CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – NĂM B
Lời Chúa: Cv 10,2-26.34-35.44-48; 1Ga 4,7-10; Ga 15,9-17
——-
-
Ơn cứu độ muôn dân (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Trọn Vẹn Niềm Vui (Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
- Hãy Yêu Thương Nhau Như Chúa Giêsu Yêu Thương Chúng Ta (Lm Ngọc Dũng, SDB)
-
Làm Cho Chúng Ta Được Đổi Mới(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
-
Như Thầy yêu thương (Lm. Thái Nguyên)
-
Dòng suối yêu thương từ Thiên Chúa (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Được yêu như Thầy (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Như Thầy đã yêu (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
-
Ở lại trong tình yêu (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
-
Yêu thương là mùa xuân hạnh phúc (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Yêu thương như Thầy đã yêu (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
-
Chúa mời gọi (Trầm Thiên Thu)
-
Mối tình đẹp (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Dòng chảy tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn)
-
Yêu thương là gì? (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
1. Niềm vui trọn vẹn (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Yêu như Chúa yêu (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Như Thầy đã yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Ở lại trong tình yêu (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Điều Thầy truyền dạy (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
6. Yêu thương như Thầy (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
7. Thầy gọi các con là : Bạn (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. Yêu thương nhau (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
9. Như Thầy đã yêu. (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10. Yêu mến (Lm. Giuse Phạm Quốc Phong, SDB)
11. Yêu như Chúa yêu. (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
12. Điều răn của Thầy (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
13. Hãy ở lại trong Tình yêu của Thầy (Lm. Trần Bình Trọng)
14. Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em (Giuse Hoàng Hải Đăng, OP)
15. Thiên Chúa là tình yêu (Lm. Đinh Lập Liễm)
16. Thí mạng mình vì bạn hữu (Lm. Nguyễn Thái)
17. Bạn hữu của Chúa Giêsu Kitô (Giêrônim ô Nguyễn Văn Nội)
18. Tình yêu rực cháy trong tim (JM. Lam Thy, ĐVD)
19. Anh em là bạn hữu của Thầy (Fx. Đỗ Công Minh)
20. Suy niệm Chúa Nhật 6 Phục sinh_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
21. Điều kiện cách (Trầm Thiên Thu)
22. Sống xứng tầm người bạn Chúa Giêsu (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
23. Như Thầy đã yêu- (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
24. Suy niệm Chúa Nhật 6 Phục sinh_B. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
25. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 6 Phục sinh_B. (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
26. Hãy yêu thương bằng việc làm (Lm. Đan Vinh)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Dựa trên truyền thống các ngôn sứ, Người Do Thái tin rằng ơn Cứu độ chỉ được ban cho dân tộc Do Thái, vì đó là dân được tuyển lựa. Các môn đệ đều là người Do Thái. Họ đã theo Chúa Giêsu và được Người giáo huấn. Tuy vậy, các ông vẫn mang não trạng chật hẹp của truyền thống. Một số trong các ông tin Thày mình là một chính trị gia, đến để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của người La mã, vì thế, vào lúc Chúa phục sinh quy tụ các ông và chuẩn bị lìa xa các ông mà về trời, vẫn có người trong số môn đệ hỏi Chúa: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?” (Cv 1,6).
Chính vì ảnh hưởng bởi não trạng tự tôn dân tộc, mà ông Phêrô lúng túng khi có người ngoại, tức là không phải người Do Thái, xin gia nhập Đạo. Chính Thiên Chúa đã can thiệp qua hai thị kiến để giúp ông Phêrô và các tông đồ thoát khỏi những băn khoăn này. Ngài vừa sai sứ thần đến với ông Cornêliô, vừa cho ông Phêrô thấy một thị kiến là một tấm khăn lớn buộc bốn góc từ trời thả xuống đất, trong đó có mọi giống vật bốn chân và rắn rết, cùng mọi thứ chim trời. Đó là những con vật luật Do Thái cấm ăn vì coi là vật không thanh sạch. Chúa đã giải thích cho ông Phêrô: đừng gọi là ô uế những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch. Qua thị kiến này Chúa muốn khẳng định: ơn cứu độ được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô dành cho mọi dân tộc, không loại trừ ai. Vì Đức Kitô là Ánh sáng muôn dân, là Mặt trời công chính rạng soi cho mọi nước.
Thực ra, trong giáo huấn của Chúa Giêsu, đã nhiều lần Người khẳng định tính hoàn vũ của ơn Cứu độ. Người nhấn mạnh đến tình thương của Chúa Cha, Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên những kẻ lành cũng như người dữ, làm cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất nhân. Trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu đã phá bỏ mọi rào cản và thành kiến, đồng thời Người khẳng định: đã đến lúc việc thờ phượng không còn giới hạn bởi ranh giới địa lý hay chủng tộc, mà là lúc những ai thờ phượng Chúa thì thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Qua câu nói của ông Caipha Thượng tế: “Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”, Thánh sử Gioan nhận ra đó là một lời tiên tri: “Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối” (Ga 11,50-52). Chúa Giêsu cũng đã tuyên bố: Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Như thế, cây thập giá, hay đúng hơn là cái chết của Chúa Giêsu là điểm quy tụ muôn dân. Cây thập giá cũng là điểm kết nối, giao hoà Thiên Chúa với nhân loại, để rồi từ nay, không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nhưng tất cả những ai đang sống dưới gầm trời này, nếu họ kêu cầu Danh Đức Giêsu Kitô, thì họ được cứu độ. Mặc dù Giáo Hội tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại, Giáo Hội cũng công nhận những tinh hoa của các nền văn hoá như hạt giống của Lời. Vì vậy, những ai không được nghe nói đến Chúa Giêsu và ơn Cứu độ của Người, nhưng thành tâm sống theo chỉ dẫn của lương tâm, thì họ cũng thuộc về Vương quốc Chân lý của Chúa Giêsu.
Với lời tuyên bố của thánh Phêrô: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” Giáo Hội sơ khai đã bước sang một trang sử mới. Từ nay mọi người đều có thể gia nhập Đạo Chúa. Đức tin vào Đức Giêsu đã vượt qua biên giới Do Thái để đến với dân ngoại. Sau này, với thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại, một viễn cảnh mới được mở ra. Thánh Phaolô xác tín rằng, mình được chọn để đem Tin Mừng của Chúa đến với các dân ngoại. Vì vậy, ông nỗ lực cố gắng thiết lập các cộng đoàn. Những cuộc hành trình truyền giáo của thánh Phaolô là những gian nan chông gai, nhưng vị tông đồ dân ngoại vẫn can đảm hy sinh, vì ông được Chúa nâng đỡ: “Ơn Ta đủ cho con”.
Ơn Cứu độ thực hiện trong Đức Kitô đã mở ra một thế giới mới. Không còn biên giới, không còn rào cản, không còn phân biệt sắc tộc hay ngôn ngữ. Thế giới mới Chúa Giêsu thiết lập có một ngôn ngữ mới: đó là tình yêu. Tiếp nối lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Chúa nhật trước, lời mời gọi “ở trong Thày” được nhắc đi nhắc lại, như một điểm nhấn nổi bật. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Mẫu mực của yêu thương không phải là một vĩ nhân trần thế, nhưng là chính Chúa Giêsu. “Như Thày đã yêu”, đó chính là cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa Giêsu đã chứng minh lời dạy này bằng cuộc khổ nạn thập giá.
Một khi chuyên tâm thực hiện lời dạy yêu thương của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ trở thành “bạn hữu” của Người. “Anh em là bạn hữu của Thày, nếu anh em thực hành những điều Thày truyền dạy”. Thật là một vinh dự lạ lùng! Chúng ta là con người còn đầy yếu đuối và tội lỗi, lại có thể trở nên bạn hữu của Đấng Cứu thế. Quả vậy, một khi thực thi những giới răn của Người, nhất là giới răn yêu thương, thì chúng ta sẽ luôn có Chúa là người đồng hành, là người chia vui sẻ buồn, là người tâm huyết, gần gũi và thân tình. Khái niệm Chúa Giêsu là “bạn hữu” giúp chúng ta đi vào sự kết hợp bền chặt thâm sâu với Người, nhờ đó, chúng ta có sự bình an và niềm vui nội tâm, là nền tảng định hướng cho mọi suy tư và hành động trong cuộc sống hằng ngày.
Yêu thương là sáng kiến đến từ Thiên Chúa, vì chính Ngài đã yêu chúng ta trước (Bài đọc II). Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã làm gương cho chúng ta về đức yêu thương. Người đã hiến mạng sống mình trên thập giá vì yêu thương nhân loại và để đền tội cho chúng ta. Người tín hữu được Chúa sai vào lòng cuộc đời sống và loan truyền tình yêu thương cho tha nhân, đồng thời làm chứng về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống. Vâng, Chúa đã chọn và đang cắt cử chúng ta vào cuộc sống xã hội còn đầy những khó khăn phức tạp, để hát lên niềm vui của Tin Mừng và để làm chứng Chúa đã phục sinh.
Qua việc thực thi đức yêu thương, chúng ta giới thiệu ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, Đấng đã chết cho muôn người, Đấng Cứu độ muôn dân. Đấng ấy đang sống và hiện diện giữa chúng ta.
Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc
Nếu hỏi bạn quan niệm thế nào là tài là giỏi, hẳn ta sẽ có đáp án: người tài giỏi là người chăm học chăm làm, đủ khôn ngoan, biết tận dụng thời giờ cách hợp lý hợp tình. Nếu muốn biết, tại sao có sự chênh lệch: kẻ ăn không hết người lần chẳng ra ? Thế nào ta cũng được câu trả lời: vì lười, vì chậm, vì không may mắn trong công việc, nên nghèo, khổ, ảnh hưởng xấu đến gia đình. Khi nói đến yêu thương, người ta thường thắc mắc, tại sao già trẻ lớn bé, đều khao khát được yêu thương, có phải sống thiếu tiền thì được, nhưng sống mà thiếu tình, không thể tồn tại ? Sống bình an, biết yêu và được yêu, không phải do tài giỏi, giầu nghèo, hưởng dương hay hưởng thọ, lời khuyên của người xưa: hạnh phúc đâu phải là thứ bạn tạo ra, mà hạnh phúc tồn tại trong hành động của bạn.
“Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy, như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con”. Đức Giêsu nói đến niềm vui và sự thật, đó là yêu và được yêu, do đó: hãy tự tin, hãy mỉm cười, đừng lo lắng, bạn sẽ cảm nhận một hạnh phúc tuyệt vời. Đôi khi vì lỡ lời, nghĩ không thông, suy không tới, khiến cuộc sống rối rắm phức tạp, nên sách có câu: uốn lưỡi bảy lần trước khi nói, thật ra, cẩn thận, chắc chắn, chẳng bao giờ là thừa là dư. Đức Giêsu không đưa ra giải pháp để “thu hồi” lời nói việc làm bê bối của ta, mà là một lệnh truyền: “các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Tình yêu thương mà hoàn cảnh nào ta cũng nghĩ tới, đó là sự thân thiết gia đình, ví như tiếng điện thoại reo mà ai cũng mong, đó là người mình yêu thương gọi.
Nhiều người cho rằng niềm vui trọn vẹn thật đơn giản: sáng thức dậy với sự quyết tâm, tối ngủ trong sự hài lòng, đúng, đơn sơ mới có hạnh phúc, đơn giản mới là cuộc sống. Để cụ thể về niềm vui, hạnh phúc, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ: “hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Ở lại trong tình yêu, sống mãi trong tình yêu, không phải là ý tưởng mới lạ, mà là sự thuỷ chung giữa các thành viên gia đình yêu thương nhau. Cuộc sống bình an và tròn đầy ý nghĩa, nếu ta biết giữ gìn, nuôi dưỡng, không ngừng ước mơ. Hoa trái của tình yêu, được Đức Giêsu diễn tả: “Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con nên trọn vẹn”. Kinh nghiệm của thánh Thomas Aquinas: chẳng ai thực sự vui vẻ, nếu không sống yêu thương.
Trọn vẹn niềm vui, không phải là tài-tình, dồi dào sức khoẻ, là cầu được ước thấy, mà là chân thành với những ai mình gặp trong ngày sống, và không bao giờ hổ thẹn với trời đất. Cha ông ta rất có lý khi khuyên dạy: đừng khóc, đừng buồn, vì sự đói nghèo đã trôi qua, đừng than thở vì tội lỗi làm tổn thương đến tình yêu của cha mẹ, nhưng hãy mỉm cười vì hiện tại ta đã trưởng thành. Trọn vẹn niềm vui mà Đức Giêsu mời gọi là gì ? Xin thưa: “cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người”. Tình yêu, hiệp thông, là cách Đức Giêsu minh chứng bằng hoạt động của tình yêu Thánh Thần, làm nên một tình yêu trong Chúa Cha, tiếp nối đến các môn đệ và toàn thể nhân loại hôm nay.
Theo y học: vui vẻ chính là phương thuốc kỳ diệu giúp ta sống thọ, tự tin trước sức khoẻ đang có và bền bỉ dẻo dai trong mọi lãnh vực. Các chuyên gia tâm lý cũng chỉ dạy: đừng xem trọng bề ngoài, có thể bạn bị lừa, đừng xem trọng giầu sang phú quý, chúng sẽ mất dần; hãy đến với người biết giúp bạn vui cười, vì nụ cười sẽ biến ngày buồn thành ngày vui. Là người tín hữu, ý thức niềm vui trọn vẹn là ở trong tình yêu Giêsu, tuyên xưng niềm tin Đức Giêsu là tình yêu của Chúa Cha, người theo Đức Kitô còn phải sống sứ vụ riêng như lời mời gọi: “các con hãy yêu thương nhau”. Được là học trò, là môn đệ Thầy Giêsu, tưởng không mấy ai dám mơ ước, nhưng Đức Giêsu còn muốn chúng ta là bạn hữu của Ngài, một điều vượt xa trí tưởng tượng của chúng ta.
Để niềm vui nên trọn vẹn, Đức Giêsu tha thiết kêu gọi: hãy ở lại trong tình yêu của Thầy; hãy tuân giữ luật Thầy truyền, đó là giáo huấn căn bản cho những ai muốn theo Thầy Giêsu. Người ta có kể một gia đình thỏ sống hạnh phúc trong cái hang ấm cúng. Một hôm thỏ con lên tiếng: con nay khôn lớn rồi, xin phép bố mẹ cho con được tự do sống riêng để con có trách nhiệm hơn với gia đình thỏ. Bố mẹ thỏ bình tĩnh nói lên đức tính căn bản mà thỏ phải có trước khi tự lập: nhạnh nhẹn, khôn ngoan, dồi dào đức ái. Để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con nên trọn vẹn: các con hãy yêu thương nhau. Bố mẹ thỏ tôn trọng tự do của thỏ, nhưng vẫn không quên nhắc nhớ về đức tính cơ bản nhất để thỏ đạt tới hạnh phúc. Để nhắc nhớ về sự kỳ diệu của tình yêu, Đức Giêsu nói: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”.
HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ CHÚA GIÊSU YÊU THƯƠNG CHÚNG TA
Lm Ngọc Dũng, SDB
Ai trong chúng ta cũng muốn yêu và được yêu. Con người luôn tìm kiếm cho mình một tình yêu chân thật. Tuy nhiên, tìm đâu để có được một tình yêu chân thật? Và làm thế nào để biết mình yêu và được yêu với một tình yêu chân thật? Trong bài đọc 1 hôm nay, Thánh Phêrô cho biết “tình yêu không loại trừ” của Thiên Chúa khi nói rằng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Chính qua tình yêu không loại trừ này mà Thiên Chúa ban Thánh Thần của Ngài “xuống cả trên các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa” (Cv 10:45-46). Trong những lời trên, chúng đọc thấy những yếu tố cần thiết để có một tình yêu chân thật, đó là “kính sợ Thiên Chúa,” “ăn ở ngay lành,” và “lắng nghe các chứng nhân và tán dương Thiên Chúa.” Nói tóm lại, tình yêu chân thật chỉ có thể tìm thấy nơi Thiên Chúa, được thể hiện cách cụ thể qua Chúa Giêsu, điều mà chúng ta sẽ đọc thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta có thể nói rằng: chúng ta sinh ra vì tình yêu, nên ơn gọi của chúng ta là “yêu.” Thánh Gioan Phaolô II nói rằng: “Vì con người là một nhân vị, nên không có cách thức nào khác để đối xử với con người ngoài tình yêu.” Tuy nhiên, nhiều người trong chúng ta hiểu tình yêu với cái nhìn của tâm lý học: tình yêu là một cảm xúc. Cũng theo Thánh Gioan Phaolô II, “tình yêu không phải là một cảm xúc, nhưng là một quyết định của con tim được hướng dẫn bởi lý trí: Một quyết định yêu cho đến trọn đời. Chính vì vậy, khi yêu, những ai không quyết định yêu cho đến trọn đời sẽ cảm thấy rất khó để yêu dù chỉ một ngày.” Yêu cho đến cùng chỉ tìm thấy ở Đức Kitô: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (Ga 13:1). Đây chính là bối cảnh để giúp chúng ta hiểu lời Chúa ngày hôm nay.
Trong bài đọc 1, Thánh Gioan trình bày ý nghĩa và những nét đặc trưng về một tình yêu chân thật, điều mà trong cuộc sống, ai trong chúng ta cũng đi tìm. Như đã trình bày, tình yêu chận thật chỉ tìm thấy ở nơi Thiên Chúa và những ai sinh ra bởi Thiên Chúa và biết Ngài, vì nguồn gốc của tình yêu luôn bắt đầu từ Thiên Chúa (x. 1Ga 4:7). Thật vậy, theo Thánh Gioan, tiêu chuẩn để biết một người được sinh ra và biết Thiên Chúa đó chính là đời sống yêu thương của họ: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4:7-8). Trong hai câu này, Thánh Gioan cho chúng ta biết “bản tính” của Thiên Chúa là Tình yêu. Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao Thánh Gioan nói: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra.” Bởi vì, bản tính của Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta được sinh ra bởi Thiên Chúa, thì chúng ta cũng được chia sẻ trong bản tính của Ngài, nên “bản tính” của chúng ta cũng là tình yêu. Giống như khi người con được sinh ra, thì người con được chia sẻ trong bản tính “là người” của người cha. Hơn nữa, Thánh Gioan thêm một tiêu chuẩn khác, đó là, “biết” Thiên Chúa để xem một người sống yêu thương hay không. Theo nghĩa Kinh Thánh, “biết” không phải chỉ là kết luận của một tiến trình lý trí, nhưng là hoa trái của kinh nghiệm, của gặp gỡ cá vị; khi đạt đến mức trưởng thành, “biết” trở thành “tình yêu.” Như vậy, khi chúng ta nói là mình “biết” Thiên Chúa “thật sự,” thì chúng ta khẳng định rằng mình yêu, vì Thiên Chúa là tình yêu.
Tuy nhiên, tình yêu chân thật không phải là một cái gì trừu tượng. Tình yêu không phải là những học thuyết để học thuộc, nhưng là những “hành động cụ thể”: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4:9). Trong Tin Mừng và các thư của mình, Thánh Gioan luôn muốn khẳng định rằng: nơi Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ cách cụ thể và hữu hình. Quả vậy, chúng ta có thể chạm đến Ngài, cảm nếm sự dịu ngọt của Ngài với cảm xúc thật con người khi đụng chạm đến Ngài trong Bí Tích Thánh Thể. Khi chúng ta cảm nghiệm được “cái cụ thể” của tình yêu Chúa [nhất là trong Bí Thánh Thể], chúng ta sẽ khám phá ra rằng: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta (1Ga 4:10).” Thiên Chúa luôn đi bước trước trong tình yêu! Chúng ta chỉ là những người đáp trả. Những người không đáp trả là những người chưa cảm nghiệm được rằng: Thiên Chúa luôn yêu họ một cách tuyệt đối, dù tội “họ có đỏ như son, có đen như mực” (Is 1:18).
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục đề tài “ở lại” trong Chúa Giêsu của người môn đệ. Nhưng Ngài liên kết việc “ở lại” này với việc tuân giữ các điều răn của Ngài và niềm vui mà Ngài sẽ ban cho họ. Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu với tương quan tình yêu giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha trong 3 câu (câu 9-11). Tình yêu này là nền tảng cho tương quan tình yêu giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, và giữa các môn đệ với nhau. Ba câu đầu trong bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng những điều để chúng ta suy gẫm sau:
Trong câu 9, Chúa Giêsu nói về nền tảng tình yêu của Ngài dành cho các môn đệ, đó là tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.” Từ những lời này, chúng ta thấy Chúa Giêsu khẳng định tình yêu hỗ tương giữa Ngài với Chúa Cha chính là tình yêu mà Ngài dành cho các môn đệ. Ngài mời gọi các môn đệ cách khẩn thiết: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy.” Một số học giả Kinh Thánh cho rằng: Chúa Giêsu gọi và chọn các môn đệ vì Ngài muốn chia sẻ cho các ông tình yêu tuyệt đẹp mà Ngài nhận được từ Chúa Cha, để họ cũng có thể hưởng được niềm hạnh phúc và niềm vui phát xuất từ tình yêu đó. Đây là thứ tình yêu tuyệt đối và vô điều kiện, là thứ tình yêu mạnh hơn sự chết và tội lỗi. Đây là thứ tình yêu mà Chúa Giêsu mong ước những người Ngài gọi và chọn cảm nghiệm [nếm cảm] và dành cho nhau. Hãy ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu! Chỉ khi yêu với tình yêu của Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu tại sao bóng thập giá và đau khổ không thể thiếu trong chuyện tình cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nói cách khác, tình yêu không chấp nhận thập giá và chết cho người mình yêu là một tình yêu vị kỷ, không bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Câu 10 nói về điều kiện để ở lại trong tình thương của Chúa Giêsu: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người.” Tình yêu hỗ tương được đề cập trong câu 9 được đặt nền tảng trên việc Chúa Giêsu và các môn đệ giữ điều răn và ở lại trong tình yêu của Chúa Cha. Trong câu này, chúng ta được mời gọi trở nên giống Chúa Giêsu trong việc vâng theo thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã làm mọi sự theo ý Chúa Cha, đến nỗi ý của Chúa Cha trở thành lương thực cho Ngài (x. Ga 4:34). Lương thực hằng ngày của chúng ta là gì? Mối bận tâm mỗi ngày của chúng ta có phải là thánh ý Thiên Chúa không?
Niềm vui của Chúa Giêsu là hoa trái việc ở lại trong tình yêu của Ngài được trình bày trong câu 11: “Các điều ấy [tình yêu của Chúa Cha, ở lại trong tình yêu của Ngài, tuân giữ các điều răn], Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.” Trong câu này, Chúa Giêsu phân biệt hai loại niềm vui: niềm vui của các môn đệ và niềm vui của Ngài. Niềm vui của các môn đệ chỉ nên trọn vẹn khi họ được hưởng niềm vui của Chúa Giêsu. Niềm vui này không phải là niềm vui đến từ thế gian. Niềm vui này đến từ tình yêu của Chúa Cha. Đây là niềm vui của ơn cứu độ mà Chúa Giêsu sẽ mang lại cho chúng ta qua cái chết và phục sinh của Ngài. Đây là niềm vui của tình yêu bất diệt và chân thật. Đây là niềm vui mà mỗi người chúng ta luôn khao khát và tìm kiếm! Hãy dừng tìm kiếm sự thoả mãn trong niềm vui chóng qua mà con người mang lại cho chúng ta. Nhưng hãy bắt đầu tìm kiếm sự thoả mãn trong niềm vui bất diệt mà Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô.
Nếu phân tích phần tương quan giữa Chúa Giêsu và các môn đệb và giữa các môn đệ với nhau trong bài Tin Mừng hôm nay (câu 12-17), chúng ta không khỏi không ngạc nhiên về cấu trúc tuyệt vời được viết theo kiểu “bánh mì kẹp” của Thánh Gioan:
A12 Khi ấy, đến giờ lìa bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
B13 Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.
C14 Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
B’16 “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em.
A’17 Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.”
Câu mở đầu và câu kết thúc (câu 12 [A] và 17 [A’]) giống nhau: Cả hai đều nói về lệnh truyền của Chúa Giêsu, đó là các môn đệ hãy yêu thương nhau với tình yêu Ngài dành cho họ. Đây là lệnh truyền họ phải tuân giữ và là luận đề dẫn đến cặp bánh mì thứ hai (câu 13 và 16). Tuy nhiên, chúng ta ngừng lại một chút ở đây để nói về lệnh truyền của Chúa Giêsu. Thông thường, chúng ta hiểu tình yêu là một “cảm xúc” và chúng ta thường yêu người khác theo cách thức của chúng ta. Vì vậy, chúng ta thấy dễ dàng yêu những người “hợp tính hợp nết” với mình, còn những người “khó tính khó nết” thì khó yêu. Khi Chúa Giêsu “biến” tình yêu thành “lệnh truyền,” Ngài muốn các môn đệ không dừng lại ở “cảm xúc” mang tính chủ quan khi yêu người khác, nhưng biến tình yêu thành một “quyết định” mang tính khách quan, tức là không còn yêu theo cách thức mình muốn, nhưng theo cách thức mà Chúa Giêsu đã yêu mến chúng ta. Cách thức này được trình bày trong cặp bánh mì thứ hai.
Cặp bánh mì thứ hai (câu 13 [B] và 16 [B’]) được trình bày với mệnh lệnh phủ định [“không có” và “không phải”], nhằm nhấn mạnh đến tính “độc nhất vô nhị” của điều [tình yêu] Chúa Giêsu nói đến. Đây là loại tình yêu cao cả nhất của người “hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình.” Đây cũng chính là tình yêu đã thúc đẩy Ngài đi bước trước trong việc chọn và cắt cử họ đi hầu sinh hoa trái. Chúng ta thấy hai đặc tính quan trọng trong tình yêu Chúa Giêsu dành cho các môn đệ là hy sinh tính mạng vì họ và chọn họ để họ [những người sẽ trao nộp, chối và bỏ Ngài] trở nên bạn hữu của Ngài. Nói đúng hơn, nét đặc trưng tình yêu của Chúa Giêsu là sẵn sàng chết cho những người “bất trung” với mình. Tình yêu của chúng ta thế nào? Chúng ta có yêu những người chúng ta không thích? Và chúng ta có sẵn sàng đón nhận những người làm chúng ta đau khổ vào trong tim của chúng ta qua việc tha thứ cho họ không? Hãy biến kẻ thù thành bạn, vì họ là những người đáng thương hơn là đáng ghét! Đây là điều Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ ngày xưa và chúng ta ngày hôm nay, và được trình bày trong phần giữa của bài Tin Mừng.
Trọng tâm của bài Tin Mừng nằm ở câu 14 và 15 [phần thịt, rau và gia vị được kẹp giữa]. Trong hai câu này, chúng ta thấy tương quan chủ-tớ và thầy-trò được đổi thành tương quan bạn hữu. Các môn đệ không còn đơn giản là học trò hay môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng là những người bạn hữu của Ngài, những người mà Ngài sẽ cho biết tất cả mọi việc Ngài nghe được từ Cha Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đưa ra một điều kiện cần thiết để chúng ta trở nên bạn hữu của Ngài, đó là chúng ta thực hiện [chứ không chỉ nghe suông] điều Ngài đã truyền dạy: yêu thương nhau [như Ngài đã yêu thương họ]. Ý nghĩa sâu xa việc Chúa Giêsu gọi các môn đệ là bạn hữu chỉ được hiểu khi chúng ta đặt câu nói của Ngài trong bối cảnh bữa tiệc ly và những lời từ biệt của Ngài. Trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu tiên báo việc Giuđa là kẻ sẽ nộp Ngài, Phêrô là người sẽ chối Ngài, các môn đệ còn lại sẽ bỏ Ngài mà chạy. Đây là những người Chúa Giêsu sẽ gọi là bạn và là những người Ngài sẽ hy sinh tính mạng cho họ. Người ta thường nói: Tìm bạn mà chơi. Có ai trong chúng ta dám tìm những người sẽ nộp, sẽ chối bỏ mình để làm bạn không? Chúng ta chỉ hiểu được ý nghĩa sâu xa tình yêu của Chúa Giêsu dành cho mỗi người khi chúng ta hiểu được chân lý “bạn hữu” này.
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 6 Phục Sinh, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Trong những ngày vui này, xin Chúa cho tất cả chúng ta biết đem lòng sốt sắng mừng Đức Kitô phục sinh, để Người hiện diện trong cuộc đời chúng ta và làm cho chúng ta được đổi mới.
Làm cho chúng ta được đổi mới, là ơn Thiên Chúa ban cho chúng ta nhờ Đức Kitô, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Gioan đã cho thấy: Sống hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con, chúng ta sẽ nhận ra mình tội lỗi, và cần đến ơn tha thứ của Đức Kitô: Nếu chúng ta nói là chúng ta hiệp thông với Người mà lại đi trong bóng tối, thì chúng ta nói dối và không hành động theo sự thật. Nhưng nếu chúng ta đi trong ánh sáng cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng, thì chúng ta được hiệp thông với nhau, và máu Đức Giêsu, Con của Người, thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi.
Làm cho chúng ta được đổi mới, là công trình hòa giải với Thiên Chúa, mà Đức Kitô đã mang lại cho chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Syrilô đã nói: Quả vậy, cả mầu nhiệm Nhập Thể cũng như cuộc canh tân kèm theo, đều không ngoài thánh ý Chúa Cha. Nhờ Đức Kitô, chúng ta được đến với Chúa Cha, như chính Người đã nói: Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy, mọi sự đều do bởi Thiên Chúa, là Đấng đã nhờ Đức Kitô, mà cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hòa giải.
Làm cho chúng ta được đổi mới, là ơn cứu độ phổ quát dành cho cả dân ngoại nữa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại việc thánh Phêrô làm phép rửa cho những người dân ngoại: Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ? Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 97, vịnh gia cũng kêu gọi toàn cõi đất hãy vui mừng vì cứu độ của Thiên Chúa: Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Làm cho chúng ta được đổi mới, là ơn huệ nhưng không xuất phát từ Thiên Chúa, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Gioan đã nói: Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thiên Chúa là tình yêu, biết Thiên Chúa là biết yêu, không biết yêu thì không biết Thiên Chúa. Tôi tớ không biết việc chủ làm, chúng ta là bạn hữu của Thiên Chúa, nếu chúng ta thực hiện những điều Chúa truyền dạy là: yêu như Chúa yêu. Tình yêu Thiên Chúa sẽ tẩy xóa và phủ lấp muôn vàn tội lỗi. Tình yêu của Thiên Chúa làm cho chúng ta được đổi mới, để trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Đức Kitô đã yêu chúng ta, đến nỗi, đã hiến mạng vì chúng ta, ước gì chúng ta luôn biết để cho tình yêu hiến tế của Người thanh luyện con tim chúng ta, để chúng ta có thể sống giới luật yêu thương như lòng Chúa ước mong. Ước gì được như thế!
Lm Thái Nguyên
Suy niệm
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu ký thác bí mật cuối cùng là lời di chúc quý báu nhất từ trái tim Ngài:“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Nhưng để yêu như Thầy yêu, thì điều cốt lõi là “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. “Ở lại” là đừng sống xa cách Ngài, đừng ra khỏi Ngài, nhưng hãy sống gắn bó với Ngài mọi nơi mọi lúc, qua mọi việc, như chim liền cánh như cây liền lành. Tất cả các cành cây đều được nuôi sống bằng một dòng nhựa, nên hiệp thông với Chúa khiến ta hiệp thông với nhau.
Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: Như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau. Yêu thương là một dòng chảy không ngừng phát xuất từ Cha, nên chúng ta không được biến nó thành ao tù, mà phải làm cho lan tỏa khắp nơi, đến với mọi người trên thế giới. Đức Giêsu muốn toàn thể nhân loại làm thành một cộng đồng tình yêu, không muốn các môn đệ chỉ loay hoay vun quén cho nhau để rồi làm thành một thứ Hội Thánh đóng kín. Vì vậy mà “Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi và sinh được hoa trái”.
Yêu thương là điều tự nhiên trong đời sống con người. Ai cũng muốn yêu và được yêu. Tuy nhiên, tình yêu không phải là thứ tình cảm cạn cợt và hời hợt như tình đời. Tình yêu mà Chúa Giêsu mong đợi nơi chúng ta là tình yêu hy sinh quên mình, để đem lại hạnh phúc cho con người. Bởi vậy, ta thấy dễ yêu nhưng yêu không dễ, như lời bài hát:“Đường vào tình yêu có nhiều trái đắng mang tên khổ qua”, hoặc “Trong tình yêu có trăm lần vui có vạn lần sầu”. Các cô họa thêm là: Trong tình yêu có trăm lần thua có một lần huề. Tình yêu là một tiến trình trải nghiệm gian nan nhất, có khi rơi vào tình trạng khổ sở và cay đắng nhất. Chúng ta không gặp tình yêu trong tình trạng đã tốt đẹp và có sẵn để mà hưởng, nhưng phải tập luyện và làm tăng trưởng mãi.
Thực tế có nhiều quan niệm về tình yêu, và vì có những quan niệm lệch lạc nên tình yêu bị biến chất, biến dạng, có khi còn biến thái. Trong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Đức Bênêđictô XVI cho thấy: chưa bao giờ “hai chữ tình yêu” bị lạm dụng như ngày nay. Trong một xã hội chạy theo lợi nhuận và hưởng thụ, nên những người trẻ cũng dễ yêu cuồng sống vội, tình yêu chỉ còn là một thứ chộp giựt. Trong một não trạng xã hội ngày càng tôn vinh thân xác và lạc thú, thì tình yêu trở thành trò đùa, hay thứ hàng hóa để mua bán đổi trao. Trong một xã hội mà người ta chỉ quan trọng vật chất và coi nhẹ giá trị tinh thần, thì tình yêu bị giảm thiểu xuống hàng thứ yếu. Bao nhiêu hỗn loạn phát sinh từ đó, vì đã đánh mất bản chất của tình yêu.
Tình yêu không phải là cảm xúc, cảm xúc đến rồi đi, chỉ có tình yêu là ở lại. Cảm xúc có thể là một tia sáng khai mở diệu kỳ, nhưng tổng thể của tình yêu không phải như thế. Tình yêu là một bước tiến vươn lên sự thiện hảo, luôn được đặt trong tiến trình thanh luyện và trưởng thành. Để đạt được mức độ trưởng thành của tình yêu, phải có sự góp phần của toàn thể con người, bằng sự kết hợp mọi khả năng của lý trí, ý chí, tình cảm, không chỉ là những hành động và kiểu cách bề ngoài.
