly dị”. Tương tự, ngày nay người ta ra tòa án đời và có giấy chứng thực ly hôn là xong. Ai lo phận nấy. Nhưng đối với Chúa Giêsu thì không thể như vậy: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai RẪY vợ là ĐẨY vợ đến chỗ ngoại tình; và ai CƯỚI người đàn bà BỊ RẪY thì cũng phạm tội NGOẠI TÌNH” (Mt 5:31). Rất rõ ràng, rất rạch ròi. Tuy nhiên, tại một số Giáo Hội địa phương ở hải ngoại, cụ thể là Hoa Kỳ, có trường hợp hai vợ chồng còn sống, họ không ở với nhau mà hai người vẫn được cưới người khác. [Tôi biết một trường hợp như vậy. Phải chăng cả hai đều không khai báo thật hay có vấn đề gì?].

– Vấn đề thứ năm về Lời Thề Hứa. Chúa Giêsu tiếp tục dẫn chứng Luật cũ: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa”. Rồi Ngài ra nghiêm lệnh: “ĐỪNG thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. ĐỪNG chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. ĐỪNG chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. ĐỪNG chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5:34-37). Bốn cái “đừng” liên tiếp. Chúa Giêsu đưa ra là bốn mệnh lệnh phủ định nhằm đề cao sự thật, vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta (Ga 8:32).

Cuộc sống có triết lý riêng, đừng lo người khác không hiểu mình hoặc ghét mình, họ nhìn mình thế nào không thành vấn đề, quan trọng là bản thân mình nhận biết mình như thế nào. Cuộc đời sẽ thú vị và có ý nghĩa nếu biết SỐNG CHO, SỐNG VÌ và SỐNG VỚI người khác trong tình liên đới yêu thương – cả tình Chúa và tình người. Hãy ghi nhớ lời hứa của Thiên Chúa từ ngàn xưa: “Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng” (Gr 29:11).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết sống theo Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc. Con chỉ là một kẻ bình thường nhất trong số những người bình thường, nhưng xin đừng để con sống tầm thường, và xin Ngài gìn giữ con trong điều kiện bình thường – chứ con không dám xin điều khác thường khi Ngài không muốn. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

HÒA GIẢI

Lm. Trần Việt Hùng

Con người bản tính mỏng dòn,

Dễ dàng sa ngã, xói mòn chánh tâm.

Luật điều Chúa dậy uyên thâm,

Mở đường dẫn lối, tránh lầm thế gian.

Giết người tội ác phá tan,

Nơi tòa luận phạt, khóc than khổ sầu.

Nếu ai phẫn nộ thẳm sâu,

Trước bàn công nghị, xét hầu tội khinh.

Nói ai khùng ngốc dối mình,

Lửa thiêu địa ngục, cực hình tấm thân.

Khi dâng của lễ dự phần,

Thành tâm hòa giải, tinh thần bình an.

Ngoại tình phản bội liên can,

Tránh xa dịp tội, yên hàn tấm thân.

Tay chân mắt mũi góp phần,

Thà rằng cắt chặt, cứu thân tội đời.

Thề gian dối trá đầy vơi,

Lòng người độc ác, gọi mời đổi thay.

Có thì nói có mới hay.

Là người công chính, thẳng ngay sống đời.

Hãy làm hòa với anh em trước khi dâng của lễ trên bàn thờ. Truyện kể: Có hai ông bà già giận nhau đòi ly thân. Dù khuyên thế nào, ông già nhất định không chịu hòa giải với bà cụ. Sau lời khuyên của cha xứ, bà cụ đã sám hối, sẵn sàng bỏ qua, tha thứ và hòa giải nhưng ông chồng nhất định không chịu. Ông thì cứ khăng khăng bắt lỗi bà. Linh mục hỏi rằng vậy nếu  khi bà cụ chết trước, được lên thiên đàng, rồi sau ông cũng chết, Chúa cho ông lên thiên đàng gặp bà cụ. Ông tính thế nào? Chưa hết giận, ông liền nói: Nếu gặp bà ở đó, tôi sẽ đi ra.

Hòa giải là một ơn huệ giúp tâm hồn chúng ta thanh thản và mang lại cuộc sống an vui thư thái. Nếu chúng ta không biết bỏ qua và tha thứ những lỗi lầm cho nhau, cuộc sống tự nó sẽ trở thành gánh nặng. Chúng ta phải vác và phải mang nó đi mọi nơi. Nó sẽ âm thầm gặm nhấm cuộc đời qua cách cư xử, qua sự lộ diện và mọi biểu tỏ cuộc sống. Chúng ta cứ phải nghĩ đến nó và đau khổ với nó. Cách tốt nhất hãy rời nó lại đàng sau và tiến bước.

Truyện kể: Người Ấn Độ muốn bắt khỉ, người ta lấy một chiếc hộp rồi cắt một lỗ nhỏ vừa đủ. Để những hạt đậu rang thơm phức bên trong. Chú khỉ ta đi qua, bắt mùi, thò tay vào bốc một nắm đầy. Vì tham, chú khỉ không rút tay ra được, đành chịu đứng đó cho người ta bắt. Chỉ vì chú khỉ không muốn buông nắm mồi. Để được tự do, chú khỉ chỉ việc buông tay và chạy thoát. Cuộc đời chúng ta cũng thế, chúng ta cần buông bỏ những thứ không cần thiết để được tự do.

Trong bài phúc âm dài Chúa Giêsu dậy chúng ta rất nhiều điều và nhiều luật. Luật bác ái và  yêu thương là quan trọng nhất. Mọi điều luật đều qui về hai giới răn này là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Chúa nói rằng ai giữ và dạy người khác chu toàn lề luật là người cao trọng trong Nước Trời.

Chúa dạy rằng không được giết người, không nên phẫn nộ, không gọi anh em mình là ngốc và không rủa anh em là khùng, không ngoại tình và không thề gian dối. Nếu có chuyện bất bình, hãy làm hòa với nhau. Hòa thuận là mối phúc thật. Anh em xum họp một nhà bao la tốt đẹp, bao là sướng vui.

Hãy hòa giải với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Chúng ta sẽ tìm được nguồn vui tự tại trong an bình. Hãy hòa giải với nhau, đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Anthony Trung Thành

Đức Giê-su là mẫu gương tuân giữ Lề Luật: Ngài giữ luật nộp thế cho đền thờ như bất cứ ai (x. Mt 17, 24-27); Ngài giữ luật hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem để dự lễ vượt qua (x. Lc 2,41-42). Cả cuộc đời của Ngài đã sống theo ý Chúa Cha, Ngài nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Trước cái chết khổ hình, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin theo ý Cha đừng theo ý con”(Lc 22,44).

Đức Giê-su không những tuân giữ Lề Luật mà Ngài còn kiện toàn Lề Luật. Ngài nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”(Mt 5,17). Nghĩa là, Luật Mô-sê vẫn giữ nguyên, không thể bãi bỏ dầu một chấm một phết, nhưng luật đó được Đức Giê-su kiện toàn. Ngài kiện toàn bằng cách lấy tình thương làm nền tảng và làm kim chỉ nam cho việc tuân giữ luật. Xin được nêu lên mấy dẫn chứng sau đây:

Thứ nhất, Đức Giê-su kiện toàn luật ngày Sa-bát: Ngài đã dùng câu chuyện lịch sử trong sách Sa-mu-el (x. 1Sm 3-7) để giúp cho người Do thái hiểu được tinh thần giữ luật như thế nào, Ngài nói: “Các ông chưa đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ đói bụng? Ông vào nhà Thiên Chúa, và đã cùng thuộc hạ ăn bánh tiến. Thứ bánh này, họ không được phép ăn, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi. Hay các ông chưa đọc trong sách Luật rằng ngày sa-bát, các tư tế trong Đền Thờ vi phạm luật sa-bát mà không mắc tội đó sao?”(Mt 12, 3-5).

Chính vì chủ trương giữ luật vì tình thương nên chúng ta thấy trong ngày sa-bát: Ngài vẫn chữa lành cho người có tay khô bại (x. Mt 12,9); chữa lành cho người đàn bà bị còng lưng được đứng thẳng (x. Lc 13,10); chữa lành cho người mắc bệnh phù thũng được khỏi (x. Lc 14,1); chữa lành cho người bất toại nằm bên bờ hồ có năm dãy hành lang (x. Ga 5,1t); hóa bánh ra nhiều để nuôi hàng ngàn người dân ăn no nê (x. Ga 6,4); chữa lành cho người mù từ thuở mới sinh (x. Ga 9,16).

Tất cả những việc làm đó của Đức Giê-su nói lên việc kiện toàn lề luật của Ngài đối với ngày Sa-bát. Đúng như lời Ngài khẳng định: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát” (Mc 2,27).

Thứ hai, Đức Giê-su kiện toàn luật giết người: Luật Mô-sê dạy : “Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà”(Mt 5, 21). Còn Đức Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”(Mt 5, 22). Như vậy, Đức Giê-su không những cấm “giết” người mà Ngài còn cấm cả những thái độ “giận”, “mắng” và “chửi” anh em. Bởi vì, những hành động đó là mầm mống có thể dẫn đến việc giết người. Chính thánh Gioan đã khẳng định: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân”(1Ga 3,15).

Thứ ba, Đức Giê-su kiện toàn luật ngoại tình: Luật Mô-sê cấm ngoại tình. Đức Giê-su không chỉ cấm ngoại tình mà Ngài còn cấm cả tư tưởng ngoại tình, tức là nguyên nhân sinh ra tội ngoại tình. Chính vua Đa-vít đã phạm tội ngoại tình nguyên do từ cái nhìn (x. 2Sm 11,2). Vì thế, Ngài nói: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”(Mt 5,28). Cho nên, Ngài mời gọi chúng ta phải có hành động dứt khoát với nguyên nhân sinh ra tội giống như móc mắt, chặt tay, chặt chân vậy. Ngài nói rằng: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”(Mt 5, 29-30).

Thứ tư, Đức Giê-su kiện toàn luật một vợ một chồng: Luật Mô-sê dạy: “Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị.” Đức Giê-su cấm hẳn ly dị hoặc đa thê. Vì thế, khi có mấy người Pha-ri-siêu hỏi Ngài có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do gì không? Ngài trả lời rằng: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19, 4-6). Ngài còn cho biết rõ hơn: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mt 5, 32).

Thứ năm, Đức Giê-su kiện toàn luật lời thề: Luật Mô-sê cho phép thề, nhưng “chớ bội thề,” còn Đức Giê-su bảo: “Đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được”(Mt 5, 34-36). Sỡ dĩ Đức Giêsu cấm thề, là vì lời nói cần phải có giá trị: “Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37). 

Ngoài ra, Đức Giêsu còn kiện toàn luật ăn chay, cầu nguyện, bố thí (x. Mt 6, 1-18), luật báo thù (x. Mt 5, 38-42), luật yêu thương (x. Mt 5, 43-48). 

Như vậy, Đức Giêsu không chỉ là mẫu gương tuân giữ Lề Luật mà Ngài còn kiện toàn Lề Luật theo tiêu chí tình thương.

Ai cũng biết trong đời sống xã hội cũng như trong đời sống tôn giáo, luật lệ có tầm quan trọng rất lớn. Luật lệ để giúp cho cá nhân và tập thể sống có trật tự, có nề nếp, có nhân cách, có trách nhiệm, đồng thời ngăn chặn được cái xấu, cái ác, sự bất công. Vì thế, người sống theo luật lệ sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cá nhân và tập thể. Thánh Bênađô Viện phụ nói: “Ai giữ luật thì luật gìn giữ người ấy.” Ngược lại, người sống vô kỷ luật là người thiếu nhân cách, thiếu trách nhiệm, dễ sa vào các tệ nạn, ảnh hưởng tới gia đình và xã hội cũng như Giáo hội. Tác giả sách Huấn ca trong bài đọc I cho chúng ta biết: Con người có tự do để lựa chọn hay khước từ các điều răn của Chúa, nhưng ai nấy đều phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Giữ luật Chúa thì được sống, khước từ luật Chúa thì phải chết (x. Hc 15, 16-21).

Người kitô hữu chúng ta được mời gọi tuân giữ Lề luật, đặc biệt là luật Chúa. Vì “Sống theo luật là sống theo Chúa.” (Thánh Grêgôriô). Nhưng chúng ta tuân giữ luật Chúa như thế nào? Phải tuân giữ luật Chúa với tinh thần của Đức Giê-su, đó là giữ luật vì tình thương và lòng yêu mến. Tránh tình trạng giữ luật theo kiểu biệt phái và luật sĩ: Giữ luật theo hình thức bên ngoài mà trong lòng trống rỗng hay chỉ giữ những điều phụ thuộc mà quên đi những điều chính yếu, giữ những luật nhỏ nhặt mà quên đi công bình bác ái yêu thương.

Lạy Chúa, xin cho con biết giữ luật Chúa với tinh thần yêu mến. Amen.

Về mục lục

.

LUẬT SỐNG VIÊN MÃN

AM. Trần Bình An

Hoàng Việt luật lệ hay còn được biết đến với tên Hoàng triều luật lệ, Quốc triều điều luật, Nguyễn triều hình luật, bộ luật Gia Long là bộ luật chính thức của Việt Nam thời đầu nhà Nguyễn do Bắc thành Tổng trấn Nguyễn Văn Thành soạn thảo và vua Gia Long  cho ban hành năm 1815.

Luật Gia Long được sử dụng trong suốt thời nhà Nguyễn,  rồi dùng tiếp ở Trung Kỳ trong thời Thực dân Pháp  chiếm đóng Việt Nam. Gồm có 398 điều và 30 điều tỷ dẫn, chép trong 22 cuốn. Có sáu thể loại do ứng với việc sáu Bộ: Lại, Công, Lễ, Hộ, Binh, Hình phụ trách.

Lại luật là những quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại; Công luật quy định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm; Lễ luật quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình; Hộ luật quy định về quản lý dân cư và đất đai; Binh luật quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng; Hình luật quy định về các tội danh và hình phạt. Trong 398 điều của Luật Gia Long, có 166 điều về hình luật, 66 điều về hộ luật, 10 điều về công luật. Một số điều trong Hộ luật đã được cụ thể thành chính sách kinh tế của nhà Nguyễn. Từ việc phân chia các điều luật, có thể thấy rằng nhà Nguyễn rất quan tâm tới pháp luật trong quá trình trị nước, đặc biệt là yếu tố hình luật được đề cao, thể hiện sự hà khắc của Luật Gia Long, với mục đích bảo vệ quyền lợi và địa vị của vương triều (ThS. Đỗ Việt Hà, Pháp luật Triều Nguyễn)

Bộ Luật Gia Long tuy đã giữ cho đất nước ổn định bền vững, nhưng cũng chỉ là nhất thời, rồi cũng bị phũ phàng xoá sổ cùng quốc gia bị xâm chiếm. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu công bố những điều luật căn bản, đạo đức, mẫu mực, bất biến, để con người hưởng hạnh phúc trường sinh trong Nước Trời vĩnh cửu.

Luật yêu thương

Luật Môise đã dẫn dắt dân Do Thái thoát khỏi luật rừng, đem lại nhân phẩm cho người dân. Nhưng Đức Giêsu muốn nâng cấp lề luật, hướng con người lên tầm cao mới, tốt lành hơn, thánh thiện hơn. Đó là lòng nhân ái, yêu thương, khoan dung, độ lượng, xoá tan đi sự ác, bất nhân, đố kỵ, hận thù, ganh ghét, kỳ thị, phân biệt, chia rẽ. “Còn Ta, Ta bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là ‘ngốc’, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là ‘khùng’, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục.”

Người còn kêu gọi yêu thương, tha thứ, làm ơn và cầu nguyện cho người thù oán, thủ ác, hãm hại, hành hạ và giết mình, như gương sáng của chính Người.“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc 6, 27-28) 

Luật lương tâm

Luật cũ thường xét xử theo những hậu quả xấu do đương sự đã gây ra. Còn Luật mới của Đức Giêsu xét xử ngay từ căn nguyên, nguồn gốc sự dữ, ngay từ trong lòng dạ, thâm tâm mỗi người. Luận phạt từ ngay những âm mưu đen tối, những ham muốn lệch lạc, ý đồ hãm hại. “Còn Ta, Ta bảo các con: Hễ ai nhìn xem phụ nữ mà ước ao phạm tội với họ, thì đã ngoại tình với họ trong lòng rồi.”

Hơn nữa, Người nêu ra cách ngăn chận, tiêu diệt sự dữ ngay từ khởi sự, tích cực và sâu sắc, hơn những hình phạt thông thường. “Nếu con mắt phải của con nên dịp tội cho con, thì hãy móc nó mà ném xa con; vì thà mất một chi thể còn lợi hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con; vì thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.” Tuy những điều đó thực hành khó khăn, gần như bất khả thi, Đức Giêsu muốn đòi hỏi con người phải dũng mãnh từ bỏ mình, kiên quyết, hy sinh, dẫu rất đau đớn, để có thể chế ngự, hoàn toàn làm chủ bản thân trước cám dỗ rất hấp dẫn, ngọt ngào.

