CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN_A
Lời Chúa: Is 58,7-10; 1Cr 2,1-5; Mt 5,13-16
——
0. Tâm Sáng Hồn An (Lm. Jos. DĐH., Gp. Xuân Lộc)
1. “Thương người như thể thương thân” (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Muối cho đời (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Sống có ích cho đời (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Người Kitô hữu là muối đất và là sự sáng thế gian (Lm. Antôn Nguyễn văn Độ)
5. “Đừng thích làm mặt trời” (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Uớp đời (Trầm Thiên Thu)
7. Muối đời (Lm. Trần Việt Hùng)
8. Kitô hữu, ngươi là ai? (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
9. Muối và ánh sáng cho đời (JM. Lam Thy, ĐVD)
10. Muối và ánh sáng thế gian (AM. Trần Bình An)
11. Bảo vệ căn tính (Lm. Vũ Đình Tường)
12. Muối và ánh sáng (Lm. Văn Hào, SDB)
13. Muối mặn đèn sáng (Lm. Jos. DĐH.)
14. Chính anh em là muối cho đời (Lm. Fx. Đỗ Công Minh)
15. Muối và ánh sáng- (P.Trần Đình Phan Tiến)
16. Muối cho đời- (Lm. Gioan Nguyễn văn Ty, SDB)
17. Anh em là ánh sáng cho đời (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
18. Chính anh em là ánh sáng cho trần giann (Lm. Giuse Nguyễn)
19. Suy niệm Chúa Nhật 5 Thường niên_A (Lm. Anthony Trung Thành)
20. Muối và ánh sáng cho đời- (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
21. Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian (Lm. Đan Vinh)
22. Chúa Nhật 5 Thường niên_A (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
TÂM SÁNG HỒN AN
Tuần 5 TN-A: Mt 5, 13-16
Lm. Jos. DĐH., Gp. Xuân Lộc
Vị đắng tình yêu hay vị mặn trong hôn nhân, ít nhiều mỗi người đã trải nghiệm. Ánh sáng soi đường, ánh sáng mở ra những ý tưởng mới, hoặc ánh sáng giúp tâm trí sáng suốt, đều mang đến hạnh phúc. Sống ở đời: có vui buồn, có ưu tư vất vả, có phấn đấu vươn lên, bạn sẽ thấy thế nào là quy trình hoàn thiện. Sẽ không ai có được tình yêu như ý, nếu người đó chưa từng khao khát nhận lãnh và sẻ chia. Cũng không có thứ ánh sáng nào soi được vào tâm trí, nếu kẻ đó chưa biết đến tình yêu và ơn ban của Đức Kitô. Theo lý thì trên đời này không có kẻ vô tâm vô tình, chẳng qua là họ chưa nhìn về hướng của ta mà thôi. Theo tình thì tất cả những ai biết yêu, và được yêu, đều có quyền ước muốn hạnh phúc tròn đầy, dẫu rằng: ổ khoá phải có chìa khoá, nồi tròn không thể úp vung méo.
Muối mặn gừng cay, sáng trí sáng lòng, tâm an vạn sự an, tâm rộng thiên địa rộng, từ xa xưa, tiền nhân chúng ta vẫn dạy con cháu: con người quý ở chữ tâm, hơn nhau ở chữ tâm, ý nói sống phải có tâm. Người có tâm ắt có tầm, hoặc nếu có chuyện may lành ở đời, chỉ người có tâm mới đáng hưởng. Cũng từ việc tâm sáng hồn an, Đức Giêsu nhắc nhớ các học trò và các thế hệ nối tiếp, hãy lưu ý mỗi người phải là đèn sáng, phải là muối mặn, không thể để mất đi căn tính của mình. Hoa có hương có sắc, người có chuẩn mực, phải gắn liền với bản tính tốt. Chắc chắn chúng ta từng mơ ước mình phải có tài có đức, sáng trí phải sáng lòng, đẹp người phải đẹp nết. Sống có lý có tình, minh chứng tâm an hồn sáng, cũng là cách lý giải: tôi dễ dàng làm quen với một người xa lạ, do đó làm sao tôi có thể quên một người xa lạ tôi đã từng quen.
Muối mặn, đường ngọt, mỗi hoàn cảnh, mỗi thời điểm, tuy khác nhau, nhưng chất mặn và chất ngọt, vẫn rõ ràng phân biệt, không hề thay đổi, thế mới gọi là nguyên lý. Sớm mai thức dạy phải có bình minh, lao động làm việc, rồi phải có hoàng hôn, con người sử dụng thời gian đúng, đủ, sẽ làm nên ý nghĩa hành trình đẹp và giá trị hơn. Muối và ánh sáng, Đức Giêsu nói tới còn được hiểu là việc bác ái tông đồ, là tính chất đẹp qua cách ứng xử giữa tình người và tình Chúa chan hoà yêu thương. Đâu phải tự nhiên mà cha ông ta nói: đời người lúc thịnh lúc suy, lúc khoẻ lúc yếu lúc đi lúc dừng, bên nhau chua ngọt đã từng, gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau. Đúng là quy luật tự nhiên đang xoay chuyển dần đều đến chân lý đức tin: “các con là muối đất. Các con là sự sáng thế gian”.
Tâm sáng hồn an, là muối là men, là ánh sáng chiếu soi, không khó để chúng ta mường tượng, nhưng sẽ phức tạp khi chưa có tình yêu thương, khi không để tình Chúa thấm nhuần tâm trí và cõi lòng ta. Dù ai đó dồi dào kinh nghiệm trường đời, dù lắm tiền nhiều của, hoặc giầu sang địa vị, nhưng thiếu tình yêu, thiếu chất mặn, tối tăm bao phủ, hẳn cuộc sống quả là vô nghĩa. Xưa nay đều thế, hạnh phúc không ai cân đo bằng vật chất, nhưng hạnh phúc được biết đến là tình yêu, là tâm sáng hồn an. Chất mặn nơi tâm hồn là ơn Chúa, độ mặn trong các tương quan là yêu thương. Ánh sáng chiếu soi không thuần tuý hiểu là ánh sáng đèn điện, mà vẫn được thực tế là gương nhân đức: hoà thuận, yêu thương, biết đón nhận sự khác biệt của nhau. Người kitô hữu không phản ánh được độ mặn của tình yêu Chúa Kitô, có khác gì cây xanh lá mà không sinh hoa trái, có khác gì mùa xuân thiếu vắng niềm vui !
Người xưa có câu: cái lạnh nhất, đắng cay nhất, không phải là mùa đông sang, không phải là ly rượu mạnh hay ly cà phê không đường, mà là sự vô tâm hời hợt từ người mà bạn đã từng xem là tất cả ! Muối phải giữ được độ mặn, ánh sáng phải toả chiếu, câu hỏi được đặt ra, bạn làm gì để tình yêu thương của Chúa không thể bị phai nhạt ? Để giữ mãi được tâm sáng hồn an, để độ mặn có mãi nơi các tương quan của mình, để ánh sáng bừng lên mãi qua lời nói việc làm của mình, mỗi người phải ở trong tình yêu Đức Kitô. Thực tế thì việc bác ái tông đồ ta đã nghe, lời nói thật thà ta đã hiểu, gương sáng đạo đức ta đã từng nghĩ tới, nhưng lời mời gọi làm cho muối mặn phát huy công dụng, ánh sáng đức tin toả chiếu, luôn là sự tự do của mỗi người. Vâng, chỉ những ai chăm chỉ làm việc tận tâm tận lực, mới đủ khả năng để cảm nhận hạnh phúc thật đáng yêu.
Có một người thợ, đốn cây gỗ: ông cưa, đục, đẽo, và tạo cho chúng thành hình, đó là ba cái thùng. Thùng thứ nhất, đựng phân, gọi là thùng phân, mọi người xa lánh. Thùng thứ hai, đựng nước, gọi là thùng nước, mọi người đều dùng. Thùng thứ ba, đựng rượu, gọi là thùng rượu, mọi người đều thưởng thức. Thùng thì như nhau, tác phẩm do một người, nhưng thứ đựng trong thùng khác nhau, nên chúng có tên gọi khác nhau. (sưu tầm trên net). Cuộc đời là như vậy, thời gian, điều kiện, tự do: có người làm việc bác ái. Có người chỉ biết dùng thời gian hưởng thụ. Có người cả một đời người vừa tập luyện, vừa sống nhân đức, họ đáng được gọi là người tốt, người biết giữ độ mặn và phản chiếu được tình yêu của Đức Kitô. Hãy là muối men, là ánh sáng chiếu soi, và cách duy nhất để muối không nhạt, đèn không tắt, đó là tâm hồn luôn có tình yêu Chúa. Amen.
.
“THƯƠNG NGƯỜI NHƯ THỂ THƯƠNG THÂN”
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Khi Tin Mừng được loan báo trên quê hương đất nước chúng ta, truyền thống Việt Nam “thương người như thể thương thân” đã gặp gỡ giáo huấn của Tin Mừng “yêu người như mình ta vậy”. Cả hai cùng chung một mục đích là phục vụ con người. Thời Cựu ước, ngôn sứ Isaia đã ca tụng những nghĩa cử chia sẻ liên đới với người nghèo. Người nào luôn dấn thân phục vụ người cơ bần, cởi trói cho người bị gông cùm, nhường miếng ăn cho người đói khát… khi họ kêu cầu với Chúa, Ngài sẽ mau mắn trả lời. Sau này, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta, khi chúng ta giúp đỡ người nghèo là chúng ta giúp đỡ chính Chúa; khi chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của anh chị em là chúng nhắm mắt làm ngơ với chính Chúa (x. Mt 25, 1-46). Ngôn sứ Isaia nói đến một ánh sáng thiêng liêng toát ra từ những nghĩa cử bác ái đối với tha nhân, đồng thời những nghĩa cử ấy cũng giúp chúng ta được ơn tha thứ và chữa lành: “Bấy giờ, ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành” (Bài đọc I). Tình thương của chúng ta đối với người nghèo không bị rơi vào quên lãng, nhưng được Chúa ghi nhận. Những anh chị em lương dân cũng tin rằng, làm việc thiện là tích lũy công phúc cho mình đời này và đời sau, vì “gieo nhân nào, gặt quả nấy – gieo phúc đức, gặp an bình”.
Tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là muối đất và là ánh sáng thế gian. Hai yếu tố này rất thiết thực cho cuộc sống con người. Thiếu chúng, cuộc sống không thể tồn tại và phát triển. Qua hình ảnh muối và ánh sáng, Chúa muốn mời gọi những ai tin vào Người hãy chiếu tỏa sự thánh thiện và lòng bác ái đối với cuộc sống xung quanh. Hãy trở nên muối để ướp mặn cuộc đời. Hãy trở nên ánh sáng để chiếu soi người đang bước trong đêm tối. Cuộc sống hôm nay đang trở nên nhạt thếch vì thiếu tình người. Xã hội hôm nay có những khoảng tối do lòng ích kỷ, gian dối và bạo lực. Những ai theo Chúa hãy cố gắng mỗi ngày để đem cho cuộc đời vị mặn của tình thương và ánh sáng của lòng tốt. Trong nghi thức rửa tội trước Công đồng Vatican II, vị chủ sự đặt một chút muối vào miệng người được rửa tội với lời nguyện xin cho người tín hữu này được sống như muối ướp trần gian. Ngày nay, nghi thức chỉ còn giữ lại phần trao cây nến cháy với lời mời gọi người vừa được rửa tội hãy sống như con cái sự sáng.
Thời nào cũng có những người nghèo khó. Khái niệm “nghèo” hôm nay không dừng lại ở nghèo khó vật chất, nhưng còn đói khát về tình người, về tri thức, về thông tin, về văn minh nhân loại. Ngay ở các nước tư bản giàu có, vẫn có những người sống dưới ngưỡng nghèo, thậm chí có những người vô gia cư đã chết trong mùa đông giá lạnh. Giáo Hội trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu, chọn người nghèo làm đối tượng phục vụ ưu tiên. Giáo Hội đứng về phía người nghèo, lên án những chế độ bất công, bảo vệ phẩm giá con người, nhất là những người bị gạt ra bên lề cuộc sống, như người di cư, những nạn nhân của đường dây buôn bán người… Giáo Hội thực hiện lời dạy bác ái của Chúa Giêsu, và coi đó là cốt lõi, là định hướng quan trọng cho tất cả những hoạt động của mình. Chính vì chọn lựa phục vụ người nghèo, mà Giáo Hội trở nên hiện thân của Chúa Giêsu giữa trần gian.
Cuộc sống này là một cuộc tranh đấu không ngừng giữa sự thiện và sự ác; giữa ánh sáng và tối tăm. Vì thế mà muối có thể bị mất vị mặn, ánh sáng có thể bị che mờ. Vị mặn làm nên giá trị của muối; chiếu soi là vai trò chính của ánh sáng. Mất vị mặn, muối chẳng còn là muối; ánh sáng bị che phủ sẽ trở thành vô dụng. Đời sống Kitô hữu mà không còn khả năng ướp mặn cuộc đời hay không còn khả năng chiếu soi nhân loại sẽ trở thành hư vô trống rỗng.
Đức Kitô là ánh sáng trần gian. Người đến để soi chiếu nhân loại. Hôm nay Người vẫn hiện diện để tiếp tục soi sáng cho những người đang đi trong tối tăm trên đường lữ hành trần thế. Giáo huấn của Người vẫn là muối ướp cho đời, đem cho cuộc sống này vẻ đẹp và sức sống thần linh. Chúa Giêsu đã đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc bằng cái chết trên thập giá. Điều đó cho thấy, việc thiện chí đem lại niềm vui cho tha nhân bao giờ cũng đòi hỏi sự hy sinh. Có những hy sinh âm thầm, nhưng cũng có những hy sinh đòi hỏi người tín hữu phải cố gắng đến mức anh hùng. Thánh Phaolô đã trải qua kinh nghiệm quý báu này, và ngài quả quyết với chúng ta: “Quả thật, tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh” (Bài đọc II). Một khi sống tinh thần hy sinh của Đức Giêsu, chúng ta sẽ nên giống Người. Khi chịu treo trên thập giá, Chúa Giêsu đã thực hiện điều Người đã quả quyết: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. (Ga 15,13).
Xin cho chúng ta biết nhân rộng lòng bác ái qua cách sống hằng ngày, để trở nên muối và ánh sáng trong một xã hội rất cần đến những chứng nhân của tình thương Thiên Chúa. Amen.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong những dịp cuối năm, các bản tổng kết tình hình đều đánh giá cao những đóng góp của Giáo hội đặc biệt trong lãnh vực giữ gìn đạo đức xã hội. Nơi nào có đồng bào Công giáo sinh sống, tệ nạn xã hội không có hoặc có rất ít. Nghe những nhận định trên, tôi rất vui vì thấy anh chị em tín hữu đang sống đúng tinh thần trở thành muối cho đời như lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Khi nói đến muối Chúa Giêsu có ý dạy các môn đệ về cách thế hiện diện trong xã hội.
Đó là một hiẹn diện khiêm nhường
Hạt muối thật bé nhỏ. Chẳng ai chú ý tới sự hiện diện của nó. Bên cạnh thịt, cá, rau cỏ, muối chỉ đóng vai phụ. Người ta trưng bày những món ăn đắt tiền. Người ta giới thiệu những món ăn cầu kỳ. Không thấy ai trưng bày muối. Chẳng có ai giới thiệu muối trong bữa tiệc lớn. Xét về giá trị kinh tế, muối chẳng đáng giá bao nhiêu. Đó là một hiện diện quên mình.
Muối có đó nhưng không ai thấy muối. Không chỉ vì muối bé nhỏ khiêm nhường mà vì muối phải tan biến đi. Phải tan biến đi muối mới có tác dụng. Muối ướp vào thịt cá mà không tan đi thì không thấm được vào thớ thịt, thớ cá, không giữ cho thịt tươi cá tốt được. Muối gia giảm vào cá kho, thịt rim, nước canh mà không tan đi thì khi ăn phải, người ta sẽ nhăn mặt bỏ đi. Chỉ khi tan biến đi, hoà tan vào thịt, cá, rau cỏ, muối mới có ích lợi. Muối phải hiện diện nhưng lại phải tiêu huỷ đi thì mới có ích.
Đó là một hiện diện tích cực.
Tuy bé nhỏ khiêm nhường và vắng mặt, nhưng hiện diện của muối là một hiện diện tích cực. Tích cực vì góp phần bảo trì thực phẩm khỏi hư thối, vì nâng phẩm chất món ăn. Tích cực vì là một thành phần hầu như không thể thiếu trong các món ăn. Tuy không thấy và không nói ra, nhưng ai cũng ngầm hiểu trong mỗi món ăn đều có muối.
Khi dùng muối làm hình ảnh minh hoạ, chắc chắn Chúa Giêsu cũng muốn cho các môn đệ của Người có những đặc tính của muối.
Người muốn các môn đệ của Người sống giữa nhân loại như muối ở trong thức ăn. Người muốn các môn đệ của Người hiện diện thật kiêm nhường như những hạt muối bé nhỏ. Người muốn các môn đệ của Người hiến thân mình cho nhân loại như những hạt muối hòa tan trong thực phẩm.
Nhưng để sự hiện diện bé nhỏ khiêm nhường mang yếu tố tích cực, các môn đệ phải giữ được vị mặn của muối.
Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng, là tình yêu tha nhân mặn mà, là sống tinh thần Tám Mối Phúc như Chúa dạy trong bài Tin Mừng tuần trước.
Giữ được vị mặn của Phúc Âm và hiện diện âm thầm trong phục vụ quên mình, người môn đệ Chúa sẽ thực sự góp phần bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Dù không muốn, họ vẫn trở thành ánh sáng soi trần gian.
Lạy Chúa, Chúa tin tưởng con, nên đã gọi con là muối trần gian. Xin cho lòng con yêu mến Chúa tha thiết, để đem cho đời hương vị tình yêu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn nghĩ gì về hình ảnh hạt muối?
2- Làm muối, dễ hay khó?
3- Bạn đã bao giờ cảm thấy niềm vui được chìm đi để anh em được nổi nang chưa?
.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Có ai đó nói rằng: “Đâu ai nghèo đến nỗi không có tấm lòng dành cho nhau”. Có thể ta nghèo tiền, nghèo của nhưng xin đừng bao giờ nghèo tình yêu đến nỗi đóng cửa lòng trước nỗi khổ hay sự bất hạnh của tha nhân.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết “Sống trên đời cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi…”. Gió sẽ cuốn tấm lòng đầy ắp tình yêu thương để gieo vào khắp muôn nơi, để đi đến mọi ngõ ngách cuộc đời, để mang lại hạnh phúc cho những mảnh đời bất hạnh khổ đau.
Con người là họa ảnh Thiên Chúa. Con người cũng phải có tấm lòng biết yêu thương như Thiên Chúa. Tình yêu là lẽ sống của con người. Sống thiếu tình yêu con người tự đánh mất căn tính của mình. Sống thiếu tình yêu thì đâu còn giá trị của một con người là phải sống có ích cho tha nhân.
Có một dụ ngôn kể rằng: Khi những chú cá được sinh ra trên đời, chú thường hỏi mẹ chú rằng: “Nước là gì hả mẹ? Sao con không biết nước là gì cả?”. Mẹ chú không biết giải thích cho chú thế nào, đành nhờ sóng hất chú lên bờ. Khi nằm giãy giụa trên bờ chú cá nhỏ mới hiểu thế nào là nước, nước chính là sự sống của chú, điều tưởng chừng bình thường nhất đó, lại có ảnh hưởng đến sự sống của chính mình.
Đôi khi con người cũng cần phải gặp những bất trắc, những thất bại mới cảm thấy cần tấm lòng chia sẻ, yêu thương của ai đó. Lúc đó con người mới thấy cần lắm một tấm lòng để giúp mình vượt qua khó khăn. Cần lắm một bàn tay nâng đỡ xoa dịu nỗi đau cho mình. Cần lắm một lời an ủi, khích lệ để đứng dạy sau những lần vấp ngã.
Nếu biết mình rất cần một tấm lòng để khích lệ, nâng đỡ mình thì hãy trân trọng tình cảm của những người đang sống bên cạnh chúng ta. Đồng thời, cũng phải để tấm lòng mình cho gió cuốn đi đến với mọi phận người. Hãy để tình yêu cho gió mang tới cho những mảnh đời bất hạnh khổ đau.
Lời Chúa hôm nay, mời gọi người kytô hữu hãy sống cuộc đời hữu ích như những hạt muối hay ngọn đèn sáng cho trần gian. Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn, nhưng muối làm cho người mẹ nội trợ thêm rạng rỡ niềm vui, cho bữa cơm gia đình thơm ngon đậm đà. Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, cho con người nhận ra nhau, cho quan hệ giữa người với người thêm trong sáng chân thành.
