Lời Chúa Năm B Các bài suy niệm Chúa Nhật 5 Thường niên Năm B

Các bài suy niệm Chúa Nhật 5 Thường niên Năm B

CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN_B

Lời Chúa: G 7,1-4.6-7;  1Cr 9,16-19.22-23;  Mc 1,29-39

——-

Mục lục

1. Hành trình hạnh phúc (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hãy để Thiên Chúa chăm sóc bạn  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

3. Đức tin và chữa lành (Jorathe Nắng Tím)

4. Ngày sống của Chúa Giêsu (Lm. Thái Nguyên)

5. Sống với Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Hãy sống tích cực  (Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)

7. Đỡ dậy  (Lm. Vũ Đình Tường)

8. Một ngày mới  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Số kiếp lận đận  (Trầm Thiên Thu)

10. Sống hết mình  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

11. Con người không chỉ là cái xác  (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

12. Một đời thương cảm  (Lm. Nguyễn Cao Luật, OP)

13. Xin ơn chữa lành bệnh tật xác hồn (Lm. Trần Bình Trọng)

14. Hướng nhìn lên Giêsu (Lm. Xuân Hy Vọng)

15. Nước Trời  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

16. Dấn thân  (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

17. Tâm tình phục vụ (Maria Bùi Thủy, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

18. Chỉ còn tình yêu ở lại  (Lm. Giuse Nguyễn)

19. Thiên Chúa là sức mạnh của đời người (Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

20. Một con tim mới mẻ (Lm. Minh Anh)

21. Ma quỉ và chiêu trò của chúng  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

 

Mục lục (2018)

1. Sống có ý nghĩa  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đi gieo Tin mừng  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Phục vụ theo gương Thầy Giêsu  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Hãy tìm kiếm Chúa  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

5. Trái tim nhạy cảm  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

6. Xin Thầy chữa con  (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Một ngày sống  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Sống vì mọi người  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

9. Cứu độ  (Lm. Trần Việt Hùng)

10. Con người trở nên vĩ đại nhờ cầu nguyện (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

11. Đời là bể khổ  (JM. Lam Thy, ĐVD)

12. Cầu nguyện là nhu cầu sống (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

13. Đi ra vùng ngoại biên (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

14. Lương y từ mẫu  (Ave)

15. Rao giảng và chữa lành (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

16. Làm việc cho vương quốc Nước trời  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

17. Chúa Giêsu, Thầy thuốc của tâm hồn  (Lm. Giuse Phạm Quốc Phong, SDB)

18. Suy niệm Chúa Nhật 5 Thường niên_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

19. Suy niệm Chúa Nhật 5 Thường niên_B. (Fx. Đỗ Công Minh)

20. Nỗi niềm phàm nhân (Trầm Thiên Thu)

21. Xem quả biết cây  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

22. Một ngày làm việc của Chúa Giêsu (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)

23. Sống tròn đầy từng giây phút mỗi ngày (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

24. Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật V TN B  (Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

25. Chứng nhân (Lm. Vũ Đình Tường)

26. Chúa Nhật 5 Thường niên_B  (Lm. Giuse Huỳnh Văn Sỹ)

27. Ảo và thật  (Lm. Giuse Nguyễn)

28. Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy  (Lm. Nguyễn Thái)

29. Tiếp xúc với Cha trên trời  (Lm. Đinh Lập Liễm)

30. Tấm lòng của Thiên Chúa (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

31. Xin Chúa chữa lành chúng con  (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)

32. Chu toàn sứ vụ loan báo Tin mừng (Lm. Đan Vinh)

33. Suy niệm Chúa Nhật V TN B  (Lm. Anthony Trung Thành)

34. Những sứ vụ đầu tiên của Đức Giêsu  (P. Trần Đình Phan Tiến)

35. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)

36. Niềm vui là phần thưởng; Thiên đàng là tiền công (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

37. Tránh nhưng không trốn sự đau khổ (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

38. Chúa chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

39. Phép lạ chữa nhạc mẫu Phêrô nói gì với ta về ba con người (Lm. Nguyễn Công Minh, OFM)

40. Chúa Nhật 5 Thường niên_B.  (Lm. Antôn)

 

HÀNH TRÌNH HẠNH PHÚC

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Một tác giả đã viết: “Hạnh phúc không phải là đích đến. Nó là một hành trình kết thành từ nhiều lựa chọn. Trên con đường đời, bạn có thể chậm rãi bước trên những lối đi êm mát với bao hoa cỏ xinh tươi quấn quýt bên mình; hoặc bạn có thể băng băng tiến về phía trước để đuổi theo những sắc mầu lấp lánh ở cuối chân trời, nơi bạn thấy hiển hiện ánh cầu vồng mê hoặc, nhưng thực ra chỉ là một khoảng không vô định. Tất cả tùy thuộc vào sự lựa chọn của bạn” (Tìm về sức mạnh vô biên, nxb Văn Hóa, tr. 7). Với những dòng trên, tác giả muốn nói với chúng ta: hạnh phúc chẳng phải ở đâu xa, mà ở bên cạnh và trong tầm tay của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ coi hạnh phúc như một mục đích, chúng ta sẽ dồn hết sức lực để đi kiếm tìm, như thể mục đích đang ở xa xa phía chân trời. Nhưng tiếc thay, khi đi kiếm tìm hạnh phúc như vậy, chúng ta quên mất hạnh phúc đang ở xung quanh mình. Mặt trời vẫn luôn hiện hữu, nhưng những người khiếm thị lại không nhìn thấy mặt trời. Không ai dựa vào sự kiện những người khiếm thị để khẳng định mặt trời không tồn tại. Dù cuộc đời còn nhiều gian nan thử thách, những niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào vẫn luôn hiện diện bên ta. Một cách cụ thể, trong cuộc sống, chúng ta có bao niềm vui nơi bạn bè, gia đình và môi trường xã hội. Hãy có cái nhìn lạc quan và trân trọng những giá trị đang hiện hữu xung quanh. Đối với người tin Chúa, mỗi giây mỗi phút trong đời đều là những cơ hội để chúng ta nhận ra tình thương bao la của Ngài. Mỗi hoàn cảnh đều có thể là cơ hội để ta thực thi lòng mến Chúa yêu người. Thời gian là một quà tặng vô giá của Thiên Chúa. Biết trân quý thời gian và sử dụng thời gian để làm những việc có ý nghĩa là nỗ lực đạt tới sự hoàn thiện.

Ông Gióp trong Cựu ước là một người đạo đức và sống đẹp lòng Chúa. Nhưng rồi, chỉ trong một thời gian ngắn, rất nhiều điều rủi ro xảy đến cho gia đình ông, làm ông mất hết con cái cũng như cơ nghiệp. Ông lâm vào cảnh bất hạnh chỉ trong vài ngày. Ngay người bạn đời của ông cũng xỉ vả và bỏ ông mà đi. Trong cơn đau khổ, ông đã suy nghĩ về sự vô nghĩa của cuộc đời: “Vừa nằm xuống tôi đã nhủ thầm: khi nào trời sáng; mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: bao giờ chiều buông. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng”.

Tâm trạng của ông Gióp cũng là tâm trạng của một số người trong cuộc sống của chúng ta hôm nay. Họ luôn cảm thấy cuộc đời này vô vị. Họ bất mãn và nhìn cuộc đời với lăng kính u buồn. Thay vì quan tâm đến người khác, họ chỉ muốn người khác quan tâm đến mình. Họ phàn nàn trách Chúa, trong khi Ngài ban cho họ biết bao cơ hội để cải thiện đời sống. Tuy vậy, nếu ông Gióp nhìn cuộc đời với cái nhìn bi quan, thì ông lại không bao giờ xúc phạm Chúa. Ông tin Ngài sẽ giải cứu ông và cuối cùng, Chúa đã phục hồi cho ông những gì đã mất, đem lại cho ông danh dự và niềm vui. Sau những tháng ngày gian truân, ông được bù đắp xứng đáng. Tài sản có được tăng gấp nhiều lần so với trước đó. Lòng kiên trì phó thác nơi Chúa đã giúp ông ta nhận được muôn hồng ân Chúa ban.

Như thế, mỗi người cần nhận ra những điều tốt đẹp Chúa ban, đồng thời chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống. Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô nói về chính mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công”. Dù bất kỳ hoàn cảnh nào, thánh nhân cũng không quên sứ mạng quan trọng là giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Ông luôn tận dụng thời gian tối đa để thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, vì ông coi đó là một bổn phận Chúa trao. Kể cả trong lao tù, thánh Phaolô cũng không quên nhiệm vụ quan trọng này. Nhờ việc rao giảng Lời Chúa mà ông tìm được niềm vui và nghị lực, bởi ông thấy những hiệu quả của công việc ông đã làm, đó là những cộng đoàn Kitô hữu được thiết lập và phát triển (Bài đọc II).

Nếu chúng ta cảm thấy cuộc sống lặng lẽ trôi một cách vô nghĩa, là vì chúng ta chưa biết sử dụng thời gian một cách đúng đắn, nhằm để đem lại hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Thời gian vẫn lặng lẽ trôi, mặc chúng ta có để ý hay không. Dòng sông cuộc đời vẫn âm thầm chảy, dù con người thánh thiện hay tội lỗi. Nếu chúng ta biết trân trọng thời gian như một quà tặng của Thiên Chúa, thì thời gian sẽ mang lại biết bao điều tốt đẹp, và mỗi ngày sống đều đong đầy ý nghĩa. Thánh Máccô kể lại một ngày sống và làm việc của Chúa Giêsu. Những cụm từ chỉ thời gian cho chúng ta thấy đó là một ngày rất bận rộn. Buổi sáng, Chúa giảng dạy và chữa bà nhạc mẫu của ông Phêrô đang cảm sốt; buổi chiều cho đến khi mặt trời lặn, Chúa chữa rất nhiều bệnh nhân, kể cả người bị quỷ ám; sáng sớm tinh mơ, Chúa đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cuộc sống của Chúa Giêsu luôn là một cuộc lên đường. Người không dừng lại ở một nơi, nhưng tiếp tục đi đến các làng mạc để loan báo Tin Mừng. Lộ trình của Chúa không có điểm kết thúc. Chúa Giêsu làm việc miệt mài, quên cả thời gian để đem niềm vui và hạnh phúc cho hết mọi người. Những việc làm của Chúa Giêsu tập trung ở ba khía cạnh: thứ nhất là rao giảng Tin Mừng; thứ hai là chữa lành các bệnh nhân đủ mọi tật nguyền; thứ ba là cầu nguyện. Ba khía cạnh này đã tạo nên sự quân bình trong đời sống. Đó cũng là mẫu mực cho đời sống Kitô hữu của chúng ta. Cần phải kết hợp khía cạnh “động” và khía cạnh “tĩnh” để tạo nên một thế quân bình. Những giây phút tĩnh lặng trong cầu nguyện sẽ giúp chúng ta nhìn lại công việc chúng ta đang làm. Những hoạt động hằng ngày là hoa trái của những suy tư và cầu nguyện trước nhan Chúa.

“Lương thực của Thày là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thày” (Ga 4, 3). Noi gương Chúa Giêsu, mỗi chúng ta hãy chuyên cần làm việc, tùy theo khả năng và địa vị của mình. Bí quyết của hạnh phúc là hãy sống vì người khác và đem cho họ niềm vui. Càng dấn thân phục vụ anh chị em, chúng ta càng thấy cuộc đời có ý nghĩa, và như thế, chúng ta càng cảm nghiệm được niềm vui. “Nhàn cư vi bất thiện”, cuộc sống quá nhàn rỗi sẽ làm chúng ta cảm thấy đơn điệu, lạc lõng và tìm đến những thú vui trần tục.

Chúng ta đang chuẩn bị đón xuân Tân Sửu. Thời điểm cuối năm nhắc chúng ta nhìn lại những việc đã làm. Cuối năm cũng là lúc nhìn lại chặng đường đã đi. Có những con đường lệch lạc được tô vẽ bằng những màu sắc hấp dẫn nhiều người muốn đi. Có những con đường ngay chính nhưng phải ngang qua cửa hẹp ít người muốn vào. Người tin Chúa cần phải cẩn trọng, vì có những ngã rẽ làm chúng ta đau khổ suốt đời.

Năm Canh Tý sắp qua có biết bao biến động, do thiên tai và nhất là do đại dịch Covid-19. Phải chăng đây là những dấu chỉ thời đại, nhắc nhở chúng ta suy tư về sự mỏng giòn của kiếp con người. Những dấu chỉ thời gian này cũng mời gọi chúng ta có trách nhiệm hơn đối với tha nhân, với môi trường và với thiên nhiên vũ trụ. Đừng đổ lỗi cho Chúa như một số người vô thần. Trái lại, hãy nhận ra quyền năng của Ngài xuyên qua những hiện tượng xảy đến trong cuộc sống.

Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn tích cực về cuộc sống hôm nay. Bởi lẽ giữa những thử thách chông gai và bon chen tính toán, tình yêu Chúa vượt lên trên tất cả. Những nhỏ nhen sẽ qua đi và tình yêu tồn tại mãi. Đừng luôn than phiền vì những người xung quanh thiếu thiện cảm. Bạn hãy tự xét mình xem mình có tạo được thiện cảm với họ hay không. Đừng quá chú trọng đến những thất bại bạn gặp trên đường đời; nhưng hãy nhớ đến những thành công nho nhỏ bạn đã đạt được. Đừng bất mãn vì cuộc đời đen bạc; hãy vui mừng vì xung quanh ta có biết bao bạn thân. Người tin Chúa còn vui mừng vì luôn được Chúa chở che, dìu dắt thương yêu trên mọi nẻo đường đời.

Hãy yêu mến cuộc sống hiện tại và hãy chuyên tâm làm việc thiện, vì tất cả những gì tốt lành chúng ta làm ở đời này, sẽ theo chúng ta đến cõi trường sinh. Ước gì ngay ngày hôm nay, chúng ta biết quý trọng những người xung quanh, vì họ là những người Chúa gửi đến cho chúng ta để đồng hành cùng chúng ta trên đường về quê trời. Như thế, hạnh phúc chẳng ở đâu xa mà ở bên cạnh và xung quanh chúng ta. Hạnh phúc không phải là một đích điểm, mà là một hành trình.

Về mục lục

HÃY ĐỂ THIÊN CHÚA CHĂM SÓC BẠN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Đại dịch COVID-19 được ví như một “cú đấm chí mạng” với sức tàn phá ghê gớm, giáng vào nền kinh tế thế giới 2020 và tiếp tục đi qua năm 2021.

Tốc độ lây lan chóng mặt của dịch bệnh COVID-19 buộc các quốc gia phải áp đặt các biện pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để chống dịch đã dẫn đến kinh tế toàn cầu suy yếu, làn sóng doanh nghiệp phá sản lan rộng khắp thế giới.  Nhiều chuyên gia cho rằng sự ảnh hưởng của đại dịch này còn kéo dài nhiều năm sau nữa mới khống chế được nó.

Và hình như bệnh tật luôn theo đuổi con người như hình với bóng. Con người qua mọi thời đại cứ xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và mỗi thời đại đều có những căn bệnh gọi là bất trị. Rồi cũng có những loại bệnh tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở lại lợi hại hơn xưa với tên gọi mới dầu vẫn chỉ là dịch bệnh lây nhiễm như Covid hôm nay!

Lời Chúa hôm nay kể lại việc Ðức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Ðức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.

Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x. Ds. 5, 3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Ðức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.

Đây cũng là phong cách của Chúa Giê-su. Ngài luôn tất bật phục vụ mà không cần nghỉ ngơi. Cả ngày dường như Ngài dành trọn cho Thiên Chúa và tha nhân. Ban ngày phục vụ tha nhân. Đêm về Ngài dành cho Chúa Cha.

Thật hạnh phúc cho người ky-tô hữu, qua bí tích Rửa tội chúng ta được xức dầu xua trừ ma quỷ, được chữa lành bệnh tật và được trở nên con cái Chúa. Thiên Chúa đã ghi dấu ấn tín cho chúng ta thuộc trọn về Chúa để từ đây có Chúa sẽ nên thành lũy che chở cho cuộc đời chúng ta.

Nhất là trong thế giới hôm nay vẫn còn rất nhiều các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của quyền lực; vẫn còn các bệnh tật lan tràn đang làm biết bao người khổ đau. Xin Chúa thương chữa lành cho tất cả các bệnh nhận. Đồng thời, xin cho các tín hữu cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền.

Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng phục vụ như Chúa, thì gia đình sẽ hạnh phúc biết bao! Nếu cuộc đời ai cũng sống có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng. Nếu vợ chồng biết hy sinh cái tôi của mình để hy sinh cho nhau thì hạnh phúc sẽ ngập tràn trong mái ấm gia đình.

Thế nhưng, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.

Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen

Về mục lục

ĐỨC TIN VÀ CHỮA LÀNH

Jorathe Nắng Tím

Kinh Thánh Cựu Ước có chuyện ông Gióp ở đất Út. “Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác” (G 1,1). Vì được Thiên Chúa coi là người đầy tớ trung thành, luôn “kiên vững trong đường lối vẹn toàn” (G 2,3), dù rơi vào bất cứ hoàn cảnh nào, nên Xatan ganh ghét Gióp và thưa với Thiên Chúa : “Tất cả những gì người ta có, người ta đều sẵn sàng cho đi để cứu mạng sống mình. Ngài cứ thử giơ tay đánh vào xương vào thịt nó xem, chắc chắn là nó sẽ nguyền rủa Ngài thẳng mặt! ” (G 2,5), và Xatan xin Chúa cho phép thử thách Gióp. Thiên Chúa đồng ý, cho phép Xatan được thử thách Gióp, người tôi tớ trung kiên của Ngài, khi nói với Xatan : “Được, nó thuộc quyền ngươi, nhưng ngươi phải tôn trọng mạng sống nó” (G 2,6).

Gióp là hình ảnh sống động của con người bất hạnh, bởi từ có tất cả phút chốc mất hết, không còn gì ; từ phương phi vạm vỡ biến thành yếu nhược, tiều tụy, xấu xa ; từ danh giá, được trọng vọng trở thành kẻ bị mọi người khinh dể, nhạo cười, xa lánh ; từ dư dả, giầu sang, bạn bè tấp nập ra vào, kẻ hầu người hạ ngày đêm vồn vã bỗng nhiên thành kẻ thiếu ăn, thiếu mặc, cô đơn, sầu tủi, bị xỉ nhục, mắng nhiếc nặng lời.

Hình ảnh “ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi”, vì “Xatan hành hạ khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu” (G 2,7-8) thật rất đáng thương, nhưng cũng đáng sợ, đáng ngán : sợ mắc chứng bệnh quái ác như ông, ngán cảnh đau đớn, nhơ nhớp cùng mình. Chẳng thế mà vợ ông đã bảo ông : Đừng kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa, nhưng “hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!” (G 2,9).

Qủa thực, cơn thử thách của Gióp rất khủng khiếp, nặng nề, đến nỗi ông đã phải đau đớn thốt lên : “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời” (G 3,3), vì “cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao ? Và chuỗi ngày lao lung vất vả, đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công, cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm : “Khi nào trời sáng ?” Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi : “Bao giờ chiều buông?… Lậy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7,1-4.7).

Thực vậy, ông Gióp là người đã chịu mọi thử thách của ma qủy nên thấm thía những đau đớn trên thân xác và đau khổ trong tâm hồn. Ông cho chúng ta thấy mãnh lực áp đảo của sự dữ, bất hạnh trên đức tin và lòng trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa, bởi trước đau khổ, không phải ai cũng trung tín, và hy vọng để nói được như ông Gióp : “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2,10).

Câu chuyện của Gióp đã làm tiền đề cho Tin Mừng hôm nay kể về những phép lạ Đức Giêsu đã làm để chữa mọi kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và bị qủy ám đến với Ngài (x. Mc 1,34).

Nhưng tiếp liền theo trình thuật chữa bệnh, trừ qủy, thánh sử Máccô kể lại: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Simôn vá các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa : “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Người bảo các ông : “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm điều đó. Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ qùy” (Mc 1,35-39).

Theo ngữ cảnh, thì “Mọi người đang tìm Thầy !” được hiểu là nhiều người đau bệnh, tật nguyền, bị qủy ám đang chờ được gặp Đức Giêsu để xin Ngài chữa lành. Nhưng thay vì ra gặp họ để tiếp tục chữa bệnh, trừ qủy theo lời mời của các tông đồ, Đức Giêsu đã trả lời : “Chúng ta hãy đi nơi khác… Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.

Điều này cho chúng ta thấy sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng, loan báo Nước Thiên Chúa đang có mặt, ở giữa mọi người để tất cả nhận được ơn thương xót của Thiên Chúa hầu được sự sống đời đời. Còn những phép lạ chữa lành mọi thứ bệnh tật và trừ qủy Ngài làm chỉ có mục đích cho mọi người biết và tin Ngài là Thiên Chúa, Đấng có quyền trên mọi sự, mọi loài, mọi quyền lực. Nói cách khác, niềm tin vào Ngài là Thiên Chúa mới là điều quan trọng, bởi đức tin mới đem lại ơn cứu rỗi cho chúng ta, trong khi những phép lạ chỉ có mục đích củng cố niềm tin còn yếu kém của chúng ta, như Đức Giêsu đã làm phép lạ cho nước hoá thành ruợu ngon ở tiệc cưới Cana cốt để các môn đệ tin vào Ngài (x. Ga 2,11).

Vì thế, nếu chúng ta chỉ đi đạo để được phép lạ, chỉ yêu mến, phụng thờ Chúa, nếu được Chúa cho khỏi bệnh, buôn may bán đắt, hoạn lộ thênh thang, công danh lên vùn vụt thì đức tin của chúng ta không thể đứng vững khi gặp thử thách, đối mặt với nguy nan, đau khổ, bởi nếu chỉ đòi thấy những dấu lạ mới tin, chúng ta sẽ bị Chúa khiển trách như những người Do Thái yêu cầu Đức Giêsu làm phép lạ năm xưa : “Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna. Qủa thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy” (Lc 11,29-30). Ý Đức Giêsu muốn nói về sự phục sinh của Ngài.

Tóm lại, bệnh tật, đau khổ không chỉ là dấu ấn của thụ tạo có giới hạn, mà còn là hậu qủa của tội lỗi nơi con người. Cũng chính vì thương xót con người, mà Đức Giêsu đã xuống thế làm người để chia sẻ thân phận người và cứu độ con người bằng sự sống, sự chết và phục sinh của Ngài để chuộc lại quyền làm con Thiên Chúa của con người, hầu con người được hạnh phúc đời đời trong sự sống của Thiên Chúa. Và đức tin của mỗi người là điều kiện để Lời Hứa cứu độ được thực hiện, đức tin mà Đức Giêsu phục sinh đã dậy cho môn đệ Tôma : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29), vì ông không tin Thầy đã sống lại, mặc dù tất cả anh em môn đệ đều đồng thanh khẳng định : “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” (Ga 20,25), cho đến khi chính Đức Giêsu phục sinh hiện ra và bảo ông : “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27).

Và như các thánh Tông Đồ năm xưa, chúng ta khiêm tốn và tín thác thưa với Đức Giêsu : “Lậy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5).

Về mục lục

NGÀY SỐNG CỦA CHÚA GIÊSU

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu: khởi đầu là cầu nguyện, tiếp đến là rao giảng và chữa lành bệnh tật thể xác cũng như tâm hồn. Ngày sống của Chúa Giêsu như khuôn mẫu để cho chúng ta nhìn lại nhịp sống thường ngày của chính mình.

Quan trọng hơn hết là cầu nguyện. “Từ sáng sớm… Ngài đi ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện”. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Ngài là con người của mọi người, nhưng trước hết Ngài là người Con của Thiên Chúa. Ngài cần có không gian và thời gian yên tịnh để sống riêng tư một mình. Ngài cần sống bên Cha để tỏ bày về gánh nặng công việc, về những đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan. Người cần Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng. Ngài cầu nguyện vì khao khát được kết hiệp mật thiết với Cha. Để rồi từ Cha, Ngài đi ra với mọi người, và từ mọi người, Ngài lại trở về bên Cha, như một vận hành liên tục để kín múc và chuyển thông sự sống mới cho con người.

Cầu nguyện cần thiết đối với Chúa Giêsu như thế, huống chi đối với chúng ta, những con người luôn yếu đuối mỏng giòn. “Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện. Không cầu nguyện, dù có làm phép lạ, con cũng đừng tin.” (ĐHV 122). Mọi hoạt động của chúng ta phải bắt nguồn từ cầu nguyện:“Hoạt động mà không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa.” (ĐHV 118). Đây là điều không thể ép uổng, nhưng phát xuất tự con tim yêu mến, để thuộc về Chúa hoàn toàn.

Việc quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừngĐây chính là trọng tâm của sứ mạng mà Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian. Ngài không chỉ rao giảng Tin Mừng mà còn là Tin Mừng. Những ai đón nhận Ngài, thì Ngài cho họ làm con Thiên Chúa (x. Rm 8, 13). Là Kitô hữu, chúng ta cũng đã được sai đi để loan báo Tin Mừng: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20, 21). Mỗi người phải là một tin mừng cho những người chung quanh. Thánh Phaolô đã xác quyết: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Chúng ta có cảm thấy như thế không?

Việc thứ ba là chữa lành“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Lời rao giảng của Chúa còn được thể hiện bằng hành vi yêu thương và chữa lành mọi bệnh tật. Tin Mừng của Chúa có sức giải phóng con người khỏi sự trói buộc của sự dữ và ma quỉ. Chúa Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại, nhưng Ngài không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa, để hướng mọi người đến ơn cứu độ toàn diện mà Ngài sẽ thực hiện trong biến cố tử nạn và phục sinh. Là môn đệ, chúng ta cũng phải trở nên hình ảnh sống động của Đức Giêsu trong việc xoa dịu những nỗi đau khổ của bao người xung quanh mình, phải sống với họ hết tình để chứng minh lòng thương xót của Chúa và hướng họ đến sự sống mới trong Ngài.

Điều thứ tư cho thấy Chúa Giêsu – con người của tự do“Chúng ta hãy đi nơi khác… để Thầy còn rao giảng ở đó nữa”. Ngài luôn đi qua, luôn ra khỏi những tình cảm, những thành công, những mến chuộng và tán tụng của người đời (x. Ga 6, 14-15). Ngài luôn vượt trên những thành kiến, những phân biệt, những nghi kỵ, những kỳ thị, những tập tục, những lề thói, và ngay cả những luật lệ tôn giáo và truyền thống dân tộc. Ngài không dừng lại ở một địa điểm hay thành trì nào, không bám trụ ở một vị trí hay vai trò nào, không bám lấy chức tước hay địa vị nào. Ngài buông lơi tất cả, đi qua tất cả, ra khỏi tất cả, vì Điểm Hẹn cuối cùng của Ngài là trên “đồi vinh quang” của tự do, để mang đến tự do cho con người. Theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng là những con người của tự do: tự do để yêu thương, để phục vụ và hiến thân mình, làm cho ơn cứu độ của Thiên Chúa được lan rộng đến mọi người.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Cuộc sống con vẫn ồn ào náo nhiệt,
con vẫn bị mê hoặc bởi cái “tôi”,
với những sục sôi nhiều ham muốn.

Con cần trở về trong thinh lặng,
để sống với Chúa trong yên bình,
để thấy rõ chính mình trong yên tĩnh.

Thiếu thinh lặng để gặp Chúa,
tâm con sẽ bồn chồn manh động,
và bung xung theo những thói thị phi.

Thiếu yên lặng để nghe Chúa,
con sẽ bị cuốn theo phù du thế tục,
cũng ham mê những điều phàm tục.

Thiếu trầm lặng để sống thuộc về Chúa,
con sẽ sống như bao người đang sống,
dễ vong thân xa lạc với chính mình.

Thiếu tĩnh lặng để kín múc thần lực,
con sẽ như muối không còn mặn,
như men không còn nồng,
như hạt giống vẫn trơ trơ.

Thiếu bình lặng để quy hướng về Chúa,
con sẽ luôn hối hả và đon đả,
lo chạy tìm những cái trong thiên hạ,
cứ ngỡ là vinh hoa, ai ngờ bả phù hoa.

Xin cho con biết quí chuộng thinh lặng,
là sự đều đặn mỗi ngày kề bên Chúa,
để từ đó con đến với mọi người,
đem lại sự sống mới thật thắm tươi,
là chính sự sống của Tin Mừng,
mà đời con đã trở nên nhân chứng,
để Chúa được tuyên xưng khắp mọi nơi. Amen.

Về mục lục

SỐNG VỚI CHÚA

Bông hồng nhỏ

 Một ngày làm việc của Chúa Giêsu diễn ra thật tuyệt vời. Sau khi rời khỏi hội đường, Thầy Giêsu ghé thăm nhà ông Simon, có hai ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đến nơi, người ta nói với Thầy về tình trạng của mẹ vợ ông Simon: bà đang lên cơn sốt. Không chần chừ, Thầy Giêsu đến ngồi cạnh bà, đỡ bà dậy. Lập tức, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. Thầy Giêsu không chỉ thuyết phục người khác bằng lời giảng dạy nhưng còn bằng chính hành động đầy yêu thương.

Chiều đến, người ta kéo đến đầy nhà, ai cũng muốn được gặp Thầy, ao ước được Thầy chữa cho lành bệnh. Trước những con người bệnh tật ấy, Thầy Giêsu chạnh lòng thương họ. Người đã chữa lành bệnh và trừ nhiều quỷ. Ai cũng thán phục Thầy. Quả thật, Thầy đã giải thoát họ khỏi nỗi khổ đau vì bệnh tật, khỏi tội lỗi và khỏi quyền lực của Satan. Được đến với Thầy, họ chẳng còn phải lo lắng hay sợ hãi gì cả. Bởi đó, người ta mong giữ Thầy lại.

Sáng sớm, khi trời còn tối mịt, Thầy đã đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện. Không thấy Thầy đâu, mọi người đều nhốn nháo. Ai cũng nóng lòng được gặp Thầy. Thế rồi ông Simon và các môn đệ khác kéo nhau đi tìm Thầy. Thầy đang ở đâu, phải kiếm Thầy cho kỳ được. Dân chúng say mê nghe những lời giảng dạy tuyệt vời của Thầy, họ ngưỡng mộ Thầy, biết ơn Thầy. Ai ai cũng yêu quý Thầy. Tìm được rồi, các ông thở phào nhẹ nhõm. Thầy lạ quá. Thầy đến nơi hoang vắng này để cầu nguyện. Thầy muốn rời khỏi sự ồn ào, sự hồ hởi, sự quấn quýt của những người hâm mộ. Thầy chỉ muốn dành một chỗ thật riêng tư để tâm sự cùng Chúa Cha. Thầy đã đến đây là vì vậy.

Trong mỗi ngày sống, ta có muốn dành một khoảng thời gian thật riêng tư để ở lại cùng Chúa không? Trong những lúc quá bận rộn với nhiều công việc, ta có dành giờ để nạp năng lượng thiêng liêng cho trái tim của mình không? Hãy nhìn, hãy nghe, hãy để tâm suy nghĩ về những gì Chúa nói với ta. Ta hãy vội vã chạy đi tìm Chúa như các môn đệ ngày xưa, để khi ở trong Người, ở bên Người, ta sẽ được Người chỉ cho biết phải làm sao. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc xung quanh để rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy được sai đi cốt để làm việc đó” (Mc 1,38). Có những lần ta bị cám dỗ ở lại trong thành công, ở lại nơi vùng an toàn: đó là một công việc ổn định, được nhiều người biết tới, nhiều người yêu thương… Thật khó để có thể rời bỏ nơi ấy, vùng an toàn mà ta đã vất vả mới có được. Nỗi lo lắng, sợ hãi trước những thách đố của “vùng đất mới” khiến ta chùn bước. Hãy lắng nghe xem Thầy Giêsu muốn ta làm gì.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con được cộng tác với Ngài trong sứ vụ mới. Xin Chúa ban Thánh Thần tình yêu soi chiếu tâm hồn con để con luôn sẵn sàng với mệnh lệnh Chúa truyền ban. Amen.

Về mục lục

HÃY SỐNG TÍCH CỰC

Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

Cuộc khủng hoảng do dịch bệnh Covid-19 gây ra đang khiến cho bao người, bao gia đình điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp phá sản. Nhiều người mất việc làm. Không có việc làm, cuộc sống vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn. Chắc hẳn những chuyên gia kinh tế thế giới đang cố gắng tìm một giải pháp tốt nhất để giải quyết khủng hoảng. Là những môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta có thể làm gì để giải quyết cuộc khủng hoảng này?

Có một câu chuyện tôi đọc được trên báo kể về trường hợp của một chị phụ nữ khiến tôi cảm thấy thật xót xa. Chị lấy chồng được một người con thì chồng bỏ đi. Giờ với đồng lương quá thấp không đủ nuôi con, chị đã tìm đến với cái chết. Chị không những muốn kết thúc cuộc đời của chị mà cả đứa con nhỏ nữa. Chị đã cho nó uống thuộc độc để cả hai mẹ con cùng đi về thế giới bên kia của loài người. Cái chết như là giải pháp cuối cùng để chấm dứt khủng hoảng. Tôi hình dung ra nhiều người cũng đang rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Cũng giống như trường hợp của Gióp trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Ông nhìn vào cuộc đời và chỉ thấy một màu xám ngắt. Chẳng có chi hạnh phúc. Chẳng thấy một tia hy vọng. Chúng ta hãy nghe những lời lẽ của Gióp:

Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ (G 7, 6-7)

Con người khi đứng trước cuộc đời nhiều bất công và đau khổ thường hay có thái độ hoặc là muốn chấm dứt cuộc đời, hoặc là để mặc cuộc đời trôi dạt về đâu. Thế nhưng tất cả những thái độ đó đều không phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô. Bài tin mừng hôm nay cho tôi một tia sáng để tìm ra một giải pháp cho cuộc khủng hoảng, một hướng đi cho cuộc đời.

Chiêm ngắm Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, tôi thấy dường như Chúa nói với tôi rằng hãy sống tích cực con ạ. Đừng ngồi đó mà than thân trách phận. Đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Đừng thất vọng đến mức tự hủy hoại đời mình. Làm như thế là hèn lắm. Sống mới khó còn chết thì dễ thôi con ạ. Hãy thắp lên một ngọn nến để soi tỏ đường con đi và cho người khác cùng đi. Ta hãy xem Chúa Giêsu làm gì trong một ngày sống. Một ngày của Chúa thật bận rộn. Người tới Hội đường giảng dạy. Giảng xong, Người tới chữa bệnh cho bà mẹ vợ của Simon Phêrô. Chiều tối, Người lại chữa đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền. Rồi sáng sớm tinh sương, Người đã thức dậy cầu nguyện. Và khi các môn đệ đi tìm Chúa, Người nói với họ tiếp tục lên đường để loan Tin Mừng cho những thành khác. Chúa dường như không có giờ để nghỉ ngơi, không có giờ để mà buồn chán. Người chữa lành những vết thương cả thể xác lẫn tâm hồn của con người. Người muốn đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc. Tất cả những ai gặp được Người đều được chữa lành. Chúa cũng bảo với tôi: con hãy đi và làm như vậy. Nhưng trước khi lên đường, Người bảo tôi hãy cầu nguyện. Hãy dành những giây phút đầu ngày và cuối ngày để ngước nhìn lên cao. Hãy thinh lặng để sức mạnh của Chúa đổ đầy vào trái tim ta. Tự sức ta sẽ chẳng làm được việc gì. Tôi tự hỏi tại sao những môn đệ của Chúa ngày hôm nay không đủ sức chữa lành, không đủ sức xoa dịu những nỗi đau của người xung quanh? Và câu trả lời đó là vì họ thiếu cầu nguyện.

Nhìn ra thế giới xung quanh, tôi cũng thấy tương tự như vậy. Con người chỉ lo đi tìm kiếm vật chất, còn linh hồn thì không được quan tâm đủ mức. Truyền thống của cha ông ta thật sâu sắc. Ngày tết có cả bánh chưng và bánh dày. Bánh chưng tượng trưng cho đất, còn bánh dầy tượng trưng cho Trời. Trời tròn đất vuông theo quan niệm dân gian. Cha ông ta muốn dạy chúng ta rằng con người đầu đội trời, chân đạp đất nên luôn phải có đủ hai yếu tố đó. Trong khi mưu sinh, phải lo tìm kiếm những gì thuộc cõi trời cao. Con người không chỉ là một mớ vật chất mà còn có một chiều sâu tâm linh thăm thẳm. Và để nuôi dưỡng cái chiều sâu ấy, ta chỉ có một con đường là chìm vào cõi lặng. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay mà học đòi bắt chước. Từ sáng sớm, Người đã chìm vào cõi lặng. Ở đó, ta gặp được chính nguồn mạch sự sống và bình an. Từ nguồn mạch ấy, ta sẽ có đủ sức mạnh để lên đường. Ta sẽ sống một cách tích cực và phong phú hơn. Ta sẽ có thể chữa lành những nỗi đau nơi tâm hồn và thể xác của tha nhân. Xung quanh ta, cuộc khủng hoảng đang bao trùm. Là môn đệ của Chúa, ta được mời gọi hãy làm một cái gì đó. Hãy làm một cái gì đó, nhỏ thôi, đi từ tình thương yêu con người. Hãy bắt đầu! Đừng chờ đợi bởi ta sẽ không biết phải đợi đến bao giờ.

Lạy Chúa, xin cho con có thái độ sống tích cực, để con có thể đem Tin Mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người bởi vì như Thánh Phaolô nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,17).

Về mục lục

ĐỠ DẬY

Lm Vũđình Tường

Cùng đi với Đức Kitô có ông Gicacôbe and Gioan, thăm gia đình mẹ vợ ông Simon. Bà bị bệnh sốt liệt giường. Đức Kitô cầm tay bà nâng bà dậy và bệnh sốt liền biết mất, và bà phục vụ Đức Kitô và phái đoàn. Việc bà phục vụ các ngài cho biết tình trạnh bệnh tật của bà biến mất, bà khỏi hẳn, mạnh khoẻ như trước. Bà không cần phải nghỉ, tỉnh dưỡng, cho lại sức, nhưng có thể làm việc ngay. Có lẽ bà là người nấu ăn ngon nhất nhà, và bà đã làm công việc chuẩn bị bữa ăn cho toàn gia đình. Đức Kitô coi trọng việc phục vụ tha nhân, Ngài coi đây là một trong những công việc mục vụ chính trong cuộc đời Ngài công khai rao giảng. Chính Ngài xác nhận, ‘Ta đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ’ Mk 10,45. Phục vụ trở thành ‘biểu tượng’ môn đệ Đức Kitô. Biểu tượng này giúp người ta nhận biết các ngài môn đệ Đức Kitô. Các ngài tự nguyện phục vụ tha nhân.

Từ ‘nâng dậy, đỡ dậy’ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ. Nhân loại sa ngã do tội bất phục tòng gây nên thời tổ phụ Adong. Đức Kitô xuống thế, giải thoát, nâng con người lên, trở về tình trạng nguyên thủy, thời khởi đầu Chúa tạo dựng con người. Những ai tin theo, Đức Kitô ban cho cuộc sống mới, biến họ trở thành Kitô hữu. Ngài nâng đỡ từng người một và cuối cùng cứu độ, nâng toàn thể nhân loại đứng dậy, làm hoà cùng Thiên Chúa.

Một hôm có viên sĩ quan tên Jairus đến xin Đức Kitô chữa bệnh cho con gái ông đang hấp hối tại nhà. Khi ông còn đang nài van thì người nhà đến báo tin buồn là. Đừng làm phiền Đức Kitô nữa, con gái ông đã chết. Đức Kitô an ủi ông, ‘Đừng sợ, vững lòng tin thì sẽ được’ Mk 5,36. Ngài vào nhà ông, ‘Người cầm lấy tay nó và nói. Này bé, Thầy truyền cho con trỗi dậy’ Mk 5,41. Cháu bé đứng dậy đi lại bình thường như chưa hề mắc bệnh. Đức Kitô ban cho cháu bé cuộc sống mới, bởi lòng tin vững chắc của cha cô. Chính Đức Kitô cũng chỗi dậy từ cõi chết sau ba ngày chôn cất trong mồ. Đức Kitô đỡ con người dậy, còn chính Ngài thì Ngài chỗi dậy, không cần ai nâng dậy.

Đoạn Phúc Âm hôm nay cho biết Đức Kitô nâng bà mẹ vợ ông Simon dậy mang í nghĩa thể chất, và í nghĩa tâm linh. Về phương diện thể chất, bà hoàn toàn bình phục. Về phương diện tâm linh, bà trở thành môn đệ Đức Kitô. Có lẽ bà là người phụ nữ đầu tiên trở thành môn đệ Đức Kitô. Điều này thể hiện qua việc bà hãnh diện được phục vụ Đức Kitô và phái đoàn. Tâm hồn bà hân hoan, tràn ngập niềm vui vì được hạnh phúc đón Đức Kitô vào trong gia đình bà. Đây là một thiên ân Đức Kitô dành riêng cho gia đình mẹ vợ ông Simon. Từ một bệnh nhân thành người mạnh khoẻ, từ kẻ xa lạ trở thành thân hữu trong nhóm của Đức Kitô, từ một người ít ai biết đến bà trở thành người toàn thế giới biết đến về hành động bác ái. Về cuối đời bà còn được Đức Kitô đón nhận vào nước Thiên Chúa hằng sống. Đức kitô có hai nhóm môn đệ. Nhóm thứ nhất cùng Ngài đi nơi này, nơi khác, nghe Ngài giảng dậy và chữa bệnh. Nhóm thứ hai là các môn đệ không cùng đi đây đó với Đức Kitô nhưng ở tại nơi họ đang sống. Đại đa số chúng ta thuộc nhóm thứ hai.

Bệnh tật gây khổ đau cho con người, nhất là những gia đình nghèo khó. Khi có người nhà mắc bệnh, tình trạng kinh tế gia đình khủng hoảng, chạy tiền, mang công, mượn nợ có tiền chạy thuốc. Người đó đã không tiếp tục sinh hoạt bình thường, còn cần người mạnh khoẻ chăm sóc. Mọi sinh hoạt từ gia đình, đến xóm làng, đến cộng đoàn đều đình trệ. Đôi khi bệnh nguy hiểm còn tạo nên mối lo cho toàn làng.

Chữa bệnh và khai trừ ma quỷ là hai công việc Đức Kitô thực hiện trong lúc rao giảng. Khi chữa bệnh cho ai, Đức Kitô đụng chạm vào người đó. Tuy nhiên khi trừ ma quỉ, Đức Kitô không đụng chạm đến, nhưng ra lệnh cho ma quỉ xuất khỏi người và chúng vâng phục Ngài. Dù Ngài không đụng chạm đến ma quỉ mà kẻ chống đối Ngài cũng có lần khoác lác, ma quỉ vâng phục Đức Kitô vì Ngài là tướng quỉ. Điều vu khống, bịa đặt trên hoàn toàn do tưởng tượng mà ra, không hề có một chút sự thật nào. Đức Kitô đã không đụng chạm đến ma quỉ và Ngài còn ngăn cấm chúng không được mở miệng. Xua đuổi ma quỉ chỉ là bước đầu trong chương trình cứu độ. Bước cuối cùng là tiêu diệt sức mạnh đen tối của chúng. Chính ma qủi nhận biết điều này nên chúng than khóc, kêu la,‘Ông Giesu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi’ Mk 1,24.

Đức Kitô loan báo ‘Nước Trời đã đến gần’. Nước trời đến gần là tin vui, tin khải hoàn, chiến thắng cho môn đệ Đức Kitô, và những ai yêu mến Ngài. Nước trời đến gần lại là tin buồn, tin chết, cho ma quỉ, chúng sắp bị tiêu diệt. Nước trời đến gần lại gây khủng hoảng, thất vọng cho những kẻ chống đối Đức Kitô.

Là môn đệ Đức Kitô chúng ta chung lời cảm tạ ơn trường sinh Ngài ban, và cùng giúp nhau tiến về nhà Cha khi cuộc đời trần thế hoàn tất.

Về mục lục

MỘT NGÀY MỚI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Ngày ra mắt tại hội đường ở Caphanaum, Chúa Giêsu đã biểu lộ uy quyền trong lời giảng dạy và chứng tỏ quyền năng trong việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ. Sau đó, ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu đi về nhà ông Simon. Ở đây, bà mẹ vợ ông Simon đang bị cơn sốt nên nằm liệt giường. Lập tức họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy”. Cách xử sự của Chúa Giêsu hoàn toàn khác khi đuổi thần ô uế; Ngài ân cần “lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy”. Hiệu quả tức khắc: “cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”. Uy quyền của Chúa Giêsu không chỉ biểu lộ trong hội đường mà ngay trong nhà, không chỉ đuổi thần ô uế mà xua tan được cả cơn sốt.

Tiếng vang truyền đi rất nhanh. Đoạn kết Tin Mừng tuần trước: “lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê”.Vì thế “người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai”.

Chúa Giêsu như bị cả một đoàn người đau thương và bần khốn vây quanh; họ đặt niềm hy vọng nơi Ngài. Và Ngài đã ra tay giúp đỡ.Vì thế, dân chúng muốn giữ Ngài lại để luôn luôn họ có sự trợ giúp của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không để cho người ta cầm giữ lại. Ngài biết rằng nhiệm vụ của mình không phải là trợ giúp thường xuyên dân Caphácnaum, nhưng là loan báo trong toàn miền Galilê rằng Triều Đại Thiên Chúa đã gần kề.

  1. Một Ngày Mới

“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”.

Bắt đầu một ngày mới. Ưu tiên số một của Chúa Giêsu là cầu nguyện, sau đó là công việc rao giảng và chữa lành bệnh tật cho dân chúng. Đó là khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong nhịp sống thường ngày.

a/ Cầu nguyện:

“Sáng sớm, Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện”. Suốt ngày lo toan với bao nhiêu là công việc, tiếp xúc đủ thứ hạng người, Chúa Giêsu dành buổi sáng tinh mơ để tâm sự trao đổi với Cha. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Ngài cần có thời gian sống riêng tư một mình. Ngài cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan. Ngài thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng. Ngài cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Cha. Một ngày mới khởi đầu như thế để múc nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.

b/ Rao giảng

Việc quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừng “Ngày Sabát, Chúa Giêsu vào hội đường giảng dạy” (1,21). Người  đọc Sách Thánh và giải nghĩa: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (1,22). Cả phương pháp và bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một sự mạc khải mới mẻ. Chúa giảng với một uy quyền vượt xa các luật sĩ kinh sư thời đó. Chúa giảng như Đấng có thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Chúa hoàn toàn độc lập khi giảng dạy. Ngài không trích dẫn, không dựa vào thế giá một chuyên viên nào. Vì thế, giáo lý của Chúa mới mẻ, người nghe đón nhận như luồng gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới, lòng người cảm mến hân hoan, tâm hồn rộng mở hướng về trời cao với Chúa Cha.

c/ Chữa lành thể xác tâm hồn.

Lời giảng dạy thể hiện bằng hành vi yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục: “Ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon… Bà nhạc của ông Simon đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”. Chúa Giêsu làm một cử chỉ thân ái là cầm lấy tay bà và nâng dậy, như có lần Người cầm tay đứa con gái ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (Mc 5,41), lần khác Người cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (Mc 9,27).

“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Căn nhà ông Simon nhỏ hẹp, các bệnh nhân phải đứng thành nhiều vòng bên ngoài chờ đợi đến lượt mình. Tất cả đều được Chúa chữa lành.

Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng có cùng một cảm nghiệm đó khi nói: “Chính Người chữa những kẻ dập nát tâm can, và băng bó vết thương tâm của họ”. Thánh Phêrô trong sách Công vụ Tông đồ cũng đã làm chứng: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,38).

Bệnh tật đeo đuổi con người như hình với bóng. Người ta tìm ra phương cách chữa được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện. Càng ngày nhiều căn bệnh mới càng khó trị và bất trị cho dù y học hiện đại tiến bộ vượt bậc. Chúa Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Ngài không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.

  1. Chúa Giêsu tiếp tục lên đường

Sau một ngày thành công tại Capharnaum với việc giảng dạy, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ, Chúa Giêsu nhận được sự khen ngợi và kinh ngạc của dân thành. Người ta muốn giữ Chúa Giêsu lại cho họ. Thế nhưng Ngài phải lên đường để tiếp tục sứ vụ theo thánh ý Cha: “Hãy  đi  đến những làng, những thành lân cận”. Đây mới là trọng tâm của sứ mạng. Ngài đến không phải để tìm thành công mà để rao giảng Tin Mừng. Ngài không chỉ đến lo cho một số người, mà cho mọi người. Ngài thuộc về mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu biết rằng nhiều nơi khác cũng đang rất cần sự hiện diện yêu thương của Ngài. Như thế, tình thương bao giờ cũng là sự thúc đẩy lên đường và biết mở rộng con tim cho hết mọi người mà không dừng lại ở những vinh quang ca tụng. Do đó, không ai được quyền chiếm hữu và giữ riêng Chúa Giêsu, nhưng có sứ mạng đem Chúa đến cho mọi người.

  1. Cầu nguyện thế nào thì sống như vậy”

Khởi đầu ngày mới bằng cầu nguyện, Chúa Giêsu tìm kiếm và nhận ra thánh ý Chúa Cha muốn gì cho đời sống hoạt động tông đồ của mình. Ngài nhận ra con đường mà Chúa Cha muốn Ngài đi và những công việc mà Chúa Cha muốn Ngài thực hiện. Chính qua việc cầu nguyện, gặp gỡ với Chúa Cha, Chúa Giêsu như tiếp thêm năng lượng cho sứ vụ. Kết thúc một ngày làm việc bằng cầu nguyện, Chúa Giêsu lại đặt trọn công việc đã làm và cả ngày sống của mình cho Thiên Chúa Cha.

Một ngày sống của Chúa Giêsu đầy ắp những hoạt động vì con người, nhưng cũng không thiếu những phút giây sâu lắng bên Chúa Cha. Hoạt động và cầu nguyện là hai nhịp luôn đong đưa, hòa quyện, làm thành cuộc sống sung mãn của Chúa Giêsu nơi thế trần. Một ngày làm việc của Ngài với bao vất vả, nhọc nhằn nhưng lại làm vơi đi đau khổ và đem niềm vui đến cho nhiều người. Theo gương Chúa Giêsu, mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi hãy biết sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa, dành thời gian cầu nguyện với Chúa; đó là động lực để thúc đẩy chúng ta dùng thời gian có ích cho tha nhân bằng đời sống yêu thương và phục vụ.

Một ngày mới của Chúa Giêsu đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu nói đến đời sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725).

Các phóng viên rất thắc mặc tại sao Mẹ thánh Têrêsa Calcutta lại có thể làm được những việc mà nhiều người khác không thể làm được ? Ngay từ sáng sớm cho đến chiều tối, có những ngày quên ăn quên ngủ, Mẹ Têrêsa cùng với các chị em trong Dòng đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm của thành phố Calcutta để tìm kiếm những người đau yếu, bệnh tật, bị bỏ rơi. Có nhiều lần Mẹ đem về nhà những người nằm dưới cống hoặc bị bỏ bê lâu ngày hôi thối, bẩn thỉu, bị mọi người tránh xa. Mẹ ôm những người ấy vào lòng, đem về đặt trên gường của mình để săn sóc. Mẹ giải thích : Vì tôi muốn họ được chết như một con người chứ không như con vật. Khi được hỏi tại sao Mẹ và các chị em của mẹ có thể làm được như thế ? Mẹ trả lời : Một ngày của chúng tôi được bắt đầu từ Thánh lễ. Chính từ Thánh Thể, chúng tôi có nguồn sức mạnh và có nguồn năng lượng cho một ngày làm việc. Các chị em trong Dòng chúng tôi mỗi ngày có ít nhất một giờ bên Thánh Thể Chúa, đó là sức mạnh cho chúng tôi. Cuộc sống thiêng liêng của người tín hữu cần phải được thường xuyên nạp năng lượng thì mới có thể sống và hoạt động tốt được.

Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.

Về mục lục

SỐ KIẾP LẬN ĐẬN

Trầm Thiên Thu

Kiếp Thế Nhân Lắm Gian Truân Khốn Khổ

Tình Thiên Chúa Hằng Bổ Dưỡng Yêu Thương

Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Còn người ta có câu nói “cửa miệng” thế này: “Đời là bể khổ.” Thật vậy, ai cũng cất tiếng khóc chào đời khi sinh ra. Chào đời là vui mà không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài như phần cứng đã cài mặc định?