Luật công chính

Đức Giêsu công khai truy ra đích danh nguồn cội của sự dối trá: “Ma quỷ là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối.” (Ga 8, 44) Vì vậy, Người đòi hỏi con người, con cái sự sáng phải sống công chính, chánh trực, không thể chấp nhận sự man trá, gian xảo trong tư tưởng, lời nói, lẫn việc làm. “Nhưng lời nói của các con phải là: Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra.”

Luật công chính không có điều khoản ấn định thế nào là minh bạch, nhưng bàng bạc ẩn hiện trong suốt sinh hoạt thường ngày, qua ứng xử, hành động, ăn nói. Có thể đánh lừa cả thiên hạ, nhưng không ai qua mặt được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự kín nhiệm ở đời. “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 5, 20)

“Cái gì làm con xa Chúa, hãy hy sinh nó đi: “móc mắt, chặt tay cưa chân…” (Đường Hy Vọng, số 162) 

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến kiện toàn Lề Luật, bằng những Luật Mới, như yêu thương, lương tâm và công chính. Xin dạy chúng con thấu hiểu, thấm nhuần và kiên trì tuân giữ Luật Mới, hầu chúng con xứng đáng là con cái sự sống.

Khấn xin Mẹ cầu bầu, giúp đỡ chúng con luôn trung thành tuân giữ những Giới Răn Mới của Chúa Kitô trong mọi nơi, mọi lúc. Amen.

Về mục lục

.

KIỆN TOÀN LỀ LUẬT

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI/TN-A – Mt 5, 17-37) trình thuật về vấn đề “Đức Giê-su kiện toàn luật Mô-sê”. Luật Mô-sê là luật gì mà Đức Giê-su phải kiện toàn? Xin sơ lược về Luật Mô-sê: Trong Kinh Thánh, sau trận lụt đại hồng thủy, “Thiên Chúa phán với ông Nô-ê và các con ông đang ở với ông rằng: “Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi, kể cả dã thú. Mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa. Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất. Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa. Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ở trên mặt đất.” (St 9, 8-16).

Sau đó, Thiên Chúa cứu dân Israel thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Ra khỏi Ai Cập, dân Chúa đi vào rừng vắng, họ đi rất vất vả, nhưng được Thiên Chúa lo lắng mọi sự: cho họ ăn Man-na và chim cút, uống nước từ tảng đá. Dân Chúa cắm trại dưới chân núi Si-nai. Mô-sê theo lời Chúa, bảo dân tắm rửa sạch sẽ, rồi ông lên núi. Đến ngày thứ ba, sấm chớp kinh hoàng và một đám mây che phủ đỉnh núi. Chúa hiện xuống trên núi, toàn dân run sợ. “Ông Mô-sê bảo dân: “Đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đến là để thử thách anh em và làm cho anh em luôn luôn kính sợ Người, ngõ hầu anh em đừng phạm tội.” Dân đứng xa xa, còn ông Mô-sê thì tiến lại gần đám mây đen, nơi Thiên Chúa đang ngự. ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy xuống cảnh cáo dân đừng kéo nhau lên để xem ĐỨC CHÚA, kẻo nhiều người phải lăn ra chết. Ngay các tư tế đến gần ĐỨC CHÚA cũng phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, kẻo bị ĐỨC CHÚA đánh phạt.”

Cuối cùng Thiên Chúa thiết lập bộ Luật Giao Ước (Xh 19, 1-25; 20, 1-25). Giao ước là cam kết giữa Thiên Chúa và dân Israel được thiết lập ở núi Si-nai. Tại đây, Thiên Chúa nhận dân Israel làm dân riêng và hứa sẽ che chở họ, còn dân thì hứa trung thành thờ phượng một mình Thiên Chúa và tuân giữ lề luật do Người ban truyền. Mười điều luật Giao ước được Thiên Chúa khắc trên hai bia đá. Ông Mô-sê đã làm một cái hòm để đựng, gọi là Hòm Bia Giao Ước hay Khám Giao Ước. Hòm Bia được đặt ở trong lều trung tâm trại của Israel được gọi là Lều Giao Ước. Mười giới răn trong Giao ước bao gồm: Ba điều răn đầu là luật phải giữ với Thiên Chúa, bảy điều răn sau là cách cư xử giữa con người với nhau. Nói cách cụ thể, Giao Ước Si-nai chính là điều răn trọng nhất mà về sau Đức Giê-su truyền dạy: “Mến Chúa yêu người” (Mt 22, 35-40; Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28).

Đó là tóm lược lề luật mà Thiên Chúa ban cho It-ra-en thông qua Giao ước Si-nai, mà về sau Mô-sê diễn tả thành bộ luật (quen gọi là Luật Mô-sê). Khi diễn tả, tất nhiên cũng có xen vào ý chủ quan của nhà làm luật. Một ví dụ điển hình là trong “Bài giảng trên núi” (Mt 5, 1-48), Đức Ki-tô có nhắc lai một điều luật khắt khe trong Luật Mô-sê: “Mắt đền mắt răng đền răng” (với ngụ ý giữ luật công bằng). Thực chất điều này trong Giao ước Si-nai (Xh 21, 12-25) là: “Giết người không có mưu tính trước (“ngộ sát”) thì được tha, nhưng cố tình (“cố sát”) thì sẽ bị giết chết. Đánh đập gây thương tích nhưng không làm chết người, vẫn được tha; nhưng phải bồi thường thiệt hại cho người bị đánh (do nghỉ làm việc và tiền thuốc thang). Rõ ràng Giao ước Si-nai không quá khắt khe như luật Mô-sê; và vì thế Đức Ki-tô mới dạy: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm… Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5, 38-44).

Ngoài ra, còn một nguyên do khác khiến Đức Giê-su phải kiện toàn luật Mô-sê, đó là: Những kinh sư và luật sĩ Pha-ri-sêu chống đối Đức Giê-su vì cho rằng Người chống lại Lề Luật (vd: không rửa tay trước khi ăn – Mc 7, 1-8; bứt lúa ăn ngày sa-bát – Mc 2:23 -28; hoặc chữa bệnh trong ngày sa-bát – Mc 3:1-6). Người Do-thái bị ảnh hưởng nặng nề bởi những giáo lý khắt khe của nhóm kinh sư Pha-ri-sêu, nên bất cứ một điều gì luật Mô-sê ngăn cấm thì họ đều tuân giữ triệt để. Đám người luật sĩ Pha-ri-sêu đã quên mất (hoặc cố tình bỏ qua) điều quan trong trong Giao ước của Thiên Chúa, đó là Người vẫn luôn tôn trọng sự tự do của con người trong khi thi hành luật lệ. Người đã dạy: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó. Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả. Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội.” (Hc 14, 16-20).

Tất cả những điều phân giải trên cho thấy Đức Giê-su không hề có ý bãi bỏ luật Mô-sê. Người thấy trong luật Mô-sê có những điều luật không phản ánh đúng tinh thần Giao ước Si-nai, nên Người mới phải lên tiếng, cốt ý để kiện toàn mà thôi (“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” – Mt 5, 17-18). Mới thoạt nghe, không hiểu vì sao Đức Ki-tô lại nói về vấn đề bãi bỏ hay kiện toàn Lề Luật, nhưng đọc tiếp câu sau (“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” – Mt 5, 20), thì hiểu ra là Người muốn nhắc đến đám luật sĩ, kinh sư và người Pha-ri-sêu.

Đó là đám người chuyên vỗ ngực tự cho mình là người thông luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật cách nghiêm chỉnh. Đáng tiếc là họ “nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào”, và nhất là “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23, 3-5). Hơn thế nữa, họ vẫn cho rằng Đức Giê-su chống lại Lề Luật (cụ thể là luật Mô-sê), và họ đã liên tục đem Lề Luật ra gài bẫy Người (“các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.” – Lc 11, 53-54). Họ luôn tìm những chứng gian để có cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59).

“Các nhà thông luật kinh sư và Pha-ri-sêu” rất đáng nhận những lời khiển trách này: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.” (Mt 23, 23-24). Họ tự cho là mình thông luật, muốn dùng luật lệ để dạy dỗ hướng dẫn người khác, nhưng khi hành động và nhất là cư xử với những người xung quanh, thì họ lại chứng tỏ họ là “quân dẫn đường mù quáng”. Dẫn đường mù quáng thì có khác gì “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6, 39). Thực ra, những người ấy không phải là không biết mình đang làm gì. Họ rất thông luật, miệng thì leo lẻo luật lệ, nhưng khi thực hành thì “Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.” (Lc 11, 46). Họ “đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.” (Lc 11, 52).

Quả thật những nhà thông luật “mồm loa mép giải” đã cố tình quên mất điều căn bản của Lề Luật là những lý luận mang tính răn đe, nhằm giúp con người trở nên hoàn thiện; nó chỉ thực sự có ích khi người ta đem ra thực hành. Nói (lý thuyết) mà không làm (thực hành) thì chỉ là thứ “thùng rỗng kêu to” mà thôi. Trong khi đó, đám kinh sư và Pha-ri-sêu dạy người ta cách giữ Luật để được khen ngợi chứ không phải để được nên hoàn thiện. Họ chỉ giữ cái vỏ bên ngoài mà cố tình quên đi cái cốt lõi bên trong (“Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” – Lc 11, 39). Họ chỉ nói mà không làm, hoặc nói một đàng làm một nẻo, “ngôn hành bất nhất”, nên Đức Giê-su mới dạy: “Vậy tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm hãy giữ; còn những việc họ làm thì đừng có làm theo.”

Với chủ định ấy, Đức Giê-su đã liên tục đưa ra 6 Lời khuyên: Đừng giận ghét, Chớ ngoại tình, Đừng ly dị, Đừng thề thốt, Chớ trả thù, Phải yêu kẻ thù. Trước hết là lời khuyên “Đừng giận ghét”: Con người khi đứng trước những mối bất hoà thường có 2 thái độ, hoặc nổi sùng tìm cách chống cự, hoặc thoái lui theo kiểu “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Chống cự, trả thù ư? Ca dao VN có câu “Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, Đánh được người thì mặt vàng như nghệ”. Mặt đỏ như vang thì hách lắm, cứ như Quan Công ấy! Nhưng mặt vàng như nghệ thì hẳn là …không giống ai! Tức giận quá độ thì mặt đỏ bừng bừng, quyết một trận sống mái. Đánh người bị thương tật, thậm chí có thể tử vong, thì mình tránh sao khỏi vòng tù tội. Ấy là chưa kể mình đánh người, bộ người không biết đánh trả sao? Nếu người khoẻ hơn mình và trả đòn, hoặc nếu người không chống trả được, nhưng liệu con cháu người ta có để yên cho mình không? Chắc chắn phải tù tội, hoặc có thể bị trả thù, xin tí huyết, mặt lúc đó không “vàng như nghệ” thì còn “đỏ như vang” làm sao được nữa.

Đừng ngoại tình ư? Khó lắm! “Văn mình vợ người”, viết văn thì chỉ thấy văn mình là hay, còn văn thiên hạ là đồ bỏ; nhưng đối với người bạn đời thì lại thấy thua xa vợ hàng xóm. Thế đấy! Làm sao tránh khỏi tội ngoại tình khi trong tư tưởng đã như thế! Nên chi “ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 28). Đã có một truyện cổ kể rằng: Các bà phải mang nặng cái bào thai tới 9 tháng 10 ngày, đến khi sinh đẻ thì lại đau đớn tưởng chừng muốn đứt hơi, bèn bàn nhau lên xin Thương đế cho các bà chỉ chịu mang nặng thôi đã quá đủ, còn khi sinh nở thì để các ông đau đớn cho biết mùi. Thượng đế xét thấy cũng hợp lý và chấp thuận. Từ đó, mỗi khi các bà sinh đẻ, thì đức lang quân quằn quại kêu la; nhưng khổ một nỗi, không thiếu những trường hợp vợ ông A sinh, mà ông B lại quằn quại đau đớn. Phu nhân nhà sinh, đức lang quân hàng xóm đau, ấy mới kẹt! Thế là các bà lại lũ lượt kéo lên xin Thương đế cho “ai đẻ thì người ấy đau”. Kể cũng thú vị.

Cứ tưởng ở cái thời đại được gọi là văn minh phù phiếm này mới có nhiều cảnh cười ra nước mắt, thực không ngờ cách đây hơn 2.000 năm, ngoại tình đã làm xốn mắt Đấng Cứu Thế, và còn xa hơn thế nữa, bởi đến ngay như vua Đa-vit (cách Đức Giê-su tới 42 đời – Mt 1, 17-18) đã vợ con đùm đề (Sb 3, 1-9), mà cũng cầm lòng không được trước cảnh vợ của U-ri-gia, người Khết – một tướng quân thuộc quyền nhà vua – đang tắm, rồi thì cướp vợ và đầy chồng người ta ra biên ải, để mượn tay quân thù sát hại (2Sm 11, 10-26). Thế đấy! Quả thực, vấn đề ngoại tình là truyện dài từ xưa tới nay không có hồi kết. Bệnh ngoại tình đã trở thành bệnh mãn tính cổ kim thời đại, và có lẽ hơn ai hết, Đức Ki-tô biết rõ con người là như thế, nên Người đã không kết án người đàn bà ngoại tình; chẳng những thế, Người còn cứu chị ta thoát khỏi nhục hình “ném đá cho tới chết” như lụât Mô-sê thời đó (Ga 7, 2-11).

Rồi cũng từ cái “văn mình, vợ người” đi tới chỗ “chán cơm thèm phở” cũng chẳng bao xa và tếch thêm một bước nữa mấy hồi, khoái rẫy vợ là cái chắc! Ngày xưa thì còn hiếm chứ ngày nay thì đầy rẫy, mà cũng không thiếu những quốc gia chấp nhận, khuyến khích việc ly dị, khiến xảy ra biết bao thảm cảnh nhà tan cửa nát. Chia của, chia con, chia đủ thứ, rồi thì “Anh đi đường anh, tôi đường tôi. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi” (Thế Lữ). Rốt lại, cũng không đi ra ngoài Lời dạy của Đức Giê-su: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.” (Mt 5, 32). Chung quy cũng lại là ngoại tình, vậy mà còn được đời khen là ông ấy (bà ấy) có số đào hoa nữa cơ đấy!

Đến như thề thốt thì xưa và nay cũng đều coi đó như một cách minh hoạ cho lời nói chứng tỏ sự thật. Nói về một vấn đề gì, phải thề mới được người ta tin. Người chân chính mà thề thì chẳng nói làm gì, mà có lẽ cũng vì thế nên Luật Mô-sê mới khuyên “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa” (Mt 5, 33). Nhưng phần lớn – không, phải nòi là hầu hết mới đúng – những người dối trá, lươn lẹo, mới hay thề thốt, phần thì để che giấu cái xấu của mình, phần thì có thể lợi dụng lòng tin của người khác để lừa phỉnh, lường gạt. Ấy cũng bởi con người thích sự dối trá hơn là sự thật, thích khen hơn là chê, nên mới khoái thề thốt. Tuy nhiên, thề mà “thề cá trê chui ống” (tục ngữ VN) thì cũng trớt quớt (1) và… huề cả làng. Đó mới chỉ nói về mặt nhân sinh, nhưng còn mặt chính trị, kinh tế, xã hội, thì chẳng cần nói đâu xa, mà ngay ở cái nước VN lắm chuyện này, cũng nhan nhan cảnh ấy. Thực không thể ngờ được đến những người cầm cân nảy mực, quyết sách quốc gia, cũng đặt tay lên hiến pháp mà thề nhăng, hứa cuội! Ôi chao! Chỉ trời, chỉ đất, chỉ lên đầu, còn chỉ cả vào thần thánh mà thề nữa kia. Khiếp chưa? Chính vì thấy con người là như thế, nên Đức Ki-tô mới dạy: Đừng thề thốt.

Đức Giê-su muốn các môn đệ cũng như những kẻ tin theo Người hiểu rằng việc tuân giữ Lề Luật để làm đẹp lòng Thiên Chúa, cốt ở hành động chớ không phải chỉ lý thuyết suông. Thật vậy, “khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống. Nếu việc phục vụ Lề Luật – thứ Lề Luật chỉ đưa đến sự chết và được khắc ghi từng chữ trên những bia đá – mà được vinh quang đến nỗi dân Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi vinh quang – dù đó chỉ là vinh quang chóng qua – thì việc phục vụ Thần Khí lại không được vinh quang hơn sao? Vì việc phục vụ án chết mà còn được vinh quang như thế, thì việc phục vụ đức công chính lại chẳng vinh quang hơn lắm sao? So với vinh quang tuyệt vời này, thì vinh quang xưa kia chẳng vinh quang gì. Thật vậy, nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang, thì cái còn mãi lại chẳng vinh quang hơn sao?” (2Cr 3, 6-11). Đức Giê-su “không bãi bỏ mà chỉ kiện toàn Lề Luật” chính là vì thế.