Tình yêu không tìm chiếm đoạt mà tìm niềm vui trong sự trao ban, cho dù người khác không đáp trả, không biết ơn, không dễ thương, không xứng đáng. Tình yêu đích thực chỉ ao ước làm điều thiện cho mọi người, coi hạnh phúc của họ quan trọng hơn hạnh phúc của bản thân, dù nhiều khi phải trả giá đắt. Tình yêu có cái giá của nó, là chính thập giá để biểu hiện tình yêu. Chính nỗi đau mới dạy cho chúng ta cách thức yêu thương. Tình yêu như vậy trở thành sự từ bỏ, sẵn sàng trở thành lễ vật tặng ban như chính Chúa Giêsu, Đấng nâng cao chúng ta lên thành bạn hữu, và đã “hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”.
Thế giới ngày nay khao khát một tình yêu đích thực. Kitô hữu phải là nhân chứng của tình yêu ấy. Chúng ta không có dịp để chết cho người khác như cha Kônbê, nhưng ta luôn có nhiều dịp để sống cho anh em. Sống cho anh em là chết cho chính mình: chết qua những hy sinh âm thầm hằng ngày. Chết không đổ máu, nhưng đổ mồ hôi và nước mắt. Chết không chỉ một lần, nhưng chết dần mòn cho hạnh phúc của tha nhân. Kahil Gibran viết: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Chỉ khi thực sự yêu mến Chúa ta mới biết yêu thương tha nhân. Và chỉ khi thực sự yêu thương tha nhân ta mới nói lên được tình yêu mến Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Xin cho con hiểu rằng,
điều làm nên cuộc sống con hôm nay,
không phải là những công trình to tát,
kiến thức uyên bác hay là công trạng,
nhưng là tình yêu thương đầy tràn,
vì mọi sự sẽ qua đi, chỉ tình yêu là ở lại.
Xin cho con tận dụng mọi khoảnh khắc,
để sống với với nhau và cho nhau,
vui với người vui, khóc với người khóc,
chia sẻ và cho đi với tất cả tấm lòng.
Sống ở đời chỉ có thân phận và tình yêu,
thân phận thì giới hạn mà tình yêu vô hạn,
xin cho con biết sống bằng tình yêu,
là chính Chúa trong tất cả mọi điều.
Chúa đã yêu con thật quá nhiều,
mà tình con đáp trả chẳng bao nhiêu,
nên thánh ý Chúa chẳng mấy khi con hiểu,
vì chỉ ham sống theo kiểu của người đời,
lo sao cho danh lợi có thật nhiều,
mà quan trọng nhất là tình yêu lại thiếu.
Xin cho con đừng chạy theo nhãn hiệu,
kẻo đời con sẽ phải sống kiếp cô liêu,
vì thiếu tình yêu là điều tồi tệ nhất,
là chính ngục thất khiến cho đời tàn úa.
Xin gột sạch trái tim con nhem nhúa,
để có một tình yêu tinh ròng như Chúa,
biết quên mình và quảng đại hy sinh,
trong mọi nơi mọi lúc sống tận tình,
yêu người như Chúa đã yêu con,
là bằng chứng vẹn tròn con yêu Chúa. Amen.
DÒNG SUỐI YÊU THƯƠNG TỪ THIÊN CHÚA
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Nhiều người hay thắc mắc: Tại sao cha là con trai mà lại tên “Tuyền”? Tôi nói rằng “Tuyền” là suối. Duy Tuyền là một Dòng Suối. Giống như người ta vẫn nói Cửu Tuyền là chín suối. Thế nên tên tôi là Duy Một Dòng Suối. Một dòng suối thật tự do tự tại, thanh thoát mà lại có ích cho đời như bài thơ ai đó đã viết:
Tôi là con suối nhỏ
Nằm dưới tàng cây xanh
Bạn của sương của gió
Của hoa thơm trái lành
Tuổi thơ ai cũng từng tắm suối, đùa giỡn với chúng bạn dưới dòng suối trong mát giữa trưa hè. Lặng đứng bên suối ngắm dòng trôi, ta thấy con suối luôn miệt mài đêm ngày mang dòng nước mát cho đất nảy mầm ươm lộc suốt dọc đôi bờ. Con suối cứ âm thầm, lặng lẽ mà dâng hiến cho đời như dòng sữa mẹ đi qua ngàn năm thương nhớ. Dòng suối luôn cho đi mà không tính toán. Không bon chen với đời. Dòng suối cống hiến cho đến khi tan lẫn trong dòng sông lúc nào không hay.
Tôi là con suối nhỏ
Bước chân không biết dừng
Mang niềm vui bày tỏ
Với dòng sông mênh mông
Lời Chúa Chúa nhật 6 mùa phục sinh cho ta thấy Thiên Chúa là Tình Yêu, mà đặc tính của tình yêu là thông ban, là lưu chảy như nước từ khe suối đầu nguồn trút hết vào các dòng sông rồi tuôn chảy vào đại dương.
Dòng suối yêu thương của Chúa luôn êm đềm, bình thản như con suối lặng lẽ tràn qua muôn tâm hồn, rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi và tái tạo cho con người một tâm hồn trong sạch đầy ân sủng Chúa.
Dòng suối ấy bắt nguồn từ Chúa Cha. Qua Chúa Giê-su mang đến trần gian và đi qua những gập ghềnh khổ giá để mang tình yêu ấy thẩm thấu đến muôn tâm hồn con người. Ngài đã dốc cạn dòng suối tình yêu ấy để cho chúng ta được sống và sống dồi dào trong ân sủng của Ngài.
Và đến lượt chúng ta, Ngài kêu mời hãy trở thành những con suối nhỏ mang tình yêu Chúa đến mọi ngõ ngách của cuộc đời. Đây không chỉ là lời mời gọi mà là huấn lệnh của Chúa đòi buộc chúng ta:
“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Gioan 15,12)
Ước gì những con suối nhỏ nơi tầm hồn chúng ta đừng để cho hận thù, chia rẽ, nghi kỵ… trong lòng trở thành những chướng ngại vật cản trở dòng chảy của tình yêu Thiên Chúa đến với anh chị em chung quanh. Hãy để tâm hồn mình như dòng suối trong lành với một tình yêu không tính toán thiệt hơn, không vu lợi. Hãy để cho tình yêu của mình như dòng suối giầu lòng quảng đại mang đến cho tha nhân sự ấm áp, vui tươi và hạnh phúc.
Điều quan trọng là xin Chúa cho chúng ta luôn ở lại trong tình yêu Chúa nhờ đó mà chúng ta có khả năng mang tình Chúa đến cho muôn người. Amen
Bông hồng nhỏ
Khi yêu thương ai, người ta luôn mong muốn được yêu mãi không ngơi nghỉ, luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc, bình an. Nhất là trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, người ta trao gửi hết cho nhau những niềm tâm sự, những yêu thương nồng nhiệt và cả những yêu thương thầm kín. Thầy Giêsu – Đấng đã yêu thương các môn đệ đến cùng – trong Bữa Tiệc Ly, Người cũng đã dốc bầu tâm sự với các môn sinh. Người dạy dỗ các ông, và nhắn nhủ: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15, 17).
Được chung bàn tiệc với Thầy Giêsu và các môn đệ trong bữa tiệc này, lắng nghe từng lời Thầy, lòng ta bừng lên một nỗi khát khao cháy bỏng: được yêu như Thầy. Lặng ngắm khuôn mặt của Thầy, để ý đến từng hành động, ánh mắt và mỗi lời nói của Thầy Giêsu, ta nhận ra tất cả đều diễn tả một người đang yêu. Người trìu mến nhìn từng người, giọng nói của Người lúc khoan thai, lúc mạnh mẽ và quả quyết, lúc lại ôn tồn rỉ rả. Người khẳng định rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9). Chúa Cha đã yêu thương Chúa Giêsu như thế nào? Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, khi Người vừa lên khỏi nước, lúc ấy các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (x. Mt 3, 16-17). Chúa Cha yêu Chúa Giêsu bằng tình yêu hiền phụ. Chúa Giêsu đáp lại tình yêu của Người bằng tình yêu con thảo (Lm. Gioan Nguyễn Như Yêng). Chúa Giêsu luôn lắng nghe và thi hành mọi ý muốn của Chúa Cha, vì người yêu Chúa Cha trên hết mọi sự, trên cả mạng sống mình. Người cũng yêu nhân loại đến cùng, đến nỗi tự nguyện trao nộp chính mình để chuộc tội cho nhân loại, để con người được giao hòa với Thiên Chúa, được trở lại sống tình con thảo với Chúa Cha. Người mời gọi ta hãy ở lại trong tình thương của Người. Người cho ta được tự nguyện đến với Người, đón nhận tình yêu của Người. Khi đã ở trong tình thương của Người, ta hãy ở lại, đừng rời đi, nghĩa là hoàn toàn hiện diện với trọn con người mình. Có nhiều khi, ta đến với Người nhưng chẳng ở bên Người vì tâm tư ta đang bận tâm đến người khác, những việc khác. Thiên Chúa luôn tuôn đổ tình yêu xuống trên cuộc đời ta. Người hiện diện với ta nhưng ta không nhận ra. Bởi vì, ta chưa yêu Người như Người đã yêu ta vậy.
Đâu là cách để ta thẩm định tình yêu mà ta đã dành cho Chúa Giêsu? Chúa Giêsu mời gọi ta hãy luôn ở lại trong tình thương của Người bằng cách giữ các điều răn của Người. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Nếu ta thật lòng yêu Chúa, ta sẽ luôn mong muốn làm mọi điều mà Người truyền dạy. “Hãy yêu thương nhau”, lời mời gọi ấy phải luôn được ghi tạc trong lòng ta. Ta được trở nên môn đệ của Chúa, đó là một hồng ân. Vì ơn gọi luôn khởi đi từ Thiên Chúa: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” (Ga 15,16). Mỗi khi ta làm bất cứ điều gì, ta hãy ý thức mình làm nhân danh Chúa, bởi vậy những gì ta đang làm phải luôn diễn tả tình yêu. Sống chứng tá tình yêu đòi hỏi ta phải chết đi mỗi ngày, chết đi với chính con người đầy ích kỷ nơi mình. Trước khi nghĩ đến việc mình sẽ được nhận lại điều gì từ người khác, ta hãy nghĩ đến điều cốt yếu này: Thiên Chúa muốn tôi làm gì cho họ, hay nghĩ đến việc tôi làm có đẹp lòng Chúa không. Đừng chỉ nghĩ cho riêng mình nhưng hãy học cách nghĩ cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn ở lại với con và yêu thương con. Mỗi lần con mệt mỏi trong việc yêu thương anh chị em con, xin cho Lời của Chúa vang lên trong con, thức tỉnh con và ban sức mạnh cho con để con đi bước trước trong tình yêu. Xin Chúa cho con luôn nhớ rằng: Con được Chúa sai đi, vì vậy con phải biết ra khỏi mình để đến với anh chị em, luôn trổ sinh hoa trái tình yêu trong đời sống. Xin cho con luôn xét mình về hai khía cạnh này: lòng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người. Amen.
Thiên San
Tình yêu là chủ đề muôn thuở được nhiều thi sĩ, nhạc sĩ khai thác. Cũng từ đó, nhiều tác phẩm văn học, ca khúc bất hủ được ra đời. Tuy nhiên, tất cả chỉ mới phản ảnh phần nào đó vẻ đẹp của tình yêu và còn hạn hẹp bởi ngôn ngữ loài người. Tình yêu là hương vị của cuộc sống. Đó là tình yêu giữa con người với nhau và cả tình yêu của Đấng Tạo Thành dành cho con người. Qua Đức Giêsu, tình yêu Thiên Chúa được mạc khải một cách cụ thể, rõ nét và trọn vẹn. Tình yêu ấy cao cả, khôn dò khôn thấu. Và nhất là “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người không bao giờ thay đổi. Đó là tình yêu của tự hiến, tự hủy. Tình yêu ấy tỏ lộ trọn vẹn nơi Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Đối với những kẻ tin, Đức Giêsu thật sự là Con Một Thiên Chúa. Trên thánh giá, Người bày tỏ và lột tả tình yêu của Ngài dành cho nhân loại cụ thể hơn bao giờ hết. Đó là cách yêu của Ngài. “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9). Đức Giêsu đã luôn yêu theo cách mà Ngài đã được yêu. Bởi đó, không có sự chiếm hữu hay sai lầm trong tình yêu của Ngài. Tình yêu ấy thôi thúc Ngài mong mỏi cho những kẻ Ngài yêu cũng được ở lại trong tình yêu của Ngài. Ngài mời gọi họ hãy ở lại trong tình thương của mình qua việc tuân giữ các giới răn của Ngài.
Điều răn Thầy để lại chính là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Yêu như Thầy đã yêu phải chăng là Thầy yêu làm sao con yêu làm vậy. Nghe thì có vẻ dễ nhưng để thực hành thì chưa hẳn. Yêu như Thầy là yêu hết mọi người, không loại trừ ai, kể cả kẻ thù (x. Mt 5, 44). Cách yêu của Thầy Giêsu mạnh mẽ, lớn lao đến độ sẵn sàng hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình. Cách yêu ấy đòi buộc ta phải bỏ mình và luôn sẵn sàng đón nhận người khác như họ là. Mặt khác, để yêu như Thầy thì buộc ta phải có được kinh nghiệm thực sự, được đụng chạm, được cảm nhận Thầy yêu ta như thế nào thì mới có thể bắt chước được. Đó không phải là một sự hiểu biết mơ hồ, lý thuyết qua sách vở nhưng là kinh nghiệm, là đụng chạm. Kinh nghiệm đó rất cá vị.
Thực tế cho thấy, chúng ta có khuynh hướng yêu theo cách ta hiểu, cảm nhận. Tình yêu của ta là tình yêu vị kỷ, chiếm hữu. Đến bao giờ ta mới yêu được theo cách của Thầy? “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Chiêm ngắm tình yêu của Chúa, ta thấy nó đẹp dường nào nhưng cũng khó biết bao. Bao lâu ta còn nghĩ đến mình, yêu mình hơn tất cả thì bấy lâu ta hãy còn xa tình yêu Chúa và cách yêu của Chúa. Nếu yêu theo cách của ta, ta sẽ chỉ muốn yêu những kẻ hợp với ta, những kẻ yêu thương, mang lại lợi ích cho ta. Và khi ấy, ta mới chỉ sống theo luật cũ: “yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,31). Yêu như vậy nhiều khi ta dễ bị sai lầm và dẫn đến đổ vỡ. Bởi, nếu ta yêu mình chưa đúng cách thì làm sao yêu tha nhân đúng cách được.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con, cứu chuộc chúng con bằng giá máu châu báu của Chúa. Xin cho chúng con được ở lại trong tình yêu của Chúa. Vì chỉ khi ở lại trong tình yêu của Ngài, chúng con mới có khả năng yêu theo cách của Chúa. Xin Chúa không ngừng dạy bảo, hướng dẫn chúng con đi trên lối đường tình yêu của Ngài và tin nhận rằng chính Ngài là Đấng chọn gọi chúng con. Amen.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Từ lâu nay có những con cá voi, khi thì một vài con, khi thì cả đàn lên đến hàng chục, hàng trăm con, không biết vì lý do gì, lại từ bỏ đại dương như lòng mẹ hằng đùm bọc ấp ủ chúng, để bơi ngược vào bờ nên bị mắc cạn, rồi phơi mình trên bờ biển chờ chết.
Những tổ chức bảo tồn sinh vật biển nỗ lực cứu mạng chúng, dùng những chiếc tàu kéo đưa chúng ra khơi, trả chúng về với lòng mẹ đại dương, nhưng rồi sau đó chúng lại bơi vào bờ, nằm chết thối trên cạn. Đó là những cái chết tự chọn thật khó hiểu và có vẻ điên rồ!
Loài cá thì phải sống trong nước, ngày nào rời khỏi nước thì cá chết.
Tương tự như thế, loài người được Chúa sinh ra để sống trong tình yêu; Nếu sống ngoài tình yêu thì con người cũng phải gánh lấy hậu quả tai hại.
Khi con người xa lìa tình yêu, không sống trong tình yêu thì con người cũng tự chọn tai họa cho mình như những con cá voi mắc cạn trên đây.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu Ngài bao la như trời như biển. Ngài muốn chúng ta được sống hạnh phúc trong biển tình yêu dào dạt của Ngài. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su tha thiết mời gọi chúng ta hãy ở lại trong biển tình yêu vô bờ đó. Ngài nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.”
Trước lời mời gọi nầy, chúng ta có hai lựa chọn: Một là ở lại trong tình yêu; hai là ở ngoài tình yêu.
Ai là người ở lại trong tình yêu?
Người ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa là người tuân giữ các giới răn như lời Chúa Giê-su dạy: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người.”
Mà giới răn quan trọng nhất là luật yêu thương. Vì thế, ai yêu thương, phục vụ, giúp đỡ người chung quanh thì người ấy đã giữ tròn giới răn của Chúa và đang ở lại trong tình yêu của Ngài.
Ai ở lại trong tình yêu thì sẽ được hưởng phúc đời đời trên thiên đàng với Chúa. Đến ngày phán xét, Chúa Giê-su hoan hỉ tuyên bố với những người nầy rằng: “Nào, những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các con từ thuở tạo dựng vũ trụ…” vì các con đã thực lòng yêu thương (Mt 25, 34).
Còn số phận những người ở ngoài tình yêu thì sao?
Ai không giữ giới răn của Chúa, nghĩa là không yêu thương, phục vụ, giúp đỡ những người lâm cơn quẫn bách, thì người đó ở ngoài tình yêu; người đó tự rời xa khỏi tình yêu như cá trườn mình ra khỏi nước, người ấy tự chọn cho mình án phạt đời đời.
Đến ngày phán xét, Chúa Giê-su nghiêm khắc lên án những người nầy bằng những lời đáng kinh sợ! Ngài nói: “Hỡi quân bị nguyền rủa kia! Đi đi cho khuất mắt Ngài mà vào lò lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và bè lũ của nó…” vì các ngươi chẳng có lòng yêu thương (Mt 25, 41).
Đây là hậu quả khủng khiếp mà người sống xa lìa tình yêu phải gánh chịu.
Lạy Chúa Giê-su,
Khi đàn cá rời khỏi nước thì chúng phải chết thối, chết khô; tương tự như thế, khi chúng con xa lìa tình yêu, nghĩa là không tuân giữ luật yêu thương Chúa dạy thì chúng con sẽ phải chịu đau khổ đời đời.
Xin giúp chúng con sống đời bác ái, chia sớt đùm bọc nhau, phục vụ chăm sóc những người lâm cảnh khốn cùng… nhờ đó, chúng con được sống hạnh phúc muôn đời trong biển yêu thương của Chúa. Amen.
YÊU THƯƠNG LÀ MÙA XUÂN HẠNH PHÚC
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
“Thiên Chúa là Tình Yêu”. Đây là di ngôn bất hủ của Thánh Gioan sau một đời theo Chúa. Thánh nhân đã được diễm phúc tựa đầu vào lòng Chúa trong tiệc ly, lắng nghe những thổn thức yêu thương của Chúa.Thánh nhân đã đi theo Chúa trên con đường thập giá đến tận đồi Canvê, được Chúa trối thay Ngài làm con Đức Mẹ. Sau đó là những năm tháng dài suy niệm chín mùi về con người, cuộc đời và tình yêu của Chúa, để sau cùng cất lên di ngôn bất hủ ấy. Thiên Chúa yêu thương tạo thành con người giống hình ảnh Người và mời gọi chung chia hạnh phúc muôn đời. Người yêu thương nên hứa cứu độ con người sau khi con người sa ngã phạm tội. Và Người đã ban Con Một để thực hiện cứu độ, hồi phục lại quyền làm con Thiên Chúa và được hưởng sự sống đời đời với Thiên Chúa.
Suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã biểu hiện tình thương vô vàn của Cha bằng sự hoàn toàn vâng phục thánh ý Cha trong mọi sự và vâng phục đến chịu chết thập giá. Suốt một đời, Chúa Giêsu miệt mài rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, chạnh thương đoàn chiên không người chăn dắt, đi lại và đồng bàn với người tội lỗi để ban ơn tha thứ cho họ. Chúa Giêsu ban luật mới là luật yêu thương mà thánh Phaolô quả quyết “yêu thương là chu toàn tất cả lề luật”. Chúa Giêsu dạy, vào ngày chung thẩm, Ngài sẽ xét xử mọi người dựa trên tình yêu : Sự gì làm cho một người bé mọn là làm cho chính Ta. Cuộc đời kitô hữu được mời gọi hãy sống yêu thương. Chỉ có tình yêu mới đem lại hạnh phúc. Chúa xét đoán chúng ta không dựa trên tuổi tác, công phúc, tài đức, nhưng chỉ dựa trên tiêu chuẩn độc nhất là yêu thương, vì Người là Thiên Chúa tốt lành, nhân hậu và giàu lòng thương xót.
Tin Mừng hôm nay, tiếp nối khung cảnh Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về ẩn dụ cây nho và cành nho để dạy các môn đệ bài học: ở lại trong tình yêu của Chúa : “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Điều răn của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như vậy, muốn “ở lại trong tình yêu của Chúa”, chúng ta phải yêu thương nhau “như Chúa đã yêu” chúng ta. Chúa còn hứa ban cho những ai biết yêu “như Chúa đã yêu” sẽ được hưởng niềm vui của Chúa, được làm bạn hữu của Chúa và muốn xin gì Chúa cũng ban cho.
Vì thế, khi nói đến Kitô giáo, cách riêng Công giáo là người ta nghĩ ngay đến hai từ “bác ái”. Bác ái không nguyên là yêu thương nhau theo kiểu “thương người như thể thương thân” mà còn phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.
- Như Chúa Giêsu đã yêu
Thánh Augustinô viết : khi nói “yêu như Thầy đã yêu mến các con” là Chúa Giêsu nói đến tình yêu thí mạng : “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 14, 13). Quả thật, chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Các con là bạn hữu” (Ga 14, 14). Chúa đã yêu các môn đệ nói riêng và con người nói chung bằng tình yêu hiến dâng mạng sống.
Thánh Augustinô nói tiếp : “Yêu như Thầy đã yêu các con“, khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Tình yêu của Chúa được biểu lộ qua những việc làm cụ thể sau đây.
Chúa yêu thương con người cả phần hồn lẫn phần xác. Chúa chữa lành bệnh tật phần xác như cho kẻ què được đi, người câm nói được, người mù sáng mắt, người phung hủi được sạch… và còn xua trừ ma quỷ, thứ tha tội lỗi… Chúa không chỉ ban lời hằng sống mà còn dùng quyền năng để nuôi đám đông dân chúng mà Tin Mừng tường thuật qua phép lạ hóa bánh (x. Lc 7,22; Mt 14,13-21; Mc 6,30-44; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15).
Chúa quan tâm săn sóc con người cả đời này lẫn đời sau. Sau phép lạ hóa bánh, Chúa mời gọi dân chúng hãy lo tìm kiếm lương thực đem lại sự sống trường sinh, đó là tin vào Người là Đấng mà Chúa Cha sai đến (x. Ga 6,26-29).
Chúa vừa khoan dung tha thứ cho người có tội nhưng vừa quyết liệt tẩy trừ tội lỗi và lên án các gương mù, gương xấu, nhất là khi chúng gây dịp tội cho những người bé mọn.
Khi yêu thương, Chúa sẵn sàng đón nhận mọi khó khăn, đau khổ xảy đến cho mình, nhưng Người luôn tìm cách bảo vệ, gìn giữ những kẻ Chúa Cha đã ban cho Người khỏi những sự dữ (x. Ga 10,28; 17,11-12; 18,8-9). Người sẵn sàng đón nhận lời vu cáo, nhưng vẫn công bố lời chân lý trước cả thần quyền lẫn thế quyền (x. Mt 26,59-66; Ga 18,33-38)…
- Anh em hãy yêu thương nhau
Con người được dựng nên để sống và sống để yêu Chúa và để yêu nhau. Thiên Chúa là tình yêu nên đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận đau thương để đem lại yêu thương cho con người. Người đã biến đổi viên mãn của đau thương thành viên mãn của yêu thương qua cuộc khổ nạn (x. 1Cr 15,26 . 54; Dt 2,14), để từ trong cái chết vì tình yêu, sự sống vươn lên tươi đẹp như một mùa lúa mới (Ga 12, 24).
Chúa Giêsu không đòi hỏi các môn đệ phải làm được những công việc lớn lao, nhưng muốn “các con hãy thương yêu nhau”.
Nói lời yêu thương thì dễ, nhưng để thực hành giới răn yêu thương không dễ chút nào. Yêu thương đòi hỏi hy sinh, chấp nhận chịu thua thiệt và có khi chấp nhận tổn hại đến bản thân và cả mạng sống.
Yêu thương là ban tặng trái tim của mình cho người yêu; yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu : “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3,16); “ Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau.Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.Không ai thật sự yêu thương mà lại không sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu. Ai nói mình yêu thương mà lại không muốn hy sinh, kẻ ấy nói dối, hay tình yêu của kẻ ấy chỉ là trên môi miệng.
Yêu thương còn là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình.
Yêu nhau là đón nhận nhau: đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu.
Yêu nhau còn là gắn bó với nhau, càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình.
Tình yêu làm hỗn mang trở nên mầu nhiệm sự sống. Và cũng chính tình yêu ấy làm cho sự sống trường tồn bất diệt khi vượt qua sự chết. Thiên Chúa đã bước vào trần thế bằng thân thể, bằng hình hài, và mang trái tim bằng thịt. Cuộc sống trở nên kỳ diệu khi Thiên Chúa biểu lộ bằng trái tim của nhân loại. Thiên Chúa, Người yêu thương chúng ta bằng trái tim con người và bằng trái tim của Thiên Chúa. Sự chết không thể chôn kín được tình yêu, bởi sức mạnh của tình yêu là làm cho sống.
Chúng ta phải yêu thương nhau vì chính Thiên Chúa và Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19); “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16).
- Dùng thời gian để yêu thương
Thiên Chúa là thời gian và là tình yêu. Chúng ta quý trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa.
Thời gian quý giá như vàng ngọc. Bởi vậy:
Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn sức mạnh.
Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự khôn ngoan.
Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ hội để giúp người khác.
Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của tâm hồn.
Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo những gì thuộc về tương lai
Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội để gặp Chúa.
Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa.
Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này.
Giá trị đời người không được tính bằng thời gian ngắn hay dài, nhưng ở chỗ mình đã sử dụng nén bạc thời gian, sức khỏe, trí tuệ Chúa ban để phục vụ cuộc sống ra sao. Giá trị ở chỗ mình đã sử dụng thời gian như thế nào, có sinh nhiều ích lợi cho mình, cho tha nhân và cho thế giới hay không.Thời gian qua đi thật mau và chẳng chờ đợi ai. Sống có ý nghĩa là làm cho thời gian hiện tại trở thành yêu thương.
Và như thế, được sống ở trên đời phải là một hồng ân, được một phút giây hiện hữu phải là một lời ca ngợi và được một ngày phục vụ yêu thương là một mùa xuân hạnh phúc. Và như thế, chúng ta có thể nói lên trong thanh thản vui tươi như Kahil Gibran : Cám ơn đời mỗi sáng mai thức dậy.Ta được thêm ngày mới để yêu thương.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Chủ đề chính mà Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm và sống đó là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương.” Quả thế, tình yêu là cốt lõi của Kitô giáo. Tình yêu là giới răn quan trọng nhất và cũng là bản tóm lược mọi giới răn. Vì thế, chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của chủ đề này dưới ánh sáng của các bài đọc hôm nay.
1- Thiên Chúa yêu hết mọi người
Trong bài đọc I, tác giả sách Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh đến tính phổ quát của tình yêu Thiên Chúa dành cho mọi người. Khi đến rao giảng cho Dân Ngoại, thánh Phêrô nhận thấy rằng quyền năng của Đấng Phục Sinh cũng được bày tỏ nơi họ; Thiên Chúa yêu hết mọi người và ban ơn cứu độ cho hết thảy mọi chư dân. Thánh Phêrô vào nhà ông Conêliô và gặp gỡ mọi người ở đó, họ không phải thành phần thuộc dân Do Thái, nhưng họ vẫn được đón nhận Chúa Thánh Thần. Bởi thế, thánh Phêrô kết luận: Tình yêu Thiên Chúa không giới hạn hay loại trừ ai. Thiên Chúa yêu hết mọi người, mọi quốc gia, mọi chủng tộc, cả những tổ chức nhân loại và những nhóm tôn giáo khác vốn được coi là ở ngoài trái tim Thiên Chúa, hay ngoài Giáo Hội. Mỗi người là con cái Thiên Chúa. Đây là tình yêu phổ quát mà Thiên Chúa dành cho viên đại đội trưởng Conêliô và những người Dân Ngoại. Với thị kiến và kinh nghiệm mới mẻ này về tình yêu của Thiên Chúa, Phêrô hiểu rằng những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch thì sao con người gọi là ô uế (x. Cv 10,9-16)! Tình yêu đó đã khiến Phêrô không ngần ngại đến với họ, rao giảng Lời Chúa và làm phép rửa cho họ.
Trong bài đọc II, thánh Gioan quả quyết rằng nguồn mạch đức ái hay nguồn mạch tình yêu của chúng ta bắt nguồn từ chính tình yêu phổ quát của Thiên Chúa: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” (1 Ga 4,7b).
Quả thế, Thiên Chúa yêu chúng ta trước, ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Người yêu chúng ta và muốn cứu độ chúng ta nên đã sai Con Một của Người xuống làm người, chết và phục sinh. Như thế, Chúa Cha yêu mến Chúa Con, Chúa Con yêu mến chúng ta và giờ đây, chúng ta hãy yêu thương nhau. Tình yêu phát xuất tình yêu. Chúng ta được sinh ra từ tình yêu Thiên Chúa, giờ đây, chúng ta hãy thể hiện tình yêu đó đối với tha nhân.
2- Gia phả hệ về tình yêu
Đây cũng chính là chủ đề căn bản trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9). Có thể nói rằng đoạn Tin Mừng này là “bảng gia phả” về tình yêu: Chúa Cha yêu mến Chúa Con, và Chúa Con yêu mến chúng ta; đến lượt chúng ta cũng phải quy hướng về nguồn gốc tình yêu mà chúng ta được sinh ra. Nên Chúa Giêsu nói: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.”
Nhưng ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu không phải là một điều gì đó tĩnh lặng, cũng không phải là ở một cuộc sống êm đềm, lánh đời xa mọi người. Làm sao chúng ta có thể ở lại trong tình yêu của Người? Chúa Giêsu trả lời cho chúng ta: “Hãy giữ các giới răn của Thầy.” Vậy đâu là giới răn của Chúa mà chúng ta cần phải tuân giữ? Câu trả lời có ngay ở đây: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Nói cách khác, Chúa Giêsu nói rằng hãy tiếp tục sống gia phả tình yêu chúng ta: Thầy đến từ Thiên Chúa Cha là Tình Yêu, Đấng đã yêu mến Thầy và sai Thầy đến và yêu thương anh em. Giờ đây, anh em hãy yêu thương nhau. Đừng để cho tình yêu của Chúa Cha vô hiệu quả hay không mang lại hoa trái gì cho đời sống chúng ta.
3- Yêu thương như Thầy đã yêu
Để tình yêu của chúng ta sinh hoa trái nhiều, chúng ta hãy nhìn vào cách thức mà Chúa Giêsu thể hiện tình yêu đối với chúng ta. Người nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa… Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15,15). Chúa Giêsu là Thiên Chúa, còn chúng ta là thụ tạo, nhưng Người đối xử với chúng ta như bạn hữu, nghĩa là ngang hàng, bình đẳng và tôn trọng. Việc Người đối xử với chúng ta như bạn hữu có nghĩa là sẵn sàng chia sẻ những gì Người đã nghe biết từ Chúa Cha. Chúng ta được mời gọi học nơi Chúa Giêsu về điểm này, để xây dựng mối tương quan bằng hữu với tha nhân, sống và loan truyền tình bằng hữu với anh chị em này mỗi ngày trong đời sống như một thứ linh đạo cho các mối tương quan liên vị. Theo đó, chúng ta không nhìn và đối xử với người khác như là những nô lệ, như hàng hóa hay như đối tượng để lợi dụng và lạm dụng cho lợi ích riêng của mình, và khi chúng ta không cần đến họ nữa, hay thấy họ không còn lợi ích gì nữa, chúng ta loại trừ và vứt bỏ họ ra ngoài một cách không thương tiếc. Không thể chấp nhận! Nhưng chúng ta hãy đối xử với mọi người như Chúa Giêsu đã đối xử, hãy coi họ như bạn hữu, chứ không phải là kẻ thù, hãy coi họ đều là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa cần được tôn trọng, yêu mến và phục vụ.
Như thế, “yêu thương như Thầy” cũng có nghĩa là đối xử với người khác như bạn hữu. Vì Chúa Giêsu yêu thương chúng ta như bạn hữu, chúng ta hãy đối xử với nhau như là bạn hữu. Hơn nữa, Chúa Giêsu nói về tình yêu cao cả nhất: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Nếu tôi nhìn thấy người khác là bạn hữu như Chúa Giêsu đã yêu, tôi sẽ tôn trọng họ và hiến mình cho họ. Và nếu tôi nhận thấy mình là hoa trái tình yêu của Chúa Kitô, một tình yêu vị tha hoàn toàn vì chúng ta, tôi cũng sẽ hiến thân vì người khác.
Mặc dầu ngày hôm nay, chúng ta không được mời gọi phải tử đạo bằng cái chết đau đớn, nhưng bằng việc hiến thân mình cho người khác hằng ngày trong đời sống, bằng cách yêu mến họ theo cách thức mà Chúa Giêsu dạy chúng ta là đối xử với nhau như bạn hữu của Chúa.
Ở phần cuối, Chúa Giêsu còn muốn nói đến sứ mạng của chúng ta là được sai đi để sinh nhiều hoa trái. Đó là tình yêu truyền giáo. Nghĩa là chúng ta được sai đi truyền giáo không phải để làm một số công việc, nhưng là để làm phát sinh nhiều hoa trái tình yêu.
Sống một xã hội đang bị sa mạc hóa về tình thương, chúng ta được mời gọi phải phục hồi gốc rễ tình yêu của chúng ta chính bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Tình yêu đó phổ quát dành cho hết mọi người. Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên đã sai Chúa Con và Thánh Thần đến với chúng ta. Chúa Giêsu đã yêu thương và hiến mình vì chúng ta. Nên giờ đây, chúng ta được mời gọi kiến tạo và làm phát sinh tình yêu đối với tha nhân. Nhờ đó, chúng ta biến xã hội này trở thành một đại gia đình mà trong đó, con người đối xử với nhau bằng sự thật, công lý và bác ái của Tin Mừng. Amen!
Trầm Thiên Thu
Thiên Chúa luôn yêu thương và mời gọi mọi người: “Phàm nhân hỡi, Ta mời gọi các ngươi đó, Ta ngỏ lời với các ngươi, hỡi con cái loài người.” (Cn 8:4) Trước tiên chúng ta phải nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất và chỉ tôn thờ một mình Ngài. Sau đó còn các dạng mời gọi khác, cụ thể nhất là hoàn thiện để nên thánh.