Nhưng thân phận cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới thực sự có ích cho đời: muối tan dần đi, ngọn nến phải chịu tiêu hao. Lý do tồn tại của cả hai là để trở nên hữu ích cho đời. Nếu muối không mặn và đèn không sáng thì đâu có ích chi. Tất cả sẽ vô dụng chỉ nên vất ra đường phố cho người ta chà đạp và khinh bỉ.
Dù là muối hay ánh sáng thì con người cũng phải biết hy sinh, biết quên đi cái tôi của mình để đem tình yêu làm ấm lòng người và thắp sáng niềm tin yêu và hy vọng cho những con người đang chìm ngập trong bể khổ, trong thất bại khổ đau.
Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì hèn nhát, ngọn đèn của chúng ta lu mờ dần đi và có khi tắt ngấm. Vì thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ nên những ai tiếp xúc với chúng ta đều cảm thấy mặn chát, khô cằn thiếu sức sống mặn nồng. Xin Chúa giúp chúng ta dám hy sinh và từ bỏ mình mỗi ngày để trở nên ánh sáng và muối men cho đời. Amen.
.
NGƯỜI KITÔ HỮU LÀ MUỐI ĐẤT VÀ LÀ SỰ SÁNG THẾ GIAN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi công bố Tám Mối Phúc, Chúa Giêsu phán tiếp những lời hằng sống, mở ra cho chúng ta chân trời hạnh phúc dẫn đến sự sống đời đời. Như thế, cách nào đó, Người mời gọi chúng chọn lựa cách sống, nói “vâng” sống theo Người.
Quả thật, những lời Chúa Giêsu chứa đựng căn tính Kitô giáo của chúng ta : “Các con là muối đất… Các con là sự sáng thế gian” (x. Mt 5, 13-14). Điều đáng nói ở đây là Chúa Giêsu không chỉ nói các môn đệ đơn giản là “ muối” và là “ánh sáng” nhưng là “muối” “ đất” và là “sự sáng” “thế gian”.
Tại sao lại là muối đất ?
Muối theo nền văn hóa Trung Đông gợi lên nhiều giá trị như giao ước, tình liên đới, sự sống và sự khôn ngoan. Trong Cựu ước, muối tượng trưng cho sự trung thành của Thiên Chúa. Bởi Thiên Chúa đã ký kết với dân người một khế ước bằng muối : “Ðó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Ðức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18,19). Trong Tân ước, Chúa Giêsu nói : “ Các con là muối đất ” (Mt 5, 13).
Muối là một trong những vị cần thiết nhất cho con người. Muối còn có nhiều công dụng như dùng để tra vào đồ ăn để món ăn thêm hương vị mặn mà, ướp đồ ăn tránh khỏi hư.
Qua các hình ảnh giầu ý nghĩa này, Chúa Giêsu muốn thông truyền cho các môn đệ mình và cả chúng ta ngày hôm nay nữa ý nghĩa sứ mệnh và chứng tá của Tin Mừng. Thêm hương vị, là thêm sức sống ơn thánh. Ướp đồ ăn cho khỏi hư, nghĩa là bảo vệ chân lý hằng sống.
Sao lại là sự sáng thế gian ?
Khi Chúa Giêsu nói : “Các con là sự sáng thế gian” (Mt 5,14). Chúng ta biết rằng ánh sáng là công trình đầu tiên của Thiên Chúa Sáng Tạo và là nguồn mạch sự sống. Chính Lời của Thiên Chúa cũng được so sánh với ánh sáng, như tác giả Thánh Vịnh công bố: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho đi” (Tv 119.105). Cũng trong phụng vụ hôm nay ngôn sứ Isaia nói: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông” (Is 58,10).
Sự khôn ngoan tóm gọn nơi mình các hiệu quả ích lợi của muối và ánh sáng : thật thế, các môn đệ Chúa được mời gọi trao ban hương vị mới cho thế giới và giữ gìn nó khỏi hư thối, với sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏa sáng rạng ngời trên gương mặt Chúa Con, vì “Ngài là ánh sáng thật chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
Là muối đất và là sự sáng thế gian
“Các con là sự sáng thế gian”, những lời này chứa đựng sứ mạng được sai đi. Hành động và con người của các kitô hữu liên kết chặt chẽ với nhau, chứng tỏ rằng nhiệm vụ của “muối” và “ánh sáng”cho trần gian là của riêng chúng ta và không ai làm thay chúng ta. Vì thế, chúng ta phải chịu trách nhiệm và những gì chúng ta là Kitô hữu.
Trở lại với hình ảnh của muối. Hỏi rằng, có thức ăn nào của con người mà không có sự hiện diện của Chúa Kitô trong các bí tích, Lời Người và hành động yêu thương nhân hậu của Chúa Thánh Thần ? Nên chúng ta phải duy trì nhận thức về sự hiện diện của Chúa Cứu Thế ở giữa loài người, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể, tưởng niệm cái chết và sự phục sinh vinh quang, loan báo quyền năng cứu độ tiềm ẩn trong Tin Mừng của Chúa. Hiệp nhất với Người, các kitô hữu có thể chiếu sáng giữa các bóng tối của sự thờ ơ và ích kỷ ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, sự khôn ngoan thật trao ban ý nghĩa cho cuộc sống và hành động của con người.
Muối là hương vị giữ thức ăn. Người kitô hữu được kêu gọi cải thiện cái “hương vị” lịch sử loài người. Đó là thực hành trong cuộc sống ba nhân đức đối thần đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Điều đến từ Thiên Chúa luôn làm cho con người trở nên người hơn, hơn bao giờ hết là hình ảnh Chúa và giống Thiên Chúa. Nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, chúng ta được mời gọi chiếu sáng và thể hiện lòng nhân giữa một thế giới sống trong đêm đen của thử thách, của tuyệt vọng và thờ ơ . Bài đọc I nhắc nhở chúng ta rằng : “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày” (x. Is 58,7-10).
Do đó, mối liên kết giữa “muối” và “ánh sáng” được thể hiện. Lời Chúa Giêsu gửi đến mỗi chúng ta là hãy tỏa sáng “ánh sáng” trước mặt mọi người, nghĩa là toàn bộ đời sống ta phải phản ánh ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội : “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” ( x. 2 Cor 1, 22). Ngọn lửa này tỏa sáng qua việc loan báo Tin Mừng với lòng từ tâm, Tin Mừng cứu độ cho hết mọi người trong Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại.
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêdictô XVI nhắc lại rằng “Quả thật, lời rao giảng và chứng tá cho Tin Mừng là công việc phục vụ đầu tiên mà những người kitô có thể cống hiến cho mọi người cũng như cho toàn thể nhân loại, xét vì những người kitô là những kẻ được mời gọi thông truyền cho tất cả mọi người tình yêu của Thiên Chúa Cha, được biểu lộ trọn đầy nơi Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Thế Duy Nhất của thế giới”. (Diễn văn tại Ðại Học Truyền Giáo Roma 11/3/ 2006 nhân dịp kỷ niệm bốn mươi của Nghị định “Ad gentes” của Công Đồng Vatican II).
Việc phục vụ loan báo Tin Mừng được thực hiện trong “Đức ái”, không dựa vào những lời quyến rũ khôn ngoan của loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và “quyền năng Chúa Thánh Thần” (x. Bài đọc II).
Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con làm thế nào để tuyên xưng đức tin của chúng con, xin biến chúng con trở nên những người của Tám Mối Phúc Thật là muối đất và ánh sáng thế gian.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thi sĩ Xuân Ly Băng (Đức Ông JB Lê Xuân Hoa) viết bài thơ “Đừng thích làm mặt trời”. Lời thơ thật nhẹ nhàng mà sâu lắng. Nhiều hình ảnh so sánh rất gần gũi thân thương của đời thường.
Khoan mộng làm mặt trời.
Đừng mơ làm sao sáng.
Hãy cố gắng con ơi.
Làm những điều nhỏ mọn
Chỉ vì mến Chúa thôi.
Tặng người con không thích
Một nụ cười thế thôi.
Đôi mắt nhìn trìu mến
Để chia sẻ tâm tình
Với một người đau khổ.
Viếng thăm và giúp đỡ
Người bệnh tật già nua.
Đừng ngại nắng ngại mưa.
Thấy Chúa trong người họ
Không mắng la nạt nộ.
Đừng giận dữ một ai.
Chút mật bắt nhiều rồi
Hơn giấm chua từng hũ.
Hiền lành và tha thứ
Biết rộng rãi khoan dưng.
Theo Chúa ở khiêm nhường
Và sẵn sàng phục vụ.
Việc làm tuy bé nhỏ
Giá trị thật vô cùng
Làm mặt trời đừng mong.
Cũng đừng mơ làm sao sáng…
Đọc thơ, tôi liên tưởng đến hình ảnh Muối và Ánh Sáng của Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Khoan mộng làm mặt trời.
Đừng mơ làm sao sáng.
Chỉ mong làm muối đất.
là ánh sáng Chúa thôi.
Hiến chương Nước trời được Chúa Giêsu công bố trong Tin mừng Chúa nhật vừa qua. Tiếp theo bài giảng trên núi, Chúa Giêsu xác định sứ mạng của các môn đệ: “Anh em là muối cho đời… anh em là ánh sáng thế gian”.
- Anh em là muối cho đời, một định nghĩa tuyệt vời về Kitô hữu.
Sử gia Pliny viết: “Không gì bằng hữu dụng bằng muối và ánh sáng“. Không có ánh sáng, cỏ cây sẽ úa tàn. Không có muối, sơn hào hải vị cũng sẽ ra nhạt phèo. Chúa Giêsu ví các môn đệ của Ngài như muối đất và ánh sáng của trần gian. Đây là một vinh dự cho các môn đệ vì họ được mời gọi tham dự vào sứ mệnh làm muối đất, ánh sáng của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu Kitô chính là Ánh Sáng soi chiếu trần gian u mê (Mt 4,16; Pl 2,15; Ep 5,8). Ngài đến để giảng dạy cho thế gian biết đâu là hạnh phúc chân thật: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Chúa Giêsu đã chữa lành những kẻ bị tật nguyền, xoa dịu những tâm hồn đau khổ. Như muối đất, tình yêu của Ngài được biểu lộ qua những nghĩa cử bác ái và cái chết, đã làm cho trần gian tẻ nhạt và khổ đau thêm mặn mà, ý vị.
“Muối đất“. Muối được dùng để khử trùng, gìn giữ thức ăn và để nêm vào các món ăn cho thêm hương vị mặn mà. Nếm một món ăn thiếu muối sẽ thấy nhạt nhẽo. Nhưng chỉ cần thêm vài hạt muối, món ăn trở nên đậm đà và dễ ăn. Người bị bệnh cao huyết áp phải ăn lạt nên thường mất ngon khi ăn. Người Việt thường dùng nước mắm để nêm các món ăn, nhưng vẫn phải thêm muối, món ăn mới hấp dẫn.
Vào thời Chúa Giêsu, muối tượng trưng cho tính hiếu khách. Khách đến nhà thường được tặng bánh mì và muối, biểu hiệu sự tiếp đón nồng hậu.
Ngày xưa, khi chưa khám phá ra phân bón hóa học, người ta dùng muối để làm đất đai thêm phì phiêu. Khi chưa có tủ lạnh, muối còn được dùng để ướp cá, thịt và thức ăn, cất giữ được lâu ngày hơn. Chúa Giêsu sai các môn đệ đến trong thế gian như người ta nêm muối vào thức ăn để thêm hương vị và giữ được lâu. Vị mặn của muối là yếu tố quan trọng. Mặn thuộc về bản chất của muối.Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng. Vị mặn là tình yêu tha nhân mặn mà. Yêu Chúa mặn nồng, yêu tha nhân mặn mà, đời sống Kitô hữu sẽ ướp hương vị tình yêu mặn mòi cho cuộc đời.
- Anh em là ánh sáng cho trần gian, một định nghĩa quá cao trọng về Kitô hữu.
Chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga1,5), chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga 8,12). “Anh em là ánh sáng” vì anh em gần Thầy “gần đèn thì sáng”.
“Ánh sáng thế gian“. Một hình ảnh rất quen thuộc với người Việt đó là đèn dầu. Một căn nhà có đèn sáng báo hiệu đang có người ở, có sự sống. Một người đi lạc trong đêm tối hẳn sẽ rất sung sướng khi thấy có ánh đèn. Ánh đèn đem lại niềm vui và thu hút mọi người.“Các con là ánh sáng thế gian”, đây là lời mời gọi truyền giáo, qua đời sống, qua lời nói và hành động, Kitô hữu được mời gọi làm ánh sáng hy vọng cho những ai đang lần bước trong bóng tối tuyệt vọng, dẫn dắt họ đến với Chúa. Trong bóng đêm mịt mùng, một ánh lửa nhỏ cũng có thể được nhìn thấy từ xa.
Chúa Giêsu không nói: các con hãy cố gắng làm muối đất và trở nên ánh sáng cho thế gian nhưng lại nói: “Các con là muối đất và là ánh sáng thế gian”, bởi vì các con là môn đệ của Thầy, vì các con đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.
“Các con là sự sáng thế gian“, sự sáng này không phải do chúng ta tạo nên, nhưng phát xuất từ Chúa Kitô: “Ta là sự sáng thế gian” (Ga 8,12). Chúa Giêsu muốn chúng ta như tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài, cho mọi người và cho mọi nơi. Do đó, ánh sáng được chiếu tỏa không phải cho chúng ta được vinh danh, nhưng cho vinh quang của Chúa: “Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời“.
Muối đất, sự sáng thế gian: hai hình ảnh cùng diễn tả một lời mời gọi. Tiên tri Isaia, trong Bài đọc 1 đưa ra những phương cách để giữ muối khỏi “lạt” và ngọn đèn luôn chiếu sáng. Đó là sống bác ái, chia cơm sẻ bánh cho người nghèo đói, tiếp đón những kẻ bất hạnh vô gia cư, cho quần áo những người không đủ mặc… Khi ấy, “ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày“.
Có lẽ nhiều người sẽ tự nhủ: làm sao mình có khả năng và xứng đáng làm muối đất và sự sáng cho mọi người? Nắm muối gồm những hạt muối nhỏ dồn lại, đèn sáng được nhờ những giọt dầu góp lại. Những hạt muối nhỏ đó, những giọt dầu đó là những việc bé nhỏ mà chúng ta thực hiện trong đời sống hằng ngày: những nụ cười, lời nói lịch thiệp, những cử chỉ bác ái khiêm nhường, thái độ biết lắng nghe, sống tha thứ biết nghĩ đến người khác…
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến chứng từ muối đất và ánh sáng trần gian của Kitô hữu. Nếu chúng ta thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương thì chính đời sống, việc làm, việc bác ái sẽ mang lại hương vị cuộc đời, hương thơm cho mọi người, chiếu tỏa ánh sáng giúp nhiều người đến với Chúa là “nguồn ánh sáng và ơn cứu độ ” (Tv 2,1). Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu để rồi chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình bác ái. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là muối thêm hương vị đức ái cho đời, là những ánh sáng đức tin soi đường truyền giáo.
.
Trầm Thiên Thu
Ướp là ủ vật nọ lên vật kia cho thấm vào nhau, gồm hai yếu tố: chất ướp (chủ động) và chất được ướp (thụ động). Có nhiều dạng ướp: ướp hương liệu, ướp gia vị, ướp muối, ướp đường, ướp lạnh,… ướp thịt, ướp xác,… Sau khi ướp, các thứ hòa quyện vào nhau, không thể tách rời, giống như một dạng “nhuộm” để nên giống nhau.
Về tâm linh, Thiên Chúa muốn các Kitô hữu phải là “chất ướp”, chủ động đối với thế gian, trở nên “gia vị tâm linh” để thấm vào cuộc sống.
Thiên Chúa đặt vấn đề với chúng ta rất rõ ràng và thực tế: “Chẳng phải là CHIA CƠM cho người đói, RƯỚC VÀO NHÀ những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì CHO ÁO che thân, KHÔNG NGOẢNH MẶT LÀM NGƠ trước người anh em cốt nhục?” (Is 58:7). Bốn “điểm” cụ thể, không hề mơ hồ.
Đó là cách thức mà Thiên Chúa muốn chúng ta “ướp” cuộc đời này. Đó cũng chính là “men” yêu thương, “men” xót thương mà Thiên Chúa muốn chúng ta tận dụng suốt đời. Có thực sự hữu hiệu chăng? Chắc chắn là kết quả rất cụ thể và kỳ diệu: “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi” (Is 58:8). Có Thiên Chúa bao bọc mọi chiều thì an toàn tuyệt đối: “Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:5), Ngài là Mục Tử nhân lành, có Ngài thì chúng ta “chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23:1).
Thiên Chúa biết chúng ta yếu đuối và đa nghi, thế nên Ngài đã hứa: “Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!’. Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ” (Is 58:9-10). Ai tin tưởng mà cứ sống theo Thánh Luật của Ngài thì chắc chắn sẽ được Ngài gìn giữ, không chỉ không phải thất vọng mà còn được nhiều hơn cả sự mong ước, đồng thời còn trở nên ánh sáng chiếu soi người khác.
Đề cập loại ánh sáng “đặc biệt”, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Giữa tối tăm bừng lên một ánh sáng chiếu rọi kẻ ngay lành: đó là người từ bi nhân hậu và công chính” (Tv 112:4). Người nào có loại ánh sáng đó sẽ là người diễm phúc. Có cái phúc này sẽ có cái phúc khác, đúng như Chúa Giêsu đã nói rằng “ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa” (Mt 25:29). Tác giả Thánh Vịnh nói: “Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn, biết theo lẽ phải mà thu xếp công việc mình. Họ sẽ không bao giờ lay chuyển, thiên hạ muôn đời còn tưởng nhớ chính nhân” (Tv 112:5-6).
Người có lương tâm ngay chính thì không có gì lo sợ, tất cả đều do Thiên Chúa quan phòng và tiền định, thế nên họ an tâm tín thác: “Họ không lo phải nghe tin dữ, hằng an tâm và tin cậy Chúa, luôn vững lòng không sợ hãi chi và rốt cuộc coi khinh lũ địch thù. Kẻ túng nghèo, họ rộng tay làm phúc, đức công chính của họ tồn tại muôn đời, uy thế họ vươn cao rực rỡ” (Tv 112:7-9).
Cuộc sống luôn phức tạp, biết vậy không phải để “rối trí”, mà có muốn gỡ cũng không dễ gì, do đó mà cần nhận biết mình bất lực. Càng nhận biết mình bất lực thì càng tăng lòng tín thác vào Thiên Chúa. Chúng ta có làm được gì là nhờ Thiên Chúa, chứ tự sức chúng ta không thể làm gì cả. Thánh Phaolô bộc bạch: “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 2:1-2). Ước gì mỗi chúng ta cũng chỉ cầu mong như vậy!
Thiên Chúa toàn năng, Ngài biến không thành có, biến có thành không. Một Saun (Saolê) hung hãn bất ngờ trở thành một Phaolô hiền lành. Thật vậy, ông dẫn chứng cụ thể về trường hợp của mình: “Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng của Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (1 Cr 2:3-5).
Đức tin quan trọng trong cả đời sống thường nhật và tâm linh. Thánh tiến sĩ Thomas Aquinas nói: “Có ba điều cần để con người được cứu độ: biết mình TIN gì, biết mình MUỐN gì, và biết mình LÀM gì”. Ba động từ đó như chiếc kiềng ba chân giúp cân bằng đời sống, nhờ đó chúng ta có thể quy hướng về Thiên Chúa, Đấng duy nhất là cứu cánh và cùng đích của nhân loại.
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Mt 5:13-16 (tương đương Mc 9:50 và Lc 14:34-35), Chúa Giêsu vừa khuyến cáo vừa truyền lệnh cho những ai theo Ngài là “phải trở nên MUỐI ướp đời và ÁNH SÁNG chiếu soi trần gian”.
Chúa Giêsu xác định và phân tích: “Chính anh em là MUỐI cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng thì chỉ còn việc QUĂNG ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ÁNH SÁNG cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà”.
Cách nói của Chúa Giêsu luôn cụ thể, rạch ròi, đơn giản để ai cũng có thể hiểu rõ ràng và đúng đắn. Cái gì thẳng thắn thì thường chói tai, nghe chói tai thì dễ tự ái, tự ái thì dễ tức giận. Nếu vậy thì bất lợi cho chính mình mà thôi. Thật vậy, “biết đúng mà không theo là DẠI, biết sai mà không sửa là MÊ” (Dục Tử).
Cuối cùng, Chúa Giêsu kết luận: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em PHẢI chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Mệnh lệnh của Ngài rõ ràng, dứt khoát. Là mệnh lệnh thì không thể không thi hành.
