CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH. NĂM C

676

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH_C

Lời Chúa: Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35

——-

Mục lục

1. Thiên Chúa được tôn vinh (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Thấm nhuần tin yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Như Thầy yêu thương (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

4. Đạo yêu thương  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Đời sống mới trong Chúa Giêsu  (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

6. Yêu kiểu mới  (Lm. Giuse Nguyễn)

7. Điều răn mới  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

8. Biến “bể khổ” thành “bể sướng”  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

9. Yêu như Thầy đã yêu (JM. Lam Thy, ĐVD)

10. Anh em hãy yêu thương nhau (Fx. Đỗ Công Minh)

11. Tình yêu kiểu mới (Pt. Giuse Trần Văn Nhật)

 

Mục lục

1. Yêu người như Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

2. Sống tử tế  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Dấu hiệu nhận biết (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

4. Yêu thương là giới răn mới (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

5. Yêu như Chúa yêu  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Dấu chỉ  (Trầm Thiên Thu)

7. Hãy yêu như lòng dạ thương xót của Thiên Chúa  (Jos. Vinc. Ngọc Biển) 

8. Phù hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

9. Yêu như Chúa đã yêu  (AM. Trần Bình An)

10. Yêu như Chúa yêu-  (Lm. Anthony Trung Thành)

11. Yêu thương như Thầy đã yêu thương  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

12. Chúa Nhật 5 Phục sinh_C (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

13. Yêu như Thầy yêu (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

14. Trời mới đất mới (Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm, SJ)

15. Bài học thực tế (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

16. Di chúc tình yêu  (Dã Quỳ)

17. Yêu như Thầy (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

18. Đặc điểm của lòng yêu thương chân thực (Lm. Giuse Trực)

19. Phục vụ trong yêu thương khiêm hạ  (Lm. Đan Vinh)

20. Cái mới của tình yêu  (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)

21. Yêu như Thầy đã yêu (Huệ Minh)

22. Tình yêu căn cứ vào Thập giá (Trần Đình Phan Tiến)

 

THIÊN CHÚA ĐƯỢC TÔN VINH

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chỉ trong vỏn vẹn có 2 câu trong đoạn Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay, Chúa Giêsu sử dụng 5 lần chữ “tôn vinh”. Dựa vào Lời Chúa tiên báo: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu”, Thánh sử Gioan muốn diễn tả giờ phút Chúa chịu khổ hình thập giá cũng là giờ phút Chúa được tôn vinh. Đó cũng là giờ phút người ta nhận ra Người là Thiên Chúa đích thực. Nếu Chúa Con đã vâng lời cho đến chết để tôn vinh Chúa Cha, thì qua cuộc phục sinh huyền diệu, chính Chúa Cha tôn vinh Chúa Con, để rồi vinh quang của Chúa lan tỏa trong vũ trụ, nơi con người cũng như nơi vạn vật. Sự tôn vinh như một dòng chảy giữa Chúa Cha và Chúa Con, và chúng ta, những tạo vật thấp hèn, cũng được chia sẻ vinh quang với Đấng đã chết và sống lại. Hơn thế nữa, chúng ta được hòa vào dòng chảy hiệp thông và vinh quang của Chúa Ba Ngôi. Chính vì vậy, càng nỗ lực rao truyền Danh Chúa bao nhiêu, chúng ta càng được thông phần vinh quang của Ngài bấy nhiêu.

Trong quá khứ cũng như trong hiện tại, Thiên Chúa đang được tôn vinh qua những cộng tác của chúng ta để loan báo Tin Mừng. Sách Tông đồ Công vụ kể lại sức sống mãnh liệt và sự phát triển không ngừng của Cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Mọi tín hữu, nhất là các tông đồ đều dấn thân đến mọi môi trường xã hội để loan báo Chúa Giêsu phục sinh. Bài đọc hôm nay kể lại những hoạt động của Phaolô và Barnabê. Một số địa danh được tác giả nhắc tới cho thấy nỗ lực và lòng nhiệt thành của các ông. Các ông luôn rảo khắp mọi nơi để thiết lập những cộng đoàn mới. Đến bất kỳ nơi nào, hai ông “tập hợp Hội Thánh”, tức là quy tụ mọi người thiện chí và kể lại cho họ những gì Thiên Chúa đã làm. Đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh đã vượt qua ranh giới những người Do Thái để đến với các dân ngoại, vì vậy, số người tin Chúa ngày một tăng thêm. Vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện nơi các cộng đoàn và nơi cá nhân mỗi người tín hữu, nhờ đó cộng đoàn đầy tràn sức sống và niềm vui.

Thiên Chúa được tôn vinh khi chúng ta sống hòa thuận yêu thương nhau. Thánh Irênê đã viết: “Vinh quang Thiên Chúa là con người sống vui”. Khi khẳng định điều này, vị Giáo phụ Hy Lạp muốn diễn tả: mỗi khi con người sống hạnh phúc và yêu thương nhau, thì vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện. Cũng vậy, mỗi khi con người nỗ lực thực hiện tình yêu thương và sống hạnh phúc, là họ loan truyền vinh quang Thiên Chúa. Sau khi nói đến việc Chúa Cha tôn vinh mình, Chúa Giêsu nhắc lại lời mời gọi sống yêu thương. Giới răn yêu thương còn được nhắc lại trong phần tiếp theo của Tin Mừng (x. Ga 15,17). Đức Giêsu cũng khẳng định: một khi các tín hữu sống yêu thương nhau, họ sẽ làm cho vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện, và những người khác sẽ nhận ra các tín hữu là môn đệ của Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, người ta có thể nhận ra hình ảnh của Ngài nơi đời sống của người tín hữu, ở mức độ cá nhân cũng như tập thể.

Vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện một cách hoàn hảo vào lúc tận cùng thời gian, tức là ngày cánh chung. Thánh Gioan trong thị kiến đã thấy trời mới đất mới. Lúc đó, mọi đau khổ và nước mắt sẽ không còn. Thiên Chúa không còn là Đấng vô hình nữa, nhưng Ngài sẽ hiện diện giữa dân Ngài một cách hữu hình cụ thể (Bài đọc II). Đó là tương lai mà chúng ta đang hướng tới. Đó cũng là đích điểm của đời sống Kitô hữu.

Sứ mạng cốt lõi của Chúa Giêsu khi Người được sai đến trần gian là để tôn vinh Thiên Chúa. Việc rao giảng Tin Mừng và những phép lạ Chúa đã thực hiện là nhằm mục đích thể hiện quyền năng của Chúa Cha và lòng thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã trung tín thực hiện sứ mệnh được trao, dù phải trải qua thập giá. Tôn vinh Thiên Chúa cũng là ơn gọi của người Kitô hữu. Điều này nghe có vẻ khó khăn, nhưng trong thực tế lại đơn giản. Quả vậy, tôn vinh Thiên Chúa chỉ là đơn giản là cuộc sống đạo đức yêu thương và nhiệt thành tông đồ. Điều này mọi Kitô hữu đều có thể làm được, nhờ nỗ lực của cá nhân, cộng với ơn phù trợ của Chúa, Đấng đang hiện diện giữa chúng ta.

Về mục lục

.

THẤM NHUẦN TIN YÊU

Lm. Jos DĐH

Đứa trẻ thường ước mơ rất phong phú, nhưng lại đầy phức tạp, nhu cầu chúng cần được yêu thương, thao thức của chúng là gia đình được hạnh phúc hơn quà bánh, tiền mới, quần áo mới. Trải qua tháng ngày tuổi thơ, người trẻ mỗi lúc mỗi hình thành phong cách từ bầu khí gia đình: cây tốt, sinh trái tốt ; hoặc chúng sẽ phản ánh từ cộng đồng xã hội: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Ngày xưa bậc sinh thành rất vui, khi con cháu biết đọc kinh “lạy cha, kính mừng, sáng danh” ; nay, cha mẹ lại hãnh diện khi con cháu sử dụng thành thạo chiếc điện thoại thông minh. Bài học hay và kinh nghiệm quí báu, nhiều người rất mạnh mẽ cho rằng: nguy hiểm nhất ở đời là đứng trước con bò, ở đằng sau con ngựa và bên cạnh đứa ngu. Thấm nhuần tình yêu thương của bậc sinh thành, có lưu lại được những nét tinh hoa, tuỳ thuộc tự do chọn lựa và quyết tâm sống của mỗi người.

Nếu năm xưa Thầy Giêsu hỏi các học trò, chúng con thích gì, rất có thể các ông sẽ nói, chúng con thích Thầy làm vua, thích được Thầy chia sẻ quyền lực, trong khi Đức Giêsu luôn mong các học trò thấm nhuần tình hiệp nhất yêu thương và nhiệt huyết tông đồ. Thời gian và tình Thầy đã lớn lên trong các môn đệ, hôm nay, đã và đang soi sáng, mở rộng tầm nhìn cho chúng ta: địa vị vật chất, sự thông thái, không thể lấp được khoảng trống cuộc đời, bao lâu giữa các tương quan của chúng ta chưa có tình yêu Chúa. Sở thích và lối sống của mỗi người mỗi khác nhau, nhưng ước muốn được sống yêu thương, được bình an và niềm vui, đều là thao thức chung.

“Xuân Diệu” đã thu hút nhiều đối tượng bằng lý lẽ riêng của ông: làm sao cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều, nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ nắng hiu hiu…Bằng ngôn ngữ và giai điệu thân thiện, Chúa Giêsu nói lên quan điểm rất thực tế: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con hãy yêu thương nhau”. Rõ ràng, tình yêu ai bán mà mua, tình yêu không phải là sản phẩm mơ hồ, tình yêu bao giờ cũng cao đẹp giữa các tương quan gia đình xã hội, tính “keo sơn” đó liên đới, hoà hợp, làm nên đặc tính chung: cho và nhận, là không tính toán hơn thiệt, là chấp nhận sự khác biệt của nhau.

Trải qua những gian khó trong đời, tiền nhân chúng ta đã để lại nhiều bài học cao quí: ở chọn nơi, chơi chọn bạn ; tìm nơi có đức gởi thân, tìm nơi có nhân gởi của. Đức Giêsu không ý kiến việc chọn nơi hay chọn bạn, nhưng hãy để đức ái thấm nhuần vào cuộc sống của mình: “căn cứ vào điều này mà thiên hạ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”. Nếu không đặt tình yêu vào việc chăm sóc nuôi dạy con cái, bậc cha mẹ dễ xem đó là “của nợ” mà họ phải trả. Nếu đặt để tình yêu vào việc giáo dục con cái, đấng sinh thành sẽ thấy “chúng” là hoa quả của niềm vui, là hạnh phúc được cộng tác xây dựng con người mới, trời đất mới. Hãy yêu thương nhau, hãy sống căn tính của người môn đệ Đức Giêsu, hãy sống xứng hợp với tình yêu của Đấng là Thầy là Chúa, Đấng cứu độ trần gian, Đấng cho chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha.

Tình yêu của Chúa phục sinh lúc này đang sống động trong các tương quan, Ngài vẫn nhắn hỏi chúng ta: các con có mơ ước được hưởng phúc vinh quang cùng Thầy không, các con có yêu thương nhau không, và có yêu như Thầy yêu không ? Yêu và được yêu, tin và sống niềm tin yêu, sẽ không phải là giao ước, là cảm nhận trên giấy, mà mỗi người bằng khả năng, bằng điều kiện riêng, phải minh chứng cách rõ ràng hơn nơi anh chị em của mình. Cha ông chúng ta có câu: người ta có thể bỏ qua một lời nói, nhưng không nên bỏ qua mười lời góp ý. Chúng ta có một ơn gọi theo Đấng là thầy là Chúa, nhưng chúng ta có cả đời để học hỏi, để khám phá nét đẹp của tình yêu Giêsu, để sống tin yêu, để thấm nhuần giáo huấn yêu thương Chúa truyền dạy.

Hãy yêu thương nhau, hãy nhớ mỗi người đều mang hình ảnh của Thiên Chúa yêu thương, và cần xét xem chúng ta có thuộc về Đức Kitô trên lý thuyết, chúng ta có là đệ tử của “thần tài, thần lưu ly, hay thần đỏ đen” ? Đi theo Chúa, thấm nhuần niềm tin yêu Đức Kitô là Mục tử nhân lành, chúng ta đang sống tiến trình: có gieo có gặt, có vượt qua đau khổ để đến vinh quang không ? Thấm nhuần niềm tin yêu không phải là tìm danh lợi thú, mà là biết khiêm tốn để được nên một trong đại gia đình của Chúa, một gia đình yêu thương nhau không giới hạn là đồng hương hay đồng môn. Xin Đấng phục sinh hiện diện mãi nơi mỗi tâm hồn và gia đình chúng con như Chúa đã đồng hành với các môn đệ của Chúa, xin tiếp tục làm cho chúng con mãi mãi là con chiên ngoan hiền của Chúa, là chứng nhân tình yêu thương của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

NHƯ THẦY YÊU THƯƠNG

Bông hồng nhỏ.

Sau những thành công hay thất bại, ta thường ngồi lại gẫm suy: Tôi đã được gì và mất gì. Đã bao giờ ta bận tâm về cái ta phải có là tình yêu thương? Đây là di chúc của Thầy Giêsu:

“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Tình yêu đích thực luôn làm cho cuộc sống càng tươi đẹp. Nếu khi nào ta cố gắng yêu nhưng vẫn thấy cuộc sống có vẻ bế tắc, đó là khi tình yêu của ta chưa tinh tuyền, ta chưa yêu như Thầy Giêsu. Trước khi con Thiên Chúa nhập thể, con người đã biết đến tình yêu. Con người đã yêu và yêu rất nhiều. Tại sao Thầy Giêsu gọi điều răn của Ngài là “điều răn mới”? Thầy nhắn nhủ các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Điều răn của Thầy là yêu thương và phải yêu như Thầy đã yêu thương. Yêu thương theo cách ta muốn không khó nhưng để yêu như Thầy đã yêu thì phải có ơn Chúa ta mới yêu được. Chiêm ngắm tình yêu Thầy trong Bữa Tiệc Ly, ta nhận thấy đó là một tình yêu trên mọi tình yêu. Ngài là Thầy và là Chúa nhưng lại cúi mình rửa chân cho môn đệ. Ngài đã rửa chân cho cả Giuđa là kẻ sẽ phản bội Ngài. Miếng bánh Ngài trao cho Giuđa như một cử chỉ của lòng yêu thương mặc dù Thầy Giêsu biết đó là kẻ sẽ bán mình. Có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của Thầy trong giờ phút này? Thầy đã yêu tất cả, một tình yêu không loại trừ ai, một tình yêu luôn tôn trọng tự do của người mình yêu thương. Nhân loại đã yêu và lớn lên trong tình yêu. Sống điều răn của Chúa Giêsu, người môn đệ sẽ trưởng thành, sẽ nên giống Chúa Giêsu. Tình yêu giúp họ nên đồng hình đồng dạng với Chúa, ở trong vòng tay Chúa, ở trong trái tim Chúa, người môn đệ sẽ mở rộng vòng tay đón nhận nhau, mở rộng trái tim để yêu thương nhau và nhìn thấy hạnh phúc của người khác, nhìn nhận chiến thắng của nhau trong Chúa. Ai cũng muốn được hạnh phúc và hạnh phúc chỉ thật sự đến khi ta dám yêu như Chúa muốn, một tình yêu quên mình và tự hiến, sẵn sàng trao ban.

Lạy Chúa Giêsu! Xin giúp con mỗi ngày biết chiêm ngắm Chúa chịu đóng đinh, để con cảm nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa, để con được chạm đến trái tim Chúa. Xin Chúa huấn luyện trái tim con nên giống trái tim Chúa và xin lôi kéo con bước vào con đường tình yêu của Chúa. Bởi chính nhờ đó mà con hiểu mình hơn và nhận ra Chúa nơi anh chị em. Amen.

Về mục lục

.