Con người yếu đuối và sa ngã, nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc, vẫn tiếp tục mời gọi vì muốn cứu chúng ta. Thánh Catherine Genoa cho biết: “Khi linh hồn sống trong tình trạng tội lỗi, Thiên Chúa tự nội tâm không ngừng thúc bách và mời gọi. Nếu linh hồn đáp ứng những lời than van dịu hiền của Ngài, thì với lòng yêu thương tinh ròng như trước, Ngài tiếp nhận họ vào lại ân sủng của Ngài. Ngài không muốn nhớ lại linh hồn ấy đã từng sai lỗi, và Ngài không ngừng tỏ cho họ thấy mọi phúc lành họ có thể lãnh nhận.”
Thật lạ lùng, mặc dù chúng ta chỉ là tội nhân xấu xa, nhưng vẫn được Thiên Chúa yêu thương, tôn trọng: “Ta đã phán: các ngươi là những bậc thần thánh.” (Ga 10:34) Là “bậc thần thánh” thì không thể không nỗ lực hoán cải để nên thánh thực thụ. Ngài xác định: “Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ.” (Ga 10:35) Ngài đã hứa thì không bao giờ rút lời. Tuyệt đối.
Từ ngàn xưa, “sự thánh” đó đã được chứng minh: “Trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương, nên Ta đã thí bao người đổi lấy ngươi, nộp bao dân nước thế mạng ngươi.” (Is 43:4) Chúng ta chỉ là phàm nhân, là bụi tro nhưng lại được Thiên Chúa quý mến, coi trọng. Vô cùng kỳ diệu, chúng ta không thể hiểu nổi, nhưng đó là sự thật. Vì thế mà chúng ta càng phải nỗ lực sống tốt hơn để không phụ lòng Ngài.
Trong Thánh Lễ có nghi thức chúc bình an bằng cách cúi đầu chào nhau, thiết tưởng đó cũng là cách giúp chúng ta tôn trọng nhau, lịch sự tối thiểu. Ngày xưa, khi ông Phêrô bước vào, ông Conêliô ra đón và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy. Nhưng ông Phêrô đỡ ông ấy lên và nói: “Xin ông đứng dậy, vì bản thân TÔI ĐÂY CŨNG CHỈ LÀ NGƯỜI PHÀM.” (Cv 10:25-26) Phong cách khiêm nhường thật đáng khâm phục. Không phải dễ mà nói được và làm được như ông Phêrô, vì “cái tôi” trong mỗi chúng ta luôn to lớn, lúc nào cũng rình “vùng lên,” và chúng ta gọi đó là tự ái.
Thiên Chúa mời gọi bất cứ ai, như ông Phêrô xác định: “Quả thật, tôi biết rõ thiên chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.” (Cv 10:34-35) Thiên Chúa không thiên vị, nhưng chúng ta thiên vị, do đó mà chúng ta thường coi trọng mối quan hệ này hơn mối quan hệ khác. Người giàu sang và có địa vị luôn được đề cao, còn người nghèo khó luôn bị coi thường. Ngay cả trong nhà thờ cũng có chỗ cao và chỗ thấp! Phải chăng người ngồi chỗ cao thì gần Chúa hơn và được nhiều ơn hơn người ngồi chỗ thấp? Tại sao có sự phân biệt giai cấp nơi tôn nghiêm như vậy?
Khi ông Phêrô nói những điều đó thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Các tín hữu thuộc giới cắt bì đến đó với ông Phêrô cũng kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Đúng là Thiên Chúa không phân biệt ai hoặc điều chi cả. Ai nghe lời Ngài thì được Ngài chấp nhận,mọi người đều bình đẳng trước mặt Ngài, vì thế chúng ta đừng suy bụng ta ra ý Chúa.
Rồi ông Phêrô đặt vấn đề: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10:47) Thế là ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô. Họ là những người nghe lời Chúa và đón nhận Chúa Thánh Thần, nghĩa là họ được gia nhập vào cộng đoàn thánh, thuộc Giáo Hội của Chúa Giêsu, Nhiệm Thể của Đức Kitô.
Rõ ràng đó là phép lạ do Thiên Chúa làm, chứ không do con người. Chúng ta chẳng là gì, chỉ là “dân ngoại,” nhưng chúng ta lại được Thiên Chúa mời gọi. Vô cùng kỳ diệu. Vì thế, chúng ta phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người.” (Tv 98:1) Còn nữa, chính “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân, và đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Israel” để “toàn cõi đất này xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.” (Tv 98:2-3)
Thế thì rất hợp lý và đáng để chúng ta “tung hô Chúa và reo hò đàn hát.” (Tv 98:4) Niềm vui không chỉ tăng theo cấp số cộng, mà còn tăng theo cấp số nhân. Trí óc phàm nhân chúng ta không thể tưởng tượng, nhưng thực sự chúng ta đã được chứng kiến các kỳ công của Thiên Chúa, cụ thể là không khí và chuỗi DNA – đơn giản mà kỳ diệu vô cùng. Đúng như Chúa Giêsu đã chúc phúc: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe.” (Mt 13:16)
Được ban phúc vì được yêu thương, thế nên phải yêu thương. Thánh Gioan nhắn nhủ: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã ĐƯỢC THIÊN CHÚA SINH RA, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:7-8) Lời nhắn nhủ đó là mệnh lệnh, nghĩa là phải thi hành. Ai được Thiên Chúa sinh ra thì phải biết yêu thương, ai biết yêu thương mới là người được Thiên Chúa sinh ra. Hệ lụy hoàn toàn hợp lý.
Như để giải thích thêm, Thánh Gioan nói: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.” (1 Ga 4:9-10) Đó chính là mối liên kết trong Đức Giêsu Kitô mà chúng ta được mời gọi, càng ý thức được điều này thì chúng ta càng có thể kết hiệp mật thiết với Ngài, và được chứng minh qua việc yêu thương nhau.
“Hãy yêu thương nhau” là mệnh lệnh trong trình thuật Ga 15:9-17. Và đó cũng là lời mời gọi dành cho bất cứ ai mệnh danh là con người. Chúa Giêsu phân tích: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.” Càng sống lâu càng nghe Chúa Giêsu nhắc nhở nhiều lần về tình yêu, về lòng thương xót, thế mà vẫn chẳng thi hành được bao nhiêu. Chẳng khác gì nghe rồi gió thổi bay mất vậy.
Xét theo Việt ngữ, danh từ yêu thương hoặc thương yêu, gồm hai từ nhưng có thể rút gọn còn một từ YÊU – và có thể coi đó là động từ. Rất ngắn gọn nhưng lại rất quan trọng suốt đời tín nhân chúng ta. Mọi nơi và mọi lúc đều cần yêu, ngay cả động vật cũng cần yêu. Yêu thương quan trọng, nhưng đâu phải cứ nói yêu là xong, mà phải chứng tỏ bằng hành động. Tình yêu không tiết ra chất hy sinh và đau khổ thì không thể gọi là tình yêu hoặc lòng thương xót. Thánh Gioan gọi người “mến Chúa mà không yêu người” là kẻ nói dối. (1 Ga 4:20) Có lẽ chúng ta đã nói dối quá nhiều!
Vì yêu thương rất quan trọng nên Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau NHƯ Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” Chúa Giêsu vừa mời gọi, vừa truyền lệnh, vừa nhắn nhủ, vừa động viên.
Nói xa nói gần, nói đi nói lại, nói tới nói lui, cuối cùng vẫn là YÊU THƯƠNG, “cô đọng” lại là YÊU. Chữ Yêu bdu bằng mẫu tự Y, nhìn giống như một người dang đôi tay, như Chúa Giêsu dang tay trên Thập Giá, và dang tay để ôm choàng mọi người. Thật lạ lùng biết bao!
Chúa Giêsu xác định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.” Được mời gọi và được chọn để sinh hoa kết trái cho Thiên Chúa. Đó là bổn phận của mọi người mang danh là Kitô hữu.
Không ai dám tuyên bố mình là Chúa hoặc thiết lập đạo, chỉ có Chúa Giêsu. Đạo của Ngài là Đạo Yêu Thương, những người theo Đạo Chúa cũng phải yêu thương mọi người, phải thương xót bất cứ ai.
Lạy Thiên Chúa, xin biến đổi chúng con cho đúng Thánh Ý Ngài, giúp chúng con yêu thương chân thành đối với mọi người, để ai gặp chúng con thì cũng gặp được Ngài, và chúng con gặp ai thì cũng gặp được Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Lm. Jos DĐH.
Lời nói yêu thương, việc làm yêu thương, mỗi người vẫn đang diễn tả nơi cuộc sống của mình qua các tương quan, gia đình, xã hội. Cũng không ít người còn hoài nghi thắc: thế nào là yêu đúng, yêu đẹp, yêu đủ, là tình tuyệt vời ? Ai chẳng nói tình yêu không mầu, không mùi, và kinh nghiệm thực tế cho biết: dù già hay trẻ, tri thức hay bình dân, mỗi bữa người ta chỉ ăn no bụng ; tiền có thể tiêu xài hết, sức khỏe sẽ cạn dần theo thời gian, nhưng tình yêu thì tồn tại dù ta có khuất bóng. Mơ ước thành đạt, gia đình hạnh phúc, tình yêu dồi dào trong các tương quan, không phải là xa vời, viển vông, dù sao thì biến ước mơ thành sự thật, mọi thành viên đều phải được canh tân, được biến đổi.
Mối tình đẹp ở đời mà chúng ta thường biết đến là tình yêu đôi lứa, trẻ khỏe, là trai tài gái sắc, được gọi là đẹp khi cuộc tình của họ còn dang dở, là khi hai người chưa ký cam kết nên vợ thành chồng với nhau. Kitô giáo chúng ta ai cũng biết: mến Chúa – yêu người, đó là chuẩn mực, là khuôn mẫu, dẫn đưa mỗi người thấy được, hiểu được, mối tình đẹp nhất, tuyệt vời nhất ở nơi Giêsu, trong Giêsu. Không phải chỉ thuộc, chỉ nói trên môi miệng Thiên Chúa là tình yêu, bậc cha mẹ đạo đức còn biết hướng con cháu đến một điểm tựa cần thiết: yêu như Chúa yêu. Cuộc tình đẹp giữa cha mẹ và con cháu, mối tình đẹp giữa các bạn trẻ với nhau, từng tâm hồn có thao thức với Thầy Giêsu, tất cả sẽ đẹp và bền vững khi tình yêu của họ thủy chung, liên đới với Thầy Giêsu.
Câu hỏi có thể đã từng làm chúng ta phải bận tâm: tình yêu mà tôi đang sử dụng, đang tận hưởng hôm nay, đó là tình yêu nào ? Vâng, để phân biệt, để cho thấy tình yêu thật, phải có nguồn gốc, Đức Giêsu đã nói: “như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con ; và các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Cha mẹ yêu thương con bằng một tình yêu không tính toán, hay bằng một tình yêu của thế gian: cục đất ném đi hòn chì ném lại ? Tình yêu của đôi bạn trẻ liệu có còn phù hợp túp lều tranh và hai trái tim vàng nữa không ? Tình yêu đẹp giữa cha mẹ và con cái sẽ mãi mãi có giá trị, khi các thành viên gia đình ý thức sống trên thuận dưới hòa: có quảng đại tha thứ, đủ mùi vị của tình yêu, đủ chín chắn, và đủ sức mạnh của Chúa.
Hãy nhận lấy mối tình đẹp, hãy ở trong nhà cao cửa rộng, hãy yêu những đại gia, yêu những ai yêu mình, hẳn sẽ dễ dàng cho người tín hữu chúng ta biết mấy phải không ? Vâng, làm sao ta có thể hiểu tình yêu đẹp là tình yêu không phân biệt giai cấp trên dưới, tình yêu cao đẹp cởi mở như bạn hữu. Điều kỳ diệu làm nên hạnh phúc của tình yêu Giêsu không phải là bị giam cầm, tù túng, nhưng là được hạnh phúc ở trong Thầy và được chia sẻ đức ai với Thầy. Trong đời sống siêu nhiên: lời Chúa và các Bí tích là phương thế Chúa dùng để nói và thực hiện điều cần thiết cho phần rỗi các linh hồn. Do đó người tín hữu phải có khao khát bình an, có ước muốn được ơn biến đổi, hầu nghe, hiểu, và nhận ra việc phải làm, phải sống phù hợp chân lý mình tin nhận cách cao đẹp hơn.
Trong tình yêu gọi là cao là đẹp, tiền nhân chúng ta nói rằng: yêu nhau trăm sự chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch vẫn kê cho bằng. Yêu thật, thương thật, quan tâm thật, bao giờ cũng là kẻ khác thường, bị xem là dị biệt. Nếu không ở trong Giêsu, làm sao ai hiểu: “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu”. Khái niệm về tình yêu mà người trẻ hôm nay vẫn nói: tình yêu không có hy sinh, là tình yêu giả, hy sinh không có tình yêu, là tình yêu thừa. Nhận biết giả và thừa, hay vô ích, đã là khá rồi, nếu mỗi người chúng ta biết gặp gỡ Thầy Giêsu, đến ở với Thầy Giêsu, hẳn chúng ta sẽ thấm hơn, khi được nghe, được hiểu, “Thầy gọi anh em là bạn hữu của Thầy”.
Trong truyện cổ tích “Tấm-Cám”, sau khi hai mẹ con Cám đã sát hại Tấm, họ vào cung và nhận là mẹ, là em của Tấm. Hoàng tử không hề đoái hoài gì đến hai mẹ con Cám, một phần vì Hoàng tử không muốn tin một người xinh đẹp nết na như Tấm lại yểu mệnh như thế. Một phần Hoàng tử không tin tại sao mẹ con Cám xấu xí như vậy mà lại là ruột thịt của Tấm được ! Vâng, “đây là lệnh truyền của Thầy: các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Có phải đó là lời mời gọi, là thứ tình yêu cao đẹp: vừa quen, vừa gần, vừa trừu tượng, vừa cụ thể, chỉ khi ta đến gặp Thầy Giêsu, ở lại trong tình Thầy-trò, hoặc từ chối, ta sẽ thấy hạnh phúc khổ đau khác nhau rồi. Chớ gì chúng ta có một tình yêu thủy chung như Hoàng tử chờ đợi Tấm, một tình yêu trong sáng như Tấm dành cho Hoàng tử. Chớ gì ta phản ánh được tình yêu cao đẹp như Chúa yêu, cụ thể và sống động như Thầy Giêsu sống bên cạnh người thân và anh chị em mình. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn
Chiều ngày 30 tháng 4 vừa qua, thông tin nam sinh viên Đại Học Huế hy sinh cứu 3 người bạn khi đang tắm tại một bãi biển của huyện Phú Vang, Thừa Thiên – Huế làm cho nhiều người xúc động. Chúng ta tự hào vì nam sinh viên đó là người Công giáo với tên gọi đầy đủ là Phêrô Khoa Nguyễn Văn Nhã, một bạn trẻ thuộc Giáo phận Vinh. Hành động quên mình cứu người của em sinh viên Công giáo này đã làm cho toàn xã hội xúc động, đặc biệt người Công giáo bắt gặp nơi em hình ảnh một ĐGK, Đấng hiến mình vì yêu : “Không có tình yêu nào trọng đại cho bằng chết vì yêu”. Hành động đó đã được chủ tịch nước khen ngợi và đề nghị các cơ quan chức năng xem xét trình Chủ tịch nước truy tặng Huân chương Dũng cảm, đồng thời xem xét công nhận sinh viên Nguyễn Văn Nhã là liệt sỹ theo đúng quy định… Đây là những phần thưởng để ghi nhận và đề cao hành động cao đẹp của em. Chắc chắn em chẳng cần những phần thưởng đó, vì đối với em trở nên giống Đức Giêsu “yên đến cùng” là hạnh phúc nhất. Và chắc chắn giờ này em cũng đang được hạnh phúc trong vòng tay của Đấng hiến mình vì yêu.
Câu chuyện của em sinh viên Phêrô Khoa Nguyễn Văn Nhã là minh chứng cho lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Tình yêu được chứng minh bằng hành động. Để có thể yêu trọn vẹn, yêu đến cùng, yêu đến mức dám chết cho người khác, chỉ có thể là con đường mà Đức Giêsu đã dạy và đã sống: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy… Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15, 9-10). Nói ngắn gọn lại vì yêu mà Đức Giêsu thi hành thánh ý Chúa Cha để yêu mọi người trong đó có các môn đệ, thì các môn đệ vì đáp trả tình yêu của Đức Giêsu nên cũng sẽ thực hành những điều Chúa Cha chỉ dạy. Đó chính là dòng chảy của tình yêu, cứ xoay vần và đến với nhau chứ không mất đi. Trong tình yêu chúng ta sẽ được gặp nhau.
Căn bản của đạo Công giáo là Thiên Chúa yêu thương con người, và điều để người ta nhận ra người Công giáo chỉ có thể là tình yêu. Nhưng tình yêu này phải là tình yêu thánh thiện, tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Chính vì vậy Đức Giêsu dạy các môn đệ : “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9b). Có tin Chúa, có yêu mến Chúa thì người ta mới có thể yêu thương nhau một cách chân thành và dám hiến mình vì yêu.
Theo thống kê trong quyển kỷ yếu kỷ niệm 60 năm thành lập Giáo phận Cần Thơ. Năm 2014, dân số của Giáo phận Cần Thơ là 5.126.000 người, trong đó có 180.403 người Công giáo, với tỉ lệ khiêm tốn là 3.76%. Có nhiều lý do khiến tỷ lệ người Công giáo của Giáo phận cứ khiêm tốn mãi mà không phát triển, một trong những lý do đó là vì người Công giáo giữ đạo chứ chưa sống đạo. Đi lễ, đọc kinh, làm việc đạo đức rất nhiều; tổ chức những sinh hoạt tôn giáo long trọng như những cuộc rước, cuộc kiệu. Thế nhưng họ chưa sống đạo, nghĩa là có chưa cung cách yêu thương của Đức Giêsu trong cuộc sống.
Mahatma Gandhi là một nhà ái quốc của Ấn Độ đã giành lại độc lập cho đất nước của ông bằng một biện pháp bất bạo động. Nguyên nhân dẫn đến việc ông sử dụng đường lối không đổ máu để giành tự do là vì nguồn cảm hứng đến được từ Tin Mừng, nhất là Tám Mối Phúc Thật và cuộc đời của Chúa Giêsu khi ông thường xuyên đọc Lời Chúa. Tuy nhiên, khi tâm sự với những người bạn, ông đã nói “Tôi rất yêu mến Đức Giêsu nhưng tôi không thích người Công Giáo bởi vì họ không giống Đức Giêsu. Nếu họ giống như Ngài thì dân tộc Ấn Độ chúng tôi đã trở thành những người Kitô hữu từ lâu rồi.”
Chúng ta chỉ đón nhận tình yêu từ Thiên Chúa và ứ đọng lại nơi việc “giữ đạo” của mình chứ chưa để cho tình yêu đó tuôn chảy đến với người khác như một dòng chảy, nên chúng ta chưa “sống đạo” thực sự. Giữ đạo rất tốt, đi lễ thật nhiều nhưng chúng ta vẫn còn ganh ghét anh chị em, không chịu sửa mình, không chấp nhận tha thứ, gặp là tránh, hoặc buộc phải gặp thì nhìn người kia bằng nửa con mắt. Người Công giáo được dạy phải giữ đức công bằng nhưng mượn tiền người ta không trả, hoặc trả với thái độ hằn hộc…
Có một cha xứ nọ bị một người lương dân mắng vốn: “Con chiên của cha hung dữ quá, nó nhỏ tuổi hơn tôi, nhưng nó kêu tôi bằng thằng, bằng mày và chửi tôi những lời khó nghe quá!” Chẳng biết câu chuyện thế nào, nhưng qua cách ứng xử của chúng ta khiến anh chị em lương dân dị ứng với người Công giáo. Họ yêu mến Đức Giêsu nhưng không thích người Công giáo vì họ không giống Đức Giêsu.
Chính vì thế chúng ta phải làm sao để dòng chảy tình yêu của Chúa đến với chúng ta thì cũng tuôn chảy đến với anh chị em mình. Dòng chảy tình yêu đích thực từ Thiên Chúa đến với tha nhân qua một đời sống bác ái, yêu thương, phục vụ; qua cung cách nhẹ nhàng, khiêm tốn và đầy thiện cảm. Đức Giêsu đã đối xử tốt với mọi người, Ngài yêu thương mọi người, kể cả những kẻ ghét Ngài, những kẻ làm hại Ngài, những kẻ không cùng chí hướng với Ngài. Qua người Công giáo dù người ta không tin đạo, nhưng người ta yêu quý những người có đạo; dù người ta không muốn thờ Thiên Chúa, nhưng người ta phải bái phục những người kính mến Ngài.
Để kết thúc bài chia sẻ về dòng chảy của tình yêu, xin được so sánh 2 hình ảnh nổi bật nhất trên mạng xã hội trong những ngày gần đây. Hình ảnh thứ nhất của em sinh viên Phêrô Khoa Nguyễn Văn Nhã, em đã đi đến cùng con đường đức tin của em là dám chết cho người khác, nghĩa là đức tin của em được chứng minh bằng hành động. Hình ảnh thứ 2 là một nhân vật nổi tiếng của làng giải trí Việt Nam, nhất là trong lãnh vực hài. Nhiều người biết anh là người Công giáo, nhưng thời gian gần đây anh bị phanh phui vì đã thực hành việc hầu đồng nghĩa là một hình thức mê tín dị đoan. Như vậy rõ ràng dù có đạo, nhưng anh đã sống phản đạo.
Chúng ta tha thiết nài xin Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ để giúp chúng ta biết yêu mến Chúa thực lòng vì tình yêu thực sự đòi buộc chúng ta phải hành động ; để chúng ta dám sống đạo theo những gì Chúa chỉ dạy, chứ không chỉ giữ đạo bằng chót lưỡi đầu môi.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12)
Hai từ “yêu thương” đã quá quen thuộc với con người, cách riêng với Kitô hữu. Tình yêu là một đề tài vừa phong phú, vừa hấp dẫn của văn chưong, nghệ thuật, phim ảnh…và luôn mang tính thời sự. Tình của mỗi thời dường như mỗi vẻ và cách kiểu yêu của mỗi giới, mỗi người, thì mang mỗi sắc mầu, nhưng bản chất tình yêu thì trước sau như một. Biết rằng chúng ta phải yêu thương nhau nếu muốn sống như con người, thế nhưng thử hỏi thế nào là yêu thương thì quả thật không dễ trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Ngay cả những việc to lớn như “đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt” thì cũng chưa hẳn là đã yêu thương (x.1Cor 13,3).
Có thể nói tình yêu là huyền nhiệm vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Tuy nhiên thánh Gioan Tông đồ lại cho chúng ta một cái nhìn về tình yêu: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10). Như thế chúng ta có thể nói yêu thương là thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu trong sự tự nguyện đi bước trước và có trả giá cách nào đó.
1. Thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu: Yêu thương là không chỉ muốn điều tốt cho người mình yêu mà còn thể hiện ước muốn ấy bằng hành vi cụ thể, thực tế. Trong tình yêu đích thực không có sự nửa vời hay giới hạn. Đã yêu là yêu đến cùng. Chính vì thế tình yêu đòi hỏi ta thực thi điều tốt đẹp nhất cho người mình yêu. Cứu sống nhân loại, giải thoát nhân lại khỏi ách nô lệ thần dữ, đưa nhân loại vào hàng con cái, được thừa hưởng gia nghiệp trên trời, chính là việc Thiên Chúa đã thực hiện để bày tỏ tình Người yêu thương nhân loại chúng ta.
“Sông sâu còn có người dò…”, nhưng để đo mức độ của ước muốn thì như không thể. Làm sao để minh chứng rằng ước muốn của tôi không triệt để? Làm sao để khẳng định rằng tôi chỉ muốn điều tốt loại hai, loại ba cho người tôi yêu mà không phải là điều tốt nhất? Quả thật, khi đã ước muốn thì người ta khó biết mức độ ít nhiều, có giới hạn hay đến cùng. Tuy nhiên qua hành động, thì ta có thể kiểm chứng mức độ một cách nào đó khả dĩ được nhiều người chấp nhận. Thực tế có đó chuyện ta nghĩ rằng mình có muốn điều tốt nhất cho người mình yêu, nhưng chỉ thực hiện điều tốt nhì, tốt ba, tốt thứ tư, điều tốt có hạn chế mà thôi. Khi đã có cái giới hạn thì hình như đã có sự tính toán. Đã có tính toán, có so đo hơn thiệt, thì chưa thực sự là yêu thương. Sự thường: “ăn thì cho và buôn thì so”. Biên giới của tình yêu là tình yêu không biên giới.
2. Đi bước trước: Đã yêu thì không đợi “con khóc mẹ mới cho bú”. Thánh Kinh trình bày Thiên Chúa là Đấng luôn đi bước trước trong việc thể hiện tình yêu với con người. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng Đức Kiô đã chết vì chúng ta, cho chúng ta, ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch cùng Người.
Trong động thái đi bước trước, phía người yêu thương thì thể hiện qua việc có sáng kiến, và phía người được yêu thương thì biểu lộ sự kinh ngạc, sững sờ. Kinh Thánh cho ta thấy điều này: Mỗi khi Thiên Chúa trực tiếp can thiệp vào một biến cố lịch sử nào đó thì dân chúng nói chung và những người được tuyển chọn nói riêng đều bàng hoàng, kinh sợ. Các trang Tin mừng cũng tường thuật hiện tượng này rất nhiều lần. Sau mỗi kỳ công mà Chúa Giêsu thực hiện để thi ân giáng phúc, thì dân chúng đều kinh hãi và ca ngợi Thiên Chúa. Có thể nói đây là một tình trạng sững sờ khi chứng kiến một điều kỳ diệu hay được yêu thương bằng một tình yêu vượt quá tầm luận lý thường tình. Đêm Tiệc ly, Phêrô và các bạn đã sững sờ khi Thầy Chí thánh cúi xuống rửa chân cho mình, đến nỗi ông đã vội phản ứng: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13,8).
Sống yêu thương thì không thể ngồi chờ. Vẫn có đó những lý lẽ để bào chữa rằng chưa đủ tài, chưa đủ lực hay chưa đến lúc đến thời…cho những người chưa biết hay không biết yêu thương. Đã yêu thương thì luôn có đó những việc phải thực hiện, ngay hôm nay và chúng sẽ không ở ngoài tầm tay của chúng ta.
3. Để sống yêu thương thì phải vác thập giá: Tiền nào của nấy (you get what you pay), câu ngạn ngữ của nền kinh tế thị trường một cách nào đó có thể áp dụng cho tình yêu. Tình yêu thì vô giá. Và hoa trái của tình yêu là kết quả của nhiều nỗ lực hy sinh, quên mình. Yêu thương cách đích thực thì sẵn sàng hiến dâng cả mạng sống (x.Ga 15,13). Của rẻ là của ôi. Đã ngại khó, sợ khổ, tránh né hy sinh, thì sẽ chẳng bao giờ có được bảo vật đáng trân trọng là tấm lòng biết yêu thương.
Vì yêu thương nhân loại Chúa Kitô đã tự nguyện hy sinh vinh quang và danh dự của một vị Thiên Chúa, để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Vì yêu thương nhân loại đến cùng, Người đã hy sinh cả phẩm giá của một con người bình thường để rồi chịu chết bằng án hình thập giá nhục nhã, như một tội nhân (x.Phil 2,6-8). Vì yêu thương, Người đã tự nguyện ở lại với chúng ta trong hình bánh rượu. Yêu thương nhân loại, Chúa Kitô không chỉ trao ban những gì Người có bằng quyền năng của Người mà Người còn trao ban chính cái Người là, tức chính bản thân, danh dự, phẩm vị, sự sống của Người.
Nhiều người nói rằng mình yêu thương khi sẵn sàng cho đi tiền bạc và cả thời giờ, nhưng lại không chịu được khi bị mất một chút danh dự hay uy quyền, chưa kể là chính mạng sống. Cho đi chút của tiền, quả là không dễ, vì đồng tiền dính liền khúc ruột, nhưng vẫn có thể cho đi cách này cách khác, lúc này lúc kia, và nhất là khi khúc ruột ấy là “khúc ruột thừa”. Cho đi ít thời giờ, cũng không mấy dễ, vì thời giờ là vàng bạc, nhưng vẫn có thể cho đi, nhất là những lúc rảnh rỗi, không biết làm gì. Còn cho đi cái phẩm vị, cái danh dự của mình, thì dường như là quá khó, vì đó chính là bản thân tôi. Thế nhưng, nếu không vượt qua cái khó này thì đừng nói chuyện yêu thương.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Đây là lệnh truyền, là giới răn mới và cũng là lời di trối của Thầy Chí Thánh. Để thực sự là môn đệ của Người, chúng ta không thể xao lãng hay tránh né nó (x.Ga 13,35). Xin đừng yêu nhau bằng môi miệng nhưng hãy can đảm vác thập giá hằng ngày để có sáng kiến, đi bước trước trong việc thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu thương và cho cả những người không yêu thương mình.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
“Tông đồ Công vụ” là cuốn sách ghi lại đời sống Giáo Hội thời kỳ sơ khai của cộng đoàn tín hữu Kitô. Tác giả luôn có cái nhìn lạc quan về đời sống đức tin và của các cộng đoàn. Những người tin Chúa gia tăng nhanh chóng. Những thày phù thùy bói toán cũng “bỏ nghề” mà gia nhập Giáo Hội của Chúa. Tâm trạng các tín hữu là vui mừng, mặc dù trải qua nhiều khó khăn ghen ghét từ phía một số đầu mục Do Thái. Có được niềm vui ấy là nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu Phục sinh. Niềm vui ấy cũng đến từ việc mọi tín hữu chuyên tâm thực hiện những gì Chúa đã dạy, nhất là đức yêu thương, nhờ đó mà niềm vui của họ là niềm vui trọn vẹn, như Chúa đã hứa.
Chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, Phụng vụ cho chúng ta nghe lại tâm tình của Chúa Giê-su qua những lời tâm sự của Người vào lúc kết thúc bữa tiệc ly. Đó là những lời yêu thương của một vị thầy đối với các môn đệ, của một người cha đối với các con trước lúc đi xa. Tiếp nối những lời dặn dò chúng ta đã nghe tuần trước, Chúa Giê-su tiếp tục mời gọi các môn đệ hãy ở lại trong tình yêu của Người. Nhờ việc “ở lại” này, mà mặc dù Người vắng bóng, các ông vẫn nhận rõ sự hiện diện đầy yêu thương của Người và nhờ đó lòng các ông tràn đầy niềm vui.
Thế nào là một niềm vui trọn vẹn? Đó là khi kết hợp với Chúa Giêsu để nhờ Người dẫn tới Chúa Cha. Người xác tín vào Chúa không còn ủ dột lo lắng, nhưng an vui trong mọi tình huống của cuộc đời. Niềm vui trọn vẹn cũng là niềm vui chúng ta có được khi chân thành yêu mến người khác và mong muốn điều tốt đẹp đến với họ. Bởi lẽ niềm vui được chia sẻ là niềm vui được nhân đôi, và đó là niềm vui trọn vẹn hoàn hảo. Vào thời thư thứ nhất của thánh Gioan được viết ra, đức tin của một số tín hữu bị dao động do cách lập luận của một số người, nhằm gieo rắc chia rẽ nơi cộng đoàn. Thánh Gioan an khẳng định: Thiên Chúa yêu chúng ta trước, bằng chứng là việc Ngài sai Con Một của Ngài đến trần gian để chia sẻ phận người và chịu chết vì chúng ta. Theo tác giả, thực thi đức yêu thương đồng nghĩa với việc sinh bởi Thiên Chúa và ngược lại, ghen ghét là sinh bởi ma quỷ (Bài đọc II). Sau này, thánh Phaolô khẳng định: yêu thương là chu toàn Lề Luật.
Niềm vui Phục sinh không chỉ dành cho người Do Thái, cũng không giới hạn với một số người được tuyển lựa, nhưng đó là niềm vui dành cho hết những ai thành tâm tìm kiếm Chúa và tôn thờ Người. Đó là điều Phêrô đã cảm nghiệm, sau khi chính bản thân ông chứng kiến rất nhiều điều lạ lùng phi thường Chúa đã làm. Một trong những điều lạ lùng ấy là việc trở lại của gia đình ông Cornelio. Cùng một lúc, Chúa đã soi sáng cho cả hai người, Phêrô và ông Cornelio, để cho thấy bất kỳ ai cũng được đón nhận vào cộng đoàn tín hữu, và được chia sẻ niềm vui của những con cái Chúa. Trong gia đình của Thiên Chúa, không có phân biệt loại trừ, nhưng dù trong hoàn cảnh đời sống nào chăng nữa, con người vẫn luôn là đối tượng yêu thương vô bờ của Ngài.
“Thày gọi các con là bạn hữu”. Lời nói này thật thâm sâu biết bao! Chúng ta thường có thói quen đọc lướt qua những lời trong Tin Mừng, nên ít khi dừng lại suy tư ý nghĩa của những câu từ được sử dụng trong các bản văn Kinh Thánh. Có lẽ không vị sáng lập tôn giáo nào lại nói với các môn sinh của mình bằng những từ ngữ ngọt ngào như thế. Chúa coi chúng ta là bạn, tức là kể chúng ta như những người tâm phúc với Chúa. Bạn bè là những người tri âm tri kỷ, hiểu nhau và sẵn sàng hy sinh giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn. Nếu có Chúa là Bạn, chúng ta không còn sợ hãi lo lắng gì. Có Chúa là Bạn, chúng ta cũng nắm chắc phần rỗi. Có bao giờ chúng ta tâm sự với Chúa, thật gần gũi thân thiết, như với một người bạn không?
Giữa cuộc đời còn nhiều phong ba bão tố, Đấng Phục sinh mời gọi chúng ta “Hãy vui lên!”. Lời gọi ấy xem ra vô nghĩa, đối với những người đang đau buồn trước sự ra đi của người thân, trước những đổ vỡ trong đời sống gia đình và trước những thất bại ê chề trong cuộc đời dương thế. Tuy vậy, kinh nghiệm đời thường cho ta thấy không thể ngồi mãi mà ôm nỗi đớn đau khi mất một người thân vì phía trước là cuộc sống, là tương lai và biết bao điều tốt đẹp đang chờ đợi. Lời Chúa cũng khẳng định với chúng ta, một khi vững tâm trông cậy vào Người, chúng ta sẽ vượt lên những gian nan, hàn gắn những thương tổn và cố sức để thành đạt. Sự tin cậy tín thác vào Chúa sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui trọn vẹn.