Thánh Vịnh gia đã than thở: “Bước đường con lận đận, chính Ngài đã đếm rồi. Xin lấy vò mà đựng nước mắt con.” (Tv 56:9) Nước mắt quá nhiều, khăn thấm không hết mà phải lấy vò đựng, chắc chắn như thế thì khổ lắm!

Là một hoàng tử sống sung sướng an nhàn, nhưng ông Thích Ca Mâu Ni đã “giác ngộ” sau khi quan sát bốn cửa thành và thấy người dân đau khổ quá. Ông nhận thức: “Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ.” Phật giáo có bốn chân lý cao cả làm nền tảng, đó là Tứ Diệu Đế hoặc Tứ Thánh Đế: Khổ đế (chân lý về sự đau khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).

Hằng ngày, đau khổ y như ma quỷ, cứ “ám” chúng ta không ngừng. Nhưng hơn thua nhau ở cách xử lý: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm. Người bi quan phàn nàn về cơn gió. Người lạc quan hy vọng gió đổi chiều. Người thực tế tìm cách chỉnh cánh buồm.” (William Arthur Ward, 1921-1994, Mỹ) Dù sao cũng phải cố gắng, chắc chắn không thể tránh né!

Thật vậy, nỗi khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương khi người ta chịu “vòng kim cô” đau khổ. Đau khổ xuất hiện mọi nơi: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu cho khỏi, càng tránh thì càng đau khổ, càng diệt khổ càng thấy khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách “đi xuyên qua nó,” tức là coi nó như không có, sẵn sàng chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23)

Đau khổ là mầu nhiệm. Mặc dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn phải chịu đau khổ. (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; Lc 17:25) Ngài chịu đau khổ để cứu độ nhân loại. Đau khổ của chúng ta cũng có giá trị nếu kết hợp với đau khổ của Ngài.

Từ khi Nguyên Tổ nghe lời đường mật của xà tinh, mọi nơi và mọi lúc đều thấy có đau khổ. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu. (St 6 :5-6) Ngài không tạo điều ác bởi vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng của con người gây ra sự dữ – tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết. (x. Gc 1:13-15) Đó là quy trình của đau khổ trên thế gian này. Tại mình chứ chẳng tại ai!

Mdc rất tốt lành, nhưng ông Gióp vẫn chịu đau khổ, và là hiện thân của đau khổ. Ông nhận xét: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’ Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’ Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4) Con người cứ thao thức cả đời, hầu như không được thảnh thơi, rồi lại lo sợ, rồi hoang mang,… Cứ thế và cứ thế, kiếp người chịu đủ thứ đọa đày, lận đận suốt kiếp. Cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng. Đúng là khổ thật!

Có vẻ như ông Gióp cảm thấy thất vọng, rồi hầu như tuyệt vọng, nhưng ông vẫn cầu xin tha thiết: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.” (G 7:6-7) Buồn quá! Não nuột quá! Thê thảm quá! Tuy nhiên, chịu đau khổ mà lại là may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, có thể còn tệ hại hơn là chịu đau khổ.

Con người nhiêu khê lắm. Cái mình bảo là hên nhưng có khi lại chỉ là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên, giống như Tái Ông mất ngựa vậy. Tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài mà thôi. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Israel tản lạc về.” (Tv 147:1-2)

Là Đấng giàu lòng thương xót, Thiên Chúa đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người khác chịu mất mát, đau khổ. (Lc 11:35) Và Kinh Thánh xác định: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen.” (Tv 147:3-6) Thiên Chúa của chúng ta luôn động lòng trắc ẩn, nhất là đối với những người hèn mọn. Là người đời bình thường mà người ta còn biết nhận xét: “Cánh cửa này khép lại, cánh cửa khác mở ra.” Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc bí lối giữa mê cung đau khổ suốt đường lữ hành hằng ngày.

Thánh Phaolô vẫn kiên trì trong mọi gian khổ và tự nhủ: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16) Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Ông lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người.” (1 Cr 9:15-19) Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận và tự nguyện chịu đau khổ. Kiểu “ngược đời” rất độc đáo!

Nói và làm thật, chứ không nói suông. Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.” (1 Cr 9:22-23) Can đảm thì chắc chắn có phúc.

Có bốn “mũi dùi” luôn chĩa vào con người là Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Lận đận mà không than thân trách phận thì người đó thực sự can đảm, có “sức mạnh” hơn người khác. Trình thuật Mc 1:29-39 (Mt 8:14-17; Lc 4:38-44) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một trong bốn “mũi dùi” đó.

Khi Chúa Giêsu ra khỏi hội đường Caphácnaum và đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê, cùng đi còn có ông Giacôbê và ông Gioan. Đó là hai “cặp bài trùng” được Chúa Giêsu gọi làm môn đệ đầu tiên. Hôm đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. Thật tuyệt vời đối với cả người chữa lành và người được chữa lành.

Tin tức được người ta đồn rất nhanh. Khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử Máccô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa.” Ôi, thế thì đông lắm, đông như kiến như cỏ, chắc chắn ai cũng muốn chứng kiến “sự lạ” tận mắt. Hôm đó, Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng Ngài cấm quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì chưa đến lúc, chưa cần thiết.

Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện là việc làm thực sự rất cần thiết, nhất là khi mới thức dậy vào buổi sáng. Không thấy Thầy đâu, ông Simôn và các bạn cùng đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Ôi, tìm làm gì mà sớm vậy nhỉ?

Chúa Giêsu nghe đệ tử nói vậy thì nói với họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và hành động. Ngài với các môn đệ đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ. Ngài diệt khổ cho những người đang phải chịu khổ. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được điều đó.

Con người chẳng là gì nhưng lại rất chảnh – vừa hợm mình vừa giả hình, thế nên cứ tự chuốc lấy những thứ sai lầm. Vì sai lầm mà phạm tội, vì tội lỗi mà đau khổ. Cứ lận đận, lụi đụi thế mà vẫn cố chấp. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung khắc giữa anh em.” (Cn 6:16-19) Khi nào tránh được ảo tưởng thì không bị ảo giác, nghĩa là chúng ta thoát sai lầm, không sai lầm thì không vướng tội, tránh được tội thì khỏi khổ. Mong thay!

Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng cuộc đời các ngài rất lận đận, từng đau khổ nhiều – tinh thần hoặc thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều. Đau khổ có giá trị đặc biệt!

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp con ý thức và nhận thức để biết giá trị của đau khổ. Con không xin thoát khỏi đau khổ nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc con trong đau khổ, xin tăng lực cho con, vì sáng danh Ngài, để cứu các linh hồn, cầu cho Giáo Hội, cho thế giới, cho mọi người, và đền tội con. Xin giúp con sống đúng bổn phận và can đảm hành động theo khả năng Ngài ban cho. Con chân thành cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SỐNG HẾT MÌNH

Lm. Jos DĐH.

Truyện cổ “Cây tre trăm đốt”, là một minh chứng: sự thiện thắng sự ác. Anh nông dân hiền lành chất phác, mẹ cha mất sớm, nhà phú hộ xí dụ anh đến làm người giúp việc cho ông. Ông phú hộ lợi dụng người đầy tớ tốt lành, ông hứa sẽ gả con gái cho, nếu mày chăm chỉ làm việc. Ngày qua ngày, anh nông dân làm việc “cật lực” từ sáng tới tối, không lương bổng, bữa no bữa đói, hết sức tội nghiệp. Cho đến một ngày kia, ông gả con gái cho nhà phú hộ ở làng bên cạnh, ông gọi anh đầy tớ và bảo: mày hãy rừng sâu tìm cho ta “cây tre trăm đốt” mang về đây, ta sẽ gả con gái ta cho. Người nông dân thật thà lên rừng tìm kiếm cây tre như ý chủ, nhưng không thể tìm thấy, tủi thân, anh ta chỉ biết khóc mà thôi. Bụt thần đã hiện ra, cho anh ta một câu thần chú, giúp anh hóa giải mọi việc. Đúng là câu truyện được xây dựng trên nền tảng đạo đức: thánh nhân đãi kẻ khù khờ, cũng có ý mời gọi mọi người hãy sống hết mình.

Đồng ý rằng, người xưa đã hết sức cẩn thận khi khuyên dạy con cháu: trèo cao ngã đau, hoặc liệu cơm gắp mắm. Thực tế ở xã hội, người chăm chỉ, nhẫn nại, ít nhiều vẫn có quyền mơ tới một kết quả đẹp nhất như câu thành ngữ: trời nào có phụ ai đâu, hay học thì sang, hay làm thì có. Câu truyện cổ “Cây tre trăm đốt”, ở hiền gặp lành, người ta sống hết tình hết mình, dù không có danh cũng có phận. Với sự đơn sơ chân thành, thánh sử Marcô diễn tả một ngày làm việc của Đức Giêsu thật bận rộn. “Đức Giêsu ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon và Anrê chữa cảm sốt cho bà nhạc gia của họ. Đến chiều muộn, họ vẫn mang nhiều người, nhiều thứ bệnh khác nhau, Đức Giêsu chữa cho họ, xua trừ tà thần, sáng sớm Ngài đến nơi thanh vắng cầu nguyện…”. Vâng, tất cả vì yêu, vì tất cả đều là đối tượng lòng thương xót Chúa.

Một trong những nét đẹp của tình yêu là không tính toán hơn thiệt, không mưu cầu lợi ích cá nhân, dù người ta có chú trọng đến hạnh phúc hiện tại, tương lai, họ vẫn kính nể những ai dám dấn thân phục vụ không màng danh lợi thú. Xét về mặt tự nhiên, đại đa số người ta tìm gặp Đức Giêsu vì được ăn, được nghe, được chữa lành bệnh tật, muốn được xem thấy phép lạ, về mặt tâm linh, vì tình yêu, vì tác động của Thánh Thần, người ta thật hạnh phúc khi gặp được Đức Giêsu. Sống hết mình, tận dụng hết công sức khả năng, chưa chắc đã mang lại sự giầu sang địa vị, nhưng ít là người ta không phải hối tiếc vì thời gian trôi đi một cách phí phạm. Niềm vui, bình an, thành đạt, chắc chắn sẽ để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho hậu thế, do đó: đừng ai thở dài, hãy vươn vai mà sống, bùn ở dưới chân, nhưng nắng ở trên đầu.

Đức Giêsu trở nên vĩ đại dưới cái nhìn của các học trò, các ông vui vì Thầy của họ thật hùng biện với những bài giáo huấn, các ông hạnh phúc bởi Thầy của họ vừa tài vừa đức, chữa trị được các loại bệnh tật. Tình yêu và hoạt động của Đức Giêsu vẫn mãi là lực hút trước mọi đối tượng xã hội, dù là dân đen, là thành phần tri thức, là giáo sĩ tu sĩ, ai cũng có cơ hội để trở nên môn đệ của Đức Kitô, theo khả năng, hoàn cảnh riêng của mình. Sống đẹp trước bổn phận nơi gia đình, sống tốt trước trọng trách là người tín hữu kitô, hay sống nhiệt tâm nhiệt tình với sứ mạng được trao phó, nhất định thiên hạ sẽ nhận biết ta là môn đệ của Thầy Giêsu. Nếu Vị Thầy Giêsu đã thu hút đám đông, đã biến đổi được tâm tính các học trò, đã có ảnh hưởng đến bậc sinh thành của ta, ắt hẳn, là thế hệ con cháu chúng ta hạnh phúc biết bao, khi mỗi người đang sống, đang đặt mình vào vị trí của nhau.

Nét đẹp của đạo làm người: sống tết, chết giỗ, lời nhắc nhớ vừa mang tính biết ơn, trọng tình, trọng nghĩa, vừa nối kết tình hiệp thông với cội nguồn, dù các ngài còn sống hay đã khuất, công đức các ngài sẽ không rơi vào lãng quên. Sự trưởng thành nơi các môn đệ theo Đức Kitô, không phải là các ông biết “vận kế dụng mưu”, đúng hơn là các ông biết mình là ai, các ông nhận biết Thầy Giêsu luôn hiện diện nơi những ai đang vì yêu mà sống hết bổn phận, trọng trách của mình. Nếu ở đời cho rằng: người bi quan để cơ hội chìm vào nỗi khó khăn, người lạc quan biến khổ đau thành cơ hội, người theo Đức Kitô sẽ đủ khôn ngoan để tình yêu và hoạt động, việc làm của ta, luôn theo thánh ý Chúa. 33 năm tại trần thế, Đức Giêsu đã đụng chạm, đã giải thoát, khử trừ sự xấu của tà thần, nhưng vẫn không xuể, Ngài mời gọi các môn đệ và mỗi chúng ta hãy sống hết mình, hãy cùng Ngài tiếp tục làm cho tình yêu của Thiên Chúa là Cha hoàn thiện con người giới hạn của nhân loại tội lỗi chúng ta. Amen.

Về mục lục

CON NGƯỜI KHÔNG CHỈ LÀ MỘT CÁI XÁC

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Trong Chúa Nhật trước chúng ta đã được thánh Marco cho thấy uy quyền trong lời giảng dạy của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã đến để rao giảng cho người ta về mầu nhiệm Nước Trời. Ngài đã đến với sứ mạng để kéo con người lên, đưa con người trở về với Thiên Chúa trong vinh quang Nước Trời. Thế nhưng dân chúng đã hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu. Họ đã mong chờ một vị cứu tinh với nhãn quan trần tục và quẩn quanh trong thân xác ở đời này.

Sứ mệnh của Đức Giêsu

Bài Tin mừng Chúa nhật này nổi lên hình ảnh Đức Giêsu tận tụy xoa dịu những đau khổ của con người. Ngay sau khi chữa người bị thần ô uế ám nơi hội đường Capharnaum, Đức Giêsu đến nhà mẹ vợ của ông Phêrô để chữa bệnh cho bà. “Chiều đến, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Đức Giêsu đã cúi xuống để xoa dịu tất cả các bệnh nhân. Cả một ngày, Đức Giêsu đã làm việc không biết mệt mỏi vì lòng yêu thương dân chúng.

Hôm sau dân chúng lại tiếp tục kéo đến. Thế nhưng người ta đã bắt gặp cách hành xử lạ lùng nơi Đức Giêsu. Đêm đó Ngài đã đi ra một nơi vắng vẻ để cầu nguyện với Chúa Cha. Sáng ra, khi ông Phêrô mời Ngài về để tiếp tục chữa bệnh thì Ngài đã từ chối và lên đường đi nơi khác. Ngài đã không tiếp tục chữa bệnh cho họ ở đó. Phải chăng Ngài không còn thương họ nữa?

Sự thường người ta dễ dàng dừng lại trong vinh quang hiện tại để tận hưởng. Đức Giêsu đang nổi danh và được nhiều người kéo tới với Ngài. Nhưng Ngài không dừng lại với những vinh quang chóng qua ấy. Sứ mạng mà Ngài đến trong thế gian là để nâng con người lên, kéo họ ra khỏi cảnh trầm luân, đưa họ vào trong đời sống mới trong vinh quang vĩnh cửu.

Ông Gióp trong bài đọc thứ nhất đã thốt lên với tất cả trải nghiệm của ông về cuộc đời này: “Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở!” (G 7,6-7). Nếu chỉ quẩn quanh ở đời này thì quả thực cuộc sống nó chẳng là gì. Nó vô nghĩa và trống trơn.

Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng đã khẳng định với dân thành Corintô rằng “Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng” (Cr 1, 22-23). Ngài không tìm vinh quang ở đời này, nhưng là hướng về vinh quang bất diệt, hướng về những giá trị trường cửu.

Bệnh tật yếu đau của con người cần được chữa lành và xoa dịu. Nhưng Đức Giêsu muốn cứu giúp người ta thoát khỏi khổ đau ấy cách tận căn. Ngài muốn kéo người ta ra khỏi sự nô lệ của tử thần, ra khỏi u mê của tội lỗi, ra khỏi bàn tay thống trị của ma quỷ để được trở nên thanh sạch vui sống trong bình an hạnh phúc Nước Trời với Thiên Chúa, cả ở đời này và đời sau.

Sứ mệnh của Đức Giêsu là đưa mọi người trở về với Thiên Chúa trong vinh quang Nước Trời. Thế nhưng dân chúng lại mong chờ những thứ tạm bợ ở thế gian mà thôi.

Dân chúng hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu

Sống trong hoàn cảnh bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, dân Do thái chỉ mong chờ vị cứu tinh đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc. Họ mong chờ có ngày được độc lập, mong chờ một vị vua tài ba lỗi lạc để lãnh đạo dân. Tất cả những gì họ mong chờ chỉ đáp ứng cho đời sống hiện tại ở trần gian.

Họ đã lầm tưởng Đức Giêsu đến để đáp ứng cho họ những chuyện đó mà thôi. Khi thấy Đức Giêsu chữa lành mọi thứ bệnh tật, có uy quyền khiến ma quỷ cũng phải tùng phục, thì dân chúng đã mường tượng ra một vị vua mà họ đang mong chờ. Ngài sẽ cứu họ khỏi đế quốc Rôma, sẽ chữa trị mọi bệnh tật cho họ, sẽ làm vua của họ.

Nếu Đức Giêsu thuận theo dân chúng để rồi họ sẽ tung hô Ngài làm vua; Nếu Đức Giêsu không ở lại với Chúa Cha nơi thanh vắng để bám chặt vào sứ mệnh chính yếu của mình, thì cả thầy lẫn trò đã chìm đắm trong vinh quang trần thế.

Việc Đức Giêsu từ chối trở lại với dân chúng và yêu cầu các môn đệ lên đường đi đến nơi khác đã khiến dân chúng phải tự hỏi Đức Giêsu là ai? Thánh Marco muốn người ta khám phá Đức Giêsu từ từ từng bước, xuyên qua những thực tại trần thế, những việc làm cụ thể của Đức Giêsu để nhận ra khuôn mặt thực của Ngài, sứ mệnh thực của Ngài. Một Đức Giêsu Cứu Thế.

Đến với Đức Giêsu – vị Cứu Chúa

Không phải chỉ những người Do thái năm xưa mới hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu. Ngày hôm nay không ít người vẫn còn đang hiểu lầm về Ngài.

Người ta tìm đến với Đức Giêsu nhưng để học hỏi những điều hay lẽ phải nơi Ngài trong thân phận là con người mà thôi. Với họ, Ngài cũng chỉ giống những hiền giả vĩ đại trong lịch sử như đức Khổng Tử, đức Lão Tử, đức Phật Thích Ca hay như một triết gia vĩ đại nào đó bên trời Tây.

Có những người đến với Đức Giêsu chỉ vì Ngài đã từng làm phép lạ chữa lành bệnh tật ai đó hay giúp họ ăn nên làm ra. Họ đến với Giêsu để cầu mong sự an nhàn thịnh vượng nơi cuộc sống hiện tại mà thôi.

Thậm chí có những người còn nhìn Giêsu như là kẻ ru ngủ nhân loại. Họ tìm cách gạt bỏ Giêsu, gạt bỏ tất cả những ai theo Giêsu. Đối với họ, Ngài là hiểm hoạ cho nhân loại nên phải đóng đinh Ngài vào cây thập giá mà treo lên khỏi mặt đất, tách Ngài rời khỏi nhân loại.

Không! Đức Giêsu là vị Cứu Chúa của chúng ta. Ngài đã đến trong thế gian với tất cả lòng yêu mến con người. Tâm hồn Ngài luôn khát khao mòn mỏi mong cứu lấy chúng ta. Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài đã sống thân phận con người để cảm thông nâng đỡ mỗi người chúng ta.

Chúa Giêsu không chỉ cứu giúp, không chỉ chữa lành thân xác chúng ta; không chỉ chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta ở đời này. Ngài muốn kéo chúng ta lên. Ngài muốn chúng ta mở to mắt và nhìn thấy thân phận cao quý của mình mà tiến lên; Ngài muốn con người thực sự trở lại là tác phẩm kỳ diệu của Tạo Hóa. Trên hết, Ngài đưa chúng ta ra khỏi bàn tay của tử thần và đưa tất cả chúng ta vào đời sống sung mãn, vượt lên trên những bình diện hạn hẹp của cuộc sống này.

Bạn hãy đến với Chúa Giêsu, hãy chiêm ngắm Ngài trong dung nhan là một con người và là Thiên Chúa nữa. Chính Ngài sẽ nâng đỡ bạn. Chính Ngài sẽ cứu vớt bạn khỏi mọi nỗi ô nhục. Chính Ngài sẽ là nguồn bình an và là niềm hy vọng vĩnh cửu cho cuộc đời bạn.

Lạy Chúa Giêsu, vị Cứu Chúa của đời con, xin Ngài cứu lấy con cho khỏi mọi sự dữ và dẫn dắt con tiến về Trời cao.

Về mục lục

MỘT ĐỜI THƯƠNG CẢM

Nguyễn Cao Luật

Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào bốn chữ sinh, lão, bệnh, tử. Đã có ngày đem tiếng khóc chào đời thì cũng có ngày xuôi tay nhắm mắt từ giã cuộc đời. Đã có thời thanh xuân thì cũng có thời già lão.

Đã có lúc khoẻ mạnh sung sức thì cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh. Trước thân phận con người như thế, đã có những thái độ khác nhau, hoặc chấp nhận vì cuộc đời là như thế, hoặc phản kháng vì thấy cuộc đời như vậy là phi lý, là không thể chấp nhận được.

Tiếng kêu thương

Đoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm nay kể được là một trong những đoạn văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ xưa đặt vấn đề về đau khổ của con người. Ông Gióp, một người công chính, lâm bệnh. Vợ con ông bêu rếu, phê bình, bạn bè không thông cảm, một mình đương đầu với bệnh tật và khổ đau không dứt… Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển hình cho bất cứ con người nào đang phải đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngã của cuộc nhân sinh. Người ta vẫn cứ phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái oăm nhất là không phải người ta tự gây ra cho mình. Lại càng khó hiểu hơn nữa khi người ta không có gì đáng phải gánh chịu những khổ đau như thế: chiến tranh, tai hoạ trong thiên nhiên như bão lụt, động đất, những hậu quả do một thiểu số gây ra… tất cả vẫn đang tiếp tục nối dài dòng người đau khổ. Cũng như ông Gióp, rất nhiều khi người ta không thể lý giải được tại sao lại có đau khổ như thế. Nhưng lời than vãn của ông Gióp dầu không giải quyết được những đau khổ riêng của ông, cũng đã nói lên được niềm trông cậy: ông xin Thiên Chúa cứu giúp.

Vị Thượng Tế biết thương cảm

Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa đã hoàn thành. Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, đã đến để cứu chữa những đau khổ nhân loại phải gánh chịu. Khi loan báo Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đương đầu với quyền lực Ác Thần. Và tiếp theo sau đó, Người đã thuyên chữa bệnh tật cho nhiều người trong suốt một ngày. Tác giả Mác-cô trình bày một ngày trừ quỷ và chữa bệnh này như thể đó là ngày mẫu cho một đời thương cảm của Đức Giêsu. Một ngày chữa bệnh cho bà nhạc ông Phê-rô là một đời kiên trì và thương xót Hội Thánh, xua đuổi sức mạnh của Ác Thần ra khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ. Một ngày chữa bệnh cho mọi người chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi chữa trị những khổ đau thể xác và mở mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu thoát.

Nhưng cần đi xa hơn để thấy Đức Giêsu không phải là thầy lang chữa bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải bằng cách dứt khoát loại trừ mọi đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi không còn một khổ đau nào động đến con người nữa. Trái lại, Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta (Is 53,14; Mt 8,17) và dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục… (Dt 5,8). Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ được tại sao Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến cứu vũ trụ và con con người bằng cách dang hai tay ra trên thập giá. Tại sao Đấng cứu loài người khỏi khổ đau và chết chóc lại đón nhận một đau khổ nhục nhã nhất như thế?

Để thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương

“Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người bệnh tật đau khổ, nhưng cũng là một đời không ngừng in sâu hình ảnh phục vụ theo gương Người: hy sinh mạng sống vì người khác. Khi chữa lành bà nhạc của ông Phê-rô, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn những người tin dậy để có khả năng phục vụ theo gương Người.

Đức Giêsu muốn cộng đoàn những người tin tiếp tục công trình loan báo Tin Mừng Người đã thực hiện. Người muốn cộng đoàn ấy nối dài lòng thương cảm của Người cho các người khác. Thánh Phao-lô đã thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng như thế. Người đã trở thành nô lệ mọi người để phục vụ Tin Mừng. Mội tín hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu rằng ngày nay, ta không thể cầm tay một người bệnh và chữa lành người ấy ngay tức khắc như Đức Giêsu đã làm, nhưng ta không phải là không thể dùng lòng thương cảm, một lòng thương cảm mà Đức Giêsu đã kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm cho một người bệnh cảm thấy được an ủi, một người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi sầu, một người hèn kém cảm thấy mình được sống đúng giá trị của một con người. Những khi người ta làm được như vậy tức là ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về Đức Giêsu lại được tiếp tục thực hiện, lòng thương cảm của Đức Giêsu lại tiếp tục tuôn chảy và cộng đoàn những người biết cảm thương như Đức Giêsu lại lan rộng để trở thành một cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa muốn.

 Lời nguyện của người được sai đi

Lạy Chúa,

Việc loài người biết nhận ra Ngài khi Ngài tự trao ban trong nước của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh… điều đó cũng dễ quan niệm được thôi. Nhưng còn việc Ngài lại cũng muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người mà lại qua trung gian của con, thì quả là khó tưởng nghĩ được.

Làm sao con người có thể nhận ra Ngài nơi con, ít ra là làm sao họ lại có thể hiểu ra rằng con là người được Ngài sai đi, là sứ giả của Chân lý Ngài, là kẻ đem lại lòng thương xót của Ngài? Mỗi lần con tự đặt ra vấn nạn này cho mình, thì hình như sứ điệp hạnh phúc mà con thông chuyển lại cho anh em con đã biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè trên chính con.

Thật thế, con biết rõ điều đó. Chính Ngài đã sai con đi. Con là sứ giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Con là sứ giả của Ngài, đã được Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân lý Ngài thì đó không phải là điều làm chân lý Ngài ra suy suyển. Ân sủng của Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân hoan trong Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình. Lòng thương xót của Ngài vẫn bao la mặc dù được biểu lộ qua tấm lòng nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của cõi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho dù ánh sáng ấy phải dọi qua những khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí phàm trần khốn khổ….

Lạy Chúa, Con là người được sai đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài, của Chúa chúng con. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn….

Để đem lại Ánh sáng, để thông chia tình thương, con phải nhóm lên chất dầu của cuộc đời con….

Lạy Chúa,

Xin để cho con biết ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được lòng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đã sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật và hết lòng biết ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy, mỗi khi anh em con sẵn sàng đón nhận con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất chấp sự bất xứng của con. (K. Rahner).

Về mục lục

XIN ƠN CHỮA LÀNH BỆNH TẬT XÁC HỒN

Lm Trần Bình Trọng

Gần đến tuổi xế chiều thì cơ thể con người khó thích ứng được với một số đồ ăn, thức uống và những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài. Do đó cơ thể phát ra những chứng bệnh tật, đau yếu khác nhau. Như vậy thì ta có thể đồng hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, gồm bà nhạc mẫu của thánh Phêrô, vây quanh Chúa để xin được chữa lành bệnh tật.

Hôm nay Chúa đến chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỉ (Mc 1:34) nghĩa là đem lại tự do cho con người. Chúa dùng nhiều cách thế khác nhau để chữa trị bệnh tật loài người.

Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha sĩ, y tá cùng với thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần sự cộng tác của loài người, cùng với thuốc men. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có những trường hợp Chúa không chữa trị loài người khỏi bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử lòng tin và lòng kiên nhẫn của họ. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác với đường lối chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách giữ gìn sức khoẻ như ăn uống, ngủ nghỉ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Vấn nạn ở đây là sự thể đã không xẩy ra như vậy. Có người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà thương lâu ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều người còn phải mang bệnh tật lâu dài. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả của tội lỗi gây ra không?

Hình như Thánh kinh Cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là những tai hoạ xẩy ra cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Ðạo lí nhà Phật thì cho là tại nghiệp chướng: kiếp trước làm bậy thì kiếp sau phải gánh chịu hậu quả tai hại. Ðạo lí nghiệp chướng cũng giống ý nghĩa trong câu ngạn ngữ: Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước. Có điều khác biệt là trong thuyết nghiệp chướng thì cùng một cá nhân phải chịu hậu quả trong kiếp luân hồi; còn quan niệm cha ăn mặn, con khát nước là hai cá nhân khác nhau: cha có liên hệ huyết nhục với con, nhưng không phải là con.

Quan niệm trong câu ngạn ngữ Việt Nam trên đây còn giống quan niệm trong câu ngạn ngữ mà người ta truyền tụng trong dân Ít-ra-en: Ðời cha ăn nho xanh (chua), đời con phải ghê răng (Gr 31:29; Ed 18:2). Để sửa sai quan niệm đó, Thiên Chúa dùng miệng nhị vị ngôn sứ Giêrêmia và Êdêkien để trách dân Do thái sao cứ truyền tụng câu ngạn ngữ đó và dạy họ rằng mỗi thế hệ hay mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về hành động của thế hệ đó hay cá nhân mình (Gr: 31:30; Ed 18:3). Quan niệm trong câu ngạn ngữ trên của dân dân Do thái chỉ đúng khi áp dụng vào một số bệnh di truyền nào đó dựa vào lí do sinh thể lí mà thôi.

Theo giáo lí Do thái giáo là đạo Cựu ước và giáo lí Kitô giáo là đạo Tân ước thì tội lỗi không cắt nghĩa được hết tại sao người ta phải mang tai họa. Sách Gióp đã chứng minh điều đó. Ông Gióp phàn nàn về những tai họa xẩy đến cho ông và gia đình ông như phải mất của cải, vợ con (G 7:1-4,6-7). Các bạn ông cho rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của ông. Tuy nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời ngay lành, công chính và cảm thấy lương tâm không bị trách móc. Vậy thì phải có lý do nào khác, điều mà người ta không hiểu được hay chưa hiểu được ở đời này. Người ta không hiểu được tại sao có những người hiền đức, ăn ngay ở lành mà phải chịu bệnh tật đau khổ? Người ta cũng không hiểu được tại sao một số trẻ em vô tội cũng phải mang bệnh hoạn tật nguyền?

Là người Kitô giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải thoát loài người khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho linh hồn. Tuy nhiên đức tin của người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác mà thôi. Xét về phương diện nào đó thì loài người, cũng như loài vật, cỏ cây hoa lá, đều trải qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử. Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một ân huệ và là niềm vui. Tuy nhiên đó không phải là điều quan trọng nhất trong ước muốn của người Kitô giáo.

Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh tật phần hồn của loài người, giải thoát con người khỏi tội lỗi, để phục hồi sự sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Ðó là lí do tại sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban ơn chữa lành bệnh tật phần hồn, mà ta không hay biết.. Có những trường hợp mà việc mang bệnh tật phần xác, có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng, khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa. Nếu được chữa khỏi bệnh tật phần xác, người ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng liêng của họ là tốt lành, không gì đáng trách. Vì lợi ích thiêng liêng cho loài người, Chúa cũng có thể trì hoãn việc chữa lành. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người, họ có thể chóng quên ơn Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa lành, khiến họ bớt tuỳ thuộc vào Chúa.

Ðó là lý do giải thích tại sao trong Phúc âm hôm nay Chúa tách biệt khỏi đám đông quần chúng để đi cầu nguyện, rao giảng trong các hội đường và trừ quỉ (Mc 1:35-39). Trong khi còn nhiều người đau yếu bệnh tật cần được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn một sứ mệnh quan trọng hơn để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa lành cho tâm hồn nữa. Chúa cũng không dùng quyền năng để tự cứu mình khỏi đau khổ và sự chết. Chúa tự ý chấp nhận đau khổ và sự chết vì Người ý thức được giá trị của đau khổ và sự chết vì yêu mến Chúa và tha nhân để mang lại ơn cứu độ cho loài người.

Ðể đi đến kết luận thực hành, thái độ người tín hữu phải có là khi đau ốm bệnh tật, người ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng thời phải cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu người ta còn mang bệnh tật, người ta cần cầu xin để được ơn can đảm và nhẫn nại chịu đựng vì yêu mến Chúa. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường cùng không lối thoát. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và phó thác để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận như vậy mới đem lại bình an và ơn phúc cho tâm hồn khi phải mang bệnh tật đau khổ về phần xác. Để khỏi ngã lòng trông cậy Chúa và khỏi trở nên gánh nặng cho người săn sóc, có linh mục kia vẫn cầu nguyện xin Chúa đừng để mình phải nằm trên giường bệnh lâu dài.

Lời cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh phần xác phần hồn:

Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến,

chữa lành bệnh tật hồn xác loài người.

Xin Chúa ban ơn chữa lành cho bệnh nhân

đau yếu, bệnh tật trong thời đại chúng con.

Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,

tìm ra thuốc men và phương pháp chữa trị bệnh tật.

Xin Chúa cũng chữa lành bệnh tật của chính con:

phần xác, phần hồn, phần tâm trí, phần tình cảm

để con có thể phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân

với hồn xác an vui và lành mạnh. Amen.

Về mục lục

HƯỚNG NHÌN LÊN GIÊSU

Lm. Xuân Hy Vọng

Anh chị em rất thân mến, trong bốn cuốn sách Phúc Âm, chi tiết về gia đình của các Tông đồ ít khi nào được tường thuật, đề cập đến; nhưng đoạn Tin Mừng hôm nay (Mc 1, 29-39) đã thuật lại một trong những sự kiện hiếm hoi, và điều này không khỏi làm chúng ta thắc mắc, tự hỏi: liệu Thánh sử Mác-cô muốn nhắn gửi chúng ta điều gì khi thuật lại sự kiện Chúa Giê-su đến thăm bà nhạc phụ của Si-mon (Phê-rô)? Phải chăng, Ngài muốn chúng ta quan sát thật kỹ, hướng nhìn về những hành động của Chúa Giê-su khi Người đến thăm bệnh nhân, đặc biệt là mẹ vợ của Si-mon (Phê-rô)? Để rồi, chúng ta học hỏi nơi Người điều gì đó chăng?

Trong anh chị em, nhiều vị đã có kinh nghiệm trong việc thăm viếng bệnh nhân, thăm những người già nua, neo đơn, không người chăm sóc, v.v…Đó là điều tốt, phải đạo nên làm. Tuy nhiên, các bài đọc Phụng vụ hôm nay giúp chúng ta đào sâu công việc Tông đồ thăm viếng bệnh nhân hơn, qua gương sống của Chúa Giê-su khi Người viếng thăm bà nhạc phụ của Si-mon (Phê-rô) “…tiến lại gần, Người cầm tay, nâng đỡ dậy” (x. Mc 1,31).

Thứ nhất, “tiến lại gần”. Hành động này tuy đơn giản, nhưng khi áp dụng trên thực tế thì khó biết bao. Chợt nghĩ chỉ là đưa chân bước, tiến lại gần người anh chị em của mình thôi mà, đâu có khó gì!!! Đối với người khác, tiến tới gần người anh chị em mình thì chẳng gì phải lo!!! Thôi thì ‘nhắm mắt, đưa chân’ ắt sẽ tiến lại gần người anh chị em mình, có gì phải sợ nhỉ!!! Hành động ‘tiến lại gần’ của Chúa Giê-su không đơn thuần vì trách nhiệm, nghĩa vụ mà phải đến viếng thăm; nhưng thiết nghĩ: Ngài tiến gần bà nhạc phụ của Si-mon với cả con tim và con người của Ngài. Để làm được như vậy, chúng ta phải chiến thắng chính bản thân, phải bỏ mình, ra khỏi những toan tính, suy tưởng, lo lắng riêng tư, phải ra khỏi nơi ‘chăn ấm, nệm êm’ của lòng mình, dám mạo hiểm, chấp nhận những thách đố có thể xảy ra ngoài ý muốn. Vừa qua trong một cuộc tiếp kiến chung, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã đến chào một người đàn ông với khuôn mặt bị biến dạng. Khi trực diện với những gì ghê sợ, rùng rợn, con người chúng ta thường có khuynh hướng tháo lui, tránh né, chốn chạy…, nhưng Đức Thánh Cha đã tiến đến, ôm choàng lấy ông với tất cả tâm hồn của người Mục Tử, vị đại diện Chúa Ki-tô ở trần gian này. Đứng trước những người dị hình dị dạng, bệnh truyền nhiễm, những người mắc bệnh nguy cơ lây nhiễm cao, chúng ta có thể tiến lại gần họ với cả con tim mình chăng? Chúng ta có thể ra khỏi con người đầy suy tính của mình để đến với anh chị em mình, và biết chấp nhận họ không?

Thứ hai, “Người cầm tay”. Thật vậy, hành động này chỉ xảy ra khi cử chỉ “tiến lại gần” được thực hiện. Chúng ta không thể cầm tay ai đó ở tư thế đằng xa, hoặc cầm tay họ như một ‘nụ hôn gió’ hay ‘mi gió’ mà thường được ví von!!! Hơn nữa, cũng không thể nào nhờ ai đó ‘cầm tay’ người anh chị em giùm mình được! Hành động này đòi hỏi chúng ta phải trực diện với anh chị em. Thứ đến, tình trạng của bệnh nhân, những người được viếng thăm không hoàn toàn khoẻ mạnh, tráng kiện như ta, cho nên để ‘cầm lấy tay’ người anh chị em mình, chúng ta phải đặt mình vào trạng huống, hiện tình, tâm tư, lối suy nghĩ…của họ, và chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể ‘chạm đến’ con tim, mới có thể cảm thông, lắng nghe những tâm sự, với cả ưu tư, lo lắng của họ. Về điểm này, trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô khuyên nhủ mỗi chúng ta như sau: “mặc dầu tôi tự do đối với tất cả mọi người, nhưng tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người…tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau,…tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi” (x. 1Cr 9,19.22). Theo Ngài, vì lợi ích của anh chị em, để mọi người được thông phần vào ơn cứu rỗi, Ngài đã ‘trở nên mọi sự đối với tất cả mọi người’ để Tin mừng được họ lắng nghe, đón nhận. Vì thế, đối với Ngài “rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (x. 1Cr 9,16)

Thứ ba, “nâng đỡ dậy”. Cử chỉ sau cùng này liên quan mật thiết với hai hành động trên. Tương tự, nếu chưa ‘tiến lại gần’ và ‘cầm tay’ anh chị em mình, thì ắt hẳn chúng ta không thể ‘nâng đỡ’ họ được. Chúa Giê-su đã ân cần tiến đến, cầm lấy tay và nâng đỡ bà nhạc phụ của Si-mon dậy với cả lòng mến của một vị Thiên Chúa xuống thế làm người. Người chữa lành bà với tất cả niềm cảm thông sâu xa của Con Người, và qua Người, mọi người được nhìn thấy, cảm nhận, tiếp xúc với chính vị Thiên Chúa gần gũi, trìu mến, lân tuất vô bờ. Một khi, chúng ta bỏ mình, đặt mình vào hoàn cảnh, đời sống của anh chị em, thì chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể khuyến khích, nâng đỡ, cộng tác, động viên họ một cách hữu hiệu; và trong khoảnh khắc đó, chúng ta mới thực sự sống và rao giảng Tin Mừng mà thôi. Nào còn chần chờ gì nữa, nếu không thực hiện bây giờ thì đến khi nào chúng ta mới ra đi, sống chứng tá cho Thiên Chúa – một Thiên Chúa cao cả, nhưng lại thật gần gũi, yêu thương chúng ta liên lỉ, không chút than phiền. Hãy cùng tôi lên đường, sống Tin mừng, sống tươi vui, chia san từ ngay bây giờ vì “đời người chỉ là hơi thở” (x. G 7, 7), “vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu” (x. Tv 144, 4).

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết mở lòng, bỏ mình, đến với anh chị em; biết quên đi lợi ích cá nhân, biết cảm thông, thấu hiếu anh chị em; biết dâng cho Chúa ưu tư, nguyện vọng cũng như lo lắng của bản thân, để chấp nhận, khuyến khích, cộng tác, nâng đỡ anh chị em qua mọi phương diện. Sau cùng, xin cho chúng con luôn hướng nhìn lên Chúa, để rồi luôn biết cậy trông vào Ngài.

Như Người “tiến lại gần”
Xin cho con ân cần.
“Người cầm tay” con người
Ban cho con nụ cười.
“Nâng đỡ dậy” anh (chị) em
Sống một đời trôi êm. Amen!

Về mục lục

NƯỚC TRỜI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Cuộc đời của ông Gióp là một bài học quý giá cho những ai đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Một cuộc đời có những thăng trầm năm chìm bảy nổi. Có khi giàu sang phú quý, có lúc bị tước đoạt tất cả. Sông có khúc, người có lúc. Ông được hưởng những tháng ngày vui xướng ngập tràn, nhưng rồi bỗng một ngày ông trở thành trắng tay và rơi vào cơn cùng khốn. Khi khỏe mạnh cường tráng cũng như bệnh tật yếu đau, ông Gióp luôn một niềm cậy trông vào Chúa. Ông diễn tả cuộc đời rất thật, chân chạm đất với những nỗi lo âu sầu khổ. Ông Gióp không chạy trốn thực tại nhưng đối diện với cuộc sống trong thời gian thử thách. Sự mong ước thúc đẩy niềm hy vọng vào một ngày mới tươi đẹp. Ông luôn ý thức đời sống chỉ là một hơi thở qua mau.

Phúc âm thánh Mátcô thuật lại việc Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng khắp xứ Galilê. Chúa chữa cảm sốt cho bà nhạc phụ của ông Simon và tất cả các bệnh nhân người ta mang đến cho Ngài. Chúa chữa trị những người bị quỷ ám và xua trừ ma qủy. Tin Mừng cứu độ được khai mở, đó là Nước Chúa. Cả bốn thánh sử Matthêu, Mátcô, Luca và Gioan dùng từ Nước Chúa (Kingdom of God). Riêng thánh sử Matthêu dùng cả hai từ Nước Chúa và Nước Trời (Kingdon of Heaven). Chúng ta không phải chờ đợi Nước Trời đến gần mà là Nước Trời ngay trong cuộc sống hôm nay. Ngày xưa Chúa mời gọi dân chúng ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Năm Hồng Ân đã đến rồi. Chúa Giêsu đã đón nhận nhiều tâm hồn vào Nước của Chúa. Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để diễn tả về Nước Trời như dụ ngôn người gieo giống, hạt cải, cỏ lùng, men trong bột, kho báu và viên ngọc quý và chiếc lưới thả xuống biển…

Nước Chúa đang lan rộng khắp nơi. Mọi thời đều cần nhiều chứng nhân và thợ lành nghề làm việc trong vườn nho của Chúa. Trong thư gởi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã bộc bạch : Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc âm. Thánh Phaolô đã đi cùng khắp để mang tin vui đến cho mọi người. Ngài được mang danh hiệu là Tông đồ Dân Ngoại. Ngài chịu khổ cực trăm bề để nên nhân chứng cho Đấng đã hiến mình vì nhân loại. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả chỉ vì phần rỗi của chúng nhân. Phaolô nhiệt thành rao giảng Lời Chúa lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Ngài chịu bắt bớ, đánh đập, tù đầy, giam giữ cùng mọi sự khốn khó trên đường truyền đạo. Niềm cậy trông vào ơn cứu độ thật mãnh liệt. Phaolô viết thơ giảng dạy, an ủi và khuyến khích các giáo đoàn giữ vững niềm tin.

Điều quan trọng là mỗi người chúng ta hãy sống tinh thần Nước Trời ngay trong hoàn cảnh hiện tại. Hãy an hưởng tất cả những phúc lộc của cuộc sống. Chúng ta không biết ngày giờ Chúa lại đến nhưng chúng ta chắc rằng Chúa sẽ đến đón chúng ta vào ngày sau hết. Chúa mời gọi chúng ta luôn trong tư thế sẵn sàng và tỉnh thức. Trong cuộc lữ hành, sự chuẩn bị sám hối lúc nào lúc cần thiết. Chúng ta không phải đợi nước đến chân rồi mới nhảy. Mỗi ngày sống chúng ta đều có cơ hội lắng nghe và thực hành lời Chúa. Chúng ta không cần phải lo lắng, chao đảo hay run sợ trước những tin đồn thất thiệt về ngày Chúa đến.

Một số người chủ trương: cuộc sống vắn vỏi, phải hưởng thụ và thỏa mãn mọi nhu cầu trước. Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra cho ngày mai. Không cần phải bận tâm suy nghĩ và lo lắng chi về tương lai. Thế là cuộc sống bị buông thả theo dòng chảy của thời gian. Lý tưởng bị hỏa mù và cùng đích cuộc đời cũng bị rơi vào sự nghi ngờ vô định. Nhiều khi chúng ta bị lạc lõng trong cuộc lữ hành trần thế. Vì thế, muốn tiến được tới đích cùng, chúng ta cần phải có hướng đi và có mục đích để đạt tới. Điều này chúng ta đang thực hành mỗi ngày. Trong đời sống, mỗi ngày khi thức dậy, chúng ta biết việc gì phải làm, nơi nào phải đi và ý nào phải thực hiện.

Đời sống của người Kitô hữu không như thế, chúng ta biết đường đi và cùng đích là vui hưởng trong Nước Chúa. Sống tinh thần của Nước Trời từng giây phút trong đời sống, chúng ta sẽ tìm được nguồn bình an và thánh thiện. Có Chúa Kitô là Thầy, là đường, là sự thật và là sự sống dẫn đường. Phó thác, cậy trông và bám chặt lấy giáo lý của Chúa Kitô, chúng ta không sợ bị lầm lạc. Ngài chính là ngôi sao dẫn đường tới quê thật. Hãy ngước nhìn lên chiêm ngắm thập giá nơi Chúa Kitô đã hy sinh chết vì yêu, chúng ta sẽ tìm được câu trả lời cho tất cả mọi vấn nạn trong đời. Dù đường đời nổi trôi, năm chìm bảy nổi, chín cái lênh đênh, chúng ta vẫn có nơi tựa nương và phó thác cuộc đời.

Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ. Chúa đã hạ thân đem tin vui Cứu Độ cho nhân loại. Xin cho chúng con học theo thánh Phaolô biết xả thân đem Tin Mừng ơn cứu độ đến cho mọi người. Niềm vui hạnh phúc là mọi người nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa cùng yêu thương nhau như anh chị em để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc đời đời.

Về mục lục

DẤN THÂN

Thiên San

Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải đợi đến khi phục sinh – lên trời, Đức Giêsu mới mạc khải cho ta biết về điều đó. Nhưng trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã dần dần mạc khải cho ta. Khi các môn đệ tìm đến và báo cho Thầy Giêsu biết rằng mọi người đang tìm thì Ngài bảo: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1, 38). Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi ra đi và tiếp nối sứ mạng rao truyền Tin Mừng tình thương đến cho muôn người.

Tin Mừng hôm nay kể lại cho ta biết về một ngày của Đức Giêsu. Dường như Đức Giêsu dành hết thời gian để lo cho người khác mà không nghĩ đến bản thân. Người chữa lành cho nhiều bệnh nhân, không có giờ để nghỉ ngơi, ăn uống. Bởi đó, dân chúng quá “mê” Người, muốn níu giữ Người ở lại. Đức Giêsu còn nêu gương cho ta về việc tạo lập tương quan mật thiết, gắn bó với Thiên Chúa Cha. Người làm mọi việc là để vinh danh Chúa Cha, luôn theo thánh ý Cha. Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Đức Giê su đã dậy, đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện (x. Mc 1, 35). Thiết nghĩ, chúng ta cần học nơi Đức Giêsu tinh thần quảng đại, yêu thương với hết mọi người, và nhất là không quên dành thời giờ để gặp gỡ và ở lại bên Chúa.

“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1, 38). Chúng ta nghe được gì từ lời mời gọi này? Hẳn nhiên là một thái độ dứt khoát để ra đi. Ở lại không hẳn là xấu vì ta được mọi người yêu quý, trân trọng nhưng ra đi để đến với nhiều người khác thì cần hơn. Đến đây, ta có thể nhìn về kinh nghiệm của các nhà truyền giáo. Chẳng hạn như Đức cha Francois Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte là hai Giám mục Đại Diện Tông Tòa đầu tiên của vùng Viễn Đông. Tuy công việc của các ngài ở Pháp lúc bấy giờ khá thuận lợi, nhiều người cho rằng các ngài có thể làm bao nhiêu điều tốt lành cho quê hương và có thể trở thành một kinh sĩ tốt nhưng các ngài đã can đảm rời bỏ quê hương để đến vùng Viễn Đông xa xôi, nơi còn biết bao người chưa biết Chúa (x. Tr18,Tiểu sử Đức cha Francois Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte).

 Là con người, chúng ta không tránh khỏi những quyến luyến, bịn rịn, bao mến thương mà mọi người dành cho ta, để rồi ta khó lòng rời bỏ vùng đất đã một thời gắn bó. Đặc biệt, khi ta là người đem bao mến thương đến với người khác mà không mong được đáp đền. Tuy nhiên, chúng ta cần nghĩ về lời mời gọi của Thầy Giêsu vẫn vang vọng bên tai để có thể vượt qua mọi khó khăn trở ngại. Còn nhiều người cần đến chúng ta, họ chưa biết Chúa là ai và chưa biết rằng Chúa cũng yêu thương họ. Ở lại với Chúa là cách để ta biết ta phải làm gì. Vinh quang, lời khen ngợi của người đời thì ngọt ngào và êm dịu biết bao nhưng dẫn thân cho sứ mạng loan báo Tin mừng là điều cần thiết hơn cả. Chúng ta hãy để cho Thần khí của Đức Kitô hướng dẫn để có thể dẫn thân, quên mình cho công cuộc loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa như Đức Giêsu và bao vị thánh, bao vị tiền bối đã làm.

Về mục lục

TÂM TÌNH PHỤC VỤ

Maria Bùi Thủy

“Rời khỏi hội đường nơi mà bao người tụ họp, Chúa Giê-su lặng lẽ cùng với hai môn đệ là Gia-cô-bê và Gio-an đến nhà Simon và An-rê.” (Mc 1, 29)

Mỗi bước chân Chúa đi chắc hẳn đều mang theo con tim, tình yêu và tâm tình phục vụ. Chúa biết rõ sứ mạng của Người là gì. Khi Chúa Giê-su tới nhà ông Simon “lập tức họ nói cho Người về tình trạng của bà”(Mc1,30). “Họ” hẳn là gia đình Simon được hàng xóm kính mến, được nhiều người đến thăm và cùng chia sẻ nỗi buồn của gia đình, điều đó đã thể hiện được sự ấm áp nơi tâm hồn của mỗi con người. Đồng thời cùng lúc đó, Thánh sử Mac-cô đã sử dụng thêm hai từ “lập tức” đã điểm tô thêm về tình người nơi gia đình nhỏ. Cuộc sống của con người luôn cần được sự cảm thông, chia sẻ, nâng đỡ nhau trong mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt, trong những lúc khó khăn nhất của phận người.

Hình ảnh người mẹ nằm sốt trên giường bệnh đã chạm đến trái tim của Chúa Giê-su, chạm đến Lòng Thương Xót của Người. Thấu hiểu được con người, cảm nhận được sự đau đớn ấy “Người lại gần, cầm tay bà mà đỡ dậy”(Mc1,31). Một tình yêu bao la, vô vị lợi mà Chúa đã làm nơi người mẹ của Simon. Chúa Giê-su không chỉ cứu vớt người khỏi chết về phần xác nhưng là cả về phần hồn. Vậy, còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã làm được gì để xoa dịu nỗi đau của người khác?

Điều đặc biệt hơn hết đó là, bà được khỏi bệnh và nhanh nhẹn phục vụ các Ngài. Tinh thần phục vụ của bà đã đánh động bao con người. Bà đã quên đi bản thân, quên đi bệnh tật nơi mình, quên đi mọi thứ để phục vụ Chúa và phục vụ mọi người. Bản thân tôi và tất cả chúng ta đã có tinh thần phục vụ như thế nào? Đã nhận ra ơn của Chúa và thực thi theo điều Người muốn hay chưa?

Tất cả những điều Chúa Giê-su đã làm không để vinh danh Người mà là vinh danh Chúa Cha. Chúa Giê-su đã đi khắp nơi để chữa bệnh, trừ quỷ… Sau những lần như vậy Chúa lại tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện, cảm tạ Chúa Cha và xin Chúa Cha ban thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn. Ước gì trong mỗi ngày sống, chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa, biết dành những khoảng trống trong tâm hồn cho Chúa, luôn biết để Chúa hướng dẫn và làm chủ cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Lạy Chúa Giê-su xin cho con biết quên mình, quên đi sự mệt mỏi của bản thân, quên đi ích lợi cho riêng mình mà nghĩ đến vì người khác để dùng hết ơn lành Chúa ban mà phục vụ mọi người, đặc biệt nơi những người bệnh tật, người yếu đau, người nghèo khổ. Amen.

