CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH. NĂM C_2022

701

Lời Chúa: Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35

——

Mục lục

1. Giới răn mới  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Là môn đệ Thầy  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Xin hãy yêu thương nhau (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

4. Điều răn mới  (Lm. Thái Nguyên)

5. Giáo hội là Giáo hội của Đức Giêsu  (Jorathe Nắng Tím)

6. Sao lại là điều răn mới (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Giới răn mới.  (Lm. Phêrô Nguyễn văn Hương)

8. Vinh Danh Chúa  (Lm. Vũ Đình Tường)

9. Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật V Phục sinh_C (Lm. GB Phạm Hồng Thái)

10. Dòng chảy yêu thương(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

11. Tâm sinh tướng  (Trầm Thiên Thu)

12. Tập yêu thương nhau (Giuse Phạm Đình Ngọc SJ)

13. Yêu như Thầy Giêsu (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

14. Yêu như Thầy  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

 

GIỚI RĂN MỚI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Nếu trong tuần Bát nhật Phục sinh, Phụng vụ trích dẫn những chứng từ của những người đã mắt thấy tai nghe về Đấng đã sống lại từ cõi chết, thì trong mùa Phục sinh, Phụng vụ lại giới thiệu cho chúng ta sự phát triển kỳ diệu của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Quả thật, chỉ hơn 40 năm sau cái chết của Đức Giêsu, Đức tin vào Người đã lan rộng khắp nơi vùng Địa Trung Hải. Giáo lý của các tông đồ thời đó không cao siêu mang tính thần học hay triết học. Lời chứng của các ông rất đơn sơ, đó là Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Người đã chịu chết trên thập giá và đã sống lại như lời Thánh Kinh, và chúng tôi sẵn sàng làm chứng về điều đó, dù có phải đánh đổi bằng chính mạng sống mình.

Khi bầu khí sôi động của ngày lễ Phục sinh và tuần Bát nhật đã lắng xuống, Giáo Hội mời gọi chúng ta lắng đọng tâm hồn để suy niệm lời giáo huấn của Chúa Giêsu, đồng thời cảm nhận Đấng Phục sinh đang hiện diện và tiếp tục giáo huấn chúng ta, để chuyên cần thực thi những lời dạy ấy. Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến hai chữ “yêu thương”.

Yêu thương đã là một trong những điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn của Cựu ước. Yêu thương là cốt lõi trong lời dạy của Chúa Giêsu, đến nỗi Chúa gọi đó là giới răn mới, và là giới răn của Người. Yêu thương không phải một mệnh lệnh. Vì tình yêu không bao giờ cưỡng ép và bó buộc, nếu không chẳng còn phải là tình yêu. Tình yêu luôn là tự nguyện, là sự gắn bó thật lòng, chứ không phải giả tạo hay nhẫn nhịn. Thiên Chúa không buộc chúng ta phải yêu Ngài. Nhiều người coi tình yêu như một điều ràng buộc, nên làm giảm bớt ý nghĩa của tình yêu. Mẫu mực cho tình yêu mà Đức Giêsu đề nghị chính là bản thân Người. Hãy yêu như Thày đã yêu. Chúa Giêsu mời gọi tình yêu thương không giống như bác sĩ kê đơn cho bệnh nhân, với điều kiện nếu mua và dùng thuốc này thì sẽ khỏi bệnh. Tình yêu Chúa đề nghị không kèm theo điều kiện nào. Đó là tình yêu cho đi, dựa trên mẫu mực là chính Chúa Giêsu. Quả vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa cao sang đã huỷ mình ra không, trút bỏ mọi danh sự vinh quang, đã hy sinh mạng sống vì yêu thương nhân loại. Yêu như Thày đã yêu chính là bài học từ cây thập giá.

Như vậy, theo Chúa Giêsu, đâu là người môn đệ đích thực: phải chăng là người đi tham dự thánh lễ thường xuyên? Phải chăng là người siêng năng cầu nguyện và rước lễ? Những thực hành này rất cần và rất tốt, nhưng còn thiếu nếu chúng ta chỉ dừng lại ở đó. Người môn đệ đích thực được Chúa Giêsu khẳng định: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”. Có thể nói, khi chuyên tâm thực hành giới răn mới của Chúa Giêsu là chúng ta chu toàn mọi lệnh truyền và giáo huấn của Cựu ước. Sau này, thánh Phaolô khẳng định: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).

Chính tình yêu thương đã giúp cho Tin Mừng lan rộng nhanh chóng và cộng đoàn Đức tin cũng được thăng tiến phát triển. Bài trích sách Công vụ Tông đồ nhắc tới những địa danh khác nhau trong hành trình truyền giáo của thánh Phaolô và thánh Barnaba cho thấy hoa trái dồi dào của công cuộc truyền giáo thuở ban đầu. Với nỗ lực cố gắng của các tông đồ, rất đông những người ngoài Do Thái trở lại và đón nhận Đức tin. Một số tín hữu, vì tin vào Chúa Giêsu mà bị các kỳ mục Do Thái và nhà cầm quyền thù ghét, nên phải bỏ quê hương đến lánh nạn ở nơi khác. Điều kỳ lạ là đi đến đâu, họ tiếp tục loan báo Danh Đức Giêsu với niềm xác tín. Danh thơm tiếng tốt của các Kitô hữu đến từ việc thực thi những hành động yêu thương, như lời Chúa Giêsu mời gọi.

Tình yêu dành cho tha nhân diễn tả tình yêu ngàn đời của Thiên Chúa, và làm cho tình yêu Thiên Chúa hiện hữu nơi cuộc sống hằng ngày. Yêu thương cũng giúp người Kitô hữu trải nghiệm hạnh phúc thiên đàng ngay nơi trần thế. Thánh Gioan Tông đồ trong một thị kiến đã thấy thành Giêrusalem mới. Nơi đây không còn những đau khổ và nước mắt. Nơi đây, Thiên Chúa ở với con người. Đúng hơn, con người được hoà mình vào đại dương mênh mông của tình yêu Ba Ngôi. Nhờ được kết hợp với Ba Ngôi Thiên Chúa, con người trở nên thần thiêng và bất tử. Đó chính là lý tưởng của đời sống Kitô hữu. Nhờ Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô, những ai sống công chính sẽ được gia nghiệp muôn đời nơi Thiên Chúa. Hạnh phúc hôm nay khởi đầu cho hạnh phúc mai sau. Yêu thương như Thày Giêsu, đó là bí quyết giúp chúng ta đạt đến hạnh phúc ấy.

Về mục lục

LÀ MÔN ĐỆ THẦY

Lm. Jos DĐH.

Được – mất, thắng – thua, thành công – thất bại, những cụm từ đối nghịch nhau, mà thông thường ai cũng thích vế trước, vì mọi người đều quen hướng đến một thao thức làm gì để có: vinh dự, hạnh phúc. Kinh nghiệm các đấng bậc để lại cho hậu thế: đừng sợ thua thiệt, mà hãy sợ bạn chưa cố gắng hết sức. Đừng sợ thất bại, vì chưa thành công, chẳng qua đó là cơ hội để bạn bắt đầu mọi thứ cách thông minh hơn. Đừng mơ một cuộc sống chỉ có được mà không có mất, nhưng hãy sống thật cho mơ ước hạnh phúc của mình. Cuộc sống luôn nhắc ta về trách nhiệm phải trả bài, vì ta từng ngồi ghế nhà trường, tuy không phải tương quan xã hội làm lệch đi tính triết lý, mà bài học thực tế nơi mỗi người chính là đáp án về việc ta đang làm đẹp hoặc chưa đẹp của mình.

Tại sao người xưa nói: không có con đường tắt nào dẫn đến thành công ? Không có phương pháp nào là vạn năng, trong toàn bộ tiến trình giáo dục trẻ ! Ấy vậy, người trẻ hôm nay lại rất tâm đắc với câu thành ngữ: nếu có phương pháp thì “tệ” cũng thành “tài”, không có phương pháp thì “tài” cũng thành “tệ”. Nỗ lực chăm chỉ, làm nên thành công đâu phải là không hợp lý, thời thế tạo anh hùng hoặc anh hùng tạo thời thế, không phải là chuyện lạ. Nhưng “căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ Thầy: là các con hãy yêu thương nhau”, đúng thật đó là điều phi thường. Được xếp vào hàng ngũ các học trò của người tài, người nổi tiếng, đã khó rồi. Trong khi được công nhận là môn đệ của Đấng là Thầy, là Chúa, quả là mơ cũng mấy ai có ?

Tại sao cổ nhân nói: thà rằng cô đơn vì không có ai để yêu, còn hơn yêu ai đó mà vẫn cô đơn ? Thà rằng ăn bát cơm rau, còn hơn thịt cá nói nhau nặng lời ! “Thà làm kẻ giữ cửa nhà Đức Chúa, còn hơn là sống trong trại kẻ dữ”. (Tv 84, 11). Đúng, yêu mà vẫn cô đơn có thể là yêu nhầm, hoặc ta quan niệm chưa chuẩn về “tình yêu” ? Chắc chắn không ai nghĩ quanh năm suốt tháng ăn rau mà đủ dinh dưỡng, cũng không ai muốn sau khi hoàn tất cuộc đời này, mà cứ đứng mãi ở cửa thiên đàng ? Suốt 33 năm tại trần thế, Đức Giêsu đã minh chứng Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa: yêu đến cùng, sẵn lòng hiến dâng mạng sống cho người mình yêu ! “Bây giờ Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Ngài”. Cũng là câu trả lời cho các học trò và chúng ta hôm nay, tại sao Giuđa ra khỏi phòng tiệc ly, mới là lúc Đấng là Thầy là Chúa phải đối diện với khổ đau thập giá, phải bị cám dỗ về tinh thần thể xác, quả là khủng khiếp !