Đấng Phục sinh còn sai chúng ta lên đường để đem niềm vui vào lòng cuộc đời, để niềm vui ấy sinh hoa kết trái, làm nở rộ những đóa hoa yêu thương. Đây là sứ vụ cao cả của người tín hữu, cũng là trách nhiệm chung của tất cả chúng ta.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng lại là một từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Vì người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính. Để tránh những hiểu lầm, khi truyền cho ta yêu thương, Đức Giêsu đã đưa ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó là: yêu như Chúa yêu.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phải yêu như Chúa. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”. Thế là đã rõ. Tất cả bắt nguồn từ cùng một tình yêu. Đức Chúa Cha là nguồn cội. Từ nguồn mạch ấy, tình yêu tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu, muốn chân thực, phải quy chiếu về trái tim Chúa Cha.
Tình yêu của Chúa Cha như thế nào? Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu đã nói nhiều về tình yêu Chúa Cha.
Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình, chỉ yêu những người nào dễ yêu, ghét những người dễ ghét, chỉ giới hạn tình yêu vào một số người thân quen. Tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Tình yêu ấy lan tới tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ một ai dù lành dù dữ. Thế nên “Người cho mặt trời mọc lên soi kẻ lành cũng như người dữ. Và cho mưa rơi xuống trên cả người công chính lẫn kẻ gian ác” (Mt 5,45). Tình yêu ấy lan toả tới súc vật cỏ cây: “Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng. Hãy xem bông huệ ngoài đồng. Chúng không dệt không may, thế mà Cha trên trời mặc cho chúng bộ áo đẹp hơn cả áo vua Salomon” (Lc 12,24-27).
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hy sinh. Vì yêu thương, Đức Chúa Cha đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Người đã nhận con người làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Nhưng loài người vô tình không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người đã bị phạt. Nhưng Đức Chúa Cha vẫn yêu thương loài người, nên đã có kế hoạch cứu độ loài người. Chính ở điểm này ta nhận biết tình yêu vô cùng tha thiết của Đức Chúa Cha. Không những Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Tình yêu thương mãnh liệt ấy đã thúc đẩy Ngài hy sinh Con Một yêu dấu để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hy sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người.
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nói nhiều về tình yêu tha thứ của Đức Chúa Cha. Cảm động nhất là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Tóm tắt như sau: Người Cha có hai con trai. Đứa út xin Cha chia gia tài cho nó. Được rồi, nó cầm tiền, bỏ nhà ra đi, ăn chơi phung phí. Khi nó tiêu hết tiền thì vùng ấy xảy ra nạn đói. Đói bụng nó phải đi chăn lợn. Nó muốn ăn cám lợn mà chủ không cho. Bấy giờ nó hối hận và nghĩ: ở nhà cha mình các đầy tớ còn được ăn no, còn mình ở đây phải chết đói. Thế rồi, nó chỗi dậy, trở về nhà. Cha nó ngày nào cũng ra đầu ngõ chờ mong con trở về. Khi thấy nó về, ông chạy lại ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để, rồi ông gọi gia nhân mang áo đẹp, nhẫn, giầy ra cho cậu và ra lệnh mở tiệc ăn mừng (cf Lc 15). Người cha ấy là hình ảnh Đức Chúa Cha. Thật là kỳ diệu tình yêu Người. Người quên hết những lỗi lầm của ta. Người yêu yêu ta trước khi ta yêu Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi Người.
Đức Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Lạy Cha, xin cho con hiểu được tình yêu của Cha. Xin cho con trở nên giống Cha, biết yêu thương bằng tình yêu của Cha. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Từ trước tới nay, bạn hiểu tình yêu thế nào?
2- Mỗi khi nghĩ đến Đức Chúa Cha, bạn nghĩ đến đặc tính nào của Người: yêu thương, quyền năng, thưởng phạt công minh…?
3- Đối với bạn, yêu thương người khác dễ hay khó?
4- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Chúa Cha.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Tình yêu là cái gì thật khó nói, khó diễn tả, nhưng nó lại kỳ diệu đến nỗi ai cũng cần tình yêu. Quả vậy, tình yêu làm nên những điều vô cùng quý giá, làm nên những phép lạ nơi những kẻ tin vào tình yêu, và thực hiện tình yêu.Thánh Gioan đã định nghĩa “ Thiên Chúa là Tình Yêu “.
Tình yêu huyền nhiệm nhưng cũng đầy năng lực đã khiến biết bao nhiêu người hy sinh, quảng đại chăm lo cho những người bất hạnh, nhưng người nghèo, những người già cả, neo đơn. Tình yêu đã thúc đẩy nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều nhóm, cá nhân đầy lòng từ tâm, nhân đạo, đã làm những việc tử tế, những việc bác ái yêu thương để giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh, những kẻ tât nguyền, những bệnh nhân tâm thần, cùi hủi vv…Nhiều con tim đầy yêu thương đã cùng hòa nhịp với Đức Giêsu Kitô, đã mau mắn đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Người :” …Hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu “ ( Ga 15, 12 ).
Vâng, từ khi Thiên Chúa sai Con của Ngài là Đức Giêsu đến trần gian để sống cho, sống với, sống vì nhân loại thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người thật gần gũi, Ngài coi mọi người như con cái, như bạn hữu thân tình. Tình yêu ấy đã giúp con người, nhân loại hiểu được mối thâm sâu mà Thiên Chúa Cha đã mặc khải :” Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết “ ( Ga 15,15 ). Thiên Chúa Cha đã yêu thương Chúa Con đã mặc khải sự thực, tỏ lộ mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chính Đức Giêsu vén mở để nhân loại, để chúng ta được biết Cha của Người. Chúa Giêsu đã yêu nhân loại, yêu con người, yêu chúng ta đến cùng. Tình yêu của Chúa là tình yêu tự hiến, nhưng không, tình yêu không giới hạn, không mức độ :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Thực ra,tình yêu nối kết chúng ta với Chúa Cha, với Chúa Giêsu, nên nó cũng thôi thúc chúng ta phải yêu thương nhau. Tuy vẫn biết chúng ta khó lòng thực thi tình yêu như Chúa đã yêu ta, tuy nhiên chúng ta vẫn được thôi thúc, vẫn được mời gọi để noi gương bắt Chúa, thực hành yêu như Chúa yêu.
Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly đã để lại cho chúng ta gương tình yêu tuyệt đỉnh, Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, Ngài đã nêu gương yêu thương và phục vụ cao vời, Ngài mời gọi các môn đệ và chúng ta hãy yêu như Ngài, đã phục vụ, đã khiêm nhượng như Ngài.
Nhiều Vị Thánh đã sống hết mình vì người nghèo, đã hy sinh quảng đại, từ tâm vì những người đau khổ, nhiều nhà truyền giáo cũng đã sống hết mình vì người nghèo. Thế giới đang cần tình yêu đích thực. Chúng ta phải là chứng nhân sống động cho tình yêu đích thực. Thế giới hôm nay cần những chứng nhân hơn là những người nói giỏi mà không thực hiện điều mình đã nói. Chết như Đức Kitô để gánh tội cho tha nhân, chúng ta đã không có cơ hội, đã không có dịp nhưng sống cho kẻ khác, chúng ta có rất nhiều dịp. Chúng ta hy sinh âm thầm giúp đỡ, cầu nguyện cho những người đang gặp thử thách. Chúng ta quảng đại, giúp đỡ vật chất, tiền của cho những người đang gặp khó khăn để họ vượt thắng, và can đảm tiếp tục sống là chúng ta đang thực hiện điều Chúa mởi gọi:”: Hãy yêu như Thầy đã yêu “ , yêu cho tới cùng và yêu cho tới chết.
Tình yêu không dành riêng cho một ai, nhưng dành cho tất cả mọi người. Tình yêu làm cho tất cả chúng ta bình đẳng trước mặt Thiên Chúa và bình đẳng đối với nhau.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều nhưng chúng con đáp lại tình yêu vô biên của Chúa chẳng là bao.Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng để chúng con luôn biết noi gương Chúa mà yêu tha nhân như Chúa đã yêu.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
- Yêu là gì ?
- Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện thế nào ?
- Chết vì yêu là sao ?
- Tại sao lại gọi tình yêu không mức độ ?
- Yêu như Thầy yêu là sao ?
.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Ở Việt Nam những năm gần đây các lễ hội gia tăng rất nhiều. Mỗi năm vào Tháng Giêng có hàng ngàn lễ hội. Cách chung, lễ hội là thể hiện niềm tin tín ngưỡng dân gian và để bảo tồn văn hóa dân tộc. Nhưng điều mà chúng ta thấy nơi các lễ hội, đặc biệt là Miền Bắc rất hiếm khi thấy lễ hội có bàu khí linh thiêng, hướng lòng cầu nguyện và đáng buồn là ở nơi đó không hề có yêu thương.
Như lễ hội Đền Trần ở Nam Đinh người ta sẽ thấy gì? Một nơi hỗn tạp với cảnh chen lấn, giẫm đạp, ẩu đả. Người ta đạp lên đầu nhau, xéo lên bàn thờ để cướp hoa, giành lộc… Không còn là xin ấn, phát ấn, thụ lộc, mà là cướp lộc, cướp ấn, giành ấn, mua bán ấn. . . Rồi người ta cũng thấy cảnh giẫm đạp lên nhau để tranh cướp quả Phết ở Vĩnh Phúc; biến lễ hội ném cà chua cầu may ở Thanh Hóa thành nơi giải quyết mâu thuẫn cá nhân thậm chí dùng hung khí tước đi mạng sống của người khác ngay tại cửa chùa Hà Tĩnh…là những cảnh tượng không ai muốn chứng kiến ở những lễ hội ngày đầu năm.
Niềm tin của bất kỳ hình thức tín ngưỡng nào cũng phải hướng con người về tình yêu thương, sự hiệp nhất và đùm bọc lẫn nhau. Không có yêu thương nơi đó chỉ có tranh chấp, giành giựt, ẩu đả . . . Xem ra các nhà văn hóa cần phải tìm về cội nguồn của lễ hội để sống tình liên đới yêu thương, chứ không dùng lễ hội để mua vui hay trục lợi sẽ làm mất đi giá trị văn hóa của dân tộc!
Ky-tô giáo là đạo yêu thương. Chúa Giê-su Đấng thiết lập giáo hội chỉ giới thiệu cho nhân loại một tôn giáo quy tụ những con người yêu thương nhau nên một trong một đức tin và đức mến. Điều này chúng ta thấy rõ nét trong ngày an táng Đức Cố Tổng Phaolo Bùi Văn Đọc. Hàng ngàn người chung một tâm tình cầu nguyện cho Đức Tổng Phaolo. Hàng ngàn người nối đuôi nhau đi bên linh cửu của Đức Tổng vài cây số trong trang nghiêm trật tự. Đây là nét đẹp của tôn giáo. Nét đẹp của hiệp nhất và yêu thương.
Tin mừng hôm nay Chúa Giê-su tha thiết mời gọi các tín hữu hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Chính tình yêu của Ngài nối kết mọi con tim thành một cộng đoàn yêu thương. Khi con người ở lại trong tình yêu Chúa và của nhau thì hạnh phúc sẽ ngập tràn, niềm vui sẽ trọn vẹn. Đây cũng là giới răn cao trọng mà Chúa muốn người Ngài yêu mến phải tuân giữ là “Anh em hãy yêu thương nhau”.
Nhưng có mấy ai đã thực sự sống yêu thương? Có mấy ai đã yêu tha nhân như chính mình để rồi có thể chia sẻ buồn đau với cho nhau? Có mấy ai đã vì bạn hữu mà quên mình? Có lẽ có, nhưng chắc chắn có rất ít!
Nhìn lại những gì đang diễn ra nơi gia đình, nơi xứ đạo và trên thế giới, dường như những nghĩa cử yêu thương đang thiếu dần, mà thay vào đó là sự ích kỷ, là độc đoán, là lỗi bác ái yêu thương tràn lan. Nhiều gia đình đang đổ vỡ vì thiếu yêu thương. Nhiều vợ chồng sống với nhau bằng mặt nhưng không bằng lòng. Tình yêu đã chết, con tim cũng chết chỉ còn những tháng ngày sống bên nhau lạnh lùng, đôi khi còn đầy đọa nhau. Nhiều gia đình chồng độc đoán luôn coi mình là nhất nên xem thường vợ con, và cũng nhiều người vợ lại quá ích kỷ chỉ lo cho bản thân nên thiếu hy sinh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trân trọng tình yêu mà chúng ta đang có. Hãy ở lại trong tình yêu của Chúa và tha nhân. Ở lại mời gọi chúng ta đừng phụ nghĩa vong ân với tình yêu mà Chúa cũng như mọi người dành cho chúng ta. Ở lại bằng việc trung thành tuân giữa giới răn Chúa cũng như chung thủy với người mình thương.
Ước gì chúng ta biết tuân giữ lời Chúa để tình Chúa mãi ở lại trong chúng ta. Ước gì chúng ta đừng xa rời tình yêu của cha mẹ, của bạn bè, người yêu chỉ vì ích kỷ của bản thân mà có lỗi với nhau. Xin Chúa giúp chúng ta biết trung thành với Chúa và với nhau qua việc tuân giữ giới răn của Người. Amen
.
Bông hồng nhỏ
“Chẳng phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài chọn con trước đó.
Chẳng phải con đã yêu Chúa, nhưng chính Ngài yêu con từ trước.
Từ lúc con chưa biết yêu Ngài, từ lúc con chưa nhận biết Ngài,
Ngài yêu con giữa muôn người Ngài đã chọn con.”
(Chính Chúa Chọn Con – Hoàng Thy)
Lời ca âm vang trong tâm hồn người môn đệ. Còn nhớ mới ngày nào được Thầy gọi tên, người môn đệ hạnh phúc ngập tràn khi được làm đệ tử của Thầy. Là một người ngư phủ ít học, quê mùa hay một người thu thuế tội lỗi,… mỗi người đều cảm nhận được tình thương của Thầy dành cho mình quá đỗi bao la.
Hôm nay, lời ca trên cũng âm vang trong tâm hồn ta khi suy gẫm đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9). Lắng nghe Lời thầy vang vọng bên tai, đi sâu vào tâm hồn, ta thốt lên: “Bởi đâu tôi được Chúa thương như vậy?” Thầy Giêsu là Con Một của Chúa Cha nên được Chúa Cha yêu thương. Còn tôi, một con người tội lỗi yếu hèn cũng được Chúa thương như cách Chúa Cha yêu Con Một hay sao? Lời Thầy Giêsu đã khẳng định như vậy và chính tình yêu Thầy dành cho ta và nhân loại đã nói lên điều đó. Con Thiên Chúa làm người và đã sống kinh nghiệm là người trong từng giây phút hiện hữu. Thầy Giêsu là cây nho còn ta là cành nho. Thầy nuôi dưỡng ta cho ta được lớn lên trong Thầy khi liên kết với Thầy, chịu cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái hơn. Là Cây, Thầy Giêsu cũng chịu “cắt tỉa” theo thánh ý Chúa Cha. Thầy đã sống kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5, 8). Từ trên thánh giá, Thầy vẫn hát mãi lời ca yêu thương: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Để tha thứ đòi hỏi ta phải có một tình yêu phát xuất từ nguồn tình yêu vô bờ bến là Thiên Chúa. Ta hãy khắc ghi trong tâm hồn lời Thầy đã dạy“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12). Lòng chân thành sẽ nối kết những trái tim đến gần với nhau. Chính tình yêu sẽ dẫn đường cho ta bước đi đến gần bên nhau. Một tình yêu cụ thể bằng những hành động, bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm.
Lạy Chúa! Nhìn về ơn gọi là môn đệ, con hiểu rằng ơn gọi con đang sống là hồng ân của Chúa. Chẳng phải con đã chọn Chúa như chính Chúa đã chọn con và cắt cử con ra đi, sinh hoa trái và để cho hoa trái tồn tại. (x. Ga 15, 16). Lạy Chúa! Con xin dâng lên Chúa tâm tình của Mẹ thánh Têrêsa Calcutta cũng là tâm tình của con trong hiện tại, là khát khao con dâng lên Chúa:
“Hoa quả của THINH LẶNG là Cầu Nguyện
Hoa quả của CẦU NGUYỆN là Ðức Tin
Hoa quả của ÐỨC TIN là Tình Yêu
Hoa quả của TÌNH YÊU là Phục Vụ
Hoa quả của PHỤC VỤ là Bình An.” Amen.
.
Anna Cỏ May
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng luôn mong muốn sống và tuân giữ các điều răn của Chúa. Trong các điều răn, điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương” (x. Ga 15,9).
Thật sự, giữ điều răn Chúa là một chuyện, còn việc thực hành lại là chuyện khó hơn. Trong cuộc sống hằng ngày, lời yêu thương trao cho nhau cũng không khó, cái khó là hành động yêu thương. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ và chúng ta hãy yêu thương như Ngài yêu. Từ “như” không chỉ xác định là tương tự hay là giống nữa mà là một sự bằng nhau. Nghĩa là chúng ta hãy yêu thương anh em bằng Chúa yêu chúng ta vậy. Chúa yêu chúng ta không chỉ trên thánh giá mà ngay trong những công việc và lời nói của Chúa khi còn ở thế gian. Chúng ta không thể quên cử chỉ đẹp Thầy đã làm cho các môn đệ qua việc rửa chân (x. Ga 13,1). Chúa Giêsu là Đấng tối cao mà còn cúi xuống rửa chân cho người tội lỗi thấp hèn. Ngài tự hạ khiêm nhường và không chần chừ phục vụ. Tình yêu của Chúa là thế đó. Chúa không mời gọi chúng ta yêu như Chúa yêu cách trọn vẹn vì Chúa biết sự yếu đuối của chúng ta. Dù vậy, đó cũng là mục đích để chúng ta mỗi ngày phải vươn tới.
Vậy, yêu thương anh em là như thế nào? Một em bé đến sà vào lòng mẹ mà nói: “Con yêu mẹ!”, rồi thơm vào má mẹ một cách tự do. Còn Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương là tha thứ, hy sinh, phục vụ và trao ban. Nhưng đôi khi chúng ta lại rơi vào sự nhầm lẫn giữa yêu thương và trách nhiệm. Yêu thương khác với trách nhiệm. Chúng ta cứ nghĩ yêu thương là phải có trách nhiệm với người ta. Do đó, chúng ta ăn gì, uống gì, sống làm sao thì người ta yêu thương là như vậy. Tôi có uống liều thuốc cảm nào thì người đó cũng phải uống liều thuốc ấy. Và như thế, chúng ta rơi vào sự yêu thương ích kỷ. Yêu thương là chúng ta phải trở nên người hòa giải chứ không là người trung gian. Chúng ta hãy sống cho và vì người khác như Chúa Giêsu đã sống và chết cho chúng ta. Người yêu thương là người biết quên mình và quảng đại với mọi người xung quanh.
Trong cuộc sống chung hằng ngày, chúng ta thấy rằng có rất nhiều chuyện xung khắc dễ xảy ra. Lỗi có thể một phần do người, nhưng lắm khi một phần cũng do người chúng ta. Chúng ta thường cố chấp không chịu nhận lỗi và hay đổ lỗi cho người khác. Đành là vậy, nhưng chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa đã dạy sự yêu thương là thế nào. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có mắt, có đôi tai và bàn tay thì chúng ta hãy mở đôi mắt ra nhìn mọi người xung quanh như người Samari tốt lành đã cứu chữa người bị nạn bên vệ đường; dùng đôi tai để lắng nghe những tiếng kêu cứu và dùng đôi tay để nâng đỡ bao người. Chúng ta hãy sống yêu thương để có hạnh phúc và được hưởng niềm vui trong Nước Trời.
Lạy Chúa! Xin ban cho chúng con có lòng bác ái để con biết yêu thương mọi người không trừ một ai như lời Chúa dạy. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay chúng ta cử hành Chúa nhật thứ VI Phục Sinh trước lễ Chúa Giêsu lên trời và lễ Chúa Thánh Thần hiền xuống. Trong các Chúa nhật trước, Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ mình là Mục Tử Nhân Lành, là cây nho thật, chúng ta là cành phải kết hợp với cây. Nhưng hôm nay, Người cho chúng ta thấy một Trái Tim rung động đầy tình yêu.
1) Tình yêu không biên giới
Trong Trái Tim này tất nhiên chúng ta chỉ thấy tình yêu. Tình Yêu là mầu nhiệm thẳm sâu nhất của Thiên Chúa, vì Ngài là Tình Yêu. Tình yêu là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Các bản văn của Gioan (1 Ga 4,7 – 10; Ga 15,9 – 17) mạc khải rõ: “Thiên Chúa là tình yêu ; ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16) người ấy sẽ sinh trái.
Từ tạo dựng đến cứu chuộc, Thiên Chúa làm tất cả vì tình yêu. Chúa đợi chờ chúng ta đáp trả bằng tình yêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu mời gọi chúng ta : “Hãy ở lại trong tình yêu của Thày” (Ga 15,9).
Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta làm một cuộc xuất hành nội tâm tình yêu đi từ chính mình qua con người của mình bằng cầu nguyện với trái tim lắng nghe, vứt bỏ sau lưng những gì không cần thiết khiến chúng ta mất đi điều tối cần là : Thiên Chúa và tình yêu của Người.
Chúa Giêsu thật là có lý khi dạy chúng ta : “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (x. Ga 15,12.17). Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Con Thiên Chúa đã trở nên mẫu mực, nguyên tắc, nguồn suối và thước đo, để chúng ta yêu: “Như Thầy đã yêu mến các con“.
Một trong những hoa trái của tình yêu là niềm vui : “Thầy nói với các con điều ấy để niềm vui của Thầy ở trong các con” (Ga 15,11). Nếu cuộc sống chúng ta không chiếu tỏa được niềm vui của đức tin, nếu chúng ta để cho những phiền toái choáng ngợp lòng chúng ta khiến chúng ta không nhận ra Chúa đang ở đó, là vì chúng ta không biết Chúa Giêsu cho đủ, chưa yêu “như Chúa”.
Tình yêu của Thiên Chúa là không biến giới. Người đã trao ban mạng sống mình cho các bạn hữu. Dù bạn hữu không hiểu Chúa, và trong lúc định đoạt nhất đã bỏ rơi, phản bội và khước từ Người. Ðiều này nói với chúng ta rằng Người yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Ngài : Chúa Giêsu yêu thương chúng ta như thế đó!
2) Tên mới của các môn đệ là : BẠN
Thiên Chúa là người chủ động. Người khẳng định : “Chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16). Chúng ta luôn bị cám dỗ để tin rằng chúng ta đã chọn Chúa, nhưng trong thực tế, chúng ta chỉ là người đáp lại tiếng Chúa gọi. Người đã chọn chúng ta một cách nhưng không để trở nên “Bạn” : “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa (…) Thầy gọi các con là bạn” (Ga 15,15).
Ban đầu, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Ađam như một người bạn nói với bạn mình. Đức Kitô, Ađam mới, đã lấy lại và không chỉ gọi chúng ta là bạn nhưng là bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta yêu : “Như Thầy đã yêu các con”. Trong tình yêu của Chúa Giêsu, chiều kích nhưng không là nền tảng và tình yêu của chúng ta phải có. Yêu như Chúa là phải yêu nhưng không. Tình yêu của Chúa không có sở hữu. Đấng Cứu Thế mời gọi chúng ta : “Anh em hãy yêu thương nhau”. Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta làm cuộc xuất hành tình yêu hướng về người khác. Dâng tặng tình yêu thương cho anh em và đáp lại tình yêu của Chúa để trở nên BẠN.
3) Tình yêu hỗ tương : tình bạn
Nói đến tình bạn, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự có đi có lại trong tình yêu. Vậy, trong nghĩa nào thì tình bạn khác với tình yêu? Tình bạn là một tình yêu hỗ tương. Theo thánh Augustinô, tình bạn là có đi có lại, nhưng không có tính toán vì không có sự giả vờ trong tình bạn thật.
Sự tương hỗ Kitô giáo được sinh ra từ sự nhưng không, không có nghĩa là “dịch vụ chưa thanh toán, hay làm mà không cần lý do”, nhưng được thi hành với lý do cao cả : tình yêu được sinh ra bởi đức tin.
Tình yêu Kitô giáo là sự đảo nghịch, nhưng không đối xứng: cho và nhận không cùng đẳng cấp. Tin Mừng về sự có đi có lại không đơn giản chỉ là một sự đổi chác. Nếu chúng ta chỉ yêu đến mức trao đổi, đây không phải là tình yêu đích thực. Và nếu chỉ vì chúng ta cho mà chúng ta được yêu, thì đây không phải là ta được yêu thực sự. Chỉ những ai hiểu được sự nhưng không tự nhiên này, mới có thể hiểu được Thiên Chúa và chính mình. Con người với hình ảnh giống Thiên Chúa, được tạo dựng và trao ban nhưng không. Đây là cách còn người tìm thấy sự thật của chính mình và thể hiện bản thể mình là giống “hình ảnh của Thiên Chúa”.
Đặc tính của mối liên hệ tình bạn này tối thiểu có ba điều : hoàn toàn hiến thân (“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”) (Ga 15,13); Tín nhiệm (“Ta đã giao phó cho các con tất cả những gì Ta đã nghe được từ nơi Cha Ta”); lựa chọn ơn gọi là tiền định nhưng không (“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”) (Ga 15,16).
Tất cả có thể tóm gọn trong từ : “YÊU”. Người Thầy nhân lành yêu cầu chúng ta làm việc bác ái như là một điều răn duy nhất có thể. Không có bác ái, tất cả đều không không vậy. Thực tế, Đức ái phải dẫn con người tới các nhân đức khác để làm cho con người tốt.
Là những người thừa hưởng sự ưu đãi này, các môn đệ được “nâng lên” làm BẠN của Thiên Chúa : “Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” Nó có nghĩa gì? Rất đơn giản, có nghĩa là chúng được Chúa Kitô yêu mến và nếu tình yêu là một cuộc xuất hành ra khỏi chính mình, chúng ta phải ra khỏi chính mình và đặt mình vào trong Trái Tim Chúa và sau đó tự hỏi Chúa yêu thương chúng ta thế nào và Chúa đợi gì, chúng ta làm như Chúa : yêu mến người khác như Chúa yêu mến chúng ta. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Các con tuân lệnh Thầy truyền,
Như Cha yêu mến, lời nguyền sắt son.
Thầy hằng thương mến các con,
Thực hành ý Chúa, vẹn tròn tin yêu.
Vững tin tuân giữ mọi điều,
Cha Thầy ưu ái, thiên triều chốn đây,
Chính Thầy vâng lệnh Cha Thầy,
Niềm vui chan chứa, đong đầy tâm can.
Các con yêu mến thiên nhan,
Vì Thầy thí mạng, thế gian tội tình.
Tình yêu bạn hữu sinh linh,
Không còn tôi tớ, coi khinh chối từ.
Ơn Thầy chọn gọi riêng tư,
Sai làm nhân chứng, anh thư giữa đời.
Sinh hoa kết trái mọi thời,
Yêu thương thông cảm, mọi người anh em.
Đây là lệnh truyền của Thầy:“Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con.” Bất cứ ai không yêu sẽ không biết Chúa, vì Chúa là tình yêu. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tình yêu. Tình yêu hôn nhân, tình yêu gia đình, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, tình yêu giữa anh chị em, tình yêu trai gái và tình yêu bạn bè…. Hơn nữa chúng ta có tình yêu giáo hội, yêu tổ quốc và tình yêu tha nhân.
Một đặc điểm của tình yêu là hy sinh và cho đi. Chúa yêu thương chúng ta, Ngài đã cho đi tất cả và cho cả mạng sống. Cho đi tới giọt máu cuối cùng. Tình yêu của Chúa là tình yêu vô điều kiện. Làm sao chúng ta có thể đáp trả tình yêu của Chúa. Chúa truyền cho chúng ta là hãy yêu nhau. Trong đời sống hằng ngày, vợ chồng yêu nhau, hy sinh cho nhau, nhường nhịn và kính trọng nhau. Con cái yêu thương cha mẹ. Yêu cha mẹ thì chúng ta phải thông cảm cho những nỗi khổ tâm của cha mẹ. Yêu tha nhân thì nâng đỡ và chia gánh nặng với họ cả tinh thần lẫn vật chất.
Yêu là cho đi. Cho đi qua ước muốn với những ý hướng tốt. Cho đi qua thái độ, cử chỉ và cách thế giao tiếp. Hãy cho đi những thái độ tự nhiên, cởi mở và khiêm tốn. Có thể trao cho nhau một nụ cười, một cái nhìn thông cảm và một câu chào hỏi lễ phép. Đó cũng là biểu tỏ của tình yêu. Truyện kể có một ông lính già xấu xí vì bị thương tích. Không ai muốn làm bạn với ông. Khi chết, ông còn để lại một di chúc. Xin trao tất cả số tiền ông có cho một em bé gái, vì ông viết rằng cả đời ông đã không nhận được món qùa nào qúy trọng bằng nụ cười thông cảm của một em bé gái.
Tình yêu Chúa cao vời và bao la như biển khơi. Chúng ta được ngụp lặn trong tình yêu của Chúa, trong khi tình yêu của chúng ta lại ích kỷ và hẹp hòi. Chúng ta bị giới hạn và còn so đo tính toán hơn thiệt trong tình yêu đối với tha nhân. Không dễ để hy sinh và cho đi nếu tình yêu không được đáp trả. Chúng ta luôn muốn rằng dù tình yêu nào đi nữa cũng cần có qua có lại.
Tình yêu của Thiên Chúa đôi khi là tình đơn phương. Chúa luôn kiên trung trong tình yêu với con người, nhưng con người đã nhiều lần ngoại tình và đã phản bội tình yêu. Chúa Giêsu nói rằng: Không có tình yêu nào cao qúi hơn mối tình của người dám thí mạng vì bạn hữu. Chúa nói và Chúa đã thực hiện.
Thánh Maximilien Kolbe là mẫu gương. Ngài là một tù phạm của Phátxít Đức. Theo luật, khi có một người trốn trại, 10 người khác phải chết thế. Họ đọc danh sách 10 người. Trong đó có một người đàn ông, cha của một gia đình có tên trong danh sách phải chết. Vợ con ông khóc lóc thảm thiết. Cha Kolbe giơ tay chịu chết thế cho người bạn tù.
Tình yêu là thế. Chỉ có tình yêu mới lấp được hận thù, tình yêu này phản ảnh tình yêu của Chúa Kitô. Lạy Chúa, xin tình yêu của Chúa thấm nhập vào tâm hồn chúng con, để chúng con cùng chia xẻ tình yêu với anh em chúng con.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Yêu thương”.
Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức và thực hành yêu thương. Cornêliô rất kính sợ Thiên Chúa và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn tới (Cv 10,4) và được Thánh Thần ngự đến, sau đó Phêrô đã làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (Cv 10, 44.48).
Trong bài đọc hai, Thánh Gioan mời gọi: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-9).
Bài Tin Mừng tiếp nối Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về dụ ngôn cây nho và cành. Nhựa sống luân chuyển nuôi dưỡng cây nho và cành sinh ra hoa trái. Tình yêu từ cội nguồn Thiên Chúa chính là nguồn sống phong phú nuôi dưỡng và làm phát triển người tín hữu. Có ở lại trong tình yêu của Chúa mới sinh hoa kết trái :“Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”.
Chúa Giêsu ban điều răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34; x. Mt 8,26-27 // Mc 4,39-41 // Lc 8,24-25; Mt 28,19-20; Mc 1,25-27 // Lc 4,35-36; Mc 5,43 // Lc 8,56; Mc 9,25; Ga 15,12.17).
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa vẫn dạy phải yêu thương những người thân cận như chính mình. Những người thân cận là ai? Đó những người quen biết trong họ hàng, khu xóm, những người không thân nhưng có quan hệ với mình. Nói chung là những người mình quen biết trong cuộc sống.
Chúa Giêsu mở rộng tầm nhìn cho những người theo đạo cũ. Khái niệm người thân cận được minh họa qua câu chuyện người Samaritanô trên đường Giêricô xưa. Vì người bị cướp, bị đánh đập không phải là người đồng đạo, không phải là người quen biết, nên những luật sĩ, tư tế bỏ đi, không coi họ là người thân cận. Còn người Samaritanô là người ngoại, nhưng lại xem nạn nhân giữa đường như người thân cận với mình. Cái “mới” là ở chỗ đó. Yêu thương như Thầy đã yêu thương là yêu thương không loại trừ ai, không tính đến là lương hay giáo, quen hay không quen. Yêu thương cả những người nghịch lại với mình, chứ không phải chỉ chọn lựa yêu thương những người hợp với mình…”.
Chúa Giêsu gọi là điều răn mới và nhấn mạnh nơi chữ như ”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh : như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.
Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẻ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).
Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?
Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.
“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.
Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…
Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người ! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.
Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)
Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho chúng ta được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.
Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?.
Vị tu sĩ đáp : có chứ.
Người thanh niên hỏi : Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được ?
Vị tu sĩ đáp : Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.
Người thanh niên hỏi : nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?
Vị tu sĩ đáp : Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.
Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi :Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?.
Vị tu sĩ đáp : Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.
”Anh em hãy yêu thương nhau”, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất, thiết thực nhất để nhận ra ai là người thuộc về Chúa : ”Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương ”như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “ Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.
.
Lm. Giuse Phạm Quốc Phong
“Thầy đã nói với anh em … để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11)
Một ước muốn duy nhất và cũng là điều hạnh phúc nhất trong sâu thẳm con tim của mỗi người chúng ta, không có gì khác, đó chính là “yêu” và “được yêu”. Điều này đúng ngay cả đối với những người cứng cỏi và nguội lạnh nhất, những người bị đang bị tổn thương cũng như những người đang trong thất vọng, những người bi quan và mỏng giòn, ước muốn “cho đi” hay “lãnh nhận” “Tình Yêu” này hiện diện trong mỗi chọn lựa và trong từng nỗi đau đớn của chúng ta. Chúng mong ước yêu thật nhiều và được yêu thật nhiều, và rồi chúng ta đau khổ, bởi vì chúng ta không đạt được ước muốn đó: “yêu và được yêu”, mặc dù chúng ta đã cố gắng tìm đủ mọi cách thức để có được nó. Vậy thì làm cách nào chúng ta có thể yêu và được yêu ?
Tin Mừng hôm nay của Thánh Gioan trả lời cho chúng ta rất rõ ràng câu hỏi ở trên. Tình yêu trước tiên đó là một tiến trình đón nhận Tình yêu của Thiên Chúa, chấp nhận để được yêu, ở lại trong tình yêu mà mình khám phá ra. Tình yêu do đó, trước là “ý thức” và rồi “cảm nhận”, sau đó “rung cảm” rồi đến “cảm xúc”. Chính những đặc tính đó làm thước đo cho tình yêu như thánh Tông đồ đã chỉ cho chúng ta. Chúng ta, và nhất là người trẻ ngày nay, thường hay hiểu lầm từ ngữ “Tình yêu”. Tình yêu không chỉ là “đam mê” và “dấn thân vào đam mê đó”, nó không chỉ là hương thơm của hoa Violet hay “niềm hạnh phúc vô tận”, nó không chỉ là “cảm nhận mình có giá trị” và được người nào đó “tìm kiếm” (một người tình, một người con, hay một người bạn). Tình yêu còn phải mang những thuộc tính: cụ thể và thực tại, mỗi ngày một cách đều đặn, mệt mỏi và lao nhọc, trung thành nhất là trong lúc khó khăn và thử thách, và có khỉ là “cuộc khổ nạn”. Tất cả những thuộc tính này, chúng ta đều tìm thấy nơi “Con Người” Giêsu một cách trọn vẹn.