Thi hành mệnh lệnh vì miễn cưỡng thì không có công trạng, thi hành mệnh lệnh vì yêu mến thì có phúc. Thiên Chúa không ép buộc ai, mà Ngài cho chúng ta hoàn toàn tự do.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết ướp chính mình và ướp đời bằng chính loại muối của con, có thể muối con không mặn bằng các loại muối khác, nhưng con cố gắng ướp bằng chính chất của con; xin giúp con cũng biết tỏa sáng bằng chính loại ánh sáng của con, dù đèn con là loại đèn nhỏ và nến nhỏ mà thôi. Xin Ngài thêm chất mạn và chất sáng cho con để con có thể tôn vinh Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Nêu gương sống tốt giữa đời,
Ví như muối mặn, ướp người trần gian.
Cuộc đời ô nhiễm lạm càn,
Tanh mùi thế tục, tràn lan bụi trần.
Óan ghen thù ghét người thân,
Lọc lừa gian ác, nợ nần xấu xa.
Trái tim thiếu chất vị tha,
Không còn bén nhậy, thiết tha tình người.
Rất cần vị mặn ướp đời,
Cải tâm sửa tính, gọi mời canh tân.
Tông đồ làm chứng thế nhân,
Ướp cho mặn lại, tinh thần yêu thương.
Con là ánh sáng tựa nương,
Soi lòng mở trí, dẫn đường thoát nguy.
Chứng ngôn chân lý tư duy,
Theo đường chính trực, phát huy cuộc đời.
Muối men ánh sáng rạng khơi,
Thực hành sống đạo, tuyệt vời phúc ân.
Yêu thương nối kết góp phần,
Vui thay hạnh phúc, thế nhân mong chờ.
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Các con là muối đất và là ánh sáng thế gian. Muối và ánh sáng là hai hình ảnh sống động và thực tế trong cuộc sống.
Ngày xưa, muối là món rất qúi được dùng để trả lương cho người làm công hay lương cho người lính tại Rôma. Chữ salary (tiền lương) bởi chữ salt (muối). Ánh sáng giúp chúng ta nhìn biết môi trường sống chung quanh. Chúa Giêsu só sánh đời sống của các môn đệ như là ánh sáng. Ánh sáng cần được đặt trên giá đề soi sáng cho mọi người. Ánh sáng soi đường và đẩy lui đêm tối.
Trước khi có tủ lạnh, người ta dùng muối để ướp thức ăn cho khỏi hư thối. Muối có vị mặn giúp ta pha chế vào thức ăn cho ngon miệng. Muối cũng giúp cho cơ thể tránh bị phù thũng. Muối tự nó không giúp ích, nhưng cần được pha chế, hòa tan và ngấm dần trong các chất khác. Muối sẽ có giá trị lớn lao.
Chúa Giêsu nói rằng nếu muối mất vị mặn, muối đó không còn được sử dụng vào việc chi nữa. Các con là muối đất nghĩa là các con như chất xúc tác được trộn lẫn, hòa nhập vào trong hoàn cảnh của cuộc sống và môi trường chung quanh để ướp mặn đời. Muối sẽ đem lại ý nghĩa cho cuộc đời của người tông đồ. Hiện diện nơi trần gian, chúng ta có bổn phận ướp gian trần khỏi hư thối.
Hình ảnh cuộc đời người Kitô Hữu mang danh hiệu là muối đất. Muối của người Kitô hữu sống giữa một xã hội đang bị tha hóa bởi nhũng tệ đoan. Muối đất cần vị mặn nhiệt thành để thanh tẩy và đem lại cho xã hội cuộc sống thêm đậm đà hương vị thánh. Một lời nói, một hành động, một cử chỉ bác ái đó chính là vị mặn. Một chút muối đức tin, đức cậy và đức mến sẽ mang lại cho những người chung quanh niềm vui và hy vọng.
Là ánh sáng thế gian, chúng ta phải chiếu sáng trong tối tăm. Chúng ta hãy giới thiệu Chúa cho người xung quanh qua cách sống đạo của chúng ta. Trước hết những người gần gũi trong gia đình thân thuộc, rồi hướng tới những người chung quanh. Xin Chúa cho chúng ta luôn là muối mặn và là ánh sáng hiện diện trong đời để làm tăng thêm ý nghĩa và giá trị cho cuộc đời.
.
Lm Trịnh Ngọc Danh
Sau khi công bố Tám Mối Phúc Thật, Đức Giêsu đòi hỏi các môn và những người đi theo Ngài: “ Chính anh em là muối cho đời. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.”Hai hình ảnh muối và ánh sáng cũng là một, và cả đều nói lên vài trò của các môn đệ và của các Kitô hữu hôm nay là truyền bá lý tưởng chân lý mà Ngài đã truyền dạy. Khi nói: “ Chính anh em là muối cho đời. Chính anh em la ánh sáng cho thế gian”, Đức Giêsu không muốn nói lên một niềm mong ước phải làm; nhưng Ngài khẳng định với các môn đệ và những người đi theo Ngài phải trở nên muối cho đời và ánh sáng cho thế gian. Nhưng muối và ánh sáng phải như thế nào để ướp cho đời, để chiếu sáng cho trần gian?
Muối thì phải còn vị mặn; muối mà nhạt đi thì lấy gì làm cho nó mặn lại; nó đã trở thành vô dụng. Ánh sáng thì phải đặt trên cao để có thể chiếu sáng cho cả nhà; đèn thắp sáng mà đặt dưới đáy thùng thì chẳng chiếu sáng được bóng tối chung quanh; vì thế, muối phải còn vị mặn, ánh sáng phải tỏa sáng để xóa tan bóng tối, phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để cho họ thấy những công việc tốt đẹp của các môn đệ và của chúng ta làm để tôn vinh Chúa Cha, Đấng ngự trên trời.
Muối và ánh sáng mà Đức Giêsu muốn nói đến là những công việc tốt lành, đặc biệt là những công việc bác ái và yêu thương. Khi bảo chúng ta hãy để ánh sáng của chúng ta chiếu soi trước mặt mọi người, Ngài không bảo chúng ta quảng cáo, phô trương những việc tốt chúng ta làm; nhưng qua đó, chúng ta làm chứng cho thế gian về Thiên Chúa. Khi sống đạo mà phân cách đạo khỏi đời sống thì chẳng khác nào muối đã nhạt, ánh sáng đã bị che khuất. Sống và thực hành lý tưởng tôn giáo,người ta đem đến cho đời, cho tha nhân một chứng từ của niềm tin. Khi mối và ánh sáng trở nên chúng từ để tôn vin Thiên Chúa thì tự chúng đã trở thành một lời công bố Tin Mừng
Một ngày nọ, có một vị khách đến thăm ngôi nhà mà Mẹ Têrêsa dành cho người nghèo và người hấp hối ở Calcutta. Khi ông vừa tới thì các nữ tu đưa vào một vài người đang hấp hối từ ống cống về, mình dính đầy bụi đất và đang đau đớn. Một chị đang chăm sóc cho người sắp chết mà không để ý đến người đang quan sát mình. Chị tắm rửa và mỉm cười với người ấy.
Nhìn thấy thế, ông khách quay lại với Mẹ Têrêsa và nói: “ Hôm nay, khi đến đây, tôi đã không tin Thiên Chúa, vì lòng tôi đầy thù hận. Nhưng giờ đây, tôi ra về với lòng tin Thiên Chúa. Tôi đã thấy tình yêu của Thiên Chúa đang hoạt động. Qua đôi bàn tay của chị nữ tu kia, qua sự dịu dàng, qua cử chỉ đầy thương yêu của chị đối với người bất hạnh ấy, tôi đã nhìn thấy tình yêu của Thiên Chúa xuống trên người ấy. Bây giờ thì tôi tin.”
Sau khi truyền cho các môn đệ và những người đi theo phải trở thành muối cho đời và ánh sáng cho trần gian, Đúc Giêsu đã đưa ra một số công việc nhân đức mà những ai tin và theo Ngài phải làm là sống theo những gì Ngài truyền dạy, phải ăn ở theo đức công chính, không giận ghét, không trả thù, phải yêu kẻ thù, bố thí, cầu nuyện, ăn chay cách kín đáo…Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã cho biết cách ăn chay đẹp lòng Ngài nhất là“chia cơm cho người đói, rước vào nhà nhưng người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục. Bấy giờ ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi.”(xem Is 58:7-8) Đó là muối, là ánh sáng cho đời.
Thực thi những nhân đức ấy là thực hành Tám Mối Phúc Thật, là trở nên muối cho đời và ánh sáng cho trần gian. Đức Giêsu là muối cho đời, là ánh sáng thế gian, thì đến lượt các môn đệ và những ai tin và theo Ngài cũng phải là muối, là ánh sáng cho thế gian. Muối và ánh sáng là đức tin thể hiện qua hành động và cuộc sống.
.
JM. Lam Thy
Bài Tin Mừng hôm nay (CN V/TN-A – Mt 5, 13-16) tiếp tục trình thuật “BÀI GIẢNG TRÊN NÚI”: Sau khi công bố Tám Mối Phúc Thật (Mt 5, 1-12), bằng những lời lẽ rất đơn sơ và những hình ảnh rất dung dị, Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian…” Thử tìm hiểu xem vì sao Đức Ki-tô lại dạy như vậy:
Muối là một vật thể, muối hiện hữu không cho chính nó mà là để làm mặn các vật thể khác, để ướp cho thực phẩm được tươi lâu, hoặc làm cho đồ ăn nấu nướng thêm đậm đà (nước mắm, nước tương đều rất cần muối). Ngoài tác dụng với thực phẩm, ngày xưa người ta thường dùng muối trộn với phân ủ, đem bón cho những nơi đồng ruộng bạc màu (đất không còn màu mỡ, trồng lúa, trồng cây không thể tươi tốt, sinh nhiều hoa trái), vì thế nên mới gọi là muối đất. Ngay trong những thứ phân hoá học ngày nay, cũng phải có muối. Không những thế, muối còn được dùng để trị bệnh: muối sát trùng (đắp vào chỗ trặc gân, bong gân), hoặc để giúp tiêu hóa, để lưu giữ và chuyển tải i-ốt, ngăn ngừa bệnh tật. Đọc trong Cựu Ước thấy tác dụng của muối cũng rất đa dạng và tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Có thể kể:
1- Muối mang ý nghĩa trừng phạt: “Khi mặt trời mọc lên trên mặt đất thì ông Lót vào Xô-a. ĐỨC CHÚA làm mưa diêm sinh và lửa từ ĐỨC CHÚA, từ trời, xuống Xơ-đôm và Gô-mô-ra. Người phá đổ các thành ấy và cả Vùng, cùng với toàn thể dân cư các thành ấy và cây cỏ trên đất. Bà vợ ông Lót ngoái lại đằng sau và hoá thành cột muối.” (St 19, 23-26). “Suốt ngày hôm ấy A-vi-me-léc tấn công thành. Ông đã chiếm được thành và tàn sát tất cả dân cư, rồi triệt hạ và rắc muối lên thành.” (Tl 9, 45); “mưa đá huỷ vườn nho, sương muối diệt cây vả.” (Tv 78, 47). “Gia nghiệp Chúa dành cho chư dân là cơn giận của Người, như xưa Người biến nước thành muối mặn.” (Hc 39, 23). “Cả miền đất chỉ là diêm sinh, muối và lửa, không ai gieo vãi, không chi nảy chồi, không cọng cỏ nào mọc lên, giống như cảnh tàn phá ở Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim, những thành mà ĐỨC CHÚA đã phá đổ trong cơn thịnh nộ và lôi đình của Người.” (Đnl 29, 22).
2- Muối tượng trưng sự trung tín trong giao ước: “Tất cả các phần trích dâng trong các của lễ thánh mà con cái Ít-ra-en dâng ĐỨC CHÚA, Ta đều ban cho ngươi cũng như cho con trai con gái ngươi, chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. Đó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan ĐỨC CHÚA, cho ngươi và dòng dõi ngươi.” (Ds 18, 19). “(Các) ngươi phải bỏ muối vào mọi lễ phẩm (các) ngươi dâng tiến; (các) ngươi không được để lễ phẩm (các) ngươi thiếu muối của giao ước của Thiên Chúa (các) ngươi; (các) ngươi phải dâng muối cùng với mọi lễ tiến của (các) ngươi.” (Lv 2, 13). “Hỏi có ai ăn nhạt mà không cần muối? Liệu nước rau sam có được chút hương vị nào chăng?” (G 6, 6). “Người trong thành nói với ông Ê-li-sa: “Như ngài thấy đó, địa thế của thành thì tốt, nhưng nước thì độc và xứ sở bị nạn vô sinh.” Ông Ê-li-sa bảo: “Lấy cho tôi một cái tô mới và bỏ muối vào đó.” Họ đi lấy cho ông. Ông đi ra suối nước, đổ muối xuống và nói: “ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta làm cho nước hoá lành, và nước này sẽ không còn gây chết chóc và nạn vô sinh nữa.” Và nước hoá lành cho đến ngày nay, theo lời ông Ê-li-sa đã nói.” (2V 2, 19-22)
3- Muối là dấu chỉ việc thánh hiến: “Ngươi hãy lấy các thứ hương chất: tô hợp hương, hương loa, phong tử hương, các hương chất và nhũ hương nguyên chất; số lượng mỗi thứ sẽ đồng đều. Ngươi sẽ lấy các thứ hương chất đó chế thành hương để đốt: hợp chất các hương này sẽ là sản phẩm của thợ làm hương; hương đó sẽ là hương pha muối, nguyên chất, và là hương thánh. Đối với các ngươi, đó sẽ là một vật rất thánh. Các ngươi sẽ không được chế hương theo kiểu ấy mà dùng: đối với ngươi, đó sẽ là một vật thánh, dành riêng cho ĐỨC CHÚA.” (Xh 30, 34-37). “Ông đi ra suối nước, đổ muối xuống và nói: “ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta làm cho nước hoá lành, và nước này sẽ không còn gây chết chóc và nạn vô sinh nữa.” (2V 2, 21).
Cũng theo ý nghĩa đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en nói đến việc xát muối cho trẻ sơ sinh Do-thái là một nghi thức nhằm nói lên đứa trẻ được Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc (Ed 16, 4). Trong nghi thức làm phép nước thánh của Giáo Hội cũng có việc linh mục bỏ muối vào nước. Vị linh mục đọc lời nguyện: “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin đoái thương nhận lời chúng con cầu khẩn mà thánh hóa muối này do chính Chúa dựng nên. Xưa kia Chúa đã truyền cho ngôn sứ Ê-li-a bỏ muối vào nước, để nước nên trong lành. Giờ đây, khi chúng con rảy nước đã pha muối nơi nào, xin Chúa xua đuổi ma quỷ ra khỏi nơi ấy, và sai Thánh Thần đến ngự trị, để Người gìn giữ chúng con luôn mãi.” (Sách Lễ Rô-ma, trang 1053).
Bản chất muối là vị mặn, nên muối không cần làm mặn cho mình, mà chỉ có thể làm mặn cho các vật thể khác. Như vậy, bản tính của muối là chia sẻ những gì mình có để làm cho các vật thể khác được mặn mà, tươi thắm, tốt đẹp hơn. Cũng vậy, ánh sáng tự thân không là một vật thể mà chỉ là sự chiếu toả từ một vật thể bị đốt cháy hoặc bị tác động bởi một va chạm đối kháng nguyên tử, phân tử, và từ đó, ánh sáng phát sinh. Như vậy, ánh sáng cũng không chiếu toả cho chính nó, mà là soi tỏ cho các vật thể khác, cho môi trường. Nói cách khác, bản chất ánh sáng là chiếu toả, soi sáng, giúp cho môi trường, cho các vật thể khác (kể cả con người) thể hiện mình ra, nghĩa là được nhận thấy (hiện hữu). Như vậy bản tính ánh sáng – cũng như muối – là giúp cho, làm cho các vật thể khác trở nên sáng sủa, tốt đẹp hơn.
Ngoài ra, Đức Ki-tô còn dùng hình ảnh men trong bột (Mt 13, 33) để khuyên dạy các môn đệ. Cũng như muối và ánh sáng, men không hiện hữu cho chính nó, mà để giúp cho bột nở dậy men. Nói cách cụ thể, ở muối, men và ánh sáng, chỉ có CHO, không có NHẬN. mà nói đến cho và nhận là nói đến Tình Yêu. Chính vì thế, nên Đức Giê-su Ki-tô – Vua Tình Yêu – mong muốn các môn đệ của Người hãy trở nên như muối (với bản chất là làm cho đời thêm mặn mà trong Tình Yêu), như men (làm cho bột đời nở ra và thêm ý vị trong Tình Yêu), như ánh sáng (với bản chất là soi chiếu chân lý Tình Yêu cho trần gian đang ngụp lặn trong đêm đen tội lỗi). Người môn đệ muốn trở nên như muối, men và ánh sáng để “cho” kẻ khác, thì chính con người mình phải “có” trước đã, bởi người ta không thể cho cái mà mình không có (không có thì lấy gì mà cho?). Cũng bởi vì “cây mà tốt thì quả cũng tốt” (Mt 12, 33), “lòng có đầy miệng mới nói ra” (Mt 12, 34) được vậy.
Khi muối bị nhạt đi, ánh sáng bị lu mờ và men bị pha trộn tạp chất, thì tác dụng tốt đẹp không còn, thậm chí nhiều khi còn bị phản tác dụng nữa, như trường hợp Đức Ki-tô nói về men Pha-ri-sêu và Xa-đốc (Mt 16, 5-12). Khi Người nói với các môn đệ “Anh em phải cẩn thận, phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc.” (Mt 16, 6), các môn đệ lại cứ tưởng Người nói về men bột thực sự, cho đến khi bị quở trách, các ông mới hiểu là Người không bảo phải coi chừng men bánh, mà là phải coi chừng giáo lý Pha-ri-sêu và Xa-đốc. Một bằng chứng hiển nhiên là trong thời gian này, Sao-lô đã thấm nhuần men Pha-ri-sêu và men Xa-đốc, đang lùng giết những người theo Giê-su. Chỉ đến khi Chúa đã hoàn tất sứ vụ Cứu Độ (đã chết và chiến thắng sự chết, sống lại hiển vinh); qua biến cố Damas, Người mới làm cho Sao-lô-mù-nội-tâm trở nên một Phao-lô-sáng-mắt-sáng-lòng – một Tông đồ kiệt xuất của dân ngoại. Chính điều này cho thấy khi Đức Giê-su muốn môn đệ trở nên muối, men và ánh sáng, chính là Người muốn các môn đệ phải thấm nhuần chân lý Tin Mừng Cứu Độ từ chính Người Thầy của mình đã truyền dạy và thực hành.
Nói tóm lại, con người sống trong xã hội là sống cùng, sống với, sống cho và sống vì người khác. Không ai có thể tự phụ sống cho riêng mình mà hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến người khác. Bằng lời nói hay hành động, tất cả mọi hành xử của cá nhân đều gây một ảnh hưởng nào đó với tha nhân. Riêng với người Ki-tô hữu, thì sự ảnh hưởng ấy càng quan trọng hơn. Cuộc sống chứng tá bằng “căn cước của Ki-tô hữu” chính là thực hiện vai trò làm “muối, men và ánh sáng” cho đời. Muốn làm muối, men và ánh sáng thì điều tiên quyết phải biết mình được “sống bởi đâu?”, nhiên hậu mới có thể “sống với ai” và “sống cho ai” được. Vâng, vì Thiên Chúa dựng nên tôi, ban sự sống cho tôi, nên tôi được “sống bởi” Thiên Chúa. Người còn thương “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2, 18), nên cho tôi “sống với” người khác để có thể cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, ngõ hầu làm cho con cái Thiên Chúa được “đông đúc như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển” (St 22, 17). Trong khi đó, Đức Giê-su Thiên Chúa lại dạy tôi làm men, làm muối đất, làm ánh sáng cho trần gian, tức là tôi không thể chỉ “sống cho” riêng mình, mà còn phải “sống cho” người khác nữa. Tắt một lời, tôi phải biết rõ tôi “sống bởi đâu?”, “sống với ai?”, để từ đó tôi phải “sống cho” mọi người.
Lời khuyên chí tình chí nghĩa vẫn là: Hãy noi gương, học theo Thánh Tông đồ dân ngoại Phao-lô để đạt được kết quả: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Tất nhiên, chúng ta không phải là Sao-lô, không được như Sao-lô ở Damas, nên không thể thành Phao-lô được; nhưng nếu chúng ta vững tin vào Người Thầy Chí Thánh, kiên trì cầu nguyện và quyết tâm làm nhân chứng cho Tin Mừng Cứu Độ trong cuộc sống, thì chắc chắn chúng ta sẽ được Đức Giê-su đến và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Hiệp thông vào tâm tình biết ơn của Thánh Phao-lô, ý thức rằng ân sủng của Thiên Chúa chính là những “mưối men và ánh sáng” vẫn hằng chiếu dọi, ấp ủ và hoạt động trong đời chúng ta qua mọi biến cố lớn, nhỏ. Chúng ta cầu mong cho nhau luôn sống trong niềm vui vì đã và vẫn đang được gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh mỗi ngày, được soi sáng và biến đổi bởi ánh sáng của Người, để những chọn lựa hằng ngày của chúng ta luôn làm tăng trưởng và kiến tạo sự hợp nhất của toàn thể Hội Thánh. Ước được như vậy. Amen.