Nếu là đệ tử của những người có danh tiếng, là con ông cháu cha của những vị có thế lực, hẳn ta cũng được xã hội vị nể, ưu đãi. Nếu là môn đệ, là học trò Đức kitô, nhất định chúng ta không thể im lặng trước con đường Thầy đã đi, đã truyền dạy. Thực thi giới luật yêu thương chính là sống tinh thần người môn đệ: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Nhiều người trong chúng ta đã nói, đã nghe: con người được tạo ra từ “yêu thương”, vật chất được làm ra để sử dụng, nhưng hà cớ gì mà vật chất được yêu thương, còn anh chị em mình lại bị lợi dụng ! Được quyền cao chức trọng, được giầu sang phú quý, ở đời này vẫn được xem là thành công, khối kẻ mơ ước. Hiện tại, bạn và tôi đang tìm kiếm thành công hạnh phúc nào, có khao khát được trở thành học trò, trở thành môn đệ Đức Kitô không ?

Đừng bao giờ hỏi, ai là người yêu thương tôi, mà nên hỏi: tôi phải sống thế nào để có hạnh phúc ? Đừng cố dương đông kích tây, luồn lách, để mong có thành công ở đời này. Đừng cố “tu tập” để mong thoát khổ, mà hãy tu học, hãy thực hành đức ái theo tinh thần của Thầy Giêsu, để thực sự có hạnh phúc. “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con, thì các con hãy yêu thương nhau”. Sống yêu thương, là được trở nên môn đệ của Thầy Giêsu. Thực hành bài học yêu thương, là đang được biến đổi nên giống Thầy Giêsu, được nên một tình yêu duy nhất và được gọi Thiên Chúa là Cha. Trở nên môn đệ của Thầy Giêsu, là nối tiếp sứ vụ yêu thương của Đấng là Thầy là Chúa, là đi con đường khổ đau thập giá, là làm cho tình yêu Thiên Chúa thật sự sống động trong các tương quan.

Có một nơi để về đó là nhà, có những người để yêu thương đó là gia đình, biết ý thức sống hai mục tiêu đó là hạnh phúc. “Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, …”. Mỗi người chúng ta sẽ được vinh hiển, nhưng không phải nhờ tài giỏi, giầu có, mà là thực sự trở nên môn đệ Thầy Giêsu, đã và đang sống giới luật yêu thương. Lý lẽ cuộc đời luôn phong phú, đầy tính lãng mạn: hoạ sĩ biến thơ thành tranh đẹp, nghệ sĩ biến tranh thành âm nhạc hay. Do đó, nhiệm vụ cao quý của nghệ thuật là đưa điều hay lẽ phải vào sâu thẳm trái tim con người, hầu trổ sinh hoa trái hạnh phúc. Vâng, hạnh phúc sẽ không tự nhiên đến, hạnh phúc sẽ đến từ những hành động của ta: “cứ dấu này mà thiên hạ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”. Amen.

Về mục lục

XIN HÃY YÊU THƯƠNG NHAU

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Nhân loại ai cũng mong cho thế giới được hiệp nhất và bình an. Ai cũng mong cho con người biết sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Thế nhưng ước mơ tưởng chừng như nhỏ bé ấy vẫn là hoài bão từ bao đời nay. Thế giới vẫn còn chiến tranh, hận thù. Lòng người vẫn còn oán trách, tị hiềm lẫn nhau.

Sở dĩ con người chưa xây dựng được thế giới hiệp nhất yêu thương là bởi vì con người chưa dẹp được cái tôi của mình. Cái tôi luôn muốn hơn người khác. Cái tôi luôn muốn chiếm đoạt về cho mình. Nói tóm lại, cái tôi thường tham lam và ích kỷ. Khi con người không thắng được lòng tham nghĩa là con người đã hết yêu thương, lúc này người ta bất chấp chấp tất cả để được điều mình muốn. Nhưng lòng tham được ví như một cái thùng không đáy, có bao nhiêu cũng không đủ. Khi không có thì muốn có, khi có rồi, lại muốn có nhiều hơn. Do đó con người ta phải cả đời làm lụng nhọc nhằn, vất vả để được sung sướng để thỏa mãn lòng tham muốn. Nhưng vì lòng tham là vô tận, người không biết dừng thì không bao giờ thấy đủ, do vậy cả đời là khổ, nhiều khi gây vạ vào thân.

Cũng chính vì lòng tham khi không kiểm sóat được mà dẫn đến những tranh quyền đoạt vị, những lừa đảo chiếm đoạt, những ganh ghét dèm pha, những hạ bệ và loại trừ lẫn nhau. Cuộc sống chung với nhau yêu thương thì ít đấu đá nhau thì nhiều. Chia sẻ thì ít, tranh dành nhau thì nhiều. Nhường nhịn thì ít xô đẩy nhau thì nhiều.

Người Công Giáo sống giữa thế gian lắm thị phi được mời gọi sống chứng nhân cho tình yêu. Yêu thương thì phải chia sẻ, phải đùm bọc lẫn nhau nên cần loại bỏ tính tham lam , ghen ghét và đố kị. Vì chính Chúa Giê-su đã nói giới răn quan trọng nhất chính là “hãy yêu thương nhau”. Tình yêu thương sẽ giúp chúng ta vui với người vui và khóc với người khóc. Tình yêu thương sẽ giúp chúng ta biết sống công bằng bác ái với nhau. Không vì cái thích của mình để rồi lỗi công bằng với tha nhân.

Theo sách Tông đồ công vụ, Giáo hội sơ khai được toàn dân thương mến vì họ sống tình yêu thương và hiệp thông với nhau. Hiệp thông trong cầu nguyện và yêu thương trong sự đùm bọc lẫn nhau để không ai bị đói, bị khổ, bị cô đơn ngay giữa anh em mình. Chính vì tình yêu thương và hiệp nhất mà họ đã làm nên một cộng đoàn duy nhất để loan truyền tin mừng cho thế gian.

Ước mong lời di chúc của Chúa được thể hiện nơi mỗi người chúng ta khi biết từ bỏ cái tôi của mình để hòa hợp chia sẻ với nhau. Và xin hãy yêu thương nhau , vui với ai mừng vui, khóc với ai đang khổ sầu để tình yêu được tỏa sáng giữa thế giới hôm nay. Amen

Về mục lục

ĐIỀU RĂN MỚI

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới: hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu thương nhau trở thành điều răn mới, vì không còn yêu theo kiểu cũ là yêu như chính mình, hoặc yêu như chúng ta muốn yêu; mà là yêu như Chúa muốn chúng ta yêu, là yêu như Ngài đã yêu thương chúng ta. Trước khi công bố điều răn mới này, Ðức Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, trong đó có Giuđa. Dù lúc đó biết ông sẽ phản bội, nhưng Ngài vẫn cúi xuống bên chân ông để bày tỏ tình yêu thương đối với ông. Ngài còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa, như cơ hội cuối cùng để mong ông nhận ra mình đang lầm đường lạc lối. Nhưng rồi cũng vô ích, ông vẫn lầm lì ra đi thực hiện mưu đồ của mình. Đúng là “ma đưa lối quỷ đưa đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”.

Trước thái độ cố chấp của Giuđa, Chúa Giêsu biết rõ số phận đang chờ mình, và Ngài sẵn sàng hiến thân để yêu thương cho đến cùng. Yêu như Chúa yêu là như vậy: một tình yêu khiêm hạ, cúi mình để phục vụ; một tình yêu tha thứ trước sự vong ân bội phản; một tình yêu cho đến cùng dù phải hy sinh chính mình. Tôn giáo nào cũng đặt nặng tình yêu thương đồng loại, nhưng điều thật mới mẻ nơi Kitô giáo là yêu thương“như Thầy đã yêu thương”. Tình thương này đã trở nên mẫu mực cho mọi tình yêu của con người. Chưa từng có vị Thầy nào trên thế giới đã dám sống và công bố như thế. Hơn nữa, tình yêu ấy còn là chính sức mạnh linh thiêng đem lại ơn cứu độ cho con người.

Lời trăn trối về giới răn mới của Chúa Giêsu vẫn làm chúng ta trăn trở và nhức nhối. Tuy có nhiều gương sống sáng ngời của nhiều vị thánh đã thực hiện Lời Chúa hôm nay, nhưng nhìn lại bản thân, đời sống cộng đoàn cũng như lịch sử Giáo Hội, ta thấy không thiếu những phân rẽ, bất hòa, kỳ thị, chống chọi, kình địch và triệt hạ lẫn nhau. Điều này đã làm cho thiên hạ chê cười, và gây ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống đức tin, khiến nhiều tín hữu rời bỏ Giáo hội để tìm đến những giáo phái hay đạo giáo khác. Thật mỉa mai cho chúng ta, những người tự hào về tôn giáo của mình là đạo rất chính rất thật, nhưng đời sống lại không chính thật, khiến cho nhiều người phải thất vọng.

Mahatma Ghandhi được coi như bậc đại thánh của dân tộc Ấn cũng đã có lần bị kỳ thị và khinh khi, đến nỗi ông không được vào nhà thờ dự lễ. Ông là người rất yêu mến Thánh Kinh và đã tìm ra nơi Kitô Giáo một sách lược hữu hiệu cho đường lối chính trị của mình. Quả thật, dễ dàng yêu mến đạo, nhưng khó lòng yêu người có đạo. Đường lối yêu thương của Phúc Âm thì tuyệt vời, nhưng chưa đi vào đời mà mới chỉ là một mớ giáo thuyết, tuy rất đồ sộ và hệ thống, xem ra không có tôn giáo nào bằng. Nhưng tất cả chỉ bằng không nếu điều răn mới của Đức Giêsu vẫn còn để nguyên trong các sách Tin Mừng, mà chưa được khai sáng trong đời Kitô hữu để có thể khai phóng cho đời sống con người.