“Hãy để cho chúng ta được yêu!” nhưng bằng cách nào ? Thông thường tình yêu của chúng ta bị gián đoạn, có khi bị hủy diệt bởi sự chậm trễ hay đóng kín cõi lòng chúng ta, hoặc bởi sự mệt mỏi và tội lỗi của chúng ta. Tất cả những thứ này làm chúng ta mệt mỏi và xấu hổ với chính mình, sợ hãi và ngại ngùng trước Thiên Chúa. Chúng ta phải hiểu rằng: Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta: hãy để cho chúng con được yêu, hãy để cho lòng Nhân Từ của Cha đến được với chúng con, hãy để cho Tình yêu của Cha đến và ở lại với chúng con trong sự quan phòng và sự hiện diện của Người. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nhắc nhở nhiều lần với chúng ta: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha tội cho chúng ta, chỉ có chúng ta mới mệt mỏi khi phải đi hòa giải với Ngài mỗi khi chúng ta phạm tội, rằng lòng từ bi tha thứ của Thiên Chúa là Vô hạn lượng”. Và một cách tất yếu rằng: Tình yêu sẽ biến đổi chúng ta.
“Thầy đã nói với anh em … để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”. Chúa Giêsu mong muốn niềm vui, một niềm vui đích thực, một niềm vui tròn đầy. Kitô giáo là một tôn giáo của niềm vui: niềm vui vì càm nhận mình được yêu và có khả năng yêu. Có thể rất nhiều lần, chúng ta đã để mình đi vào con đường của sự buồn chán, lo lắng hay rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần. Những khó khăn, những vấn đề rắc rối, sự yếu đuối, sự đau khổ làm cho chúng ta chao đảo, và có khi làm chúng ta ngã quỵ. Chúng ta phải tự đặt ra câu hỏi để phản tỉnh: “vậy chúng ta được gì, nếu cứ mãi ở lại trong sự đau khổ và buồn bã đó”? Thiên Chúa sẽ biến đổi “sự than khóc của tôi thành điệu ca”, nghĩa là Ngài biến đổi và ban cho chúng ta niềm vui đích thật. “Hãy đến với Ta hỡi những ai đang mang gánh nặng nề, Ta sẽ bổ sức cho…” lời mời gọi yêu thương đầy thông cảm của Chúa Giesu phải là một lời nhắc nhở mỗi khi chúng ta cảm thấy chùng chân mỏi gối trên đường lữ thứ trần gian, và Lời ấy chính là Ngài, một Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với mỗi người chúng ta, một Thiên Chúa luôn cảm thông và tha thứ luôn luôn cho chúng ta, bởi vì Ngài muốn: “để niềm vui của anh em được nên trọn”.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Ngạn ngữ Pháp có câu : “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir en peu). Cuộc ra đi nào cũng hàm ngậm bao lưu luyến, có khi kèm theo cả nước mắt lẫn ngậm ngùi. Cuộc từ biệt của Chúa Giêsu cũng vậy. Trong những giây phút thầy trò quấn quít bên nhau với bao vương vấn, Chúa cũng để lại những lời tâm huyết sau cùng như một di chúc thiêng liêng. Những lời di chúc đó vẫn thường được các nhà chú giải gọi là ‘Diễn từ biệt ly’. Hôm nay, Giáo hội đọc lại cho chúng ta những lời tâm huyết này với lời nhắn nhủ của Chúa : “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Giới răn mới
Yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống con người. Triết gia Aristotle đã nói : “Tính hẹp hòi và ích kỷ sẽ biến con người trở nên dã thú. Trái lại, khi chúng ta biết sống yêu thương với lòng nhân ái, chúng ta sẽ trở nên như thần thánh”. Triết lý Á Đông cũng đề cao phương châm ‘Tứ hải giai huynh đệ’, mọi người bốn bể đều là anh em với nhau. Học thuyết của các tôn giáo khác cũng dạy con người phải sống từ bi, công bình và bác ái. Vì vậy, người ta vẫn thường hay nói rằng đạo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành, chẳng có tôn giáo nào cổ xúy việc thù hận và chém giết cả.
Nếu như thế, đạo lý Kitô giáo có gì khởi sắc và mới lạ? Tại sao sống yêu thương lại là giới răn mới mà Chúa đã truyền thụ lại cho các học trò của mình?
Để trả lời cho vấn nạn này, chúng ta hãy bình thản đọc lại và suy gẫm những điều Chúa nói hôm nay, nhất là phải đặt mình vào trong bối cảnh của bữa tiệc ly, lúc Chúa Giêsu chuẩn bị đi vào hành trình Thập giá và tiến nhận cái chết. Sứ điệp yêu thương mà Chúa nói đến, không phải là những sáo ngữ rỗng tuếch giống như những lời hiệu triệu nặng tính hình thức của các lãnh tụ chính trị trên khắp thế giới. Họ nói rất hay, họ nêu ra những khẩu hiệu nghe rất hoành tráng, nhưng cuộc sống thực tế của họ có khi khác hẳn. Trái lại, huấn lệnh mà Chúa Giêsu ngỏ trao cho các môn sinh trong bữa tiệc ly là lời cắt nghĩa cụ thể về mầu nhiệm Thập giá, nơi đó Chúa Giêsu đã hiển thị những lời giáo huấn bằng hành động. Ngài đã trao ban tất cả và vẫn còn yêu thương mãi mãi cho đến vô tận.
Đây là giới răn mới, vì đó là cái khung của giao ước mới, giao ước được ký kết bằng máu đã đổ ra trên Thánh giá, thay cho máu của chiên bò trong giao ước cũ. Giới răn yêu thương Chúa nói ở đây không chỉ dừng lại trên bình diện nhân bản, nhưng đã được nâng lên một tầm cao mới mang chiều kích thánh thiêng. Hãy ‘Yêu như Thầy đã yêu’. Tình yêu ở đây đã được thần hóa, không phải chỉ là những tình cảm thuần túy nhân lọai, nhưng đi sâu vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, bởi vì bản tính của Thiên Chúa chính là tình yêu. Thánh giáo phụ Basiliô đã viết : “Vì yêu thương, Thiên Chúa đã mang lấy kiếp người, để khi đáp trả và sống hoàn hảo ơn gọi tình yêu, con người sẽ được trở nên Thiên Chúa”. Giới răn mới Chúa nói tới hệ tại ở điểm mấu chốt này.
Những bài học minh họa
Đức Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ngài cũng không dạy các học trò bằng sách vở hay bằng những bài học mô phạm trên lý thuyết. Ngài dạy dỗ bằng chính cuộc sống cụ thể của mình, và cao điểm là chính cái chết của Ngài trên Thánh giá. Vì vậy, chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể khẳng quyết : “Không ai có tình yêu cao cả cho bằng người dám hiến thân vì bạn hữu”. Trong bữa ăn cuối cùng, Chúa còn minh họa bài học yêu thương bằng hành vi khiêm hạ, cúi xuống để rửa chân cho các học trò. Việc rửa chân, theo phong tục của người Do Thái, là những công việc chỉ dành cho các ‘Oshin’, những người nô lệ được ông chủ mua về để phục dịch. Vì thế, sau khi rửa chân, Chúa đã giải thích cho các môn đệ : “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau (Ga 13, 14)”.
Chúa Giêsu đã thực hiện những nghĩa cử yêu thương và ban những giáo huấn thân tình cho các môn sinh trước lúc lên đường thụ nạn. Phía trước Ngài là cả một bóng tối dầy đặc của sự chết do tội lỗi con người gây ra. Ngài cảm thấu và thấy trước sự phản bội chua chát của Guiđa. Ngài biết những yếu đuối của Phêrô khi ông nhát đảm chối bỏ vị tôn sư khả kính. Chúa cũng nhìn thấy sự ghê tởm và hung hãn của các đầu mục Do Thái cũng như của toàn dân khi họ đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tướng cướp. Nhưng Chúa Giêsu đã chấp nhận tất cả vì một động cơ duy nhất, đó là tình yêu dành cho con người. Vì thế ngay từ đầu diễn từ biệt ly, thánh ký Gioan đã viết : “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1).
Yêu thương và tha thứ
Tình yêu mà Chúa Giêsu thể hiện hàm ngậm sự tha thứ vô điều kiện. Đứng trước sự phản bội của Guiđa, Chúa Giêsu đã không kết án anh ta. Ngài chỉ buồn bã thốt lên : “Thà nó đừng sinh ra thì hơn”. Đứng trước sự yếu nhược của Phêrô, ánh mắt của Chúa đã quét ngang khuôn mặt của ông tại sân nhà thượng tế Caipha và khơi dậy nơi vị tông đồ cảm thức thống hối. Cũng vậy, đối diện trước sự hung hãn và tàn bạo của những kẻ giết mình, Đức Giêsu vẫn lên tiếng cầu nguyện : “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Giới răn mới mà Chúa Giêsu nói hôm nay luôn đi đôi với lòng bao dung và sự tha thứ. Học nơi Chúa Giêsu, chúng ta đừng bao giờ vội vã kết án người khác, nhưng hãy tự lục soát lương tâm, xem mình đã thực hành luật yêu thương ấy như thế nào. Chúng ta đừng chỉ đấm ngực mình và đọc lớn tiếng ‘Lỗi tại tôi’ trong nhà thờ khi đi dự lễ, còn khi bước chân ra bên ngoài, chúng ta lại cứ thích ‘đấm nhầm’ qua ngực của người khác, bằng cách nói hành nói xấu hoặc đổ lỗi cho nhau, thậm chí còn vu khống cả những anh chị em đang sống bên cạnh mình.
Kết luận
Người ta vẫn thường nói : “Con đường dài nhất chính là con đường đi từ cái đầu đến đôi tay”. Là Kitô hữu, chúng ta đã nghe đi nghe lại rất nhiều lần giáo huấn về luật yêu thương. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất không phải là chúng ta đã hiểu giáo huấn đó ra sao, nhưng chính là việc chúng ta đã sống và thực hành giới răn đó trong cuộc sống hằng ngày như thế nào.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Nếu Chúa Nhật trước chúng ta đã suy niệm tầm quan trọng của việc ‘ở lại trong Thầy…ở lại trong tình thương của Thầy’, thì câu hỏi được đặt ra hôm nay lại là, làm cách nào để ‘ở lại trong Thầy’ cho thật hữu hiệu? Vấn nạn này đã được chính Đức Giê-su giải đáp và xem ra thật đơn giản và dễ hiểu: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”. Tuy nhiên câu giải đáp xem ra đơn giản tới độ không cần phải giải thích đó thật ra lại chẳng dễ hiểu chút nào bao lâu chúng ta chưa xác định được, ‘các điều răn của Thầy’ là điều răn nào?
Trong chương 14 và 15, Phúc âm Gio-an lặp đi lặp lại không dưới bảy lần về ‘điều răn hay lệnh truyền’ của Đức Giê-su (14:15.21.25; 15:10a.10b.11.12.17). Cho tới nay ta hầu như vẫn thường được nghe giải thích một cách dễ dãi: thì ‘điều răn của Chúa’ đương nhiên phải là mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh! Tuy nhiên cách giải thích này xem ra không ổn cho lắm, vì căn cứ theo mạch văn của đoạn Tin Mừng Thánh Gio-an thì Đức Giê-su hình như đang đề cập tới một thứ điều răn nào đó có một nội dung rất khác với thập giới của Cựu Ước hay sáu điều Hội Thánh qui định sau này. Điều răn này dứt khoát có tầm quan trọng vô đối vì là điều kiện thiết yếu để gắn kết, trước hết là Đức Giê-su với Cha của Người, đồng thời cũng là để mọi môn đệ có thể ở lại được trong tình thương của Thầy mình; “…Anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Nếu vậy, ta cần tìm hiểu cụ thể điều răn đó có nội dung gì mới được?
Thú thực cho tới giờ này tôi vẫn chưa tìm được câu giải thích thỏa đáng cho một chi tiết rất nhỏ: tại sao khi đề cập tới điều răn cách chung chung (14:15.21; 15:10a.10b.11) tác giả Gio-an luôn sử dụng số nhiều ‘các điều răn’, nhưng khi nói cụ thể thì chỉ là một duy nhất ‘Đây là điều răn của Thầy… Điều Thầy truyền dạy anh em là…’ (15:12.17)? Phải chăng, đối với các môn đệ có truyền thống Do Thái, giới răn nói chung (thập giới) luôn là số nhiều (trừ khi nói về từng giới luật một)? Ngay cả khi phải tóm gọn các giới răn đó lại, Đức Giê-su vẫn còn xác định hai điều căn bản: mến Chúa và yêu người (Mt 22:36-40). Nhiều tác giả cho rằng: Đức Giê-su sử dụng từ ‘các giới răn’ đồng nghĩa với ‘các lời’ Thầy nói với anh em’ (14:23). Tuy nhiên khi phải xác định rõ nội dung ‘các giới răn của Thầy’ là gì, thì Người lại chỉ khảng định có một điều duy nhất mà thôi: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (câu 12)… Điều thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.” Vậy tại sao trong hoàn cảnh này lại chỉ là một mà không phải là hai?
Nếu Cựu Ước coi việc ‘ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’ là quan trọng hơn hết, thì ‘điều răn của Thầy’ lại không hề đề cập tới điều này. Theo suy nghĩ của riêng tôi thì Đức Giê-su nắm rất rõ bản tính con người: yêu mến hết lòng là điều hầu như không ai có thể làm được; yêu mến phải do Thiên Chúa tình yêu chủ động. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Điều Người yêu cầu mỗi Ki-tô hữu làm lại mang tính thụ động hơn, “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Nhận biết Thiên Chúa yêu thương mình là tất cả đối với niềm tin của mọi tín hữu. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”, ngay Đức Giê-su khi nói về tình yêu Người dành cho nhân loại cũng đã khảng định nguồn gốc của nó nằm ở đâu. Do đó ‘ở lại trong tình thương của Thầy’ chính là điều bất cứ tín hữu nào cũng phải làm và có thể làm, đặc biệt những người yếu hèn và tội lỗi. ‘Ở lại’ này không đòi phải cảm thấy mình có cháy lửa yêu mến Chúa hay không, hoặc ‘cháy’ tới mức độ nào; ‘ở lại’ chỉ để giữ cho được điều răn duy nhất là ‘yêu thương nhau’. Đúng vậy, ta chỉ có thể ‘yêu thương nhau’ nếu nắm bắt được ‘ Thầy đã yêu thương’ ta như thế nào. Xem ra ‘yêu thương nhau’ chính là thước đo mức độ chúng ta ‘ở trong tình thương của Thầy’, đồng thời đó cũng có thể là thứ hoa trái mà Chúa muốn chúng ta sinh nhiều và tồn tại mãi, phát xuất từ việc ‘ở lại trong tình thương’ đó?
À, thì ra thế! Lúc đầu khi mới đọc cuốn sách ‘Be My Light’ viết về Mẹ Tê-rê-xa Can-cut-ta – nhân vật mà không ai ngờ đã trải qua gần 50 năm sống trong tăm tối thiêng liêng trong tình trạng hầu như mất đức tin, vậy mà Mẹ vẫn lao mình vào các việc bác ái không mỏi mệt, tôi cho là quá nghịch lý. Sự thật hiện ra tỏ tường trước mắt khi tôi biết rằng, đơn giản là Mẹ đã liên tục ‘ở lại trong tình thương của Thầy’. Và nếu hoa trái nơi Mẹ chưa phải là ‘yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’, thì nó đã là ‘yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương’… Đó chính là ‘điều răn’ duy nhất của Thầy mà Mẹ đã nắm giữ, ‘để Mẹ ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của Mẹ tồn tại’.
Tôi cũng phải như vậy thôi! Đứng có quá lo lắng phải yêu mến Chúa như thế nào, mà giản đơn là ở lại trong tình thương mến của Thầy, là cảm nghiệm thấy Thầy yêu mến và tự hiến cho con người thấp hèn như mình, là Thầy đã chết cho mình tội lỗi… và rồi cố diễn đạt sự ở lại đó qua việc thương mến và phục vụ tha nhân. Thật là đơn giản, phải không các bạn?!
Ôi, lạy Thầy Giê-su từ nhân, ‘điều răn của Thầy’ thật quá đơn giản. Chính bản thân con cũng đã từng nghiệm thấy ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’ là khó quá, ít ai đạt được. Thực ra Thầy chỉ tha thiết đòi con ‘ở lại trong tình thương của Thầy’, kể cả khi con yếu đuối tội lỗi nhất. Con xin Thầy cho con sớm đạt được hoa trái ‘yêu thương nhau’, nhờ liên tục trầm mình trong tình yêu ‘như Thầy đã yêu’. A-men.
.
HÃY Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU CỦA THẦY
Lm Trần Bình Trọng
Ðọc Thánh kinh Tân ước, người ta thấy Phúc âm theo thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu, chứa đựng đầy dẫy từ ngữ yêu mến. Ðó là lý do tại sao, Phúc âm thánh Gioan được mệnh danh là Tin mừng yêu mến. Theo truyền thuyết kể lại thì khi về già, thánh Gioan chỉ giảng một câu vắn tắt: Hỡi đoàn con nhỏ, hãy thương yêu nhau. Lời giảng dạy đó được lặp đi lặp lại nhiều lần trong vòng một thời gian khá lâu.
Ðiều đó làm giáo dân chán ngấy, tưởng rằng thánh nhân đã bị mất trí, nên xin ngài nói điều gì mới lạ hơn cho họ khỏi nhàm. Ðể trả lời, thánh Gioan nói là cứ tiếp tục giảng vể tình yêu mến bao lâu họ chưa biết thương yêu nhau. Thư thứ nhất của thánh Gioan có ghi: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4:8). Và tình yêu của Thánh Thần Thiên Chúa xuống cả trên các dân ngoại nữa (Cv 10:45), chứ không phải chỉ hạn chế vào một dân tộc nào thôi.
Trong Phúc âm hôm nay, thánh Gioan ghi lại lời Ðức Giêsu bày tỏ lòng Người thương yêu nhân loại: Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy (Ga 15:9). Vậy ta thử xét coi Ðức Giêsu yêu mến loài người như thế nào. Và ta cũng chỉ bàn về lòng Ðức Giêsu yêu mến loài người theo như Phúc âm hôm nay ghi lại mà thôi. Nếu xét tất cả những việc Ðức Giêsu làm vì yêu mến loài người trong toàn bộ Phúc âm, thì không biết bao giờ ta mới nói hết. Chúa Giêsu đã yêu mến loài người bằng cách chấp nhận cuộc tử hình thập giá để chuộc tội loài người. Ðó là lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15:13). Thổ lộ cho ai về cảnh ngộ cá nhân hay gia đình, ngay cả những tâm tư và bí mật của đời mình là dấu chỉ mình tín nhiệm tính kín đáo của người đó, muốn gần gũi với người đó và muốn mở lòng để người đó đi vào đời mình. Ðó là cách thế Ðức Giêsu đã làm để trở nên bạn hữu với các tông đồ: Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thẩy đã cho anh em biết (Ga 15:15).
Bạn hữu nhất là bạn cùng ăn một mâm, cùng nằm một chiếu là người quan tâm đến ta, và ta quan tâm đến bạn. Bạn bè là người gắn bó với ta khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi yếu đau cũng như lúc mạnh khoẻ. Bạn bè là người ta có thể tin cậy. Bạn bè thường trung thành với nhau, giúp đỡ nhau, sống chết có nhau. Trong một xã hội phong kiến hay dưới một thể chế quân chủ, khi một người nhỏ tuổi hoặc cùng đinh mà gọi người lớn tuổi hay phú quí là bạn, có thể bị coi là chơi trèo, hỗn xược, vì cha ông ta dạy kính lão đắc thọ. Chúa Giêsu còn cao trọng hơn ta gấp bội phần, nhưng Người đã tự hạ mình xuống làm bạn với ta. Chúa bảo các tông đồ và qua các tông đồ, Chúa cũng bảo ta: Anh em là bạn hữu của Thầy (Ga 15:14). Vậy được gọi là bạn hữu với Chúa, là một ân huệ lớn lao dường bao! Ðiều thắc mắc ở đây là ta có thực sự tin rằng Ðức Giêsu là bạn với ta không? Ta có thể tin, vì Chúa nói như vậy. Tuy nhiên ta có cảm nghiệm được tình yêu và tình bạn với Chúa hay không lại là chuyện khác.
Có linh mục kia khi về Việt nam vào tiệm sách đạo thấy bầy bán vật kỉ niệm có lời Phúc âm hôm nay: Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy (Ga 15:9) được ghi trên tám mảnh trúc xinh xắn, nối vào nhau bằng mười bốn khúc trúc nhỏ xíu như tám nấc thang, trông khá mĩ thuật. Thấy đó chính là khẩu hiệu sống của đời mình, linh mục đương sự mua liền tại chỗ, đem về treo ở văn phòng để nhắc nhở mình. Vậy ở lại trong tình yêu của Chúa nghĩa là gì? Khi người ta nói đứa con đã mất nghĩa với cha mẹ, ta hiểu rằng đứa con đã xúc phạm đến cha mẹ và làm khổ tâm cha mẹ. Cũng vậy khi phạm tội, ta làm tổn thương đến tình yêu với Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là còn ơn nghĩa với Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là có được sự bình an trong tâm hồn. Trong một buổi nói chuyện với giới trẻ tại một giáo xứ kia, một linh mục hướng dẫn có cho giới trẻ thảo luận câu hỏi: Thế nào là hạnh phúc. Có một nhóm trả lời: Hạnh phúc là khi cảm thấy tâm hồn bình an. Ta thấy câu trả lời đó bao hàm tất cả ý nghĩa của hạnh phúc vì nếu không có bình an trong tâm hồn, thì dù có mọi sự khác cũng không có hạnh phúc.
Ở lại trong tình yêu của Chúa là giữ vững tình bằng hữu với Chúa. Cảm nghiệm ta có về tình bạn với Chúa giống như cảm nghiệm của hai người yêu đối với nhau. Hai người yêu luôn cảm thấy gần gũi nhau. Khi xa nhau, họ vẫn tưởng nhớ đến nhau, nhớ bóng dáng người yêu, ánh mắt của người yêu và cả tiếng thì thầm của người yêu. Nói cách khác, họ cách mặt mà không xa lòng. Cảm nghiệm của ta về tình yêu và tình bạn với Chúa cũng tương tự như vậy. Có được cảm nghiệm về tình yêu/ tình bạn với Chúa, ta sẽ cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong ta, bên ta và xung quanh ta. Khi ăn uống, làm việc, giải trí và cả khi ngủ nghỉ, ta cũng cảm nghiệm sự diện diện của Chúa. Có được cảm nghiệm như vậy, ta không còn cảm thấy thiếu thốn chi trong lòng, không còn muốn đổi chác lấy gì khác, mà bị mất cảm nghiệm thần linh này. Ở lại trong tình yêu của Chúa là muốn được gần gũi với Chúa, muốn đặt niềm tin cậy phó thác vào Chúa, muốn Chúa làm chủ đời sống và làm lẽ sống cho cuộc đời.
Vậy làm thế nào để được ở lại trong tình yêu của Chúa? Trong Phúc âm hôm nay chính Chúa Giêsu dạy ta làm sao để được ở lại trong tình yêu Chúa: Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình yêu của Thầy (Ga 15:10). Tuân giữ các điều răn của Chúa là loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu. Tuân giữ các điều răn của Chúa là tuân theo thánh ý Chúa, sống theo đường lối Phúc âm. Ðó là khởi điểm của mối liên hệ mật thiết với Chúa. Cảm nghiệm được thế nào là ở lại trong tình yêu và tình bạn với Chúa, ta sẽ cảm thấy vui sống đức tin. Nếu lỡ phạm tội làm mất sự bình an, ta lại ao ước muốn trở về sống trong tình yêu và tình bạn với Chúa.
Lời cầu nguyện: xin cho được ơn ở lại trong tình yêu Chúa:
Lậy Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể!
Con xin tạ ơn Chúa,
đã mời gọi con ở lại trong tình yêu Chúa
và cho con được làm bạn với Chúa.
Xin cho con cảm nghiệm được rằng,
thế nào là được sống trong tình yêu của Chúa
và tình bạn nghĩa thiết với Chúa. Amen.
.
HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẦY YÊU THƯƠNG ANH EM
Giuse Hoàng Hải Đăng
Yêu và được yêu là hai nhu cầu sâu thẳm nơi con người. Chính vì thế, yêu là từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng cũng là từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Bởi chưng, con người hiểu những từ ngữ này theo những cách khác nhau.
Có người hiểu yêu là những quan hệ xác thịt. có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu là thuộc cảm tính. Và để hiểu rõ bản chất của tình yêu, một tình yêu đích thực, chúng ta hãy ngụp lặn sâu trong dòng sông huyền diệu của Tin Mừng theo thánh Gioan ngõ hầu nhận ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó chính là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Đây chính là những lời tâm huyết của Đức Kitô đã nói với các môn đệ trước giờ tử nạn.
Tình yêu của Thiên Chúa đã được thể hiện cách trọn vẹn và hoàn hảo trong Đức Kitô. Đó là tình yêu hoàn toàn nhưng không. Tình yêu ấy cao cả đến nỗi Thiên Chúa đã trao ban Con Một của Người (Ga 3, 16). Thiên Chúa không phải chỉ trao ban một món quà hay một cái gì ngoài mình nhưng là trao đi một điều gì đó thân thiết và quý báu nhất của mình. Và điều quý báu đó chính là Đức Giêsu Kitô, người Con Một của Người. Khi trao ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta, Thiên Chúa đã trao ban cho ta chính bản thân Người. Người chấp nhận Con Một của Người phải chết trên thập giá để chúng ta được sống. Một tình yêu không hề biết giữ lại cho mình điều gì dù có quý giá đến đâu.
Bên cạnh đó, tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại là tình yêu của sự chia sẻ, của sự quên mình và mong muốn hạnh phúc cho người mình yêu “ để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Tình yêu này lan toả đến hết mọi người không phân biệt tốt xấu cũng như không loại trừ ai dù lành hay dữ.
Và đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa chính là sự từ bỏ. Người đã tôn trọng quyền tự do của chúng ta, mặc dù Người không muốn chúng ta phải chịu cảnh trầm luân đời đời. Nhờ đó, chúng ta có đầy đủ tự do để có thể tin hoặc không tin, có thể chấp nhận hay từ chối quà tặng của Thiên Chúa, và có thể mở ra hay khép lại trước sự sống đã được Thiên Chúa trao ban.
Tình yêu Thiên Chúa là như thế đó. Một tình yêu hoàn toàn như không. Và hơn thế nữa, Người còn chỉ dạy cách thức để chúng ta yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta. Cách thức đó là “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu của Người.” (Ga 15, 10)
Và khi đã ở trong tình yêu của Người, trái tim của chúng ta sẽ hoà chung nhịp đập với nhịp đập của trái tim Người. Nhờ đó, những tâm tư, hành động của chúng ta sẽ rập khuôn theo những tâm tư, hành động của Người và ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Người hơn. Khi ấy, tình yêu của chúng ta được nên trọn vẹn. Một tình yêu có đôi tay để ân cần giúp đỡ người khác, có đôi chân để vội vã đến với người nghèo, kẻ cần sự giúp đỡ; có đôi mắt để thấy nỗi đau khổ và những mong muốn, khát vọng của kẻ khác; có đôi tai để nghe nỗi thống khổ của đồng loại. (Thánh Âutinh)
Và khi đã yêu thương như thế, chúng ta sẽ sống với trái tim cởi mở, không còn giới hạn, không còn loại trừ nhau và đón nhận những bất toàn, khác biệt nơi anh em mình với sự tôn trọng. Một khi chúng ta đón nhận những cái khác biệt của nhau tức là đã có cái nhìn tôn trọng và thông cảm đối với con người, đã đi sâu vào tận cõi lòng của con người, để hoà chung một tấm lòng, cùng rung động theo niềm vui, nỗi buồn của nhau. Nhờ đó, ta sẵn sàng cho đi mà không chờ đợi sự đáp trả của người khác, nhưng chỉ biết rằng bất cứ hành động yêu thương nào cũng dẫn đến niềm vui cho người đón nhận cũng như cho người trao ban. Khi ấy, chúng ta cảm thấy an vui và hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin gieo vào tâm hồn chúng con lòng quảng đại để chúng con luôn tưởng nghĩ đến tha nhân, biết quan tâm đến những người anh em và biết san sẻ tình thương cho mọi người, để sau này chúng con sẽ gặt được hoa trái không bao giờ tàn là chính Chúa. Vì lạy Chúa, chính Người là tình yêu, là kho tàng quý giá nhất đời con.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con dấn thân hy sinh, phục vụ cho tha nhân, xin Chúa cũng dạy chúng con biết dùng những lời nói yêu thương, cử chỉ trìu mến mà an ủi nâng đỡ và khích lệ họ. Vì có như thế, mới chứng tỏ chúng con thực sự yêu họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
.
Lm. Đinh Lập Liễm
Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (Gen 1:27), cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương. Trong bài đọc 2, Thánh Gioan Tông Đồ đã trả lời cho chúng ta: ”Vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1Ga 4,7). Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu, Ngài ban cho chúng ta tình yêu ấy để chúng ta yêu Ngài và yêu nhau. Chúng ta không thể nào ban tặng tình yêu, trừ phi chúng ta đã đón nhận tình yêu từ trước đó.
Khi Thiên Chúa dựng nên Evà, thì Adong nói: ”Này là xương tự xương tôi, thịt là thịt tôi” (St 2,23). Tình yêu đồng loại chớm nở từ đó. Từ lúc Thiên Chúa dựng nên hai người, hai người đã chân thành thương yêu nhau như chính mình, coi nhau như một xương một thịt. Ngày nay chúng ta thường nói: ”đồng bào ruột thịt.” Đồng bào có nghĩa là chung một bào thai sinh ra; đồng một nguồn gốc, một máu mủ, ruột thịt.
Thiên Chúa không những yêu thương con người, đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, lại còn ban ơn cứu độ, nâng con người sa ngã lên, một việc làm còn lớn lao hơn việc tạo dựng. Tình yêu ấy đã được Thánh Gioan tông đồ mô tả: ”Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3,16).Ngài đã dám gánh tội chúng ta, đã chịu chết để đền tội cho ta. Ngài không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại: ”Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người thí mạng vì người yêu” (Ga 15,13).
Ngoài ra, Ngài cũng còn tỏ lòng thương yêu chúng ta bằng cách tôn chúng ta lên làm bạn hữu của Ngài: ”Thầy không gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn các con, Thầy gọi các con là bạn hữu” (Jn 15:5). Thực sự, chúng ta không xứng đáng được gọi là tôi tớ Thiên Chúa vì chúng ta là vật thọ tạo đã dám xúc phạm đến Ngài, đến Đấng đã tạo dựng nên mình. Đây là một vinh dự quá lớn lao mà Ngài dành cho chúng ta.
Đức Giêsu muốn truyền lại cho các tông đồ: ”Đây là điều răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Đức Giêsu có ý nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc yêu thương nhau, vì yêu thương là một lệnh truyền duy nhất gồm tóm mọi lệnh truyền khác (x. Mc 12,28-34). Lệnh truyền này là chúng ta yêu thương nhau như chính Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta. Và khuôn mẫu của tình yêu thương là Đức Giêsu yêu thương chúng ta. Tình yêu này có rất nhiều đặc tính mà chúng ta cùng tìm hiểu để áp dụng vào đời sống thường ngày của chúng ta.
Chúng ta nên lưu ý đến chữ nhau và chữ như, hai chữ ấy nói lên mức độ của tình yêu cả chiều rộng lẫn chiều sâu:
“Yêu thương nhau” nói lên chiều rộng của tình yêu. Chúa bảo chúng ta phải yêu thương nhau. Chữ “nhau” giả thiết phải có hai người trở lên. Vậy phải yêu ai và yêu bao nhiêu người? Chúa không bảo hai vợ chồng hay hai tình nhân yêu nhau, mà bảo phải yêu thương tất cả mọi người vì tất cả mọi người đều là con Thiên Chúa. Vì thế, ta không nên hiểu chữ “nhau” này theo nghĩa hẹp, chỉ nhằm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta mà thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Cha Zosima nói trong cuốn sách “Anh em nhà Karamazov” của Dostoevsky: ”Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mọi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiệm có trong tất cả mọi sự” (Flor McCarthy).
“Yêu như” nói lên chiều sâu của tình yêu. Phải yêu thương mọi người không trừ ai, lại còn phải yêu thương với một tình yêu sâu đậm như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta. Trong Thông điệp “Ánh sáng rạng ngời”, Đức Gioan Phaolô 2 đã viết: ”Chữ “như” này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, mà rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể… Chữ “như” cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của Người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy” (Số 20).
Một trong các đặc tính của tình yêu là “trao ban”, là cho đi. Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói: ”Không khi nào người ta yêu như người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình ái, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì cả.” Nếu tu viện trưởng Saint-Pierre quả quyết rằng: ”Yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi chân lý, vương miện của mọi nhân đức căn cứ trên sự CHO và tha thứ”, thì Thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã thực hiện trong tình yêu đối với Chúa Giêsu trong mấy vần thơ mà Thánh nữ sáng tác: Sống yêu đương chính là cho tất cả; Trên đời này không đòi hỏi công lao. Không tính toán, không kể cholà bao; Vì đã yêu có khi nào suy tính.
Palestine có hai biển hồ… Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau. Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa. Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và cá cũng có thể sống trong đó. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.
Biển hồ thứ hai tại Palestine là Biển Chết. Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi mà người cũng có thể trở nên bệnh hoạn nếu uống phải. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.
Có điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào Biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người. Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.
“Cho thì có phúc hơn nhận” (Act 20:35). Càng trao ban, càng được nhận lãnh. Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh (Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 154).
Tục ngữ Tây phương có câu: ”Partir, c’est mourir un peur”: ra đi là chết trong lòng một ít. Lìa xa nhau là một hy sinh; hy sinh làm ta đau khổ và đau khổ được coi như chết trong lòng một ít. Tình yêu chân thật đòi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng sâu đậm, càng tha thiết: ”Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật” (Pierre l’Ermite).