Về mục lục

CHỈ CÒN TÌNH YÊU Ở LẠI

Lm. Giuse Nguyễn

“Thời gian như ngọn gió

Cùng theo mùa tháng năm

Tuổi theo mùa đi mãi

Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em

Cùng tình yêu ở lại…”

Tiết tấu của bài hát “Thơ tình cuối mùa thu” vang lên như một niềm tin, như một lời khẳng định về một quy luật của tình yêu: Vượt qua trăm ngàn thác lũ đời người, tình yêu sẽ trở nên đẹp diệu kỳ:

Năm 2011, Cô Lành bán vé số ở Long An, đã không tham 6,6 tỉ đồng để trả lại cho anh Tuấn những tờ vé số mà anh chưa trả tiền. Từ đó cô gái ấy chết danh là “Lành 6 tỉ 6”. Anh Tuấn, người mua chưa trả tiền cũng sẵn sàng tặng lại cho cô Lành 1 tờ vé số. Và cũng từ đó anh chết danh là “Tuấn lãng tử” vì đã cho không, biếu không người khác gần 2 tỉ đồng.

Mới đây thôi, ngày 14/01/2021, ông Nguyễn Văn Long, 51 tuổi ở Đồng Tháp, sống bằng nghề nhặt ve chai cũng đã trả lại gần 1 tỷ đồng cho người đánh rơi. Ông nói: “Số tài sản đó rất lớn, cả đời chúng tôi làm chưa có được. Nhưng tôi nghĩ nó không phải của mình, còn người đánh mất sẽ rất khổ nên vợ chồng tôi quyết tâm tìm kiếm, trả lại cho bằng được”. Họ là những con người đã khẳng định: mọi sự rồi sẽ qua đi, chỉ còn tình yêu ở lại.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta một ngày làm việc mệt nhọc của Đức Giêsu cũng là để thông cảm, chia sẻ kiếp sống với con người. “Vừa ra khỏi hội đường Caphacnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê” (Mc 1, 29). Sau khi chữa bệnh cho bà mẹ vợ ông Simon thì “cả thành xúm lại trước cửa” (Mc1, 32). Trong số này đa số là những người bệnh hoạn, tật nguyền. Chúng ta có thể hình dung ra cảnh tượng một đoàn người mù có, méo miệng có, cụt tay có, cụt chân có, bại liệt có,… Nếu bây giờ thì có cả những người ung thư, lao phổi, HIV… nữa. Nhiều người bệnh hoạn như vậy thì chắc hôi hám lắm; mùi dầu, mùi thuốc, mùi cơ thể… Vậy mà Đức Giêsu cũng ân cần đến với họ, chẳng những đến, mà Ngài còn đụng chạm và chữa lành cho họ. Việc Đức Giêsu làm xuất phát từ một tình yêu muốn cảm thông, chia sẻ những đau khổ với con người. Ngài khẳng định, dù thế nào thì vẫn còn tình yêu ở lại.

Mẹ Têrêxa Calcutta đã cảm nhận được những đau khổ của nhân loại, nên Mẹ đã dấn thân vì những con người đau khổ đó. Mẹ đem về nhà dòng của mẹ những người đau yếu bệnh tật, nhất là những người đang hấp hối, chờ chết. Trong số đó có cả những người nằm dưới ống cống, bên đống rác, lở loét, hôi thối, dòi bọ đã đục khoét da thịt của họ. Vậy mà Mẹ cũng đem về, tắm rửa, thay quần áo mới và để cho họ chết một cách êm ái như một con người. Sở dĩ Mẹ và những nữ tu của Mẹ làm được điều đó là vì Mẹ đã rập khuôn đời mình với Đức Giêsu, Đấng đến để cảm thông, chia sẻ và cứu vớt con người. Mẹ cũng đã khẳng định sau tất cả mọi sự vẫn còn tình yêu ở lại.

Ở trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bạc Liêu, có một người đàn ông đi chăn trâu, gặp tai nạn, bị trâu giẫm lên. Vì vậy ông bị liệt nửa người từ thắt lung trở xuống. Nằm yên một chỗ mà không tự xoay trở được. Phần thịt chết hôi hám, bẩn thỉu. Vậy mà có một cô gái không quen biết thường xuyên đến thay đồ, tắm rửa, giặt giũ cho ông như cô con gái. Cô ta làm như vậy chắc chắn không có mục đích gì, mà xuất phát từ một tình yêu thương chân thành. Tôi bắt gặp nơi cô ta hình ảnh của một Đức Giêsu, Đấng đến để cảm thông, chia sẻ và cứu giúp con người. Cô ta đã khẳng định sau tât cả mọi sự vẫn còn tình yêu ở lại.

Cuối đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã bảo với các môn đệ “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (Mc 1, 38). Đây là sứ mạng của người Kitô hữu, chúng ta phải “đi đến những nơi khác” không phải theo nghĩa đen, mà là nghĩa bóng, có nghĩa là ở bất cứ nơi nào chúng ta hiện diện, chúng ta phải thể hiện được gương mặt của Đức Giêsu qua việc cảm thông và chia sẻ với con người, nhất là những người đau khổ. Chúng ta phải khẳng định : sau tât cả mọi sự vẫn còn tình yêu ở lại.

Tình yêu là nét đẹp cho đời, nhất là đời Kitô hữu. Vì vậy làm gì cũng được, làm như thế nào cũng được, miễn là làm “mọi sự vì đức ái”, làm vì tình yêu là được.

Chúa Nhật cuối cùng của năm cũ là dịp để chúng ta nhìn lại một năm qua. Chúng ta đã làm gì? được gì? còn lại điều gì? Trong tất cả những điều đó, có còn tình yêu ở lại? Được tất cả mọi sự mà không có tình yêu thì cũng sẽ mất hết như quy luật của vật chất. Mất mát nhiều quá do thiên tai, dịch bệnh, làm ăn không thuận lợi, gặp những điều không mong muốn… nhưng trong mọi sự chúng ta vẫn đặt niềm tin vào Chúa và chia sẻ tình yêu với mọi người; sau tất cả vẫn còn tình yêu ở lại.

Lạy Chúa, xin cho con biết làm “mọi sự vì đức ái”, vì có tình yêu là có tất cả. Không tình yêu thì có tất cả cũng như không.

Về mục lục

THIÊN CHÚA LÀ SỨC MẠNH CỦA ĐỜI NGƯỜI

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Dù là người đạo đức, đẹp lòng Chúa, ông Gióp không thoát những thách thức của phận người. Nhiều rủi ro bỗng dưng ập đến và đổ hết lên thân phận và kiếp người của ông. Ông mất tất cả con cái và cơ nghiệp. Ông lâm cảnh bất hạnh trong nháy mắt. Người bạn đời của ông cũng xỉ vả và bỏ ông mà đi.

Trong đau đớn cùng cực, ông chỉ còn thấy trước mắt sự vô nghĩa của cuộc đời: “Vừa nằm xuống tôi đã nhủ thầm: khi nào trời sáng; mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: bao giờ chiều buông. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng”.

Nhưng bằng đức tin mạnh mẽ, ông Gióp vượt qua cái nhìn bi quan và nỗi khốn cùng của đời mình. Ông không tự gieo và lòng nỗi nghi nan ngờ vực nào. Ông không bao giờ xúc phạm Chúa. Ông vững tin Chúa sẽ giải cứu ông.

Cuối cùng, điều ông mong mỏi nơi Chúa được Chúa đáp đền. Chúa phục hồi cho ông danh dự và niềm vui. Lòng kiên trì phó thác nơi Chúa đã giúp ông nhận được muôn hồng ân Chúa ban…

Ngoài tấm gương thánh thiện của ông Gióp, chúng ta còn thấy bài học quý giá, mạnh mẽ hơn nhiều, đó là tấm gương của chính Chúa Giêsu.

Đoạn Tin Mừng của thánh Marcô được chọn cho Chúa nhật V thường niên kể lại ngày sống và làm việc mà Chúa Giêsu trải qua. Những trạng từ chỉ thời gian được nhắc đến, cho thấy sự tất bật của ngày sống ấy:
– Buổi sáng, Chúa giảng dạy và chữa bệnh cho nhạc mẫu của thánh Phêrô;
– Buổi chiều, cho đến khi mặt trời lặn, Chúa chữa rất nhiều bệnh nhân, kể cả người bị quỷ ám;
– Sáng sớm tinh mơ, Chúa đến nơi thanh vắng cầu nguyện cùng Chúa Cha.

Phần cuối của bài Tin Mừng còn cho thấy sự ra đi dấn thân cho Nước Trời, cho linh hồn con người mà Chúa Giêsu thực hiện là một cuộc lên đường không ngơi nghỉ. Chúa không dừng lại ở bất cứ nơi nào, nhưng cứ mãi tiếp tục sứ mạng nơi bất cứ làng mạc nào để loan Tin Mừng.

Lộ trình của Chúa không có kết. Chúa miệt mài vì tình yêu mà Chúa dành cho con người. Chúa hăng say vì hạnh phúc và sự sống đời đời của chính họ.

Như ông Gióp, không thiếu đớn đau, thậm chí thách thức nặng nề như muốn đánh gục mọi nỗ lực vươn lên, mọi cố gắng chống chọi của mỗi chúng ta.

Tuy nhiên, dù đau khổ như gắn liền phận người, nhưng nó cũng cho ta trưởng thành, cứng cáp, dẻo dai hơn. Nó tạo cơ hội để những ai còn thiện chí, lòng nhân có thể đến với nhau, cảm thông, an ủi và giúp đỡ nhau…

Trong mọi cảnh huống, dù bi đát đến đâu, hãy tin, Chúa yêu ta. Chúa trung thành, bền bỉ trong tình yêu thủy chung. Đừng dại dột nghĩ, đau khổ là hình phạt, nhưng tháp nhập vào thánh giá Chúa để mạnh mẽ nâng bản thân vượt qua.

Cần thấy: như Thiên Chúa, Chúa Giêsu luôn muốn sự tốt lành. Một ngày bận rộn của Chúa cũng chỉ xoay quanh sự giải phóng con người khỏi đau khổ.

Đau khổ là một trong những sự dữ mà Chúa luôn kháng cự lại. Chúa thương xót những kẻ đau khổ. Chúa tìm và mang điều tốt lành đến cho họ. Qua mọi thời, Chúa xua đuổi bóng tối của sự dữ, nỗi đau, tội lỗi, sợ hãi, thất vọng… là những thứ mà con người phải thường xuyên đối diện.

Và trong những buổi cầu nguyện của Chúa, chắc chắn cũng là những lời cầu nguyện hướng về chúng ta, cho chúng ta và vì chúng ta.

Để đứng vững trước mọi bão táp và tội lỗi, chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu: Luôn đắm chìm trong sự kết hợp với Thiên Chúa. Dù đang làm việc hay nghỉ ngơi, hãy luôn đặt mình trong cái nhìn, trong sự quan sát của Thiên Chúa.

Hãy luôn vững tin vào Thiên Chúa như ông Gióp. Hãy hăng say làm việc để tìm kiếm Nước trời và không bao giờ bỏ quên đời sống cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu.

Về mục lục

MỘT CON TIM MỚI MẺ

Lm. Minh Anh

“Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”.
Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ rất bất ngờ khi Tin Mừng hôm nay cho thấy một kiểu đi nghỉ khác thường mà Chúa Giêsu mời các môn đệ Ngài cùng đi; qua đó, việc ‘nghỉ ngơi’ bên Chúa sẽ làm cho họ có được ‘một con tim mới mẻ’ như con tim của Ngài, một con tim cứu độ và xót thương.

Trở về sau những ngày rao giảng thấm mệt, và dẫu không nói ra điều đó, các môn đệ vẫn không tài nào giấu được đôi mắt tinh tường của Chúa Giêsu. Sẽ không ngạc nhiên, khi với lòng trắc ẩn, Ngài lập tức mời họ xuống thuyền; Tin Mừng nói, “Thầy trò chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh”. Ấy thế, khi thuyền vừa cập bến, đã có một đám đông đợi các ngài ở đó. Như vậy, những người này đã đoán trước Thầy trò Chúa Giêsu sẽ đến đó; hoặc chí ít, đã có sự ‘rò rỉ’ thông tin từ các tông đồ. Qua đó chúng ta thấy lòng khao khát mãnh liệt được ở bên Chúa nơi những con người đang kiếm tìm Ngài. Phải chăng đây cũng là cách đám đông ‘nghỉ ngơi’ bên Chúa; và phải chăng đây cũng là cách ‘nghỉ ngơi’ Chúa Giêsu mong muốn ở mỗi người chúng ta? Lạ thay! Ngài không bực nhọc; chẳng than thở, ‘Ôi chao, những người này không để mình yên dù chỉ một chút sao?’. Không, thay vào đó, “Thấy dân chúng thật đông, Ngài động lòng thương”. Như thế, Ngài vẫn luôn giữ cho mình ‘một con tim mới mẻ’ đầy cứu độ và thương xót ngay trong khoảng trời riêng tư của Ngài, Ngài chấp nhận thay đổi kế hoạch vì người khác.

Trong cuộc sống, sau khi phục vụ người khác chu đáo tận tình, ai trong chúng ta cũng muốn được nghỉ ngơi, đó là điều dễ hiểu; cả Chúa Giêsu cũng muốn điều này cho Ngài và các môn đệ. Thế nhưng, một điều cho phép Ngài ‘làm gián đoạn’ chương trình của mình chính là sự khát khao của những con người ‘muốn ở bên Ngài’ và ‘được nuôi dưỡng bởi Lời Ngài’; Ngài sẵn sàng gác lại tất cả để thoả mãn khát khao của họ. Như vậy, nơi Chúa Giêsu, xem ra không có ‘vacation’, kỳ nghỉ; nhưng chỉ có ‘salvation’, cứu độ. Cũng thế, đối với bất cứ ơn gọi nào, bậc sống nào hay hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có quyền và có thể nghĩ đến một khoảng riêng tư của mình; thế nhưng, nhiều lúc trách nhiệm lại buộc chúng ta chọn lựa một cách khác, ‘chọn lựa gián đoạn’ kế hoạch của mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta có ‘một con tim mới mẻ’, con tim cứu độ giữa kỳ nghỉ và giờ nghỉ.
Chìa khoá để chúng ta có được ‘một con tim mới mẻ’ như Chúa Giêsu chính là sự sẵn sàng; sẵn sàng với thời gian, sẵn sàng với sức lực của mình. Khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ luôn luôn biết rằng, Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của một ai; Người ban những ân sủng không bao giờ ngờ tới để chúng ta có thể rộng rãi trao ban. Và tuyệt vời hơn, chính trong những thời điểm ngặt nghèo ‘bất tiện’ nhất này, ‘một con tim mới mẻ’ sẽ vui tươi làm những gì chợt đến, thì Thiên Chúa lại thường cho gặt hái những hoa trái mà đôi lúc suốt nhiều năm, chúng ta vất vả mà luống công; đó là lúc mà chính Chúa thực sự có thể biến đổi người khác.

Đang đi nghỉ ở Ireland, nhà sản xuất xe hơi, Henry Ford, được yêu cầu đóng góp cho một trại mồ côi mới xây. Ford đã viết một tấm check trị giá hai nghìn bảng Anh, và thông tin đó đã xuất hiện trên các tờ báo địa phương. Oái ăm thay, biên tập viên đã vô tình bất cẩn thông báo món quà là hai mươi nghìn bảng. Giám đốc trại các em mồ côi lo lắng điện thoại xin lỗi Ford, “Tôi sẽ gọi ngay cho biên tập viên và yêu cầu anh ta sửa lại”, anh nói. “Không cần thiết phải như vậy!”, Ford trả lời; và ông nhanh chóng viết tấm check mười tám nghìn bảng bổ sung.

Anh Chị em,
Dẫu bị quấy rầy giữa kỳ nghỉ, nhưng Henry Ford đã có một tấm lòng nhân ái đáng trân trọng. Với chúng ta, được nghỉ ngơi ‘vacation’ bên Chúa Giêsu, con tim của chúng ta sẽ đầy sự cứu rỗi, ‘salvation’ hơn Henry Ford biết bao! Trong những ngày này, khi có thời giờ hơn để nghỉ ngơi, nếu không được nghỉ việc như những anh em đang sống ở hải ngoại, chúng ta vẫn có thời giờ nhiều hơn. Đây là lúc chúng ta vào nơi thanh vắng để có thời gian ở bên người thân, làng xóm và nhất là được ở bên Chúa. Hãy dừng lại để định hướng cho một năm mới, nhìn lại những gì đã qua hầu làm mới lại con tim của mình. Đó chính là cách nghỉ ngơi đúng nghĩa mà Chúa Giêsu đang mong ước; và với ơn Chúa, sang năm mới, chắc chắn chúng ta sẽ có ‘một con tim mới mẻ’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,
““Cúi lạy Chúa tôi, một năm qua rồi; ngày giờ quý báu, đâu còn trở lui”. Cám ơn Chúa, con được bình an qua một năm thế giới đầy tai ương và biến động. Trong những ngày hôm nay, xin cho con biết dành giờ ‘nghỉ ngơi’ bên Chúa nhiều hơn, biết sống tâm tình cảm tạ và sám hối; với ân sủng biến đổi của Chúa, chắc chắn con sẽ đi vào năm mới với ‘một con tim mới mẻ’”, Amen.

Về mục lục

MA QUỈ VÀ CHIÊU TRÒ CỦA CHÚNG

   Lm. Bosco Dương Trung Tín

   Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói vì chúng biết Người là ai.(Mc 1.34)

  Trong cuộc đời công khai rao giảng Phúc Âm của Đức Giê-su, ngoài việc chữa lành các bệnh nhân, Đức Giê-su còn trừ quỉ nữa. Chúng ta cùng tìm hiểu xem ma quỉ là ai và chiêu trò của chúng ra sao?

   Theo sách Giáo lý công giáo, thì ma quỉ là một thiên thần sa ngã : “Đằng sau sự chọn lựa bất tuân của các nguyên tổ, có một tiếng gọi quyến rũ chống lại Thiên Chúa, vì ganh tị với con người, đã đưa nguyên tổ sa vào cõi chết. Thánh Kinh và Thánh Truyền của Hội Thánh đã cho nhân vật đó là một thiên thần sa ngã gọi là Xa-tan hay ma quỉ. Hội Thánh dạy rằng, thoạt đầu đó là một thiên thần tốt do Thiên Chúa tác tạo. “Chắc chắn quỉ dữ và các thứ ma quỉ khác đều được Thiên Chúa sáng tạo với bản tính tốt lành, nhưng tự chúng đã trở nên xấu” (x. GLCG, số 391).

    Như chúng ta đã biết, “Ngay từ lúc khởi đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng từ hư không cả hai loài thụ tạo là loài thiêng liêng và loài có hình thể. Nghĩa là các thiên thần và vũ trụ vật chất; kế đến là con người với tính chất của hai loài trên, vừa có tinh thần vừa có thể xác” (x. GLCG, số 327).

   Đó là điều mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính là “Tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”. Loài vô hình là các thiên thần và linh hồn chúng ta. Loài hữu hình là những gì chúng ta nhìn thấy được, như cây cỏ, động vật, trăng sao, sông núi,….Đặc biệt là con người chúng ta, trong con người chúng ta có cả loài hữu hình và vô hình. Hữu hình là thân xác chúng ta; còn vô hình là linh hồn chúng ta. Các thiên thần thì không có thân xác; các thụ tạo khác như động vật và thực vật thì có thân xác mà có linh hồn. Con người thì có cả thân xác lẫn linh hồn.

   Các thiên thần, : “Với tư cách là thụ tạo thần linh, các ngài có trí năng và ý chí; các ngài có ngôi vị và bất tử. Các ngài hoàn hảo hơn mọi thụ tạo hữu hình. Vinh quang rực rỡ của các ngài chứng mình điều đó” (x. GLCG, số 330).

   “Tự bản thể, các thiên thần là những tôi tớ của Thiên Chúa và là sứ giả của Thiên Chúa”(x. GLCG, số 329).

   Kinh Thánh có nói đến một tội của các thiên thần này. Việc sa ngã là do các loài thụ tạo thần linh ấy đã tự do chọn lựa từ chối Thiên Chúa và vương triều của Người cách triệt để và dứt khoát. Cuộc nổi loạn này được phản ánh trong lời của Tên Cám Dỗ nói với các nguyên tổ: “Các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa” (x. St 3,5); Ma quỉ là kẻ phạm tội ngay từ thưở sơ khai” (x. 1Ga 3,8) và là “cha sự dối trá” (x.Ga 8,44).

   “Không phải Thiên Chúa thiếu lòng thương xót, nhưng vì các thiên thần đó đã chọn lựa dứt khoát, cho nên tội của họ không thể tha thứ được. “Sau khi sa ngã, các thiên thần không còn có thể hối cải, cũng như con người không thể ăn năn xám hối sau khi chết” (x. GLCG, số 393).

   “Thế nhưng sức mạnh của Xa-tan không phải là vô hạn. Nó chỉ là một thụ tạo, có sức mạnh vì là thuần linh nhưng vẫn là thụ tạo, nó không thể ngăn chặn công trình xây dựng Vương triều của Thiên Chúa. Xa-tan hành động nơi trần thế do thù hận Thiên Chúa” (x. GLCG, số 395). “Công việc của Xa-tan là quyến rũ con người bất tuân Thiên Chúa” (x. GLCG, số 394).

    Xa-tan “thù hận” Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã đẩy chúng ra khỏi thiên đàng mà vào hỏa ngục. Rồi Xa-tan cũng ganh tị với con người chúng ta nữa. Chúng ganh tị, vì con người chúng ta sau khi phạm tội có thể ăn năn xám hối và được vào thiên đàng còn nó thì không. Nó không được vào thiên đàng, nên nó sẽ đi cám dỗ con người chúng ta bất tuân Thiên Chúa, để chúng ta vào hỏa ngục với nó.

   Lại nữa vì ma quỉ, chúng vô hình nên không cám dỗ được, chúng sẽ nhập vào người khác hay tìm những người làm tay sai cho chúng, để cám dỗ con người chúng ta. Chúng ta hãy xem ma quỉ cám dỗ thế nào.

   Thiên Chúa nói với A-đam : “Hết mọi cây trong vườn, ngươi cứ ăn, nhưng trái của cây biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn; vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết”(x. St 2,16-17). Chúa nói điều này cho A-đam, khi đó E-và chưa có. Nhưng khi Chúa dựng nên E-và rồi, thì A-đam đã nói cho E-và biết.

   Xa-tan nói với bà E-và : “Có thật Thiên Chúa bảo : Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?”. (x. St 3,1)

    E-và nói : Không. “Trái cây trong vườn thì chúng tôi được ăn, còn trái trên cây giữa vườn, Thiên Chúa bảo : Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết”. (x. St 3, 2-3)

   Xa–tan nói : “Chẳng chết chóc gì đâu. Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra và ông bà sẽ nên như những vị thần, biết điều thiện điều ác” (x. St 3,4-5).

   Nghe vậy, “người đàn bà liền hái trái cây mà ăn và đưa cho cả chồng đang ở đó với mình, ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra và họ thấy mình trần truồng” (x. St 3, 6-7).

    Tội của ông bà nguyên tổ không phải là tội tham ăn mà là tội không nghe lời Thiên Chúa, mà nghe lời của ma quỉ. Tội bất tuân.

   Ngay nay, chúng ta thấy, ma quỉ vẫn dùng chiêu trò này để cám dỗ con người và dường như chúng thành công rất nhiều. Những người không được nghe Lời Chúa nói đã đành, ngay cả những người được nghe Lời Chúa, như các tín hữu công giáo chúng ta, có bao nhiêu người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành?

    Nghe ở đây có nghĩa là tuân giữ; có nghĩa là đem ra thực hành; chứ nói “nghe không” thì quả thật có rất nhiều người nghe. Người ta thích nghe lời người đời hơn là nghe Lời Chúa. Lời của người đời nghe bùi tai hơn; dễ nghe lọt tai hơn, cũng dễ làm nữa vì nó phù hợp với bản tính yếu hèn và dễ làm điều xấu hơn là làm điều tốt. Lại nữa chúng lại có ích cho bản thân và có lợi trước mắt chúng ta.

    “Mật ngọt thì chết ruồi” đấy. Ông bà ta bảo không sai mà. Thế nhưng, người ta lại thích ngọt cơ, có chết cũng cam lòng. Cứ ăn cái đã, chết tính sau.

    Ma quỉ còn cám dỗ cả Đức Giê-su nữa. Chúng ta sẽ tìm hiểu điều đó trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay.

   Do đó, chúng ta hãy coi chừng, đừng nghe lời ma quỉ cám dỗ mà hãy nghe lời Đức Giê-su dạy và đem ra thực hành trong cuộc sống của mình.

      Nếu chúng ta không nghe lời Chúa dạy, thì :

    Cuộc sống của chúng ta nơi dương thế là thời khổ dịch; với những chuỗi ngày lao lung vất vả; đâu khác đời kẻ làm thuê; tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công.

   Gia tài của chúng ta sẽ là những tháng ngày vô vọng; số phận của chúng ta sẽ là những đêm đau khổ ê chề.

   Ngày đời của chúng ta thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt không một tia hi vọng.

    Cuộc đời của chúng ta chỉ là hơi thở; mắt của chúng ta sẽ chẳng thấy hạnh phúc thật bao giờ. (x. G 7,1-7)

    Nếu chúng ta nghe lời Chúa dạy, thì :

   Cuộc sống của chúng ta nơi dương thế, dù là thời khổ dịch; với những chuỗi ngày lao lung vất vả; đâu khác đời kẻ làm thuê; tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công.

    Nhưng Gia tài của chúng ta sẽ là những tháng ngày hi vọng; số phận của chúng ta sẽ là những đêm sung sướng tràn trề.

   Dù ngày đời của chúng ta thấm thoát hơn cả thoi đưa nhưng sẽ chấm dứt trong một chùm hi vọng.

   Cuộc đời của chúng ta dù chỉ là hơi thở nhưng mắt của chúng ta sẽ thấy được hạnh phúc thật. Hạnh phúc bây giờ và hạnh phúc mai sau.

    Vậy, chúng ta hãy ăn cho ngon tất cả những gì Chúa dựng nên cho chúng ta ăn, để chúng ta mạnh về phần xác; khỏe về phần hồn; mắt chúng ta hãy mở to mà nhìn cho rõ đâu là lời của ma quỉ, đâu là Lời của Chúa; đâu là điều tốt, đâu là điều xấu mà chọn lựa và đem ra thực hành. Ma quỉ có cám dỗ, mà chúng ta không nghe, không làm theo thì chúng cũng bó tay thôi; không là gì được chúng ta đâu.

Về mục lục

 

SỐNG CÓ Ý NGHĨA

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

 Con người sống trên đời chỉ có một lần, vì thế, dù ở bậc nào, ai cũng phải cố gắng sống sao cho có ý nghĩa. Thế nào là sống có ý nghĩa? Đó là sống an vui, thanh thản, chấp nhận hiện tại và nhận ra những niềm hạnh phúc, dù nho nhỏ, đang có sẵn xung quanh mình. Người sống có ý nghĩa cũng là người biết sống vì tha nhân, mong cầu hạnh phúc đến với họ. Không chỉ là mong cầu, mà còn thực hiện những hành vi nhằm giúp người khác đạt được hạnh phúc và niềm vui trong cuộc sống. Trong xã hội của chúng ta, có nhiều người sống vô nghĩa, tức là đời sống của họ không có mục đích, tới đâu hay tới đó. Hạng người này không bao giờ bằng lòng, luôn hằn học ghen tương với người khác chỉ vì người ta hơn mình. Cách đây vài tuần, có một thanh niên ngồi trên xe máy, tay cầm chiếc kiếm, hễ gặp chiếc xe hơi nào là anh ta chặt phăng chiếc gương chiếu hậu của chiếc xe đó. Khi bị bắt, anh ta khai: vì buồn khi thấy những người khác hơn mình, còn mình thì suốt đời nghèo khổ và chỉ có chiếc xe máy (!).
 
Người biết sống có ý nghĩa, là người khám phá những điều tốt lành ngay trong những thời điểm khó khăn của cuộc sống. Ông Gióp trong Cựu ước là một người thánh thiện và sống đẹp lòng Chúa. Nhưng rồi, chỉ trong một thời gian ngắn, rất nhiều điều rủi ro xảy đến cho gia đình ông, làm ông mất hết con cái cũng như cơ nghiệp. Ngay người bạn đời của ông cũng xỉ vả và bỏ ông mà đi. Trong cơn đau khổ, ông đã suy nghĩ về sự vô nghĩa của cuộc đời: “Vừa nằm xuống tôi đã nhủ thầm: khi nào trời sáng; mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: bao giờ chiều buông”. Ông Gióp là hình ảnh của biết bao người bi quan khi gặp thử thách trong cuộc sống. Đối với họ, cuộc sống mang màu sắc ảm đạm. Họ sống mà không có niềm hy vọng vào tương lai. Tuy vậy, cần lưu ý đây chỉ là một giai đoạn nhất thời của cuộc đời ông Gióp. Sau đó, Chúa mạc khải cho ông thấy ý nghĩa của sự đau khổ và nhờ xác tín cậy trông vào Chúa, ông tìm lại được niềm vui và hạnh phúc.
 
Nếu chúng ta biết nhìn nhận với con mắt đức tin và với tình yêu mến chân thành, thì  mỗi ngày sống đều đong đầy ý nghĩa. Thánh Máccô kể lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Những cụm từ chỉ thời gian cho chúng ta thấy đó là một ngày rất bận rộn. Buổi sáng, Chúa giảng dạy và chữa bà nhạc mẫu của ông Phêrô đang cảm sốt; buổi chiều cho đến khi mặt trời lặn, Chúa chữa rất nhiều bệnh nhân, kể cả người bị quỷ ám; sáng sớm tinh mơ, Chúa đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cuộc sống của Chúa Giêsu luôn là một cuộc lên đường. Người không dừng lại ở một nơi, nhưng tiếp tục đi đến các làng mạc để loan báo Tin Mừng. Lộ trình của Chúa không có điểm kết thúc. Chúa Giêsu làm việc miệt mài, quên cả thời gian để đem niềm vui và hạnh phúc cho hết mọi người. Hình ảnh Chúa Giêsu làm việc không mệt mỏi là gương mẫu cho chúng ta tìm thấy niềm vui khi dấn thân phục vụ tha nhân. Cuộc sống sẽ như một ao tù, nếu ta sống khép kín và lạnh lùng với người khác. Bí quyết của hạnh phúc là hãy sống vì người khác và đem cho họ niềm vui. Càng dấn thân phục vụ anh chị em, chúng ta càng thấy cuộc đời có ý nghĩa, và như thế, chúng ta càng cảm nghiệm được niềm vui. “Nhàn cư vi bất thiện”, một cuộc sống quá nhàn rỗi sẽ làm chúng ta cảm thấy đơn điệu, lạc lõng và tìm đến những thú vui trần tục. Thánh Phaolô đã noi gương Chúa Giêsu và ông tìm thấy ý nghĩa khi dấn thân phục vụ anh chị em: “Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng” (Bài đọc II). Dấn thân đến mức trở nên giống người đau khổ và bệnh tật, đó là sự hy sinh tới mức anh hùng. Đối với thánh nhân, cuộc sống còn có ý nghĩa đặc biệt khi nhiệt thành giới thiệu Chúa cho mọi người. Đây là một bổn phận quan trọng, đến nỗi ông cảm thấy mình bị chúc dữ nếu không loan báo Tin Mừng.
 
Đừng luôn than phiền vì những người xung quanh thiếu thiện cảm. Bạn hãy tự xét mình xem mình có tạo được thiện cảm với họ hay không. Đừng quá chú trọng đến những thất bại bạn gặp trên đường đời; nhưng hãy nhớ đến những thành công nho nhỏ bạn đã đạt được. Đừng bất mãn vì cuộc đời đen bạc; hãy vui mừng vì xung quanh ta có biết bao bạn thân. Người tin Chúa còn vui mừng vì luôn được Chúa chở che, dìu dắt thương yêu trên mọi nẻo đường đời.
 
Chúng ta đang chuẩn bị đón xuân Mậu Tuất. Năm hết tết đến là dịp chúng ta suy nghĩ về cuộc đời. Cũng giống như người quản lý tính sổ sách cuối năm, chúng ta cần suy tư xét mình trước mặt Chúa về thời gian Chúa ban cho chúng ta. Có những người sử dụng thời gian ấy một cách tốt đẹp và sinh ích lợi; cũng có những người vô tình để thời gian trôi đi một cách vô nghĩa, chẳng ích lợi cho bản thân, cũng không ích lợi cho gia đình và cộng đồng xã hội. Ước mong mỗi chúng ta, dù bất cứ hoàn cảnh nào, cũng khám phá được những điều kỳ diệu của cuộc sống, nhờ đó, sẽ yêu cuộc sống này hơn và yêu mến tha nhân nhiều hơn.

Về mục lục

.

ĐI GIEO TIN MỪNG

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Đoạn Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Qua những hoạt động của một ngày làm việc, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn khuôn mẫu cho người đi gieo Tin Mừng.

Chỉ dẫn thứ nhất: Tin Mừng phải được rao giảng. Ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào Hội đường, đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Việc đọc và diễn giải Lời Chúa là một phần quan trọng của đời sống người môn đệ. Vì Tin Mừng phải được rao giảng. Lời Chúa phải được công bố. Người môn đệ phải say mê rao truyền để cho Lời Chúa trở thành ánh sáng soi đường cho con người, hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hoạt động của con người. Chính Lời Chúa hướng dẫn con người đi trên đường Sự Thật để đạt được Sự Sống.

Chỉ dẫn thứ hai: Tin Mừng phải chứng tỏ bằng yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. Chúa Giêsu đã làm chứng về điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon. Bà nhạc của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà để chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa có quyền năng chỉ cần đứng ngoài cửa phán một lời cũng có thể chữa bệnh cho bà nhạc ông Simon. Hơn nữa ở vào thời phong kiến với quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân, việc cầm tay phụ nữ có gây nên dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm đối với người bệnh và cả sự kính trọng đối với phụ nữ nữa.

Chỉ dẫn thứ ba: Tin Mừng phải đem đến tự do. Mà quỉ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người mất hết ý chí, không còn làm được việc lành, chỉ có thể làm theo mệnh lệnh ma quỉ. Tin Mừng của Chúa có sức giải phóng con người. Giải phóng khỏi sự trói buộc của ma quỉ. Giải phóng khỏi những mặc cảm. Giải phóng khỏi những thói tục hủ lậu, những mê tín cấm ky. Nhờ đó con người có thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá và có thể làm việc lành phục vụ Nước Chúa. Bà nhạc của Simon là một thí dụ điển hình. Khi được khỏi bệnh, bà liền đi đứng và làm việc phục vụ Chúa.

Chỉ dẫn thứ tư: Tin Mừng phải được kín múc từ cội nguồn Thiên Chúa. Sáng sớm, Chúa Giêsu đến nơi vắng vẻ cầu nguyện. Suốt ngày bận rộn với con người, Chúa Giêsu phải dành buổi sáng sớm để cầu ngyện. Điều đó cho thấy, đối với Chúa, việc cầu nguyện là quan trọng biết bao. Chúa Giêsu cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa Cha, tìm sự hướng dẫn sáng suốt cho cuộc đời. Vì thế trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa cầu nguyện với Đức Chúa Cha để múc lấy nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.

Người môn đệ muốn dẫn thân rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa không thể đi ra ngoài những chỉ dẫn khuôn mẫu của Thày Chí Thánh. Phải biết múc lấy nguồn sức mạnh ở nơi Chúa Cha qua việc cầu nguyện. Coi việc cầu nguyện như cội nguồn của hoạt động, như điểm mấu chốt để đi đến thành công. Chuyên tâm học, đọc, suy gẫm Lời Chúa để có thể thấu hiểu và trình bày cho người khác. Nhất là phải làm chứng cho lời rao giảng bằng chính đời sống yêu thương bác ái. Sự yêu thương kính trọng sẽ đưa con người tới tự do, có thể lam những việc tốt đẹp, góp phần vào việc phục vụ Tin Mừng.

Lạy Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin hưỡng dẫn chúng con đi trên đường của Chúa Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý

1- Bạn hãy thử tóm tắt những việc Chúa Giêsu làm trong một ngày.

2- Bạn tha thiết với việc rao giảng Tin Mừng, bạn sẽ làm gì để cho việc rao giảng Tin Mừng có kết quả tốt đẹp?

3- Lời nói phải đi đôi với việc làm. Bạn áp dụng câu nói này thế nào trong đời sống đạo của bạn.

Về mục lục

.

PHỤC VỤ THEO GƯƠNG THẦY GIÊSU

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Nhìn vào thực tế của nhiều đôi vợ chồng, người ta phải công nhận rằng cuộc sống lứa đôi không luôn luôn dễ dàng. Hạnh phúc gia đình luôn bị đe doạ bởi những áng mấy đen bất ngờ xông tới. Khiến cuộc sống chung luôn cảm thấy buồn nhiều hơn vui. Khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Đến  nỗi ca dao đã từng nói:

Chồng gì anh, vợ gì tôi?

Chẳng qua là cái nợ đời chi đây!

Mỗi người một nợ cầm tay,

Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng.

Con đường tình yêu không êm xuôi nhưng luôn lên xuống gập ghềnh, suối thác. Vì, cuộc “trăm năm” nào cũng đầy những thử thách. Biềt bao cặp vợ chồng đang hạnh phúc rồi bỗng dưng cả hai cùng phàn nàn về nhau: không ngờ người ta đổi thay đến thế. Lúc đầu thì thế nào cũng được, miễn là yêu nhau. Nhưng rồi người ta thấy thế này là bất công, thế kia là khó chấp nhận: lẽ nào mình cứ phải quét nhà rửa bát mãi! Tại sao mình cứ phải nấu cơm đi chợ?

Rồi luôn nghĩ thiệt hơn và luôn tìm lợi cho mình mà chẳng ai chịu ai.

Khi mà không còn yêu nhau, người ta thường  dễ tố cáo nhau là ích kỷ, là hẹp hòi , chẳng bao giờ làm cho mình được như ý. Quả đúng như lời nhà tâm lý Jacques Dyssord: “Tình yêu thường mở đầu bằng khoa hùng biện và rồi đổi dần ra khoa triết lý”. Từ chỗ nói cho hay trở thành cãi cho hăng. Từ chỗ chín bỏ làm mười đến chỗ kết án hờn ghen.

Thế là đời sống gia đình trở nên như một nhà tù. Có khi vì danh dự gia đình, hay để tránh không cho con cái biết, hai vợ chồng cố gắng đóng kịch, một bi kịch rất não nề thê thảm, thường tệ hại hơn cả những cuộc cãi vã lớn tiếng. Vì cãi vã xong còn nói chuyện được với nhau nhưng khi không còn gì để nói với nhau thì cuộc sống dài lê thể trong đau khổ.

Sở dĩ hôn nhân thất bại là vì họ hết còn hy sinh cho nhau, hết quan tâm chăm sóc nhau. Nhiều người khi chiếm được nhau thì họ không còn quan tâm người bạn đời, có khi còn hắt hủi, bỏ rơi nhau, khiến người bạn đời cô đơn trong chính mái ấm gia đình mình.

Đây là lúc người ky-tô hữu cần sống tinh thần phục vụ quên mình của Đức Giê-su. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng. Tình yêu Ngài không so đo tính toán. Ngài chỉ dồn hết tâm sức để mang lại niềm vui, bình an cho người mình yêu.

Lời Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của Chúa Giê-su. Ngài giảng dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám. Ngài đến tận nhà nhạc mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ đón tiếp rất đông khách thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và chữa lành bệnh tật cho họ. Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng cả thời giờ của một ngày để phục vụ cho lợi ích tha nhân.

Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng phục vụ như Chúa, thì gia đình sẽ hạnh phúc biết bao! Nếu cuộc đời ai cũng sống có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng. Nếu vợ chồng biết hy sinh cái tôi của mình để hy sinh cho nhau thì hạnh phúc sẽ ngập tràn trong mái gia đình.

Thế nhưng, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.

Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen

Về mục lục

.

HÃY TÌM KIẾM CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Nếu như Chúa Nhật thứ Bốn Mùa Thường niên, Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình tại Capharnaum, thì bước vào Chúa Nhật thứ Năm Mùa Thường niên, sứ vụ Thiên sai của Người được tiếp tục thi hành. Là Thiên Chúa quyền năng trong lời nói cũng như trong hành động. Chúa chữa lành những người bị quỉ ám, Danh tiếng Người nhanh chóng lan truyền khắp mọi nơi. Uy quyền của một Vì Thiên Chúa được tỏ lộ trong hành động, Chúa mở mắt cho người mù, làm cho kẻ què đi được, người điếc nghe được, nói chung là họ sung sướng vui mừng; mọi người đều …thán phục ; các thần ô uế phải vâng lệnh. Cụ thể hơn, Chúa Giêsu hiện diện ở đâu thì ở đó người ta ngỡ ngàng và thán phục. Họ hỏi nhau: Người này là ai vậy, mà ngay cả thần ô uế cũng phải tuân lệnh? Quyền năng của Chúa xác nhận thẩm quyền lời Người giảng. Người không chỉ nói mà còn làm. Công trình của Thiên Chúa được thể hiện cả bằng lời nói lẫn việc làm nơi Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thực thi sứ mạng, bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa Cha qua việc rao giảng và các hành động quan tâm, giúp đỡ người đau bệnh, người nghèo đói, các trẻ em và người tội lỗi.

Hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang ở Capharnaum, trung tâm thi hành sứ vụ của Chúa, đúng hơn là nhà ông Simon Phêrô : “Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê” (Mt 1,29) . Ở đây, chúng ta khám phá ra một gia đình lắng nghe và thực hành Lời Chúa (Lc 8,21). Bà nhạc gia ông Phêrô bị cảm sốt đang nằm trên giường, Chúa Giêsu tiến lại gần, Người cầm tay bà, một cử chỉ vượt quá những gì mà sách Tin Mừng đã trình bày như : Chúa đưa tay ra và đụng lên người bệnh, tại nhà ông Simon Phêrô, Chúa cầm tay bà và nâng đỡ bà dậy.

Cử chỉ này khiến mọi người phải thốt lên : Thiên Chúa thật quá đỗi hạ mình xuống để tìm kiếm chúng ta, và vì thế mà phẩm giá con người được tìm kiếm được nâng lên!… “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa để ý lưu tâm? ” (G 7,17). Tôi muốn biết tại sao Thiên Chúa lại muốn đích thân đến với chúng ta và tại sao chúng ta không phải là những người đến với Thiên Chúa trước? Việc Chúa Giêsu làm trong Tin Mừng hôm nay, không phải là thói quen của người giàu đi đến người nghèo, ngay cả khi họ có ý tốt lành.

Phần chúng ta, chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nhưng có một trở ngại ngăn cản chúng ta: mắt chúng ta bị mù lòa, không thể tiếp cận được Chúa là Áng Sáng; chúng tôi đã bị liệt trên giường bệnh, khiến chúng ta không thể đạt tới sự vĩ đại của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Đấng Cứu Độ chúng ta, một lương y tốt lành và là bác sĩ của tâm hồn chúng ta đã từ trời cao hạ mình xuống, đến với con người, làm cho đôi mắt ốm yếu của con người thấy được ánh vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa Cha đã đến gần với người nghèo và những người đau khổ mà người ta đưa đến với Chúa để được chữa lành. Bằng cử chỉ đưa bàn tay, Chúa đụng chạm tới họ, nguồn mạch sự sống tuôn trào, họ được giải thoát và được cứu.

Hết thảy mọi người đều tìm kiếm Chúa Giêsu, chỉ có một số người bị buộc đưa đến, vì “lòng chúng ta còn khắc khoải cho tới bao giờ được nghỉ ngơi trong Chúa” (Thánh Augustinô).

Nhưng, cùng một cách thức chúng ta tìm kiếm Chúa vì chúng ta cần đến với Chúa để Người giải thoát chúng ta khỏi sự ác và Sự Xấu, Người đến với chúng ta và đến gần hơn để có thể làm điều mà chúng ta không thể làm được một mình. Người đã trở nên yếu đuối để cứu chuộc chúng ta là những người yếu đuối, “Tôi đã tự cứu mình bằng mọi giá” (1Cr 9,22).

Vẫn có một bàn tay đầy sức mạnh vô hình đang chìa về phía chúng ta, những người đang bị bủa vây bởi muôn điều xấu, chúng lôi kéo chúng ta và giữ chân chúng ta lại. Chúng ta có thể “vươn lên và bước tới” bằng lời cầu nguyện, cụ thể như Chúa : “Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó”(Mc 1,35).

Hơn nữa, mỗi Thánh lễ Chúa Nhật là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng đến đưa tay ra để nâng chúng ta khỏi giường tội lỗi và chán nản, làm cho chúng ta sống vui, sống hạnh phúc trong Chúa và với mọi người.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con kêu cầu Chúa, xin Chúa đưa tay ra nâng đỡ và lôi kéo chúng con lên. Amen.

Về mục lục

.

TRÁI TIM NHẠY CẢM

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đức Giêsu khi đi rao giảng Tin Mừng cùng với các môn đệ, Ngài đã không chỉ thuyết giảng mà thôi, nhưng Ngài đã quan tâm tới mọi lớp người, đặc biệt là những bệnh nhân, những người nghèo khổ, những người bị thần ô uế quấy phá vv…Chúa đã xoa dịu nỗi  đau khổ của con người, Ngài đã cảm thông với mọi lớp người trong xã hội, đã đến với họ, cứu chữa họ và cảm thông, chia sẻ những nỗi khó khăn, nhọc nhằn họ đang gặp phải trong cuộc sống. Ngài có đôi mắt dịu hiền, con tim nhạy cảm, trái tim yêu thương. Lời nói và việc làm của Chúa luôn luôn đi đôi với nhau, do đó,nhiều người đã tin vào Ngài…    

Đức Giêsu hoàn toàn khác biệt với các Kinh sư, Luật sĩ và Biệt phái, bởi vì các vị này nói mà không làm, họ chất gánh nặng trên vai những người khác, bầy đặt, lập ra mọi thứ luật lệ nhỏ nhoi, ty tiện hầu làm cho người khác phải khổ, còn mình thì không thực hiện bất cứ điều gì ! Trong đoạn Tin Mừng này, thánh Máccô đã cho chúng ta thấy hình ảnh một vị lang y nhân từ, một vị thầy thuốc với tấm lòng, với con tim đầy yêu thương của mình, vị bác sĩ ấy chính là Đức Giêsu. Hình ảnh này làm nổi bật lòng thương xót, tâm hồn quảng đại của Chúa Giêsu, khi Ngài đối diện với sự đau khổ của bệnh tật mà bà mẹ vợ của ông Simon đang gặp trong những ngày nằm trên giường bệnh. Chúa chạnh thương, với uy quyền và tình thương, Ngài đến gần bà nhạc gia của ông Simon, cúi xuống, cầm lấy tay bà mà chữa lành bà. Thái độ, việc làm và cử chỉ đầy yêu thương của Chúa đối với bà mẹ vợ của ông Simon, cũng là cử chỉ yêu thương của tấm lòng quảng đại, nhân ái mà Chúa dành cho nhân loại, cho con người, cho chúng ta, đặc biệt đối với những con người gặp thử thách, khó khăn trong cuộc đời. Phép lạ Chúa làm cho bà nhạc gia ông Simon nói lên uy quyền tối cao của Chúa Giêsu trên sự dữ. Đau ốm theo quan niệm của người Do Thái là do con người tội lỗi.Bệnh càng nặng, tội càng nhiều…Chúa Giêsu đã đánh đổ quan niệm đó và cho thấy lòng nhân từ thương xót của Chúa đối với mọi người. Cách chữa bệnh và xua trừ ma quỷ của Chúa Giêsu đối với những người bị đau mọi thứ bệnh và đối với những người bị quỷ ám không giống bất cứ vị lang y hay bác sĩ nào ở trần gian.Với lời truyền đầy quyền năng, cùng với cử chỉ đầy yêu thương của Chúa, Ngài đã biểu lộ tình thương vô bờ, tinh thần phục vụ khiêm tốn thẩm sâu của một Vị Thiên Chúa quyền năng.

Vâng, Chúa Giêsu đã hành động, đã làm nhiều phép lạ trong những năm tháng đi rao giảng với trái tim đầy yêu thương, với con tim nhạy cảm, với ánh mắt dịu dàng và với đôi tay nhẹ nhàng, đầy uy lực của một vị lương y nhân từ… Mỗi giây phút trong đời sống, chúng ta cũng đang phải chạm trán, phải đối diện với nhiều người đang gặp thử thách, những bệnh nhân đang mắc đủ chứng bệnh. Đó là những đau khổ của cuộc đời, của kiếp nhân sinh. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy mau mắn xoa dịu những nỗi đau của tha nhân : một lời an ủi, một cử chỉ nhân ái, một nụ cười, một sự giúp đỡ nho nhỏ cũng đủ làm vinh danh Chúa và giúp tha nhân nhận ra Chúa trong ta, và giúp tha nhân hiểu được tình thương của Chúa. Một hành động bác ái yêu thương cũng đủ làm cho danh Chúa lan rộng và tỏa sáng…

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết dừng lại công việc để nghỉ ngơi, và đặc biệt để cầu nguyện. Nghỉ ngơi và cầu nguyện sẽ giúp chúng con nhận ra bàn tay nhân từ của Chúa. Xin đừng để cho chúng con bị tiền tài, danh vọng và việc làm khỏa lấp tất cả đến nỗi chúng con quên cầu nguyện, bởi vì không có Chúa chúng con không thể làm gì được. Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe và tuân theo lời Chúa dạy :” Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà cầu nguyện và nghỉ ngơi đôi chút “. Xin Chúa giúp chúng con biết xót thương, biết cảm thông với người khác như Chúa đã tỏ lòng nhân từ và xoa dịu, cứu vớt những người tội lỗi và bệnh hoạn tật nguyền. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Chúa đã làm phép lạ cho bà nhạc gia ông Simon ở đâu ?

2.Cách Chúa Giêsu chữa bệnh ?

3.Tại sao Chúa Giêsu lại chữa bệnh cho nhiều người ?

4.Việc Ngài làm như thế nói lên điều gì đối với nhân loại ?

5.Thái độ của chúng ta phải ra sao đối với những người gặp thử thách, gian nan và khó khăn ?

Về mục lục

.

XIN THẦY CHỮA CON

Bông hồng nhỏ

– Cháu về nhà ngày đi kẻo không kịp.

– Có chuyện gì vậy cô Hai?

– Mẹ cháu đang bệnh nặng lắm. Xem chừng không qua khỏi.

Nghe tin mẹ bệnh, Nam vội vàng bắt xe từ Sài Gòn về Bình Thuận. Quãng đường xa càng khiến cho cậu con trai thêm nóng ruột.

Trong cuộc sống, ta cần được thông tin điều này điểu kia. Nếu như cô Hai không gọi điện cho Nam, cậu ấy đâu biết mẹ bệnh nặng mà về thăm. Ta cũng đã từng phải thốt lên hai từ “giá mà”, “nếu như” chỉ vì ta đã không thể làm được điều gì đó cho một người thân.

Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu từ Hội đường Caphácnaum đến nhà mẹ vợ ông Simon, ta được chứng kiến cung cách hành xử rất đẹp của Thầy. Được tin mẹ vợ của Simon đang ốm, các ông lập tức báo cho Thầy biết. Ta tự hỏi nếu các ông không nhanh chóng báo tin cho Thầy liệu Thầy có biết trong nhà đang có người bệnh nặng không? Có lẽ, đây không phải là lần đầu tiên Thầy ghé thăm nhà mẹ vợ ông Simon. Ta hình dung những lần trước, khi Thầy ghé thăm, bà nhạc đã đon đả ra tiếp Thầy và các môn đệ rồi. Hôm nay, Thầy ghé thăm đây mà chưa thấy bà ra đón như mọi lần thì sẽ thấy sự bất thường. Các môn đệ cùng đi theo Thầy lúc ấy đã báo ngay cho Thầy biết tình trạng của bà. Thầy đã nhanh chân đến gần bà, cầm lấy tay bà và đỡ dậy. Lập tức, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (x. Mc 1,37- 38). Thầy đã tỏ ra rất ưu ái bà nhạc của môn đệ Simon khi đến gần bà, cầm lấy tay và đỡ bà dậy. Có những khi ta vật vã trên những căn bệnh của chính mình và cần một ai đó đến bên cạnh và đỡ dậy. Ta hãy xin Thầy Giêsu cầm lấy tay ta và kéo ta ra khỏi cơn bệnh đang ghì chặt lấy thân xác yếu hèn này. Khi được Thầy chữa lành cho rồi, ta hãy mau mắn và vui mừng phục vụ anh chị em mình.

