Lời Chúa Năm C CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH. NĂM C

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH. NĂM C

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_C

Lời Chúa: Cv 15,1-2.22-29;  Kh 21,10-14.22-23;  Ga 14,23-29

——-

Mục lục

1. Di ngôn của Thầy  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tự do trong Chúa Thánh Thần  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

3. An bình  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

4. Vâng lời và bình an (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Giữ Lời Thầy  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Bình an của Chúa. (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

7. Xây đền thờ cho Chúa Ba Ngôi  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

8. Suy niệm Chúa Nhật 6 Phục sinh_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

9. Cuộc sống mới  (Lm. Nguyễn Hữu Thy)

10. Hãy giữ lời Thấy  (Lm. Nguyễn Đức Trung)

11. Bình an của Chúa- (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)

12. Đức Giêsu vẫn hiện diện (Lm. Đinh Lập Liễm)

13. Nợ tình  (Trầm Thiên Thu)

14. Một đời tri ân  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

15. Thầy ban bình an cho anh em (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

16. Chúa ThánhThần luôn bảo trợ Giáo hội và các tín hữu  (Lm.Giuse Đỗ Đức Trí)

17. Yêu thương là chu toàn lề luật  (Lm. Giuse Nguyễn)

18. Chúa luôn có mặt (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

19. Bình an đích thực của Chúa  (Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

20. Ở lại trong Thầy (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

21. Sự bình an của Đức Giê-su (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

22. Bình an là kết quả của tình yêu  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

23. Ra đi và đến cùng anh em  (JM. Lam Thy, ĐVD)

24. Yêu mến và giữ luật chỉ là một  (Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)

25. Trấn an (Lm. Vũ Đình Tường)

26. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 6 Phục sinh_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

27. Chúa Nhật 6 Phục sinh_C.  (Lm. Antôn)

 

Mục lục

1. Bình an và sự thật (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Trong và ngoài tình yêu (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Giữ lời hứa rất khó (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Thánh Thần tình yêu được ban tặng  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

5. Muốn được bình an, hãy yêu mến và tuân giữ lời Chúa (Lm.Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Hành động theo tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Tại sao lại tỏ mình ra cho con?  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

8. Định luật thương xót (Trầm Thiên Thu)

9. Bình an Thiên quốc (AM. Trần Bình An) 

10. Thừa kế di sản lòng thương xót  (JM. Lam Thy, ĐVD)

11. Ánh sáng soi đường (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

12. Ai yêu mến Thầy (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

13. Chúa Thánh Thần tiếp nối con đường thương xót (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

14. Môn đệ của tình yêu (Dã Quỳ)

15. Vượt qua cơn khủng hoảng đức tin (Lm. Đan Vinh – HHTM)

16. Chúa Nhật 6 Phục sinh_C  (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

17. Bình an nội tâm  (Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

18. Bình an của Chúa (Huệ Minh)

19. Thánh Thần và chúng tôi (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa) 

20. Đến và ở lại  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

 

DI NGÔN CỦA THẦY

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chuẩn bị mừng lễ Thăng Thiên, Phụng vụ cho chúng ta nghe những lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ vào cuối bữa tiệc ly. Đây là những di ngôn của một người Thày đối với các môn sinh, là những người từng bao năm gắn bó và chia sẻ ngọt bùi. Những lời này đã làm nên tôn chỉ cốt lõi của cộng đoàn tín hữu sau này. Di ngôn của Chúa không phức tạp dài dòng, chỉ vỏn vẹn mấy câu cốt lõi: Hãy giữ lời Thày. Hãy yêu mến nhau. Hãy an tâm, đừng xao xuyến. Những lời này đã đem lại sức mạnh và nghị lực thiêng liêng cho các môn đệ vào thời Giáo Hội sơ khai, cho các tín hữu suốt bề dày hai mươi thế kỷ và cho chúng ta hôm nay.

“Hãy giữ lời Thày!”. Đây không phải là lần đầu tiên Chúa nói câu này. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa là lời mời gọi thường xuyên trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Chúa đã so sánh ai nghe và tuân giữ Lời Chúa giống như xây nhà trên đá, luôn vững bền trước mọi phong ba bão táp của cuộc đời. Nhờ xây dựng đời mình trên Lời Chúa, mà các thánh đạt tới mức hoàn thiện ngay khi còn sống ở đời này. Lời Chúa vừa ngọt ngào ban niềm vui, nhưng Lời Chúa cũng như “thuốc đắng dã tật”, sửa phạt khi chúng ta lầm lỗi. Lời Chúa không để cho chúng ta ngủ yên trong vỏ bọc ích kỷ của cái tôi tầm thường nhỏ mọn, nhưng mở rộng tâm hồn để đến với tha nhân. Đức Maria là một mẫu gương cho chúng ta về việc tuân giữ Lời Chúa. Thánh Luca ghi lại, khi Mẹ chứng kiến vui buồn xảy đến với Đức Giêsu, Mẹ ghi nhớ và suy niệm trong lòng (x. Lc 2051). Giữ lời Thày là bằng chứng hùng hồn của tình yêu dành cho Thày.

“Hãy yêu mến nhau!”. Yêu mến là cốt lõi giáo huấn Kitô giáo. Đây cũng là lời mời gọi thường xuyên của Chúa Giêsu. Có thể nói lời mời gọi yêu thương trải dài trên từng trang của Tin Mừng. Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi suông, mà chính Người làm gương cho các môn đệ. Người đã rửa chân cho các ông vào cuối bữa tiệc ly. Đây vừa là cử chỉ yêu thương đối với các ông, vừa là một gương mẫu sống động để qua đó, Người khẳng định với các ông: yêu thương và phục vụ đi đôi với nhau. Ngay từ khi Tin Mừng được loan báo trên quê hương Việt Nam chúng ta, những người lương dân chưa biết danh xưng của tôn giáo mới có nhiều người theo. Họ căn cứ vào những gì người Công giáo làm hằng ngày mà gọi Đạo Công giáo là “Đạo Yêu Thương”. Tiếc rằng trong cuộc sống hôm nay, hai từ yêu thương có nguy cơ trở thành câu khẩu hiệu và lý thuyết vô hồn. Đây đó tại một số nơi, trong các bài phát biểu, các bài viết, người ta nói đến yêu thương như một công thức, còn trong thực tế thì ngược lại. Tình trạng xung đột, chia rẽ và khép kín của một số cộng đoàn đã làm biến dạng hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô.

“Hãy an tâm, đừng xao xuyến!”. Giữa bối cảnh xã hội đầy bất an hôm nay, lời khuyên hãy an tâm dễ bị hiểu như một sự trấn an giả tạo nhằm ru ngủ người nghe. Tuy vậy, nếu chúng ta có niềm xác tín nơi tình yêu của Chúa, tin Ngài là Đấng dẫn dắt cuộc đời chúng ta, thì làm sao chúng ta còn lo lắng buồn phiền. Bởi lẽ, lo lắng cũng không làm cho cuộc sống của chúng ta kéo dài thêm, dù chỉ một gang tay (x. Mt 6, 27). Nếu chúng ta có thể an tâm, là vì chúng ta có ơn Chúa Thánh Thần. Ngài luôn hoạt động trong Giáo Hội để hướng dẫn Giáo Hội trong cuộc lữ hành trần gian. Bài đọc I kể lại một biến cố quan trọng trong lịch sử, đó là Công đồng đầu tiên của Kitô giáo, được tổ chức tại Giêrusalem vào khoảng năm 46 sau Công nguyên. Các tông đồ đã ý thức trách nhiệm của mình trước những ý kiến dư luận trái ngược nhau về những thực hành trong Đạo Do Thái như cắt bì, ăn thịt cúng, tuân giữ Luật ông Môisen… “Văn kiện” đúc kết của Công đồng rất đơn sơ, nhưng nêu rõ “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”.  Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần hướng dẫn suốt bề dày của lịch sử, giữa những thăng trầm thử thách. Cũng trong những di ngôn, Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Chúa Thánh Thần vừa bảo trợ Giáo Hội, vừa soi sáng cho Giáo Hội nhớ lại giáo huấn của Chúa Giêsu, để luôn thực hành những gì Chúa đã chỉ dạy.

“Hãy giữ lời Thày. Hãy yêu mến nhau. Hãy an tâm, đừng xao xuyến”. Khi thực hiện những lời khuyên này, chúng ta cảm nhận sâu xa sự hiện diện của Chúa Giêsu, mặc dù Người đã về trời. Xác tín vào sự hiện diện và tình yêu thương của Chúa, tuy còn sống ở trần gian, chúng ta đã được hưởng hạnh phúc tương lai. Trong một thị kiến, Thánh Gioan tông đồ đã thấy những hình ảnh về Giêrusalem (Bài đọc II). Đây là một cách diễn tả hạnh phúc thiên đàng, ở đó, tình yêu, an bình và chân lý sẽ ngự trị. Không còn gian dối và mưu mô. Không còn những toan tính vụ lợi trần tục, nhưng tất cả đều được vinh quang Thiên Chúa bao trùm trong một nghi lễ phụng vụ thiên quốc, tràn đầy hạnh phúc và niềm vui.

“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” Hãy nghe những lời tâm huyết của Chúa. Đó là di ngôn của người sắp đi xa. Yêu mến Thày là cội nguồn của bình an và là bảo đảm của hạnh phúc hôm nay cũng như suốt đời.

Về mục lục

.

TỰ DO TRONG CHÚA THÁNH THẦN

Lm Giuae Hoàng Kim Toan

Hoa trái của Chúa Thánh Thần là bình an, hoan lạc. Bình an Thánh Phao lô nói tới không như thế gian ban tặng, bình an đó chính là Chúa Kitô ngự trong tâm hồn. Có hai điều chia sẻ: Thoát khỏi sợ hãi từ thư Thánh Phê rô và kinh nghiệm về Thiên Chúa tình yêu của Thánh nữ Teresa d’ Avila.

Thoát khỏi sợ hãi.

Một trong bảy ơn Chúa Thánh Thần là ơn can đảm. Thường chỉ biết cách chung là can đảm để chống lại sợ hãi. Không hẳn như vậy! Nhiều người cho thấy, chống lại những sai lầm của  mình thường không thành công. Do nhiều dấu chứng thừa kế “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại.” (1 Pet 18).

Tự mình thoát khỏi những ràng buộc của tội lỗi thì rất khó. Thi hào R. Tagore cũng đã viết về tấm khăn liệm cuộc đời mà cứ muốn ôm lấy. “Chướng ngại trong tối thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau. Tôi chỉ thèm có tự do giải thoát, nhưng lại thấy hổ thẹn khi mong đợi ngóng chờ… Vải liệm bao thân tôi là khăn liệm bụi bậm và chết chóc; tôi ghét vô cùng, ấy thế mà vẫn cứ yêu thương ôm vào lòng.” (bài số 28, Lời Dâng, R. Tagore).

Có biết bao điều thừa kế từ những thế hệ trước, dù tốt nhưng không còn phù hợp với những gì đang xảy ra nữa, cũng là những trở ngại. Chẳng hạn như các khuyến dụ xưa về tội lỗi là mất linh hồn, là chết đời đời, cần xa lánh tội lỗi. Sống đối phó, tránh né, cố gắng ép mình khỏi sa vào tội, cuối cùng vẫn làm rối tung cuộc sống. Có quá nhiều cám dỗ hơn xưa, không thể bịt mắt, bịt tai, không nghĩ và không làm. Một chuỗi rắc rối khi cứ tự mình loay hoay ra khỏi sự dữ bao quanh. Cần Có Chúa!

Thánh Phê rô viết thêm để ý thức: “anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô.” (1Pet 19). Thánh Phêrô đã kinh nghiệm về ơn giải thoát do chính Chúa Giê su thực hiện cho ngài ở bờ hồ Tiberia. Chúa biết rõ con người của ta, Chúa yêu thương ta như chính ta là và mỗi người đều rất quan trọng với Chúa. Chúa hiện ra với Phê rô sau mẻ cá đầy, và Chúa muốn Phê rô xác định một điều: “Con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21, 15). Chỉ cần một câu trả lời xác tín: “Chúa biết, con yêu mến Chúa”. Bấy nhiêu thôi, cứ lập đi lập lại nhiều lần trong ngày, trong lời cầu nguyện, những điều khác Chúa cứu chữa và giải thoát khỏi ràng buộc.

Tự do trong Chúa. Chúa Giê su dạy ta cầu nguyện luôn, Chúa Thánh Thần kêu cầu cho ta, tháp nhập ta vào trong Chúa Giê su, ta được kêu lên: “Abba, Cha ơi” (Gl 4, 6). Trong Chúa Thánh Thần, ta được biến đổi, được giáo hoá, được chữa lành, cho ta được giải thoát khỏi ràng buộc. Như trong ngày lễ ngũ tuần, Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Không còn sợ hãi, các môn đệ ra khỏi phòng đóng kín, ra đi loan báo Tin Mừng giải thoát.

Kinh nghiệm về tình yêu

Chúa Thánh Thần là Đấng tình yêu, nối kết Chúa Cha và Chúa Con, nối kết con người với Chúa Giê su. Là Đấng đưa con người vào trong huyền nhiệm Tình Yêu. Trong Tình Yêu không còn sợ hãi, ta được tự do.

Tình yêu Chúa thể hiện là chết cho người mình yêu, và tình yêu biểu lộ trong trái tim bị đâm thâu, rộng mở. “Họ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37). Chiêm ngắm Trái Tim bị đâm thâu, ta cũng được Tình yêu giải thoát khỏi vũng lầy của ta, như kinh nghiệm của viên đội trưởng hành hình, quỳ gối, ngả mũ trước Đấng họ đã đóng đinh và treo trên thập giá (Lc 23, 47).

Thánh nữ Teresa d’ Avila kinh nghiệm về tình yêu đã giải thoát ngài khỏi âu lo, sợ hãi. Trong một lần đang cầu nguyện, thánh nữ nghe thấy như Chúa Giê su đang nói với ngài và ngài nghiệm thấy: “Ngay lúc Chúa Giê su bằng một lời trấn an tôi, tôi thấy tức khắc một bình an lạ lùng, đầy tin tưởng không chút lo sợ. Y như Chúa luôn đang ở đó… Tôi không nhìn thấy gương mặt Ngài, nhưng luôn ý thức Ngài đang đi bên cạnh tôi và chứng kiến hết mọi hành động và thiếu sót của tôi”.

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa hằng ngày trong đời sống cầu nguyện, giúp ta vượt qua được những quá khứ chẳng êm đẹp gì, Thánh Phê rô khuyên dạy: “ Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1Pet, 5, 7 – 8). Thánh Phao lô thì khuyên dạy: “Quên đi quá khứ mà lao mình về phía trước” (Pl 3, 13). Phía trước ấy chính là lòng thương xót của Chúa, lao vào vòng tay của Chúa, như người con hoang đàng trở về trong tình yêu.

Bình an, không còn điều gì có thể làm lo sợ. Hoan lạc, không còn niềm vui nào khác ngoài niềm vui trong Chúa. Tất cả điều đó, Chúa Thánh Thần ban chính Chúa Giê su cư ngụ trong tâm hồn là nguồn mạch để được sống và sống dồi dào.

Xin Chúa Thánh Thần đến giải thoát chúng con.

Về mục lục

.

AN BÌNH

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tình yêu hoa trái an bình,
Cha Thầy thương mến, hết tình trao ban.
Hiến thân Con Một thiên nhan,
Hy sinh thập giá, chứa chan ân tình.
Dấn thân chịu chết khổ hình,
Ba ngày sống lại, thiên linh rạng ngời.
Yêu thương tha thứ tội đời,
Giới răn trọng đại, giữ lời Thầy luôn.
Hết lòng yêu mến suy tôn,
Yêu Thầy mến Chúa, dủ hồn ái nhân.
Xin ban Phù Trợ Thánh Thần,
Nguồn ơn chân lý, canh tân lòng người.
Bình an để lại cho đời,
Kiên tâm bền chí, trong thời khó khăn,
Lòng đừng xao xuyến băn khoăn,
Cũng đừng sợ hãi, người săn kẻ dòm.
Thánh Thần gìn giữ trông nom,
Qui về một mối, tụ gom một nhà.
Vui mừng phấn khởi trong Cha,
Ngày Thầy trở lại, bao là dấu yêu.

Thiên Chúa là tình yêu. Nói về tình yêu không bao giờ cùng. Tình yêu thì luôn mới và bao la như biển cả, cao siêu như mây trời, sưởi ấm như mặt trời và vằng vặc như mặt trăng. Bài Phúc âm hôm nay tiếp tục đến tình yêu. Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Chúa Giêsu chuẩn bị từ giã các Tông đồ để về cùng Chúa Cha. Chúa đã truyền lại giới răn yêu thương. Đây là lời trăn trối thân thương nhất, yêu Chúa và yêu tha nhân.

Tình yêu của Chúa được thể hiện qua tình bác ái đối với tha nhân. Yêu thương mọi người, yêu gia đình, yêu tha nhân và yêu cả kẻ thù. Mỗi câu truyện tình yêu trong đời sống đều phản ánh tình yêu của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã đi hết nội dung của yêu thương. Vì yêu, Chúa hạ xuống thấp tận cùng để nâng loài người lên và cho chúng ta làm con Chúa. Vì yêu, Chúa đã hiến thân làm của lễ đền tội và lập Bí Tích Thánh Thể để dưỡng nuôi và ở lại với chúng ta. Vì yêu, Ngài đã chết nhục hình và đổ tới giọt máu cuối cùng để cứu độ chúng ta. Không còn tình yêu nào cao qúi hơn nữa.

Truyện kể: Có một bà mẹ 57 tuổi bị hư thận và xơ gan. Bà ở trong tình trạng nguy hiểm tính mạng. Mặc dù chịu đau đớn, bà từ chối đề nghị của bác sĩ ghép gan và thận do hai người con hiến tặng. Các con thương mẹ, không muốn mẹ chết khi còn trẻ. Sau nhiều ngày điều trị và qua sự thuyết phục của hai con. Hai người con sẵn sàng hiến tặng mẹ, một người hiến nửa lá gan, một người hiến một trái thận. Người mẹ chấp nhận và cuộc giải phẫu diễn ra tốt đẹp. Năm tháng sau, cả ba người hồi phục nhanh chóng. Đây là trường hợp cho và nhận đầu tiên từ hai người con Rosario và Jose tại Tiểu Bang California. Mẹ đã cho các con ra đời. Các con biếu lại mẹ cơ quan để sống còn. Tình mẹ, tình con hiến tặng và hy sinh cho nhau.

Chúa Giêsu yêu thương các môn đệ, Ngài đã cho tất cả và còn hứa ban Thần Chân Lý đến để phù trợ và dẫn dắt các ngài đi trong sự thật. Sau cùng Chúa đã ban sự bình an đích thực trong tâm hồn các môn đệ. Xin sự bình an của Chúa ở lại trong tâm hồn chúng con để chúng con cùng chia xẻ niềm vui và sự bình an của Chúa tới mọi người.

Về mục lục

.

VÂNG LỜI VÀ BÌNH AN

Bông Hồng Nhỏ

Đến và ở lại với ai bằng cả trái tim là điều làm cho tương quan của ta với người ấy thêm gắn kết. Chỉ khi đến và ở lại như thế, ta mới có cơ hội sống sự hiện diện trọn vẹn. Khi yêu Chúa, người tín hữu sẽ giữ Lời Chúa dạy và nhận được bình an đích thực. Chính Thiên Chúa hiện diện và làm cho những ai yêu mến Người được lớn lên trong hạnh phúc.

Thầy Giêsu đã khẳng định: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy” (Ga 14,23). Thầy Giêsu đã yêu những “người con bé nhỏ” và ban Lời của Ngài để họ tiến gần hơn đến tình yêu Thiên Chúa. Giữ Lời của Thầy là giữ giao ước tình yêu với Thầy. Ở trong tình yêu của Chúa, ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Ở trong sự hiện diện của Chúa, ta được sống trong ta vì Thiên Chúa ở trong ta. Ta không thể sống trong ta nếu ta không sống trong sự hiện diện của Chúa. Bởi vì Thiên Chúa làm cho ta nhận biết ta là ai, ta thuộc về ai, ta đang có sứ mạng gì. Dù ta đang vui vẻ, hạnh phúc hay đau khổ, bối rối hay khó khăn, dù ta đang tốt hơn hay xấu đi, ta vẫn sẵn sàng đón nhận con người thật của ta. Ở trong tình yêu của Chúa, ta đón nhận tất cả với tâm hồn tự do và bình an. Khi ta từ chối Lời Chúa, ta cũng từ chối con người mình và ta đang sống ngoài ta, ta xa lạ với chính tâm hồn mình, ta từ chối sự hiện hữu của chính mình. Nói các khác, từ chối tình yêu của Chúa là ta đang đánh mất hạnh phúc.

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27a). Một tâm hồn bình an là một tâm hồn hạnh phúc. Bình an đích thật chỉ đến từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ban cho môn đệ món quà tuyệt vời là “Bình an”. Chúa Giêsu đã đi đến cùng của tình yêu và Ngài hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Ngài đã dùng chính cái chết nhục nhã trên thánh giá để dạy bài học của sự vâng phục, của việc giữ Lời Thiên Chúa cho người môn đệ. Và rồi khi phục sinh, Ngài đã ban bình an cho các môn đệ: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19b). Ta đã thấy, hoa quả của vâng phục là bình an.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa vì đã đến và ở lại với con trước để con cũng được đến và ở lại trong tình yêu của Chúa. Chúa đã trải qua nhiều đau khổ để dạy con biết vâng phục và ban bình an cho con. Xin cho con biết yêu Chúa và ở lại trong sự hiện diện của Chúa luôn, để con biết giữ Lời Chúa và đón nhận bình an trong từng giây phút sống. Amen.

Về mục lục

.

GIỮ LỜI THẦY

Anna Cỏ May

Ai trong chúng ta cũng có người để nhớ, để yêu thương. Khi yêu, trái tim chúng ta luôn hướng về người mình yêu và dành cho họ một sự quan tâm đặc biệt. Chúng ta dễ nhạy cảm trước nhu cầu của họ. Chúng ta dễ quên những sở thích của mình, quên đi cái tôi của mình để sống hợp tính, hợp nết với người mình yêu. Đó là những cử chỉ diễn tả tình yêu.

Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương tất cả chúng ta và mời gọi tất cả mọi người đáp lại bằng tình yêu. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy” (Ga 14, 23). Lời Chúa là lời yêu thương, lời dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa. Thánh Gioan cũng đã viết: “Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo (1Ga 2,5).

Vậy làm sao chúng ta có thể giữ lời Ngài mỗi ngày? Muốn nhớ một từ gì, chúng ta phải đọc và viết lại nhiều lần. Muốn giữ một vật gì, chúng ta cần phải cất giữ bảo vệ cẩn thận. Muốn giữ Lời Chúa trong lòng, chúng ta cần đọc và khắc sâu vào trí, tin tưởng và mau mắn tìm dịp để thực hành luôn. Thật không dễ dàng để thực hiện điều đó khi tâm trí chúng ta còn lo lắng quá nhiều, trái tim chúng ta còn bị chiếm chỗ bởi những niềm vui khác. Nhưng với niềm khao khát yêu mến Chúa và nhờ biết chạy đến với Chúa, chúng ta sẽ làm được vì chúng ta đã có Đấng Bảo Trợ. Chính Chúa Giêsu sẽ ban cho chúng ta như lời Ngài đã hứa (x.Ga 14,26). Nhờ đó, chúng ta sẽ sống trọn hảo với tình yêu Thiên Chúa. Tâm hồn chúng ta sẽ tràn ngập bình an của Chúa và chúng ta sẽ vững bước đến với Chúa mà không bao giờ còn sợ hãi nữa.

Lạy Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Cảm tạ Chúa đã chỉ dạy cho chúng con con đường dẫn đến tình yêu trọn hảo với Ngài. Xin gia tăng cho chúng con lòng yêu mến Chúa qua việc đọc Lời Chúa và giúp chúng con luôn giữ Lời Chúa, suy đi nghĩ lại trong lòng và đem ra thực hành trong cuộc sống để chúng con trung thành với tình yêu Chúa và đem tình yêu đến cho mọi người. Amen.

Về mục lục

.

BÌNH AN CỦA CHÚA.

                            Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Nếu chúng ta để ý thì trên những chiếc xe khách hay nơi các bến xe… chúng ta thường thấy để hàng chữ “Kính chúc quý khách thượng lộ bình an”. Nếu là xe của người Công giáo thì có để ảnh tượng Đức Mẹ trên chỗ Cabin, và kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Như vậy, ai cũng mong đi đến nơi về đến chốn được bình an.

 Chúng ta đang sống giữa một thế giới đầy văn minh khoa học hiện đại. Có thể nói là vượt mức về mọi phương diện, nhưng lại là một thế giới đầy những biến động làm cho con người bất an bất ổn, và dường như ai trong chúng ta cũng có một chút lo sợ lo lắng nào đó.

Chúng ta lo sợ về đồ ăn thức uống không được an toàn thực phẩm; lo lắng về bệnh tật tiền mất tật mang; lo sợ công ăn việc làm bấp bênh; lo sợ giá cả thị trường không ổn định; lo sợ vợ chồng không chung thủy, lo lắng con cái hư hỏng. Thậm chí có người đã nói: “Tôi thương người nhưng tôi sợ lòng người”… Vì thế, ai cũng khao khát có một cuộc sống bình an.

Người ta thường quan niệm bình an là một trạng thái hồn an xác mạnh, đời sống an khang thịnh vượng. Bình an còn có nghĩa là được đầy đủ như ý muốn, không gặp điều gì rắc rối, buồn phiền.

Thế nhưng, tất cả những hình thức bình an trên đây chỉ là bình an tự nhiên bề ngoài theo lối nghĩ trần gian. Còn bình an mà Đức Giêsu công bố đó là: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con sự bình an không như thế gian ban tặng” (Ga. 14, 27).

Đức Giêsu không cầu chúc, nhưng Ngài để lại, Ngài ban tặng bình an. Sự bình an mà Đức Giêsu ban tặng là sự bình an khi Ngài đã chiến thắng tử thần. Ngài không còn chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Ngài nữa. Đó là sự bình an của Đấng đã yêu thương nhân loại đến cùng (Ga. 13,1), nên hy sinh mạng sống để đem lại nguồn bình an đích thực cho nhân loại.

Thánh Phaolô gọi đây là sự “Bình an của thập giá”. “Nhờ giá máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,24). Như vậy, sự bình an của Đức Giêsu là sự bình an của lòng thương xót, bao dung, tha thứ, xóa bỏ mọi hận thù chia rẽ do con người gây ra.

Nhưng điều quan trọng là chúng ta làm sao để có được sự bình an của Chúa. Muốn có được sự bình an của Chúa, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Chúa là Cha phép tắc và lòng lành vô cùng. Ngài làm được mọi sự và luôn làm điều tốt cho chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy luôn tín thác và bằng lòng với những gì mà Chúa an bài gửi đến.

Muốn có được bình an của Chúa, chúng ta cố gắng sống hiền lành và khiêm nhường, sống chan hòa tình thương với những người chung quanh. Nhịn nhục và tha thứ cho nhau. Đừng làm phiền lòng nhau, nhưng hãy nhường phần hơn, nhịn nết xấu, đoán ý lành cho nhau.

Anh chị em thân mến,

Mỗi khi cử hành Thánh lễ, rất nhiều lần chúng ta tha thiết xin Chúa ban ơn bình an và chúc bình an cho nhau. Đây không phải là một nghi thức phụng vụ, nhưng là hành vi biểu lộ sự tha thứ cho nhau. Chính khi chúng ta thật lòng tha thứ cho nhau qua nghĩa cử trao ban bình an, thì tâm hồn chúng ta mới có bình an trong Chúa, để rồi chúng ta mới có khả năng chia sẻ bình an cho người khác.

Chúng ta sống trong tháng hoa dâng kính Đức Mẹ, được thể ra bên ngoài bằng việc rước kiệu và dâng lên Đức Mẹ nhiều bông hoa muôn màu muôn sắc, điều đó chắc Đức Mẹ hài lòng lắm. Nhưng những đoá hoa đó cho dù đẹp đến đâu đi nữa rồi cũng héo tàn. Đoá hoa mà Đức Mẹ yêu thích nhất đoá là hoa lòng của chúng ta. Vậy hãy dâng lên Đức Mẹ:

– Những đoá hoa hồng, tượng trưng cho lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn tha thiết.

– Những đoá huệ trắng, nói lên sự trinh trong như tấm gương sáng ngời của Đức Mẹ.

– Những màu hoa cúc, biểu lộ ánh hào quang rực rỡ mọi đặc ân Chúa ban cho Mẹ.

– Những cánh hoa lan, đậm nét thơ thảo của những con tim sắt son yêu mến Mẹ trọn đời.

Và xin dâng lên Mẹ những màu xanh sắc lá thắm tươi hy vọng, dệt lên những bài ca réo rắc, hoà với năm chục kinh Mân Côi sốt sắng, dâng lên cho Đức Mẹ trong mỗi ngày sống. Xin Đức Mẹ là Nữ Vương ban sự bình an, ban cho chúng ta ơn bình an trong Chúa và trong nhau. Amen.

Về mục lục

.

XÂY ĐỀN THỜ CHO CHÚA BA NGÔI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Xưa kia, vua Đa-vít ước ao xây một Đền thờ nguy nga tráng lệ cho Thiên Chúa. Vua nói với Ngôn sứ Na-than: “Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải!”

Nhưng khi được biết Chúa không muốn Đa-vít xây đền thờ cho Ngài vì tay ông đã vấy máu quân thù, vua Đa-vít ủy thác cho người kế vị là Sa-lô-mon thực hiện ước vọng của mình.

Vua Đa-vít thiết lập bản thiết kế Đền thờ cũng như chuẩn bị sẵn cho Sa-lô-môn rất nhiều vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ quý, ngọc báu, đủ loại đá quý và rất nhiều cẩm thạch.

Ngoài ra, vua còn huy động toàn dân tham gia đóng góp cho công cuộc xây dựng nhà Chúa và dân chúng đã rộng tay đóng góp rất nhiều vàng, bạc, đá quý để xây dựng công trình vĩ đại nầy. (Sử biên niên I, 28-29)

Hôm nay, vì thiếu thốn tiền bạc và vì khả năng rất hạn chế nên không mấy ai ước mơ xây dựng đền đài hay thánh điện cho Thiên Chúa như vua Đa-vít ngày xưa. Xây một căn nhà đơn giản đã là chuyện khó, huống gì những công trình lớn lao.

Tuy nhiên, bài Tin mừng hôm nay đem đến cho chúng ta một niềm vui lớn, vì Chúa Giê-su cho biết rằng, dù chúng ta bất tài, dù chúng ta nghèo túng… nhưng ai trong chúng ta cũng có thể xây dựng được một ngôi đền thờ cao đẹp cho ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị; đền thờ nầy không những rất cao đẹp mà còn được Thiên Chúa vui thích ngự trị đêm ngày nữa.

Làm sao chúng ta có thể làm được việc thần kỳ như thế? Lấy vàng bạc, đá quý, châu ngọc… đâu mà làm?

Việc này rất đơn giản và ít tốn kém. Chỉ cần mỗi chúng ta biết yêu mến và tuân giữ Lời Chúa là công trình sẽ được hoàn thành, như lời Chúa Giê-su quả quyết: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).

Thế thì chính khi chúng ta yêu mến và tuân giữ Lời Chúa Giê-su thì Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (vì bất cứ ở đâu có Chúa Cha và Chúa Con thì cũng có Chúa Thánh Thần) hết lòng yêu mến chúng ta và ở lại trong chúng ta. Thế là ngay lúc đó, thân xác chúng ta trở nên đền thờ của ba Ngôi Thiên Chúa, một đền thờ được Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi cư ngụ của mình.

Như vậy, Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay soi sáng cho chúng ta hai điều:

Thứ nhất, nếu chúng ta lắng nghe và thực hành Lời Chúa phán dạy, thì chúng ta không còn là thụ tạo thấp hèn nữa mà đã được nâng lên thành đền thờ của Vua Trời, được trở nên cung điện của Thiên Chúa tối cao như lời thánh Phao-lô xác nhận trong thư gửi tín hữu Cô-rinh-tô: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao!” (IC 6,19).

Thứ hai, cũng theo lời thánh Phao-lô trong thư nói trên, chúng ta đừng quên thờ phượng Thiên Chúa ngay nơi bản thân mình: “Anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” (IC 6,20)

Xưa kia, thánh Ô-gút-ti-nô đã có một trải nghiệm quý báu về điều nầy. Trong thời thanh xuân, ngài đã khắc khoải tìm kiếm Chúa suốt cả chục năm trời ở nhiều nơi mà chẳng gặp cho đến tuổi ba mươi, ngài mới khám phá ra Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn mình. Bấy giờ với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Ô-gút-ti-nô thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài.”

Ước gì chúng ta không phải hối tiếc vì đã vòng vo tìm Chúa cách vô vọng như thánh Ô-gút-ti-nô trong buổi đầu, trái lại sớm được hạnh phúc hoan lạc vì tìm gặp Chúa ngay trong bản thân mình.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con biết quý trọng thân xác chúng con là ngôi đền thờ uy linh cao cả có ba Ngôi Thiên Chúa hằng ngự trị.

Xin cho chúng con quyết tâm thanh tẩy đền thờ đáng quý trọng nầy nếu nó bị ra nhơ uế vì tội lỗi và thói hư.

Xin cho chúng con biết tôn tạo, nâng cấp đền thờ nầy bằng các nhân đức và phẩm chất cao đẹp.

Và nhất là xin cho chúng con luôn gặp gỡ và kết hợp với Chúa đang hiện diện trong ngôi đền thờ cao cả là chính bản thân con.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_C

Lm Giuse Đinh tất Quý

Một lần nữa chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu nói về luật yêu thương của Ngài.

1.  Tuần trước Chúa Giê-su nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”,Khi nói như hế Chúa đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Và người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng là bằng tình yêu.

Hôm nay, Chúa nói: Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy. Khi nói như thế Chúa Giê-su đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giê-su không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoàinhà thờ, mà là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Như vậy chúng ta thấy trong xã hội của Chúa sẽ không còn phân biệt hữu thần với vô thần mà chỉ còn hữu tâm hay vô tâmnghĩa là có trái tim hay không có trái tim

Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ.

Ngược lại người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân.

Một buổi tối lạnh lẽo, rét buốt ở miền bắc Virginia cách đây đã nhiều năm. Một ông lão với bộ râu lão cứng ngắc trong cái lạnh của mùa đông đang đợi có ai đó giúp đưa ông qua sông. Sự chờ đợi dường như vô tận. Cơ thể ông tê cóng và cứng đờ bởi những cơn gió bấc giá lạnh.

Bỗng ông nghe thấy tiếng ngựa phi nhịp nhàng đang đến gần men theo con đường đầy sương gió. Ông lo lắng nhìn khi một nhóm chàng trai phi ngựa rẽ qua khúc quanh. Ông đã để cho người đầu tiên chạy qua mà chẳng hề gọi. Sau đấy, một người khác đi qua, rồi một người nữa. Lúc này, tuyết đã rơi, trông ông lão giống như một bức tượng bằng tuyết, ông đã thấy người kỵ sĩ cuối cùng. Khi người này đến gần, ông già ra dấu với người kỵ sĩ rồi nói:

–  Chào cậu, cậu có phiền đưa già này sang bên kia sông được không? Chẳng có lối nào để đi bộ được cả.

Người kỵ sĩ ngồi trên ngựa đáp:

–  Được chứ, thưa bác. Bác nhảy lên đây nào.

Thấy ông lão không thể nhấc nổi cơ thể đã gần như đông cứng khỏi mặt đất, chàng trai nhảy xuống và giúp ông leo lên ngựa. Chàng kỵ sĩ không chỉ đưa ông già sang sông mà còn mang ông đến nơi ông định đến cách đó vài dặm nữa.

Khi đến gần một mái nhà tranh nhỏ xíu ấm cúng, chàng kỵ sĩ tò mò hỏi:

–  Thưa bác, cháu thấy bác đã để nhiều người cưõi ngựa khác chạy qua mà không nhờ lấy một ai để giúp qua sông. Khi cháu đến thì bác nhờ cháu ngay lập tức. Cháu thắc mắc không hiểu tại sao, vào một buổi tối mùa đông lạnh giá như thế này, bác lại đợi và nhờ người cuối cùng. Nếu cháu từ chối không giúp bác thì sao?

Ông lão từ từ leo xuống ngựa, nhìn thẳng vào mắt chàng trai, đáp:

–  Bác đã ngồi ở đấy một lúc rồi. Bác nghĩ mình biết cách nhìn người. Khi bác nhìn vào mắt những chàng trai kia bác nhận ra ngay là họ chẳng quan tâm gì đến tình cảnh của bác cả. Nhờ họ giúp cũng không ích gì. Nhưng khi nhìn vào mắt cháu, lòng tốt và sự thương người hiện lên rất rõ. Bác biết rằng thái độ dịu dàng của cháu sẽ mở ra cho bác cơ hội được giúp đỡ lúc bác cần.

Những lời ấm lòng đó của ông lão làm người kỵ sĩ hết sức cảm động.

–  Cháu hết sức cám ơn những gì bác vừa nói. – Anh nói với ông lão – Có lẽ sẽ chẳng bao giờ cháu quá bận rộn với chuyện riêng của mình mà không đáp lại những gì người khác cần bằng lòng nhiệt thành cả.

Vâng chúng ta hãy cố đừng để mình trở thành một người xa lạ, vô tâm, vô cảm với những người chung quanh mình. Nhưng hãy trở thành những người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Tôi nhớ có lần Albert Einstein đã nói: “Một cuộc sống vì một cuộc sống khác mới là một cuộc sống xứng đáng.”

2.  Còn mẹ Têrêsa: “Hãy trao tặng tình yêu thương ở mỗi nơi bạn đặt chân đến: trước hết là ở ngay chính căn nhà của bạn.

Hãy yêu thương con cái, người bạn đời của bạn, và cả những người hàng xóm…

Hãy đừng để người nào đến với bạn rồi ra đi mà không cảm thấy vui tươi và hạnh phúc hơn.

Hãy là hiện thân cho lòng nhân ái của Thượng Đế bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình.”

Một câu chuyện nhỏ từ Internet:

Vào một buổi sáng mùa đông, tuyết rơi nặng hạt. Tôi đứng ở một góc phố tối và lạnh lẽo chờ chuyến xe buýt đầu tiên trong ngày. Cách chỗ tôi đứng không xa, có hai vợ chồng già  cũng đứng chờ xe buýt. Chiếc áo khoác ngoài của họ bị tuyết phủ trắng xóa. Xem ra, họ đứng đợi xe đã khá lâu. Cuối cùng chiếc xe buýt cũng đến. Người lái xe bấm còi, đi lướt qua chỗ hai vợ chồng cụ già rồi dừng lại chỗ tôi đang đứng. Khi tôi vừa bước lên xe, người tài xế cho xe chạy ngay, bỏ lại hai vợ chồng già đứng trong tuyết. Tôi tức giận hỏi:

– Chẳng lẽ cậu không nhìn thấy hai vợ chồng già đó sao?

Người lái xe trẻ tuổi ấy nói:

– Hôm nay là ngày đầu tiên tôi đi làm. Hai cụ già đó là bố và mẹ tôi. Họ đến đây để xem tôi làm việc như thế nào.

Tôi bỗng rưng rưng xúc động.

Xét như thế, thì Nước Chúa thực là rộng lớn. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Jêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Jêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có đền thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quí toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim chúng ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Jêrusalem mới cho tình yêu Thiên chúa ngự trị. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC SỐNG MỚI

Lm. Nguyễn Hữu Thy

Chu kỳ phụng vụ Mùa Phục Sinh sắp chấm dứt. Hàng năm nó đã mang lại cho tất cả chúng ta những suy niệm khẩn thiết về đức tin vào Ðức Giêsu và về tình yêu của Người, một tình yêu đã biểu lộ tính chất nhân bản qua cái chết của Người, nhưng đồng thời cũng bộc lộ uy quyền của Thiên Chúa qua cuộc Phục Sinh khải hoàn của Người! Từ những suy niệm đó, cuộc sống của chúng ta một khi đã được gắn liền với Ðức Giêsu, thì luôn phải đạt tới cứu cánh của nó.

Thứ nhất: “Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy…. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời các con nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Ðấng đã sai Thầy!” Ðó là điều đầu tiên trong chương trình hành động của một cuộc sống được gắn liền với Ðức Giêsu!

Giữ lời Ðức Giêsu có nghĩa là thâm tín rằng Thiên Chúa đã ban bố huấn thị của Người qua Ðức Giêsu; điều đó muốn nói rằng chúng ta không xếp đặt vũ trụ và cuộc sống theo sở thích, theo kế hoạch, theo mơ ước hay theo sự sợ hãi của mình; bởi vì Thiên Chúa đã thiết đặt một chuẩn độ rõ ràng trong Ðức Giêsu!

Giữ lời Ðức Giêsu có nghĩa là nhất thiết phải thực sự nhận biết huấn thị đó của Thiên Chúa. Dĩ nhiên điều đó không ý nói là nhất thiết phải đi rao truyền mọi lời của Người khắp nơi, nhưng là phải nhận thức được mục đích nền tảng của lời Người nói và của hành động Người làm qua việc lắng nghe Tin Mừng, tức: Tin nhận và yêu mến Thiên Chúa! Tiếp đến, chấp nhận và yêu thương người đồng loại; và không chỉ chấp nhận điều đó trên lý thuyết thuần túy mà thôi, nhưng phải hiện thực chúng một cách cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, đối với Thiên Chúa và tha nhân, và trung thành thực hiện cho đến cùng!

Thứ hai: “Ðấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi lời Thầy đã nói với các con!” Ðó là điều thứ hai trong chương trình của Thiên Chúa: Biết đón nhận Thánh Thần Ðức Giêsu!

Ðón nhận Thánh Thần Ðức Giêsu có nghĩa là phải nhất thiết sống theo tinh thần các giáo huấn của Người. Nói cách khác, Thánh Thần ngự đến không chỉ để trợ giúp chúng ta chiếm giữ được tinh thần các giáo huấn của Ðức Giêsu như chuẩn độ đúng đắn, nhưng còn là sức mạnh đỡ nâng chúng ta thực thi các giáo huấn đó trong cuộc sống cụ thể. Vậy, chúng ta hãy để cho sức mạnh đó được tự do hoạt động trong cuộc sống của mình, và điều đó không có nghĩa gì hơn là chúng ta phải luyện tập cho mình tinh thần yêu thương, sự hy sinh xã kỷ của Ðức Giêsu; luyện tập biết chấp nhận kẻ khác, chứ không phải tìm mọi cách tự khẳng định chính mình; luyện tập biết cho đi, chứ không phải tìm cách chiếm đoạt mọi sự cho chính mình; luyện tập biết can đảm và trung thành với tinh thần xã kỷ đó, cả khi bị hiểu lầm, bị thiệt thòi về danh dự hay nguy hiểm đến tính mạng.

Thứ ba: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy. Thầy ban cho các con sự bình an, không theo kiểu thế gian ban. Các con đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!” Ðó là điều thứ ba của chương trình, là: Có được sự bình an của Ðức Giêsu trong tâm hồn!