ĐẠO YÊU THƯƠNG

Anna Cỏ May

Trong giờ cơm trưa ở xưởng may. Mai đang ăn cơm trưa, chị Loan đi tới:

  • Em bên đạo à?
  • Dạ, sao chị biết em là người bên đạo?
  • À, chị cứ thấy mỗi lần ăn cơm là em đưa tay khua trước mặt, miệng thì lắp bắp.
  • Dạ, em làm dấu thánh giá để tạ ơn Chúa vì những của ăn mà Chúa đã thương ban cho em, chị ạ.
  • Đạo Thiên Chúa hay em nhỉ!

Thế là hai chị em rôn rả chuyện trò với nhau. Mai được dịp cho chị Loan nghe về đạo Thiên Chúa – đó là đạo yêu thương.

Làm dấu thánh giá là dấu chỉ bên ngoài để mọi người nhận biết mình là kitô hữu. Khi làm dấu thánh giá, người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi Chúa Cha, Chúa Con Và Chúa Thánh Thần. Có rất nhiều người Kitô hữu thể hiện niềm tin cách mạnh mẽ. Họ công khai làm dấu thánh giá mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên cũng không ít người lại muốn che dấu niềm tin của mình, họ ngần ngại và sợ hãi khi làm dấu thánh giá ở chốn đông người hay chỉ là một nhóm bạn không cùng tôn giáo.

Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người kitô hữu đi sâu vào cuộc sống của Thiên Chúa, một cuộc sống yêu thương. Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34). Vâng “hãy yêu thương nhau” là giới luật mà Thiên Chúa muốn mỗi người thực thi. Giới luật yêu thương là nấc thang giúp chúng ta đến gần Chúa và trở nên giống Ngài vì chính Ngài đã yêu thương chúng ta. Nhìn lại chính mình, chúng ta tự xét xem mình là người thế nào? Một người tốt hay một người xấu; là người giàu có hay người nghèo khó; là người hiền lành hay người dữ dữ dằn. Dầu chúng ta là người thế nào, Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài tha thứ tất cả và đã hiến trao thân mình để cứu chúng ta. Đáp lại tình yêu Chúa, chúng ta cũng hãy yêu thương hết tất cả mọi người xung quanh dù họ thế nào.

Vì yêu như Chúa yêu, nên chúng ta không chỉ yêu ở môi miệng, ánh mắt mà còn yêu bằng những hành động cụ thể. Nhất là yêu cả con tim. Chúng ta mở lòng và đôi tay ra cho Thiên Chúa, để Ngài dùng chúng ta như khí cụ hữu hiệu. Chúng ta hãy bắt đầu yêu thương nhau từ chính những người thân trong gia đình chúng ta, là những người gần chúng ta nhất. Điều này không mấy dễ dàng, nhưng nó là điểm xuất phát cho mọi hoạt động phục vụ của chúng ta. Sống điều răn yêu thương là chúng ta trở nên những cộng sự viên của Chúa, trở nên những người con bé nhỏ và trở nên môn đệ của Ngài (x.Ga 13,35).

Lạy Chúa, yêu thương người khác thật là khó với mỗi người chúng con. nhưng đó là con đường để chúng con có hạnh phúc trên Nước Trời. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con quả tim biết yêu thương người khác. Để tình yêu Chúa được lan rộng khắp nơi và chúng con hưởng hạnh phúc trên Nước Trời. Amen.

Về mục lục

.

ĐỜI SỐNG MỚI TRONG CHÚA GIÊSU

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Phụng vụ Lời Chúa của Chúa nhật V Phục sinh năm C mời gọi các tín hữu đi vào đời sống mới trong Chúa. Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Chính Ngài đã băng qua cuộc sống đầy cam go của kiếp người và bước vào đời sống mới. Lòng khao khát vươn lên và thoát ra khỏi cảnh khổ ải phiền não luôn nung nấu tâm can con người. Chính Chúa Giêsu đã sống khát vọng ấy và Ngài đã bước vào vinh quang. Giờ đây nhân loại được mời gọi tiến bước với Ngài để cùng được sống an bình trong vinh quang phục sinh với Ngài.

Khát vọng đổi mới bản thân, đổi mới xã hội luôn làm cho con người phải nỗ lực tìm tòi cải tiến. Chính cái khát vọng ấy thúc đẩy con người tiến bước: khát vọng sự thiện thì hướng bước về sự thiện; khát vọng điều bất chính thì bước chân sẽ lạc đường chính lộ. “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5,7).

Đức Phật Thích Ca năm xưa đã khát khao tìm kiếm nguồn bình an, nơi không còn khổ ải, không còn u mê. Và Ngài đã tìm ra con đường thoát khổ, tận diệt tham – sân – si, giác ngộ bến mê tiến bước về miền ánh sáng. Đức Khổng Tử đã thao thức với cuộc đời, ngày đêm suy gẫm tìm cách thế ổn định xã hội. Và để rồi những đạo lý hiếu nghĩa, quân thần, quân tử ở đời được Ngài đưa ra mà giảng cho học trò. Hay như Đức Lão Tử đã lấy cách xử thế của Đạo làm nền tảng cho đời sống mới.

Dân tộc Do Thái luôn ấp ủ một đời sống mới trong vinh quang bất diệt của Thiên Chúa. Miền đất hứa không còn là một mảnh đất trên trái đất này, nhưng là Thành Thánh Giê-ru-sa-lem trên Thiên Quốc, nơi vinh quang Chúa bao trùm tất cả. Tiên tri Ezekiel đã miêu tả khung cảnh của Thành Thánh mới, nơi “vinh quang Yavê đầy cả Ðền thờ” (Ez 43,5).

Trong bài trích sách Khải Huyền, thánh Gioan đã mô tả cảnh trời mới đất mới trong vinh quang của Chúa. Nơi mà “Thiên Chúa ở với loài người” (Kh 21,3). Thiên Chúa không còn là đích điểm xa vời mà con người hướng tới. Trong khung cảnh đời sống mới, chính Thiên Chúa đã đến ở với con người, và chính Ngài đưa con người thoát khỏi khổ đau. Thánh Gioan đã mô tả thật rõ nét về đời sống mới: “Sự chết chóc sẽ không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ: bởi vì các việc cũ đã qua đi” (Kh 21,4).

Chính Đức Giêsu đã ngụp lặn trong vũng lầy của kiếp nhân sinh. Để rồi, bằng một tình yêu mãnh liệt, Ngài đã mở toang cánh cửa bước vào đời sống mới. Chính Ngài đã yêu nhân loại, đã yêu cái khốn cùng của nhân loại, yêu tha thiết những khuôn mặt lem luốc bởi tội lỗi, hốc hác vì khổ đau của con người. Ngài đã yêu với trái tim rực lửa, yêu đến hao mòn thân xác, yêu đến cùng, yêu đến chết. Để rồi người môn đệ được Ngài yêu mến đã thốt lên “Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

Lời trần tình của Giêsu trước giờ chia ly các môn đệ trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật này là lời mời gọi mọi người bước vào đời sống mới. Lời bộc bạch từ tận ruột gan của người thầy với các môn đệ là: “các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35). Chỉ có 2 câu mà cụm từ “các con hãy yêu thương nhau” được lặp lại tới 3 lần, khiến ta cảm được sự tha thiết đến dường nào nơi trái tim Chúa.

Tình yêu thương đồng loại là chuyện xưa như trái đất. Lòng từ bi hỷ xả, tình huynh đệ đại đồng luôn là điều được mời gọi xưa nay. Nhưng yêu làm sao, yêu bao nhiêu cho đủ. Tình yêu vốn dĩ chẳng có phạm trù, chẳng có danh giới, nên chẳng ai định nghĩa được tình yêu. Và giả như có ai cố gắng định nghĩa nó, thì ngay khi nó được định nghĩa, nó chẳng còn là tình yêu nguyên tuyền trọn vẹn. Đức Giêsu đã không miêu tả tình yêu hay hệ thống hóa nó bởi ngôn từ. Nhưng Ngài đã diễn tả nó bằng cả cuộc đời dương thế của Ngài. Để rồi Ngài cất lời mời gọi: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).

Một “Nền văn mình tình thương” đã được Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI nói đến lần đầu tiên vào ngày lễ Hiện Xuống năm 1970 tại quảng trường thánh Phêrô sau khi nguyện kinh Truyền Tin. Dưới triều đại của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Nền văn mình tình thương” không ngừng được nhắc đến trong các bài diễn thuyết cũng như trong các văn kiện của Ngài, đặc biệt cuốn sách của Ngài với tựa đề “Xây dựng Nền Văn Minh Tình Thương”. Trong sứ điệp hòa bình ngày 01/01/2004, ngài khẳng quyết: “Chỉ có một nhân loại được thống trị bởi ‘Nền Văn Minh Tình Thương’ mới có thể thủ đắc một nền hòa bình đích thực và dài lâu. Vào đầu một năm mới, tôi nhắc lại với các quý bà quý ông ở mọi ngôn ngữ, mọi miền văn hóa câu châm ngôn cổ thời: “Omnia vincit amor” – Tình yêu chiến thắng tất cả.

Lạy Chúa, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, xin Ngài nhắc con: “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Và xin Ngài ban ơn để con có thể yêu thương anh em mình như Ngài đã yêu con.

Về mục lục

.

YÊU KIỂU MỚI

Lm. Giuse Nguyễn

Di chúc của một người là cái gì rất quý giá, thiêng liêng cho những người thân. Vì vậy họ sẽ làm mọi cách để thực hiện di chúc đó, nhiều khi phải hy sinh sinh nhiều thứ để thực hiện nguyện vọng của người đã khuất. Khi cầu Cần Thơ được khánh thành vào năm 2008. Lúc đó có một ông già ở Phụng Hiệp, Hậu Giang ước mong ngày khánh thành cây cầu dây văng lớn nhất Đông Nam Á này ông sẽ đi cho biết. Tuy nhiên ông lâm bệnh nặng trước ngày cầu Cần Thơ hoàn tất. Trong lúc hấp hối, ông nói với các con ông: “Trước khi chôn ba, bây cho ba đi cầu Cần Thơ một lần cho biết”. Trời đất ơi, chết rồi biết gi nữa! Thế là ngày chon ôn, con cái thuê xe, vượt đường 30 cây số từ Phụng Hiệp đến Cần Thơ, chạy lên cây cầu dây văng, qua bờ Vĩnh Long, rồi vòng về mới đem ông đi chôn. Họ muốn thực hiện lời di chúc của ông. Hay có những đám tang người ta mướn dàn đờn ca tài tử về hát suốt đêm. Hỏi sao vậy? Họ nói: “má con lúc sống khoái cải lương lắm, nên mướn về hát cho bả nghe”. Thôi thì hát cho bà nghe vài bài được rồi, để giờ mà đọc kinh cầu lễ, người Công giáo chắc cần cầu lễ hơn là cần mướn dàn nhạc về để “giúp vui văn nghệ nhân ngày má chết”. Nói một cách ngắn gọn: di chúc là gia tài vô giá mà người thân để lại cho chúng ta trước khi qua đời. Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta một di chúc vô cùng quý giá của Chúa Giêsu, đó là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”.

Trong bài đọc thứ nhất (Cv 14, 21b-27) sách Tông Đồ Công Vụ kể lại việc Phaolô và Banaba đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết và đã sống lại. Tội tình gì mà phải đi rao giảng cho mệt vậy? Chính Phaolô sau này cũng tâm sự, ông gặp đủ thứ khó khăn trên bước đường truyền giáo, thậm chí là nguy hiểm đến tính mạng nữa. Nhưng ông vẫn làm vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi”. Ông đang sống một tình yêu, nhưng tình yêu theo kiểu mới chứ không phải theo kiểu cũ. Một tình yêu muốn san sẻ chứ không giữ cho riêng mình. Một tình yêu sẵn sàng hy sinh chứ không tìm an nhàn cho mình…

Còn trong bài đọc 2 (Kh 21, 1-5a) thánh Gioan trong một thị kiến đã nhìn thấy một vương quốc mới, vương quốc của tình yêu. Ở đó sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những cái cũ đã biến mất. Chính Đấng ngự trên ngai là Đức Giêsu Kitô đã đổi mới mọi sự. Ngài đã dùng chính tình yêu của Ngài để đẩy lui những gì là cũ kỹ.

Trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 13, 31-33a.34-35) mô tả lại một khung cảnh chan chứa tình yêu thương: bữa tiệc chia tay của thầy trò Đức Giêsu. Chỉ một mình Đức Giêsu biết đây là bữa tiệc chia tay, còn các môn đệ thì tưởng đây là bữa tiệc Vượt Qua bình thường như mọi năm; tưởng đây là một chầu nhậu mà “lâu lâu người ta mới nhậu một lần”. Vì vậy các ông lấy làm lạ, tại sao trong bữa tiệc này, Thầy mình nói nhiều hơn uống, mà nói toàn những chuyện đâu đâu! Cũng dễ hiểu thôi, tâm lý tự nhiên của một người trước khi ra đi sẽ muốn nói thật nhiều, nhất là với những người mình thương mến, nhiều khi nói những điều gọi là trăn trối nữa. Cụ thể hôm nay Đức Giêsu trăn trối lại cho các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”. Yêu thương nhau là chuyện xưa như trái đất, có mới mẻ gì đâu?! Nhưng cái mới ở đây là: “Yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em”. Đức Giêsu đã trối lại cho các môn đệ hãy yêu kiểu mới, đừng yêu kiểu cũ nữa!

Chắc có lẽ nhiều người trong chúng ta biết câu chuyện của thánh nữ Maria Goretti. Cô là một cô gái xinh đẹp, cả về hình thể lẫn nết na. Nhưng vì gia đình nghèo, không có nhà riêng nên phải sống chung với gia đình của chàng Alexandre. Anh đem lòng yêu mến cô gái này và đã từng dụ dỗ cô phạm tội với mình, nhưng Goretti luôn từ chối. Một hôm khi mọi người đang làm đồng, Alexandre biết Goretti ở nhà một mình nên giả bộ đau bụng để đi về. Anh giả bộ nhờ Goretti vào phòng đơm nút áo cho mình. Cô bé ngây thơ nên cũng vào. Anh ta định giở trò đồi bại nhưng cô bé một mực từ chối. Đam mê đã làm mờ lý trí chàng thanh niên. Chàng đã lấy dao đâm liên tục 17 nhát vào người cô gái 14 tuổi. Anh của Goretti sinh nghi nên trở về nhà, thấy cảnh tượng đó anh hứa sẽ trả thù bằng mọi giá. Nhưng Goretti tha thiết xin anh mình tha cho Alexandre. Cuối cùng Goretti chết, Alexandre bị bắt ở tù. Một đêm anh nằm mơ thấy Goretti hiện ra tặng cho mình những cánh hoa hồng màu trắng và màu đỏ. Từ đó Alexandre ăn năn sửa mình nên được trả tự do trước thời hạn. Đặc biệt hơn, trong ngày Goretti được phong thánh, anh vinh dự là người được mời đến như một nhân chứng sống, và anh cũng là người dâng lễ vật trong thánh lễ đó.

Có thể nói tình yêu của Alexandre dành cho Goretti là tình yêu kiểu cũ, kiểu “xưa rồi diễm”, một tình yêu đam mê, thấp hèn. Còn tình yêu của  Goretti dành cho anh là tình yêu kiểu mới, một tình yêu cao thượng vượt lên trên những gì là tầm thường.

Để thực thi điều trăn trối của Thầy Chí Thánh, chúng ta phải biết vượt qua tình yêu tầm thường, cũ kỹ để hướng đến một tình yêu cao thượng hơn. Một tình yêu giống như Thầy đã yêu. Yêu không nề hà, yêu bất chấp, yêu tất cả, yêu chỉ vì yêu chứ không vì bất cứ lý do gì.