Chiều đến, người ta đưa mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám đến cho Thầy và Thầy đã chữa lành tất cả. Thầy đã dành hết thời gian trong ngày để dạy dỗ và chữa lành những tâm hồn thương tổn. Danh tiếng Thầy bây giờ đã được truyền đi xa. Đúng như câu tục ngữ của người Việt “tiếng lành đồn xa”. Nhiều kẻ chịu ơn Thầy và muốn Thầy lưu lại với họ lâu hơn nữa. Nhưng Thầy muốn đến với những người khác nữa, bước chân người truyền giáo không phải là lưa lại lâu hơn nhưng là thắp lủa cho nhiều tâm hồn hơn, mang ánh sáng Tin Mừng đến những vùng còn lạnh lẽo và tối tăm. Khi không thấy Thầy đâu, các môn đệ liền đi tìm Thầy. Sáng sớm khi trời còn tối đất mà Thầy có thể đi đâu được? Thầy đã đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện ở đó. Thầy muốn dành giây phút đầu ngày cho Chúa Cha và để tâm sự cùng Cha những thao thức, những nỗi niềm của mình, để có sức mạnh vượt thắng mọi cám dỗ. Có một lần, ta đi tìm người chị em và được người khác chỉ cho: “Muốn tìm chị ấy thì chỉ có tìm trong nhà nguyện thôi.”. Gắn bó với Chúa là thế đó, chỉ muốn ở một mình với Chúa thôi. Thế nên, người ta mới bảo cầu nguyện là hơi thở của cuôc sống. Thầy Giêsu là Thiên Chúa làm người vẫn luôn giữ mối dây mật thiết cùng Chúa Cha. Hãy noi gương Thầy.

Lạy Chúa! Này con đây luôn mang trong mình những căn bệnh. Con đã từng nằm hôn mê trong căn bệnh của mình. Con cần Chúa đến bên cầm tay nâng dậy và kéo con ra khỏi tình trạng ấy. Giữa những khó khăn và cám dỗ của cuộc sống, xin cho con tin tưởng rằng, cầu nguyện là cách con bước ra khỏi những khó khăn ấy. Amen.

Về mục lục

.

MỘT NGÀY SỐNG

          Anna Cỏ May

Một đứa trẻ chào đời, tiếng nói đầu tiên là tiếng khóc. Khi lớn hơn một chút  là bập bẹ gọi ba, gọi mẹ. Lớn hơn nữa là tuổi vui chơi và học tập. Và khi đã trưởng thành, nó bắt đầu lo cho cuộc sống cho mình và tìm một gia đình mới. Nó lên kế hoạch cho bản thân và cho gia đình mới. Và mỗi người chúng ta cũng đã có một kế hoạch cho ngày sống, cho cả tuần, cho cả tháng và cho cả năm.

Vậy là ai cũng đã có kế hoạch cho mình. Chúa Giêsu khi sống ở trần gian Ngài cũng có những kế hoạch cho mình trong từng ngày sống. Ngay khi ông Gioan vừa bị bắt, Ngài đã bắt đầu sứ mạng của mình. Trong Tin Mừng Máccô, ngày đầu tiên của Ngài là rao giảng kêu gọi mọi người sám hối, cùng kêu gọi các môn đệ đầu tiên theo Ngài và giảng dạy ở trong hội đường. Sau đó, Ngài đến nhà hai anh em là Simôn và Anrê. Tại đây Ngài tiếp tục chữa bệnh cho mẹ vợ ông Simon. Và khi cơn sốt vừa dứt, bà liền phục vụ các Ngài. Phải chăng nhà ông Simon là nơi nghỉ trưa của Chúa Giêsu. Vì Tin Mừng viết, chiều đến người ta lại đem mọi kẻ ốm đau, và quỷ ám đến để Chúa Giêsu chữa. Ngài đã ở và nghỉ qua đêm ở đó. Vì thế, sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, mọi người đang ngủ, Ngài đã dậy đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện. Và ngày sống đầu tiên của Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Ngài cầu nguyện để làm gì? Ngài cầu nguyện lúc mọi người còn chìm trong giấc ngủ, không ai cầu cứu hay quấy rầy Ngài. Ngài cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa Cha, để lãnh sức sống và sức mạnh cho ngày mới. Ngài cầu nguyện để thoát khỏi sự kêu ngạo khi mọi người đang lui tới với Ngài. Và Ngài cầu nguyện để nhìn lại mục đích công việc của mình nơi trần gian là gì. Do đó, khi các môn đệ thưa: “Mọi người đang tìm Thầy”. Ngài liền bảo các ông: “Chúng ta hãy đi đến nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.(Mc 1,37- 38). Sứ mạng của Ngài là đi khắp mọi nơi đến với mọi người, chứ không ở một địa điểm để mọi người lui tới. Ngài phải ra đi rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu độ cho hết và hết mọi người. Cuộc sống của Ngài luôn và chỉ làm vì tình yêu Chúa Cha và vì mọi người. Bởi đó, dù gian lao vất vả trên đường đi, Ngài vẫn không lùi bước, một lòng vâng theo ý Chúa Cha.

Trong thế giới hiện nay, ngày sống của chúng ta cũng đủ muôn màu sắc, vui buồn lẫn lộn. Nhưng làm sao chúng ta vượt qua được? Trong giờ Mĩ thuật, cô giáo hỏi cậu bé: “Con vẽ bức tranh này thì tặng cho ai?”.  “Dạ con tặng cho bố mẹ ạ!” Rồi cậu bé hăng say vẽ, tuy bức tranh không rõ nhưng đó là cả tấm lòng của cậu bé. Chúng ta hãy cùng xác định lại những công việc hằng ngày làm là vì ai, cho bạn hay cho mọi người hay vì mục đích nào? Nhờ đó, công việc chúng ta làm mới hoàn thành tốt và có ý nghĩa. Chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa Giêsu là bắt đầu ngày mới bằng lời cầu nguyện chân thành với Thiên Chúa. Nhờ vậy, chúng ta thoát được khỏi danh vọng  mờ ảo thế gian.

Lạy Chúa, Chúa dựng nên tất cả trong vũ trụ này. Chúa cho chúng con thời gian và quyền làm chủ tất cả. Nhiệm vụ của chúng con là hưởng dùng và làm sinh sôi nảy nở chúng qua từng ngày sống. Thế nhưng, chúng con đã làm gì? Chúng con chưa hiểu biết rõ và xác định ngày sống chúng con vì ai? Bởi đó, tất cả việc làm chúng con trong ngày sống còn mơ hồ và mang sự ích kỷ. Chúng con rất cần ơn Chúa nâng đỡ trong từng ngày và kéo chúng con ra khỏi hố sâu bùn lầy lỗi lầm. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG VÌ MỌI NGƯỜI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Nhìn vào xã hội loài người, chúng ta nhận thấy có hai hạng người mang hai tính cách đối nghịch: Một là hạng người vị kỷ; hai là hạng người vị tha.

Người vị kỷ

Người vị kỷ là hạng người chỉ biết sống vì mình, đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống. Tất cả mọi hoạt động của họ đều quy về bản thân, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình mà không hề quan tâm giúp đỡ người khác, thậm chí còn làm hại người khác để kiếm lợi cho mình.

Người vị tha

Người vị tha là người quên mình để quan tâm chăm lo, phục vụ người khác. Chúa Giê-su là tiêu biểu cho hạng người nầy. Ngài chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Ngài hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho sự phục vụ tận tuỵ của Ngài và Ngài làm tất cả những gì có thể, để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Ngài chỉ biết sống vì người khác, sống để cứu độ người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.

Tin mừng Mác-cô (1, 29-39) hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giê-su, một người hoàn toàn vị tha, luôn cúi xuống trên những mảnh đời lầm than khốn khổ để giúp đỡ cứu vớt họ. 

Hôm ấy, “Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ.”

Sáng hôm sau, “lúc trời còn tối mịt, Ngài đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”

Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”

Chúa Giê-su không khoanh vùng phục vụ của Ngài trong phạm vi nhỏ hẹp. Ngài muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giê-su không giới hạn tình yêu của Ngài cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người. Thế nên “Ngài bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Ngài đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ.”

Nói tóm lại, không một người đau khổ nào đến với Chúa Giê-su mà không được Ngài quan tâm chăm sóc. Không một kẻ bất hạnh nào gặp Chúa mà chẳng được Chúa dủ lòng thương. Chúa đến trần gian để sống cho mọi người, yêu thương hết mọi người và hiến thân phục vụ tất cả không trừ ai.

Sống vị tha theo gương Chúa Giê-su

Sở dĩ mỗi chiếc lá trên cây được tươi tốt là nhờ thân cây và nhờ những chiếc lá khác nuôi dưỡng nó.

Tương tự như thế, mỗi người chúng ta được tồn tại và phát triển là nhờ xã hội và nhờ những người khác nuôi sống chúng ta.

Vậy thì đến lượt mình, mỗi người chúng ta cũng phải góp phần vào việc làm cho những người chung quanh chúng ta được tồn tại và phát triển.

Do đó, không ai được phép bo bo chăm lo cho riêng mình, nhưng phải cống hiến đời mình phục vụ anh chị em chung quanh.

Trong khu vườn kia có hai cây cam. Một cây không bao giờ sinh trái nên chủ vườn tỏ ra thất vọng về nó và muốn chặt bỏ nó đi; trong khi cây kia năm nào cũng trỗ sinh nhiều quả ngọt nên được chủ vườn yêu quý. Cũng thế, người nào có nhiều cống hiến tốt đẹp cho đời sẽ làm cho bản thân mình nên cao cả và đáng được mọi người yêu quý hơn.

Lạy Chúa Giê-su, Chúa luôn vị tha và đã sống hết mình vì mọi người.

Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng ích kỷ chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho người khác.

Nếu hôm nay chúng con chỉ biết chăm lo phục vụ bản thân mình mà không dấn thân phục vụ người khác, thì vào lúc từ giã đời này, chúng con sẽ cùng chịu án phạt đời đời với lão phú hộ không biết thương xót La-da-rô khốn khổ (Lu-ca 16, 19-31), hoặc như những người bị Chúa lên án trong dụ ngôn “Phán xét cuối cùng” vì đã không yêu thương phục vụ những người chung quanh. (Mát-thêu 25, 31-46).

Về mục lục

.

CỨU ĐỘ

Lm. Trần Việt Hùng

Gia đình tổ ấm yêu thương,

Có cha có mẹ, tựa nương tháng ngày.

Thầy trò thăm hỏi hôm nay,

Nhạc gia cảm sốt, xin Thầy chữa cho.

Si-mon cầu khấn lắng lo,

Mẹ già mắc bệnh, ai lo tiếp Thầy.

Cầm tay Chúa chữa ngay đây,

Bệnh tình biến mất, lòng đầy hân hoan.

Chiều về dân chúng lo toan,

Vội vàng kéo đến, một đoàn bệnh nhân.

Xin Thầy cứu chữa ban ân,

Xua trừ ma quỉ, xác thân khổ sầu.

Chúa thương ban phúc lời cầu,

Tinh sương rạng sáng, nơi đâu tìm Thầy,

Vào nơi thanh vắng nào đây,

Tin vui rao giảng, nơi này làng kia.

Chúa Giêsu đã ra công khai rao giảng Tin Mừng. Ngài chính thức vào nơi Hội Đường Do Thái để loan tin vui Cứu Độ. Nhiều người ngạc nhiên về sự hiểu biết và quyền năng của Chúa. Một số người đã tin và đi theo Chúa. Cũng nhiều kẻ còn hồ nghi, ghen tương và chối từ Ngài.   

Sau khi rời Hội Đường, Ngài và các môn đệ trở về nhà ông Simon. Ngạc nhiên là mẹ vợ của Simon bị bệnh sốt. Chúa đã ghé thăm và chữa bệnh cho bà. Chúng ta không thấy phúc âm nhắc đến vợ và con cái của ông Simon. Dĩ nhiên Simon vẫn quan tâm cho gia đình và có lẽ Chúa và các môn đệ ghé thường xuyên để ăn uống trong suốt thời gian rao giảng.   

Chúa gọi Simon, ông bỏ mọi sự và đi theo Chúa. Bỏ lại gia đình, chài lưới và công ăn việc làm hàng ngày. Đây là một sự đáp trả tiếng Chúa thật cao qúy. Simon âm thầm đi theo Chúa, một người Thầy không có nơi gối đầu.  

Theo Thầy lang thang phố này qua phố khác. Chúa tìm đến với những người cùng khổ và nghèo nàn. Từng bước Chúa đã tỏ uy quyền trong chương trình cứu độ. Chúa rao giảng tin mừng, chữa tất cả các loại bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ ma qủy. Chúa bắt đầu đối đầu với tất cả các tệ nạn của xã hội. Chúa muốn họ thay đổi tư duy và thay đổi cách sống. Mời gọi sống với trái tim chân tình và yêu thương.   

Một giáo lý mới lấy tâm làm nền. Mọi sự quy về đức yêu thương. Chúa đã chạnh lòng thương vì dân chúng bơ vơ không có người chăn dắt. Ngài đến để quy tụ họ về một mối. Ngài chính là Chúa Chiên Lành. Chúa Chiên dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Thao thức của Ngài là đến với từng con chiên lạc, ôm ấp, dắt dìu và vỗ về trong vòng tay yêu thương.   

Chúng ta hãy trao phó cuộc sống của chúng ta trong vòng tay lân ái của Chúa. Chúa sẽ chữa lành mọi vết thương lòng và khổ đau thân xác. Tình thương của Chúa thật hải hà. Có khi nào chúng ta chạy đến với Chúa khẩn cầu mà Chúa chẳng nhậm lời. Chúa đang giang tay trên thập giá chờ đón chúng ta kìa.

Về mục lục

.

CON NGƯỜI TRỞ NÊN VĨ ĐẠI NHỜ CẦU NGUYỆN

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Pascal là một nhà bác học nổi tiếng và cũng là một nhà triết gia lỗi lạc, ông đã có một câu nói thời danh để đời như sau: “Con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện”.

Thật vậy, con người là loài thụ tạo cao quý nhất mà Thiên Chúa dựng nên. Con người có giá trị trổi vượt trên các loài thụ tạo khác. Tuy nhiên, con người chỉ có thể trở nên vĩ đại nhờ có một mối tương quan mật thiết với Đấng là chủ tể của mình ngang qua đời sống cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện là chiếc cầu nối liền giữa Thiên Chúa và con người. Cầu nguyện làm cho con người tìm ra được nguồn cội, cùng đích của cuộc đời. Cầu nguyện cũng giúp cho con người biết mình phải làm gì và khước từ điều gì.

Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu ngay từ sáng sớm, người lánh sang một nơi thanh vắng để cầu nguyện sau một ngày làm việc mệt nhọc với sứ vụ và tiếp tục với hành trình rao giảng Tin Mừng mới. Điều này cho thấy: cầu nguyện là việc vô cùng cao quý và quan trọng trong hành trình loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu cũng như người môn đệ.

  1. Cầu nguyện không ngừng

Đã có lần, Đức Giêsu nghe các môn đệ của mình kể về thành tích mà các ông đạt được sau những ngày vất vả vì sứ vụ. Các ông trở về trong hân hoan và khoe với Ngài về thành tích đạt được, nào là: thành công trong việc chữa lành bệnh tật, nhiều người nghe lời các ông giảng và ngay cả ma quỷ cũng phải khuất phục (x. Mc 6, 30-31).

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không khen ngợi các ông, Ngài cũng chẳng đề nghị các ông tiếp tục thi hành. Và hoàn toàn không mở tiệc linh đình để tuyên dương kết quả! Nhưng Ngài nói với các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31). Nghỉ ngơi ở đây có nghĩa là trở về với Thiên Chúa và với bản thân trong sự thinh lặng nội tâm sâu xa.

Còn khi dạy các Tông đồ cầu nguyện, Ngài nói: “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” (Lc 18,1); chỗ khác Ngài truyền lệnh: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38). Hơn nữa, khi nói về giới hạn của con người và tầm quan trọng của cầu nguyện, Ngài mặc khải: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga 15,5) Hay để khơi lên niềm tín thác vào Thiên Chúa là Đấng xót thương, Đức Giêsu khẳng định: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).

Như vậy, đời sống cầu nguyện là nền tảng để xây dựng đời sống Tông đồ nơi người môn đệ. Cầu nguyện chính là hồn sống, là thước đo để biết được người Tông đồ thi hành sứ vụ vì ai, cho ai và mục đích gì! Cầu nguyện còn để xác định rõ: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Nói cách khác, đời sống cầu nguyện được ví cá cần nước, cây cần ánh sáng, con người cần hơi thở.

  1. Mẫu gương cầu nguyện nơi Đức Giêsu

Khi thấy được tầm quan trọng không thể thiếu của đời sống cầu nguyện, nên Đức Giêsu không chỉ dạy các môn đệ cầu nguyện, nhưng chính Ngài đã làm gương về đời sống cầu nguyện.

Thật vậy, Ngài luôn luôn cầu nguyện trước, trong và sau khi làm bất cứ việc gì. Ngài cầu nguyện trong sa mạc; nơi hội đường; trên triền núi; ngoài bãi biển….

Hôm nay, thánh Máccô một lần nữa cho ta thấy Đức Giêsu coi trọng và ưu tiên hàng đầu trong việc cầu nguyện, tác giả viết: “Sáng sớm  lúc trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu  nguyện ở đó” (Mc l,35).

Khung cảnh “sáng sớm” cho chúng ta thấy một đêm dài đã kết thúc và một ngày mới khởi đầu. Thái độ cầu nguyện ngay từ khi trời còn tối báo cho chúng ta biết, Đức Giêsu chắc chắn tạ ơn, chúc tụng quyền năng của Thiên Chúa qua những việc Ngài đã làm trong ngày hôm trước như: thăm viếng, chữa bệnh, trừ quỷ…. Mặt khác, trải qua một đêm có lẽ nhiều thao thức, trăn trở và lựa chọn để làm trong ngày mới, nên ngay từ sáng sớm, Ngài đã xin ý của Thiên Chúa qua việc cầu nguyện, để mọi việc được diễn ra trong thánh ý của Người. Chính vì điều này mà mọi hoạt động của Đức Giêsu đều quy hướng về Thiên Chúa và mang lại vinh quang cho Người.

Như vậy, giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa có một sự gắn kết mật thiết đến độ không thể tách rời đến nỗi đã có lần Đức Giêsu tuyên bố: “Ta và Cha ta là một”; hay “lương thực của Thầy là thi hành ýmuốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34 ).

  1. Cầu nguyện là nền tảng cho mọi hoạt động

Ngày nay, chúng ta thấy có rất nhiều sự rạn nứt qua các mối tương quan như: rất nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ, vợ chồng không còn tin tưởng nhau, thiếu sự chung thủy. Nạn phá thai diễn ra như cơm bữa. Lương tâm, chân lý không còn được lưu tâm hay bị lệch lạc. Con cái vô cảm, bất hiếu và hỗn xược với đấng sinh thành. Anh chị em trong gia đình loại trừ nhau. Hàng xóm láng giềng không còn chuyện “tối lửa tắt đèn có nhau”! Thầy cô giáo và học trò ít quan tâm đến chuyện: “Tiên học lễ, Hậu Học văn”; vì thầy chẳng ra thầy, trò chẳng ra trò! Bạn bè với nhau không còn tính trung thực, mà thay vào đó là lợi dụng nhau, thanh toán nhau bằng nắm đấm, song sắt, lưỡi lê….

Nguyên nhân lớn nhất đó là thiếu hay coi thường hoặc không có đời sống cầu nguyện. Bởi vì, không cầu nguyện, con người sẽ không nhận ra Thiên Chúa là ai cũng như không biết coi trọng nhân phẩm của mình và của nhau. Không có đời sống cầu nguyện, người ta cũng không tìm ra lý tưởng và không thể trả lời được về mục đích của sự hiện hữu nơi mình trên trần gian. Đàng khác, khi đời sống cầu nguyện bị sao nhãng, người ta cũng chẳng cần quan tâm đến sự thật và lòng trung thành, từ đó, họ có thể làm bất cứ điều gì mà không sợ áy náy! Họ sẵn sàng “dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt”; hay cả phương tiện và mục đích đều xấu, nhưng lương tâm đã bị trai lỳ, vô cảm nên họ vẫn sẵn sàng làm cho kỳ được để thỏa mãn điều mong muốn một cách bất nhân.

Hơn nữa, nhiều người có cầu nguyện, nhưng sự hời hợt, qua lần chiếu lệ đã làm cho họ chẳng khác gì như hạt giống gieo nơi vệ đường, trên bụi gai và nơi đá sỏi. Hãy nhớ lại câu chuyện Tổ Tông sa ngã chỉ vì hiểu có một nửa sự thật!

Chính vì thiếu đời sống cầu nguyện sâu xa như thế, nên việc sống đạo của chúng ta bị nhàm chán, hờ hững và hình thức bên ngoài, khiến cho những công việc chúng ta làm bị phản tác dụng khi nó quy chiếu về bản thân mình chứ không hướng về Chúa.

Muốn khắc phục tình trạng trên, chúng ta cần chuẩn bị tinh thần thật minh mẫn, sốt sắng, vui tươi như thể mình đang chuẩn bị đi gặp “người yêu”. Phải thực sự có kinh nghiệm cá vị về Thiên Chúa. Mặt khác, chúng ta phải tin tưởng chắc chắn rằng, chúng ta đang ở bên Chúa, Chúa đang ở bên ta, vì thế, cần có thái độ của đức tin để phó thác, thái độ khiêm tốn để lắng nghe. Bởi vì: “Cầu nguyện là hô hấp của tâm hồn”.

Chỉ có thế, chúng ta mới có thể xóa đi cái “tôi” ích kỷ, hư ảo, kiêu ngạo, để thay vào đó là sự khiêm tốn, hiền lành và khiêm nhường như Chúa . Như vậy, nhờ đời sống cầu nguyện, chúng ta mới nhận ra: “Con người vĩ đại nhờ cầu nguyện”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đặt mình bên cạnh Chúa, được sống với Chúa, được nhìn ngắm Chúa, được lắng nghe tiếng Chúa, được gặp gỡ Chúa, và được chìm sâu trong Chúa, Đấng cứu độ chúng con ngang qua đời sống cầu nguyện. Amen.

Về mục lục

.

ĐỜI LÀ BỂ KHỔ

JM. Lam Thy

Thánh sử Mát-thêu mở đầu sách Kinh Thánh của ngài bằng cách viết về Gia phả của Đức Giê-su; Thánh Lu-ca thì mở đầu bằng trình thuật thời thơ ấu của Đức Giê-su và Thánh Gio-an Tẩy Giả; Thánh sử Gio-an thì mở đầu bằng “Lời tựa” trình bày lý do viết sách, sau đó đi thẳng vào “Tuần lễ khai mạc Sứ vụ của Đức Giê-su”. Khác với các tác giả vừa nêu, Thánh sử Mác-cô mở đầu sách Kinh Thánh của ngài bằng cách đi thẳng vào “Giai đoạn dọn đường cho sứ vụ của Đức Giê-su”. Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ bằng việc tới sông Gio-đan xin ông Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa. Tiếp theo đó, Người thu nhận 4 môn đệ đầu tiên (gồm các ông Si-mon, An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an).

Bài Tin Mừng hôm nay (CN V.TN-B – Mc 1, 29-39) trình thuật Đức Giê-su rời khỏi hội đường Ca-phác-na-um, rồi đi tới nhà 2 ông Si-mon và An-rê. Tại đây Người đã chữa lành bệnh cho nhạc mẫu ông Si-mon. Tiếp theo, Người chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ. Cuối cùng, Người rời khỏi Ca-phac-na-um từ sáng sớm (lúc trời còn tối). Người bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ.” (Mc 1, 35-39).

Như vậy, chủ đề chính của Chúa nhật này (CN V/TN-B) là công việc truyền giáo (rao giảng Tin Mừng cứu độ, chữa lành bệnh tật cho nhiều người, nói chung là chia sẻ tình thương với mọi người). Có lẽ cũng vì thế, Giáo hội mới ấn định bài đọc 1 bằng cách trích một đoạn trong sách của ngôn sứ Gióp (G 7, 1-4.6-7). Đoạn văn này nói về cuộc sống của con người nơi trần thế vô cùng cực nhọc vất vả. Quả thật “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?” (G 7, 1). Nếu cứ như vậy đi tới chỗ không tìm được lối thoát, con người sẽ chẳng còn tin tưởng vào sự gì, chán đời, bi lụy, trở nên bi quan yếm thế tột cùng. Tuy nhiên, nếu chịu suy nghĩ chín chắn sẽ hiểu ra được đời là thế, đời chưa phải, không phải là bồng lai tiên cảnh, là Thiên đàng, Niết bàn, mà thực chất đời chỉ là bể khổ. Những gian lao khổ ải là những khó khăn trở ngại tất yếu của cuộc sống trần ai, và nếu vượt qua được thì sẽ tìm thấy hạnh phúc đích thực.

Nhận chân được vấn đề, con người sẽ kiên trì phấn đấu, nhưng cũng có thể với sức người mỏng giòn yếu đuối, không thể vượt thắng được thử thách, thì phải biết cậy dựa vào Đấng Toàn Năng như ông Gióp thủa xưa: Ông đã thất vọng (“Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng”). Thất vọng nhưng không tuyệt vọng, mà biết chạy đến thưa với Đấng mà ông đã biết và đã tin: “Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.” (G 7, 6-7); từ đó ông khẩn thiết van nài xin Người cứu chữa. Ông đã được toại nguyện “Người sẽ lại cho miệng anh rộn rã tiếng cười, và môi anh vang khúc hoan ca. Kẻ thù ghét anh phải thẹn thùng xấu hổ, nơi ở của phường gian ác cũng chẳng còn.” (G 8, 21-22). Vấn đề đặt ra chính là ở chỗ đó.

Cuộc sống của mỗi người đều phải trải qua những lúc khổ đau, bệnh tật, bởi “sinh, lão, bệnh, tử”, phải luôn luôn đối mặt với môi trường, với thiên nhiên khắc nghiệt, ấy là chưa kể còn phải chống cự với những nham hiểm của lòng dạ con người và nhất là sự ranh ma quỷ quyệt của ma quỷ. Hiểu được giá trị của đau khổ không phải là để than trời trách đất, cũng không phải là để bi quan chấp nhận coi như đó là số mệnh, là định mệnh bất di bất dịch. Hiểu được giá trị của đau khổ phải là để thanh luyện, để trui rèn sao cho con người của mình trở thành một vũ khí chống lại sự dữ, khắc phục khổ đau.

Với Ki-tô hữu thì hiểu được giá trị của đau khổ có nghĩa là biết chấp nhận hy sinh vì những thử thách do Đấng mà mình tin là Đức Giê-su Thiên Chúa đã gửi đến cho mình. Cũng bởi vì chính Người đã dạy: “Thầy sai anh  em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10, 16) và cảnh báo: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt 10, 17-18). Thánh Phao-lô đã trải nghiệm đúng như Lời dậy của Đức Ki-tô; vì thế, trên hành trình rao giảng Tin Mừng tới Trô-a, rồi từ Mi-lê-tô, Thánh nhân sai người đi mời các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô. Khi họ đến gặp, ngài đã nói với họ: Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng.” (Cv 20, 17-30).

Nói chung, các Thánh Tông đồ cũng vậy, chấp nhận làm môn đệ của Chúa Ki-tô là chấp nhận hy sinh, thử thách, bởi Chúa không hề bảo khi đi theo Người thì ôm theo hoa lá bạc vàng hay những thứ sơn hào hải vị, mà là vác thập giá mình mà theo (“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” – Mt 16, 24). Và quả nhiên thập giá của các Thánh Tông đồ vác đi theo Chúa không nhẹ nhàng gì. Các ngài đã bị Thượng Hội đồng “cho gọi các Tông đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giê-su, rồi thả các ông ra.” (Cv 5, 40). Đó chính là “lửa thử thách” như Thánh Phê-rô khuyên bảo (“Anh em đang bị lửa thử thách: đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em. Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ.” – 1Pr 4, 12-13).

Với xã hội văn minh ngày nay, thì cây thập giá mỗi Ki-tô hữu vác đi theo Chúa, nhìn theo góc độ thể chất thì có vẻ như nhẹ nhàng hơn cách đây 20 thế kỷ. Tuy nhiên, nhìn theo góc độ tâm linh thì còn khốc hại hơn xưa nhiều. Sự bách hại đạo Chúa không còn là gông cùm tù rạc về thể xác như các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam cách đây 4 – 5 thế kỷ đã phải gánh chịu; mà chính là những gông cùm tù rạc về tinh thần, nhất là những cám dỗ của ma quỷ thì lại càng tinh vi xảo quyệt gấp bội. Hoá cho nên dù chịu đánh đòn hay nhục hình (tinh thần hoặc thể xác), thì hãy nghĩ rằng đó chính là thập giá Chúa gửi đến cho mình, để được đồng hành với Chúa trong công trình cứu độ nhân loại.

Hãy học theo gương các Tông Đồ thủa xưa, sau khi bị đánh đòn các ngài đã “ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su” (Cv 5, 40-41). Hoặc như Thánh Phao-lô: “Nhờ ơn Chúa toàn năng nâng đỡ, chúng tôi có thể vui mừng chấp nhận bất cứ điều gì xảy ra cho cuộc đời chúng tôi” (Cl 1, 11) và Thánh Phê-rô: “Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em. Đừng có ai trong anh em phải chịu khổ vì tội giết người, trộm cắp, làm điều gian ác hoặc dây mình vào việc người khác; mà nếu có ai phải chịu khổ vì danh hiệu Ki-tô hữu, thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó.” (1Pr 4, 14-16).

Vâng, cách này cách khác, chúng ta luôn là những bệnh nhân rất cần thầy thuốc. Chỉ sợ rằng chúng ta quên mất Người Thầy Thuốc chí nhân chí thánh ấy, chớ Người không bao giờ quên chúng ta, bởi “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2, 17). Còn một điều đừng quên là dù có gặp thầy gặp thuốc giỏi tới đâu chăng nữa thì vấn đề chữa khỏi bệnh vẫn tuỳ thuộc vào chính bản thân người có bệnh, nhất  là ở những căn bệnh, những nỗi đau khổ thuộc lãnh vực tâm linh, siêu hình. Ngay như khi chữa bệnh cho mọi người, Đức Giê-su Ki-tô cũng thường nói “Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!” (Mt 8, 13), “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con.” (Mt 9, 22). Nói cách cụ thể, mọi khổ đau phiền lụy chỉ được chữa lành khi bản thân người bệnh có ý chí và thực lòng tin cậy vào Đấng mà mình đã kêu xin Người chữa trị. Cũng bởi vì “Cánh đồng đức tin đích thực chính là tâm hồn mỗi người chúng ta, là cuộc sống chúng ta. Chính trong cuộc sống chúng ta mà Chúa Giê-su yêu cầu để cho Lời Ngài đi vào để có thể nẩy mầm và tăng trưởng!” (“Những câu nói nổi bật của ĐTC Phanxicô I” – Cát Minh – nguồn: Thanhlinh.net).

Ngoài ra, còn một cách thế rất hữu hiệu để xoa dịu nỗi đau khổ của chính mình, là ra khỏi bản thân, đến với anh em để chia sẻ và được chia sẻ. Chính thế, “Một nỗi đau buồn được chia sẻ thì sự buồn đau vơi đi được một nửa, nhưng hạnh phúc khi được sẻ chia lại tăng gấp đôi.” (Francis Bacon). Bà mẹ vợ ông Phê-rô sau khi được chữa khỏi thì đã vội vàng đi phục vụ ((“bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt, nằm trên giường” thì được “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”  – Mc 1, 30-31); hoặc như Thánh Phao-lô “Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.” (1Cr 9, 22-23). Đó là những minh hoạ cho sự ra khỏi chính mình và chỉ có ra khỏi được chính mình mới đến được với anh em.

Tắt một lời, hãy kiên trì học cho được tấm gương sáng chói của vị Tông đồ dân ngoại: “Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Với người Do Thái, tôi đã trở nên Do Thái, để chinh phục người Do Thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Ki-tô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu.” (1Cr 9, 19-22).

Vượt sông, vượt biển tuy có khó khăn, nhưng còn có thể khắc phục, đến như vượt qua được chính mình mới là thiên nan vạn nan. Mà không vượt qua được chính mình thì làm sao đến với anh em? Vấn đề đặt ra là bản thân mình có bệnh, mình muốn được chữa khỏi, hoặc chí ít cũng được anh em chia sẻ, cầu phước cho mình. Vậy tại sao không nghĩ rằng anh em có bệnh, anh em cũng mong đựoc như thế?  Điều tất yếu chỉ có thể là: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7, 12); và đừng bao giờ quên: “Điều gì mình không muốn, thì mình cũng đừng làm cho người khác” (“Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” – Khổng Tử).

Đúng vậy, “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 12, 7). Hãy đến với anh em bằng tấm lòng nhân hậu của Đức Ki-tô Thiên Chúa. Hãy hoà giải với anh em trước khi dâng của lễ. Vâng, hãy đặc biệt cầu nguyện cho những người anh em đang phải chịu nhiều đau khổ ở khắp nơi trên thế giới: đau khổ tinh thần, đau khổ thể xác, đau khổ vì chiến tranh, vì thiên tai, vì già yếu, bệnh hoạn. Cũng đừng quên cầu xin Chúa cho bản thân luôn biết nhìn lên Thánh Giá, suy gẫm cuộc tử nạn của Chúa, để có thể dũng cảm chấp nhận mọi đau khổ hàng ngày – vì “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6, 34) – đồng thời luôn biết cố gắng nâng đỡ những con người bất hạnh chung quanh. Ước được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN LÀ NHU CẦU SỐNG

Lm. Trịnh Ngọc Danh

Một ngày làm việc của Đức Giêsu: Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Rồi Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và chữa lành tất cả những tật bệnh tinh thần và thể xác.

Nhân dịp thánh Phanxicô  vào yết kiến Đức Thánh Cha để xin phê chuẩn luật dòng Anh Em Hèn Mọn, Đức Thánh Cha thân mật hỏi ngài: “ Con có bao giờ thấy Chúa chưa?” Thánh nhân trả lời: “ Con vừa thấy đêm qua.” Đức Thánh Cha lại hỏi: “ Người có nói gì với con không?” Thánh Phanxicô trả lời: “ Người và con bên nhau suốt đêm không nói gì. Tuy nhiên, cứ mỗi lần con kêu “ Cha” với Người, thì Người lại trả lời lại con “ con Ta”.Cứ thế, chẳng có gì hơn cho đến lúc sáng.

Đối với Đức Giêsu, cầu nguyện không phải chỉ vì bổn phận, mà còn là một nhu cầu.Cầu nguyện là giây phút gặp gỡ Chúa Cha. Ngài tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện. Nơi thanh vắng là môi trường phục hồi năng lực để tiếp tục công việc. Nơi thanh vắng và giây phút cô tịch ấy, Ngài kết chặt mối tương quan mật thiết với Chúa Cha.Ngài cũng dạy các môn đệ cầu nguyện: “ Khi cầu nguyện, anh em đừng như bọn đạo đức giả; chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.”( Mt 6:5-6)

Narada, một nhà hiền triết Ấn Độ, rất sùng ngưỡng Thần Hari. Một hôm, Thần Hari nói với ông: “ Này Narada, con hãy đi đến thị trấn bên bờ sông Hằng, vì có một tín đồ của Ta ở đó. Sống với tín đồ ấy sẽ ích lợi nhiều cho con.”  Narada ra đi, cuối cùng ông gặp một bác nông dân. Mỗi sáng sớm thức dậy, ông chỉ kêu tên Thần Hari một lần, rồi vác cày ra ruộng. Ông làm việc suốt ngày ngoài đồng. Tối, trước khi đi ngủ, ông lại kêu tên Thần Hari một lần nữa. Thấy vậy, Narada thầm nghĩ: “Làm sao có thể coi bác ông dân này là một tín đồ của Thần được nhỉ? Ông ta suốt ngày chỉ chìm đắm trong công việc làm ăn.” Biết được ý nghĩ của Narada, Thần Hari nói với ông: “ Hãy rót sữa vào một tô đầy đến miệng, rồi bưng tô sữa ấy đi một vòng quanh thành phố. Cố sao khi con về đây, không một giọt sữa nào bị tràn ra ngoài..” Narada làm y lời. Sau khi đi một vòng thành phố trở về, Thần Hari hỏi: “ Trong chuyến đi vừa rồi, con đã nhớ đến ta mấy lần?” Narada trả lời: “ Làm sao con có thể nhớ đến Ngài khi con còn phải chú ý đến tô sữa này?” Thần nói: “ Tô sữa đó đã chiếm hết sự quan tâm của con đến nỗi con hoàn toàn quên Ta. Nhưng hãy  nhìn người nông dân kia: dù bao nhiêu gánh nặng nuôi sống gia đình đè nặng trên vai, ông ta vẫn có thể nhớ đến Ta hai lần mỗi ngày.”

Cuộc sống của Đức Giêsu là một sự kết hợp hài hòa giữa cầu nguyện và hoạt động. Hoạt động không phải chỉ hăng say rao giảng Tin Mừng, mà còn là xoa dịu những nỗi đau khổ của con người dưới mọi hình thức. Vừa ra khỏi hội đường, nghe tin mẹ vợ ông Simon bị sốt, Ngài đã viếng thăm và chữa cho bà; và người ta lại đem đến cho Ngài những người bệnh tật khác. Lòng thương xót của Ngài không giới hạn. Cuộc sống của Ngài ngoài sự kết hợp với Chúa Cha qua cầu nguyện, Ngài còn kết hợp sự rao giảng Tin Mừng với việc chữa lành bệnh tật tâm hồn và thể xác.

Con người khát vọng chân lý và hạnh phúc. Đức Kitô là người xuống thế gian để đưa con người đến với những khát vọng ấy.Ngài không thỏa mãn dừng chân ở lại với những ai đã được nghe Ngài giảng dạy mà còn quyết tâm đi đến những nơi mà dân chúng chưa được nghe Tin Mừng cứu độ: “Chúng ta hãy đi nơi khác,đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.”(Mc 1:38).

Đức Giêsu đã nêu gương cho mỗi người Kitô hữu chúng ta là cầu nguyện và sống chứng nhân cho Tin Mừng cứu độ bằng cuộc sống bác ái yêu thương tha nhân. Là những người tin yêu Thiên Chúa, chúng ta nhớ đến Chúa được mấy lần trong một ngày?.

Về mục lục

.

ĐI RA VÙNG NGOẠI BIÊN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

  1. Ngày làm việc của Chúa Giêsu

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện, rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Một ngày thật bận rộn với biết bao công việc: Giảng dạy trong hội đường rồi đến nhà chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô; Buổi chiều cho đến tối mịt, Chúa chữa lành dân chúng đủ loại bệnh hoạn tật nguyền; Sáng sớm tinh mơ, Chúa dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha.

Công việc bề bộn mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong nhịp sống thường ngày.

a). Cầu nguyện:

“Sáng sớm, Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện” (1,35). Suốt ngày lo toan với bao nhiêu là công việc, tiếp xúc đủ thứ hạng người, Chúa Giêsu dành buổi sáng tinh mơ để tâm sự trao đổi với Cha. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Người cần có thời gian sống riêng tư một mình. Người cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan. Người thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng. Người cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Cha. Một ngày mới khởi đầu như thế để múc nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.

b). Rao giảng

Việc quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừng “Ngày Sabát, Chúa Giêsu vào hội đường giảng dạy” (1,21). Người  đọc Sách Thánh và giải nghĩa: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (1,22). Cả phương pháp và bầu khí giảng dạy của Người đều như một sự mạc khải mới mẻ. Chúa giảng với một uy quyền vượt xa các luật sĩ kinh sư thời đó. Chúa giảng như Đấng có thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Chúa hoàn toàn độc lập khi giảng dạy. Người không trích dẫn, không dựa vào thế giá một chuyên viên nào. Vì thế, giáo lý của Chúa mới mẻ, người nghe đón nhận như luồng gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới, lòng người cảm mến hân hoan, tâm hồn rộng mở hướng về trời cao với Chúa Cha.

c). Chữa lành thể xác tâm hồn.

Lời giảng dạy thể hiện bằng hành vi yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục: “Ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon… Bà nhạc của ông Simon đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”. Chúa Giêsu làm một cử chỉ thân ái là cầm lấy tay bà và nâng dậy, như có lần Người cầm tay đứa con gái ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (Mc 5,41), lần khác Người cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (Mc 9,27).

“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Căn nhà ông Simon nhỏ hẹp, các bệnh nhân phải đứng thành nhiều vòng bên ngoài chờ đợi đến lượt mình. Tất cả đều được Chúa chữa lành.

Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng có cùng một cảm nghiệm đó khi nói: “Chính Người chữa những kẻ dập nát tâm can, và băng bó vết thương tâm của họ”. Thánh Phêrô trong sách Công vụ Tông đồ cũng đã làm chứng: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,38).

Bệnh tật đeo đuổi con người như hình với bóng. Người ta tìm ra phương cách chữa được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện. Càng ngày nhiều căn bệnh mới càng khó trị và bất trị cho dù y học hiện đại tiến bộ vượt bậc. Chúa Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Người không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.

Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu đầy ắp yêu thương trong mọi công việc phục vụ. Người có một trái tim rung động luôn “chạnh lòng thương”, có một tấm lòng bao dung vô bờ bến. Rao giảng Tin Mừng yêu thương, làm phép lạ chữa lành, mở rộng vòng tay đón nhận và tha thứ những kẻ tội lỗi. Chúa chữa lành bệnh tật thể xác và tâm hồn con người. Gặp Chúa, những ai sống ích kỷ đều trở nên quảng đại, những ai ghen ghét hận thù đều trở thành yêu thương tha thứ. Gặp Chúa, con người tìm được mùa xuân cuộc đời.

Ngày làm việc bận rộn của Chúa Giêsu đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu nói đến đời sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725).

Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.

  1. Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên.

 “Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: Mọi người đang tìm Thầy!”. Chúa Giêsu muốn đi đến nhiều nơi. Vì vậy “Người bảo các ông Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó. Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”.

Galilê là vùng ngoại biên xa trung tâm Giêrusalem. Galilê là khởi điểm Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông đồ, tuyên bố Luật mới.

Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo. Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên. Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20). Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24). Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, đến với họ chia sẻ những nỗi đau của họ. Chúa Giêsu cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người muốn các môn đệ hãy theo gương Người, đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Hiện nay, Mẹ thánh Têrêxa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là làm chứ không chỉ nói. (x.Tin Mừng cho người ngoại biên, ĐGM Bùi Tuần).

  1. Giáo Hội Đi Ra Vùng Ngoại Biên

Thời nay, nói theo ngôn ngữ của Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, những biên cương mới mà Giáo Hội đang quan tâm không chỉ trên phương diện địa lý nhưng còn là những con người. Chúng không chỉ có nghĩa là mới, nhưng còn có nghĩa là bị lãng quên, bị bỏ rơi, chưa đụng chạm đến. Các biên cương cần quan tâm chính là sự cộng tác của mọi thành phần trong giáo xứ, là mục vụ hôn nhân gia đình, mục vụ sau khi kết hôn, chăm sóc và bảo vệ thai nhi, mục vụ bác ái truyền giáo, mục vụ truyền thông và mục vụ di dân.

Chúa đến với những biên cương mới dẫu cho khó khăn hay thập giá.Truyền giáo ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước tiên hay chủ yếu vào việc “chinh phục các linh hồn” cho Chúa càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm “vùng đất ngoại bang”, và noi gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên giới mà Chúa sai chúng ta đến.

Cảm nghiệm sâu xa bước chân Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi ám ảnh và thủ tục” (EG 49).

Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ các mục tử: Nếu một linh mục học nhiều về thần học và có nhiều bằng cấp, mà chưa học vác Thập giá Chúa Kitô, thì chưa phải là phục vụ. Người đó có thể là một học giả tốt, có thể là một giáo sư tốt, nhưng người ấy không phải là một linh mục. Các con thân mến, các con làm ơn đừng trở thành những “quý ông”, cũng đừng trở thành những “giáo sĩ kiểu công chức”; nhưng các con hãy trở thành người mục tử, những mục tử của Dân Chúa. (x. bài giảng phong chức linh mục cho 10 thầy Phó tế tại Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày Chúa nhật Chúa Chiên Lành, 07 tháng 05 năm 2017).

“Đi Ra Vùng Ngoại Biên” đã trở thành câu nói quen thuộc của nhiều tín hữu kể từ khi Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”. Ngài khuyến khích mọi người bước ra khỏi sự quen thuộc hằng ngày của mình để đi đến những nơi, với những người xa lạ ở vùng ven, vùng ngoại biên …Đây không chỉ là một lối sống thích ứng tích cực trong khuynh hướng toàn cầu hóa hiện nay, nhưng còn là một phương thế, một giải pháp để Tin Mừng Chúa Kitô được rao giảng rộng rãi hữu hiệu hơn. Chính những chuyến “đi ra vùng ngoại biên” đã neo lại nơi tâm hồn người khác nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Ngày nay, nhiều người đã đi ra ngoài khu vực an toàn của mình để “đến vùng ngoại biên” và đã chạm đến những bất công, bất minh, bất chính của trần thế. Từ nơi đó, họ thắp lên ánh sáng của Tin Mừng, của lẽ phải và công lý cho những người “còn ngồi trong bóng tối sự chết” (Lc 1,70).

Chúa Giêsu đến thế gian với thân phận con người, làm con người, yêu thương con người và cứu độ con người. Người tận tụy phục vụ mọi người. Hãy cùng với Chúa “đi ra vùng ngoại biên”, ra khỏi những khung cảnh quen thuộc hằng ngày loan báo Niềm Vui Tin Mừng.

Về mục lục

.

LƯƠNG Y TỪ MẪU

Tất cả chúng ta, ai cũng đã hơn một lần ngã bệnh, hoặc có người thân đau ốm, hay được thấy những bệnh nhân điều trị tại bệnh viện. Qua đó, ta đã hiểu được bệnh tật là một nỗi khổ đau của con người. Mọi người đều phải chạm trán với đau khổ dưới muôn hình vạn trạng. Các triết gia đã suy nghĩ và bàn giải nhiều về vấn đề đau khổ. Nhưng không một ai đưa ra được lời giải đáp thỏa đáng trước sự đau khổ của người hiền đức và của trẻ thơ vô tội. Ông Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm mang tên ông, là một người hiền đức, nhưng gặp phải nhiều nỗi gian truân. Có lần ông đã hoang mang và vô vọng thốt lên rằng: “Lạy Chúa! Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở. Mắt con sẽ không được thấy hạnh phúc bao giờ”. Thật vậy, “đời người là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm thuê”. 

Tuy nhiên ông không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại phải đau khổ? Đối với ông, đau khổ là một huyền nhiệm, không ai hiểu thấu. Vì thế, tốt hơn hết là cứ tín thác vào Chúa, xin Ngài giải đáp cho. Còn Chúa Giêsu thì sao? Thưa, Chúa Giêsu không thuyết giảng về đau khổ, nhưng Ngài quan tâm lo lắng cho người khổ đau. Ngài cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Tin mừng hôm nay kể: Khi hay tin mẹ vợ của ông Simon đang lên cơn sốt, “Chúa Giêsu đã lại gần, cầm lấy tay bà và nâng bà ngồi dậy”. Khi cầm lấy tay bà và cho bà “chỗi dậy”, Chúa Giêsu muốn ta suy nghĩ đến cái chết và sự sống lại của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt Qua này, mà đau khổ của con người có một ý nghĩa tích cực. Đó là: Đau khổ không phải là một hình phạt, mà là một thay đổi, để làm nảy sinh sự sống mới. Như hạt lúa phải thối đi để có mùa gặt. Như quả trứng gà phải nứt vỏ ra để có chú gà con. Như con sâu phải lột xác để thành cánh bướm bay vào cõi trời ngập ánh sáng. Như vậy, Chúa Giêsu đến trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ, nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng; và đưa họ vào trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người. Thế nhưng phải đợi đến sau khi Chúa Giêsu sống lại, người ta mới nhận ra rằng: Chúa Giêsu còn hơn một thầy thuốc. Ngài là Vị Cứu Tinh của nhân loại. Vì không những Ngài đã chữa lành những nỗi đau nơi thân xác và tâm hồn con người, mà Ngài còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi, để đem cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống mới. Nhờ đó, thay vì nhìn đau khổ như là “sự vắng mặt của Thiên Chúa”, ta sẽ thấy đau khổ chỉ là “sự hiện diện khó hiểu” của một tình yêu. Dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm, một vấn đề chưa có lời giải đáp trọn vẹn, nhưng ta đã có tình yêu. Tình yêu là một mầu nhiệm còn vĩ đại hơn cả đau khổ. Kinh nghiệm cho thấy: Trước nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi ta cảm thấy bất lực. Ta không biết phải nói gì, không biết phải làm gì. Những lúc đó, trong giới hạn của mình và với tình thương, ta vẫn có thể làm một điều gì đó, để xoa dịu tinh thần và thể xác cho họ. Rất có thể người ấy chỉ cần ta im lặng và cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc họ muốn ta lắng nghe tâm sự của họ. Cũng có thể họ chờ nghe một tin vui, chờ đón một ánh mắt cảm thông… Ngay cả khi ta không thể thực hiện được các việc đó, ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. 

Lạy Chúa! Xin cho con biết noi gương Chúa: sẵn sàng chấp nhận khổ đau vì tình yêu Chúa. Ước gì con luôn chia sẻ, cảm thông và cầu nguyện thật nhiều cho những người khổ đau.

AVE MARIA.

Về mục lục

.

RAO GIẢNG VÀ CHỮA LÀNH

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Mới đọc đoạn Tin Mừng này tôi có ấn tượng Đức Giê-su coi việc chữa lành các người bệnh tật ốm đau chỉ là công tác phụ, trong khi sứ mệnh chính của Người là rao giảng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Lý thuyết là như thế, nhưng đứng về phía đám quần chúng bình dân thì rõ ràng, phần đa họ tìm đến với Người trước hết để được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền. “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Và cũng chính vì được chứng kiến các việc chữa lành mà dân chúng tin vào lời Người giảng dạy; ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ (c.22).

Hình như hơn ai hết chính Đức Giê-su đã ý thức rất rõ điều này: không lời giảng dạy nào về một Thiên Chúa nhân ái từ bi đối với một nhân loại đau khổ lại hữu hiệu và hùng hồn cho bằng khi nhân danh Người mà rộng tay chữa lành các thương đau phần xác cũng như phần hồn của con người cùng khốn. Ngay cả đối với các môn đệ mới chiêu mộ, Đức Giê-su cũng đã hoàn toàn chủ động trong việc này; do đó Người đã chữa bà mẹ vợ ông Si-mon khỏi cơn sốt, cho dù không ai yêu cầu. Phải chăng đó chính là để ‘các môn đệ tin vào Người’, theo cách nói của Gio-an sau phép lạ nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Ca-na (Ga 1:8)? Khi dài dòng thuật lại rất nhiều phép lạ Đức Giê-su đã thực hiện, chắc hẳn tác giả Mác-cô muốn tô đậm nơi Người nét ông thầy thuốc tốt lành tới chữa lành bệnh nhân tật nguyền; Người ‘chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật’; và hình như đó cũng chính là hình ảnh mà Người sẽ dùng để tự giới thiệu mình: “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mc 2:17).

Như vậy đối với Đức Giê-su, rao giảng và chữa bệnh không phải là hai công việc tách rời nhau. Bởi nếu nội dung cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng chính là ‘Thiên Chúa nhân ái quan tâm đến số phận của con người yếu hèn trong cả lãnh vực thể lý lẫn tinh thần’ thì chắc chắn lời rao giảng hùng hồn và sắc bén nhất sẽ phải là ‘chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền’ và ‘sua trừ ma quỉ’. Đức Giê-su hẳn có ý nói điều này khi bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” Mác-cô còn ghi nhận thêm:  ‘Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ’ (nên lưu ý là người Do Thái thời Đức Giê-su cho rằng mọi bệnh tật đều do ma quỉ mà ra). Qua các việc chữa lành này Người chỉ muốn cho mọi người được biết: Thiên Chúa từ nhân đã đến với họ, đang thật sự ở giữa họ, đang đồng hành với họ, cảm thông nỗi thống khổ yếu đuối của họ, và tích cực can thiệp theo cách thức của riêng Người.