Yêu là hy sinh và hy sinh lớn nhất là cho đi chính mạng sống của mình như Đức Giêsu đã nói: ”Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Nếu đọc cuốn tiểu thuyết “Anh phải sống” của nhà văn Khái Hưng, ta thấy cũng có một nhân vật dám thực hiện lời khuyên trên của Đức Giêsu. Câu truyện ấy gồm tóm như sau: Hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên rừng để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì ”em phải sống để lo cho các con.” Người vợ cũng bảo chồng “Anh phải sống.” Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
Tình yêu có cái giá của nó. Yêu là chấp nhận rằng chúng ta có thể phải chết đi bằng một cái chết khác, trước khi chúng ta chết thật. Con đường yêu thương là con đường của thánh giá, và chỉ thông qua con đường thánh giá, mà chúng ta mới đến được với sự sống lại. Nếu nỗi đau khổ dạy chúng ta về cách thức yêu thương, thì không có gì là khủng khiếp, khi phải chịu đôi chút đau khổ trên trái đất này.
Thánh Gioan Tông Đồ luôn khuyên nhủ tín hữu hãy yêu thương nhau. Yêu thì có năm bảy đường yêu, nhưng tình yêu đòi hỏi sự chân thật. Ngài khyên: ”Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm; căn cứ vào điều đó chúng ta biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,18-19).
Nhiều người chỉ yêu thương hời hợt bên ngoài, lòng họ chẳng yêu gì; đúng là họ chỉ yêu trên đầu môi chót lưỡi như Thánh Gioan đã nói ở trên. Vì thế người ta nói: “Tôi yêu anh vạn; Tôi mến anh nghìn. Anh có ăn thuốc đưa tiền tôi mua.” Những người này người ta liệt vào loại: “Thương miệng thương môi; Thương miếng xôi miếng thịt.”
Trong một nghĩa địa, có một người đàn ông đã 5 ngày liền ngồi buồn rầu trên một nấm mồ và luôn miệng nói một câu thảm thiết: “Cớ sao ông lại chết? Cớ sao ông lại chết để tôi khổ thế này?” Người coi nghĩa địa muốn an ủi, bèn hỏi: “Người quá cố là cha hay anh ông vậy?” Con người khốn khổ rên rỉ: “Không phải cha, không phải anh. Đó là người chồng trước của vợ tôi đấy!!!”
Rất nhiều người đã thực hành lời khuyên ”Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12), bằng cách thể hiện ra trong những việc làm cụ thể hằng ngày. Trong một ngôi làng tại dẫy núi Alpes ở Thụy Sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dùng một tình cảm đặc biệt cho ngôi nhà thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân. Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Câu chuyện đó như sau:
Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn; người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi huê lợi trở nên hiếm hoi.
Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mìnhcòn độc thân, nhưng anh mình còn phải nuôi cả một gia đình.” Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.
Đồng thời, người anh cũng có đồng một ý tưởng đó và tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình có cả gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân.” Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.
Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Tại nơi đây, họ đã xây dựng một ngôi nhà thờ, bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong lòng yêu thương, thì ở đó, có sự hiện diện của Chúa (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 271-272).
.
Lm. Nguyễn Thái
Một vị trưởng lão Rabbi hỏi đệ tử của mình rằng: “Làm sao con có thể biết được khi nào đêm chấm dứt và ngày bắt đầu?” Người đệ tử suy nghĩ một lúc rồi trả lời, “Khi nào ngài nhìn thấy một con vật từ đằng xa và có thể nói đó là con cừu hay con chó.” “Không phải đâu con,” thầy Rabbi trả lời, “suy nghĩ lại đi con.” Người đệ tử chau mày suy nghĩ nhưng không tìm ra giải đáp. Rồi thầy Rabbi mới nói, “Đó là khi con nhìn vào mặt một người và thấy rằng đó là anh chị em của con. Nếu con không thể nhìn thấy điều này, thì vẫn còn là ban đêm.”
Chúng ta chưa phải là Kitô hữu thực sự khi chúng ta chưa nhìn thấy người khác như là anh chị em của mình. Phúc Âm hôm nay, Gioan 15: 9-17, là những lời trăn trối sau cùng của Chúa Giêsu cho môn đệ vào đêm trước khi Ngài tử nạn: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga 15:12). Yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, không phải chỉ nhìn mặt người khác mà thấy họ là anh chị em mình mà còn nhìn thấy Chúa Kitô ở trong họ nữa.
Một em bé gái quỳ xuống bên cạnh giường cầu nguyện trước khi đi ngủ. Lời cầu nguyện của em như sau: “Lạy Chúa, con thông cảm với sự khó khăn của Chúa phải yêu thương hết mọi người trên thế giới. Gia đình con chỉ có bốn người mà không bao giờ con yêu thương hết tất cả được.”
Phải, chỉ yêu mến cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, họ hàng thân thuộc, và bạn hữu quen biết thôi mà chúng ta còn chưa thực hành nổi, nói chi đến những người nghèo khổ lang thang ngoài đường, những người trộm cắp, tội phạm… và nhất là kẻ thù của mình (Mt 5:44). Đây là sự thách thức lớn lao cho tất cả mọi người mang danh Kitô hữu, sự thách thức của Tin Mừng do chính Chúa Giêsu giảng dạy.
Luật cũ của Do Thái đòi buộc: Yêu người lân cận như chính mình (Lv 19:18). Lấy tình yêu mình là trung tâm. Sự ích kỷ là tiêu chuẩn để cư xử. Nhìn vào mặt người khác mà thấy họ là anh chị em mình!
Luật mới của Chúa Giêsu đòi buộc: Yêu tha nhân như Chúa Giêsu yêu thương chúng ta. Lấy tình yêu Thiên Chúa là trung tâm và tiêu chuẩn để cư xử. ” Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga 15: 12) (GLCG # 1970).
Luật mới đòi hỏi hơn luật cũ (Rm 15:7). Nó mở rộng đối tượng yêu thương từ lân cận, hàng xóm qua tất cả mọi người tha nhân. Nó nâng cao tiêu chuẩn yêu thương, từ vị kỷ sang tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa thì vô cùng bao la đến nỗi Ngài đã hy sinh tính mạng của mình cho chúng ta trên thập giá. Yêu và chết cho người mình yêu là tiêu chuẩn cư xử của tất cả mọi người Kitô hữu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng mình vì bạn hữu” (Ga 15:3) (GLCG # 1965-1974).
Cuốn phim “Cứu Sống Hạ Sĩ Ryan”- “Saving Private Ryan” đã đoạt 5 giải Oscar 1999, với 11 nominations, kể về một câu chuyện đã xảy ra hồi đệ II thế chiến. Quân đội Mỹ đổ bộ xuống bờ biển Normandy của Pháp để bắt đầu cuộc tấn công qui mô của quân đội đồng minh chống Phát Xít Đức.
Trong câu chuyện này tài tử Tom Hanks đóng vai Đại úy Miller. Ông được trao trách nhiệm dẫn một toán 7 cảm tử quân xông vào vùng đất địch để giải thoát cho một đồng đội có tên là Ryan. Bộ chỉ huy giao sứ mạng này cho Đại úy Miller chỉ vì tình thương đối với bà Ryan. Bà có 3 người con bị báo cáo là đã tử trận tại chiến trường rồi, nhưng thực ra còn một người nữa chưa chết, mới chỉ bị kẹt trong vùng đất địch mà thôi. Vì thế Đại úy Miller bằng mọi giá phải cứu sống Ryan về cho bà mẹ đáng thương đó!
Để cứu được Ryan, 8 người lính cảm tử đã phải trải qua những cảnh tượng ghê rợn nhất của bom đạn, chết chóc, máu me, và thương tích. Thật là hãi hùng với cảnh tượng một người lính đã bị cắt cụt một cánh tay; cánh tay còn lại cứ ôm chặt cánh tay cụt của mình mà chạy như điên. Một người lính đã bị thương lòi ruột ra ngoài cố gắng nhồi nhét đống ruột bầy nhầy trở lại bụng mình. Cảnh một anh lính than khóc gọi mẹ như một đứa trẻ nít. Hay dã man hơn nữa, cảnh một người lính Đức đâm lưỡi lê vào ngực người lính Mỹ, rồi theo cơn căm phẫn từ từ đẩy lưỡi lê vào sâu hơn, trong tiếng thì thầm hung dữ bên tai nạn nhân.
Sau cùng cả Đại úy Miller và 7 cảm tử quân đều bị hy sinh tại chiến trường, nhưng sứ mạng của họ đã hoàn tất. Họ đã cứu được Ryan trở về đất Mỹ, với xứ sở tự do và hòa bình, với người mẹ và gia đình. Sau chiến tranh, Ryan dẫn vợ và con ra thăm mộ của 7 chiến sĩ cảm tử quân, rồi quay sang hỏi vợ: “Do I have a good life? Tell me! Am I a good man?”, “Em ơi, hãy nói cho anh biết anh có phải là một người tốt không?” Hay nói một cách khác, “Em ơi, cuộc đời hiện tại của anh, có sống xứng đáng với sự hy sinh của họ không? Anh đã không lãng phí cuộc đời được trả bằng máu của họ chứ?” Sứ điệp đó là những lời trăn trối cuối cùng của Đại úy Miller cho Ryan trước khi chết.
Qua chuyện phim trên và bài Phúc Âm hôm nay, hai câu hỏi được đặt ra cho chúng ta là: “Chúa Giêsu đã làm gì cho chúng ta?” và “Chúa Giêsu đã làm gì qua chúng ta?” Hai câu hỏi liên hệ đến hai giới răn quan trọng là mến Chúa và yêu người.
Thứ nhất, tất cả những người Kitô hữu, phải nhớ đến món nợ Máu Chúa Kitô đã đổ ra cho chúng ta trên thập giá (Rm 5:8; Dt 12:4). Chúng ta cám ơn Chúa vì sự hy sinh cao cả này. Chúng ta có được ngày hôm nay, là do tình yêu cao cả của Ngài ban cho. Chúng ta phải luôn tự vấn lương tâm xem đã sống xứng đáng với sự hy sinh của Chúa chưa?
Thánh Têrêsa Avila đã ở trong nhà dòng một thời gian rất lâu trước khi khám phá ra tình yêu Thiên Chúa có liên hệ trực tiếp đến cái “tôi” của mình. Mặc dù đã là một nữ tu, thánh nữ vẫn chưa cảm nhận được ý nghĩa sâu xa của đời sống tu trì. Một ngày kia, thánh nữ bước vào phòng đọc sách và nhìn thấy bức hình Chúa Giêsu bị đánh đòn. Khuôn mặt khổ đau của Chúa Giêsu đã thu hút trí tưởng tượng của người nữ tu, và lần đầu tiên trong đời, sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và cái “tôi” đã đến với toàn thể sức mạnh của nó. Thánh nữ tự nói với mình, “Ngài đã làm điều đó cho tôi; Ngài đã làm điều đó tất cả chỉ vì tôi.” Và như một kết quả của biến cố đó, tất cả những ngày tháng còn lại của cuộc đời, thánh nữ đã sống điều mà thánh nữ gọi là “một cảm giác về một món nợ không thể trả nổi.”
Điều này cũng luôn xảy ra khi chúng ta khám phá thấy cái “tôi” của mình có liên hệ trực tiếp với ngôi vị Thiên Chúa. Cuộc đời thường thay đổi hoàn toàn, qua Thần Khí, Đức Kitô bắt đầu sống và làm việc trong chúng ta qua tình yêu và ân sủng của Ngài dẫn đến những sự thay đổi thích hợp trong thái độ và hành động (Gl 2:20).
Chúa Kitô đã làm gì trong chúng ta? Có bằng chứng nào về một đời sống mới không? Một trong những đặc điểm nổi bật của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là tình yêu của họ trao ban cho nhau, nguồn vui, và cảm giác sáng ngời của sự viên mãn (Cv 2:46-47). Họ đã chinh phục được thế giới, một thế giới đầy thù nghịch và khó khăn đối với họ.
Thứ hai, mỗi Kitô Hữu có bổn phận với tha nhân: Tertullian Giáo Phụ (160 – 230), nói với chúng ta rằng ngài và hầu hết những người đã trở lại đạo Kitô Giáo trong thời đại của ngài đã được chiến thắng, không phải bởi việc đọc Thánh Kinh, nhưng bằng cách chiêm ngắm những người Kitô hữu đã sống và chết thế nào. Họ mong mỏi có được điều mà những người Kitô hữu đang thu hút họ. Chúa Kitô đã hoạt động trong cuộc đời của các Kitô hữu, đang làm cho họ trở nên thu hút và mời gọi. Đức tin luôn luôn lan truyền ra bằng cách thức như vậy.
Leon Tolstoy cũng đã nói rằng ông trở nên một Kitô hữu vì những người Kitô hữu ông đã gặp gỡ trong cuộc sống. Ông đã nhận ra một sự bình an, vui tươi, sức mạnh và tình bác ái mà không một ai chia sẻ được. Đó là làm chứng nhân bằng đời sống bác ái yêu thương trong đó Đức Kitô đang hoạt động.
Trong tập nhạc của Trịnh Công Sơn, “Tuyển Tập Những Bài Ca Không Năm Tháng”, sau phần lời ngỏ là trang mở đầu với lời tâm sự được viết bằng tay của chính tác giả: “Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời.”
Mỗi người có một cách khác nhau để nuôi dưỡng tình yêu. Chúng ta là các Kitô hữu, chúng ta làm theo cách Chúa Giêsu đã dạy. Và chính Ngài đã làm mẫu mực cho chúng ta. Cách ấy nhiều người đã làm theo, như chàng đại úy Miller và các cảm tử quân đã làm cho Hạ sĩ Ryan. Các chiến sĩ đã hy sinh cho Tổ Quốc, cho Nhân Quyền, Hòa Bình và Công Lý trên trái đất. Cách ấy cha mẹ chúng ta đã làm cho chúng ta. Những người thân yêu đã làm cho ta. Và chúng ta, hôm nay, luôn mang “món nợ” đó trên mình (Rm 13:8). Món nợ tình yêu! Món nợ không thể trả nổi làm chúng ta phải trăn trở và tự hỏi mình mỗi ngày là “Am I a good person?”- “Tôi có phải là người tốt không?”
.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa,
vì tôi tớ không biết việc chủ làm.
Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu,
vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy,
Thầy đã cho anh em biết.
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):
(9) Khi ấy Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. (10) Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. (11) Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
(12) “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (13) Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (14) Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
(16) “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):
2.1 Đức Giê-su đã long trọng tuyên bố Người không coi các môn đệ là đầy tớ mà là bạn hữu, vì các môn đệ đã được Người cho biết Người là Ai, Người có mặt ở trần gian này để làm gì. Hơn nữa các môn đệ còn được dự phần vào công trình cứu chuộc của Người. Còn gì vinh dự và hạnh phúc hơn đối với các môn đệ Đức Giê-su Ki-tô và đối với các Ki-tô hữu chúng ta! Để làm bạn của Đức Giê-su Ki-tô thì việc phải làm là thực thi giới răn yêu thương và sống trong tình nghĩa của Người.
2.2 Người Pháp có câu: ”Bạn cho tôi biết bạn của bạn là ai, tôi sẽ cho bạn biết bạn là ai.” Ý của câu nói đó là: bạn tốt sẽ tạo nên một con người tốt, bạn xầu sẽ tạo nên một con người xấu. Cha ông ta có câu: ”Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” cũng nói lên ảnh hưởng tốt xấu của bạn bè thân cận. Nếu các Ki-tô hữu đều nên bạn hữu nghĩa thiết của Đức Giê-su Ki-tô thì Giáo Hội sẽ toàn là các vị thánh, xã hội sẽ toàn những người tốt.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):
3.1 Nhiều giáo dân, trong đó có nhiểu người trẻ, chỉ giữ đạo ở mức tối thiểu chứ không quan tâm gì đến việc trở thành môn đệ và bạn hữu nghĩa thiết của Chúa Giê-su Ki-tô và của Thiên Chúa. Những người ấy không cảm nghiệm được niềm hạnh phúc thiêng liêng cao quý của ơn huệ làm môn đệ, làm bạn hữu nghĩa thiết của Thiên Chúa.
3.2 Nếu phần đông giáo dân Việt Nam sống đạo như thế thì làm sao họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu Ki-tô cho được? Làm sao họ sinh nhiều hoa trái như Chúa Cha mong đợi được? Nếu để tâm suy nghĩ về hiện trạng của hàng giáo dân Việt Nam, chúng ta không thể không lo âu, bức xúc.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã cho chúng con là bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Chúng con được nuôi dưỡng bằng lời giảng dậy, bằng sự hy sinh hiến tế của Chúa. Chúng con được dự phần vào việc loan báo Tin Mừng và đem ơn cứu độ đến cho đồng loại. Chúng con thật có phúc.
Xin Chúa ban ơn giúp sức cho chúng con, để chúng con biết sống xứng đáng với tư cách là bạn hữu nghĩa thiết của Chúa,
Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn muôn đời. Amen.
.
JM. Lam Thy
Bình thường, khi dạy dỗ các môn đệ, Đức Ki-tô chỉ nhắc nhở là: “Đừng…”; “Chớ…” hoặc khuyên bảo là “Hãy…”; “Nên…” (ví dụ: “Khi anh cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Ðừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.” – Mt 6, 6-8; “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” – Mt 10, 8; “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” – Mt 18, 10).
Tuy nhiên, trong bài Tin Mừng hôm nay (CN VI.PS-B – Ga 15, 9-17), Đức Ki-tô lại nói đó là điều răn: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Người không chỉ khuyên bảo, nhắc nhở, dạy dỗ các môn đệ một cách bình thường, mà Người nhấn mạnh “Đây là điều răn của Thầy” (Điều răn là những lời dạy dỗ có tính răn đe như những điều luật; sống và làm theo thì sẽ được thưởng, nhưng từ chối không làm thì bị trách phạt. Vd: Mười điều răn là 10 điều căn bản về luật pháp mà Thiên Chúa ban cho dân Do Thái và loài người, bao gồm: 3 điều nói về bổn phận con người đối với Thiên Chúa + 7 điều nói về bổn phận con người đối với nhau). Mới thoạt nghe nói tới “điều răn”, tưởng chừng như Đức Ki-tô lần này sẽ “thiết quân luật” một cách khắt khe, nhưng thật không ngờ Thầy Chí Thánh lại nói đến “Luật Yêu Thương”. Thử tìm hiểu xem “Luật Yêu Thương” của Đức Giê-su là gì ?
Vấn đề yêu thương anh em, yêu thương đồng loai đã đươc rất nhiều những vị thầy, những vị thức giả như tiên tri, ngôn sứ… dạy, và cùng lắm thì cũng chỉ khuyên: “yêu thương anh em, đồng loại như yêu chính bản thân mình” (“ái nhân như ái thân” – Khổng Tử). Nếu chỉ đọc lướt qua Lời dạy của Đức Ki-tô, có lẽ ai cũng chỉ cho Người dạy môn đệ cũng như bao bậc vĩ nhân, thánh nhân khác; nhưng nếu chú tâm sẽ thấy Lời dạy của Người có khác. Tại sao lại thế? Vì Người dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, mà muốn yêu thương nhau như Thầy yêu thương mình thì phải tìm hiểu cho thật cặn kẽ xem Thầy đã yêu thương mình như thế nào?
Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này, bởi khi tìm hiểu thật kỹ tình yêu Thầy đã dành cho loài người, sẽ thấy Thầy không chỉ yêu thương loài người như yêu chính bản thân, mà còn yêu thương hơn cả bản thân Thầy nữa. Đó là yêu thương đến độ hy sinh cả tính mạng cho người mình yêu (“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” – Ga 15, 13). Rõ ràng Đức Giê-su Ki-tô không chỉ khuyên bảo hãy yêu thương nhau một cách chung chung, mà Người còn lấy chính bản thân Người làm tấm gương để các môn đệ nhận thức được Tình Yêu Thiên Chúa cao cả đến mức độ nào. Và từ đó, Người khẳng định “Đây là điều răn của Thầy”. Quả thực, với bản tính con người mà muốn yêu thương tha nhân như yêu thương chính mình đã thấy khó khăn, chớ đừng nói là yêu thương người khác hơn cả yêu thương bản thân; thậm chí yêu thương đồng loại đến mức hy sinh cả tính mạng mình thì đúng là thiên nan vạn nan.
Tình yêu thật sự sẽ như một mồi lửa có thể lan truyền từ người nọ sang người kia và cuối cùng biến trần gian này thành Nước Trời. Chính Đức Giê-su đã mong ước lửa tình yêu mà Ngài đã đem đến trái đất lan truyền đến mọi người và bùng cháy lên (“Thầy đã đem lửa đến trần gian, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” – Lc 12, 49). Nói cho rõ hơn thì lửa chính là Chúa Thánh Thần – ngọn Lửa Mến thần thiêng – như Giáo Lý HTCG (số 696) giải thích: “Truyền thống linh đạo giữ lại biểu tượng lửa như một trong những biểu tượng diễn tả đúng nhất về tác động của Thánh Thần (x. T. Gio-an Thánh Giá,): “Anh em đừng dập tắt Thánh Thần” (1Tx 5, 19).” Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại “sự sống, sự sống lại và là sự sống mới” cho các Tông đồ, cho các tín hữu. Thật sự chỉ có ngọn Lửa Mến Thánh Linh mới hồi phục, đưa người tín hữu vào sự sống mới trong Đức Ki-tô.
Nói đến yêu thương thì không thể không nghĩ tới 2 hạng người: Có rất nhiều người yêu thương đồng loại bằng tất cả con người của mình trong hoạt động và cuộc sống (điển hình như Mẹ Thánh Tê-rê-sa Calcutta); nhưng cũng không thiếu cảnh yêu thương trên môi miệng (“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” – 1Ga 3, 18). Vâng, và vì thế muốn “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” thì điều kiện cần có và đủ phải là sống và làm được như Thầy Chí Thánh trong sứ vụ của Người. Khó thật đấy, nhưng không phải là không làm được nếu có đầy đủ ý chí và quyết tâm, vì “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.” (Nguyễn Bá Học).
Hãy nhìn vào gương sống và hoạt động của các thánh (nói chung) và nhất là các Thánh Tử vì Đạo, rồi tự đặt câu hỏi: “Các ngài cũng người trần mắt thịt như mọi người trên thế gian này, vậy mà tại sao các ngài lại gặt hái được vinh quang tột đỉnh như thế?” Hỏi tức là trả lời rồi vậy, bởi vì hơn ai hết, các ngài đã thấu triệt được vấn đề “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta” (Rm 5, 6; Ep 5, 2; 1Ga 3, 16). “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4, 19); “Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.” (1Ga 3, 16).
Tất cả mọi Ki-tô hữu (giáo sĩ + giáo dân) kể từ khi được đón nhận phép Thánh Tẩy thì đã được tham dự vào 3 chức vụ của Chúa Giê-su (Tư tế, Ngôn sứ, Vương giả). Như vậy, với 3 chức vụ ấy, mỗi Ki-tô hữu đều có nhiệm vụ “Phúc Âm hoá” đời sống bản thân, gia đình và xã hội. Một cách cụ thể là làm chứng nhân sống cho Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh, đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho mọi người. Để sống xứng đáng với phẩm giá cao quí ấy, không gì bằng thực hiện chính bản tính Thiên Chúa mà Người đã chia sẻ hay thông phần cho tất cả và cho từng mỗi Ki-tô hữu (“Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, là cho anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa.” – 2Pr 1, 4). Mà điều cốt yếu trong bản tính Thiên Chúa chính là tình yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8.16).
Sống yêu thương – yêu Thiên Chúa và tha nhân – là sống xứng đáng với phẩm giá của con người bằng cách thể hiện cụ thể mình chính là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà con người cần thiết phải làm để được cứu rỗi. Cũng vì thế, Đức Giê-su Ki-tô chỉ truyền dạy cho con người một giới luật duy nhất là yêu thương nhau: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35; 15, 12-17; 1Ga 3, 23; 2Ga 1, 5). Và vào ngày cánh chung, Thiên Chúa cũng chỉ căn cứ vào điều duy nhất ấy để thẩm định, phán xét công tội loài người (Mt 25, 31-46).
Ấy cũng bởi vì “Cho con một điều răn mới yêu thương luật Chúa muôn đời. Cho con một lời dấu yêu, con ơi hãy yêu mến nhau. Theo gương Thầy yêu thương trước, hy sinh mà hiến thân mình. Hy sinh vì người dấu yêu, liều cả tấm thân tình yêu chính nhân. ÐK: Yêu thương là điều răn mới, anh em hãy mến yêu nhau; Yêu thương người ta sẽ biết, anh em là môn đệ Thầy.” (“Luật Yêu thương” – TCCĐ).
Ôi! Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết nhận ra gương mặt của Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Cúi xin Chúa thương ban Thánh Thần cho chúng con, để chúng con biết thực hành trước những điều mà chúng con sẽ chia sẻ với anh em, bây giờ và mãi mãi. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. Alleluia! Alleluia!
.
Fx. Đỗ Công Minh
Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời di huấn của Đức Giêsu với các tông đồ trước khi Người trở về với Cha. Biết các Tông đồ đang còn trong tâm trạng buồn bã, bất an khi rồi đây không còn có Thầy ở bên. Đức Giêsu nhấn mạnh: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy “ Đây là điều mà các Tông đồ cảm thấy phấn khởi vì Đức Giêsu cho các ông một niềm tin tưởng. Không chỉ các ông mà còn biết bao người đã tin theo Đức Kitô đều được thừa hưởng :” Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy “. Cái cảm giác lo âu phiền muộn nơi các ông sau khi Thầy của mình trở về với Cha chắc hẳn sẽ đeo đẳng mãi. Những ngày còn bên Thầy thì việc gì khó đã có Thầy giúp. Các ông có một chỗ dựa rất vững chắc. Từng chứng kiến dân chúng lũ lượt đi theo Chúa, từng tham dự vào những việc lạ Chúa làm, các ông luôn an tâm. Người lo cho các ông từ miếng ăn, giấc ngủ. Khi mệt nhọc sau những ngày đi rao giảng, Chúa nhắc lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi hầu lấy lại sức khỏe. Rồi đây không có Thầy ở bên, hẳn các ông bối rối, không an lòng. Sẽ ra sao ngày mai ? Rồi mỗi người mỗi cảnh, tứ tán khắp nơi. Có còn liên lạc được với nhau, có còn những ngày quây quần bên nhau? Tính tình mỗi người mỗi khác; người thì nhiệt thành nóng nảy, người khác lại e dè, dựa dẫm; cũng có người thì lanh lẹ, giỏi giang. Có thể nào sống đòan tụ bên nhau mà tránh khỏi bất đồng, khác biệt, xung khắc. Biết được tâm trạng ấy, Chúa nhấn mạnh “ Nếu như anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy. . . Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy “
Lạy Chúa,
Các Tông đồ hẳn sẽ được an ủi vì những Lời để lại của Chúa. Các ông sẽ vững tin vào Lời Chúa và những lời hứa của Người sẽ được thực hiện. Các ông sẽ không còn băn khoăn, lo lắng. Sống giới răn Chúa truyền dạy là “ yêu thương như Thầy đã yêu thương”, các ông sẽ được sự bình an mà Chúa đem đến, được hưởng niềm vui có Chúa ở cùng. Khi ấy mỗi người sẽ sống chan hòa với nhau, mọi người không là kẻ thù của nhau, không còn có ác tâm với nhau. Giấc ngủ mỗi đêm về tràn ngập niềm vui hân hoan, an giấc. Bình an trong tâm hồn, trong tâm trí. Con người sẽ không phải toan tính làm gì, nghĩ gì để đối phó, để hơn thua nhau trong cuộc sống ngày hôm sau, sau nữa.
Con cũng muốn được hưởng sự bình an ấy. Con cũng muốn được sống thảnh thơi bên Chúa, vui vẻ với anh chị em con, với những người đang sống bên con. Để có được điều ấy, con phải “ Yêu mến Thầy và tuân giữ Lời Thầy”. Nhưng nhìn lại cuộc sống mỗi ngày, con đã thực tâm sống điều ấy? Nhân lọai còn chiến tranh, con người còn nhiều hằn thù với nhau, vẫn còn tranh chấp phải chăng vì chưa đón nhận sứ điệp YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG của Chúa?
Xin Chúa giúp con mỗi ngày biết yêu mến Chúa nhiều hơn, biết tuân giữ Lời Chúa. Và có được nhiều người giữ Lời Chúa thì hẳn trời mới đất mới hiện hữu trên trái đất này. Khi ấy” tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì người sẽ ban cho”. AMEN.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_B
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Tin mừng Chúa nhật VI Phục Sinh hôm nay trong bối cảnh bữa tiệc ly ghi lại những lời tâm sự của Chúa Giêsu và lệnh truyền yêu thương của Ngài như một lời di chúc để lại cho các tông đồ và cho mọi người: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu phát nguồn từ Chúa Cha, tình yêu làm nền tảng cho tình yêu của Đức Giêsu đối với nhân loại. Một tình yêu duy nhất từ Chúa Cha qua Chúa Con “Như Cha đã yêu Thầy”. Từ Chúa Con qua các môn đệ “Thầy cũng yêu anh em” và giữa các môn đệ với nhau“Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”.
Sau đây chúng ta tìm hiểu những đặc tính của tình yêu qua giáo huấn của Chúa Giêsu.
– Tình yêu chân thành là phải cho đi, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng cao quý, càng lớn lao. Vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”. Tình yêu không dám hy sinh, quên mình vì tha nhân là tình yêu giả dối.
– Tình yêu đem đến cho tha nhân niềm vui và hạnh phúc. “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy… và niềm vui của anh em được trọn vẹn”.Người ta thường nghe lời giáo huấn của giáo hội: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời”. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy là Thiên đàng. Thiên đàng là nơi an vui hạnh phúc nhất mà Chúa ban cho con người. Vì thế nơi nào vắng bóng Thiên Chúa là vắng bóng tình yêu, nơi đó trở thành hỏa ngục. Nói đến tình yêu là nói đến phục vụ. Càng phục vụ anh em là chúng ta đem đến cho anh em hạnh phúc và niềm vui. Hạnh phúc chính là phục vụ trong tình thương. Chân lý này được xác minh trong đời sống gia đình: cha mẹ phục vụ con cái để đem an vui hạnh phúc cho mọi người trong gia đình.
– Tình yêu luôn phải tôn trọng anh em như Chúa Giêsu đã nói: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ… Thầy gọi anh em là bạn hữu”. Chúng ta thương mến nhau vì chúng ta tôn trọng nhau, chấp nhận mọi khác biệt của nhau. Như vậy tôn trọng phá tan mọi hàng rào ngăn cách để cho ta xích lại gần nhau và tình yêu thương nhau ngày thêm thắm thiết. Hơn nữa, tôn trọng là nền tảng giúp cho tình thương của những người đã yêu mến nhaulại càng bền vững hơn. Yêu thương trong sự kính trọng giúp chúng ta dễ chia sẻ, thông cảm, tâm sự trao đổi… để giúp nhau một cách tích cực hơn. “Những gì Thầy biết nơi Cha Thầy, Thầy cho chúng con biết”.
– Yêu là biết Thiên Chúa. Tình yêu là người thầy tốt nhất dạy ta biết về Thiên Chúa và Đức Kitô, yêu thương là ở lại trong tình thương của thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa. Thánh Gioan viết trong bài đọc thứ 2:“Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.
Thực vậy, tình yêu là điều kiện để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt hiểu biết Thiên Chúa. Danh họa Van Gogh đã nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, vợ con mình… Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa“.
Thánh Augustinô dạy: “Hãy yêu đi, thì muốn làm gì cũng được (Ama et Fac quod vis)“.
Đức Giêsu dạy chúng ta phải “Yêu thương nhau như Chúa yêu thương“.Ngài yêu thương tất cả mọi người, hy sinh mạng sống, chết trên thập giá để nhân loại được cứu sống, yêu thương đến tận cùng, yêu thương vô vị lợi… yêu thương như Chúa yêu thương quả là điều không dễ!
Người Kitô hữu phải sống tình yêu thương với mọi người, vì giới luật yêu thương là lệnh truyền, là lời di chúc của Chúa Giêsu. Chúa không đòi chúng ta làm những điều vĩ đại, nhưng Ngài muốn chúng ta làm bất cứ điều gì dù nhỏ bé làm cho anh em với tất cả tấm lòng của mình, với tấm lòng yêu mến, chia sẻ, giúp đỡ: “Cho anh em một chén nước lã là cho Chúa“.
Dấu chỉ chắc chắn nhất thuộc về Thiên chúa là tình yêu thương nhau, chỉ có tình yêu thương mới có thể xây dựng nền văn minh sự sống và chỉ có nền văn minh thực sự tiến bộ khi con người biết yêu thương nhau chân thành.
.
Trầm Thiên Thu
Điều kiện cách là một dạng văn phạm trong ngôn ngữ, một trong các dạng đó người ta gọi là bàng thái cách (past subjunctive). Đó là một cách đặt giả thuyết: “Nếu… thì…”. Giả thuyết là điều không thể xảy ra hoặc có thể xảy ra thật trong cuộc sống đời thường.
Chính Chúa Giêsu cũng đưa ra điều kiện khi đặt vấn đề với những ai muốn theo Ngài: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Sắp xếp theo cấu trúc điều kiện cách: “NẾU muốn theo Tôi THÌ quý vị phải từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo”. Ngài không ép buộc ai, Ngài muốn người ta tự nguyện chấp nhận chứ không miễn cưỡng.
Vác thập giá là chịu đau khổ. Có thể vui chịu đau khổ nếu người đó có tình mến mãnh liệt. Các thánh là những người chịu đủ thứ đau khổ, cả tinh thần và thể lý. Đau khổ là chén đắng, chén đắng sẽ hóa chén ngọt khi can đảm yêu đến cùng như Thầy Giêsu. Thánh Faustina xác định: “Đau khổ là ĐẠI HỒNG ÂN; qua đau khổ, linh hồn trở nên GIỐNG Đấng Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu trở nên TINH TUYỀN; càng chịu đau khổ, tình yêu càng TINH KHIẾT” (Nhật Ký, số 57). Con người bình thường không thể hiểu nổi, và người ta coi đó là sự điên rồ.
Người ta thường ví von: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Ai đã yêu thì “chết” chắc, không nhiều thì ít. Mà thường thì “nhiều” chứ không “ít”. Một người không thể gọi là yêu, ít nhất phải có hai người mới khả dĩ có tình yêu. Dù yêu đơn phương vẫn có “đối tượng”. Tình yêu cũng có hệ lụy tất yếu. Có tình yêu thì có thể dẫn tới nhiều hệ lụy khác. Nhưng con người luôn bất toàn, bất túc, bất trác,… “bất” đủ thứ! Cố NS Trịnh Công Sơn tâm sự: “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…”. Ông không gọi mà biển gọi, biển nhớ em chứ ông không nhớ. Nhưng thật ra chính ông lại đang rất… nhớ. Bất toàn là thế, con người là vậy, loanh quanh mãi vẫn không ra khỏi chính mình!