Còn chúng ta, tình yêu kiểu mới này không phải là cái gì lớn lao, phi thường, nhưng là một cái nhìn mới cho anh chị em, những người trước nay mình ghét, mình không muốn nhìn mặt. Hãy thay đổi cái nhìn của chúng ta. Thôi bỏ qua đi!… Là một lời nói mới mẻ dành cho anh chị em mình. Đừng nói xấu nhau, đừng nói những lời xúc phạm nhau. Hãy thay đổi cách nói của chúng ta!… Tình yêu mới còn là những hành động mới của chúng ta dành cho gia đình, cho họ đạo, cho những người chúng ta gặp gỡ. Ví dụ một lần viếng thăm, một lời hỏi han, một sự cộng tác… Đừng tìm kiếm tình yêu mới ở đâu xa, nhưng ở trong chính gia đình mình, trong đoàn thể mình, trong họ đạo mình; một cách đặc biệt trong năm nay là những gia đình gặp khó khăn.

Hãy nhớ lời trăn trối của Đức Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” Hãy sống chan hòa tình yêu thương với những người xung quanh. Đó là dấu cho người khác biết chúng ta là môn đệ của Thầy Giêsu.

Lạy Đấng Phục Sinh, xin thay đổi tất cả mọi sự trong con, để con có một cái nhìn một, một hành động mới, một đời sống đạo mới phù hợp với “tình yêu kiểu mới” mà Chúa mời gọi chúng con. Xin Mẹ cho chúng con luôn luôn có tâm hồn tươi mới như những bông hoa trong tháng Năm này, để cùng với Mẹ, chúng con dâng hiến trọn vẹn thân xác, tâm hồn…

Về mục lục

.

ĐIỀU RĂN MỚI

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  

Con người chúng ta ở trần gian này thường đối xử với nhau theo nhiều mức độ khác nhau. Có những người sống với nhau thật tử tế, thật lịch sự, nhưng có những người lại đối xử với nhau không tốt đẹp lắm.Bởi vì thế giới hôm nay đang sống trong nền văn minh sự chết. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi nói lên điều đó,Ngài muốn gióng lên tiếng nói mạnh mẽ : “ Dù con người sống văn minh, kỹ thuật cao nhưng nếu thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự trung thực mà chỉ chạy theo hưởng thụ, xác thịt tội lỗi thì thực sự con người đã lâm vào cảnh hư đốn, chết chóc vv…”. Chúa Giêsu đã trăn trối cho các môn đệ và cho tất cả mọi người chúng ta một điều răn mới :” Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em “.

Đức Giêsu trăn trối những lời tâm huyết cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta làm cho tất cả mọi người đều phải suy nghĩ.Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương họ. Chúa không nói các môn đệ hãy yêu thương người ngoài, nhưng là yêu thương nhau. Yêu thuong nhau mới là điều quan trọng. Đức Giêsu trước khi công bố giới răn mới này, Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong đó có cả Giuđa. Đây là cử chỉ vô cùng khiêm tốn của một vị Thầy bởi vì việc rửa chân chỉ dành cho đầy tớ. Rồi trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa như là một cử chỉ thân thương Chúa dành cho Giuđa tỏ lòng sám hối, nhưng thực tế, Giuđa đã bỏ ra đi trong đêm tối, đồng lõa với ma quỷ…Chúa Giêsu biết rõ số phận đang chờ đợi mình. Người sẽ hiến mạng sống mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha để cứu độ nhân loại, cứu rỗi mỗi người.Đức Giêsu đã yêu ta trước khi truyền lệnh cho ta yêu thương nhau.Khi cảm nghiệm được điều đó ta sẽ nhận ra tình yêu Chúa dành cho ta,nên ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thuong ta.

Vâng, dấu hiệu của Đạo Công Giáo là cây Thánh Giá, làm dấu Thánh Giá trước các bữa ăn vv…Nhưng đó mới là dấu hiệu, biểu hiệu nổi của một người theo Chúa. Điều quan trọng nhất mà người ta nhận được nơi các môn đệ là họ  yêu nhau.  Thực tế, nơi các môn đệ còn rất nhiều rào cản như ích kỷ, ghen tuông, chia rẽ, hận thù. Những rào cản này, nếu các môn đệ không vượt thắng, họ sẽ chưa trở thành môn đệ trung kiên của Chúa Giêsu. Việc truyền giáo đòi hỏi người môn đệ Chúa phải hiệp nhất, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Nếu không việc loan báo Tin Mừng sẽ không có kết quả.Trên thế giới ngày nay, lời truyền của Đức Giêsu :” Xin cho mọi người hiệp nhất nên một “ vẫn là một vấn nạn nhức nhối đối với mọi người.

Việc yêu thương nhau như Chúa yêu thương ta vẫn chưa được mọi người thực hiện một cách rốt ráo vì con người thích chạy theo những thú vui xác thịt, những sự dễ dãi của vật chất, hưởng thụ, mà quên đi cái cốt lõi của Tin mừng là Tình Yêu. Thánh Gioan đã định nghĩa :” Thiên Chúa là Tình Yêu “. Bởi vậy, yêu là tận hiến, là cho đi. Thiên Chúa vì yêu thương con người, nên đã sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến nhân loại để mang ơn cứu độ cho nhân loại, cho mỗi người. Qua cái chết tự nguyện trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã cho nhân loại biết : “ Ngài yêu thương con người tới cùng là tự hiến thân mình trên Thập Giá vì yêu thương con người “. Đúng như Người đã nói :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con biết thực hiện Lời Chúa trong đời sống chúng con.Amen.

Về mục lục

.

BIẾN “BỂ KHỔ” THÀNH “BỂ SƯỚNG”

Lm. Bosco Dương Trung Tín

  “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa”(Cv 14,22).

   Trong cuộc sống hằng ngày, khi phải lo cho cái ăn, cái mặc, chúng ta cũng phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có chứ đâu phải dễ, huống chi là vào Nước Thiên Chúa. Để vào được Nước Thiên Chúa, chúng ta cũng phải chịu nhiều gian khổ mới vào được. Chính Đức Giê-su cũng đã nói, đường vào Nước Trời là đường chật; cửa vào Nước Trời là cửa hẹp mà (x. Mt 7,13) và qua các điều Chúa dạy trong Tin Mừng thì không dễ gì mà thực hiện. Hơn nữa, “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (x. Mt 11,12).

Như thế, vào được Nước Trời không phải dễ, nên ta đừng bao giờ nghĩ đơn giản, cứ chịu phép rửa tội là xong; cứ lo đọc kinh, dự lễ hằng ngày là chắc ăn “như đinh đóng cột” là được lên Thiên Đàng. Đức Giê-su đã chẳng nói thế này sao ? “Không phải cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi” (x. Mt 7,21).

Điều kiện duy nhất để được vào Thiên đàng là thi hành Ý Chúa. Ta thi hành ý Chúa ở đâu? Chỉ ở trong nhà thờ thôi sao? Không. Là người tín hữu Công Giáo, cuộc sống đức tin của ta không dừng lại ở Nhà Thờ mà còn trải dài trong cuộc sống hằng ngày của ta nữa. Nơi Nhà Thờ, chúng ta lãnh nhận Ơn Chúa và nghe Lời Chúa. Để rồi nhờ Ơn Chúa giúp, chúng ta đem Lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống của mình.Sống Lời Chúa chính là thi hành Ý Chúa.

Nếu ta chỉ sống đức tin ở Nhà Thờ thôi, thì sẽ không có ích lợi bao nhiêu; có chăng chỉ khoảng hai tiếng đồng hồ là cùng. Nếu ta sống đức tin trong cuộc sống của ta, thì sẽ có ích lợi luôn luôn và mãi mãi, dù trong cuộc sống của chúng ta có nhiều gian truân và đau khổ. Điều này, chính Đức Giê-su đã làm gương cho chúng ta.

Đức Giê-su đã nói không chỉ một lần mà đến ba lần, Ngài loan báo cuộc thương khó của Ngài: “Con người sẽ phải chịu đâu khổ, bị các Kỳ Mục, Thượng Tế cùng Kinh Sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (x. Mc 8,31). Và trước khi chịu khổ nạn, Đức Giê-su đã thưa: “Áp-pa, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén đắng này khỏi con. Nhưng đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha” (x. Mc 14,36).

  Đức Giê-su đã thi hành ý muốn của Thiên Chúa, Ngài đã chịu khổ hình, chịu chết và đã phục sinh. Đức Giê-su là mẫu gương, là mô phạm cho đời sống đức tin của mỗi người chúng ta. Ta có cho rằng việc thi hành Ý Chúa; việc phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Trời là việc mơ hồ và vô ích không? Không mơ hồ và không vô ích chút nào; trái lại rất thực tế và rất có ích cho cuộc sống của chúng ta.

Ta hãy nghĩ mà xem, là người sống trên trần gian này, có ai là người không phải trải qua nhiều gian khổ không? Không khổ trước thì khổ sau; sướng trước thì khổ sau, mà khổ trước thì sướng sau. Dù cho lắm tiền nhiều của đi chăng nữa thì cũng chẳng sung sướng gì. Sướng về vật chất thì lại khổ về tinh thần. Lắm tiền nhiều của thì con cái ăn chơi, hư hỏng, không lo học hành. Con nhà nghèo, không đủ ăn, đủ mặc, lại siêng năng học hành, thành đạt và nên người. Thế thì ta phải làm sao?

Ta phải sống đức tin, phải thi hành Ý Chúa chứ làm sao nữa. Trong cuộc sống hằng ngày, nếu ta lấy đức tin để cố gắng mà chịu nhiều những nỗi khó khăn, nhọc nhằn, gian khổ, ta sẽ thu được những kết quả tốt. Ta làm không chỉ với sức riêng của ta mà còn với Ơn Chúa nữa. Với Ơn Chúa giúp, ta sẽ làm cho tới cùng. Làm cho tới cùng thì chắc chắn ta sẽ thu được kết quả tốt thôi.

Nếu có thất bại, thì ta cầu xin Ơn Chúa giúp và ta làm lại; ta làm cho tới khi nào thành công. Nếu ta thành công thì ta hãy tạ ơn Chúa. Quả thật, ta làm với lòng tin thì tất cả những gian lao, khốn khổ sẽ không đi vào quên lãng đâu; nó sẽ là những cơ hội giúp ta vào Thiên Đàng nữa đấy.

Ví dụ như bệnh tật hay bị ung thư. Trên đời này có ai không bị bệnh gì và không bị ung thư chăng? Không mắc bệnh này cũng mắc bệnh kia; không đau răng cũng đau bụng; không ung thư phổi, cũng ung thư máu; không hàng tháng bị hành kinh, thì cũng bị “lở miệng” nó hành 10 ngày. Cứ đi bác sĩ khám sẽ biết mình có bệnh hay không thôi. Mà đau cái gì cũng khổ, chứ đâu có cái nào sướng đâu. Người ta nói: “Đời là bể khổ” mà.

Thế nhưng, những ai sống đức tin; sống Lời Chúa; những ai thi hành Ý Chúa thì có thể chuyển “bể khổ” đó thành “bể sướng”. Nếu không có đức tin, thì ta bệnh; ta ung thư; ta đau rồi ta chết. Xong phim.

Nhưng nếu ta có lòng tin, ta vẫn bệnh, vẫn ung thư, vẫn đau, vẫn chết nhưng chưa hết. Ta chấp nhận những đau khổ đó; ta chấp nhận những đớn đau đó như là của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa. Thứ nhất để đến tội lỗi của ta; thứ đến ta có thể cầu nguyện cho người khác; cho cha mẹ, cho anh chị em; cho con cái; cho những người còn sống hay những người đã qua đời.

Ta mà đền tội ở đời này thì đời sau ta khỏi đền ở trong luyện ngục, không sướng àTa dâng những hy sinh của ta để cầu nguyện cho người khác, là vô ích hay sao! Thế thì tại sao ta lại không dùng những cơ hội đó cơ chứ!!!! Ta mà không chấp nhận; ta không dâng những hy sinh đó lên cho Chúa, có phải là “phí của Giời” không. Ta mà không biết dùng thì chúng sẽ trôi xuống sông xuống biển hết, chẳng có ích lợi gì cho ta cả. Đau vẫn hoàn đau và tay trắng vẫn hoàn trắng tay.

Quả thật, nếu ta làm với lòng tin; ta chịu với lòng tin thì có thể không có giá trị trước mặt người đời, nhưng sẽ có giá trị trước mặt Thiên Chúa và đem ơn cứu độ của Chúa đến cho chúng ta. Ta thử nghĩ xem, sau khi trải qua một cuộc đời gian lao, vất vả mà ta chẳng được ích gì; chẳng được vào Thiên Đàng thì có phí không! Có được sung sướng về vật chất, tiền của trong một thời gia ngắn, khoảng 50 hay 100 năm là cùng, mà không được vào thiên đàng thì ích lợi gì cho ta.

Nếu ta sống đức tin; nếu ta sống Lời Chúa; nếu ta thi hành Ý Chúa thì ta sẽ được gì? Ta hãy Chúa nói trong Bài đọc 2: “Đây Nhà Tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người; còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ; sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (x. Kh 213-4). Đó chính là Thiên Đàng; đó chính là niềm vui và hạnh phúc của chúng ta.

Vậy ta hãy sống đức tin; sống Lời Chúa và thi hành Ý Chúa trong cuộc sống hàng ngày của ta. Với Ơn Chúa giúp, ta hãy chấp nhận những gian lao, khốn khổ; đừng kêu ca hay ghen tức với ai, nhưng hãy dùng tất cả những cơ hội đó để lập công cho chính mình. Để ta có bình an trong tâm hồn; có niềm vui trong cuộc sống và sau này ta được vào Nước Thiên Chúa. Hãy biến “bể khổ” thành “bể suớng” cho đời ta nhé !!!!

Về mục lục

.

YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU.

JM. Lam Thy

Từ xưa đến nay, tình yêu vốn dĩ là một đề tài được khai thác nhiều nhất: nào sách báo, phim ảnh; nào âm nhạc, tuồng kịch; nào truyền thanh, truyền hình… đa số đều tôn vinh ca tụng tình yêu. Tuy nhiên, nhiều khi tình yêu lại được nhìn từ một góc cạnh lệch lạc, khiến cho tình yêu ngày hôm nay như đang đi trên bờ một vực thẳm với những sa đoạ trong nếp sống, những suy đồi trong luân lý và những đổ vỡ trong hôn nhân. Đọc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thủa ban đầu, ai cũng nhận thấy tiền nhân đã sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Vì thế, những người ngoài Công Giáo thời đó và nói chung cả những Ki-tô hữu Việt Nam tiên khởi, đều không ngớt lời xưng tụng Đạo Công Giáo  là “Đạo Yêu Thương”.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.V/PS – Ga 13, 31-33a.34-35) trình thuật việc Đức Giê-su nói lời cáo biệt với các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Tự nhiên có một thắc mắc: Đáng lẽ giờ phút này là giờ phút Con Người phải chịu nhục mạ, phỉ báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá cho đến chết (Mt 20, 17-19; Lc 18, 31-33); nhưng tại sao Người lại nói “Giờ đây, Con Người được tôn vinh”? Câu trả lời cũng hiển nhiên như sự thật đã diễn ra: Nếu xét theo trình tự thời gian thì đúng là câu này phải được Đức Giê-su phát biểu sau khi Người Phục Sinh. Nhưng tất cả đã được Chúa Cha an bài từ trước vô cùng (xc “Bài ca Người Tôi Trung” – Is 52, 13-15; 53,1-12) và được chính Đức Ki-tô khẳng định: “Này, chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. Quá vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” (Lc 18, 31-33). Vì thế, từ “Giờ đây” ở đây diễn tả biến cố tương lai như một thực thể hiện tại, nghĩa là sự tôn vinh của Đức Giê-su chưa hoàn tất, mà lại được coi như đã xảy ra, xem như sự khổ nạn, sự chết và sống lại của Người đã được hoàn thành.