Suy niệm trên xem ra chẳng có gì là quan trọng cho lắm, tuy nhiên nó sẽ giúp ta tránh được điều mà nhiều tín hữu thường mắc phải khi cho rằng Tin Mừng hệ tại ở việc lãnh hội các tín điều cao siêu (điển hình các công thức tuyên tín phức tạp chứa đựng trong Kinh Tin Kính Ni-cê chẳng hạn…); và cho rằng làm bác ái chỉ là việc phụ, tiểu tiết tùy nghi theo khả năng mỗi người, có mục đích duy nhất làm gia tăng công nghiệp trước mặt Chúa hầu đảm bảo phần rỗi linh hồn; rồi khi đọc Phúc Âm sẽ cho rằng việc Đức Giê-su làm các phép lạ chẳng qua là để chứng tỏ quyền phép vượt trội hầu thúc ép dân chúng tin lời Người giảng dạy…; rằng những học thuyết cao siêu gồm các qui định luân lý và giới luật tân kỳ mới thật là điều Người xuống thế để dạy dỗ. Suy niệm trên hơn bao giờ hết giúp tôi nhận ra Lời Tin Mừng thật nhất quán, chặt chẽ và đầy thuyết phục: ‘Đức Giê-su – Lời’ đến trần gian để tuyên bố sứ điệp tình yêu của ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…’ và tình yêu đó cũng thật cụ thể: ‘Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ’ (Ga 3:16.17). Thế đấy, toàn bộ cuộc đời Đức Giê-su chỉ là một ‘Lời tình yêu cứu độ’, Lời trong sứ điệp, Lời trong hành động, Lời trong các phép lạ, thậm chí Lời trong cái chết tự hiến trên thập giá và Lời trong sự Phục Sinh chứa chan niềm hy vọng. Tóm lại tôi nhận ra rất rõ nội dung duy nhất của sứ vụ Đức Giê-su trên trần gian chính là để quảng bá và thể hiện mọi nơi mọi chốn một ‘Thiên Chúa yêu mến thế gian’ bằng trọn cả con người Ngài.

Vì là một tu sĩ Sa-lê-diêng, tôi nhiều lần đã áp dụng cho Đức Giê-su câu nói mà chúng tôi vẫn thường dùng để nói về Don Bosco: “Người không đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì, mà không phải vì…phần rỗi giới trẻ!” Ở đây phải là, trong Tin Mừng ‘Đức Giê-su đã không hề đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì mà không phải vì muốn chứng tỏ và thể hiện rằng Thiên Chúa yêu mến trần gian cách tuyệt đối tới độ…!’

Lạy Chúa Giê-su, xin cho con được chia sẻ khát vọng Chúa muốn cho Tin Mừng tình yêu nhân ái được thể hiện và nhận biết ‘ở các nơi khác… các làng xã chung quanh nữa’. Con, một linh mục của Chúa, ước mong rằng: mình sẽ không chỉ giảng dạy sứ điệp Tin Mừng này bằng lời nói suông, nhưng phải bằng cả thái độ sống và hành động. Xin cho con biết rao giảng Lời Chúa qua các dấn thận phục vụ quảng đại, mọi nơi và cho hết thảy mọi người. A-men.

Về mục lục

.

LÀM VIỆC CHO VƯƠNG QUỐC NƯỚC TRỜI

Lm. GB. Trần Văn Hào

Thánh Angustinô đã viết : “Điều linh thánh nhất trong mọi điều linh thánh là làm việc để phục vụ thiện ích các linh hồn (Divinissimum divinorum est opere ad lucrum animarum). Thánh Biển đức cũng truyền đạt lại cho các con cái linh đạo của Ngài qua câu châm ngôn ‘Làm việc và cầu nguyện’ (Orare et Laborare). Làm việc có một giá trị thật cao cả, nếu chúng ta biết quy hướng về Thiên Chúa và nhắm đến phần rỗi. Vì vậy, cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta phải được đan dệt bằng những phút giây cầu nguyện kết hợp thâm sâu với Chúa, hòa quyện với những công việc đa đoan hằng ngày. Lời Chúa hôm nay nêu bật hình mẫu nơi Chúa Giêsu về tinh thần làm việc để phục vụ cho vương quốc nước trời cùng với chiều sâu trong việc đắm mình để cầu nguyện. Một ngày sống của Chúa được dàn trải bằng những giây phút rút vào nơi thanh vắng để kết hiệp mật thiết với Chúa Cha kèm theo sứ vụ đi giảng dạy và chữa lành các bệnh nhân. Nói chung, Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về một cuộc sống luôn dấn thân để làm việc cho Vương quốc Nước Trời.

Gía trị của lao động

Lao động để sinh nhai là một thực tại gắn liền với kiếp người. Không ai phủ nhận giá trị của lao động, của biết bao mồ hôi và nước mắt, biết bao bươn chải và nhọc nhằn để có cơm ăn áo mặc cũng như để giải quyết những nhu cầu trong cuộc sống. Ngày xưa thánh Phaolô đã phải mưu sinh với nghề dệt lều (Cv 18,13). Các tu sĩ của các dòng khổ tu vẫn phải lao động chân tay mỗi ngày, kết hợp với cuộc sống chiêm niệm trong cầu nguyện. Hiến chế Gaudium et Spes của Công đồng Vaticanô 2 gợi nhắc cho chúng ta về giá trị và ý nghĩa của việc lao động. Giáo huấn này cũng được Giáo hội lập lại trong sách Giáo lý Công giáo (từ số 2426 đến số 2429). Những công việc hằng ngày chúng ta đảm nhận, từ lao động chân tay đến lao động trí óc đều có một giá trị, góp phần vào trong công trình sáng tạo của Chúa Cha cũng như thông dự vào mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần đọc lại những dòng tâm sự của ông Gióp khi đối diện trước những vất vả của cuộc sống, được Giáo hội đọc lên trong bài đọc 1 của phụng vụ hôm nay. Ông Gióp nói : “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch hay sao? Và chuỗi ngày làm lụng có khác gì đời kẻ làm thuê? (Giob 7,1). Gióp đã tỏ ra khá bi quan. Ông than vãn khi nhìn vào những vất vả trong lao động như một gánh nặng. Những dòng tâm sự của ông Gióp khiến chúng ta dễ có cái nhìn bi quan khi phải mang lấy những đa đoan của kiếp người. Tuy nhiên trong nhãn quan Kinh thánh, chúng ta biết rằng con cái Chúa cần phải tuân thủ luật giữ ngày Sabát, một ngày dành riêng cho Thiên Chúa và phải nghỉ ngơi hoàn toàn, không một chút vướng bận đến công việc lao động chân tay bên ngoài. Mục đích là cho dù chúng ta miệt mài để lo cơm áo gạo tiền, cuộc sống chúng ta vẫn phải quy hướng trọn vẹn về Chúa, từ những công việc tay chân, công việc đầu óc đến những công việc mang chiều kích thánh thiêng sâu xa hơn.

Hiểu như thế chúng ta mới có thể khám phá ra những giá trị nơi những công việc Đức Giêsu đã thực hiện. Đó là sứ vụ phục vụ cho Vương quốc Nước Trời. Chúa Giêsu đã không trực tiếp lao động để có của nuôi thân, giống như thánh Giuse tại Nazareth. Chúa cũng không dệt lều để có cái ăn cái mặc giống như thánh Phaolô đã làm lúc sinh thời. Nhưng Chúa luôn làm việc như Ngài đã từng công bố : “Tôi làm công việc của Cha tôi” (Ga 11, 36 – 38). “Cha tôi vẫn làm việc và tôi cũng làm việc (Ga 5,17)”. Công việc Đức Giêsu làm là khai mở ơn cứu độ cho trần gian theo hoạch định của Chúa Cha.

Công việc phục vụ cho Vương quốc nước trời

Đây là công việc quan trọng nhất và ý nghĩa nhất. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô đã bộc bạch rằng, cho dầu phải bươn chải với nghề tay chân để tự túc sinh nhai, Ngài vẫn chú tâm đến việc rao giảng. Ngài viết : “ Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng thưởng công (1Cor 16 – 18)”. Đây là công việc mang chiều kích linh thánh. Ngài làm công việc đó và không nhận bất cứ thù lao nào, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho Ngài. Cũng vậy, khi nhìn vào những công việc của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa luôn tất bật và bận rộn suốt cả ngày. Khi các tông đồ đi tìm Chúa lúc Ngài rút vào nơi thanh vắng để cầu nguyện, Chúa đã nói : “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm công việc này”. Công việc mà Chúa nói tới chính là để phục vụ cho việc mở mang Vương quốc Nước Trời và đem ơn cứu độ đến khắp cùng trái đất. Đây cũng là điều mà chúng ta vẫn xác tín khi đọc kinh Tin Kính : “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”.

Làm việc và tiết độ

Làm việc và Tiết độ (Lavoro e Temperanza) chính là khẩu hiệu thứ hai mà thánh Gioan Bosco đã để lại cho các con cái Ngài, tương thích với khẩu hiện nhứ nhất ‘Xin cho tôi các linh hồn, mọi sự khác cứ lấy đi’. Trên giường hấp hối trước khi tắt thở, Don Bosco còn nói lại một lần nữa di chúc cuối cùng cho các con cái, vỏn vẹn chỉ có 3 chữ “Làm việc, làm việc và làm việc”. Chúa Giêsu đã nói với các môn sinh : ‘Cha tôi và tôi vẫn làm việc’. Làm việc để kiếm tiền lo cho cuộc sống không phải là một điều xấu, nhưng tiền bạc không phải là tất cả để chúng ta phải kiếm tìm bằng bất cứ giá nào. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã từng cảnh báo nguy cơ về một lối sống hưởng thụ (consumerism ) khi chúng ta đặt tiền bạc làm thước đo mọi giá trị hoặc dùng tiền bạc để thỏa mãn sở thích hưởng thụ nơi mình. Ngài nói rõ, đó chính là một lối sống vô thần trong thực hành sẽ dần dần làm sói mòn đức tin nơi chúng ta.

Kết luận

Chúng ta hãy nhìn vào gương mẫu nơi Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Ngày nay, biết bao tâm hồn đã quảng đại dấn mình làm việc trong cánh đồng truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới. Những tấm gương sáng ấy thật đáng trân quý. Chúng ta hãy thử nhìn lại chính mình, xem chúng ta có làm việc hay không, chúng ta đang làm những việc gì, làm cho ai và làm như thế nào?

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU, THẦY THUỐC CỦA TÂM HỒN

Lm. Giuse Phạm Quốc Phong

Đoạn Tin Mừng theo Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta chân dung một vị Thầy thuốc tài ba và tốt lành. Chúa Giêsu chữa tất cả những người bệnh đến với Ngài. Chúng ta biết rằng, theo văn hóa của người Do Thái, bệnh tật được gắn liền với tội lỗi, nghĩa là người Do Thái quan niệm và tin rằng bệnh tật là một hình phạt từ Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi. Những người bệnh tật bị cộng đồng loại trừ và bị nhìn với con mắt khinh bỉ, miệt thị. Chính vì vậy, mỗi khi Chúa Giêsu chữa bệnh, Ngài hay nói với họ rằng “Tội của con đã được tha” hay “Đức tin của con đã cứu con”. Chúa Giêsu không chỉ là bác sĩ thể lý, mà quan trọng hơn, Ngài là một bác sĩ của tâm hồn, chữa hết những vết thương tâm hồn, đưa họ trở lại với nhân phẩm của con người, đưa họ trở lại với vai trò làm con của Thiên Chúa, và ban cho họ niềm vui – bình an – hi vọng để họ sống và sống dồi dào. Người được Chúa Giesu chữa lành, có khả năng hoán cải, và trở thành nhân chứng cho Ngài.

Những ai mắc bệnh về thể lý, họ tìm đến bệnh viện để chữa bệnh với những cách thức và phương thuốc thích hợp và họ có cơ hội được chữa lành là rất lớn, vì y học hiện nay rất phát triển và hiện đại. Nhưng trong thời đại ngày nay, có những căn bệnh rất nguy hiểm, đó là bệnh về lương tâm đạo đức, bệnh về ý thức hệ, … là hậu quả của các chủ nghĩa sai lạc, của các lối sống thiên về hưởng thụ, ích kỷ, cá nhân … đang ảnh hưởng cách rộng rãi và sâu xa tới chúng ta, nhất là giới trẻ.

Ở đây, xin trưng dẫn một căn bệnh của giới trẻ, đó là tình trạng tự tử của giới trẻ trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới (WHO), trên toàn thế giới mỗi giây có một người tự tử, mỗi năm con số này là 1 triệu người, số người có ý định tự tử nhiều gấp 10-20 lần. Mỗi năm tại Trung Quốc có tới 250.000 người tự tử + 2 triệu người có ý định tự tử; tại Nhật mỗi năm có khoảng trên 30.000 người tự tử, …

Một căn bệnh khác của giới trẻ đó là “sống không lý tưởng” hay lý tưởng sống quá thực dụng thiên về vật chất. Căn bệnh này kéo theo hàng loạt các căn bệnh khác, gây ra những cơn bão đánh sập hệ thống luân thường đạo lý của người việt, làm sản sinh ra các thế hệ giới trẻ sống thực dụng và ích kỷ, lấy vật chất làm nền tảng cho suy nghĩ và hành động.

Đây là những căn bệnh không đơn giản tí nào, không dễ gì để tìm ra thuốc ngừa và thuốc chữa…Trong tình trạng dường như bế tắc này của thế giới, Chúa Gêsu mời gọi tất cả chúng ta hãy chạy đến với Ngài để tìm ra phương cách chữa chị và phòng ngừa. Ngài chữa bệnh cho chúng ta không cần điều kiện, với cung cách của một người cha yêu thương: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay… ” (Mc 8,31). Ngài cũng đang chữa bệnh cho tất cả chúng ta, là những người ý thức mình đang mang bệnh, với ước muốn được sống và sống dồi dào.

Chúa Gêsu đã từng nói: “Ta đến thế gian để kêu gọi những người tội lỗi […] chỉ người bệnh mới cần thầy thuốc”. Mỗi người chúng ta cũng nên tự hỏi rằng: “Chúa Gesu đến để kêu gọi và chữa bệnh cho tôi chăng?” hay “Tôi là một giáo lý viên gương mẫu và nhiệt tình, tôi là một tu sinh tốt lành , hay tôi là một linh mục mẫu mực, được nhiều người cảm mến và ngưỡng mộ” … rằng “Tôi rất là ok, cuộc sống của tôi rất bình an và hạnh phúc” có lẽ tôi chẳng có bệnh gì !!!

Chúa Gesu thích “đến gần, cầm tay, nâng dậy” những ai ý thức mình tội lỗi, bị bệnh và cần đến Ngài. Và đây chính là cơ hội thúc đẩy chúng ta đến “gặp gỡ” Ngài. Ngược lại, những ai cảm thấy mình “tất cả đều ok”, thì cuộc gặp gỡ với Chúa Gêsu trở nên rất khó khăn: “lạy Chúa con cảm ơn Chúa vì con là người công chính … không như cái thằng thu thuế bên kia”.

Chúng ta vui sướng cảm tạ Chúa mỗi ngày không phải vì chúng ta là những người thánh thiện, đáng được hưởng hồng ân bình an và ân sủng của Thiên Chúa, nhưng chúng ta vui sướng hân hoan vì chúng ta là “những tội nhân được tha thứ” một cách vô điều kiện. Chúng ta được thừa hưởng một cách “miễn phí” kho tàng Bình AnHi Vọng, kho tàng Sự SốngƠn Cứu Độ từ Thiên Chúa, vì thế chúng ta cũng phải ra đi rao giảng kho tàng đó cho mọi người cách “miễn phí”, như thánh Phaolo đã nói trong bài đọc II: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16), bởi vì “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở” (Gp 7,7), con cần có Chúa, con ao ước được gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong các Bí Tích và trong anh chị em con, vì Ngài là Bác Sỹ cho tâm hồn con, vì “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Augustino, Tự thuật I, 1, 1).

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

 Tin mừng Chúa nhật 5 Thường niên ghi lại những hoạt động chữa lành và rao giảng của Đức Giêsu để nói lên sứ mạng Thiên Sai của Ngài như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19).

Sứ mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu được trình bày qua 3 điểm chính trong bài tin mừng hôm nay:

– Chúa chữa bệnh cho bà nhạc gia của Simon và mọi bệnh tạt khác nhau, trừ quỷ, để nói lên sứ mạng của Chúa là đến để cứu chuộc con người khỏi ách thống trị của tội lỗi. ma quỷ.

– Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện biểu lộ sứ mạng Thiên Sai phát xuất từ Thiên Chúa Cha, Ngài được Chúa Cha sai đến.

– Chúa Giêsu đi rao giảng ở các thành lân cận, loan báo Tin mừng cho mọi người. Điều này nói lên sứ mạng Thiên sai có tính phổ quát cho hết mọi người. Thiên Chúa muốn con người được cứu độ.

Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của tình yêu, Người là Đấng giải phóng chúng ta khỏi mọi sự dữ. Phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu là những dấu chỉ nói lên tình yêu đầy quyền năng của Thiên Chúa, dẫn chúng ta đến sứ điệp của Đức Kitô, hướng chúng ta về với Thiên Chúa và làm cho chúng ta hiểu rằng căn bệnh nặng nề nhất của con người hôm nay là sự thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng nguồn suối chân lý và tình yêu. Duy chỉ có sự hòa giải với Thiên Chúa mới có thể mang lại cho chúng ta sự chữa lành thật sự, sự sống thật sự, bởi vì một cuộc sống mà không có tình yêu và chân lý thì chẳng phải là cuộc sống… Do đó sự rao giảng và chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu luôn liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên một sứ điệp duy nhất về niềm hy vọng và ơn cứu độ (Trích bài giảng của ĐGH Benêđictô).

Tóm lại, bài Tin mừng hôm nay ghi lại một ngày làm việc bận rộn của Đức Giêsu: rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, cầu nguyện. Việc rao giảng và chữa lành đã chiếm hầu hết thời gian của Chúa Giêsu:

“ Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ… Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong khắp hội đường”.

Chúng ta thấy những người đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu, Ngài hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ. Ngài ra tay hành động cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ… Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Theo quan điểm của người Do Thái, bệnh tật bắt nguồn từ ma quỷ, mọi sự dữ trên đời là do tội lỗi mà ra. Việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, việc chữa lành của Chúa Giêsu biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.

Đức Giêsu đi tới đâu, Ngài rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người. Đó là sức mạnh chính yếu của Đức Giêsu mà Ngài đã xác định: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.

Loan báo Tin mừng cũng là sứ mạng của lọi người Kitô hữu hôm nay.

Thần học gia Maurice Zundel quả quyết: “Chúng ta không phải là Kitô hữu cho riêng mình, mà là cho Đức Kitô, cũng như chúng ta thuộc về Giáo hội và Đức Kitô, hầu mở đường cho tính công giáo của tình yêu Ngài được lan rộng và cho ơn cứu chuộc của Ngài trải ra trên khắp hoàn cầu. Đức Kitô còn dở dang và chưa thành toàn bao lâu toàn thể nhân loại chưa tháp nhập vào Ngài” (À L’éoute de Silence).

Đức Giêsu đi đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang niềm vui, nụ cười đến cho những người đau khổ, xoa dịu những vết thương đau của con người. Noi gương Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng phải đem niềm vui, hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường mình sống, đặc biệt cho những anh chị em đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ bằng sự an ủi, giúp đỡ, thăm viếng, chia sẻ vật chất cho anh em đang cần sự tiếp tay của chúng ta. E. Lamy đã nói: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN_B.

Fx Đỗ Công Minh

Bài Tin mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà mẹ vợ ông Phêrô và nhiều người ở quanh vùng, kể cả trừ quỷ. Những phép lạ Chúa làm không phải để người ta tung hô, khen ngợi nhưng là cho thấy Chúa là đấng cứu độ. Người không chỉ giảng dạy, chăm lo cho phần tâm linh con người mà còn quan tâm chữa lành các bệnh tật về thân xác, giải thoát con người ra khỏi khổ đau về tinh thần, về thể lý.

Giáo hội hôm nay vẫn tiếp tục công việc Chúa đã làm qua những bước chân của những thừa sai, qua những người tín hữu đang sống chứng nhân tin mừng trên từng ngõ ngách, góc phố, hẻm sâu. Những người lữ hành Emmau đang len lỏi trong những khu ổ chuột tồi tàn bên những đô thị xa hoa đài các, nơi những khu nhà ven kênh rạch hôi hám bần hàn. Những con người không tên đó đem tin vui đến anh chị em của mình bằng đời sống chứng tá. Họ cũng đang tiếp tục công việc chữa lành bệnh tật tâm hồn bên cạnh việc chữa trị bệnh tật của các thầy thuốc như một Mẹ Têrêxa Can-Quýt-Ta và các nữ tu của Ngài, như các tu sĩ Liên Dòng tại Trung tâm trọng điểm bệnh viện nhân ái Bình Phước, như các Linh mục, tu sĩ, giáo dân, giáo phụ đang ngày đêm sống và làm việc trong các trại phong, trong các bản làng cao nguyên hay vùng sông nước Cửu Long để đem con chữ, đem tri thức khai phóng cho những người nông dân mù chữ, cơ cực, cho anh em người dân tộc. Họ còn là những người trẻ thiện nguyện, ngoài giờ học, giờ làm tại thành phố đã dành thời gian đến thăm nom, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với những bệnh nhân, những người vô gia cư, cơ nhỡ… Những con người của thời đại hôm nay đang đi theo con đường Chúa đã đi, đã chọn. Tất cả vì tình yêu thương con người, vì lòng thương xót của Chúa với con người thúc đẩy “Yêu thương và yêu thương cho đến cùng“.

Con cảm tạ Chúa vì bên cạnh con đây có biết bao người đang đáp lại lời thôi thúc của Chúa, của Tin Mừng.

Phần con, tự nhìn lại mình, sứ mạng của Chúa trao cho con là hãy đi rao giảng tin mừng của Nước Thiên Chúa, từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất. Con có thể đáp lại cách nào? Con không thể trở thành những nhà thừa sai, con không thể trở nên những Linh Mục, tu sĩ  dâng trọn đời mình để phụng sự nước Chúa, con cũng không đủ khả năng, tri thức Chúa trao hầu học tập để trở thành các thầy thuốc chữa bệnh, cứu người. Nhưng Chúa cũng trao cho con sứ điệp Yêu thương. Nếu con biết yêu thương thì tất cả những việc con làm đều là chứng nhân của Tin Mừng nước Chúa và đó chính là con đang rao giảng. Con quả thật còn nhiều thiếu sót.

Con đã, đang thu mình trong cõi riêng tư mà không biết mở lòng ra với anh chị em con. Con đang tự trấn an mình với những việc cho là đạo đức như sáng lễ chiều kinh, không xúc phạm ai và cũng chẳng làm hại ai. Cho như thế là đã giữ đúng lề luật và nghĩ rằng như vậy là đã giữ đạo nên. Nghe lời Chúa, học lời Chúa nhưng lại chưa mạnh dạn Sống Lời Chúa. Con đã không đủ dũng lực để đứng lên đi ra khỏi con người ích kỷ của mình. Không dám mở mắt, mở tai, mở miệng đề nhìn, để nghe và để nói về Chúa. Thậm chí còn không biết cầu nguyện cho những người anh chị em con về những việc làm của họ, không quan tâm đến việc rao giảng Lời Người.

Lạy Chúa, xin tha thứ và giúp con. Chúa ơi!

Về mục lục

.

NỖI NIỀM PHÀM NHÂN

Trầm Thiên Thu

Không ai lại không có nỗi niềm. Đó là mối tâm sự riêng, đôi khi khó nói ra. Nỗi niềm còn gọi là “khúc nhôi” (*). Là phàm nhân, mỗi chúng ta có nhiều nỗi niềm lắm, bởi vì “đời là bể khổ” mà!

Đã đành người đời cảm thấy đời người đầy gian khổ, mà Kinh Thánh cũng công nhận như thế. Thật vậy, sách Huấn ca gọi kiếp phàm nhân là “kiếp khốn khổ”: “Kể từ khi từ lòng mẹ sinh ra cho đến lúc trở về lòng đất mẹ, mang thân phận con người, ai cũng canh cánh bên lòng một nỗi lo, là con cháu Ađam, nợ phong trần đương nhiên phải trả. Điều không ngừng ám ảnh khiến lòng người sợ hãi âu lo là cứ phải nghĩ rằng mình đang chờ chết. Từ bậc vua chúa trên ngai vinh hiển đến kẻ cùng đinh chân lấm tay bùn, từ người cân đai áo mão đến kẻ khố rách áo ôm, ai cũng đều giận dữ, ghen tương, băn khoăn, lo lắng, rồi sợ chết, rồi hận thù cãi cọ” (Hc 40:1-4).

Ôi chao, nghe sao mà “não lòng” quá! Tuy nhiên, “Chúa vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí. Người vẫn nhớ thân phận chúng bọt bèo mỏng mảnh, gió thoảng qua, không hẹn ngày về” (Tv 78:38-39). Thế thì lại không buồn, mà vẫn tín thác, mặc dù cuộc đời vẫn ngổn ngang bao nỗi niềm của kiếp phàm nhân.

KHÓ KHĂN KÈM KHỐN KHỔ

Có lẽ chẳng ai khốn khổ bằng ông Gióp. Ông đã lâm cảnh khó khăn đến tột cùng, và chịu khốn khổ quá đỗi, vì ngay cả người vợ cũng nguyền rủa ông. Là con người nên ông cũng cảm thấy buồn, nên ông đặt vấn đề: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?” (G 7:1), và đó cũng chính là câu trả lời. Rồi ông so sánh: “Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công. Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề” (G 7:2-3). Đó là thực tế của kiếp người, vì ai sinh ra cũng tay trắng và khi chết ai cũng trắng tay, thế mà người ta vẫn tìm cách giành giật và kèn cựa nhau đủ cách – thậm chí có thể giết người để mình hưởng lợi!

Có thể ví giọt nước mắt là “biểu tượng” của kiếp người, bởi vì cuộc đời buồn nhiều hơn vui, và luôn bị giằng co dữ dội, như Thánh Phaolô đã từng thú thật: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Trong ca khúc “Một Cõi Đi Về”, cố Ns Trịnh Công Sơn cũng trăn trở: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”. Và rồi ông lại tự nhủ: “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng!”. Hoặc như cố Ns Y Vân đã than thở: “Buồn như ly rượu đầy, không có ai cùng cạn. Buồn như ly rượu cạn, không còn rượu để say”. Còn thi sĩ Cao Bá Quát có cái nhìn khác: “Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy? Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. Thi sĩ trào phúng có khác. Đúng là người có máu khôi hài có thể làm cho nỗi khổ bớt “cay nghiệt” hơn.

Giữa gọng kềm Khó Khăn và Khốn Khổ, giống như trên đe dưới búa, ông Gióp tiếp tục băn khoăn: “Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng” (G 7:4). Tại sao vậy? Ông cho biết rằng “thịt tôi chai ra, dòi bọ lúc nhúc, da tôi nứt nẻ, máu mủ đầm đìa. Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng” (G 7:5-6). Dù thất vọng nhưng ông không tuyệt vọng, mà vẫn không ngừng tín thác và cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:7). Thực sự tín thác vào Chúa thì mới khả dĩ an tâm mà sống, và khả dĩ cảm tạ Chúa trong mọi sự:

Cảm tạ Ngài đã để con sống nghèo thê thảm

Nhờ đó con mới cảm nhận đêm Chúa giáng trần

Cảm tạ Ngài đã để con bị hàm oan

Nhờ đó con mới cảm nhận lúc Ngài bị xét xử

Cảm tạ Ngài đã để con bị người ta ghét bỏ

Nhờ đó con mới thấy cảm thương những người cô đơn

Cảm tạ Ngài đã để con là người bình thường

Nhờ đó con mới cảm nhận thế nào là mơ ước

Cảm tạ Ngài đã để con bị thua thiệt

Nhờ đó con mới biết khao khát vươn lên

Cảm tạ Ngài đã để con không hiểu thấu những điều cao siêu hơn

Nhờ đó con mới không sa vào hố kiêu ngạo

Cảm tạ Ngài đã để con được là người Công giáo

Nhờ đó con mới cảm nhận mầu nhiệm Lòng Chúa Xót Thương

Cảm tạ Ngài đã để con tha phương

Nhờ đó con mới có thể hòa đồng với người xa, kẻ lạ

Cảm tạ Ngài đã để con con mồ côi cả Cha lẫn Mẹ

Nhờ đó con mới biết trân quý tình cảm gia đình

Cảm tạ Ngài đã để con “lạc loài” giữa cuộc đời loanh quanh

Nhờ đó con mới cảm nhận thế nào là bóc lột, áp bức

Đường đời không như tấm thảm nhung, chính Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua gian khổ mới tới vinh quang. Tất cả đều là hồng ân (Rm 4:16), luôn nhờ Lòng Chúa Xót Thương, nếu Chúa chấp tội thì chắc chắn chẳng có ai đứng vững (x. Tv 130:3). Bởi vì “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta” (Ep 2:4), thế nên “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136). Đó là mầu nhiệm của tình yêu thương, của Lòng Chúa Thương Xót.

Đã là mầu nhiệm thì chúng ta không thể hiểu thấu, chỉ hiểu được phần nào mà thôi. Do đó, “hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy!” (Tv 147:1). Chính Chúa “chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, và băng bó cho lành những vết thương” (Tv 147:3). Chúa đã “ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một” (Tv 147:4). Chúa còn “nâng đỡ kẻ thấp hèn và hạ bọn gian ác xuống đất đen” (Tv 147:6).

TIN TƯỞNG TIẾP TẶNG THƯỞNG

Tin tưởng là điều cần thiết trong cuộc sống – tin người và tự tin. Về tâm linh, niềm tin còn cần thiết hơn, và đó chính là đức tin – một trong ba nhân đức đối thần. Với kinh nghiệm đầy mình, Thánh Phaolô nói: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Vì “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công, còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17).

Đối với Thánh Phaolô, phần thưởng là “rao giảng Tin Mừng không công”, và chân thành chia sẻ: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23). Như vậy mới thực sự hành động vì sáng Danh Chúa, vì nếu không khéo thì chỉ sáng danh chúng ta mà thôi. Tôi tìm tiếng tăm thì tôi thật tồi tệ!

Có câu chuyện về Thánh Tôma Tiến sĩ (Thomas Aquinas, 1225-1274) thế này: Có tiếng nói từ Thập Giá: “Tôma, con đã viết hay về Ta. Con muốn phần thưởng gì cho công việc của con”. Thánh Tôma trả lời: “Lạy Chúa, con chỉ muốn chính Ngài”. Và đó mới thực sự là phần thưởng tuyệt vời nhất – cả đời này và đời sau.

Thánh sử Mác-cô cho biết rằng nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt và nằm trên giường. Chúa Giêsu lại gần, “cầm tay bà mà đỡ dậy”, thế là “cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (Mc 1:31). Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Chúa Giêsu chữa. Ngài đã chữa khỏi đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ. Ngài không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai.

Chuỗi sinh – lão – bệnh – tử là quy trình tự nhiên của đời người. Thích Ca Mâu Ni là một hoàng tử sống sung sướng trong hoàng cung, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi ra khỏi hoàng cung và nhìn thấy thực tế của cuộc đời trần gian, thế là ông có tứ diệu đế: Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ. Thế đấy, khổ là… khổ. Mà khổ thật!

Tin Mừng cho biết rằng ngay từ sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã thức dậy, đi ra chỗ tĩnh mịch và cầu nguyện ở đó (Mc 1:35). Tĩnh lặng và cầu nguyện là hai điều cần thiết, nhất là khi thức dậy mỗi sáng, nếu thực sự muốn giao tiếp mật thiết với Thiên Chúa. Trước khi làm gì thì phải đắn đo suy nghĩ. Tương tự, trước khi hành động thì phải cầu nguyện. Không thấy Thầy nên các môn đệ kéo nhau đi tìm Ngài, nhưng Ngài bảo: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1:38). Và rồi Ngài đã đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường, chữa bệnh và trừ quỷ.

Mỗi chúng ta – không trừ ai – cũng có trách nhiệm rao giảng về Chúa mọi nơi và mọi lúc, tùy theo hoàn cảnh và cương vị của mình, chính cách sống của chúng ta sẽ “nói” nhiều và có tác dụng hữu hiệu nhất. Nói ít mà làm nhiều luôn tốt hơn nói nhiều mà làm ít. Thiên Chúa cũng rất muốn người ta phải thể hiện ngôn hành song song: “Hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ? Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45). Sự phân tích và dẫn chứng rất cụ thể!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con không ngừng cố gắng vẽ bức-tranh-cuộc-đời-con bằng chính nét-cọ-số-phận của chính con theo Thánh Ý Ngài và vì Ngài, thực sự mong làm sáng danh Ngài, và có thể sinh hoa kết trái tốt. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

 

(*) Khúc Nhôi hoặc Khúc Nôi là danh từ cổ, thường chỉ dùng trong văn chương, nghĩa là đầu đuôi của câu chuyện lòng, của nỗi lòng, của tâm sự thầm kín. Trong phần điệp khúc của bài thánh ca “Dâng Hồn Xác”, cố NS Hùng Lân có sử dụng từ này: “Con kính dâng Cha cùng bánh và rượu nho, Hồn con đây với xác con đây, Ðền vì bao tội lỗi xưa nay. Con dám trông mong thành áng trầm thơm tho, Bay tới trước dung nhan thánh Người, cảm mến Cha lành tự tình khúc nhôi.

Về mục lục

.

XEM QUẢ BIẾT CÂY

Lm. Jos. DĐH.

Xã hội có thể nhìn thấy kết quả nơi những người chăm học, chăm làm ; cha mẹ sẽ nhận ra đâu là con hiếu con thảo, khi chúng “có danh có phận”. Không phải tự nhiên mà vợ chồng mất tin tưởng, nghi ngờ nhau, đến độ phải thở ngắn than dài: không có lửa tại sao có khói ; các đấng bậc không phải vì vô tình mà nói: chết giả mới biết dạ anh em. Kinh nghiệm của người xưa cho biết “nhàn cư vi bất thiện”, thật ra, vất vả bận rộn, ai chẳng ngán, rảnh rỗi quá, dễ sinh ra tật xấu, phải chăng bậc làm cha mẹ lưu ý con cháu nên có chương trình làm việc, nghỉ ngơi điều độ. Với kiến thức của bậc làm thầy, thước đo thành công nơi các học trò là xem họ có nghiêm túc áp dụng “giờ nào việc nấy” không.

Phận làm con, tuy không hiểu hết được tình thương của cha mẹ, nhưng ít nhiều cũng nhận ra các ngài thành công ở mức độ nào trong hiện tại. Bậc sinh thành nếu chưa nhìn thấy con cháu nên người hữu ích, các ngài rất có thể đoán biết được xác suất của tình yêu và công sức các ngài đã đầu tư. Chỉ cần một chút quan sát, các môn đệ đã phát hiện ra Thầy của họ thành công: thu hút được đám đông, người đau bệnh, trừ ma đuổi quỷ. Không dừng lại ở thành tích vẻ vang vì người kiếm kẻ tìm, Đức Giêsu hướng các môn đệ tới nhiều bài học. Gặp gỡ lòng thương xót của Thiên Chúa không phải để được no cơm bánh vật chất. Tin Chúa, theo Chúa, là để mỗi ngày mỗi giống Chúa và đạt tới ơn cứu độ, thấy phép lạ, là thấy sự hiện diện của tình yêu, hãy tiếp tục chia sẻ.

Trong khi xã hội lòng vòng theo kiểu nói “xem quả biết cây” cho vui mắt, thoả trí tò mò, ghi nhận Đức Giêsu có tài hùng biện, có khả năng chữa bệnh, trừ tà, nhằm mưu cầu lợi lộc cá nhân. Đức Giêsu bằng những lời nói, việc làm, đưa dẫn các học trò vào chiều sâu của tình yêu thương, của ơn cúu độ, của bổn phận trách nhiệm nơi người tông đồ. Hãy xem quả để biết cây, xem đám đông họ thích thú vì được nghe, hãy nhìn những người ốm đau họ sung sướng vì được chữa lành, hãy nhìn xem quỷ thần phải vâng phục Thầy Giêsu, tội lỗi được cải thiện. Hãy khám phá niềm vui của thành quả mà Thầy Giêsu đang thực hiện, để được hiểu, được biết về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, để tin Thầy Giêsu là Thiên Chúa cứu độ.

Hãy xem thành quả nơi mỗi chúng ta đang có hôm nay, để biết, để hiểu, về công ơn dưỡng dục của đấng bậc sinh thành, hãy nhìn những biến cố vui buồn của đời người, hầu nhận ra tình thương nhiệm mầu của Đấng là Cội nguồn hằng ban phát muôn vàn ơn phúc. Hãy nghe, hãy xem, hãy nhìn, và quan sát một ngày hoạt động của Đức Giêsu, ba năm Ngài thực thi sứ mệnh tông đồ Chúa Cha uỷ thác, để qua đó chúng ta xác tín hơn về tình yêu thương Chúa dành cho nhân loại, cho từng người chúng ta. Hãy nhìn, hãy lắng nghe, hãy tiếp tục khám phá những thành quả mà tiền nhân chúng ta gầy dựng cho hậu thế, và hãy: ngó lên cao để thấy mình còn thấp, nhìn xuống thấp để thấy mình chưa cao.

Hãy nhìn bằng đôi mắt nhanh nhạy nhất, hãy nghe bằng đôi tai nghệ thuật nhất, hãy để mắt tâm hồn cảm nhận tình yêu của đấng bậc sinh thành, và hãy bắt trí lòng hiểu rõ hơn về sự hiện diện của Đấng Kitô nơi  trần thế này. Cuộc đời mỗi người sẽ không phải chỉ là nhìn xem, là nghe ngóng, hoặc dừng lại ở phạm vi hiểu biết, mỗi người đều có cơ hội để sống, để thực hành đức ái mà chúng ta đã nhận, đã được trao ban. Tin mừng Đức Giêsu đã được rao giảng khắp muôn dân, tình yêu Thiên Chúa là tình yêu cứu độ vẫn rộng rãi “ban không giới hạn”, quyền năng và phép lạ khử trừ tội lỗi tà thần, đó là niềm tin, là sống kết hợp cầu nguyện. Từ hôm nay, ngay lúc này, lời rao giảng ngọt ngào thấm sâu vào tâm trí mỗi người, phép mầu chữa bệnh nan y, sẽ không còn là ngạc nhiên khó hiểu, vì đức tin, vì tình yêu nên một, vì hoạt động của Thánh Thần đang ở trong mỗi người Kitô hữu chúng ta.

Nếu như ở đời có những thầy dạy sự khôn ngoan, có những bài học từ sách vở, có những kinh nghiệm được sẻ chia, hoặc có những dẫn dắt giúp ta gặp gỡ được người tốt, ý tưởng hay, thì đó là tín hiệu vui, vì tình yêu thương của Chúa đang ở sát gần với chúng ta. Câu truyện “Đời người” ít nhiều cũng sẽ góp thêm một phần cảm nhận về cuộc sống tốt đẹp gởi đến cho chúng ta. Trải qua một ngày mệt nhọc vất vả, người đàn ông ngủ nghỉ tại “đồng không mông quạnh”. Sáng hôm sau khi mặt trời vừa ló rạng, người đàn ông thức dạy với vẻ bàng hoàng xúc động vì niềm vui tưng bừng của phố xá. Sau khi quan sát, ông phát hiện tối qua mình đã nằm ngủ trên lưng một “con rùa”, trong lúc say giấc, con rùa đã đưa ông tới nơi ấm áp hạnh phúc đầy tình người. Khi đọc mẩu truyện này, có thể mỗi người sẽ phát hiện ra cuộc đời của mình đang rất cần đến phép mầu, cần đến tình yêu thương của tình người, tình Chúa, hẳn chúng ta có quyền mơ ước cuộc sống tốt đẹp như thế.

Hãy đọc tình yêu thương của bậc cha mẹ, hãy tiếp tục cảm tạ hồng ân Chúa vì ơn ban chúng ta đang có. Chúa Giêsu đang nhìn nhân loại hôm nay là thành quả Chúa Cha đã gieo trồng, Ngài sẽ còn viết tiếp vào tâm hồn chúng ta nhiều nét đẹp của yêu thương. Chúng ta đau khổ bệnh tật, cần có thầy thuốc giỏi, tai mắt chúng ta khiếm khuyết, rất cần có những lời nói rõ ràng, có tính thuyết phục cảm thông. Chúng ta nghèo tình nghĩa, tội lỗi làm chúng ta té ngã, đứng lên rồi lại gục ngã, chúng ta có cần Chúa giúp không ? chúng ta có tin Đức Kitô quyền năng không ? Vâng, hãy khiêm tốn, hãy hiệp thông cầu nguyện và bày tỏ niềm tin của mình, Chúa sẽ trợ giúp và đáp ứng nhu cầu được yêu thương cho chúng ta. “Con rùa” tạm gọi là thời gian, mỗi chúng ta là “một kỳ công”, là khách bộ hành của Thiên Chúa, hãy tin tưởng, cậy trông, “con rùa” sẽ chuyên chở chúng ta đi trong quỹ đạo của yêu thương đầy nhiệm mầu tới bến bờ hạnh phúc. Amen.

Về mục lục

.

MỘT NGÀY LÀM VIỆC CỦA CHÚA GIÊSU

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Tin mừng của thánh Mác-cô hôm nay trình bày cho chúng ta một ngày làm việc của Chúa Giê-su:

– Một ngày chữa bệnh và xua trừ ma quỷ rất thành công, nhưng không tự mãn khoe khoang, không muốn cho mọi người nói về mình, khi mà “giờ của Ngài chưa đến”. Ma quỉ biết Chúa là ai. Chúng muốn công bố cho mọi người biết sự hiểu biết của chúng về Chúa, nhưng chúng làm thế không phải vì yêu mến Chúa, muốn giúp đỡ Chúa, mà là chúng thù ghét Chúa, chống phá Chúa và muốn làm hỏng công trình cứu độ của Chúa theo ý Chúa Cha.

Theo ý Chúa Cha, thì trước khi được tôn vinh, Chúa Con – Đấng Cứu Độ, phải giảng dạy, làm phép lạ, chịu chống đối và sau hết phải chịu chết trên cây thập giá. Nhưng khi nói đến Đấng Cứu Độ, dân Do-thái chỉ nghĩ đến một Đấng Mê-sia chính trị trần tục, đánh đuổi đế quốc Rô-ma, giải phóng đất nước, mở rộng lãnh thổ, đem lại một nền an ninh thịnh vượng vật chất cho dân tộc Do-thái. Chính vì thấy trước mối nguy hiểm như vậy mà Chúa Giê-su cấm không cho ma quỷ tiết lộ cho mọi người biết Ngài là Đấng Cứu Độ.

– Một ngày bận rộn với công việc rao giảng Tin mừng, chữa bệnh và xua trừ ma quỉ, nhưng vẫn dành thời giờ cho việc cầu nguyện: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt. Chúa đã trỗi dạy, đi đến một nơi vắng vẻ và cầu nguyện ở đó”. Chúa là Thiên Chúa làm người, nhưng Ngài vẫn không ngừng cầu nguyện. Ngài cầu nguyện để luôn giữ sự thông hiệp với Chúa Cha, lãnh ý Chúa Cha, tạ ơn Chúa Cha đã tín nhiệm Ngài và xin Chúa Cha chúc lành cho ngày làm việc của Ngài.

– Một ngày lo chuyện gia đình của những người thân thuộc (chữa bệnh cho mẹ vợ Phê-rô), nhưng không quên đi đến các làng xã chung quanh, để rao giảng Tin mừng và thi ân giáng phúc: “Chúng ta hãy đi đến các làng khác, để rao giảng Tin mừng cho họ, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.

Chiêm ngắm một ngày làm việc của Chúa Giê-su, ta rút ra được những bài học thực hành sau:

– Chúa Giê-su làm biết bao phép lạ, nhưng lại không muốn người ta ca ngợi mình cách bất chính. Vậy, ta đừng bao giờ phô trương công đức, tìm tiếng khen của người đời, nhưng hãy tìm vinh danh Chúa.

Thành công, ta không kiêu, nhưng hãy nói: “Tạ ơn Chúa, tôi chỉ là đầy tớ vô dụng. Nếu không có Chúa ban ơn thêm sức, tôi chẳng làm được việc gì”.

Thất bại, ta không chán nản, thất vọng, nhưng hãy vững lòng trông cậy vào Chúa và khiêm nhường nhận lỗi: “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.

– Cầu nguyện và làm việc là nhịp sống của Chúa Giê-su. Không bao giờ Chúa làm việc mà lại không cầu nguyện. Nên ta đừng bao giờ gạt Chúa ra khỏi đời sống sinh hoạt của ta, nhưng hãy mời Chúa nhập cuộc với ta, cùng đồng hành với ta, soi sáng cho ta biết những việc phải làm, ban ơn và chúc lành cho công việc của ta, từ khởi sự cho đến hoàn thành…

– Chúa Giê-su rảo khắp các làng mạc xứ Palestina để rao giảng Tin mừng và thi ân giáng phúc. Cho nên, ta đừng bao giờ ‘đóng khung Đạo’, ‘đóng khung Tin mừng’ trong nhà thờ, trong những buổi cầu kinh dâng lễ… Nhưng hãy đem Đạo vào đời, đem Tin mừng vào trong cuộc sống, để Đạo được vào đời và Tin mừng được ảnh hưởng sâu rộng trong mọi lãnh vực xã hội nhân loại.

Nếu chúng ta làm được như vậy, đời sống của chúng ta chẳng khác gì đời sống của Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay và khi ấy chúng ta thoát khỏi cái sự khốn khổ mà thánh Phao-lô nói đến: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cr 9,16). Amen.

Về mục lục

.

SỐNG TRÒN ĐẦY TỪNG GIÂY PHÚT MỖI NGÀY

 Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Đức Hồng y Phanxicô xavie Nguyễn Văn Thuận đã chia sẻ: Những năm tháng bị lao tù, có nhiều lúc ngài bị dăn vặt: Mình là chủ chăn, lại phải xa rời đoàn chiên, mình sẽ còn làm gì được cho họ trong lúc bị lao tù này? Nhưng rồi Ngài nhận ra rằng: Lúc này, tôi không thể làm mục vụ, không thể chăm sóc, thăm viếng đoàn chiên được, tôi sẽ làm mục vụ bằng cách khác. Tôi sẽ dùng hết từng giây phút trong nhà tù này, để cầu nguyện cho đòan chiên Chúa đã trao cho tôi. Mỗi phút giây là một dấu chấm, nhiều chấm sẽ làm nên đường dài. Như vậy, tôi sẽ sống tròn đầy từng dấu chấm trong cuộc đời tôi. Tôi sẽ phục vụ đoàn chiên bằng tình yêu thương và lời cầu nguyện trong từng giây phút của cuộc đời tôi.

Thiên Chúa ban cho mỗi người một ngày hai mươi bốn tiếng. Có người biết sử dụng để sinh lợi cho mình và cho người khác, nhưng cũng có những người đã để thời gian trôi qua một cách uống phí. Có người cảm thấy vui và hạnh phúc về từng giây phút trong cuộc đời, thấy cuộc đời mình có ý nghĩa, nhưng cũng có những người cảm thấy cuộc đời mình buồn tẻ, nhàm chán.

Ông Gióp là người đã từng trải nghiệm cuộc sống lúc giàu có, sang trọng, yến tiệc hàng ngày, bạn bè người thân tới lui tấp nập. Ông cũng cảm nghiệm sự bạc bẽo của người thân và bạn bè khi ông bị sa cơ thất thế, nhà cửa tài sản không còn, bệnh tật dày vò thân xác, mọi người đã lãng quên ông. Có những lúc dường như ông Gióp rơi vào bi quan với cuộc sống, ông đã nói: Cuộc sống con người nơi dương thế chỉ là khổ dịch. Đời người lam lũ vất vả như kẻ làm thuê. Gia tài và số phận của tôi chỉ là bóng đêm đau khổ ê chề. Ông Gióp cảm thấy cuộc sống đơn điệu nhàm chán đến độ: Khi nằm xuống ngủ thì mong trời mau sáng, khi vừa thức dậy lại mong bao giờ tới hoàng hôn. Ngày đời cứ thấm thoát như thoi đưa mà chẳng có hy vọng gì. Tuy nhiên dù trong những lúc chán nản mất hết niềm vui trong cuộc sống như thế, ông vẫn không đánh mất niềm hy vọng vào Chúa. Ông cầu xin cùng chúa: Xin Chúa nhớ cho cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.

Tâm trạng của ông Gióp cũng là tâm trạng của nhiều người ngày nay đang kéo lê cuộc đời mình một cách mỏi mệt. Có những người rất thành công, dư dật tiền bạc, có những người nổi tiếng được nhiều người hâm mộ như các diễn viên. Vậy mà, họ vẫn cảm thấy cuộc sống thật đơn điệu, nhiều sức ép vì không tìm được ý nghĩa và niềm vui trong cuộc sống. Nhiều người đã tự kết thúc cuộc đời vì rơi vào bế tắc.

Tin Mừng hôm nay cho thấy một suộc sống thực sự có ý nghĩa là một cuộc sống không chỉ lo cho bản thân, mà phải là biết quên mình phục vụ vì yêu thương. Thánh Marcô đã thuật lại một ngày sống và cũng là một ngày đầy ắp công việc của Chúa Giêsu, từ sáng sớm cho đến chiều tối. Ngày sống của Chúa Giêsu được cân bằng bởi việc cầu nguyện và phục vụ. Tin Mừng kể: Buổi sáng, vừa ra khỏi hội đường, Đức Giêsu đi đến nhà ông Simon và Anre. Bà mẹ vợ của Simon đang bị sốt nặng. Nghe biết tình trạng của bà, Chúa Giêsu chủ động đến gần, cầm tay đỡ bà chỗi dậy. Chúa chữa khỏi cơn sốt cho bà. Chiều tối, dân chúng đem những người bệng tật đến trước nhà, Đức Giêsu lại tiếp tục chửa bệnh, trừ quỷ, đem lại niềm vui cho những bệnh nhân và gia đình. Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu chỗi dậy, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó. Chúa Giêsu bắt đầu ngày mới từ hội đường, nơi mọi người tụ họp để nghe Lời Thiên Chúa, nhận ra ý Chúa. Tại hội đường, Chúa chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, trả lại cho con người niềm vui và hạnh phúc. Như thế có thể nói việc phục vụ vô vị lợi và đem niềm vui, hạnh phúc đến cho người khác sẽ làm cho cuộc sống và công việc thêm giá trị, thêm ý nghĩa. Nhiều người cảm thấy cuộc sống, công việc của mình trở nên đơn điệu nhàm chán, bởi vì họ không được tiếp thêm năng lượng từ Thiên Chúa, thiếu tinh thần phục vụ quảng đại, thiếu quan tâm đến hạnh phúc của người khác.

Qua khung thời gian một ngày làm việc của Chúa Giêsu, Tin Mừng cho thấy, với sứ mạng “đem tin Mừng đến cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương”, Chúa Giêsu đã miệt mài với công việc Chúa Cha đã trao phó cho Ngài. Chúa Giêsu làm việc với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần và lòng yêu mến dành cho Thiên Chúa Cha, cùng với lòng yêu thương trắc ẩn dành cho con người. Chúa Giêsu đã đón nhận nguồn năng lượng cho một ngày làm việc bằng cách, từ sáng sớm tinh mơ, Ngài tìm đến nơi thanh vắng để cầu nguyện. Qua việc cầu nguyện Đức Giêsu gặp gỡ với Thiên Chúa, nhận ra được ý Thiên Chúa muốn trong từng lời giảng và việc làm của Ngài. Khởi đầu và kết thúc ngày sống của Chúa Giêsu là gặp gỡ với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc cầu nguyện giúp cho ngày sống trở nên đầy tràn ý nghĩa. 

Thánh Phaolô trong thư Corintô đã chia sẻ về đời phục vụ của Ngài: Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Nếu tôi tự ý làm điều đó thì tôi mới đáng được thưởng công, còn đây là nhiệm vụ Thiên Chúa trao phó… Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả, để cùng được chia phần phúc của Tin Mừng. Như vậy theo thánh Phaolô, để cho cuộc sống của mình thật sự có ý nghĩa thì mỗi tín hữu cần ý thức trách nhiệm của mình, được Thiên Chúa trao cho sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chúng ta sẽ loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời rao giảng nhưng bằng cả ngày sống với công việc thường nhật của mỗi người. Do đó, khi làm tốt cống việc thường ngày với ý hướng cộng tác với Thiên Chúa trong việc loan báo Tin Mừng, chúng ta sẽ có thêm nghị lực và sức mạnh để sống và làm việc mà không cảm thấy buồn chán.