Tôn giáo nào cũng có những dấu hiệu riêng để người khác biết mình là tín hữu. Những dấu hiệu nơi người Kitô hữu thì chúng ta thường cho là đeo thánh giá, làm dấu thánh giá, đi nhà thờ, kinh nguyện sớm tối,… Nhưng đối với Ðức Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của người môn đệ là tình yêu thương mà họ dành cho nhau, qua sự cảm thông, tha thứ, tôn trọng, hy sinh, phục vụ, chia sẻ,… Có yêu thương người đồng đạo thì ta mới có thể yêu thương người khác đạo, cũng là những người con cái Thiên Chúa mà Ngài muốn cứu chuộc. Chúng ta trách những con người hôm nay sao quá vô cảm, nhưng xem ra chúng ta cũng vẫn vô tâm.

Có điều là muốn yêu thương thì phải chấp nhận đau thương. Đây là điều đòi phải có một trái tim phi thường. Nhìn lên thập giá Chúa ta hiểu điều đó. Đó mới là tình yêu có sức thánh hóa và biến đổi đời sống ta. Chỉ có tình yêu đó mới giúp ta hoàn thiện, trở nên chính mình, làm nên cuộc đời mình theo ý định của Thiên Chúa, đem lại cho ta niềm an vui và hạnh phúc cho nhau. Hãy để cho Lời Chúa một lần nữa lọt vào tâm khảm chúng ta, để những con người được Chúa chọn gọi vì yêu thương biết sống tình thương yêu như Chúa, một tình yêu thương vượt qua mọi ranh giới, để làm chứng rằng: Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang sống trong tôi, và tôi đang sống trong Ngài, để sự hiện diện của tôi ngày càng phản ảnh sâu xa sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời này.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Con được dạy yêu thương như chính mình,
nhưng chính mình lại yếu đuối mỏng giòn,
cuộc sống với bao nhiêu là sai sót,
nhân cách con cũng dễ bị sói mòn,
dễ tham lam chiếm hữu lo hưởng thụ.

Hôm nay Chúa dạy con điều răn mới,
yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương,
một tình yêu nhân hậu và khiêm nhường,
như Chúa đã rửa chân cho đồ đệ.

Dù biết họ sẽ lỗi ước quên thề,
và hơn nữa còn manh tâm phản bội,
nhưng Chúa vẫn đón nhận không từ chối,
và sẵn sàng chọn đường lối hiến thân.

Yêu như Chúa yêu thật chẳng dễ dàng,
vì không phải tình yêu trong chốc lát,
mà tình yêu dám vượt những trái ngang,
cả đau thương và chua xót bẽ bàng.

Yêu như Chúa không tìm kiếm an toàn,
mà trong tâm thế sẵn sàng hiến mạng,
bởi khi yêu là bắt đầu cuộc tử nạn,
qua đau khổ mới đạt tới vinh quang.

Để yêu như Chúa yêu,
con cần đến ơn thánh Chúa rất nhiều,
vì con thấy bản thân mình quá yếu,
và nghị lực chẳng có được bao nhiêu.

Để sống giới răn mới,
xin ban cho con một quả tim mới,
để từ nay con thực sự đổi đời,
nên hình ảnh sáng ngời tình yêu Chúa. Amen.

Về mục lục

GIÁO HỘI LÀ GIÁO HỘI CỦA ĐỨC GIÊSU

Jorathe Nắng Tím

Có nhiều khi chúng ta sinh hoạt như thể Giáo Hội là Giáo Hội của chúng ta, mà không là Giáo Hội của Đức Giêsu; hành xử như Giáo Hội thuộc về chúng ta, mà không phải chúng ta thuộc về Giáo Hội; và hành động như thể Giáo Hội là phương tiện thuộc quyền sở hữu, xử dụng của chúng ta theo chương trình của chúng ta, mà quên hẳn Giáo Hội là dấu chỉ của công trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta.

Thực vậy, vì nhìn sai, nhận định không đúng về Giáo Hội, mà trong đời sống, chúng ta gặp nhiều lúng túng, lấn cấn với Giáo Hội, và đời sống Kiô hữu của chúng ta thường xuyên bất ổn.

Để trở thành một Kitô hữu đích thực hạnh phúc, trước hết chúng ta cần xác định: Giáo Hội là Giáo Hội của Đức Giêsu, vì một lý do đơn giản: chính Đức Giêsu đã thành lập Giáo Hội trên tảng đá Tông Đồ trưởng  Phêrô  của Ngài, chứ không phải các Tông Đồ đã lập Giáo Hội trên nền tảng “Đức Giêsu” như Tin Mừng đã chi tiết ghi lại : “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phêrô, nghiã là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và  quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).

Vì là Giáo Hội của Đức Giêsu, nên những người thuộc về Giáo Hội phải công bố, loan truyền  qua tiếng nói và việc làm niềm tin của mình vào Đức Giêsu, và sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ  của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu. Nói cách khác,  tuy thuộc về Giáo Hội, nhưng chúng ta không được tự cho mình là nguồn ơn cứu độ, là người có quyền cứu độ, như một số người quên sứ vụ “thừa tác” của mình, mà  “vô ý, vô tình” tự đồng hóa mình với Thiên Chúa, tự nâng mình lên hàng “Đấng ban ơn cứu độ” cho anh em mình.

Thực vậy, nguy cơ lớn nhất của những người thuộc về Giáo Hội, nhất là khi được đặt vào vị thế có quyền quản trị Giáo Hội, là nghĩ mình sở hữu Giáo Hội, khi lầm tưởng Giáo Hội từ nay thuộc về mình, và không còn là Giáo Hội của Đức Giêsu, khi mắt bị mờ trước những thành quả lớn lao, hoành tráng của mình trong Giáo Hội.

Bởi thế, bao lâu Giáo Hội, được hiểu là chúng ta, những người Kitô hữu ở bất cứ vị thế, và  mang bất cứ trách nhiệm nào trong Giáo Hội, còn biết mình là dấu chỉ hữu hiệu của ơn cứu độ, còn chân nhận Đức Giêsu là Đầu của Giáo Hội, là Mục Tử tối cao của đoàn chiên “Dân Chúa”, và luôn khiêm tốn đặt mình dưới sự hướng dẫn và sinh động của Chúa Thánh Thần, bấy lâu Giáo Hội còn xứng đáng là Hiền Thê yêu dấu của Đức Giêsu, “Đấng yêu thương và hiến mình vì Giáo Hội” ( Ep 5,25).

Chính vì lý do này mà  chúng ta cần:

a/ Ý thức sứ vụ cầu nguyện của mình, và không coi việc cầu nguyện như phương tiện; trái lại, cầu nguyện là không gian và thời gian để nhận ra Giáo Hội là Giáo Hội của Đức Giêsu.

b/ Ý thức sứ vụ cử hành bí tích của mình chính là lúc chúng ta nhận ra mình bất xứng, đồng thời tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng hoạt động trong Giáo Hội để cứu độ nhân loại, và chính Giáo Hội hằng ngày được lớn lên, lan rộng nhờ cử hành các bí tích.

c/Sau cùng, chúng ta ý thức sứ vụ truyền giáo của mình là “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại” trước mặt và cho muôn dân để toàn thể nhân loại đi vào tương quan Cha Con với Thiên Chúa, khi nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ nhân hậu, giầu lòng thương xót, Đấng ban cho tất cả những ai tin vào Ngài  ơn tha tội và sự sống đời đời.

Xin Đức Giêsu phục sinh ban cho chúng ta tình yêu Giáo Hội, vì thiếu tình yêu dành cho Giáo Hội, chúng ta sẽ dễ biến Giáo Hội thành một phe đảng, một tổ chức “vụ lợi” dưới nhiều hình thức, hoặc một phương tiện “toàn năng” nhờ  vỏ bọc “thần quyền”, và xin cho chúng ta lòng khiêm tốn biết mình bất xứng với ơn gọi và đặc ân làm người Kitô hữu bằng tháp nhập, cậy dựa vào Đức Giêsu, qua đời sống cầu nguyện, đón nhận các bí tích và hăng say, nhiệt thành loan báo Tin Mừng để góp phần làm cho Giáo Hội ngày càng xinh đẹp, thánh thiện và tinh tuyền, xứng đáng là Dấu Chỉ Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa giữa loài người.

Về mục lục

SAO LẠI LÀ ĐIỀU RĂN MỚI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Với tình Thầy trò dốc bầu tâm sự trước lúc chia tay đôi ngả đôi nơi, Chúa Giêsu nói: “Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 35).

Điều Răn Mới

Câu hỏi được đặt ra: Phải chăng chúng ta dùng những tình cảm tự nhiên để yêu thương như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, con cái yêu thương cha mẹ, đồng lớp đồng niên yêu nhau, nam nữ yêu nhau là cổ hủ lỗi thời, hay khác với tình yêu Đức Kitô đã yêu chúng ta sao mà Người còn phải truyền dạy chúng ta một “Điều Răn Mới”?

Mới ở chỗ nào khi tình yêu phát xuất từ con tim, lòng không yêu thì làm sao bắt buộc phải yêu? Tình yêu là cả vùng trời bao la bát ngát, người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực.  Cuộc sống cần tình yêu. Nhân loại cần tình yêu. Mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người. Có bao nhiêu cuốn tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiêu bài thơ, ca, hò, vè, phim truyện, tiểu phẩm, bài hát hay quảng cáo là có bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Tình yêu là tặng phẩm quí báu Thiên Chúa ban cho nhân loại, sống yêu là sống trong hy vọng. Vì muốn chúng ta hạnh phúc, nên Chúa truyền dạy: “Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).

Mến Chúa như Chúa yêu ta

 “Mến Chúa” là điều răn thứ nhất và trọng nhất. Sau khi sống lại Chúa Giêsu hỏi Phêrô đến ba lần “con có yêu mến Thầy không?” Ông đều xác nhận “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15-17). Một Hội Thánh thiếu gì chứ thiếu tình yêu là điều không thể. Chồng khao khát tình yêu của vợ, cha mẹ khao khát tình yêu của con cái, thì Chúa cũng khao khát tình yêu của chúng ta đối với Chúa. Thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8). Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào lỗ mũi để con người được sống, Thiên Chúa cũng thông ban tình yêu cho con người (x. St 2,7).