.
AM. Trần Bình An
Giải Nobel vật lý danh giá 2014 chia đều cho những người đã phát minh diode phát sáng (LED) màu xanh dương, giúp tạo ra các nguồn sáng sáng hơn và tiết kiệm năng lượng. Hội đồng trao giải Nobel Viện hàn lâm Khoa học hoàng gia Thụy Điển cho biết, khi ba khoa học gia Nhật Bản Isamu Akasaki, Hiroshi Amano và Shuji Nakamura tạo ra các diode phát ánh sáng xanh dương những năm đầu 1990, họ đã giúp giải quyết một vấn đề nan giải, kéo dài hàng chục năm trước đó và tạo ra một bước ngoặt lớn trong công nghệ chiếu sáng.
“Các diode xanh lá và đỏ đã xuất hiện từ khá lâu nhưng vì không có ánh sáng xanh nên không thể tạo ra các bóng đèn trắng. Bất kể các nỗ lực trong cả cộng đồng khoa học và ngành công nghiệp, bóng LED xanh vẫn là một thách thức trong ba thập kỷ.” Viện hàn lâm Khoa học của Thụy Điển giải thích. “Điều thú vị là nhiều công ty lớn đã rất cố gắng thử làm điều này và thất bại. Nhưng những nhà khoa học này vẫn kiên trì, cố gắng hết lần này đến lần khác và cuối cùng họ đã thật sự thành công,” Ông Per Delsing, giáo sư thuộc Đại học công nghệ Chalmers, chủ tịch hội đồng trao giải, nhấn mạnh. Ông Isamu Akasaki khi đó làm việc cùng với ông Hiroshi Amano ở Đại học Nagoya đã tạo các bóng LED màu xanh dương năm 1986 trên chất nền được tạo thành một phần từ saphire. Bốn năm sau đó, ông Shuji Nakamura, khi đó là nhân viên một công ty nhỏ ở Tokushima (Nhật), cũng tạo ra đột phá tương tự, nhưng thay vì chọn một loại chất nền đặc biệt, ông dùng nhiệt để phát triển các tinh thể quan trọng tạo thành bóng LED.
Bóng đèn LED ánh sáng trắng, kết hợp giữa ba ánh sáng đỏ, xanh lá và xanh dương, được chứng minh là có tuổi thọ kéo dài hơn và hiệu quả về mặt năng lượng. Bóng LED chuyển năng lượng điện trực tiếp thành ánh sáng thay vì thành nhiệt và ánh sáng trong các loại bóng khác. Kỷ lục mới nhất của loại bóng này lên đến 300 lm/W, tức gấp 16 lần bóng đèn thường và 70 lần bóng đèn huỳnh quang. Hội đồng trao giải nhấn mạnh đèn LED trắng không chỉ giúp tiết kiệm điện, mà còn có tuổi thọ kéo dài. Tuổi thọ của đèn LED kéo dài đến 100.000 giờ, so với 1.000 giờ của bóng đèn sợi đốt và 10.000 giờ của bóng đèn huỳnh quang. Đèn LED cũng hứa hẹn tăng chất lượng cuộc sống cho hơn 1,5 tỉ người trên toàn cầu không thể tiếp cận được lưới điện, nhờ có công suất tiêu thụ điện thấp, nên nó có thể sử dụng nguồn năng lượng mặt trời giá rẻ.
Ban trao giải cho biết phát minh của ba nhà khoa học chỉ mới có 20 năm, nhưng hiện ứng dụng rất rộng rãi, từ đèn bàn, đèn chiếu sáng văn phòng, xe hơi cho đến đèn chụp ảnh trên các điện thoại di động, đèn màn hình máy tính. Những người chiến thắng chia giải thưởng trị giá 1,1 triệu USD nhận vào ngày 10/12/2014 tại Stockholm (Thụy Điển). (Trần Phương, Tuổi Trẻ)
Khám phá ra đèn LED, đem ánh sáng phục vụ nhân loại, ba nhà khoa học Nhật Bản thật xứng đáng nhận giải thưởng Nobel Vật lý 2014. Tuy nhiên, đó mới chỉ là ánh sáng vật lý, nhân tạo, chưa phải ánh sáng công chính của Thiên Quốc. Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu mời gọi các môn đệ, cũng như tất cả tín hữu Kitô hãy trở nên muối và ánh sáng cho đời.
“Chính anh em là muối cho đời.”
Muối mặn khiêm hạ, nguyên sơ, thuần khiết, trong trắng, tinh tuyền, kết hợp trời cao với biển sâu. Thấm đậm Tin Mừng, người Kitô hữu sẵn lòng xả kỷ, đơn sơ, hiền hoà, khoan dung, thầm lặng, tha thứ, từ tốn, như hạt muối chân chất, tầm thường, khiêm hạ, cơ cực phơi nắng, kết tinh dưới ruộng thấp hèn.
Muối mặn bảo vệ, khử trùng, chống độc tố, meo mốc, huỷ hoại, bảo quản chất lượng sản phẩm. Người Kitô hữu thấm nhuần Lời Chúa trở nên muối mặn đậm đà, có thể không biến chất trong môi trường ô nhiễm, độc hại, đầy cạm bẫy cám dỗ.
Muối mặn thắm tình, gia vị nêm nếm cho đời khởi sắc, hương vị hấp dẫn, ngon lành, khởi sắc hơn trong thung lũng đầy nước mắt, giữa cõi tạm mây mù, u ám, âu sầu, buồn bã, nhạt nhẽo, vô vị, mất phương hướng. Muối mặm Tin Mừng ướp cho cuộc đời người Kitô hữu trở nên sinh động, hữu ích, bình an, tràn đầy vui mừng và hy vọng, thoát khỏi vòng kiểm toả vật chất phàm trần.
Muối mặn hoà tan, hoàn toàn xả kỷ, bỏ mình, quên mình, dấn thân phục vụ tha nhân, biếu tặng, cho đi tất cả, chẳng hề tham lam, ham hố vinh thân phì gia, cũng chẳng vớt vát, kèn cựa, tranh giành với thế gian, dây dưa danh lợi. Theo Chúa, trở nên muối mặn, từ bỏ cả bản thân, chia tay ham muốn nhục dục, nghoảnh mặt cám dỗ phù vân, dốc lòng, tận tâm, tận lực, hoà tan vào lòng nhân ái, lòng khoan nhân, lòng thương xót, xoa dịu nỗi đau tha nhân. Không còn sống cho mình, mà trở nên muối ướp cho đời, sống và chết cho tha nhân.
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.”
Đức Giêsu chính thức là Ánh Sáng cho thế gian: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8, 12) Những ai tự nguyện, bỏ mình, dấn bước theo Người, sẽ nhận được nguồn sáng, thấm sâu, xuyên thấu và phản chiếu cho tha nhân.
Với lòng sám hối, từ bỏ sự dữ, người tín hữu sẽ được ánh sáng Sự Sống chiếu dọi, sưởi ấm tâm hồn băng giá, phục hồi con tim vô cảm, soi sáng niềm hy vọng. Để rồi, phản quang lại cho muôn người tia sáng cứu rỗi, như Thánh Phaolô tha thiết kêu gọi: “Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Pl 2, 15)
Tuy vẫn chỉ là muối mặn đơn sơ, khiêm hạ, nhưng những việc phục vụ tốt lành, kín đáo, thầm lặng, là ánh sáng lan toả đến tha nhân, khiến danh Chúa được cả sáng. “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời.” Tuy nhiên, Đức Giêsu đã cẩn thận lưu ý, đừng khoa trương kẻo trở nên vô ích trước nhan thánh Chúa. “Khi làm việc lành phúc đức anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy.” (Mt 6, 1)
“Kiêu ngạo là ăn cướp ơn Chúa, vinh danh Chúa, để làm của riêng con, công nghiệp con.” (Đường Hy Vọng, số 511)
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên muối mặn thấm nhuần Tin Mừng, sống khiêm hạ, tránh xa sự dữ, cũng như đổi mới tâm hồn và tích cực hy sinh, phục vụ, hầu chiếu ánh sáng công chính đến tha nhân.
Khấn xin mẹ Maria cầu bầu, gìn giữ chúng con luôn là muối mặn cho bản thân và tha nhân, để chúng con có thể giữ mình khiết tịnh, bất biến, hoà tan, ướp cho đời khỏi hư vong. Amen.
.
Lm Vũ Đình Tường
Khi lẩn vào đám đông chúng ta bị mất hút trong đám đông. Càng đông người thì việc nhận diện người thân quen càng khó, ngoại trừ người đó có đặc điểm. Khó nhận bởi vỉ người giống người. Khó nhận bởi tầm nhìn bị hạn chế. Khó nhìn xa vì vật gần bắt mắt.
Để tránh bị đám đông thu hút Đức Kitô khuyên chúng ta cần phải bảo vệ căn tính. Một khi bị đám đông thu hút căn tính là bị lạc vào rừng người, rừng tư tưởng. Sức quyến rũ của đám đông thường mạnh hơn sức đối kháng cá nhân nên chiều theo số đông là bị cuốn theo chiều gió. Bị đám đông quyến hút căn tính bị lung lay, trật gốc thế là bị đám đông đồng hoá. Đồng hoá trong lòng đám đông và đồng hoá xảy ra trong cõi lòng mình. Bị đám đông đồng hoá cách suy nghĩ, lối sống thì căn tính Kitô hữu bị thay đổi. Đức Kitô dùng hai hình ảnh quen thuộc giúp ta bảo vệ căn tính Kitô hữu. Muối giúp thực phẩm lâu hư nát. Muối có tác dụng diệt trùng, bảo vệ và thẩm thấu. Đây là những đức tính người Kitô hữu cần có để thanh tẩy và triệt tiêu tư tưởng sai lầm để bảo vệ chính mình và bảo vệ người. Đồng thời giúp tình yêu Chúa thấm nhập vào lòng mình và lòng người. Bởi vì căn tính đó mà tình yêu Kitô hữu đi đến bất cứ đâu cũng luôn gặp hai trường hợp. Sẽ có những người vui mừng hoan hỉ đón nhận tình yêu Đức Kitô; lại cũng có nhóm người chống báng, ra mặt đối nghịch tình yêu Đức Kitô do các sứ giả Tin Mừng mang lại. Họ không chỉ chống lại tình yêu Chúa mà còn chống lại mọi biểu hiệu diễn tả tình yêu Chúa. Vì thế cầm giữ bảo vệ căn tính Kitô hữu và làm cho căn tính đó sống động là điều tối quan trọng trong việc làm nhân chứng Tin Mừng cho muôn dân. Nếu không là chứng nhân đích thực sẽ trở thành chứng nhân giả tạo. Giả tạo bởi vì thay vì là muối ướp đời lại bị muối đời hoà tan mất trong lòng đời. Vì thế chúng ta thấy rất nhiều Kitô hữu có danh mà không có thực chất căn tính, không thể hiện tình yêu Chúa trong cuộc sống, trong cách giao tế hàng ngày. Họ là Kitô hữu biến thể, Kitô hữu lí thuyết còn thực hành tình yêu Chúa thì không, trái lại họ sống theo đường lối trần thế. Nói cách khác chứng nhân bị mất căn tính thì lời chứng thiếu yếu tố tín trung.
Một hình ảnh quen thuộc khác là ánh sáng. Thiếu ánh sáng mắt sẽ bị quáng gà nên chúng ta thường nghe ví ‘nhìn gà hoá quốc’. Thực ra việc chủ trương làm trong bóng tối thường có kết quả xấu. Vì thế tội phạm thường mượn bóng tối để thi hành điều ám muội.
Ánh sáng soi sáng sự vật làm cho sự vật trở nên tốt lành, sáng láng hơn. Nhìn cầu vồng vắt ngang trời ta thấy bầu trời đẹp hơn. Ánh sáng chiếu trên sóng biển óng ánh giúp tâm hồn trải rộng, thảnh thơi, thoải mái. Ánh sáng chiếu trên giọt sương mai làm cho buổi sáng tươi mát, mang hy vọng một ngày vui. Xem thế ánh sáng không phải chỉ chiếu dọi vẻ đẹp bề ngoài mà còn khơi dậy, làm sống lại cái đẹp trong tâm hồn. Thánh vịnh 36,9 diễn tả ánh sáng Chúa dẫn ta nhận ra sự tốt lành của Thiên Chúa và thánh vịnh 119,105 nhắc đến ánh sáng Chúa soi đường cho con bước đi.
Ân sủng Chúa đong đầy lòng ta làm cho tâm hồn vui trong an bình, nội tâm thanh thản và nơi nào có tình yêu Chúa tràn đầy bóng tối sẽ bị đẩy lui, tiêu diệt. Ánh sáng Chúa chiếu dọi tâm hồn các tín hữu và giúp họ cảm nhận tình yêu tuyệt vời trong nước Chúa. Đức Kitô từng tuyên bố không có gì che dấu mãi mà không bị lộ ra ngoài. Chúng ta thường hiểu là điều xấu chúng ta muốn che dấu nhưng không thể dối mình mãi và dối Thiên Chúa. Hơn nữa những điều tốt lành cũng bị che dấu khỏi tầm nhìn của những tâm hồn hững hờ, dửng dưng với tình yêu Chúa. Họ nhìn mà không thấy nhưng tâm hồn công chính, ước ao tìm kiếm sự thật sẽ nhận ra sự tốt lành, trọn hảo của tình yêu Chúa.
Tâm hồn khiêm nhượng vui mừng đón nhận muối và ánh sáng Đức Kitô ban cho sẽ được Ngài ban cho muối công chính ướp đời tươi sáng và ánh sáng Ngài soi đường cho ta bước vì thế sẽ không sợ vấp ngã vì có ánh sáng Chúa soi đường và tình yêu Chúa đồng hành trong cuộc sống. Những tâm hồn đó cầm giữ được căn tính Kitô hữu bởi tình yêu Chúa luôn đồng hành với họ.
.
Lm. Văn Hào
Muối và ánh sáng là hai vật thể rất quen thuộc trong sinh hoạt hằng ngày của mọi người. Người ta dùng muối để ướp cho thịt cá khỏi ươn thối. Cũng vậy, ai nấy đều cần tới ánh sáng. Nếu không có ánh sáng, chúng ta sẽ bị chìm ngập trong bóng tối và gặp nhiều khó khăn trong mọi sinh hoạt. Chúa Giêsu đã dùng hai hình ảnh dung dị này để khải thị sứ mệnh của mọi Kitô hữu. Ngài nói: “Anh em là muối ướp mặn cho đời… Anh em là ánh sáng cho trần gian”. Những học trò của Đức Giêsu được mời gọi hãy thực hiện hai tính năng căn bản này để quảng bá mầu nhiệm Nước Trời cho mọi người chung quanh.
Trở nên muối
Có một câu chuyện ngụ ngôn được kể lại như sau. Muối đến bên bờ biển và cất tiếng hỏi: “Biển ơi, biển là gì ?” Biển trả lời : “Muốn biết ta là ai, ngươi hãy xích lại gần ta”. Muối tiến lại gần biển. Một làn sóng ập đến, đống muối bị cuốn trôi và tan dần giữa biển khơi. Việc trở nên muối luôn hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy. Cũng như những hạt muối tan chảy giữa lòng biển mênh mông, người Kitô hữu cũng phải biến tan trong Đức Kitô như lời tâm niệm của Thánh Phaolô : “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống mà Đức Kitô sống trong tôi (Gl 3,20).”
Trở nên ánh sáng
Nguồn sáng vĩnh hằng chính là Thiên Chúa. Chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin kính : “Người là Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”. Ngôn sứ Isaia đã từng tiên báo về kỷ nguyên Thiên Sai : “Dân đi trong bóng tối đã thấy ánh sáng huy hoàng (Is 9,1)”. Chính Đức Giêsu là ánh sáng ơn cứu độ và Ngài cũng đã công bố : “Tôi là sự sáng cho trần gian (Ga 7,12)”. Những học trò của Đức Giêsu cũng phải tiếp nối sứ mệnh cứu thế của Ngài bằng việc trở nên ánh sáng. Thuộc tính này chính là căn tính của mọi Kitô hữu, những người mang danh Kitô.
Công đồng Vatican II đã ban hành Hiến chế ‘Ánh sáng muôn dân’ để nói về bản chất và sứ mệnh của Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa Giêsu phải trở nên ánh sáng soi chiếu cho muôn dân tộc, bằng chính đời sống cụ thể hằng ngày. Có một lần, Mẹ Têrêsa Calcutta đến thăm một cụ già sống ở ven một khu rừng vắng bên Úc Châu. Nhà của cụ tăm tối và rất bẩn thỉu. Cụ không buồn thắp đèn lên và cũng chẳng quét dọn căn phòng bao giờ. Cụ sống cô đơn một mình và hầu như không có ai đến thăm cụ. Mẹ Têrêsa đã vén tay áo lên quét dọn nhà cửa cho cụ, và mở toang cánh cửa sổ để ánh sáng dọi vào. Cảm nhận được tình yêu ấm ấp từ mẹ Têrêsa, cụ già thốt lên: “Bây giờ tôi đã thấy rồi.” Ánh sáng từ bên ngoài đã lọt vào căn nhà tăm tối của cụ. Nhưng chính ánh sáng từ ngọn lửa yêu thương của tình người đã làm sáng lên những chỗ âm u nơi tâm hồn cụ. Cụ đã thấy, không phải chỉ thấy bằng đôi mắt thân xác, nhưng đã cảm nghiệm những ngọt ngào của tình yêu và sự đồng cảm. Ngạn ngữ phương tây có câu: “Hãy thắp lên một ngọn nến sáng còn hơn ngồi mãi trong bóng tối mà nguyền rủa cuộc đời”. Cho dầu cuộc sống chúng ta có nghiệt ngã hay bầm dập đến mấy, chúng ta vẫn có thể thắp lên một ngọn nến sáng của tia hy vọng cho chính mình cũng như giúp soi chiếu những người khác.
Làm cách nào để trở nên muối và ánh sáng
Nhà văn Leon Tolstoi có viết một câu chuyện ngắn với tựa đề ‘Con người ta sống bằng gì?’. Trong phần kết luận, đại văn hào đã trả lời : “Con người chúng ta sống bằng tình yêu”. Đúng vậy, nếu không có tình yêu, con người chúng ta sẽ chết dần chết mòn trong bóng tối của sợ hãi và thất vọng. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma cũng đã viết : “Yêu mến là chu toàn lề luật (Rm 13,10b).” Luật lệ mà Chúa Giêsu đặt làm khung căn bản cho cuộc sống Kitô hữu chính là luật tình yêu : “Cứ dấu này, người ta nhận biết anh em là môn đệ thầy, là anh em hãy thương yêu nhau’ (Ga 13,35).
Như vậy, để trở nên muối và ánh sáng theo lời khuyến mời của Chúa Giêsu, chúng ta cần phải quảng diễn tình yêu giống như Chúa Giêsu đã nêu gương. “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34b). Chúng ta đã nghe rất nhiều về lời trăn trối này. Đó là bản di chúc thiêng liêng Đức Giêsu đã để lại trước khi Ngài đi thụ nạn. Nhưng chúng ta cần tra vấn lương tâm và xét mình mỗi ngày xem chúng ta đã thực hành giới răn đó như thế nào. Tình yêu chân thật đòi hỏi phải biết quảng đại cho đi. Muối muốn trở nên hữu dụng cần phải tan chảy. Đó chính là mầu nhiệm của sự tự hủy. Ánh sáng muốn được thắp lên, phải tiêu hao nhiên liệu. Định luận đơn giản ấy cũng phải được áp dụng cho mọi Kitô hữu.
Kết luận
Tạp chí Times có thuật lại chứng từ của một cựu quân nhân Mỹ đã từng tham chiến tại Việt Nam. Ông ta tên là Avares, một phi công của không lực Hoa Kỳ, bị bắt vào năm 1964, bị giam tại trại tù Hòa lò và được phóng thích trong đợt trao trả tù binh vào năm 1972.
Năm 1990, trong lần trở lại Việt Nam với phái đoàn làm phim tài liệu, ông đã đến thăm Hòa lò, nơi ông bị giam giữ suốt 8 năm trời. Avares đến ngay căn phòng cũ chỗ ông bị giam và lấy tay cạy lớp vôi trên bức tường vừa mới được sơn phết lại. Hình một cây Thánh giá mờ mờ dần lộ ra. Ông chỉ vào cây Thánh giá và nói với mọi người : “Tôi vẫn nhìn lên cây Thánh giá này và cầu nguyện mỗi ngày. Nhờ vậy, tôi có được sức mạnh vượt qua những tháng ngày đen tối nhất. Chung quanh tôi là cả một bóng đêm dày đặc. Nhưng Thánh giá của Chúa Giêsu đã trở nên nguồn sáng vô tận soi dẫn giúp tôi tiến bước giữa bóng tối của tuyệt vọng và chán chường”.