Nhưng có được sự bình an của Ðức Giêsu, có nghĩa là hội được đủ điều kiện để có thể sống thực sự đúng với nhân vị của mình mà Thiên Chúa đã ban cho. Ðó không phải là sự bình an mà thế gian có thể cho được; đó không phải là một sự hoan lạc ích kỷ, khiến cho chúng ta không còn nhìn thấy được những cơ cực thiếu thốn của đồng loại; đó không phải là một sự giải hòa có thể mặc cả được, tức tìm một sự quân bình khả dĩ cho sự bất hòa. Sự bình an của Ðức Giêsu là sự an ninh chắc chắn, được phát xuất từ sự ý thức sâu xa: “Phải làm lành lánh dữ”, kể cả khi chúng ta phải hy sinh tính mạng, vì thâm tín được rằng, Thiên Chúa sẽ đền bù lại cho chúng ta gấp trăm sự mất mát!

Có được sự bình an của Ðức Giêsu, có nghĩa là có điều kiện để từ sự anh ninh đó, kiến tạo sự bình an thực sự. Bởi vì chỉ có sự ý thức chắc chắn được rằng người ta phải sống công chính trước mặt Thiên Chúa, thì mới có can đảm để chấp nhận tất cả; thì người ta mới thông cảm hiểu biết nhau và mới loại bỏ mọi căng thẳng và va chạm, phát xuất bởi những tư duy ích kỷ và thiển cận, chỉ muốn bảo vệ quan điểm và ước vọng của mình trước đồng loại, cũng như chỉ muốn bảo đảm sự sống còn của mình!

Những lời Chúa phán cùng chúng ta hôm nay là sự hướng dẫn cho một cuộc sống theo gương Ðức Giêsu. Ðó là một chương trình sống tuyệt hảo, dẫn chúng ta đạt tới sự sống chân thật và hạnh phúc vĩnh cửu! Ðó là:

Giữ lời Ðức Giêsu.

Tiếp nhận Thánh Thần Ðức Giêsu.

Có được sự bình an của Ðức Giêsu trong mình.

Thật là cả một sự khác biệt to lớn với những chương trình thuần túy nhân loại, mà trong đó chúng ta chỉ nhắm tới những lợi lộc ích kỷ tư riêng của mình!

Chương trình của Thiên Chúa, là: Trong Ðức Giêsu, chúng ta có thể đạt tới một cuộc sống hạnh phúc chân thật. Chương trình đó có thể đổi mới vũ trụ. Chắc hẳn tất cả chúng ta đều nhất trí với chương trình đó?

Về mục lục

.

HÃY GIỮ LỜI THẦY

Lm. Nguyễn Đức Trung

Trong một lần đi thăm trung tâm xã hội Campuchia cách đây gần chục năm, chúng tôi có đến một nơi chăm sóc các anh chị em đang mang căn bệnh thể kỷ thời kỳ chót. Không khí ảm đạm, những cái nhìn vô vọng về một nơi xa xăm, nhưng tôi bắt gặp nhiều ánh mắt, những ánh mắt long lanh đan xen giữa hy vọng và sự sợ hãi. Chúng tôi ngỏ lời hỏi thăm vì biết rất nhiều người ở đó là người Việt Nam. Có một anh đã thì thào và ghi lại cho tôi một địa chỉ xin hãy chuyển tên và lời xin lỗi đến người thân ở phía Bắc, vì anh không có thể thư về cho họ được nữa, và anh hiểu trung tâm này sẽ là nơi anh yên nghỉ. Anh như năn nỉ tôi hãy nhớ đừng quên. Khi sửa soạn rời khỏi trung tâm, những ánh mắt đó lại như van lơn, mong muốn chúng tôi đừng đi và mong muốn chúng tôi đừng quên những gì họ đã ký gởi. Chắc đến nay nắm tro tàn của anh đã im lặng nơi lòng đất lạ, nhưng những hình ảnh và những lời ký thác của anh vẫn vấn vương đâu đó trong ký ức của tôi.

Là Kitô hữu từ thuở bé tới giờ, chắc chắn đã nhiều lần chúng ta nghe những lời tâm tình ký gởi của Chúa Giêsu đã tín nhiệm giao cho chúng ta, những lời tâm huyết mà chính Ngài đã xác nhận, không nhẹ ký vì nó chuyển tải một kho tàng thiêng liêng. Những lời Ngài nói không chỉ là của Ngài mà là của Cha, Đấng đã sai Ngài và chính trong tình yêu thông hiệp của Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và làm chúng ta hiểu. Vậy giữ lời Thầy là những điều nào, vì ba muơi ba năm Chúa đã ở nơi dương gian này, nhiều điều Chúa đã nói, thật là nhiêu khê, nhưng chắc chắn điều Chúa truyền dạy không gì khác hơn là để mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha nhân từ, Thánh Thần Chúa là tình yêu, Ngài là Đấng cứu chuộc, mọi người là anh em, và phải đi đến hệ luận thực hành là kính mến Chúa, yêu thương người, như Ngài đã yêu thương họ đến cùng, thì Ngài cũng mong muốn chính những người đã được Ngài yêu mến hãy đáp trả lại cho Ngài giống i như thế.

Câu chuyện Tin Mừng tuần này kể lại trong bầu khí của một giai đoạn quyết liệt mà chính Ngài quyết tâm thực hiện cho đến cùng. Sẽ có cuộc chia ly người đi kẻ ở lại, một cuộc ra đi về với Cha, điều mà các môn đệ không hề nghĩ đến vì các ông vẫn tưởng Ngài đến thế gian này là để thống trị chứ không phải là đến để rồi chết hay đi đâu cả, trong khi Chúa không hề che dấu điều gì về sứ vụ của mình. Chính vì vậy để tránh kiểu ông nói gà bà nói vịt, bằng những lời chân tình, Ngài bày tỏ sứ vụ của mình qua hình ảnh như Ngài ở trong Cha và Chúa Thánh Thần, để mọi người thấy Thiên Chúa luôn ở trong tình yêu, và là nguyên lý cho mọi người đi đến. Phải đi trong tình yêu, nghĩa là đi trong Chúa chúng ta mới đạt đến cùng đích cuộc sống. Giữa sự thánh thiêng và phàm nhân luôn có một khoảng cách nhất định, tuy nhiên chính ơn cứu chuộc của Đức Kitô làm cho khoảng cách này được nối kết, xoá bỏ. Nhưng vì con người vẫn còn ở dưới thế, cuộc hành trình đi lên của chúng ta vẫn nhiều chông gai. Chúa thấu hiểu điều đó nên Ngài đã ban bình an, một nguồn bình an thật, làm cho chúng ta dù có chao đảo nhưng không nghiêng đổ, dù có sợ sệt nhưng không hãi hùng, dù có hay quên nhưng vẫn nhớ tuân giữ lời Ngài và thực thi lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy” vẫn vang vọng trong đời sống Kitô hữu của chúng ta, tuy nhiên nhiều khi chính trong chúng ta có cái khập khiễng có thể yêu Chúa nhưng không bao giờ giữ lời Chúa, hoặc giữ lời Chúa dạy nhưng lại không yêu mến Chúa. Các số liệu thống kê của giáo hội tại Âu châu phần nào cũng cho chúng ta thấy tình trạng này, đó chính là bài học để chúng ta xét mình về việc sống đạo. Chuyện đã có bên Tây cũng là chuyện của chúng ta, nếu chúng ta nghiêm túc xem xét lại, và thử rảo quanh bên ngoài các nhà thờ Công giáo vào ngày Chúa nhật. Chuyện gì đang xảy ra, thái độ không nghiêm túc của rất nhiều người đi tham dự đang bôi đen đi hình ảnh đẹp thờ phượng của Kitô hữu, đó là chưa kể đến việc sống đạo trong đời thường, những xung khắc vẫn xảy ra nơi cộng đoàn xứ đạo và nhiều người chỉ giữ đạo vào những mùa vui, lễ hội, chưa kể đến những phát triển xã hội sẽ có những khoảng trống trong niềm tin, thoái thác những ràng buộc để tự do hơn. Chuyện yêu mến Thầy và giữ lời Thầy sao nó nặng nề, sao nó rắc rối, cái mà chúng ta cảm thấy nguy đó khi những lối sống này đang trở thành thói quen xấu và đang có những sự lây lan, liều thuốc nào đó để ngăn chăn, vắc xin nào tăng sức đề kháng, tất cả đã có nơi chúng ta, chả lẽ chúng ta chấp nhận bệnh khi chúng ta có cả một vườn thuốc đặc trị!

Ánh mắt của Chúa khi trao cho người phụ nữ ngoại tình, không kết tội mà nói: “Con hãy về đi và đừng phạm tội” sao nhân từ quá. Chúa nhìn Phêrô khi Phêrô vừa bai bải chối Thầy, làm Phêrô đấm ngực khóc than sám hối. Mới thoáng qua chúng ta nghĩ cách đơn giản rằng Chúa yêu họ cách riêng, nhưng thực ra sau ánh mắt là bài học: con hãy giữ lời Thầy đừng phạm tội, đừng cao ngạo. Cái ánh mắt của anh thanh niên trong trung tâm xã hội kia, chỉ mong tôi giữ lời và thực hiện hộ cho anh điều mà anh muốn làm, hôm nay vì đau bệnh không thể làm được nữa, nó tha thiết làm ray rứt chính chúng tôi, hôm nay không phải bằng ánh mắt, mà bằng chính lời của Chúa đang thân tình nói với chúng tôi rằng: “Ai yêu mến Thầy, hãy giữ lời Thầy” chả lẽ không đủ đánh động tôi và mọi người nghiêm chỉnh thực thi sao?

Về mục lục

.

BÌNH AN CỦA CHÚA-

Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

Vào trung tuần tháng 11 năm 2000, đang khi các giám mục Công giáo Hoa kỳ tiến hành cuộc họp thường niên, một số các nhà hoạt động bênh vực “quyền lợi” của những người đồng tính luyến ái đã đột nhập và phản đối ồn ào, chống lại những giáo huấn của giáo hội liên quan đến “quyền lợi” của những người đồng tính.

Được biết trong cuộc họp lần này, các giám mục Hoa kỳ đã đưa ra bản tuyên ngôn về hôn nhân, kêu gọi một sự tín trung hơn trong giao ước hôn nhân giữa nam và nữ. Bản tuyên ngôn xác định rõ ràng hôn phối là sự kết hiệp thánh thiện giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Không thể chấp nhận chuyện những người cùng phái lấy nhau.

Đã có khoảng 200 người tụ tập biểu tình đòi giáo hội chấm dứt tình trạng “khủng bố tinh thần” chống lại những người đồng tính hay đổi phái. Sau đó có khoảng 100 người biểu tình bị bắt giữ vì đã có hành vi bạo động quá đáng. Một số người trong tổ chức “Dignity and Soul Force” cho rằng Giáo hội không đi đúng đường lối Phúc âm khi không mang lại an bình cho tâm hồn người ta, lại còn tạo nên bầu khí phân cách đối với người đồng tính.

Đức Cha Joseph A. Galante, Giám mục Phó của địa phận Dallas đã trả lời những người trong tổ chức Dignity and Soul Force rằng: “Phúc âm vẫn là Phúc âm. Trong đó luôn có thách đố, nhưng chắc chắn không có việc khơi mào bạo động hay thù hận đối với ai. Tuy nhiên có những người dùng Thánh kinh như để phục vụ cho mục đích riêng của mình chứ không phải để trung tín bước theo ý nghĩa xác thực của Tin Mừng.”

Hoa trái của Tin Mừng là bình an, thứ bình an do Thiên Chúa ban tặng chứ không phải đến từ thế gian. Có nhiều người lầm tưởng bình an là những cảm giác yên hàn, mọi chuyện xuôi đẹp, không có chông gai, chiến tranh, thập giá. Đây không phải là thứ bình an đích thực. Nó tuỳ thuộc vào ngoại cảnh. Nó không phải là thứ bình an mà Đức Giêsu đã hứa ban cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Bình an Chúa ban luôn có bóng hình thập giá.

Danh ngôn thế giới có câu “Nemo dat quod non habet” – Không ai cho kẻ khác điều mình không có. Vậy thì làm sao Đức Giêsu lại có thể có được an bình để trao ban cho các môn đệ khi mà trước mắt Ngài là những đau thương và ngăm đe của khổ hình thập giá, cùng với muôn sự ruồng bỏ dể duôi của bao người?

Có lẽ chỉ khi nhìn vào Đức Giêsu trong thời điểm đối diện với những gian nan thử thách, chiến đấu cam go, người ta mới thấy rõ hơn sự bình an sâu thẳm mà Ngài để lại cho các môn đệ như món gia bảo cuối đời. Đây là thứ bình an nội tại, một thứ bình an được kết tinh nhờ sự hiệp thông với Thiên Chúa Cha, thế nên, dù bóng cao thập giá có mịt mùng thì hồn Ngài vẫn là nguồn sáng cho nhân loại.

Một khi có được sự hiệp thông với Thiên Chúa thì dù gặp thành công hay thất bại, may mắn hay rủi ro, giàu có hay khó nghèo, chống đối hay ủng hộ, đều không làm người ta xao xuyến, nhát đảm, hoặc bất an. Còn khi bước sai lệch nẻo đường đến với Thiên Chúa thì dù muôn sự tưởng như thuận buồm xuôi gió hay an nhàn vô sự, tâm hồn vẫn mãi bất an cho đến khi tìm lại được ơn giao hoà.

“Ta để lại bình an cho các ngươi; Ta ban bình an cho các ngươi” (Ga 14:27a). Hẳn là Chúa Giêsu muốn nói đến sự bình an mà Ngài sẽ mang lại cho con người qua mầu nhiệm thập giá. Bởi vì bấy lâu nay, kể từ ngày Adong Eva sa ngã, nhân loại mãi sống trong tội, chạy theo những đam mê thế tục, để cho những tên giặc xác thịt khuấy động và làm bất an tâm hồn. Nay qua cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu mà an bình được ban xuống cho nhân loại. Chiếc cầu giao hoà giữa trời cao với đất thấp được lập nên nhờ thập giá.

Biết bao bạo động, chiến tranh sảy ra đều phát xuất từ những dục tình xấu xa nơi tâm hồn người ta. Muốn dẹp chiến tranh bạo động trước hết phải học chế ngự những mầm mống nổi loạn của trí lòng. Muốn chế ngự được những mầm mống đó không thể không có sự trợ lực của hy sinh, khổ giá. Nhưng điều kỳ lạ mà Tin Mừng Đức Kitô mang cho con người lại là chính khi đón nhận khổ giá thì bình an và sự sống lại phát sinh dồi dào.

Những lời sau đây trích trong sách “Gương Chúa Giêsu” đáng để chúng ta suy gẫm giữa bao vinh nhục, thăng trầm của cuộc sống:

Đời hứa bình an cho những ai phụng sự đời. Nhưng thứ bình an nền tảng ở tiền tài, sắc dục, kiêu ngạo… đã đánh lừa những người theo đuổi nó, và nó đã tiêu tan đi như giấc mộng đẹp.

Trái lại, bình an thực nền tảng ở một lương tâm thanh thản. Nó hệ tại biết kìm hãm ước muốn, biết tự thoát, khiêm nhường, hơn là thoả mãn dục vọng, ăn trên ngồi trốc.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ Bình an của Chúa, thứ bình an mà người đời không thể cho được, để chúng con được thư thả mà phụng thờ Chúa và được hạnh phúc an nghỉ trong Chúa cho đến muôn đời.

Thành tâm tuân giữ luật Chúa, bước theo Đức Kitô như Ngài đang “tiến đến với Cha” (Ga 14:28), dù bước tiến đó đầy chông gai, thử thách, và đau đớn xác thân, chắc một điều: an bình, niềm vui, và sự sống chính là phần thưởng cho những người môn đệ tín trung.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU VẪN HIỆN DIỆN

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

          Bài Tin mừng hôm nay là một đoạn trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giêsu (Ga 13,31; 14,31). Việc Đức Giêsu ra đi đã làm cho các môn đệ buồn sầu lo lắng, không biết tương lai sẽ ra sao. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trấn an các ông, Người khuyên các ông “đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27), vì Người ra đi rồi sẽ trở lại với các ông bằng một cách thế khác.

          Đức Giêsu khuyên các ông hãy giữ mối tinh thắm thiết với Người, đừng “cách mặt xa lòng”, và cách thế để tỏ lòng yêu mến đối với Người  là hãy thực hiện những điều Người truyền dạy :”Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy”(Ga 14,5). Và tuân giữ lời Người là thước đo cụ thể và chính xác nhất lòng yêu mến của các ông đối với Người.

          Đức Giêsu còn cho các ông biết việc Người ra đi thì có lợi cho các ông hơn vì Người có ra đi thì Thánh Thần mới được sai đến để dạy dỗ và nhắc nhở các ông, giúp các ông hiểu thấu đáo hơn những lời nói và việc làm của Người khi còn tại thế :”Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con”(Ga 16,7).

          Sau cùng, Đức Giêsu còn hứa ban cho các môn đệ sự bình an riêng của Người.  Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho chúng ta :”Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27).

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

          + Bài đọc 1 : Cv 15,1-2.22-29

          Ngay từ ban đầu, Hội thánh cũng gặp một ít trục trặc, nhưng đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Số là đang khi Phaolô và Barnabê truyền giáo cho dân ngoại thì có những người Do thái từ Giêrusalem đến buộc dân ngoại tân tòng phải cắt bì và phải tuân giữ luật của Maisen. Hai vị truyền giáo không đồng ý  nên trình vấn đề này lên Hội thánh.

          Các Tông đồ đã họp hội nghị tại Giêrusalem và ra quyết nghị : những người ngoại tân tòng chỉ phải giữ những cái tối thiểu. Hội nghị đã cử Phaolô, Barnabê và mấy vị khác đến Antiochia với sứ mạng báo tin cho họ : chỉ cần giữ những điều cần thiết, đó là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm.

          + Bài đọc 2 : Kh 21,10-23.

          Trong một thị kiến khác, thánh Gioan được trông thấy “kinh thành muôn thưởûû” lý tưởng trong tương lai. Đó là hình ảnh uy nghi của Giêrusalem mới được trình bầy cho chúng ta :

–          Thành từ trên trời ngự xuống.

–          Rất xinh đẹp và tươi sáng.

–          Thành không có đền thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành; thành cũng không có mặt trời mặt trăng vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.

–          Đó là Hội thánh tương lai trên trời khi vương quốc của Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang trọn vẹn.

          + Bài Tin mừng : Ga 14, 23-29

Bài Tin mừng lấy từ bài diễn từ của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly, và ý chính là sự ra đi sắp xẩy ra của Người. Người bảo đảm cho các môn đệ rằng Người sẽ không để cho họ mô côi.  Dù Người ra đi, Người và họ sẽ không rời nhau. Nếu họ giữ lời Người, họ sẽ được đưa vào trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Chính Thánh Thần sẽ nhắc họ lời Người.

          Trong dịp này, Người trấn an các môn đệ trong cuộc ra đi của Người. Vì thế, Người hứa ban cho các ông sự bình an, một thứ bình an đặc biệt mà thế gian không thể ban cho.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

I. SỰ HIỆN DIỆN MỚI CỦA ĐỨC GIÊSU

  1. Sự ra đi của Đức Giêsu.

          Trong suốt thời gian rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, các môn đệ đã được Người rao giảng về Nước Trời, được nghe những lời Người giảng, chứng kiến những việc Người làm, nhưng các ông chưa hiểu được ý Chúa. Các ông cứ tưởng Chúa mời gọi mình để được hưởng đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trốc, được quyền lãnh đạo và được mọi người tôn trọng trong Nước Người sắp thành lập.

          Nhưng không, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự ra đi của Người : Người sẽ bị bắt, bị đánh dòn, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Thật là một tin sét đánh làm cho các ông chao đảo. Các ông chìm vào sự đau buồn trước viễn cảnh mất Người. Họ không muốn Người đi, họ muốn giữ Người lại vì “Ra đi là chết trong lòng một ít”.

          Các ông cảm thấy lo sợ vì như sống trong cảnh rắn mất đầu, các ông sẽ phải cô đơn, phải gặp nhiều trắc trở và gian nan thửû thách. Tương lai còn mù mịt, không biết số phận mình sẽ rao sao. Đức Giêsu hiểu rõ tâm trạng của các ông.

  1. Những lời khích lệ của Đức Giêsu

Đức Giêsu nói với họ rằng Người không để cho họ mồ côi đâu. Người ra đi rồi sẽ trở lại với họ, để bắt đầu giữa họ và trong họ một cách hiện diện khác, mầu nhiệm, chỉ dành cho những ai trung tín với lời Người.  Người không có ý đề cập đến sự trở lại với hình dạng thể lý, cũng không phải sự trở lại huy hoàng trong ngày thế mạt, nhưng , ngay từ bây giờ, là sự hiệp thông nghĩa thiết với Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ba Ngôi :”Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,23).

          Đức Giêsu còn cho biết việc ra đi của Người sẽ có lợi cho các ông hơn, vì như Người nói :”Các con sẽ buồn vì nghe nói Thầy phải rời xa các con. Lòng các con sẽ buồn sầu và sợ hãi, nhưng này Thầy bảo cho chúng con biết Thầy ra đi sẽ tốt cho các con hơn, vì khi ấy, Cha Thầy sẽ sai Thánh Thần đến giúp các con tăng trưởng theo một cách thức mới”.

          Hay nói cách khác, Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết đã đến giờ Người phải rời xa các ông ít lâu, đã đến giờ họ phải bắt đầu một giai đoạn mới trong việc phát triển tâm linh, đã đến giờ họ cần được phát triển theo một phương cách mới.

          Đức Giêsu nhấn mạnh cho các ông tư tưởng này là hãy bình tĩnh :”Các con đừng xao xuyến và sợ hãi”(Ga 14, 27). Người không bỏ rơi các ông nhưng luôn hiện diện với các ông bằng một cách thức khác mà các ông không ngờ.

Truyện : Thầy đã vác con trên vai

          Chúa Giêsu và một thanh niên cùng đồng hành trên một bãi cát dài trên biển. Bốn vết bàn chân hằn lên rõ trên mặt cát. Nhưng khi chàng thanh niên chẳng may gặp phải khó khăn thử thách, anh ta liền nhìn xuống mặt cát thì chỉ thấy còn lại hai dấu bàn chân. Anh kinh ngạc thất vọng kêu lên :”

– Thưa Thầy, lúc nãy Thầy trốn đi đâu để con bước đi một mình ?

Chúa Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh ta :

– Con thử nhìn kỹ xem, coi đó là những vết chân của ai ?

          Nghe lời Chúa, anh thanh niên nhìn kỹ lại thì mới tỉnh ngộ ra,  đó là những dấu chân của Chúa. Anh ta vội thắc mắc la lên :

– Vậy thưa thầy, lúc đó con ở đâu ?

Chúa âu yếm trả lời :

– Con ạ, những lúc con gặp khó khăn gian nan, chính khi đó Thầy biết con không đủ sức chịu đựng nên Thầy đã vác con trên vai Thầy để cứu giúp con khỏi hoạn nạn đấy.

          Dĩ nhiên đây là câu chuyện tưởng tượng, nhưng lại là một câu chuyện đầy ý nghĩa vì nó nói lên được một sự thật mà có lẽ ngày xưa các Tông đồ cũng như ngày nay chúng ta đều không nhận ra hoặc chưa tìm hiểu cặn kẽ : đó là Chúa luôn luôn hiện diện bên ta để bênh vực giúp đỡ ta.

          Một chân lý thật đơn giản và rõ ràng. Vì suốt trong thời gian truyền đạo, riêng tư cũng như công khai, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại câu nói :”Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Thế thì tại sao trong cuộc sống hằng ngày, nhất là những lúc gặp gian nan khốn khó chúng ta hầu như quên sự hiện diện của Chúa, thậm chí đôi lúc có những người đối xử, ăn nói kiểu như không có Chúa nữa.

  1. Những lời căn dặn của Đức Giêsu.

Người ta thường nói :”Cách mặt xa lòng” (Tục ngữ) nghĩa là xa nhau thì dễ quên nhau. Đây là một kinh nghiệm rất phổ biến vì nó thường xẩy ra hằng ngày một cách rất tự nhiên.  Đức Giêsu muốn đề phòng cho các môn đệ khỏi lâm vào cảnh đau lòng “cách mặt xa lòng”, nên trước khi về trời, về cùng Chúa Cha, Người đã đảm bảo với môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có chuyện xa mặt cách lòng, và về phía con người cần phải giữ lời Thầy để “cách mặt, nhưng gần lòng”.

a) Về phía Thiên Chúa.

Đức Giêsu đảm bảo với các môn đệ rằng về phía Thiên Chúa  không có cách mặt xa lòng đâu.  Chúng ta có thể trưng ra những câu Đức Giêsu nói với các ông trong bữa Tiệc Ly :

– “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với các con (Ga 14,23)

– “Cha Thầy phái đến nhân danh Thầy, Đấng Bào chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều  Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).

-Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, chứ không để các con mồ côi đâu.

          Như vậy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều đến ở trong các con, các con được yêu mến, dạy dỗ, được bào chữa nâng đỡ và được ban phúc bình an, không còn phải xao xuyến, sợ hãi, mà còn được vui mừng về cùng Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Vậy, về phía Đức Giêsu, Người càng xa mặt về phần xác bao nhiêu, thì về phía thiêng liêng càng gắn bó kết hợp với các con ở khắp mọi nơi mọi lúc.

b) Về phía loài người.

Để đề phòng khi xa mặt Chúa, mà lòng mình không xa Chúa, thì Đức Giêsu đã bảo :”Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”(Ga 14,23). Giữ lời Thầây là một trắc nghiệm rõ nhất, chính xác nhất về lòng mến Chúa.

Đức Giêsu đã nói : “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy… Ai không yêu mếân Thầy, thì không giữ lời Thầy”.  Câu nói này đủ xác định thế nào là yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu, bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa.  Vì đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta  đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta giữ lời Chúa nhiều hay ít.

          Chúa bảo chúng ta hãy tuân giữ lời Chúa, nhưng lời Chúa ở đâu ?  Nếu trả lời một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói : lời Chúa chứa đựng trong Sách Thánh, tức là trong Kinh Thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói : lời Chúa còn chứa đựng trong Thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong Phụng vụ, tức là những gì Giáo hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự.  Và lời Chúa còn chứa đựng  trong đời sống của Giáo hội, tức là giáo huấn của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục.

          Tóm lại, Kinh thánh, Thánh truyền, phụng vụ và giáo huấn của Giáo hội, đó là những kho tàng chứa đựng lời Chúa. Nhưng thông thường và cụ thể, mỗi khi nói đến lời Chúa , chúng ta thường hiểu là Thánh Kinh, nhất là sách Tin mừng.

          Ngoài ra, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ và chúng ta  khi xa mặt Chúa, phải có đức tin vững vàng trong cơn gian nan thử thách. Thiên Chúa xếp đặt cho chúng ta  phải trải qua một thời kỳ gian khổ, để ta trưởng thành về tâm linh. Nhưng trong suốt thời gian chịu đựng thử thách đó, Thiên Chúa không bỏ rơi ta.  Người luôn ở trong ta để động viên và giúp đỡ ta  vượt qua gian khổ, để đức tin của ta  ngày càng mạnh mẽ và trưởng thành.

Truyện : Con kén và con bướm.

          Ngày nọ, một chuyên gia sưu tầm các loài bướm vào một công viên, thấy một cái kén lạ treo lơ lửng trên cành cây, ông ta liền bứt lấy cành cây ấy và đem kén bướm về nhà nghiên cứu. Ít ngày sau, ông thấy có cái gì động đậy bên trong kén. Ông biết là sắp tới lúc con bướm nở. Hôm sau, cái kén lại nhúc nhích, nhưng cũng chẳng có gì khác xẩy ra. Ngày thứ ba vẫn thấy kén nhúc nhích mà con bướm bên trong cũng không ra được. Nghĩ rằng tại cái kén mà bướm không ra được, ông lấy con dao sắc ra rạch vỏ kén giúp nó ra ngoài. Có điều sau một ngày mà con bướm vẫn không bay ra được, và cuối cùng chết.

          Về sau, ông được một người bạn thân là nhà côn trùng học cho biết lý do con bướm không bay ra được, là do thiên nhiên đã xếp đặt cho nó phải tự phấn đấu để thoát ra khỏi cái kén. Ngày nào nó phát triển  đến độ tự mình đạp bể cái kén chui ra ngoài thì mới chứng tỏ nó phát triển đầy đủ và mới có khả năng sinh tồn được trong thiên nhiên.  Muốn làm con bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, thì bướm phải trải qua thời kỳ làm con sâu lặng lẽ, rồi phải ẩn mình trong cái kén một thời gian, đợi ngày phát triển đầy đủ. Còn nếu ông rạch cái kén giúp nó ra ngoài trước thời hạn, là ông vô tình tiêu hủy  khả năng phát triển và sinh tồn của nó.

          Chúng ta chẳng khác gì con bướm nọ : Thiên Chúa đã hoạch định cho chúng ta  phải đấu tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về mặt tâm linh. Chúa đã an bài mọi sự để vào một số thời điểm trong cuộc sống chiêm niệm của chúng ta, vào một số thời điểm trong cuộc sống tín trung của chúng ta, vào một số thời điểm trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta, chúng ta phải nỗ lực gian khổ.  Vào những thời điểm ấy, Thiên Chúa ở rất gần chúng ta . Chúa biết rõ chúng ta cần phải chịu gian khổ một thời gian vì lợi ích riêng của chúng ta, vì nhờ những gian khổ  này chúng ta mới được tăng triển về mặt thiêng liêng để trở thành những Kitô hữu vững mạnh (M. Link,  Giảng lễ Chúa nhật năm C, tr 133).

II. ĐỨC GIÊSU BAN THÁNH THẦN CHO CÁC MÔN ĐỆ

          Nay Đức Giêsu ra đi, sự lưu truyền của Thiên Chúa trong Giáo hội không phải là một sự tồn kho bất động, bởi vì chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu, làm nên sự lưu truyền này bằng cách dạy dỗ và nhắc nhở cho Giáo hội tất cả những gì Đức Giêsu đã ban bố khi còn ở trần gian.

          Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật”, nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.

          Một thời kỳ đã kết thúc, thời kỳ người ta thấy được bằng mắt, nghe được bằng tai. Với biến cố Phục sinh, một thời kỳ mới bắt đầu, một cách thể khác cho liên hệ giữa Người và các môn đệ. Thời kỳ Chúa Thánh Thần mà “Cha sai đến nhân danh Thầy”. Người sẽ dẫn các ông tới chỗ hiểu thấu đáo lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu.

Léon Dufour giải thích rằng:”Tiếp theo thời kỳ mạc khải của Đức Giêsu Nazareth, là thời kỳ của Đấng Bầu Chữa. Người tỏ lộ cùng một mạc khải, nhưng đầy đủ, trọn vẹn. Sứ vụ của Đức Giêsu ở trần gian kết thúc, nhưng đối với các môn đệ, Chúa Thánh Thần còn rọi sáng những lời Đức Giêsu dạy rõ hơn khi các ông nghe lúc trước”(Lecture de l’Eùvangile selon Jean, Seuil, tr 120).

          Nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã dạy lúc tại thế. Khi nói nhắc lại thì không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách nói của Thánh Kinh, là khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục sinh.

          Về vấn đề này, X. Léon-Dufour chú giải :”Khi nhắc các môn đệ nhớ lời của Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần không chỉ lặp lại giọng điệu của Thầy cho những trí nhớ quá tệ, nhưng Người còn giải nghĩa dưới ánh sáng Phục sinh cho các ông nắm bắt được ý nghĩa mà, cho đến lúc này, còn rất tối tăm đối với các ông… Nhiệm vụ giải thích của Chúa Thánh Thần liên quan tới sứ điệp của Ngôi Con, nhằm làm cho cộng đoàn nơi mạc khải  luôn được tiếp tục và hiện thực một cách sáng tạo trong đời sống các tín hữu. Như thế, lời Đức Giêsu luôn sống động qua thời gian”(Sđd, tr 132).

III. ĐỨC GIÊSU BAN BÌNH AN CHO CÁC ÔNG.

          Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con  không như thế gian ban tặng”(Ga 14, 27).

          Theo phong tục Do thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng “bình an” (shalom), nhưng ở đây sự bình an của Đức Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào từ biệt thông thường, vì thế gian chỉ có thể cầu chúc bình an  chứ không thể tự mình ban bình an được, còn Đức Giêsu chính Người ban bình an riêng của Người.

          Trong tiếng Hip-ri, bình an là Shalom, một chữ được dùng rộng rãi trong Thánh Kinh. Nội dung từ ấy rất phong phú đến nỗi từ “bình an hay hòa bình” chỉ chuyểân tải một phần ý nghĩa. Một cách tổng quát, nó có ý nghĩa một sự viên mãn phổ quát, một điều kiện trong đó không một vật gì được thiếu sót. Từ ấy diễn tả hạnh phúc hoàn hảo chỉ thuộc về Thiên Chúa. Khi người ta có bình an, người ta sống trong sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa.

          Vì vậy, Bình an, đối với người quen thuộc Thánh Kinh, không phải chỉ là  vắng bóng bạo hành, tĩnh lặng tâm hồn, không có chiến tranh, mà chính là sức khỏe, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn, ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này.

          Theo cha Cantalamessa, Đức Giêsu không nói tới một sự bình an bên ngoài, chủ yếu là không có chiến tranh, xung đột giữa các dân tộc và quốc gia khác nhau. Người nói đến bình an đó trong những dịp khác, chẳng hạn khi nói :”Phúc thay ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

          Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Người nói đến một sự bình an khác, bình an nội tâm của con tim, của con người với chính mình và với Thiên Chúa. Điều này thật rõ ràng nơi lời nói mà Đức Giêsu thêm vào liền theo đó trong đoạn văn này của thánh Gioan :”Các con đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi”. Đây là sự bình an nền tảng nhất. Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại. Từ Đức Giêsu sử dụng là “shalom”. Người Do thái chào chúc lẫn nhau với lời này và vẫn còn làm thế; chính Đức Giêsu đã chào các môn đệ với lời này vào buổi chiều Phục sinh và truyền cho các môn đệ chào hỏi dân chúng cùng cách thức như thế :”Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói : “Bình an cho nhà này”(Lc 10,5-6).

          Đức Giêsu có thể ban bình an cho các Môn đệ bởi vì chính Người sở hữu sự bình an :” Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy”. Bình an là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa, Người có thể ban cho ta ơn bình an. Chúng ta có thể ban sự bìn an nào nếu không phải là sự bình an của chúng ta ? Người Kitô hữu có ơn gọi đem lại bình an. Nhưng khổ nỗi, thay vì chúng ta đem lại bình an cho người khác, chúng ta bắt họ chịu đựng sự bất an và bất hạnh của chúng ta.

          Sự bình an thực sự chỉ có khi chúng ta tuân giữ lệnh truyền của Đức Giêsu là : ”Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).  Về vấn đề này, Đức Giáo hoang Gioan Phaolô II nói :” Con đường của bình an chung cục phải đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương. Giáo hội chăm chú nhìn về Đấng là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và bất chấp mọi đe dọa không ngớt gia tăng, Giáo hội không ngừng hy vọng, Giáo hội không ngừng kêu cầu và phục vụ hòa bình của nhân loại trên trái đất” (Dominum et Vivificantem đoạn 67)

          Không thể có bình an nếu không có sự tha thứ. Hãy tuân giữ luật yêu thương, và tha thứ cho nhau, ngay cả kẻ thù của mình (Mt 5,44), thay vì luật báo thù – luật rừng. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Báo thù không dẫn đến hòa bình. . Chỉ có tình thương mới đem lại bình an thực sự mà thôi. Vì Thiên Chúa là Tình yêu cũng là nguồn bình an (Ga 4,8,16; Rm 16,20).

Về mục lục

.

NỢ TÌNH

Trm Thiên Thu

Là con người, không ai lại không mắc nợ, dù ít hay nhiều. Có thể không mắc nợ về vật chất nhưng ai cũng mắc nợ về tinh thần – nợ cha mẹ, nợ anh em, nợ bạn bè, nợ thầy cô, nợ xã hội,… Nói chung, mắc nợ gì cũng… khổ. Món nợ càng to thì nỗi khổ càng lớn, không an tâm, thậm chí là mất ăn mất ngủ.

Món nợ đơn giản nhất là nợ cá nhân – riêng giữa hai người với nhau, món nợ cũng có thể mang tính xã hội, mang tầm vóc quốc gia hoặc quốc tế. Chính khách John Adams (1735-1826, tổng thống thứ nhì của Hoa Kỳ) nói: “Có hai cách để chinh phục và nô dịch hóa một đất nước. Cách thứ nhất là bằng thanh kiếm. Cách thứ hai là bằng nợ nần. Thật là nguy hiểm với “khổ nhục kế” như thế – không chỉ khổ mà còn nhục. Thế nên, cứ “thà lên giường ngủ không ăn tối còn hơn thức dậy với nợ nần” (chính khách Benjamin Franklin (1706-1790, một trong các vị khai sinh Hoa Kỳ). Tại sao vậy? Bởi vì “người mắc nợ chẳng khác nào nô lệ” (văn thi sĩ Ralph Waldo Emerson, 1803-1882). Nợ nần khổ thật!

Nhưng mắc nợ vì hoàn cảnh khó khăn đã đành, đáng quan ngại là mắc nợ vì “bóc ngắn, cắn dài” hoặc “vung tay quá trán”. Đôi khi tự làm mình mắc nợ vì thói đua đòi hoặc khoe mẽ, ưa bề ngoài. Đó chính là dạng mắc nợ mà Benjamin Franklin đã cảnh báo: “Mua thứ mình không cần rồi sẽ phải bán thứ mình cần”.

Tránh được nợ thì lòng thanh thản. Nhưng có món nợ không tránh được, thậm chí là nên mắc nợ nhau, đó là NỢ TÌNH, như Thánh Phaolô nói: “Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8).

Cuộc sống có đủ loại tình với nhiều cấp độ. Cuộc đời không có tình yêu thì không có sức sống, y như trái đất không có ánh nắng vậy. Tình yêu thương như một điệp khúc của bài trường ca vô tận, luôn được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại, đến nỗi có thể có người cảm thấy nhàm chán vì nghe hoài, nghe mãi, nghe suốt năm phụng vụ, thậm chí nghe hằng ngày. Cứ nghe mãi như vậy mà chúng ta vẫn chẳng thực hiện được bao nhiêu, mặc dù Thánh Gioan nói “nhẹ” thế này: “Các điều răn của Người có nặng nề gì đâu” (1 Ga 5:3). Quả thật, Đạo Chúa chỉ là một chữ Yêu, rất ngắn gọn và đơn giản – theo Việt ngữ chỉ có 3 mẫu tự, ấy thế mà lại nhiêu khê. Tuy nhiên, dù sao đi nữa thì tình yêu vẫn mãi mãi vĩ đại và cao cả vô cùng!

Thật vậy, tình yêu kỳ diệu đến nỗi đại văn hào Victor Hugo (1802-1885, người Pháp) đã minh định: “Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”. Rất kỳ lạ. Chỉ có người đã từng yêu hết lòng thì mới khả dĩ hiểu được mà thôi. Yêu là một dạng điên, càng yêu sâu đậm càng điên dữ dội. “Điên” ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực chứ không “bệnh hoạn” theo kiểu điên rồ!

Chúa Giêsu bảo chúng ta phải nên hoàn thiện (Mt 5:48), yêu thương cả kẻ thù (Mt 5:44), học nơi Ngài nhân đức hiền lành và khiêm nhường (Mt 11:29). Nói chung, chúng ta phải nên giống Ngài. Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh. Làm sao nhận diện? Thánh Angela Merici (1474-1540, người Ý) cho biết: “Muốn biết một người có nên giống Chúa Giêsu hay không, phải coi họ chấp nhận sự khinh mạn sỉ nhục như thế nào”. Chúa Giêsu vẫn yêu cuồng si dù biết chúng ta phụ tình Ngài. Yêu là như thế đó. Yêu không chỉ “chết trong lòng một ít” mà phải te tua, tơi tả, và “chết thật” chứ không thể cứ tà tà. Chán lắm, ngán lắm, ớn lắm, và sợ lắm! Thế nhưng vẫn có những người thích kiểu “không giống ai” như vậy. Hầu như người đời không thể hiểu hết ý nghĩa chữ “yêu” theo kiểu “ngược đời” như thế, chỉ những ai có niềm tin vào Chúa-Giêsu-chịu-đóng-đinh thì mới khả dĩ hiểu!

Mọi thứ luôn liên quan lẫn nhau, cái này liên quan cái kia – trực tiếp hoặc gián tiếp. Sách Công vụ cho biết có những người từ miền Giuđê đến dạy thế này: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15:1). Khi đó, hai ông Phaolô và Banaba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục để bàn về vấn đề đang tranh luận này. Tranh luận để hiệp nhất thì đó là điều cần, nếu không thì thật đáng quan ngại.

Tác giả sách Công Vụ cho biết rằng bấy giờ các tông đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antiôkhia với ông Phaolô và ông Banaba. Đó là ông Giuđa (biệt danh là Basaba) và ông Xila, những người có uy tín trong Hội Thánh. Họ trao cho phái đoàn bức thư có nội dung thế này: “Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Banaba và ông Phaolô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giuđa và ông Xila đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh” (Cv 13:24-29). Con người thời nào cũng có “máu” dễ sa đà lắm, thế nên luôn phải nhớ lời tiền nhân căn dặn: “Cẩn tắc vô ưu”.

Cẩn trọng là khôn ngoan – một nhân đức quý giá, bởi vì “khôn ngoan là cội rễ không thể nào hư hoại” (Kn 3:15). Thật vậy, “Đức Khôn Ngoan là kho báu vô tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ bảo ban” (Kn 7:14). Đó là kho báu vô giá: “Trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất” (Kn 7:9).

Có nhiều thứ phải cẩn trọng, đặc biệt là miệng lưỡi – ngôn ngữ, bởi vì lời nói có thể làm hại người khác: “Nhất ngôn xuất, tứ mã nan truy”. Tác hại khôn lường vì cái lưỡi! Chắc hẳn chúng ta cũng đã biết điều này: “Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật”. Luật phục vụ con người chứ con người không phục vụ luật. Có con người rồi mới phát sinh luật. Luật cũng cần thiết để giúp con người hoàn thiện, nhưng theo luật phải vì yêu mến thật lòng, chứ chỉ khư khư giữ luật vì luật mà không vì yêu mến thì hóa vô ích. Thánh Augustinô đã nói: “Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì cũng được”. Người nào dám yêu thì không hề sợ bất cứ điều gì, kể cả cái chết, vì tình yêu còn mạnh hơn cả Tử Thần.

Yêu thương là đường lối của Thiên Chúa, là chân lý của Ngài, là niềm khao khát vĩnh hằng của Ngài, và không chỉ là quy luật mà còn là mệnh lệnh của Ngài. Ai cũng phải cố gắng sống yêu thương, và không ngừng cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Đồng thời cũng phải biết chân thành mong muốn: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6).