Mượn lời của Phêrô, chúng ta thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu mến Chúa”. Tuân giữ Lời Chúa chứng tỏ rằng chúng ta yêu Chúa.

Yêu người như Chúa yêu

Thiên Chúa là Tình Yêu, Đạo chúng ta là Đạo yêu thương. Chúa dạy chúng ta phải yêu nhau vì Chúa đã yêu chúng ta trước: “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).

Chúng ta thấy đôi nam nữ yêu nhau, đó là tình yêu. Trong gia đình, cha mẹ, con cái, anh chị em họ hàng mến thương nhau, đó là tình yêu. Những người đồng lớp, đồng niên yêu thương nhau cũng là tình yêu. Tình yêu Kitô giáo mới ở chỗ, trong tình yêu có lòng nhân từ và thương xót, tiếp Hy lạp gọi là Agape. Yêu người khác không phải là cảm xúc thương hại, nhưng là yêu có lý chí, luôn muốn điều tốt cho mọi người. Không cảm thấy đắng cay và không ý thức trả thù.

Yêu nhau là dấu hiệu có Thiên Chúa ở cùng (x.1Ga 4,12). Yêu nhau chứng tỏ rằng chúng ta yêu Chúa, là môn đệ Chúa như Chúa Giêsu nói: “Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau” (Ga 13,35-35).

Mới ở chỗ yêu cả kẻ thù, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ (x. Lc 6,27). Giống như Thiên Chúa khiến mặt trời mọc lên soi chiếu người lành cũng như kẻ dữ, làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương (x. Mt 5,45). Yêu người yêu mình, yêu người đáng yêu, thì ai cũng yêu được, song yêu người ghét mình, yêu người không đáng yêu, mới là tình yêu, vì đó là tình yêu Chúa, Thiên Chúa đã yêu chúng ta như vậy đấy.

Có người nói tình yêu Thiên Chúa ban cho con người để thương yêu nhau. Nơi đâu thiếu sự yêu thương, nơi đó sinh ra lộn xộn. Nhìn vào thế giới chúng ta đang sống, chắc hẳn chúng ta cũng nhận thấy tình yêu thương đang héo úa dần, nên bất an, loạn lạc, chiến tranh về mọi phương diện tinh thần cũng như vật chất, chiến tranh tôn giáo, sắc tộc, xác thịt và tâm linh ngày càng gia tăng.

Bằng chứng của tình yêu

Yêu thật lòng không bằng đầu môi chóp lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật (x.1Ga 3,18). Chúa yêu chúng ta nên đã tự hiến thân mình làm tế lễ đền tội cho chúng ta. Nếu chúng ta thật lòng yêu Chúa, thì hãy dâng mình làm của lễ sống thánh thiện đẹp lòng Chúa (x. Rm 12,1). Ai yêu Chúa thật lòng, người ấy sẽ tuân giữ lời Chúa, đó là bằng chứng cụ thể nhất, không thể có một người yêu Chúa, mà không giữ lời Chúa được (x. Lc 6, 46; Mc 3,5).

Ai thật lòng yêu người, thì kẻ ấy chia sẻ cái mình có cho anh em đồng loại (x.1Ga 3,17).Làm sao chúng ta yêu thật, yêu như Chúa dạy khi mà chúng ta đầy lòng ích kỷ? Được Chúa yêu và đổ vào lòng chúng ta ân sủng tình yêu Chúa, chúng ta yêu anh em mình là phải lẽ: “Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, nếu các con một lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35). Người đời thấy Chúa là Cha qua chúng ta. Vì không yêu anh em mình thấy được, thì làm sao yêu Thiên Chúa là Đấng chẳng hề thấy. “Chúng ta yêu nhau vì Chúa yêu chúng ta trước, ai yêu Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình là kẻ nói dối…” (x.1Ga 4, 20).

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, để rồi tình yêu đó là bài giảng sống, chinh phục được nhiều người trở về với Chúa. Tình yêu không bằng lời nói, bằng lưỡi mà bằng việc làm, từ lòng đến lòng, từ nơi sâu thẳm nhất của con tim. Lạy Chúa, xin ban cho chúng ta tình yêu đó. Amen.

Về mục lục

GIỚI RĂN MỚI.

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Sứ điệp trung tâm của phụng vụ Lời Chúa tuần này là giới răn yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúa Giêsu lặp lại ba lần những lời này. Điều đó cho thấy đây là mạc khải quan trọng, Người gọi là giới răn mới. Nên trong thánh lễ này, chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa của giáo huấn này.

1- Giới răn mới

Thực ra, Cựu Ước đã nói về giới răn yêu thương rồi. Từ xa xưa, sách Lêvi đã dạy giới răn yêu thương: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình” (Lv 19,18). Ở đây, Cựu Ước lấy việc “yêu mình” làm chuẩn mực, bởi theo một mức độ nào đó, nếu ta yêu người như yêu mình, thì tình yêu đó cũng là tốt lắm rồi. Vì ai cũng muốn điều tốt cho chính mình. Tuy nhiên, yêu người như yêu chính mình vẫn là tình yêu giới hạn, nhiều lúc nặng tính ích kỷ, có điều kiện, chưa phải là tình yêu hoàn hảo.

Chúa Giêsu đã đi xa hơn khi nói: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” “Yêu như Thầy đã yêu” nghĩa là yêu thương theo cách thức của Chúa Giêsu. Đây chính là sự mới mẻ, là căn bản của Kitô Giáo. Quả vậy, Kinh Thánh Cựu Ước chỉ nói tới giới răn yêu thương mà không giới thiệu một khuôn mẫu cụ thể hoàn hảo nào của tình yêu. Ngược lại, trong Tân Ước, Chúa Giêsu tự giới thiệu mình như là khuôn mẫu tuyệt hảo và nguồn mạch của tình yêu.

Bởi lẽ, điều Chúa Giêsu nói và làm là một: Người là Thiên Chúa, nhưng đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận tôi đòi. Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Người chấp nhận chết trên thập giá để cứu độ chúng ta. Người sống lại và ban Thánh Thần cho chúng ta. Người đã lập bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta mãi cho đến ngày tận thế.

Tình yêu Chúa là mới mẻ bởi vì tình yêu đó được thể hiện bằng những việc làm cụ thể, đó là phục vụ, cảm thương, dịu dàng, tha thứ, hy sinh vì chúng ta.

Tình yêu Chúa là mới mẻ bởi vì đó là một tình yêu hoàn toàn nhưng không, Người không tìm kiếm điều kiện để yêu, Người yêu cả những ai không xứng đáng, Người yêu cả những ai làm hại mình.

Tình yêu Chúa là mới mẻ bởi vì Chúa Giêsu không nói: “Thầy đã yêu thương anh em, nên anh em hãy yêu thương Thầy và hãy phục vụ Thầy…” Nhưng Chúa nói: Thầy đã yêu thương anh em. Giờ anh em hãy yêu thương nhau và phục vụ lẫn nhau. Đó là sự mới mẻ và cao cả!

2- Dấu chỉ người môn đệ Chúa Kitô

Như thế, tình yêu Chúa Giêsu ở dạng thức cao cả nhất– agape – tình yêu hiến dâng hoàn toàn mà không hề có bóng dáng ích kỷ và chiếm hữu. Tình yêu Chúa là phổ quát, không giới hạn và vô điều kiện. Người yêu chúng ta trước khi chúng ta còn là tội nhân. Tình yêu đó là lớn lao.

Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” Tình yêu Chúa là mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta noi theo.

Chúa Giêsu còn nói thêm: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Như thế, qua câu nói trên, Chúa Giêsu muốn quả quyết rằng: Dấu chỉ mà người ta nhận biết chúng ta là môn đệ Chúa Kitô không phải vì chúng ta có chức vụ trong Giáo Hội, không phải vì chúng ta đeo thánh giá, tràng hạt, mặc áo tu, hay phẩm phục tôn giáo, đọc kinh nhiều, nhưng là tình yêu thương nhau.

Người môn đệ Chúa Kitô là người theo sát dấu chân của Người, học theo cung cách sống của Người để trở nên đồng hình đồng dạng với Người (sequela Christi). Như thế, dấu chỉ của người môn đệ đích thực yêu thương như Chúa đã yêu thương. Tình yêu và lòng bác ái mà chúng ta dành cho nhau là bằng chứng hùng hồn chúng ta thực sự là môn đệ Chúa Kitô. Yêu thương là dấu chỉ người môn đệ chân chính của Đức Kitô. Như thế, rõ ràng theo logic này: Nếu chúng ta không sống yêu thương nhau thì chúng ta không phải là môn đệ Chúa. Nếu chúng ta làm cho người khác phải đau khổ, chúng ta không phải là môn đệ Người. Chúng ta thử hỏi: chúng ta có yêu thương nhau như Chúa dạy không?

3- Mọi sự sẽ thay đổi nhờ tình yêu

Câu chuyện sau đây diễn tả về đời sống cộng đoàn thay đổi khi họ biết yêu thương nhau:

Bề trên một tu viện Công Giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi Mã Lạp Sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.

Trước kia, tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng lời ca tiếng hát cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu. Vậy mà giờ đây, tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.

Cha bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình.” Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người.”

Nhận được lời giải đáp, cha bề trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là hiện thân “Đấng Cứu Thế.”

Từ ngày ấy, mọi người kính trọng nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người quan tâm và phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuôn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.

Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta luôn ý thức rằng, được làm môn đệ Chúa Kitô là một niềm vui lớn lao; đồng thời chúng ta biết sống yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã nêu gương. Amen.

Về mục lục

VINH DANH CHÚA

Lm Vũđình Tường

Chúng ta biết một phần nhỏ về thân thích, thân hữu, mà không thể biết rõ về người đó. Cũng vậy, chúng ta biết ít nhiều về Juda. Ông không biết những mặc khải Đức Kitô thông báo cho các môn đệ về những gì sắp xảy ra cho Ngài. Sau khi ông ra đi, Đức Kitô cho các môn đệ khác biết.

Thứ nhất, Ngài chỉ còn ở trần gian một thời gian ngắn.