Khi Giu-đa It-ca-ri-ốt đi khỏi, một bầu khí ấm cúng, thân mật và thật cảm động bao bọc Chúa Giê-su và các Tông đồ. Bầu khí ly biệt thật là thích hợp để Đức Giê-su tâm sự với các môn đệ về một điều vô cùng quan trọng và cần thiết, đó là Tình yêu (“Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người… Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” – Ga 13, 31-35). Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai điểm chính: Đức Ki-tô tôn vinh Tình Yêu và Người truyền cho các môn đệ sống với nhau trong Tình Yêu.

a) Tôn vinh Tình Yêu:Đức Giê-su nhìn giây phút “giờ đây” Người sắp hiến mạng sống mình vì bạn hữu là thời điểm Người được tôn vinh. Cả cuộc đời trần thế 33 năm của Đức Giê-su đã chứng tỏ cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương họ đến chừng nào (“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” – Ga 3, 16-17). Cái chết và sự phục sinh của Đức Giê-su là dấu chỉ chiến thắng vinh quang của Tình Yêu Thiên Chúa và cũng là thời điểm Tình Yêu Nhập Thể được tôn vinh. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa vâng lệnh Chúa Cha xuống thế mặc xác phàm, hiến mạng  sống cho người mình yêu là nhân loại, nên có thể nói Đức Ki-tô là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu (Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu “Deus Caritas Est”, số 12). Vì thế, khi Đức Vua Tình Yêu Giê-su được tôn vinh, thì Thiên Chúa Tình Yêu cũng được tôn vinh. Đó là nguyên lý tất yếu.

bThể hiện Tình Yêu:Lệnh truyền của Đức Giê-su là “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Nói đến Tình yêu là nói đến nguyên nhân và kết quả. Thiên Chúa Tình Yêu là nguyên nhân phát sinh ơn Cứu Độ, thì kết quả là loài người được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Tình yêu Đức Giê-su Thiên Chúa dạy các môn đệ tất nhiên phải là tình yêu sinh hiệu quả. Hiệu quả cụ thể được nói đến ở đây là: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy”. Thật thế, khi chúng ta sống yêu thương khiến những người chung quanh nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa, thì đó chính là cách chúng ta làm cho tình yêu của Thiên Chúa được tôn vinh. Nói cụ thể thì lệnh truyền của Đức` Giê-su là lời tha thiết mời gọi các môn đệ và mọi tín hữu hãy noi gương Đức Vua Tình Yêu, thể hiện Tình Yêu bằng những chứng tá bác ái trong cuộc sống đời thường. Vâng, chính những chứng tá bác ái đã minh họa Thiên Chúa Tính Yêu (“Hoạt động bác ái của Hội Thánh như là một cách thể hiện tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi” – Tđ “Thiên Chúa là Tình Yêu”, số 19).

Như vậy là đã rõ tại sao trong lịch Phụng vụ, Giáo hội lại xếp vào Chúa nhật V Phục Sinh bài Tin Mửng nói về những lời cáo biệt của Đức Giê-su trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại của Đức Vua Tình Yêu Giê-su Ki-tô chính là đỉnh điểm Tình Yêu Thiên Chúa. Nói cách khác thì đó chính là công cuộc hiện thực hoá Lời Chúa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” (Lc 19, 27).

Bài học về tình yêu hôm nay Đức Giê-su giúp các tín hữu khám phá tình yêu qua những khía cạnh thật mới mẻ, sống động và cụ thể. Vâng, “Các tín hữu Ki-tô chúng ta tin và biết rằng sự sống lại của Chúa Ki-tô là niềm hy vọng chân thực của thế giới, niềm hy vọng không bao giờ làm thất vọng. Đó là sức mạnh của hạt lúa, sức mạnh tình thương hạ mình xuống và hiến thân đến cùng, và thực sự đang đổi mới thế giới. Sức mạnh này cũng mang lại hoa trái ngày nay trong lịch sử chúng ta, một lịch sử mang đậm bao nhiêu bất công và bạo lực.” (Sứ điệp Phục Sinh 2018). Rõ ràng Đức Ki-tô dạy chúng ta biết tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa nơi chính Con Người và nơi những “người thân cận” trên khắp thế giới, không phân biệt màu da hay sắc tộc.

Tóm lại, “Trước nhiều đau khổ của thời đại chúng ta, xin Thiên Chúa của sự sống đừng để chúng ta thờ ơ và lạnh lùng. Xin Người làm cho chúng ta trở nên những người xây những cây cầu, chứ không phải những bức tường. Và xin Người, Đấng ban bình an của Người cho chúng ta, ngăn chặn những cuộc đụng độ vũ trang, trong những vùng chiến tranh và trong các thành phố. Xin Người soi sáng cho những nhà lãnh đạo các quốc gia biết dấn thân để chấm dứt cuộc chạy đua vũ trang và buôn bán vũ khí, đặc biệt tại các nước tiên tiến. Xin Đấng Phục Sinh, Đấng đã mở toang cánh cửa của những ngôi mộ, cũng mở con tim của chúng ta trước những nhu cầu của những người thiếu thốn, người không được bảo vệ, người nghèo đói, người thất nghiệp, người vô gia cư, những người gõ cửa ngôi nhà chúng ta để xin đồ ăn, xin một nơi ẩn náu, và xin được nhìn nhận phẩm giá của mình.” (“Sứ điệp Phục Sinh 2019”).

Quả thật, Sống yêu thương là cách tốt nhất để ngợi khen, tôn vinh Thiên Chúa. Và đã gọi là sống yêu thương, tức là phải thể hiện ra bằng cả tâm hồn và hành động, vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 17). Tình yêu chỉ thực sự được tôn vinh khi người Ki-tô hữu sống trọn hảo điều răn trọng nhất: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khí Tình Yêu cho chúng con, để chúng con biết đem tình yêu vào cuộc sống. Chính tình yêu sẽ làm cho mọi công việc và hoạt động của chúng con – tuy tầm thường – nhưng vẫn chiếu tỏa trước mặt thiên hạ, để người ta nhận ra sự hiện diện của Chúa qua con người thấp hèn và bé mọn của chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ANH EM HÃY YÊU THƯƠNG NHAU

       Fx Đỗ Công Minh

        Mới đây trên một tờ báo mạng, con đọc được mẩu đối thoại giữa một vị Linh mục và giáo dân : Có biểu tượng nào để nhận biết mình là một tín hữu ? Có nhiều người cũng có câu trả lời. Nào là phải đeo ảnh Thánh giá, nào là phải làm dấu Thánh trước khi ăn trong nhà hàng, trong quán ăn hay bất cứ nơi nào khác. Có người lại cho rằng trong Chứng minh nhân dân có ghi mục tôn giáo thì cứ đưa ra làm bằng chứng. . .

        Bài Tin mừng hôm nay Thánh Gioan tường thuật lại chuyện xảy ra trong bữa ăn cuối cùng của Đức Giê Su với nhóm mười hai, trước khi Chúa bước vào cuộc thương khó. Người nói với các đồ đệ một cách tha thiết về đề tài yêu thương, bởi Người biết trong nhóm nhỏ mười hai này, không phải các ông đã thật tình yêu thương nhau, vẫn còn có sự ganh ghét, so bì với nhau, dấu nhẹm những toan tính khi biết rồi đây Thầy trò sẽ xa nhau. Chúa nói :” Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi.. . Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”.  

          Con người ngày nay cũng không khác các môn đệ Chúa ngày xưa. Họ không dễ nhìn qua biểu tượng bên ngoài như đeo ảnh, làm một vài dấu hiệu nào đó để nhận ra một người có Chúa trong mình. Chiếc áo không làm nên thầy tu. Vậy con phải có cách thế nào để mọi người nhận biết Chúa ?

           Để người khác nhận biết mình là Kitô hữu hẳn không phải là để họ trầm trồ thán phục như một sinh viên, tự hào được đeo phù hiệu một ngôi trường đại học danh tiếng mà anh ta theo học, hay như một nhân viên vinh dự mặc đồng phục của một công ty lớn, một ngân hàng danh tiếng nơi ông ta đang công tác. Người Kitô hữu đích thực hôm nay không có chút danh giá nào trước mặt người đời, nhiều khi còn bị coi là phiền nhiễu, là cái gai với người khác. Họ thậm chí bị bách hại, bị săn đuổi như vẫn còn diễn ra tại một số nơi trên thế giới.

       Các môn đệ đã nhận ra Đức Kitô khi Người bẻ bánh, khi Người cùng đồng bàn với các ông mở lòng trí các ông hiểu biết về Thánh Kinh, khi Người hạ mình phục vụ, thăm hỏi người yếu đau, chữa lành bệnh tật về tâm hồn, thể xác cho con người.. . .Chính Đức Kitô đã giải đáp cho vấn nạn của vị Linh Mục kia khi hỏi : ”Có biểu tượng nào để biết ông là một người tín hữu ?” đó là “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”. 

        Xin cho con luôn biết thể hiện là người tín hữu bằng những hành động cụ thể như Chúa đã làm là sống bác ái, yêu thương, liên đới với mọi người, biết bẻ bánh thân mình với anh em, chia sẻ vui buồn trong cuộc sống cùng với anh em. Đó chính là con đang Sống chứng nhân Tin Mừng giữa lòng đời hôm nay . AMEN.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU KIỂU MỚI

Pt. Giuse Trần Văn Nhật

Hôm nay là Chúa Nhật V Phục Sinh, chỉ còn một tuần nữa, Giáo Hội sẽ mừng lễ Chúa Lên Trời. Để chuẩn bị cho sự từ giã của Chúa Giêsu, hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Phúc Âm được Chúa Giêsu bày tỏ trong bữa Tiệc Ly – có thể nói đây là lời trăn trối của Chúa Giêsu để lại cho chúng ta.

Lời trăn trối là tâm tình rất thiết tha của một người sắp ra đi vĩnh viễn và những lời ấy thường được trao lại cho người thân yêu với sự tin tưởng rằng lời trăn trối ấy sẽ được thực hiện. Có lẽ đó là lý do sau khi Giuđa rời khỏi phòng tiệc thì Chúa Giêsu mới bắt đầu tâm sự.

Lời trăn trối đầu tiên của Chúa Giêsu là “Hỡi các con, Thầy chỉ còn ở với các con một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho các con một điều răn mới: hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng phải yêu thương nhau như vậy.

Chuyện yêu thương thì xưa như trái đất, tại sao Chúa Giêsu lại coi đó là điều răn mới? Điểm mới ở đây là kiểu cách yêu thương của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy thử nhìn đến tình yêu của Chúa Giêsu qua cuộc đời của Người để có thể nhận ra một vài đặc điểm được coi là điều răn mới.

Trước hết, tình yêu hướng đến chân lý. Chúa Giêsu rất nhân từ, yêu thương tất cả mọi người kể cả kẻ tội lỗi nhưng Người thẳng thắn tố cáo những điều gian dối, sai trái của hàng ngũ lãnh đạo thời bấy giờ. Sự tố cáo đó không phải vì ghen tị hay ghét bỏ nhưng vì yêu thương. Chúa muốn họ được giải thoát khỏi cái tôi kiêu căng đến độ không thấy được sự thật về chính mình nên Chúa đã lên tiếng vạch trần những giả dối của các tư tế, kinh sư và biệt phái. Chúa nói với các môn đệ, “Sự thật sẽ giải thoát anh chị em” (Ga 8:32b).

Biết được sự thật về chính mình thì không dễ. Chúng ta cần tham dự những buổi tĩnh tâm để nhìn lại chính mình, để thấy được con người thật của mình qua lăng kính của Phúc Âm. Mỗi người cần nuôi dưỡng lòng yêu quý sự thật, ngay cả những sự thật nhỏ bé trong đời sống hàng ngày. Và ai có can đảm nói sự thật về chúng ta, chúng ta phải biết ơn người ấy.

Trong đời sống vợ chồng, tình yêu có thể làm cho người ta mù quáng không nhìn thấy khuyết điểm của nhau và như thế tình yêu ấy thiếu đặc điểm được coi là mới bởi vì nó không giúp vợ chồng thăng tiến. Mục đích của hôn nhân Kitô Giáo là giúp vợ chồng cùng nhau đi lên về mọi phương diện, nhất là tinh thần. Vợ chồng phải can đảm nói cho nhau biết các ưu điểm cũng như khuyết điểm, và vì yêu nhau, họ khiêm tốn chấp nhận để thay đổi.

Điều thường gây ra trở ngại trong đời sống vợ chồng là họ chỉ nói lên khuyết điểm của nhau khi “cơm không lành, canh không ngọt”. Nhiều vợ chồng sững sờ khi được người kia cho biết những sự thật về chính mình trong lúc cãi nhau. Khi khuyết điểm được nói lên ở ngoài tình yêu, nó không được đón nhận và gây tổn thương nặng nề vì được coi như một xúc phạm đến tình yêu.

Tình yêu để thăng tiến thì trái với sự nhịn nhục và nhu nhược. Có những bà vợ hiểu sai về hôn nhân Công Giáo nên họ nhịn nhục chịu đựng những sai trái của ông chồng mà không dám lên tiếng, không dám phản ứng. Có những cha mẹ nhu nhược trước những hành vi sái quấy của con cái, nhất là khi chúng đã lớn, mà không dám nói lên những sự thật trong đạo. Tình yêu ấy không phải là mới theo tinh thần Phúc Âm. Tình yêu phải hướng đến sự thật. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi con người cũ nhiều khuyết điểm để trở nên con người mới có những ưu điểm. Sự thật sẽ thay đổi chúng ta từ một người không biết trở nên một người thành thạo. Sự thật sẽ thay đổi chúng ta từ một người cao ngạo trở nên một người khiêm tốn. Và như thế, tình yêu mới đạt được mục đích của nó.

Thứ hai, tình yêu dẫn đến sự hy sinh. Xã hội ngày nay đề cao chủ nghĩa cá nhân và sự hưởng thụ nên sự hy sinh dường như vô nghĩa, ngay cả trong tình yêu nam nữ. Có lẽ đó là một trong những lý do khiến hôn nhân ngày nay dễ đổ vỡ. Một khi vợ chồng coi sự hy sinh cho nhau là một thua thiệt, cha mẹ coi sự chăm sóc, nuôi nấng con cái là một gánh nặng thì tình yêu con người đã bị biến dạng để trở nên một loại cảm xúc vị kỷ, và điều đó đi ngược với hoạch định của Thiên Chúa.

Có thể nói không có sự hy sinh, không có sự sống. Loài thú sau khi sinh con thì tự động chăm sóc đàn con. Với loài người, một sinh vật có lý trí, có tự do, thì làm thế nào để loài người muốn hy sinh cho người khác, ngay cả đứa con của mình? Thiên Chúa đã dùng đến tình yêu dưới nhiều hình thức khác nhau, như tình yêu vợ chồng, tình yêu cha mẹ, tình bạn, tình đồng loại, v.v., và Người đề cao sự hy sinh: “Không ai có tình yêu lớn hơn người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu” (Ga 15:13).

Tình yêu dẫn đến sự hy sinh với một mục đích đó là sự cứu chuộc. Chúng ta có thể nhận thấy điều này ngay trong đời sống tự nhiên của con người. Khi còn bé, con người thường ích kỷ, hay đòi hỏi và muốn sở hữu đủ mọi thứ. Nhưng khi lớn lên, trước sự rung động của tình yêu, hai người yêu nhau sẽ phải hy sinh thời giờ, tiền bạc cho nhau để thể hiện tình yêu ấy. Vì tình yêu, con người từ từ ra khỏi cái tôi của mình để biết nghĩ đến người khác và chia sẻ cho người kia những cái gì của riêng mình. Vì tình yêu, loài người có thể bớt đi sự ích kỷ, thay đổi cái nhìn về nhân sinh quan, thấy được ý nghĩa của tình yêu và đó là khởi đầu cho một lối sống phù hợp với Phúc Âm. Tình yêu dẫn đến sự cứu độ.

Thiên Chúa muốn tất cả loài người được cứu độ qua tình yêu dù họ là người ngoại giáo hay vô tôn giáo, vậy tình yêu của Chúa Giêsu có gì khác biệt?

Sự khác biệt trong tình yêu của Chúa Giêsu là sự hy sinh có mục đích cao cả, vượt trên những ước muốn bình thường, và ngay cả ý muốn riêng tư của mình – Chúa Giêsu đã hy sinh ý riêng của mình để thánh ý của Chúa Cha được thể hiện. Đây là điều không dễ khi người ta hy sinh đủ mọi thứ như tiền tài, của cải, thời gian, công sức, ngay cả mạng sống cho một lý tưởng nào đó mà do người khác quyết định.