Chắc chắn ai cũng mắc món nợ ân tình – cả ân nghĩa và tình cảm. Nhưng vì yêu mến Thiên Chúa mà người ta càng muốn mắc món nợ đó, món nợ không bao giờ trả hết ở đời này. Ước vọng đó là niềm khao khát khôn nguôi của những người tin vào Thiên Chúa, và cầu chúc cho nhau điều tốt lành nhất: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).

Mệnh danh Tông Đồ của Tình Yêu và tự xưng là “môn đệ được Chúa yêu”, Thánh trẻ Gioan là con người can đảm, vì yêu mà ngài dám đứng dưới chân Thập Giá, và rồi được Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ. Thánh nhân kể về thị kiến: “Đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ítraen. Phía Đông có ba cửa, phía Bắc có ba cửa, phía Nam có ba cửa và phía Tây có ba cửa. Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21:10-21).

Thị kiến là sự khác thường, thần bí, vượt ngoài tầm nhìn phàm nhân. Thánh Gioan là thị nhân thần bí như vậy vì được Thiên Chúa mặc khải nhiều điều rất lạ lùng. Thánh nhân cho biết thêm: “Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi” (Kh 21:22-23). Ôi, cuộc thị kiến quá đỗi lạ lùng! Nhưng đó cũng là những điều Chúa hứa ban cho những ai dám yêu Ngài hết lòng, hết sức, và hết trí khôn – nghĩa là tất cả đều nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài.

Một hôm, tông đồ Giuđa (cũng gọi là Giuđa Nhiệt Thành hoặc Tađêô, không phải Giuđa Ítcariốt) hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (Ga 14:22). Nghe hỏi vậy, Đức Giêsu đáp ngay: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14:23-24). Một loạt các mối liên kết của tình yêu, như một đa giác có các cạnh và các góc không thể tách rời nhau – kể cả các đường trung tuyến hoặc đường cao. Một hệ lụy tất yếu đối với tình yêu thương thật kỳ diệu!

Chúa Giêsu là Con Đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha, và cũng là Cửa Chuồng Chiên duy nhất, Ngài căn dặn các đệ tử: “Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:25-26). Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần, vì Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống. Đó là tặng phẩm vô giá mà Chúa Giêsu muốn dành cho mỗi chúng ta. Tại sao? Vì Ngày rất yêu thương mỗi chúng ta, đến nỗi tên mỗi người đều được Ngài khắc vào lòng bàn tay (Is 49:16), đã cứu chuộc chúng ta bằng giá máu và mỗi chúng ta đều là của riêng Ngài (Is 43:1).

Ngài luôn muốn chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10:10), và Ngài vừa hứa hẹn vừa động viên: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14:27). Ngài xác định: “Thầy ra đi và đến cùng anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin” (Ga 14:28-29). Bất cứ điều gì cũng được Ngài nói trước để không ai bất ngờ mà ngỡ ngàng. Thế mà… Ôi chao!

Hôm nay, Thầy chí thánh Giêsu dạy chúng ta hai điều quan trọng. Thứ nhất là về tình yêu thương: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12); thứ nhì là về lòng can đảm: “Đừng sợ!” (St 15:1; St 21:17-18; St 26:23-24; St 35:16-17; St 43:23; St 46:1-4; St 50:18-21; Xh 14:13; Xh 20:20; Đnl 31:6; Is 7:4; Is 8:12; Is 10:24; Is 35:4; Is 37:6; Is 40:9; Is 41:10; Is 41:13-14; Is 43:1; Is 43:5; Is 44:2; Is 44:8; Is 51:7; Is 54:4; Gr 1:17; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Gs 10:25; Xp 3:16; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13;Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Cv 18:9; Kh 1:17-18; và còn nhiều nữa…).

Thật kỳ lạ: Mệnh lệnh cách “Đừng Sợ” được đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác nhau. Như vậy, mỗi ngày chúng ta đều được Thiên Chúa động viên – mỗi ngày một kiểu cho suốt năm. Có hai điều này liên quan lẫn nhau: Yêu thì phải can đảm, nghĩa là không sợ, còn nếu sợ thì không thể yêu. Hệ lụy tất yếu là thế!

Lạy Thiên Chúa Tình Yêu Vĩnh Hằng và Thương Xót Vô Tận, xin cho chúng con biết can đảm để có thể sống trọn tình yêu thương như Con Một Ngài – Người Tôi Trung Đau Khổ. Xin Tình Yêu của Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh biến đổi cuộc sống của mỗi chúng con ngày càng trở nên hoàn thiện qua tác động của Chúa Thánh Thần, nhờ đó mà chúng con xứng đáng là những Kitô hữu đích thực. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

MỘT ĐỜI TRI ÂN

Lm. Jos DĐH.

Lời nói xã giao, việc làm hời hợt, rượu nhạt, trà thiu, có phải là nguyên nhân làm tan vỡ nhiều “cặp đôi” vì sắc mầu của mặn ngọt, thơm ngon, vì mất phương hướng nơi cuộc sống ? Bậc sinh thành nhất định phải hiểu: cha mẹ hiền lành để đức cho con ; phận làm con có ai không hiểu: anh em hiếu thuận, gia đình an vui ? Tạ ơn, cám ơn, là cách nói đơn giản hơn, khi chúng ta sống đức thảo hiếu đối với tổ tiên dòng tộc, khi chúng ta tiếp nối truyền thống của tiền nhân: cha anh hùng, con hảo hán. Xã hội thời nào chẳng có giai cấp địa vị, có vui buồn sướng khổ, gia đình nào mà không có lúc khủng hoảng như cơm khô, canh nhạt ; qui luật chung, ai cũng thích rượu mừng, và ngao ngán với rượu phạt ! Tạ ơn, cám ơn, là mô phỏng cách sống của tiền nhân: yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch vẫn kê cho bằng.

90 năm, 100 năm đời người, chắc chắn không phải để hưởng thụ, thực tế một chút, chúng ta vẫn ý thức: sống là vừa học, vừa hành, giá trị cuộc đời không hệ tại giỏi, giầu, bằng cấp, biết ăn chơi, biết xài tiền, mà là biết sống trên thuận dưới hoà, sống tình làng nghĩa xóm. Đức Giêsu lại một lần nữa minh định nguồn cội của con người là yêu thương: “ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Ý thức yêu mến phải có nguồn gốc từ Thiên Chúa, tuân giữ lời Chúa phải bắt đầu từ tình yêu nên một với Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương, các tông đồ được thu hút bởi tình Thầy-trò, được xác tín hơn bởi ơn ban của Đấng phục sinh, yêu và được yêu, chỉ thế là đủ. Xuất phát từ mầu nhiệm yêu thương, các học trò của Đức Giêsu, bằng đức ái chân thành, các ông không sợ phải minh chứng: buổi sáng nghe được đạo lý, buổi chiều dẫu chết cũng hạnh phúc rồi.

Hành trình đời người dài ngắn, không ai chắc chắn được, bằng cấp cao, kiến thức nhiều, rồi cũng phải đối diện với qui luật: sinh lão bệnh tử. Nếu một ngày, một giờ, hoặc một phút giây trong đời, chúng ta chợt nhận ra sự giới hạn mong manh của kiếp người, hẳn chúng ta đang đi đúng qui trình của Vị Thầy đã dám chết vì yêu, minh chứng: “lời các con nghe không phải của Thầy, nhưng của Cha, Đấng sã sai Thầy”. Một đời tri ân, hay một lần trong đời biết ơn bậc sinh thành, biết ơn cội nguồn, đều đáng được đứng vào hàng ngũ Đại gia đình yêu thương. Sách có câu: người khéo dùng oai không giận bậy, người khéo dùng ơn không cho bậy. Thầy Giêsu không dùng uy quyền, không lấy đức ái thống trị hay dụ dỗ các học trò, Ngài chân thành, không “ba phải” khi công bố: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”. Một lần yêu thật, là tri ân thật, một lần sống mến yêu và thật sự tuân giữ lời Thầy, là đời người có cả tình yêu Ba Ngôi hiện diện.

Bình an mà Thầy Giêsu nói là bình an nào ? Thưa, đó là bình an có sắc mầu của khổ đau thập giá, có niềm vui của Đấng phục sinh, có trọn vẹn tình yêu Ba Ngôi tẩy rửa tội lỗi, bổ dưỡng đức tin, và làm sống động tâm hồn thành viên Kitô giáo. Chẳng có gì không chân chính mà trở nên vĩ đại, chẳng có tình yêu giả tạo nào mà bền vững, cũng như không có sự thật nào mà không được đáp đền bằng hạnh phúc. Các học trò không hiểu thế nào là hạnh phúc thật, do đó Thầy Giêsu giải thích thêm: “nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ vui mừng vì Thầy về cùng Cha, bởi Cha trọng hơn Thầy”. Ở bên tình yêu của Chúa Cha là hạnh phúc thật, là bình an thật, là cùng đích của tình yêu nên một. Nếu người ta biết dùng cái cần câu để câu cá, câu cơm, hẳn không ai sử dụng tình yêu thật, ơn bình an thật của Đấng phục sinh, nhằm mưu cầu vật chất địa vị để hy vọng sống mãi ở đời này.

Kinh nghiệm thực tế ở đời: tình bạn, tình yêu, không phải là cả đời không cãi nhau, nhưng to tiếng với nhau rồi, xin lỗi, làm hoà, vì họ được mời gọi ở bên nhau suốt đời. Đi theo Chúa làm môn đệ, tin Chúa ban tình yêu và bình an thật, nhưng đâu phải vì thế mà hành trình đời người không gặp gian nan đau khổ ; đau khổ thập giá chính là lời tạ ơn, biết ơn, đẹp và chuẩn nhất với Đấng ta yêu mến tin thờ. Xã hội thời nào cũng biểu dương người thật việc thật, tình yêu thật bao giờ cũng cần được minh chứng bằng việc làm thật. Chúng ta đang tri ân tình Chúa, tình người, chúng ta có yêu mến và tuân giữ lời Thầy Giêsu không ? Chúng ta có tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa thật, là Đấng đã chịu chết và sống lại thật vì yêu thương nhân loại không ? Câu trả lời phải là: thưa có, khi chúng ta ý thức mình đang là học trò, là môn đệ của Đấng Kitô, chúng ta vẫn kết hiệp cầu nguyện và sống bằng tình yêu Ba Ngôi mỗi ngày, mỗi giây phút trong đời là sự thật. Amen.

Về mục lục

.

THẦY BAN BÌNH AN CHO ANH EM

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Nếu Chúa Nhật vừa rồi, Lời Chúa nói về giới răn yêu thương, thì Chúa Nhật tuần này, Lời Chúa nói về bình an là món quà quý giá mà Đấng Phục Sinh ban tặng.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27).

1- Một thứ bình an rất khác

Ở đây, Chúa Giêsu muốn nói về thứ bình an nào? Quả thật, Người không nói về sự bình an bên ngoài, sự bình an vắng bóng chiến tranh và tranh chấp giữa người với người, giữa các dân tộc hay giữa các quốc gia với nhau. Người nói về thứ bình an này trong những dịp khác nhau, chẳng hạn như khi Người nói: “Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.”

Nhưng trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói đến một thứ bình an hoàn toàn khác, thứ bình an nội tâm của tâm hồn mà một người có nơi mình nhờ sống kết hợp với Thiên Chúa. Điều này quá rõ ràng từ những gì Chúa Giêsu liền bổ sung ngay sau đó: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Đây là sự bình an nền tảng nhất. Nếu không có sự bình an này, những sự bình an khác không thể hiện hữu. Cũng như một tỷ giọt nước bẩn sẽ không thể làm cho một đại dương sạch, thì một tỷ trái tim xao xuyến sẽ thể không làm cho nhân loại này được bình an.

Từ mà Chúa Giêsu dùng là từ “shalom.” Người Do Thái chào nhau bằng từ này, ngày nay họ vẫn còn chào nhau như thế khi gặp nhau. Chính Chúa Giêsu chào các môn đệ bằng từ này vào buổi chiều Phục Sinh và Người truyền cho các môn đệ hãy chào dân chúng theo cách thức như thế: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này” (Lc 10,5-6).

2- Chúa chính là bình an

Để hiểu ý nghĩa của sự bình an mà Chúa Giêsu ban tặng, chúng ta cần tìm hiểu trong Kinh Thánh. Theo đó, “shalom” có nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là chỉ theo nghĩa bình an là vắng bóng chiến tranh và hỗn loạn. Một cách tích cực, nó diễn tả sự khỏe mạnh, sự yên bình, dĩ nhiên, cả sự thành công và vinh quang. Thật vậy, Kinh Thánh nói về sự “bình an của Thiên Chúa” (Pl 4,5) và cũng nói về “Thiên Chúa của bình an” (Rm 15,32). Bình an không có nghĩa chỉ là những điều Thiên Chúa ban nhưng cả những gì Thiên Chúa là. Trong một Vịnh Ca, Giáo Hội gọi Chúa Ba Ngôi là “đại dương bình an.” Như thế, bình an là ân huệ đến từ Thiên Chúa và cũng chính là Thiên Chúa. Bởi thế, khi nhập thể làm Người, Chúa Giêsu được gọi là Hoàng Tử Bình An và cũng là nguồn mạch bình an. Sau khi phục sinh, Người là Đấng ban tặng bình an. Thế nên, trong những cuộc hiện ra với các môn đệ, lời đầu tiên mà Đấng Phục Sinh nói là: “Bình an cho anh em.” Trong thánh lễ, linh mục đại diện Chúa Kitô lặp lại lời chúc này tới cộng đoàn cử hành, là vọng lại lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh. Bởi lẽ, bao giờ cũng thế, con người luôn cần đến sự bình an của Người.

Điều này cũng nói với chúng ta rằng bình an tâm hồn mà tất cả chúng ta đều khát khao không bao giờ hoàn toàn hiện hữu và chúng ta có được mà không có Thiên Chúa, hay ở ngoài Người. Trong tác phẩm “Divina Commedia” đại thi hào Dante Alighieri đã tổng hợp tất cả những điều này trong câu thơ mà nhiều người xem là câu thơ đẹp nhất trong tác phẩm ông: “Bình an chúng con là ở nơi ý của Ngài.”

3- Đức tin mang lại bình an

Tin vào Chúa Kitô không có nghĩa là chúng ta được miễn chuẩn khỏi đau khổ, khó khăn và thử thách. Tin Mừng không hứa ban một phương thuốc để giải quyết hết mọi vấn đề; một cách nào đó, lo lắng, khó khăn, thử thách là một phần của thân phận con người. Nhiều lúc chúng ta còn phải đối diện với những khó khăn đó nhiều hơn cả những người không tin, chúng trên cả những khả năng của chúng ta. Nhưng Tin Mừng chỉ ra một phương dược giúp chúng ta vượt qua khó khăn và được bình an trong khi gặp thử thách. Đó là lời đầu tiên trong chương Tin Mừng Gioan: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Tin tưởng vào Thiên Chúa và ở lại trong Người là phương được để có bình an. Điều này khiến mỗi người phải chất vấn mình: Nhưng lúc gặp khó khăn, tôi có chạy đến Chúa không? Tôi có tin vào Chúa không?

Sau chiến tranh thế giới II, một cuốn sách được xuất bản với tựa đề: “Những lá thư cuối cùng từ Stalingrad”. Đó là những lá thư của những lính chiến Đức là những người đang chờ cuộc tấn công cuối cùng vào Liên Xô ở Stalingrad. Trong đó tất cả bị giết chết. Những lá thư đó được một máy bay chở ra khỏi thành phố. Người ta tìm thấy sau chiến tranh trong một lá thư, một người lính trẻ viết cho mẹ anh với những lời này: “Con không sợ chết. Đức tin con làm cho con vững mạnh tuyệt vời như thế.”

Tôi còn nhớ câu chuyện về mẹ tôi, lần kia, một người trong gia đình tôi gặp một tai nạn nghiêm trọng, nghe tin điều đó, mẹ tôi rất lo lắng, mẹ liền chạy đến đền thánh Antôn nhờ thánh nhân cầu bầu cùng Chúa cho gia đình được bình an. Sau khi đã cầu nguyện, mẹ tôi trở về trong sự bình tĩnh và phó thác để đối diện với những khó khăn vừa xảy ra.

Có lẽ mỗi người đều có kinh nghiệm tương tự như thế, những lúc gặp khó khăn thử thách và cả những lúc êm ả, chỉ có Chúa là nơi chúng ta nương thân, chỉ có Chúa mới mang lại bình an cho tâm hồn chúng ta.

Giờ đây chúng ta hiểu được ý nghĩa mà chúng ta cầu chúc trong thánh lễ khi hôn bình an. Chúng ta chúc nhau được mạnh khỏe, bình an, có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Nói cách khác, chúng ta chúc nhau có một con tim đầy bình an của Chúa Kitô là sự bình an nền tảng cho toàn bộ cuộc sống con người. Ai cũng cần đến thứ bình an đó của Chúa. Chúng ta hãy chúc nhau bằng lời chúc của Đấng Phục Sinh: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em!” Amen!

Về mục lục

.

CHÚA THÁNH THẦN LUÔN BẢO TRỢ GIÁO HỘI VÀ CÁC TÍN HỮU

Lm.Giuse Đỗ Đức trí

Trong chương trình khám phá thế giới gần đây đã giới thiệu Israel là một quốc gia được coi như môi trường khởi nghiệp lý tưởng cho các bạn trẻ. Bởi vì tại quốc gia này, chính phủ tạo mọi điều kiện thuận lợi về tài chính, cơ sở, phòng thí nghiệm hiện đại để giúp các bạn trẻ thực hiện được ý tưởng của mình. Không chỉ dành cho các bạn trẻ, mà cả các thiếu nhi và thiếu niên, học sinh khi dám đưa ra những ý tưởng phát minh, thì cũng được các thầy cô giáo và các chuyên gia đồng hành để giúp các em thực hiện những ý tưởng đó. Vì thế cho đến nay Israel là một trong những quốc gia có nền công nghệ tiên tiến nhất, và chiếm nhiều giải Nobel khoa học nhất trên thế giới. Vì quốc gia này có cả một sách lược để hỗ trợ những tài năng, những người đam mê nghiên cứu.
Cách đây hơn hai ngàn năm, cũng tại Israel có một nhóm 12 bạn trẻ, họ đang căng tràn nhiệt huyết, say mê với sứ mạng của Thầy Giêsu trao phó. Họ được sự bảo trợ của một vị Thầy là Chúa Thánh Thần, từ đó mười hai con người này đã thực hiện một cuộc thay đổi hoàn toàn thế giới.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nói trước cho các tông đồ về việc các ông sẽ đón nhận được một động lực, một sức mạnh sẽ giúp các ông ra đi thực hiện mục tiêu cuộc đời mình đó là Tin Mừng hóa toàn thế giới. Động lực và sức mạnh đó chính là Chúa Thánh Thầnmà hôm nay Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là Đấng Bảo Trợ: “Đấng Bảo Trợ
là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.
Sau ba năm miệt mài với sứ mạng xây dựng Nước Trời, rao truyền giới răn yêu thương của Tin Mừng, giờ đây trước khi chia tay với các môn đệ, Chúa Giêsu đã tin tưởng trao cho các ông tất cả sự nghiệp và dự phóng của Ngài. Chúa Giêsu còn gửi đến cho các môn đệ một Người Thầy là Chúa Thánh Thần để giúp các ông thực hiện sứ mạng lớn lao đó. Vì Chúa biết rằng, sứ mạng Chúa trao cho các tông đồ là một sứ mạng vượt quá sức của các ông, đó là: đem Tin Mừng đến tận cùng cõi đất; rao giảng cho mọi dân tộc; dạy cho họ giới răn của Tin Mừng và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Chúa Giêsu biết rằng để thực hiện được sứ mạng này, cần phải có một lòng mến lớn lao dành cho Ngài. Lòng mến sẽ là sức mạnh giúp các tông đồ ra đi và giúp các ông trung thành với sứ mạng Chúa trao. Chúa Giêsu cũng cho biết là Thiên Chúa Cha sẽ yêu mến những ai yêu mến Con của Ngài là Đức Giêsu. Thiên Chúa Cha yêu những người yêu Đức Giêsu đến độ, Ngài sẽ cùng với Đức Giêsu đến thăm và ở lại trong tâm hồn những người đó: “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”.Những ai được ở trong Thiên Chúa và được Thiên Chúa ở trong tâm hồn là hạnh phúc tột cùng, là hạnh phúc vĩnh cửu, là được ở trong Nước Trời.
Vì vậy, sứ mạng của các tông đồ là phải giúp cho mọi người được biết và yêu mến Đức Giêsu, để họ cũng được hạnh phúc đón Thiên Chúa vào tâm hồn mình. Dấu chỉ và thước đo để biết một người có yêu mến Đức Giêsu hay không đó là sống và thực hành lời dạy của Chúa Giêsu: “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy”.Như thế sẽ không thể có ai nói mình yêu mến Đức Giêsu mà lại chối từ sống theo lề luật của Ngài. Kẻ từ chối giữ giới răn lề luật của Đức Giêsu chắc chắn là người không yêu mến Ngài.
Khi đón nhận và thực hành giới răn, lề luật của Đức Giêsu, chúng ta sẽ đón nhận được sự bình an trong tâm hồn. Sự bình an này đến từ ơn thánh tẩy và tha thứ của Thiên Chúa. Vì Lời của Chúa Giêsu có sức thanh tẩy và chữa lành tâm hồn, giải thoát chúng ta khỏi sự trói buộc của tội lỗi, gỡ bỏ những cắn rứt của lương tâm, đem lại sự bình an và niềm vui thật sự. Chắc chắn nhiều lần chúng ta đã cảm nhận được ơn bình an và niềm vui này khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Giải tội: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian”.Vì thế gian có thể tạo ra cuộc vui nhất thời nhưng không thể đem lại niềm vui và không thể đem đến bình an trong tâm hồn.
Từ niềm vui và sự bình an trong tâm hồn do Chúa Giêsu ban tặng, các tông đồ đã mạnh dạn lên đường loan báo Tin Mừng, giới thiệu Đức Giêsu và giáo lý của Ngài cho thế giới. Các ông gặp rất nhiều khó khăn, thử thách, bị chống đối, bắt bớ, hành hạ thể xác và tinh thần, nhưng trong lòng các ông vẫn vui và bình an. Các tông đồ vui vì biết mình có Chúa Giêsu ở cùng và có Chúa Thánh Thần là sức mạnh, là Đấng Bảo Trợ dẫn đường cho các ông. Câu chuyện trong sách Công Vụ cho thấy các tông đồ đã giải quyết tất cả những khó khăn nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Lúc đó, ngay trong nội bộ giáo hội sơ khai đã có nhiều quan điểm khác nhau. Có một số người vẫn muốn níu kéo các tập tục Do thái, họ muốn những anh em dân ngoại khi tin Chúa Giêsu phải chịu phép cắt bì như những người Do Thái. Vấn đề đã đến lúc phải có một quyết định chung cuộc, Ông Phaolô và Barnaba đã lên Giêrusalem để hỏi ý kiến các tông đồ về vấn đề đó. Quả thật, với sự soi sáng và tác động của Chúa Thánh Thần và nhân danh Thánh Thần, các tông đồ đã long trọng tuyên bố: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác…”Với quyết định này, Kitô giáo tách hẳn khỏi Do Thái Giáo để bắt đầu một con đường mới dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Qua biến cố này lại một lần nữa minh chứng cho thấy, Chúa Thánh Thần, Đấng bảo trợ mà Chúa Giêsu Phục sinh ban tặng cho Giáo Hội đang hoạt động hết sức mạnh mẽ trên các tông đồ và trong tâm hồn các tín hữu. Chính Thánh Thần dẫn đưa Giáo Hội qua những khúc quanh an toàn và còn thúc đẩy Giáo Hội không ngừng vươn tới mọi miền trên thế giới. Qua dòng thời gian, đã không ít lần con thuyền Giáo Hội bị cuốn theo những cơn sóng của thế trần, con cái Giáo Hội đã nhiều lần sống và hành xử theo thế tục. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi Giáo Hội của Ngài, nhưng đã ra tay che chở và dẫn lối cho Giáo Hội. Cho đến hôm nay, Đấng Bảo Trợ vẫn không ngừng hoạt động trong Giáo Hội, giúp Giáo Hội vượt qua những khó khăn và những thăng trầm; giúp Giáo Hội đi đúng với con đường mà Chúa Giêsu muốn, đó là con đường đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho toàn thế giới.
Cuộc sống ngày nay tuy hiện đại, nhưng con người dường như cảm thấy không an toàn, họ dễ dàng bị cuốn theo những đợt sóng, trào lưu của xã hội. Con người vẫn cứ muốn tìm kiếm một cuộc sống an toàn hơn, tốt đẹp hơn cho mình và gia đình. Các thứ quảng cáo của xã hội làm thông tin và sự thật bị xáo trộn khiến cho con người không biết dựa vào ai, tin vào ai. Cảm giác bất an này cũng đang ảnh hưởng trên đời sống đức tin của nhiều người, khi chứng kiến các hình thức mê tín, tâm linh, được nhiều người ủng hộ. Nhiều Kitô hữu bị dao động trong đời sống đức tin hoặc để cho đức tin của mình bị sa sút biến thành những hình thức mê tín, cuồng tín, theo các hình thức ngoại giáo. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần cậy dựa vào Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Ngài vẫn đang hoạt động liên lỉ trong Giáo Hội để giúp mỗi chúng ta trở về với đúng con đường của Chúa Kitô. Chúng ta cần phải cầu nguyện với Ngài, và mạnh dạn bước theo sự soi sáng hướng dẫn của Ngài. Ngoan ngoãn vâng theo sự chỉ dạy của Thánh Thần, chúng ta sẽ sống đúng theo ý Chúa.
Chúa Thánh Thần chính là Đấng đã hoạt động mạnh mẽ trên các tông đồ, biến đổi các ông thành những con người đem Tin Mừng đi chinh phục thế giới. Chúa Thánh Thần cũng đang hoạt động trên chúng ta, Ngài thúc đẩy, mời gọi chúng ta và chờ đợi chúng ta đáp trả lại bằng việc thực hiện theo những gì Ngài hướng dẫn. Trách nhiệm của chúng ta là làm sao để nghe được sự hướng dẫn của Thánh Thần. Ngài sẽ nói với chúng ta trong sự tĩnh lặng của tâm hồn, Ngài sẽ tác động trên trí khôn và thúc đẩy ta ước ao làm những điều thiện ích cho anh em.
Xin Chúa Thánh Thần là Đấng đã đổi mới các tông đồ, biến các ông thành những con người hăng say đem Tin Mừng của Chúa đến cho muôn dân, cũng biến đổi bản thân và gia đình mỗi người, gỡ bỏ khỏi ta những thói quen và nếp sống cũ không phù hợp với Tin Mừng. Xin Thánh Thần Chúa giúp chúng ta sống con người mới, trưởng thành hơn trong đức tin và nhiệt thành hơn trong nhiệm vụ chúng ta đang đảm nhận nơi gia đình và cộng đoàn. Amen.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT

Lm. Giuse Nguyễn

Thánh Phaolô  nói: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 10). Quả đúng như vậy, tất cả mọi sai lỗi đều vì người ta chưa tròn yêu thương – yêu thương chưa trọn vẹn, hay như lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay thật chí lý: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14, 23). Từ đó suy ra, ai không giữ lời Thầy thì sẽ không yêu mến Thầy; nói cách khác nữa: yêu là giữ lời, không yêu là không giữ lời.

Chính Đức Giêsu khi đến thế gian này cũng là vì tình yêu trọn vẹn với Chúa Cha:“Này con đến để làm theo ý Cha” (Dt 10, 7). Yêu Cha nên sẵn sàng làm mọi sự vì Cha: “Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc14,36).

Đức Maria ngay từ bé đã được dâng vào Đền Thờ để tìm thánh ý Chúa. Chắc chắn tình yêu của Mẹ dành cho Thiên Chúa càng ngày càng sâu thẳm, nên khi biết ý định của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng nói tiếng “xin vâng”, dù Mẹ chẳng hiểu đằng sau tiếng xin vâng ấy là gì.

Cũng vì lẽ đó mà thánh Augustinô đã chia sẻ: “yêu đi rồi làm”, hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm. Dĩ nhiên tình yêu này phải là tình yêu đúng nghĩa, vì có yêu đúng nghĩa thì mới làm những việc có nghĩa; ngược lại yêu không đúng nghĩa sẽ làm những việc bất nghĩa. Lịch sử cuộc đời của thánh Augustinô đã nói lên điều đó. Lúc trước thánh nhân cũng yêu say đắm, yêu cuồng nhiệt, nhưng đó là tình yêu ích kỷ, tình yêu quy về bản thân mình nên ngài chỉ tìm kiếm những gì để hưởng thụ, để thỏa mãn cho bản thân mình, kể cả việc học hành rất giỏi dang là cũng vì đam mê theo lý trí… dẫn đến những việc làm sai trái như sa đọa vào đam mê dục vọng, sai lầm trong lạc thuyết Manichêô chủ trương thiện ác giao tranh bất tận và rơi vào tình trạng nghi nan bất dịch… Từ khi Chúa dùng Giám mục Ambrosiô để thức tỉnh Augustinô bằng lời dạy của thánh Phaolô: “Đừng sống theo dục tính và lạc thú dâm ô, nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô”, thánh nhân đã được ơn sám hối và biến đổi tận căn, nhất là trong tình yêu đúng đắn. Và thật, “yêu đi rồi làm”, tình yêu sau khi hoán cải đã thôi thúc Augustinô làm được những chuyện vĩ đại cho gia đình, cho Giáo hội và xã hội. Tất cả đều xuất phát từ một tình yêu đúng nghĩa.

Thầy Giêsu đã tha thiết nhắn gởi đến các môn đệ của mình trong bữa tiệc ly: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Không gì khác hơn là Ngài muốn các môn đệ “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Có yêu mến Thầy thì mới giữ lời Thầy được, có ở lại trong tình yêu của Thầy thì mới làm theo những gì Thầy chỉ dạy tốt.

Chính vì thế, là Kitô hữu chúng ta phải thường xuyên tập luyện và thực hành việc “ở lại trong tình yêu của Thầy” để được “yêu mến Thầy”. Khoan hẵng nghĩ đến việc tuân giữ lề luật, vì nếu chưa yêu thì lề luật thật nặng nề và không cần thiết, còn một khi đã yêu thì lề luật thật nhẹ nhàng và rất thiết yếu.

Để ở lại trong tình yêu của Thầy, chúng ta phải xác quyết Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, như lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong buổi đọc kinh truyền tin hôm Chúa Nhật 19/05/2019 vừa qua: “Chúa Giê-su đã yêu chúng ta trước. Ngài yêu chúng ta mà không màng chi đến sự mỏng dòn, giới hạn và yếu đuối của loài người chúng ta. Chính Chúa đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng với tình yêu không giới hạn và vĩnh cửu của Ngài”. Như một người con biết rằng cha mẹ là người yêu nó, đã sinh thành dưỡng dục nên nó, để “rồi lớn lên con vào đời, gặp biết bao nhiêu người thương, dù có ai hy sinh cho con, dù được ai cho mâm cơm ngon, đi gần về xa với cha và với mẹ, vẫn là trẻ thơ bé như ngày nào”. Khi nhận ra được tình yêu của người khác dành cho mình, ta sẽ tìm mọi cách để đáp trả.

Biết được Chúa yêu thương ta, dù ta bất xứng, dù ta phản bội, nên hãy tận dụng tối đa thời gian, sức lực, và khả năng để ở với Chúa trong cầu nguyện, trong việc tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Giải tội và Mình Máu Thánh Chúa, tham dự những việc đạo đức, hướng tâm hồn ta về những thực tại cao cả… Lạ lùng thay khi càng làm những việc đạo đức, ta càng yêu mến Chúa và càng cảm thấy chưa đủ; ngược lại khi ta lơ là với Chúa thì cứ nghĩ rằng mình làm được vài việc là đã dành cho Chúa nhiều lắm rồi, một sự tiếc nuối nỗi lên trong ta để ta dành lại một chút gì đó cho bản thân mình.

Ở lại với Chúa trong việc gặp gỡ Chúa nơi những mảnh đời nghèo khổ, bất hạnh. Khi càng gặp những người nghèo khổ, bất hạnh, ta càng cảm thấy tình yêu trong ta được thôi thúc để san sẻ phần nào với họ.

Nói tóm lại khi có tình yêu ta sẽ làm được mọi sự. Cụ thể, khi cảm nhận được Chúa yêu thương ta, thì việc thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự là lẽ đương nhiên, nên ta sẽ không tìm đến với những thần minh, thế lực khác, không mê tín dị đoan, không cầu cơ bói toán… Khi đã yêu Chúa thực sự thì chẳng những ngày Chúa Nhật, mà cả những ngày thường và những nơi nào có Thánh lễ mà ta hay biết, ta cũng tìm đến một cách hăng say nhiệt tình để được thờ phượng Chúa. Khi đã yêu mến Chúa, ta nhận thấy nơi người khác sự hiện diện của Chúa nên ta kính trọng yêu mến họ, cụ thể là cha mẹ và mọi người xung quanh ; ta không làm hại họ ; ta không lạm dụng họ ; ta không muốn chiếm đoạt họ ; ta không vì đam mê dục vọng riêng tư mà làm những chuyện tà dâm hoặc ngoại tình vì như thế là xúc phạm đến tình yêu của ta…

Hội thánh Việt Nam biết đến gương của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp vì đã liều mình chết thay cho hơn 40 giáo dân tại Tắc Sậy. Nhiều người Việt Nam biết đến câu chuyện người mẹ mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối nhưng đã từ chối điều trị để giữ lấy đứa con, và ngày 21/05 vừa qua, biết sức khỏe của chị đã suy yếu, nên các bác sĩ đã mổ để bắt con cho chị, ca mổ ngập tràn nước mắt vì chị không đủ sức và không thể nằm, mà phải ngồi để được phẫu thuật. Tình yêu của người mẹ đã dành trọn vẹn cho đứa con của mình…

Và còn nhiều lắm những câu chuyện của một sự thật là: khi yêu người ta sẽ làm được mọi sự.

Lạy Mẹ Maria, xin khơi lên trong chúng con tình yêu chân thật và chân thành đối với Chúa và mọi người, để chúng con có thể chu toàn những lề luật mà Chúa đã dạy, giống như Mẹ năm xưa luôn luôn vui vẻ và sẵn sàng để thực thi ý Chúa.

Về mục lục

.

CHÚA LUÔN CÓ MẶT

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đức Giêsu trong những lời trăn trối cuối cùng trong bữa Tiệc Ly, Người đã căn dặn các môn đệ :” Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy “ ( Ga 14,23 ). Những lời tâm huyết của Chúa Giêsu hôm nay vẫn là những lời trăn trối đầy yêu thương của Chúa đối với nhân loại, đối với mỗi người. Bởi vì, Chúa là Chúa chung của mọi người. Mỗi người đều được Chúa yêu thương, săn sóc vì Người đến cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ).

Người ta có thuật lại câu chuyện về Gandhi, một Vị thánh sống của Ấn Độ, Ông rât ham Thánh Kinh, nghiền gẫm Kinh Thánh, một hôm Ông tới một Nhà thờ nhưng người ta đã ngăn cản Ông và nói Ông đến một Nhà thờ dành cho người da mầu. Từ đó Ông không bao giờ tới Nhà thờ nữa! Ngăn cản Gandhi tới Nhà thờ, một cách nào đó người ta đã cản Ông không được gặp gỡ Chúa để nghe Chúa nói, và dạy dỗ Ông hầu Ông có thể tuân giữ lời Chúa và dạy dỗ người khác tuân giữ lời của Chúa. Trong lời trăn trối cuối cùng ở Nhà Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã bộc rằng các Ông phải tuân giữ lời  của Người, và Người nói với các Tông đồ rằng các Ông phải tuân giữ điều Chúa dạy và giảng lại cho mọi người những điều Chúa đã dạy các Ông. Người xác quyết ai giữ lời Người thì thuộc về Chúa. Rồi Chúa con dạy cho các Tông đồ biết, Thiên Chúa Cha sẽ ban Thánh Linh để soi sáng cho các Ông hiểu  rõ hơn những điều, những phép lạ Người đã làm, những lời mà Người đã nói, đã dạy dỗ vv…Khi căn dặn các điều trên, Chúa ban bình an cho các Tông đồ :” …Thầy ban cho anh em bình an của Thầy “ ( Ga 14, 27 ). Chúa khẳng định bình an mà Người trao cho các Tông đồ là thứ bình an vĩnh viễn, chứ không phải là sự bình an giả tạo, mau qua thế gian thường trao cho nhau.

Vâng, bình an Chúa trao cho các Môn đệ, Tông đồ và ban cho ngay cả chúng ta là bình an bền vững, chân thực, sự bình an tin tưởng và phó thác nơi Người, vì tin rằng Chúa luôn hiện diện giữa chúng ta. Sụ bình an Chúa tặng ban là sự bình an giúp nhân loại, chúng ta luôn tin tưởng dù rằng có lúc chúng ta gặp thử thách, bão bùng, giông tố, khi gặp những khó khăn nghịch cảnh, hảy cả những bách hại vì đức tin.Đây là sự bình an mà mỗi người chúng ta luôn cảm nghiệm được khi chúng ta biết sống an bình trong tâm hồn, biết sống trong sạch :” Tay sạch lòng thanh “. Bình an của những tâm hồn nhỏ bé, tâm hồn của những người nghèo của Thiên Chúa, luôn biết lắng nghe và thực thi lời Chúa, luôn biết nói lời xin vâng như Đức Mẹ…Linh hồn tôi ngợi khen Chúa…Người đã nâng cao kẻ khiêm nhượng…

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ

luôn biết nói lời “ Xin Vâng “ làm theo ý Chúa và biết thực hành lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Chúa nói :” Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy…”, có ý nghĩa gì ?

2.Lời của Chúa Giêsu hôm nay được Người nói ở đâu ?

3.Tại sao Chúa lại ban bình an cho các Tông đồ ?

4.Sự bình an Chúa ban có khác với bình an thế gian trao không ?

Về mục lục

.

BÌNH AN ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA

Jos. Vinc Ngọc Biển

Trong cuộc sống, mỗi lần gặp nhau, chúng ta thường hay hỏi: “Anh hay chị có bình an không?” Hay trước khi ra về, người ta cũng thường chúc nhau: “Về bình an nhé…”. Khi lên đường khởi đầu một chuyến hành trình nào đó, ta cũng mong sao chuyến lữ hành của mình được bình an.

Ngày xưa, người Sêmít cũng có thói quen chào người sắp đi rằng: “Ông; bà…hãy đi bình an” (x. 1 Sm 1,17; 20,42; 29,7). Ngày nay, người Arập cũng còn chào như vậy. Còn người Do thái thì rút gọn hơn khi nói: “Bình an” mà thôi.

Như vậy, hai chữ “bình an” là điều mà mọi người đều mong muốn. Tuy nhiên, mỗi người hiểu về bình an dưới những lăng kính khác nhau. Các tôn giáo cũng mặc cho nó một ý nghĩa riêng biệt theo giáo lý của tôn phái mình. Bình an mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ không phải là thứ bình an như người đời vẫn hiểu: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27).

Vậy bình an theo kiểu thế gian ban tặng là gì? Và bình an của Đức Giêsu trao ban là sao? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu:

  1. Bình an theo lối hiểu của con người 

Trong kinh nghiệm tự nhiên của con người, đói khát, mất quyền lực, thất bại, bất an hay sự chết là điều làm cho con người luôn sợ hãi và mất bình an. Đỉnh cao của nỗi sợ đó chính là sợ mất sự sống. Chính vì vậy, người ta đều mong muốn được an vui và hạnh phúc, tức là ơn bình an. Tuy nhiên, bình an mà Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ là một thứ bình an đặc biệt. Đặc biệt vì không phải theo kiểu người đời, mà theo thánh ý Chúa.

Hằng ngày, chúng ta vẫn thường thấy tại các công trường hay những nơi xây dựng, người ta căng những băng rôn có nội dung như: “An toàn là trên hết”; “an toàn là bạn – tai nạn là thù”. Qua những biểu ngữ đó, người ta mong sao cho công việc lao động, xây dựng của họ được an toàn. Ở đây, bình an chính là không xảy ra tai nạn trong khi lao động.

Khi tham gia giao thông, chúng ta, ai ai cũng đều mong muốn không bị đụng xe, cướp giật, mong đi đến nơi về đến chốn an toàn. Ở đây, bình an là không có chuyện bất trắc xảy đến.

Rồi, trong cuộc sống, lúc còn trẻ, ai cũng mong muốn được đáp ứng những nhu cầu về tiền bạc, quần áo… khi lớn lên một chút thì mong được thi cử đỗ đạt, nghề nghệp ổn định, lấy vợ gả chồng được vừa ý. Khi đã ngoài 50 tuổi, ai chẳng muốn con cái ngoan hiền, ổn định. Và, khi đã đến tuổi xế bóng, cái tuổi chân yếu tay mềm, “thất thập cổ lai hy” thì lại mong con cái hiếu thảo, không phải tất bật lo toan những chuyện như: cơm – áo – gạo – tiền nữa. Cuối cùng, cuộc đời an nhàn thư thái là điều mà ai trong chúng ta lại không mơ về nó?.

  1. Bình an của Đức Giêsu

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật lại cho chúng ta về phần cuối của cuộc diễn từ ly biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Trong lúc chuẩn bị Thầy trò chia tay nhau để Ngài lên đường chịu chết, chuộc tội cho thiên hạ. Vì thế, Đức Giêsu đã để lại cho các ông một gia sản quý giá hơn hết mọi thứ, đó chính là sự bình an. Ngài không nói: “Anh em hãy ở lại bình an”, mà nói: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.

Bình an của Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, mà còn đi xa hơn để đạt được thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng người ta về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ.

Đức Giêsu chính là nội dung của bình an; hay nói cách khác: Ngài chính là nguồn bình an, Ngài ban cho các ông chính bình an của Ngài.

  1. Sống đặc tính ơn bình an

Khi Đức Giêsu trao ban bình an cho các môn đệ, Ngài cũng muốn mời gọi mỗi người chúng ta sống đặc tính của ơn bình an. Đặc tính đó là đón nhận chính nguồn ơn cứu độ và đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là nguồn cội của bình an.

Sống trong đặc tính ơn bình an của Chúa còn là ở lại trong sự quan phòng của Ngài: “…Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc […] Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? …” (Mt 6, 25-29).

Tiếp theo, đặc tính của ơn bình an mang tính siêu việt, quy hướng về Quê Trời: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6, 19-21).

Cuối cùng, đặc tính này mời gọi chúng ta yêu thương nhau. Khi đã có Chúa là nguồn bình an. Có Chúa là tất cả, chúng ta cũng phải biết yêu thương nhau và sống đức công bằng. Hành vi này đã được Dakêu cảm nghiệm và diễn tả thật sâu sắc. Chuyện kể rằng: một hôm, Đức Giêsu vào thăm nhà một người thu thuế tên là Dakêu. Ngài ở lại đó dùng bữa chung với gia đình ông. Sự hiện diện của Ngài làm ông rất cảm động. Những cử chỉ của Đức Giêsu được kể là một sự chúc bình an cho gia đình ông. Được ơn bình an đó, ông Dakêu tự nhiên không những cảm mến Đức Giêsu, mà còn cảm thấy có trách nhiệm yêu thương đồng bào mình. Để cụ thể hóa lòng thương yêu đó, ông thưa với Đức Giêsu rằng: “Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi xin phân phát cho người nghèo. Và nếu tôi đã làm hại ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8).