Chúa Giêsu là ánh sáng cho trần gian. Là những học trò của Ngài, chúng ta cũng phải trở nên ngọn đèn sáng soi dẫn cho mọi người.
.
Lm. Jos. DĐH.
Nếu sinh ra là một loài hoa, hẳn người ta sẽ ước được là một loài hoa có hương có sắc. Nếu sinh ra làm người, ai chẳng ước mơ mình sẽ làm người tốt, người có ích cho gia đình xã hội. Sinh ra trong ơn gọi làm con cái Chúa, không những ta khao khát trở nên người tín hữu tốt, chúng ta còn mơ được tỏa ngát hương thơm. Vì đâu ai muốn mình vô dụng, chẳng khi nào ta lại muốn bị mang tiếng là “hữu danh vô thực”. Vẻ đẹp ở đời luôn được xét tới theo hai tiêu chí: hình thức và nội dung ; ý tưởng hay, tầm nhìn phong phú, phải đủ khách quan, chính xác, có tính thuyết phục.
Muối có vị mặn, đèn phải chiếu sáng, hương thơm phải tỏa ngát, đó là những đặc tính căn bản mà người bình thường nhất nơi cuộc sống này đều hiểu. Trong ý tưởng đó, Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta: “chính anh em là muối cho đời, chính anh em là muối cho trần gian”. Bằng cách nào để ta sống bổn phận của mình cách tích cực nhất, làm sao tình yêu Đức Kitô có thể thấm nhuần đến từng gia đình và xã hội hôm nay, nếu ta chưa ý thức mình phải nên giống Đức Kitô. Vì sau khi lãnh nhận bí tích khai tâm Kitô giáo, chất mặn yêu thương, ánh sáng Đức Kitô, đã được đổ ngập tâm hồn chúng ta.
Người xưa có câu: hoa kia thơm lạ thơm lùng, thơm cành thơm rễ, người trồng cũng thơm. Thật là trùng hợp đối với người tín hữu, khi nhớ đến Thiên Chúa là cội nguồn yêu thương được ban cho chúng ta. Chất mặn và sự sáng, được Chúa đặt để vào tâm hồn chúng ta từ khi rửa tội, đức ái và gương sáng niềm tin, mỗi người đã sử dụng, đã cộng tác để tỏa chiếu ra sao tùy tự do của chúng ta. Là con cái Chúa và con Hội Thánh, mỗi người phải đi trong đường lối của Thiên Chúa, trở nên giống Chúa bằng sự kết hiệp cầu nguyện, bằng hành động đức tin Kitô giáo.
Đời sống đức độ, tinh thần yêu mến của người tín hữu sẽ là “gương sáng” hay nhất, đẹp nhất, có sức lôi cuốn mọi người cùng gặp Đấng chúng ta tin thờ. Muối mặn, đèn sáng, người tốt, việc làm tốt, sẽ không thể là lý thuyết suông, vì Đức Kitô hằng hiện diện và biến đổi chúng ta nên khí cụ tình yêu thương của Ngài cách sống động nhất. Muối mặn ngấm vào thức ăn, đèn tỏa sáng giúp ta phân định được vấn đề đúng sai, thật giả. Tình yêu ngấm vào các tương quan, giúp ta biết cư xử, sống có ý nghĩa ; ánh sáng đức tin thấm sâu vào tâm trí, giúp ta phản chiếu đủ ánh quang Đức Kitô nơi cuộc sống này.
Cái khuyết điểm lớn của con người là biết mơ ước trở thành bác sĩ để chữa bệnh, trở thành giám đốc để mưu cầu việc làm, nhưng chăm chỉ học tập, đào luyện “cái tâm” của mình thì lại ít nghĩ tới. Người Kitô hữu mơ ước có khả năng di chuyển núi đồi, có chuyên môn chữa trị tật bệnh thể xác tâm hồn, nhưng men yêu thương, dầu đức tin thường bị thiếu hụt ! Vì vậy nên “cái tôi” của ta thì dễ lớn lên, còn Đức Kitô trong ta thì bé nhỏ lại. Ước mơ là người tốt, thao thức là ngọn đèn luôn phát sáng, mỗi người đều phải có đủ ơn Chúa, có mãi Đức Kitô ở trong lời nói và việc làm của mình.
Trong khi xã hội rất thực dụng cho rằng: tìm người có đức gởi thân, tìm người có nhân gởi của, thật là chí lý cho ai thấm nhuần được lời dạy của tiền nhân trang bị cho mình ơn khôn ngoan. Nơi Đức Giêsu, Ngài chi tiết rõ ràng khi nhắc chúng ta: “ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ nhận biết những việc làm của anh em mà ngời khen Cha anh em ở trên trời”. Khôn ngoan để tìm người có đức, khôn ngoan để tìm người có tấm lòng tốt, nhưng trên hết, khôn ngoan trong Chúa, mỗi chúng ta mới phản chiếu được vị mặn, đủ chất sáng tỏa lan đến anh chị em mình.
Kinh nghiệm cho thấy, nếu muối không mặn, và đèn hết dầu, tức là đèn không sáng, thì có ích gì nữa đâu, người Kitô hữu vô dụng không những là người mất niềm tin, mà còn là người bỏ mất cơ hội tận hưởng hạnh phúc. Chúa Giêsu hẳn vẫn đang hy vọng chúng ta phát huy bản chất yêu thương, để qua anh chị em mình, ánh sáng của niềm tin luôn mặn tình mặn nghĩa. Khi đưa ra ví dụ về chất mặn của muối và công dụng của cây đèn tỏa sáng, Chúa Giêsu lưu ý chúng ta phải thực sự là Kitô hữu, là người có đủ dầu đèn cho hành trình đức ái.
Muối mặn và đèn sáng sẽ không phải là khẩu hiệu, mà còn là dấu chỉ chúng ta thuộc về Đức Kitô là ánh sáng, là tình yêu thương được thông ban chia sẻ. Con đường nên thánh mời gọi chúng ta chiếu soi niềm tin và hy vọng mang lại hạnh phúc cho đời, cho chính chúng ta được dự bàn tiệc Nước Trời hôm nay và mai sau. Amen.
.
Fx Đỗ công Minh
Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ Năm thường niên, Chúa muốn trao cho con một sứ mạng :”Chính anh em phải là muối cho đời”. Không ai trong chúng con đây không biết tác dụng của muối. Mà đã nói đến muối, hẳn ai cũng hiểu rằng muối phải có vị mặn để qua đó người ta sử dụng trong cuộc sống . Từ ăn uống như chế biến thức ăn, nêm nếm và cả trong y học , trong khoa học nữa. Hơn thế nữa ,và để cụ thể Chúa còn muốn “ Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”. Ánh sáng để cho mọi người nhận biết Chúa, nhận biết sự thật, chân lý và còn là nhận ra nhau.
Con tin rằng Chúa muốn con phải sống một cuộc sống có ý nghĩa, có giá trị nơi trần gian. Chúa không muốn cuộc sống Chúa đã trao ban cho con trở nên vô nghĩa, mất tác dụng. Muối cho đời, ánh sáng cho thế gian, đó còn là Chúa muốn con phải can đảm nhân rộng những cách sống tốt, dám làm những việc mà người khác e ngại, hầu mưu ích cho anh em mình, dù phải thiệt thòi, bị phê phán, hầu làm gương cho người khác cùng học theo, làm theo, sống theo.
Làm gương sáng, nhân rộng những điều tốt, không phải là để khoe khoang điều đã làm được, nhưng là để nhiều người hơn nữa cũng cùng làm tốt, vì “Chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới đáy cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt Thiên hạ, để họ thấy những công việc anh em làm, mà tôn vinh cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.
Ngày hôm nay đây, nhiều người trong chúng con sống dường như không biết có ngày mai. Không còn tin vào bất cứ giá trị nào của cuộc sống, sống buông thả, chiều theo ý thích của bản năng, theo đam mê tội lỗi. Nhiều người, trong đó có con vẫn nhận mình là người tin Chúa, người có đạo mà cuộc sống còn thiếu sót, bê bối hơn cả những người chưa biết, chưa tin vào Chúa. Nhiều lần con từ chối làm việc tốt người khác mời gọi, từ chối làm việc bác ái, mượn cớ” tay phải không biết việc tay trái làm” để thóai thác.
Xin cho con qua Lời Chúa dạy hôm nay, nhận ra được điều Chúa muốn, để từ nơi con sống, nơi con học hành, nơi con làm việc, buôn bán, hoạt động, những người sống bên con nhận ra được con là người có lòng tin nơi Chúa. Không chỉ bằng dấu chỉ cây Thánh giá đeo trên ngực, trên đôi tai, hay bằng cử chỉ làm dấu Thánh giá trước khi ăn, ghi trong tờ khai lý lịch, trong thẻ chứng minh nhân dân . . . mà còn chính bằng đời sống gương mẫu, tận tụy trong công việc , trong phục vụ anh em mình. Đó chính là chúng con đang trở thành muối cho đời, là ánh sáng cho nơi con đang sống. AMEN.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Chúa Giêsu minh định cách rõ ràng về “muối “ , Người nói : “ Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” ( c 13).
Vâng, kính thưa quý vị, “muối “ không ai là không biết, muối là một “tác nhân” chính trong những bữa ăn hằng ngày của chúng ta. Nếu thiếu muối thì cơ thể không phát triển được, nhất là não, mặc nhiên ảnh hưởng đến trí tuệ.
Tuy , muối là gia vị rẻ tiền nhất, nhưng cần thiết nhất, trong tất cả các thực phẩm chế biến, không có loại nào là không có muối, dù là bánh ngọt, kẹo. thuốc men chữa bệnh cũng vậy. Muối rẻ tiền đối với đồng bằng, miền duyên hải, nhưng đắt tiền đối với miền núi. Đối với miền cao nguyên, người dân tộc thiểu số, họ rất quý “ hạt muối”, thường bị thiếu muối, nên họ thường đốt lá cây, lấy tro để ăn, vì có vị mặn như muối.
Vâng, như vậy, muối quý hơn đất bởi vì nó có “vị mặn“, bởi vì , nếu muối nhạt đi thì nó chỉ là đất. nhưng, thật ra chất muối là nhờ nước mặn của biển và ánh sáng mặt trời. Còn có loại muối hầm mỏ, loại muối nầy nằm đưới lòng đất, thì nó chính là “ muối đất”, chất muối nầy nếu nhạt đi, thì nó trở nên như đất.
Vâng, Chúa Giêsu nói rất rõ về muối, Người dùng hình ảnh cụ thể, tính chất cụ thể, có nghĩa là chân lý, để minh định cho chúng ta biết giá trị của việc “sống đạo”.
Vậy, giá trị của việc sống đạo giống như muối vậy. Đạo Công giáo là “ lộ trình” sống Lời Chúa, thực thi Lời Chúa bằng cả một sự nổ lực liên lỉ. Bởi một tình yêu siêu nhiên, không phải những mối lợi bất chính , thấp hèn, mà là một chất “ xúc tác “ như muối. Như, vậy, người bước theo Đức Kitô lấy gì mà làm nổi bật “ nhân cách Kitô” thưa đó là “ Muối “, nhưng chất “ muối “ nầy không phải là muối đất, mà là “muối Lời Chúa”. Muối Lời Chúa chính là tác nhân, là “ chất mặn “ cho cuộc sống và sống viên mãn
Muối Lời Chúa, mà các thánh đã “ướp” cho đời, đó chính là những “ gương sáng”, vì Lời Chúa vừa là “ Chất mặn” của muối, vừa là ánh sáng chiếu soi vào trần gian tối tăm. Vì, chính Chúa Giêsu đã nói : “ Chính anh em là muối cho đời … “, điều nầy cần thiết biết bao ! nếu một người môn đệ mà không thực thi Lời dạy của Thầy mình, thì làm sao trở thành môn đệ được. Rõ ràng, đây là quy chế, là điều kiện tiên quyết để trở nên môn đệ của Đức Kitô.
Muối phải khác với đất, bởi vì nó có vị mặn, vị mặn giữ được thực phẩm khỏi hôi thối, mặc nhiên giá trị của muối là vị mặn. Lời Chúa làm cho chúng ta sống giữa thế gian , nhưng không bị thế gian “ lôi kéo” theo nó., vì “Muối lời Chúa” làm cho người môn đệ có sức cảm hóa, lây sang điều thiện hảo cho tha nhân. Để minh chứng Lời Chúa về muối hôm nay,chúng ta nhớ lại câu ca dao Việt Nam :
“ Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư “
Câu ca dao triết lý của người Việt Nam làm rõ nghĩa câu lời Chúa hôm nay. Nếu cá mà không có muối, thì cá sẽ ươn thối, không làm gì được. Nhưng, nếu cá được ướp muối , thì cá sẽ trở nên mặn và cho ra một thứ nước chấm là nước mắm, một loại gia vị hằng ngày của người Việt Nam.
Cũng vậy, lời khuyên dạy của cha mẹ chẳng khác nào như “ cá với muối “ vậy. Lời Chúa được “ ướp” vào người tín hữu, thì họ sẽ trở nên muối cho đời. Như vậy, sự cần thiết của muối trần gian, muối hữu hình, Chúa Giêsu đưa chúng ta đến cuộc sống siêu nhiên và dạy chúng ta phải trở nên “ người tốt”. Vì, nếu người Kitô hữu không “ sống tốt” thì là sao nói tốt về Thiên Chúa đươc.
Theo đó, muối là vật chất ở đưới đất, chỉ cho thế gian, nhưng người kitô hữu ở giữa thế gian, thì phải trở nên “ muối “, chứ không được trở nên “đất “. Và ánh sáng thì, mặc nhiên, không ở dưới đất, dù hằng ngày ở gần chúng ta, nhưng, ánh sáng khác với muối, ánh sáng không thể “tự do” giữ được, mà phải tùy thuộc vào chất để giữa ánh sáng. Vì, mọi ánh sáng đều quy về một thứ ánh sáng duy nhất, đó là Thiên Chúa. Chúa Giêsu được gọi là “ Ánh Sáng thế gian “, bởi chính Người là “Nguồn Sáng” vĩnh cửu và duy nhất. Không ai cầm giữ được ánh sáng, đó là nguyên lý. Nguyên lý ánh sáng mà nhân loại nghiên cứu, phát hiện, tìm tòi, hầu nhận ra chân lý của ánh sáng là Thiên Chúa, chứ không thể có ánh sáng “ nhân tạo”. Đừng lầm tưởng ánh sáng của bóng đèn, dù là đèn điện hay đèn dầu, ánh sáng của lửa. những, thứ ánh sáng đó không phải là “ ánh sáng thật”, thế gian không bao giờ có thứ ánh sáng thật, vì thế gian mọi thứ đều là giả tạo. Chỉ có một thứ ánh sáng thật hữu hình duy nhất chiếu soi ngày đêm, đó là mặt trời và mặt trăng. Phàm nhân có giả trá cách mấy cũng không thể làm giả được, dù thế chế chính trị giả dối , độc tài, gian ác, lừa lọc dân tộc mình, thì sự thật của ánh sáng không thể nào “che đậy” được, hoặc làm giả được.
Vâng, còn ánh sáng “ nội tâm “ ánh sáng siêu nhiên thì siêu huyền và vô biên biết bao, đó là “Ánh Sáng Thiên Chúa”. Vì vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải trở nên ánh sáng. Thứ ánh sáng ấy không thể nào bị “ dập tắt”. Đó là ánh sáng “chân lý và tình yêu”, là Lời Chúa. Vì , “ Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi “ ( Tv 118).
Tục ngữ Việt Nam cũng có câu : “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng “. Vâng, ai cũng biết ý nghĩa của câu tục ngữ nầy, cũng có ý nghĩa gần như câu : ” chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở ”. Có nghĩa là, muốn sống tốt thì phải chơi với bạn tốt , người tốt. Tìm bạn tốt mà chơi, vì nếu không thế thì “ chơi dao có ngày đứt tay”. Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, dân tộc nào, quốc gia nào cũng có những câu tục ngữ, ngạn ngữ để dạy sống cuộc sống trần thế. Nước Trời cũng vậy, Chúa Giêsu đến trần gian, vì tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, Người đã đạy cho chúng ta “ Triết lý Nước Trời”. Chúng ta đừng sợ để thực thi, mà hãy can đảm thực thi Lời Chúa như các thánh đã thực thi. Vì : “ Chính anh em là ánh sáng cho trần gian … Ánh sáng của anh em phải được chiếu giãi trước mặt thiên hạ…” ( c 14 – 16)
Ánh sáng là thứ cần thiết trong cuộc sống tự nhiên cũng như siêu nhiên, tất yếu nó phải được giãi bày ra để chiếu soi chung quanh, vì “muối” phải mặn, thì “ ánh sáng “ phải chiếu soi, như thế , mới biểu lộ giá trị chân lý của nó, hầu biểu dương, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian, là chân lý và tình yêu bởi Thiên Chúa, xìn thương ban cho những ai bước theo Chúa biết trung tín và can đảm, hầu mang ánh sáng Tin Mừng gieo vào trần gian, để ánh sáng chân lý chiếu giãi muôn phương, soi đường cho nhân loại , để thế gian nhân biết mà tôn vinh Thiên Chúa là Cha trên trời./. Amen.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Kể từ Hiến Chế Lumen Gentium lừng danh của Công Đồng Va-ti-can II người ta dần trở nên quen thuộc với khái niệm Hội Thánh phải là ánh sáng, ánh sáng soi chiếu muôn dân. Phụng vụ cũng liên tục dùng biểu tượng ánh sáng để chỉ Đức Ki-tô, sứ điệp Tin Mừng của Người, đồng thời cũng chỉ toàn bộ đời sống của các Ki-tô hữu. Vì thế câu định nghĩa Đức Giê-su dùng để nói về các kẻ tin theo Người: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” quả có một tầm quan trọng rất đặc biệt.
Kiểu nói ‘nêu gương sáng’ của người Việt dễ làm chúng ta hiểu câu nói “chính anh em là ánh sáng cho trần gian” theo ý nghĩa biểu tượng: tức là các Ki-tô hữu phải trở nên gương mẫu về đời sống đạo hạnh, có nền luân lý lành mạnh… Cũng vậy, cách nói Ki-tô hữu là ‘con cái ánh sáng’ được thư Ê-phê-sô (5:8-14), 1 Thê-xa-lô-ni-ca (5:5-6), 1 Phê-rô (2:11-12) sử dụng cũng dễ làm chúng ta liên tưởng đến nội dung luân lý tương tự: “Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa” (Ep 5:8-10).
Đức Giê-su dùng hai hình ảnh: “Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” để nói với các môn đệ. Hình ảnh ‘muối’ được đặt trước, vì chính nó mới gây ấn tượng mạnh hơn trên các thính giả Đo Thái.
Đối với người Do Thái, công dụng trước nhất của muối là: ướp thực phẩm để bảo quản lâu dài; muối dùng như gia vị làm cho thức ăn thêm đậm đà, như cách hiểu phổ thông của chúng ta ngày nay, chỉ là thứ yếu. Sách Dân Số viết: các tư tế được trao cho ‘một giao ước muối muôn đời tồn tại, cho ngươi và dòng dõi ngươi’ (Ds 18:19). Điều đó có nghĩa là: nhờ việc cử hành cặn kẽ các bổn phận tế tự, họ sẽ làm cho giao ước đã được ký kết với Đức Chúa tồn tại mãi mãi trong dân Ít-ra-en. Người Do Thái sau này hiểu rộng ra là: nhờ việc trung thành nắm giữ luật Mô-sê, họ sẽ làm cho Giao Ước Si-nai tồn tại mãi mãi qua muôn thế hệ. Trong ý nghĩa đó, thì họ chính là ‘muối, là ánh sáng’ giữa các chư dân.