Thứ hai, Ngài đến từ Chúa Cha và sẽ trở về cùng Chúa Cha. Hiện nay chúng ta biết Đức Kitô ra đi bằng con đường thập giá.

Thứ ba, Đức Kitô loan báo Juda phản bội (Gn 13,21), và tất cả các môn đệ đều tỏ ra yếu đuối khi đối diện với đau khổ, bắt bớ.

Thứ tư, trong gian truân, Phêrô sẽ chối không biết Đức Kitô là ai.

Biết rõ bị phản bội, chối bỏ, Đức Kitô không hề giận dữ, hằn học, trách móc. Trái lại Ngài nói về lòng mến. Ngài nói về tình yêu để Vinh Danh Chúa Cha và nói về tình yêu Ngài dành riêng cho các môn đệ (Gn 13,1). Ngài yêu mến môn đệ thiết tha, nhưng yêu mến Chúa Cha trên tất cả, hơn cả chính sự sống mình. Với Chúa Cha, Đức Kitô Vinh Danh Chúa Cha. Với môn đệ, Đức Kitô ban cho các ông ân sủng đoàn tụ qua bữa Tiệc Li, hiện nay được biết đến là Bí Tích Thánh Thể.

Các tông đồ nghe biết những gì sắp xảy ra cho Đức Kitô, nhưng các ông không thể hiểu làm sao việc hy sinh chết đau khổ trên thập giá lại có thể mang Vinh Danh cho Chúa Cha và mang Vinh Danh cho chính Đức Kitô.

Có lần Philip hỏi Đức Kitô xin cho các ông gặp Chúa Cha. Đức Kitô đáp:

‘Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha…. Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy’ Gn 14,9

Ở một nơi khác Đức Kitô xác định: ‘Tôi và Chúa Cha là một’ Gn 10,31.

Đức Kitô chính là hình ảnh của Chúa Cha. Tình yêu của Đức Kitô cũng là tình yêu của Chúa Cha. Bởi cùng một nguồn tình yêu nên không thể tách rời tình yêu Chúa Cha ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Nếu có tách rời thì cũng ví như sợi tóc chẻ đôi, cùng bản tính, cùng nguồn gốc, cùng mục đích. Đức Kitô vừa là tình yêu của chính Chúa Cha vừa là con đường dẫn Kitô hữu đến với Chúa Cha. Vì thế làm Vinh Danh Chúa Cha cũng chính là làm Vinh Danh Chúa Con.

Đức Kitô cũng cho biết tình yêu chân thành đòi buộc hy sinh. Yêu chân thành và hy sinh gắn bó mật thiết không thể phân li, chia lìa. Đức Kitô thể hiện tình yêu chân chính đó trên thập giá. Ngài là Đấng duy nhất dùng chính mạng sống mình để ban sự sống trường sinh cho nhân loại. Ngài cũng là Đấng duy nhất dùng chính Mình và Máu Mình thành mối giây liên kết Kitô hữu với chính Ngài khi Kitô hữu tụ họp để cùng bẻ bánh, đầu mối của mọi liên kết Kitô hữu.

Cha mẹ thường để tiền tài, vật chất làm của hồi môn cho con cái. Đức Kitô không để lại của cải, vật chất, nhưng để lại sự sống trường sinh và ơn bình an vĩnh cửu cho Kitô hữu. Ngài còn hướng dẫn cách thức để cầm giữ, bảo vệ ơn bình an vĩnh cửu bằng cách

‘Yêu thương tha nhân như chính Thầy yêu thương anh em’.

Khi thực hành điều răn yêu thương Đức Kitô truyền dậy, Kitô hữu nhận được sự sống trường sinh và ơn bình an vĩnh cửu.

Yêu mà thiếu hy sinh là yêu một cách thoáng qua, thông thường. Ví dụ như ta yêu một bông hoa, cánh bướm, giọt sương trên lá, buổi sáng bình minh. Yêu chân thành đòi hy sinh và đây chính là điều Đức Kitô kêu gọi môn đệ thực hành trong cuộc sống. Chính hy sinh, tận hiến biến tình yêu Kitô hữu trở thành mối tình đặc biệt, phát xuất tự con tim yêu mến.

Yêu thương chính là con đường thập giá. Thực hiện công việc thường ngày với tâm tình yêu mến, hy sinh chính là vui lòng vác thập giá đời mình. Đây chính là thực hiện tình yêu Đức Kitô nói đến. Vác thập giá cách miễn cưỡng vẫn không tránh khỏi đau khổ, trái lại còn làm cho đau khổ tăng lên gấp bội. Vui lòng đón nhận thập giá với tất cả tâm tình, ngay trong trường hợp đòi hy sinh lớn, sầu thương chất ngất, nhưng vui lòng đón nhận chính là thể hiện điều Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu

‘Hãy yêu mến nhau như thầy yêu anh em’ Gn 13,35.

Điều răn này là một phần của cuộc giã biệt. Chúng ta coi chia tay như là việc chia lìa, ra đi. Đức Kitô coi việc chia tay chính là tụ họp, là vắng mặt một thời gian ngắn trước khi đoàn tụ vĩnh viễn. Ngài trở về, đoàn tụ cùng Chúa Cha và Kitô hữu bước theo chân Đức Kitô để cùng đoàn tụ với Đức Kitô. Việc đoàn tụ đầu tiên chính là gặp gỡ nhau trong tiệc ‘Bẻ Bánh – Tiệc Li’ qua sự kết hợp của Chúa Thánh Thần.

Mỗi lần Kitô hữu tụ họp tham dự Thánh Thể chính là gặp lại Đức Kitô Phục Sinh không phải bằng con mắt thường nhưng bằng tâm linh, lòng yêu mến. Lời kêu gọi ‘Hãy Theo Ta’ giờ đây được thay thế bằng điều răn mới: ‘Hãy yêu thương nhau như chính Thầy yêu thương anh em’.

Chúng ta cùng hỗ trợ nhau thực hiện điều răn mới: Yêu Thương.

Về mục lục

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT V PHỤC SINH_C

Lm GB Phạm Hồng Thái

Chúng ta tìm thấy những lời tâm huyết nhất của CG ở đâu? Chắc chắn không đâu khác hơn là lời Chúa nói trong bữa Tiệc ly. Như  cha  mẹ dặn dò, di chúc cho con cái lúc hấp hối, CG cũng dặn dò các môn đệ bằng những lời nói chân tình và tha thiết nhất như vậy. Chúng ta có thể thấy những lời này trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con hãy yêu thương nhau…”

Tại sao CG lại gọi đây là điều răn mới? Trong Cựu Ước luật Môsê đã dạy: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv19, 18)”  Cha ông chúng ta nói: “Tứ hải gia huynh đệ : Bốn bể là nhà và tất cả đều là anh em”. Khổng Tử dạy: “Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân: Cái gì mình không thích đừng làm cho người khác”. Việt Nam chúng ta có câu tục ngữ: “Thương người như thể thương thân”.

Vậy điều răn Yêu thương của CG mới ở điểm nào. Thưa mới là ở chữ NHƯ: Như Thầy đã yêu thương các con thì các con cũng hãy yêu thương nhau. CG muốn chúng ta lấy tình yêu của Chúa làm mẫu mực. Vậy chúng ta hãy nêu lên đôi nét về tình yêu của Chúa đối với các môn đệ và cũng là đối với chúng ta như thế nào.

Thánh Gioan hiểu về tình yêu theo mẫu gương của CG nên đã viết: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi. mà yêu thương cách chân thật và bằng việc làm (1Ga 3, 18) ” tình yêu thương phải được chứng tỏ bằng việc làm và sự thật. CG đã biểu lộ tình yêu đó bằng tinh thần phục vụ đúng như lời Chúa nói: “Con người đến không phải để được người ta hầu hạ nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người (Mt 20, 28)”. Đúng vậy cuộc sống của Chúa là đời sống của người phục vụ: Chúa đi rao giảng Tin Mừng từ thành này qua thành nọ, Chúa làm phép lạ chữa lành bệnh tật, trừ quỉ; Chúa gần gũi những người nghèo khổ, ốm đau, Chúa hoán cải những người tội lỗi và không ngần ngại Rửa chân cho các tông đồ để dạy các ông bài học yêu thương phục vụ vì thế CG đã nói : “Thầy sống giữa anh em như người phục vụ (Lc 22,27)”. Tình yêu CG lên tới cao điểm khi Chúa hiến mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta: “Không có tình yêu nào cao cả  hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu mình (Ga 15,13).” Đó cũng chính là tình yêu cứu độ vì nhờ Chúa yêu thương chịu chết vì chúng ta mà chúng ta được ơn tha tội và được hưởng ơn cứu rỗi.

Vậy trong cuộc sống thường ngày chúng ta phải làm gì để có thể yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng ta? Tình yêu xuất phát từ trong tâm hồn, chúng ta hãy ước muốn điều tốt cho anh em, thực hiện lời thánh Phao lô : “Vui với người vui, khóc với người khóc (Rm 12,15)”: Chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của anh em. Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn chúng ta hướng về anh em ở Ucraine đang đau khổ, tang thương chết chóc vì chiến tranh để cảm thông, cầu nguyện và chia sẻ nhu cầu vật chất cho họ như các sinh viên ở Mỹ đã làm, chúng ta cũng luôn có những người nghèo khổ ở bên chúng ta chúng ta hãy giúp đỡ họ khi có thể làm được.

– Như Chúa đã tha thứ cho anh em thế nào thì anh em cũng hãy   tha thứ cho nhau như vậy (Cl 3,13). Yêu như Chúa yêu thúc đẩy chúng ta tha thứ cho nhau từ trong gia đình ra ngoài xã hội. Trước tiên là phải có tinh thần chấp nhận khuyết điểm của anh em. Thí dụ nay có một số người thích hát karôkê và khi hát họ thường mở loa lớn khiến bà con hàng xóm khó chịu. Tôi thiết nghĩ nếu những người hát karôkê không tôn trọng bà con hàng xóm và Chính quyền chưa có biện pháp, thì trước hết mình hãy có tinh thần chấp nhận, nhờ vậy cũng giúp ta bớt đi được ít nhiều sự bực dọc.