Như vậy, bình an mà Đức Giêsu ban tặng cho các môn đệ chính là bình an nội tâm. Bình an tuyệt đối. Bình an vượt xa lối hiểu của con người.

Đón nhận sự bình an của Chúa cũng chính là đón nhận chính Chúa, bởi vì Chúa là nguồn bình an (x. Ga 4,8,16; Rm 16,20).

Sống đặc tính của ơn bình an cũng chính là đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và tin tưởng phó thác vào Ngài. Và, khi đã có Chúa trong cuộc đời thì cũng phải biết đem Chúa đến cho người khác bằng những cử chỉ yêu thương, thân thiện và sống đức công bằng.

Mong sao lời chào chúc bình an trong mỗi thánh lễ: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em” luôn ngự trị trong tâm hồn mỗi chúng ta, để tâm hồn chúng ta luôn được bình an và được hưởng ơn cứu độ.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là nguồn bình an, xin ban bình an của Chúa xuống trên chúng con như xưa kia Chúa đã trao ban cho các môn đệ. Xin cho chúng con được sống ơn bình an đó một cách sâu xa, để tận sâu thẳm tâm hồn, chúng con an vui hạnh phúc vì có bình an của Chúa ở cùng. Amen.

Về mục lục

.

Ở LẠI TRONG THẦY

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Với sự tiến bộ của văn minh nhân loại, người ta tưởng rằng:  khi con người thoát ra khỏi lối sống hoang dã lạc hậu, sẽ làm cho thế giới an bình và lành mạnh hơn. Thế nhưng, nói theo kiểu Nguyễn Du “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Chiến tranh dải Gaza vẫn kéo dài. Chiến tranh vì quyền lực vẫn sôi bỏng hằng ngày, hằng giờ. Nhóm lợi ích vẫn tranh giành nhau và để mặc người dân sống trong cảnh đói khổ bần cùng. Xem ra sự văn minh đã làm cho con người vong thân đôi khi đánh mất tính người. Mới đây, cả nước đều xôn xao vì tài xế xe container đã lạnh lùng tông vào hàng chục người đang đứng chờ đèn đỏ. Một vụ giết người rồi đổ bê tông trên xác nạn nhân để phi tang. Mỗi ngày khi khám xét các nơi nhạy cảm như vũ trường, quán Karaoke, các tiệm hớt tóc . .  .; người ta đã bắt được biết bao cậu ấm, cô chiêu đã bỏ trường bỏ lớp để tìm niềm vui điên loạn trong ma tuý và mại dâm. Cuộc sống vẫn nhan nhản những lừa đảo, tham ô. . . Vì tiền mà người ta vẫn chà đạp lên nhau và làm hại lẫn nhau.

Làm sao cuộc đời lại khổ đau và bất an như vậy? Phải chăng vì thế giới vắng bóng Chúa nên chỉ còn tranh chấp quyền lực và chà đạp lên nhau? Thực vậy, năm xưa khi Adam – Eva loại trừ Thiên Chúa thì đời sống họ đi vào bất an và khổ đau. Mô-se đã từng run sợ trước quyền lực của Pharao nhưng khi Chúa hứa ở cùng ông, Mô-se đã không còn sợ mà còn mạnh dạn dẫn dắt dân ra khỏi Ai Cập. Và khi Mô-sê qua đời, ông chọn Giosua tiếp tục sứ mạng dẫn dắt dân về đất hứa, Giosua đã từ chối vì sợ mình không đủ khả năng.. Mô-sê đã nói: “Thiên Chúa sẽ ở cùng con”. Và quả thực Giosua đã đánh bại quân thù để dẫn dân vào đất hứa. Như vậy, bình an thực sự khi con người biết đặt mình dưới sự che chở hướng dẫn của Thiên Chúa.

Các tông đồ năm xưa chỉ có được sự bình an và lòng can đảm để làm chứng cho Chúa chính là dựa vào niềm tin vào Đấng đã phục sinh. Các ngài tin rằng Đấng phục sinh vẫn hằng ở bên họ, nên họ chẳng sợ nghi nan. Họ lướt thắng mọi khó khăn, và nhất là có thể làm mọi việc vượt khả năng mình.

Hôm nay Chúa Giêsu đề nghị một phương án xây dựng thế giới an lành thịnh vượng. Phương án này khởi đi từ việc“Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” để biết sống theo gương Thầy luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Ở lại trong Thầy để biết nghe theo tiếng nói sự thật. Sống theo sự thật sẽ giúp cho con người có một tâm hồn an bình. Và sống trong sự kết hợp với Thiên Chúa, con người sẽ sống hoà hợp với nhau, yêu thương, tha thứ và đùm bọc lẫn nhau.

Người môn đệ biết ở lại trong Chúa thì không chọn vinh quang cho mình nhưng luôn hy sinh để cho Chúa được rạng ngời. Ở lại trong Chúa là để Chúa tác động mình nên giống Chúa hơn khi biết hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn.

Thực vậy, nhiều người dám sống gian dối lừa đảo, lợi dụng Lòng Thương xót để dẫn dắt người nhẹ dạ tin vào họ có thể chữa lành ban ơn. Chỉ cần họ đặt tay là đuợc chữa lành dần dà họ được tôn vinh còn Chúa thì bị lu mờ. Mặc cho nhiều lời đồn ra tiếng vào nhưng họ vẫn bịt tai để được sống trong hoà quang giả tạo do mình tạo ra.

Nhưng thực lòng,cuộc đời họ cũng không có an bình và hạnh phúc. Họ đi tìm an bình và hạnh phúc trong những của cải thế gian, nhưng thế gian và ma qủy không bao giờ làm cho họ thoả mãn. Họ sẽ không có một đời sống an bình nếu không đi theo chân lý và sự thật.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đường, là sự thật và là sự sống dẫn dắt chúng ta đi trong đường ngay nẻo chính. Xin dẵn dắt chúng ta sống theo sự thật và đi đến sự sống trường sinh. Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ luôn gìn giữ hồn xác chúng ta khỏi mọi sự dữ và luôn nhắc nhở chúng ta sống theo chân lý và sự thật. Amen

Về mục lục

.

SỰ BÌNH AN CỦA ĐỨC GIÊ-SU

Lm. Bosco Dương Trung Tín

  “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”(Ga 14,27).

  Sự bình an của Đức Giê-su là gì?

  Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã nghe thánh Phao-lô và Ba-na-ba nói: “Chúng ta phải chịu đau khổ mới được vào Nước Trời” (x. Cv 14,22) và trước đó, khi Đức Giê-su còn đang rao giảng Tin Mừng, đã ba lần Ngài loan báo cuộc khổ nạn của Ngài: “Con người sẽ phải chịu đau khổ, bị các Kỳ Mục, Thượng Tế cùng Kinh Sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (x. Mc 8,31).

  Nghe những lời đó, ai trong chúng ta mà không lo lắng, không sợ hãi? Chính Đức Giê-su cũng đã lo buồn và sợ hãi khi cầu nguyện cùng Cha trong vườn Giệt-si-ma-ni: “Áp-pa, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén đắng này khỏi con. Nhưng đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha” (x. Mc 14,36).

Dù có lo lắng hay sợ hãi thì chúng ta cũng phải chịu nhiều đau khổ thôi, không chạy đâu cho thoát được. Nếu ta từ chối không chấp nhận, thì ta theo đường lối của con người, hơn nữa đó là đường lối của Sa-tan. Ta đã biết khi, Đức Giê-su loan báo như thế thì Phê-rô can gián Người. Nhưng Đức Giê-su nói: Sa-tan, hãy lui ra đàng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người(x. Mc 8,32-33).

Đức Giê-su nói: “Bây giờ Thầy nói với anh em trước khi xảy ra, để khi xảy ta anh em tin”( Ga 14,29). Quả thật, khi ta biết trước khi những khó khăn, những khổ đau trước khi nó xảy ra thì ta sẽ không sợ, nhưng ta sẽ bình thản đón nhận, với lòng tin vào Chúa và tin vào Lời Chúa. Khi đó ta sẽ có bình an. Sự bình an này chính là dự bình an của Đức Giê-su để lại và ban cho các môn đệ cũng như cho mỗi người chúng ta.

Sự bình an này quí và rất cần thiết cho đời sống đức tin của chúng ta. Trong những nỗi gian truân, đau khổ, khó nhọc mà có được sự bình an trong hồn thì quí hóa biết chừng nào. Chính sự bình an này sẽ nâng đỡ và giúp chúng ta có sức để chịu đựng tất cả, tin tưởng tất cả, chấp nhận tất cả, hy sinh tất cả mà bền đỗ cho đến cùng; làm cho đến cùng.

Sự bình an này không phải là không có chiến tranh, không có tranh chấp, không có ghen tị, không có hãm hại.Không. Sẽ có tất cả những thứ đó, nhưng dù có ta vẫn có sự bình an trong tâm hồn và bình tĩnh giải quyết mọi sự cho êm đẹp. Thường thì ta dễ mất bình tĩnh khi những sự ấy xảy ra; ta dễ nóng nảy, ta dễ than trách, ta dễ phàn nàn và ta dễ mất lòng tin lắm. Ta than trời, trách đất; ta than như bọng; ta kêu như ong vỡ tổ; ta than người, trách Chúa. Và đương nhiên ta sẽ không có bình an rồi. Ta làm cho ma quỉ nó vui; ta làm cho người xấu mừng, vì ta đã bị “sập bẫy”.

Ta đã chẳng nghe Lời Chúa nói qua sách Khôn ngoan sao! “Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền lành làm sao và thử nó xem nó nhẫn nhục đến mức nào” (Kng 2,19). Đấy là “cạm bẫy” của Sa-tan và những người xấu đấy!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!! Ta mà không tỉnh thức và không tin vào Chúa cũng như không sống Lời Chúa, ta dễ bị “sập bẫy” lắm.

Khi ta tin vào Chúa và sống Lời Chúa thì ta sẽ giữ Lời Chúa. “Giữ” đây là tuân giữ, chứ không phải giữ khư khư Lời Chúa trong tay. Nghĩa là biết và đem Lời Chúa ra thực hành; đem Lời Chúa ra mà sống, khi đó ta là người yêu mến Chúa. Chúa là Thần, không có hình dáng như con người chúng ta, liệu chúng ta có yêu mến Chúa được không? Ngay Đức Giê-su cũng vậy, xưa kia Ngài sống ở đất Do-thái, thì các môn đệ hay người sống đồng thời mới thấy được Ngài, còn chúng ta bây giờ đâu có thấy được Chúa, làm sao mà ta yêu mến Chúa cho được.

Thực ra, lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa không phải là tình cảm của con tim, như hai người yêu nhau hay như cha mẹ yêu thương con cái hoặc bạn bè thương nhau mà hệ tại ở lý trí, đó chính là việc chúng ta hiểu biết và tuân giữ Lời Chúa. Chính Đức Giê-su đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người đó. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người đó” (Ga 14,23). Có Chúa thì ta sẽ có bình an thôi, chạy đâu cho thoát.

  Ta không thể tuân giữ Lời Chúa nếu ta không biết và không hiểu Lời Chúa. Người ta nói: “Vô tri thì bất mộ” mà. Không thấy thì không yêu; không hiểu thì không giữ và không biết thì không đem ra thực hành. Thiên Chúa, Đức Giê-su, ta không thấy nhưng ta có thể biết về Ngài.

  Về Thiên Chúa, qua thiên nhiên và vạn vật; cứ nhìn xem trời đất muôn vật là ta phải biết có Đấng dựng nên tất cả, chứ không phải ngẫu nhiên hay tự nhiên hoặc do vụ nổ “Bigban” mà có. Nổ thì chết queo hết chứ làm gì có sự sống và tốt đẹp như thế. Đấng dựng nên tất cả đó ta gọi là Thiên Chúa. Ngài là Đấng Tạo Hóa hay Đấng Hóa Công. Dó đó ta phải nhận biết và yêu mến Thiên Chúa.

  Về Đức Giê-su, qua Tin Mừng và qua Giáo Hội, chúng ta biết được Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho chúng ta và đã chịu nạn, chịu chết và phục sinh để cứu độ chúng ta. Vì thế ta phải nhận biết và yêu mến Người.

  Yêu mến Thiên Chúa thì giữ Lời Thiên Chúa; yêu mến Đức Giê-su thì giữ Lời Đức Giê-su. Nói tóm là chúng ta tuân giữ lời Thiên Chúa, vì Thiên Chúa và Đức Giê-su là một (x. Ga 10,30) và “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là Lời của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (x. Ga 14,24).

  Vậy chúng ta hãy nghe và tuân giữ Lời Chúa, đó là việc nói lên lòng chúng ta yêu mến Chúa và khi tuân giữ Lời Chúa chúng ta sẽ nhận được sự bình an của Chúa. Sự bình an mà Đức Giê-su đã để lại và ban tặng cho chúng ta. Đó cũng là sự bình an mà khi phục sinh, Đức Giê-su đã ban cho các tông đồ. Để trong thánh lễ, khi chúc bình an cho nhau, ta hãy chúc và chia sẻ sự bình an đó cho nhau; nếu không thì ta chỉ chúc bằng môi bằng miệng không mà thôi.

Về mục lục

.

BÌNH AN LÀ KẾT QUẢ CỦA TÌNH YÊU

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng 

Hôm nay, khi suy niệm Tin Mừng của Chúa Kitô: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong Người ấy…. Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con… Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy”, tôi muốn nói tới sự cao quý của ơn bình an.

Nhưng để có được bình an trong cuộc đời, đòi ta phải tha thứ cho nhau. Nhưng tha thứ sẽ không thực hiện được nếu không có lòng yêu mến..

Người ta kể rằng, tại Ấn Độ, trong thời chiến giữa người Ấn giáo và người Hồi giáo, một lần nọ, một người đàn ông Ấn giáo đến gặp Mohandas Gandhi và kể rằng: Một người Hồi giáo đã giết chết con trai của ông. Trong cơn tức giận, ông đã giết chết người đàn ông Hồi giáo để trả thù cho con mình. Người đàn ông Ấn giáo cho biết tiếp: “Từ khi chuyện xảy ra, tôi không thể nào tìm thấy bình an”.

Gandhi suy nghĩ một lúc rồi nói: “Nếu đúng là sự bình an mà anh muốn, thì đây là điều cần thiết, anh phải làm. Người đàn ông đã bị giết cũng có một người con trai. Anh đã làm cho nó không có cha. Anh phải là cha của nó, nó phải là con trai của anh. Anh phải nuôi dạy nó như con riêng của mình, và phải là cha như cha thật của nó, dạy dỗ nó như một người Hồi giáo dạy con mình. Nếu làm được như thế, mới mong tìm được một chút bình an”.

Chúng ta không đề cập xem người đàn ông Ấn giáo có làm được điều mà Gandhi đã dạy hay không, hay lỗi lầm là của ai, bởi ai đã gây ra trước, cùng một hành động giết người, nhưng ai trong người Hồi và Ấn giáo mang tội nặng hơn.

Điều tôi muốn rút ra trong câu chuyện kể, đó là khi muốn có bình an, người ta phải tha thứ cho nhau. Biết bao cảnh huynh đệ tương tàng, biết bao nỗi oan khuất, căm thù, đổ máu… chỉ vì lòng người không thể tha thứ.

Nhân loại rất cần bình an. Mọi người đều hiểu bình an là vốn liếng quý giá trên mọi thứ của cải. Nhưng thực tế lại quá trớ trêu, vì chính nhân loại cũng lại là thủ phạm giết chết bình an một cách tàn nhẫn.

Nếu đã lỡ giết chết bình an, dù là tìm cách lấy lại bằng sự hối hận ăn năn thật lòng, may ra cũng chỉ “tìm lại được một chút bình an” mà thôi. Hóa ra người ta giết chết bình an thì dễ nhưng tìm lại bình an thì khó vô cùng.

Cả người Palextine lẫn người Israel, lòng khoan dung, tha thứ thiếu vắng, nên sự xung đột và bạo động diễn ra trong suốt nhiều năm. Bình an chưa có một ngày nào tại Trung đông, từ khi Palestine đòi đất của mình.

Không thể tha thứ mà chỉ muốn thi hành triệt để quyền lực của mình, nhà cầm quyền Trung Quốc đã làm khổ chính những đồng bào Công giáo của mình, khi họ ra sức đe dọa và tấn công liên tục các nhà thờ, các giáo dân chân yếy tay mềm, không một tấc sắt.

Như vậy sự chiến bại, bây giờ không chỉ dừng lại ở chỗ quốc gia này hay quốc gia kia thất trận. Sự chiến bại ấy còn khủng khiếp hơn, vì đó chính là sự chiến bại của lương tâm và đạo đức con người.

Bao nhiêu quyền lực, bao nhiêu hệ thống chính trị, bao nhiều tỷ người trên thế giới, lại không thể bảo vệ một số ít anh chị em của mình, dù biết rõ, những anh chị em này không hề có tội. Họ phải sống trong đau khổ dằn vặt từng ngày vì họ là thiểu số, vì họ không thuộc dạng ưu tiên của hệ thống chánh trị.

Đó là chưa kể, biết bao nhiêu người khác, trên nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia lấy Hồi giáo, lấy Ấn giáo làm quốc giáo, vì niềm tin vào Thượng Đế, Tin nơi Thiên Chúa, đã đành chấp nhận để người ta tước mất tự do của mình.

Đâu chỉ có thế, bình an còn trở nên hiếm hoi trong đời sống cộng đồng hoặc của từng cá nhân trong cuộc sống hằng ngày khi những cá nhân ấy thiếu lòng  yêu thương tha thứ.

Biết bao nhiêu cảnh trả thù, chém giết, ít là oán hận nhau, nhớ mãi lỗi lầm của nhau vẫn cứ diễn ra. Những kiểu nói “sống để bụng, chết  đem theo” hay “không đội trời chung”… là những kiểu nói chất chứa sự thù oán mà không phải ít, nhưng nhiều lần chúng ta phải nghe…

Nó sẽ vô cùng tệ, nếu những lời ấy lại chính là lời diễn tả tâm hồn của bạn và tôi. Vì chúng ta là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi phải yêu thương, phải tha thứ, phải đón nhận, phải bắt chước Chúa Kitô mà không bao giờ chất chứa bất cứ sự hiềm khích nào trong lòng.

Suy nghĩ cho tới cùng, ta sẽ nhận ra rằng, hình như lịch sử loài người từ tạo thiên lập địa, chưa có một ngày bình an. Từ nguyên khởi, lúc mà con người còn chan chứa thứ hạnh phúc của trời cao, của thiên đàng, con người đã sát hại nhau. Lúc Cain giết chết Abel, đứa em trai của mình, chính là lúc Cain khai mạc lòng hận thù, bạo động tàn nhẫn của con người trên thế giới.

Đọc lại câu chuyện về những lần tha thứ của vua Đavít, chúng ta cảm thấy thèm khát lòng yêu thương quá. Đọc truyện vua Đavít, ta cũng cảm nhận lòng yêu thương sao mà đẹp tuyệt vời.

Chỉ cần một chút yêu thương, như một hạt muối bỏ vào cả một chén đầy hận thù, thế là nở ra cả một biển trời bình an. Vua Đavít đã làm được điều đó khi ông tha thứ cho người cha vợ của mình là vua Saul và đứa con trai ngỗ nghịch là Apsalon. Không phải tha một lần, nhưng Đavit đã tha rất nhiều lần, vì thế biển trời bình an xung quanh ông vốn đã rộng, lại cứ nở thêm, nở thêm…

Trở lại Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa không nói: “Thầy chúc bình an cho các con”, nhưng lại nói: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy Ban bình an của Thầy cho các con”,  “Thầy Ban…”, “Thầy để lại…” nghĩa là gì, nếu không là những kiểu nói của quà tặng, của ân huệ. Bình an chính là ơn Chúa ban nhưng không cho trần gian.

Nhưng có thật là Chúa đã ban bình an cho trần gian hay chẳng có Chúa, chẳng có bình an nào? Bình an đã được ban, vì sao thế giới cứ mãi ngụp lặn trong bất an, trong bóng tối tăm của thù hận, trong máu và sự chết của chiến tranh?

Đúng là một thử thách quá lớn cho đức tin chúng ta, vì có một khoảng cách quá xa giữa Lời Chúa với thực tế của thế giới và của bản thân từng người.

Thật ra Lời Chúa không hề mâu thuẫn. Vì chỉ trong một bản văn ngắn, có đến hai lần Chúa Giêsu đòi hỏi con người phải có lòng yêu mến. Trước khi ban bình an, Chúa nói: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở lại nơi Người ấy”. Cũng vậy, sau khi trao ban bình an, Chúa lại đòi: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha”.

Như vậy có hai điều kiện trên hết mọi điều kiện để thế giới và để lòng người có sự bình an, đó là: “YÊU MẾN THẦY”; “GIỮ LỜI THẦY”.

Nhờ yêu mến và giữ lời Chúa Giêsu, ta được Chúa Cha và Chúa Con ngự trong lòng mình. Vì: “Chúng Ta sẽ đến và ở lại nơi người ấy”. Nơi nào có Chúa Cha, Chúa Con, thì cũng có Chúa Thánh Thần. Làm sao tâm hồn ta có thể hiềm thù, nổi loạn, chiến tranh, khủng bố khi lòng mình có Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn Bình An tuyệt đối, nguồn Bình An có sức cứu độ và đưa ta vào thế giới vô biên!

Lòng yêu mến mà con người cần phải có đối với Thiên Chúa, sẽ như một dòng chảy tất yếu: yêu Thiên Chúa đưa đến yêu con người. Khi có tình yêu, con người sẽ dễ tha thứ cho anh chị em của mình. Có tình yêu, có lòng tha thứ, chắc chắn sẽ không bao giờ thiếu vắng bình an. Đó là chưa kể, khi một tâm hồn bình an có Thiên Chúa ngự trị, tâm hồn ấy sẽ tràn đầy tình yêu, bất bạo động và rất khoan dung.

Bởi vậy, nếu ngày nào thế giới và mỗi con người trong thế giới chối từ Chúa, còn xua đẩy Lời của Người ra khỏi lòng mình, ngày ấy nhân loại vẫn còn đó nỗi chết chóc vì chiến tranh; lòng người vẫn còn đó thù hận vì mất bình an. Cá nhân này với cá nhân kia, tập thể này với tập thể kia, đảng phái này với đảng phái kia, quốc gia này với quốc gia kia… vẫn còn đó sự đối kháng, sự trả thù vì thiếu tha thứ.

Chính vì lý do thiếu vắng tình yêu và tha thứ này, ta hiểu được vì sao ơn bình an đã được Chúa ban, vẫn cứ xa vời. Ta cũng hiểu được vì sao từ thuở tạo thiên lập địa đến nay, nhân loại không có được một ngày bình an. Thế giới mãi sống trong đe dọa, lòng người cứ mãi sống trong sợ hãi, long đong.

Bạn và tôi là Kitô hữu, tức đã thuộc về Chúa Kitô. Bởi vậy, dù cho thế giới quanh mình có thế nào đi nữa, ta vẫn phải ưu tiên sống Lời Chúa và đặt lòng yêu mến Thiên Chúa của mình lên trên hết mọi sự.

Vì nếu, ngay cả người Kitô hữu mà còn không yêu mến và giữ Lời Chúa, thì làm sao có thể mong ước thế giới hết chiến tranh, loài người sống bình an, người với người tha thứ cho nhau?

Bạn và tôi cũng hãy ghi nhớ: khi bình an đã bị đánh, dẫu có tìm lại, cũng chỉ có thể “tìm lại được một chút bình an” mà thôi. Tấm gương tha thứ đến mức tuyệt vời của vua Đavit là bài học quý giá cho tất cả chúng ta. Vì nếu một Đavit, nhờ lòng tha thứ, mở ra cả một biển trời bình an, mỗi chúng ta biết tha thứ cho nhau, biển trời bình an ấy được nhân lên vô cùng nhiều.

Ngoài ra, ta còn phải cầu nguyện cho ơn bình an. Trước hết, xin Chúa ban cho chính lòng mình tràn ngập bình an, để sống với anh chị em xung quanh.

Sau nữa là xin Chúa tiếp tục tuôn đổ bình an cho thế giới, để nhân loại biết yêu thương và tha thứ cho nhau.

Xin Chúa hãy làm cho mọi người hiểu rằng, giết chết bình an thì dễ, nhưng để có bình an, khó lắm! Vì thế, nếu đã không nỗ lực để kiến tạo bình an, thì cũng đừng tìm cách chà đạp bình an của thế giới, của lòng người, nhất là đối với những người vô tội.

Về mục lục

.

RA ĐI VÀ ĐẾN CÙNG ANH EM

Lam Thy

Khi dạy bảo môn đệ, Đức Giê-su thường hay dùng cách nói tương phản với ngụ ý làm nổi bật ý chính. Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI/TN-C – Ga 14, 23-29) là một ví dụ: Đó là câu nói: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Bình thường, khi người ta đang sum họp với nhau, mà có việc phải ra đi, thì nói lời “từ biệt anh em để ra đi”. Ra đi là rời khỏi nơi đang cư ngụ, đang sống với những người thân cận; để đến một nơi khác với những người khác. Vậy mà khi từ giã các môn đệ để bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giê-su lại nói: “Anh  em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh  em yêu mến Thầy thì hẳn anh  em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.” (Ga 14, 28). Đức Ki-tô đang ở cùng các môn đệ, bây giờ Người “ra đi”, vậy thì làm sao mà “đến cùng” anh  em? Đó là chưa kể Đức Giê-su “đi về” cùng Chúa Cha thì làm sao “đến cùng” anh  em cho được?

Tuy nhiên, nếu bao quát toàn bộ cuộc đời trần thế của Chúa Giê-su thì sẽ thấy cuộc sống đó luôn luôn và mãi mãi là một cuộc xuất hành (ra đi). Khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người thì đó chính là cuộc “ra đi và đến cùng anh em”, và bây giờ ra đi chịu khổ nạn để chiến thắng sự dữ thì cũng là lúc “đi về cùng Chúa Cha”. Nói đến xuất hành là nói đến lộ trình và vì thế nên những cuộc “ra đi” để “đến với” thường được gọi là hành trình. Lộ trình mà Đức Giê-su thực hiện những cuộc xuất hành chính là Đại Lộ Tình Yêu từ khởi điểm Thiên Chúa Tình Yêu đến với nhân loại. Đức Giê-su đã khởi đi từ Trái Tim Nhân Hậu của Thiên Chúa Cha – Người đã “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” cho nhân loại (Ga 3, 16). Vâng lệnh Thiên Chúa Cha, Đức Giê-su “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2, 7). Người từ bỏ cõi trời để đến “cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Hành trang và phương tiện cho cuộc ra đi của Con Thiên Chúa không phải là những tiện nghi vật chất của nhân loại (y phục, đồ ăn thức uống, ngựa xe…), mà Người chỉ mang theo Trái Tim Yêu Thương vô hạn của Thiên Chúa.

Một cách cụ thể, cuộc Xuất Hành của Đức Giê-su không chỉ là con đường một chiều từ Thiên Chúa đến với nhân loại, mà là hai chiều, đem Thiên Chúa đến cho nhân loại và đem nhân loại về với Thiên Chúa. Vai trò trung gian của Đức Giê-su là sự nối liền đường dây chuyển tải sự sống và tình yêu của Thiên Chúa đến cho loài người. Người chính là Ngôi Lời Nhập Thể, là Lời Hằng Sống, vì thế Người đến để những kẻ tin được sống dồi dào bằng Lời của Thiên Chúa (Ga 10, 10). Thật vậy, “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4). Lời là nội dung những gì Thiên Chúa muốn nói với nhân loại, là Tình Yêu mà Thiên Chúa muốn ban tặng nhưng không cho con người qua Đức Ki-tô. Để con người có thể đón nhận và sống, Thiên Chúa Cha còn chu đáo hơn khi ban tặng một Thầy Dạy là Thần Khí Sự Thật, là Đấng Bảo Trợ, “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26). Hoá cho nên, “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ Lời Thầy. Và Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.” (Ga 14,  23-24).

Như vậy là đã rõ, trước giờ Thương Khó – cuộc Xuất Hành từ thế gian về với Chúa Cha – Đức Giê-su thay vì lo âu phiền muộn vì sắp phải chịu một cực hình đến nỗi mất cả mạng sống, Người lại muốn chia sẻ niềm vui với các môn đệ. Niềm vui ấy xuất phát từ Tình Yêu, vì chỉ trong tình yêu, các môn đệ mới có thể hiểu được ý nghĩa đích thực cuộc ra đi của Thầy. Mặc dù đã được tiên báo từ Cựu Ước (Is 53, 1-12) và chính Đức Giê-su cũng báo trước cho các môn đệ (“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.” – Mc 8, 31); nhưng cuộc ra đi lần này của Đức Giê-su vẫn làm các môn đệ thực sự xao xuyến và sợ hãi. Vì thế, Đức Giê-su mới chúc lành và khuyên bảo các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14, 27).

Ngay từ trước khi bước vào cuộc khổ nạn và nhất là từ ngày Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ, mỗi lần nói chuyện với các môn đệ, Đức Giê-su đều chúc: “Bình an cho anh em!” Trong bài Tin Mừng hôm nay, Người xác định sự bình an Người ban không phải là sự bình an tạm bợ của thế gian, nhưng là sự bình an đích thực, sự bình an bền vững trong tâm hồn có Thiên Chúa Tình Yêu ngự trị. Sự bình an đó chính là hoa trái của Tình Yêu trong tương quan hai chiều giữa “cho” và “nhận”; và chỉ có tình yêu thật sự mới có thể giúp con người sống trong an bình đích thực và hạnh phúc viên mãn, đứng vững trước những thử thách nghiệt ngã của ba thù khiến tâm hồn xao xuyến và sợ hãi. Sự bình an trong Chúa giúp người tín hữu luôn biết sống tin tưởng và phó thác mọi sự trong tay Chúa, dù khi được mọi sự như ý hay khi gặp những khó khăn, nghịch cảnh, hay những bách hại vì Đức Tin.

Tóm lại, từ cuộc xuất hành “ra đi và đến cùng anh em” (Ngôi Lời nhập thể đem Thiên Chúa đến cho loài người) đến cuộc xuất hành “trở về cùng Chúa Cha” (đem nhân loại về với Thiên Chúa), Đức Giê-su đã minh chứng Người chính là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu, và sứ vụ Người vâng lệnh Chúa Cha thực hiện để cứu độ nhân loại cũng chỉ có thể là sứ vụ Tình Yêu. Tình Yêu đích thực sẽ trổ sinh hoa trái là sự bình an và đó chính là hệ quả tất yếu của sự tôn vinh Tình Yêu. Nói cách khác, đó chính là lời chúc thần thiêng đêm Giáng Sinh được các thiên sứ loan báo: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Ý thức được vấn đề, người Ki-tô hữu hãy vui mừng, hãnh diện học hỏi và thực hành Lời dạy của Thầy Chí Thánh, mà “ra đi và đến với anh em”, nhất là những anh em chưa được tiếp cận với Lời Chúa. Ước được như vậy. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, nhờ mầu nhiệm Ðức Ki-tô sống lại, Chúa đã thương đổi mới chúng con cho đáng hưởng sự sống đời đời. Xin làm cho mầu nhiệm ấy sinh hoa kết quả tốt đẹp trong tâm hồn chúng con, và làm cho thần lương chúng con vừa lãnh nhận trở nên nguồn sinh lực dồi dào. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.  Amen.” (Lời nguyện hiệp lễ Chúa nhật VI Phục Sinh).

Về mục lục

.

YÊU MẾN VÀ GIỮ LUẬT CHỈ LÀ MỘT

Lm. Anphong Nguyễn Công Minh

Có bao giờ chúng ta nghe hai bạn trẻ nam nữ, yêu nhau mà nói với nhau câu này chưa: “Nếu anh yêu em, anh hãy tuân giữ một số điều luật này nè… 1. đúng hẹn, 2. đi thẳng không ngó ai, 3. không lai rai vượt quá ranh giới, 4. không chơi thuốc lắc…”. Chắc là chưa, mặc dầu hai người vẫn làm như vậy khi thương nhau. Không nói nhưng vẫn làm.

Còn Chúa Giêsu thì nói và dạy rõ ràng: “Nếu ai yêu mến Thầy thì phải giữ lời của Thầy” (Ga 14,23). “Lời” tức là luật, là giới răn. Lời dạy nghe ra không êm tai mấy, bởi vì tình yêu gợi cho ta cảm giác êm đềm, dịu ngọt, tình yêu làm cho đời ta vui tươi thoải mái ; trong khi đó giới răn, luật lệ lại gây cho ta một cảm giác gò bó, trói buộc và mất tự do. Vậy mà Chúa Giêsu lại ghép việc tuân giữ giới răn vào chuyện yêu thương như một điều kiện không thể thiếu. “Nếu anh em yêu mến Thầy thì phải giữ các giới răn của Thầy.” Điều này xem ra không ổn. Nhưng,

1. Yêu và giữ Luật là một. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ ta lại thấy lời dạy của Chúa Giêsu lại hợp tình hợp lý và không có gì là không ổn cả. Có thể nói: yêu mến và việc tuân giữ các lề luật chỉ là một dòng chảy duy nhất và rất tự nhiên. Tuân giữ các điều luật chỉ là sự thể hiện ra bên ngoài tình yêu ở bên trong. Ví dụ:

– Vâng phục cha mẹ (giữ “luật” cha mẹ đề ra) là cách diễn tả rất tự nhiên của lòng hiếu thảo và yêu mến mà con cái dành cho cha mẹ. Yêu mến là vâng lời.

– Chấp nhận mưa nắng dãi dầu để kiếm cơm cho con cho cái. Chấp nhận gian khổ để chu toàn trách nhiệm trong gia đình… là một tỏ bày tình yêu của những bậc làm cha mẹ dành cho kẻ hậu sinh. Có gì là gò bó, mất tự do đâu. Yêu con là hy sinh, là chịu khổ.

– Rồi hai cô cậu đã lấy nhau, quyết “giữ luật” không ngoại tình, không phản bội… chỉ là một đòi hỏi đương nhiên của tình yêu vợ chồng.

– Và trở về với ví dụ đầu, ta thấy, nếu chàng trai kia yêu nàng con gái nọ, thì họ giữ hàng tá quy luật vẫn chẳng thấy gì là nặng nhọc cả. Đúng hẹn ư ? Anh sẵn sàng. Để tránh kẹt xe, anh sẽ đi sớm.

Khi thương nhau thật sẽ rất đúng giờ. Đến giờ nàng phải về rồi, kẻo cổng đóng, mẹ mong, chàng thương nàng thật, thì “thả” nàng ra, dìu nàng về. “Em chỉ gặp được anh đến 9 giờ tối thôi nghe.” OK ngay. 9 giờ đúng, đụng ngõ nhà em.

Còn cái khoản luật ra đường không ngó ai, thì chàng nếu thương nàng thật sẽ trả lời thật hay: Không ngó đụng xe thì sao, nhưng em yên tâm, anh ngó ai anh cũng chỉ thấy mắt em trong người đó thôi. (có thể đôi mắt mang hình viên đạn nên sợ quá chẳng dám ngó ai) hoặc mượn lời ca của Hoàng thi Thơ trong bài Khi tình yêu đến mà nói rằng: ôi con mắt con mắt ta buồn cười, một người ta thấy thôi. Dù đông người, chỉ mình em anh thấy.

Rồi khi thực sự thương nhau, thì tôn trọng nhau và tôn trọng luật “ranh giới.” Tới đâu thì dừng lại. Đến đâu thì xì tốp. Chàng thì thường muốn vượt ranh. Nàng sợ chàng bỏ, nên gì cũng chiều. Nhưng coi chừng đó chỉ là đường một chiều : chiều lợi dụng chứ không phải đường hai chiều, chiều tình yêu. Yêu là có những luật của nó.

Ngày nay chính tại Mỹ có phong trào mang tên “True Love Waits,” Tình yêu chân thật thì biết chờ đợi. Số là một mục sư Baptist bị shock (sửng sờ) khi 2 em gái 16 tuổi cảm thấy xấu hổ vì mình đã đôi tám rồi mà vẫn còn trắng trinh. Thay vì hãnh diện thì lại mắc cỡ ! Mục sư này lập nên phong trào cổ võ việc giữ gìn kiêng cữ cho tới ngày thành hôn. Phong trào lớn mạnh ngoài mong đợi, nhưng mục sư không ngạc nhiên, bởi mục sư nói : rất nhiều bạn trẻ muốn như thế. Và khi họ muốn như thế và làm như vậy là họ đang ở trong thành phần đa số chứ không phải thiểu số đâu. Hãy hãnh diện vì mình trong sạch : proud to be pure.

Người Việt-Nam chúng ta có tâm trạng thuận lợi hơn để giữ điều đó. Cái đáng giá ngàn vàng đó đáng giá thật chứ không phải xưa rồi Diễm ơi đâu ! Các bạn gái đã có lần nào nghe lập luận này chưa, nó cũng rất thường xảy ra : Cô dễ dãi với tôi thì chắc gì cô không dễ dàng với người khác. Cô chiều tôi chắc gì cô không nhường người khác…

Tình yêu chân thật là có luật lệ của nó. Vì thế yêu nhau và giữ luật lệ của tình yêu không có gì là mâu thuẫn, chỉ là một thôi. Yêu bên trong, diễn tả ra bên ngoài bằng những luật lệ của nó. Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lề luật của Thầy.

Có nhiều chàng con trai yêu nàng con gái nào đó thì sẵn sàng giữ luật “cấm hút thuốc” cách rất triệt để dễ dàng. “Trước đây tôi hút thuốc dữ lắm, nhưng khi quen bà ấy, bà ấy không muốn, tôi bỏ ngay !” Yêu là tuân giữ lề luật. Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lề luật của Thầy.

2. Yêu giúp dễ giữ Luật. Đề tài của bài giảng hôm nay là tình yêu và lề luật không hề mâu thuẫn, nhưng chỉ là là một dòng chảy của con suối tình yêu. Và chính tình yêu chân chính này giúp sức tăng lực cho mình giữ luật.

Cuốn phim có tựa đề: “Đời Vẫn Đẹp” do Roberto đạo diễn và thủ diễn đã xứng dáng được giải Oscar năm 2000. Cuốn phim diễn lại câu chuyện của một người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ đã bị Đức Quốc Xã đưa vào trại tập trung. Nhờ tài khôi hài và tình yêu thương, ông đã giữ vững tinh thần cho mình và cho đứa con còn nhỏ cho tới khi quân đội Đồng Minh đến giải thoát.

Nhân vật chính là một bác sĩ chuyên gia tâm lý. Trong những năm lưu tù, ông khám phá được một chân lý quan trọng cho cuộc sống của con người. Chân lý đó là trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất của con người, con người vẫn có thể tồn lại, nếu họ có niềm tin và tình yêu.

Bác sĩ đã quan sát những phản ứng khác nhau nơi các bạn tù của ông: Có những người trước khi vào tù được mọi người trọng vọng ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình là những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc cỏn con : như một mẩu bánh, một ngụm nước. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó tuyệt vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày bị bỏ đói. Trái lại, cũng không thiếu những người ít được kẻ khác chú ý đến, lại âm thầm vượt qua, chịu đựng cho đến cùng và còn sống.

Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ cho biết chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy hoả ngục của các trại tập trung đó. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết rồi, nhưng tình yêu đối với vợ đã giúp người bác sĩ này vượt qua tất cả. Ông đã chia sẻ cảm nghiệm đó như sau:

Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, khỏi những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi. Cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng, hay ngưng thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Khi tôi cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi, thì chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho tôi chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn lại cho đến ngày được giải cứu khỏi trại tập trung.

Văn hào St Exupéry của Pháp, trong cuốn “Chuyến bay đêm” (vol de nuit) thuật lại một phi công bay trong bóng tối tại sa mạc, và máy bay rơi xuống bãi cát. Cát êm, không chết. Chỉ bị thương. Phi công bò đi tìm đường về làng xóm. Nhưng trong sa mạc nào biết hướng bò. Mệt lả, đói khát, anh muốn buông xuôi, chết cho rồi. Nhưng anh chợt nghĩ: Nếu ở nhà vợ con tôi, người thân tôi đang chờ đợi giây phút tôi trở về, thì tôi là thằng hèn nếu tôi không cố trỗi dậy và cất bước. Chính tình yêu thúc đẩy ta đi còn mạnh hơn là đồ ăn thức uống, viên tăng lực, loon “bò húc” bò cụng.

Thánh Phaolô diễn tả thật đẹp chính tình yêu chứ không gì khác làm cho chúng ta gắn bó với Đấng ta yêu mến : Rm 8:35-39

Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? Đúng thế, tôi tin chắc rằng : cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

“Yêu thì giữ luật” và “yêu giúp giữ luật” đó là 2 điểm ta rút ra qua bài Tin Mừng hôm nay vậy.

Về mục lục

.

TRẤN AN

Lm Vũđình Tường

Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm chia tay. Chào tạm biệt không khó mấy bởi vẫn còn hy vọng trong tương lai gần có ngày gặp lại. Nói lời vĩnh biệt khó hơn nhiều bởi ngày gặp lại xa vời vợi, không còn hứa hẹn. Đây chính là kinh nghiệm Đức Kitô và các môn đệ trải qua trong tuần cuối đời của Đức Kitô trên trần thế. Đức Kitô biết rõ thời gian Ngài giã từ trần thế để về cùng Chúa Cha rất gần, Ngài tâm sự với các môn đệ. Nhiều lần trước đó Ngài đã tâm sự cùng các ông nhưng hầu như các ông không mấy chú í. Lần này, Đức Kitô nói rõ hơn và hướng dẫn các ông cần phải làm gì để liên kết với Ngài. Lần tâm sự này cũng không khá hơn những lần khác là bao bởi các môn đệ không muốn việc chia tay xảy ra.

Đức Kitô vạch ra cho các môn đệ hai sự thật: Ngài sẽ chia tay tạm biệt các ông và cùng trong lúc đó Ngài hứa hiện diện cùng các ông. Điều này xem ra có vẻ nghịch lí và các ông không thể nào hiểu được. Làm thế nào Đức Kitô cùng một lúc vừa có thể vừa hiện diện, lại vừa vắng mặt. Vì thế Đức Kitô chỉ cho các ông cách làm thế nào nhận biết Ngài đang đồng hành cùng các ông.

Trước tiên Ngài nói đến tình yêu mến. Ai yêu mến Đức Kitô thì tuân giữ lời Ngài truyền dậy. Đức Kitô không đi nơi xa lạ nhưng là về cùng Chúa Cha. Vì thế ai yêu mến Đức Kitô sẽ được Chúa Cha yêu mến và ở trong nhà Chúa. Ở trong nhà Chúa sẽ gặp lại Đức Kitô (câu 23). Đó là cách thứ nhất liên kết với Đức Kitô.