Nói tóm lại, giữ luật là để biểu lộ tâm tình con thảo đối với Thiên Chúa là Cha, Đấng muốn cho chúng ta cũng được trở nên hoàn thiện như chính Người. Do đó, giữ luật là sống mối quan hệ yêu thương, chứ không phải là việc làm vì ép buộc. Tình yêu đích thực không bao giờ là áp đặt, vì thế Lời dạy của Đức Ki-tô chỉ “khuyên” chớ không “buộc”. Chúa luôn mong muốn người tín hữu hôm nay hãy thành thực xét lại vấn đề tuân giữ Giáo luật. Ôi! “Lạy Chúa Giêsu, “Chúa đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn”. Xin cho chúng con ngày càng tuân giữ luật Chúa cách trọn hảo, để được vào Nước Chúa hưởng phúc muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Danh Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện Giáo dân Thánh lễ CN.VI/TN-A).

————————

Chú thích : (1) Theo Từ điển mở (Wiktionary), “Trớt quớt” là tiếng nói địa phương (miền Nam VN) thường được dùng một cách cảm thán, để chỉ tình trạng sau những nỗ lực bỏ ra chỉ thu được kết quả hoàn toàn không thỏa một phần nhỏ nào của ý định ban đầu, hoặc để chỉ chiều hướng diễn biến của đàm luận hoàn toàn sai trệch với định hướng ban đầu.

Về mục lục

.

CHÚA KITÔ, ĐẤNG KIỆN TOÀN LỀ LUẬT

Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

            Chuyện kể rằng: “Nước Sở có người bái mâu và cái thuẫn. Y khoe rằng: “Cái mâu của tôi rất nhọn, cái gì đâm cũng thủng”. Đến khi quảng cáo đến cái thuẫn, y nói: “Cái thuẫn của tôi cứng lắm, có thể ngăn cản được mọi thứ binh khí, không có cái gì đâm thủng nó được”. Có người hỏi: “Vậy, nếu dùng cái mâu của anh để đâm vào cái thuẫn của anh thì sao?”. Người kia không thể nào trả lời được. Vì thế, những điều trái ngược nhau thì gọi là mâu thuẫn.”

            Đọc Phúc âm, ta thấy Chúa Giêsu xem ra đôi khi cũng mâu thuẫn với chính mình. Số là Ngài coi thường lề luật, thậm chí có lúc Ngài cố tình vi phạm lề luật.

            Chẳng hạn, ngày Sabbat phải kiêng việc xác, thì Ngài nhè đúng ngày Sabbat để chữa bệnh. Ngày Sabbat không được đi bộ lâu, Ngài và các môn đệ đi bộ qua cánh đồng, lại bứt lúa miến mà ăn.

            Chẳng hạn luật dạy người Do thái phải rửa tay trước khi ăn, Ngài và các môn đệ ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay trước. Những hành động ấy, trái luật Môisen, lại ngang nhiên phạm luật trước mặt bọn biệt phái, luật sĩ, nên chúng mới ghét và tìm các cách thủ tiêu Ngài.

            Một mặt Ngài vi phạm luật, mặt khác Ngài lại là Đấng bảo vệ lề luật. Phúc âm hôm nay Ngài đã không tuyên bố rõ ràng để bảo vệ lề luật là gì? “Ta đến không phải là để phá lề luật, mà để kiện toàn lề luật và lời các tiên tri”.

            Vậy phải hiểu thế nào trước những việc làm có vẻ mâu thuẫn của Chúa?

            Nên nhớ, Đức Kitô tuyên bố Ngài là Đấng kiện toàn lề luật. Kiện toàn ở đây không có nghĩa là giữ luật một các tỉ mỉ, chín chắn, đầy đủ, mà có nghĩa là làm trọn, làm cho lề luật có đầy đủ ý nghĩa của nó.

            Ngược dòng lịch sử Cựu ước, ta biết Thiên Chúa đã tuyển chọn cho Ngài một dân tộc làm dân riêng để cho họ được sống hạnh phúc. Ngài đã ban 10 giới răn của Ngài qua Môisen, trên núi Sinai. Mỗi giới răn ấy vừa có tính cách cấm kỵ làm điều ác, vừa có tính cách khuyến dụ làm điều lành. Những kẻ thuộc về Chúa, không được phép vi phạm, hoặc vượt qua 10 giới răn ấy được. Mười giới răn ấy, mới chỉ là những điều tổng quát. Cho nên, vẫn có những khoảng trống mà người ta có thể lạm dụng lỗi phạm được. Vì thế, các nhà lãnh đạo tôn giáo trong dân Do thái đã lấp cho đầy những khoảng trống ấy bằng rất nhiều điều luật tỉ mỉ họ đặt ra.

            Đến đời Chúa Giêsu, người ta đã quá vụ luật, đã quá nặng hình thức giữ luật. Nhất là những luật tỉ mỉ thì đề cao, còn điều quan trọng, chính yếu xem ra lại bỏ sót! Nên Chúa Giêsu đã phàn nàn với các biệt phái và luật sĩ thông luật rằng: “Các ngươi chồng chất lên vai kẻ khác những gánh nặng, còn các ngươi không muốn dùng ngón tay lay thử”.

            Cũng chỉ vì thấy người ta chỉ giữ những chi tiết nhỏ mà bỏ qua những điều quan trọng trong luật, nên Chúa Kitô đã tuyên bố: “Ta đến để kiện toàn lề luật”. Kiện toàn là làm cho trọn, làm cho lề luật đầy đủ ý nghĩa hơn.

            Có lần bọn biệt phái và luật sĩ bắt bẻ Chúa Giêsu rằng Ngài đã lỗi luật vì chữa bệnh trong ngày Sabbat. Ngài đáp lại: “Trong ngày Sabbat, giả sử ai trong anh em có con bò rơi xuống hố, anh em có lôi nó lên ngay chăng? Ngày Sabbat không được phép làm việc lành sao?”.

            Như thế, Ngài nhắc cho họ biết giữ luật bác ái (việc cứu chữa người) quan trọng hơn luật giữ ngày Sabbat. Và một lần kia, người ta điệu đến trước mặt Chúa Giêsu một người phụ nữ bị bắt quả tang vì phạm tội ngoại tình. “Cứ theo luật Môisen hạng phụ nữ như thế phải bị ném đá, còn Thầy, Thầy xử thế nào?”. Nếu Chúa tha bổng cho chị thì Chúa vi phạm luật Môisen. Nếu Chúa kết tội chị, thì Chúa lỗi đức bác ái, điều Chúa đang đề cao. Họ gài bẫy Chúa.

            Nhưng Chúa Giêsu thật khôn ngoan. Ngài không để rơi vào bẫy của họ, Ngài nói: “Ai vô tội hãy ném đá chị này đi?”.

            Như vậy, Chúa đã kiện toàn lề luật bằng cách đề cao luật bác ái. Bác ái là phải sẵn sàng tha thứ cho anh em, nếu muốn được Chúa thứ tha.

            Giới răn thứ năm của Chúa là chớ giết người. Nhưng không phải không giết người là đã hoàn hảo? Muốn giữ luật bác ái hoàn hảo còn phải tích cực giúp đỡ anh em, sẵn lòng tha thứ cho anh em những lầm lỗi và tha thứ cho cả kẻ thù của mình nữa.

            Trong một góc phố nọ có đám trẻ bụi đời. Đứa đứng đầu đám ấy tự xưng là đại ca. Nó nói với đàn em: “Hôm nay thứ sáu tuần thánh, tao hy sinh không hút thuốc lá”. Đang khi đó, nó móc túi, giựt đồ, ăn cắp, chửi thề, đâm chém kẻ khác để cướp của.

            Khi giữ lề luật, chỉ giữ những điều tỉ mỉ, mà quên đi điều chính yếu, quan trọng là một thiếu sót lớn.

            Cũng có một bà nọ rất đạo đức: chăm chỉ đi dự lễ, đọc kinh ran ran, đeo tràng hạt dài,… Thế mà nhỡ có ai xúc phạm tới bà, bà không tiếc lời chửi rủa! Giữ đạo theo những cách thức ấy chỉ là giả dối!

            Thánh Phaolô dạy: “Dù bạn nói được mọi thứ tiếng của loài người, nếu bạn không có đức bác ái, bạn chỉ là con số không”.

            Xin Chúa giúp chúng con sống đạo một cách trưởng thành: Yêu Chúa vì Chúa chứ không phải vì người đời. Và xin cũng giúp chúng con trung thành tuân giữ các giới răn của Chúa, nhất là biết bác ái đối với anh em. Chúa dạy: “Cứ dấu này mà người ta biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con hãy yêu thương nhau”.

Về mục lục

.

LUẬT

P. Trần Đình Phan Tiến

Kính thưa quý vị,” Luật “là hàng rào che chắn , bảo vệ, cứu vớt, tar3 lại công bằng, minh bạch cho “ nạn nhân “. Như vậy, “ luật “ gọi là “ chiếc lưới”. Ngoài luật trần gian do con người tạo lập, người ta gọi là ” lập pháp”, từ những căn cứ thức tế, người ta tích lũy , đúc kết , cùng với thời gian, lịch sử nước sở tại và thế giới, cùng với tri thức và sử sách, người ta soạn thảo, rồi đưa ra một “ đạo luật “, sau đó đưa ra lấy ý kiến, gọi là trưng cầu công khai, dân ý. Sau cùng, do một cơ quan cao nhất gọi là Quốc Hội thống nhất ban hành.

Ngày nay, ngày càng tiến bộ, văn minh là nhờ vào việc thực thi pháp luật. Pháp luật dành cho người dân, nên gọi là “ tư pháp”, đứng đầu ngành tòa án là “Bộ Tư Pháp”, luật dành cho Đất Nước, cho Quốc Gia gọi là ” Hiến Pháp”. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc ngày càng kiện toàn hiến pháp và luật pháp. Nhưng, thực tế không “tròn trịa” như vậy, người ta cũng “bóp méo” hiến pháp và luật pháp để tư hữu bất chính, để “ lợi ich nhóm “, bòn rút của nhân dân, dẫn đến bất công, ta thán.

Như vậy, khi “ luật”  trần gian xử lý bất công, bất minh thì sao ?! Thưa, phải có “ LUẬT TRỜI”. Như vậy, luật pháp là  “phương tiện “ rất gần gũi với con người, không thể tách rời. Vì ngay từ đầu Sáng Thế, Thiên Chúa đã ban hành luật pháp. Luật đầu tiên chính là ” Lời Chúa”. Qủa thật, nếu chúng ta tuân giữ Lời Chúa, thì Lời Chúa chính là ” ÁNH SÁNG “ cho chúng ta, vì “ Lời Chúa là đèn soi cho con bước , là ánh sáng chỉ đường con đi” ( Tv 118). Nếu chúng ta có ánh sáng Lời Chúa chỉ đường, thì chúng ta sợ gì luật trần thế. Vì, luật pháp dung xử lý cho kẻ “ phạm luật “, chứ luật pháp không xử lý người “ vô tội”. Nhưng, nhiều khi, “ luật” trần thế cũng xử luôn người vô tội, như “ luật pháp của Việt Nam “, nhìn đâu cũng thấy có tội “phạm pháp ”.

Thiên Chúa chỉ có một “ luật “ duy nhất đó là ” tình yêu “ dành cho con người, luật tình yêu bao trùm tất cả cho kẻ dữ, cũng như người lành. Như vậy, mọi luật pháp dưới bầu trời nầy đều quy về Thiên Chúa. Vì vậy, không có luật nào của trần thế xây dựng và ban hành một cách chính đáng mà không dó bởi “ LUẬT TRỜI”. Nhưng, mỗi Quốc Gia đều có quyền độc đóan riêng, đều có những động thái hành xử trái hiến pháp và Pháp Luật. Họ cứ nghĩ “ quyền “ cầm quyền là thượng sách, tối thượng, hay tối cao, họ gạt bỏ Thiên Chúa, hầu cai trị như một thế độc tôn hữu hình duy nhất mà không cần biết đến sự siêu nhiên, quyền năng vô biên của Thượng Đế.

Vì thế, dù vậy, Thiên Chúa vẫn dạy chúng ta “ tôn trọng ” nhà cầm quyền, luật pháp trần gian. Chúng ta không có quyền đứng lên lật đổ chính quyền, gây bạo động, dùng vũ trang, vũ lực. Vì , mọi quyền hành dưới trần thế nầy không nằm ngoài Quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa.

Trở về với Cựu Ứơc, chúng ta thấy, sau khi loài người phản nghịch, Thiên Chúa đã chọn cho Ngài một “ dân riêng “. Sách Đệ Nhị Luật là một trong năm cuốn sách Thánh Kinh đâu tiên , gọi là “Ngũ Thư” . Nhưng, Đệ Nhị Luật là sách luật dành cho sự “công bằng” theo sự “ trả đũa”. Mắt đền mắt răng đền răng. Trở thành một thứ luật trong dân tộc Dothai như một thứ “ gông cùm “ xiềng xích, chứ không phải như một “ân sủng”. Từ đó, chúng ta thấy “ân sủng” từ Thiên Chúa ban xuống trên con người , dường như bị “ bóp nghẹt”, con người sống trong sự “sòng phẳng” ăn thua một mất , một còn, dẫn đến một xã hội loài người như “xã hội đen”, tình yêu của Thiên Chúa hầu như m” phản tác dụng”. Vì thế, họ mong mỏi ơn Cứu Độ, một ơn mà được Thiên Chúa “ Hứa” từ ngàn xưa, để cứu thoát dân tộc Dothai.

Vì cứ “ mắt đền mắt, răng đền răng”, thì sự sống teo tóp, nguồn sống là Thiên Chúa sẽ bị lu mờ, không còn chiếu tỏa được.

Vì thế, hôm nay đây một lần nữa, chúng ta cùng suy niệm lại đoạn Tin Mừng ( Mt 5, 17 -37), Chúa Giêsu nói : “ Ta đến không phải hủy để bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn “ ( c 17).

Tại sao vậy ? thưa quý vị, thưa : vì là Luật của Thiên Chúa dành cho con người và vì con người, nhưng ban hành qua con người, vì thế cái luật  “đó “không chuyển tải, không thông ban xuyên xuốt tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại được. Vì vậy, Đấng Cứu Thế đến là để kiện toàn, kiện toàn lề luật là kiện toàn tình yêu bởi Thiên Chúa. Kiện là : làm cho mạnh lên, cho chắc chắn, bền vững. Toàn là : làm cho đầy đủ, hoàn toàn. Như vậy, Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật, làm cho nó “ thông suốt” hầu để nguyên lý tình yêu là chính Thiên Chúa được lan tỏa.

Theo đó, Muối và ánh sáng là chủ đề khai dẫn chủ đề lề luật tuần này. Như chúng ta biết, muối có vị mặn là để làm chắc lên, làm cho mạnh mẽ, như vậy muối góp phần tạo nên “sức mạnh”. Và như vậy, “muối “ có tính chất “kiện toàn “. Ánh sáng là để tỏa sáng, làm chiếu tỏ những nơi tăm tối. Như vậy, Chúa Giêsu nêu bật giá trị của muối và ánh sáng là nêu bật giá trị tình yêu nơi Thiên Chúa. hầu làm chó “Tình yêu “ phát sinh nguồn sống. D9inh5 nghĩa tình yêu là :” thông ban”, ban 3cha61t tình yêu là : nguồn sống. Vì vậy, mới nói Thiên Chúa là Tình Yêu. Theo đó, tính dục chỉ là một phần của tình yêu thuần túy, chứ tính dục không phải là tình yêu thuần khiết và tròn đầy bởi Thiên Chúa.

Cũng nằm trong sự thông truyền sự sống, nhưng , tính dục chỉ phản ánh một phần của sự sống hữu hình. Còn tình yêu phản ánh trọn vẹn sự thông ban nguồn sống từ Thiên Chúa. Như vậy, tình yêu thuần khiết và tính dục tự nhiên cũng giống như sự vô biên siêu nhiên và sự hữu hình. Tình yêu là sự thôi thúc nội tâm từ Thần Khí siêu nhiên. Tính dục là sự thôi thúc từ xác thịt hữu hình, bụi đất.

Luật pháp của Thiên Chúa được bắt nguồn từ tình yêu siêu nhiên giống như bầu trời bao phủ nhân loại toàn thể vũ trụ, còn luật pháp thế trần chỉ giống như những tán cây ở đưới bầu trời mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến hầu kiện toàn lề luật, là kiện toàn tình yêu cho thế gian, Chúa đã dạy cho chúng con biết chân lý của sự sống, đó là tình yêu, tình yêu thông ban sự sống, một sự sống bất diệt từ Thiên Chúa.

Về mục lục

.

NÊN CÔNG CHÍNH

Lm. DĐH.

Thông minh sáng suốt, là khả năng tốt nhất nhằm giúp người ta lý giải điều nên làm hoặc không nên, như câu thành ngữ: kiến thức thì giá trị hơn vàng, vì nó thuộc về ta cả đời. Lười biếng, sống vô kỷ luật, chính là nguyên nhân vấp ngã, thất bại, tiền nhân chúng ta đã răn dạy: giầu đâu những kẻ ngủ trưa, sang đâu những kẻ say sưa tối ngày. Trong khi đó, xã hội vẫn không ít người thoải mái cho rằng: người sống đống vàng, sống ngày nào, biết ngày ấy. Thực ra thì người tài trí minh mẫn hay cần cù bù cù lần, hoặc chăm chỉ siêng năng, tỉnh hay say, tất cả đều hướng tới mục đích: thành công, hạnh phúc.