Tại sao đây là điểm mới của tình yêu? Bởi vì, trên thực tế, vợ chồng có thể hy sinh cho nhau vì tình yêu để thực hiện những tham vọng cá nhân, và như thế, tình yêu, thay vì giải thoát, lại ràng buộc người ta trong một cái vòng – có thể là vòng danh lợi hay quyền thế. Ngay cả trong những tổ chức của Công Giáo chúng ta, lịch sử cho thấy, người ta có thể hy sinh một cách phi thường chỉ để thực hiện những tham vọng cá nhân thay vì sống theo lý tưởng cao đẹp của Phúc Âm.

Tham vọng cá nhân thì hạn hẹp, cục bộ, thấy tốt đẹp ngay trước mắt nhưng sau thời gian mới thấy là sai lầm. Đường lối của Thiên Chúa thì khác với đường lối của thế gian. Chỉ khi nào chúng ta thực sự tin tưởng rằng đường lối của Thiên Chúa được dậy bảo trong Phúc Âm thì khôn ngoan hơn kiểu cách của chúng ta, chúng ta mới có thể từ bỏ ý riêng của mình và đi tìm ý định của Thiên Chúa.

Tình yêu sẽ đem lại sự cứu độ mà chúng ta có thể tiếp tay trong sự cứu độ ấy bằng cách hướng tình yêu của chúng ta đến sự thật, và thể hiện tình yêu bằng những hy sinh theo thánh ý của Thiên Chúa. Có như thế, người ta sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, bởi vì họ nhận thấy một tình yêu mới nơi chúng ta.

Về mục lục

.

 

YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.

Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu.

Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.

Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.

Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.

Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.

Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ nhau.

Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.

Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.

Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh em. Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.

Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
  2. Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?
  3. Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?

Về mục lục

.

SỐNG TỬ TẾ

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Trong bài phát biểu chia tay của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đoạn cuối ông nói: “Chúc các đồng chí kỳ này sẽ nghỉ chính sách và tôi cũng chúc cho cả tôi nữa ráng giữ gìn sức khỏe, bởi sức khỏe là quan trọng nhất, đồng thời làm một công dân tốt, đảng viên tốt. Làm sao ráng làm người tử tế, sống tử tế”

Sống tử tế được hiểu là sống tốt từ trong những công việc nhỏ nhặt nhất. Sống tử tế là sống biết người biết ta. Sống cho đáng sống của một nhân cách con người. Sống tử tế là một cuộc sống biết nhận và cũng biết trao ban.

Nhưng giữa dòng đời hôm nay sao sống tử tế khó quá. Người việt ngày xưa sống rất tử tế bên nhau, thế mà hôm nay kiếm sự tử tế khó như lên trời hái sao. Người Việt vẫn trọng “dĩ hòa vi quý” và “chị ngã em nâng”, “tối lửa tắt đèn có nhau”, thế mà hôm nay người Việt rất bộc trực, dễ phản kháng chẳng còn kiêng dè, nhường nhịn và tế nhị với nhau.

Có khi chỉ vì một vài centimet đất lối đi chung người ta có thể đưa nhau ra tòa, vác hung khí hù dọa người hàng xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”. Mượn nhau một lối đi chôn ống cống làm sạch môi trường cũng gào thét thề chết chứ không mở lòng bác ái cho nhau. Ngoài đường xe chen lấn, mạnh ai nấy đi, nơi công cộng thì tự do khạc nhổ, xả rác bừa bãi, cửa quan thi nhau đút lót, sự tử tế cứ mai một dần. . .
Làm người tử tế thật khó! Dầu khó nhưng những ai có lương tri thì vẫn phải “Làm sao ráng làm người tử tế, sống tử tế”. Có làm người tử tế mới biết yêu thương đồng loại, mới biết sống công bằng bác ái với nhau.

Chúa Giê-su trong bữa tiệc ly cũng mong các môn đệ sống tử tế với nhau. Sự tử tế mà Chúa mong muốn chính là sống hiệp nhất và yêu thương nhau. Bằng lối sống tử tế ấy họ nên chứng nhân cho tin mừng. Họ phải sống đẹp khi đùm bọc, chia sẻ nâng đỡ nhau. Họ phải sống thanh cao không bon chen với danh lợi thú trần gian. Họ còn phải sống đẹp khi dấn thân phục vụ trong yêu thương mà không mong đền đáp.

Tình yêu thương hiệp nhất sẽ giúp họ vượt qua những giông tố cuộc đời. Tình yêu thương hiệp nhất sẽ giúp họ gắn bó với nhau để cùng nhau xây dựng Giáo hội và loan truyền tình yêu Chúa cho muôn dân. Tình yêu hiệp nhất là cốt lõi của tin mừng và cũng là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Vì “cũng ở điểm này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.

Ước mong lời di chúc của Chúa được thể hiện nơi mỗi người chúng ta khi biết từ bỏ cái tôi của mình để sống hòa hợp với nhau. Xin cho chúng ta luôn khiêm tốn trong lời nói để xây dựng mà không làm tổn thương đến ai hay làm mất tình hiệp nhất trong Giáo hội. Xin đừng vì cái tôi quá lớn mà phá nát hình ảnh Giáo hội hiệp nhất yêu thương. Và nhất là hãy sống tử tế với nhau trong lời ăn tiếng nói, trong hành động luôn bác ái yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

DẤU HIỆU NHẬN BIẾT

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 

Trong giờ phút linh thiêng khi sắp từ giã những người thân yêu để vĩnh viễn ra đi sang thế giới khác, người hấp hối gắng chút hơi tàn căn dặn người yêu dấu những điều mà họ cho là quan trọng nhất.

Khi sắp từ giã các môn đệ để bước vào khổ nạn, Chúa Giê-su trao cho họ những lời tâm huyết sau cùng: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau…

Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau. Chúa Giê-su không muốn các môn đệ yêu thương nhau hời hợt bề ngoài, nhưng muốn họ yêu thương theo một mức độ lớn lao nên Người nhấn mạnh: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu nầy để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.”. 

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Nói đến Công giáo là người ta nghĩ ngay đến hai từ “bác ái”. Bác ái không nguyên là yêu thương nhau theo kiểu cha ông truyền dạy là “thương người như thể thương thân” mà còn phải yêu thương nhau như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta. Chúa Giê-su đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người ( x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x. Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẻ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Người.

Yêu như Thầy đã yêu có nghĩa là:

– Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

– “Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”(Ga 15,15a). Người là Thầy, là Chúa, các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không, Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Người. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”(Ga 15,15b).

– Thầy hy sinh quên mình, Thầy hạ mình phục vụ anh em. Thầy yêu những người bé nhỏ nghèo hèn, yêu thương cả những người thù ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa và Thầy không ngừng tha thứ, muốn mọi người làm hoà với nhau.

– Cả cuộc đời Chúa Giê-su đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người. Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…

Yêu như Thầy đã yêu làm nên nét đẹp của Tin mừng. Nét đẹp ấy có sức lôi cuốn mọi người đến cùng Chúa. Tình yêu ấy thật cao đẹp nên Chúa mời gọi: “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu” (Ga 13,34). Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giê-su tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời: “Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” ( R.Tagore).

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương, bác ái; chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho.

Trên thị trường ngày nay, có vô số đồ giả: vàng giả, tiền giả, thuốc giả, hàng giả, bằng cấp giả. Giả thật đen xen nhau như cỏ lùng và lúa tốt. Đối với phần đông dân chúng, thì việc phân biệt đâu là thật, đâu là giả quả là điều rất khó khăn.

Trong đạo cũng vậy. Có nhiều Kitô hữu giả trà trộn giữa các Kitô hữu thật, muốn phân biệt ai giả ai thật, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thế nên Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta dấu hiệu phân biệt rất chính xác. Dấu hiệu đó là lòng yêu thương. Chúa dạy: “người ta cứ dấu nầy mà nhận biết các con là môn đệ thật của Thầy, là các con yêu thương nhau.”. Nếu có ai đó xưng mình là môn đệ Chúa Giê-su mà không tôn trọng, không yêu thương người khác, thì chắc chắn người đó là môn đệ giả.

Có người chiêm bao thấy mình từ giã cõi trần tiến đến cửa thiên đàng. Được biết thánh Phê-rô canh cửa thiên đàng rất nghiêm ngặt, xét hỏi kỹ càng trước khi cho vào, nên anh ta mang theo đầy đủ những giấy tờ cần thiết.

Trước hết, anh ta xuất trình chứng thư rửa tội, có chữ ký của cha sở và dấu đỏ của giáo xứ, nắm chắc hy vọng rằng với chứng thư nầy thì thánh Phê-rô sẽ mở cửa thiên đàng cho anh ngay. Nào ngờ, thánh nhân lại lắc đầu từ chối. Thế là anh ta lại xuất trình thêm chứng thư thêm sức, rồi chứng thư hôn phối, cả sổ gia đình công giáo nữa. Vậy mà thánh Phê-rô vẫn khước từ. “Ngài còn đòi gì nữa? Con còn cả tràng chuỗi đây, cả cuốn sách kinh hôm mai đây. Bấy nhiêu không đủ chứng tỏ con là người môn đệ Chúa Giê-su sao?”

Thánh Phê-rô trả lời: “Con phải mang phù hiệu của người Kitô hữu.”. “Phù hiệu nào nữa, thưa Ngài?”. “Thế con không nhớ lời Thầy chí thánh phán dạy sao: “người ta chỉ căn cứ vào dấu hiệu (phù hiệu) nầy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng thương mến nhau. Chưa có lòng thương mến nhau thì con chỉ là Kitô hữu giả hiệu.”

Qua dụ ngôn phán xét chung, Chúa Giê-su cũng khẳng định điều nầy. Trong ngày ấy, muôn dân sẽ được tập họp lại và Chúa sai thiên thần tách biệt họ thành hai. Người lành đứng bên phải còn kẻ dữ bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán với những kẻ bên phải rằng: “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa” vì … các người đã thương mến chăm sóc các anh em bé nhỏ của Ta. Rồi Chúa quay sang lên án những người bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”… vì các ngươi đã không yêu thương chăm sóc các anh em bé mọn của Ta. (Mt 25, 31-46)

Dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy xem xét lại bản thân mình. Biết đâu ngay cả bản thân tôi cũng là môn đệ giả của Chúa Giê-su mà tôi không hề hay biết!

Hãy rà soát lại xem mình đã tôn trọng, chân thành yêu thương và phục vụ những anh chị em chung quanh chưa? Nếu chưa thì chúng ta vẫn còn là những Kitô hữu giả hiệu, chúng ta không thuộc vào số những người môn đệ chân chính và vương quốc thiên đàng không có chỗ cho chúng ta.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương “như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta” (Mt 25,40).

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG LÀ GIỚI RĂN MỚI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Cuối tháng ba vừa qua, trước khi bị bãi nhiệm, Thủ tướng Việt Nam có lời chia tay với các thành viên chính phủ. Ông cầu chúc cho những người nghỉ hưu có sức khỏe và còn căn căn dặn mọi thành viên : Hãy ráng sống cho tử tế. Lập tức, chủ đề sống tử tế được các trang mạng và báo chí đề cập đến nhiều hơn. Có người cho rằng sau sự nghiệp chính trường, ông đã có đầy đủ mọi thứ, chỉ còn thiếu một điều, đó là sự tử tế. Người khác cho rằng không chỉ riêng cá nhân ông, mà cả xã hội Việt Nam, nhất là trong chốn quan trường, điều đang thiếu trầm trọng nhất đó là sự tử tế đối với nhau. Nhận định đó có lẽ không sai, vì thực tế con người ngày nay sống và cư xử với nhau thiếu tình yêu thương, thiếu sự tử tế và cũng không quan tâm đến việc đối xử tử tế với nhau.

Là con cái Chúa, chúng ta được mời gọi sống và cư xử với nhau bằng tình yêu thương và lòng nhân ái trong bất cứ hoàn cảnh nào, vì chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta : Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 

Chúa Giêsu truyền cho chúng ta giới răn mới này trong bữa tiệc ly, khi Giuđa vừa rời khỏi phòng tiệc. Trong  khung cảnh của bữa tiệc ly, khi Chúa Giêsu sống những giờ phút cuối cùng thật thân thương với các môn đệ, thì Giuđa đã vì tiền mà phản bội lại Thầy, anh đối xử thiếu tử tế với Thầy và với anh em. Trong cuộc sống, tiền bạc có thể biến người ta trở thành kẻ thù của nhau, cư xử độc ác với nhau. Cũng vì tiền bạc, người ta có thể đánh mất sự tử tế phải có trong con người. Giuđa đã đánh mất tình yêu và sự lương thiện trong tâm hồn nên anh đã hành động bất lương và bất nhân như thế.

Chúa Giêsu, dù đối diện với hành động bất nhân của Giuđa, Ngài không phản ứng giận dữ, cũng không muốn các tông đồ có cái nhìn khác về Giuđa, trái lại, Ngài hướng lòng các môn đệ về với Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã dùng lời lẽ hết sức thân thương để nói với các môn đệ : Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, …Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.

Gọi là giới răn mới, vì giới răn yêu thương của Chúa Giêsu vượt trội hơn giới răn của Cựu Ước. Giới răn yêu thương của Cựu Ước bị giới hạn trong phạm vi dòng tộc, quốc gia, có ranh giới giữa bạn và thù. Còn giới răn mới của Chúa Giêsu đòi hỏi một tình yêu không giới hạn, không biên giới và không còn phân biệt bạn thù, vì tất cả mọi người đều cần được yêu thương và môn đệ của Chúa phải dám yêu thương không giới hạn.

Gọi là giới răn mới, vì giới răn này đòi phải có những con người có tinh thần được đổi mới. Con người cũ là con người bị ảnh hưởng của tội lỗi, của cái tôi và sự ích kỷ. Con người mới là con người đã được Tin Mừng của Chúa Giêsu biến đổi, có một trái tim quảng đại, một tấm lòng chạnh thương mới có thể sống theo luật mới của Chúa.

Chúa Giêsu còn muốn chúng ta : Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Tức là, chúng ta không chỉ yêu thương nhau theo cảm xúc tự nhiên, mà còn phải yêu thương nhau như đã được Chúa yêu. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta không chỉ như tình yêu của cha mẹ dành cho con cái, Ngài còn yêu thương đến nỗi chấp nhận từ bỏ địa vị của mình để đến ở với con người. Ngài cùng chia vui sẻ buồn với thân phận con người chúng ta, sẵn sàng tha thứ khi chúng ta phản bội Ngài. Ngài không kết án khi chúng ta phạm tội, nhưng luôn cho chúng ta có cơ hội để sửa chữa sai lầm. Ngài chạnh thương khi thấy chúng ta bơ vơ đói khổ, đã cúi xuống để yêu thương, phục vụ và rửa chân cho các môn đệ. Sau cùng, Ngài đã chấp nhận chết thay để cho chúng ta được sống. Như thế, yêu như Chúa đã yêu tức là dám sống và hành động yêu thương như chính Chúa Giêsu. Sống yêu thương sẽ là dấu hiệu đặc trưng của người môn đệ Chúa. Mọi người sẽ nhận ra chúng ta thuộc về Chúa Giêsu khi chúng ta sống yêu thương.

Đón nhận giới răn yêu thương, chúng ta được mời gọi phải thực hành và đem tình yêu thương vào xã hội hôm nay. Xã hội chúng ta đang sống dường như vắng bóng của tình yêu. Những gương sống cao đẹp, nhân ái, tử tế với nhau càng ngày càng khan hiếm. Trái lại, sự ích kỷ, bất công, gian dối và cái ác ngày càng gia tăng và gây đau khổ cho nhiều người. Con người cư xử với nhau thiếu tử tế, nhưng thừa bạo lực ; tình trạng tội ác, giết người xảy ra thường xuyên. Không ở đâu trở nên tồi tệ như tại Việt Nam, người ta sống bần cùng đến độ phải đi ăn cắp con chó ; cũng không ở đâu người ta cư xử với nhau ác như ở Việt Nam, chỉ vì một con chó, kẻ trộm chó bị cả làng kéo ra đánh cho đến chết.