Khi dùng cùng một kiểu nói rất Do Thái này, Đức Giê-su đã muốn các môn đệ Người hãy là ‘muối cho đời’, vì nhờ họ mà Tin Mừng – Giao Ước Mới sẽ được bảo quản lâu dài cho trần gian. Tuy nhiên ta cần xác định, giá trị nòng cốt nhất của Tin Mừng cần được bảo quản giữ gìn là gì, và đâu là giá trị độc đáo nhất mà Người Con Chí Ái của Thiên Chúa cất công mang đến cho trần gian, điều cần được lưu giữ qua các thế hệ? Phải chăng đó là một nếp sống đạo hạnh, một nền luân lý lành mạnh, hay một học thuyết cao thượng? Trước cả khi Đức Giê-su xuất hiện, các đức Phật Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử v.v… cũng đã từng phổ biến những nền đạo đức luân lý cao đẹp không kém. Từ nhiều niên kỷ qua, các môn sinh Phật, Khổng, Lão cũng đã tìm đủ mọi cách duy trì bảo tồn Phật Pháp và triết lý Khổng Mạnh cho khỏi bị mai một. Về phần Hội Thánh, tôi thiết nghĩ, cho dầu luôn nỗ lực hoàn chỉnh giáo lý để tiến dần tới một nền luân lý ngày càng hoàn hảo hơn, Hội Thánh không thể coi đó là trách nhiệm chính mà mình phải chu toàn. Hội Thánh là một tập thể các môn đệ đặt niềm tin vào Đức Ki-tô Giê-su, cho nên Hội Thánh có sứ mạng duy trì một điều độc đáo hơn rất nhiều, điều mà không một ai khác ngoài Đức Giê-su có thể mang đến cho trần gian đó là: cảm nhận và đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa là Cha. Đây mới là chất liệu thực sự cần được bảo quản cho tới muôn đời để Tin Mừng được quảng bá; và đây mới là trách nhiệm đích thực của Hội Thánh nói chung, và của mỗi Ki-tô hữu nói riêng. Những ai đã có ‘phúc’ được đón nhận lòng từ ái của Thiên Chúa nhờ tin vào Đức Ki-tô Giê-su, thì cũng có bổn phận làm cho ‘cái phúc’ này hiển thị trong cuộc sống mình, để rồi cũng tiếp tục hiển thị giữa lòng nhân loại cho đến muôn đời. Họ có trách nhiệm ‘ướp’ đời bằng chính cuộc sống đầy yêu thương nhân ái của mình, để giao ước tình yêu cứu độ của Thập Giá được tiếp tục tỏ hiện; đây là công tác mà không một ai khác ngoài các Ki-tô hữu có thể cống hiến cho nhân loại. Xây dựng một nếp sống đạo hạnh, một nền luân lý lành mạnh, thì họ luôn có thể và có bổn phận phát huy, chung vai sát cánh với các Phật Tử, Nho sĩ Khổng Lão, cũng như với các người thiện tâm thiện chí ở mọi nơi, vào mọi thời. Yêu thương tha thứ để bộc lộ tình yêu nhân ái của Chúa Cha thì duy chỉ có họ – các Ki-tô hữu – mới chu toàn được. Chính vì thế mà Đức Giê-su đã từng tuyên bố: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau” (Ga 15:9-17).
Ki-tô hữu quả là ‘muối cho đời’ và là ‘ánh sáng cho trần gian’ trong nội dung này; qua cuộc sống, họ làm cho mọi người nhận biết rằng: loài người chúng ta với tất cả sự gian tà và khiếm khuyết đã được, đang được, và sẽ còn mãi mãi được Thiên Chúa yêu thương với trọn cả cuộc sống Người. Vì thế gìn giữ và loan truyền Tin Mừng đầy an ủi này phải là trách nhiệm chính của Hội Thánh Chúa Ki-tô vậy!
Lạy Chúa, xin cho mỗi lần đọc lời truyền phép: “Này là chén máu Thầy, máu giao ước mởi và vĩnh cửu sẽ đổ ra…” con đều ý thức rằng: cùng với Thánh Thể, con có bổn phận làm cho tình yêu cứu độ của Chúa được thể hiện mọi nơi và mọi lúc. Xin cho con, trong tư cách linh mục của Đức Ki-tô, luôn là muối ướp mặn các tín hữu để, tới phiên mình, họ sẽ trở thành muối bảo quản giao ước tình yêu cứu độ cho trần gian. Và để làm được điều đó, xin cho con luôn duy trì được nơi mình xác tín: chính con phải là người trước hết hưởng nhờ tình Chúa thương yêu và tha thứ. A-men.
.
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Người ta kể câu chuyện: Có một anh mù đến nhà người bạn chơi. Trời tối, anh ra về, người bạn liền thắp một chiếc đèn lồng, đưa cho anh rồi bảo: “Ngoài trời tối rồi, anh cầm cái đèn này đi cho sáng nhé!”. Anh mù nghe vậy tức giận nói: “Sao cậu lại nói vậy. Rõ ràng ai cũng biết tôi bị mù. Tôi cầm đèn soi đường không phải để người đời cười nhạo sao?”. Người bạn giải thích: “Anh hiểu lầm ý của tôi, vì tôi nghĩ giờ này rất nhiều người cũng đi trên đường. Anh cầm đèn, người khác có thể nhìn thấy anh, vì vậy sẽ không thể đụng vào anh được”. Anh mù nghĩ một lát rồi nói: “Ừ, cậu nói có lý. Cảm ơn bạn! Tôi về nhé”.
Trở nên ánh sáng không chỉ soi đường cho chính mình mà còn cho người khác. Ở đâu có ánh đèn sáng, nơi đó khách bộ hành cảm thấy an tâm. Ở đâu có ngọn hải đăng, nơi đó sẽ làm cho người đi biển biết hướng về bình an. Ở đâu có ánh sáng, nơi đó người ta sẽ không phải sống trong tối tăm, sợ hãi.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc cho mỗi chúng ta: Chính anh em là muối cho đời, chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Trở nên muối, trở nên ánh sáng vừa là lời mời gọi vừa là trách nhiệm của mỗi người tín hữu. Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Trong cuộc sống thường ngày, muối có nhiều công dụng: Muối dùng để ướp thức ăn cho khỏi hư thối, dùng để sát trùng và lau rửa vết thương, muối còn làm cho bữa cơm hàng ngày thêm đậm đà ngon miệng. Khi nói: Các con là muối cho đời, Chúa Giêsu muốn mỗi tín hữu phải mang những phẩm tính của muối cho xã hội và gia đình hôm nay.
Trong một xã hội mà đời sống đạo đức bị suy thoái trầm trọng, nếp sống và tương quan tốt đẹp giữa con người với nhau đang bị hủy hoại, biến thành sự nghi ngờ thì mỗi chúng ta sẽ phải là những người dám sống những giá trị cao đẹp, sống đạo đức theo chuẩn mực của Tin Mừng để giữ cho cuộc sống xã hội khỏi hư hại. Trong thời buổi kinh tế thị trường, cạnh tranh, mạnh được yếu thua, vô cảm vô tâm với nhau, chúng ta sẽ phải trở thành muối của lòng xót thương, muối của lòng nhân ái để chữa lành những vết thương thể xác và tâm hồn con người. Đặc biệt, tương quan giữa con người ngày nay bị đặt theo tiêu chuẩn tiền bạc, đẳng cấp xã hội; trong gia đình, tình yêu đã vơi cạn, sự mặn mà, nồng ấm đã bị hủy hoại, chúng ta sẽ phải là muối để làm cho cuộc sống xã hội và gia đình thêm nồng ấm, mặn mà tình yêu thương, tha thứ, cảm thông.
Cũng cùng một ý tưởng đó, Chúa Giêsu mời gọi: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Chính mỗi chúng ta, chứ không phải ai khác, sẽ trở nên ánh sáng của sự thật và chân lý trong xã hội gian dối lừa lọc này. Chính chúng ta sẽ phải là ánh sáng để sưởi ấm những tâm hồn băng giá, xua tan những bóng tối của gian ác bất công. Con người ngày nay bị bóng tối của dối trá che phủ, bị những thông tin sai lạc làm cho trật hướng; bóng tối của ma quỷ và tội lỗi đang đè nặng trong tâm hồn, khiến cho cuộc sống và hành động của nhiều người chìm trong tăm tối của sự tội, sự ác. Chúng ta phải can đảm để chiếu những luồng sáng của Tin Mừng vào những góc khuất của buồn chán thất vọng, trở thành ánh sáng, giúp những người chung quanh khỏi vấp té và dẫn họ đến hạnh phúc đích thật là Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng cảnh báo về tình trạng suy thoái, đánh mất căn tính, bản chất của người Kitô hữu nơi nhiều người, như muối mất vị mặn, như ánh sáng bị che đậy. Nếu chúng ta không thường xuyên đặt mình trước nguồn sáng là Tin Mừng của Chúa, ánh sáng của chúng ta sẽ bị lu mờ, cũng vậy, không đặt cuộc đời mình trong tình yêu của Chúa, vị mặn trong chúng ta sẽ bị phai nhạt.
Muối mất vị mặn thì sẽ không còn là muối nữa, chỉ còn đổ ra đường cho người khác chà đạp lên. Người tín hữu xưng mình là có đạo, mà chỉ tin Chúa và thực hành đạo một cách hời hợt, nhạt nhẽo thì không khác gì muối mất vị mặn. Người Công giáo khi để mất khả năng yêu thương và tấm lòng trắc ẩn, khi không biết chạnh thương với những người đau khổ, thì không còn phải là người có đạo nữa. Cũng vậy, được mang ánh sáng của Tin Mừng, nhưng vì địa vị, bổng lộc trong xã hội, nhiều người lại che giấu niềm tin của mình, không dám thể hiện đức tin, nhiều người sống bê tha ngược với Tin Mừng của Chúa thì giống như ánh sáng bị úp thùng lên. Chúa Giêsu muốn mỗi môn đệ của Ngài phải sống đúng với bản chất là Kitô hữu, tức là những người có Chúa Kitô, mang Chúa Kitô trên mình. Giống như chiếc đèn phải được đặt trên đế cao để tỏa sáng, mỗi tín hữu cũng phải chiếu tỏa đức Kitô cho mọi người qua chính đời sống, lời nói và cách cư xử của chúng ta.
Là đèn đặt trên giá cao, chúng ta sẽ tỏa sáng như thế nào? Thiên Chúa muốn chúng ta tỏa sáng qua việc làm, như Isaia nói trong bài đọc một, đó là sống bác ái yêu thương, quan tâm chia sẻ cụ thể với những người đau khổ, khó khăn thiếu thốn: Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những kẻ không nơi trú ngụ, cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Bấy giờ, ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương của người sẽ mau lành. Hơn thế nữa, khi mỗi người dám chiếu tỏa ánh sáng của Chúa cho anh chị em chung quanh, thì chính Thiên Chúa sẽ luôn ở bên và bảo vệ người đó. Khi người đó kêu lên, Chúa sẽ nhận lời; người đó cầu cứu, Chúa sẽ đáp: Có ta đây.
Trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi chúng ta được nhận ánh sáng được lấy từ cây nến phục sinh với lời căn dặn: Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô và làm cho ánh sáng này trở nên ánh sáng dẫn đường cho chính mình và cho anh chị em. Tuy nhiên, nhiều người đã để cho ánh sáng đức tin của mình trở nên yếu ớt, vàng vọt, bởi vì không được châm thêm dầu là lòng yêu mến và không được khơi bấc, bởi sự lười biếng học hỏi Lời Chúa và giáo lý. Ánh sáng đức tin của nhiều người đã mờ đến độ chỉ còn hình thức hoặc còn cái tên là người tín hữu, nhưng trong đời sống và thực hành đạo, đức tin dường như đã bị tắt. Có nhiều người không những không còn ánh sáng đức tin trong cuộc sống, mà họ còn để mình bị chìm ngập trong bóng tối của sự xấu, sự dữ. Nhiều người đã để cho ma quỷ và sự ác thống trị trong tâm hồn, chi phối hành động, nên họ đối xử với nhau bằng bạo lực, bằng thù oán.
Trái lại, nhiều người, cách riêng các bạn trẻ, không chăm lo cho ngọn đèn đức tin của mình, nhưng lại rất thích chạy theo những ánh sáng hào nhoáng của thế gian. Họ tìm cách tô vẽ cho mình trở thành như những người nổi tiếng, phủ lên mình sự đạo đức giả dối, hành động vì hình thức hơn là vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Nhiều người trẻ đã để mình rơi vào tình trạng sống ảo, thích hình thức bên ngoài mà không có chiều sâu nội tâm.
Trở nên muối và trở nên ánh sáng luôn là sứ mạng và cũng là thách thức cho mỗi chúng ta. Chúng ta phải trở thành muối trong xã hội hôm nay. Qua sự kiên trì sống tình yêu thương, gieo rắc nhiều hạt muối của lòng thương xót, chúng ta làm cho cuộc sống chung trong xã hội và nơi gia đình thêm hương vị đậm đà yêu thương. Tuy nhiên, sống trong xã hội đang bị suy thoái đạo đức, chúng ta dễ bị cuốn theo lối sống của nó, bị nhạt nhòa, hoặc mất vị mặn của muối tình yêu. Chúng ta dễ dàng cư xử với nhau theo kiểu của xã hội, chứ không theo kiểu của Tin Mừng. Do đó, khiến cho anh em lương dân không nhận ra ánh sáng của Chúa, không cảm nếm được vị mặn của tình yêu Tin Mừng nơi mỗi chúng ta.
Nhờ Lời Chúa nhắc bảo, xin cho chúng ta luôn gắn bó với Chúa Giêu là nguồn ánh sáng, để Ngài xua tan những tăm tối trong ta và làm cho chúng ta trở nên trong suốt để ánh sáng của Chúa có thể chiếu qua chúng ta mà đến với anh chị em. Xin Chúa ướp chúng ta bằng muối tình yêu của Ngài để chúng ta có đủ vị mặn mà ướp gia đình và xã hội khỏi hư thối và làm cho cuộc sống thêm đậm đà yêu thương. Amen.
.
CHÍNH ANH EM LÀ ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN
- Lm. Giuse Nguyễn
Trong bài “Ánh sáng Tin mừng từ các gia đình Kitô hữu” được đăng trên Truyền Thông Công Giáo Tin Vui, Cha Augustinô Trần Cao Khải đã viết: “Khi các gia đình Kitô hữu đã “phấn đấu trong mọi khó khăn của cuộc sống để gìn giữ nét đẹp gia đình Kitô giáo, theo khuôn mẫu đời sống hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa” (x.Thư MV HĐGMVN 2002, số 7) thì họ đang trở thành men, muối, ánh sáng cho đời. Họ chẳng những phải hoàn thiện chính bản thân mình mà còn được kêu gọi tỏa gương sáng ra bên ngoài, như ánh sáng lung linh, như hương thơm dịu êm, như hơi ấm nồng nàn…”.
Trong năm Gia Đình 2017 này, lời chia sẻ trên nhắc cho tôi vai trò trở thành ánh sáng của các gia đình.
I. TẠI SAO TRỞ THÀNH ÁNH SÁNG?
Vì ánh sáng là điều đầu tiên Thiên Chúa đã tạo dựng trong công trình sáng tạo của Ngài: “Thiên Chúa phán: phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp” (St 1, 3-4a). Có ánh sáng mới phân rẽ được bóng tối. Có ánh sáng mới phân định được tội lỗi.
Đức Giêsu trong lời giảng dạy để các môn đệ trở thành chứng tá trên trần gian đã quả quyết: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 14). Ánh sáng là cái gì rất tự nhiên, nguyên nó đã kéo sự chú ý của người ta. Điều này giống câu nói: “Hữu xạ nhự nhiên hương”. Nghĩa là môn đệ Đức Kitô tự nhiên là phải vậy. Đời sống của họ tất nhiên phải ảnh hưởng tới người khác.
Trong ngày rửa tội cho con trẻ, cha mẹ và người đỡ đầu đã được trao nhiệm vụ: “Ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom, tức là lo lắng cho trẻ nhỏ này đã được Chúa Kitô soi sáng, luôn luôn sống như con cái sự sáng, và bền vững trong đức tin” (Sách nghi thức rửa tội).
Ngày thành hôn, hai người đã thề hứa với Chúa trước mặt Hội thánh: “Sẵn sàng yêu thương và đón nhận con cái Chúa sẽ ban và giáo dục chúng theo luật Đức Kitô và Hội Thánh” (Sách nghi thức Hôn phối). Nghĩa là thề hứa về sứ mạng trở thành ánh sáng dẫn đường cho con cái.
Trong thư Mục vụ 2016 của Hội đồng Giám mục Việt Nam có đoạn: “Đừng quên rằng những người được chuẩn bị tốt nhất cho đời sống hôn nhân (người trẻ) là những người đã học được từ chính cha mẹ của họ thế nào là hôn nhân Kitô giáo. Vì thế, chính đời sống gia đình hiện nay là môi trường giáo duc tốt nhất cho cuộc sống hôn nhân mai sau của con cái trong gia đình”.
Vì thế “trở thành ánh sáng” không phải là một lời khuyên, mà là bản chất của Kitô hữu và bổn phận của những bậc làm cha mẹ.
II. TRỞ THÀNH ÁNH SÁNG NHƯ THẾ NÀO?
Các bài đọc lời Chúa hôm nay nhắc lại cho tôi 2 cách thế để trở thành ánh sáng.
- Làm chứng cho những giá trị linh thánh
Phần đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay là sứ mạng: “Chính anh em là muối cho đời.” (Mt 5, 13a). Muối có hai công dụng chính là ướp cho khỏi hư và làm gia vị. Người môn đệ của Đức Kitô phải giữ cho xã hội khỏi suy thoái, đồng thời giúp cho thăng tiến.
Suy thoái là tình trạng yếu kém, sụt lùi do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân già nua, cũ kỹ. Có nhiều thứ suy thoái: suy thoái liên quan đến sức khỏe, suy thoái kinh tế, suy thoái chính trị…, nhưng đáng sợ nhất là suy thoái đạo đức. Tâm thư của Hội đồng Giám mục Việt nam gởi các gia đình trong năm nay có đoạn nói về tình trạng suy thoái đạo đức như sau: “Chúng ta không thể phủ nhận thực tế này là tình trạng vợ chồng Công giáo ly thân và ly dị đang có chiều hướng gia tăng, cách riêng nơi các gia đình trẻ; bạo hành gia đình vẫn là điều nhức nhối; một số bạn trẻ sa đà vào lối sống buông thả về mặt tình dục, chủ trương sống chung, sống thử trước hôn nhân; tệ nạn phá thai lan tràn đến mức coi thường…”. Trong thư chung gửi cộng đồng dân Chúa 2016, cũng với những băn khoăn lo lắng đó, Hội đồng Giám mục Việt Nam còn thao thức với tình trạng: “Đạo đức xuống cấp nghiêm trọng, tội ác gia tăng về số lượng và cả mức độ dã man, phá thai và nghiện ngập tràn lan…”. Môn đệ của Đức Kitô lẽ ra phải gìn giữ cho xã hội khỏi suy thoái, nhưng một số đã góp phần làm cho xã hội suy thoái, nhất là về mặt đạo đức như những điều vừa nêu.
Làm thế nào để người Công giáo góp phần gìn giữ cho xã hội khỏi suy thoái, nhất là về mặt đạo đức? Nguyên nhân chính yếu của những suy thoái đạo đức là vì người ta chỉ thấy và tìm kiếm những giá trị phàm tục, những giá trị trước mắt. Người Công giáo phải sống và làm chứng cho những giá trị linh thánh.
Ngoài xã hội, gặp trục trặc, khó khăn hay xung đột là một số cặp vợ chồng tìm đến với ly dị. Gia đình Công giáo giải quyết những khó khăn bằng cầu nguyện và tìm ý Chúa. Nếu còn nhớ đến và xin Chúa giúp đỡ, thì chắc chắn mọi chuyện sẽ được giải quyết. Lúc đó gia đình Công giáo đang làm chứng cho một giá trị linh thánh.
Tại sao ngày nay người ta coi thường việc phá thai đến mức có cả những bệnh viện, những cơ sở hỗ trợ cho việc này, trong khi tội giết người có thể mang bản án tử hình hoặc tù chung thân? Phá thai chính là hình thức giết người, thậm chí còn trầm trọng hơn vì giết người không có khả năng chống cự. Một số người xem việc “dính bầu” là hậu quả của chuyện không kỹ lưỡng, vì vậy họ đi giải quyết vấn đề mà chẳng chút áy náy. Như vậy hành động ân ái của họ chỉ là việc thỏa mãn tính xác thịt. Nếu chỉ như vậy, thì chỉ là con vật không hơn không kém. Người Công giáo được dạy cho biết việc phối hợp vợ chồng là hành động yêu thương và mở ngõ cho việc truyền sinh. Trong hành động ân ái, họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo, vì vậy phải tôn trọng sự sống ngay từ lúc hình thành. Từ đó người Công giáo đón nhận con cái theo thánh ý của Chúa chứ không theo bất cứ một chỉ tiêu nào. Đó là việc chúng ta làm chứng cho những giá trị linh thánh.
Ngoài đời người ta làm gì cũng nhờ “ông này, bà nọ”. Người ta tin theo những hướng dẫn của những ông bà thầy bói đó. Còn người Công giáo phải để Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình. Tại sao thờ Chúa mà lại tin thầy bói, lại để những con người đó làm chủ cuộc đời mình?