Trở nên công chính hay phải nên hoàn thiện hơn các luật sĩ và biệt phái, lời chỉ dẫn đó, đâu phải chỉ hôm xưa, người thời nay cũng cảm thấy khó lòng đạt được tiêu chí ấy. Luật lệ, qui định, sẽ là ràng buộc, tù túng, hoặc sẽ là hàng rào bảo vệ con người khỏi sự xấu tấn công, còn tùy cách suy xét của chúng ta. Khi Đức Giêsu nói với các học trò: “cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót….”. Những học trò ấy càng giật mình hơn vì tính nghiêm khắc của lề luật mà “Sư phụ” các ông lưu ý. Chúa Giêsu cho thấy để trở nên công chính không ai được dễ dãi với lề luật, lề luật và các tiên tri đều đến từ Thiên Chúa. Sứ mạng khó khăn hơn là Chúa Giêsu phải làm sao để các học trò và mọi người cảm nhận được tình yêu thật sống động trong lề luật ?

Người xưa có câu: lên non mới biết non cao, lội sông mới biết lạch nào cạn sâu. Con người không trải nghiệm làm sao biết đâu là núi cao biển rộng, không tìm hiểu và sống lề luật, sẽ không hiểu thế nào về sự hiện diện đầy tình yêu thương của Thiên Chúa trong giới luật. Thiên Chúa ban lề luật qua Môisê và các ngôn sứ, nhưng để ơn ban hữu hiệu, người ta phải hiểu lề luật là gì, phải sống và cộng tác bằng sự tự do của mỗi người. Chỉ khi nào đi vào chiều sâu của việc tuân giữ và sống điều luật dạy, người ta mới thực sự hiểu thế lực thù nghịch là ma quỷ không thể xâm nhập làm hại những tâm hồn tin theo Chúa.

Khi đưa ra khẳng định: “Ta không đến để phá hủy lời dạy của Môisê và các tiên tri, nhưng để hoàn tất những gì còn bỏ ngỏ”. Chúa Giêsu gợi lên việc Thiên Chúa ban lề luật, Ngài còn quan tâm ban Đấng phải đến để hướng dẫn, làm sáng tỏ hơn, mới hơn về cách ứng xử với tha nhân và sống niềm tin yêu. Trở nên công chính không phải là xóa bỏ, tiêu diệt thời thơ ấu của chúng ta, mà làm sáng rõ hơn về con người mới, trưởng thành trong đức tin và đức ái của ta hôm nay. “Phải nên công chính hơn ác luật sĩ và biệt phái”, đó là việc người môn đệ phải để Đức Giêsu kiện toàn, làm mới tâm hồn, hiệp thông trọn vẹn với Chúa và sống thánh ý Chúa.

Bản chất của con người là hướng về “cái đẹp, cái mới”, khi nghèo đói, ta chỉ mơ ước được no ấm, khi chưa có nhà để ở, ta chỉ cần chỗ trú ngụ ; khi có rồi, ta lại cần ăn ngon, mặc đẹp, cần nhà to, nhà đẹp. Lòng tham vô đáy, được voi đòi tiên là thế, chỉ khi người ta đọc được, hiểu được lề luật của Chúa luôn mới và sống động, vì được xây dựng trên tình yêu thật vững chắc. Chỉ khi tin tuyệt vào tình yêu của Đức Kitô, người ta mới thấy rõ ý nghĩa của lề luật, vì ở trong tình Chúa ta sẽ cảm nhận được tình người, cơ hội nên công chính không còn dựa trên lý thuyết môi miệng.

Được gọi là công chính, trở nên hoàn thiện, đối với người Do-thái hay chúng ta hôm nay đều quan trọng, quan trọng vì nhờ lề luật và các ngôn sứ dẫn đưa người ta thoát khỏi tình trạng của luật rừng. Ông Môisê và các ngôn sứ chính là bước khởi đầu cho sự hiện diện của Đức Giêsu, Đức Giêsu hoàn thiện đạo luật làm người và làm con Chúa trong hành động tình yêu thương. Người tin vào Đức Giêsu, sẽ luôn thấy được tinh thần mới trong giới luật, tình yêu dành cho Chúa không tách biệt tình yêu đối với tha nhân. Luật xưa xử phạt người có hành động ngoại tình, Chúa Giêsu kiện toàn đạo luật mới cao đẹp hơn, cần nghiêm túc để có sự trong sáng từ ánh mắt đến tâm hồn, xứng hợp với ơn gọi nên công chính.

Đẹp, mới, tốt, bền vững, dù ở phạm vi xã hội hay tôn giáo cũng đều thu hút đám đông, nhưng niềm vui hạnh phúc có Chúa làm gia nghiệp, thật đáng để chúng ta quan tâm hơn. Sách có câu: chẳng ai làm khóa mà không làm chìa, đó là lý do để chúng ta tin rằng, mọi vấn đề đều có hướng giải quyết. Thiên Chúa yêu thương ban lề luật, Ngài ban cả Đức Giêsu đến trong sứ mạng là Thầy chỉ đường, là Thợ làm mới các tâm hồn, là Anh Cả dạy yêu thương, sống yêu thương. Giáo huấn của Chúa Giêsu có mới và ý nghĩa thế nào, tùy thuộc tâm tư chúng ta có đặt để lời dạy của Ngài làm thước đo hay không ? Tình yêu của Đức Giêsu có đẹp, cuộc sống của chúng ta có nên công chính hay không, tùy ta tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ theo lòng mến của ta ra sao. Amen.

Về mục lục

.

CHỌN LỰA ĐỂ HẠNH PHÚC

Lm. Giuse Nguyễn

Ở Mỹ, đến nay vẫn chưa có một Đệ nhất phu nhân nào vượt qua được danh tiếng và hình ảnh của Đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevelt. Nổi tiếng là người năng động, tích cực, bà là người kiên quyết giũ bỏ vai trò thụ động của một Đệ nhất phu nhân, để trở thành một nhà nhân đạo, nhà hoạt động xã hội chuyên nghiệp. Bà đã nói: “Về lâu về dài, chính chúng ta sẽ định hình bản thân con người chúng ta và cuộc sống của chúng ta. Quá trình đó không bao giờ kết thúc cho tới khi ta chết. Rốt cuộc thì chúng ta luôn phải gánh chịu mọi trách nhiệm về chính sự lựa chọn của mình”.

Hay như một chàng trai đứng trước một cuộc tình có quá nhiều rắc rối, cuối cùng chàng quyết định:

“Đâu dễ dàng khi đau lòng chọn lựa,

Chọn về mình một vết cứa tình yêu.

Tình yêu anh đúng chưa hẳn là nhiều,

nhưng thử hỏi bao nhiêu là tất cả?

Tình yêu đong đếm? Thôi tan rã.

Anh sẽ dừng! Mệt lã một tình yêu…”( Sưu tầm)

Lời Chúa ngày hôm nay cho chúng ta thấy cuộc sống là một hành trình của sự chọn lựa. Nếu chọn những giá trị đúng đắn con người sẽ hạnh phúc, bằng ngược lại họ sẽ đau khổ. Hơn thế nữa, sự chọn lựa của mỗi người chẳng những đem lại hạnh phúc hay đau khổ cho chính họ, mà còn ảnh hưởng đến người khác.

I.  PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: Hc 15, 15-20

Tác giả sách Huấn ca tổng hợp đạo lý cổ truyền với sự khôn ngoan chung của nhân loại mà tác giả đã đào sâu nhờ kinh nghiệm riêng, để từ đó giúp người Do Thái giữ vững được căn tính của mình là một dân tộc được Thiên Chúa chọn gọi một cách đặc biệt. Trong chương 15 tác giả nói đến sự tự do của con người. Người Do Thái hay đổ thừa cho Thiên Chúa, kể cả tội lỗi của họ. Vì vậy mà tác giả cho họ biết Thiên Chúa không ép buộc con người làm bất cứ điều gì, mà Ngài chỉ đặt ra trước mặt họ 2 con đường, và cho họ thấy “cửa sinh cửa tử”, rồi “để nó tự quyết định lấy” (Hc 15, 14). Tác giả nói: “Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm điều đẹp ý Người” (Hc 15, 15). Rõ ràng đó là tự do của con người. Nhưng hãy nhớ chính Thiên Chúa là Đấng “khôn ngoan, mạnh mẽ, uy quyền và trông thấy tất cả” (Hc 15, 18) không  bao giờ muốn con người làm điều xấu: “Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội”. Vì vậy không thể đổ thừa cho Thiên Chúa những việc xấu mình đã làm, mà phải nhìn nhận do sự chọn lựa sai trái của mình.

  1. Tin Mừng Mt 5, 17-37

Nằm trong phần bài giảng trên núi để các môn đệ của Đức Giêsu thấy được cung cách của người công dân Nước Trời trong thời đại mới là phải sống theo Tám mối phúc thật  (CN 4 TN), là phải trở thành muối và ánh sáng (CN 5TN) ; hôm nay Đức Giêsu kiện toàn lề luật của Môsê và chỉ ra đức công chính của người môn đệ. Môn đệ của Đức Giêsu chẳng những không được giận ghét người ta mà còn phải yêu thương tha nhân ; chẳng những không được ngoại tình mà còn phải tránh cớ vấp ngã cho người khác ; chẳng những không được ly dị mà còn phải biết gìn giữ cho người bạn đời của mình ; không được thề thốt vì môn đệ Đức Giêsu luôn sống trong sự thật…

Chúng ta nghe những điều này rất nhiều nhưng chúng ta chỉ nhìn nó ở khía cạnh luân lý, luật lệ nên cảm thấy gò bó, nặng nề. Vì vậy có nhiều người đã để mặc cho mình sống ngược lại với những lề luật của Chúa vì họ nghĩ rằng “Chỉ có Chúa là Đấng toàn năng mới tránh được những điều đó, còn tôi là người phàm mắt thịt, tôi không thể! Chúa thánh thiện quá, tôi tệ lắm, xin Chúa làm ơn tránh xa tôi!…”

Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy thay đổi cái nhìn để nhận ra rằng chúng ta có quyền chọn lựa, nhưng đừng ngu dại mà chọn lựa con đường chết, phải chọn con đường sống. Sự sống và cái chết ở đây không chỉ đơn giản về mặt thể lý, mà hơn thế nữa nó là tình trạng đau khổ và hạnh phúc trong tương lai, ở một thế giới vĩnh hằng. Nói một cách ngắn gọn hơn phải sống làm sao để được lên thiên đàng chứ đừng sa hỏa ngục.

II.  MỘT VÀI SUY TƯ TRONG NĂM GIA ĐÌNH

Giáo hội đang thao thức với thực trạng của đời sống gia đình hiện nay. Mặc dù một số gia đình vẫn giữ được giao kết trong ngày thành hôn, vẫn hạnh phúc, nhất là vẫn giữ vững đức tin, vẫn sống đạo tốt… Nhưng rất nhiều gia đình, nhất là những gia đình trẻ đã đổ vỡ, hoặc đang có nguy cơ đổ vỡ do bất đồng ý kiến, do bạo hành, do ngoại tình hoặc nhiều nguyên nhân khác. Giới trẻ sống buông thả trong tính dục và những nhu cầu theo bản năng với câu cửa miệng: “Mình thích thì mình làm”; tính khí hung hăng nên xảy ra nhiều vụ án mạng… Cha mẹ nói con cái chẳng những không nghe, thậm chí còn phản kháng… Những thực trạng đó đang làm cho Giáo hội phải thực sự lo lắng. Không biết anh chị em, nhất là những phụ huynh có lúc nào ngồi nhìn lại để cùng chung thao thức với Giáo hội, hay vì những bộn bề của cuộc sống mà để cho mình trở thành những kẻ bàng quan, mặc kệ cho thực trạng xã hội ngày càng xuống cấp? Ít  ra những giây phút ngắn ngủi này, chúng ta là những Kitô hữu, nhất là những bậc làm cha mẹ, phải ý thức lại trách nhiệm của chúng ta với ơn gọi gia đình, với bổn phận chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống Hôn nhân.

  1. Đừng để tuổi thơ bị đánh cắp

Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ của gia đình, cũng như tội ác gia tăng nhất là trong giới trẻ là do sự ích kỷ được hình thành ngay từ bé khi một đứa trẻ được cha mẹ nuông chiều, cung phụng cho những thứ mà nó đòi hỏi, mặc dù lúc đó nó không có tội gì, vì chỉ là một đứa con nít.

Cha Piô Ngô Phúc Hậu kể một câu chuyện khiến những bậc phụ huynh phải suy gẫm. Một đứa bé sống trong một gia đình có cha mẹ và bà nội. Cha đứa bé rất ý thức đến việc giáo dục con cái. Một hôm có người bán cà rem đi ngang nhà, đứa bé đòi ăn. Cha nó nói con ăn bánh rồi, không được ăn cà rem nữa, mai cha mua cho con ăn. Nó òa lên khóc. Bà nội nghe được chạy lên dỗ dành và bồng nó ra cổng mua cho nó cây cà rem. Nó cầm cây cà rem vừa mút vừa nghênh mặt lên với cha nó. Chắc chắn ai cũng hiểu ý nghĩa của câu chuyện này và thấy rằng câu nói: “Cháu hư tại bà”  trong trường hợp này là đúng.

Do sự phát triển của xã hội, đời sống của người dân cũng ngày càng thuận tiện hơn trong nhiều thứ. Thuận tiện đến mức trẻ em 1, 2 tuổi cũng có thể cầm iphone, ipad. Chính điều đó vô tình làm cho thế giới trẻ thơ của các em chỉ gói gọn lại trong màn hình với những điều ảo, và thậm chí là những điều không đúng đắn, như game bạo lực, game nói dối, và vô tình cũng có những hình ảnh khiêu dâm ảnh hưởng đến tuổi thơ trong sáng của các em. Thế giới của trẻ thơ phải được mở rộng với những con người và những vui chơi thực tế, với tình yêu thương của cha mẹ, người thân và bạn bè. Nó phải được nghe những câu hát ru từ chính giọng hát khàn khàn, rè rè, lạt giọng của người bà, người mẹ nó: “Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi, khó đi mẹ dắt con đi, con đi trường học mẹ đi trường đời”. Những câu hát ru mang tính nhân văn đó được gieo vào lòng của biết bao thế hệ trẻ thơ mặc dù còn rất nhiều thiếu thốn. Thế nhưng ngày hôm nay còn bao nhiêu người mẹ biết ru con, hay hoàn toàn dành cho máy móc? Nếu không mướn người giữ trẻ thì cũng là  những chiếc võng điện tử đong đưa theo nhịp đã cài đặt. Ngay từ bé trẻ em đã phải tiếp nhận vào bộ não những tiếng u ơ, ú ớ của Sơn Tùng, hay giọng gào thét với những ngôn từ kỳ quái, dung tục của một ca sĩ nổi tiếng nào đó…

Những bậc phụ huynh hãy nhìn lại cách giáo dục, nuôi dưỡng con cái của mình ngay từ bé, để biết phải cho các  em những gì là đúng đắn. Nhìn những đứa trẻ cứng đầu, cứng cổ, nói không nghe, chúng ta phải biết vì nó đã được nuông chìu, muốn gì được nấy ngay từ nhỏ. Thấy những thanh niên hung hăng, không ai đụng được, có biểu hiện trầm cảm, chỉ chơi một mình, thì rất có thể ngay từ nhỏ thế giới của nó chỉ là căn phòng và chiếc điện thoại trên tay.

  1. Tập quen với những giá trị cao cả

“Rốt cuộc thì chúng ta luôn phải gánh chịu mọi trách nhiệm về chính sự lựa chọn của mình”. Đừng nói tôi không thể lựa chọn những điều vượt quá sức tôi. Những vị thánh nhất là những vị thánh trong thời đại chúng ta đã biết chọn lựa những giá trị cao cả, dĩ nhiên các ngài phải hy sinh nhiều thứ, kể cả mạng sống mình như cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Để có được những sự lựa chọn đúng đắn đòi hỏi chúng ta phải có thói quen phân định điều tốt và điều xấu. Điều đó đã được Chúa phú bẩm cho mỗi người trong một lương tâm ngay chính, điều quan trọng là phải tập cho lương tâm có sự nhạy bén. Thêm vào đó như chúng ta đã nói ở trên, nếu chỉ chỉ ích kỷ để sống cho riêng mình, thì không bao giờ người ta có thể chọn lựa điều tốt, vì họ không thể từ bỏ những điều xấu, mà thường những điều xấu lại đem đến sự ngọt ngào, dễ chịu cho người ta.

Thế cho nên năm Mục vụ Gia đình 2017, Giáo hội muốn các gia đình hãy quay về với sự thánh thiện. Vì chính nhờ sự thánh thiện mà người ta mới có thể chọn lựa điều tốt và từ bỏ điều xấu. Nếu các gia đình thấy được nguy cơ xấu cho thiếu nhi và giới trẻ ngày hôm nay, hãy quyết tâm để có giờ kinh hôm chung trong gia đình, hãy nhắc nhở các em thiếu nhi và các bạn trẻ đi học giáo lý, quyết tâm không bỏ ngày Chúa Nhật. Đừng ngồi đó than trách, mà hãy góp phần thánh hóa thế gian bằng những giá trị linh thánh.