Yêu như Chúa cũng dạy ta hãy cầu nguyện cho nhau, không những là cầu nguyên cho ân nhân, thân nhân mà còn cầu nguyện cho  những người có ác cảm với mình, những người mình không ưa và cả kẻ nghịch thù nữa. Nếu CG đã cầu nguyện trên Thánh Giá: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm (Lc 23, 33)”, và thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi cũng cầu nguyện tương tự: “Xin Chúa đừng chấp họ tội này (Cv7, 60)”, thì chúng ta cũng hãy mở rộng tâm tình cầu nguyện của mình như vậy .

CG đã dạy chúng ta thực hành tình yêu thương nhau như là dấu hiệu của người môn đệ Chúa để khi đến trước Tòa Chúa phán xét thì như lời thánh Gioan Thánh Giá: “chúng ta sẽ được Chúa xét xử theo hành động đức bác ái. Chính  tình yêu sẽ ấn định số phận đời đời của mỗi người”

Câu chuyện thánh M. Goretti. Goretti là thiếu nữ vừa đẹp người lại đẹp nết. Alexander đang làm ở ngoài đồng về nhà rủ rê Goretti ân ái, nhưng cô không chịu, nên Alexander dùng dao chém tới 17 lát. Anh trai của Goretti định trả thù nhưng Goretti dù rất đau đớn đã can anh đừng trả thù, và sẵn lòng tha thứ cho Alexander. Sau đó Goretti được đưa tới nhà thương, nhưng không qua khỏi. Còn Alexander bị bắt giam trong tù. Một ngày kia Alexander mơ thấy Goretti hiện về tặng cho chàng bó hoa có bông hồng trắng và hồng đỏ. Từ đó chàng ăn năn và sống tốt hơn nên được tha trước kì hạn 30 năm tù khổ sai và đến ngày M. Goretti được Giáo hội phong thánh thì Alexander đã đi dự lễ này.

Chúng ta nguyện sống giới răn mới của CG yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta để được xứng đáng là môn đệ Chúa. Amen.

Về mục lục

DÒNG CHẢY YÊU THƯƠNG

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em”. Đó là dòng chảy tình yêu từ nguồn cội Thiên Chúa Ba Ngôi tràn trào đến con người. Một tình yêu có khả năng mang lại sự sống và sức sống cho cuộc đời.

Khi sắp từ giã các môn đệ để bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu trao cho họ những lời tâm huyết sau cùng: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau“.

Với ba câu Tin Mừng, Chúa Giêsu lặp lại điệp khúc: “Yêu thương nhau”. Chúa gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau về đức yêu thương. Đó là lệnh truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”; Đó là gương mẫu: “Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”; Đó là dấu chỉ: “Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu…”.

  1. Lệnh Truyền

Thầy ban cho anh em một điều răn mới”.Trước khi công bố điều răn mới, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ. Và Ngài đã yêu họ đến cùng bằng việc hiến dâng mạng sống trên thập giá. Chúa Giêsu đã yêu trước khi truyền cho các môn đệ yêu thương nhau. Đây là điều răn mới, mới đến nỗi Chúa gọi đó là luật của riêng Ngài: “Đây là điều răn của Thầy” (Ga 15,12), mới ở chỗ yêu như Chúa yêu. Yêu thương nhau như Chúa yêu thương phải được cụ thể hóa bằng việc làm như chính Chúa đã dạy, đã thực hiện.

Chúa Giêsu đã coi “yêu thương” là điều răn căn bản của Kitô giáo: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em trên Trời” (Mt 5,43-45). Bài giảng trên núi khai triển giáo lý căn bản này và trở thành Hiến chương Nước Trời: “…Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương… Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 7-10).

Điều răn “cũ” trong sách Lêvi 19,18: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Yêu thương theo luật cũ là “yêu tha nhân như chính mình”. Còn yêu thương trong Luật mới là yêu thương như Chúa yêu thương. Chúa yêu chúng ta là yêu đến cùng, yêu đến hy sinh mạng sống vì người mình yêu. Tình yêu của Chúa Giêsu phải là nền tảng và là nguồn gốc của tình yêu lẫn nhau giữa các môn đệ. Tình yêu giữa các môn đệ với nhau sẽ không còn ý nghĩa nếu không liên lỉ quy chiếu về tình yêu của Chúa Giêsu.

Thánh Phaolô đã nói đến chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng của tình Chúa yêu con người (x.Ep 3,18). Và cũng có người đã tìm ra chiều cao, sâu, rộng dài của tình yêu Chúa như thế này:Yêu người như người yêu người là bậc thấp, là luật cũ của Cựu Ước;Yêu người như Chúa yêu người là bậc cao, là luật mới của Tân Ước.

Luật yêu thương mới là cốt tủy của đạo Chúa và cũng là nền tảng của mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng như giữa con người với nhau. Mến Chúa yêu người đi song đôi với nhau. Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu tha nhân và tình yêu tha nhân là thước đo tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là mẫu mực để tình yêu con người trở nên hoàn thiện.

2.Gương Mẫu

Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Chữ “như” ở đây không phải là liên từ để so sánh hai vế, mà nó có một ý nghĩa mở ra nguồn gốc của tình yêu. “Yêu như Thầy” là lấy khuôn mẫu tình yêu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha và giữa Ngài với các môn đệ, để các ông cũng yêu nhau và yêu mọi người như chính mình đã chứng kiến và được yêu.

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Nói đến Công Giáo là người ta nghĩ ngay đến hai từ “bác ái”. Bác ái không nguyên là yêu thương nhau theo kiểu cha ông truyền dạy là “thương người như thể thương thân” mà còn phải yêu thương nhau như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta. Chúa Giêsu đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẻ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Người.

Yêu như Thầy đã yêu có nghĩa là:

– Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

– Thầy cúi xuống rửa chân cho các môn đệ để nêu gương phục vụ.

– “Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”(Ga 15,15a). Người là Thầy, là Chúa, các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không, Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Người. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”(Ga 15,15b).

– Thầy hy sinh quên mình, Thầy hạ mình phục vụ anh em. Thầy yêu những người bé nhỏ nghèo hèn, yêu thương cả những người thù ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa và Thầy không ngừng tha thứ, muốn mọi người làm hoà với nhau.

– Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người. Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…

Yêu “như Thầy đã yêu” làm nên nét đẹp của Tin mừng. Nét đẹp ấy có sức lôi cuốn mọi người đến cùng Chúa. Tình yêu ấy thật cao đẹp nên Chúa mời gọi: “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu” (Ga 13,34). Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.

“Yêu như Chúa Kitô có nghĩa là nói ‘không’ với những thứ ‘yêu’ khác mà thế gian dành cho chúng ta: yêu tiền, chẳng hạn, những người yêu tiền không yêu như Chúa Giêsu yêu, yêu thành công, phù phiếm, yêu quyền lực…. Những con đường lừa dối của “tình yêu” này khiến chúng ta xa rời tình yêu của Chúa và khiến chúng ta ngày càng trở nên ích kỷ, tự ái, hống hách. Và hống hách dẫn đến suy thoái tình yêu thương, lạm dụng người khác, làm cho những người thân yêu của chúng ta đau khổ. Tôi đang nghĩ đến tình yêu không lành mạnh biến thành bạo lực, và có biết bao những phụ nữ là nạn nhân của bạo lực ngày nay. Đây không phải là tình yêu…

Yêu như Chúa yêu chúng ta có nghĩa là đánh giá cao những người bên cạnh chúng ta, tôn trọng tự do của họ, yêu họ như họ vốn có…” (ĐTC Phanxicô, 09/05/2021).

  1. Dấu Chỉ

Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu…”.

Người Kitô hữu có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn yêu người. Chúa Giêsu đã chỉ một dấu hiệu để nhận biết người môn đệ của Chúa là “yêu thương nhau”.

Có nhiều dấu hiệu để người ta nhận ra một Kitô hữu: đeo thánh giá, làm dấu thánh giá trước khi ăn… Nhưng theo Chúa Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của người môn đệ là tình yêu thương mà họ dành cho nhau: cảm thông, tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại…

Tình yêu không phải là cái gì trừu tượng mà là thật cụ thể nên rất dễ nhận ra.

Yêu thương nhau là luôn nghĩ tới nhau. Những người yêu thương nhau thường nghĩ tới nhau; yêu nhau nhiều thì nghĩ tới nhau nhiều, nghĩ tới mà trong lòng cảm thấy vui sướng.

Yêu nhau nên thích gặp nhau. Những người kitô hữu yêu nhau, thì rất thích tụ họp, thích gặp gỡ nhau. Và thường họ tụ họp nhau vào ngày Chúa Nhật, trước hết là để cùng nhau cử hành thánh lễ, sau là để gặp nhau trò chuyện, hàn huyên, chia sẻ tâm tình với nhau. Yêu nhau nên ước muốn điều lành cho nhau. Mong cho nhau được sự may mắn, được thăng tiến, được làm ăn thành đạt, được sức khoẻ dồi dào, được có lòng đạo đức, được mãn nguyện theo ý muốn tốt lành. Và chính vì thế mà những người yêu nhau thường cầu nguyện cho nhau, xin Chúa yêu thương, an ủi, cứu giúp, phù hộ bạn mình.

Yêu nhau nên làm những điều lành cho nhau: có thể đó là sự giúp đỡ khi túng thiếu hay ốm đau, sự chăm sóc sức khoẻ, đời sống tâm linh của nhau, là sự chia sẻ của cải vật chất và tinh thần cho nhau. Giúp nhau củng cố và giáo dục đức tin, giúp hoà giải với nhau, giúp nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, giúp nhau thành đạt trong công ăn việc làm. Dấu hiệu rõ nhất của tình yêu là sự hy sinh cho nhau: hy sinh thì giờ, sức khoẻ, tiền bạc, và thậm chí cả sự sống vì nhau.