Với một tinh thần mới, các tông đồ đã hăng hái lên đường rao truyền Tin Mừng yêu thương của Chúa cho mọi người, dù phải trải qua biết bao khó khăn, thử thách. Tiếp nối bước chân các Ngài, các tín hữu ngày nay được mời gọi đem tình yêu thương của Chúa đến với những người đau khổ, bất hạnh, bắt đầu từ nơi giáo xóm cho đến các vùng truyền giáo xa xôi. Cần bắt đầu từ những việc nhỏ trong cuộc sống hằng ngày, bằng cách gia tăng vị ngọt của tình yêu vào mọi lời nói, mọi cách cư xử.

Việt Nam đã bị loại ra khỏi danh sách những nơi đáng sống vì lý do người ta không cảm thấy an toàn thoải mái, bầu khí không thân thiện, con người đối xử với nhau thiếu lịch sự văn minh. Nếu đánh giá khách quan, liệu môi trường giáo xứ chúng ta có phải là môi trường đáng sống hay không ?

Nhờ ơn Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở thành con người mới, do đó, chúng ta phải sống và thực hành giới răn mới của Chúa Giêsu là : Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Cuộc sống chạy theo vật chất đang biến con người trở thành ích kỷ. Sự ích kỷ chính là thuốc độc, là khối u ung thư đang từng ngày giết chết tình yêu trong tâm hồn, phá hủy các tương quan giữa con người với nhau. Để sống và thực hành giới răn yêu thương của Chúa, đòi chúng ta phải chấp nhận cắt bỏ khối u ích kỷ này để có thể nghĩ đến và quan tâm tới người khác.

Tình yêu không chỉ dừng lại nơi sự quan tâm, Chúa còn đòi chúng ta bước xa hơn, đó là phải yêu như Chúa đã yêu. Có nghĩa là chúng ta phải dám mở toang tâm hồn, mở rộng đôi tay và mở rộng cửa nhà, để cho tình yêu của mình tuôn tràn đến mọi người một cách quảng đại, không giới hạn, không điều kiện. Hơn nữa, yêu như Chúa yêu có nghĩa là chúng ta phải dám chấp nhận sự thua thiệt về phía mình, dám chấp nhận hy sinh quyền lợi, và nếu cần, hi sinh cả cuộc sống cho những anh chị em chung quanh.

Hãy bắt đầu sống và thực hành giới răn yêu thương từ trong gia đình bằng việc nói với nhau cách bao dung thông cảm hơn, cư xử với nhau tử tế hơn, giàu lòng nhân ái, nhân văn hơn. Tình yêu và sự hy sinh của cha mẹ dành cho con cái thật thiêng liêng. Tuy nhiên, nhiều cha mẹ đã để cho tình cảm này trở nên xuống cấp, vấy bẩn bởi sự so đo tính toán với con cái. Chỉ khi được sống trong tình yêu và hạnh phúc thật, con trẻ mới có thể phát triển một cách quân bình và có một tâm hồn biết yêu thương.

Kế đến, hãy thực thi giới răn yêu thương nơi anh chị em trong gia đình và nơi lối xóm, bằng việc sống với nhau cách quảng đại, liên đới, cư xử với nhau cách văn minh lịch sự. Tiền bạc và quyền lợi có thể dễ dàng phá vỡ tình anh em trong gia đình, tình xóm ngõ. Anh em trong nhà, bà con trong xóm, có thể chỉ vì một lời nói, một chút của cải, vì cách cư xử thiếu tình yêu, thiếu tử tế, thiếu lịch sự có thể làm tổn thương, sứt mẻ  tình anh em và láng giềng. Thực hiện giới răn yêu thương, chúng ta cần làm cho tình anh em gia đình ngày thêm găn bó, tình xóm ngõ ngày thêm bền chặt. Mỗi người cần biết hy sinh lợi ích riêng mình để vun đắp cho lợi ích chung.

Xã hội là môi trường chúng ta phải sống và thực hành giới răn yêu thương của Chúa. Chúng ta chưa cần làm những việc to lớn, nhưng hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ. Mỗi người hãy góp cho xã hội nhiều nụ cười hơn, nhiều cử chỉ đẹp và nhiều lòng nhân ái hơn. Việc làm yêu thương có sức lan tỏa. Khi chúng ta kiên trì gieo mầm yêu thương mỗi ngày, hoa trái yêu thương sẽ nảy nở trong xã hội này. Hãy gieo thật nhiều hạt mầm nhân ái, quảng đại và thứ tha, xã hội sẽ bớt đi những cái ác. Hãy gieo nhiều hạt mầm yêu thương, công bằng và lương thiện, môi trường sống của xã hội này sẽ trở nên đáng sống hơn.

Xin Chúa Giêsu Phục sinh, biến đổi chúng ta nên con người mới để chúng ta có thể thực hành được giới răn mới của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

YÊU NHƯ CHÚA YÊU

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc và gẫm suy về những lời chăng chối của Chúa Chúa Giêsu Kitô ban truyền trước khi Người đi về Trời. Quả thật, nếu chúng ta muốn về Trời với Chúa, chúng ta phải thực hành điều Chúa truyền dạy trong đời sống : “Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).

Chúa dạy : “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Chúng ta tự hỏi, phải chăng chúng ta dùng những tình cảm tự nhiên để yêu thương như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, con cái yêu thương cha mẹ, đồng lớp đồng niên yêu nhau, nam nữ yêu nhau là khác với tình yêu Đức Kitô đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải : Yêu như Thầy đã yêu anh em ?

Vậy, “yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng ? Xem ra chữ “như” có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết : khi nói “Yêu như Thầy đã yêu anh em” là Đức Giêsu nói đến tình yêu của mình đối với các môn đệ với hy sinh và tha thiết : “Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,9). Chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Đức Giêsu đã yêu các môn đệ nói riêng, và con người nói chung bằng tình yêu hiến mạng. Nay Người đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau đến mức đó. Tình yêu mà Chúa Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha : “Như Cha đã yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy” (Ga 15,9). Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngững chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu mến Thiên Chúa hết lòng để đáp lại tình yêu Chúa. Sermons sur l’évangile de Jean, n°65 (trad. cf bréviaire 4e jeu. de Pâques). “Thầy ban cho các con một điều răn mới” là thế đấy.

Thánh Augustinô nói tiếp : “Yêu như Thầy đã yêu anh em”, khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Bởi : “Các bộ phận vì ích chung mà đùm bọc lấy nhau. Cho nên một bộ phận phải đau, thì hết các bộ phận đau chung; một bộ phận được vinh, thì hết các bộ phận vinh chung!” (1Cr 12,25-26). Thật vậy, ai nghe điều răn này, hay đúng hơn là ai tuân giữ lời này, họ sẽ được biến đổi trở nên đồng thừa tự với Chúa Giêsu. Họ yêu thương nhau không đơn giản với bản tính tự nhiêu, nhưng vì họ là “thần” (Jn 10,35) nên tất cả họ yêu nhau và “họ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35). Họ yêu thương nhau là vì họ được Đức Kitô yêu thương. (Trích bài giảng Tin Mừng Gioan, số 65). Tình yêu vì Chúa.

Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực : thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v…

Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ. Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc. Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đay đó chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau. Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.

Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc : “…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi .

Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa : “Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau” (Ga 13,34). Vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

DẤU CHỈ

Trầm Thiên Thu

Có nhiều loại dấu chỉ. Dấu chỉ có thể là điềm báo tốt hoặc xấu (gở). Dấu chỉ bình thường thì thường được gọi là dấu hiệu. Về sức khỏe, dấu chỉ được gọi là triệu chứng – điềm báo xấu về một chứng bệnh nào đó.

Dấu chỉ có ở mọi lĩnh vực: tôn giáo, xã hội, kinh tế, chính trị, môi trường, y tế, giao thông, thời tiết,… kể cả tâm linh. Thấy mây vần vũ, người ta đoán có thể mưa; thấy người khác khóc, người ta biết họ buồn; thấy người khác cười, người ta biết họ vui. Vô vàn dấu hiệu chúng ta thấy hàng ngày.

Cần biết dấu chỉ để chuẩn bị hoặc “chấn chỉnh” điều gì đó. Chúa Giêsu nói về dấu chỉ thời tiết bình thường để nói về dấu chỉ thời đại: “Anh em c ly thí d cây v mà hc hi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chi ny lc thì anh em biết là mùa hè đã đến gn. Cũng vy, khi thy tt c nhng điu đó, anh em hãy biết là Con Người đã đến gn, ngay ngoài ca ri (Mt 24:32-33; Mc 13:28-29; Lc 21:30-31).

Thời Cựu Ước, dấu chỉ của giao ước là phép cắt bì (Cv 7:8), dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm là các vầng sáng trên vòm trời (St 1:14), dấu chỉ của một tâm hồn hạnh phúc là nét mặt vui tươi (Hc 13:26), dấu chỉ giữa Thiên Chúa với dân chúng là các ngày sa-bát (Ed 20:12).

Dấu chỉ có thể là các động thái. Chẳng hạn, quỳ là dấu chỉ của lòng sám hối, tôn thờ và cầu xin (Cv 7:50; Cv 9:40; Cv 20:30; Kn 41:43; Et 3:2; Lc 5:8; Lc 22:41), đứng là dấu chỉ kính trọng, đứng còn là tư thế của kẻ sống lại (Kh 7:9; Kh 15:2), là tư thế của những người vượt qua về miền đất hứa (Xh 12:11), là tư thế của những con người tự do (Ga 5:1; Ep 6:1-4), chắp tay hoặc khoanh tay chỉ sự nghiêm trang, kính trọng, đấm ngực chỉ sự khiêm nhường sám hối, dang tay chỉ sự cầu nguyện, làm dấu Thánh Giá là dấu chỉ nhận thức và tuyên xưng đức tin Kitô giáo, thinh lặng là dấu chỉ suy tư, suy niệm hoặc cầu nguyện,… Có nhiều dạng dấu chỉ.

Trình thuật Cv 14:21-26 cho biết về công việc truyền giáo: Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông Phaolô và Banaba trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a. Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, khuyên họ giữ vững đức tin và xác định: “Chúng ta phi chu nhiu gian kh mi được vào Nước Thiên Chúa. Lời xác định này cũng nhắc nhở và thức tỉnh mỗi chúng ta hôm nay. Chắc chắn không thể cứ tà tà hoặc cứ khơi khơi mà được vào Nước Trời. Không phải Chúa “chơi ép” hoặc hù dọa, mà đó là sự thật minh nhiên, vì Nước Trời là Viên Ngọc Quý Giá Nhất.

Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục. Sau khi ăn chay và cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin. Rồi hai ông đi qua miền Pi-xi-đi-a mà đến miền Pam-phy-li-a, rao giảng lời Chúa tại Péc-ghê, rồi xuống Át-ta-li-a. Từ đó hai ông vượt biển về An-ti-ô-khi-a, nơi mà trước đó các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành. Công việc gì cũng có mức độ khó khăn khác nhau, khó có thể nói việc nào khó hoặc dễ hơn việc nào. Chắc chắn công việc truyền giáo còn khó khăn hơn nhiều, rất cần sự kiên trì. Vả lại, việc chúng ta làm thì cứ làm cho tròn bổn phận, kết quả hay không là do Chúa quyết định.

Ai cũng muốn công việc đạt kết quả, không ai muốn thất bại. Nhưng đó là ý muốn của chúng ta, còn ý Chúa có thể khác. Cần tâm niệm là “làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14) và “xin cho ý Chúa được thể hiện” (Cv 21:14). Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài thông suốt mọi sự, là “Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Ngài đã dựng nên” (Tv 145:8-9). Thất bại có thể là điều xấu đối với chúng ta, nhưng trong cách nhìn của Thiên Chúa, thất bại lại tốt cho chúng ta, ít nhất là Ngài muốn chúng ta không kiêu ngạo vì ỷ mình thành công hơn người khác.

Tác giả Thánh Vịnh đã thành tâm cầu nguyện: “Ly Chúa, muôn loài Chúa dng nên phi dâng li tán t, k hiếu trung phi chúc tng Ngài, nói lên rng: triu đi Ngài vinh hin, xưng tng Ngài là Đng quyn năng, đ nhân loi được tường nhng chiến công ca Chúa, và được biết triu đi Ngài rc r vinh quang (Tv 145:10-12). Thiên Chúa vĩnh hằng, “triều đại Ngài thiên niên vĩnh cửu, vương quyền Ngài vạn đại trường tồn, Ngài thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm” (Tv 145:13). Vì thế, hãy khôn ngoan mà nhận ra mình hèn yếu để khả dĩ tín thác vào Ngài mà thôi!

Thiên Chúa tốt lành, chính Ngài sẽ lau khô mọi giọt lệ và tặng ban trời mới đất mới cho những ai thành tín. Thánh Gioan kể lại thị kiến: “By gi, tôi thy tri mi đt mi, vì tri cũ đt cũ đã biến mt, và bin cũng không còn na. Và tôi thy Thành Thánh là Giêrusalem mi, t tri, t nơi Thiên Chúa mà xung, sn sàng như tân nương trang đim đ đón tân lang (Kh 21:1-2). Tất cả đều mới. Cái gì mới thì lạ. Rất kỳ diệu. Rồi sau đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to từ phía ngai: “Đây là nhà tm Thiên Chúa cùng nhân loi, Người s cư ng cùng vi h. H s là dân ca Người, còn chính Người s là Thiên-Chúa--cùng-h. Thiên Chúa s lau sch nước mt h. S không còn s chết; cũng chng còn tang tóc, kêu than và đau kh na, vì nhng điu cũ đã biến mt (Kh 21:3-4). Rõ ràng. Rạch ròi. Hoàn toàn là sự thật, chắc chắn chứ không chút gì mơ hồ. Rồi Đấng-ngự-trên-ngai còn tuyên phán thêm: “Này đây Ta ĐI MI MI S (Kh 21:5a). Và như vậy, tính xác thực càng được nâng cao hơn nữa!

Trình thuật Ga 13:31-35 cho biết loại dấu chỉ đặc biệt: Những lời cáo biệt của Chúa Giêsu trước cuộc khổ nạn và quy luật yêu thương tuyệt đối.

Khi Giuđa ra khỏi phòng, Đức Giêsu nói: “Gi đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng s tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sp tôn vinh Người. Một câu ngắn mà từ ngữ “tôn vinh” xuất hiện tới 5 lần. Khi nghe Sư Phụ Giêsu nói vậy, có lẽ các đệ tử vui lắm, vì có thể đã đến lúc mình cũng được sống sung sướng nhờ Thầy.

Nhưng không phải như họ tưởng, vì Chúa Giêsu nói tiếp: “Hi anh em là nhng người con bé nh ca Thy, Thy còn vi anh em mt ít lâu na thôi. Anh em s tìm kiếm Thy; nhưng như Thy đã nói vi người Do Thái: Nơi tôi đi, các người không th đến được, bây gi, Thy cũng nói vi anh em như vy. Ui da! Sao vậy nhỉ? Tưởng đâu… Ai dè…! Có lẽ họ bắt đầu lờ mờ hiểu về “sự chẳng lành” nào đó sắp xảy ra… Vâng, nhưng làm sao các đệ tử hiểu được hết ý cao siêu của Thầy, vì họ còn là phàm nhân và đầy mơ ước trần tục, còn Thầy là “người cõi trên” mà!

Cuối cùng, Chúa Giêsu cho họ biết dấu hiệu đặc biệt nhất: “Thy ban cho anh em mt điu răn mi là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thy đã yêu thương anh em. Mi người s NHN BIT anh em là môn đ ca Thy ĐIM này: là anh em có LÒNG YÊU THƯƠNG NHAU. Cũng chỉ một câu ngắn mà chữ “yêu thương” được lặp lại tới 4 lần.