Hãy nhớ lại bài đồng dao của một thời đã xa để nhắc nhở chính mình và các bạn trẻ: “Thiên đàng hỏa ngục hai bên, ai khôn thì về ai dại thì sa, đêm nằm nhớ Chúa nhớ Cha, đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn, linh hồn phải giữ linh hồn, đến khi ngày chết được lên thiên đàng”.

Về mục lục

.

BỎ QUA

Lm Vũ Đình Tường

Bỏ qua để vui sống là điều cần trong cuộc sống và đây cũng là cái khôn của người xưa. Người xưa dậy mắt đền mắt, răng đền răng và không được phép làm hơn thế. Mục đích là ngăn cấm hành động trả đũa quá đáng. Hành động trả đũa thường bắt đầu bằng cá nhân, cá nhân lôi bè, kéo cánh trả đũa sự việc trở nên khủng khiếp hơn. Lúc đó sẽ không còn cảnh răng đền răng mà răng đền mạng. Giới hạn trả đũa, ngăn ngừa nội chiến trong tộc.

Để hiểu hơn điều Đức Kitô dậy chúng ta cần lần mò một chút văn hoá người xưa. Ai vả má phải hãy đưa má trái cho họ. Vả má người đối diện bẳng lòng bàn tay vì thuận tay nhưng khi không thuận tay nên phải vả má kia bằng lưng bàn tay. Phong tục lúc đó ai vả má người khác bằng lưng bàn tay là hành động của người mất trí. Hành động thiếu tự chủ đáng khinh bỉ. Nạn nhân trở thành người được xã hội bênh dỡ, thông cảm, còn kẻ vả má người bằng lưng bàn tay bị kết án. Việc vả má biểu lộ nội tâm của người đó. Họ là người hành động khôn ngoan, chừng mực hay thô lỗ, tục tằn.

Người xưa đo đường bằng bước chân vì thế quân đội Rôma có thể bắt dân khuôn vác dùm trong vòng một ngàn bước. Nếu muốn phải nhờ người khác. Để cho vác đi hơn một ngàn bước người lính mắc lỗi. Mục đích của luật là ngăn cấm lạm dụng quyền hành.

Hãy cho vay và đừng mong trả. Hiểu theo mạch văn này thì sẽ không ai cho vay. Luật lúc đó cho biết hạn trả nợ là bảy năm. Sau bảy năm mà không trả nổi thì coi như xoá bỏ. Vì thế đến năm thứ năm hay thứ sáu chủ nợ làm dữ trước hạn bảy năm. Sáu năm trả lời đã quá mức mượn ban đầu nếu tiếp tục, mượn một trả thành ba hay bốn. Người xưa không mượn tiền mua nhà, đất mà mua thực phẩm nuôi gia đình. Mượn thức ăn nuôi thân mà bảy năm trời không trả nổi quả đáng thương. Chủ nợ đòi riết quả là nghèo lòng xót thương, đói bác ái. Vay thì phải trả nhưng vay thực phẩm, trả không nổi, còn gì để bắt, ngoài bắt người trừ nợ.

Ba ví dụ trên cho thấy Đức Kitô dậy con người sống yêu thương, thông cảm hoàn cảnh khó khăn của anh chị em khác. Đó chính là luật yêu thương Ngài công bố cho toàn dân: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau (Ga 13,34)

Luật yêu thương tóm gọn luật của tổ phụ Môsê dậy trong Mười Điều Răn nhận từ núi thánh. Luật yêu thương mở ra chân trời mới, đưa ra cái nhìn mới hướng dẫn lương tâm con người sống thứ tha, thông cảm và biết thương đến anh em đồng loại, thông cảm với kẻ khốn cùng, tha thứ cho kẻ làm lỗi, kẻ đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc. Luật yêu thương đặt căn bản trên con tim. Người biết tha thứ là người mạnh. Có thể không mạnh thể lực mà mạnh về tâm linh, mạnh về lí trí. Sức mạnh nội tâm giúp vượt thắng cám dỗ trả đũa. Sức mạnh này giúp ta tự làm hoà với ta trước sau đó dẫn đến hành làm hoà cùng anh em. Sức mạnh nội tâm giúp ta nhìn rõ sự việc, cân nhắc phải trái khi chọn lựa. Chọn tha thứ là khôn ngoan hơn cả. Chọn bỏ qua để vui sống. Chọn tha thứ là chọn vứt bỏ gánh bực dọc để vui sống. Quảng gắng xong người thấy nhẹ nhõm, tinh thần bình an, lòng thoải mái.

Sống yêu thương giúp ta trở thành người biết thương người. Chỉ chủ nợ mới có thể tha, con nợ không thể tha. Trong yêu thương cũng thế biết thứ tha là biết làm chủ đời mình; không thể bực dọc gây đau khổ, vật vã, bực tức trong lòng, làm khổ mình. Không tha thứ là trói buộc. Tha thứ là giải thoát vì lòng họ thảnh thơi, an bình. Thiếu tha thứ sống đau khổ, tự trói buộc là làn mô lệ cho cái tôi. Không phải ai cũng có thể tha thứ mà chỉ những ai hiểu rõ luật yêu thương mới có thể tha thứ. Luật yêu thương bắt nguồn từ Đức Kitô, giáo huấn chính của Ngài. Để tha thứ cần ơn Chúa. Kết hợp với Chúa dễ tha thứ hơn sống theo thói tục.

Tha thứ không dễ vì phải thắng cái tôi, cái tôi càng lớn chiến đấu càng mãnh liệt, chiến đấu mãnh liệt sẽ có nhiều đau khổ nhưng đau khổ đó êm dịu vì cậy nhờ ơn Chúa. Một khi đau khổ qua đi tâm hồn thảnh thơi, lòng người thoải mái. Chiều theo cái tôi, trói buộc đau khổ kéo dài, cần nhiều thời gian để nguôi ngoai. Càng kéo dài đau khổ càng tăng, như thế trong hai cái đau chọn cái đau ngắn hạn tốt hơn, dại gì chọn đau dài hạn.

Tha thứ nối kết tình bạn, làm cho tình bạn nồng thắm hơn và tạo tin tưởng mãnh liệt hơn. Như thế tha thứ gắn liền với kết hợp với tình yêu Chúa.

Về mục lục

.

NẾU ANH EM KHÔNG ĂN Ở CÔNG CHÍNH HƠN

 Fx Đỗ Công Minh

Báo Tuổi Trẻ số ra gần đây đề cập đến việc chính phủ vừa ra nghị định qua đó phạt năng hành vi làm mất vệ sinh nơi công cộng và nêu câu hỏi:Ai Phạt? Phạt Ai? Theo qui định mới này thì những hành vi như xả rác bừa bãi, phóng uếnơi công cộng khi bị phát hiện sẽ bị phạt với những số tiền hàng triệu đồng. Vứt mẩu thuốc lá ra đường phố có thể bị phạt hàng trăm ngàn đồng. Nhưng qua dư luận thì cần hơn hết là ý thức tự giác của người dân chứ khó khả thi khi thực hiện qui định này bởi ai sẽ là người thực hiện? 

Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu cho con nhận ra được con đường theo Đức Kitô. Chúa nói với các môn đồ và dân chúng theo Người: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu, thì sẽ chẳng được vào nước Trời “. Giới Kinh sư là những người nhiều năm nghiên cứu Kinh Thánh, họ là những nhà chuyên môn am hiểu lề luật trong Đạo Do Thái, một số nhỏ trong họ là Tư Tế. Các Kinh sư là người giải thích luật và áp dụng Luật. Họ có uy tín trong dân. Tuy vậy họ cũng dễ rơi vào một thứ óc nệ luật hẹp hòi, khiến cho việc giữ Luật trở thành gánh nặng và làm cho người ta quên đi cái cốt yếu của Luật. Còn Pharisiêu, còn gọi là nhóm biệt phái, là những người sống đạo đức truyền thống, nghiêm nhặt. Nhưng trong số đó có những người giả hình, kiêu hãnh thường hay lên án người khác. Họ tự cho mình có thể mua được nước Trời bằng công trạng và lòng đạo đức của họ . (Xem Dẫn vào Tân Ước của nhóm CGKPV). Như vậy, những người Kinh sư và Pharisiêu thời Đức Kitô không phải là những người xấu, nhưng họ mới chỉ dừng lại ở chỗ giữ lề luật và phê phán người khác, nếu vi phạm lề luật. Họ tự nhận là công chính. Còn Chúa Giêsu, Người đòi hỏi những người theo Chúa còn phải đi xa hơn, “Công chính hơn “. Không dừng lại ở cách sống” có đi có lại, mới tọai lòng nhau “ hay đừng làm điều này, chớ làm điều kia như luật dạy. Thái độ sống vị luật, sống trong nỗi sợ, không phải là con đường Chúa dạy. Con đường của Chúa dạy là sống yêu thương, sống bác ái ngay từ trong trái tim, trong tâm khảm.Đối với người Do Thái, chớ giết người, đó là giới răn Chúa truyền dạy. Thế nhưng :” Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình , thì đáng bị đưa ra tòa. . . Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình . . .”.

Lạy Chúa,

Quả là khó lắm đối với con. Sống không làm hại ai, không lấy của ai, không xích mích với ai đã là một cố gắng, một hy sinh của con lắm rồi, nhưng với Chúa thì chưa đủ. Con đã nhận ra, không làm hại ai, tốt đấy! nhưng không giúp ai, không nhờ vả ai, không liên đới với ai cũng là có lỗi rồi. Chúa dạy con phải làm muối, nhưng muối của con không có vị mặn, hay muối mà đóng chai, đóng hộp cất trong tủ thì có ý nghĩa gì. Chúa dạy con là ánh sáng, nhưng đèn của con cháy leo lét, đèn của con chỉ thắp sáng trong phòng, trong nhà để soi sáng cho con thôi, thì nào có ích gì.(Mt 15;13-16)

Con vẫn đi lễ ngày Chúa nhật, vẫn sẵn sàng ăn chay, kiêng thịt ngày Hội Thánh dạy: thứ Tư lễ tro, thứ sáu tuần Thánh, nhưng sau đó thì ăn bù cho thỏa thích. Con không ăn cắp, ăn trộm nhưng sống lỗi đức công bằng, chỉ tìm lợi ích cho con mà bất chấp người khác. Con giữ nhà con cho sạch, còn rác rưởi xả ra thì đem đổ lén ngoài đường, ngoài kênh rạch, cống rãnh hoặc sáng sớm ra quyét sang nhà hàng xóm, quyét ra đường, con có xứng đáng là người đứng trong nước trời, dù là kẻ nhỏ nhất ?

Xin Chúa cho con biết tuân giữ Lời Chúa dạy bằng lòng yêu mến thực. Không vì sợ hãi bị phạt với số tiền lớn, không vì áp lực, vì sĩ diện hay vì làm vui lòng người khác. Chớ gì con nhận biết thân phận yếu đuối của bản thân, dễ vấp phạm, dễ xa ngã. Nhưng với lòng yêu mến Chúa và nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ đứng dậy và tiếp tục bước theo Chúa, hầu mỗi ngày con sẽ hòan thiện mình hơn, rồi dần trở nên công chính trước mặt Chúa.AMEN .

Về mục lục

.

TÌM CHÚA VÌ YÊU MẾN HAY TÌM SỰ DỄ DÃI

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Ngay sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành Tông huấn: Niềm vui Tình yêu, nói về các vấn đề của gia đình ngày nay, nhiều người nghĩ rằng, Đức Thánh Cha đã làm một cuộc cải cách trong Giáo Hội. Có một vài vị giám mục cho rằng, Đức Thánh Cha hủy bỏ những giáo huấn trước đây của Giáo Hội về vấn đề Hôn Nhân, chấp thuận cho các cặp vợ chồng đổ vỡ, ly dị tái hôn hoặc được xưng tội rước lễ bình thường. Văn phòng báo chí tòa thánh liền sau đó đã có lời giải thích chính thức cho rằng: Những ai mong đợi Đức Thánh Cha loại bỏ những định chế hôn nhân Công Giáo quả là một sai lầm; những ai vội vàng cho rằng các cặp ly dị được tái hôn hoặc xưng tội rước lễ bình thường là hiểu sai ý của tông huấn.
Qua tông huấn Niềm vui Tình yêu, Đức Thánh Cha không hủy bỏ quy định truyền thống của Giáo hội, nhưng Ngài mời gọi mọi người cần có một cái nhìn thông cảm, không loại trừ những người đang gặp cảnh đổ vỡ trong hôn nhân, vì họ cũng là thành viên của Giáo hội, cần được yêu thương và nâng đỡ. Tông Huấn của Giáo hội mời gọi mọi người khám phá ra ý định của Thiên Chúa nơi đời sống hôn nhân gia đình, giá trị và nét đẹp của hôn nhân, chứ không nhằm đem lời Chúa để hợp thức hóa cho tình trạng cá nhân của con người.
Ngày xưa, khi Chúa Giêsu xuất hiện, Ngài rao giảng lòng xót thương của Thiên Chúa, mời gọi mọi người sống Tin Mừng với một niềm vui và hạnh phúc. Những người Do Thái, kể cả các môn đệ, cảm thấy như bị gò bó bởi luật của Cựu ước, vì thế, họ nghĩ rằng, Chúa Giêsu sẽ đem đến một luật mới, hoàn toàn hủy bỏ luật cũ. Họ chờ đợi một lối sống dễ dãi tự do, không gò bó, không quy định, nói đúng hơn, họ không muốn chấp nhận một thứ luật nào cả. Chúa Giêsu đã không hứa hẹn như thế. Chúa không bãi bỏ luật Mose, nhưng còn tuyên bố, Ngài là Đấng Kiện toàn và làm cho luật của Thiên Chúa đi vào tâm hồn và cuộc sống của con người: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm một phẩy trong lề luật sẽ không bị bỏ qua, cho đến khi được hoàn tất.
Nhiều người có thói quen giữ luật vì sợ phạm tội, sợ bị phạt, nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ luật của Ngài với một tầm mức cao hơn, hoàn thiện hơn và đó là giữ luật vì tình yêu đối với Thiên Chúa. Các Luật sĩ và Biệt phái bị Chúa Giêsu chê trách bởi vì họ chú tâm giữ luật để khỏi vi phạm, nhưng lai không biết mình giữ luật để làm gì, giữ luật vì ai, hoặc tại sao phải giữ luật. Những người này giữ luật không phải vì Chúa, nhưng vì bản thân. Họ muốn tỏ ra là người công chính thánh thiện, nhưng trong lòng không có lòng mến và không có sự bao dung. Vì vậy, họ dễ dàng lên án những người bị coi là không chu toàn lề luật.
Chúa Giêsu muốn chúng ta không chỉ giữ luật theo mặt chữ như: chớ giết người, chớ làm nhục anh em, chớ thù hận…, nhưng Ngài muốn chúng ta đi vào trung tâm của lề luật, đó là loại trừ nguyên nhân có thể khiến người ta vi phạm luật. Anh em nghe luật xưa dạy: Chớ giết người, ai giết người thì bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Ai rủa anh em mình là quân phản đạo, thì đánh bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Như thế có nghĩa là không chỉ khi giết người mới là tội ác, mà ngay cả khi gây tổn thương hạ nhục anh chị em thì cũng đáng bị kết án rồi.
Đàng khác, khi nguyền rủa anh chị em, giận hờn anh chị em, là chúng ta đã loại trừ họ ra khỏi tâm hồn và sự quan tâm của mình. Khi để lòng thù ghét giận dỗi với anh em, thì chính trái tim và tâm hồn của ta bị khô héo và bị chết. Một người đã đóng cửa lòng với anh chị em, thì cũng không thể mở tâm hồn ra với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu còn đòi hỏi rất mạnh: Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại trước bàn thờ, trở về làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Chúa muốn chúng ta đến với Chúa phải có một tâm hồn thanh thản, bình an, một đôi tay trong sạch, một tương quan không bận vướng. Ở đây Chúa Giêsu nói: Khi sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh. Điều này có nghĩa là, cho dù ta không phải là người gây ra chuyện bất bình, mà là người kia; cho dù sự việc xảy ra đã lâu ta không còn nhớ, mà lúc đó chỉ chợt nhớ lại, thì cũng phải chủ động tìm đến để làm hòa với người anh em đó trước khi dâng của lễ. Chỉ khi làm hòa với anh em, có được tương quan tốt đẹp với người khác, thì của lễ và lời cầu nguyện của ta dâng lên Chúa mới có thể được Chúa chấp nhận.
Như thế, việc thực hành lề luật của Chúa và các đòi hỏi trong đời sống đạo không phải là một gánh nặng, cũng không phải chỉ để khỏi vi phạm, nhưng là để chúng ta vươn tới sự hoàn thiện. Tin Mừng của Chúa Giêsu và lề luật của Ngài giúp nâng chúng ta lên khỏi mọi hình thức nô lệ, giúp ta sống trong sự tự do của con Thiên Chúa. Chúa Giêsu không hứa hẹn một cuộc sống tự do buông thả, nhưng Ngài mời gọi chúng ta, một khi theo Ngài phải bước vào con đường hẹp của Tin Mừng. Đó là con đường tự nguyện từ bỏ và hy sinh, tự nguyện đón nhận và tuân giữ những giới răn của Chúa. Chúa không muốn chúng ta theo Chúa trong sợ hãi, nhưng trong tin tưởng yêu thương và phó thác. Chúa không muốn chúng ta theo Chúa cách hời hợt a dua theo đám đông hoặc theo cha truyền con nối, nhưng theo với một sự ý thức và với quyết tâm thể hiện lòng mến cá nhân của mình. Như thế, mọi sự ù lì lười biếng, hoặc thái độ nệ luật sợ hãi, đều không thích hợp với người môn đệ của Chúa.
Có nhiều người dân ngoại vẫn cho rằng, theo đạo sao khó thế? Đạo Công Giáo sao có nhiều luật lệ thế? Thánh Phaolô cho biết, khi chúng ta tự nguyện chon sống theo giới răn lề luật của Chúa Kitô là chúng ta chọn lựa cách khôn ngoan. Sự chọn lựa này khiến cho người đời, dân ngoại khó hiểu, khó chấp nhận, nhưng Thiên Chúa đã soi sáng, mạc khải cho ta và Thánh Thần ban sức mạnh giúp chúng ta đón nhận Tin Mừng và giáo huấn của Chúa với niềm vui hân hoan giúp ta chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa.
Suy nghĩ của nhiều người ngày nay cũng giống như những người Do Thái ngày xưa. Nhiều người theo đạo nhưng không có lòng mến Chúa, họ giữa đạo chỉ theo thói quen hoặc do sợ vi phạm lề luật. Cụ thể, nhiều người đến nhà thờ dâng lễ chỉ vì luật bắt buộc, vì thế ngày Chúa Nhật họ đi lễ cho qua lần, đứng ở một góc nào đó, hoặc tìm một chổ ngồi bên ngoài, mà không quan tâm đến việc chính mình phải dâng lên Chúa của lễ tạ ơn sau một tuần lễ làm việc. Có những người chỉ lo khỏi vi phạm luật Chúa mà không quan tâm đến các mối tương quan với anh chị em. Vì thế, bên ngoài hoặc ở nhà thờ, họ tỏ ra rất tốt, nhưng về với cuộc sống gia đình hoặc với lối xóm họ cư xử rất tệ.
Trong đời sống hôn nhân gia đình và xã hội, nhiều người có đạo nhưng vẫn bỏ ngoài tai giáo huấn của Chúa và Giáo hội. Họ tìm cách tránh né hoặc tìm cách biện minh cho hành động sai trái của mình. Thay vì phải đối chiếu cuộc sống bản thân cho phù hợp với giáo huấn của Chúa, thì ngược lại, họ bóp méo Lời Chúa để biện minh cho sự sai trái cố chấp của mình.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm Chúa và giáo huấn của Ngài và thực thi với lòng yêu mến cách tự do. Xin cho chúng ta đi vào cốt lõi những đòi hỏi của Tin Mừng, giúp ta trưởng thành hơn trong đời sống đức tin,yêu mến Chúa và anh em mốt cách chân thành hơn. Xin cho chúng ta mỗi lần đên đây dâng của lễ, thì cũng biết can đảm đi bước trước hàn gắn lại các tương quan của chúng ta với anh chị em để của lễ và lời cầu xin của chúng ta dâng được chúa thương tình đón nhận. Amen.