Điều cao quý nhất mà Kitô hữu là mang Chúa đến cho nhau, vì mỗi người kitô hữu khi đã chịu phép rửa đều là đền thờ của Thiên Chúa.

 Dòng chảy tình yêu giữa Chúa Cha, Chúa Giêsu và các môn đệ là một trong những đề tài độc đáo riêng của thần học Tin Mừng Gioan. Có thể nói, toàn bộ sứ vụ của Chúa Giêsu nhằm bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3,16).

Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“. Dòng chảy tình yêu từ Thiên Chúa đến với tha nhân qua đời sống Kitô hữu: bác ái, yêu thương, phục vụ. Chúa Giêsu đã đối xử tốt với mọi người, yêu thương mọi người. Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương “như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Chúa” (x.Mt 25,40).

Về mục lục

TÂM SINH TƯỚNG

Trầm Thiên Thu

Nhìn phong cách và động thái của ai đó, chúng ta có thể biết người đó như thế nào. Dĩ nhiên không tuyệt đối, nhưng có thể đa số và với mức đúng cao. Quả thật, tâm hồn thế nào sẽ phát tiết ra tướng mạo. Nói cho dễ hiểu, “tâm” là nhân của “tướng” và “tướng” là quả của “tâm” vậy.

Bề ngoài thể hiện bề trong, và ngược lại. Đó là một loại dấu hiệu hoặc dấu chỉ. Có nhiều loại dấu chỉ, có thể đó là điềm báo tốt hoặc xấu (gở). Dấu chỉ bình thường thì người ta gọi là dấu hiệu, còn về sức khỏe thì người ta gọi là triệu chứng – điềm báo xấu về một chứng bệnh nào đó, có thể trầm trọng hoặc nguy hiểm tới tính mạng. Thời gian qua, người ta “kinh nghiệm” rất nhiều về triệu chứng Cúm Tàu.

Dấu buồn còn đó. Vết đau còn đó. Có lẽ chưa bao giờ có năm nào nhiều gia đình có giỗ như năm nay – năm 2022. Bởi vì số tử vong vì Cúm Tàu trên thế giới là xấp xỉ 6.300.000 người, trong đó Việt Nam có vài chục ngàn trường hợp, có nhà có đến vài người mất, nhiều trẻ em hóa mồ côi vì mất cả cha mẹ. Thật tang tóc!

Bất cứ lĩnh vực nào cũng có dấu chỉ đặc trưng: tôn giáo, xã hội, kinh tế, chính trị, môi trường, y tế, giao thông, thời tiết,… và kể cả tâm linh. Thấy mây vần vũ, người ta đoán có thể mưa; thấy người khác khóc, người ta biết họ buồn; thấy người khác cười, người ta biết họ vui. Hằng ngày chúng ta thấy có nhiều dấu hiệu thuộc các lĩnh vực khác nhau.

Chúa Giêsu nói về dấu chỉ thời tiết bình thường để nói về dấu chỉ thời đại: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều đó, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi.” (Mt 24:32-33; Mc 13:28-29; Lc 21:30-31) Tại sao cần nhân biết dấu chỉ? Để ý thức và chuẩn bị hoặc “chấn chỉnh” điều gì đó cho hợp ý Chúa.

Mọi nơi và mọi lúc đều có các dấu chỉ. Mỗi thời mỗi khác. Thời Cựu Ước, dấu chỉ của giao ước là phép cắt bì, (Cv 7:8) dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm là các vầng sáng trên vòm trời, (St 1:14) dấu chỉ của một tâm hồn hạnh phúc là nét mặt vui tươi, (Hc 13:26) dấu chỉ giữa Thiên Chúa với dân chúng là ngày sabát. (Ed 20:12)

Các động thái cũng bày tỏ dấu chỉ: QUỲ GỐI là dấu chỉ của lòng sám hối, tôn thờ và cầu xin, (Cv 7:50; Cv 9:40; Cv 20:30; Kn 41:43; Et 3:2; Lc 5:8; Lc 22:41) ĐỨNG là dấu chỉ kính trọng, là tư thế của kẻ sống lại, (Kh 7:9; Kh 15:2) là tư thế của những người vượt qua về miền đất hứa, (Xh 12:11) là tư thế của những con người tự do, (Ga 5:1; Ep 6:1-4) CHẮP TAY hoặc KHOANH TAY thể hiện sự nghiêm trang và kính trọng, ĐẤM NGỰC chỉ sự khiêm nhường sám hối, DANG TAY chỉ sự cầu nguyện, LÀM DẤU THÁNH GIÁ là dấu chỉ nhận thức và tuyên xưng đức tin Kitô giáo, THINH LẶNG là dấu chỉ suy tư, suy niệm hoặc cầu nguyện,… Rất đa dạng về các dấu chỉ hoặc dấu hiệu.

Về việc truyền giáo, trình thuật Cv 14:21-26 cho biết: Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông Phaolô và Banaba trở lại Lýtra, Icôniô và Antiôkhia. Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, khuyên họ giữ vững đức tin và xác định: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.” Lời xác định này cũng nhắc nhở và thức tỉnh mỗi chúng ta hôm nay. Chắc chắn không thể cứ tà tà hoặc cứ khơi khơi mà được vào Nước Trời. Không phải Chúa “chơi ép” hoặc hù dọa, mà đó là sự thật minh nhiên, vì Nước Trời là Viên Ngọc Quý Giá Nhất.

Hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục trong mỗi Hội Thánh. Sau khi ăn chay và cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin. Rồi hai ông đi qua miền Pixiđia mà đến miền Pamphylia, rao giảng lời Chúa tại Pécghê, rồi xuống Áttalia. Từ đó hai ông vượt biển về Antiôkhia, nơi mà trước đó các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành. Công việc gì cũng có mức độ khó khăn khác nhau, khó có thể nói việc nào khó hoặc dễ hơn việc nào. Chắc chắn công việc truyền giáo còn khó khăn hơn nhiều, rất cần sự kiên trì. Vả lại, việc chúng ta làm thì cứ làm cho tròn bổn phận, kết quả hay không là do Chúa quyết định.

Chắc chắn mỗi người chúng ta đều muốn công việc đạt kết quả, không ai muốn thất bại, nhưng còn tùy ý Chúa. Cần tâm niệm là “làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14) và “xin cho ý Chúa được thể hiện.” (Cv 21:14) Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài thông suốt mọi sự, là “Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Ngài đã dựng nên.” (Tv 145:8-9)

Thất bại có thể là điều xấu đối với chúng ta, nhưng trong cách nhìn của Thiên Chúa, thất bại lại tốt cho chúng ta, ít nhất là Ngài muốn chúng ta không kiêu ngạo vì ỷ mình thành công hơn người khác. Thánh Vịnh gia thành tâm cầu nguyện: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.” (Tv 145:10-12)

Thiên Chúa vĩnh hằng, “triều đại Ngài thiên niên vĩnh cửu, vương quyền Ngài vạn đại trường tồn, Ngài thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.” (Tv 145:13) Vì thế, người khôn ngoan luôn nhận biết mình hèn yếu, cần tín thác vào Ngài và chỉ mình Ngài mà thôi. Thiên Chúa tốt lành, chính Ngài sẽ lau khô mọi giọt lệ và tặng ban trời mới đất mới cho những ai thành tín. Thánh Gioan kể lại thị kiến: “Bấy giờ, tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang.” (Kh 21:1-2)

Tất cả đều mới. Cái gì mới thì lạ. Rất kỳ diệu. Rồi sau đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to từ phía ngai: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” (Kh 21:3-4) Rõ ràng. Rạch ròi. Hoàn toàn là sự thật, chắc chắn chứ không chút gì mơ hồ. Rồi Đấng-ngự-trên-ngai còn tuyên phán thêm: “Này đây Ta ĐỔI MỚI MỌI SỰ.” (Kh 21:5a) Và như vậy, tính xác thực càng được nâng cao hơn nữa!

Những lời cáo biệt của Chúa Giêsu trước cuộc khổ nạn và quy luật yêu thương tuyệt đối. Trình thuật Ga 13:31-35 cho biết dấu chỉ đặc biệt: Khi Giuđa ra khỏi phòng, Đức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.” Một câu ngắn mà từ ngữ “tôn vinh” xuất hiện tới 5 lần.

Khi nghe Sư Phụ Giêsu nói vậy, có lẽ các đệ tử vui lắm, vì có thể đã đến lúc mình cũng được sống sung sướng nhờ Thầy. Nhưng không phải như họ tưởng, bởi vì Chúa Giêsu nói: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: ‘Nơi tôi đi, các người không thể đến được,’ bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy.” Có lẽ họ bắt đầu lờ mờ hiểu về “sự chẳng lành” nào đó sắp xảy ra… Vâng, nhưng làm sao các đệ tử hiểu được hết ý cao siêu của Thầy, vì họ còn là phàm nhân và đầy mơ ước trần tục, còn Thầy là “người cõi trên” mà!

Và dấu hiệu đặc biệt nhất được chính Chúa Giêsu cho biết: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ NHẬN BIẾT anh em là môn đệ của Thầy ở ĐIỂM này: là anh em có LÒNG YÊU THƯƠNG NHAU.” Cũng chỉ một câu ngắn mà chữ “yêu thương” được lặp lại tới 4 lần.

Đạo của Đức Kitô Giêsu là Đạo Làm Người, là Nhân Đạo, điều mà ai cũng cần, tôn giáo nào cũng cần, xã hội nào cũng cần, thể chế nào cũng cần,… Nói chung là ai cũng cần, mà cần thì phải thực hiện. Rất chí lý, mình muốn có thì phải thể hiện với người khác. Luật Yêu là Khuôn Vàng Thước Ngọc, là “thước đo” cuộc sống: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.” (Mt 7:12; Lc 6:31) Thánh Phaolô xác định: “Ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Yêu thương là chu toàn lề luật.” (Rm 13:8 và 10)

Tương tự, hiền triết Khổng Tử (551-479 trước công nguyên) đã dạy đệ tử: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân.” (Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác.) Và hiền triết Aristotle (384-322 trước công nguyên) cũng dạy: “Đừng áp đặt trên người khác những điều mà bạn không thích.”