Thiên Chúa quá yêu chúng ta, yêu đến điên cuồng, yêu đến chịu chết, thế mà chúng ta vẫn bỏ rơi Ngài, phụ tình Ngài một cách trắng trợn. Chắc chắn Ngài cũng rất nhớ chúng ta, nhưng chúng ta lại quá đỗi vô tâm!
Phàm nhân là tội nhân, nghĩa là bất toàn. Câu nói “nhân vô thập toàn” quá quen thuộc, quen đến nỗi hóa… bình thường – nghĩa là “không còn quan trọng hóa” nữa. Thế nhưng câu đó lại rất quan trọng, quan trọng vì… “quá bình thường”. Nghe chừng nghịch lý, nhưng không hề nghịch lý chút nào, gọi là nghịch-lý-thuận.
Một hôm, khi ông Phêrô bước vào, ông Conêliô liền ra đón và phủ phục bái lạy dưới chân ông Phêrô. Nhưng ÔNG PHÊRÔ ĐỠ ÔNG ẤY LÊN và nói: “Xin ông đứng dậy, vì BẢN THÂN TÔI ĐÂY CŨNG CHỈ LÀ NGƯỜI PHÀM” (Cv 10:25-26). Đó là phong-cách-bình-thường mà lại quan trọng và cần thiết, biết mình và biết người, giản dị như bản chất của một ngư dân, nhưng chính con-người-bình-thường ấy đã được Thiên Chúa cất nhắc và giao trọng trách là trở thành giáo hoàng tiên khởi: chăn cả chiên mẹ và chiên con (x. Ga 21:15-19). Có CHỨC TƯỚC thì cũng mặc nhiên có NHIỆM VỤ kèm theo. Chức vụ là để phục vụ chứ không để hưởng nhàn mà ung dung nhận bổng lộc (x. Mt 20:28; Ga 12:26).
Không còn nhát đảm như trước, ông Phêrô mạnh dạn lên tiếng xác định: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Một cách mô tả mộc mạc và dễ hiểu về Thiên Chúa, nhưng vẫn hoàn toàn chính xác. Thiên Chúa chí công, không thiên vị, nhưng đôi khi chúng ta “ép buộc” Ngài thiên vị như chúng ta, vì chúng ta làm gì cũng thường theo định kiến cá nhân nhiều hơn, và tự cho rằng Thiên Chúa cũng thế.
Trong khi ông Phêrô còn đang nói những điều đó thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Phép lạ hiển nhiên, nhãn tiền. Vì thế, những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Thiên Chúa không thiên vị, tất nhiên Ngôi Ba cũng không chút thiên vị, vì Chúa Thánh Thần xuống trên mọi người – kể cả dân ngoại.
Sau đó, ĐGH Phêrô đặt vấn đề: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10:47). Ai đến với Chúa đều được Ngài tiếp nhận, chắc chắn vậy. Và rồi ông Phêrô đã truyền làm phép rửa cho họ NHÂN DANH ĐỨC GIÊSU KITÔ. Là người khôn ngoan, khi làm bất cứ điều gì cũng phải nhân danh Chúa, vì tất cả chúng ta đều là huynh đệ và hoàn toàn phải nhờ Ngài: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Nhưng nhiều khi chúng ta xin mà không nhân danh Đức Kitô, có lẽ chúng ta quên điều này: “Bất cứ điều gì anh chị em nhân danh Thầy mà xin thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con” (Ga 14:13). Chính Vị Thiên-Chúa-toàn-năng ấy đã được Thánh Vịnh gia mô tả thế này: “Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín” (Tv 86:15). Thật tuyệt vời biết bao khi chúng ta có Vị Thiên Chúa đại lượng như vậy!
Chắc chắn rằng tất cả chúng ta đều là những con người bất toàn, chỉ có Thiên Chúa là Đấng toàn thiện và toàn năng. Bác học Albert Einstein xác định: “Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều khôn ngoan và ngu xuẩn như nhau”. Nhưng chúng ta vẫn được yêu thương lắm, yêu thương mỗi chúng ta như chính con người của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công” (Tv 98:1a). Kỳ công của Chúa vô vàn, khôn xiết kể, “Ngài chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Ngài” (Tv 98:1b). Thiên-Chúa-chí-minh-và-chí-công đã “biểu dương ơn Ngài cứu độ, mặc khải đức công chính của Ngài trước mặt chư dân; Ngài đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en” (Tv 98:2-3a). Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Cho nên: “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát” (Tv 98:4).
Nhân danh tình yêu Thiên Chúa, Thánh Gioan căn dặn: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1 Ga 4:7a), đồng thời giải thích: “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7b-8). Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống” (1 Ga 4:9). Đức Kitô đã chết không chỉ cho chúng ta được sống mà còn sống dồi dào.
Người-môn-đệ-Chúa-yêu là người có “máu yêu” nên luôn thích nói về tình yêu. Chính người môn đệ ấy lý giải: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10). Nói đến tình yêu, đặc biệt là tình yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa hoặc Lòng Chúa Thương Xót, chẳng bút giấy nào tả hết, chẳng bộ óc nào đủ thông minh để trình bày hết ý, có nói mãi cũng không thể lột tả đúng mức. Nhiệm mầu biết bao!
Nhưng thật kỳ lạ, Chúa Giêsu nói rất dễ hiểu: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). Chắc hẳn Thánh Augustinô đã cảm nhận sâu sắc tình yêu ấy nên mới có thể có cách nói độc đáo này: “Mức độ yêu mến Chúa là yêu mến vô hạn”. Vì không chỉ Chúa muốn mà chúng ta có trách nhiệm phải “yêu mến Chúa hết linh hồn và hết trí khôn”. Yêu Chúa là yêu tha nhân, yêu tha nhân là thước đo lòng mến Chúa. Nếu yêu như vậy, chúng ta chỉ lời chứ không hề lỗ: “NẾU anh chị em GIỮ các điều răn của Thầy, anh chị em sẽ Ở LẠI trong tình thương của Thầy, như Thầy đã GIỮ các điều răn của Cha Thầy và Ở LẠI trong tình thương của Ngài” (Ga 15:10). Ôi chao, một điều kiện rất dễ chịu!
Thật vậy, Ngài muốn chúng ta “được hưởng niềm vui của Ngài” để “niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Điều răn của Ngài rất đơn giản, tuy hai mà một, là luật-yêu-hai-trong-một: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12). Chúa Giêsu so sánh: “KHÔNG CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ HY SINH TÍNH MẠNG VÌ BẠN HỮU CỦA MÌNH” (Ga 15:13). Hai người yêu nhau là hai người đồng đẳng, Chúa yêu chúng ta và Ngài cũng coi chúng ta ngang hàng: “Anh chị em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15:14a), nhưng với điều kiện: “Nếu anh chị em THỰC HIỆN những điều Thầy truyền dạy” (Ga 15:14b). Việc làm chứng tỏ khả năng, chỉ có thể là như thế, nói chưa tin được.
Tất cả chúng ta đều là tội nhân. Là tội nhân mà được tha thứ là may phước lắm rồi, thế mà chúng ta lại còn được Chúa gọi là bạn hữu: “Thầy không còn gọi anh chị em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh chị em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh chị em biết. Không phải anh chị em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh chị em, và cắt cử anh chị em để anh chị em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh chị em tồn tại, hầu tất cả những gì anh chị em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy thì Ngài ban cho anh chị em” (Ga 15:15-16). Ơn cao phúc trọng dành cho chúng ta, đó là điều quá kỳ diệu, trên cả tuyệt vời, và tất nhiên chúng ta quá may mắn và quá hạnh phúc!
Cuối cùng, Chúa Giêsu nhấn mạnh và nhắc lại: “Điều Thầy truyền dạy anh em là HÃY YÊU THƯƠNG NHAU” (Ga 15:17). Có thể tóm gọn mệnh lệnh đó thành một chữ YÊU. Cũng thật kỳ lạ, mẫu tự Y có hình người dang đôi tay tạo dáng cây Thập Tự. Điều đó có thể coi như “phần cứng” đã được cài đặt mặc định từ muôn thuở. Thật kỳ diệu và tuyệt vời biết bao!
Chúa Giêsu luôn nói tới tình yêu, như một điệp khúc cứ nhắc đi nhắc lại, và chính Ngài đã thiết lập Luật Yêu – nghiêm túc và dứt khoát, đồng thời cũng là điều kiện để được trở thành công dân Nước Trời mãi mãi.
Lạy Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, xin xót thương và tha thứ. Nhờ Lòng Thương Xót của Ngài lớn hơn tội lỗi của cả nhân loại mà chúng con được diễm phúc dìm mình trong Tình Yêu bao la và kỳ diệu của Ngài, hôm nay và mãi mãi. Xin giúp chúng con đừng bao giờ lợi dụng Tình Ngài, và xin giúp chúng con chứng minh đức mến qua việc yêu thương lẫn nhau thật lòng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen
.
Lm. I-nha-xi-ô Trần Ngà
Tình yêu xóa bỏ ngăn cách
Có những khoảng cách lớn lao giữa những người ở những địa vị khác nhau trong xã hội, như giữa bậc vua chúa và người dân đen, giữa vị lãnh đạo hàng đầu của đất nước và người bình dân, giữa ông chủ sang trọng và người tôi tớ thấp hèn… Chính vì những khoảng cách nầy, đôi bên khó lại gần nhau, khó hoà hợp với nhau, khó chân tình yêu thương nhau.
Nhưng một khi hai bên đã yêu thương nhau đậm đà, thì tình thương sẽ xoá hết mọi ngăn cách.
Người mẹ thương con, thì mẹ cho con ngồi lên đầu và cảm thấy vui thích vì được làm như thế. Cha thương con, cha làm bò cho con cỡi và lấy thế làm vui. Vị hoàng tử yêu cô gái quê mùa thì cư xử bình đẳng với cô gái ấy, dù hai người thuộc hai tầng lớp khác biệt nhau. Tương tự như thế, Thiên Chúa hết lòng yêu thương con người nên Ngài xoá bỏ mọi khoảng cách giữa Ngài với chúng ta.
Lẽ ra, Thiên Chúa là Đấng ngàn trùng chí thánh, là Đấng đầy quyền năng phép tắc, là Chúa tể vũ hoàn bao la vô biên vô tận; Còn loài người chỉ là những hạt bụi li ti trong vũ trụ vô cùng lớn lao này, thì trước mặt Ngài, chúng ta chẳng đáng là gì cả!
Do đó, nếu chúng ta có đối thoại với Ngài thì phải xưng hô làm sao cho tôn kính, như là: Muôn tâu Ngọc hoàng Thượng đế! Muôn vạn lạy Chúa tể càn khôn!… Vậy mà Chúa Giê-su lại dạy ta hãy thưa với Thiên Chúa Cha một cách thân thương là: Abba, Bố ơi, Ba ơi! Đó là tiếng gọi thân mật mà đứa con bé bỏng gọi cha của mình.
Và nếu ai trong chúng ta xưng mình là bạn của đức giáo hoàng, là bạn của thánh tông đồ vĩ đại như Phê-rô hay Phao-lô… thì người ta xem kẻ ấy là người tự phụ, tự cao, khoác lác… vì người đó, cũng như ta, có đáng là gì mà dám xưng mình là bạn của các đấng cao cả. Vậy mà Chúa Giê-su, là Thiên Chúa quyền năng thánh thiện, cao vời khôn ví, lại muốn chúng ta xem Ngài là bạn, Bạn Giê-su!
Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giê-su đã tuyển chọn chúng ta trước khi ta biết Ngài. Ngài nói: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16).
Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giê-su nâng chúng ta lên hàng bạn hữu. Ngài nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15,15).
Vì yêu thương chúng ta nên Chúa Giê-su tâm sự với chúng ta như với người bạn chân tình, Ngài thổ lộ can tràng với chúng ta. Ngài nói: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).
Vì yêu thương chúng ta nên Chúa Giê-su hiến mạng vì chúng ta như lời Ngài nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Chúa tể trời đất vô cùng cao cả và quyền năng lại đi kết bạn với con người bé nhỏ, thấp hèn, tội lỗi… là điều khó tin nhưng là sự thật, vì Chúa Giê-su đã khẳng định với chúng ta như thế.
Sống xứng tầm người bạn Chúa Giê-su
Là người được Chúa Giê-su tuyển chọn trước để làm bạn thân thiết của Ngài, là người bạn tâm phúc được Chúa Giê-su thổ lộ can tràng, bày tỏ cho biết những gì Ngài nghe biết từ Thiên Chúa Cha, là người bạn quý được Chúa Giê-su hiến thân chết thay cho… thì chúng ta phải sống sao cho xứng tầm người bạn của Chúa.
Điều quan trọng nhất và là điều đầu tiên mà Chúa Giê-su yêu cầu bạn hữu Ngài phải thực hiện, là phải yêu thương nhau như lời Ngài nói: “Anh em là bạn hữu của Thầy thì anh em phải thực hiện điều Thầy truyền dạy… là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12.14). Và “người ta căn cứ vào dấu hiệu này để biết anh em là bạn hữu, là môn đệ Thầy, đó là anh em yêu mến nhau” (Ga 13, 35).
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Chúa tể đất trời đã chấp nhận xuống thế làm người để kết bạn với chúng con, Chúa đã chịu chết đau thương tủi nhục để đền tội thay, chết thay cho chúng con là bạn hữu của Chúa và Chúa mong muốn tình bạn giữa Ngài và chúng con luôn chung thủy keo sơn.
Tuy nhiên, chúng con sẽ không còn là bạn Chúa nữa, không còn là môn đệ Ngài nữa, nếu chúng con không đáp ứng yêu cầu quan trọng nhất Chúa đòi buộc là phải yêu thương nhau (Ga 13, 35).
Xin cho chúng con xóa sạch tâm hồn mình mọi hình thức ghen ghét, giận hờn, xúc phạm người khác… vì đó là những nguyên nhân khiến chúng con dứt nghĩa đoạn tình với Chúa.
.
Lm. Jos. DĐH.
Khi yêu nói nhớ nói thương, hết yêu, nhớ thương bay theo cùng người. Lời ai oán đó như mãi vang lên, khi trái tim còn rung nhịp, khi tình người cứ mãi vu vơ, như trai tài gái sắc chưa tìm được bến đậu, như tình máu mủ gia đình còn đang tắc nghẽn. Tâm trạng buồn, cảm xúc lâng lâng, sẽ thật vi vu lãng mạn, khác gì như “lính chiến” xa nhà đang lạc bước vào khung trời yêu thương. Người xưa cho chúng ta nhiều kinh nghiệm khá phong phú: ăn lúc đói, nói lúc say, không thầy đố mày làm nên, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy. Dù trẻ thơ, dù đã lớn khôn, dù tuổi đang xế chiều, dường như mọi lứa tuổi đều miễn cưỡng chấp nhận những thành quả không như như ý ? Phải chăng vì lòng người quá tham lam, vì chưa hài lòng với những gì mình đang có, vì ta chưa gặp được thầy đủ đức đủ tài để thọ giáo ?
Không dựa vào tình cảm chóng qua, không lý sự bằng tình yêu đơn độc, mà với tư cách là Thầy, Đức Giêsu nói cùng các học trò rất chân thành: “như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con”. Một tình yêu không bến bờ, tính toán so đo, tình yêu gần gũi thân thiện như máu mủ ruột thịt, tình yêu cao đẹp đến độ khó hiểu: “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Tình yêu mà Đức Giêsu nói với các học trò, không phải là thứ “hàng quà”, mua-bán, đưa qua, lấy lại, lời hay lỗ, Ngài nhẹ nhàng nhắc nhớ: “hãy ở lại trong tình yêu của Thầy, nếu các con tuân lệnh Thầy truyền”. Nếu người xưa truyền kinh nghiệm sống rất ư là cụ thể: chú như cha, già như mẹ, ít nhiều số đông con cháu vẫn đang cảm nhận giá trị của tình yêu thương không hề giới hạn, luôn được ban phát rộng rãi đến độ ai cũng có thể là anh chị em của nhau.
Như Thầy đã yêu có thể sẽ là lý thuyết, trừu trượng mơ hồ, nếu như người ta đến với Đức Giêsu bằng một tình yêu “thế tục phàm trần”: theo Thầy với hy vọng được làm tướng, được xưng vương, được phần thưởng ở đời này. Như Thầy đã yêu là tự do vâng phục thánh ý Chúa Cha, là hết tình hết mình với sứ mạng được giao phó, là không phải nói lời hối tiếc, dù mạng sống bị đe doạ, dù trái tim dâng hiến bị từ chối. Trong ngôn ngữ yêu của Xuân Diệu đã thu hút khá nhiều người trẻ, dù tình yêu theo quan niệm của ông có phần bế tắc, nhưng không phải là thiếu triết lý: yêu là chết trong lòng một ít, vì mấy khi yêu mà chắc được yêu ! Trong tình yêu mà Thầy Giêsu nói không phải chỉ là chết hay “tê tái” một chút ; tình yêu sống động là tình yêu nên một, tình yêu mang đến niềm vui trọn vẹn trong cùng một niềm tin.
Như Thầy đã yêu là tình yêu cụ thể trong Chúa Cha, sự kết hiệp đặc biệt đó được diễn tả bằng hoạt động của Thánh Thần trong sứ mạng cứu độ mà Đức Giêsu đã và đang còn thực hiện. Sứ mạng cứu độ nhân loại tiếp tục được đổ đầy nơi các tông đồ, nơi những ai tuân giữ và sống lệnh truyền: hãy yêu thương nhau. Ngày hôm nay, khi nói tới người hiền tài, đại đa số người ta nghĩ họ là người vừa thông minh, vừa có ý chí học tập, hoặc do họ đã may mắn gặp được vị thầy có đủ phẩm chất hướng dẫn. Xưa hay cũ, tân thời hay lạc hậu cũng không ngăn trở đến việc mưu cầu hạnh phúc, vì ai cũng có tự do, có cơ hội để thực thi lý tưởng đời mình tới cuộc sống thật ý nghĩa.
Như Thầy đã yêu không phải là tự đánh mất mình, Đức Giêsu cho thấy ý nghĩa của sức sống mãnh liệt hơn, khởi đi từ việc tuân giữ lệnh truyền của Chúa Cha, và ở trong tình hiệp thông nên một. Ông bà cha mẹ là thầy dạy hữu hiệu nhất để nói về tình yêu với con cháu, môi trường xã hội là cơ duyên giúp mọi người có dịp chứng minh chúng tôi là môn đệ của Đức Kitô: “các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu mến các con”. Giữ lệnh truyền của Thầy, ở trong tình yêu của Thầy, hoặc yêu như Thầy đã yêu, là một thực hành rất tự do trong tình hiệp thông với Đấng vừa là Chúa, là Thầy, vừa là bạn hữu, là anh em với những ai đang cùng sống một đức ái.
Khí phách của người quân tử là dám nói, dám làm, nhưng cẩn thận và khiêm tốn không bao giờ thừa, xã hội luôn nể phục khi người ta chắc chắn tới mức: uốn lưỡi 7 lần trước khi nói. Đức Giêsu vì yêu, Ngài thật phóng khoáng và độ lượng khi nâng các học trò lên hàng “bạn hữu”, dù các ông còn đầy bất xứng. “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm ; Thầy gọi các con là bạn hữu của Thầy, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. Như Thầy đã yêu, như Thầy đã tuân giữ lệnh truyền của Cha Thầy, người Kitô hữu chúng ta, hẳn ai cũng có cơ hội được trở nên môn đệ, trở nên bạn hữu và ở mãi trong tình yêu của Thầy Giêsu, khi chúng ta đang đồng lòng sống đức yêu thương. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_B.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến,
Chúng ta vừa nghe lại một trong những đoạn Tin Mừng có nhiều ý nghĩa nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Chúa nói những lời này trong phòng tiệc ly lúc Chúa sắp đi vào cuộc tử nạn. Chúng ta phải coi những lời này như những lời trối của Chúa.
“Anh em hy yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em” Nhưng yêu như Chúa yêu là yêu như thế nào?
- Trước hết Chúa bảo các tông đồ : “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người dám hiến mạng mình vì bạn hữu mình”
Với những lời như thế rõ ràng Chúa đã muốn nói đến sự hy sinh trong Tình yêu. Không có hy sinh thì không có tình yêu đích thực. Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả và hy sinh không vì tình yêu là hy sinh thừa.
Nhưng làm thế nào mà biết, mà nhận ra được sự hy sinh trong tình yêu? Chúa Giêsu đã đưa một dấu chỉ rất dễ nhận ra. Đó là phải biết tự hiến, phải biết cho đi, phải biết ban tặng, phải biết trao ban v…v
Cho là dấu chỉ của Tình yêu
Cho nhiều là dấu chỉ yêu nhiều
Cho ít là dấu chỉ yêu ít
Cho tất cả là dấu chỉ của một tình yêu không bờ không bến.
“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người dám hiến mạng mình vì bạn hữu mình”?
Vâng, đó là một trong những yếu tố làm nên tình yêu nơi Chúa Giêsu.
- Chúa nói tiếp: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nhưng là bạn hữu”
Chúa muốn nói gì khi nói với các tông đồ như vậy?
Rõ ràng Ngài muốn nói đến sự kính trọng nhau trong Tình yêu.
Trong Tình yêu đòi hỏi phải có sự kính trọng lẫn nhau. Thiếu sự kính trọng, tình yêu sẽ khó mà tồn tại. Chúa đã hết lòng quí mến các tông đồ đệ của Ngài. Ngài kính trọng họ…mặc dầu họ chỉ là những con người tầm thường.
Trước khi rửa chân cho những con người này, Chúa nói “Các con gọi thầy là thầy, là Chúa thì thậm phải vì sự thật là thế.” và ngay sau đó Chúa lấy nước quì xuống rửa chân cho họ.
Công việc rửa chân cho người khác trong xã hội Do thái là công việc dành cho các nô lệ hay ít ra cũng là cho những người tôi tớ. Vậy mà Chúa đã làm công việc đó. Một Thiên Chúa rửa chân cho những con người. Như vậy không phải là Thiên Chúa kính trọng con người sao?
Vâng, trong tình yêu, không thể thiếu sự kính trọng, sự tôn trọng lẫn nhau. Nguyên tắc là như thế nhưng trong cuộc sống chúng ta thấy có những người đối xử với người yêu chẳng khác gì với một người đầy tớ, một người nô lệ. Cách đối xử như thế không phải là cách đối xứ của tình yêu mà là của tình dục, chỉ nhằm thỏa mãn dục tính của mình. Nhất định đó không phải là tình yêu như Chúa Giêsu. Thiếu sự tôn trọng lẫn nhau thì bất hòa, hận thù, đỗ vỡ, chia ly sẽ xuất hiện.
- Chúa nói tiếp với các môn đệ của Ngài: “Những gì Thầy nhận bởi Cha Thầy thì thầy đã truyền lại cho anh em hết. Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em con và sai anh em đi”
Tại sao Chúa nói như thế? Thưa vì Chúa tin tưởng các tông đồ của Ngài.
Trong tình yêu phải có sự tin tưởng lẫn nhau.
Chúa tin tưởng các tông đồ của Ngài. Chúa thừa biết họ là con người mỏng giòn, yếu duối, dễ sa ngã, dễ phản bội. Thế nhưng vì yêu thương mà Chúa đã hết lòng tin tưởng.
Ai như Phaolô một con người thật nguy hiểm và ác độc. Ông đã tự động đứng ra xin các thủ lãnh của người Do thái cho ông được quyền đi lùng bắt và tiêu diệt Giáo Hội ngay từ lúc Giáo Hội mới chào đời. Một con người như thế quả đáng phải trừng phạt. Thế nhưng Chúa chỉ cảnh cáo ông bằng một cú ngã ngựa. Và ngay sau đó Ngài đã trao cho ông một sứ mạng thật lớn lao: Sứ mạng đem Tin Mừng của Chúa cho dân ngoại. Việc làm của Chúa thật khó hiểu. Thầy cả Anania đã phải run sợ nhưng Chúa bảo ông: “Đừng sợ đây là người ta đã chọn để làm vinh danh ta”. Chọn một kẻ thù của mình để làm vinh danh mình. Có ảo tưởng hay không? Không! Chúa không ảo tưởng. Bằng tình yêu thương tha thứ, bằng sự tin tưởng Ngài đặt vào trái tim, Chúa đã biến Phaolô thành một dụng cụ tuyệt vời trong tay của mình.
Trong tình yêu không thể thiếu lòng tin. Hầu như mọi sự đổ vỡ trong tình yêu đều ít nhiều bắt nguồn từ sự thiếu tôn trọng và không tin tưởng ở nhau.
Ngược lại nếu biết tin tưởng, tình yêu sẽ làm nên được những điều diệu kỳ. Đây là câu truyện do nhà văn Nguyễn Hiến Lê kể lại:
Hôm đó khi vừa mới ở trường về đứa bé hỏi mẹ nó: “Mẹ, thế nào là trật đường rầy hả mẹ?
Bà cụ phì cười trả lời:
+ Một chuyến xe lửa trật đường rầy mà con không biết sao?
– Hiểu chứ mẹ, nhưng một đứa nhỏ trật đường rầy nghĩa là làm sao hả mẹ?
+ Nghĩa là nó hơi khùng khùng chứ làm sao.
– Và thế nào là “không bình thường” hả mẹ?
+ Không bình thường?…Nghĩa là….Nhưng con nghe ai nói vậy?
– Chiều nay Ông Thanh tra tới thăm trường của con. Ông có vô thăm lớp con. Ông có hỏi thầy về tình hình học tập trong lớp. Thầy lấy tay chỉ vào con và nói với ông thanh tra là “nó là đứa bé trật đường rầy”- nó là đứa bé bất bình thường, có dạy dỗ nó cũng chỉ tốn công vô ích”.
Tức quá bà cụ nhảy choi choi lên và la lớn lớn:
– A thầy giáo bảo con vậy hả? Đi đi ngay với mẹ. Mẹ sẽ cho ông thầy ấy biết tay con mụ này.
Nói xong bà nắm tay con lôi đi – đôi mắt long lên, đôi môi mím lại, hùng dũng đi đến nhà ông giáo. Tới nơi bà lấy tay chỉ thẳng vào mặt ông giáo và nói dằn từng tiếng:
– Nè, thầy nói gì với ông thanh tra về thằng Al của tôi ?- Tôi biết hết. Thầy bảo nó là “trật đường rầy” là “bất bình thường” hả? Tôi nói thật cho cái mặt thầy biết: Có kẻ nào đó trật đường rầy thì kẻ đó chính là thầy chứ không phải là con của tôi. Tôi cầu cho thầy được thông mình bằng một nửa nó thì cũng là phúc lắm rồi.
Rồi bà nắm tay đập lên bàn nhà thầy giáo…vừa đập vừa hét lớn:
– Thấy nhớ kỹ nghe chưa? Một ngày kia người ta sẽ nhắc đến tên tuổi của nó – Còn cái mặt của thầy không ai thèm biết tới đâu.
Tội nghiệp cho ông giáo cứ nín thinh không dám hé môi nói một lời.
Nói xong bà bảo cậu con.
– Thôi từ nay con khỏi tới trường nữa. Ở nhà mẹ dạy cho con.
Rồi bà dắt con quay gót bước ra.
Rồi bằng một tình yêu với những hy sinh không biết mệt mỏi, bằng một lòng quí trọng không bờ không bến, và nhất là bằng một niềm tin rắn chắc và vững vàng như sắt đá bà thổi vào trong tâm hồn đứa con của bà sự tự trọng, ý chí muốn vươn lên và sự kiên trì không biết mệt mỏi. Cuối cùng bà đã biến một đứa bé bất bình thường, đứa bé trật đường rầy, đứa bé có lần ông thầy mắng là “dốt như bò” thành một nhà bác học đã đóng góp cho nhân loại một số bằng phát minh nhiều hơn bất cứ một nhà bác học nào ở trên thế giới này từ trước cho đến hôm nay: 2500 bằng phát minh. Vâng 2500 bằng phát minh…trong đó có bằng phát minh rất quan trọng về điện mà chúng ta đang được thừa hưởng hôm nay. Đó là nhà bác học Thomas Alva Edison.
Sau này khi ông thành đạt thì mẹ đã chết, ông hay nói với mọi người: “Tôi được như thế này là nhờ mẹ của tôi.”.
Vâng chúng ta hãy biết yêu như Chúa đã yêu để tình yêu làm nên những điều kỳ diệu cho cuộc sống của chúng ta . Amen.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH Ga 15,9-17
“Để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16)
Anh chị em thân mến,
Chúng ta vừa nghe lại một trong những đoạn Tin Mừng có nhiều ý nghĩa nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Chúa nói những lời này trong phòng tiệc ly lúc Chúa sắp đi vào cuộc tử nạn. Chúng ta phải coi những lời này như những lời trối của Chúa. “Anh em hy yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em” Nhưng yêu như Chúa yêu là yêu như thế nào? 1. Trước hết Chúa bảo các tông đồ : “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người dám hiến mạng mình vì bạn hữu mình” Với những lời như thế rõ ràng Chúa đã muốn nói đến sự hy sinh trong Tình yêu. Không có hy sinh thì không có tình yêu đích thực. Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả và hy sinh không vì tình yêu là hy sinh thừa. Nhưng làm thế nào mà biết, mà nhận ra được sự hy sinh trong tình yêu? Chúa Giêsu đã đưa một dấu chỉ rất dễ nhận ra. Đó là phải biết tự hiến, phải biết cho đi, phải biết ban tặng, phải biết trao ban v…v Cho là dấu chỉ của Tình yêu Cho nhiều là dấu chỉ yêu nhiều Cho ít là dấu chỉ yêu ít Cho tất cả là dấu chỉ của một tình yêu không bờ không bến. “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người dám hiến mạng mình vì bạn hữu mình”? Vâng, đó là một trong những yếu tố làm nên tình yêu nơi Chúa Giêsu. 2. Chúa nói tiếp: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nhưng là bạn hữu” Chúa muốn nói gì khi nói với các tông đồ như vậy? Rõ ràng Ngài muốn nói đến sự kính trọng nhau trong Tình yêu. Trong Tình yêu đòi hỏi phải có sự kính trọng lẫn nhau. Thiếu sự kính trọng, tình yêu sẽ khó mà tồn tại. Chúa đã hết lòng quí mến các tông đồ đệ của Ngài. Ngài kính trọng họ…mặc dầu họ chỉ là những con người tầm thường. Trước khi rửa chân cho những con người này, Chúa nói “Các con gọi thầy là thầy, là Chúa thì thậm phải vì sự thật là thế.” và ngay sau đó Chúa lấy nước quì xuống rửa chân cho họ. Công việc rửa chân cho người khác trong xã hội Do thái là công việc dành cho các nô lệ hay ít ra cũng là cho những người tôi tớ. Vậy mà Chúa đã làm công việc đó. Một Thiên Chúa rửa chân cho những con người. Như vậy không phải là Thiên Chúa kính trọng con người sao? Vâng, trong tình yêu, không thể thiếu sự kính trọng, sự tôn trọng lẫn nhau. Nguyên tắc là như thế nhưng trong cuộc sống chúng ta thấy có những người đối xử với người yêu chẳng khác gì với một người đầy tớ, một người nô lệ. Cách đối xử như thế không phải là cách đối xứ của tình yêu mà là của tình dục, chỉ nhằm thỏa mãn dục tính của mình. Nhất định đó không phải là tình yêu như Chúa Giêsu. Thiếu sự tôn trọng lẫn nhau thì bất hòa, hận thù, đỗ vỡ, chia ly sẽ xuất hiện. 3. Chúa nói tiếp với các môn đệ của Ngài: “Những gì Thầy nhận bởi Cha Thầy thì thầy đã truyền lại cho anh em hết. Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em con và sai anh em đi” Tại sao Chúa nói như thế? Thưa vì Chúa tin tưởng các tông đồ của Ngài. Trong tình yêu phải có sự tin tưởng lẫn nhau. Chúa tin tưởng các tông đồ của Ngài. Chúa thừa biết họ là con người mỏng giòn, yếu duối, dễ sa ngã, dễ phản bội. Thế nhưng vì yêu thương mà Chúa đã hết lòng tin tưởng. Ai như Phaolô một con người thật nguy hiểm và ác độc. Ông đã tự động đứng ra xin các thủ lãnh của người Do thái cho ông được quyền đi lùng bắt và tiêu diệt Giáo Hội ngay từ lúc Giáo Hội mới chào đời. Một con người như thế quả đáng phải trừng phạt. Thế nhưng Chúa chỉ cảnh cáo ông bằng một cú ngã ngựa. Và ngay sau đó Ngài đã trao cho ông một sứ mạng thật lớn lao: Sứ mạng đem Tin Mừng của Chúa cho dân ngoại. Việc làm của Chúa thật khó hiểu. Thầy cả Anania đã phải run sợ nhưng Chúa bảo ông: “Đừng sợ đây là người ta đã chọn để làm vinh danh ta”. Chọn một kẻ thù của mình để làm vinh danh mình. Có ảo tưởng hay không? Không! Chúa không ảo tưởng. Bằng tình yêu thương tha thứ, bằng sự tin tưởng Ngài đặt vào trái tim, Chúa đã biến Phaolô thành một dụng cụ tuyệt vời trong tay của mình. Trong tình yêu không thể thiếu lòng tin. Hầu như mọi sự đổ vỡ trong tình yêu đều ít nhiều bắt nguồn từ sự thiếu tôn trọng và không tin tưởng ở nhau. Ngược lại nếu biết tin tưởng, tình yêu sẽ làm nên được những điều diệu kỳ. Đây là câu truyện do nhà văn Nguyễn Hiến Lê kể lại: Hôm đó khi vừa mới ở trường về đứa bé hỏi mẹ nó: “Mẹ, thế nào là trật đường rầy hả mẹ? Bà cụ phì cười trả lời: + Một chuyến xe lửa trật đường rầy mà con không biết sao? – Hiểu chứ mẹ, nhưng một đứa nhỏ trật đường rầy nghĩa là làm sao hả mẹ? + Nghĩa là nó hơi khùng khùng chứ làm sao. – Và thế nào là “không bình thường” hả mẹ? + Không bình thường?…Nghĩa là….Nhưng con nghe ai nói vậy? – Chiều nay Ông Thanh tra tới thăm trường của con. Ông có vô thăm lớp con. Ông có hỏi thầy về tình hình học tập trong lớp. Thầy lấy tay chỉ vào con và nói với ông thanh tra là “nó là đứa bé trật đường rầy”- nó là đứa bé bất bình thường, có dạy dỗ nó cũng chỉ tốn công vô ích”. Tức quá bà cụ nhảy choi choi lên và la lớn lớn: – A thầy giáo bảo con vậy hả? Đi đi ngay với mẹ. Mẹ sẽ cho ông thầy ấy biết tay con mụ này. Nói xong bà nắm tay con lôi đi – đôi mắt long lên, đôi môi mím lại, hùng dũng đi đến nhà ông giáo. Tới nơi bà lấy tay chỉ thẳng vào mặt ông giáo và nói dằn từng tiếng: – Nè, thầy nói gì với ông thanh tra về thằng Al của tôi ?- Tôi biết hết. Thầy bảo nó là “trật đường rầy” là “bất bình thường” hả? Tôi nói thật cho cái mặt thầy biết: Có kẻ nào đó trật đường rầy thì kẻ đó chính là thầy chứ không phải là con của tôi. Tôi cầu cho thầy được thông mình bằng một nửa nó thì cũng là phúc lắm rồi. Rồi bà nắm tay đập lên bàn nhà thầy giáo…vừa đập vừa hét lớn: – Thấy nhớ kỹ nghe chưa? Một ngày kia người ta sẽ nhắc đến tên tuổi của nó – Còn cái mặt của thầy không ai thèm biết tới đâu. Tội nghiệp cho ông giáo cứ nín thinh không dám hé môi nói một lời. Nói xong bà bảo cậu con. – Thôi từ nay con khỏi tới trường nữa. Ở nhà mẹ dạy cho con. Rồi bà dắt con quay gót bước ra. Rồi bằng một tình yêu với những hy sinh không biết mệt mỏi, bằng một lòng quí trọng không bờ không bến, và nhất là bằng một niềm tin rắn chắc và vững vàng như sắt đá bà thổi vào trong tâm hồn đứa con của bà sự tự trọng, ý chí muốn vươn lên và sự kiên trì không biết mệt mỏi. Cuối cùng bà đã biến một đứa bé bất bình thường, đứa bé trật đường rầy, đứa bé có lần ông thầy mắng là “dốt như bò” thành một nhà bác học đã đóng góp cho nhân loại một số bằng phát minh nhiều hơn bất cứ một nhà bác học nào ở trên thế giới này từ trước cho đến hôm nay: 2500 bằng phát minh. Vâng 2500 bằng phát minh…trong đó có bằng phát minh rất quan trọng về điện mà chúng ta đang được thừa hưởng hôm nay. Đó là nhà bác học Thomas Alva Edison. Sau này khi ông thành đạt thì mẹ đã chết, ông hay nói với mọi người: “Tôi được như thế này là nhờ mẹ của tôi.”. Vâng chúng ta hãy biết yêu như Chúa đã yêu để tình yêu làm nên những điều kỳ diệu cho cuộc sống của chúng ta . Amen.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_B
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Nhật VI Phục Sinh tập trung vào chủ đề chính yếu: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Sau dụ ngôn “Cây Nho Thật” được trích dẫn từ Diễn Từ Cáo Biệt của Đức Giê-su với các môn đệ thân thương của Ngài, Chúa Giê-su thổ lộ tấm lòng thương yêu của Ngài đối với các môn đệ Ngài và tất cả những ai mà Ngài yêu thương. Vì họ, Ngài sẽ hiến dâng mạng sống mình.