Về mục lục

.

KIỆN TOÀN LỀ LUẬT-

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa 

Dù không ít lần cố tình vi phạm luật ngày lễ nghỉ và luật sạch – nhơ cũng như công khai bênh vực các môn đồ về việc không ăn chay, nhưng Chúa Giêsu đã từng nhiều lần trưng dẫn Lời Thánh Kinh Cựu Ước, đặc biệt khẳng định tính ưu việt của thập giới. Chính Người đã minh định rõ ràng: “Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay lời các tiên tri, Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5,17). Xin cùng xem xét đôi nét về việc kiện toàn lề luật của Đấng Cứu Độ.

  1. Chúa Kitô trả lề luật về đúng vị trí của nó. 

Lề luật là “một phương thế” chứ không phải là mục đích. “Ngày Sabbat được tạo nên cho con người chứ không phải con người cho ngày Sabbat” (Mc 2,27). Khi khẳng định điều ấy thì Chúa Kitô nhắc nhớ chúng ta vị trí vai trò của lề luật như là các phương thế. Các phương thế chỉ có ý nghĩa khi hướng đến mục đích được nhắm. Nếu vì lý do gì đó mà chính phương thế làm cản trở mục đích nhắm thì chúng ta cần phải bỏ nó qua một bên. Đã nhiều lần Chúa Kitô cố tình vi phạm luật ngày lễ nghỉ là cốt dạy chân lý này. 

  1. Hãy giữ lề luật khởi đi từ đáy lòng.

Thời Chúa Kitô, đã và đang có đó nhiều biệt phái giữ lề luật cách hình thức bên ngoài. Dĩ nhiên điều mà họ nhắm là chứng tỏ cho người ta thấy lòng đạo đức của mình. Cái bên ngoài tuy vẫn cần thiết nhưng nếu thiếu điều bên trong thì nó thành trống rỗng vô hồn. Những khi cố tình vi phạm luật sạch – nhơ thì Chúa Kitô đã cho thấy sự thật này. Ích gì khi rửa tay chân, chén bát bên ngoài mà lòng vẫn đầy tham lam bất chính. Ý hướng và mục đích tự đáy lòng góp phần lớn xác định tính luân lý của các hành vi bên ngoài. Nhiều khi chưa thực hiện bằng hành động bên ngoài nhưng đã có ý hướng và chủ định bên trong thì đã dệt thành giá trị tốt xấu các hành vi của chúng ta. Chúa Kitô nói rõ điều này khi khẳng định là nếu đã có chủ định phạm tội với người phụ nữ dù chưa thực hiện bên ngoài thì cũng đã phạm tội ngoại tình rồi (x.Mt 5,27-28). 

  1. Chúa Kitô xác định bậc thang giá trị của các loại lề luật.

Xét về nguồn gốc thì Kitô giáo chúng ta phân biệt rõ ràng nhân luật (luật do con người làm ra) với thiên luật (luật do Thiên Chúa đặt định). Thiên luật thì có giá trị trường cửu, không hề thay đổi theo thời gian, vì do chính Thiên Chúa đặt định. Lề luật của Thiên Chúa được tỏ bày qua tiếng lương tâm dưới ánh sáng của lý trí đúng và qua Lời mạc khải thì luôn có vị trí ưu tiên hàng đầu. Còn nhân luật là luật do các thể chế, các quốc gia và cả do Giáo Hội lập ra thì có tính tương đối và nó có thể thay đổi theo hoàn cảnh lịch sử. Theo nhãn quan Kitô giáo, khi nào mà luật của con người trái với luật của Thiên Chúa thì nó không có giá trị. Và khi ấy chúng ta không chỉ bỏ qua nó mà có khi phải hành xử ngược với nó. Chúa Kitô đã nhiều lần khẳng định điều này khi Người trách cứ các lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ đã bỏ qua lề luật của Thiên Chúa mà quá chăm chú vào luật của nhân trần, dù cho đó là truyền thống của tiền nhân. 

Đã là người với tính xã hội thì lề luật luôn còn đó vai trò vị trí của nó. Tuy nhiên lịch sử cho thấy rất nhiều người khi đã ở vai cao, vị trọng trong các tập thể xã hội, có khi cả trong Giáo hội, thì dễ bị cám dỗ đặt ra các luật lệ phục vụ cho lợi ích của mình. Đã và đang có đó tình trạng nô lệ lề luật thay vì làm chủ nó. Là Kitô hữu thì chúng ta phải có thái độ đúng với lề luật như Chúa Kitô truyền dạy. Nhiều hiền nhân, nhất là các thánh nhân đã từng chấp nhận mang tiếng là “chống đối”, là “phản động”, là “gây xáo trộn”… để góp phần kiện toàn lề luật như Chúa Kitô đã làm.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LUẬT

Dã Quỳ

Đời sống dân sự và thường ngày của chúng ta đều được xoay quanh trục luật pháp. Thật vậy, bất cứ thời nào, xã hội hay tôn giáo, đều cần có luật lệ. Người ta sống và cư xử với nhau thường dựa trên luật. Đối với Do Thái Giáo, từ thời Môsê, đã có cả một sách Đệ Nhị Luật, chứa nhiều khoản luật buộc con cái Israel thực hiện. Nhưng điểm chủ yếu của lề luật vẫn là Yêu Mến Chúa (x. Đnl 6,1-13). Thế nên, khi Chúa Giêsu đến, Ngài không bãi bỏ nhưng kiện toàn lề luật và thực thi luật cách thiết thực hơn “Thầy đến không phải để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn.” Người làm cho Luật được trọn hảo và được đặt nền trên tình yêu thương.

Chúng ta đã nghe Chúa dặn “Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, và yêu người thân cận như chính mình.”(x. Mt 22, 37-40) Luật và các lời ngôn sứ là yếu tố cốt yếu của Kinh Thánh, diễn tả ý muốn của Thiên Chúa. Những lời ngôn sứ loan báo đều được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa đến trần gian là để thực hiện ý Chúa Cha và hoàn tất công trình cứu độ nhân loại “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người.”(Ga 4,34)

Đối với Chúa, không bảo thủ cố định, cũng chẳng cách mạng đổi thay tất cả. Người muốn làm cho luật có sự sống mới. Người không nệ vào truyền thống tiền nhân, nhưng cho chúng ta thấy mẫu gương thực hành luật cách sống động vì tình yêu. Vốn dĩ là Thiên Chúa, Người vẫn để cha mẹ Người thực thi luật cắt bì và dâng cho Thiên Chúa. (x. Lc 2,21-24) Chúa cũng nộp thuế và thi hành luật ngày Sabát, nhưng Người đã kiện toàn tất cả cách dứt khoát. Cốt lõi của luật là tình yêu, lòng nhân từ. Thế nên luật được làm ra nhằm phục vụ con người chứ không phải một cơ chế hay quyền lực nào. Luật vì con người, cho con người thăng tiến và được sống.

Trái lại, các kinh sư và người Pharisiêu luôn nệ luật. Họ thi hành luật cách cứng ngắc cốt chỉ để triệt hạ tha nhân. Cũng có thể họ chỉ áp dụng luật cho dân thường còn chính họ lại chẳng thi hành. Chính vì thế, Chúa đã nhắn nhủ các môn đệ “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” Vậy Luật và đức Công Chính mà Chúa mong các môn đệ và cũng muốn tất cả chúng ta, những Kitô hữu thực thi là gì?

– Đó là đừng giận ghét anh chị em mình. Vì “Ai giận anh em mình, ai mắng anh em mình là đồ ngốc, ai chửi anh em mình là quân phản đạo…đều bị phạt.“(x. Mt 5, 22) Chỉ nóng giận mắng chửi anh em đã là xúc phạm và phạm tội rồi. Chắc chắn là con người yếu đuối, trong cuộc sống ta sẽ dễ vấp phạm, nhưng Chúa khuyên ta hãy biết sống yêu thương, bác ái với nhau, làm hòa với anh em, tha thứ cho nhau, tôn trọng nhau, cảm thông và hiểu nhau. Thánh Phaolô cũng nhắc chúng ta hãy sống đức ái với nhau “Yêu thương thì nhẫn nhục, hiền hậu,…không nóng giận. Yêu thương thì tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả…“(x. 1Cr 13, 4-7) Và để ta xứng đáng đến trước Chúa với tâm hồn trong sạch và bình an, ta hãy mau đến với Bí Tích Hòa Giải để xin Chúa tha thứ và giao hòa với anh em, chứ “Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn, đừng để ma quỉ thừa cơ lợi dụng.”(Ep 4,26-27)

– Đó là giữ tâm hồn và thân xác trong trắng, vì tâm hồn chúng ta là ngai Thiên Chúa ngự và thân xác ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Vậy, với điều răn thứ 6 ta cần thực thi “Chớ làm sự dâm dục” và thứ 9 “Chớ muốn vợ chồng người.” Chúa còn muốn chúng ta thực hiện cách gắt gao hơn “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” Cái nhìn và tư tưởng ngoại tình đã sinh ra tội chứ không chỉ đến lúc hành động! Nếu chúng ta không biết kiềm chế bản thân từ trong ánh mắt, suy nghĩ, lời nói, ta sẽ dễ dẫn đến phạm tội. Chúa dạy ta cần ý thức và cảnh giác với những nguyên cớ dẫn đến tội, để ta tránh và quyết đoạn tuyệt, cho dù mất mát, đau thương hay phải hy sinh từ bỏ.( x. Mt 5, 29-30) Bởi vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa, Đấng hoàn thiện, Ngài không muốn chúng ta đánh mất Nước Trời, sa vào hỏa ngục.

– Đó là chu toàn luật hôn nhân một vợ một chồng. Hôn nhân là Bí Tích Chúa đã lập “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.”(Mt 19,6) Giá trị của đời sống hôn nhân ở chỗ trung tín, thủy chung. Ảnh hưởng đời sống xã hội, hôn nhân của Kitô hữu hiện nay đang phải đối diện với những thách đố về luân lý và sự chung thủy. Những nguy cơ dẫn đến ly dị là sự ngoại tình, là bất hòa và nóng giận, là thiếu hy sinh cho nhau, không đủ kiên nhẫn, cảm thông và tha thứ. Thế nên, với gia đình Kitô hữu, ta hãy biết thực thi giới răn yêu thương của Chúa, thể hiện cách thiết thực với người thân nhất của mình là vợ, là chồng, là con cái và hãy biết sống khiết tịnh trong bậc sống của mình.

– Đó là sống chân thật, đừng thề thốt. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà hàng thật hàng giả lẫn lộn, người thật người dối không thể nhận ra. Một không gian tràn đầy nghi ngờ vì sự thật như bị lãng quên và ai sống thật thì lạc lõng và quí hiếm. Chúa Giêsu nhắc chúng ta “Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” Mỗi Kitô hữu hãy khắc ghi Lời Chúa, sống và làm chứng cho chân lý giữa xã hội tha hóa hôm nay. Hãy làm chứng cho Chúa và Tin Mừng bằng đời sống chân thành, thật thà, giản dị. Chúa Giêsu, Đấng là Sự Thật, Đấng đến làm chứng cho Sự Thật. Theo Chúa, chúng ta được mời gọi sống thật trong từng lời nói, hành động đối với tha nhân. Hành xử thật thà trong cách sống; thật trong buôn bán, chăn nuôi, trồng tỉa để đem lại bình an, sức khỏe, niềm vui cho tha nhân. Bởi mọi gian dối, gian lận làm hại người, ta sẽ phải trả lẽ và sẽ lãnh hậu quả ngay trong cuộc sống này.

Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.“(Mt 5, 48) Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện trong việc thi hành Luật Chúa và Hội Thánh với Tình Yêu chứ không vụ hình thức và chỉ là bổn phận hay bị bắt buộc, như lời ĐGH Phanxicô nhắn nhủ “Đừng làm nô lệ cho Luật, nhưng Kitô hữu hãy làm nô lệ cho Tình yêu mến, bạn sẽ tự do.” Hãy tham dự Thánh Lễ, các Bí tích, cầu nguyện và thực hành việc bác ái vì yêu Chúa và yêu tha nhân. Hãy sống sâu hơn trong tâm hồn, yêu thương, tôn trọng anh chị em; chứ giận ghét, la mắng đã là xúc phạm, giết anh em rồi “Ai ghét anh em mình, thì là kẻ sát nhân.”(1Ga 3,15) Hãy tiết độ trong ánh nhìn, lời nói, bởi khi ước muốn là đã phạm tội, đã ngoại tình trong tư tưởng. Hãy sống bao dung, nhân hậu, thật thà với anh chị em. Ước mong sao từng Kitô hữu chúng ta biết sống can đảm và làm chứng cho Chúa bằng chính đời sống thánh thiện, đạo đức, yêu thương, chung thủy,  chân thật của mình cho thế giới hôm nay. Vì “ai yêu thương, thì đã chu toàn lề luật.“(x. Rm 13,10)

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tuân giữ luật Chúa và sống đời Kitô hữu vì lòng yêu mến Chúa, yêu thương anh em. Amen.

Về mục lục

.

KIỆN TOÀN LUẬT CŨ BẰNG LUẬT MỚI YÊU THƯƠNG

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 5, 17-37.

(17) “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. (18) Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.  (19) Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời. (20) “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. (21) “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; Ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà.  (22) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. (23) Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, (24) thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (25) Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. (26) Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng. (27) “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. (28) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. (29) Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi ; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. (30) Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi ; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục. (31) “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. (32) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình ; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình. (33) “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. (34) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. (35) Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giê-ru-sa-lem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. (36) Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. (37) Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.