Cách thứ hai để liên kết với Đức Kitô là qua Thánh Thần Chúa. Ai yêu mến Đức Kitô sẽ không cô đơn nơi trần thế nhưng có Thánh Thần Chúa ở cùng. Thánh Thần Chúa là món quà tuyệt vời Đức Kitô trao ban cho những ai tuân giữ lời Ngài. Thánh Thần sẽ hướng dẫn, chỉ bảo, giúp thông hiểu điều Đức Kitô truyền dậy. Nghe hướng dẫn của Thánh Thần chính là nghe lời của Đức Kitô (câu 26). Đối với Đức Kitô yêu mến Thiên Chúa và tuân giữ lời Chúa là hai sự việc không thể tách rời. Yêu mến mà thiếu hành động là yêu suông, hành động thiếu tình yêu là chiều theo í riêng.

Thứ ba, ai yêu mến Thiên Chúa sẽ nhận được bình an trong tâm hồn. Bình an của Đức Kitô trao tặng, không phải cho tất cả mọi người, mà ban riêng cho những ai yêu mến, thực hiện Lời Ngài (14,27). Ơn an bình Chúa ban không giúp giúp người đó tránh xa biến cố, đau khổ, bất an trong đời mà chính là biến người đó trở thành người mang bình an lại cho tha nhân. Biến họ trở thành người con người bình an, sống hiền lành, chân thật, tôn trọng sự sống mình và sự sống người khác. Cuộc tử nạn của Đức Kitô chính là sự dữ do con người tạo ra, qua sự dữ đó Đức Kitô mang ơn cứu độ cho nhân trần. Thiên Chúa yêu thương có thể biến đổi sự dữ thành sự lành, thành nguồn ơn cứu độ vì thế qua đau khổ, tang thương của ta kết hợp với Đức Kitô, Thiên Chúa sẽ biến chúng thành hào quang vinh hiển ca tụng Thiên Chúa và là nguồn ơn cứu độ chúng sinh. Chúng ta cầu xin biết sống yêu mến, thực hiện lời Chúa trong cuộc sống để qua hành động yêu thương người ta nhận biết và tin Thiên Chúa.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_C

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Vì lễ Ngũ Tuần sắp đến nên Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh này đề cập đến Chúa Thánh Thần. Bài Đọc I và Tin Mừng trực tiếp đề cập đến Chúa Thánh Thần trong khi Bài Đọc II chỉ gợi ý.

Cv 15: 1-2, 22-29

Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca tường thuật tầm quan trọng của Công Đồng Giê-ru-sa-lem khi phải giải quyết những mối quan hệ giữa người Ki-tô hữu gốc Do thái và người Ki-tô hữu gốc lương dân. Biểu thức kết luận nghị quyết của Công Đồng thật đáng chú ý: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”.

Kh 21: 10-14, 22-23

Thị kiến được miêu tả trong sách Khải Huyền là thị kiến về Giáo Hội thời Thiên Sai và thời các Tông Đồ, không cần Đền Thờ nữa, vì Giáo Hội là Giáo Hội của Đấng Phục Sinh. Những tín hữu đích thật phụng thờ Thiên Chúa trong “thần khí và sự thật”.

Ga 14: 23-29

Tin Mừng được trích từ Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su. Khi sắp từ giã các môn đệ, Chúa Giê-su hứa xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến với họ. Ngài sẽ là Đấng Bảo Trợ của họ.

BÀI ĐỌC I (Cv 15: 1-2, 22-29)

Chương 15 sách Công Vụ thuật lại một giai đoạn mang tính quyết định trong lịch sử Giáo Hội. Giai đoạn này được đặt trước một hiện tượng mang chiều kích rộng lớn bao la: nhiều lương dân đón nhận Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội mỗi ngày mỗi thêm đông. Hiện tượng này gây nên một phản ứng mãnh liệt từ phía vài người Ki-tô hữu gốc Do thái: phải chăng Giáo Hội bị làn sóng những người Ki-tô hữu gốc Hy-lạp, Xy-ri-a và Síp tràn ngập, và biến mất khỏi bối cảnh văn hóa Do thái từ đó Giáo Hội được khai sinh?

Cuộc tranh luận, khởi đi từ An-ti-ô-khi-a, được trình lên các Tông Đồ và Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Một công nghị được triệu tập vào năm 49 và thường được gọi là “Công Đồng Giê-ru-sa-lem”. Bản văn của chúng ta gồm có hai phần: phần thứ nhất giới thiệu hoàn cảnh nẩy sinh Công Đồng Giê-ru-sa-lem (15: 1-2) và phần thứ hai tường thuật những nghi quyết của “Công Đồng” được trình bày theo hình thức Thư Chung (15: 22-29). Giữa hai phần này diễn tiến những cuộc tranh luận mà đoạn trích dẫn hôm nay không thể đưa vào đây, vì độ dài của nó, do khuôn khổ của một bài đọc Chúa Nhật. Để hiểu rõ hơn những nghị quyết tối hậu của Công Đồng, đối tượng của đoạn trích hôm nay, chúng ta phải tóm lược những tranh luận này. Công Đồng Giê-ru-sa-lem được định vị ở giữa sách Công Vụ, như đánh dấu khúc quanh của Giáo Hội: khởi đi từ giây phút này, Giáo Hội “chuyển sang lương dân”, hay ít ra “mở rộng đường cho lương dân đón nhận đức tin” (Bài Đọc I Chúa Nhật vừa qua).

  1. Hoàn cảnh nảy sinh Công Đồng Giê-ru-sa-lem (15: 1-2)

Chung chung người ta ghi nhận vào năm 49 xảy ra một cuộc tranh luận tại An-ti-ô-khi-a mà thánh Lu-ca đặt ngay liền sau cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất, và đa số các nhà chuyên môn đồng hóa cuộc tranh luận này với cuộc tranh luận mà thánh Phao-lô kể ra trong thư gởi tín hữu Ga-lát (Gl 2: 1-10).

Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba không những đối đầu với những người Do thái cứng lòng tin trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của mình, nhưng hai ngài còn phải tranh luận với những Ki-tô hữu gốc Do thái xuất thân từ phái Pha-ri-sêu, từ Giê-ru-sa-lem đến An-ti-ô-khi-a nữa. Những người Ki-tô hữu này đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân:  “Nếu anh em không chịu phép cắt bì, thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15: 1), nghĩa là phải trở thành Do thái giáo qua phép cắt bì rồi mới được phép trở thành Ki-tô hữu qua phép rửa. Theo họ, niềm tin vào Chúa Giê-su không thay thế Luật Mô-sê, đơn giản đức tin được thêm vào Luật Mô-sê.

Người ta hiểu những lời tuyên bố như thế gây hoang mang như thế nào trong các cộng đoàn kết nạp nhiều người Ki-tô hữu gốc lương dân mà không thông qua phép cắt bì, những người mà các nhà truyền giáo vừa mới tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc Phúc Âm hóa thế giới dân ngoại. Hơn nữa, luật không cho phép đồng bàn với người không cắt bì. Vậy làm thế nào có thể đồng bàn với các Ki-tô hữu không cắt bì khi tham dự nghi lễ Bẻ Bánh (bàn tiệc Thánh Thể)? Vào thời ấy lễ Bẻ Bánh được tổ chức như một bữa ăn đích thật.

Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba “chống đối ra mặt và tranh luận khá gay go với những người đó”. Cuối cùng, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a “bèn quyết định cử ông Phao-lô và ông Ba-na-ba và vài người trong nhóm họ đi Giê-ru-sa-lem”. Thật đáng chú ý, những người Ki-tô hữu gốc lương dân này nhận ra quyền tối thượng của Hội Thánh Giê-ru-sa-lem và muốn đệ trình vấn đề của mình lên “các Tông Đồ và các kỳ mục”. Thánh Ép-ra-em nhận định: “Nếu không có sự đồng ý của các Tông Đồ, không ai tự ý thay đổi bất cứ điều gì mà các ngài chưa cho phép… Thánh Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem để giải quyết việc loại bỏ Lề Luật và phép cắt bì trước sự hiện diện của các môn đệ: nếu các Tông Đồ không ủng hộ thì thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba không thể nào loại bỏ chúng” (Armenian Commentary, ad loc.).

  1. Những tranh luận tại Công Đồng Giê-ru-sa-lem (15: 5-21)

Trong Công Đồng Giê-ru-sa-lem, thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô tranh luận gay gắt với những người chủ trương Do thái hóa Ki-tô giáo. Hai ngài đã hiểu rằng vấn đề thật sự không đơn giản là phép cắt bì, nhưng thậm chí tương lai của Giáo Hội bị đặt ra trước một sự chọn lựa then chốt: hoặc hy sinh những Ki-tô hữu gốc lương dân vì tuân giữ nghiêm nhặt những quy định Do thái giáo, hay hy sinh những Ki-tô hữu gốc Do thái chủ trương nghiêm nhặt vì Giáo Hội mở rộng cửa đón nhận lương dân.

A- Diễn từ của thánh Phê-rô (15: 7-12)

Thánh Phê-rô, thủ lãnh các Tông Đồ và Giáo Hội, lên tiếng đầu tiên. Dựa trên kinh nghiệm ở Xê-da-rê ở đó thánh nhân đã chứng kiến việc Chúa Thánh Thần xuống trên các lương dân (viên đại đội trưởng Rô-ma và gia quyến của ông), thánh Phê-rô công bố, theo biểu thức rất Phao-lô rằng ơn cứu độ do đức tin, cùng với ân sủng Chúa Giê-su. Vì thế, không nên “quàng vào cổ” những người Ki-tô hữu gốc lương dân này “một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi”. Cái ách này đó là luật Mô-sê cùng với tất cả những quy định của luật. Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba thuật lại những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện giữa lương dân trong cuộc hành trình truyền giáo của họ.

B- Diễn từ của thánh Gia-cô-bê (15: 13-21)

Tiếp đó, thánh Gia-cô-bê, thủ lãnh cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, hoàn toàn tán thành với thánh Phê-rô trên “nội dung” của vấn đề, nhưng đề nghị một sự dàn xếp trong những hình thức để những Ki-tô hữu gốc Do thái không cảm thấy mình bị thiệt thòi. Lời đề nghị của thánh Gia-cô-bê được gợi hứng từ các truyền thống hiếu khách đã được tuân giữ bao đời trong dân Ít-ra-en. Lề Luật truyền phải tiếp đón những ngoại kiều và những người nhập cư và ca ngợi lòng bao dung đối với những người này; bù lại, Luật yêu cầu những ngoại kiều và nhập cư được ân cần tiếp đón như thế phải tôn kính ngày sa-bát và tuân giữ vài quy định liên quan đến việc cưới hỏi và thức ăn. Thánh Gia-cô-bê lấy lại những quy định truyền thống hiếu khách này, nhưng giảm thiểu hết mức chỉ giữ lại bốn điều cấm: những Ki-tô hữu gốc lương dân không được ăn của cúng, ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết (đây là những điều mà người Ki-tô hữu gốc Do thái ghê tởm nên không muốn đồng bàn với người Ki-tô hữu gốc lương dân). Sau cùng cấm gian dâm mà bất cứ nền văn hóa nào cũng lên án.

Như vậy các Ki-tô hữu gốc lương dân cảm thấy an lòng, vì Công Đồng không còn kể ra việc cắt bì như điều kiện tiên quyết nữa, nhưng chỉ đòi hỏi họ phải kiêng cử vài thức ăn để có thể đồng bàn với anh chị em Ki-tô hữu gốc Do thái. Về phía những Ki-tô hữu gốc Do thái, họ dễ dàng nhận ra ở nơi những kiêng cữ này thật ra truyền thống đã đòi buộc những ngoại kiều sống ở Ít-ra-en phải tuân giữ. Bù lại, họ phải rộng mở tấm lòng đón tiếp tất cả những người Ki-tô hữu gốc lương dân, những anh chị em cùng có chung niềm tin với họ.

Qua sự nhượng bộ đòi hỏi cả hai phía, thánh Gia-cô-bê hy vọng rằng nhờ đó Hội Thánh giữ được mối giao hảo hài hòa trong cuộc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân, khi cả hai đều tôn trọng bản sắc văn hóa của nhau. Đây cũng là nguyên tắc chung cho các nhà truyền giáo sau này đến với các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau.

  1. Thư Chung (15: 22-29)

Công Đồng nhất trí gởi Thư Chung cho các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc lương dân tại An-ti-ô-khi-a, miền Xy-ri và Ki-li-ki-a để trấn an họ. Thư Chung này chứa đựng những nghị quyết của Công Đồng theo thể loại thư tín vào thời đó khi bắt đầu: “Anh em Tông Đồ và kỳ mục chúng tôi gửi lời chào anh em gốc dân ngoại tại An-ti-ô-khi-a, tại miền Xy-ri và Ki-li-ki-a” (15: 23) và kết thúc: “Chúc anh em an mạnh”(15: 29). Thư Chung được trao gởi cho hai trong số các ngôn sứ có uy tín nhất trong Hội Thánh, ông Giu-đa và ông Xi-la.

Công Đồng trước tiên khiển trách những Ki-tô hữu Giu-đê, chỉ vì sáng kiến của riêng mình, gây nên tình trạng hoang mang trong cộng đoàn An-ti-ô-khi-a (15: 24); tiếp đó, ca ngợi lòng nhiệt thành tông đồ của thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba (15: 25-26), đây là cách thức công nhận đề tài về ơn cứu độ nhờ đức tin chứ không nhờ phép cắt bì. Hai ông Giu-đa và Xi-la được cử đi trình bày trực tiếp những nghị quyết của Công Đồng, nhưng chính Phẩm Trật Giáo Hội trình bày và công bố sắc lệnh khắp các miền có nhiều anh chị em Ki-tô hữu gốc lương dân.

Cuối cùng, Công Đồng kết thúc với lời quả quyết rằng: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”. Biểu thức này rất quý sẽ được những người kế vị thánh Phê-rô lập lại. Qua biểu thức này, Công Đồng ý thức rằng chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn những nghị quyết của các ngài và phân tích cho đến cùng chính Thiên Chúa đã quyết định vấn đề. Đồng thời, các Tông Đồ khẳng định quyền tối thượng của các ngài trong Hội Thánh. Quyền này các ngài nhận từ Đức Giê-su và được Thánh Thần trợ lực. Khi khẳng định rằng không áp đặt bất kỳ gánh nặng nào trên những Ki-tô hữu gốc lương dân, Công Đồng tuyên bố rằng người Ki-tô hữu gốc lương dân không bị đòi buộc cắt bì và tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng chỉ đòi buộc họ tuân giữ vài lệnh cấm chủ yếu liên quan đến thức ăn. Đường lối khôn ngoan của Công Đồng làm hài lòng cả những Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn những Ki-tô hữu gốc lương dân.

Tưởng nên nhắc lại rằng vấn đề thức ăn còn trầm trọng hơn vấn đề cắt bì, vì có liên quan đến việc đồng bàn. Những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn còn tuân giữ những điều cấm kỵ của Luật Mô-sê, họ không thể chia sẻ bữa ăn với những Ki-tô hữu gốc lương dân. Ở An-ti-ô-khi-a, hai cộng đoàn dùng bữa tách riêng ra. Vì thế, những quyết định của thánh Gia-cô-bê nhắm đến giải quyết vấn đề này, việc cùng ăn cùng uống với nhau là một yếu tố quan trọng để tạo nên một sự hiệp nhất giữa những Ki-tô hữu có những nguồn gốc khác nhau, nhất là cùng nhau tham dự lễ Bẻ Bánh.

BÀI ĐỌC II (Kh 21: 10-14, 22-23)

Chương 21 này, chương áp chót của sách Khải Huyền, tường thuật hai thị kiến. Thị kiến thứ nhất, chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật trước, miêu tả Giáo Hội khải hoàn, được sánh ví với một hôn thê điểm trang lộng lẫy chuẩn bị đón phu quân của mình là Đức Ki-tô trong một giao ước mới, hoàn hảo và vĩnh viễn.

Thị kiến thứ hai, chúng ta đọc hôm nay, miêu tả Giáo Hội của các Tông Đồ, nhưng nhấn mạnh rằng đây cũng là một Giáo Hội: Giáo Hội xuống từ trời, vì Giáo Hội này phát xuất từ Thiên Chúa và chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa. Những đặc tính của Giáo Hội này được gợi lên bởi nhiều hình ảnh nối tiếp, khá dễ dàng giải mã.

  1. Một ngọn núi cao hùng vĩ

“Trong một thị kiến, tôi là Gioan, tôi được thiên thần đem lên một ngọn núi cao hùng vĩ”. Trong Cựu Ước, thành thánh Giê-ru-sa-lem thời thiên sai được các ngôn sứ định vị trên một ngọn núi cao, biểu tượng của sự siêu việt như Is 2: 2: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên vững vượt đỉnh các non cao, vươn mình lên trên hết mọi ngọn đồi”; hay Ed 17: 22: “Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi”.

  1. Giáo Hội chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa

Khía cạnh bên ngoài nổi bật nhất của Thành Thánh, chính là sự chói lọi ánh vinh quang Thiên Chúa. Trước đây cũng chính với viên đá quý chiếu sáng mà ngai Thiên Chúa được gợi lên: “Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vòng trông giống như ngọc bích” (Kh 4: 3). Ở thị kiến này, vinh quang của Thành Thánh được sánh ví với sự chiếu sáng của viên đá quí tuyệt vời, như vân thạch lưu ly. Điều này muốn nói lên sự thánh thiện của Giáo Hội và chỉ ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, điều này sẽ được củng cố ở câu sau cùng: “Thành chẳng cần đến mặt trời mặt trăng chiếu sáng: đã có vinh quang Thiên Chúa tỏa rạng, và Con Chiên là ngọn đuốc chiếu soi”.

  1. Những đặc tính của Giáo Hội

Việc miêu tả thánh thánh Giê-ru-sa-lem được gợi hứng từ ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Trong cảnh lưu đày ở Ba-by-lon, sau khi biết tin rằng thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ bị phá hủy, ngôn sứ hình dung ra việc tái thiết thành thánh Giê-ru-sa-lem trong tâm trí của mình: thành sẽ hoàn hảo, nó sẽ vuông vức… (Ed 48). Thánh Gioan cũng miêu tả thành Giê-ru-sa-lem của các Tông Đồ vào lúc thành thánh không còn nữa, thành cũng như Đền Thờ đã bị quân đội Rô-ma tiêu hủy vào năm 70 sau Công Nguyên. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem đích thật từ nay là Giáo Hội. Giáo Hội này thì “phổ quát”: mở ra cho hết mọi dân nước, nó có các cửa ở bốn phương trời. Giáo Hội này là của các Tông Đồ: nền móng của nó có ghi tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.

Giáo Hội này là dấu chỉ “sự hiện diện của Thiên Chúa” ở giữa lòng nhân loại (x. Ed 48: 35). Thiên Chúa hiện diện mà không còn cần đến Đền Thờ bằng đá, do tay người phàm xây dựng. Giáo Hội là Giáo Hội của Đấng Phục Sinh; đền thờ Thiên Chúa là “thân thể của Đức Ki-tô”. Thiên Chúa trực tiếp ngự giữa nhân loại. Đức Giê-su đã nói với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các ngươi thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem…những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4: 19-24).

Giáo Hội này còn là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa vì có “Con chiên là ngọn đuốc chiếu soi” như sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a: “Ánh sáng ban ngày của ngươi không còn là mặt trời nữa, và ban đêm, ngươi chẳng cần đến ánh trăng soi: Đức Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh huy hoàng của ngươi là Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 60: 19).

Viễn cảnh là thời cánh chung như phần cuối của sách Khải Huyền này, nhưng nó không chỉ là thời cánh chung. Đừng mất đi tầm nhìn về ý định của tác giả: khích lệ những Ki-tô hữu trong cơn thử thách. Sự hiện diện của Thiên Chúa đem lại sự yên lòng cho Giáo Hội chiến đấu. Đức Ki-tô – Con Chiên – đang sống ở bên cạnh các tín hữu của Ngài, trong các bí tích và qua ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.

TIN MỪNG (Ga 14: 23-29)

Chúng ta tiếp tục đọc và suy niệm Diễn Từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su với các môn đệ Ngài trong bữa Tiệc Ly. Chúa Giê-su sắp rời bỏ các ông mà ra đi, vì thế các ông xao xuyến và buồn phiền. Chúa Giê-su trấn an các ông khi loan báo cho các ông biết rằng sự hiện diện hữu hình của Ngài sẽ được nối tiếp với sự hiện diện vô hình của Ngài ở nơi sự hiện của Chúa Thánh Thần: Ngài là Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đời sống nội tâm của các môn đệ; Ngài là Bậc Tôn Sư nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ hiểu biết sâu xa về Chúa Giê-su; và Ngài là bình an và niềm vui mà Chúa Giê-su trao ban cho các môn đệ.

Thần học trong bản văn trích dẫn hôm nay rất đậm đặc vì mở ra cho thấy tác động ân sủng trong đời sống nội tâm của người Ki-tô hữu; cũng rất đậm đặc không kém vì ở đây tình yêu được nêu đích danh lần đầu tiên là căn nguyên của sự trung thành với Lời và là con đường dẫn đến Chúa Cha; còn đậm đặc hơn nữa khi gợi lên những hoa trái thần khí mà sự hiện diện của Thiên Chúa ở cùng các môn đệ đem lại cho họ ngay chính trong cuộc sống tại thế này.

  1. Chúa Thánh Thần, Tình Yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đời sống nội tâm của các môn đệ (14: 22-24)

Câu hỏi của ông Giu-đa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14: 22) giúp Chúa Giê-su khai triển sâu xa hơn chủ đề về Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị trong lòng của các môn đệ. Chỉ người nào bày tỏ tấm lòng yêu mến của mình đối với Chúa Giê-su bằng cách tuân giữ các điều răn của Ngài, người ấy sẽ được Chúa Cha yêu mến và “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (14: 23). Động từ “ở lại”, một trong những động từ chủ đạo của Tin Mừng Gioan, nhấn mạnh sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa trong đời sống “nội tâm” của người Ki-tô hữu. Như vậy, lòng mến mà Đức Giê-su đề cao tạo nên một chuyển động kép: bên ngoài thực hành những huấn lệnh Tin Mừng, bên trong tăng cường mối quan hệ với Đức Giê-su. Lúc đó người tín hữu mới có thể nghiệm được Chúa Cha và Chúa Con đồng hiện diện trong lòng mình. Đó là vai trò của Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con và hiệp thông tình yêu của các môn đệ với Tình Yêu Thiên Chúa: “Thật vậy, không thể đạt đến một sự hiểu biết trung thực nào về Mặc Khải Ki-tô giáo nếu không có tác động của  Đấng Bảo Trợ. Lý do là vì sự hiệp thông nơi Thiên Chúa luôn luôn hàm chứa mối quan hệ giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (“Verbum Domini”, 50).

  1. Chúa Thánh Thần, “Bậc Tôn Sư”nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ (14: 25-26)

Chúa Thánh Thần còn là “Bậc Tôn Sư” nội tâm khai lòng mở trí cho các môn đệ hiểu Chúa Giê-su: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14: 26). Với tư cách là Bậc Tôn Sư, Chúa Thánh Thần nhắc lại và khai lòng mở trí cho các ông để các ông hiểu cách thấu đáo những lời Chúa Giê-su đã nói và những việc Chúa Giê-su đã làm. Chính ở nơi vai trò này mà chúng ta tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần bảo vệ Giáo Hội khỏi sai lạc và gìn giữ Giáo Hội luôn luôn gắn bó một lòng một ý với Chúa Giê-su. Rõ ràng, các môn đệ sẽ phải cần đến sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần trong biến cố Hiện Xuống mới có thể nắm bắt được chiều sâu của sứ điệp này.

Ở đây, chúng ta chạm đến tuyệt đỉnh của Mặc Khải: Chúa Con mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là Cha đầy lòng yêu thương, Đấng mà Chúa Con giữ mối quan hệ Phụ Tử độc nhất vô nhị. Ấy vậy, điều đáng chú ý chính là trong Tin Mừng Gioan, hễ khi nào Chúa Giê-su nêu lên mối quan hệ giữa Cha và Con, Ngài đều liên kết mối quan hệ này vào trong những viễn cảnh liên quan đến nhân loại (14: 20, 21, 23). Điều này muốn nói rằng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa, thay vì khép kín trong chính mình, tất yếu hướng về thụ tạo. Tất cả những gì Chúa Con lãnh nhận từ Chúa Cha, chính là để ban cho chúng ta, đó là “những của tốt lành”theo thánh Mát-thêu (7: 11), tức là “Thánh Thần” theo thánh Lu-ca (11: 13).

Vì thế, không gì phải ngạc nhiên khi thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô xem sự hiện hữu của Thánh Thần là “Ân Ban” trong chính mầu nhiệm Thiên Chúa, bởi vì Ngài là “Tình Yêu tận hiến cho nhau” trong mầu nhiệm Ba Ngôi: “Thánh Thần, theo Kinh Thánh, không chỉ là Thần Khí của Chúa Cha, cũng không chỉ là Thần Khí của Chúa Con, nhưng là của cả hai; chính vì thế Thánh Thần dạy cho chúng ta tình yêu chung nơi Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu mà qua đó hai Ngôi Vị yêu mến lẫn nhau” (De Trinitate XV, 17, 27). Với tư cách là Tình Yêu hiệp nhất trong Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần mà chúng ta lãnh nhận sẽ là nguyên lý hiệp nhất chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, như lời dạy của thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô: “Chính vì Ngài (Thánh Thần) là sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con nên các Đấng (Chúa Cha và Chúa Con) muốn chúng ta được hiệp thông với nhau và với các Ngài, nghĩa là bằng Thánh Thần, Đấng là Thiên Chúa và là Thiên Ân… Quả vậy, chính trong Thánh Thần mà chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa và tìm thấy nơi Người niềm hoan lạc… Nhờ Thánh Thần mà Dân Thiên Chúa được quy tụ lại trong hiệp nhất” (Sermon 71, 12, 18; 12, 19; 17, 28; 20, 33). Thánh Tô-ma lấy lại tư tưởng này và dành cho Chúa Thánh Thần một vai trò đặc biệt với hai danh xưng: “Tình Yêu” và “Ân Ban”. Theo thánh Tiến Sĩ Tô-ma, trong lịch sử Cứu Độ, chức năng của Chúa Thánh Thần là nối kết tất cả, đưa tất cả vào Tình Yêu Vĩnh Hằng, tức là sự Hiệp Thông Ba Ngôi.

Đức Gioan Phao-lô II nói về Chúa Thánh Thần là Tình Yêu Thiên Chúa trong Hiến Tế Thập Giá của Chúa Giê-su như sau: “Chúa Thánh Thần được mặc khải và hiện diện trong mầu nhiệm Thập Giá như là tình yêu hoạt động trong thâm sâu mầu nhiệm Thập Giá, chính Ngài là nguồn sức mạnh cứu độ của thập giá Đức Ki-tô, là ân huệ trao ban sức sống mới. Trong tột cùng đau khổ trên thập giá, Thánh Thần tình yêu đến với Chúa Giê-su và rồi từ trên thập giá, Chúa Giê-su đã trao ban Thánh Thần tình yêu đó” (“Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và thế giới”).

  1. Chúa Thánh Thần, bình an và niềm vui Chúa Giê-su trao ban cho các môn đệ (14: 27-29)

Sau khi đảm bảo tối hậu với ân ban Chúa Thánh Thần, Chúa Giê-su hứa Ngài để lại cho các môn đệ sự bình an của Ngài, hay lời từ biệt (“shalom”) của Ngài: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (14: 27a). Thật là mâu thuẫn biết bao, “bình an” được công bố bởi một người sắp phải đối mặt với những xao xuyến tận mức. Tuy nhiên, Chúa Giê-su xác định bình an mà Ngài ban cho các môn đệ không theo kiểu thế gian (14: 27b), nhưng là bình an của Ngài, đó là sự bình an được đảm bảo ở nơi việc trao ban Chúa Thánh Thần vào buổi chiều Phục Sinh khi mà Chúa Giê-su nói: “Bình an cho anh em. Hãy đón nhận Chúa Thánh Thần” (Ga 20: 21-22). Đây là bình an nội tâm, xuất phát từ tình sâu nghĩa nặng của Ngài với Cha Ngài. Chính từ mối tâm giao này mà Chúa Giê-su trao ban bình an cho các môn đệ Ngài, bình an mà Ngài đã đạt được sau khi đã vâng phục tận mức tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại cho đến bằng lòng chịu chết để trở nên nguồn sống cho nhân loại. Vì thế, sự bình an này không thể làm cho các môn đệ xao xuyến khi Chúa Giê-su trở về với Chúa Cha, bởi vì chỉ sau khi Ngài trở về Chúa Cha, tức việc Ngài được tôn vinh, lúc đó Ngài mới có thể trao ban cho các môn đệ sự bình an đích thật của Thiên Chúa, tức là Chúa Thánh Thần. Đây là lời chứng gây xúc động nhất, như lời của thánh Phao-lô trong thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê: “bình an của Thiên Chúa vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4: 7).

Vì thế, Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha” (14: 28b). Đây cũng thật nghịch lý biết mấy, niềm vui mà Ngài mời gọi các môn đệ Ngài, những người sắp phải tuyệt vọng tận mức khi chứng kiến cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, lại là niềm vui được định vị ở trung tâm lập luận: vui vì sau khi Chúa Giê-su trở về cùng Chúa Cha, Ngài sẽ hiện diện với các môn đệ theo cách thế hiện diện mới của Ngài trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, một sự hiện diện mật thiết đến độ không một không gian và thời gian nào có thể ngăn cản Ngài hiện diện với các môn đệ.

Nhưng Chúa Giê-su biết rõ rằng vào lúc này niềm vui hiện ở ngoài tầm tay của các môn đệ Ngài; vì thế để khích lệ họ, Ngài lập lại lời hứa Ngài sẽ trở lại: “Anh em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’”. Ngài sẽ nhắc lại lời hứa này một ít lâu sau đó: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em; không ai lấy mất được” (Ga 16: 22).

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_C.

Lm. Antôn

Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giê-su dạy chúng ta về giới luật yêu thương của Người: “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau.”  Có nghĩa là Chúa cấp cho chúng ta một thẻ thông hành để trở thành công dân và vào Nước Thiên Chúa.  Thể thông hành của Chúa cấp không tùy thuộc vào chủng tộc, màu da, ngôn ngữ hay tập quán, mà tùy vào giới luật yêu thương của Người.

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta lại được nghe Chúa dạy về luật yêu thương.  Chúa cho chúng ta biết: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.” Khi nói như thế, Chúa cho chúng ta biết ranh giới của sự hiện diện của Người không giới hạn hay không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng trải rộng đến những tấm lòng biết yêu thương, có lòng bác ái, hy sinh và quảng đại. Vì thế, điều quan trọng mà chúng ta phải quan tâm là: có Chúa hay không, tùy thuộc vào có sống giới luật yêu thương của Chúa hay không.  Sự hiện diện của Chúa không giới hạn tại nhà thờ, danh hiệu Ki-tô hữu, giấy chứng nhận hay sổ gia đình Công giáo, hay kinh nào, nhóm hay hội nào, hay dòng nào, nhưng ở những tấm lòng biết sống yêu thương.

Có bao giờ chúng ta tự hỏi: “Làm sao biết chắc được chúng ta thực sự yêu mến Chúa và có Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta?”  “Có phương cách nào giúp chúng ta biết chúng ta yêu mến Chúa?”  Và “Làm sao chúng ta biết chúng ta yêu mến Chúa nhiều hay ít?”

Xin thưa: có một bằng chứng cho chúng ta biết có yêu mến Chúa hay không, đó là chúng ta có tuân giữ, thực hành lời Chúa dạy hay không.  Và chúng ta có thể nhìn vào việc sống lời Chúa của chúng ta để đo độ yêu mến Chúa của chúng ta nhiều hay ít.  Giữ nhiều là yêu mến nhiều, giữ ít là yêu mến ít. Thí dự như nếu chúng ta nói chúng ta yêu mến Chúa mà chúng ta không sống Lời Chúa dạy, hay chỉ làm những điều chúng ta ưa thích thì có khác gì đứa con gọi dạ, bảo vâng, nhưng chỉ vâng vâng, dạ dạ, rồi làm ngơ hay không làm điều cha mẹ dạy bảo, thì tình yêu của chúng ta chỉ là thứ tình yêu điều kiện, tính toán, không chân thật, hay giả hình, thứ tình yêu đầu môi chót lưỡi, hay hình thức bên ngoài.  Chúa dạy chúng ta phải yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết sức và hết trí khôn, như thế người yêu mến Chúa thật là người yêu Chúa không những bằng lời nói mà còn bằng chính hành động, bằng cuộc sống.

Tất cả chúng ta đều biết đạo của chúng ta là đạo yêu thương, và chúng ta xác tín rằng Lời Chúa là chân lý, là sự thật và là nền tảng đời sống Kitô hữu của chúng ta.  Nhưng Lời Chúa chỉ có ơn ích và sinh hoa trái tốt khi chúng ta tuân giữ và sống Lời Chúa. Vì thế chúng ta thường nghe Chúa nhấn mạnh đến ích lợi và giá trị về việc thực hành Lời Chúa là xây nhà trên đá.  Và Chúa còn nói: “Ai nghe và thực hành lời Chúa là anh chị em và mẹ ta.”  Bởi vậy nghe mà không thực hành thì là tự lừa dối mình.  Còn nếu chúng ta tin, yêu Lời Chúa và can đảm thực hành thì là bằng chứng tình yêu mến Chúa của chúng ta, và Chúa sẽ đến và ở trong cuộc sống của chúng ta.  Và nếu có Chúa hiện diện trong cuộc sống thì chúng ta sẽ có sự bình an của Chúa ngự trị trong tâm hồn.

Trước khi về trời, Chúa biết các môn đệ sẽ phải đối diện với những khó khăn và thử thách khi thi hành sứ mạng rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Người.  Vì thế Chúa hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần và bình an cho các ông.  Chúa bảo các ông đừng xao xuyến và sợ hãi nhưng hãy sống bình an, vì chính Người ban bình an đó.

Chúng ta đang sống trong một quốc gia giàu có nhất trên thế giới, với nền khoa học, kỹ thuật và y tế tiến bộ có thể nói là nhất thế giới.  Chúng ta cũng đang hưởng những phương tiện và có đời sống đầy đủ về vật chất. Thế nhưng chúng ta không thể tránh được những lo âu, sợ hãi trong đời sống hàng ngày.  Chúng ta không lo sợ về phương diện vật chất hay cơm ăn, áo mặc, nhưng về những sự trộm cắp, thiên tai, gió cuốn, bão lụt hay tai nạn có thể xảy đến bất cứ lúc nào, nơi nào.  Chúng ta có những âu lo về đời sống gia đình, vợ chồng, con cái hay lo sợ lòng người tráo trở và gian dối. Ngoài ra chúng ta cũng lo sợ về cuộc sống tương lai, những sự đau yếu, bệnh tật và những hoàn cảnh ngang trái, khó khăn.

Vì thế, ai trong chúng ta cũng khao khát, mong ước và tìm kiếm sự bình an. Bình an là cần thiết hơn cả vật chất và tiền bạc.  Có tiền bạc, vật chất mà không có bình an thì sẽ bất an và sinh ra nhiều thứ bệnh tật.  Bình an có nghĩa là một tình trạng mạnh khỏe cả xác lẫn hồn. Trong cuộc sống, có lẽ chúng ta đã từng đi tìm bình an. Chúng ta mua bảo hiểm nhà, xe cộ, công việc, sức khoẻ và sinh mạng.  Nhưng tất cả những thứ bình an trên đây chỉ là những thứ bình an vật chất, bên ngoài của thế gian này thôi.  Vì thế, Chúa nói với chúng ta bình an của Người không như của thế gian ban tặng.  Bình an của Người không phải là thứ bình an tạm bợ, giả tạo, bên ngoài, nhưng là bình an bên trong tâm hồn. Có bình an bên ngoài mà không có bình an trong tâm hồn là chưa có bình an thật của Chúa.

Bình an của Chúa là gì?  Là sự thư thái, an hòa trong tâm hồn, nhận biết Chúa là Đấng tạo dựng, Đấng ban cho chúng ta ơn lành, sự sống, sức khỏe, và những gì chúng ta đang có, để chúng ta biết sống cảm tạ, tri ân, và thờ kính Chúa trên hết và trước hết mọi người và mọi sự trong cuộc sống, luôn luôn tin tưởng phó thác, vâng theo thánh ý và sống Lời Chúa dạy, và hoàn toàn bằng lòng với sự quan phòng của Chúa.  Bình an của Chúa là có một tâm hồn tốt lành, khiêm nhường, đã được giao hòa với Thiên Chúa, sống công bằng với Chúa và sống công bằng, hiền hòa, có lòng hy sinh, bác ái và quảng đại với mọi người.

Chúng ta còn phải đối diện với nhiều thử thách, khó khăn trong cuộc sống, nhưng chúng ta vững lòng tin vào Chúa quan phòng.  Xin Chúa, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, ban cho chúng ta sự bằng an của Chúa, để dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cố gắng và thành tâm sống giới luật yêu thương Chúa dạy, để Chúa luôn hiện diện trong đời sống chúng ta.

Về mục lục

.

 

BÌNH AN VÀ SỰ THẬT

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
.
Trong những ngày này, việc khám khá ra nguyên nhân làm cá biển chết hàng loạt ở miền Trung khiến người dân phẫn nộ và thu hút sự quan tâm của báo giới. Thì ra công ty Formosa (Đài Loan) bấy lâu nay vẫn ngấm ngầm hàng ngày xả một khối lượng nước thải khổng lồ ra biển mà người dân không hề hay biết, đến khi “cháy nhà ra mặt chuột” thì đại diện của công ty lại có những phát ngôn vô trách nhiệm, đến mức coi thường và xúc phạm người Việt Nam, khiến dư luận dậy sóng.
 
Cũng trong những ngày này, truyền thông nói nhiều đến thực phẩm bẩn. Đây là một quốc nạn vì nó đang tồn tại trong cả nước, một “nhân tai” vì do con người dã tâm gây nên, một “đại hoạ” vì chúng gây hậu quả là giết chết tương lai của dân tộc. Những vụ việc được phanh phui chỉ là số nhỏ trong số những vụ việc gian lận đang tiếp diễn trong cuộc sống của chúng ta. Đây vẫn còn là những câu chuyện dài chưa có hồi kết.
 
Những tác hại nghiêm trọng trên đây được núp dưới nhãn mác “an toàn”, “bình an”, nhưng đó là thứ bình an giả tạo. Trong một số lãnh vực, người ta dùng chiêu bài bình an để che đậy những hành động thực chất là xấu xa, thậm chí là ác độc. Cũng cần nêu bổ sung những động ăn chơi đồi truỵ trá hình, những hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, những con sâu mọt tham nhũng làm nghèo đất nước…
 
Trong bối cảnh này, Lời Chúa nói với chúng ta về sự bình an đích thực.
 
Phụng vụ hôm nay tiếp tục đưa chúng ta về với bầu khí linh thiêng của bữa Tiệc ly. Khi chỉ còn một “số ít” những môn sinh của Chúa, Người uỷ lạo họ và hứa ban bình an đích thực cho họ. Người nói rõ, bình an mà Người ban cho họ khác với thứ bình an giả tạo, hoặc bình an vật chất mà con người vẫn ban tặng cho nhau. Sự bình an này, các môn đệ đạt được khi thực thi tuân giữ Lời Chúa.
 
Sự bình an đích thực là được Chúa ngự trong tâm hồn, nhờ đó, chúng ta được Chúa hướng dẫn và soi sáng, để nhận thức được những việc mình làm là tốt hay xấu. Qua lương tâm ngay thắng, Chúa vẫn hướng dẫn những suy nghĩ và hành động của chúng ta. Nếu biết chấp nhận để Lời Chúa soi sáng, sự gian dối sẽ không còn.
 
Người tín hữu tin có Chúa Thánh Thần hiện diện và soi sáng cuộc đời họ. Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo trợ, được Chúa Cha sai đến trần gian để giúp con người sống theo Chân lý. Sống ở đời là cuộc chiến đấu trường kỳ để đoạn tuyệt với gian dối, chọn lựa đứng về Sự thật và Ánh sáng. Chúa Thánh Thần cũng là linh hồn của Giáo Hội, là Đấng liên kết mọi thành viên của Giáo Hội trong sự hợp nhất. Bài đọc I kể lại một biến cố quan trọng trong lịch sử, đó là Công đồng đầu tiên của Kitô giáo, được tổ chức tại Giêrusalem vào khoảng năm 46 sau Công nguyên. Các tông đồ đã ý thức trách nhiệm của mình trước những ý kiến dư luận trái ngược nhau về những thực hành trong Đạo Do Thái như cắt bì, ăn thịt cúng, tuân giữ Luật ông Môisen… “Văn kiện” đúc kết của Công đồng rất đơn sơ, nhưng nêu rõ “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”.  Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần hướng dẫn suốt bề dày của lịch sử, giữa những thăng trầm thử thách. Vì vậy, nhưng phong ba bão tố, kể cả quyền lực hoả ngục cũng không phá huỷ được.
 
Trong một thị kiến, Thánh Gioan tông đồ đã thấy những hình ảnh về Giêrusalem (Bài đọc II). Đây là một cách diễn tả hạnh phúc thiên đàng, ở đó, tình yêu, an bình và chân lý sẽ ngự trị. Không còn gian dối và mưu mô. Không còn những toan tính vụ lợi trần tục, nhưng tất cả đều được vinh quang Thiên Chúa bao trùm, trong một nghi lễ phụng vụ thiên quốc, tràn đầy hạnh phúc và niềm vui. Những ai suốt đời tận tuỵ trung thành tuân giữ Lời Chúa và gắn bó với Người, sẽ là những công dân của Thành này.
 
Bình an là quà tặng mà Chúa Phục sinh ban cho các tông đồ, ngay khi Người từ cõi chết sống lại. Bình an cũng là quà tặng mà hôm nay, Chúa đang rộng tay ban phát cho những ai tuân giữ Lời Người. Người tín hữu, sau khi nhận quà tặng của Chúa, được mời gọi để trở nên những sứ giả đem bình an đến cho thời đại mình đang sống. Nếu ý thức được như vậy, chúng ta sẽ góp phần đẩy lùi những hành động gian dối đanh huỷ hoại tương lai của dân tộc chúng ta.
.

.

TRONG VÀ NGOÀI TÌNH YÊU

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.

Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân. Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang quy tụ lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái. Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.

Tuần trước khi Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng tình yêu.

Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.

Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lắm. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Giêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có Đền Thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quý toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy, tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn luyện để trở nên người hữu tâm.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Amen.

 

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Chỉ đi lễ, đi đọc kinh thôi, đã đủ làm công dân trong Nước Trời chưa? Bạn có quan tâm giúp đỡ những người kém may mắn chung quanh bạn không?
  2. Bạn có phấn đấu để hãm dẹp tính ích kỷ, chia rẽ và phát triển tình yêu thương tha thứ trong tâm hồn bạn không?
  3. Bạn nghĩ gì về những người ngoại đạo tốt? Họ có phải là con Chúa không?
  4. Trong và ngoài Giáo Hội. Trong và ngoài tinh thần. Bạn quan tâm tới điều nào hơn?

Về mục lục

.