Trong những ngày Tết dù nghỉ ngơi, vui chơi, họp mặt… nhưng có những gia đình vẫn ưu tiên dành thời gian thờ phượng Chúa, đi lễ 3 ngày Tết đầy đủ. Họ lập luận: “Tại sao mình đánh bài thâu đêm được, tại sao mình nhậu suốt sáng được, mà đi lễ có hơn 1 giờ lại không được?”… Họ đang làm chứng cho một giá trị linh thánh.
Một vài dẫn chứng cụ thể, qua đó chúng ta thấy khi người Công giáo dám đi ngược lại với những giá trị tự nhiên, những giá trị phàm tục, là lúc họ đang sống cho những giá trị linh thánh và họ trở thành ánh sáng.
- Bằng đời sống yêu thương, bác ái
Trong bài đọc thứ nhất, sau khi từ Babylon trở về, vì hoàn cảnh không còn các tư tế, không có các lễ nghi phượng tự nên dân chúng quá chú trọng vào việc sống đạo bằng hình thức như ăn chay, cầu nguyện, bố thí. Vì vậy mà Isaia đã nhắc nhở dân chúng để ý đến chất lượng trong việc sống đạo. Cụ thể: “Ngươi hãy chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt là ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58, 7). Isaia khẳng định cách sống đó như một ngọn đèn tỏa sáng.
Thiết nghĩ cách sống đạo được Isaia giới thiệu ngày xưa đó cũng phải là cách sống đạo của những người Công giáo hôm nay, nghĩa là phải để ý đến chất lượng chứ không phải là hình thức. Điều đó có thể thực hiện được khi chúng ta biết nổ lực thực thi tình bác ái một cách cụ thể.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”. Lời Chúa trong những ngày đầu năm mới này thực sự là ánh sáng soi đường cho mỗi người và mỗi gia đình trong suốt năm nay, để nếu mỗi người và mỗi gia đình ý thức bổn phận phải trở thành ánh sáng cho chính họ và những người xung quanh được bước vào vùng ánh sáng thật, thì phải quyết tâm để hướng đến những giá trị linh thánh và sống bác ái yêu thương một cách cụ thể.
Mỗi gia đình hãy nhắc nhở nhau để sắp xếp thời gian đi lễ ngày Chúa Nhật. Những người lớn trong gia đình hãy mạnh dạn để khởi động giờ kinh hôm chung với nhau. Khi có những xung đột xảy ra, hãy giải quyết dưới cái nhìn của Chúa. Hãy sẵn lòng giúp đỡ những người nghèo khổ trong khả năng của mình… Khi các gia đình làm được những điều đó, thì quả thật ánh sáng của họ đang tỏa rạng.
Lạy Chúa, xin hãy thắp sáng lên trong trái tim con ngọn lửa thánh thiện và yêu thương của Chúa, để con cũng biết sống thánh thiện và yêu thương.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN_A
Lm. Anthony Trung Thành
Vào ban tối, cứ mỗi lần bị cúp điện, chúng ta tìm mọi cách để cho có ánh sáng: bấm đèn pin, thắp lên một ngọn nến, thắp lên một ngọn đèn dầu…Những lúc như thế, chúng ta mới thấy sự cần thiết của ánh sáng đối với đời sống con người như thế nào. Đức Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc của đời thường này để cho chúng ta biết Ngài chính là ánh sáng và mỗi người chúng ta được mời gọi phản chiếu ánh sáng của Ngài.
- Đức Giê-su là Ánh Sáng cho thế gian
Thật vậy, Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Chính Ngài đã khẳng định: “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Đức Giêsu chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, để dẫn bước chúng ta trên con đường tìm gặp Chúa. Khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, Tin mừng đã áp dụng lời tiên tri Isaia sau đây cho Ngài: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4,16).
Ánh sáng đó chính là con người của Ngài: Đó là ánh sáng bao phủ các mục đồng khi sứ thần loan báo tin vui; đó là ánh sáng của ngôi sao lạ chỉ đường cho các nhà đạo sĩ đến gặp Hài Nhi Giêsu; đó là ánh sáng chói lòa bao phủ lấy Ngài trong biến cố biến hình trên núi Taborê; đó là ánh sáng đã quật ngã Phaolô trên đường Đamát, khiến Phaolô từ một người bắt bớ các Kitô hữu đã trở thành người loan báo Tin Mừng.
Ánh sáng đó chính là Lời của Ngài: Lời của Ngài được ghi chép lại trong các sách Tin mừng. Lời đó cũng chính là giáo huấn của Ngài. Thật vậy, Lời của Ngài đã xua trừ ma quỷ. Lời của Ngài đã chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Lời của Ngài đã cho kẻ chết sống lại. Lời của Ngài đã biến đổi biết bao tâm hồn từ trong tối tăm của sự chết đến ánh sáng huy hoàng. Lời của Ngài là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi (x. Tv 119,105). Giải thích Lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường (x. Tv 119,130).
Ánh sáng đó chính là hiệu quả các Bí tích mà Ngài đã thiết lập: Bí tích Rửa tội xóa tan tội Nguyên tổ và các tội riêng, giúp con người trở nên con Thiên Chúa; Bí tích Giao hòa, trả lại cho con người tội lỗi trở lại tình trạng nguyên thủy ban đầu; Bí tích Thánh Thể, gia tăng ơn thánh hóa và giúp cho người Kitô hữu đón nhận chính Đức Giêsu…Như vậy, các Bí tích nhằm mục đích giúp con người lãnh nhận thêm ánh sáng của Đức Giêsu.
- Các con là Ánh Sáng thế gian
Chúng ta được đón nhận ánh sáng của Đức Giêsu ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Ngọn nến được trao cho chúng ta trong ngày hồng phúc đó chính là hình ảnh Đức Giêsu Kitô. Từ đó, chúng ta tiếp tục đón nhận ánh sáng của Đức Giêsu qua việc lãnh nhận các Bí tích, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa…Đặc biệt, chúng ta lãnh nhận ánh sáng Chúa Kitô qua đời sống cầu nguyện. Khi cầu nguyện là chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa. Nhờ cầu nguyện chúng ta được thêm sức mạnh, nạp thêm năng lượng thiêng liêng từ Thiên Chúa. Chính Mẹ Têrêxa Calculta đã nói: “Cầu nguyện là công việc nạp bình, còn hoạt động là công việc tỏa sáng.”
Khi đã đón nhận ánh sáng từ Chúa, chúng ta có nhiệm vụ chiếu tỏa ánh sáng đó cho những người chung quanh. Đức Giêsu đã nói “Chính anh em là ánh sáng thế gian.” (Mt 5,14); “Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.” (Mt 5,15-16).
Người kitô hữu cần tỏa ánh sáng của đời sống nội tâm. Khi chúng ta biết sống gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, qua việc lãnh nhận các Bí tích…thì sự thánh thiện sẽ được lan tỏa ra nơi chúng ta để cho người ta thấy, cả những khi chúng ta không nói gì. Ngày kia, thánh Phanxicô Assidi nói với một thầy dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.” Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà !” Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?” Câu trả lời của thánh Phanxicô Assidi thật là chí lý. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân.
Người kitô hữu cần tỏa ánh sáng bác ái yêu thương. Bài đọc I, tiên tri Isaia mời gọi chúng ta: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi.” (Is 58,7). Chính Đức Giêsu cũng đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau.”(Ga 13,35).
Ngoài ra, người kitô hữu cần chiếu tỏa nhiều loại ánh sáng khác nhau để hầu có thể xua tan bóng tối. Bởi vì, chúng ta đang sống trong một xã hội mà bóng tối tội lỗi lan tràn. Chúng ta không thể ngồi đó mà than thân trách phận, nhưng hãy chiếu tỏa ánh sáng, dù là một tia sáng nhỏ bé, như ai đó đã nói: “Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.” Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thắp lên một ngọn nến của tình thương và lòng tốt, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng được bóng tối, sự dữ, oán thù. Ánh sáng sẽ bừng lên. Tiên tri Isaia đã khẳng định: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm dọa, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày.”(Is 58, 9-10).
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại sân vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này.”
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: “Đã thấy!”
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: “Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.”
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!” Bỗng chốc, cả sân vận động trường rực sáng.
Ông John Kener kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta.”
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con luôn trở nên ánh sáng soi chiếu cho những người xung quanh, để qua đó họ nhận biết Chúa là ánh sáng thật, là ánh sáng dẫn đến nguồn ơn cứu độ. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trong năm qua, môi trường biển ở một vài vùng duyên hải Việt Nam bị ô nhiễm trầm trọng, giết hại hàng loạt các loài hải sản đủ loại, gây thiệt hại nặng nề cho ngư dân, gây hoang mang lo lắng cho rất nhiều người, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống người dân. Ngoài ra, môi trường nước trong nhiều sông suối ao hồ cũng bị ô nhiễm ở những mức độ khác nhau, gây tổn thất lớn lao cho nhiều hộ nuôi trồng thuỷ sản.
Bên cạnh sự ô nhiễm của môi trường nước, sự ô nhiễm của không khí tại một số thành phố lớn trên thế giới cũng lên đến mức báo động, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của nhiều người.
Ngoài sự ô nhiễm của nước, của khí trời… sự ô nhiễm của môi trường xã hội, đạo đức và văn hoá cũng đến mức báo động: Trào lưu ăn chơi, nhậu nhẹt, ma tuý, mại dâm… lan tràn khắp các phố phường đông đúc cũng như đến tận hang cùng ngõ hẻm; đủ mọi hình thức phim ảnh, ca nhạc, văn hoá đồi truỵ và độc hại được phổ biến khắp nơi; đạo đức xuống cấp, văn hoá suy đồi, lòng người đổi trắng thay đen; giá trị đời sống con người bị đảo ngược: Tiền bạc lên ngôi, lòng gian tham thắng thế… Lương tâm mất giá, lòng đạo đức và phẩm chất cao đẹp của con người bị coi rẻ và xem thường…
Nước ô nhiễm làm cho cá chết hàng loạt. Không khí ô nhiễm gây ra nhiều bệnh về đường hô hấp, đe doạ mạng sống con người. Theo chiều hướng đó, văn hoá và đạo đức bị ô nhiễm cũng nhận chìm nhiều tâm hồn trong sáng xuống vũng lầy tội lỗi.
Đứng trước nguy cơ đời sống đạo đức đang bị nhiều thứ ung nhọt làm cho ung thối, Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta hãy làm muối để “khử trùng” và ngăn ngừa ung nhọt. Ngài phán: “Anh em là muối cho đời…”
Đứng trước nguy cơ bóng tối tội lỗi đang bao trùm xã hội, Chúa Giê-su thúc giục chúng ta hãy toả sáng bằng các việc lành: “Anh em là ánh sáng cho trần gian…”
Xã hội hôm nay cần có nhiều “muối” để khỏi bị hư thối. Thế giới này cần có nhiều ánh sáng để xua tan bóng tối tội lỗi lan tràn. Sứ mạng của ki-tô hữu là muối ướp mặn đời, là ánh sáng soi chiếu cho thế gian. Vậy thì chúng ta phải xét lại mình và tự hỏi:
Tôi đã là muối chưa? Tôi đã toả sáng bao giờ chưa?
Tôi đã dùng lời nói, dùng việc lành, đã làm việc thiện, việc tốt để cảm hoá những người lầm lỗi chưa?
Nếu chưa, thì số phận của tôi sẽ ra sao?
Một bóng đèn điện đã hư hỏng rồi không còn sáng nữa, thì sẽ bị cho vào thùng rác. Một nhúm muối không còn mặn nữa sẽ trở nên vô dụng và bị vứt ra ngoài như lời Chúa cảnh báo hôm nay.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con cải thiện bản thân mình trước để có thể cảm hoá những người lầm lỗi chung quanh.
Xin giúp chúng con làm tròn sứ mạng làm muối cho đời, làm ánh sáng cho gia đình và những người chung quanh, bằng nhiều gương lành và việc tốt, để khỏi bị Chúa ném ra ngoài như thứ muối nhạt, để khỏi bị quẳng vào thùng rác như bóng đèn đã hư đi.
.
MUỐI CHO ĐỜI VÀ ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA:
- TIN MỪNG: Mt 5,13-16
(13) “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc qưăng ra ngòai cho người ta chà đạp thôi. (14) Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (15) Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. (16) Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.
- Ý CHÍNH:
Đây là đoạn Tin Mừng tiếp theo bài giảng về Tám Mối Phúc Thật, nhằm nói lên bản chất và sứ mệnh của người môn đệ trong xã hội trần thế. Bản chất việc tông đồ của họ là muối mặn ướp cho đời khỏi hư hỏng và là ánh sáng soi đường cho thế gian. Họ có sứ mệnh loan truyền Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Để chu toàn được sứ mệnh khó khăn này thì người môn đệ của Chúa phải trở thành thứ muối có chất mặn và là cây đèn có thể cháy sáng và được đặt lên đế đèn cao để soi sáng mọi vật trong nhà. Nghĩa là họ phải sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giê-su, để nhờ nếp sống tốt lành trổi vượt này, người đời sẽ được cảm hóa và đón nhận Tin Mừng do họ rao giảng.
- CHÚ THÍCH:
– C 13: + Muối cho đời: Muối là một chất phụ gia cần cho sự sống con người. Nó có tác dụng tẩy uế và sát trùng (x. Tl 9,45). Đức Giê-su muốn cho các môn đệ trở thành những người giữ cho xã hội khỏi hư hỏng tội lỗi, cũng giống như muối ướp thịt cá khỏi hư họai. Muối cũng làm cho đồ ăn được thơm ngon, là thứ gia vị cho mọi bữa ăn (x. Lv 2,13). Đức Giê-su muốn các môn đệ của Người phải cải tạo xã hội loài người ngày một tốt đẹp hơn theo Thánh Ý Thiên Chúa, cũng như chất muối làm cho các món ăn thêm đậm đà ngon miệng. + Muối mà nhạt đi: Ở đây nói đến thứ muối bị biến chất, không còn vị mặn nữa. Nhưng thực ra muối nào mà chẳng mặn. Khi dùng kiểu nói này, Đức Giê-su muốn dạy rằng: Môn đệ nào không sống đúng vai trò muối mặn, là một môn đệ bị biến chất, không còn là môn đệ thực sự của Người nữa. + Nó đã thành vô dụng: Muối mà ra nhạt sẽ chẳng ích lợi gì, không được dùng dù chỉ là làm phân bón. Người môn đệ cũng vậy: một khi không sống theo Tám Mối Phúc Thật, là tự đánh mất d0i sự cao quý của mình, và sẽ trở thành đồ hư vất bỏ đáng bị người đời khinh dể. + Chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi: Thời bấy giờ có nhiều người thường hay đổ các đồ phế thải ra ngòai đường cho người ta dẫm đạp. Số phận của người môn đệ biến chất cũng sẽ bị người đời chà đạp khinh khi như thế.
– C 14: + Ánh sáng: Có đặc tính chiếu soi, xua đuổi bóng tối và làm cho người ta nhìn thấy đồ vật chung quanh. + cho trần gian: Môn đệ là ánh sáng soi cho thế gian, phân biệt với Đức Giê-su chính là nguồn phát ra ánh sáng như lời Người nói: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46), và câu khác: “Hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,36). + Một thành xây trên núi sẽ không tài nào che giấu được: Cũng vậy, ánh sáng tự nhiên có khả năng lôi kéo sự chú ý của người ta. Đời sống người môn đệ Đức Ki-tô tất nhiên cũng ảnh hưởng tới người khác. Điều này không trái nghịch với lời cảnh giác các môn đệ Chúa phải tránh thói phô trương công đức như các người Pha-ri-sêu giả hình (x. Mt 6,1).
– C 15-16: + Cái thùng: là một dụng cụ đo lường đựng được khỏang 9 lít, dưới chân đế có ba hoặc bốn cái chân. + “thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng”: cũng giống như câu “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường ? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao ?” (x. Mc 4,21). + Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi: Ở đây nhắc đến mục đích và phương cách làm việc tông đồ: Môn đệ sống tốt lành là nhằm cho người ta ngợi khen Chúa Cha trên trời, chứ không tìm tiếng khen nơi người đời. Thánh Ky-sô-lô-gô (Chrysôlôgô) nói: “Nếu người Ki-tô hữu sống xứng danh Ki-tô hữu, thì chắc sẽ không còn người ngoại giáo nữa !”.
- CÂU HỎI:
1) Muối có đặc tính gì ? Đức Giê-su muốn môn đệ làm gì khi ví các ông với muối mặn ? 2) Muối nhạt đi ám chỉ điều gì nơi các môn đệ ? 3) Số phận của họ sẽ thế nào nếu họ trở thành đồ vô dụng ? 4) Phân biệt giữa ánh sáng của các môn đệ với ánh sáng của Đức Giê-su khác nhau ra sao ? 5) Đời sống của người môn đệ sẽ có tác động thế nào đối với người khác ? 6) Khi dạy môn đệ phải chiếu giãi ánh sáng trước mặt người đời bằng các việc lành, phải chăng Đức Giê-su muốn các ông bắt chước lối sống giả hình như bọn Biệt Phái ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ” (c. 16a).
- CÂU CHUYỆN:
1) HAI CÁCH ỨNG XỬ DẪN ĐẾN HAI KẾT CỤC TRÁI NGƯỢC NHAU:
Đức cha PHUN-TƠN SIN (Fulton Sheen) đã kể lại hai câu chuyện sau:
+ CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT: Tại một nhà thờ bên Nam Tư, một em lễ sinh đang giúp lễ cho cha già, đã vô tình đánh rơi làm bể lọ rượu lễ. Ngay lúc đó, vị linh mục dù đang dâng lễ, đã không kềm nổi sự tức giận, thẳng tay đánh em một bạt tai té giập vào tường. Ông còn thét lên: “Đồ nhãi ranh, làm ăn như vậy hả ? Mau cút ngay đi khuất mắt tao và nhớ đừng bao giờ vác mặt trở lại đây nữa nhé !” Cậu bé giúp lễ bị đánh rất tức giận. Cậu ta liền cởi ngay chiếc áo giúp lễ, rời khỏi nhà thờ và thề quyết sẽ không bao giờ thèm đặt chân vào nhà thờ nữa. Từ ngày đó, cậu ta trở thành kẻ thù của Giáo Hội. Về sau khi đã trở thành kẻ nắm giữ quyền hành lớn lao, ông ta luôn gây khó dễ và quyết tâm tiêu diệt Giáo Hội. Kẻ đó không ai khác hơn là thống chế Ti-tô, một thời cai trị nước Nam Tư cũ.
+ CÂU CHUYỆN THỨ HAI: Đức cha Phun-tơn tiếp tục kể câu chuyện về mình như sau: “Tôi còn nhớ rõ là hồi còn nhỏ, tôi đã ước muốn được giúp lễ phục vụ bàn thờ khi linh mục cử hành thánh lễ. Năm lên bảy tuổi, mẹ tôi rất có lòng đạo đã dẫn tôi đến gặp đức Tổng giám mục Giáo phận để xin cho tôi được vào ban lễ sinh giúp lễ tại nhà thờ. Một hôm, đến phiên tôi giúp lễ. Vì lần đầu làm công việc này, nên tôi cảm thấy lóng ngóng và lỡ tay làm rớt bình đựng rượu xuống nền cung thánh nhà thờ bể tan thành từng mảnh nhỏ. Ngay lúc đó tôi rất xấu hổ và sợ hãi, vì bọn giúp lễ chúng tôi kháo nhau rằng: Đức Tổng giám mục là một người rất nghiêm khắc. Thế nhưng biết tôi làm bể lọ rượu, mà ngài vẫn không mảy may phản ứng và cứ tiếp tục dâng thánh lễ như không có chuyện gì xảy ra cả. Sau khi thánh lễ kết thúc và cởi áo lễ xong, ngài gọi tôi đến gần. Tôi chuẩn bị tinh thần để nghe ngài quở mắng vì tội bất cẩn làm bể lọ rượu của mình. Nhưng sự thể lại diễn ra trái với tưởng tượng của tôi. Đức cha thân mật đặt bàn tay lên vai tôi rồi âu yếm nhìn thẳng vào mặt tôi và hỏi: “Này con, lớn lên con có muốn đi tu và vào đại học không ? Con có bao giờ nghe nói về đại học Lu-vanh (Louvain) chưa ?” Tôi đáp: “Thưa đức cha chưa ạ”. Ngài nói tiếp: “Con hãy về nhà thưa với mẹ con rằng: Đức cha bảo lớn lên con sẽ đi tu và sẽ vào học tại đai học Lu-vanh nhé”. Từ ngày đó, tôi cố gắng chăm chỉ học hành và mỗi năm đều đạt thứ hạng cao. Khi tốt nghiệp bậc trung học phổ thông, được cha mẹ đồng ý, tôi đã tự động đến gặp đức cha để xin ngài cho tôi được dâng mình cho Chúa và được vào chủng viện học làm linh mục. Vì là học sinh xuất sắc, tôi được đức cha cấp học bổng để vào đại học Lu-vanh là đại học rất danh tiếng thời đó. Sau 4 năm, tôi tốt nghiệp đại học với hạng ưu và được thụ phong linh mục, rồi một thời gian sau đó thành giám mục. Nghĩ lại cuộc đời của mình, tôi thấy phải cám ơn Chúa đã thương cho tôi có được cha mẹ thật tuyệt vời, đã yêu thương và nuôi nấng dạy dỗ tôi nên người. Nhưng người tiếp theo tôi phải đặc biệt ghi ơn chính là Đức Tổng giám mục Giáo phận. Ngài là người khoan dung độ lượng: đã không la mắng khi tôi sai lỗi mà thay mặt Chúa để kêu gọi tôi dâng mình cho Chúa ngay khi mới 7 tuổi. Cũng nhờ lòng khoan dung và sự quan tâm ưu ái của ngài, mà tôi mới được như ngày hôm nay.