2. Ý CHÍNH:

Tin Mừng hôm nay tiếp tục ghi lại các lời dạy của Đức Giê-su trong nhiều thời điểm khác nhau liên quan đến Tám Mối Phúc Thật làm thành một bài giảng dài gọi là Bài Giảng Trên Núi. Qua đọan này Người dạy dân chúng về tương quan giữa Người với Luật Mô-sê: Người đến không phải để hủy bỏ, nhưng để kiện tòan Luật Cũ của Mô-sê bằng Luật Mới của Người là mến Chúa yêu người.

3. CHÚ THÍCH:

– C 17-19: + Luật Mô-sê: Gồm 5 cuốn đầu của bộ Kinh Thánh Cựu Ước gọi là Ngũ Kinh như sau: Sáng Thế, Xuất hành, Lêvi, Dân số, Đệ Nhị Luật. + Lời các ngôn sứ: Là các sách ghi những lời tuyên sấm của các ngôn sứ. Kiểu nói Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ ám chỉ tòan bộ Kinh Thánh Cựu Ước. + Thầy đến không phải là để bãi bỏ…: Vì Đức Giê-su dạy một số điều xem ra không giống như Luật Mô-sê và lời giáo huấn của các ngôn sứ mà các Luật sĩ vẫn giải thích khi giảng dạy trong các hội đường Do thái. Chẳng hạn: Rượu mới bình mới (x Lc 5,37-39), Con Người làm chủ ngày sa-bát (x Mt 12,8), Con Người có quyền tha tội (x Mt 9,6), Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền (x Mt 7,29)… nên nhiều người nghĩ rằng Đức Giê-su đã  hủy bỏ Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ. Do đó, trong đọan này Đức Giê-su khẳng định Người đến không phải để hủy bỏ mà để kiện tòan Luật Mô-sê, bằng cách dạy người ta giữ Luật với tinh thần yêu mến Thiên Chúa thay vì vụ vào Luật theo nghĩa đen trong từng chi tiết. + nhưng là để kiện toàn: Đức Giê-su kiện tòan bằng cách Người thực hiện các lời ngôn sứ tiên báo về Đấng Thiên Sai (x Mt 2,23); Người rút lại điều khoản Luật cho phép ly hôn (x Mc 10,5-12); Người cố ý chữa bệnh trong ngày sa-bát, nhằm dạy môn đệ phải làm các việc tốt là chia sẻ phục vụ tha nhân, thay vì không được làm bất cứ việc gì (x Mc 2,27-28); Người cố ý không rửa tay trước khi dùng bữa nhằm dạy phải tẩy rửa tội lỗi trong lòng thay vì chỉ rửa tay chân hay tắm rửa ngoài thân xác mà thôi (x Mt 15,1-9.10-20)… + Một chấm một phết trong Lề Luật: Sau khi đã loại bỏ những điều Luật không phù hợp hoặc những điều nhỏ nhặt vụ hình thức, Đức Giê-su dạy môn đệ phải tôn trọng mọi điều khoản còn lại trong từng chi tiết của Luật Mô-sê (x Mt 9,17). + Ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời: Nhỏ hay lớn ở đây không phải về cấp bậc cao thấp, mà về lối sống được chấp nhận hay không trong Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập.

– C 20-26: + Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời: Sự công chính theo các kinh sư và người Pha-ri-sêu dạy là do sự tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết, bất kể chỉ ở hình thức bề ngòai và thiếu mất tâm tình bên trong. Còn sự công chính Đức Giê-su đòi môn đệ phải giữ Luật vì lòng yêu mến và nhằm tôn vinh Thiên Chúa. + Anh em đã nghe Luật dạy người xưa… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Đức Giê-su nêu ra 6 điều được Người kiện tòan trong Luật Mô-sê. + Chớ giết người… Ai giận anh em mìn…. Ai mắng anh em mình… Còn ai chửi anh em mình…: Luật Mô-sê chỉ cấm giết người thực sự. Nhưng Đức Giê-su kiện tòan bằng việc cấm gây đau khổ tinh thần như không được mắng chửi anh em, vì cũng có tội giống như thực sự đã giết hại và làm đổ máu người anh em mình. + đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng… đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt: Tuy những lời mắng chửi anh em là “ngốc, khùng” không đáng bị phạt nặng, nhưng chính sự giận ghét căm thù anh em mới đáng bị kết án và trừng phạt ở đời sau. + Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ: Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất chính là một cuộc sống mến Chúa yêu người. Do đó, trước khi dâng lễ vật trên bàn thờ, phải lo hòa giải với những ai đang bất hòa với mình. Việc làm hòa là điều kiện để lễ vật dâng lên xứng đáng được Chúa vui nhận. + Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công…: Cần làm hòa ngay khi còn sống. Đừng đợi đến lúc chết mà vẫn còn giận ghét anh em, vì bấy giờ họ sẽ bị kết án và phải đền tội  cân xứng là “trả hết đồng xu cuối cùng”.

-C 27-32: + Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình…Còn Thầy, Thầy bảo anh em biết:…: Luật Mô-sê cấm ngọai tình (x Xh 20,14; Ds 5,18). Tuy nhiên người ngọai tình thực sự bằng hành động mới có tội. Còn những việc trong đầu như ước muốn ngọai tình mà thôi thì chưa thành tội. Đức Giê-su kiện tòan bằng lời dạy: Ước muốn tà dâm trong tâm trí mà thôi cũng là phạm tội giống như đã phạm thực sự rồi. Do đó, người ta phải tránh mọi tư tưởng xấu và phải xa lánh dịp tội là những nguyên nhân dẫn đến hành động phạm tội. + Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi… Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã…: Kiểu nói cường điệu “móc mắt, chặt tay” ở đây nhằm nhấn mạnh phải tránh mọi dịp tội, thà chết chẳng thà phạm tội, thà hy sinh một phần thân thể mà được ơn cứu độ còn hơn có đầy đủ các phần thân thể mà toàn thân phải sa vào hỏa ngục. + Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Luật Mô-sê cho phép chồng ly dị vợ bằng cách trao cho vợ tờ giấy ly thư (x Đnl 24,1). Nhưng Đức Giê-su đã rút lại điều khoản này. Theo Người, sở dĩ Luật Mô-sê phải tạm thời cho phép ly hôn là do lòng dạ chai đá của người đương thời (x Mt 19,8-9). Đức Giê-su kiện tòan điều này qua lời dạy: Ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình và ai cưới người đàn bà bị bỏ kia, cũng phạm tội ngoại tình”. + Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp: Câu này không có trong Tin mừng Mác-cô (Mc 10,11-12) và Lu-ca (Lc 16,18). Hội Thánh không chấp nhận ly hôn vị muốn bảo vệ đặc tính vĩnh hôn như Lời Chúa dạy: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, lòai người không được phân ly” (Mt 19,6b). Người Tin lành và Chính Thống giải thích Chúa cho phép ly hôn nếu một bên ngọai tình. Còn các nhà chú giải Kinh Thánh Công Giáo giải thích trường hợp nói đây là hôn nhân bất hợp pháp, nghĩa là kết hôn trái với luật Chúa nên không được Hội Thánh công nhận. Do đó hai người không được tiếp tục chung sống như vợ chồng. Nếu Đức Giê-su cho phép vợ chồng ly dị vì lý do ngọai tình thì giáo lý của Người cũng đâu có gì khác và trổi vượt so với Luật Mô-sê. Thánh Phao-lô cũng cấm sự ly hôn và chỉ cho hai vợ chồng sống “ly thân”, nghĩa là không còn sống chung với nhau nhưng đồng thời cũng không được kết hôn với người khác (x 1 Cr 7,10-11).

-C 33-37: + Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả: Luật Mô-sê cho phép thề với điều kiện phải giữ trọn lời đã thề hứa. Nhưng Đức Giê-su kiện tòan điều này khi dạy không được thề. Tuy nhiên đậy chỉ là lời khuyên chứ không cấm vì lý do sau: Một là chính thánh Phao-lô cũng đã nhiều lần lấy danh Chúa mà thề như:” Phần tôi, có Thiên Chúa chứng giám, tôi xin lấy mạng sống mà thề rằng: …”(2 Cr 1,23; Rm 1,9; Gl 1,20…). Hai là Đức Giê-su có lần mặc nhiên chấp nhận lời thề của Thượng tế khi ông ta nói: “Tôi nại đến Thiên Chúa hằng sống, mà truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: Ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không ?” Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài nói đó…” (Mt 26,63-64). Ngày nay trong một vài trường hợp đặc biệt không biết rõ thực hư, Hội Thánh cũng đòi các tín hữu phải đặt tay trên Sách Thánh Kinh để thề, và phải tôn trọng tuân giữ lời đã thề (Sách GLCG Tân Định số 309 về điều răn thứ II).

4. CÂU HỎI:

1) Hãy trưng dẫn Đức Giê-su đã kiện tòan Luật Mô-sê trong những trường hợp nào ? 2) Phải chăng Đức Giê-su cho phép vợ chồng được ra tòa ly hôn để lấy người khác khi một trong hai người phạm tội ngọai tình ?  

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).

2. CÂU CHUYỆN:

1) CHIẾC NHẪN KỲ DIỆU:

Truyện cổ Đông phương có câu chuyện như sau: Ngày xưa có một vị đạo sĩ dâng cho vị Đại vương một chiếc nhẫn thần kỳ diệu và quý giá. Nó vô giá vì được làm bằng vàng mười và trên mặt nhẫn có gắn nhiều viên kim cương chiếu sáng lấp lánh. Ngoài ra chiếc nhẫn này còn kỳ diệu ở chỗ: Người nào đeo nó mà làm điều tốt thì chiếc nhẫn đang đeo trên ngón tay sẽ vừa khít và viên các kim cương sẽ phát ra ánh sáng lấp lánh. Nhưng nếu người đeo nhẫn làm điều gì thất nhân ác đức, thì chiếc nhẫn sẽ xiết chặt lại làm ngón tay đeo nó sưng to đau đớn. Từ ngày có đeo chiếc nhẫn thần này, vị Đại vương do luôn được nhẫn cảnh báo nên đã trở thành một vị vua anh minh nhân hậu, khiến thần dân kính phục yêu mến, và đất nước ngày một cường thịnh.

Mỗi người trong chúng ta cũng có một chiếc nhẫn kỳ diệu và quý giá là Lời Chúa và sự cáo trách của lương tâm. Nếu chúng ta làm điều thiện thì lương tâm sẽ bình an hạnh phúc. Nhưng nếu ta phạm tội có lòng thù ghét tha nhân thì dù không có ai khác hay biết, nhưng tiếng lương tâm vẫn cáo trách chúng ta. Tiếng ấy chính là tiếng Chúa khuyên ta làm lành lánh dữ.

2) SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU VÀ SỰ KHIÊM TỐN:

Gần đây tạp chí Reader’s Digest có đăng một câu truyện cảm động về tình yêu giữa hai vợ chồng như sau:

Có đôi vợ chồng nhà kia thường tranh cãi hơn thua với nhau. Lần kia, trong lúc đang to tiếng tranh cãi thì người chồng đột nhiên im lặng và ôn tồn nói với vợ rằng: “Thôi, chúng ta đã cãi nhau nhiều lần rồi mà đâu có ai chiến thắng. Vậy bây giờ thay vì cãi nhau, mỗi người chúng ta hãy lấy giấy bút viết ra những lỗi lầm của nhau trong một thời gian mười phút, xem ai có nhiều sai lỗi hơn nhé”. Người vợ liền đồng ý. Sau đó anh chồng lấy giấy ra và bắt đầu ngồi viết. Thấy vậy, cô vợ không chịu thua cũng ngồi xuống viết liên hồi. Cô kể ra mọi sai lỗi của chồng trong quá khứ mà cô vẫn còn nhớ. Cô cảm thấy rất hả hê khi trang giấy của cô mỗi lúc một nhiều thêm những sai lỗi của chồng. Sau mười phút, hai người trao bản cáo trạng cho nhau. Nhưng rồi sự lạ xảy ra là khi cầm đọc tờ giấy của chồng, nét mặt cô vợ từ vẻ hả hê đã biến đổi vì hối hận. Cô vội chạy lại giật lấy tờ giấy vừa trao cho chồng và ôm choàng lấy anh mà khóc. Sở dĩ kết quả bất ngờ tốt đẹp như vậy là do trên tờ giấy của anh chồng, cô chỉ đọc thấy dòng chữ như sau: “Anh rất yêu em và nhiều lần đã có lỗi với em. Anh rất hối hận và ngàn lần xin lỗi em. Hãy tha thứ cho anh nhé em yêu!”.

3) PHẢI NÊN THÁNH TOÀN DIỆN:

Một hôm, một người tín hữu gặp một người bạn vô tín. Người bạn vô tín lên tiếng hỏi:

– Anh mới đi đâu về vậy?

– Tôi vừa từ nhà thờ về.

– Hôm nay, ở nhà thờ anh nghe giảng về đề tài gì?

– Giảng về vấn đề người tín hữu phải nên thánh.

– Vậy anh đã nên thánh chưa?

Anh tín hữu đáp:

– Anh cứ coi mặt tôi đây thì sẽ biết.

– À để tôi coi thử.

Nói rồi, anh ta tát một cái thật mạnh vào mặt anh tín hữu. Anh này liền nổi giận chửI mắng anh bạn vô tín kia và còn muốn đánh lại. Anh bạn vô tín liền nói:

– Anh nên thánh thì lẽ ra đã phải nên giống như Chúa Giê-su để có lòng từ bi thương xót và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ thù ghét bách hại mình mới phải. Thế tại sao anh lại chửi mắng và còn muốn đánh tôi khi tôi mới chỉ tát anh có một cái? Anh tín hữu trả lời:

– Tôi đã nói với anh là tôi mới chỉ nên thánh ở trên mặt. Còn cái miệng và tay chân thì vẫn chưa nên thánh, nên tôi có quyền đánh anh được.

Anh bạn vô tín liền vui vẻ nói:

– Ôi, tôi tưởng anh đã nên thánh trọn vẹn. Chứ nếu anh mới nên thánh nửa vời như vậy thì anh đâu có hơn gì tôi ? Tôi đề nghị nếu đã quyết tâm nên thánh thì anh đã phải nên thánh cả hồn lẫn xác, nên thánh từ trong tư tưởng đến lời nói và việc làm nữa mới đúng.

4) HẬU QUẢ CỦA SỰ THIẾU KHOAN DUNG:

Trong một trường nội trú kia, một số học sinh thường hay to tiếng cãi lộn và đánh nhau làm mất trật tự và gây náo loạn trong trường. Một hôm thầy giám thị yêu cầu mỗi học sinh phải đeo một chiếc túi ny-lông và nhà trường sẽ cung cấp một bao đầy các củ khoai tây nhỏ để ở sọt cuối hành lang. Sau đó, thầy giám thị yêu cầu các em mỗi khi bị bạn bè xúc phạm, thay vì tranh cãi hoặc đánh lộn nhau như trước, thì hãy lẳng lặng đến sọt cuối hành lang lấy ra một củ khoai, lột vỏ và viết ngày giờ cùng tên người kia trước khi bỏ củ khoai đó vào túi ny-lông đeo luôn bên mình. Trong ngày các em phải luôn đeo túi ny-lông: khi đi học, ăn cơm hay cả lúc đi ngủ… Sau vài ngày, túi của nhiều em học sinh đã có nhiều khoai tây. Sự phiền phức khi phải mang vác túi khoai khiến các em cảm nghiệm được gánh nặng tinh thần đang phải chịu đựng. Sau mấy ngày, khoai tây bắt đầu phân huỷ thành một thứ nhầy nhụa hôi hám và các em chỉ muốn mau vứt được nó đi.

Bấy giờ, thầy giám thị mới tập trung và nói: Các em thấy đó. Sự giận dữ một ai đó chỉ là một gánh nặng cho bản thân chúng ta, nó làm chúng ta mất nhiều thời gian để quan tâm tới nó; Nhiều khi còn gây cho người chung quanh chúng ta phải bực bội nữa… Như vậy tha thứ chính là cách làm cho tâm hồn chúng ta được thanh thản, giúp cuộc sống của chúng ta luôn bình an, và là phương thế mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Thế nhưng, nói thì dễ nhưng làm thật không dễ chút nào. Vì tính tự ái, vì thiếu lòng quảng đại, nên chúng ta thường nuôi dưỡng sự hận thù và như vậy là ta đã tự làm khổ mình và tha nhân bên cạnh.

5) THẾ NÀO LÀ MỘT VỊ THÁNH HOÀN HẢO ?