GIỮ LỜI HỨA RẤT KHÓ

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Hứa thì dễ nhưng giữ được lời hứa lại rất khó. Khó vì con người dễ quên lời hứa. Càng khó giữ hơn khi vì lời hứa mà bị thiệt thòi cho bản thân. Lời hứa còn dễ lãng quên  khi xa mặt cách lòng. Con người dễ bội tín, thất trung với lời hứa của mình.

Sự thất hứa không chỉ làm cho ta mất uy tín mà còn để lại nỗi đau cho người bị thất hứa. Nỗi đau của con tim quặng đau khi chờ đợi nhiều, hy vọng nhiều nên cũng thất vọng ê chê nếu lời hứa bị lãng quên.

Có một câu chuyện vỏn vẹn 136 chữ nhưng chứa đựng nội dung thật sâu sắc. Nội dung trong đó khiến mỗi người lớn phải suy ngẫm trước khi đưa ra lời hứa của mình dành cho con trẻ. 

“Tết, anh chở con đi chơi. Về nhà, thằng bé khoe ầm với lũ bạn cùng xóm. Trong đám trẻ có thằng Linh, nhà nghèo, lặng lẽ nghe với ánh mắt thèm thuồng. Thấy tội, anh nói với nó: “Nếu con ngoan, Tết năm sau chú sẽ chở con đi chơi”. Mắt thằng Linh sáng rỡ.

Ngày lại ngày. Cuộc đời lại lặng lẽ trôi theo dòng thời gian.

Thoắt mà đã hết năm. Lại tết. Đang ngồi cụng vài ly với đám bạn thì thằng Linh cứ thập thò. Vẫy tay đuổi, nó đi được một chốc rồi lại lượn lờ. Cáu tiết, anh quát nó. Thằng Linh oà khóc nức nở. Tiếng nó nói lẫn trong tiếng nấc: “Chú hứa chở con đi chơi… cả năm qua con ngoan… không hư một lần nào…”

Câu chuyện ngắn ngủi mà cảm động. Thật tội nghiệp cho đứa trẻ, nhưng cũng phải trách người lớn đôi khi vô tình làm tổn thương tâm hồn trẻ thơ.

Chúa Giê-su trước khi về trời cũng chỉ mong các môn đệ hãy hứa tuân giữ lời Thầy. Tuân giữ lời Thầy sẽ được Thầy ban cho bình an. Bình an khỏi mọi lo âu sợ hãi. Bình an vì có Chúa luôn bảo vệ phù trì. Bình an vì được Chúa dẫn dắt qua những thung lũng sâu của dòng đời.

Nhưng thử hỏi trên thế gian nay có bao nhiêu người đã thực hiện lời hứa? Có mấy ai không thẹn lòng với Chúa vì đã nhiều lần bất trung với Chúa?

Giữa dòng đời hôm nay ta vẫn gặp rất nhiều người bất trung với Chúa và với nhau. Vì quyền lợi bản thân, vì hạnh phúc riêng mình mà họ đã quên lời Thầy và quên cả lời hứa với nhau. Giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người vì danh vọng mà bỏ Chúa, vẫn còn đó những người vì nuông chiều tính xác thịt mà xa lìa Chúa, vẫn còn đó tình nghĩa phu thê sao khó giữ lòng vẹn nghĩa thủy chung . . .

Nếu biết rằng thất hứa sẽ làm đau lòng người yêu, thì xin đừng làm đau lòng Chúa, đau lòng nhau vì bội tín vong ân. Nếu biết rằng: “Một lần bất tín vạn lần bất tin” thì đừng đánh mất uy tín, danh dự của mình khi nói mà không giữ lời, khi hứa mà không làm. Hơn nữa, người giữ lời hứa luôn được yêu thương, kính trọng, và nếu giữ lời hứa với Chúa còn được Chúa yêu thương chăm sóc chở che, thì tại sao chúng ta không giữ lời hứa để được yêu thương?

Xin Chúa giúp chúng ta luôn can đảm trung thành với Chúa, luôn tuân giữ lời Chúa để được Chúa quan phòng chở che. Xin Chúa cũng giúp chúng ta biết giữ lời hứa với nhau để xã hội luôn thăng tiến nhờ những con người biết giữ lời hứa và trung thành với lời cam kết của mình. Amen.

Về mục lục

.

THÁNH THẦN TÌNH YÊU ĐƯỢC BAN TẶNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Theo thần thoại Hy Lạp, Eros là vị thần tình yêu. Thần Eros luôn mang một cây cung và những mũi tên ái tình bên mình. Khi Eros bắn những mũi tên này vào ai đó thì ngay lập tức, người đó sẽ yêu người khác giới đầu tiên gặp được nếu không phải là người có quan hệ huyết thống hay họ hàng. Do thần Eros là một đứa trẻ hay nghịch ngợm và thiếu trách nhiệm nên đã gây ra nhiều chuyện dở khóc dở cười, làm cho nhiều người phải đau khổ.

Trong Kitô Giáo cũng nói đến một Vị Thần Tình Yêu, nhưng hoàn toàn khác với Eros. Vị Thần Tình Yêu của chúng ta chính là Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Giêsu mạc khải là Ngôi Ba Thiên Chúa và là Thiên Chúa quyền năng. Ngài không dùng mũi tên tình yêu để bắn vào trái tim, nhưng Ngài là chính Tình yêu, là ngọn lửa mến đốt cháy tâm hồn tín hữu và là Đấng Bảo Trợ hướng dẫn đời sống tín hữu. Ngài hiện hữu từ muôn thuở và hoạt mạnh mẽ trong cuộc đời Chúa Giêsu và còn tiệp tục hoạt động trong Giáo Hội và nơi mỗi chúng ta.

Hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải về Chúa Thánh Thần như là Thần của Tình yêu, là Đấng Bảo trợ an ủi và là Đấng soi sáng chỉ dạy mỗi người. Là Thần Tình yêu, vì Ngài chính là Tình Yêu nhiệm màu của Thiên Chúa, từ nơi Thiên Chúa được ban cho thế gian. Ngài trở thành tác nhân, là động lực thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Nói đúng hơn, với khả năng và giới hạn của trái tim, con người không thể yêu mến Thiên Chúa như Ngài mong đợi nếu không có Chúa Thánh Thần thúc đẩy và tác động. Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy : Chúa Thánh thần sẽ giúp chúng ta yêu mến Chúa Giêsu và thực hành lời Chúa Giêsu chỉ dạy. Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta trở nên những người học trò ngoan khi chúng ta dám để cho Ngài soi sáng, chỉ bảo. Ngài sẽ giúp ta nhận ra sự chỉ dạy của Chúa Giêsu và thực hành trong cuộc đời. Một khi chuyên chăm lắng nghe và thực hành Lời Chúa Giêsu, chúng ta trở nên bạn, nên anh em với Chúa Giêsu và được Chúa Cha thương mến. Lời Chúa Giêsu sẽ uốn nắn cuộc sống chúng ta và Chúa Thánh Thần sẽ trang điểm cho chúng ta bằng tình yêu để chúng ta trở nên người con ngoan, dễ thương trước mặt Chúa.

Khi có lòng yêu mến và thực hành Lời Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần sẽ đốt nóng tâm hồn chúng ta, đốt cháy cả những thói hư tật xấu. Ngài trang hoàng tâm hồn tín hữu nên xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa cư ngụ. Khi đó, Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha sẽ đến và ở trong tâm hồn những kẻ yêu mến Ngài. Ngược lại, khi từ chối Thánh Thần của Thiên Chúa, từ chối đón nhận và thực hành lời Chúa Giêsu, tâm hồn đó sẽ trở thành sa mạc khô cằn, không sức sống, và còn là hang ổ cho ma quỷ và sự dữ trú chân.

Là Đấng Bảo Trợ, có nghĩa là Thánh Thần được Chúa Cha sai đến để bảo vệ và trợ giúp các tín hữu. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta khỏi sự tấn công của ma quỷ và sự dữ, vì Ngài là sức mạnh của Thiên Chúa. Thánh Thần bảo vệ chúng ta khỏi sự khô khan chai đá trong tâm hồn vì Ngài là Tình Yêu và là Đấng đổi mới đời sống tín hữu. Thánh Thần sẽ trợ giúp để chúng ta có thể chiến đấu và chiến thắng ma quỷ, dục vọng và xác thịt. Thánh Thần giúp chúng ta hiểu Lời Chúa, giúp nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta và là Đấng đem lại sự bình an trong tâm hồn. 

Trong đoạn cuối bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hứa để lại cho các môn đệ một món quà hết sức đặc biệt, đó là sự bình an. Chúa Giêsu khẳng định rằng, bình an của Chúa khác hẳn sự bình an theo kiểu thế gian. Bình an của thế gian chỉ là sự an bình ở bên ngoài, trên bề mặt, giống như mặt nước phẳng lặng nhưng dưới sâu, bên trong, lại là dòng chảy cuồn cuộn. Bình an của Chúa Giêsu là sự bình an từ trong tâm hồn lan tỏa ra bên ngoài. Đó là sự bình an của những tâm hồn sạch tội, có lương tâm ngay thẳng, có một cuộc sống không gian dối.

Hơn nữa, bình an Chúa Giêsu ban cho các tông đồ là sự bình an vì tin rằng Chúa không bao giờ lìa xa chúng ta, Ngài luôn hiện diện bên cạnh và bên trong mỗi người. Ngài không còn hiện diện bằng thể xác với các môn đệ, nhưng Ngài vẫn hiện diện bằng quyền năng và sự bảo vệ của Ngài. Một khi sống với Chúa bằng tình yêu mến, chúng ta sẽ luôn nhìn thấy Ngài đang hiện diện bên chúng ta.

Các tông đồ là những người đã đón nhận Chúa Thánh Thần từ nơi Chúa Giêsu, từ đó, các ông mạnh dạn và miệt mài làm việc trong sự hiện diện của Chúa Phục Sinh và hoạt động trong sự hướng dẫn của Thánh Thần. Mỗi khi có khó khăn hoặc có vấn đề nảy sinh trong Giáo Hội, các tông đồ lại nại đến Chúa Thánh Thần như là cố vấn kỳ diệu, là điểm tựa vững chắc cho mọi quyết định của mình.

Sách Công vụ cho thấy một vấn đề lớn nảy sinh trong Giáo Hội sơ khai, khi những người dân ngoại tin vào Chúa Giêsu ngày càng đông. Vấn đề được những người bảo thủ đặt ra là : Những người dân ngoại tin theo chúa Giêsu cũng phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật Môsê. Ông Phaolô và Barnaba đã cử người đến gặp Simon Phêrô và các tông đồ để trình bày vấn đề và xin ý kiến của vị thủ lãnh Giáo Hội. Phêrô và các anh em tông tồ tại Giêrusalem đã họp lại và đưa ra một quyết định hết sức quan trọng : Thánh Thần và chúng tôi quyết định : Không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết.

Quyết định này là quyết định hết sức quan trọng. Kể từ đây, Giáo Hội sơ khai hoàn toàn tách khỏi Do Thái Giáo và các sinh hoạt theo tục lệ đạo Do Thái để bước vào giai đoạn mới. Quyết định này không phải là của riêng các tông đồ, nhưng là do Thánh Thần và chúng tôi quyết định. Điều đó chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn hoạt động cách cụ thể và sinh động trong Giáo Hội, giúp Giáo Hội đi theo đúng con đường của Chúa Giêsu.

Cho đến ngày nay, Thánh Thần Tình yêu và Bình an vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu. Thánh Thần đang thôi thúc Giáo Hội không mệt mỏi để đem tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho thế giới. Nếu như Thánh Thần Thiên Chúa là nguồn tình yêu không bao giờ vơi cạn đã được trao ban cho Giáo Hội, thì Giáo hội cũng không ngừng nghỉ thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người. Cùng với Đức Thánh Cha, vị cha chung của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội đang cùng nhau đi ra khắp mọi ngõ ngách của xã hội, đi tới những vùng ven, đến với những người sống bên lề xã hội, những người di dân, để chia sẻ và nâng đỡ, an ủi họ.

Là những Kitô hữu, tất cả chúng ta đều đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh Bí tích Rửa tội. Chúng ta được mời gọi để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong chúng ta và sẵn sàng vâng nghe sự soi sáng của Ngài. Cuộc sống bộn bề, sức ép của cơm áo gạo tiền và những cám dỗ của xã hội khiến nhiều người đã không còn nghe được tiếng nhắc nhở và sự soi sáng của Thánh Thần. Thánh Thần nhắc cho chúng ta nhớ những Lời Chúa dạy và các giới răn lệnh truyền của Chúa. Hãy tin tưởng, mạnh dạn làm theo sự hướng dẫn của Ngài. Thánh Thần thêm sức mạnh để chúng ta dám chọn lựa sống và hành động theo đúng luật Chúa, đừng cưỡng lại sự trợ giúp của Ngài.

Miền Tây và nhiều nơi trong cả nước ta đang bị nắng hạn, ruộng đồng nứt nẻ, cỏ cây khô cháy, các dòng sông bị nước mặn xâm nhập hủy hoại mùa màng và các hệ động thực vật ven sông. Tâm hồn con người nếu không có Thánh Thần Tình Yêu cũng sẽ bị khô hạn, nứt nẻ như vậy. Từ chối sự hiện hiện diện soi sáng của Thánh Thần, tâm hồn chúng ta không chỉ như một vùng cằn cỗi chết chóc, mà những dòng nước mặn là dục vọng, ích kỷ, gian ác sẽ xâm lấn cuộc đời và hủy hoại tâm hồn chúng ta.

Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng ban Chúa Thánh Thần trên chúng ta, Ngài là Thần Bảo Trợ sẽ bảo bọc, trợ giúp chúng ta trong mọi hoàn cảnh, chỉ cần chúng ta biết tin tưởng cầu xin sự hướng dẫn của Ngài. Thánh Thần sẽ nhắc cho chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu truyền dạy, chỉ cần chúng ta để tâm lắng nghe và thi hành. Ngài là vị Thần Tình yêu và Bình an xin cho chúng ta cũng biết mở lòng để cho Ngài ngự vào tâm hồn. Xin Ngài uốn nắn trái tim và cuộc sống chúng ta, để chúng ta có được một trái tim yêu mạnh mẽ, một tâm hồn rộng mở và trở thành sứ giả đem bình an của Chúa đến cho thế giới. Amen.

Về mục lục

.

MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN, HÃY YÊU MẾN VÀ TUÂN GIỮ LỜI CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Khi đến “giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha”  (Ga 13,1), với trọn tình Thầy trò, Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết, cụ thể như truyền cho các môn đệ một Điều răn mới (x. Ga 15,12). Mới là vì Chúa Giêsu là người đầu tiên thực hiện bằng việc tự hiến nộp mình cho thế nhân. Mới là vì yêu đến thí mạng vì người mình yêu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13-14). Mới là vì tình yêu hướng đến người khác, khiến họ ra khỏi chính mình, đi đến với tha nhân. Kế đến Người bảo họ : “các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34), vì đây là dấu chỉ để người ta “nhận biết các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13,35).

 Vẫn trong bầu khí tâm sự với các môn đệ, Chúa phán bảo họ rằng : “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14,23). Thật không đơn giản, lời di chúc này có ý nói : các con yêu mến Thầy thế là đủ, vì nếu yêu mến tức khắc lời Thầy sẽ được tuân giữ, có nghĩa là : khi yêu mến Chúa Giêsu, các môn đệ sẽ tuân giữ lời Chúa truyền, cụ thể là thực hành các giới răn Chúa để lại. Có thể hiểu cách khác: nếu các con yêu mến Thầy, điều đó chứng tỏ rằng các con tôn trọng lời Thầy truyền, tôn trọng các lời Thầy là thể hiện lòng mến Thầy nên tuân giữ.

Một điều sẽ xẩy đến cho những ai tuân giữ lời Chúa Giêsu là sẽ được Chúa Cha và chính Người yêu mến, đồng thời chọn làm nơi ở như lời Chúa nói : “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”, nghĩa là người ấy là đền thờ Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa sẽ ở với người ấy. Thánh Tông Đồ Phaolô nói rõ: “Được Chúa Giêsu ngự trong lòng anh em nhờ bởi lòng tin” (Eph 3,17). Do vậy không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bằng lòng đến ở nhà những người tin, yêu mến và tuân giữ lời Chúa. Đó là lý do tại sao, sau khi hoàn tất các công việc Chúa phán : “Đây là nơi Ta nghỉ ngơi đời đời mãi mãi, Ta sẽ ngự tại đó vì Ta muốn!” (Tv 131,14) …

Tiếp theo, Người mạc khải cho các ông về Chúa Thánh Thần : “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26). Đồng thời hứa ban bình an cho các ông. “Bình an” là quà tặng cao quý của Thầy để lại cho các học trò trước lúc ra đi. Đó cũng là “Bình an” sau khi sống lại Chúa Giêsu sẽ tặng cho các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ hãi. “Bình an” là điều các ông đang cần đến hơn bao giờ hết. Bình an do Chúa tặng ban khác với bình an do thế gian ban tặng. “Bình an” của Chúa Giêsu ban không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, đây là thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng các môn đệ về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ. Chúa Giêsu chính là nội dung của bình an; hiểu cách khác: Người chính là nguồn bình an, Người ban cho các ông chính bình an của Người, bình an nội tâm, bình an tuyệt đối, bình an vượt xa lối hiểu của con người.

Chúa Giêsu trấn an các ông : “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14,26). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi của Thầy Chí Thánh, các môn đệ cảm thấy cô đơn, lo sợ và bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, sợ phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông : “Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con” (Ga 14,2).

Chúng ta lắng nghe những lời của Chúa Giêsu: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 26). Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như sao, nếu không có Chúa, nếu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, củng cố bởi Ðức Cậy, hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô? 

Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay con người thay lòng đổi dạ. Hãy phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, như trẻ thơ trong vòng tay của mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn.

Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của bình an, thanh thản và niềm vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta? Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khó nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền.

Lạy Chúa Giê su, Chúa đã nói với các tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, thầy ban bình an của thầy cho các con…”. Xin đoái thương ban cho chúng con ơn hiệp nhất và bình an theo ý Chúa muốn, để ngay ở đời này chúng con đã được nếm hưởng hạnh phúc bất diệt Chúa giành cho chúng con nhờ sự chết và phục sinh của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

HÀNH ĐỘNG THEO TÌNH YÊU

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Nhật tuần trước, Phúc âm kể về những lời tâm huyết của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Phúc âm tuần này tiếp nối những lời tâm huyết ấy: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các môn đệ và ban bình an cho các ông: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Sự hiện diện của người vắng mặt. Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những người yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Sau khi Phục sinh khải hoàn, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại. Chúa hiện diện trong những ai yêu mến Ngài: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy”. Chúa hiện diện trong những ai thực hành và giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Ngài hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Ngài: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ…. Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến… Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.

  1. “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”

Người Kitô hữu là người có Đức Kitô nhờ đi theo và yêu mến Ngài. Ai không yêu mến, không đi theo thì không có Ngài, nên không phải là Kitô hữu đích thực. Khi yêu mến Chúa ta sống trong Ngài: “Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”. Người ta chỉ sống trong nhau vì nhau cho nhau khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Kitô và được Đức Kitô sống trong ta khi ta yêu mến Ngài. Yêu mến là giữ lời Ngài “Nếu các con giữ lệnh truyền của Ta thì các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta” (Ga 15,10).

Nhưng làm sao yêu mến Ngài được khi mà ta không hề thấy Ngài cách hữu hình, không nghe Ngài nói trực tiếp, không động chạm đến Ngài? Chúa cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Điều răn của Chúa là gì? Chúa xác định rõ ràng điều răn cốt yếu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12,34). Chúa cũng xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như vậy, câu nói “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”. Ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa. Nói cách khác, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn giải điều này: “Nếu ai nói : Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).

  1. “Anh em có lòng yêu thương nhau”

Những lời tâm huyết của Chúa Giêsu được thánh Gioan ghi chép lại trong hai chương 13 và 14, cuối cùng Chúa đúc kết trong một lời khuyên ân cần : “Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”. Lời trọng tâm của chương 13 và 14 là: “Chúng con hãy yêu thương nhau”. Tình yêu cụ thể đối với đồng loại là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Chúa Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Chúa. Ai không có đặc trưng ấy thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là thứ môn đệ “hữu danh vô thực”, giả hiệu mà thôi.

Thánh Gioan sau khi nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Thầy Chí Thánh đã nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Ngài, là sống sự sống của Ngài.Tình yêu đó là một tình yêu sáng suốt của lý trí, thể hiện nơi những việc làm cụ thể là yêu thương nhau.

Từ nay để gặp gỡ Chúa, để yêu mến Chúa, để sống với Chúa, cần phải có đức tin và tình yêu. Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta như lời Chúa Giêsu nói: “Ngày đó, anh em sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy,Thầy ở trong anh em và anh em ở trong Thầy.Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy.Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến.Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ cho người ấy biết Thầy”.

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện.

Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?

Vị tu sĩ đáp: có chứ.

Người thanh niên hỏi: Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được ?

Vị tu sĩ đáp : Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.

Người thanh niên hỏi : nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp : Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi : Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?

Vị tu sĩ đáp : Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.

Những người yêu mến Chúa là những người biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép: “Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác… Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng xẻ cơm cho họ”. Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Ngài quả là người yêu mến Chúa thật và đã đáng Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời.

Lạy Chúa, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.

Về mục lục

.

TẠI SAO LẠI TỎ MÌNH RA CHO CON?

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Trong bài diễn từ tiễn biệt rất dài (từ cuối chương 13 cho tới hết chương 17 của Phúc âm Gio-an) Đức Giê-su đã mất nhiều công sức để trấn an các môn đệ Người; chắc hẳn lúc đó các ông đang trong rơi vào tình trạng rất bồn chồn lo lắng, tương tự như một nhóm học sinh gần tới ngày ra trường phải ôn thi: các ông mong ghi nhớ hết mọi lời Thầy dạy, nhớ tới từng chi tiết, nhưng lại có nguy cơ quên mất điểu hệ trọng chính yếu nhất; và điều chính yếu đó không phải là những bài học từ chương về các điều Thầy dạy dỗ, nhưng là bộc lộ bản chất đích thực của Thầy Giê-su – Lời tối hậu của Thiên Chúa. Việc bộc lộ này rõ ràng chỉ dành cho các môn đệ là những người thâm tín đã theo Thầy suốt bằng ấy năm: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Nếu nắm bắt được nội dung lời trăn trối này, chúng ta sẽ có cơ may thấu hiểu được cái cỗi lõi của niềm tin Ki-tô hữu chăng?

Nắm giữ Lời là điều tối quan trọng trong việc duy trì tương quan với Thầy Giê-su, kể cả khi Người đã ra đi: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”. Lời đó chắc chắn không chỉ đơn thuần là các bài thuyết giảng mà Người đã từng tuyên giáo trên khắp các nẻo đường xứ Ga-li-lê và Giu-đê trong ròng rã ba năm trời; trong số đó có những bài thật ý nhị và độc đáo, chẳng hạn bài bàn về các mối phúc hay các câu chuyện dụ ngôn…; thế nhưng, cho dầu có tuân giữ được mọi lời Ráp-bi Giê-su giảng dạy đi nữa, thì điều đó cũng đâu có thể làm cho “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Lời đây hẳn là một điều gì rất đặc biệt mà Người đã từng khảng định: “không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Lời mà Người nhân danh Chúa Cha đến trần gian để nói lên cho bằng được, và chỉ có thể nói cho các môn đệ thâm tín nhất là những kẻ đã tin theo Người mà thôi.

Tuy nhiên Lời này sẽ không hề dễ hiểu, ngay cả đối với các môn đệ! Hồi đó, cho tới lúc Thầy Giê-su sắp ra đi, các môn đệ vẫn luôn cảm thấy khó chấp nhận bài học này: mỗi lần Thầy Giê-su đề cập tới sự tự hiến Thập Giá và đau khổ mà Người sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem, không một ai trong số họ không lớn tiếng phản đối, can ngăn. Nhất là khi Người khảng định: ai nhìn thấy Thầy tự hiến là nhìn thấy Chúa Cha, nhìn thấy vinh quang đích thực của Cha… thì không một môn đệ nào có thể hiểu nổi (xem Ga 14:8-11). Đức Giê-su biết rất rõ điều đó; cần phải có một can thiệp đặc biệt, can thiệp của Thần Khí; các môn đệ cần tới một đấng Bảo Trợ, Đấng “sẽ được sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Phải, để hiểu được Lời của Giê-su Thập Giá, hiểu được Tình Yêu tự hiến và cứu đô của Thiên Chúa, dứt khoát cần tới sự can thiệp của Thánh Thần. Người thường thì chỉ có thể hiểu được các lời khuyên dạy, các câu chuyện dụ ngôn, các lời dạy dỗ đầy khôn ngoan từ miệng Ráp-bi Giê-su phán ra, nhưng để hiểu chính con người và hành động của Giê-su Ki-tô là Lời của Thiên Chúa, nhất là khi Lời đó được vang lên, không phải trên bục giảng mà là trên Thập Giá, thì trí khôn con người, cho dầu có xuất chúng tới mấy đi nữa (kể cả bộ óc kỳ tài như Albert Einstein chẳng hạn), cũng không thể nào nắm bắt được.

Ồ, thật vậy sao? Ngay cả một Linh mục lớn tuổi như tôi mà vẫn cứ đinh ninh rằng: để hiểu và giữ lời Chúa thì chỉ cần một chút thông minh, một chút thiện chí; và thông minh – thiện chí cũng là điều tôi vẫn thường lớn tiếng đòi kêu gọi anh chị em tín hữu phải có. Có lẽ chính vì thế mà, cho tới giờ này, tôi có thấu hiểu gì về Lời Tình Yêu – Thập Giá đâu… và các giáo hữu nghe tôi giảng có lẽ cũng chẳng hiểu được gì hơn! Tôi chăm chú suy tư, lo đọn bài giảng hơn là dành thời giờ cầu nguyện, lo trình bày cho khôn khéo hơn là tin tưởng vào tác động của Đấng Bảo Trợ đang ngự trong tâm hồn các tín hữu; trên tòa giảng, tôi lo tạo ấn tượng trên các thính giả của mình, hơn là tìm cách đóng trên họ dấu ấn của Thần Khí.

Và dấu ấn của Lời đó trong Thần Khí thì thật rõ ràng: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi… Thầy để lại bình an cho anh em… Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Lời Thầy Giê-su – Lời Thiên Chúa xót thương không bao giờ là lời đe dọa; Lời đó không tạo áp lực ép buộc, cũng chẳng tạo căng thẳng lo âu! Lời Thầy Giê-su sẽ luôn lan tỏa an bình, thư thái cho cả những tâm hồn đã phạm phải những tội tầy trời nhất; “Ta không kết án, hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa!” Nếu vậy, tôi – một linh mục của Đức Ki-tô có thật sự mang Lời bình an này tới tâm hồn mọi tín hữu, nhất là những tâm hồn chìm đắm trong tội lỗi đang rất cần tới Lời an ủi hơn bất cứ điều gì khác? Và để làm được điều đó: không một ai khác có thể giúp tôi, hơn là Thánh Thần, Đấng ủi an.

Lạy Chúa Giê-su là Lời đích thực của Thiên Chúa Cha giầu lòng xót thương, xin đổ Thần Khí xuống trên con, để con hiểu được Lời Tình Yêu, nhất là mỗi khi con cử hành Thánh Lễ. Nếu chính con chưa một lần hiểu và giữ được Lời Tình Yêu đích thực, nhất là qua biểu lộ của Thánh Thể – Thập Giá, thì làm sao con có thể mở miệng loan truyền Lời Chúa cho anh chị em tín hữu? Có thể con đã giảng lời Giê-su quá nhiều, nhưng đã giảng Lời-Chúa quá ít. Xin chỉnh đốn tình trạng thiếu sót trầm trọng này nơi con! Xin đổ tràn ngập tâm hồn con thứ bình an độc đáo của Chúa, phát xuất từ cảm nghiệm bản thân về lòng Chúa Xót Thương, để con – linh mục của Chúa cũng có thể loan báo và thông truyền Tin Mừng đầy an ủi này cho mọi người, nhất là cho các tội nhân bất hạnh và bị đọa đầy. A-men.

Về mục lục

.

ĐỊNH LUẬT THƯƠNG XÓT

Trầm Thiên Thu

Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Con người có trước luật, nhưng con người sa ngã nên sinh ra luật. Điều đó chứng tỏ con người rất ngang ngược, vì “cái tôi” lúc nào cũng rình nổi dậy. Hai con người đầu tiên đã bất tuân Thiên Luật, con cháu muôn đời cũng chưa chừa, vẫn máu kiêu ngạo. Do đó, lúc này thì “nhân sinh vị luật”, nếu không có luật thì xã hội loạn hết.

Lĩnh vực nào cũng cần có luật, chí ít cũng là nội quy. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Ngay cả cái mà chúng ta gọi là Tự Do cũng vẫn có luật, có giời hạn của tự do. Không thể lợi dụng tự do để tự tung tự tác. Tương tự, yêu thương cũng có luật, thương xót cũng có luật. Yêu cho tha thiết, xót phải thật lòng, thương vô điều kiện. Ông Abe Shinzō, thủ tướng Nhật Bản, ngồi quỳ khi nói chuyện với người cao tuổi, hình ảnh thật đẹp và đáng để chúng ta học tập!

Thánh Phaolô nói: “Anh em đng mc n gì ai, ngoài món n tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn L Lut. Đã yêu thương thì không làm hi người đng loi; yêu thương là chu toàn L Lut” (Rm 13:8 và 10). Nếu không thì sao ? Có “vấn đề” ngay thôi: “Người không được ct bì trong thân xác mà vn chu toàn L Lut, người y s lên án bn, vì bn có L Lut ghi chép hn hoi và bn đã được ct bì, mà vn vi phm L Lut” (Rm 2:27).

Đúng vậy, như Chúa Giêsu đã nói với nhóm Pharisêu: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chng có ti. Nhưng gi đây các ông nói rng: Chúng tôi thy, nên ti các ông vn còn! (Ga 9:41). Người Việt cũng có câu tục ngữ: “Khôn cho người ta rái (s), di cho người ta thương, d d ương ương t cho người ta ghét.

Trình thuật Cv 15:1-2. 22-29 cho biết tầm quan trọng của lề luật. Hồi đó, có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng: “Nếu anh em không chu phép ct bì theo tc l Môsê, anh em không th được cu đ. Rõ ràng giữ luật là việc làm cần thiết. Giữ luật là chứng tỏ vâng lời.

Lúc đó, ông Phaolô và ông Banaba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này. Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antiôkhia với ông Phaolô và ông Banaba. Đó là ông Giuđa, biệt danh là Basaba, và ông Xila, những người có uy tín trong Hội Thánh.

Tranh luận là điều cần, không phải là để biết ai mạnh hay yếu, ai giỏi hay không, nhưng là để làm sáng tỏ vấn đề, sáng tỏ sự thật.

Các ông trao cho phái đoàn bức thư này: “Chúng tôi nghe biết có mt s người trong chúng tôi, không được chúng tôi u nhim, mà li đi nói nhng điu gây xáo trn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đng tâm nht trí quyết đnh chn mt s đi biu, và phái h đến vi anh em, cùng vi nhng người anh em thân mến ca chúng tôi là ông Banaba và ông Phaolô, nhng người đã cng hiến cuc đi vì danh Đc Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vy chúng tôi c ông Giuđa và ông Xila đến trình bày trc tiếp nhng điu viết sau đây: Thánh Thn và chúng tôi đã quyết đnh không đt lên vai anh em mt gánh nng nào khác ngoài nhng điu cn thiết này: là kiêng ăn đ đã cúng cho ngu tượng, kiêng ăn tiết, ăn tht loài vt không ct tiết, và tránh gian dâm. Anh em cn thn tránh nhng điu đó là tt ri. Chúc anh em an mnh”.

Ngoại tại chứng tỏ nội tại. Cách ăn mặc có thể biểu lộ tâm tính. Ánh mắt có thể biểu lộ tâm hồn. Có đầy mới tràn! Vì thế, đừng coi thường bề ngoài, nhưng cũng chớ chú trọng bề ngoài. Thái quá thì bất cập. Đàng nào cũng khả dĩ nguy hại. Trung dung mới là khôn ngoan. Nên tự xét xử hơn là để Chúa phải xét xử (1 Cr 11:31-32).

Luật là nguyên tắc đúng được công nhận, và luật khả dĩ thể hiện Thánh Ý Chúa. Cầu nguyện là một cách giữ luật của con người, đặc biệt là các Kitô hữu: “Nguyn Chúa Tri d thương và chúc phúc, xin to ánh tôn nhan rng ngi trên chúng con, cho c hoàn cu biết đường li Chúa, và muôn nước biết ơn cu đ ca Ngài (Tv 67:2-3). Cầu xin cho mọi người “biết đường lối Chúa” là biết luật Chúa, và nhờ đó mà “biết ơn cứu độ của Ngài”. Kỳ lạ quá!

Luật là biện pháp cai trị, nhưng luật Chúa cai trị bằng luật yêu thương, luật thương xót. Cảm nhận sâu sắc nên tác giả Thánh Vịnh phải lên tiếng: Ước gì muôn nước reo hò mng r, vì Chúa cai tr c hoàn cu theo l công minh, Người cai tr muôn nước theo đường chính trc và lãnh đo muôn dân trên mt đt này. Ước gì chư dân cm t Ngài, ly Thiên Chúa, chư dân phi đng thanh cm t Ngài (Tv 67:5-6).

Ước mơ không chỉ cho riêng mình, mà còn phải ước mơ cho mọi người. Đó mới là đi đúng định luật thương xót của Thiên Chúa: “Nguyn Chúa Tri ban phúc lc cho ta! Ước chi toàn cõi đt kính s Người! (Tv 67:8). Mình vui mà người khác đau khổ thì niềm vui của chúng ta chưa trọn vẹn, và đó là ước mơ vị kỷ. Thiên Chúa cấm sống ích kỷ. Sống thương xót là sống bao dung. Bao dung là “buông dao”, chứ không là “bung dao”. Rất đơn giản!

Tha thứ để được thứ tha, yêu thương để được thương yêu, xót thương để được thưng xót. Hệ lụy tất yếu theo luật Chúa. Có vậy mới khả dĩ gặp Chúa. Tác giả Thánh Vịnh đặt vấn đề: “Ai được lên núi Chúa? Ai được trong đn thánh ca Người? (Tv 24:3). Chắc chắn chỉ có những người “tay sạch, lòng thanh, chẳng mê ngẫu tượng, không thề gian, nói dối” (Tv 24:4). Ai biết thương xót là nhân từ như Chúa (Lc 6:36) và là người diễm phúc (Mt 5:7).

Thị nhân Gioan tường thuật thị kiến: “Đang khi tôi xut thn thì người đem tôi lên mt ngn núi cao hùng vĩ, và ch cho tôi thy Thành Thánh, là Giêrusalem, t tri, t nơi Thiên Chúa mà xung, chói li vinh quang Thiên Chúa. Thành rc sáng ta đá quý tuyt vi, như ngc thch trong sut ta pha lê. Thành có tường rng và cao, vi mười hai ca do mười hai thiên thn canh gi, và trên các ca có ghi tên mười hai chi tc con cái Ít-ra-en. Phía đông có ba ca, phía bc ba ca, phía nam ba ca và phía tây ba ca. Tường thành xây trên mười hai nn móng, trên đó có tên mười hai Tông Đ ca Con Chiên (Kh 21:10-14). Quang cảnh vô cùng kỳ lạ, chúng ta không thể hiểu hết bằng trí óc phàm nhân. Tuy nhiên, chúng ta có thể cảm thấy sung sướng và hy vọng tràn trề về Quốc Gia Siêu Nhiên là Nước Trời, là Thiên Đàng.

Thị nhân Gioan cho tiết lộ thêm: “Trong thành, tôi không thy có Đn Th, vì Đc Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đn Th ca thành. Thành chng cn mt tri, mt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa to rng, và Con Chiên là ngn đèn chiếu soi” (Kh 21:22-23). Chúa Giêsu là Ánh Sáng Siêu Nhiên, là Thái Dương Công Chính, là Vinh Quang Đời Đời, mọi thứ ánh sáng khác đều bắt nguồn từ đó. Tuyệt vời!

Trình thuật Ga 14:23-29 là một phần trong trong “những lời cáo biệt” của Đức Giêsu, như những lời trăn trối của Ngài, trước khi Ngài đón nhận chén cay đắng nhất.

Ngài nói với các môn đệ: “Ai YÊU MN Thy thì s GI li Thy. Cha Thy s yêu mến người y. Cha Thy và Thy s đến và li vi người y. Ai KHÔNG YÊU MN Thy thì KHÔNG GI li Thy. Và li anh em nghe đây không phi là ca Thy, nhưng là ca Chúa Cha, Đng đã sai Thy. Các điu đó, Thy đã nói vi anh em, đang khi còn vi anh em. Nhưng Đng Bo Tr là Thánh Thn Chúa Cha s sai đến nhân danh Thy, Đng đó s dy anh em mi điu và s làm cho anh em nh li mi điu Thy đã nói vi anh em. Với nhân tính, Ngài cũng cảm thấy lưu luyến và buồn khi phải chia tay người thân, và chắc hẳn lúc đó các môn đệ cũng buồn lắm. Nhưng Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần đến để an ủi và nâng đỡ họ trong mọi hoàn cảnh.

Ai theo Chúa Giêsu và giữ lệnh truyền của Ngài thì sẽ an tâm vui sống, vì chính Ngài là nguồn bình an, là nền hòa bình đích thực. Thật vậy, chính Ngài đã xác định: “Thy đ li bình an cho anh em, Thy ban cho anh em bình an ca Thy. Thy ban cho anh em KHÔNG theo kiu thế gian. Anh em ĐNG XAO XUYN cũng ĐNG S HÃI. Anh em đã nghe Thy bo: Thy ra đi và đến cùng anh em. NU anh em yêu mến Thy thì hn anh em ĐÃ VUI MNG vì Thy ĐI V cùng Chúa Cha, bi vì Chúa Cha CAO TRNG hơn Thy. Bây gi, Thy nói vi anh em trước khi s vic xy ra, đ khi xy ra, anh em tin.

Phàm nhân yếu đuối và hèn mọn, nhưng lại thật hạnh phúc khi được Thiên Chúa củng cố niềm tin. Chúa Giêsu minh định: “Chính Thy là con đường, là s tht và là s sng. Không ai đến vi Chúa Cha mà không qua Thy (Ga 14:6). Ngài còn là Ánh Sáng soi cho thế gian biết đường đi nước bước: “Tôi là ánh sáng đến thế gian (Ga 8:12; Ga 12:46). Ánh sáng đối nghịch với bóng tối. Ánh sáng luôn cần thiết để chúng ta khả dĩ nhận biết mọi thứ.

Nhưng làm sao phân biệt? Chuyện kể rằng… Người thầy hỏi các học trò: “Làm sao biết lúc nào là thi đim tách bit ngày và đêm?. Một trò trả lời: “Thưa thy, nếu nhìn t xa mà chúng ta có th phân bit được con trâu và con bò”. Thầy lắc đầu. Một trò khác cho biết: “Thưa thy, nếu nhìn t xa mà chúng ta có th phân bit được cây xoài và cây táo. Thầy vẫn lắc đầu. Lại một trò khác trả lời: “Thưa thy, nếu nhìn t xa mà chúng ta có th phân bit được con gà và con v. Cứ thế, mỗi trò có một nhận xét khác nhau, nhưng thầy vẫn bảo là không đúng.

Cuối cùng, thầy nói: “Đó là lúc người ta có th nhn ra nhau bng tình đng loi, lòng yêu thương, lòng thương xót. Có ánh sáng tình yêu thì người ta có th nhn biết mi th. Cách phân biệt thật tuyệt vời!

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết sng trong Ánh Sáng Tình Yêu ca Ngài bng cách thc thi lòng thương xót đi vi tha nhân, nht là đi vi nhng người hèn mn. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loi. Amen.

Về mục lục

.

BÌNH AN THIÊN QUỐC

AM. Trần Bình An

Cô Nguyễn Thanh Thúy sinh năm 1957, đến từ Lâm Đồng, dự thi Tìm kiếm tài năng Việt Nam bằng ca khúc Riêng một góc trời của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên. Hình ảnh cô với trang phục đơn sơ, ngồi đánh đàn guitar trên sân khấu lộng lẫy củaVietnam’s Got Talent 2016, khiến giám khảo Trấn Thành bấm nút chọn cô, vì muốn tìm hiểu về người đàn bà hát có gương mặt khắc khổ này.

Khi Trấn Thành hỏi: “Cô đang làm công việc gì?” Cô Thúy đáp:“Dạ! Thí sinh vừa làm vườn, vừa là thầy thuốc chuyên ấn huyệt, bấm huyệt giúp những trẻ bại liệt đi đứng được, từ thiện hoàn toàn. Dù hoàn cảnh của thí sinh còn gặp nhiều khó khăn, ở trên đồi, không có điện, không có nước xài, nhưng vẫn quyết cứu trẻ khuyết tật. Ở trên đồi, hai chị em gái còn độc thân. Thí sinh thì 60 tuổi, em gái 50 tuổi, ở chung trên một cái đồi hoang vắng. Không có điện để mình biết thông tin này nọ kia đâu, nhưng mà có một vị ở Sài Gòn, vị đó giờ là kỹ sư – thân nhân của trẻ khuyết tật mà trước đây thí sinh từng ấn huyệt. Thân nhân của trẻ gọi điện thoại lên hỏi: “Cô Thúy ơi! Cô Thúy có muốn dự thi hay không?” Thế là thí sinh nói: “Cô muốn lắm, nhưng mà cô chỉ có cây đàn ghi-ta mới được người ta tặng thôi! Khi biết tin được mời lên thi, 2g, 3g sáng rọi đèn pin, soi từng bước từng bước đi xuống đồi, để đến quốc lộ 20 đón xe khách đi lên trên đây. Mà phải đi chậm chậm, mang ở sau một một cái ba lô quần áo rồi cái cây đàn ghi-ta. Vừa đi vừa niệm Phật là đừng trơn té, vì lớn tuổi rồi, trơn té là gãy xương thôi, mà gãy xương thì không dự thi được.” Bằng Kiều hỏi: “Cô cho con hỏi lý do nào mà cô lại đi thi được không ạ?”

Cô Nguyễn Thanh Thúy đáp: “Thi để hi vọng được lãnh một phần thưởng nho nhỏ nào đó thôi. Chứ mình không hi vọng mình sẽ đạt phần thưởng nhiều tiền, lớn tiền đâu. Có thể mình có chút tiền để xây một cái bể chứa nước mưa, vì trên đồi đào hai cái giếng, mà không có nước. Rồi mua một cái bình ắc-quy nho nhỏ, rồi mình thắp đèn ở trong nhà, thắp đèn trên bàn Phật”.

Giám khảo Trấn Thành hỏi: “Ở trên đó (Lâm Đồng) có ai giúp đỡ cô không?” Cô Nguyễn Thanh Thúy kể:“Thỉnh thoảng những người giàu ở Sài Gòn hay gởi quà từ thiện. Quà trong đó có gạo, bột ngọt hay là dầu ăn, hay đường vậy đó. Chùa thấy thương, thì chùa gọi điện qua để nhận. Nhận thì thí sinh là người vác gạo lên vai nè, rồi xách đi 4-5 cây số đi lên dốc trên đồi. Tại vì em gái thì 50 tuổi vẫn còn độc thân, hai chị em độc thân từ nhỏ đến lớn, nhưng mà em gái thì không dám ra ngoài, vì có một lần bị côn đồ ở trên đồi sàm sỡ. Đi xuống đồi thì phải đi ngang một đoạn đường vắng, nên em gái không dám đi. Thành ra thí sinh phải là người đi!”