Cv 10: 25-26, 34-35, 44-48
Đoạn trích sách Công Vụ tường thuật thánh Phê-rô viếng thăm gia đình viên sĩ quan Rô-ma ngoại giáo tên là Co-nê-li-ô: Chúa Thánh Thần tuôn đổ những ân ban của Ngài trên viên sĩ quan lương dân này cùng thân bằng quyến thuộc của ông; như vậy, cho thấy rằng tình yêu Thiên Chúa được ban cho hết mọi người không loại trừ bất kỳ ai.
1Ga 4: 7-10
Trong đoạn trích thư thứ nhất này, thánh Gioan ca ngợi tình yêu Thiên Chúa đi bước trước: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến hy sinh làm của lễ đền tội cho chúng ta”.
Ga 15: 9-17
Sau dụ ngôn “Cây Nho Thật” được trích dẫn từ Diễn Từ Cáo Biệt của Đức Giê-su với các môn đệ thân thương của Ngài, Chúa Giê-su thổ lộ tấm lòng thương yêu của Ngài đối với các môn đệ Ngài và tất cả những ai mà Ngài yêu thương. Vì họ, Ngài sẽ hiến dâng mạng sống mình.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 25-26, 34-35, 44-48)
Câu chuyện này thuật lại một biến cố đặc biệt nhất trong sự nghiệp tông đồ của thánh Phê-rô và mang tính quyết định nhất đối với việc phát triển Giáo Hội tiên khởi: chấp nhận một lương dân và thân bằng quyến thuộc của người này vào trong cộng đoàn Ki-tô giáo, không cần qua luật Mô-sê, nhất là phép cắt bì. Một cách nào đó, Chúa Thánh Thần đã bắt buộc vị lãnh tụ các Tông Đồ thực hiện điều này.
Người lương dân này tên là Co-nê-li-ô, viên sĩ quan ngoại giáo trong quân đội Rô-ma đồn trú tại thành Xê-da-rê. Viên sĩ quan này là một người có thiện cảm với Do-thái giáo, một trong số những người được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Họ là những người nhận ra vị Thiên Chúa Ít-ra-en là Thiên Chúa độc nhất, cầu nguyện với Ngài và cứu trợ cộng đồng Do-thái, nhưng không gia nhập vào cộng đồng này, khác với những tân tòng, nghĩa là những người chấp nhận phép cắt bì, tuân giữ ngày sa-bát và những đòi hỏi khác của luật Mô-sê.
- Thái độ khác thường của thánh Phê-rô
Chấp nhận lời mời của ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô thân hành đến tại nhà ông. Hoạt cảnh được thánh Lu-ca tường thuật thật cảm động. Việc thánh Phê-rô vào nhà một người lương dân, không sợ giao tiếp với một “kẻ ô-uế” thì thật khác thường. Như chúng ta biết, những phong tục tập quán, chứ không luật, đã thiết lập muôn vàn rào chắn giữa dân Do-thái và lương dân, trước hết nhằm tránh tất cả sự nhiễm uế ngoại giáo, tiếp đó tuân giữ luật thanh sạch một cách nghiêm nhặt và phức tạp như thanh tẩy, kiêng cữ đồ ăn thức uống.
Thái độ của ông Co-nê-li-ô cũng khác thường: “Khi thánh Phê-rô bước vào nhà, ông Co-nê-li-ô đích thân ra đón và phủ phục dưới chân vị Tông Đồ mà bái lạy”. Cử chỉ của viên quan Rô-ma này thật đáng ngạc nhiên. Việc phủ phục là một nghi lễ Đông Phương, được dành cho các vị thần linh và các bậc vua chúa.
Trước cử chỉ dành cho Thiên Chúa này, thánh Phê-rô phản ứng ngay liền lúc đó: “Bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm”. Có lẽ thánh nhân nghĩ đến hình ảnh của người phong hủi và người đàn bà tội lỗi đã phủ phục dưới chân Thầy mình. Đức Giê-su là Chúa và là Thiên Chúa trong khi thánh nhân chỉ là một người môn đệ khiêm tốn của Đức Giê-su.
- Bài diễn từ khác thường của vị lãnh tụ Tông Đồ.
Bài diễn từ của thánh nhân cũng khác thường. Số người tham dự thì đông: “Ông Co-nê-li-ô cho mời thân bằng quyến thuộc đến”. Lúc đó, thánh Phê-rô công bố những điều thật bất ngờ: không còn một dân đặc quyền đặc lợi nữa, Thiên Chúa không thiên vị người nào hay dân tộc nào; “nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”. Vị lãnh tụ Tông Đồ nhận ra chiều kích mới của dân Thiên Chúa.
- Hoạt động khác thường của Chúa Thánh Thần.
Sau cùng, hoạt động của Chúa Thánh Thần thì cũng khác thường. Sách Công Vụ làm chứng rằng Chúa Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển Giáo Hội tiên khởi. Vì thế, không phải là vô căn cứ khi sách Công Vụ Tông Đồ được gọi là“sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”.
Chính Chúa Thánh Thần đã xếp đặt cuộc gặp gỡ giữa thánh Phê-rô và ông Co-nê-li-ô. Chính Ngài đã ban cho cả hai người thị kiến hay xuất thần; chính Ngài làm gián đoạn bài diễn từ của vị Tông Đồ để tỏ mình ra và ngự xuống trên mọi người. Có mấy anh em ở Gia-phô, tức các Ki-tô hữu gốc Do thái, cùng đi với thánh Phê-rô (Cv 10: 23). Họ vô cùng kinh ngạc vì những dấu chỉ đặc sủng làm chứng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở nơi lương dân, ngay cả trước khi những lương dân này đón nhận phép Thánh Tẩy hay nghi thức đặt tay. “Lễ Ngũ Tuần lương dân” này, khá giống với Lễ Ngũ Tuần trước đó, cho thấy Thiên Chúa có sáng kiến ban tặng muôn vàn thiên ân cho “những ai ăn ngay ở lành”.
Đối với Giáo Hội tiên khởi, đây là một mặc khải và là một cuộc cách mạnh. Chính thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội, ý thức đầu tiên về điều này. Với những người lương dân này mà Chúa Thánh Thần chỉ định, thánh nhân mở rộng cánh cửa Nước Trời khi “truyền làm phép Rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”.
BÀI ĐỌC II (1Ga 4: 7-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan. Trong đoạn trích này, chúng ta gặp lại chủ đề mà thánh Gioan không ngừng lặp đi lặp lại: “Thiên Chúa là Tình Yêu” vì thế, chúng ta hãy yêu thương nhau. Lời khuyên bảo này được xoay quanh hai ý tưởng. Trước hết, Thiên Chúa là Tình Yêu, vì thế, tình yêu là lối ngõ dẫn vào cuộc sống tâm giao với Thiên Chúa. Sau nữa, tình yêu Thiên Chúa được chứng thực ở nơi việc Ngài đã ban cho nhân loại Con Một của Ngài.
- Tình yêu là lối ngõ dẫn vào cuộc sống tâm giao với Thiên Chúa
Như Đức Giê-su trong Tiệc Ly, thánh Gioan cũng gọi cộng đoàn Ki-tô hữu của mình bằng những lời trìu mến: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ”. Cách xưng hô này rất xứng hợp để giới thiệu một cộng đồng được phát triển trên nền tảng tình yêu. Những lời chan chứa yêu thương này khơi dậy sự chú ý và loan báo tầm quan trọng của giáo huấn.
Trong chỉ vài lời, thánh Gioan đặt nền tảng cho “sự hiểu biết” Ki-tô giáo đích thật. Trái với những khẳng định của các ngôn sứ mạo danh, những kẻ làm xáo động các tín hữu, thánh nhân quả quyết rằng chúng ta biết Thiên Chúa không bởi ánh sáng thần khải, cũng không bởi những suy luận thuần túy trừu tượng, nhưng từ thành quả của một kinh nghiệm: kinh nghiệm của đức ái: yêu thương nhau như Thiên Chúa yêu thương chúng ta. “Tình Chúa đối với chúng ta” là khuôn vàng thước ngọc và là nguồn mạch của mọi tình yêu.
Thần học này, thánh Gioan đã nêu lên rồi trong Tin Mừng của mình: “Sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha” (Ga 17: 3). Thuật ngữ “biết” trong Tin Mừng Gioan chứa đựng “trọn cả khối óc lẫn con tim”. Vả lại, di sản Do-thái rất dễ nhận ra ở nơi đoạn trích dẫn này: lời quả quyết vừa theo hình thức khẳng định: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” vừa theo hình thức phủ định: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa”, là nét đặc trưng của lối hành văn Do-thái.
Như vậy, “biết Thiên Chúa” thông qua đức ái này: vừa trải rộng cho hết mọi người vừa hướng về Thiên Chúa là cội nguồn tình yêu, đưa chúng ta dự phần vào cùng một cuộc sống với Thiên Chúa, chia sẻ cùng sự sống thần linh của Ngài. Chúng ta nên ghi nhận rằng thánh Gioan không giới hạn viễn cảnh chỉ vào đức ái Ki-tô hữu: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Cũng như trong Tựa Ngôn, khi định nghĩa Thiên Chúa là ánh sáng, thánh Gioan nhấn mạnh rằng ánh sáng này “đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9).
- Tình yêu Thiên Chúa được chứng thực ở nơi việc Ngài ban cho chúng ta Con Một của Ngài
Trong bức thư này, những lời khuyên bảo và những lời nhắc nhở về đạo lý được quyện vào nhau đến độ khó nắm bắt. Điều quan trọng là giúp các Ki-tô hữu kiên vững trong niềm xác tín của mình khi phải đối mặt với những lời nói vớ vẩn liên quan đến con người của Đức Ki-tô, tức là những kẻ muốn loại bỏ tầm quan trọng của biến cố Nhập Thể khỏi Tin Mừng, và vì thế, đánh mất cả ơn Cứu Độ.
Ấy vậy, sự kiện Nhập Thể, nhờ đó, Đức Ki-tô mới có thể dâng hiến thân thể của mình thành của lễ, lại là bằng chứng xác thực nhất và cao cả nhất cho thấy tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
“Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian”. Diễn ngữ này chỉ được gặp thấy nơi bút pháp của thánh Gioan. Trong thư này, trong Tựa Ngôn và trong sách Tin Mừng Gioan, đều có chung tư tưởng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16).
Nhập Thể đã dẫn đưa tình yêu Thiên Chúa còn đi xa hơn nữa: ban Con Một của Ngài để tha thứ tội lỗi. Như vậy, Nhập Thể và Ơn Cứu Độ là hai mặt của một thực tại, không thể nào bị loại ra khỏi Ki-tô giáo. Chúng không là những khái niệm xuất phát từ những suy luận phàm nhân, nhưng là những sáng kiến đến từ Thiên Chúa và chứng thực chân lý hàng đầu và căn bản này: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Gioan nhấn mạnh hơn ai hết tình yêu Thiên Chúa. Bản văn Tin Mừng hôm nay dâng hiến cũng những âm vang như thư thứ nhất này.
TIN MỪNG (Ga 15: 9-17)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích dẫn từ “Diễn Từ Cáo Biệt” của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài. Đoạn Tin Mừng này tiếp liền sau dụ ngôn “Cây Nho Thật” được công bố vào Chúa Nhật trước.
Trong dụ ngôn “Cây Nho Thật”, Chúa Giê-su đã cho thấy rằng cành nho chỉ có thể sinh hoa kết trái nếu nó gắn liền với thân nho. Cũng vậy, các môn đệ dự phần vào sự sống Thiên Chúa và sinh hoa kết trái chỉ khi nào họ kết hợp với Ngài.
Qua hình ảnh này, Đức Giê-su diễn tả mối liên hệ mới mà Ngài đến thiết lập giữa Thiên Chúa và con người: mối tâm giao của tình yêu.
- Tình yêu của Đức Giê-su đối với các môn đệ của Ngài.
Trong bầu khí ly biệt này, Đức Giê-su nói với các môn đệ của Ngài, những người mà Ngài yêu thương cho đến cùng, bằng một cung giọng rất mực trìu mến: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy như thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”.
Ở đây, chúng ta chạm đến đỉnh cao của Mặc Khải: Chúa Con mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, Đấng mà Chúa Con giữ mối liên hệ Phụ Tử độc nhất. Ấy vậy, điều đáng chú ý chính là trong Tin Mừng Gioan, hễ khi nào những mối liên hệ giữa Cha và Con được nêu lên, đều được liên kết vào trong những viễn cảnh liên quan đến nhân loại. Điều này vén mở rằng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa, thay vì tập trung trên chính mình, tất yếu hướng về thụ tạo. Tất cả những gì Chúa Con lãnh nhận từ Chúa Cha, chính là để ban cho chúng ta. Tình yêu mà Chúa Cha dành cho Chúa Con, cũng chính là tình yêu Chúa Con dành cho các môn đệ của mình.
- Tình yêu của các môn đệ đối với Đức Giê-su
Đến lượt mình, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ của Ngài hãy yêu mến Ngài, không là một thứ tình cảm trừu tượng, nhưng nhất mực trung thành với các điều răn của Ngài. Ngài đã nói với họ rồi trước đó một chút: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (14: 21).
Chúng ta đã thấy rồi, động từ “ở lại” là động từ chủ chốt của từ vựng Gioan. Trong chương 15 này, động từ “ở lại” này, xuất hiện mười ba lần, nhấn mạnh sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa trong đời sống “nội tâm” của người Ki-tô hữu. Như vậy, đức ái mà Đức Giê-su đề cao tạo nên một chuyển động kép: bên ngoài, thực hành những huấn lệnh Tin Mừng; bên trong, tăng cường mối liên hệ với Đức Ki-tô.
“Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn”. Thật là mâu thuẫn biết bao, “niềm vui” này được công bố bởi người sắp phải đối mặt với những xao xuyến tận mức. Và cũng thật mâu thuẫn biết mấy, Ngài hứa ban niềm vui tròn đầy cho những người sắp phải chịu cơn choáng váng đến tận cùng nỗi tuyệt vọng về cái chết của Ngài. Tuy nhiên, niềm vui này được định vị ở trung tâm lập luận: vui trong bầu khí thân tình này, đó sẽ là cách thế hiện diện vô hình của Ngài ở nơi họ, sự hiện diện lòng bên lòng, nhờ đó họ sống sự sống của Ngài và lòng tràn đầy niềm vui mà“không ai lấy mất đi được” (16: 22), như Ngài sẽ xác định một lát sau đó.
- Tình yêu của các môn đệ đối với nhau
Trong Diễn Từ Cáo Biệt, những lời dặn dò sau cùng này, những lời trăn trối này, những lời tâm huyết này, được cô đọng ở nơi một lệnh truyền duy nhất: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Giê-su là khuôn mẫu tình yêu của Ngài đối với họ; đến phiên họ, tình yêu của Ngài đối với họ phải là khuôn mẫu tình yêu của họ đối với nhau.
Đức Giê-su đã công bố lệnh truyền này rồi với một cung giọng đầy cảm xúc, ngay liền sau khi Giu-đa rời bỏ bàn tiệc mà ra đi:“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi… Thầy ban cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (13: 33-34).
“Giới Răn Mới” này cốt yếu là gì? Người ta đã đọc thấy từ lâu trong sách Lê-vi: “Hãy yêu người thân cận như chính mình ngươi”. Tuy nhiên, lệnh truyền mà Đức Giê-su ban cho các môn đệ của Ngài có tầm mức vượt quá mọi mức độ, không còn tình yêu quy chiếu về chính mình, nhưng về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa là “hy sinh mạng sống mình cho những người mà Ngài yêu”.
“Những người mà Ngài yêu”, trước hết chính là các môn đệ của Ngài đang vây quanh Ngài và lắng nghe lời Ngài; tức là những người mà Ngài gọi là những bạn tâm phúc của Ngài và trao gởi cho họ sứ điệp của Ngài; họ là những người mà Ngài đã chọn để tiếp tục sự nghiệp của Ngài. Sự tuyển chọn này tấn phong họ là những người được Ngài sai đi, những nhà truyền giáo “thu được kết quả và kết quả tồn tại mãi”.
“Những người mà Ngài yêu”, cũng chính là, ở bên kia các Tông Đồ đang hiện diện với Ngài, tất cả những ai mà Ngài đã hy sinh mạng sống mình cho họ. Lệnh truyền “hãy yêu thương nhau” phải rộng mở bao la như tình yêu của Đức Giê-su: “chết cho tất cả mọi người”.
Tuy nhiên, cung giọng trực tiếp của Ngài là cung giọng chứa chan tình thương mến, cả với tư cách con người lẫn tư cách Thiên Chúa. Chính bằng cung giọng chan chứa tình thương mến này mà Đức Giê-su ngỏ lời với các Tông Đồ vào lúc từ giã các ông ra đi. Tấm lòng phàm nhân của Ngài để lộ chiều sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa này.
.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 15,9-17
(9) Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. (10) Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy, và ở lại trong tình thương của Người. (11) Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. (12) Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. (13) Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (14) Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết.(16) Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. (17) Điều Thầy truyền dạy anh em là: Hãy yêu thương nhau.
2. Ý CHÍNH:
Sau khi trình bày về dụ ngôn cây nho và cành nho ám chỉ liên hệ mật thiết giữa Đức Giê-su với các môn đệ, Đức Giê-su tiếp tục trình bày về sự hiệp thông giữa các môn đệ với nhau. Người ban cho họ một điều răn mới là “phải yêu thương nhau giống như Người đã yêu”. Người coi tình yêu ấy chính là dấu hiệu môn đệ thực sự của Người.
3. CHÚ THÍCH:
– C 9-10): + Chúa Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em: Noi gương Chúa Cha đã yêu Chúa Con (x. Ga 3,35), Đức Giê-su cũng yêu thương các môn đệ bằng một tình yêu vô cùng mật thiết. + Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy: Vâng giữ các giới răn là một cách thế diễn tả tình yêu của các môn đệ đối với Đức Giê-su. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy các ông đang “ở lại trong” tình thương của Người. + Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy: Trong suốt cuộc sống ở trần gian, Đức Giê-su luôn vâng theo Thánh ý Chúa Cha (x. Ga 6,38), đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá (x. Pl 2,8). Sự vâng phục các điều Chúa Cha truyền chính là bằng chứng Đức Giê-su luôn ở lại trong tình thương của Người.
– C 11-13: + Để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn: Niềm vui hân hoan của Đức Giê-su có được do luôn làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Niềm vui ấy các môn đệ cũng sẽ nhận được, nếu các ông cũng tuân giữ giới răn yêu thương mà Đức Giê-su truyền dạy. + Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em: Các môn đệ phải yêu thương nhau không phải chỉ bằng tình cảm hay là lời nói cử chỉ bề ngoài, nhưng phải thể hiện qua việc dấn thân chịu chết vì anh em, noi gương Đức Giê-su đã yêu thương và nộp mình chịu chết đền tội cho môn đệ. + Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình: Tình thương thực sự đòi sự hy sinh và cho đi. Món quà trao tặng càng có giá trị thì tình yêu càng lớn lao. Sự trao tặng cả mạng sống của mình là dấu hiệu của một tình yêu tột đỉnh. Đức Giê-su đã yêu thương môn đệ đến cùng nên sẵn sàng hy sinh chịu chết thay cho môn đệ. Người cũng đòi họ phải noi gương Người mà hy sinh mạng sống vì anh em (x.1 Ga 3,16; 1 Pr 2,21).
– C 14-15: + Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa nhưng là bạn hữu: Tình bạn dẫn đến hiệp thông về tư tưởng, tâm tình và sự sống. Đức Giê-su đã cư xử với các môn đệ bằng thứ tình bạn này, vì Người đã tỏ cho các ông biết tất cả những gì Người nhận được từ nơi Cha.
– C 16-17: + Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em: Ơn gọi làm môn đệ Đức Giê-su không do công trạng hay sự lựa chọn đi theo Người, nhưng là do Người đã kêu gọi và tuyển chọn các ông trước và các ông đã đáp lại bằng sự từ bỏ mọi sự mà theo Người như 4 môn đệ đầu tiên (x. Mt 4,19-21). + Và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại: Chính Đức Giê-su đã huấn luyện và sai các môn đệ ra đi truyền giáo bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời và làm chứng cho Người (x. Mt 10,1-10; 28,19; Cv 1,8). Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su và nhờ Ơn Thánh Thần tác động mà các ông đã đưa được nhiều người gia nhập Hội Thánh (x. Ga 20,22-23; Cv 2,37-41). + Những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em: Những lời cầu xin nhân danh Đức Giê-su chắc sẽ được Chúa Cha chấp nhận. + Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau: Yêu thương nhau là một giới răn mới của Đức Giê-su và là điều quan trọng nhất, nên được Người nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
4. CÂU HỎI: 1) Đức Giê-su ban cho môn đệ giới răn mới thế nào? 2) Tình yêu thương môn đệ của Đức Giê-su giống như tình yêu của ai? 3) Môn đệ phải đáp lại tình yêu của Đức Giê-su thế nào? 4) Niềm vui Đức Giê-su là do đâu và các môn đệ phải làm gì để cũng có được niềm vui ấy? 5) Đức Giê-su truyền cho các môn đệ phải yêu thương theo tình yêu của ai? 6) Hai đặc điểm của tình yêu thực sự là gì? 7) Đức Giê-su đã đối xử với môn đệ như bạn hữu, thể hiện qua điều gì? 8) Đức Giê-su khẳng định chính Người đã yêu thương kêu gọi và tuyển chọn các môn đệ. Hãy cho biết tên của bốn môn đệ đầu tiên là những ai? 9) Đức Giê-su đã ra lệnh cho các môn đệ đi truyền giảng Tin Mừng trong hoàn cảnh nào? 10) Đức Giê-su dạy môn đệ phải cầu xin nhân danh ai để được Chúa Cha chấp nhận?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12):
– CÂU CHUYỆN: TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và hay đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần phải được tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn loại máu của cô để truyền cho cô. Rất may là máu của cậu bé anh cô lại cùng một loại với em. Khi được hỏi có muốn cho máu để truyền cứu sống em gái hay không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã bình tĩnh lại và can đảm trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”. Sau đó các bác sĩ đã tiếp máu của cậu bé cho em. Khi tỉnh dậy, mọi người trong phòng đều ngạc nhiên và buồn cười khi nghe cậu bé hỏi: “Ô hay! Con vẫn còn sống đấy ư? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em gái con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?”
Thì ra cậu bé tưởng lầm rằng khi cho máu, thì mình sẽ phải hy sinh mạng sống của mình cho em, vì bác sĩ sẽ lấy hết máu của cậu mà tiếp sang cho đứa em gái! Vì quá thương em và không muốn em chết, nên sau một lúc ngần ngại, cậu đã can đảm hy sinh mạng sống của mình để cho em cậu được cứu sống! Quả thật, trong trường hợp này: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”.
– SUY NGHĨ VÀ QUYẾT TÂM:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình’ (Ga 15,13). Con Thiên Chúa đã yêu các môn đệ là chúng ta đến cùng, nên đã hy sinh chịu chết trên thập giá để đền tội thay và đã sống lại để cứu sống chúng ta để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, bạn quyết tâm làm gì để biểu lộ tình thương đối với các người thân yêu trong gia đình mình, noi gương Chúa Giêsu như cậu bé trong câu chuyện trên đã thể hiện?
- LỜI CHÚA: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9) :
– CÂU CHUYỆN: MỤC SƯ MÁC-TIN LU-TƠ KINH (Martin Luther King):
Vào năm 1963, tại Thủ đô Wa-sinh-tân (Washington), 200.000 người đã lắng nghe vị mục sư da đen là Mác-tin Lu-tơ kinh, người đã đoạt giải No-ben Hòa Bình nói chuyện. Nội dung bài phát biểu của ông được cô đọng trong mấy lời như sau: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Gioóc-giơ (Georgia), con cháu của những người nô lệ và của những chủ nôsẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi sẽ trở về sống trong một đất nước mà chúng sẽ không bị đánh giá, đối xử bất công dựa trên màu da, nhưng là trên những công lao đóng góp xây dựng của chúng …”. Ong luôn cố gắng thực hiện ước mơ đó, dù gặp biết bao khó khăn trở ngại, ganh ghét đố kỵ. Đến năm 1968, Mác-tin lu-tơ Kinh đã ngã gục dưới làn đạn của những kẻ thù ghét ông. Nhưng chương trình hành động của ông vẫn được tiếp tục. Bởi vì ước mơ hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc của ông đã được hàng triệu người trên thế giới đồng cảm cùng quyết tâm thực hiện.
– SUY NGHĨ VÀ QUYẾT TÂM:
Hiện nay tại môi trường bạn đang sống như: khu xóm, trường học, xí nghiệp, nhà máy, công sở, bệnh viện, nhà thờ…có sự kỳ thị về Nam Bắc, tôn giáo, cũ mới, nam nữ…không? Bạn sẽ làm gì để khắc phục tình trạng kỳ thị ấy, hầu xã hội của chúng ta ngày một công bình nhân ái hơn?
- LỜI CHÚA: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13):
– CÂU CHUYỆN: “ANH PHẢI SỐNG”.
Có hai vợ chồng nhà kia, hàng ngày cùng nhau vào rừng từ sáng sớm để kiếm củi bó thành từng bó rồi chất lên một chiếc thuyền, xuôi dòng ra chợ bán. Họ phải vất vả kiếm tiền nuôi một gia đình gồm 4 miệng ăn: hai vợ chồng và hai đứa con thơ: Đứa lớn được 7 tuổi và đứa em mới 4 tuổi. Một hôm, vào buổi chiều, trên đường chèo thuyền về nhà thì trời bổng tối sầm và đổ mưa tầm tã. Sấm chớp ầm ầm và gió mạnh làm mặt sông dậy sóng. Chiếc ghe nhỏ bé của họ đầy nước đang trôi nhanh giữa dòng sông và rồi bị lật úp, khiến hai vợ chồng bị văng ra khỏi ghe. Rất may là họ đã bám được vào một thân cây đang trôi gần đó. Tuy nhiên thân cây chỉ đủ cho một người bám. Bấy giờ chị vợ ôm chặt lấy cổ chồng đang khi anh chồng một tay bám vào thân cây, còn tay kia cố bơi vào bờ. Nhưng phần vì bị sóng gió vùi dập, phần phải đỡ vợ nên anh dần dần đuối sức. Cảm thấy mình quá mệt và có nguy cơ cả hai vợ chồng có thể đều chết chìm, người chồng nói với vợ rằng: “Em hãy buông anh ra và bám vào khúc cây rồi cố bơi vào bờ để nuôi các con em nhé!”. Nhưng chị vợ đáp: “Không! Anh phải sống mà nuôi con!”, rồi chị đã tự buông tay ra cho chìm xuống để anh đủ sức bơi được vào bờ. Sáng sớm hôm sau, người ta thấy người chồng và hai đứa con thơ, đầu chít khăn tang, dắt dìu nhau ra bờ sống lập bàn thờ và thành tâm khấn vái để cầu xin hương hồn người chết phù hộ cho ba bố con.
– SUY NGHĨ VÀ QUYẾT TÂM:
Cao cả thay tình thương của một người vợ, người mẹ! Chị đã quên mình, sẵn sàng hy sinh chịu chết để cho chồng và con được sống! Đúng như lời Đức Giê-su dạy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Còn bạn, bạn quyết tâm sẽ làm gì trong những ngày Mùa Phục Sinh này để chứng tỏ tình thương đối với các người thân yêu của mình?
- LỜI CHÚA: “Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả…” (1 Cr 13,8)
– CÂU CHUYỆN: TẨY SẠCH MÙI CỌP
Có đôi vợ chồng trẻ nọ, chồng là giảng viên Đại học, vợ là diễn viên và là người dạy thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau.
Chồng thì ngồi nghế giảng viên Đại học, vợ suốt ngày cầm roi dạy cọp trong chuồng thú của đoàn xiếc, nhưng tình yêu đưa họ bay lên với những giấc mơ tuyệt đẹp. Người chồng giảng viên Đại học mặc dù thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không ổn lắm, nhất là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc toả ra từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật khó chịu nhưng người diễn viên dạy thú thì không thể không cần đến cái mùi ấy. Chính cái mùi ấy mà bầy cọp dữ mới nhận ra và ngoan ngoãn vâng lời cô.
Cho đến một hôm, hai người giận nhau, tình trạng ấy kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành. Cô chọn một giải pháp rất bất ngờ đối với người chồng và cũng rất xa lạ đối với cô. Đó là tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ đã làm hòa với nhau. Thế nhưng, một hậu quả thật bi đát đến với cô: Đêm hôm sau người vợ ấy chết!
Người nữ diễn viên dạy thú ấy đã chết dưới nanh vuốt của con cọp dữ mà chính cô đã thuần hoá. Nó không nhận ra cô nữa vì mùi cọp quen thuộc không còn mà chỉ có mùi nước hoa hồng xa lạ. Con cọp hốt hoảng trước mùi lạ lẫm đó và đã tự vệ bằng cách tấn công. Chỉ trong khoảnh khắc người nữ diễn viên dạy thú đã tan xác vì những móng vuốt sắc nhọn của con cọp mà cô đã hết lòng thương yêu.
– SUY NGHĨ VÀ QUYẾT TÂM:
Ngày nay chúng ta cần ý thức sống tình yêu tha nhân để làm chứng về tình mến Chúa. Đây cũng là phương cách hữu hiệu để làm chứng cho Chúa nhất là trong thế giới hôm nay. Vậy mỗi người chúng ta có thể làm gì cụ thể để sống tình yêu thương và làm chứng cho Chúa:
– Cảm thông và tận tình giúp đỡ những người bệnh tật nghèo khổ gần ngay bên mình.
– Nhẫn nhịn chịu đựng những lời nói xấu của tha nhân, bỏ qua những lỗi lầm của kẻ khác đối xử không tốt với mình bằng cách: “Biến việc lớn thành việc nhỏ, biến việc nhỏ thành không có gì” để dễ dàng sống hòa thuận với tha nhân chung quanh.
– Dấn thân đi bước trước đến với tha nhân qua việc đi thăm viếng những người nghèo khổ, neo đơn, các mái ấm cô nhi, nhà tình thương… để động viên an ủi, chia sẻ cơm bánh tiền bạc… hầu đáp ứng các nhu cầu cấp bách của họ.
– Trao học bổng cho học sinh sinh viên nghèo khó chăm học, mở lớp xóa mù chữ, dạy các nghề đơn giản phù hợp với khả năng mình, giúp đỡ người nghèo có điều kiện tự lập và vươn lên…
- THẢO LUẬN:
Để sống tình yêu thương của Chúa, ngoài việc năng học Lời Chúa, tham dự thánh lễ, cầu nguyện, bạn còn cần làm gì cụ thể?
- LỜI CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu, Con hiểu rằng: Đạo của Chúa lấy giới răn Mến Chúa Yêu người làm căn bản. Nhưng trong thực tế, con đã chưa làm theo giới răn ấy. Lòng chúng con còn đầy sự ích kỷ vụ lợi, đang khi lẽ ra con phải sống vị tha bác ái. Gia đình chúng con chưa thực sự có tình yêu của Chúa, chưa có sự hiệp nhất trên thuận dưới hòa như lời Chúa dạy. Các bậc cha mẹ còn hay cãi lộn, vợ chồng chưa biết quên mình và hy sinh cho nhau, con cái chưa hiếu thảo với cha mẹ, anh chị em chưa thực sự tôn trọng và chia sẻ tình thương cho nhau.
– Lạy Chúa, xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu dọi vào tâm trí chúng con. Xin ngọn lửa tình yêu của Chúa sưởi ấm và biến đổi lòng chúng con ngày một quảng đại hơn. Xin cho tình yêu của Chúa luôn ngự trị và tỏa sáng lòng trí chúng con. Xin cho chúng con luôn biết cảm thông với tha nhân và sẵn sàng chia sẻ cho đi. Nhất là xin cho chúng con biết yêu thương dám hy sinh quên mình như Chúa khi xưa. Nhờ đó, ánh sáng Phục Sinh sẽ tỏa chiếu trên chúng con và sẽ giúp người đời nhận biết tin yêu Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.