Có một thanh niên đến xin tu học với một vị ẩn sĩ trên núi nổi tiếng nhân đức thánh thiện. Sau vài năm theo học, một hôm anh ta đến xin thầy cho xuống núi hành đạo, vì thấy mình đã trở thành một người thánh thiện. Bấy giờ vị thầy mới hỏi: “Từ ngày lên núi ở với thầy đến nay con đã đạt được mức độ thánh thiện thế nào rồi?”. Anh tu sĩ nhanh nhảu khoe: “Con đã sống rất khổ hạnh, đã làm nhiều việc hành xác như: không ăn thịt cá mà chỉ ăn rau cỏ, kiêng cữ uống rượu, các lạc thú xác thịt và tránh những món ăn ngon. Ban đêm con nằm ngủ trên nền đất lạnh giá và còn đánh tội 3 lần mỗi ngày!”. Nghe vậy, vị thầy liền mỉm cười và ôn tồn nói: “Sự thánh thiện của con cũng khá đó. Tuy nhiên, con hãy nhìn ra sân sau nhà mà quan sát con lừa của chúng ta: Ban ngày nó cũng chỉ ăn cỏ ngoài cánh đồng, ban đêm cũng chỉ nằm ngủ trên nền đất lạnh giá. Nó cũng không uống rượu không hưởng lạc thú xác thịt. Thân thể của nó cũng bị người chăn đánh đòn ít nhất 3 lần mỗi ngày. Thầy nói thật cho con biết: Hiện giờ sự thánh thiện của con chỉ ở mức thấp nhất, và đừng nói là đã trở nên một vị thánh! ».

Anh tu sĩ nghĩ lầm rằng: khi anh tuân giữ một số hình thức tu đức là đã đạt được một mức độ thánh thiện cao, đang khi theo thầy thì sự thánh thiện của anh mới chỉ bằng con lừa mà thôi!

3. SUY NIỆM:

1) ĐỨC GIÊ-SU LUÔN TUÂN GIỮ LUẬT MÔ-SÊ:

-Trong thời thơ ấu, khi mới sinh được 8 ngày, Hài Nhi Giê-su đã được cha mẹ tổ chức lễ cắt bì như Luật Mô-sê dạy và đã được cha nuôi là thánh Giu-se đặt tên là Giê-su (x Lc 2,21). Rồi bốn mươi ngày sau, cha mẹ lại đem Hài Nhi Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Chúa như đã chép trong Lụật Chúa (x Lc 2,22-24). Năm 12 tuổi, trẻ Giê-su đã theo cha mẹ hành hương đi lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua theo tập tục ngày Đại lễ (x Lc 2,41-42).       

-Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su tiếp tục tuân giữ Luật Mô-sê: Người đã giới thiệu Lề Luật như là điều kiện để gặp gỡ Chúa Cha: “Nếu anh muốn vào cõi sống thì hãy giữ các điều răn.” (Mt 19, 17). Người tóm lại Lề Luật trong hai điều là mến Chúa hết lòng và yêu người như mình (x Lc 10,25-28). Người ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ theo Luật Mô-sê truyền trước cuộc khổ nạn (x Lc 22,7-8).

2) ĐỨC GIÊ-SU KHÔNG HỦY BỎ NHƯNG KIỆN TÒAN LUẬT MÔ-SÊ:

Luật Mô-sê tuy đã có sự tiến bộ nhiều vào thời đại bấy giờ, nhưng vẫn còn thiếu sót cần phải được Đức Giê-su kiện toàn như Người đã nói: “Tôi không đến để bãi bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn”. Đức Giê-su đã kiện toàn Luật Mô-sê như sau:

– Luật Mô-sê chỉ kết tội khi có sự giết người thực sự. Còn Đức Giê-su kiện toàn Luật Mô-sê bằng cách cấm cả sự tức giận, nói lời chửi rủa xúc phạm đến tha nhân. Người còn đòi người đi dâng lễ phải về nhà làm hòa với kẻ đang có sự bất bình với mình, để xứng đáng dâng lễ vật cho Thiên Chúa.

– Luật Mô-sê chỉ phạt tội đã ngoại tình thực sự. Còn Đức Giê-su kiện toàn bằng việc cấm cả việc nhìn xem người nữ và ước ao phạm tội với họ trong lòng.

– Luật Mô-sê cấm phản bội lời đã thề với Thiên Chúa. Còn Đức Giê-su kiện toàn bằng lời dạy phải luôn nói thật và tránh sự thề thốt, trừ trường hợp đặc biệt giáo luật buộc phải thề.

3) KIỆN TOÀN LUẬT CŨ BẰNG LUẬT MỚI YÊU THƯƠNG:

– Luật được lập ra vì ích lợi cho lòai người: khi có đối lập giữa một bên là giữ Luật Cũ của Mô-sê với bên kia là Luật Mới yêu thương của Đức Giê-su. Người dạy các môn đệ phải ưu tiên thực hành giới luật yêu thương. Trong Tin Mừng hôm nay, khi vào ngày sa-bát Luật buộc nghỉ việc, nhưng Đức Giê-su vẫn chữa bệnh cho một người đàn bà bị còng lưng suốt mười tám năm. Ông trưởng hội đường thấy vậy đã hạch Đức Giê-su sao không chữa trong sáu ngày Luật cho phép làm việc mà lại chữa trong ngày sa-bát Luật buộc nghỉ việc? Bấy giờ Người đã trả lời như sau: “Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước? Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao ?” Nghe Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng, vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện (Lc 13,15-17).

– Phải vượt qua Luật Cũ của Mô-sê vì Luật Mới Bác Ái cao trọng hơn: Thánh Phao-lô cũng dạy giữ luật bác ái là chu toàn Luật Chúa: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu tòan Luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2). Thánh Gia-cô-bê cũng đồng quan điểm khi nói: “Đức tin không có hành động (đức ái) thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Từ khi ra giảng đạo, Đức Giê-su đã thay Luật Cũ của Mô-sê bằng Luật Mới yêu thương của Người: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

– Luật Mới yêu thương gồm tóm trong Tám Mối Phúc: Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã công bố ý hướng ban đầu của Thiên Chúa là lấy tình yêu làm nền tảng mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như yêu chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”.

– Ngày nay sự công chính hay thánh thiện không hệ tại ở việc tuân giữ Luật Mô-sê, mà hệ tại ở đức tin vào Đức Giê-su thể hiện qua việc thực hành đức cậy và đức mến. Tông đồ Phao-lô đã viết: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” (Rm 3,28). Nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hóa ra Đức Ki-tô đã chết vô ích hay sao? “(Gl 2,21). Thánh Au-gus-ti-nô cũng dạy: “Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm” (Ama et fac quod vis). Vì “Ai yêu người thì đã chu tòan Lề Luật” (Rm 13,8), và tình yêu thương là dấu chỉ chúng ta là môn đệ đích thực của Đức Giê-su như Người đã dạy: “Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

4) PHẢI YÊU THƯƠNG THA NHÂN CỤ THỂ THẾ NÀO?

Trong Mười Điều Răn Đức Chúa Trời trao cho ông Mô-sê có điều thứ Năm: “Chớ giết người. Ai giết người là phạm tội nặng và sẽ phải đền tội” (x. Lv 24,17).

– Còn Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ khi cấm cả sự giận ghét và mắng chửi tha nhân: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23). Người dạy chúng ta hãy yêu thương và tôn trọng nhau bằng thái độ bao dung nhân hậu, cảm thông thứ tha, lịch sự hòa nhã, không la mắng chửi rủa…, nhưng sẵn sàng đi bước trước tha thứ và giơ tay ra làm hòa trước khi dâng lễ tại nhà thờ.

– Nhìn thực tế cuộc sống hôm nay, hầu như mọi người chúng ta đều vẫn giữ luật « Chớ giết người ». Nhưng chúng ta còn chưa biết tôn trọng tha nhân. Nhiều người tín hữu viết chửi bới nhau trên các phương tiện truyền thông như internet, facebook… Những lời bình luận của chúng ta nhiều khi gay gắt phê phán, đánh giá hồ đồ chủ quan đã gây hậu quả khó lường… Khiến những kẻ ghét đạo reo mừng: « Xem kìa, bọn chúng thù ghét nhau dường nào ! ». Tuy chúng ta không ra tay giết người, nhưng do sự không tôn trọng phẩm giá của con người là tạo vật cao quý của Thiên Chúa, một số người chúng ta đã cho người khác uống một viên thuốc, nói ra một lời kích động, lời tư vấn về sức khỏe, sắc đẹp, hạnh phúc gia đình… là chúng ta cũng có thể đã giết hại hằng trăm thai nhi phải chết trong bụng mẹ, mà kẻ thủ ác có thể là cha mẹ giết con, vợ chồng giết nhau, chủ giết tớ, quan trên giết nhân viên cấp dưới hoặc làm hại dân đen thấp cổ bé miệng…

4. THẢO LUẬN:

1) Có hai lọai thước đo lòng đạo đức: Thước đo của người Biệt phái dựa vào việc có tuân giữ Luật trong từng chi tiết, và dấu chỉ người môn đệ của Chúa dựa vào việc sống tình mến Chúa yêu người. Vậy bạn cần chọn lọai thước đo nào? 2) Đức Giê-su coi việc làm hòa với tha nhân trọng hơn việc dâng của lễ trên Đền thờ. Vậy chúng ta cần làm gì khi đi dâng lễ mà còn để lòng giận hờn ganh ghét tha nhân ?

5. NGUYỆN CẦU:

-LẠY CHA LÀ THIÊN CHÚA TÌNH YÊU. Xin cho chúng con gia tăng lòng tin yêu Cha và nhìn thấy Chúa Giê-su Con Cha đang bị bỏ rơi nơi những người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh đang sống bên chúng con. Xin Chúa cũng giúp chúng con thực hành lời Chúa Giê-su hôm nay là biết tha thứ, sẵn sàng làm hòa với những người đang bất thuận với chúng con, để chúng con nên con thảo luôn đẹp lòng Chúa Cha và nên môn đệ đích thực của Chúa Giê-su.

-LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật trong Tin Mừng hôm nay bằng việc thực thi Đức Ái cụ thể theo Lời Chúa dạy. Xin cho chúng con sẵn sàng tuân giữ 10 Điều Răn Đức Chúa Trời và 5 Điều Luật Hội Thánh trong tâm tình yêu mến. Nhờ đó việc giữ Luật của chúng con sẽ làm vinh danh cho Thiên Chúa và giúp nhiều người được hưởng ơn cứu độ của Chúa.

-X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Trong nhiều năm qua các bác sĩ và chuyên viên dinh dưỡng cho chúng ta biết thức ăn gì chúng ta đưa vào thân thể sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta. Ngày nay chúng ta biết và hiểu rõ sự kiện này, điển hình là ăn thịt, cá và hoa quả tẩm hay nhiễm những hóa chất độc sẽ gây ung thư về sau.  Những nhà tâm lý, xã hội và những người khôn ngoan cũng cho chúng ta biết điều hay tư tưởng gì chúng ta cho vào tâm trí sẽ ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh cuộc sống về tâm lý, cảm xúc và xã hội của chúng ta. Thí dụ như những phim ảnh đồi trụy về tình dục, hung bạo, dữ tợn và giết người trên TV, video game hay internet sẽ truyền vào tâm trí trẻ con cũng như người lớn những tư tưởng xấu xa, và sẽ có những ảnh hưởng không tốt đến đời sống sau này, và còn gây ra những trạng thái hỗn độn, tội phạm, cướp của, giết người trong xã hội, và làm cho những giá trị hôn nhân, cuộc sống gia đình xa xút, bất an.  Thông thường trong thực tế có sự liên hệ và ảnh hưởng giữa thức ăn và tư tưởng, đến sức khỏe cũng như thái độ và cách hành xử của con người.  

Ông bà anh chị em thân mến. Điều mà tôi nêu ra trên đây nối kết với điều mà Chúa Giê-su dạy bảo chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay. Chúa cho chúng ta biết căn nguyên của tội lỗi, cũng như dạy chúng ta sống đúng lề luật, giáo huấn của Chúa. Chúa cho chúng ta biết cội rễ của 4 tội: giết người, ngoại tình, ly dị và thề gian, và dạy chúng ta phải hành xử ra sao và phải sống như thế nào.  Chúa cho chúng ta biết nguyên nhân, tư tưởng đưa đến sự phạm tội một cách rất rõ ràng. Thí dụ như về tội giết người, Chúa cho chúng ta biết nguyên nhân là thái độ phẫn nộ, giận dữ, nguyền rủa và bất bình gây ra.  Nguyên nhân của tội ngoại tình bắt đầu từ sự ước ao trong tư tưởng.  Tình trạng vợ chồng ly dị đưa đến tội ngoại tình.  Ngoài ra, Chúa còn cho chúng ta biết về luật cấm thề gian dối và dạy chúng ta luôn trung thành với Chúa.          

Chúng ta biết cuộc sống đạo đức, khiêm nhường, luân lý, bác ái, yêu thương, quảng đại, hy sinh, tha thứ, phục vụ và hiệp nhất bắt nguồn, khởi đầu từ những tư tưởng hiện hữu trong tâm trí chúng ta, hay một cách khác từ Lời Chúa trong tâm hồn phát ra bên ngoài.  Tương tự, Chúa dạy chúng ta giết người không những là tội sẽ bị luận phạt, mà những sự phẫn nộ, giận dữ, ghen ghét và hận thù trong thâm tâm cũng sẽ bị luận phạt.  Cho dù chúng ta không giết người, và tuy những tư tưởng này chỉ hiện hữu trong thâm tâm, cũng sẽ ảnh hưởng đến không những thái độ, cuộc sống của chính chúng ta, mà còn ảnh hưởng đến sự liên hệ giữa chúng ta với người khác.  Và điều này cũng thực sự liên quan đến vấn đề ngoại tình, ly dị, thề gian, làm chứng dối.  Một điều tôi muốn ông bà anh chị em lưu ý ở đây là tôi không đề cập đến những sự giận dữ thoáng qua gây ra bởi thái độ một người nào đó, hay những cảm tình thoáng qua do sự lôi cuốn của người nào.  Tôi muốn nhấn mạnh đến sự muốn giữ và nuôi dưỡng những tư tưởng đó trong thâm tâm.     

Bài Tin mừng còn cho chúng ta thấy một thái độ khác cũng được Chúa coi như ngang hàng với tội sát nhân, giết người, đó là hành động nguyền rủa, nói xấu, phỉ báng và vu khống. Giết người có 2 hình thức, một là giết thân xác và hai là giết thanh danh.  Khi chúng ta nguyền rủa, nói xấu hay vu khống cho người khác, chúng ta làm mất hay giết thanh danh của họ. Cho nên, là những Ki-tô hữu, Chúa dạy chúng ta một phương cách là làm hòa và phải biết tha thứ. Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa dạy chúng ta phải có một đời sống hiền hòa, nhân từ và quảng đại, Chúa nói: “Phúc cho những ai hiền hòa, vì họ sẽ được Nước Trời là cơ nghiệp. Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.”

Có một câu chuyện về một tài tử nổi tiếng tên là Landon, đã qua đời cách đây mấy năm.  Vào một buổi chiều mùa hè, ông đang lái xe trên xa lộ về nhà.  Trời nóng nực và giao thông rất bận rộn, tắc nghẽn. Xe cộ lách qua lách lại giữa những tiếng còi inh ỏi và la hét chửi thề của tài xế.  Thình lình một tài xế mở cửa và tiến đến chiếc xe trước nổ súng và hạ sát người tài xế. Ông Landon cảm thấy rùng mình kinh sợ khi nhìn thấy cảnh tượng sát nhân trước mắt.  Sau khi lấy lại bình tĩnh, ông tự hỏi tại sao giận dữ, thù hằn và giết người xảy ra khắp nơi?  Tại sao con người thù hằn, ghen ghét nhau như thế?  Nếu con người sống hiền hòa thì sẽ ra sao?

Lúc đó tâm trí ông trở về với quá khứ lúc ông còn nhỏ.  Ông nhận ra những sự giận dữ, thù hằn, ghen ghét và tranh chấp thường xảy ra trong gia đình ông và những người hàng xóm chung quanh. Thình lình một tư tưởng sáng loè ra trong tâm trí, thúc dục ông thực hiện một chương trình TV đặt trọng tâm vào sự hiền lành, hòa thuận.  Ông nghĩ rằng đây chính là câu trả lời chính đáng cho những vấn đề xảy ra trong cuộc sống và trong xã hội.  Từ đó, ông đã thực hiện một chương trình có tên là “Highway to Heaven”  xin tạm dịch là “Xa lộ dẫn đến Thiên Đàng.”  Mỗi show TV có một chủ đề trong Tám Mối Phúc Thật.  Chương trình TV này rất nổi tiếng trong những thập niên 70, 80, và có những ảnh hưởng rất lớn trong xã hội.

Ông bà anh chị em thân mến. Tư tưởng như những hạt giống chúng ta gieo vào thủa vườn.  Hạt giống nào chúng ta gieo sẽ quyết định cho cây nào sẽ mọc lên.  Tư tưởng nào chúng ta quyết định gieo vào tâm hồn của chúng ta sẽ ảnh hưởng đến thái độ và cuộc sống chúng ta. Hôm nay, Chúa muốn gieo hạt giống Lời Chúa vào trong tâm hồn chúng ta, để đời sống chúng ta phản chiếu giáo huấn Ngài dạy, để trở thành ánh sáng và chứng nhân cho Chúa trong xã hội đầy cám dỗ, sự dữ và gian dối hôm nay. Xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan biết chọn và sống thánh ý Chúa, xứng đáng là người được Chúa yêu thương và tiền định cho hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Về mục lục

.