Trong Do Thái giáo có hai trường phái đạo đức: Trường phái của Shammai chủ trương khắc khổ, và trường phái của Hilel chủ trương phóng khoáng. Một hôm, có một người đến xin học tập với Shammai, anh ta thưa: “Thưa thày, tôi muốn làm môn đệ thày, nhưng trước hết, xin thày cho tóm gọn luật phải giữ trong bao lâu tôi còn có thể đứng trên một chân để nghe thầy giảng.” Shammai liền đuổi anh ta đi và trao cho một cuốn sách dày về luật mà ông đang cầm trên tay. Anh ta đến gặp Hilel và cũng nói với ông lời ấy, Hilel nói với anh ta: “Những gì anh không thích thì đừng làm cho người khác, đó là tóm tắt về luật.” Anh ta giác ngộ và nhận thấy đó là BÀI HỌC QUÝ GIÁ NHẤT ở đời.

Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí và soi sáng cho con nhận ra Ý Ngài qua các sự kiện đời thường, những gì xảy ra với con, xin giúp con phân định đúng đắn và thực sự ý thức, sẵn sàng chấp nhận và thi hành theo Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

TẬP YÊU THƯƠNG NHAU

Giuse Phạm Đình Ngọc

Thật khó để định nghĩa được tình yêu. Có lẽ cũng không cần định nghĩa về thuật ngữ này cho bằng sống với nó. Tình yêu sẽ vô nghĩa với những lời giải thích, nhưng phong phú hơn nhiều khi chúng ta chìm đắm trong nó. Giống như việc uống trà hoặc cà phê vậy. Không nhất thiết giải thích về vị ngon ngọt của trà hoặc cà phê, nhưng quan trọng là nhâm nhi để cảm nhận và thưởng thức. Trong ý hướng này, thánh Augustinô đưa ra lời hướng dẫn rất thực tế: “Hãy yêu trước, rồi sau đó hãy làm gì thì làm.”

Trong Tin mừng Chúa Nhật 5 hôm nay (Ga 13,31-35), Chúa Giêsu thể hiện tình yêu cho các môn đệ rất thực tế. Đức Giêsu trước khi nói về tình yêu, Ngài đã sống với nó. Tình yêu Đức Giêsu dành cho các môn đệ là tuyệt vời; và các môn đệ cũng cảm nhận được tình yêu này trong khi ở với Đức Giêsu. Nếu có những lần nào đó Đức Giêsu nói về tình yêu, thì lời nói ấy cũng là cung cách sống của Ngài. Chẳng hạn hôm nay Đức Giêsu gọi các môn đệ là những người con bé nhỏ. Là người thầy, người cha, Đức Giêsu sắp phải đi chịu chết để cứu độ con người. Trong lời cáo biệt này, Đức Giêsu cho biết chỉ còn ở với họ một ít thời gian nữa. Theo ngôn ngữ bình dân, đây là di chúc mà Đức Giêsu để lại cho các môn đệ.

Nội dung của di chúc rất rõ ràng: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.” (Ga 13,34). Đây cũng là tâm huyết của Thầy Giêsu muốn huấn luyện và chia sẻ tình yêu với các môn đệ. Hơn ai hết, Đức Giêsu thừa biết tình yêu phải là điều quan trọng nhất để nối kết các ông. Hơn nữa, tình yêu là Thiên Chúa, là căn tính của người môn đệ Đức Giêsu. Vì lý do này, mà Đức Giêsu nói: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau.” Chúng ta cũng có thể bối rối như các môn đệ, yêu thương trừu tượng quá, làm sao chúng con sống được?

Đức Giêsu trả lời: “Hãy yêu như Thầy yêu thương các con.” Câu trả lời đã rõ, đòi hỏi của Đức Giêsu dành cho chúng ta cũng sáng tỏ. Cứ nhìn vào cuộc đời của Đức Giêsu, chúng ta sẽ thấy tình yêu của Ngài. Ngay từ ngày đầu chọn gọi các môn đệ, Đức Giêsu đã cho thấy tương quan của các ông với Đức Giêsu không chỉ là thầy-trò, nhưng còn là bạn hữu, là cha-con và là Đấng Tạo Hóa với thụ tạo. Chính trong tương quan này, Đức Giêsu thể hiện tình yêu trong những lời giảng dạy, trong những phép lạ và cả trong những lần sửa lỗi cho các ông. Đức Giêsu tuyệt nhiên không loại bỏ các ông, kể cả Giuđa bán Thầy, nhưng Đức Giêsu luôn mời ông hoán cải đến phút cuối. Tình yêu hùng hồn nhất khi Đức Giêsu sẵn sàng hiến mạng mình, để mở ra cho các ông con đường cứu độ. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Nhờ đó chúng ta cũng được thừa hưởng hồng ân này.

Có lẽ những dòng trên đây vẫn còn xa lạ đối với bạn. Đây là bài tập thực hành để bạn cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa nhiều hơn:

Chọn cho mình một nơi thoáng mát, có thể trong khu vườn, trong nhà thờ hoặc nơi bạn yêu thích. Một mình bạn với Thiên Chúa lúc này. Hít thở thật sâu, và tự nói với mình và với Chúa: “Lạy Chúa con đây!” Hãy nhìn ra thiên nhiên, ngắm lên trời, bạn thấy sự vĩ đại và huyền diệu của muôn loài, mà Thiên Chúa đã tạo dựng dành cho bạn. Hãy nói thầm một tâm tình tạ ơn với Chúa. Bởi theo phép lịch sự, ai cho mình điều gì tốt, lời cảm ơn là cần thiết để diễn tả lòng biết ơn. “Con cảm ơn Chúa, vì yêu mà Ngài vẫn cho con sống và được chiêm ngắm vẻ đẹp tuyệt vời này!”

Hãy nhắm mắt lại để nhìn vào lòng mình. Nếu còn những bộn bề lo toan, hãy tâm sự với Chúa về những điều đó. Xin Chúa giúp mình lắng đọng tâm hồn để được ở với Chúa lúc này. Thiên Chúa không có hình hài, nên Ngài có thể đang ở trong tâm hồn bạn một cách dễ dàng. Đó là không gian của tình yêu. Bạn cứ lắng nghe Chúa. Chẳng hạn đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đang gọi bạn là: “người con bé nhỏ của Thầy.” Là con, bạn luôn được Chúa yêu. Hơn nữa, Chúa đang chăm sóc cho bạn mà có khi bạn không để ý đến. Lúc này, hãy nói với Chúa Giêsu như một người con nói với người Cha: “Con đây, lạy Cha, xin hãy nói, vì con đang lắng nghe.” Cứ để lòng mình ở gần bên Chúa, khi đó, Chúa sẽ thì thầm với bạn bằng những lời mang lại sự sống.

Cũng như các môn đệ, bạn nghe Chúa Giêsu mời gọi: “Con hãy yêu thương người khác như thầy yêu thương con vậy.” Cứ nói cảm giác hoặc suy nghĩ của bạn lúc này. Điều răn này có khó không, có thực tế hoặc bạn có thể làm được không? Nhớ lại những lần Chúa yêu bạn. Nhờ vào kinh nghiệm này, xin Chúa cho bạn cũng sống được giới răn này, mỗi ngày một chút.

Sau cùng, hãy mở mắt ra để một lần nữa nhìn vẻ đẹp của Thiên Nhiên. Tạ ơn Chúa về những gì bạn cảm nhận và nghe được từ Chúa. Dành một phút để cảm, để nhận ra lòng bạn lúc này. Để kết thúc, hãy thì thầm một Kinh Lạy Cha để cầu nguyện với Chúa nhé.

Bạn thân mến,

Đạo Công giáo là đạo của Tình yêu. Tình yêu ấy bắt nguồn từ Thiên Chúa. Tình yêu ấy cũng là điều bạn cảm nhận trong cầu nguyện, trong những kinh nghiệm sống của cuộc đời. Xin đừng lo lắng nếu tình yêu của bạn chưa đủ mạnh. Chúng ta vẫn thực tập tình yêu này mỗi ngày, có thể là tự nhiên, nhưng đôi khi cũng cần chủ động tập tành. Người Công giáo tốt là người biết thể hiện và sống tình yêu này. Kinh nghiệm cho thấy ai đó sống mà không có tình yêu, người ấy khổ sở vô cùng; những ai sống với họ cũng đau buồn không kém. Nếu bạn liên lạc được với Thiên Chúa, đón nhận được tình yêu này, thì bạn, gia đình và những ai bạn gặp gỡ sẽ hạnh phúc hơn nhiều, vui vẻ và thoải mái hơn nhiều. Tình yêu là vậy, một tình yêu cần tập, cần sống và cần lan tỏa cho mọi người.

Để kết thúc, xin trích mẩu chuyện của cha Anthony de Mellô:

“Tình yêu là gì?” – Trò hỏi

Minh Sư đáp: “Vắng bóng hoàn toàn sự sợ hãi.”

“Chúng ta sợ hãi điều gì?” – trò hỏi lại

Minh Sư đáp: “Tình yêu.”

Yêu thì không sợ thể hiện tình yêu ấy cho người khác. Nếu sợ, nghĩa là chúng ta chưa yêu thật, hoặc vẫn còn ngượng ngạo trong tình yêu. Không sao! Cứ tập yêu và xin với Chúa thêm sức để bạn và tôi tập yêu Chúa, yêu người mỗi ngày. Hy vọng tình yêu ấy sẽ lớn hơn, mạnh hơn và sống động hơn trong cuộc đời của chúng ta. Bạn hãy cứ “giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn.” (Thánh Phanxicô Salêxiô). Nhờ tình yêu này mà người khác nhận ra chúng ta là người Công giáo, là chúng ta cũng tự hào là người con cái của Chúa.

Về mục lục