Đạo của Đức Kitô Giêsu đơn giản là Đạo Làm Người, là Nhân Đạo, điều mà ai cũng cần, tôn giáo nào cũng cần, xã hội nào cũng cần, thể chế nào cũng cần,… Nói chung là AI CŨNG CẦN, mà CẦN thì PHẢI THỰC HIỆN. Hoàn toàn hợp lý, mình muốn có thì phải thể hiện với người khác. Luật Yêu là Khuôn Vàng Thước Ngọc để đo lường trong cuộc sống: “Tt c nhng gì anh em mun người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta (Mt 7:12; Lc 6:31).

Thánh Phaolô đã đúc kết: “Ai yêu người thì đã chu toàn l lut. Yêu thương là chu toàn l lut (Rm 13:8 và 10). Hiền triết Khổng Tử (551–479 trước công nguyên) đã dạy đệ tử: “K s bt dc, vt thi ư nhân (điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Tương tự, hiền triết Aristotle (384–322 trước công nguyên) cũng dạy: “Đng áp đt trên người khác nhng điu mà bn không thích.

Trong Do Thái giáo có hai trường phái đạo đức: Trường phái của Shammai chủ trương khắc khổ, và trường phái của Hilel chủ trương phóng khoáng. Một hôm, có một người đến xin học tập với Shammai, anh ta thưa: “Thưa thày, tôi mun làm môn đ thày, nhưng trước hết, xin thày cho tóm gn lut phi gi trong bao lâu tôi còn có th đng trên mt chân đ nghe thy ging. Shammai liền đuổi anh ta đi và trao cho một cuốn sách dày về luật mà ông đang cầm trên tay. Anh ta đến gặp Hilel và cũng nói với ông lời ấy, Hilel nói với anh ta: “Nhng gì anh không thích thì đng làm cho người khác, đó là tóm tt v lut. Anh ta giác ngộ và nhận thấy đó là BÀI HỌC QUÝ GIÁ NHẤT ở đời.

Các dấu chỉ quen thuộc cho biết ai là “người của Thiên Chúa” đã được chính Đức Kitô Giêsu giới thiệu qua Bát Phúc (Mt 5:3-12). Và các dấu chỉ về lòng thương xót được trình bày qua Mười Bốn Mối Thương Người – gồm bảy mối thương về thể lý và bảy mối thương về linh hồn.

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết nhn biết Thánh Ý Ngài qua các du ch ca chính cuc đi con, đc bit là các du ch ca thi đi, nh đó con kh dĩ tuân phc và thi hành đ Thánh Ý Ngài nên trn. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loi. Amen.

Về mục lục

.

HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

 Jos.Vinc. Ngọc Biển

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thủa ban đầu, chúng ta thấy cha ông mình đã sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Vì thế, những người ngoài Công Giáo thời đó không biết tiền nhân của chúng ta theo đạo gì mà lại sống những giá trị cao đẹp như vậy, nên họ nói với nhau: những người này họ sống “Đạo Yêu Nhau”.

Tại sao các tín hữu lại có lối sống như thế? Lối sống đó bắt nguồn từ đâu? Thưa! Các ngài đã lấy Chúa làm trung tâm, làm điểm tựa cho mọi hoạt động. Lấy tinh thần bác ái, yêu thương làm nên bản chất của mình. Mọi giá trị và ưu phẩm đó khởi đi từ một Đấng đã sống và dạy cho con người bài học “yêu thương”, Đấng đó chính là Đức Giêsu.

  1. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu

Khởi đi và bắt nguồn từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa Cha, vì thế, người: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Đến lượt Đức Giêsu, Ngài cũng sống triệt để sứ mạng đó khi yêu và yêu đến cùng. Ở điểm này, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã diễn tả hành vi thương xót của Đức Giêsu như sau:“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-8). 

Thế nên, cả cuộc đời của Đức Giêsu chỉ có một nỗi thao thức, đó là “chạnh lòng thương” đến những người bất hạnh. Luôn cảm thông với người tội lỗi, nâng đỡ kẻ yếu đuối, vỗ về người thất vọng. Xót thương đến đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, nên đã nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ngài không đành lòng khi nhìn thấy những người ốm đau bênh tật, nên sẵn lòng ra tay chữa lành. Ngài còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; làm ơn cho kẻ hại mình; yêu luôn cả kẻ thù và sẵn sàng tha thứ cho họ. Không những thế, Đức Giêsu còn trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể và ở lại mọi ngày với loài người cho đến tận thế. Đỉnh cao của mầu nhiệm thương xót này chính là cái chết trên thập giá để hiến mạng vì người mình yêu: “Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).

Đồng thời, do lòng xót thương thúc đẩy, Đức Giêsu không ngừng lên tiếng phản đối những kẻ không chút thương xót và gây nên những hậu quả bi đát cho những người thấp cổ bé họng, khiến họ phải lao tâm khổ tứ, quằn quại trong khổ nhục đắng cay…

Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã sống và chết vì yêu. Qua đó, Ngài cũng dạy cho các môn đệ bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

Lệnh truyền: “Hãy yêu thương nhau” là di chúc của Đức Giêsu dành cho các môn đệ khi sắp lên đường chịu chết. Còn yêu “như Thầy đã yêu” là căn cốt của tình yêu, là một lối yêu mới, khác với lối yêu cũ của thời Cựu Ước.

  1. Điểm mới của giới luật yêu thương

Khi khuyên bảo các môn đệ: “Hãy yêu thương nhau”, Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở khái niệm trừu tượng, chung chung, mà Ngài nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu”. “Yêu Như Thầy”, chính là điều khác biệt với những kiểu yêu trước đó, và “Yêu như Thầy” đã làm nên điểm mới của giới luật yêu thương nơi người môn đệ Đức Giêsu.

Nếu thời Cựu Ước, người ta yêu nhau theo lẽ công bằng, tức là được phép trả thù khi có người làm hại mình: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, hay đi xa hơn một chút thì cũng chỉ là yêu mọi người như yêu chính mình.

Nhưng với lời mời gọi: “Yêu như Thầy”, Đức Giêsu muốn đột phá và đi đến tận căn của tình yêu.

Chữ “như” ở đây không phải là liên từ để so sánh hai vế, mà nó có một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là mở ra nguồn gốc của tình yêu. “Yêu như Thầy”, tức là lấy khuôn mẫu tình yêu giữa Đức Giêsu với Chúa Cha và giữa Ngài với các môn đệ, để các ông cũng yêu nhau và yêu mọi người như chính mình đã chứng kiến và được yêu.

Vậy “yêu như Thầy đã yêu” là gì?

Thưa, đó là hạ mình như một người tôi tớ. Tự hủy mình ra không và từ bỏ cái tôi ích kỷ. Yêu với một tình yêu phát xuất từ lòng dạ xót thương chứ không phải một thứ tình yêu vụ lợi, thực dụng, chụp giật. Yêu với một thái độ cảm thông, phục vụ chứ không phải bố thí, ban phát, thương hại. “Yêu như Thầy” là không chấp nhất, coi người làm hại mình là bạn và sẵn lòng tha thứ tất cả. Đỉnh cao của tình yêu này chính là chết thay cho người khác, đây chính là một tình yêu cao cả.

Với tất cả những nét đặc thù trên đã làm nên điểm mới của luật yêu thương mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay.

  1. Sống và thi hành giới luật yêu thương

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học mới về tình yêu; đồng thời cũng chỉ ra cho chúng ta thấy điểm khởi nguồn và phát xuất tình yêu, đó là lòng thương xót.

Lời mời gọi: “Hãy yêu như Thầy” mà Đức Giêsu trăng trối cho các môn đệ thì cũng là tâm tư mà Ngài muốn gửi đến cho mỗi người chúng ta.

Vì vậy, hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu và tập sống tinh thần yêu thương ấy ngang qua một nghĩa cử xót thương cụ thể với những người mà chúng ta hay gọi là kẻ thù của mình. Bởi vì yêu được kẻ thù, ấy là chúng ta đang thực thi cốt lõi của tình yêu, là phản ảnh lòng dạ thương xót của Thiên Chúa cho anh chị em của mình cách rõ nét nhất.

Tuy nhiên, muốn thực hiện được điều đó, trước tiên, chúng ta phải thay đổi quan điểm và tên gọi cho phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Khi dùng từ kẻ thù, ấy là lối nói có tính tiêu cực, và vô hình chung, ta coi đối phương là kẻ mà chắc chắn phải tiêu diệt! Vì thế, muốn yêu kẻ thù, chúng ta nhất định phải thay đổi cách gọi, quan điểm và lối nhìn.

Thứ đến, khi người anh chị em chúng ta xúc phạm đến ta, hãy coi nhẹ lỗi của họ, đừng thổi phồng như bong bóng. Nhiều khi cần phải đặt mình vào hoàn cảnh của người anh em để dễ thông cảm cho hành vi của họ hơn. Nhìn thấy lỗi của anh em gây ra cho mình, ngay lập tức, cẩn trọng và hồi tâm suy nghĩ: có bao giờ cũng cùng lỗi đó, mình đã gây ra cho người khác không? Đôi khi lỗi của mình nặng hơn chăng? Hay điều mà người anh em đang gây ra cho mình có lẽ đúng! Nếu đúng, tại sao không biết cám ơn, nếu sai, sao phải hận thù cho khổ tâm!

Tiếp theo, noi gương Đức Giêsu trên thập giá, không ngớt cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ hại mình. Vì thế, khi gặp phải những người hại ta, hãy cầu nguyện cho họ. Xin cho họ và ta được bình an. Hành vi này thật cao quý, vì hơn bao giờ hết, trong tận cùng của khổ đau, chúng ta lại thật hạnh phúc vì đang được diễm phúc tham dự vào công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa cách cụ thể.

Cuối cùng, khi bị hiểu lầm, vu khống, phân biệt, thậm chí bách hại bằng tư tưởng, miệng lưỡi hay đòn vọt và chết chóc, ta hãy vui mừng, bởi lẽ, đó là lúc ta được tôn vinh vì đang được hiệp thông với Đức Giêsu chịu đóng đinh.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót, xin Chúa ban cho chúng con được ở lại trong tình yêu của Chúa và luôn biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu và thương xót chúng con. Amen.

Về mục lục

.

PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU

 Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Khi sắp từ giã cõi đời, người hấp hối cố tranh thủ chút thời gian vắn vỏi còn lại và tận dụng chút hơi tàn để căn dặn người thân yêu những điều mà họ cho là quan trọng nhất, đồng thời cũng để trối lại những gì được xem là gia bảo.

Tương tự như thế, khi sắp từ giã các môn đệ để chịu khổ nạn và chịu chết, Chúa Giê-su trao cho họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi.” Rồi Chúa Giê-su trối lại cho các môn đệ yêu dấu phần gia bảo quan trọng nhất, đó là Điều Răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau… ”

Tuy nhiên, Chúa Giê-su không muốn các môn đệ yêu thương nhau bằng thứ tình yêu hời hợt bề ngoài, nhưng muốn họ yêu thương nhau thật đậm đà nên Ngài nói thêm: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Như thế, tình yêu Chúa Giê-su dành cho các môn đệ phải trở thành chuẩn mực cho tình yêu của các môn đệ đối với nhau.

Rồi Đức Giê-su nhấn mạnh: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu nầy để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.”

Như thế, nếu kẻ nào không thương mến tha nhân thực lòng, người đó chưa phải là môn đệ thật của Chúa Giê-su.

Muốn thử vàng, người ta phải dùng đến lửa; muốn biết ai là môn đệ thật của Chúa, người ta phải nại đến tình yêu, đúng như lời Chúa Giê-su dạy: “Người ta cứ dấu nầy mà nhận biết anh em là môn đệ (thật) của Thầy, là anh em yêu thương nhau.” Thế thì, nếu ai đó xưng mình là môn đệ Chúa Giê-su mà không tôn trọng, không yêu thương người khác, thì chắc chắn người đó là môn đệ giả.

Người môn đệ giả

Có người nằm mơ thấy mình phải lìa bỏ đời nầy sang thế giới bên kia. Được biết thánh Phê-rô canh cửa thiên đàng rất nghiêm ngặt, xét hỏi kỹ càng trước khi cho vào, nên anh ta mang theo đầy đủ những giấy tờ cần thiết.

Vừa gặp thánh Phê-rô, anh liền xuất trình đủ thứ giấy tờ để chứng minh mình là người công giáo, từ chứng thư rửa tội, thêm sức cho đến hôn phối… Anh hy vọng với những chứng từ nầy thì thánh Phê-rô sẽ mở cửa thiên đàng cho anh ngay. Nào ngờ, thánh nhân lại lắc đầu từ chối.

Anh ngạc nhiên hỏi: “Ngài còn đòi gì nữa? Con cũng xin thưa là ngày nào con cũng có đọc kinh lần hạt; con không bỏ lễ chúa nhật bao giờ, không gian tham trộm cắp, không mê muốn vợ chồng người… Bấy nhiêu không đủ để được vào thiên đàng sao?”

Thánh Phê-rô trả lời:

“Thiên đàng chỉ đón nhận những môn đệ thật của Chúa Giê-su. Ai không mang phù hiệu người môn đệ Chúa Giê-su thì không được vào thiên đàng.”

“Phù hiệu nào vậy, thưa Ngài?”

“Thế con không nhớ lời Chúa phán dạy sao: “Người ta căn cứ vào dấu hiệu (phù hiệu) nầy mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em có lòng thương mến nhau” (Ga 13, 35). Nếu chưa có lòng thương mến nhau thì con chưa phải là người môn đệ thật của Chúa.”
 

Qua dụ ngôn phán xét cuối cùng, Chúa Giê-su cũng khẳng định điều nầy: Ai có lòng yêu thương giúp đỡ người khác, kẻ ấy mới được đón nhận vào thiên đàng.

Tin mừng Mát-thêu thuật lại lời Chúa phán như sau: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán với những kẻ bên phải rằng: “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa” vì các người đã thương mến chăm sóc các anh em bé nhỏ của Ta.

Rồi Chúa quay sang lên án những người bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”… vì các ngươi đã không yêu thương chăm sóc các anh em bé mọn của Ta  (Mt 25, 34-46).

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con biết dựa vào Lời Chúa dạy để rà soát lại xem mình đã tôn trọng, yêu thương và phục vụ những anh chị em chung quanh chưa? Nếu chưa thì chúng con vẫn còn là những Ki-tô hữu giả hiệu, chúng con không thuộc vào số những người môn đệ thật của Chúa và trên vương quốc thiên đàng không có chỗ dành cho chúng con.

Về mục lục

.

YÊU NHƯ CHÚA ĐÃ YÊU

AM Trần Bình An

Có con là điều tuyệt vời nhất đối với nhiều phụ nữ. Tuy nhiên, để đứa con chào đời khỏe mạnh, người mẹ đã phải chịu đựng và vượt quá rất nhiều khó khăn thử thách, thậm chí hy sinh cả mạng sống của mình. Tất cả những điều đó đã xảy ra với một bà mẹ Mỹ, người gần như bị chết ngay trên bàn đẻ, nhưng được chính đứa con sơ sinh của mình cứu sống kỳ diệu một tuần sau đó.

Cặp vợ chồng Shelly và Jeremy Cawley đã vô cùng hạnh phúc chờ đón đứa con gái đầu lòng của họ – Rylan – chào đời. Giống như bất kỳ gia đình trẻ nào khác, trước đó, họ đã đi mua sắm rất nhiều quần áo và đồ dùng trẻ em, cũng như trang trí nhà cửa để chuẩn bị đón chào thành viên mới.