Thưa quý OBACE, vào giữa tháng mười hai vừa qua, nam ca sĩ hàn Quốc Jonhyun, đang được rất nhiều bạn trẻ hâm hộ đã đột ngột tự tử, khiến cho rất nhiều bạn hâm mộ khóc lóc, thương tiếc. Trong số những người hâm mộ, có nhiều bạn đã tự tử theo chàng ca sĩ đẹp trai, nổi tiếng nay. Sự kiện này chứng tỏ, thành công, danh vọng, tiền bạc, sự nổi tiếng không đem đến cho con người hạnh phúc. Trái lại sự nổi tiếng có khi lại trở thành áp lực khiến cho nhiều ca sĩ Hàn đã tìm đến cái chết. Về phía những bạn tự tử chết theo thần tượng, cho thấy họ không biết trân trọng cuộc sống, không tìm được mục đích và ý nghĩa cho cuộc đời, sống hời hợt không có chiều sâu.

Lời Chúa hôm nay cho thấy, Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài miệt mài làm việc vì sứ mạng của mình. Ngày sống của Chúa Giêsu được nối kết nới nguồn năng lượng là Thiên Chúa và cũng là động lực cho hoạt động đem sự giải thoát, hạnh phúc đến cho con người. Chúa Giêsu đã sống, đã làm việc vì yêu mến Thiên Chúa và nhân loại, Ngài nêu gương cho mỗi chúng ta. Nhiều người đang phải vất vả trong bổn phận làm cha mẹ, làm công nhân hoặc sinh viên, đang chịu nhiều sức ép của cuộc sống, cảm thấy cuộc sống đơn điệu nhàm chán, muốn buông xuôi. Hãy nhìn vào tấm gương của Chúa Giêsu để biết làm cho mỗi ngày sống là mỗi ngày tràn đầy ý nghĩa và niềm vui. Hãy biến cuộc sống hàng ngày trở nên có ý nghĩa bằng việc thánh hóa ngày sống của mình. Hãy biết dâng từng ngày sống và công việc trong ngày cho Chúa mỗi khi thức dậy. Khi đêm về, hãy dành ít phút trong giờ kinh tối gia đình, để cả nhà cùng nhau nhìn lại một ngày, với những công việc bận rộn, để cùng cảm tạ Thiên Chúa. Khi gia đình kiên trì giữ giờ kinh, cầu nguyện và thánh lễ sớm tối như thế, Chúa sẽ trở nên nguồn năng lượng cho ngày sống của gia đình. Chúa sẽ giúp chúng ta khám phá ra ý nghĩa và niềm vui trong từng giây phút của cuộc sống.

Có người đã hỏi mẹ Teresa Calcutta: Cuộc sống của con quá đơn điệu, ngày sống của con thật mệt mỏi và nhàm chán, con sẽ phải làm thế nào? Mẹ Teresa trả lời: Con hãy cho thêm vào mỗi công việc mỗi ngày một chút gia vị là tình yêu. Cuộc sống của con sẽ đẹp lên và đáng yêu hơn. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến từng giây phút của cuộc sống thành những giây phút đầy tràn yêu thương cho mình và anh em. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT V TN B

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Trong Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Thường Niên Năm B này, Bài Đọc I và Bài Đọc II gặp thấy âm vang trong đoạn Tin Mừng hôm nay.

G 7: 1-4, 6-7

Ông Gióp là nhân vật chính của sách này, một người công chính phải chịu muôn vàn đau khổ. Trong đoạn trích hôm nay, ông than vãn với Thiên Chúa về những đau khổ mà mình phải chịu mà không hiểu tại sao.

1Cr 9: 16-19, 22-23

Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô gợi lên lòng nhiệt thành hăng say truyền giáo của thánh nhân là một bổn phận và trách nhiệm mà thánh nhân phải chu toàn.

Mc 1: 29-39

Đoạn Tin Mừng hôm nay như lời đáp trả cho Bài Đọc I và Bài Đọc II, trước hết, Đức Giê-su là Đấng đem lại ý nghĩa cho những đau khổ của con người; đồng thời Ngài cũng là mẫu gương đầu tiên về sứ mạng truyền giáo: “Vì Thầy đến cốt để làm việc đó”.

BÀI ĐỌC I (G 7: 1-4, 6-7)

Ông Gióp là nhân vật chính của sách chứ không là tác giả (giống như sách Giô-na, sách Tô-bi-a, sách Giu-đi-tha). Ông là người tôi trung “đức độ vẹn toàn” của Thiên Chúa, vui hưởng một cuộc sống hạnh phúc giàu sang phú quý. Nhưng rồi những tai họa bất ngờ ập xuống, ông mất tất cả: tài sản, con cái, đoạn, bị ung nhọt lở loét khắp người. Trong cơn cùng khốn, ông than thân trách phận nhưng không nổi loạn chống Thiên Chúa.

Tại sao người công chính phải chịu đau khổ trăm chiều, vấn đề này được đề đề cập đến dưới nhiều khía cạnh khác nhau, được lý giải dưới nhiều gốc độ khác nhau trong cuộc tranh luận dài giữa ông và các bạn của ông. Văn thể chính yếu là đối thoại.

Bài học cốt yếu mà sách đưa ra, đó là người công chính vẫn một mực trung thành với Thiên Chúa trong mọi gian nan thử thách, cuối cùng nhận được phần thưởng của mình: ông Gióp được tăng gấp bội những gì ông đã có trước kia: tài sản, con cái, cháu chắt.

  1. Xuất xứ

Đề tài được khai triển trong sách không mới. Vấn đề người công chính phải chịu đau khổ được nêu lên rất xa xưa trong những chuyện cổ tích dân gian truyền khẩu cũng như trong những bản văn thuộc thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên của các dân tộc chung quanh dân Do thái. Một bản văn Ba-by-lon thuộc thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên chứng nhận rằng miền Lưỡng Hà Địa cũng có một vị anh hùng công chính chịu đau khổ. Văn thể ở trong những câu chuyện đó đã là đối thoại rồi. Ai-cập cũng đã gẫm suy vấn đề này trong một bài thơ rất trữ tình: “Một con người chán sống đối thoại với tâm hồn của mình”. Cuối cùng, ở Hy lạp, đề tài này được gặp thấy ở nơi thi phẩm “Odyssée” nổi tiếng của thi hào Homère. Nhân vật chính, Ulysse, là người công chính phải lang thang phiêu bạt. Ông đã mất tất cả: tổ quốc, gia đình, của cải, các bạn đồng hành cùng với con thuyền, một mình cô quạnh trong một hoang đảo. Cuối cùng, ông lấy lại tất cả những gì ông đã mất trước đó.

Chúng ta chỉ có thể đoán những chứng tích của chuyện tích dân gian ở nơi đoạn kết có hậu: “ở hiền gặp lành”. Tác giả đã không ngại duy trì “đoạn kết có hậu” này, cho dù có nguy cơ làm yếu đi những viễn cảnh tinh thần của thi phẩm của ông. Quả thật, “lời mở” và “lời kết” của sách Gióp được viết bằng văn xuôi và rất có thể là chứng tích của một chuyện tích dân gian. Chắc chắn trên nền chuyện tích dân gian này, văn sĩ thánh đã xây dựng một ngụ ngôn mang chiều kích thần học và luân lý rất cao.

Tác giả đã viết ra những gẫm suy về những đau khổ này nhằm gởi đến cho ai? Những suy đoán về lịch sử và tâm lý khiến người ta nghĩ rằng sách Gióp được biên soạn trong thời kỳ lưu đày Ba-by-lon. Vì thế, ai đã mất tất cả, ai đã sống trong cảnh đời vô vọng, ai đã nêu lên cho Thiên Chúa những nghi vấn và không hiểu tại sao mình phải chịu một sự thử thách dài lâu đến như thế, nếu không phải là những người bị lưu đày ở Ba-by-lon? Vả lại, tác giả không phải là không biết sách “Ai Ca”, từ sách này ông đã đón nhận nguồn cảm hứng sáng tác của mình.

  1. Người công chính phải chịu đau khổ

Đoạn văn hôm nay được trích từ lời than vãn thứ hai trong số những lời than vãn dài của Gióp. Trong đoạn trích này, Gióp than vãn về những đau đớn đang hành hạ thân xác của ông. Bản văn được chọn để chuẩn bị cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng hôm nay. Suốt ngày ở Ca-phác-na-um, Chúa Giê-su đối mặt với những bệnh nhân mà người ta đem đến với Ngài. Động lòng thương, Ngài chữa lành tất cả. Quyền năng của Ngài chữa lành những bệnh hoạn thể xác là dấu chỉ loan báo quyền năng của Ngài chữa lành những bệnh hoạn tâm hồn.

Gióp sánh ví cuộc sống con người với khổ dịch, tiếp đó với chuỗi ngày của kẻ làm thuê và của người nô lệ, cả hai đều nôn nóng chờ đợi ngày kết thúc: người làm thuê đợi tiền công, kẻ nô lệ mong được giờ phút nghỉ ngơi. Sau cùng, Gióp bất hạnh nói đến mình phải trằn trọc suốt đêm thâu không chợp mắt vì cơn đau hành hạ. Tuy nhiên, trong khi trằn trọc đau đớn trên giường, Gióp hướng mắt về Thiên Chúa và nói lên những lời than vãn đến xé lòng của mình với Thiên Chúa: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là một hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ”. Bất chấp tất cả, Gióp giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, dù ông không hiểu được.

Đây chỉ là một đoạn trích ngắn của một trong số những cuốn sách bi thương nhất đã từng viết về nỗi đau khổ của nhân loại. Sách không đề xuất bất kỳ giải pháp nào (vào thời kỳ này những niềm hy vọng bên kia nấm mồ chưa được biết đến ở Ít-ra-en): vấn đề người công chính phải chịu đau khổ vẫn là một mầu nhiệm mà chỉ một Thiên Chúa mới có thể biết được.

BÀI ĐỌC II (1Cr 9: 16-19, 22-23)

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô này có thể hiểu được chỉ khi đặt nó vào lại trong văn mạch, vì hai dữ kiện được đặt chồng lên nhau ở đây.

  1. Một nghĩa vụ buộc phải chu toàn

Dữ kiện đầu tiên mặc nhiên nhắc nhớ cuộc trở lại của thánh Phao-lô trên đường Đa-mát và nhiệm vụ mà Đức Ki tô trực tiếp giao phó cho thánh nhân, khi thánh nhân xuất thần trong Đền Thờ: “Hãy đi, vì Thầy sẽ sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22: 21). Thánh Phao-lô nghĩ rằng mình chẳng có gì phải tự hào tự phụ về sứ vụ loan báo Tin Mừng, bởi vì đó là một nghĩa vụ và trách nhiệm mà thánh nhân không thể thoái thác nhưng buộc phải chu toàn.

  1. Tinh thần vô vị lợi

Qua đó, thánh nhân bày tỏ không chỉ thái độ khiêm hạ trong việc phụng sự Chúa, nhưng còn tinh thần vô vị lợi nữa trong việc loan báo Tin Mừng. Quả thật, đây là dữ kiện thứ hai tất yếu để hiểu đoạn trích này. Trong vài hàng trước đó, thánh nhân phát biểu: “Anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao? Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng” (9: 13-14). Dù thế, thánh nhân không muốn mình trở thành gánh nặng cho bất cứ ai: “Vậy đâu là công sá của tôi? Đó là đem Tin Mừng mà rao giảng không công, chẳng sử dụng quyền lợi Tin Mừng ban cho tôi”.

  1. Nhà truyền giáo mẫu mực

 Thánh Phao-lô tự nguyện khước từ đặc quyền đặc lợi của mình, chia sẻ mọi hoàn cảnh của mọi người, làm đầy tớ mọi người để chinh phục được nhiều người “bằng bất cứ giá nào”. Phần thưởng mà thánh nhân mong ước đó là “cứu độ được một số người”. Như vậy, thánh Phao-lô chẳng những thiết lập mà còn chứng thực đức tính truyền giáo của Giáo Hội.

TIN MỪNG (Mc 1: 29-39)

Đoạn Tin Mừng hôm nay âm vang những gẫm suy về đau khổ của sách Gióp (Đức Giê-su là Đấng chữa lành đích thật, Ngài sẽ đem lại ý nghĩa cho những đau khổ mà con người phải chịu), đồng thời ca ngợi tinh thần truyền giáo mà thánh Phao-lô nêu gương (Đức Giê-su là mẫu gương đầu tiên).

Chúng ta tiếp tục đọc Tin Mừng Mác-cô. Đức Giê-su hiện ở thành Ca-phác-na-um. Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật trước, Ngài đã ngỏ lời trong hội đường và chữa lành một người bị quỷ ám. Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật này, thánh ký tiếp tục kể cho chúng ta về cuộc đời hoạt động của Đức Giê-su.

  1. Cuộc đời hoạt động của Đức Giê-su

Đức Giê-su tiếp tục hành động cứu độ của mình khi bước vào gia đình của hai anh em Si-mon và An-rê. Ngài tiến đến bên bệnh nhân và theo đúng nguyên văn: “cơn sốt rời bỏ bà”. Đây là cách diễn tả rất mạnh. Đây không là cơn sốt như chúng ta thường nghĩ. Cơn sốt gây tác động rất mạnh trên những người xưa. Thiên Chúa ngăm đe những ai không thi hành các huấn lệnh của Ngài, là Ngài sẽ trút xuống những người ấy nỗi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt họ mờ đi và phải kiệt sức (Lv 26: 14-16). Cơn sốt là một trong những tai ương ngang bằng với sự chết mà chỉ một mình Thiên Chúa mới làm chủ được nó (Kb 3: 5).

“Người cầm lấy tay bà và vực bà chỗi dậy, đó cũng là cử chỉ của Đức Giê-su khi Ngài cho bé gái ông Gia-ia sống lại: “Người cầm lấy tay cô bé…và lập tức, cô bé chỗi dậy (Mc 5: 41-42). Trong cả hai trường hợp, chúng ta lưu ý đến cùng một động từ: “chỗi dậy”, động từ này được Tân Ước dùng để chỉ cuộc Phục Sinh của chính Ngài. Như vậy, ở nơi câu chuyện này, Chúa Giê-su chuẩn bị cho các môn đệ Ngài cuộc Phục Sinh sau này của Ngài.

Khi ngày sa-bát chấm dứt, tức là lúc chiều xuống (người Do thái tính một ngày mới bắt đầu từ lúc mặt trời lặn như biểu thức được lập đi lập lại ở trang đầu của sách Sáng Thế: “vào một buổi chiều và một buổi sáng, ấy là ngày thứ…”), người ta có thể đem các bệnh nhân đến nhà ông Si-mon mà không phải vi phạm lệnh truyền giữ ngày sa bát. Đức Giê-su chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền.

Việc chữa lành bệnh tật thể lý này chỉ nhằm chuẩn bị một dấu chỉ khác mà Đức Giê-su không bao lâu sau sẽ thực hiện cũng trong chính thành Ca-phác-na-um này, khi Ngài nói với người bại liệt: “Này con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2: 5). Đức Giê-su biết rằng dân chúng tin có một mối dây liên kết giữa bệnh tật và tội lỗi. Khi chữa lành đám đông khỏi mọi bệnh tật, Ngài loan báo ơn tha thứ tội lỗi.

  1. Đời sống nội tâm của Đức Giê-su

Điều đáng chú ý nhất của bản văn này là vén mở đời sống nội tâm của Đức Giê-su: “Sáng hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Đức Giê-su đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện”. Thánh Mác-cô nhấn mạnh “nơi hoang vắng”. Diễn ngữ “nơi hoang vắng” rất giàu ý nghĩa. Chính là nơi mà các nhà chiêm niệm vĩ đại gặp gỡ Thiên Chúa như ông Mô-sê, ngôn sứ Ê-li-a, vân vân. Đó cũng là nơi mà Đức Giê-su cầu nguyện với Cha Ngài trong suốt bốn mươi đêm ngày trước khi khởi sự sứ vụ công khai của Ngài. Đó cũng là nơi Ngài cầu nguyện trong khi các môn đệ ngủ…và điều này sẽ được tái diễn vào một đêm khác bi thảm hơn, đêm trước cuộc Tử Nạn của Ngài trong vườn Cây Dầu.

Khi ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm Ngài và gặp lại Ngài, Đức Giê-su từ chối quay trở lại Ca-phác-na-um, vì e ngại mình trở thành đối tượng của lòng nhiệt thành dân chúng, điều này làm phương hại đến ý nghĩa sứ mạng của Ngài. Ngài muốn rao giảng Tin Mừng ở những nơi khác nữa, “Vì Thầy đến cốt để làm việc đó”.

Về mục lục

.

CHỨNG NHÂN

Lm Vũđình Tường

Nhân vật trong các bài đọc tuần này mỗi vị đưa ra một cách khác nhau làm chứng về Tin Mừng. Trong Cựu Ước Job trở thành nhân vật đức tin sống động trong đau khổ bệnh tật và sự cô đơn của chính cá nhân mình. Ông là người, trong bất cứ hoàn cảnh nào, luôn tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Ma quỷ ghen tức xin Chúa cho chúng thử lòng tin của ông. Thiên Chúa cho phép nhưng cấm chúng giết ông. Ma quỷ dùng mọi sự dữ hành hạ tinh thần cũng như thể xác ông. Trong cơn hoạn nạn, nhà tan cửa nát, con cái chết, bạn bè kết án, vợ ông trách móc, toàn thân ông ghẻ lở, hôi hám, ai đến gần cũng phải nín hơi bịt mũi, chó đến liếm vết lở. Trong hoàn cảnh cô đơn, cùng khốn như thế ông vẫn một lòng tín trung, phó thác. Khi tin dữ đến ông luôn lập lại cùng câu nói: Chúa ban cho nay Chúa lấy đi, xin cảm tạ Chúa. Job tin rằng mọi sự ông có đều do Chúa ban, con cái, gia tài, vật chất, của cải, tài trí, kể cả mạng sống ông, cũng do Chúa ban. Chúa ban cho hay Chúa lấy đi ông đều nói lên lời cảm tạ. Đức tin của ông vượt thắng mọi sự dữ và Chúa lại ban cho ông nhiều hơn trước.

Bài đọc thứ hai là thơ thứ nhất thánh Phaolô gởi cho tín hữu thành Corintô. Thánh Phaolô cũng cho thấy lòng tin của ông biến ông thành người sống tinh thần phó thác, phó thác sự sống mình cho Chúa. Ông từ bỏ vinh quang, quyền lực trần thế đang hưởng để sống cho Đức Kitô. Là người có quyền cao, chức lớn, toàn quyền quyết định mạng sống người khác trong tay nhưng chính mạng sống mình, ông lại trao cho Thiên Chúa. Sau khi được ơn trở lại, đối với thánh Phaolô tất cả mọi thứ trên trần gian chúng đến rồi đi, chúng không tồn tại. Có một điều tồn tại mà ông một lòng tìm kiếm đó là làm cách nào để luôn sống làm vui lòng Đức Kitô. Có được điều đó là có tất cả; mất điều đó là mất tất cả. Vì thế thánh nhân luôn rao giảng Tin Mừng mong tìm kiếm nguồn hạnh phúc thật, vĩnh cửu, sống làm đẹp lòng Đức Kitô. Mọi thứ khác đều là phụ thuộc. Đau khổ thân xác, đói khát, nguy hiểm, tù đày, bị người ta ngờ vực, bị bạn hữu chê bai, bạn đồng hành chỉ trích, thân nhân coi thường. Ông coi nhẹ tất cả miễn là điều thánh nhân đang làm, làm đẹp lòng Đức Kitô.

Đức Kitô trong Phúc Âm thánh Marcô cho biết Ngài sống không phải cho chính mình mà sống cho Chúa Cha, sống làm đẹp lòng Chúa Cha. Qua Đức Kitô người ta nhận ra khuôn mặt yêu thương từ ái Chúa Cha. Qua giáo huấn của Đức Kitô người ta biết ít nhiều về điều huyền diệu nhiệm màu của Thiên Chúa. Nhận biết Đức Kitô chính là nhận biết Chúa Cha. Thi hành thánh í Đức Kitô là thi hành thánh í Chúa Cha. Thánh Phaolô chủ trương sống làm đẹp lòng Đức Kitô chính là sống làm đẹp lòng Chúa Cha. Nhiều lần Đức Kitô công khai tuyên bố Ngài đến trần gian để thực hiện không phải í riêng Ngài mà chính là thực hiện í Chúa Cha. Í của Chúa Cha là những ai nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và tin ở Ngài sẽ nhận được sự sống trường sinh Gn 6,40.

Đức Kitô thường tìm nơi vắng vẻ buổi ban mai để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sự liên kết mật thiết với Thiên Chúa qua cầu nguyện là điều Đức Kitô làm trong tinh thần tự nguyện. Sự liên kết mật thiết này giúp cho việc hiểu í Chúa Cha rành mạch hơn, trong sáng hơn, liên kết chặt chẽ hơn, gần gũi hơn. Là Kitô hữu, môn đệ Đức Kitô chúng ta cũng cần liên kết với Đức Kitô qua cầu nguyện hàng ngày, qua việc siêng năng lãnh nhận các bí tích là nguồn ân sủng giúp chúng ta liên kết mật thiết hơn với Thiên Chúa.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Huỳnh Văn Sỹ

Các bài đọc phụng lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thấy được liên hệ giữa công việc và niềm vui. Nói đến công việc phải làm là nói đến gánh nặng và trách nhiệm. Khối lượng lớn của công việc dễ làm con người mệt mỏi, trách nhiệm công việc phải thực hiện thường xuyên có thể làm người ta chán ngán nếu công việc không đem lại lợi nhuận tương ứng. Công việc nào thực sự đem lại niềm vui? Tìm thấy sức lực ở đâu để có thể hoàn thành khối lượng lớn công việc và chu toàn trách nhiệm với niềm vui?

  1. Công việc đem lại niềm vui

Đối với mọi người và cách riêng với người Kitô hữu, công việc nào đem lại niềm vui? Mỗi người có thể có nhiều cách trả lời cho câu hỏi này. Công việc đem lại niềm vui có thể là công việc phù hợp với chuyên môn, sở trường của người đó. Công việc đó đem lại thu nhập cao và ổn định, hoặc công việc thuộc loại “ngồi mát ăn bát vàng”, “ăn trên ngồi trước”, “làm ít ăn nhiều”, “dễ làm, lương ngon”, công việc đem lại danh tiếng, mau thăng chức trong xã hội hay ngay cả trong Giáo Hội.

Những bài đọc lời Chúa hôm nay giúp chúng ta là những người Kitô hữu biết phân định công việc nào đem lại niềm vui thực sự. Trong bài đọc I, trích sách ông Gióp, cho thấy ông là người công chính nhưng thực tế ông phải chịu nhiều đau khổ. Ông than thân trách phận, than với Chúa về những công việc và đau khổ ông đang chịu. Ông Gióp ví cuộc sống con người với khổ dịch, với những ngày dài của kẻ làm thuê và của người nô lệ. Người làm thuê mong cho xong công việc để lãnh tiền công. Người nô lệ chờ đợi xong việc trong ngày để nghỉ ngơi. Tâm trạng của cả hai đều nặng nề và mệt mỏi. Nếu có chút niềm vui thì cũng chóng qua vì đồng lương ít ỏi và thời giờ nghỉ ngơi ngắn ngủi rồi lại phải tiếp tục công việc ngày này qua ngày khác. ÔngGióp có cái nhìn bi quan về công việc khi cho rằng con người làm việc rất cực nhọc như nô dịch, khổ dịch.Cuộc đời con người với những công việc phải làm như thế thì thật buồn thảm, bất hạnh, chẳng có niềm vui.Gióp than vãn với Chúa: «Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là một hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ». Nhưng dù vậy, Gióp vẫn giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, dù ông không hiểu được những điều đang xảy ra.

Đoạn Tin Mừng theo thánh sử Maccô hôm nay như lời giải đáp cho bài đọc I. Bài Tin Mừng này là đoạn tiếp nối Tin Mừng Chúa Nhật trước, trong đó Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường Caphacnaum và chữa lành một người bị quỷ ám. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy Chúa Giêsu có một ngày làm việc bận rộn từ sáng sóm cho đến tối mịt. Ngài cầu nguyện, giảng dạy, đi từ nơi này qua nơi khác, chữa lành cho nhiều người đến với ngài. Công việc của Ngài đem lại niềm vui cho người khác. Ngài làm việc nhưng không than van vì công việc đó đem lại ý nghĩa cho con người đang đau khổ và chính ngài tự nguyện thực thi công việc đầy ý nghĩa đó. «Cha ta làm việc không ngừng, ta cũng làm việc không ngừng» (Ga 5,17). Thu nhập từ công việc của Chúa Giêsu không được tính bằng tiền bạc vật chất hay hứa hẹn đem lại lợi nhuận ổn định và địa vị cao sang. Chúa làm việc không vì lợi nhuận trần thế nhưng vì Chúa Cha và vì Nước Trời. Điều đó đem lại niềm vui và sự hăng say cho đời hoạt động của Chúa Giêsu.

Tin Mừng không nói Chúa Giêsu đã vui ra sao khi làm việc suốt ngày như thế. Nhưng chắc chắn Ngài vui khi nhìn thấy niềm vui mà Ngài đã đem lại cho người khác. Niềm vui của Chúa Giêsu chắc hẵn lớn lao và sâu lắng vì mục đích nhằm đến không phải là của ăn trần thế nhưng là ơn cứu độ, hạnh phúc đời đời cho con người. Chúa Giêsu làm việc vất vả không vì cho bản thân, để có thu nhập cao mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao giảng để đem lại ơn cứu độ giúp linh hồn người ta nữa. Chúng ta nên nhớ rằng có lần khi 72 môn đệ trở về sau khi được sai đi loan báo Tin Mừng Nước Trời, các ông hết sức vui mừng vì những kết quả đã đạt được, Chúa Giêsu chia sẻ niềm vui của họ đồng thời Ngài nhắc họ về niềm vui đích thật của họ chính là tên của họ được ghi trên trời. Niềm vui đích thật đến từ việc họ đã được Chúa Cha tuyển chọn để mạc khải những mầu nhiệm Nước Trời (Lc 10,20) để rồi chia sẻ những mạc khải ấy cho mọi người.

Chia sẻ mầu nhiệm Nước Trời cho người khác là cách nói khác của việc truyền giáo, của chia sẻ niềm vui. Chúa Giêsu là mẫu gương đầu tiên về thực thi sứ mạng truyền giáo. Khi Simon và các bạn kéo nhau đi tìm Ngài và gặp lại Ngài, Chúa Giêsu không muốn trở lại Caphácnaum, vì sợ rằng ở đó dân chúng sẽ tôn vinh Ngài theo kiểu như vua chúa thế gian và điều nầy làm phương hại đến ý nghĩa sứ mạng của Ngài. Hơn nữa Ngài muốn rao giảng Tin Mừng ở nhiều nơi khác nữa chứ không dừng lại một nơi nào dù nơi đó xem ra có vẻ thành công. Ngài nói “vì Thầy đến cốt để làm việc đó”.

Rao giảng Tin Mừng là công việc đem lại niềm vui, niềm vui cho người rao giảng và cho cả người đón nhận. Bài đọc hai trích thư thứ nhất của thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô cho thấy truyền giáo là bổn phận phải thi hành đồng thời thi hành với tinh thần khiêm nhường và vô vị lợi. Đối với thánh Phaolô đó là phần phúc lớn lao.

Thánh Phaolô đã hăng hái chu toàn những công việc nặng nhọc Chúa giao, mà chính yếu là rao giảng Tin mừng. Thánh Phaolô đã nói «Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng» (1 Cr,9,16). Thánh Phaolô đã hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của việc mình làm nên đã tự nguyện hăng hái làm việc. Niềm vui và phần thưởng của Ngài là biết mình đã chu toàn sứ vụ truyền giáo; ngài đi rao giảng không phải với mục đích kiếm tiền hay để được danh tiếng, vinh dự cho mình. Ngài chỉ phục vụ mà thôi Tin mừng mà thôi: «Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi ? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi» (1 Cr 9,17-18).

  1. Sức lực để thực thi công việc với niềm vui và hăng say

Trong bài đọc I, ông Gióp thì than rằng làm việc là một gánh nặng khổ dịch, quá đau khổ trong khi bài Tin mừng cũng như bài đọc 2 diễn tả Chúa Giêsu và thánh Phaolô làm việc cách hăng say và vui vẻ. Nhờ đâu mà Chúa Giêsu và thánh Phaolô đã làm việc như vậy?

Bản văn Tin mừng cho thấy đời sống nội tâm sâu sắc của Chúa Giêsu: «Sáng hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Đức Giêsu đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện». Cách nói “nơi hoang vắng” rất ý nghĩa trong Kinh Thánh. Đó là nơi mà con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa, như Môsê, ngôn sứ Êlia… Đó cũng là nơi mà Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài suốt bốn mươi đêm ngày trước khi khởi sự sứ vụ công khai của mình. Đó cũng là nơi Ngài cầu nguyện trong tĩnh lặng trong khi đó các môn đệ lại đang ngon giấc… Chính sự kết hợp với Chúa cha, vì yêu mến Cha đã đem lại sức lực cho ngày làm việc từ sáng sớm đến tối mịt của Chúa Giêsu. Lương thực của Ngài là thi hành ý muốn của Cha (Ga 4,34).

Thánh Phaolô ý thức rằng «Tôi mà tự ý làm việc thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công» và hơn nữa thánh nhận quả quyết «Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng» (1 Cr 9,23). Vì Tin mừng là cách diễn tả khác của tình yêu dành cho Chúa, vì Chúa và vì tha nhân.Thánh Augustinô nói rằng với tình yêu người ta sẽ làm việc mà không thấy cực nhọc (ubi amatur, non laboratur). Chú ý rằng, ở đây muốn nói rằng không phải là làm việc không biết mệt mỏi nhưng là dù mệt mỏi mà vẫn trung thành và làm với niềm vui vì làm với tình yêu Chúa và tha nhân.

  1. Ý nghĩa và niềm vui của công việc

Cuộc sống hiện đại với những công việc bận rộn và cực nhọc. Người ta chạy đua với thời gian để tăng thu nhập và hoàn thành công việc nhiều khi không có giờ nghỉ ngơi. Lời Chúa hôm nay giúp người Kitô hữu biết dừng lại để định hướng và tìm thấy ý nghĩa cũng như niềm vui trong công việc của mình.

Chúng ta làm việc không ngừng không phải chỉ vì để có thu nhập cao cho bản thân, cho gia đình, cho cộng đoàn của mình, mà còn để chia sẻ giúp ích cho những người khác vì yêu thương và quan tâm đến người khác.

Sự quan tâm và yêu thương người khác còn được thể hiện không phải chỉ qua việc chia sẻ vật chất và công việc trần thế mà còn bằng cách dành thời giờ và sức lực, sự cầu nguyện và lối sống phù hợp với đức tin để tích cực giới thiệu Chúa cho người khác qua mỗi ngày sống.

Niềm vui có được từ công việc với sự nóng vội khao khát có thu nhập cao cho bản thân sẽ chóng qua và dễ rơi vào mệt mỏi, lo âu đối phó vì sợ mất thu nhập trong tương lai. Niềm vui sẽ trọn vẹn, lâu dài và sâu lắng khi sống làm việc theo gương Chúa Giêsu tức là vì yêu mến Chúa, yêu mến Giáo Hội, yêu mến tha nhân, vì Tin mừng.

Cuộc đời hoạt động và đời sống nội tâm của Chúa Giêsu cho ta một kết luận với sự xác tín rằng: đời sống cầu nguyện và lao động cần đi đôi và hài hòa với nhau mới thực sự sinh ra những “lợi nhuận” cao và tốt đẹp đời này lẫn đời sau cho con người, cho bản thân và tha nhân.

Về mục lục

.

ẢO VÀ THẬT

Lm. Giuse Nguyễn

Thi sĩ Thiên Hương đã kết thúc bài thơ “ảo và thật” của mình bằng đoạn: “Ai đã một lần về chốn ảo, xin hãy chỉ dành những yêu thương, xoa dịu nỗi đau còn hiện hữu, chia sẻ niềm vui giấc mộng thường”.

Người dân Việt Nam vẫn chưa quên những cung bậc cảm xúc mà đội tuyển bóng đá U23 Việt Nam đã mang lại, với thành tích á quân tại giải vô địch U23 Châu Á vừa qua. Nhiều người lần đầu tiên trong đời mới chứng kiến cảnh đón tiếp sự trở về trong vinh quang của các cầu thủ, nào là đón tiếp cấp quốc gia, tỉnh nhà, câu lạc bộ, địa phương; chào thăm chính quyền các cấp; trả lời phỏng vấn nhiều báo chí… đến nỗi các cầu thủ không có giờ nghỉ ngơi, ăn uống, mệt lả. Đó là điều xứng đáng dành cho sự cống hiến của các cầu thủ U23 Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều người đã lên tiếng cảnh báo để chúng ta đừng làm cho các cầu thủ sống trên mây, trên gió, sống trong ảo tưởng và rồi ngủ quên trên chiến thắng. Chắc chắn chính các cầu thủ biết rằng để có được vinh quang này thì họ đã phải nổ lực tập luyện và thi đấu gian khổ đến mức nào. Đó là thật.

Điều đáng nói là có những kẻ đã lợi dụng chiến thắng của đội tuyển U23 Việt Nam để đánh bóng tên tuổi của mình, chẳng làm gì mà khi chụp hình, quay phim thì luôn luôn có mặt; lấy nick giả của các cầu thủ để câu like bán hàng; và rồi số tiền thưởng khủng của các cầu thủ cũng sẽ bị chia 5 sẻ 7 cho những kẻ hữu danh vô thực… Đó là ảo.

Gióp đã chia sẻ một vài tâm tư của chính ông, nhưng qua đó cũng là sự thật của đời người trong bài đọc I như sau: “Cuộc sống con người nơi dương thế, chẳng phải là thởi khổ dịch sao?” ; để cuối cùng ông thốt lên: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (x. G 7, 1-4 . 6-7). Gióp cho chúng ta thấy cái gì là thực, cái gì là ảo. Mê mê với những sự thế gian này là ảo. Gắn bó với Thiên Chúa mới là thực.

Trong bài Tin Mừng, khởi đi từ việc Đức Giêsu đến nhà và chữa lành bệnh cho bà mẹ vợ ông Simon, sau đó Ngài còn “chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ”. Vì vậy mà “cả thành xúm lại trước cửa” để tìm Đức Giêsu, chắc chắn vì những gì Ngài đã làm cho họ. Tuy nhiên Đức Giêsu đã “tìm đến nơi hoang vắng mà cầu nguyện”. Ngài còn dạy cho các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (x. Mc 1, 29-39).

Đức Giêsu đã cho thấy cái gì là thực, cái gì là ảo. Thực là sứ mạng yêu thương mà Thiên Chúa Cha đã muốn Ngài mang đến trần gian này, và Ngài đã làm điều đó cho dân chúng. Ảo là sự tung hô, chào đón, những vinh quang, danh dự của đám đông dành cho Ngài. Quả thật, sau đó ít lâu, cũng chính đám đông này đòi “đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá”.

Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết tìm kiếm những giá trị thật và phải tránh xa những giá trị ảo.

Tuy nhiên, ma quỷ đã gieo vào thế gian, vào tâm hồn của chúng ta quá nhiều giá trị ảo. Sự lợi hại của ma quỷ là tuy ảo nhưng lại thật, tuy thật nhưng lại ảo. Cái ảo của ma quỷ chính là đảo lộn những giá trị thật.Ví dụ con người có xã hội tính, sống chung, sống cùng vì “không ai là một hòn đảo”. Thời trước người ta gặp gỡ nhau trong mọi cơ hội: trên xe, trên đò, đi chợ, đám tiệc, giờ rãnh đi thăm hàng xóm… Còn bây giờ người ta không phủ nhận việc gặp gỡ, nhưng dần dần chỉ là ảo trên các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội. Người ta biết rất nhiều người, nhưng có mấy người là biết rõ ; người ta nhanh nhạy với các thông tin, nhưng tính xác thực được bao nhiêu. Có bạn trẻ phải thốt lên: từ khi có facebook chưa bao giờ được nhận quà sinh nhật thật, mà chỉ toàn là tin nhắn. Trên xe, trong quán café không còn là nơi để gặp gỡ, hỏi thăm nhau, vì mỗi người đều dán mắt vào chiếc điện thoại. Bên Nhật Bản có cả công nghệ viếng xác. Chỉ cần lái xe ngang nhà tang, dừng lại cúi đầu, Camara sẽ truyền tín hiệu vào bên trong để người nhà biết người đó đã đến viếng xác… Từ những gặp gỡ ảo đó mà ma quỷ đã thành công trong việc nối kết người lạ trong những giao tiếp tự do, bậy bạ dẫn đến nhiều gia đình đổ vỡ hoặc những tâm hồn trong sáng trở nên đen tối.

Trong lãnh vực gia đình, ma quỷ cũng đảo lộn giá trị thật thành ảo. Ngày trước khi lập gia đình, không phải chỉ người Công giáo, mà tất cả mọi gia đình đều không hề nghĩ đến việc “sống đại, được thì ở, không được thì thôi!” như một số quan niệm của các bạn trẻ ngày hôm nay; đối với thời trước dù không bị ràng buộc bởi dây hôn phối, họ cũng nghĩ lập gia đình là chuyện quyết định 1 lần cho tất cả. Vì vậy khi có gặp những trục trặc nho nhỏ, họ cũng cắn răng chịu đựng vì chính mình đã chọn lựa. Thậm chí khi con gái giận chồng trở về nhà, cha mẹ không cho, đuổi đi và nói thẳng: “Đây đâu phải là nhà con nữa! Con chọn thì con phải chịu”… Nhờ vậy mà nhiều gia đình có nguy cơ tan vỡ đã được hàn gắn nhờ người xưa biết quý trọng giá trị bền vững của hôn nhân… Ngược lại ngày hôm nay, người ta quan niệm quá dễ dàng trong đời sống  hôn nhân gia đình, thậm chí nghĩ nó như việc tham gia một trò chơi, đến lúc nào đó thì chấm dứt. Nhiều cha mẹ còn khuyến khích con cái: “được thì ở, không được thì thôi!”.

Còn nhiều thứ đã bị ma quỷ làm đảo lộn giá trị mà trong phạm vị giới hạn không thể nói lên hết. Xin được trích 1 đoạn thư của thánh Phaolô gởi dân thành Rôma, để cảnh báo lối sống buông theo những giá trị ảo của ma quỷ: Bởi thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục tình đồi bại. Đàn bà không quan hệ theo lẽ tự nhiên, mà lại làm điều trái tự nhiên. Đàn ông cũng vậy, không quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà đem lòng thèm muốn lẫn nhau: đàn ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc vào thân hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình. Vì họ đã không thèm nhận biết Thiên Chúa, nên Người đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những điều bất xứng, lòng họ đầy bất chính, xấu xa, tham lam, độc ác đủ thứ; nào là ganh tị, giết người, cãi cọ, mưu mô, thâm hiểm; nào là nói hành nói xấu vu oan giá họa. Họ thù ghét Thiên Chúa, ngạo ngược, kiêu căng, khoác lác, giỏi làm điều ác, không vâng lời cha mẹ, không có lương tri, không giữ lời hứa, không chút tình cảm, không chút xót thương. Họ thừa biết phán quyết của Thiên Chúa là: hễ ai làm những điều như vậy thì đáng chết. Thế mà không những họ cứ phạm những tội đó, lại còn tán thành những kẻ làm như vậy.” (1Rm 26-32).

Còn những giá trị thật chính là tình yêu thương, sự quan tâm phục vụ người khác theo gương Đức Giêsu mà không màng đến việc được tung hô, được kể công, được tuyên dương. Có nhiều người muốn mình phải nổi bật hơn người khác, muốn những việc mình làm phải được người khác biết đến… Họ tìm vinh quang ảo chứ không phải vinh quang thật.

Đức Giêsu đã làm việc hết mình vì tình thương, trong sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Đó là tấm gương để chúng ta noi theo trong cuộc sống hằng ngày. Phải làm việc hết mình không phải để tìm vinh quang cho mình, nhưng trong mọi sự để Chúa được lớn lên trong mọi hành động của chúng ta.

Lạy Chúa, “Xin cho con trở nên bé nhỏ, để con dễ nghe tiếng Chúa, để con thấy Chúa hiện diện trong hết mọi biến cố đời con!…”  

Về mục lục

.

NGƯỜI CẦM LẤY TAY BÀ MÀ ĐỠ DẬY

Lm. Nguyễn Thái

Sơ Maureen Cahill dòng Mân Côi – Holy Rosary – làm việc truyền giáo trong một bệnh viện ở phía bắc Transvaal, Nam Phi gửi cho tác giả cuốn “Story Power”, linh mục James A. Feehan một dụ ngôn Sơ đặt tên là “Dụ Ngôn Cây Viết Chì”: Thực sự chúng ta không biết được ai là người đã làm nên cây bút chì. Nhưng sau khi phát minh ra cây viết chì rồi, người chủ đã ngỏ lời với sản phẩm của mình như sau: Tôi muốn các bạn nhớ đến 4 điểm: 1- Sự tốt lành hay phẩm giá đích thật nằm ở bên trong con người của bạn. 2- Bạn sẽ cần phải được vót cho nhọn, gọt dũa đi khi bạn sống trong cuộc đời. 3- Bạn sẽ được sử dụng trong tay một người nào đó, nếu không tự bạn, bạn sẽ chẳng làm nên cái tích sự gì cả! 4- Người ta sẽ yêu cầu bạn phải để lại ít nhất là một dấu vết gì đó.”

Đời sống con người giống như cây viết chì. Mẹ Têrêsa Calcutta đã áp dụng trường hợp thứ ba cho Mẹ khi Mẹ nói: “Tôi là cây viết chì trong bàn tay của Thiên Chúa.” Còn tác giả của cuốn sách “Story Power”, cha Feehan áp dụng dụ ngôn này trong Thánh Lễ trên đài phát thanh cho những người ốm đau. Cha đã áp dụng sự đau khổ của con người vào trường hợp thứ hai của cây viết chì, là phải được thanh tẩy, chuốt nhọn bởi những khổ đau trong cuộc sống. Cây viết chì mà không bị vót, gọt, dũa thì không thể nào sinh lợi cho người khác được. Ngạn ngữ Pháp có lời khuyên như sau: “Con người là kẻ học nghề, mà thầy là nỗi ê chề đớn đau. Không ai hiểu nổi mình đâu, nếu chưa từng bước nhịp sầu mênh mông.”

Trong các bài đọc hôm nay có đau đớn và cũng có chữa lành. Có hai người chịu đau khổ vì ốm đau bệnh tật và cũng có hai người được chữa lành. Cả hai đều giống nhau. Một người là ông Gióp và người kia là bà nhạc mẫu của Phêrô. Cả hai đều gửi cho chúng ta một cái sứ điệp giống như sứ điệp trong dụ ngôn của cây viết chì. Họ nói về đau khổ và phục vụ. Họ tỏ cho chúng ta thấy rằng qua đau khổ họ thông cảm và hiểu biết tha nhân, rồi dẫn tới yêu thương và phục vụ tha nhân (1 Pr 4:10).

Bài đọc thứ nhất đưa ta vào những đau khổ của ông Gióp phải chịu đến độ hầu như tuyệt vọng: “Xin Ngài nhớ cho cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:7). Ông tuyệt vọng lắm rồi! Ông mất tất cả mọi sự. Tài sản, của cải, gia đình, uy tín, và sức khỏe. Bạn bè nói rằng ông bị thử thách vì ông đã phạm tội. Vợ ông xúi ông nguyền rủa Thiên Chúa mà chết cho rồi! Nhưng ông Gióp lại là một ứng viên tuyệt vời trong tuyệt vọng. Ông nhấn mạnh rằng ông đã không hề phạm tội, không hề xúc phạm tới Thiên Chúa. Nhưng ông không biết tại sao ông phải đau khổ. Đau khổ là một mầu nhiệm đối với ông. Ông trở thành con người của hy vọng. Ông vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa mặc dù đời ông có quá nhiều đau khổ: “Thiên Chúa ban cho, Ngài lại lấy đi, xin chúc tụng danh Ngài” (G 1:21). Ông không hiểu, nhưng vẫn tin tưởng, và sau cùng ông đã nhận ra tình yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa.

Người Ả Rập sống ở sa mạc thường nói: “Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được là một khu vườn.” Không ai thích đau khổ, ngay cả sa mạc cũng mong muốn thoát khỏi khổ đau. Câu chuyện này làm tôi nghĩ đến cuốn “Đường Hy Vọng” của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Trong dịp Đại Hội Đệ Tam Thiên Niên Kỷ 2000, ngài kể lại với các linh mục, tu sĩ và giáo dân về những năm tù đày của ngài:

“Trong những năm khốn đốn bị biệt giam, những năm đau buồn nhất trong đời tôi, tôi chỉ nhìn thấy hai người lính canh và họ được lệnh không được nói với tôi một lời nào. Tôi cảm thấy bị mọi người bỏ quên; tôi thấu suốt nỗi đau khổ tuyệt đỉnh của Chúa Giêsu, cô đơn trên Thánh giá. Tôi nghĩ đến những giáo dân, những tín hữu, đến các linh mục, tu sĩ, chủng sinh đang ở ngoài kia; họ cũng bị ruồng bỏ, bị đau khổ tù đày và bị bách hại. Trong sâu thẳm của yếu đuối, tinh thần lẫn thể xác, tôi nhận được ân sủng của Đức Mẹ Maria.

Tôi không được phép dâng Thánh Lễ, nhưng tôi đã đọc hàng trăm Kinh Kính Mừng, và Đức Mẹ đã ban cho tôi sức mạnh kết hợp với Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Tôi cảm thấy Chúa Giêsu đã cứu chuộc nhân loại khi Ngài cô đơn trên Thập Giá, trong sự bất lực hoàn toàn.

Các người lính canh dần dần hiểu biết tôi. Chúng tôi trở thành bạn hữu. Họ đã giúp đỡ tôi. Họ cho phép tôi làm một cây Thánh Giá bằng gỗ. Tôi đã giấu trong một cục xà bông. Tôi dùng một đoạn giây điện để làm giây đeo và họ đã cho tôi mượn chiếc kìm nhỏ để làm và họ còn làm giúp với tôi nữa. Chiếc Thánh Giá mà tôi mang đây làm bằng gỗ và dây điện từ nhà tù. Chiếc Thánh Giá này luôn luôn nhắc nhở: Hãy yêu thương mãi! Hãy tha thứ mãi! Sống với hiện tại để truyền bá Tin Mừng! Mỗi giây phút sống là để yêu mến Thiên Chúa” (Phó tế J.B. Huỳnh Mai Trác, VietCatholic News, Thứ Tư 18/9/2002). Đức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận là một nhân chứng của tình yêu và hy vọng trong đau khổ).

Bài Phúc Âm đưa ta vào hoàn cảnh của gia đình Phêrô, một gia đình đang có việc lo buồn. Mác-cô cho ta biết, “Lúc ấy bà nhạc mẫu của Simon cảm sốt nằm trên giường” (Mc 1:30). Theo William Barclay, đối với người Do Thái thời đó, bệnh là do ma quỷ. Bà nhạc mẫu của Simon bị bệnh, đồng nghĩa với sự hiện diện của sự dữ trong gia đình – sự hiện diện của ma quỷ nơi người đàn bà. Trong hoàn cảnh bi đát này, Chúa Giêsu ra tay cứu chữa: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (Mc 1:31).

Từ ngữ của đoạn Phúc Âm này, đã được Mác-cô chọn lựa rất cẩn thận. Từ “egeirò – nâng lên” diễn tả việc Chúa Giêsu nâng bà lên giống như Sự Sống Lại của Chúa Giêsu từ cõi chết, được nâng lên đưa về trời. Sau khi được nâng lên rồi, bà bắt đầu phục vụ các ngài. Từ “diakonei – phục vụ” là nguồn gốc của chức phó tế “diaconatus”, mà Tân Ước dùng để diễn tả chức vụ phó tế.

Bà đã được Chúa Giêsu gọi cũng như Ngài đã gọi Phêrô, Anrê, Gioan…và các môn đệ khác. Chỉ trong một giây phút được chữa lành, bà đã tin tưởng và nhận biết Chúa, rồi bà bắt đầu làm việc phục vụ người khác ngay. Người bệnh được chữa lành, và được gọi để trở nên thừa tác viên đi thoa dịu, an ủi khổ đau, cực nhọc của người khác. William Barclay đã trích dẫn một câu châm ngôn trong những gia đình người Scottish như sau: “Saved to serve – Được cứu để phục vụ”. Chúa Giêsu đã cứu chữa chúng ta. Vậy chúng ta phải đi giúp đỡ người khác.

Chuyện cổ Trung Hoa kể câu chuyện về một người đàn bà có người con trai duy nhất đã chết. Trong đau thương buồn khổ, bà đến năn nỉ vị thánh hiền: “Xin ngài hãy dạy cho con biết những lời cầu khấn, hay những câu thần chú nào làm cho con trai của con được sống lại?” Thay vì lý luận dài dòng với bà, vị thánh hiền trả lời: “Bà hãy đi tìm cho tôi một hạt rau cải từ một gia đình chưa từng bao giờ biết buồn khổ là gì. Tôi sẽ dùng nó làm thuốc chữa cho con bà sống lại.”

Người đàn bà bắt đầu đi lang thang khắp nơi tìm kiếm hạt cải kỳ diệu đó. Trước hết, bà đến gõ cửa một lâu đài vô cùng sang trọng: “Tôi đang đi tìm kiếm một nhà chưa bao giờ biết buồn khổ là gì. Xin cho hỏi có phải nhà này không ạ?” Chủ nhà trả lời: “Thưa bà chắc chắn là bà đã đi lộn nhà rồi! Chồng tôi đang hấp hối nằm trên giường bệnh. Con trai tôi bỏ nhà ra đi. Tôi sợ rằng tôi sẽ sống trong cô đơn góa bụa! ”

Nghe xong bà nói: “Ai là người may mắn hơn tôi để có thể giúp đỡ cho những người bất hạnh đáng thương này, cho dù tôi cũng có những rủi ro của riêng mình?” Sau đó, bà ở lại để an ủi chủ nhà trước khi lên đường đi tìm cho ra một nhà chưa bao giờ biết buồn khổ là gì. Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé vào, cho dù là lâu đài sang trọng, dinh thự giàu có đến đâu, bà cũng đều nghe kể về những chuyện buồn bã và bất hạnh. Cuối cùng, đi tới đâu bà cũng đều khuyên răn, an ủi và khích lệ người khác cho tới nỗi chính bà đã trở nên một thừa tác viên phục vụ cho những người buồn phiền đau khổ. Trong công tác mục vụ này bà đã quên việc đi tìm hạt cải kỳ diệu làm thuốc cứu chữa con bà. Bà quên đi nỗi buồn của chính bà.

Khi nào bạn đau khổ, chán nản, tuyệt vọng… hãy nhớ rằng Chúa Giêsu cùng hiện diện với bạn cũng như Thiên Chúa ở bên cạnh ông Gióp. Hãy nhớ rằng Chúa Giêsu sẽ không bao giờ bỏ rơi bạn (Mt 8:25; 28:20). Hãy nhớ rằng bạn đang được yêu thương. Hãy tiếp tục tin tưởng, hy vọng, yêu thương và phục vụ. Khi nào bạn đau ốm về thể xác, tinh thần hay tình cảm, hãy cởi mở tâm hồn ra đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ chữa lành bạn, nắm chặt lấy tay bạn và giúp bạn đứng dậy. Ngài sẽ chữa lành bạn như Ngài đã chữa bệnh cho bà nhạc mẫu của Phêrô. Hãy lắng nghe tiếng Ngài mời gọi, bước theo Ngài và phục vụ tha nhân, vì ơn sủng của Ngài sẽ ban xuống đầy đủ cho bạn (2 Cr 12:8).

Về mục lục

.