2) GƯƠNG SÁNG PHỤC VỤ CỦA MỘT NỮ TU:
Gần đây một đoạn phim ngắn được chiếu trên đài truyền hình Pa-ri (Paris) nước Pháp: Đầu tiên người ta nhìn thấy trên màn ảnh nhỏ một đôi bàn tay xinh xắn và nõn nà đang săn sóc một vết thương lở loét trông thật ghê sợ. Tiếp theo là cảnh một nữ tu bác ái đội voan chùm đầu đang phục vụ một người bị bệnh phong. Rồi đến cảnh một khán giả đang ngồi xem truyền hình nói với người bên cạnh: “Có cho tôi một ngàn phờ-răng, tôi cũng không bao giờ thèm làm công việc ghê tởm ấy !”. Cuối cùng là cảnh phóng viên hỏi chị nữ tu kia: “Xin hỏi chị phục vụ các bệnh nhân phong ở đây được bao lâu rồi ?” Nữ tu trả lời: “Thưa được gần 20 năm”. Phóng viên hỏi tiếp: “Thế mỗi tháng chị nhận được thù lao bao nhiêu ?” Nữ tu trả lời: “Thưa không có đồng nào cả !”. Câu hỏi tiếp: “Có người nói: Dù có cho họ một ngàn phờ-răng, họ cũng không bao giờ thèm làm công việc ghê tởm này. Vậy tại sao chị lại bằng lòng làm gần hai mươi năm ?” Nữ tu trả lời: Tôi cũng vậy, có cho tôi một triệu phờ-răng tôi cũng không muốn làm. Nhưng chỉ vì lòng yêu mến Chúa Ki-tô mà những người bệnh này là hiện thân của Người, nên tôi sẵn sàng làm tất cả mà không đòi bất cứ thù lao nào hết !”.
3) PHƯƠNG CÁCH HỮU HIỆU ĐỂ XUA ĐUỔI BÓNG TỐI MA QỦI:
Ngày kia, các học trò của thầy HA-XI-ĐICH tại nước Ấn Độ đến than phiền với thầy về ảnh hưởng xấu của ma quỷ trên thế gian. Họ hỏi thầy phải làm thế nào để có thể xua đuổi bóng tối của ma quỷ?
Đầu tiên thầy Ha-xi-đich dạy học trò dùng chổi để quét bóng tối ra khỏi một căn phòng dưới tầng hầm. Dù ngạc nhiên trước lời dạy đó, nhưng họ cũng vâng lời làm theo. Nhưng sau nhiều giờ làm việc vất vả, họ vẫn không thể quét được bóng tối ra khỏi căn hầm nhỏ đó.
Tiếp đến thầy dạy dùng cây gậy đập vào bóng tối để xua đuổi ma quỷ ra khỏi căn phòng, nhưng vẫn uổng công vô ích. Lần thứ ba, thầy lại bảo các môn sinh hãy la hét nguyền rủa bóng tối. Nhưng dù họ đã cố gào thét khan cả cổ và tắt cả tiếng mà căn hầm vẫn tối thui.
Cuối cùng thầy Ha-xi-đich bảo các môn sinh:
– Hỡi các con, bây giờ mỗi người hãy đốt lên một cây nến.
Họ vừa làm theo thì kìa, lập tức bóng tối đã bị xua tan. Căn hầm đang tối tăm lạnh lẽo bỗng trở nên sáng rực và ấm cúng.
4) KHÁC BIỆT GIỮA SỰ HIỂU BIẾT VÀ SỰ GIÁC NGỘ:
Sau một thời gian dài học hỏi và tu luyện, một môn đệ đã lên tiếng hỏi sư phụ:
– Thưa thầy, khác biệt giữa sự hiểu biết và sự giác ngộ là gì?
Ông thầy mỉm cười và ôn tồn giải thích cho học trò:
– Sự hiểu biết cũng giống như “ánh sáng”. Nó như cây đèn cháy sáng giúp các con nhìn thấy con đường phải đi. Còn khi các con đã giác ngộ, thì chính mỗi người các con sẽ trở thành một cây đèn cháy sáng dẫn đường cho người khác.
Tin Mừng hôm nay cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên “Ánh Sáng và Muối Đất”. Đó cũng là lệnh Đức Giêsu truyền cho chúng ta: Một khi đã lắng nghe, suy niệm và sống Lời Chúa, thì bấy giờ chúng ta sẽ trở thành nguồn sáng, giúp tha nhân nhìn thấy Chúa Giê-su đang hiện thân qua lời nói và cách ứng xử của chúng ta. Nhờ đó họ sẽ tôn vinh Thiên Chúa trên trời là Cha chúng ta.
- SUY NIỆM:
1) ANH EM LÀ MUỐN ƯỚP CHO ĐỜI:
Ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn. Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư”.
Muối là gia vị thêm vào làm cho thức ăn được đậm đà ngon miệng, Từ đó nó tượng trưng cho tình nghĩa mà con người cần phải có để cuộc đời thêm tươi đẹp và ấm áp. Nếu không, cuộc sống sẽ “lạt như nước ốc, bạc như vôi”.
Lời Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay cho thấy sứ mạng của người tín hữu cũng giống như muối. Muối chỉ có giá trị khi tan ra và thấm nhập làm cho đồ ăn khỏi bị hư hỏng như câu : “Cá không ăn muối cá ươn”, hoặc làm cho các món ăn thêm đậm đà ngon miệng để tránh tình trạng “nhạt nhẽo vô vị”. Vị mặn là bản chất của muối. Nếu muối không còn vị mặn thì sẽ không còn là muối nữa và sẽ bị quăng ra đường cho người ta chà đạp. Cũng vậy, một khi người tín hữu đã mất phẩm chất là lòng nhân ái, thì họ không còn giá trị và sẽ bị người đời khinh dể.
2) ANH EM LÀ ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN:
– Sứ mệnh của ánh sáng là chiếu soi cho người ta thấy đồ vật trong nhà. Nhờ có ánh sáng soi đường mà người ta mới tránh được hố sâu nguy hiểm trên đường, và cũng nhờ có ánh sáng phát ra từ ngọn Hải Đăng mà con thuyền giữa biển khơi mới có thể cập bến an toàn.
– Tác giả sách Thánh Vịnh đã viết: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119.105). Lời Chúa bài đọc một hôm nay dạy chúng ta các việc bác ái cụ thể như sau: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông” (Is 58,10).
– Đức Giê-su trong bài Tin Mừng cũng dạy chúng ta: “Anh em là ánh sáng cho trần gian…. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,14.16).
3) ĐIỀU KIỆN ĐỂ MUỐI VÀ ÁNH SÁNG PHÁT HUY TÁC DỤNG:
– Muối và ánh sáng đều mang lại cho đời sự mặn mà tươi vui, mang lại cho tâm hồn niềm vui và sự an bình. Muốn vậy, muối và ánh sáng cần phải tự hủy và tan biến đi: Hạt muối phải bị hòa tan thì mới thấm nhập làm cho đồ ăn thêm đậm đà ngon miệng. Nến phải bị tiêu hao thì ánh sáng mới chiếu tỏa giúp người ta thấy đường đi.
– Nhiều người thường phàn nàn rằng: xã hội ngày nay quá nhiều tệ nạn và ngày một suy đồi xuống cấp. Nhưng họ lại không làm gì để chuyển hóa tình trạng suy đồi này nên tốt hơn.
Quả vậy, xã hội bị suy đồi là do nhiều nguyên nhân, trong đó có phần lỗi của chúng ta. Chẳng hạn: Có thể do muối trong chúng ta đã bị mất độ mặn, không còn đủ sức ướp cho tha nhân khỏi hư hỏng; Có thể do dầu trong cây đèn đức tin của chúng ta đã bị cạn, không còn cháy sáng đức ái, nên thế giới chung quanh ngày một chìm đắm trong bóng đen tối tăm tội lỗi. Điều mỗi người cần làm ngay là gia tăng độ mặn đức tin, thêm dầu ân sủng đức cậy và đức ái, và hợp tác với mọi người thiện chí chống lại ba thù là ma quỷ thế gian và xác thịt của mình.
4) PHẢI KHẮC PHỤC BÓNG TỐI TỘI LỖI CÁCH NÀO ?
– Văn sĩ người Anh Locke đã nói: “Thà thắp lên một ngọn đèn còn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng khẳng định: “Chính anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian”.
Ngày nay ma quỷ cũng đang bao phủ xã hội bằng bóng tối gian dối, hận thù, bất công, các tệ nạn xã hội cờ bạc hút xách, phim ảnh đồi truỵ… Tuy nhiều nước đã tốn bao công sức tiền bạc để chống lại các tệ nạn nói trên… nhưng đến nay kết quả vẫn như muối bỏ biển. Tuy nhiên có một phương thế hữu hiệu có thể giúp chiến thắng bóng tối tội lỗi nói trên là Lời Chúa với ơn phù trợ của Thánh Thần. Chúng ta hãy năng nghe đọc và cầu nguyện để sống Lời Chúa trong phụng vụ tại nhà thờ và trong Giờ Kinh Tối gia đình hằng ngày. Nếu mọi tín hữu đều ý thức tầm quan trọng và giá trị của Lời Chúa, thì gia đình, khu xóm và môi trường sống của chúng ta sẽ không còn tệ nạn, hận thù, ganh ghét và “Trời Mới Đất Mới” công bình nhân ái sẽ xuất hiện.
– Ngoài việc thánh hóa bản thân, mỗi tín hữu còn có sứ mạng phúc âm hóa môi trường xã hội mình đang sống, bằng việc phát hành các băng đĩa nhạc lành mạnh, lập các trang web đề cao văn hóa nhân bản, sáng tác các cuốn phim hay có sức lay động lòng người… Hội Thánh cũng rất cần có nhiều tín hữu chiếu sáng đức tin trong giới nhân sĩ trí thức, khoa học gia, văn nghệ sĩ, tại nghị trường, trường học, bệnh viện, sân thi đấu, phim trường… để làm chứng cho Chúa.
Tóm lại, để thi hành sứ mệnh làm muối ướp và ánh sáng cho trần gian, ít nhất mỗi người chúng ta cần thực hành Lời Chúa hôm nay: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày” (x. Is 58,7-10).
- THẢO LUẬN:
1) Trong lịch sử Việt Nam, bạn có biết những nhân vật người Công giáo nào đã để lại những công trình ích quốc lợi dân, làm rạng danh Thiên Chúa trước mặt đồng bào Việt Nam hay không ? Cụ thể: Đức cha A-lếch-xăng đờ Rốt đã để lại công trình nào ? Ông Nguyễn Trường Tộ đã làm gì ? Hàn Mặc Tử đã làm gì ? 2) Mỗi người chúng ta có thể làm gì để chiếu soi ánh sáng của Chúa cho đồng bào Việt Nam hiện nay chưa nhận biết Chúa ?
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã ban cho chúng con mặt trời chiếu sáng ban ngày và mặt trăng soi chiếu ban đêm. Chúng con xin Chúa giúp chúng con trở thành ánh sáng cho trần gian. Đây là niềm vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm phải chu toàn. Xin cho chúng con luôn có ánh sáng của Chúa trong lòng, để đi đến đâu chúng con cũng đẩy lùi tăm tối tội lỗi, bất công và thù hận. Xin giúp chúng con luôn giữ gìn ngọn lửa đức ái trong tim, và đi theo con đường Chúa soi dẫn trong mọi phút giây cuộc đời. Ước gì chúng con đừng ngồi đó mà nguyền rủi bóng tối, nhưng biết liên kết với mọi người thiện chí, cùng nhau phục vụ công ích, để môi trường sống là khu xóm và nơi làm việc tràn ngập ánh sáng tin yêu của Chúa.
– LẠY CHÚA. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng con phải trở thành muối mặn và chiếu ánh sáng giúp người đời nhận biết ca ngợi Chúa. Trong thực tế, xin Chúa giúp chúng con biết khuyên can bạn bè bằng lời nói chân tình phù hợp với hòan cảnh và khả năng của chúng con. Xin cho chúng con luôn quên mình yêu thương phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật, để nên muối men cho đời, trở thành ánh sáng chiếu soi trần gian. Xin cho các bậc cha mẹ biết nêu gương sáng công chính, hòa thuận, khiêm tốn và đạo đức khi phải giáo dục đức tin cho con cái. Xin Chúa giúp chúng con biết quên mình phục vụ những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi… Vì họ chính là hiện thân của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mọi người Ki-tô hữu chúng ta phải trở nên muối ướp và đèn soi. Chúa dùng hai hình ảnh cụ thể này để đưa ra một luật sống mà tất cả chúng ta phải tuân theo trong cuộc đời, nhất là trong xã hội hôm nay còn có nhiều người đang sống trong lạnh nhạt và trong bóng tối lầm lạc và tội lỗi.
Hình ảnh thứ nhất: “Các con là muối.” Chúng ta biết muối là vật dụng thường dùng trong việc nấu nướng thức ăn, và trong bất cứ một nhà bếp nào cũng có một hộp hay lọ muối, thậm chí trên các bàn ăn trong nhà hàng không thể thiếu một lọ muối. Không có muối thức ăn lạt lẽo, thiếu hương vị đậm đà. Ngày xưa không có muối ướp, đồ ăn nên hư thối. Chúng ta thường nghe nói: “Cá không ăn muối cá ươn.” Người Do Thái ngày xưa còn dùng muối làm phân bón. Vì vậy mà Chúa Giê-su nói: “Các con là muối đất.”
Chúa nói “các con là muối”, nghĩa là Chúa bảo chúng ta hãy sống những điều Ngài dạy để thứ nhất chúng ta thánh hoá bản thân, và thứ hai là giúp, hướng dẫn những người chung quanh sống tốt lành, thánh thiện và đạo đức. Nếu không thì chúng ta chỉ còn là cục muối đã nhạt, không còn ích lợi gì.
Một ngày nọ, người ta hỏi ông Gan-di, nhà ái quốc Ấn Độ, rằng: – Trước thảm hoạ nguyên tử, ông sẽ làm gì? Ông Gan-di trả lời: – Tôi sẽ cầu nguyện. Và được hỏi thêm: – Vì sao ông không theo đạo Công giáo? Ông trả lời: – Phúc Âm của Chúa Giê-su thì rất tốt lành, thánh thiện nhưng người Công giáo đã không sống Phúc Âm, nên không hơn gì chúng tôi. Câu trả lời này đúng như lời Chúa nói: Các con là muối đất, nếu muối đã nhạt đi, thì biết lấy gì mà ướp cho mặn lại. Chỉ còn ném ra ngoài đường cho người ta chà đạp.
Hình ảnh rất quen thuộc thứ hai mà Chúa Giê-su dùng để diễn tả người môn đệ, người Ki-tô chân chính là ánh sáng. Chúng ta biết có lần Chúa Giêsu đã xác quyết: “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong đêm tối, nhưng sẽ có ánh sáng đời đời.” Và hôm nay Chúa dạy các môn đệ phải là những cây đèn chiếu tỏa ánh sáng của Ngài ra thế gian, ra những người chung quanh. Chúa còn dạy chúng ta: người ta không thắp đèn rồi dấu dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn hầu soi sáng cho mọi người trong nhà.
Một người phụ nữ Việt Nam làm việc thu dọn phòng trong một khách sạn nổi tiếng ở Las Vegas đã kể lại một câu chuyện như sau. Vào một đầu tuần, một người đến thuê phòng tại khách sạn và mang theo một bao hành lý nhỏ. Khi chị đến dọn phòng sáng hôm sau, ông thò đầu ra ngoài và nói với chị là hôm nay ông không cần dọn phòng, chỉ đưa cho ông vài khăn lau mà thôi. Và mấy ngày hôm sau cũng vậy, cho đến cuối tuần, ông mới cho chị vào phòng để dọn sạch sẽ. Sau khi đã xong công việc, chị đi bộ qua nhà thờ chính tòa gần đó để tham dự Thánh lễ 5 giờ 30 chiều. Thình lình một chiếc xe phóng tới và đậu lại ngay bên chị làm chị giật mình. Người tài xế ngó đầu ra, chính là ông thuê phòng. Ông hỏi chị có cần ông đưa về nhà không. Chị nói với ông là chị đi tham dự Thánh lễ và nếu ông có thời giờ thì xin quá giang tới nhà thờ. Trên đường đến nhà thờ, ông hỏi chị dồn dập một số câu hỏi làm chị không kịp trả lời: “Cô có thường tham dự Thánh lễ không?” “Tại sao phải tham dự Thánh lễ mất thời giờ, trong khi nhiều người không đi?” “Bài giảng có hay không?” “Chị có chịu lễ không?”
Đến trước cổng nhà thờ, ông xin tham dự Thánh lễ cùng với chị. Chị cảm thấy hơi ngạc nhiên về ý định muốn tham dự Thánh lễ và những câu hỏi trên xe của ông. Chị càng ngạc nhiên hơn khi thấy ông quì chắp tay và nhắm mắt cầu nguyện suốt Thánh lễ. Sau Thánh lễ, ông đứng lên và đi nhanh ra ngoài, không nói một lời từ giã.
Ngày hôm sau, chị đi làm như thường lệ và khi đến phòng ông khách thì thấy giỏ hành lý đã biến mất, thay thế vào đó là một cái giỏ xách tay nhỏ và một lá thư. Chị mở ra đọc và có nội dung như sau: “Chào cô. Cái hộp trong giỏ này là món quà tặng cô vì một nghĩa cử thật tốt đẹp cô đã làm cho tôi mà cô không biết. Cuộc sống hôn nhân vợ chồng của tôi không được tốt đẹp. Tôi muốn ở khách sạn mấy ngày để tìm sự giải thoát, nhưng càng rối và xáo trộn hơn. Sau đó tôi đã gặp cô. Đức tin của cô vào Chúa đã làm cho tôi xúc động. Khi tham dự Thánh lễ với cô, đó là lần đầu tiên sau 10 năm bỏ xem lễ. Trong Thánh lễ, Chúa đã ban cho tôi một ơn sủng là biết thánh ý của Ngài cho tôi. Do đó, tôi quyết định trở về với vợ và gia đình của tôi. Tôi trở về với gia đình trong niềm tạ ơn Chúa, và tạ ơn cô đã là ánh sáng chiếu soi vào cuộc sống tăm tối tội lỗi của tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên ơn cô đã giúp tôi tái khám phá ra đức tin của tôi. Ký tên: Người khách.” Và trong túi nhỏ là một vòng đeo tay bằng vàng với cây Thánh giá cũng bằng vàng.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện trên đây là một hình ảnh tuyệt đẹp minh họa, phản ảnh cho điều Chúa dạy chúng ta “Các con là sự sáng thế gian. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời.”
Chúng ta đừng quên là bài Tin mừng hôm nay tiếp theo ngay sau bài Tin mừng tuần vừa qua về tám mối phúc thật. Điều đó có nghĩa là nếu chúng ta sống tám mối phúc, sống tốt lành, công bằng, ngay thẳng, sống bác ái, hy sinh và quảng đại, chúng ta sẽ trở nên muối và ánh sáng của Chúa. Chỉ có những hành động bác ái cụ thể như thế mới làm cho chúng ta trở thành muối và ánh sáng như Chúa muốn. Nếu không sống hy sinh, ngay thẳng, bác ái, quảng đại, thì dù có lãnh Bí tích Rửa tội, dù có đi lễ hay đọc kinh suốt ngày, thì đời sống chúng ta cũng chỉ là muối đã lạt, đèn chỉ còn leo lét hay đã tắt từ bao giờ, đâu còn ướp cho ai, đâu còn chiếu sáng cho ai!
Xin Chúa giúp chúng ta biết thẩm định rõ xem độ mặn và độ ánh sáng trong cuộc sống của mỗi người đang ở mức độ nào. Và cầu xin Chúa giúp chúng ta thành tâm lắng nghe và can đảm sống lời Chúa dạy để trở nên muối mặn và ánh sáng, giúp ích và chiếu soi vào cuộc đời những người sống chung quanh chúng ta.
.