Trấn Thành thốt lên: “Cuộc sống của cô cơ cực quá!”Cô Nguyễn Thanh Thúy: “Không sao đâu, không sao đâu! Cứ bình tĩnh sống!”

Cả Trấn Thành và Bằng Kiều đều hết sức tâm đắc và ấn tượng với cách “bình tĩnh sống” của cô Thúy…Cả ba giám khảo đều quyết định cho cô Nguyễn Thanh Thúy vào vòng sau. Trấn Thành gửi gắm: “Chúc cô luôn yêu đời như vậy và hãy luôn luôn bình tĩnh sống.”(Thu Nguyệt, Không sao đâu bình tĩnh sống, Tuoitre.com)

Nghe những lời bộc bạch chân chất, đơn sơ của chị Nguyễn Thanh Thuý, ba vị giám khảo đều chạnh lòng trước những ước vọng, mong muốn cụ thể, nhỏ nhoi, thường tình, chẳng hề dám đũa mộc chòi mâm son, cao sang, dư giả. Chỉ mong sắm được bể chứa nước sinh hoạt và một cái bình ắc quy thắp sáng. Thế thôi.

“Không sao đâu, không sao đâu! Cứ bình tĩnh sống!”Câu nói của chị biểu lộ một tâm hồn an nhiên tự tại, bình an và hạnh phúc. Chẳng đố kỵ, cũng chẳng ganh đua, bon chen với đời. Lấy việc từ thiện, bấm huyệt, chữa trị miễn phí trẻ em khuyết tật, làm nguồn vui trong cuộc đời ẩn dật, khiêm tốn. Mặc dầu chị chưa là Kitô hữu, nhưng đã sống trọn vẹn tinh thần Kitô chân chính. Xả kỷ vị tha, cứ mãi cho đi, để chỉ nhận lại tình thương của các cháu bé bại liệt.

Bình an nhờ vâng Lời Chúa

“Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy,” Thương ai thì nghe theo và thực hiện ước muốn người yêu. Dĩ nhiên, sẽ làm ngược lại nếu không thương yêu. Vì vậy, Đức Giêsu đã đúc kết một điều kiện duy nhất để theo Người, để yêu Người. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.” (Mc 8, 34) Vì vâng lời Người, yêu mến Người, ông Simon Phêrô và các bạn chài đã dám từ bỏ bản thân, từ bỏ mọi sự, công danh sự nghiệp, mà theo Người. Hay các ông Giakêu, ông Mátthêu cũng đã mau mắn bỏ cả tiền bạc, thu nhập, chức tước, danh lợi, quyền lực, mà hăng hái đi theo Người.

Vật chất của cải, ham muốn, hưởng thụ, cám dỗ thế gian, phù phiếm xa hoa, ảo ảnh, đều là những chướng ngại vật, những rào cản đến với Chúa. Hơn nữa, tìm kiếm và chiếm đoạt những thứ đó còn làm hao tâm tổn sức, tạo nên những cơn khủng hoảng nghiêm trọng, những nỗi stress dày vò liên tục suốt cả cuộc đời.

Đắm chìm trong vũng lầy phàm trần nhơ nhuốc đó, lạc lối trong mê lộ huyền ảo, vô tận đó, làm sao thoát khỏi kiếp nô lệ cho phù vân? Làm sao thanh thoả được tâm hồn? Làm sao được bình an? Hơn nữa, còn thì giờ nào, cơ hội nào nghĩ đến Chúa và tha nhân?

 “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai. Người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc.” (Lc 6, 47-48) Thực hành Lời Chúa là nhận được bình an, yên vui, vì Lời Chúa che chở, bảo vệ, chống đỡ khỏi lũ lụt, bão táp, khỏi những thách đố nguy hiểm.

“Chúng ta có nguy cơ làm nô lệ cho đầu óc tiền tài và kinh tế, là thứ làm giáng cấp từ “cái-là” (being) sang “cái-có” (having).” Đó lời ĐGH Biển Đức XVI cánh báo trong diễn văn Benedict XVI trước các vị lãnh đạo nhà nước Liban, các chức sắc tôn giáo, các đại biểu thuộc các tổ chức thế giới, toàn thể nhân dân Liban cũng như cho những ai quan tâm đến việc kiến tạo hòa bình, ngày 14/9/2012.

Bình an nhờ Chúa ngự đến

Bình an là nhờ hiệp thông chặt chẽ với Thiên Chúa. Đức Giêsu hằng kết hợp với Đức Chúa Cha qua việc cầu nguyện liên tục. Vì thế, Người luôn giữ được bình tĩnh khi ứng xử với những kẻ dữ, toán tính ám hại. Bình an của Đức Giêsu kết tinh từ sự vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, vì Người được dưỡng nuôi bằng chính Thánh Ý: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4, 34) Nay Người thương ban bình an của Người cho các môn đệ, những người tình nguyện theo Chúa, cùng vâng theo Thánh Ý.

“Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy.” Nhờ hồng ân Đức Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu trở nên đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Đền thờ hiệp nhất trong tình yêu sẽ ban bình an cho người tôn thờ, tin yêu, trông cậy, như Đức Giêsu đã thương yêu cầu chúc: Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.

Bình an còn nhờ tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Sống kết hiệp thân mật với Đức Giêsu, nghiêm nhặt tuân giữ cùng trung thành thực hành Lời Chúa, tín hữu Kitô mới thật sự được bình an, hoan lạc và sinh hoa thơm trái ngọt nhân đức.“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.” (Ga 15, 5)

Bình an nhờ Thánh Thần khai sáng

Bình an còn tiếp tục ở lại với Kitô hữu, khi được Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, khai tâm trước những vấn nạn, bế tắc, nan giải trong cơn lốc cuộc đời biến động.“Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con.”

Đức Chúa Thánh Thần luôn sẵn sàng giải mã Lời Chúa theo đúng Thánh Ý. Ngài sẽ khai thông, hoá giải tất cả bế tắc, dẫu khó khăn, bất khả thi với nhiều người, với cả cộng đoàn. Điển hình như bất đồng về việc tuân giữ Lề Luật Do Thái với người tân tòng.  “Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó là anh em làm phải. Chúc anh em vạn an.” (Cv 15, 28-29) Nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Linh chiếu dọi, các cộng đoàn Antiôkia, Syrie và Cilicia đều đồng tâm chấp thuận và bình an bội phần.

“Thưa: “Vâng” là dễ, nhưng hãy xem Chúa Giêsu theo tiếng gọi cho đến chết trên thánh giá. Hãy bỏ mình, vác thánh giá mỗi ngày và đóng đinh mình trên thánh giá ấy.” (Đường Hy Vọng, số 73)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, khấn xin thương xót luôn mở tai, mở lòng chúng con lắng nghe Lời Chúa và tích cực đem áp dụng vào đời. Xin Người biến đổi, cảm hoá, thánh hoá chúng con, xứng đáng trở nên đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi ngự đến. Xin ban Đức Chúa Thánh Thần đến khai tâm chúng con, thấm nhuần sâu sắc Lời Chúa, cùng hoàn toàn xin vâng Thánh Ý Chúa, để chúng con xứng đáng hưởng sự bình an của Chúa.

Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu, dìu dắt, giúp đỡ chúng con biết từ bỏ bản thân, luôn vác thập giá theo chân Chúa, mãi theo Chúa cho đến trọn đời. Amen.

Về mục lục

.

THỪA KẾ DI SẢN LÒNG THƯƠNG XÓT

JM. Lam Thy ĐVD.

Mặc dù Đức Giê-su đã tiên báo cuộc Thương Khó tới ba lần (Lần thứ nhất: Mt 16, 21-23; Mc 8, 31 -33; Lc 9, 22; Lần thứ hai: Mt 17, 22-23; Mc 9, 30 -32; Lc 9, 43-45; Lần thứ ba: Mt 20, 17-19; Mc 10, 32 -34; Lc 18, 31 -34), nhưng các môn đệ vẫn hoang mang lo lắng, vì thế trước khi bước vào cuộc khổ nạn là cái chết trên Thập tự, Người phải trấn an: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 1-4).

Tuy vậy, nhưng các môn đệ vẫn băn khoăn thắc mắc. Ông Tô-ma thì hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”; ông Phi-líp-phê thì nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”; còn ông Giu-đa (không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt) thì lại hỏi: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (Ga 14, 6.8.22). Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI.PS-C – Ga 14, 23-29) là trich đoạn trình thuật Lời Đức Giê-su trả lời ông Giu-đa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14, 22-26).

Đến cuối phần những lời dặn bảo, khi thấy quân dữ đã tới gần (“Thủ lãnh thế gian đang đến” – Ga 14, 30), Đức Ki-tô nhấn mạnh: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.” (Ga 14, 27-29). Toàn bộ những lời dặn bảo này phải được coi là một di chúc của Lòng Thương Xót để lai di sản thừa kế cho các môn đệ và nói chung là các tín hữu. Xin cùng tìm hiểu:

Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại. Di sản thừa kế không chỉ là nhà cửa, tiền bạc hay những đồ quý giá, nhưng còn là những giá trị tinh thần và đạo đức nữa. Tất cả những thứ đó thường được ghi lại trong di chúc (lời dặn bảo, ủy thác) của người đã chết. Trường hợp người để lại di chúc không biết chữ thì nhờ người thân viết giúp, cũng có thể tập họp con cái quây quần bên giường bệnh nghe lời dặn dò sau cùng. Với trường hợp Đức Giê-su thì cũng vậy, trước khi bước vào cuộc Thương khó và cái chết thập giá, Người đã tập họp các môn đệ trong “bữa ăn cuối cùng: bữa Tiệc Ly” (Mt 26, 17-19; Mc 14, 12 -16; Lc 22, 7-13). Trong bữa ăn đó, Người đã trao lại cho các môn đệ một di sản thừa kế “không như thế gian ban tặng”, đó là ân huệ tình yêu và bình an. Đây chính là ân sủng phát sinh từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được Ngôi Lời Nhập Thể – hiện thân của Lòng Thương Xót – lập đi lập lại trong “những lời dăn bảo sau cùng” của Người vào bữa Tiệc Ly.

Xét theo kiểu trần gian “sinh ký tử quy” (sống gửi thác về) thì không những đây là những di ngôn (lời nói để lại) của người sắp chết, mà còn được coi là di ngôn của người sắp trở về cõi trường sinh. Đức Giê-su sắp tử nạn trên thập giá, để về cùng Chúa Cha trên Nước Trời vinh hiển, thì những di ngôn của Người chính là di chúc để lại những di sản thừa kế cho các thế hệ tín hữu kế nghiệp là Giáo Hội. Nói cụ thể thì đây chính là di chúc của Lòng Thương Xót. Trong di chúc này, Đức Ki-tô đã để lại 2 tài sản vô cùng cao quý: Đó là Tình Yêu và sự Bình An. Hai tài sản đó xuất phát từ Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng thể hiện cụ thể nhất nơi Ngôi Ba Thánh Thần và vì thế, Đức Giê-su mới truyền dạy: ”Thầy sẽ xin Chúa Cha ban cho anh em Đấng Bảo Trợ đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (Ga 14, 16-17).

Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 735-736) đã lý giải ân huệ cao quý này: “Thánh Thần ban cho chúng ta “bảo chứng” hoặc “ân huệ mở đầu” của Gia Sản (x. Rm 8, 23; 2Cr 1, 21) là chính sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh. Sự sống này là yêu thương “như Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta” (x. 1Ga 4, 11-12). Tình yêu này (Đức Ái của 1Cr 13) là nguyên lý đời sống mới trong Đức Ki-tô. Chúng ta có thể sống được như thế, vì chúng ta đã “nhận được sức mạnh của Thánh Thần” (Cv 1, 8). Nhờ quyền năng của Thánh Thần, con cái Thiên Chúa có thể làm được những viêc tốt lành. Đấng đã tháp chúng ta vào Cây Nho thật, sẽ giúp chúng ta trổ sinh “hoa quả của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, quảng đại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5, 22-23). “Thánh Thần là sự sống của chúng ta”; chúng ta càng từ bỏ ý riêng (x. Mt 16, 24-26), “Thánh Thần càng hướng dẫn đời ta” (Gl 5, 25).” Người tín hữu cần ý thức 2 chiều kích bất khả phân ly của Di sản Thừa kế, đó là Tình Yêu và sự Bình An:

1- Di sản Tình Yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8.16) và Tình Yêu là hồng ân tuyệt diệu chứa đựng tất cả các ơn khác. Tình yêu này “Thiên Chúa đã đổ vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5, 5).”  Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu ngay từ khởi nguyên: Dựng nên con người có nam có nữ và ban cho họ toàn bộ công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật. Cũng vì tình yêu, khi con người bất trung, sa vòng tội lỗi, Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của họ, bằng việc sai Đức Giê-su đến dạy cho loài người nhận biết tinh yêu của Thiên Chúa và sẵn sàng hiến thân chịu chết trên thập giá để cứu độ những ai tin và đi theo con đường yêu thương của Người, như Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). (GLHTCG, số 733).

Không những vậy, mà trong quá trình thực hiện Lòng Thương Xót, Đức Ki-tô còn dạy các môn đệ phải yêu thương nhau, vì đó là dấu hiệu để người ngoài nhận ra họ thực sự là môn đệ của Người (Ga 13, 35); đồng thời hãy thi hành lời Người truyền là: luôn luôn tha thứ cho những người đã xúc phạm đến mình (“Thầy không bảo là tha đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” – Mt 18, 22); thậm chí còn yêu thương cả kẻ thù (“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” – Mt 5, 44; Lời cầu xin tha cho kẻ đã đóng đinh giết Người trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” – Lc 23, 34). Cuộc đời của Đức Giê-su đầy những hành động yêu thương: chữa lành các bệnh tật như bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt, đui mù, câm điếc (Mt 4, 23-25); nhân bánh ra nhiều nuôi những kẻ đói được ăn no (Lc 9, 12-17); thiết lập bí tích Thánh Thể để ban sự sống đời đời (Ga 6, 48-51) và dù có trở về cùng Chúa Cha nhưng vẫn “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).

Tất cả đều nêu bật ý nghĩa: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta… Thiên Chúa là Tình Yêu: Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4, 10.16). Rõ ràng Tình yêu là “nhận về” và “cho đi”, chúng ta đã nhận về từ Thiên Chúa biết bao ân sủng, nhưng Người không đòi chúng ta phải đáp trả, mà Người muốn: “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8), cũng bởi vì “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35). Thánh Phao-lô đã nhận chân được vấn đề khi ngài viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết… Ngài đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình.” (2Cr 5, 14-15).

2- Di sản Bình An:  Giáo hội quy định mỗi Thánh lễ là một cuộc tái hiện Hy Tế Thập Giá (“Hy tế của Đức Ki-tô chỉ diễn ra một lần là đủ. Thế nhưng trong Thánh Lễ, hy tế ấy được hiện tại hóa và thông ban hiệu quả cho chúng ta: “Mỗi lần hy tế thập giá, qua đó Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm Chiên lễ Vượt Qua của chúng ta, được cử hành trên bàn thờ, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (LG 3). Thánh lễ là một hy tế vì hiện tại hóa hy tế thập giá, vì tưởng niệm và ban phát các hiệu qủa của hy tế này.” – Giáo lý HTCG, số 1364-1366).

Trong mọi Thánh lễ, sau khi đọc lời kinh cầu nguyện bình an cho mọi người và cho Giáo Hội, vị chủ tế chúc: “Bình An của Chúa hằng ở cùng anh chị em!” Tiếp liền lời chúc đó là lời mời gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau” để bày tỏ lòng yêu mến và hòa hợp với nhau, trước khi rước Mình và Máu Thánh Chúa. Suy niệm Lời Chúa sẽ thấy mỗi khi Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ, Người đều chúc: “Bình An cho anh em!”, và trong bài Tin Mừng hôm nay, Người xác định sự Bình An do Người ban tặng không phải là sự Bình An tạm thời của thế gian, nhưng là sự Bình An thật, sự Bình An bền vững trong tâm hồn có Chúa ngự. Sự Bình An thật trong Chúa giúp người tín hữu luôn biết sống tin tưởng và phó thác mọi sự trong tay Chúa, dù khi được mọi sự như ý hay khi gặp những khó khăn, nghịch cảnh, hay những bách hại vì Đức Tin. Đó cũng là sự Bình An thật  trong tâm hồn có thể cảm nghiệm được khi sống trong sạch, sống theo các giới răn của Chúa và hòa hợp yêu thương mọi người trong tình yêu Chúa.

Tóm lại, tuy tách ra 2 di sản cho dễ phân tích học tập, nhưng hồng ân Tình Yêu và Bình An vẫn chi là một di sản tột cùng cao quý mà các môn đệ được thừa kế từ Lòng Thương Xót. Cứ nhìn vào thế giới hiện tại sẽ thấy Tình Yêu và Bình An luôn gắn kết với nhau, tuy hai mà một. Vâng, vì sao mà thế giới luôn luôn có chiến tranh (từ chiến tranh cục bộ trong một quốc gia đến chiến tranh giữa các nước với nhau), rồi thì khủng bố, áp bức, bóc lột… xảy ra nhan nhản khắp nơi? Đó chẳng phải vì thiếu tình yêu, thiếu vắng lòng thương xót đó sao? Không có Tình Yêu thì không thể có Bình An, mà không có Bình An thì đào đâu ra hạnh phúc đích thực?

Hóa cho nên có thể kết luận: Di sản Lòng Thương Xót đươc trao ban trong di chúc của Đức Giê-su không gì khác hơn là chính “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy” (Ga 14, 26). Và đó cũng là lý do “Những lời cáo biệt – Những lời dặn bảo sau cùng” của Đức Ki-tô – hiện thân của Lòng Thương Xót – trong bữa Tiệc Ly, được Phụng vụ Giáo hội xếp vào Chúa nhật VI/PS trước lễ Thăng Thiên (CN VII/PS). Người Ki-tô hữu chì có thể đón nhận di sản Tình Yêu và Bình An – di sản thừa kế Lòng Thương Xót – khi thực sự được Thánh Linh bảo trợ. Vâng, “Thánh Thần ban cho chúng ta “bảo chứng” hoặc “ân huệ mở đầu” của Gia Sản (x. Rm 8, 23; 2Cr 1, 21) là chính sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh.” (Giáo lý HTCG, số 735).

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, nhờ mầu nhiệm Ðức Ki-tô sống lại, Chúa đã thương đổi mới chúng con cho đáng hưởng sự sống đời đời. Xin làm cho mầu nhiệm ấy sinh hoa kết quả tốt đẹp trong tâm hồn chúng con, và làm cho thần lương chúng con vừa lãnh nhận trở nên nguồn sinh lực dồi dào. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.  Amen.” (Lời nguyện hiệp lễ Chúa nhật VI Phục Sinh).

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG SOI ĐƯỜNG

Lm. Phạm Thanh Liêm

Chúng ta đang ở Chúa Nhật thứ sáu phục sinh, thứ năm tới là lễ Chúa Thăng Thiên nếu nơi đó không dời vào Chúa Nhật tới, và Chúa Nhật tới nữa là lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

 

Ai yêu Ta thì giữ Lời Ta

Theo Tin Mừng, Đức Yêsu nói với các tông đồ rằng: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người đó, và chúng ta sẽ đến và ở với người đó”.

Yêu mến ai, thì vâng lời người đó, làm theo điều người đó muốn. Không vâng lời ai, là không yêu người đó, ít nhất là không yêu đến độ bỏ ý riêng mà vâng lời. Thánh Y-nhã nói: “tình yêu hệ tại ở việc làm hơn tại lời nói”. Chúa Yêsu đã nói: “không phải những người nói ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ là được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt.7, 21).

Ai vâng nghe Lời Chúa, được Thiên Chúa ở cùng, và người đó trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác nữa.

 

Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự

Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần được Thiên Chúa Cha gởi tới nhân danh Chúa Yêsu, sẽ dạy các tông đồ mọi sự, và sẽ nhắc nhớ các tông đồ những gì Đức Yêsu đã nói với các ngài.

Chính trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần, Đức Yêsu ban bình an của Ngài cho chúng ta. Bình an Chúa Yêsu ban cho chúng ta, không ai có thể cướp được, ngay cả những người quyền thế có thể giết người, cũng không thể cướp được bình an ấy. Bình an Chúa ban, là hậu quả của xác tín được Chúa thương yêu vô cùng. Người có ơn bình an Chúa ban, cảm nhận Chúa là tất cả đối với mình. Ngài là Đấng không gì có thể đánh đổi được, Ngài là “mối lợi tuyệt vời” mà người được ơn nhận ra.

Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta. Ngài dạy chúng ta mọi sự, Ngài giúp chúng ta làm những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa. Thánh Thần giúp chúng ta tự do với tất cả. Trong bài đọc thứ nhất, một số Kitô hữu gốc Do Thái đòi các Kitô hữu gốc dân ngoại phải cắt bì, vì họ cho rằng có như vậy, các tín hữu dân ngoại mới được cứu độ. Để bảo vệ và làm sáng tỏ Tin Mừng, Phao-lô vàBarnabas đã quyết làm sáng tỏ vấn đề: Kitô hữu được cứu độ không do cắt bì nhưng do tin vào Đức Yêsu. Và “quyết định dưới tác động Thánh Thần” của các tông đồ đồ, là các Kitô hữu không phải cắt bì. Thánh Thần giúp chúng ta sống trong bình an và tình yêu, chứ không sống trong sợ hãi hay nô lệ. Thánh Thần Thiên Chúa, làm chúng ta tự do đích thực.

 

Ánh sáng soi thành là Con Chiên

Để có thể nhìn thấy vật gì đó, vật đó cần ánh sáng chiếu rọi và hình ảnh được phản chiếu vào mắt, nhờ vậy người ta có thể nhìn được. Con Chiên là đèn soi thành, Đức Yêsu là ánh sáng, là tiêu chuẩn giúp người ta nhận định được đâu là điều hay để làm và điều xấu để tránh.

Thế gian có tiêu chuẩn riêng của nó, và những người theo thế gian sống theo tiêu chuẩn thế gian: tiền bạc, danh vọng, địa vị. Hậu quả của việc đi tìm tiền bạc, danh vọng, không là hạnh phúc đích thực. Tiền bạc, danh vọng, khoái lạc, có “xiềng xích” riêng của nó, nó có thể trói buộc con người và biến con người thành nô lệ.

Ước gì mỗi người nhận ra Đức Yêsu là “đường, sự thật và sự sống”, và để Chúa trở thành tiêu chuẩn và ánh sáng cho từng người, để chúng ta được tự do đích thực.

 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Theo Chúa, bạn được giải phóng khỏi nô lệ điều gì?
  2. Bạn có kinh nghiệm Thiên Chúa gần gũi với bạn không? Xin bạn chia sẻ.
  3. Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta! Điều nào Chúa dạy khó nhất đối với bạn? Tại sao?

Về mục lục

.

AI YÊU MẾN THẦY

Lm. DĐH

Câu thành ngữ quen thuộc ai cũng biết : trời sinh voi, trời sinh cỏ. Đối lại, cha ông chúng ta cũng có câu : siêng làm thì có, biếng nhác thì không. Thực ra, sống trên đời ai mà không mơ ước được hạnh phúc, thành công, vì thế, chân lý mà mọi người cần lưu ý hơn cả vẫn là : biết học, biết hành. Chẳng ai chăm chỉ làm việc mà phải chết đói, cũng không thể lười biếng, sáng say chiều xỉn mà được gọi là người giầu sang phú quý. Sống thế nào là hợp tình hợp lý, hẳn nhiều người đã tìm ra qui luật là biết “mến yêu”.

Sống trên đời, bậc làm cha mẹ, thầy cô ở trường lớp, luôn có ý dạy dỗ con, giáo dục trò, hiểu, và sống có tình, có nghĩa, trong các tương quan gia đình xã hội. Cũng nhằm hướng con cháu đừng đặt nặng về giá trị vật chất, tiền nhân chúng ta có chia sẻ một kinh nghiệm : người ta bà con vì tổ vì tiên, không ai bà con vì tiền vì gạo. Hôm nay đây, bắt đầu với cụm từ “ai yêu mến Thầy”, Đức Giêsu tổng hợp tương quan tình yêu giữa Cha – Con – và Thánh Thần, yêu mến là trung tâm nối kết những ai thuộc về Đức Kitô.

Sống sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười ở hẹp người chê. Sống như thế nào gọi là có tình có nghĩa, sống như thế nào để minh chứng : tôi đang yêu mến Thầy Giêsu ? Con không chê cha mẹ khó, chó không chê gia chủ nghèo, liệu câu thành ngữ đó có thôi thúc chúng ta biết đến truyền thống yêu thương, trung thành với gia đình không ? Với khả năng tự nhiên, người ta sẽ cho cuộc sống ở đời thật mông lung và phức tạp, đâu phải dễ gì mà chúng ta biết sống chữ tình chữ hiếu trước phận làm con. Cùng một số kiến thức, dễ gì chúng ta biết cư xử tốt đối với mọi người. Trong tâm tình thầy – trò, Đức Giêsu khai mở cho các môn đệ về vị trí hoạt động của Thánh Thần sẽ đến và ở với những ai yêu mến Thầy.

Người đời vẫn quan niệm rằng : ngọc không mài không sáng, người không học không thông. Ở trong Đức Giêsu mà không biết sống mến yêu, không thể gọi là học trò, không đáng để gọi là môn đệ, và cũng không thể nhận biết Đấng phù trợ là Thánh Thần sẽ đến. Đức Giêsu thấy và biết các môn đệ không thể sống mà thiếu tình yêu, Ngài ban tình yêu cho các môn đệ, khác với tình yêu của thế gian. Nếu không ở trong Đức Giêsu, người ta sẽ cho rằng yêu là khổ, không yêu là lỗ; thực ra tình yêu thật không có lỗ hay khổ, tình yêu của thế gian mới có lời có lỗ.

“Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy, và Cha thầy sẽ yêu mến người ấy”. Tình yêu Đức Giêsu nói đến quả là chặt chẽ, đến độ Thánh Thần mà Chúa Cha sai đến sẽ nhắc nhớ và dạy dỗ anh em mọi điều. Tính vững chắc ấy còn có sự hiện diện của tình yêu Ba Ngôi, Các Ngài sẽ ở mãi trong những ai yêu mến và tuân giữ Lời của Đức Kitô. Hôm nay đây, những người yêu mến Thầy Giêsu, tuân giữ Lời Thầy Giêsu không những ở trong nhà thờ, vì mọi hoạt động yêu thương đều có Thánh Thần hướng dẫn phục vụ.

Trong khung cảnh yêu mến hiệp thông, Chúa Giêsu còn hứa để lại bình ban, ban tặng bình an cho các môn đệ, cho những ai sống giới luật yêu thương. Bình an của Chúa khác với bình an thế gian, nghĩa là bình an được xây dựng bằng tình bác ái, bằng việc tuân giữ Lời Thầy và có tình yêu của Ba Ngôi. Nếu dựa trên quy luật tiền trao cháo múc, người ta chỉ mua được bình an của thế gian, thứ bình an được trao đổi bằng tiền, bỏ tiền ra thuê vệ sĩ hầu tìm lấy bình an tạm thời. Chúa Giêsu nhắc nhớ “tuân giữ Lời Thầy” mới đúng là đích điểm của người môn đệ, bình an thật là nghe được Thần Chân Lý chỉ dạy, hiểu và sống tinh thần của Thầy Giêsu.

Ngày hôm nay, nhiều người đã biết đặt ra những câu châm ngôn sống rất hay : giầu có không phải là những gì bạn có trong tài khỏan, ngân hàng, mà là những gì bạn có trong tim. Rất có thể mỗi chúng ta đã từng khẳng định tôi yêu mến Thầy Giêsu, tôi hằng tuân giữ Lời Thầy, nhưng tâm hồn tôi chưa bình an, hoặc là tôi mới yêu bằng môi miệng, hoặc tôi mới có thứ bình an tạm thời của thế gian. Học đi đôi với hành, là áp dụng đức ái Kitô vào từng hoàn cảnh sống của mỗi người, học và hành theo mẫu gương Đấng Kitô không phải là mưu cầu danh lợi.

Chúa Giêsu mãi là Thầy, là chuẩn mực yêu thương, mỗi người theo Chúa làm môn đệ không thể thụ động, dù tài năng đức độ thời giờ còn giới hạn. Nói một đàng, làm một nẻo, biết yêu mến Thầy mà không tuân giữ lời Thầy, thì mới chỉ yêu mình, chỉ là tình yêu một chiều của thế gian. Hiểu, biết, và sống, luôn là dấu chỉ của người trưởng thành, tình yêu và ơn bình an là sự hòa hợp người môn đệ Đức Kitô trong Chúa Cha và Thánh Thần. Thao thức của Chúa Giêsu là mọi người trở nên môn đệ của Ngài, biết vâng nghe Thánh Thần tình yêu hướng dẫn và sống trọn vẹn tinh thần người môn đệ yêu mến như Thầy Giêsu. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA THÁNH THẦN TIẾP NỐI CON ĐƯỜNG THƯƠNG XÓT

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiếp nối tuần trước trong bối cảnh bữa Tiệc Ly và nó nằm trong diễn từ ly biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ.

Trong diễn từ này, Đức Giêsu loan báo cuộc ra đi của Ngài bằng con đường thương xót theo ý Chúa Cha qua cái chết trên thập giá cho các môn đệ. Tuy nhiên, lời loan báo này đã làm cho các ông xao xuyến, hoang mang vì mất đi điểm tựa.

Nhưng, Đức Giêsu, nhân cơ hội này, đã giúp cho các ông hiểu rõ hơn về một cuộc hiện diện khác, cuộc hiện diện thần linh, nhiệm mầu.

Để cho sự hiện diện này được khăng khít, người môn đệ phải đi trên con đường của Thầy đã đi. Phải chung nhịp đập xót thương với Thầy. Chìa khóa để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn ấy chính là yêu mến và tuân giữ Lời của Ngài.

Đây là con đường tình yêu của Thầy và trò. Đây cũng là đường thương xót để đến với tha nhân. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp nối con đường xót thương ấy qua việc bào chữa, an ủi và trong vai trò khai trí mở lòng, nhằm giúp các ông hiểu tường tận những Lời Đức Giêsu đã dạy, để họ cũng thi hành cùng một hành vi xót thương đến với tha nhân như chính bản thân đã cảm nghiệm.

  1. Tuân giữ Lời và thi hành là yêu mến cách trọn vẹn

Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan đã khéo léo trình bày tâm trạng hỗn độn, hoang mang, sợ hãi của các môn đệ khi nghe tin Thầy của họ sắp sửa ra đi để chịu chết. Họ lo sợ bởi tính  háo thắng, ham danh, muốn được ưu đãi, trọng thị, mong được hưởng những đặc quyền, đặc lợi theo kiểu trần gian…. những lý tưởng đó sắp bị tan thành mây khói.

Đến đây, chúng ta hiểu thêm một điều nữa, đó là: vì những lựa chọn rất tầm thường đó chỉ đạo tâm tưởng của các môn đệ, nên những điều Thầy của họ giảng cũng như những việc Ngài làm… đã không ăn nhập gì với mục đích cũng như chẳng giúp các ông nhận ra sứ vụ Thiên Sai, đầy thương xót của Đấng Cứu Thế!

Thấu hiểu tâm trạng và diễn biến tâm lý nơi các học trò, nhất là nỗi hãi vì sự liên lụy đến cái chết của mình, nên Đức Giêsu đã trấn an: “Đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27). Ngay sau đó, Ngài đưa ra một chỉ dẫn để giữa các ông và Ngài có một mối thông hiệp cách chặt chẽ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14,5). Việc tuân giữ và thi hành Lời của Thầy, ấy là thước đo chính xác và cụ thể nhất lòng yêu mến của các ông đối với Ngài. Đồng thời, khi tuân giữ Lời của Thầy, các ông sẽ hướng đích cuộc đời mình dưới cái nhìn sứ vụ. Như thế, giữa trăm chiều thử thách trông gai, và ngay cả cái chết, các ông vẫn vui mừng và sẵn sàng thốt lên: “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và:“Đối với tôi sống là sống cho Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời của Thầy, họ sẽ được hưởng trọn vẹn lòng thương xót, đến độ không còn gì có thể so sánh bằng, bởi nơi tình yêu ấy, có sự hiện diện và xót thương của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,23).

  1. Chúa Thánh Thần tiếp nối con đường thương xót

Để cuộc đời và sứ vụ của các môn đệ sang một trang mới, nên ngoài việc Đức Giêsu chỉ cho các ông tuân giữ Lời của Ngài, thì việc loan báo về Chúa Thánh Thần trong vai trò là Đấng An Ủi, Bào Chữa… là điều hết sức quan trọng.

Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các ông:  “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con”(Ga 16,7).

Khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm cho sự hiện diện của Thầy trò trong trạng thái “cách mặt, nhưng gần lòng”, bởi vì: “Đấng Bào Chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều  Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26).

 Thật vậy, như đã nói: nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là tiếp nối đường thương xót của Đức Giêsu trong vai trò dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã loan báo lúc tại thế. Khi  nhắc cho các ông điều Đức Giêsu đã nói không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách hiểu của Thánh Kinh là: khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố phục sinh. Qua việc tiên báo này, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong Lời của Ngài cách cụ thể qua vai trò Trung Gian của Chúa Thánh Thần. Vì thế, mặc dù ra đi, nhưng lòng lại gần lòng hơn bao giờ hết, và các môn đệ không bao giờ bị cảnh mồ côi đơn chiếc, vì: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (x. Ga 14,18).

Để đảm bảo lời hứa, nhất là giúp cho các môn đệ được can đảm, trung thành đi đến cùng con đường thương xót mà Đức Giêsu muốn các ông tiếp bước trong lòng mến, nên Đức Giêsu hứa ban cho các ông sự bình an riêng của Ngài. Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có và mới ban tặng cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27).

Lời dạy và những ân ban của Đức Giêsu cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là lời mời gọi và nhắc nhớ mỗi người chúng ta trong tư cách là người môn đệ của Đức Giêsu trong Giáo Hội của Ngài.

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Sống trong một xã hội đang bị đe dọa đủ thứ, nhất là sự xáo trộn về giá trị đạo đức trong mọi lãnh vực…! Ơn bình an đích thực dường như vắng bóng trong xã hội. Có lẽ con người không còn đủ niềm tin vào thực tại cuộc sống, bởi lẽ, sự “tử tế” gần như là một cái gì đó xa xỉ nếu không muốn nói là người ta không thích nhắc đến, bởi khi nhắc đến, họ sợ cái “bụng” bị đói!

Trong một môi trường “ô nhiễm” do nạn thượng tôn “ông chủ bụng” mà trà đạp lên sự “tử tế” như vậy, nhiều người muốn sống đàng hoàng cũng khó, bởi vì: “Thật thà, thẳng thắn thì thường thua thiệt”; “Gian tham lọc lừa lại lên lương”. Người ta coi: “Chân Lý và chân giò bằng nhau”; “Lương Tâm, lương thực và lương tháng cùng giá trị”!

Từ thực trạng trên, người nghèo trở thành đối tượng nhắm đến cho những nhu cầu bất chính nơi một số “Chủ nhân ông”. Từ đó gây nên sự bất an trong xã hội.

Nguyên nhân chính yếu đó là: họ đã không có lòng thương xót, đã tách Lời Chúa ra khỏi cuộc sống. Quan điểm: “Kính nhi viễn tri”; hay: “Mũ ni che tai” đối với Lời Chúa là điều mà nhiều người trong chúng ta chọn lựa.

Vì thế, họ sợ phải sống theo Lời Chúa dạy.  Không dám đối diện với sự thật và lòng xót thương. Khước từ cũng như trối bỏ chân lý, nên không dám sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Luôn trung thành tuân giữ và yêu mến Lời Chúa. Đem Lời Chúa vào cuộc sống. Để Lời Chúa trở thành “khuôn vàng thước ngọc”; là “kim chỉ nam”, đem lại sự hợp nhất, yêu thương, tha thứ, biến đổi, nhất là sự bình an. Đây cũng là dấu chỉ của người đang đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và làm cho tâm hồn chúng con nóng lên ngọn lửa yêu mến Chúa. Amen.

Về mục lục

.
MÔN ĐỆ CỦA TÌNH YÊU

Dã Quỳ

Trong cuộc sống của chúng ta hàng ngày ít nhiều cũng có những chia ly. Cuộc chia ly nào cũng để lại những dấu ấn, những tâm tư vui buồn lẫn lộn, ưu sầu hay lo lắng và tác động không nhỏ vào đời sống tự nhiên lẫn siêu nhiên của chúng ta. Những cuộc chia ly còn cho chúng ta kinh nghiệm sống mà ta gọi là “những bài học không có trong sách giáo khoa.”

Tin Mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu cũng có một cuộc chia ly với các môn đệ. Trước giờ chia ly ấy, Chúa đã nhắn nhủ với môn đệ của Người những lời tha thiết, mà Thánh Gioan gọi là “Những lời cáo biệt.” Chúa  an ủi, động viên, trao ban bình an…và nhất là Chúa khẳng định với môn đệ và cũng là với mỗi Kitô hữu rằng dù ra đi, nhưng Chúa sẽ mãi ở với mỗi trái tim nào có tình yêu Chúa và tuân giữ Lời của Người: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”(Ga 14,23). Đây là một bảo đảm thật tuyệt vời cho môn đệ và tất cả chúng ta.

-“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy.” Tình yêu là khởi điểm giữa Thiên Chúa và tạo vật, giữa Chúa Giêsu và con người. Tình yêu cũng là khởi điểm của đời sống người môn đệ và của mỗi Kitô hữu. Tình yêu là trường học, nơi đó chúng ta học biết về Thiên Chúa mà cụ thể là Chúa Giêsu và họa lại vẻ đẹp, lời nói, hành động của Người; vì “Thiên Chúa là Tình Yêu.” 

    Những lời cáo biệt của Chúa Giêsu được khởi đầu bằng tình yêu. Chúa đã diễn tả Tình yêu của Người với nhân loại và đặc biệt Người tỏ cho môn đệ biết Người yêu thương họ dường nào, để rồi môn đệ chỉ còn cách đáp trả tình yêu. Chúa đã yêu thương tôi vô bờ bến, tôi cần phải đáp lại bằng cách yêu mến Người. Vì yêu mến Chúa, tôi tuân giữ những Lời Chúa dạy bảo và giới răn Chúa truyền ban. Đó là cách cụ thể mà tôi chứng minh lòng yêu mến Chúa. Vì yêu là hiểu biết nên tôi học hỏi về Chúa qua Lời của Người. Vì yêu là hoạt động nên tôi tuân giữ, thực hành, sống Lời Chúa dạy trong đời sống cụ thể của tôi. Và đây là điều kiện để tôi được Thiên Chúa đến, cư ngụ.

-“Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”Thiên Chúa tỏ mình cho những ai tin vào Người. Nhưng Chúa còn đến và ở lại trong những con tim yêu mến và tuân giữ Lời Người. Chúa chỉ đến và ở lại nhà những ai có tình yêu và sẵn sàng mở cánh cửa cho Người; những ai đón nhận, tuân giữ Lời của Chúa; những ai yêu mến Người cách tự do. Chúa đến và ở lại không phải trong Đền Thờ  bằng gỗ đá, nhưng là trong mỗi Kitô hữu trung thành nghe và thực thi Lời Chúa. Chính vì thế, ta không cần tìm Chúa ở đâu xa. Chúa hiện diện ở đây trong bạn, trong anh, trong tôi nếu chúng ta biết yêu mến Chúa, cầu nguyện, lắng nghe và sống Lời Chúa dạy.

    Chúa không dùng quyền ép buộc chúng ta nghe, tuân giữ Lời Chúa và cũng không muốn thực hiện những dấu lạ hiển hách gây ấn tượng để ép ta gắn bó với Người. Chắc chắn Chúa rất muốn tỏ mình cho tất cả mọi người, nhưng Người tôn trọng tự do của mỗi chúng ta, vì: Tình yêu không thể bị ép buộc! Thế nên Chúa ủy thác cho các môn đệ và chúng ta, những Kitô hữu của Người làm môi giới cho tình yêu. Chính đời sống mang đậm nét tình yêu của ta đối với Chúa và lòng yêu thương, phục vụ, bác ái, tha thứ, …của ta đối với tha nhân sẽ làm cho Chúa được tỏ hiện và biểu lộ với tất cả những ai chưa biết, chưa tin và còn sống xa Chúa. Có Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ luôn hướng dẫn trợ giúp Giáo hội và mỗi Kitô hữu thực thi sứ mệnh.  

-“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” Bình an của Chúa ở trong trái tim Người. Chúa là người Bình an và là người mang Bình an như lời Ngôn sứ Isaia nói “Danh hiệu của Người là Hoàng Tử Bình An.”(x. Is 9,5) Bình an lan tỏa trên khuôn mặt, trong thái độ và lời nói của Chúa. Bình an là chính Chúa nên khi ban cho môn đệ, Chúa đã nói “Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng.” Bởi vì bình an của thế gian đến từ con người và chắc chắn không bền vững.

    Chúa thấy rõ trong thế gian, môn đệ của Người sẽ gặp bao hỗn tạp làm họ chao đảo, lo lắng! Và sự thật lúc này đây, âm mưu của Giuđa bán nộp Thầy; chối Thầy của Phêrô và cái chết của Thầy được loan báo đang làm cho môn đệ xao xuyến, hãi hùng! Chính vì thế, Chúa động viên, an ủi, đem lại nghị lực cho môn đệ. “Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!”  Chúa yêu thương môn sinh nồng nàn và tình yêu của Chúa bao phủ các ông nên đừng sợ hãi, vì “Tình yêu không biết đến sợ hãi” và  “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.”(1Ga 4, 18.16) Vì thế, Chúa ra đi nhưng vẫn luôn hiện diện trong trái tim môn đệ. Chúa thật thân tình, yêu thương, cảm thông với môn đệ của Người. Cùng nhịp thở, cùng nhịp yêu và thấu hiểu cuộc sống cũng như những khó khăn thử thách mà mỗi môn đệ và mỗi Kitô hữu hôm nay sẽ phải đối diện trong cuộc đời.

    Vậy hãy để Chúa đong đầy trái tim chúng ta tình yêu và bình an của Chúa khi chính chúng ta biết đáp lại tình Người bằng lòng yêu mến Chúa chân thành và hăng say tuân giữ Lời Chúa dạy; yêu thương tha nhân, hy sinh quên mình phục vụ trong khiêm tốn và nhẫn nại tha thứ vì căn cước của Kitô hữu là Tình yêu. Như thế, chúng ta sẽ thật hạnh phúc có Chúa ở cùng để rồi ta được ở lại trong tình yêu và trở thành môn đệ của tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con trở thành Kitô hữu- là môn đệ của Chúa. Xin đổ tràn trong trái tim chúng con tình yêu và bình an của Chúa, tình yêu và bình an mà chúng con và cả thế giới luôn mong đợi. Amen.