TIẾP XÚC VỚI CHA TRÊN TRỜI

Lm. Đinh Lập Liễm

Đức Giêsu là gương mẫu của sự cầu nguyện. Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy rất nhiều lần Đức Giêsu đã cầu nguyện: Vừa khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả, Chúa lắng sâu trong cầu nguyện và đồng thời cửa mở ra (Lc 3:21; Ga 1:32-34). Năm đầu cuộc đời công khai, ngày Sabat Chúa vào hội đường cầu nguyện (Lc 4:16) và cầu nguyện nơi thanh vắng (Lc 5:16). Đêm áp ngày Chúa chọn 12 tông đồ, Chúa đã lên núi và cầu nguyện suốt đêm (Lc 6:12). Trước khi Chúa hỏi các tông đồ về dư luận dân chúng về Ngài, Chúa đã tìm nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Lc 9:18). Trước khi biến hình Chúa đã lên núi cầu nguyện (Lc 9:28) và trong khi cầu nguyện thì Ngài biến hình. Lần kia, sau khi thấy Chúa rời các ông để cầu nguyện, các tông đồ xin Chúa dạy các ông cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông. Và Chúa đã dạy các ông kinh Lạy Cha (Lc 11:1-4). Hơn nữa, nhất là trong giờ hấp hối trong vườn Cây Dầu, Chúa đã cầu nguện thống thiết tới 3 lần (Lc 22:40-45).

Rất nhều lần Ngài đã khuyên các môn đệ cầu nguyện. Ta chỉ ghi ra đây một số trường hợp: – Cầu nguyện trong thinh lặng: vào phòng đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha nơi kín ẩn (Mt 6:6). – Cầu nguyện với lòng tin: Thiên Chúa có thể ban mọi sự (Mc 11:23-24). – Cầu nguyện với Cha chúng ta ở trên trời (Lc 11:13). – Cầu nguyện không nhiều lời (Mt 6:7). – Biết tha thứ cho người khác để Cha trên trời có thể tha thứ cho chúng ta (Mc 11:25). – Với lòng khiêm tốn và thống hối như người thu thuế tội lỗi (Lc 18:9-14). – Cầu nguyện không ngừng (Lc 18,1). – Cầu nguyện chung với người khác (Mt 18:19). – Nhận biết ân huệ của Thiên Chúa (Ga 4:10). – Xin những sự trên trời (Ga 6:27). – Kinh Lạy Cha (Lc 11:2t; Mt 6:9-13).

Đức Giêsu đã cảnh báo Phêrô về nguy cơ ma quỉ làm cho ông bị sa ngã, phải luôn tỉnh thức và đề cao cảnh giác: ”Phêrô, ma quỉ nó sàng con như sàng gạo” (Lc 22:31). Sức riêng của loài người không thể chống lại được sức mạnh của ma quỉ, nên phải cậy nhờ vào ơn Chúa, đừng cậy vào sức riêng mình.

Chúng ta không muốn định nghĩa sự cầu nguyện như các nhà tu đức học mà chỉ nói đơn sơ như Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nói: ”Con đã ở như một đứa trẻ không biết chữ: con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa hiểu thấu tình. Với con, cầu nguyện chỉ là một cơn lòng sốt sắng, một liếc mắt nhìn lên trời, một tiếng kêu tri âm, một lời nói tình giữa lúc phải gian nan khốn cực, cũng như khi được bình an vui sướng. Và nữa, cầu nguyện là một cái gì cao thượng, siêu nhiên cởi mở lòng, phơi giãi linh hồn, trao đổi lại tâm tình, để được kết hợp cùng Chúa cách chí thiết” (Trích Một tâm hồn, Kim Thiếu dịch, tr 204).

Cầu nguyện có thể ví như tình yêu. Chúng ta không thể học yêu qua sách vở được. Phải có phần thực hành. Cầu nguyện ví như học bơi lội. Muốn biết bơi thì phải nhào xuống nước, không thể vừa khô ráo trên bờ vừa lại biết bơi. Cầu nguyện cũng như việc học gia chánh. Muốn thực tập làm các món ăn thì phải lăn vào bếp. Cầu nguyện cũng giống như việc chăm sóc mảnh vườn. Muốn có hoa đẹp thì phải trồng, phải phân bón, phải có nắng, phải tưới nước và phải chăm làm cỏ. Cầu nguyện không là một đề tài để bàn luận, nhưng là một thực tại để sống. Chúa Kitô là thầy dạy chúng ta, và tất cả chúng ta đều là học trò trong lớp “cầu nguyện.” Muốn có một đời sống sung mãn trong Chúa Kitô, chúng ta phải cầu nguyện (Thanh Thủy, Con đường tình yêu, tr 197).

Có nhiều cách cầu nguyện. Thường thường người ta cho rằng cầu nguyện là chuyện vãn với Chúa, là một cuộc đối thoại, mình phải nói với Chúa, nói nhiều cho Chúa nghe. Cũng có người có ý kiến cao hơn: cầu nguyện là lắng nghe tiếng Chúa, cầu nguyện chỉ là cơ hội để Chúa nói với ta. Tất cả đều đúng. Nhưng cầu nguyện cao nhất là sự thinh lặng tuyệt đối, trong đó chẳng ai nói mà cũng chẳng ai nghe vì lúc đó giữa Chúa và ta có một sự kết hợp mật thiết rồi, một sự kết hợp cao độ đến nỗi không còn phân biết giữa Chúa và ta nữa. Tư tưởng này đã được Cha Anthony de Mello diễn tả trong câu chuyện sau đây:

Sau một ngày học hành mệt nhọc, người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà thờ để viếng Chúa, và lần nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh Thể trong nhà tạm. Ngày kia, người bạn trẻ chờ cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi: “Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có nghe Chúa nói gì với cụ không?” Cụ già chậm rãi trả lời: “Chúa không nói gì hết, Ngài chỉ nghe thôi.” “Vậy thì cụ nói những gì với Chúa?” Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ nghe thôi.” Thấy người bạn trẻ có vẻ ngỡ ngàng, cụ nói tiếp: “Thời gian đầu thì lão nói, Chúa nghe, sau đó thì Chúa nói, lão nghe. Giai đoạn kế tiếp thì không ai nói hết vì cả hai cùng nghe và có lẽ giai đoạn cuối là lúc không ai nói mà cũng không ai nghe. Tất cả chỉ là một sự thinh lặng tuyệt đối” (Anthony de Mello, Taking Flight).

Một trong những yếu tố quan trọng trong việc cầu nguyện là sự thinh lặng. Chúng ta cần sự thinh lặng, vì chính trong sự thinh lặng này, Chúa Cha sẽ nói với ta lời của Ngài, Chúa Kitô sẽ chia sẻ với chúng ta ý nghĩa của mầu nhiệm Chết và Phục sinh của Người, và Chúa Thánh Thần sẽ thôi thúc để chúng ta tìm ra đường hướng Chúa muốn chúng ta đi. Ngày nay, con người dường như rất sợ sự thinh lặng, do đó con người tạo ra trăm ngàn cớ để chạy trốn cái giây phút tĩnh lặng trước mặt Chúa, Đấng lột trần cho thấy sự hư vô tột cùng của kẻ từ chối chấp nhận mình nghèo khó và yếu đuối (Thanh Thủy, op.cit. tr 203-204).

Việc cầu nguyện có thể ví được như cách điều chỉnh radio và vô tuyến truyền hình. Chúa và ân sủng của Ngài lúc nào cũng sẵn sàng, bàng bạc khắp không gian như luồng điện. Con người nào không cầu nguyện cũng ví như máy thu thanh và vô tuyến truyền hình không bao giờ dùng tới. Muốn cho các máy đó bắt đúng luồng sóng, đúng tầng số, ta cần điều chỉnh nhẹ nhàng, trong thinh lặng để các máy đó bắt đúng tầng số; bằng không, vẫn chơ vơ một mình, đơn chiếc, lẻ bóng và chẳng ích lợi gì.

Hơn nữa, việc cầu nguyện còn có thể ví như “xạc” bình điện. Chúng ta ưa phóng ngoại, để chạy theo những cái hào nhoáng, những hấp dẫn bên ngoài, thích chạy trên chính mình chẳng khác gì bình điện xài luôn nên hết điện, hết năng lực. Thế nên cần phải có thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng để “xạc” lại bình, để hấp thụ và để bắt liên lạc với chính nguồn điện lực. Giờ cầu nguyện là lúc bồi dưỡng, chuyển hóa, thăng hoá chính bản thân mình như bắt lại với chính nguồn là Thiên Chúa, chính Thánh Thần là Tình Yêu, để ta được gọi Thiên Chúa là Cha (Rm 8:15-16; Gl 4:6). Nhờ đó con người được đổi mới (Cl 3:9-11) tìm lại được con người nội tâm (Rm 7:22) của chúng ta. Tìm gặp, biến thể và hoà đồng với chính Tình Yêu.

Tại bảo tàng viện ở Wittenberg, Đức, người ta còn lưu giữ một lá thư của một tu sĩ dòng Augustinô rất thời danh, mới 35 tuổi, đã làm tới chức Giám Tỉnh. Bức thư như sau: ”Tôi quá bận rộn, phải đi dạy học, giảng thuyết, viết sách, tôi làm quản lý, bắt cá ở hồ… nên không có giờ đọc kinh, không có giờ nguyện gẫm, không có giờ dọn mình dâng Thánh Lễ, có lúc phải bỏ luôn cả Lễ…” Vị cựu tu sĩ thời danh ấy là Luther, người đã ly khai khỏi Giáo Hội, ra khỏi dòng, lập gia đình, lôi kéo nhiều người đi vào con đường ly khai.

Phải phân biệt hai lối cầu nguyện: thụ động và chủ động. Cầu nguyện thụ động là thái độ của kẻ ươn hèn, muốn được điều lành mà không cố gắng, không làm gì cả: họ chỉ há miệng chờ sung. Trái lại cầu nguyện chủ động là tính cách của người vừa cầu nguyện vừa làm việc để đi tới mục đích mình cầu xin: Aide-toi, le Ciel l’aidera!

Nhà khoa học lừng danh Alexis Carrel đã nói: ”Dẫu có vẻ lạ lùng, người ta vẫn phải nhận là đúng rằng kẻ nào cầu xin sẽ được và cửa sẽ mở cho kẻ gõ.” Một nhà khoa học đã từng được giải Nobel còn tin tưởng như vậy.

Văn hào Cronin đã than thở cho những kẻ mất lòng tin tưởng, những kẻ không cầu nguyện: ”Địa ngục là khi lòng mất hy vọng.” Sống là hy vọng, mà mất hy vọng thì còn sống làm sao? Chính vì vậy, những kẻ tự tử là những kẻ không còn tin tưởng, những kẻ không biết có sự cầu nguyện.

Cầu nguyện cũng còn lợi ích nhiều cho đời sống tâm lý và thể lý nữa. Chính những nghiên cứu của các nhà khoa học thời danh đã chứng minh điều đó. Bác sĩ Carl Jung cho biết: ”Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân, rút cuộc người nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình, mất tin tưởng.” Giải pháp ông nói đây rõ ràng là CẦU NGUYỆN (Viết theo Vũ minh Nghiễm, Sống, tr 44-45).

Môt hôm, một bệnh nhân trạc tuổi 40, đến gõ cửa phòng mạch bác sĩ. Người bệnh nói: “Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên, sau đó uống hai viên. Hiện giờ tôi uống những ba viên mà cũng chẳng tài nào ngủ được. Hết muốn sống.” Bác sĩ là một người Công Giáo, liền cho một toa thuốc không mất tiền mua: “Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh sốt sắng, và dâng phó những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.” Đã lâu lắm, bệnh nhân chẳng hề đọc kinh. Tối hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ đã cho một cách nghiêm chỉnh. Một tuần lễ sau, thần kinh bớt căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon và làm việc như thường lệ.

Tuy rất bận rộn với công việc rao giảng, chữa bệnh, trừ quỉ và tiếp xúc với mọi hạng người, nhưng Đức Giêsu không quên cầu nguyện, Ngài tranh thủ những lúc vắng vẻ, những đêm tĩnh lặng để tiếp xúc với Cha Ngài. Hãy theo gương Đức Giêsu mà cầu nguyện trong đời sống hằng ngày, mặc dầu chúng ta rất bận rộn với công việc.

Chúa không đòi chúng ta phải cầu nguyện bằng những lời lẽ hoa mỹ hay bằng những hình thức gò bó, mất tự nhiên, nhưng hãy cầu nguyện đơn sơ như một em bé nói chuyện với cha mình, nói lên tất cả tâm tình của mình, nói lên những việc lớn cũng như việc nhỏ trong cuộc sống. Cha Charles khuyên: “Khi bạn quì gối trước nhan Chúa, bạn đừng xua đuổi những cái khác ra ngoài, nhưng hãy làm ngược lại. Khi bạn thưa chuyện với Chúa Giêsu Kitô, bạn đừng bỏ bớt ba phần tư từ ngữ quen dùng của bạn đi, bạn đừng dùng những từ ngữ ít gặp và đừng tránh không nói đến những chuyện tầm thường. Đừng giả vờ biến thành một người khác. Bạn hãy dám thưa với Chúa Giêsu rằng, bạn bị nhức đầu, bạn bị bực mình khó chịu, bạn làm bữa cho gia đình trễ quá rồi” (Charles, La priere de toutes les heures, tr 10).

Cũng cần lưu ý thêm khi cầu nguyện trong những biến cố quan trọng: “Dĩ nhiên rằng khi một biến cố quan trọng xẩy ra, nhất là một thử thách xẩy đến trong đời bạn, bạn đem ra thưa với Chúa trong kinh nguyện của bạn, nhưng đàng khác cũng có một nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ không đưa vào kinh nguyện của bạn hàng ngàn chuyện lặt vặt xẩy ra hàng ngày, nhưng quan trọng đối với bạn và làm thành những đường chỉ dệt nên đời sống của bạn” (Gaston Dutil, Đạo Trong Đời Bạn, tr 29).

Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Người ta tưởng rằng cầu nguyện là phải chu chu chăm chắm, nhắm mắt lại mà cầu nguyện. Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.

Để kết thúc, chúng ta nhắc lại lời Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu: ”Con đã ở như một đứa trẻ, con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa thấu hiểu.”

Về mục lục

.

TẤM LÒNG CỦA THIÊN CHÚA

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I.  DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Một trong những bài hát mà tôi ưa thích nhất là bài TRONG TIM CHÚA, với những lời thật hay:

  1. Trong trái tim Chúa yêu muôn đời, con xin được một chỗ nghỉ ngơi, nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, như nước mưa tan trong biển khơi. Nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, những ước mơ con có trong đời, nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi là tình con trong khối tình Người.

ĐK: Trái tim hồng Thiên Chúa trái tim Người CHA. Mãi muôn đời yêu dấu chúng con gần xa. Tháng năm đời con sống chứa chan lời ca. Có ân tình Thiên Chúa trái tim nở hoa.

  1. Trong trái tim Chúa như nôi hồng, con xin được như bé ngủ mơ, một giấc mơ, nghìn giấc mơ, những giấc mơ ấm êm tuổi thơ. Nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, những giấc mơ con có trong đời, là sống vui, là hát vui, là trẻ thơ trong mái nhà Người.

ĐK: Trái tim hồng Thiên Chúa trái tim Người CHA. Mãi muôn đời yêu dấu chúng con gần xa. Tháng năm đời con sống chứa chan lời ca. Có ân tình Thiên Chúa trái tim nở hoa.

  1. Trong trái tim Chúa bao ân cần, con xin được say nếm hồng ân, là trái ngon, là trái ngon, những trái ngon dưỡng nuôi đời con. Là bánh thơm, là sữa thơm giúp con mau chân bước lên trời, là đóa hoa, là tiếng ca, gọi lòng con mau bước về nhà.

ĐK: Trái tim hồng Thiên Chúa trái tim Người CHA. Mãi muôn đời yêu dấu chúng con gần xa. Tháng năm đời con sống chứa chan lời ca. Có ân tình Thiên Chúa trái tim nở hoa.

  1. Trong trái tim Chúa bao dịu dàng, con xin được nghe Chúa bảo ban, dậy dỗ con, dậy dỗ con, dậy dỗ con biết sống sao thắm tươi tình son. Tìm bước theo đường mến yêu, biết dâng trao, biết thứ tha nhiều. Cùng Chúa đi, cùng Chúa đi, hòa niềm vui chung với mọi người.

ĐK: Trái tim hồng Thiên Chúa trái tim Người CHA. Mãi muôn đời yêu dấu chúng con gần xa. Tháng năm đời con sống chứa chan lời ca. Có ân tình Thiên Chúa trái tim nở hoa.

Bài hát ấy rất phù hợp với những đoạn Phúc Âm trong đó chúng ta thấy Chúa Giê-su có một tấm lòng hết sức nhạy cảm trước nỗi đau của con người và vì thế mà Người rất quyết liệt chống lại cái ác và luôn luôn ra tay cứu giúp những người yếu đau bệnh tật, những người bị xã hội khinh khi và loại ra bên lề.

Chúng ta hãy đọc kỹ các bài Sách Thánh hôm nay để khám phá tấm lòng của Chúa Giê-su cũng là tầm lòng của chính Thiên Chúa trước những nỗi thống khổ của con người.

II.  LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Trong bài đọc 1 (G 7,1-4.6-7): Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng.

(1) Bấy giờ ông Gióp lên tiếng nói: Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? (2) Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công, (3) cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. (4) Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: “Khi nào trời sáng?” Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: “Bao giờ chiều buông?” Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng….

(6) Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. (7) Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.

2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 9,16-19.22-23): Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.

(16) Thưa anh em, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! (17) Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. (18) Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi.

(19) Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. (22) Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. (23) Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 1,29-39): Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật.

(29) Hôm ấy vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-mon và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. (30) Lúc đó bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà.  (31) Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

(32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa. (34) Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.

(35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dạy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thày còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” (39) Rồi Người đi khặp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân dung của Thiên Chúa:

1o) Trong đoạn Sách G 7, 1-4.6-7, ông Gióp không đề cập trực tiếp đến Thiên Chúa nhưng là những lời ông than thở với Người, về những nỗi khổ đang tràn ngập cuộc sống và năm tháng ngày giờ của ông. Ông than thở với Thiên Chúa vì ông tin vào tình thương và quyền năng của Người: chỉ có Thiên Chúa mới cứu được ông khỏi cảnh khổ, mới làm cho những tháng năm của ông có ý nghĩa, mới đem lại hạnh phúc cho ông!

2o) Trong đoạn thư 1 Cr 9,16-19.22-23, Thánh Phao-lô cũng không đề cập trực tiếp đến Thiên Chúa nhưng ngài thổ lộ tâm tư sâu thẳm của mình: Thánh Phao-lô chỉ có một trách nhiệm, một sứ vụ, một mối quan tâm: đó là rao giảng Tin Mừng Cứu độ và giúp đỡ người khác đón nhận Tin Mừng ấy. Sứ vụ/trách nhiệm ấy là do chính Thiên Chúa đã giao cho ngài.

Để chu toàn việc rao giảng Tin Mừng và chinh phục các tâm hồn cho Thiên Chúa, Thánh Phao-lô tự biến mình thành người nô lệ cho Tin Mừng và cho con người. Ngài sống hòa đồng, thậm chí đồng hóa với hết mọi hạng người, để Tin Mừng được loan báo và đón nhận. Tin Mừng mà Thánh Phao-lô phục vụ quả thật là Tin Vui, là Tin Chiến Thắng! Đấng Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô phụng thờ quả là Vị Thần Linh cao cả và tuyệt diệu!

3o) Trong đoạn Tin Mừng Mc 1,29-39, Thánh Mác-cô muốn giới thiệu với chúng Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng làm việc không biết mệt mỏi, để rao giảng Tin Mừng và chữa lành những người ốm đau bệnh tật cũng như trừ quỷ ám hại làm nhiều người khốn khổ.

Sở dĩ Chúa Giê-su Na-da-rét làm như thế là vì Người đã được Thiên Chúa sai đến trần gian này để cứu độ chúng sinh và vì Người có tấm lòng của Thiên Chúa: xót thương con người bị hành hạ bởi đủ thứ khốn khổ trên đời. Cùng với tác dụng chữa lành những con người khốn khổ phần hồn phần xác, những phép lạ (hay dấu lạ) Chúa Giê-su đã thực hiện còn mang ý nghĩa khác là bộc lộ lòng xót thương của Thiên Chúa và loan báo Nước Trời đã có mặt, đang hình thành và lớn lên trong thế giới của loài người. Ở đâu có khổ đau ở đấy có Thiên Chúa tình thương. Ở đâu bệnh tật, ma quỷ bị đầy lui, ở đấy Nước Thiên Chúa ngự đến. Ở đâu có lời công bố Tin Mừng, có lời hay hành động công bố Tình Yêu của Thiên Chúa, ở đấy Nước Thiên Chúa hiện diện. Chúa Giêsu ở đâu, Nước Thiên Chúa và chính Thiên Chúa Cứu Độ ở đó!

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa gồm 2 phần:

Thứ nhất là tìm đến với Chúa Giê-su Ki-tô để nghe Người giảng dạy và để được Người chữa lành tất cả những bệnh hoạn tật nguyền phần hồn phần xác đang hành hạ chúng ta!

Thứ hai là noi gương bắt chước Chúa Giê-su Ki-tô mà mở rộng tấm lòng trước nỗi khổ của người chung quanh và giúp đỡ phục vụ những người ấy.

IV.  SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY

4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng không hề bỏ rơi hay trừng phạt người tôi tớ công chính là ông Gióp trong Cựu Ước, nhưng Người đây đã giao cho Con Một là Đức Giê-su Ki-tô, bộc lộ tấm lòng yêu thương và quyền năng của Người trong việc chữa lành những người bệnh tật, đau khổ.

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa

Muốn thực thi sứ điệp Lời Chúa, có ba việc chúng ta nên làm:

Một là chúng ta thường xuyên chạy đến với Chúa Giê-su Ki-tô bằng những giây phút riêng tư sống một mình với Người, lắng nghe Lời Người. Chúa nói trong tâm hồn chúng ta và qua các trang Kinh Thánh và các biến cố cuộc đời.

Hai là chúng ta để cho Chúa Giê-su Ki-tô chạm tới những bệnh hoạn tật nguyền là những tội lỗi, yếu đuối, đam mê của chúng ta để Người chữa lành chúng ta.

Ba là chúng ta noi gương bắt chước Chúa Giê-su Ki-tô mà tích cực cứu giúp những người bị bệnh hoạn, tật nguyền phần hồn phần xác để họ được ơn giải thoát khỏi cảnh khốn khổ.

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý:  ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]

5.1 «Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.» Chúng ta hãy cầu xin cho hết mọi người trên thế gian này, nhất là cho những người đang đau khổ phần hồn phấn xác, để ai nấy được  Thiên Chúa ủi an nâng đỡ bằng Tình Thương và Quyền Năng vô biên của Người.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các bệnh nhân và các người già được Chúa chữa lành hoặc được ơn bình an chịu đựng bệnh tật hay tuổi già hầu sống đẹp lòng Chúa và hữu ích cho chính mình cũng như cho người khác.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.3 «Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi người hăng say nhiệt thành việc tông đồ, hầu giúp nhiều người nhận biết Chúa là Thiên Chúa thật.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.4 «Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, được ơn nhiệt thành rao giảng Tin Mừng cho những người trong gia đình và khu phố/xóm!

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

Về mục lục

.

XIN CHÚA CHỮA LÀNH CHÚNG CON

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Qua bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1:29-39), Marco nói về quyền lực chữa lành bệnh của Chúa Giesu. Câu chuyện xẩy ra tại nhà của ông Simon Phero, thuộc làng Capernaum nằm trên bờ biển Galilee về phía Tây Bắc. Chúa đã chữa lành bệnh sốt cho mẹ vợ ông Simon Phero. Chúa chữa khỏi bệnh không chỉ cho bà mẹ vợ ông Simon mà còn nhiều người khác nữa vì nghe biết danh tiếng Người họ đã đổ xô về đó để xin Chúa chữa lành.  

SỨC MẠNH CHỮA LÀNH CỦA THIÊN CHÚA

Tội lỗi loài người như những cơn sốt nung nấu thể xác và tâm hồn chúng ta khiến chúng ta ngồi đứng không yên. Chúa đánh tan tất cà những cơn sốt đó. Toán môn đệ mới được tuyển chọn đã bỏ tất cả mọi sự, nào lưới, nào ghe thuyền, người làm và cả cha mẹ để theo Chúa (Mc 1:16-20). Họ sung sướng được nghe lời Chúa và nhìn việc Chúa làm, dẹp tan mọi sức mạnh ma quỉ. Chúa có sức quyến rũ thôi thúc mọi người chạy theo. Chúa Giesu và các môn đệ vừa ra khỏi nhà hội chỉ độ mươi bước thì người ta lại mang đến cho Chúa nhiều bệnh nhân khác đủ thứ kể cả người bị quỉ ám. “….Và như cả thành đều tụ họp trước cửa…” (Lc 1:33-34).  Chúa đều chữa lành hết.  

CHÚA GIESU GIẢI PHÒNG PHÁI NỮ

Trong Marco, Chúa Giesu chữa người đầu tiên là một phụ nữ. Người đó là mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nặng nằm liệt giường, Người lại gần và cầm tay bà, nâng bà dậy và bà khỏi sốt (Mc 1:31). Cử chỉ đó, đối với một người lãnh đạo tôn giáo thì không thể chấp nhận được. Họ không những không được chạm vào một người đàn bà bệnh hoan mà còn không được cho người đàn bà ấy phục vụ mình và các môn đệ. Chúa Giesu đã phá luật lệ, vượt qua những điều cấm kỵ đó, cầm tay người đàn bà, nâng bà dây và chữa lành bà, lại cho phép bà phục vụ tại bàn ăn.

Bà mẹ vợ ông Simon Phero trả ơn Chúa đã chữa lành bệnh cho bà là một hành động phục vụ của tình môn đệ, một gương mẫu mà Chúa Giesu thường kêu gọi những người theo Chúa phải noi theo như nói trong các Tin Mừng và suốt hơn 30 năm cuộc đời của Chúa ở trần gian. Có người cho rằng chủ đích của bài Tin Mừng Marco hôm nay là nói về bổn phận của người dàn bà là tề gia nội chợ. Nhưng thực sự không phải vậy. Hành động của bà mẹ vợ rõ ràng tương phản với hành động của anh con. Anh này xin chúa Giesu để ý đến đám đông đang van nài xin được chữa lành (1:37), nhưng chính anh lại chẳng làm gì cả cho họ.

Những câu chuyện trong Tin Mừng Marco về người góa phụ nghèo (12:41-44), người đàn bà xức dầu thơm cho Chúa (14:3-9), những người đàn bà dưới chân Thánh Giá (15:40-41) và trước cửa mồ Chúa (16:1) là những người đàn bà tiêu biểu đã đáp ứng đúng lời Chúa Giesu kêu gọi về tình môn đệ. Họ rõ ràng đã hành động tương phản với thái độ vô cảm và chẳng hiểu gì cả của các môn đệ phái nam. Sự hiện diện của Chúa Giesu đã đem đến cho người đàn bà bổn phận đầy đủ và trọn vẹn, lại thánh thiêng và đúng tư cách. Thử hỏi những tập tục văn hóa xã hôi từng làm đau lòng họ có ngăn cản họ làm mất đi cái bổn phận trọn vẹn, thánh thiêng và đúng tư cách của họ không?  

CÂU CHUYỆN ÔNG JOB

Theo câu chuyện ông Job trong Cựu Ước (G 7:1-7) thì ông chưa hiểu biết vể việc này. Ông chỉ là một phần thử thách giữa Satan và Thiên Chúa. Trước đó ông phải chịu đau khổ và mất mát đủ thứ. Ông cũng biết cắt nghĩa một cách nông cạn như bạn bè ông nhưng đó không phải là cách của Thiên Chúa. Ông cũng chẳng hiểu gì về những đau khổ của ông. Ông than phiền về những công việc nặng nhọc, những đêm mất ngủ, một loại bệnh chết người và cuộc đời vô vọng ngắn ngủi của ông. Đối với ông, cuộc đời là một cơn sốt kinh khủng! Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được nhưng giây phút giống ông Job, những cơn sốt kinh khủng như đốt cháy cuộc đời chúng ta?

Bà mẹ vợ ông Simon được khỏi bệnh nói lên quyền lực của chúa Giesu làm hạ nhiệt tất cả các loại sốt. Vào khoảng năm 400 A.D. thánh Jerome đã giảng thuyết về bài Phúc Âm hôm nay tai Bethlehem: “Kìa Người đã đến nhà chúng ta rồi đi vào và chữa lành cơn sốt tội lỗi của chúng ta theo lệnh cùa Người. Mỗi người chúng ta và tất cả chúng ta, ai cũng đau khổ vì những cơn sốt. Khi tôi nổi giận là tôi lên cơn sốt. Càng nhiều tật xấu thì càng lên nhiều cơn sốt. Nhưng chúng ta hãy xin các tông đồ kêu cầu Chúa Giesu đến và chạm vào tay chúng ta, vì nếu Người chạm vào tay chúng ta thì ngay lập tức cơn sốt của chúng ta sẽ tan biến”(Corpus Christianorum, LXXVIII 468).

Với Chúa Giesu, chữa lành thể xác và tâm hồn là dấu chỉ rõ ràng Vương Quốc Thiên Chúa đã hiện diện. Quyền năng Lời Chữa Lành của Chúa Giesu thấu suốt toàn thể con người. Chữa lành thể xác, và quan trong hơn nữa nó phục hồi đau khổ và nối kết với Thiên Chúa và cộng đồng. Một cuộc sống tâm linh lành mạnh thánh đức.

ĐÔI LỜI KẾT

Với lòng tin tưởng, chúng ta hãy cầu xin những lời của Đức Hồng Y John Henry Newman trong bài giảng của ngài về đức khôn ngoan và tâm hồn vô tư: “Chớ gì Người  nâng đỡ chúng ta trong suốt cả ngày cho đến lúc chiều tả, bóng đêm đổ xuống, cả thế giới ồn ào bận rộn bặt tiếng động, cơn sốt cuộc đời đã hết  và việc làm của chúng ta đã hoàn tất. Lúc bấy giờ với lòng thương xót của Thiên Chúa, chớ gì Người cho chúng ta nơi ở an toàn, nghỉ ngơi thánh đức và sau cùng là bằng an.”

Sau cùng, điều quan trọng là nhận ra việc Chúa Giesu đã làm sau khi chữa lành người đàn bà trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Chúa dành chút thì giờ để cầu nguyện. Chúng ta có làm như vậy trong một thế giới bận rộn mà chúng ta đang sống, giữa những cơn sốt bừng bừng của cuộc đời và những gánh nặng hàng ngày đang đè nặng trên vai không?

Chớ gì việc chữa lành của Chúa Giesu trong Tin Mừng Marco hôm nay chỉ dẫn cho chúng ta nhận ra được sức mạnh mà Thiên Chúa mang lại cho chúng ta. Sức mạnh này không phải của riêng chúng ta để giữ riêng cho mình và phe nhóm mà phải được chia sẻ cho tất cả mọi người. Sức mạnh chữa lành của Chúa còn ảnh hưởng cho đến nay, từ Chúa vươn đến chúng ta, chữa lành chúng ta, phục hồi cuộc sống chúng ta và của tha nhân…

Về mục lục

.

CHU TOÀN SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 1,29-39

(29) Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đến nhà hai ông Si-mon và An-rê, có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. (30) Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. (31) Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa. (34) Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói, vì chúng biết Người là ai. (35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. (39) Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ.

  1. Ý CHÍNH: Mác-cô tường thuật một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giê-su ở thành Ca-phác-na-um: Người giảng dạy trong hội đường vào ngày Sa-bát (c. 21) ; Chữa một người bị thần ô uế nhập (c. 23-28) ; Đến thăm nhà hai anh em Si-mon và An-rê và chữa bệnh cảm sốt cho bà mẹ vợ của ông Si-mon (c. 29-32); Buổi chiều, Người tiếp tục chữa lành nhiều kẻ ốm đau và người bị quỉ ám (c. 32-34). Sáng sớm Người đã thức dậy và đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha (c.35). Người luôn ý thức chu toàn sứ mệnh và đi khắp miền Ga-li-lê giảng đạo và trừ quỉ (c. 39).
  2. CHÚ THÍCH:

– C 29-30: + Nhà hai ông Si-mon và An-rê: Si-mon và An-rê quê ở Bét-sai-đa (x. Ga 1,44), nhưng cư trú tại nhà ở thành Ca-phác-na-um để hành nghề chài lưới. + Bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt nằm trên giường: Người Do Thái thường cho bệnh tật là do ma quỉ gây ra và là dấu chỉ sự trừng phạt tội nhân của Đức Chúa (x. Lv 26,16). Như thế, việc chữa lành bà mẹ vợ của Si-mon Phê-rô cho thấy triều đại Thiên Sai được ngôn sứ I-sai-a loan báo đã bắt đầu (x. Is 29,18).

– C 31-32: + Cầm lấy tay bà mà đỡ dậy: Cầm tay là cử chỉ Đức Giê-su thường làm khi phục sinh kẻ chết (x. Mc 5,41), hay chữa lành kẻ bị quỉ ám (x. Mc 9,27). + Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài: Phục vụ ở đây cụ thể là nấu nướng, dọn bữa để tiếp đãi Đức Giê-su và các môn đệ. Qua đó, ta có thể rút ra bài học: Con người vốn mỏng dòn yếu đuối. Nhưng nếu năng lãnh nhận các bí tích, sẽ được Chúa ban sức khỏe để phục vụ tha nhân (x. Ga 13,14-15). + Chiều đến, khi mặt trời lặn: Tức khoảng 6 giờ chiều, hết thời gian hưu lễ của ngày Sa-bát, để bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần.

– C 33-34: + Người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người: Đây là kiểu nói phóng đại để nhấn mạnh đến tính phổ quát của ơn cứu độ. + Nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật: Đức Giê-su đến để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân: Người không những cứu chữa các bệnh tật về thể xác mà còn chữa cả những bệnh tinh thần như xua trừ ma quỉ ra khỏi người bị chúng nhập vào. + Không cho ma quỉ nói vì chúng biết Người là ai: Đức Giê-su cấm quỷ không được tiết lộ về sứ vụ Thiên Sai của Người.

– C 35-37: + Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện: Trong thời gian giảng đạo, Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su năng cầu nguyện với Chúa Cha. Nhất là trong những trường hợp quan trọng: Trong cuộc thần hiện sau khi chịu phép Rửa (x. Lc 3,21) ; Trước khi tuyển chọn 12 tông đồ (x. Lc 6,12) ; Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mc 6,46) ; Trước khi Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa (x. Lc 9,18) ; Khi biến hình trên núi (x. Lc 9,29) ; Trước giờ chịu khổ nạn (x. Mt 26,39)…

– C 38-39: + Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm Người: Đi tìm Chúa là thái độ biểu lộ sự hâm mộ của các tông đồ đối với Thầy Giê-su. + “Mọi người đang tìm Thầy đấy”: Dân chúng cũng hâm mộ và đi tìm gặp Đức Giê-su để nghe Người giảng dạy và được Người chữa lành bệnh tật. + “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”: Tin Mừng được rao giảng không chỉ cho một ít người hay cho dân Do thái… nhưng cho mọi dân tộc trên thế giới (x. Mt 28,19 ; Cv 1,8).

  1. HỎI ĐÁP:

HỎI 1: Tại sao Đức Giê-su lại cấm ma quỉ nói ra sự thật Người là Đấng Thiên Sai?

ĐÁP:

Vì người Do Thái lúc đó đang trông chờ Đấng Thiên Sai đến để giải phóng họ thoát ách thống trị của đế quốc Rô-ma, giống như Mô-sê đã từng ra tay cứu con cháu Gia-cóp thoát ách nô lệ cho dân Ai Cập khi xưa. Nhưng sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su theo ý Chúa Cha không chỉ nhằm đáp ứng ước mong của người Do Thái. Sứ mệnh ấy đã được I-sai-a tuyên sấm là: rao giảng Tin Mừng cho người khiêm hạ nghèo khó, công bố cho người đang bị đau khổ vì bệnh tật, tù đày, áp bức bất công… một thời đại mới đầy niềm vui, hạnh phúc, ân sủng và bình an (x. Lc 4,18-19). Do đó, Đức Giê-su không muốn cho ma quỉ làm hỏng kế hoạch cứu thế mà Người đã lãnh nhận. Nếu để ma quỷ nói ra sự thật Người là Đấng Thiên Sai trong khi dân chúng chưa hiểu rõ sứ mệnh Thiên Sai thì họ sẽ bắt Người tôn lên làm Vua (x. Ga 6,15), và quân Rô-ma sẽ kéo đến phá hủy Đền Thờ và tiêu diệt toàn dân (x. Ga 11,47-48). Thực tế đã chứng minh sự e ngại này có cơ sở: Vào năm 70, khi dân Do Thái không chịu nổi sự áp bức, đã nổi dậy chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Lập tức quân Rô-ma đã kéo đến vây hãm thủ đô Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng họ đã chiếm được thành này. Họ phóng lửa đốt cháy đền thờ, tàn sát quân lính còn sống và bắt mọi thành phần dân Do Thái phải rời bỏ quê hương, phân tán đi khắp thế giới. Tai họa này đã được Đức Giê-su tiên báo cho các môn đệ biết và dùng nó để mặc khải về ngày tận thế. Người cũng dạy cho các môn đệ phải ứng xử thế nào để có thể tồn tại trong những ngày ấy (x. Mt 24,15-21).

HỎI 2: Tại sao Đức Giê-su là Chúa Con ngang hàng với Chúa Cha, mà lại phải cầu xin với Chúa Cha?

ĐÁP:

Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là Ngôi Con hay Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Nhưng Người lại có hai tính: Một là tính Thiên Chúa, hai là tính loài người. Là “Con Thiên Chúa”, Đức Giê-su cầu nguyện để tâm sự với Chúa Cha, biểu lộ sự hiệp nhất mật thiết giữa Cha và Con (x. Ga 17,1.11.21). Là “Con Người”, Đức Giê-su đại diện cho nhân loại để cầu xin Chúa Cha tha tội và xin cho loài người giao hòa với Chúa Cha. Về vấn đề này, Thánh Phaolô đã dạy như sau: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như một người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quì. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,8-11).

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ. (Mc 1,35.39).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) GIÁ TRỊ CỦA MỘT LỜI CẦU NGUYỆN CHÂN THÀNH:

FRE-DE-RIC O-ZA-NAM, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin lúc đang còn là sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ cổ ở Pa-ri. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong gốc nhà thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người đó vừa đứng lên để ra khỏi giáo đường, chàng sinh viên chợt nhận ra người đó chính là nhà bác học vĩ đại Am-pe. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy chàng sinh viên đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:

– Này anh bạn. Tôi có thể giúp gì cho anh ? Giải một bài toán vật lý chăng ?

Chàng sinh viên nhỏ nhẹ đáp:

– Thưa giáo sư, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt về khoa học lắm. Tôi chỉ xin ông hỏi một số vấn đề về đức tin.

Nhà bác học liền mỉm cười và khiêm tốn đáp:

– Đức tin là môn mà tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được điều gì thì tôi xin sẵn sàng.

– Thưa ông, người ta có thể vừa là một nhà bác học vĩ đại, lại vừa là một tín hữu chân thành cầu nguyện không ?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh sinh viên. Nhưng rồi ông cũng trả lời :

– Này anh bạn trẻ. Chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi cầu nguyện chân thành mà thôi.

Câu chuyện nói trên cho thấy không có sự mâu thuẫn giữa khoa học và đức tin chân chính.

2) TIẾNG CÒI “YÊN LẶNG”:

Một hôm, do sự mất cảnh giác của viên hoa tiêu, con tàu Victoria của Hải Quân Hoàng Gia Anh đã gặp phải sự cố nghiêm trọng: Tàu bị đụng phải một tảng băng ngầm trên vùng biển Bắc Băng Dương. Vỏ tàu bị bể một miếng lớn, nước từ chỗ bể tràn vào khoang tàu. Lúc ấy, các thủy thủ vừa ăn tối xong và đang dạo mát trên boong. Lúc đầu, khi con tàu vừa bị va chạm, mọi người đều nhớn nhác không biết điều gì mới xảy ra. Rồi khi nghe tin tàu bị va chạm vào tảng băng ngầm và sắp chìm, thì ai nấy đều bị rơi vào cơn hoảng loạn và không biết phải làm gì. Nhưng rồi một hiệu còi đặc biệt mang tên “Còi Yên Lặng” vang lên. Thủy thủ đã được thực tập nhiều lần và đã hiểu rõ ý nghĩa của hiệu còi ấy như sau: “Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm, ngồi xuống và giữ yên lặng trong giây lát, bình tĩnh xem xét tình trạng bạn đang gặp, và chờ nghe lệnh của thuyền trưởng”. Nhờ tiếng còi, mọi thủy thủ đều làm theo yêu cầu và cuối cùng tai nạn cũng đã được xử lý kịp thời, và con tàu tránh được nguy cơ bị chìm đắm.

Trong đời sống thường nhật, chúng ta cũng thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp không biết phải làm gì. Chẳng hạn: khi đang đi đường tự nhiện bị người khác tông vào mình, hoặc khi tự nhiên bị một người thù ghét công khai khích bác… Bấy giờ điều tốt nhất nên làm là: Hãy giữ bình tĩnh và yên lặng, rồi thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Rồi sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa phán dạy trong tâm hồn. Chúa luôn muốn ta “Tìm làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Do đó, ta cần tránh làm những điều xấu khiến người đời khinh thường đạo thánh Chúa. Trái lại cần làm những điều tốt để anh em lương dân nhận biết “Thiên Chúa chính là Tình Yêu” để tôn thờ yêu mến Ngài. Cần làm những điều có lợi chung cho tập thể, và tránh những việc làm ích kỷ hại nhân. Cần làm những điều “tốt đạo đẹp đời” như giúp cho mọi người có cơm ăn áo mặc, sống vui tươi hạnh phúc hơn và xứng với nhân phẩm hơn…

3) DỤ NGÔN VỀ CÂY VIẾT CHÌ :

Sau khi sáng chế ra cây viết chì, người chủ đã ngỏ lời với sản phẩm của mình như sau: Ta muốn anh bạn phải nhớ đến bốn ý nghĩa như sau:

  1. Sự tốt lành hay phẩm giá đích thật nằm ở trong con người của bạn.
  2. Bạn sẽ cần phải được vót nhọn, phải được gọt dũa để nên hữu hiệu trong cuộc sống.
  3. Bạn cần được ai đó sử dụng như công cụ. Nếu không, bạn sẽ chẳng làm được gì!
  4. Người ta sẽ yêu cầu bạn phải để lại một dấu vết nào đó.

Đời sống mỗi người chúng ta cũng giống như một cây viết chì. Mẹ Têrêsa Calcutta đã áp dụng trường hợp thứ ba qua câu nói: “Tôi chỉ là một cây viết chì trong bàn tay của Thiên Chúa”. Còn tác giả cuốn sách “Story Power”, áp dụng trường hợp thứ hai của dụ ngôn này trong thánh lễ trên đài phát thanh dành cho những người ốm đau : Người đau bệnh cũng phải được vót nhọn bởi những khổ đau gặp phải trong cuộc sống. Cây viết chì mà không bị gọt dũa sẽ không thể sinh ích lợi cho người khác được.

4) MỌI NGƯỜI ĐỀU CHỊU ĐAU KHỔ:

Người Trung Hoa có câu chuyện về một người đàn bà có đứa con trai duy nhất đã chết. Trong lúc đau thương buồn khổ, bà mẹ đến năn nỉ với một vị thánh hiền: “Xin ngài hãy dạy cho con biết những câu thần chú nào làm cho con trai của con sống lại?” Thay vì lý luận dài dòng, vị thánh hiền nói: “Bà hãy đi tìm mang về đây một hạt rau cải của một gia đình chưa từng buồn khổ. Tôi sẽ dùng nó làm thuốc để cho con bà được sống lại”.

Người đàn bà bắt đầu đi khắp nơi tìm kiếm hạt cải kỳ diệu đó. Trước hết, bà đến gõ cửa một lâu đài sang trọng: “Tôi đang tìm một nhà chưa biết buồn khổ là gì. Xin cho hỏi có phải nhà này không?” Chủ nhà trả lời: “Thưa bà. Chắc là bà đã lộn nhà rồi! Chồng tôi đang hấp hối nằm trên giường. Con trai tôi đã bỏ nhà đi hai hôm nay. Tôi sợ rằng sau này tôi sẽ sống trong cô đơn góa bụa!” Nghe xong bà tình nguyện ở lại một ngày để an ủi chủ nhà, rồi mới tiếp tục đi tìm một nhà khác chưa bao giờ bị buồn khổ. Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé vào, dù là lâu đài sang trọng, dinh thự giàu có hay nhà tranh vách đất, đâu đâu bà cũng nghe chủ nhà kể ra những nỗi buồn khổ bất hạnh. Mỗi nơi bà đều phải nói lời khuyên răn, an ủi và khích lệ, đến nỗi bà dần dần trở nên một chuyên viên an ủi những người buồn khổ. Rồi dần dần bà đã quên mục đích đi tìm hạt cải kỳ diệu để làm thuốc cứu chữa cho con trai bà sống lại.

Khi gặp đau khổ, bạn cũng đừng chán nản tuyệt vọng… hãy nhớ rằng: Chúa Giêsu đang ở với bạn cũng như Thiên Chúa luôn ở bên ông Gióp; Nhớ rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi bạn vì bạn đang được Chúa yêu thương. Hãy tin tưởng hy vọng và đừng quên sứ mạng phục vụ người bất hạnh.

Khi bạn đau ốm thể xác hay tinh thần hoặc bị đau khổ vì chuyện tình yêu, bạn hãy cởi mở tâm hồn với Chúa Giêsu. Ngài sẽ an ủi chữa lành cho bạn, sẽ nắm tay bạn và cho đứng dậy, như đã chữa lành bệnh sốt cho nhạc mẫu ông Phê-rô. Hãy mau đáp lại tiếng Chúa mời gọi, để đi theo Ngài và luôn khiêm nhường phục vụ tha nhân, vì Chúa sẽ luôn ở bên đồng hành và nâng đỡ bạn.

3. THẢO LUẬN: Để góp phần cải thiện môi trường xã hội được an toàn sạch đẹp, công bình và nhân ái hơn… chúng ta cần phải bắt đầu từ đâu và làm bằng cách nào?

4. SUY NIỆM:

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với các việc cầu nguyện, rao giảng và chữa lành bệnh tật thể xác cũng như tâm hồn của con người.

1) Cầu nguyện kết hiệp với Chúa Cha:

“Sáng sớm, Đức Giê-su tìm nơi thanh vắng cầu nguyện” (1,35). Suốt ngày lo toan với bao công việc, giao tiếp với đủ hạng người, Đức Giê-su đã dành buổi sáng tinh sương để tâm sự với Chúa Cha. Người cần sống một mình bên Cha, tâm sự về các công việc, về nỗi đau khổ gặp phải… Người cầu nguyện vì lòng yêu mến Cha, muốn được kết hiệp với Cha, để đón nhận từ nơi Cha sức mạnh rất cần cho công việc loan báo Tin Mừng.

2) Loan báo Tin Mừng Nước Trời:

Việc quan trọng thứ hai Đức Giê-su làm là đi loan báo Tin mừng: “Ngày Sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường giảng dạy” (Mc 1,21). Người đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (x. Mc 1,22).

3) Chữa lành các bệnh tật về thể xác và tâm hồn:

Lời giảng dạy kèm theo việc chữa lành nhiều bệnh nhân: “Ra khỏi hội đường, Đức Giê-su vào nhà ông Si-mon… Bà nhạc của ông Si-mon đang bị sốt. Đức Giê-su đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy. Cơn sốt liền dứt ngay và bà đã trỗi dậy làm bữa phục vụ các ngài” (Mc 1,29-31). “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người” (Mc 1,32). Tất cả đều được Người chữa lành.

4) Chúng ta phải làm gì để cộng tác với Chúa? :

Cuộc sống của mỗi người chúng ta hôm nay cũng phải trải qua những lúc bệnh hoạn khổ đau. Đau khổ do phải lao động làm ăn vất vả, do bị bệnh tật hay bị tai ương chết chóc… chính là hậu quả tai hại của tội Nguyên Tổ. Khi xuống thế làm người, Đức Giê-su đã chấp nhận nên “giống chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi”. Noi gương Đức Giê-su, Hội Thánh cũng luôn giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật và bất hạnh khắp nơi. Ngoài việc xây dựng trường học, xưởng dạy nghề để mở mang kiến thức và huấn nghệ cho người ta, Hội Thánh còn mở ra các trại phong, nhà thương, viện dưỡng lão, trại nuôi trẻ mồ côi v.v…

Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện cho những ai đang chịu đau khổ ở khắp nơi: đau khổ về tinh thần hay thể xác, đau khổ vì chiến tranh, thiên tai, do già yếu bệnh tật… Cũng xin Chúa ban cho chúng ta khi bị đau khổ bệnh tật tai nạn, biết nhìn lên Thánh Giá, suy gẫm cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, để vui lòng chấp nhận mà đền tội mình, đồng thời biết an ủi nâng đỡ những người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh, góp phần xóa bỏ các bất công, xóa đói giảm nghèo và biến đổi môi trường đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, trở nên Trời Mới Đất Mới theo thánh ý Chúa.

  1. LỜI CẦU:

 Lạy Chúa Cha từ ái. Xin dạy chúng con biết giữ thinh lặng để gặp được Chúa, để lắng nghe được những Lời Chúa dạy và được tâm sự với Chúa.

Xin dạy chúng con giữ thinh lặng con mắt, để biết nhắm lại trước những sai lỗi của tha nhân, biết quay đi truớc những dịp tội làm cho lòng chúng con bị xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng đôi tai, để mở ra trước những tiếng kêu cứu của người nghèo khổ, nhưng biết khép lại trước những cám dỗ của thế gian và ma quỷ.

Xin dạy chúng con biết thinh lặng miệng lưỡi, để biết mở ra ca tụng tình thương của Chúa và nói lời mang lại niềm vui cho mọi người, tránh những lời nói gây chia rẽ bất hạnh cho người khác.

Xin dạy chúng con thinh lặng trong lòng trí, để tiếp nhận sự thật và khép lại trước sự dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con biết thinh lặng quả tim, để tránh mọi tình cảm ích kỷ, thù hằn, ganh ghét, nhưng biết ước ao đón nhận Tình Yêu của Chúa mọi lúc mọi nơi. (Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta)

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT V TN B

Lm. Anthony Trung Thành

Nếu sắp xếp cho có thứ tự, chúng ta sẽ có một ngày sống của Đức Giêsu được Tin mừng Thánh Marcô hôm nay tường thuật lại. Từ một ngày sống của Đức Giêsu, chúng ta nhìn lại một ngày sống của chúng ta phải như thế nào?

1. Một ngày sống của Đức Giêsu

Thứ nhất, Ngài cầu nguyện: Đức Giêsu bắt đầu ngày sống của mình bằng việc cầu nguyện. Tin mừng hôm nay cho biết: “Sáng sớm tinh sương, Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó.”(Mc 1,35). Ngài cầu nguyện để sống thân mật với Chúa Cha. Ngài cầu nguyện để lắng nghe và thực hiện ý Chúa Cha muốn. Việc Ngài cầu nguyện nói lên sứ mạng của Ngài phát xuất từ Thiên Chúa và luôn có Chúa Cha đồng hành. Đọc Tin mừng chúng ta thấy, đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu cầu nguyện, mà Ngài cầu nguyện luôn, cả sớm mai và chiều tối, có khi Ngài cầu nguyện suốt đêm. Cách riêng, Ngài cầu nguyện trước những biến cố quan trọng, như trước khi Ngài chọn các Tông đồ, trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá. Ngài cầu nguyện cho Ngài, cầu nguyện cho các môn đệ, cho những người nhờ Ngài mà tin và cho thế gian. Ngài không những cầu nguyện mà còn dạy cho các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha và Ngài khuyên bảo các Tông đồ và mọi người chúng ta hôm nay: Hãy cầu nguyện luôn kẻo phải sa chước cám dỗ; Cầu nguyện như vũ khí để xua trừ quỷ dữ: “Giống quỷ đó chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.” (Mc 9,29).

Thứ hai, Ngài rao giảng Tin mừng: Tại Caphácnaum, vào ngày sabát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. (x. Mc 1,21-22). Tại Nazarét, là nơi Ngài sinh trưởng. Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Sau đó, Ngài cắt nghĩa cho dân chúng về ý nghĩa của đoạn Kinh thánh mà họ vừa nghe (x. Lc 4,16-30). Ngài không chỉ rao giảng trong hội đường mà còn rao giảng nhiều nơi khác nữa: tại tư gia (x. Mc 2, 2), ngoài bờ biển (Mc 2, 13), trên núi (x. Mt 5,1-12). Rồi Ngài đi giảng khắp mọi nơi vì Ngài đến là để làm công việc đó. Cho nên, khi các môn đệ đi tìm Ngài, Ngài nói với họ rằng: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” (Mc 1,38).

Thứ ba, Ngài chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ: Tin mừng hôm nay cho biết, ra khỏi hội đường, Ngài cùng với ông Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê, Ngài chữa cho bà nhạc gia của Simon khỏi bệnh cảm sốt (x. Mc 1,29-31). Không dừng lại ở đó, đọc Tin mừng chúng ta biết, Ngài dành nhiều thời gian để chữa bệnh và trừ quỷ. Ngài chữa lành hết tất cả các người bệnh được đưa đến với Ngài: Bệnh phong cùi, bệnh bất toại, bệnh loạn huyết, bệnh mù, bệnh câm điếc, bệnh què quặt…Ngài dùng nhiều cách thế để chữa bệnh nói lên quyền phép của Ngài trên bệnh tật: chữa bệnh từ xa, phán một lời, Ngài lấy nước miếng trộn vào đất bôi lên mắt bệnh nhân được khỏi, người bệnh đụng đến Ngài, Ngài đụng đến người bệnh thì người bệnh được khỏi… Tin mừng hôm nay làm chứng cho chúng ta biết điều đó: “Lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến với Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.” (Mc 1,32-34).

Đức Giêsu không giới hạn việc chữa lành vào một số người bệnh hay một số vùng miền, nhưng đối tượng được Ngài cứu chữa là hết tất cả mọi người bệnh và các vùng miền. Như thế, chúng ta thấy một ngày sống của Đức Giêsu thật ý nghĩa: cầu nguyện, rao giảng, chữa lành. Còn một ngày sống của chúng ta thì sao?

2. Một ngày sống của chúng ta

Nếu một ngày sống của chúng ta giống như ngày sống của Đức Giêsu thì tốt biết mấy, nhưng có lẽ khó có ai thực hiện được như Ngài. Vậy, để ngày sống của chúng ta có ý nghĩa và phần nào họa lại ngày sống của Đức Giêsu, xin được gợi ý một số thực hành sau đây:

Thứ nhất, chúng ta hãy bắt đầu ngày sống bằng việc cầu nguyện: Tùy vào hoàn cảnh cho phép, sau khi thức dậy chúng ta có thể đi tham dự thánh lễ hoặc đọc kinh chung với cộng đoàn hay với các thành viên trong gia đình. Những hoàn cảnh đặc biệt khác, chũng ta có thể cầu nguyện, đọc kinh riêng hay đọc và suy gẫm Lời Chúa một mình. Nghĩa là phải cố gắng bắt đầu ngày sống bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện để xin ý Chúa. Cầu nguyện để kết hợp với Chúa trong công việc. Cầu nguyện để dâng tất cả các công việc trong ngày cho Chúa để Chúa lo liệu, nhờ đó, mọi công việc chúng ta làm trong ngày mang lại lợi ích hồn xác. Thực tế, trong cuộc sống hôm nay do công ăn việc làm và nhiều nguyên nhân khác nên rất nhiều kitô hữu đã không cầu nguyện đầu ngày, thậm chí bỏ cầu nguyện trong ngày. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta đừng quên cầu nguyện đầu ngày, thậm chí còn cần phải dành thời gian để cầu nguyện trong ngày và kết thúc ngày sống cũng phải bằng việc cầu nguyện.

Thứ hai, chúng ta làm việc trong ngày theo bổn phận trao phó với ý thức làm sáng danh Chúa: Có người làm việc đời, có người làm việc đạo; Có người làm việc tri thức, có người làm việc chân tay; Có người đi chợ bán hàng, có người đi chợ mua hàng; Thầy cô đi dạy, học sinh đi học; Có người đi cày, có người đi cấy; có người làm bác sỹ, có người là bệnh nhân; có người làm kỷ sư, có người làm công nhân…và biết bao nhiêu công việc khác. Nhưng dù làm bất cứ việc gì cũng không được gian dối, không được lỗi công bằng, không được lỗi bác ái yêu thương. Trái lại, hãy làm trọn phận vụ, hãy làm việc cho sáng danh Chúa. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời.” (Cl 3,23). Ngài còn khuyên: “dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).

Thứ ba, chúng ta cần dành thời gian nhiều hơn để quan tâm chăm sóc các bệnh nhân: Hiểu theo nghĩa chặt thì bệnh nhân là những người mắc các chứng bệnh về phần xác nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì bệnh nhân là những người đau khổ cả về phần xác lẫn tinh thần: đói, khát, trần truồng, tù đày… Đó là đối tượng chúng ta cần phải quan tâm. Vì trong ngày phán xét, Đức Giêsu sẽ phán xét và thưởng phạt chúng ta dựa vào việc chúng ta có quan tâm hay không đối với các đối tượng trên.

Bài Tin mừng cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã dành nhiều thời gian để chữa lành bệnh tật và vì thể Ngài đã đem đến niềm vui và niềm hy vọng cho họ. Ngược lại, Bài đọc I, kể lại câu chuyện ông Gióp. Mặc dầu, ông là người thánh thiện, nhưng khi ông bị bệnh tật, thiếu sự quan tâm của người thân, ông vẫn cảm thấy bi quan.

Ngày hôm nay, những trường hợp như ông Gióp hay như bà nhạc mẫu Simon cũng đầy dẫy trong xã hội chúng ta đang sống. Họ ở bên cạnh chúng ta, có thể họ là người thân của chúng ta. Họ đang cần sự quan tâm giúp đỡ của chúng ta. Nếu không giúp họ được khỏi bệnh thì chúng ta có thể góp phần làm xoa dịu họ bằng cách quan tâm giúp đỡ, thăm hỏi, động viên khích lệ, không được để người mắc bệnh phải cô đơn, thất vọng.

Nếu một ngày sống của chúng ta bắt đầu bằng việc cầu nguyện, sau đó làm tốt việc bổn phận với ý thức làm sáng danh Chúa, nhất là biết quan tâm giúp đỡ các bệnh nhân thì chúng ta đang họa lại ngày sống của Chúa Giêsu. Lạy Chúa Giêsu, xin cho ngày sống của chúng con giống như ngày sống của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

 

NHỮNG SỨ VỤ ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC GIÊSU

P. Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, Tin Mừng theo thánh Marco là Tin Mừng ngắn nhất, ngài chỉ ghi lại điều tóm lược cuộc đời Cứu Thế của Chúa Giêsu, tuy nhiên, ngắn gọn nhưng thật đầy đủ và trùng khớp một cách sát sao theo Tin Mừng nhất lãm.

Trang đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Marco ghi : PHẦN DẪN NHẬP  “ DỌN ĐƯỜNG CHO SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU :, thật ngắn gọn, chỉ có  ba sự kiện quan trong : đó là:

  • Gioan Tiền Hô rao giảng.
  • Chúa Giêsu. chịu phép rửa.
  • Chúa Giêsu chịu cám dỗ.

Vậy, đâu là điểm quan trọng theo Tin Mừng thánh Marco, thưa đó là : thánh nhân chú trọng đến sự uy quyền của Đức Giêsu, chỉ nêu bật quyền năng của Người trong sứ vụ Cứu Thế. Tuy nhiên, về phần thứ III : “MẦU NHIỆM LÀM NGƯỜI “ của Đức Giêsu, tức Mầu Nhiệm Khổ Nạn thì vẫn được ghi rõ ràng, phần Nhân Tính của Chúa Giêsu.

Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Nhật V TN theo thánh Marco ( Mc 1, 29 -39) thuộc về phần II : “MẦU NHIỆM CỨU THẾ “ tức là Mầu Nhiệm Đấng Kitô, cho chúng ta thấy là Phần Tin Mừng quan trọng theo đặc tính Marco.

Vâng, mở đầu phần chia sẻ Tin Mừng hôm nay hơi dông dài một chút, vì , đắc tính Tin Mừng thánh Marco là như vậy, để chúng ta dễ nắm bắt. Tin Mừng hôm nay tiếp theo phần của tuần trước , nói lên “ uy quyền “ của Chúa Giêsu, vậy hôm nay là phần chia sẻ triển khai Lời Chúa tuần trước.

Đoan Tin Mừng hôm nay cũng có ba phần :

  • Thứ nhất : Chúa Giêsu chữa lành bệnh cho nhạc mẫu thánh Phê-rô.
  • Thứ hai : Dân chúng tuôn đến xin Chúa chữa bệnh và trừ quỷ.
  • Thứ ba : Chúa Giêsu tìm nơi vắng để cầu nguyện và tuyên bố sứ vụ Rao Giảng Tin Mừng là chính.

Sau khi ra hội đường Caphacnaum, nghĩa là địa chỉ vẫn còn ở thành Caphacnaum, Chúa Giêsu cùng bốn môn đệ đầu tiên đến thăm nhà ông Simon  và Anrê là hai môn đệ đầu tiên, đến nơi thì thấy nhạc mẫu ông Simon đang sốt nằm liệt giường, Người tiến lại cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, lập tức cơn sốt biến ngay, và bà đứng dậy tiếp đãi các ngài.

Nhưa vậy, chúng ta đã biết uy quyền nơi Chúa Giêsu là như vậy, nơi Người phát ra quyền năng từ Thiên Chúa là quyền năng đứng trên tất cả mọi quyền siêu nhiên. Vì vậy, Người thống trị mọi tà quyền trên nhân loại.

Chúng ta thấy , điều nầy minh chứng Người đến thế gian để cứu chữa thế gian, đến độ sau cùng Hiến Mạng để cứu chuộc thế gian. Vì, thế gian do Người mà có, nên Người phải yêu thương thế gian. Như chúng ta biết “ yêu thương thế gian “ thì khác với “ thuộc về thế gian”.

Ba phần thuộc Đoan Tin Mừng hôm nay thật quan trọng là như vậy. Nếu , Chúa Giêsu chỉ dùng phần Nhân Tính không thôi, thì không thể xua đuổi thế lực tà thần, còn nếu Người dùng phần Thần Tính không thôi thì không thể nhìn thấy Dung Nhan hữu hình của Người, không thể thấy Người đi, cũng như không thể nhìn thấy những hoạt động sứ vụ hữu hình của Người được. Vì vậy, để chu toàn sứ vụ  hữu hình, mặc nhiên , Người phải dùng Nhân Tính .

Vì thế, sau khi chiều tối, dân chúng đã tuôn đến với Người, xin Người chữa lành tật bệnh  phần xác và phần hồn bị ma quỷ trói buộc. Như vậy, sứ vụ Cứu Thế của Chúa Giêsu biểu hiện ra nơi thế gian trước khi Người hiến mình chịu nạn, chịu chết.

Dân chúng chỉ nhìn thấy phần Nhân Tính của Chúa Giêsu, nên khi không còn có lợi cho họ về mặt hữu hình, hoặc những người có quyền thế trần gian sợ mất đi quyền lợi hữu hình của họ, lập tức họ điên cuồng và hét lên : “ Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi…”. Vâng, trần gian là thế ! trần thế là vậy !

Nhưng, Chúa Giếsu đến trần gian không vì lợi lộc trần thế, hay vì bã vinh hoa của thế nhân, hoặc để được nhân thế tôn vinh kiểu” được làm vua , thua làm giặc”, mà là vì sứ vụ Nước Trời. vì teh61 phần thừ ba , Người đã lánh ra nơi vắng vẻ đền CẦU NGUYỆN , cầu nguyện đế kết hợp với Thần Tính của Người là Thiên Chúa Cha và Thánh thần của Người.

Cầu nguyện thể hiện nơi chúa Giêsu sự tôn thờ tuyệt đối Thiên Chúa  là Cha duy nhất, Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình. Cầu nguyện nơi Chúa Giêsu cho thấy bản tính Thiên Chúa là sự kết hợp viên mãn , trọn vẹn trong tình thương , tức sự sống đời đời. Cầu nguyên nơi Chúa GIÊSU cho thấy không thể thiếu Thần Khí Thiên Chúa, Đấng làm cho sự sống muôn loài phát sinh và duy trì.

Vì thế, Chúa Giêsu luôn luôn cầu nguyện khi thi hành sứ vụ Thiên Sai của Người.

Sứ vụ Thiên Sai  chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Lời Chúa quan trọng ngang với ơn Cứu Độ, bởi vì, ơn Cứu Độ minh chứng Lời rao giảng.. Lời Rao giảng minh chứng tình thương của Thiên Chúa, bởi vì, nếu  thế gian không có Lời Chúa như bầu trời không có ánh sáng, biển không có muối, tức sự chết bao phủ. Lời Chúa tiêu diệt và xua tan mọi thứ sự dữ dẫn đến diệt vong.nói tắt một lời, nếu không có Lời Chúa thế gian không còn sự sống.

Như  phần hữu hình của Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật thân xác và quỷ ám thế nào, thì phần  Thần Tính  nơi Người phát ra Lời chân lý để nuôi sống nhân thế như vậy.

Thánh Vịnh 146 câu  3, 4, 5, 6 cho chúng ta thấy Thiên Chúa nâng đỡ kẻ hiền đức : “ … Tinh tú định số mục, mỗi vì gọi tên riêng.. Chúa Trời quyền lực khôn cùng, khôn ngoan thượng trí lạ lùng vô biên Thiên Chúa nâng đỡ người hiền, kẻ dữ Ngài hạ đất đen muôn đời”

Lạy Chúa Giêsu, Đấng chi công, xin cho con người nhân thế nhận ra Thiên Chúa nhờ Lời rao giảng của Người truyền cho các môn đệ, và ngày nay xin cho chúng con noi theo hầu Lời Hằng Sống luôn chiếu sáng thế gian , vì đó là sự sống thật của thế nhân , và thế gian ./. Amen

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU, ĐẤNG THIÊN SAI

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Người ta vẫn thường than thở rằng: đời là bể khổ, con người dù là ai cũng điều không thoát khỏi cái khổ này. Phải chăng, kinh nghiệm về cuộc đời đã làm nhiều người trở nên bi quan thất vọng. Hình ảnh của ông Gióp trong bài đọc 1 hôm nay nói lên thực trạng đau khổ của loài người. Ông Gióp đã có một tài sản khổng lồ gồm: 7.000 con chiên, 3.000 con lạc đà, 500 đôi bò, 500 con lừa cái, một số rất đông tôi tớ nhưng rồi tất cả các đoàn vật bị cướp, bị lửa thiêu, ông đã trở nên tay trắng;  Gióp thật hạnh phúc khi có tất cả 10 người con, 7 trai 3 gái nhưng rồi tất cả đã bị chết trong một tai nạn nhà sập, ông đã trở thành người cha đơn độc; Gióp đã có một sức khỏe dẽo dai nhưng rồi ung nhọt đã cướp đi quà tặng quý báu này của ông, khiến cho ông phải thốt lên rằng: “Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào”. Gióp là biểu tượng cho nỗi đau khổ cùng cực của con người, làm cho con người không nhìn thấy ý nghĩa ở đâu, phải buồn sầu mãi cho đến chết.

Thưa anh chị em, đứng trước cái bi đát đó, có cách nào giải cứu con người khỏi bể khổ này không? Vì, quang cảnh thành phố Capharnaum trong buổi chiều khởi đầu công khai rao giảng của Chúa Giêsu cũng diễn ra tương tự như cuộc đời của ông Gióp. Bà mẹ vợ ông Simon đang bị cảm sốt, dân trong thành bị nhiều chứng bệnh khác nhau, nhiều người bị quỷ ám, người ta còn qui cho ma quỷ là nguyên nhân của cơn bệnh cảm sốt này, tất cả đều đau khổ. Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta hay, đứng giữa biển người đau khổ này, Chúa Giêsu chữa trị tất cả. Người đã giải phóng loài người khỏi bệnh tật và sức mạnh của ma quỷ, Người có quyền năng chiến thắng những sức mạnh của sự dữ và sự chết. Các việc chữa lành của Người là những dấu chỉ của Tin mừng Nước Trời mà Người rao giảng, giúp chúng ta nhận ra Người là vị cứu tinh của loài người. Vì thế Người muốn rằng, khi mọi người đón nhận được việc chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ, con người hãy đón nhận Tin mừng Nước Trời. Đón nhận được việc chữa lành bệnh tật chỉ là bước đầu, còn phải tiến đến bước quyết định thứ hai là tin vào Người và đón nhận Tin mừng với sức mạnh chữa lành của Nước Trời đang hiện diện. Quả thật, Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai và Tin mừng của Người là niềm hy vọng và cứu cánh của con người. Nhờ Người mà đời sống con người trở nên thực sự có ý nghĩa. Người đến để tìm kiếm và cứu chữa con người khỏi bệnh tật ốm đau, đem hạnh phúc cho những ai đang sầu khổ.

Có một câu chuyện kể rằng, có một tai nạn xảy ra trên quốc lộ 1 A, một chiếc xe vận tải chở gỗ tràm đi theo hướng từ Bắc vào Nam, đã đâm trực diện một chiếc xe vận tải chở trái cây, chạy theo hướng từ Nam ra Bắc. Vụ tai nạn này đã khiến buồng lái của chiếc xe Bắc vào Nam bị bẹp dúm, còn chiếc xe từ Nam ra Bắc thì bị lật ngang, trái cây đổ tung tóe trên đường. Ðáng lưu ý là trong khi cả hai tài xế và hai phụ xe của hai chiếc xe cùng bị trọng thương, cần cấp cứu thì dân chúng quanh đó lại đổ đến để… cướp trái cây. Mặc người bị nạn. Ðiều người ta quan tâm chính là hôi của, là ăn cắp hội đồng.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Con người trong thế giới hôm nay xem ra còn quá vô tâm, vô cảm, dững dưng trước những khổ đau của tha nhân. Nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng vị tha như Chúa, ai cũng biết có trách nhiệm với nhau thì con người sẽ không còn những cái khổ triền miên, nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng như ông Gióp. Để làm được điều đó, chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng, và cầu nguyện ở đó”. Người duy trì và củng cố mối tương quan với Chúa Cha. Đây là bí quyết cho sự thành công trong sứ vụ của Người.

Lạy Chúa Giêsu, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám: thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn còn các bệnh tật lan tràn: bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. xin Chúa giúp chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót và sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc của tha nhân. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM VUI LÀ PHẦN THƯỞNG; THIÊN ĐÀNG LÀ TIỀN CÔNG

Lm. Bosco Dương Trung Tín 

Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng !” (1Cor 9,16).

  Chữ “Khốn” ở đây, ta phải hiểu thế nào ?

  Chữ “khốn” ở đây là “khốn khổ”, chứ không phải là “khốn nạn”. Nếu dùng chữ “khổ” thì ta sẽ dễ hiểu và nghe nó nhẹ nhàng hơn. “Khổ thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Vì chữ “khốn”, nghe như một lời nguyền rủa hay một sự trừng phạt. Không. Ý của thánh Phao-lô không phải vậy. Đối với Ngài, nếu không Rao Giảng Tin Mừng, thì bản thân Ngài cảm thấy khốn khổ; cảm thấy một sự bất hạnh hay cảm thấy có một sự mất mát to lớn nào đó cho mình và cho người khác. Điều đó, giải thích cho ta biết tại sao mà thánh Phao-lô lại hăng say Rao Giảng Tin Mừng như vậy. Có ai trong các Tông Đồ xưa cũng như nay, có tinh thần Truyền Giáo như Ngài không? Chắc là không.

  Đối với thánh Phao-lô, phải nói là Truyền Giáo hay Rao Giảng Tin Mừng như là hơi thở, như là của ăn, như là cuộc sống của Ngài vậy, không làm không sống được. Mà Ngài tự nguyện làm chứ không có ai bắt buộc Ngài làm. Nói chính xác ơn gọi của Ngài là Truyền Giáo; cuộc sống của Ngài là Rao Giảng Tin Mừng. Ngài thật xứng danh là thánh Tông Đồ, dù Ngài không ở trong nhóm mười hai Tồng Đồ. Trong ý nghĩa đó, ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa câu Ngài nói: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Đó như là một quyền lợi và nghĩa vụ. Mạnh hơn nữa phải nói là, đó như là đặc quyền, đặc lợi và đặc vụ. Nghĩa là Rao giảng Tin Mừng là một quyền đặc biệt, một mối lợi đặc biệt và một nghĩa vụ đặc biệt.

  Nếu ta tự ý, nghĩa là ta tự nguyện làm thì ta được thưởng công (x.1Cor 9,17a). Nếu không tự nguyện thì đó là một nhiệm vụ (x.1Cor 6,17b). Hai điều này khác nhau. Nếu ta tự nguyện làm thì ta vừa lãnh tiền công vừa lãnh tiền thưởng. Còn nếu ta không tự nguyện, nhưng vẫn phải làm thì ta chỉ có lãnh tiền công chứ không có lãnh tiền thưởng.

  Mỗi người tín hữu Ki-tô, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội là chia sẻ sứ mạng Rao giảng Tin Mừng của Đức Giê-su. Đức Giê-su đã nói: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt là để làm việc đó”(x.Mc 1,38). Bởi đó, việc làm của ta là phải Truyền Giáo; cuộc sống của ta phải là Rao Giảng Tin Mừng. Ta tự nguyện, tự giác làm hay không tự giác, tự nguyện làm thì tùy ta chọn.

  Tự nguyện làm thì ta được thưởng công; không tự nguyện thì đó là nhiệm vụ ta vẫn phải làm. Như thế, ta tự nguyện làm thì tốt hơn biết mấy. Vì đằng nào ta cũng phải làm, dại gì để bó buộc phải làm mà chẳng được thưởng công ! Hơn nữa, ta biết Chúa thích ta làm vì tự nguyện, tự giác hơn là ta bị bắt buộc phải làm. Do đó, ta hãy noi gương thánh Phao-lô, dù không được 100% như Ngài thì ít ra cũng được 50% hay hơn chút nữa, ta mang lấy tinh thần Truyền Giáo của Ngài, cũng là khá lắm rồi. Ta cũng phải tự nhắc mình: “Khổ thân tôi, thật bất hạnh cho tôi, nếu tôi không Rao Giảng Tin Mừng”. Đó là đặc quyền, đặc lợi và đặc vụ của tôi.

  Về đặc quyền. Tôi đã lãnh quyền đặc biệt này từ Chúa, từ ngày tôi được rửa tội. Rồi khi lãnh bí tích Thêm Xức; khi lãnh bí tích Hôn Phối; khi lãnh bí tích Truyền Chức hay Khấn Dòng thì quyền này càng đặc biệt hơn. Ta hãy nhớ và thi hành quyền này trong cuộc sống của mình.

  Về đặc lợi. Tôi được ích lợi gì khi tôi Rao Giảng Tin Mừng ? Trước khi Rao Giảng Tin Mừng, thì tôi phải sống Tin Mừng cái đã. Sống Tin Mừng thì tôi có được niềm vui của Tin Mừng. Niềm vui này không ai lấy mất của tôi được. Điều mà Chúa nói với Mát-ta, khi Ma-ri-a ngồi nghe Lời Chúa; ngồi nghe Tin Mừng: “Mát-ta, Mát-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”(x.Lc 10,43-42).

  Ta vui vì Tên của ta được ghi trên trời(x.Lc 10,20). Khi ta sống Tin Mừng, sống Lời Chúa là ta thực thi ý Chúa, “Vì không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, chỉ có những người thi hành ý muốn của Cha trên trời mới được vào mà thôi”(x. Mt7,21).

  Ta vui vì Tin Mừng được mặc khải cho kẻ bé mọn là ta: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những bé mọn”(x.Lc 10,21). Đó cũng là đặc ân của ta, vì “Có nhiều người muốn nghe điều anh em đang nghe mà không được nghe” đấy(x.Lc 10, 24).

Niềm vui của Tin Mừng chính là phần thưởng của ta; còn tiền công của ta chính là Nước Trời. Niềm vui này như Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô nói: “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và cuộc sống của những ai gặp gỡ Đức Ki-tô. Những ai để cho Người cứu độ, sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi đau buồn, khỏi cuộc sống trống rỗng, khỏi cô đơn. Niềm vui phát sinh và luôn tái sinh cùng với Đức Ki-tô” (Trích Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, số 1).

  Nghĩa là khi ta sống Tin Mừng, thì niềm vui của Tin Mừng sẽ tràn ngập tâm hồn và cuộc sống của ta; ta được cứu độ, ta được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi đau buồn, khỏi cuộc sống trống rỗng và khỏi cô đơn. Niềm vui đó phát sinh từ Đức Giê-su và làm cho ta luôn đổi mới, nên thánh nên thiện mỗi ngày một hơn.

Rồi sau đó, ta mới Rao Giảng Tin Mừng. Thực ra, Sống Tin Mừng là đã Rao Giảng Tin Mừng rồi. Ta Rao Giảng bằng cuộc sống. Ở đây, muốn nói là sống Tin Mừng, ta có niềm vui của Tin Mừng, rồi mới có thể chia sẻ niềm vui đó cho người khác.

  Để thấy rõ hơn Niềm vui này, ta hãy xem hình ảnh của ông Gióp, trong bài đọc 1.

Ta mà không sống Tin Mừng thì cuộc sống của ta nơi dương thế chẳng khác gì là thời khổ dịch. Ta bị buộc phải làm mà. Ta sống những chuỗi ngày vất vả đâu khác chi kẻ làm thuê; ta như người nô lệ mong bóng mát; như kẻ làm thuê đợi tiền công; gia tài của ta là những tháng ngày vô vọng, ta sống lây lất cho qua ngày đoạn tháng. Vừa mới nằm xuống ta đã nhủ thầm: khi nào trời sáng. Mới thức dậy ta đã tự hỏi: khi nào chiều buông. Nghĩa là ta ngủ cũng không yên mà thức cũng không biết phải làm gì. Ngày đời ta thấm thoát như thoi đưa và chấm dứt không một tia hy vọng; mắt ta sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ. Thật là tội nghiệp; thật là tiếc, thật là khốn khổ, thật là bất hạnh cho ta quá !!!

Nếu ta sống Tin Mừng thì cuộc sống của ta nơi dương thế là thời Rao Giảng Tin Mừng, ta sẽ ra công ra sức làm việc như một người tôi tớ trung thành và khôn ngoan của Chúa. Gia tài của ta là niềm vui và hạnh phúc. Vừa mới nằm ta đã ngủ, ngủ ngon tới khi trời sángMới thức dậy ta đã có bao nhiêu việc đợi chờ, ta làm không hết việc. Ngày đời của ta thấm thoát như thoi đưa và sẽ chấm dứt trong hy vọng tràn trề. Mắt ta sẽ thấy hai lần hạnh phúc. Một lần ở trần gian này và một lần ở thiên đàng. Một lần nơi bản thân ta và lần nữa nơi người ta chia sẻ.

Về đặc vụ, tôi như người chiến binh, được huấn luyện cách đặc biệt để làm công việc Rao Giảng Tin Mừng; để hoàn thành nhiệm vụ Truyền Giáo.

Vậy ta hãy tự nguyện sống Tin Mừng và Rao Giảng Tin Mừng, để ta được thông chia phần phúc của Tin Mừng; ta có được niềm vui và hạnh phúc của Tin Mừng cả ở đời này lẫn đời sau.Niềm Vui là phần thưởng; cònThiên Đàng là tiền công của ta.

Về mục lục

.

TRÁNH NHƯNG KHÔNG TRỐN SỰ ĐAU KHỔ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Ông Gióp than thở: “ Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?…Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề.” (G 7,1-3). Vấn nạn đau khổ là vấn nạn muôn thuở của kiếp người. Không riêng gì các trang của sách Gióp, kho tàng văn chương của nhân loại từ cổ chí kim vẫn đầy dẫy các hình thái khổ đau của con người được trình bày, mô tả và mạn bàn. Nói đến chuyện đau khổ, bàn đến chuyện đau khổ qua các trang sách hay phim ảnh thì như rất dễ thu hút lòng người. Có nhiều nguyên cớ tuy nhiên cần chân nhận lý do chung này: người ta thấy có chút đồng cảm nào đó, vì chính họ cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương liên, chuyện đời là vậy.

Bài Tin Mừng Hội thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật V TN B này tường thuật một ngày làm việc của Chúa Giêsu là chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật về tinh thần lẫn thể xác. Sau khi chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt nặng thì “chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (Mc 1,32-34). Khó có thể chối cãi sự thật này đó là Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa dịu khổ đau của con người. Thế nhưng tại sao khi người ta kéo nhau đến cùng Người thì Người lại đi nơi khác? Phải chăng Chúa Giêsu muốn “nhổ cỏ tận gốc”, tức là tìm cách diệt trừ căn nguyên của sự đau khổ?

Vì sao có đau khổ? Một câu hỏi rất khó tìm được câu trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Anh em Phật tử thì chủ trương rằng đau khổ có căn nguyên nơi cái “dục” của con người. Vì ước muốn mà không được toại nguyện nên phải chịu đau khổ. Chính vì thế con đường thoát khỏi khổ đau được đề ra đó là “diệt dục”. Nếu nhìn cuộc đời con người với vòng đời “sinh – lão – bệnh – tử” là bể khổ thì làm sao giải thích được việc một người được sinh ra là khổ, cho dù “thoặt sinh ra thì đà khóc choé”? Người ta có thể muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật, muốn trường sinh bất tử, nhưng không một ai trên trần gian có thể tự mình “muốn” được hay không đựơc hoài thai trong dạ mẹ cũng như tự mình muốn được hay không được chào đời làm người.

Lão tử thì quan niệm đau khổ có ra là vì con người sống không hợp với Đạo, vói lẽ trời, với sự vận hành của giới tự nhiên. Khi con người không làm chủ ước vọng của mình, để cho tham muốn của mình đi thái quá cũng gây ra khổ đau. Chính vì thế để diệt khổ đau không gì hơn là tiết chế tham muốn của mình một cách nào đó theo kiểu cách của thi nhân Nguyễn Công Trứ:

Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc.

Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.

Và sống thuận theo lẽ trời tự nhiên như Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá.

Xưân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Các triết gia, các nhà đạo đức học phân biệt đau đớn với đau khổ. Các loài vật vì không có lý trí và ý chí tự do nên chỉ có đau đớn mà không có đau khổ. Đau khổ là một phạm trù thuộc lý trí. Biết được chuyện chẳng may, chẳng lành mà không tránh được thì mới có khổ đau. Người ta thường dí dỏm rằng người điên không hề có khổ đau. Một giải thích ngắn gọn đó là vì họ không biết. Tuy nhiên, ngoại trừ một vài nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh…thì người ta đều chân nhận rằng chính tội lỗi con người là nguyên nhân lớn gây ra đau khổ cho đồng loại. Và Kitô giáo ủng hộ lập trường này, mặc dù vẫn quan niệm đau khổ là một huyền nhiệm.

Để có cái nhìn tương đối khách quan về đau khổ, thiết tưởng chúng ta cần xem xét bản chất đau khổ là gì? Đau khổ là tâm trạng khó chịu khi gặp phải sự dữ hay khi thiếu một điều thiện hảo nào đó. Rất khó và dường như không thể xem xét đau khổ như là hiện tượng độc lập, tự thân nó. Đã nói đến đau khổ là nói đến một ai đó đau khổ. Như thế sự đau khổ luôn gắn liền với nhận thức và ước muốn của con người. Con người cảm thấy đau khổ khi các hiện tượng khách quan lẫn chủ quan như cưỡng lại ý muốn của mình.

Đến thế gian, Chúa Kitô không giải thích cặn kẻ về khổ đau cũng như các nguyên nhân của nó. Tuy nhiên qua các hành vi, lời nói và chính cuộc sống của Người, Người dẫn chúng ta đi trên con đường kinh qua đau khổ để sống yêu thương. Dù rằng vẫn cố gắng đến quên ăn, quên ngủ để làm dịu cơn khổ đau của nhân loại, nhưng Người đã biết rõ cuộc đời con người khó có thể thoát được mọi nổi khổ đau, cả về thể lý lẫn tinh thần. Người đã tự nguyện chọn con đường đối diện với với đau khổ bằng một tình yêu vị tha bao la. Không phải diệt dục là hết khổ đau, vì chính hành vi diệt dục cũng là một cách muốn, cho dù các bậc minh triết trong Phật giáo diệt dục bằng sự “tri kiến”. Không phải cứ thuận theo lẽ tự nhiên là khổ đau biến mất vì sự vận hành của giới tự nhiên lắm khi quá nghiệt ngã. Biết dừng cái ham muốn của mình trong sự trung dung, vừa đủ thì hết khổ chăng? Cũng thật cam go vì biết thế nào là đủ, là vừa.

Trong niềm tin, với lời mạc khải, đặc biệt là qua con đường Chúa Kitô đã đi, chúng ta có thể quả quyết rằng chính khi hướng cái dục là lòng muốn đến tha nhân với các mục tiêu tốt đẹp kiểu “hãy thực hiện cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình”, thì sẽ có cơ may vượt qua đau khổ. Thánh Âugustinô đã từng chỉ dạy: Hãy yêu đi thì bạn sẽ vơi hết khổ đau. Nếu có đau khổ thì cái đau khổ ấy cũng đã được yêu rồi”.

Cần phải diệt trừ tội lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra đau khổ, đồng thời cần phải tránh các khổ đau cho bản thân cũng như cho tha nhân và tích cực xoa dịu khổ đau cho đồng loại hết khả năng có thể, vì đó là điều chính đáng và phải đạo. Tuy nhiên, nếu gặp phải sự đau khổ không như ý hay chẳng đặng đừng thì hãy can đảm đón nhận nó để sống yêu thương. Tình yêu vị tha mà kinh qua đau khổ là tình yêu thật đáng giá và đượm đầy tính vô cầu. Như thế không phải là tìm cách diệt dục hay hạn chế sự dục mà là hướng cái dục của chúng ta theo thánh ý Cha trên trời, Đấng tốt lành và nhân hậu. Là Kitô hữu, chúng ta tránh, nhưng không trốn sự đau khổ.

Về mục lục

.

CHÚA CHỮA LÀNH MỌI BỆNH HOẠN TẬT NGUYỀN

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy niệm trong Chúa Nhật này mang lại cho chúng ta một bản tường trình trung thực về một ngày sống kiểu mẫu của Chúa Giêsu. Theo đó, thánh Máccô cho biết: Khi rời khỏi hội đường, trước hết Chúa Giêsu đến thăm nhà ông Simon Phêrô, ở đó Người chữa lành cho mẹ vợ của ông đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Vào buổi chiều, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho người. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. Sáng sớm, lúc trời con tối mịt, Người đã dậy và đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện; sau đó Người rời bỏ nơi đó và đi rao giảng Nước Trời cho những thành khác (Mc 1,29-39).

Từ trình thuật này chúng ta có thể tóm tắt một ngày sống của Chúa Giêsu là sự kết hợp của việc chữa bệnh, cầu nguyện và loan báo Nước Trời. Hôm nay, chúng ta hãy dành suy tư của chúng ta về lòng yêu mến của Chúa Giêsu đối với những người bệnh, bởi vì trong ít ngày nữa, phụng vụ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria hiện ra tại Lộc Đức vào ngày 11 tháng 2, cũng là ngày Quốc Tế Bệnh Nhân mà chúng ta sẽ cử hành để tưởng nhớ và cầu nguyện cho họ.

1- Bệnh tật, nỗi đau của con người

Quả thế, những thành tựu của khoa học và y khoa trong thời đại chúng ta đã thay đổi sâu xa điều kiện của người bệnh. Trong nhiều trường hợp bệnh như lao phổi, phong cùi, cả ung thư… khoa học và y khoa hôm nay mang lại những hy vọng đáng tin cậy cho việc chữa lành cho những bệnh nan y này, hay ít ra cũng kéo dài nhiều thời gian sống của người bệnh hoặc hạn chế sự phát triển của chúng nơi bệnh nhân. Tuy nhiên, bệnh tật và cái chết thì vẫn chưa và sẽ không bao giờ được giải quyết và khuất phục một cách hoàn toàn. Nó là một phần của điều kiện con người. Sinh bệnh lão tử là quy luật tất yếu của con người. Khoa học dù có phát triển đến mức nào đi chăng nữa, cũng không thể xóa bỏ được bệnh tật và sự chết.

Niềm tin Kitô giáo có thể xoa dịu tình trạng này và đồng thời mang lại ý nghĩa và giá trị của bệnh tật, đau khổ và sự chết. Bởi thế, thật là cần thiết để trình bày hai lối tiếp cận: một là đối với chính người bệnh và thứ đến là đối với những ai chăm sóc người bệnh.

Quả thế, trước khi Đức Kitô đến, bệnh tật được coi là sự liên hệ chặt chẽ với tội lỗi. Nói cách khác, con người đã tin chắc rằng bệnh tật là hậu quả của một số tội riêng mà một người đã phạm nên nó phải bị Thiên Chúa phạt bằng chính hậu quả bệnh tật. Nên những ai bị bệnh như bệnh phong cùi phải chịu cảnh bị mọi người xa lánh, bị loại trừ khỏi cộng đoàn và xã hội. Họ thuộc hàng ô uế.

2- Ý nghĩa của bệnh tật và đau khổ

Với Chúa Giêsu và những phép lạ của Người làm, thái độ này đã thay đổi rất nhiều: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Trên thập giá, Người đã mang lại ý nghĩa cho đau khổ của con người, bao gồm cả bệnh tật: Bệnh tật không còn là một hình phạt nữa, nhưng là sự cứu chuộc. Bệnh tật liên kết chúng ta nên một với Người; bệnh tật thánh hóa, thanh luyện tâm hồn, chuẩn bị cho chúng ta đón nhận một ngày mà Thiên Chúa sẽ lau khô mọi nước mắt và lúc đó sẽ không còn bệnh bệnh tật, khóc than và đau khổ nữa.

Vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị tấn công tại quảng trường thánh Phêrô bởi tay súng Ali Aka. Suốt dọc đường tới bệnh viện Girelli, Đức Giáo Hoàng thì thầm tên Mẹ Maria bằng tiếng Ba Lan. Đức Gioan Phaolô II được phẫu thuật hơn bốn giờ. Cùng thời gian đó, hàng triệu tín hữu từ Ba Lan và khắp nơi trên thế giới, đều cầu nguyện. Bốn ngày sau cuộc mưu sát, Đức Giáo Hoàng phát biểu lần đầu tiên từ giường bệnh: “Cha cám ơn các con đã cầu nguyện nhiều cho Cha và chúc lành cho hết mọi người (…) Cha cầu nguyện cho người anh em đã bắn Cha và chân thành tha thứ cho anh. Lạy Mẹ Maria, con xin lặp lại: Totus tuus ego sum, con hoàn toàn thuộc về Mẹ.” Đức Thánh Cha đã thoát nạn và không ngần ngại quả quyết rằng chính bàn tay Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Fatima, đã đánh lạc đường bay của viên đạn định mệnh. Một năm sau, ngày 13.5.1982, Đức Gioan Phaolô II đến thánh đường Đức Mẹ Fatima để tạ ơn Mẹ.

Sau những kinh nghiệm từ bệnh tật và đau khổ của mình, Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã viết một lại thư nói về đau khổ, trong đó ngài nói: “Đau khổ mang lại ý nghĩa giúp chúng ta đặc biệt trở nên nhạy cảm, nhất là biết mở ra với hoạt động của những sức mạnh cứu độ từ Thiên Chúa, ý nghĩa và sức mạnh đó được ban cho nhân loại trong Đức Kitô” (x. Salvifici Doloris, no. 23).

Như thế, bệnh tật và đau khổ mở ra cho chúng ta và cho Chúa Giêsu trên thập giáo một kênh rất đặc biệt để thông truyền. Người bệnh tật không phải là những thành phần thụ động của Giáo Hội, nhưng là những thành phần năng động nhất, quý giá nhất. Trong cặp mắt của Thiên Chúa, một giờ chịu đau khổ, được đón nhận và chịu đựng với sự kiên nhẫn và lòng yêu mến Chúa, có thể xứng đáng hơn nhiều những hoạt động khác của thế giới, nếu chúng được thực hiện chỉ cho chính mình.

3- Hãy mang niềm hy vọng và sự an ủi cho người bệnh tật

Giờ đây chúng ta dành một ít lời cho những người đang chăm sóc bệnh nhân, tại tư gia hay trong những trung tâm y tế và bệnh viện. Người bệnh chắc chắn cần đến sự chăm sóc, khả năng chuyên môn khoa học, nhưng họ cũng rất cần đến niềm hy vọng và sự an ủi của chúng ta. Không có liều thuốc nào có thể xoa dịu nổi đau của người bệnh cho bằng việc họ được nghe bác sĩ nói: “Tôi có những hy vọng tích cực cho anh… Mọi sự sẻ tốt hơn và hy vọng với cách này anh sẻ khỏe lại…” Khi có thể, chúng ta hãy nói như thế với bệnh nhân với lòng chân thành không hề dối trá. Hãy luôn mang lại cho họ niềm hy vọng, lời nói tích cực để an ủi, thay vì những lời nói gây sốc, tiêu cực, làm cho họ tuyệt vọng và đau khổ chồng đau khổ! Bởi lẽ, niềm hy vọng là “bình ôxy tốt nhất” cho một người bệnh. Không nên để người bệnh ở một mình cô đơn, cô độc trong trên giường bệnh của họ. Ngoài ra, cũng cần nói thêm rằng một trong những việc của lòng thương xót là thăm viếng người bệnh tật. Chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta rằng một trong những tiêu chuẩn mà Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta trong ngày chung thẩm là: ‘Khi ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng… Khi ta bệnh tật, các ngươi đã không thăm viếng” (Mt 25,36.43).

Có điều nữa chúng ta có thể làm cho những người bệnh tật đó là cầu nguyện cho họ. Hầu hết những bệnh nhân của Tin Mừng được chữa lành nhờ một ai đó đã giới thiệu họ với Chúa Giêsu và nhờ đó Người đã chữa lành họ. Những lời cầu nguyện đơn sơ cho các bệnh nhân là những lời cầu nguyện rất đẹp lòng Chúa. Chúng ta hãy nhớ đến họ trong lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta. Chúng ta hãy bắt chước hai chị em nhà Mátta và Maria đã cầu nguyện với Chúa Giêsu khi người em trai của họ bị bệnh nặng: “Thưa Thầy, người mà Thầy yêu mến đang bị bệnh” (Ga 11,3). Chúng ta hãy nói với Chúa lời đó khi thấy ai đó bị bệnh nặng. Lạy Chúa, người mà Chúa yêu mến đang bị bệnh, xin Chúa đến cứu chữa họ. Amen!

Về mục lục

.

PHÉP LẠ CHỮA NHẠC MẪU PHÊRÔ NÓI GÌ VỚI TA VỀ BA CON NGƯỜI

Lm. Anphong Nguyễn Công Minh

Cá-phác-na-um, thành phố mà ngày nay ai đến viếng thăm, cũng ngạc nhiên vì thấy dòng chữ bằng tiếng Anh: Capharnaum, the town of Jesus. “Thành của Giêsu,” nhưng Giêsu lại không có nhà riêng tại thành của mình, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.(*) Và Chúa đã cầm tay nâng mẹ vợ của Phêrô dậy.

Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về ba con người: Giêsu, các môn đệ của Giêsu, và mẹ vợ của Phêrô.

1. Phép lạ này cho chúng ta biết đôi điều về Chúa Giêsu .

Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng. Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như đã chữa bệnh giữa đám đông trong nhà hội. Hôm nay, và tuần trước, bài Tin Mừng mô tả về một ngày của Chúa: ngày Sabbat lẽ ra nghỉ ngơi, nhưng Chúa làm việc liên tục: Sáng, Chúa Giêsu đến hội đường Capharnaum lắng nghe và giảng dạy, nơi đó Ngài đuổi quỉ ô uế, trên đường rời Hội Đường, Chúa chữa lành một người điên khùng và bước vào nhà hai anh em Anrê và Phêrô, người ta nói cho Ngài hay về bệnh tình của bà mẹ vợ ông Simon Phêrô. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài.

Bác sỹ Paul Tournier có viết: “Bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: ‘chúng tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều bệnh nhân nói.’ Tôi đáp : ‘Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm’ ” (kiên nhẫn thì thường phải cố gắng, còn “quan tâm” thì tự nhiên nó đến). Nơi Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín. Giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu giúp của Ngài.

2. Phép lạ này cho chúng ta biết vài điều về môn đệ của Chúa Giêsu.

Bốn môn đệ của Chúa Giêsu chưa biết nhiều về Thầy của mình, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, và các môn đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe. Đó có lẽ là điều tự nhiên nhất trên đời.

Bác sĩ Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị mục sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông bác sĩ ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Bác sĩ hết sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị mục sư nọ. Cầu nguyện mà giống hệt như tiếp tục cuộc trò chuyện đang có với Chúa Giêsu (tức là mục sư nói chuyện với bác sĩ, cũng chính là nói với Chúa, rồi đứng dậy cầu nguyện, cũng chính là tiếp tục câu chuyện, chứ không phải “bước sang” một lãnh vực khác).

Bác sỹ Tournier viết tiếp : “về đến nhà tôi kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ mục sư nọ vậy. Từ đó, Chúa Giêsu trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người bệnh ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người bệnh ấy”.

Mấy lời trên đây là con đường của Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.

3. Phép lạ này cho chúng ta biết vài điều về nhạc mẫu của Phêrô.

Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khoẻ hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã sử dụng ơn Chúa ban như thế nào ?

Nhà văn Oscar Wilde viết “Chuyện hay nhất Thế Giới” trong đó ông kể: “Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phần sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phía trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi “Sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa? Hắn đáp: thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn”? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: “Tai sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng?” Chàng đáp: “Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?” Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi, ông đáp: “Lạy Chúa tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?”

Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Còn bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi hồng ân Chúa ban.

Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể (Phêrô) như thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa ; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô”.(1Pr 4,10-11).

Bài giảng của cha Hàm, Anphong edit và đưa lên mạng.

_____________

(*) Có ba loại sốt thường thấy ở Paléttin. Một loại được gọi là malta có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kì. Nhưng nặng nhất là sốt rét da vàng. Nơi gần sông Giođan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Cá-phác-na-um và vùng cạnh hồ Galilê là điạ bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chúng này thường kèm theo bủng da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân. Chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông Phêrô mắc phải.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN_B.

Lm. Antôn

Tất cả mọi người sống trên trần gian này phải theo một định luật thiên nhiên cố định: sinh tử.  Nghĩa là chúng ta có ngày sinh vào trần gian này thì cũng có ngày chúng ta phải chết.  Giữa sinh và tử có một thời gian, ngắn hay dài tùy theo thánh ý Chúa. Và trong thời gian này, tất cả mọi người chúng ta phải trải qua hay đối diện với nhiều hoàn cảnh có lúc vui, có lúc buồn, có khi sướng, có khi khổ, có khi mạnh khỏe và cũng có lúc bệnh tật.  Một trong những tình cảnh này, mà tôi nghĩ, không một người nào trong chúng ta muốn đối diện, đó là bệnh tật.    

Sự tiến bộ của y khoa và khoa học ngày nay là niềm vui và hy vọng cho con người, nhưng chúng ta biết không thể giải quyết được hết mọi thứ bệnh đang tràn lan trên thế giới.   Cho nên dù muốn hay không, bệnh tật là một thực trạng mà chúng ta sớm muộn phải đối diện.  Thật vậy, bệnh tật làm cho chúng ta lo sợ, sầu khổ, bị giới hạn và mất tữ do, làm cho chúng ta cảm thấy bực bội, nhiều khi chán nản và thất vọng.

Bài đọc 1 kể cho chúng ta câu chuyện của ông Gióp, một rất người giàu có, đang trong tình cảnh buồn sầu vì người thân yêu qua đời.  Thêm vào đó, ông còn đang phải đối diện với sự suy thoái của thân thể, cũng như đau khổ vì bệnh tật.  Ông chỉ mong có một giấc ngủ dài từ sáng sớm cho đến chiều tối để quên đi những phiền muộn, sầu khổ của cuộc đời. Ông nhận thấy đời sống ngắn ngủi và nếu như sống trong tình trạng đau khổ như vậy thì cuộc đời không có giá trị, ý nghĩa.  Ông than thở: “Ngày của tôi qua nhanh hơn thoi đưa, nó tàn lụi đi mà không mang lại một tia hy vọng.”   Chỉ trong một câu ngắn ngủi này, chúng ta có thể nhận ra nỗi thống khổ của ông. Và có lẽ đây cũng có thể là tâm trạng của nhiều người chúng ta khi phải đối diện với hoàn cảnh tương tự.

Trong bài đọc 2, thánh Phaolô cho chúng ta biết ngài đang phải đương đầu với một hoàn cảnh lo âu và khó khăn trong cuộc sống, vì mang trong người một sứ mệnh trọng đại là làm chứng, và rao giảng Tin mừng mà Chúa Kitô đã trao phó. Thánh Phaolô cảm thấy lo lắng thứ nhất là ngài biết rõ khả năng và sức lực yếu kém của mình, và thứ hai là không biết người ta có nghe lời giảng dạy của ngài không?  Lời giảng dạy của ngài có thuyết phục được người khác tin vào Chúa không?

Và trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành bệnh cho bà mẹ vợ ông Simon Phêrô, và những người có nhiều chứng bệnh khác nhau, cũng những người bị ma quỉ chiếm giữ. Họ là những người có những khó khăn và đau khổ trong cuộc sống, vượt qua khả năng của mình và hết thuốc chữa.

Chúng ta nhận thấy ông Gióp than thở và đau khổ nhưng ông có một niềm tin mạnh mẽ vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa sẽ cứu giúp ông vượt qua khỏi cảnh đau khổ này.  Và điều này đã xảy ra đúng như niềm tin của ông. Thánh Phaolô cũng đã nhận được ân sủng và sức mạnh của Chúa để ông chu toàn sứ vụ, và nhiều người đã tin vào Chúa qua lời rao giảng của ngài.  Thánh Phao-lô biết rằng đây là kết quả của sự thành tâm và sốt sắng tự biến mình thành nô lệ cho Chúa, trở thành khí cụ của Chúa xử dụng.  Và chúng ta nhận thấy quyền năng tối cao của Thiên Chúa trên sự dữ khi Chúa Giêsu chữa lành bệnh cho bà mẹ vợ của ông Simon Phêrô, và rất nhiều người mắc đủ chứng bệnh khác, nhất là chữa cho những người bị quỉ ám.

Qủa thực, những phép lạ mà Chúa Giêsu củng cố niềm tin và hy vọng cho những ai đang phải đối diện với hoàn cảnh đau khổ và tuyệt vọng. Và cũng là  niềm cậy trông và hy vọng cho chúng ta là những người tin vào quyền năng và lòng nhân từ, thương xót của Chúa.  Chúa yêu thương và sẵn sàng cứu giúp chúng ta nếu chúng ta tin vào Chúa, sống lời Người dạy và thành tâm đến với Chúa. 

Cuộc sống Kitô hữu của chúng ta là một cuộc hành trình đi tìm Chúa như đám đông dân chúng trong bài Tin mừng hôm nay, không phải chỉ lúc chúng ta đối diện với những khó khăn, đau buồn hay thử thách, mà suốt cả cuộc đời. Đau buồn thay đám đông dân chúng đi tìm Chúa, không phải để nghe lời Chúa hay yêu mến và tôn kính Chúa, nhưng đi tìm để xin Chúa ban ơn này ơn nọ cho cuộc sống vật chất mà thôi.  Chúng ta đi tìm Chúa vì không những chúng ta tin vào Chúa là Con Thiên Chúa Đấng Cứu Thế, mà còn để tôn thờ Chúa.  Chúng ta nhận biết sứ mệnh tối cao của Chúa Giêsu là cứu chuộc để chúng ta có sự sống đời đời, và dạy chúng ta những phương cách để kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Cha.   

Tham dự Thánh lễ và cầu nguyện là những phương cách kết hợp mật thiết với Chúa hơn.  Chúng ta biết cầu nguyện là nhu cầu quan trọng và là lương thực đích thực của chính Chúa Giêsu. Ngài luôn kết hiệp mật thiết với  Thiên Chúa Cha qua sự cầu nguyện.  Sự cầu nguyện đã giúp Ngài có sức mạnh chữa được những bệnh tật và loại trừ ma quỉ ra khỏi con người chúng ta. Cho nên, chúng ta cũng phải có một đời sống cầu nguyện như Chúa để có sức mạnh vượt qua khỏi những hoàn cảnh đau khổ và lo âu, và loại trừ được những sự dữ đang xiềng xích trói buộc cuộc sống chúng ta.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi đời sống cầu nguyện của chúng ta như thế nào?  Có tạo cho chúng ta sự liên hệ mật thiết với Chúa không?  Sự cầu nguyện của chúng ta có tạo nên sức mạnh, bình an và trông cậy hay không?  Chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết hy sinh thời giờ hàng ngày để tham dự Thánh lễ và cầu nguyện một cách sốt sắng và chân thành, để được kết hợp mật thiết với Chúa, được sức mạnh vượt qua những khó khăn, đau khổ và lo âu trong cuộc sống, sống trong sự vui mừng và bình an của Chúa.

Về mục lục

.

Exit mobile version