Về mục lục

.

VƯỢT QUA CƠN KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 14,23-29

(23) Đức Giêsu đáp: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. (24) Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. (25) Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. (26) Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. (27) Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. (28) Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. (29) Bây giờ, Thầy nói với anh em, trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra”.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng hôm nay trích trong bài từ biệt các Tông đồ của Đức Giêsu tại Nhà Tiệc Ly và gồm hai điểm chính như sau:

– THỂ HIỆN LÒNG MẾN: Đức Giêsu đòi các Tông đồ phải chứng tỏ lòng yêu mến Người bằng cách tuân giữ Lời Người truyền dạy, nhờ đó họ sẽ được kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi và sẽ nhận được ơn Thánh Thần trợ giúp.

– HỨA BAN BÌNH AN VÀ NIỀM VUI: Đức Giêsu cũng hứa sẽ ban bình an của Người cho các Tông đồ. Bình an thực sự và ngay trong tâm hồn. Nhờ đó, các ông sẽ không còn bối rối sợ hãi khi gặp phải những cơn bách hại xảy ra. Vì Người hứa sẽ ở lại với các ông luôn mãi.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 23-24: +Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy: Đức Giêsu đòi các môn đệ phải chứng tỏ lòng yêu mến Người bằng hành động cụ thể chứ không bằng lời nói hay tình cảm suông. Hành động chứng tỏ lòng yêu mến là tuân giữ giới răn Người truyền. +Cha Thầy và Thầy: Cha Thầy và Thầy ám chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi, vì Chúa Thánh Thần chính là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất ra.

C 25-26: +Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy: Đức Giêsu loan báo sẽ xin Chúa Cha sai Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ đến với các Tông đồ để Người sẽ ở lại với các ông luôn mãi (x. Ga 14,16). +Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em: Sứ mệnh của Thánh Thần là dạy cho các môn đệ tất cả những gì Đức Giêsu đã bày tỏ nhưng lúc đó các ông chưa thể lãnh hội được hết ý nghĩa (x. Ga 13,7).

C 27-29: +Thầy để lại bình an cho anh em: Người Do thái thường chào nhau bằng lời chúc “Bình an”. Sự bình an này đồng nghĩa với không có chiến tranh… Còn sự bình an của Chúa Giêsu ban ở đây thuộc lãnh vực đức tin siêu nhiên. có nghĩa là được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết và được hưởng ơn cứu độ. +Bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy: Xét về bản tính Thiên Chúa thì Đức Giêsu ngang bằng Chúa Cha. Nhưng xét về tư cách Đấng Thiên Sai, thì Đức Giêsu là “Ngôi Lời đã hóa nên người phàm”(Ga 1,14) nên không thể cao trọng bằng Thiên Chúa là Đấng đã sai Người (x Ga 14,28b). Thánh Phaolô đã nói về điều này như sau: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu…” (Pl 2,6-11).

  1. CÂU HỎI:

1) Đức Giêsu đòi môn đệ làm gì để chứng tỏ lòng yêu mến đối với Người ? 2) Ai yêu mến Người thì sẽ được Thiên Chúa ban thưởng thế nào ? 3) Đức Giêsu hứa ban Chúa Thánh Thần đến nhằm mục đích gì ? 4) Sự bình an do Đức Giêsu hứa ban giống hay khác với lời chào chúc bình an của người Do thái ? 5) Tại sao Đức Giêsu lại nói : ”Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” đang khi giáo lý dạy ba Ngôi Thiên Chúa bằng nhau và không Ngôi nào lớn hơn !

II. SỐNG LỜI CHÚA:

  1. LỜI CHÚA: “Thầy đi thì ích lợi cho anh em” (Ga 16,7).

2. CÂU CHUYỆN:

1) CÁCH LY ĐỂ CON PHÁT TRIỂN TRƯỞNG THÀNH HƠN:

MERIƠN OÉT (Marion West) là một bé gái 4 tuổi. Ngày nào bé cũng vui mừng nhảy nhót khi thấy mẹ từ chỗ làm tới đón về nhà ăn trưa. Vì bận phải đi làm việc gần nhà nên từ sáng sớm, mẹ cô bé đã đem con nhờ người hàng xóm tốt bụng trông giúp. Rồi đến trưa bà tranh thủ ra khỏi chỗ làm để đi đón con, và hai mẹ con hối hả trở về nhà cùng ăn trưa và vui đùa bên nhau. Rồi đến một giờ chiều, bà lại phải từ giã bé để đến chỗ làm tiếp tục công việc. Sau đó, bé MERIƠN thường buồn tủi ngồi im lặng hàng giờ đồng hồ. Thế rồi, theo lời khuyên của chuyên gia tâm lý, một ngày kia, mẹ bé đã thôi không về nhà vào mỗi buổi trưa đón bé nữa. Trưa hôm ấy, bé MERIƠN buồn rầu không thiết ăn uống. Em cứ thắc mắc tại sao mẹ lại không về nhà ăn trưa và chơi đùa với em? Nhưng rồi lâu ngày bé quen dần và trở lại vui vẻ như trước.

Nhiều năm sau đó, MERIƠN mới được mẹ kể cho biết bấy giờ hàng ngày bà vẫn trở về nhà, nhưng không ghé đón cô. Bà thường ngồi bên cửa sổ nhà bếp vừa ăn trưa vừa nhìn con vui chơi với các bạn bên nhà hàng xóm. Bà ao ước được chạy lại ôm ấp cô cho thỏa lòng. Nhưng vì muốn cho con trưởng thành, bà đành nén lòng lại, để con quen dần với sự vắng mặt của bà mà phát triển tâm lý bình thường như bao trẻ khác. Giờ đây khi đã khôn lớn, MERIƠN mới hiểu lý do tại sao mẹ cô lại làm như thế, và cô lại càng biết ơn mẹ nhiều hơn.

  1. CẦN TỰ PHẤN ĐẤU ĐỂ VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN:

Một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm ngày kia đã nhìn thấy một chiếc kén của loài bướm lạ trong khu vườn sau nhà. Ông ta liền ngắt cành cây có chiếc kén kia mang vào trong nhà. Ít ngày sau, ông ta thấy bên trong chiếc kén có sự nhúc nhích, nhưng con bướm vẫn chưa thể phá được chiếc kén để bò ra ngoài. Ngày thứ hai và ngày thứ ba ông ta cũng ghi nhận được sự kiện tương tự và không thấy có sự tiến bộ nào. Thế là ông quyết định dùng mũi dao lam rạch một đường trên chiếc kén giúp chú bướm bò ra. Tuy nhiên, ông rất thất vọng vì chú bướm sau đó chỉ sống được một lúc rồi lăn ra chết. Về sau, một nhà sinh vật học đã giải thích cho ông hiểu: Thiên nhiên đã sắp xếp cho con bướm phải đấu tranh để thoát ra khỏi chiếc kén bao bọc nó, vì chính nhờ sự đấu tranh mà chú bướm mới phát triển toàn diện để sinh tồn khi ra ngoài.

Nhà sưu tầm bướm tưởng rằng dùng lưỡi dao rạch chiếc kén sẽ giúp cho chú bướm dễ dàng thoát ra hơn. Nhưng ông không biết rằng làm như thế là ông đã huỷ diệt khả năng phát triển và sinh tồn của chú bướm.

3.THẢO LUẬN: 1) Khi gặp cơn khủng hoảng về đức tin (chán ngại cầu nguyện, lười biếng làm các việc đạo đức bác ái…), bạn cần làm gì để vượt qua cơn khủng hoảng ấy? 2) Bạn sẽ làm gì để lời chúc bình an cuối lễ được ứng nghiệm trong đời sống thường ngày ?

4. SUY NIỆM:

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại lời Chúa Giêsu tâm sự với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly trước khi Người lìa bỏ các ông ra đi chịu khổ nạn. Tin Mừng gồm mấy điểm chính như sau:

1) Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần:

Khi nghe Đức Giêsu tiên báo việc Người sắp ra đi chịu khổ nạn rồi mới được Chúa Cha tôn vinh (x Mc 10,33-34), các môn đệ rất đỗi buồn phiền chán nản. Đức Giêsu đã phải an ủi khích lệ các ông khi cho biết việc Người ra đi là để dọn chỗ rồi sau đó Thầy trò lại sẽ lại được đòan tụ với nhau, nên lẽ ra các ông phải vui mừng vì Người được Chúa Cha tôn vinh. Hơn nữa các ông sẽ không bị mồ côi vì Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến an ủi và phù giúp các ông chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời. Quả thật sau khi Chúa Giêsu thăng thiên, các môn đệ không còn thấy Người hiện ra nữa. Nhưng Chúa Thánh Thần đã được sai đến vào lễ Ngũ Tuần đến thay Người giúp các ông chu tòan sứ vụ loan Tin Mừng như Người đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26).

Chúa Thánh Thần giống như một thầy giáo phụ đạo, sẽ soi sáng và giúp các môn đệ Đức Giêsu hiểu rõ lời Người dạy và giúp các ông chu tòan sứ vụ làm chứng nhân cho tình thương của Người đến tận cùng trái đất (x Ga 15,26-27).

2) Ích lợi của việc Đức Giêsu ra đi:

Sau khi hoàn tất công việc được Chúa Cha trao phó, Đức Giêsu đã trao lại sứ vụ cứu độ trần gian cho Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần. Dù rất yêu thương các môn đệ và luôn muốn ở cùng các ông, nhưng Đức Giêsu vẫn quyết tâm ra đi, vì điều đó mang lại lợi ích thực sự cho các ông: nó vừa giúp các ông trưởng thành về đức tin hơn, lại vừa giúp các ông mở lòng cầu xin ơn Thánh Thần để có thể chu tòan sứ vụ:

– Sứ vụ được sai đi (x Ga 20,22-23).

– Sứ vụ phải loan báo Tin Mừng và dạy người ta giữ các giới răn của Người (x Mt 28,19-20).

– Sứ vụ phải làm chứng cho tình thương của Người “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

3) Chúng ta phải làm gì để giữ vững đức tin khi gặp gian nan thử thách? :

Có những lúc, chúng ta cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ rơi, rồi sinh ra chán nản, không còn thiết tha cầu nguyện hằng ngày, không còn đi chầu Chúa Thánh Thể… Có những lúc đức tin của chúng ta trở nên yếu đuối, không thấy hứng thú với các sinh hoạt đòan hội như hội họp, làm công tác thăm viếng, quét dọn vệ sinh nhà Chúa, tập hát… Có những lúc chúng ta có cảm tưởng bị Thiên Chúa bỏ rơi, giống như Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn đã thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. Sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34).

Thực ra Chúa vẫn luôn yêu thương và không bao giờ bỏ rơi chúng ta, nhưng Ngài biết đã đến lúc chúng ta cần bắt đầu một giai đoạn mới để được biến đổi nên trưởng thành hơn. Đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rằng giá trị của sự cầu nguyện không hệ tại ở việc có cảm thấy sốt sắng hay không. Trong những lúc tâm hồn như bị chai cứng, lại là lúc chúng ta càng phải cầu nguyện nhiều hơn, và lời cầu nguyện khi ấy lại ytở nên một lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất. Vì bấy giờ chúng ta cầu nguyện do lòng mến Chúa thôi thúc như lời Chúa Giêsu: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).

4) Áp dụng thực hành:

Đã đến lúc chúng ta phải hiểu rằng đức tin không chỉ là một cảm giác mà là một sự dâng hiến, một sự cậy trông phó thác hoàn toàn cho Chúa quan phòng, một lời thưa “xin vâng ý Chúa Cha” như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu khi xưa: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Thiên Chúa muốn chúng ta phải đấu tranh với các gian khổ gặp phải để nhờ đó có thể lớn lên về đức tin. Trong những giờ phút đen tối ấy, chúng ta hãy ý thức rằng: Chúa Giêsu luôn ở bên và ở trong lòng chúng ta. Người vẫn tiếp tục đổ ơn Thánh Thần của Người để nâng đỡ chúng ta, giúp đức tin của chúng ta ngày một vững mạnh để chu toàn được sứ vụ làm chứng tá cho Người.

Tóm lại: Đức tin chân chính là một tâm tình dâng hiến, là một thái độ phó thác cậy trông vào Chúa quan phòng, là một lời thưa “xin vâng” thánh ý Chúa Cha như Chúa Giêsu và Thánh Mẫu Maria đã nêu gương cho chúng ta (x. Mt 26,39; Lc 1,38). Do đó khi rước lễ hay chầu Mình Thánh Chúa, mà chúng ta không cảm thấy sự hiện diện của Chúa, thì hãy làm như bài hát chầu Mình Thánh Chúa: “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì”. Bấy giờ đức tin của chúng ta sẽ được Chúa chúc phúc, như lời Chúa Phục Sinh đã nói với ông Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊSU. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa đã hứa rằng: sau khi Chúa ra đi thì Đấng Bảo Trợ khác là Thánh Thần sẽ được Chúa Cha sai đến, để Người sẽ tiếp tục dạy dỗ và giúp các môn đệ nhớ lại mọi điều Chúa đã truyền dạy trước đó. Chính Thánh Thần sẽ giúp Hội thánh, trong đó có mỗi người chúng con thêm lòng yêu mến Chúa để thực hành giới răn quan trọng nhất là “mến Chúa yêu người”.

– LẠY CHÚA. Cho tới bây giờ hầu như chúng con mới chỉ yêu thương tha nhân bằng sự cầu nguyện, bằng lời nói suông hơn là việc làm. Xin Chúa hãy đổ Thần Khí canh tân lòng trí chúng con. Xin cho chúng con ý thức lòng mến Chúa phải được thể hiện bằng hành động cụ thể như: năng nghĩ đến người bên cạnh, luôn quên mình hy sinh phục vụ tha nhân, biết quảng đại chia sẻ giúp đỡ cho người nghèo đói có cơm ăn áo mặc, các bệnh nhân có tiền thuốc thang chữa trị… Nhờ đó, những người đau khổ sẽ tìm được sự cảm thông an ủi, người đang đi lạc được dẫn dắt trở về nẻo chính đường ngay.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_C

Lm. Antôn

Có một câu chuyện về một cố vấn chính trị nổi tiếng cho một vị tổng thống. Sau một vụ xì căng đan, bị truy tố và tống giam vào tù.  Trong tù ông đã trải qua một sự biến đổi tinh thần sâu đậm.  Ông đã chân thành cam kết cuộc đời còn lại của ông cho Chúa Giê-su. 

Một thời gian ngắn sau khi bị tù, ông thắc mắc tự hỏi “Tại sao Chúa bắt ông chôn vùi cuộc đời vào tình cảnh này, sau mấy lần “tái sinh” và “thay đổi” trong những lần tham dự giảng của các mục sư đạo Tin lành.” Ông cảm thấy cuộc đời không còn ý nghĩa, giá trị, và bị Chúa bỏ rơi.  

Một hôm tình cờ, ông dở cuốn Kinh thánh và đọc một đoạn trong thư của Phao-lô gởi người Do thái về Con Thiên Chúa, là Chúa Giê-su Ki-tô được sai xuống trần và sống giữa con người để mang ơn cứu độ đến cho nhân loại.  Thình lình ông cảm thấy tình trạng của ông giống như sứ mệnh của Chúa nơi trần gian.  Ông tự nghĩ phải chăng đây là thánh ý Chúa sai ông vào tù để sống giữa và mang hy vọng đến cho những người tù đày.  Ông cảm thấy Chúa đã cho ông biết thánh ý của Người kêu gọi ông trở thành người mục vụ cho tù nhân trong những nhà giam. Sau khi ra tù, ông đã khởi xướng một phong trào giúp đỡ tù nhân, cung cấp những cơ hội tìm việc làm, giúp đỡ tinh thần, tư vấn cho tù nhân và gia đình trong thời gian bị tù và sau khi ra tù.

Ông bà anh chị em thân mến.  Câu truyện trên đây giúp chúng ta hiểu rõ điểm quan trọng trong lời tâm sự của Chúa Giê-su với các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay.  Các ông xao xuyến và sợ hãi khi nghe Chúa nói sẽ từ biệt các ông một thời gian.  Các ông không biết cuộc đời của mình sẽ ra sao khi vắng bóng, không có sự hiện diện của Chúa.  Các ông tự hỏi cuộc đời của các ông còn có ý nghĩa và giá trị gì hay không?  Tại sao Chúa phải rời bỏ các ông, khi các ông vừa mới bỏ gia đình đi theo Chúa?  Tại sao Chúa để cho sự kiện này xảy ra khi các ông vừa mới trao cả cuộc đời cho Chúa?

Thế nhưng như chúng ta đã biết Chúa hứa sẽ sai Thánh Thần đến và giúp các ông thực hiện được những điều mới, tốt lành, to lớn và trọng đại hơn sức và lòng các ông mong muốn, cho dù không có Chúa hiện diện bên các ông.  Đây là điều thật quan trọng cho chúng ta, và điều quan trọng đó là: nhiều khi trong cuộc đời, chúng ta cảm thấy hình như Chúa bỏ rơi chúng ta, hình như Chúa để chúng ta xao xuyến và sợ hải một mình, khi phải đối diện với những khó khăn, thử thách và nguy hiểm.

Tôi xin đơn cử những thí dụ sau đây.  Có những lúc khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta cảm thấy có nguồn an bình, vui mừng và hy vọng.  Nhưng cũng có những lúc, đặc biệt là những lúc khó khăn hay bây giờ, chúng ta không tìm được nguồn an bình và vui mừng trong sự cầu nguyện.  Có những lúc niềm tin của chúng ta vững chắc và mạnh mẽ có thể “chuyển dời” núi non, nhưng bây giờ không thể hay khó di chuyển dù chỉ là một cái ly giấy hay một cái rác, hay một tánh xấu.  Đã có những lúc chúng ta rất bác ái và quảng đại, có những lúc chúng ta rất hăng say, sốt sắng và nhiệt tình tham gia, giúp đỡ người khác hay giáo xứ, và chúng ta cảm thấy vui thích và thoải mái, nhưng bây giờ nâng cánh tay lên cũng khó và nặng nhọc, không có sự thúc đẩy và hứng thú.  Hình như Chúa đã bỏ rơi để mặc chúng ta một mình. Chúng ta tự hỏi tại sao Chúa lại để cho những sự kiện này xảy ra trong đời sống đức tin, đời sống Ki-tô hữu  chúng ta?  Chúng ta cảm thấy những sự kiện này không mang lại những ơn ích gì, hay tốt đẹp gì cho đời sống hiện tại chúng ta.

Ông bà anh chị em thân mến.  Thật sự, Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta.  Có lẽ Chúa chỉ vắng mặt một thời gian ngắn, hay chúng ta không nhận ra Chúa thôi.  Và lúc này là thời điểm để chúng ta thăng tiến và trưởng thành về mặt tinh thần, về phương diện đức tin.  Chúa hiện diện với chúng ta qua một phương cách mới, và muốn chúng ta sống một đời sống mới như các tông đồ. Thí dụ, Chúa muốn dạy chúng ta hy sinh thời giờ tham dự Thánh lễ thờ phượng kính mến Chúa, khi chúng ta thấy lòng chúng ta khô khan và nguội lạnh.  Chúa muốn dạy chúng ta cầu nguyện khi chúng ta cảm thấy không có gì xảy ra qua sự cầu nguyện theo ý chúng ta.  Thật sự, lời cầu nguyện tốt lành và chân thành nhất xảy ra khi trái tim của chúng ta nguội lạnh và cảm thấy không có gì xảy ra hay không tiếp nhận được gì.  Vì đây chính là sự cầu nguyện với niềm tin, với đức tin chân thật. Ngoài ra, Chúa còn muốn dạy chúng ta biết đức tin không phải chỉ là một cảm nghiệm, mà còn là một sự cam kết, là một sự phó thác cuộc sống của chúng ta cho Chúa, và là một sự “xin vâng” theo thánh ý Chúa như Đức Mẹ Maria, mà chúng ta mừng kính trong Tháng 5 này, vì Chúa là Chúa của chúng ta. Cuối cùng, Chúa muốn dạy chúng ta bác ái và quảng đại, hy sinh tham gia và nhiệt thành giúp đỡ người khác hay giáo xứ không phải vì vui mừng và thích thú từ những công việc đó, như từ chính lời Chúa Giê-su kêu gọi, dạy và thúc đẩy chúng ta.

Nếu vì lý do hay hoàn cảnh nào đó làm cho chúng ta thắc mắc tự hỏi tại sao Chúa bỏ rơi chúng ta?  Hay như tình cảnh các tông đồ, tại sao Chúa từ biệt chúng ta?  Lý do đơn giản: Chúa muốn đức tin của chúng ta lớn mạnh, hay dẫn đức tin chúng ta đến một sự trưởng thành trong ân sủng và bình an của Chúa.  Hay nói cách khác, Chúa muốn đức tin của chúng ta bắt đầu lớn lên trong đường lối mà chúng ta không nghĩ có thể hiện thực được.  Chúa muốn ban cho chúng ta một đường lối sống mới, một cách thức sâu sắc hơn trong sự cầu nguyện, trong cuộc sống đức tin, trong việc bác ái và trong sự hy sinh tham gia giúp đỡ người khác, để đời sống Ki-tô hữu của chúng ta luôn sống trong tình yêu và bình an của Chúa.  

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy chúng ta đang sống trong một quốc gia giàu có và tân tiến nhất thế giới, gần như có mọi sự.  Nhưng tiếc thay nhiều người lại không có một điều rất quan trọng và rất cần thiết cho cuộc sống, đó là bình an trong tâm hồn. Có đầy đủ dư thừa về vật chất như tiền bạc, nhà cửa và gia đình, nhưng lại rất lo lắng, sợ hãi và bất an.  Cho nên trong thâm tâm, chúng ta luôn khao khát tìm bình an. Nhưng sự bình an chân thật của Chúa chỉ đến từ sự liên hệ mật thiết với Chúa, từ Bí tích Thánh Thể và từ sự sống lời Chúa dạy mà thôi. Chúa  cho chúng ta biết ai yêu mến Chúa  thì giữ giới luật Chúa dạy, và Chúa ở trong chúng ta, và chúng ta ở trong bình an của Chúa. Thật vậy, bình an chân thật chỉ tìm thấy nơi và từ Chúa Giê-su, và cũng là quà tặng cao quý của Chúa Giêsu ban cho chúng ta, giữa những sóng gió và khó khăn trong cuộc sống, như Chúa đã nhắc nhở: “Thầy nói với các con những điều ấy, để trong Thầy các con  được bình an. Trong thế gian, các con sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).  Xin Chúa ban bình an chân thật của Chúa để trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta luôn trung thành, sống thánh ý và lời Chúa dạy bảo. 

Về mục lục

.

BÌNH AN NỘI TÂM

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Trong Thánh Kinh, bình an (salom) không có nghĩa là thoát ly khỏi mọi đớn đau, lo sợ. Nói đến bình an, chúng ta hay nghĩ, đó là cuộc sống thoải mái, không đụng chạm rắc rối hay đối đầu với đau khổ.

Ngược lại, hôm nay, chính lúc Chúa đang từ giã các môn đệ để đi vào cuộc vượt qua, Chúa lại nói: “Thầy ban cho các con bình an của Thầy”. Bình an của Chúa là bình an trong tâm hồn, đó là ơn bình an nội tâm.

Giữa lúc môn đệ rơi vào bi quan nhất, giữa lúc các ông sắp phải đối diện với những mất mát tận cùng, Chúa ban ơn bình an của tâm hồn để các ông đủ can đảm mà chiến thắng.

Ơn bình an này cần thiết biết bao nhiêu cho đoàn môn đệ của Chúa. “Bình an của Thầy” là như thế. Bình an ấy không thể nào thế gian có thể có được để mà ban tặng. Đó là bình an mà thế gian phải tìm tòi.

Thực tế, bình an của thế gian thường là thứ bình an do tránh né đương đầu với khó khăn, do chạy trốn những bất ổn mua lấy sự yên thân hơn là tạo được một tâm hồn bình an. Bình an đó không bền vững, nhưng chóng vánh. Chỉ có bình an thật sự trong tâm hồn mới là bình an cần thiết cho cuộc đời chúng ta.

Bình an mà Chúa ban cho chúng ta là bình an chiến thắng của nội tâm con người. Nó là kết quả của bao nhiêu cam go, dằn vặt, chấp nhận, và chịu đựng mới có thể có được.

Bình an ấy chính Chúa Giêsu đã trải qua trên thánh giá. Đó là bình an của tình yêu dâng hiến và đón nhận, cả đến chấp nhận. Thứ bình an mà nhìn bên ngoài chỉ thấy toàn thương đau ô nhục, nhưng bên trong nội tâm là trọn một lòng phó thác trong tay Thiên Chúa.

Bình an của Chúa Giêsu trên thánh giá trở thành nguồn bình an nội tâm của chúng ta. Bên ngoài, trước mắt mọi người, có khi chúng ta phải cam chịu, phải đối diện nhiều bất trắc, nhưng bên trong tâm hồn, chúng ta biết mình luôn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa, tình yêu con người.

Chúng ta biết mình thuộc về Chúa. Hãy hiến dâng cả cuộc đời, và hiến dâng tất cả mọi diễn biến xảy ra trong trọn cuộc đời ấy, để nội tâm chúng ta ngày càng trưởng thành, ngày càng nên một với thánh ý Thiên Chúa hơn.

Một khi đã có được tâm hồn bình an, không có bất cứ một hoàn cảnh nào của cuộc sống trần thế có thể cướp mất được. Bình an của tâm hồn hoàn toàn độc lập với mọi hoàn cảnh bên ngoài.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con bình trong nội tâm mình, để bình an nội tâm trở thành sức mạnh giúp chúng con chiến thắng mọi hoàn cảnh của đời sống, nhất là những lúc chúng con gặp phải bi thương, chán nản. Xin ban cho chúng con bình an của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

BÌNH AN CỦA CHÚA

Huệ Minh

Đã lâu lắm rồi, cách riêng người Việt Nam không còn nghe súng đạn, không còn ngửi mùi thuốc súng nữa thế nhưng thử hỏi con người có được sự bình an gọi là bình an bình thường hay không ? Con người ngày mỗi ngày vẫn mong đi tìm sự bình an, đi tìm hạnh phúc của đời mình.

Cuộc sống của mỗi người là hạnh phúc hay khốn khổ tùy thuộc vào từng suy nghĩ, lời nói, việc làm của mình. Có những ngày ta thấy thật phấn khởi hân hoan khi vừa mở mắt thức giấc, muốn cùng muôn tạo vật cất lời ngợi ca; và khi chiều tà, lòng ta đầy hạnh phúc khi cất lên lời tạ ơn. Nhưng … làm sao tránh được những đêm trường giăng mắc cả khi bình minh sáng chói. Nhìn đâu cũng thấy ảm đạm, chán chường bởi trong lòng ta mất niềm tin tưởng, cảm thấy bế tắc trước những khó khăn, những áp lực liên tục xảy đến. Ta cầu xin cho thời gian qua mau để đem đi nỗi buồn bực nhưng kết quả gần như ngược lại. Khi ấy, ta đã đánh mất bình an.

Bình an thật sự trong tâm hồn thật quý giá, vậy bạn có biết thế nào là bình an đích thực không? Bình an không có nghĩa là được thanh thản trong môi trường tuyệt vời, như ý muốn. Bình an đích thực là khi bạn cảm thấy lòng mình không lay động trong những rộn ràng, sóng gió cuộc đời! Bình an cũng không phải có ở một gia đình giàu có, sung túc, quyền lực cao sang ! Bình an không phải có nơi sở hữu một chiếc xe hạng sang hay có được những món đồ cao cấp.

Có một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công thể hiện tài năng của mình.

Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một. Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo.

Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang bình thản đậu trên tổ của mình… Bình yên thật sự.

“Ta chấm bức tranh này! – Nhà vua công bố – Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên”.

Biết bao bạo động, chiến tranh sảy ra đều phát xuất từ những dục tình xấu xa nơi tâm hồn người ta. Muốn dẹp chiến tranh bạo động trước hết phải học chế ngự những mầm mống nổi loạn của trí lòng. Muốn chế ngự được những mầm mống đó không thể không có sự trợ lực của hy sinh, khổ giá. Nhưng điều kỳ lạ mà Tin Mừng Đức Kitô mang cho con người lại là chính khi đón nhận khổ giá thì bình an và sự sống lại phát sinh dồi dào.

Bình an ấy ở đâu? Bình an ở có ở nơi tĩnh lặng thật sự mới có sự bình an! Nơi đó chỉ có ta tồn tại hữu hình. Và khi ta ý thức mình là cá thể độc nhất đang đối diện với Đấng Toàn Năng. Tâm ta sẽ mở rộng, phơi bày mọi thành công, thất bại, ưu cũng như khuyết điểm, vui buồn, lo lắng, … tóm chung, không có ai phải giấu giếm.

Từ đó, ta sẽ ý thức hơn về thân phận mỏng manh, bất toàn của mình, cảm thấy mình không là gì, không làm được gì và không chịu nổi bất cứ điều gì nếu không được Ơn trợ giúp. Nếu ta ý thức được điều này có nghĩa là ta đã biết được bình an rồi đó, ta biết nhận lấy bình an từ đâu rồi đó, vấn đề còn lại là ta có chịu mở lòng đón nhận hay không mà thôi!

Trang Tin Mừng hôm nay trình thuật lại cho chúng ta về phần cuối của cuộc diễn từ ly biệt giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Trong lúc chuẩn bị Thầy trò chia tay nhau để Ngài lên đường chịu chết, chuộc tội cho thiên hạ.

Vì thế, Chúa Giêsu đã để lại cho các ông một gia sản quý giá hơn hết mọi thứ, đó chính là sự bình an. Ngài không nói: “Anh em hãy ở lại bình an”, mà nói: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.

Bình an của Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, mà còn đi xa hơn để đạt được thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng người ta về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ.

Chúa Giêsu chính nội dung của bình an; hay nói cách khác: Ngài chính là nguồn bình an, Ngài ban cho các ông chính bình an của Ngài.

Bình an của Chúa chắc chắn không phải là một lời chúc mang tính khách sáo, nhưng là một động thái Chúa Giêsu đã thể hiện giữa các môn sinh của mình.

Trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội vẫn cầu nguyện xin Chúa Giêsu ban bình an xuống trên toàn thể Hội thánh giống như ngày xưa Ngài đã phú trao bình an cho các tông đồ trước khi đi thụ nạn. Nhưng sự bình an Chúa nói ở đây là bình an như thế nào?

Người ta vẫn thường nói: “Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh”. Cũng vậy, bình an mà Chúa Giêsu ban tặng đòi hỏi các học trò phải quyết liệt đi vào cuộc chiến đầy gian nan, đó chính là cuộc chiến đấu thiêng liêng. Trong cuộc chiến gian khổ ấy, chúng ta phải chấp nhận chết để được sống, phải đi vào mầu nhiệm tự hủy để được tái sinh trong đời sống mới.

Vì thế, Chúa đã nói: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không theo kiểu thế gian (c.27). Hòa bình theo cách thế gian chỉ dựa vào sức mạnh của vũ khí và tiềm lực quân sự, còn bình an mà Chúa Giêsu đem đến phát nguồn từ chính Thánh Thần. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô cũng viết: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).

Niềm an bình Thiên Chúa ban khác hẳn, loại trừ khỏi tâm hồn con người mọi thái độ hung hăng, hiếu chiến, mọi thèm khát bất chính, để làm nảy sinh ra tình yêu thương, tình bằng hữu chân thành, vô vị lợi, lòng nhân từ tha thứ và sự công chính.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn tín thác cuộc đời của chúng ta trong tay Chúa, trong sự hướng dẫn của Thần Khí để ta luôn luôn bước đi trong sự bình an nhờ có Chúa ở cùng.

Về mục lục

.

THÁNH THẦN VÀ CHÚNG TÔI

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Hạnh phúc thiên đàng là đây. Có Thiên Chúa ở cùng là điều mà Kitô hữu hằng khát khao. Trong Thánh lễ, điệp khúc: “Chúa ở cùng anh chị em – Và ở cùng cha” được cất lên những bốn lần: trước nghi thức khởi đầu Thánh lễ, trước khi đọc Tin Mừng, trước Kinh Tiền Tụng và trước khi chúc lành kết lễ. Có thể khẳng định rằng việc tuân giữ lời Chúa Kitô chính là chìa khóa để có hạnh phúc đích thực. Nội hàm của lời mà Chúa Kitô muốn nói ở đây chính là “tin vào Thiên Chúa và tin vào Người”, đồng thời thực hành “giới răn mới” mà Người long trọng truyền dạy (x.Ga 13,34-35; 14,1).
 
Cần thú nhận rằng nhiều lúc chúng ta thật khó phân biệt ý lời của Chúa Kitô với ý lời của người phàm. Ngay thánh Phaolô tông đồ cũng đã từng thú nhận rằng “hiện nay chúng ta thấy lờ mờ như thấy qua tấm gương” (x.1Cr 13,12). Chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Đấng mà Chúa Kitô ban tặng, sẽ giúp chúng ta hiểu đúng ý lời của Chúa Kitô để thực thi. “Thánh Thần và chúng tôi quyết định: Không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm” (Cv 15,28-29). Đây là lời công bố chính thức của Công đồng Giêrusalem, Công đồng đầu tiên của Hội Thánh thời các Tông đồ. Câu tuyên bố của các Tông đồ “Thánh Thần và chúng tôi quyết định…” một cách nào đó cho ta thấy trong quyết định ấy có phần của Thánh Thần và có phần của các ngài. Phần của Thánh Thần dĩ nhiên là chân lý tuyệt đối, còn phần của các tông đồ ít nhiều bị điều kiện hóa và khó tránh khỏi sự bất cập hoặc hạn chế mặt này, mặt kia. Vấn đề là chúng ta cần phân biệt đâu là phần của Thánh Thần và đâu là phần của các Tông đồ.
 
Tính bất cập, tương đối và bị điều kiện hóa của quyết định do phía các tông đồ có thể nói là đã lộ rõ khi các ngài dạy: “Kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết”. Chưa nói gì đến niềm tin còn bất cập về máu huyết của Do Thái giáo xưa, ở đây, chúng ta thấy các Tông đồ đã đưa ra một giải pháp mang tính thỏa hiệp, giải quyết tình thế. Để xây dựng sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu gốc lương dân và gốc Do Thái giáo, đặc biệt qua các bữa ăn, các Tông đồ đã truyền giữ tập tục kiêng cử về huyết cũng như thịt thú chết ngạt. Nhiều người dân Việt vốn thích món “tiết canh” chắc là phải bỏ mình lắm lắm! Còn về việc ăn thịt cúng thì chắc hẳn các Tông đồ không quên lời dạy của Thầy năm xưa: “Những gì bên ngoài vào trong con người thì không làm cho họ ra ô uế?” (x.Mc 7,14-23). Sau này chính Thánh Phaolô cũng đã từng minh định với tín hữu Côrintô rằng ăn thịt cúng hay không thì chẳng sao cả, miễn là đừng gây cớ vấp phạm cho những người đang còn non kém về lòng tin (x.1Cr 8,1-13).
 
Chúng ta cùng xem xét phần Thánh Thần chỉ dạy.
 
– Không đặt gánh nặng lên vai người anh em: Một trong những sứ mạng của Chúa Kitô khi đến thế gian là giải thoát con người khỏi vòng nô lệ thần dữ. Tiếp tục và hoàn thành sứ mạng của Chúa Kitô, Thánh Thần đã giải thoát chúng ta khỏi ách nặng nề của “chế độ lề luật”, khỏi “tinh thần nô lệ” mà việc bãi bỏ luật cắt bì của Cựu Ước là một điển hình. Từ đây, người Kitô hữu được mời gọi đến với Thiên Chúa trong tư cách những người con. Nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần chúng ta có thể thân thưa với Thiên Chúa “Abba” – “Cha ơi” (x.Rm 8,14-17).
 
Nhiều người đã xem Công đồng Vaticanô II như là một Lễ Hiện Xuống mới. Sở dĩ có cái nhìn này vì người ta không chỉ thấy Giáo Hội đã để cho Thánh Thần thúc đẩy mình ra khỏi tháp ngà cố thủ, để đến với thế giới mà còn thấy Giáo Hội đã gỡ bỏ nhiều ách nặng nề bấy lâu nay đang đè trên vai, trên cổ mình, khiến đoàn dân Chúa khó có thể sống tinh thần nghĩa tử với Thiên Chúa và khó sống tinh thần huynh đệ với nhau cách thực sự. Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động cho đến ngày Chúa Kitô lại đến (x.Kh 22,17). Như thế, chắc hẳn vẫn còn đó nhiều gánh nặng đang kìm giữ chúng ta trong tinh thần nô lệ mà chúng ta cần phải gỡ bỏ cho nhau. Để được vậy, chúng ta, đoàn tín hữu, từ con chiên đến các mục tử, hãy tích cực mở rộng tâm hồn để đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần, và dĩ nhiên, trên hết, trước hết cần phải biết nhạy bén với lời chỉ dạy của Thánh Thần qua các dấu chỉ thời đại.
 
– Tinh tuyền hóa niềm tin vào Thiên Chúa và lành mạnh hóa tương quan với nhau: Ẩn sâu dưới quyết định rằng phải kiêng ăn thịt đã cúng cho ngẫu tượng thì chúng ta nhận ra chân lý là “phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (x.Mt 4,10; Lc 4,8). Và qua lời truyền dạy rằng “tránh gian dâm” hay như một vài bản dịch khác là “không được kết hôn bất hợp luật”, thì chúng ta không chỉ thấy đó là một chỉ dẫn luân lý thuần túy trong đời hôn nhân, mà còn nhận ra một chân lý trong tương quan đồng loại, đó là tôn trọng quyền lợi của nhau trong sự hài hòa và trật tự khách quan. Cần phải tôn trọng, tuân giữ trật tự khách quan này ngay từ trong cái tế bào của xã hội, cái nền tảng của đời sống nhân loại đó là “hôn nhân – gia đình”.
 
Mạc khải đã nên trọn vẹn và hoàn hảo nơi cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Kitô. Một trong những sứ mạng của Chúa Thánh Thần là giúp chúng ta hiểu đúng lời mạc khải. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu lời Chúa Kitô đã long trọng tuyên bố năm xưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và sách các ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai giới răn ấy” (Mt 22,37-40).
 
Đã là người ai cũng mong đạt được hạnh phúc. Nhiều người có niềm tin và Kitô hữu chúng ta lại còn khát khao hạnh phúc vĩnh cửu. Và điều kiện như tất yếu để có hạnh phúc vĩnh tồn đó là thực thi lời của Chúa Kitô. Để thực thi lời của Chúa Kitô thì cần phải hiểu đúng lời của Người. Thực tế vẫn có đó sự lẫn lộn giữa lời của người phàm và lời của Đức Kitô. Không gì hơn hãy khẩn xin Chúa Thánh Thần ngự đến. Thánh Thần đã được ban tặng. Vấn đề còn lại là xin cho chúng ta có thái độ thức tỉnh và khiêm nhu để đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần mà thôi.
 Về mục lục

.

ĐẾN VÀ Ở LẠI

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Khi được hỏi Ðức Kitô hiện diện ở đâu,
chúng ta thường nghĩ ngay tới nhà thờ, nhà Tạm.
Tiếc thay lắm khi chúng ta dừng lại ở đó.
Chúng ta ít nghĩ đến một lối hiện diện khác của Ngài.
Không phải chỉ là ở với, ở bên, ở trước mặt,
mà còn là ở trong con người yếu đuối của ta.
Chúng ta ít nghĩ, vì chúng ta không dám tin
vào hồng ân quá đỗi lớn lao đó.
Chính vào lúc sắp chia tay các môn đệ để về với Cha,
Ðức Giêsu đã long trọng loan báo chuyện Ngài ở lại:
“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy,
Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy.
Chúng ta sẽ đến với người ấy
và sẽ làm nhà nơi người ấy” (Ga 14,23).
Ðại từ Chúng Ta ở đây để chỉ Chúa Cha và Chúa Con,
mà ở đâu có Chúa Cha, Chúa Con thì cũng có Thánh Thần.
Vì yêu Ðức Kitô, tôi được đón nhận thế giới Ba Ngôi.
Vì yêu tôi, Ba Ngôi muốn đến thăm tôi và cư ngụ tại đó.
Trong tình yêu hai chiều này, thiên đàng chớm nở.
Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng tôi.
Thiên đàng ấm áp ở nơi nghèo hèn, bé nhỏ,
nơi tâm hồn biết yêu Ðức Kitô và tuân giữ lời Ngài.
Ðôi khi tôi cần tự hỏi Thiên Chúa có ở trong tôi không.
Tôi có cảm nghiệm được chút nào sự hiện diện đó chăng?
Có bao giờ tôi thờ lạy sự hiện diện đó của Ngài không?

Kitô hữu không chỉ là bạn hữu của Ðức Kitô,
mà còn là người có Ðức Kitô nơi chính mình.
Họ là những cung thánh, những nhà thờ lưu động.
Họ không chỉ chứa đựng Ðức Kitô như một Nhà Tạm,
họ còn nên một với Ngài trong tình yêu.
Các bí tích chúng ta lãnh nhận đều nhằm mục đích
làm cho tình yêu giữa ta với Ðức Kitô được lớn lên.
Trước khi tôi rước lễ, Ðức Kitô đã ở trong tôi rồi.
Sau khi tôi rước lễ, Ngài cũng chẳng bỏ tôi.
Nhưng mỗi lần rước lễ, sự hiện diện Ngài lại tăng trưởng.
Ngay cả khi không thể đến nhà thờ,
tôi vẫn có thể gặp Ðức Kitô nơi cung lòng mình.
Chỉ cần để lòng mình lắng xuống,
là tôi có thể gặp Ngài và bước vào cuộc đối thoại.

“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”
Yêu mến Ðức Kitô không phải chuyện dễ.
Yêu một người ta chưa gặp mặt và sống xa ta 20 thế kỷ.
Giữ lời Ðức Kitô chẳng phải chuyện dễ.
Lời đòi chúng ta ra khỏi mình và bay lên cao.
Chính Thánh Thần sẽ giúp ta thấy Ðức Kitô thật gần
để có thể say mê Ngài,
thấy Lời Tin Mừng trở nên sống động và bừng sáng
để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh.

Hội Thánh của chúng ta sẽ là một Hội Thánh vô hồn,
nếu chẳng có sự hiện diện của Chúa nơi lòng các tín hữu.

Cầu Nguyện

Ngài đã xuống tận đáy lòng con,
xin cho con chỉ tập trung
và tận đáy lòng con.

Ngài là thượng khách của lòng con,
xin cho con bước vào nhà
là chính đáy lòng con.

Ngài chọn cư ngụ trong lòng con,
xin cho con biết ngồi yên
ngay tại đáy lòng con.

Duy Ngài ở lại trong con,
xin cho con biết chìm sâu
xuống tận đáy lòng con.

Duy Ngài hiện diện trong lòng con,
xin cho con biết xóa mình
khi Ngài ở bên con.

Khi con đã gặp Ngài,
không còn con và Ngài nữa.
Con chẳng là gì cả,
và Ngài là tất cả.

(theo Swami Abhisiktananda)

Về mục lục

.

Exit mobile version