“Tôi nhớ rất rõ mình nằm trên một cái cáng và được đưa đến phòng mổ. Tôi đã khóc và nói với các bác sĩ rằng, tôi rất sợ mình sẽ không tỉnh dậy sau ca mổ đẻ. Điều kỳ dị là, những lo lắng của tôi đã trở thành hiện thực”, bà mẹ trẻ Shelly kể lại những gì mình đã trải qua. Trong ca mổ đẻ cấp cứu sau đó, bé Rylan đã chào đời an toàn và khỏe mạnh. Song, mẹ của em bị một cục máu đông lớn làm tắc nghẹn các động mạch chính, khiến cô rơi vào trạng thái hôn mê ngay trên bàn mổ. Các bác sĩ phát hiện, hai buồng phổi Shelly ứ đọng rất nhiều dịch, gây khó khăn trong việc cung cấp oxy cho não và làm giảm huyết áp của cô. Sản phụ trẻ được cho dùng máy hô hấp nhân tạo để duy trì sự sống, trong khi các bác sĩ tìm mọi cách cứu sống cô.

Sau một tuần hôn mê, chẳng còn mấy hy vọng sống dành cho Shelly. Trong một nỗ lực cuối cùng, trước khi chính thức tuyên bố bà mẹ trẻ đã chết, các bác sĩ đã thực hiện một hành động được cho là mang tính trực giác nhiều hơn khoa học. Họ đặt bé Rylan lên trên ngực Shelly, để hai mẹ con chạm vào da của nhau lần đầu tiên và kích thích để đứa con khóc bên bầu vú mẹ.

Và điều kỳ diệu thực sự đã xảy ra. Shelly bắt đầu bộc lộ các dấu hiệu sự sống. Trước sự kinh ngạc và vui sướng của mọi người, bà mẹ trẻ dần hồi sinh từ cõi chết và hiện đã hồi phục hoàn toàn.

“Tôi nghĩ đây là điều rất đáng kinh ngạc. Một đứa trẻ vô cùng non nớt (mới 1 tuần tuổi) lại có thể mang đến ảnh hưởng lớn đến như vậy. Trong lúc vô vọng, các bác sĩ gần như đã không thể làm được gì, nhưng con bé (Rylan) lại có thể … Tiếng khóc của con có thể đã tiếp cho tôi sinh lực để chiến đấu giành giật sự sống”, Shelly bộc bạch. Cô và chồng đã viết một cuốn sách về câu chuyện kỳ lạ của mình với hy vọng sẽ tạo nên cảm hướng cho những người khác vững niềm hy vọng trong cuộc sống. (Tuấn Anh, Bé một tuần tuổi cứu mẹ thoát chết kỳ diệu, theo Diply, USA Today)

Chính cháu bé Rylan bất ngờ đánh thức tình mẫu tử kỳ diệu, đã cải tử hoàn sinh cho mẹ Shelly. Một dấu chỉ của tình yêu tuyệt vời. Tình yêu nhân trần tuy còn bất toàn, hạn hẹp, mong manh vẫn là thần dược cứu sống. Tuy nhiên,“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49, 15) Tình Chúa cao siêu, tuyệt diệu, vô biên, vượt trội hơn cả mối tình mẫu tử, còn thương ban cho con người được ân hưởng phúc trường sinh.

Yêu như chính mình 

Trong chương 19 sách Lêvi, nêu ra chỉ thị về luân lý, những điều cấm đoán, nhưng nổi bật một điều khẳng định:”Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại (tha nhân) như chính mình.”(Lv 19, 18) Tuy nhiên tình yêu quy chiếu bản thân làm tiêu chuẩn, thường mỏng dòn, thiếu hoàn hảo, khó trường tồn, vì con người vốn yếu đuối, mong manh, dễ thay đổi, mau lung lạc theo thời gian và không gian.

Tình yêu con người bất cập, vì thường lệ thuộc vào tâm trạng bất an, hay bất thường do hoàn cảnh, môi trường tác động, nên dễ dàng biến chuyển, phai màu, thay đổi, sáng nắng chiều mưa.“Yêu nhau chưa ráo mồ hôi, chưa tan buổi chợ, đã rời nhau ra!” (Ca dao) 

Tình yêu con người bất hạnh, vì thói bái vật, thực dụng, tôn thờ tiền tài, danh vọng, chức tước, quyền lực. Những ảo ảnh phù phiếm không bao giờ đủ, không bao giờ thoả mãn bản năng thú tính và dục vọng bất tận.“Hồi nào nhắn xuống nhắn lên. Bây giờ em đứng một bên anh không nhìn.” (Ca dao)

Tình yêu con người bất hảo, vì lòng vụ lợi ngăn cản, vây hãm, áp đảo, chế ngự. Muốn được phản hồi, mong được đáp lại, ước được đền ơn đáp nghĩa, thích được trân trọng, quý mến, ái mộ. “Trách người quân tử bạc tình. Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao!” (Ca dao)

Tình yêu con người còn bất toàn, vì bị hạn chế bởi vị kỷ. Muốn chiếm hữu, hưởng thụ, lạm dụng, tham lam, vơ vét, tích luỹ vào cái tôi bần tiện, bon chen, hẹp hòi, ganh tương, dối trá, tị hiềm. “Có chả em tình phụ xôi. Có cam phụ quýt, có người phụ ta.” (Ca dao)

Yêu như Chúa đã yêu

Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”(Ga 13, 34) Chúa Giêsu trao cho nhân loại Điều Răn Mới: Anh em hãy yêu thương nhau không như Lề Luật cũ đã ấn định: như chính mình, mà như Thầy đã yêu thương anh em. Đó chính là tình yêu phục vụ, khoan dung, hiến tế. 

Xả kỷ, bỏ mình, khiêm tốn, cúi mình, quỳ xuống, hầu hạ rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu muốn công khai biểu lộ và nêu gương sáng ngời tình yêu phục vụ.“Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”(Ga 13, 14-15) Không phải chỉ là một gợi ý, mong ước đơn thuần, nhưng chính là một mệnh lệnh rất cấp bách, minh bạch, rõ ràng và thực tế dành cho những ai muốn đi theo Người.

Với môn đệ Giuđa phản bội, Đức Giêsu hết lòng khoan dung, tha thứ, từ ái, nhẹ nhàng, thân thương nhắc nhủ hồi tâm, cảnh tỉnh trước mặt các đồng môn.“Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.”(Ga 13, 21) Nhưng ông Giuđa chẳng hề tỏ ra động lòng, nghĩ lại, trở về. Xót xa, đau buồn, nhẫn nhục, Người đành công khai, thẳng thắn cho mọi người biết đó là ai.“Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy… Giuđa, kẻ nộp Người cũng hỏi: “Rápbi, chẳng lẽ con sao?” Người trả lời: “Chính anh nói đó!” Nhưng lòng chai dạ đá, Giuđa cứ cố chấp, tiếp tục lún sâu vào tội ác. Người đành tế nhị, ý tứ nhắc riêng:“Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13, 27) Dẫu vậy, Người vẫn tỏ ra tiếc thương, không cứu vãn nổi người môn đệ bạc nghĩa, phụ tình.” Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26, 23-25)  

Với ông Phêrô sẽ xúc phạm thô bạo, Người cũng bình thản tỏ lòng rộng lượng, ưu ái, ân tình, chua xót cảnh báo:“Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.”(Ga 13, 38)

Khi kẻ thủ ác vừa rời bàn tiệc, Đức Giêsu liền công bố cuộc khổ nạn bắt đầu khởi sự. Người sắp trở nên Con Chiên hiến tế, chuộc tội cho toàn thể nhân loại. Trung thành vâng lời Đức Chúa Cha, Người chịu khổ nhục, chịu đóng đinh, chịu chết trên thập giá. Đó chính là thời điểm Người được tôn vinh trọn vẹn qua Tình Yêu hiến tế “Khi Giuđa đi rồi, Ðức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người, Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người,thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.” (Ga 13, 31-32)

Yêu là dấu chỉ Kitô hữu 

Lời trăn trối cuối vô cùng thấm thía và cảm động của Đức Giêsu đến nay vẫn còn mãi vang vọng trên thế gian:“Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13, 35) Yêu thương tha nhân như Người để làm chứng nhân sống động cho Đức Kitô. Nhưng yêu như Thầy Giêsu đã yêu chẳng phải dễ dàng thực hành, vì chẳng phải yêu trong chốc lát, tuỳ hứng, tuỳ tiện, mà phải yêu suốt đời, cho đến hơi thở cuối cùng, thật là một thách đố ngặt nghèo cho tất cả Kitô hữu. Hoàn toàn bất khả thi, nếu không có Đức Chúa Thánh Thần yêu thương, ban thêm sức mạnh tình yêu, lửa mến, niềm tin, đức cậy.

“Đừng để tháng ngày làm cho quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu ngày càng mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: tình yêu Chúa đổ vào quả tim con.” (Đường Hy Vọng, số 178)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin giúp chúng con biết bỏ mình, từ bỏ bản thân, khiêm nhu, hiền lành, khoan dung, thứ tha yêu thương phục vụ tha nhân, nhiệt thành sống cho tha nhân. Sẵn sàng chịu hao mòn, chịu tan biến, để bừng lên ngọn lửa mến sưởi ấm tha nhân, đang cơ cực vì thế gian băng giá, lạnh lùng, vô tình.

Kính xin Mẹ Maria luôn cầu bầu, nhắc nhở, răn dạy chúng con biết thiệt sự yêu thương, bác ái, chia sẻ, giúp đỡ mọi người, nhất là những người khốn khổ, đang bị bỏ rơi, khinh miệt, bên lề xã hội, để thế gian nhận ra chúng con chính là môn đệ của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

YÊU NHƯ CHÚA YÊU-

Lm. Anthony Trung Thành

Để nói lên tình yêu thương rộng mở giữa người với người trong xã hội, người Á Đông chúng ta có châm ngôn: “Tứ hải giai huynh đệ” (bốn biển là anh em). Cha ông của chúng ta cũng dạy: “Thương người như thể thương thân”. Cựu Ước cùng mời gọi:  “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình” (Lv 19,18). Trên đây chỉ là lời những lời mời gọi tình yêu thương theo mối tương quan giữa con người với nhau, mà đỉnh điểm của tình yêu là: Yêu tha nhân như chính mình. Còn nét độc đáo và đặc thù của tình yêu mà Đức Kitô mời gọi chúng ta là: Yêu Như Chúa Yêu. Vậy, làm thế nào để Yêu Như Chúa Yêu?

  1. Trước hết, chúng ta tìm hiểu xem Chúa Giêsu yêu thương như thế nào?

1) Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu phổ quát.

Ngài yêu thương hết thảy mọi người. Đó là những người tội lỗi, bệnh tật, đói khổ, yếu đuối và bị áp bức…Ngài gặp gỡ chàng thanh niên giàu có và khuyên anh để được sống đời đời: «Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi» (x. Mc 10, 17-22). Ngài gặp gỡ ông Giakêu thủ lĩnh người thu thuế và giúp ông biết sống công bằng và quảng đại (x. Lc 19,1-10). Ngài gặp gỡ những người nghèo về tinh thần và vật chất và luôn ưu tiên họ hơn. Đó cũng chính là dấu hiệu để nhận ra Ngài. Ngài nói với các môn đệ Gioan rằng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5-6). Ngài tự đồng hoá mình với những người nghèo hèn, đói khổ đến nỗi ai làm cho những người này là làm cho chính Ngài (x. Mt 11,5-6). Ngài đã ca ngợi bà goá nghèo chỉ bỏ ¼ đồng xu vào hòm tiền nhà thờ và tuyên bố một câu bất hủ: “Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc 12,43). Khi dân chúng đói khát, Ngài đã mời gọi các Tông đồ “Anh em hãy cho họ ăn đi” (x. Mc 6,34-44). Sứ mạng giải phóng cho người nghèo chính là sứ mạng của Ngài:  “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”(Lc 4, 16-22). Qua những hành động và lời nói của Chúa Giêsu đều thể hiện rõ nét một tình yêu bất biến, tình yêu phổ quát không loại trừ một ai.

2) Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu tha thứ.

Chúa nói với người phụ nữ ngoại tình: “Tội của chị đã được tha rồi” (Lc 7,48).  Chúa nói với người bất toại: “Này con, con đã được tha tội rồi” (Mt 9, 2; Mc 2, 5; Lc 5, 20). Ngài tha thứ cho Phêrô (Mt 26, 69-75), cho kẻ trộm lành (x. Lc 23,43), cho những kẻ giết Ngài (x. Lc 23,34)…Ngài đã ban quyền tha tội cho Hội Thánh, khi Ngài nói với các môn đệ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 22). Ngài còn thiết lập chức linh mục để thi hành sứ mạng đó mãi cho đến tận thế. Tình yêu của Chúa Giêsu thực sự là tình yêu tha thứ. Ngài luôn luôn ở tư thế cứu thoát chứ không muốn lên án. Chính Chúa Giêsu đã nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( Ga 3, 17).

3) Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hy sinh phục vụ.

Vì yêu thương loài người chúng ta, nên Ngài đã hy sinh hạ mình xuống chấp nhận làm một con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Thánh Phaolô diễn tả: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2,6-7).

Thật vậy, vì yêu thương loài người nên Ngài chấp nhận sinh ra trong hang đá nghèo hèn lạnh lẽo. Ngài sống âm thầm tại làng quê Nazareth với Thánh Giuse và Đức Maria suốt ba mươi năm. Ngài tiếp tục sống nghèo hèn trong ba năm rao giảng Tin Mừng. Chính Ngài nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58). Ngài đã hy sinh hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13, 1-20). Cuối cùng, Ngài bị bắt, đánh đòn, đóng đinh và chết trên thập giá không một mảnh vải che thân. Đó là bằng chứng hùng hồn nhất cho lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Không những thế, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã lập Bí tích Thánh Thể để làm của ăn của uống nuôi sống nhân loại chúng ta. Ngài đã yêu thương nhân loại và yêu thương họ cho đến cùng (x. Ga 13,1). Tình yêu của chủ chiên hy sinh vì đàn chiên, đó mới là một tình yêu tròn đầy, một tình yêu hy sinh phục vụ.

  1. Làm thế nào để Yêu Như Chúa Yêu?

1) Yêu như Chúa yêu là phải yêu thương mọi người.

Với bản tính tự nhiên, chúng ta thường giới hạn tình yêu nơi những người thân cận: Yêu thương những kẻ thuộc về minh như cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em và những người yêu thương chúng ta, những người có thể đền đáp công ơn cho chúng ta. Nhưng để yêu như Chúa, chúng ta không được dừng lại ở đó, chính Chúa Giêsu đã nói: “Nếu các ngươi yêu những kẻ yêu mến các ngươi, thì các ngươi có công gì ? Há những người thu thuế cũng không làm thế sao”? (Mt 5,6). Vì vậy, Yêu như Chúa yêu là phải đi xa hơn: Yêu thương hết mọi người; yêu thương những người không có gì để đền đáp cho chúng ta; yêu thương cả những người bất đồng ý kiến; yêu thương những người không yêu thương chúng ta; thậm chí chúng ta cần phải yêu thương những người ghét bỏ chúng ta, bách hại chúng ta. Đó là tình yêu phổ quát, tình yêu không loại trừ một ai.

2) Yêu như Chúa yêu là phải tha thứ lỗi lầm cho anh chị em mình.

Trước hết, tinh thần tha thứ phải được thực hiện ngay trong mối tương quan giữa các thành viên trong gia đình: Cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em ruột thịt với nhau. Tiếp đó, tha thứ phải được thể hiện giữa các thành viên trong cộng đoàn giáo xứ và mọi người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Ngoài ra, sự tha thứ cũng cần được thể hiện với những người ghét bỏ chúng ta, và thậm chí họ là kẻ thù của chúng ta. Các Thánh đã làm gương cho chúng ta: Thánh Stêphanô đã tha thứ cho Phaolô; Thánh Nữ Maria Goretti đã tha thứ cho chàng thanh niên Alexade; Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tha thứ cho Ali Agca và bao nhiêu tấm gương tha thứ khác.

Nhưng thực tế trong đời sống gia đình và cộng đoàn vẫn còn đó những người sống thiếu tinh thần tha thứ cho nhau. Vì không có sự tha thứ nên xảy ra rất nhiều cảnh đau thương, chết chóc. Mỗi người chúng ta hãy mang tinh thần tha thứ đến với mọi người: “Đem tha thứ vào nơi lăng nhục… Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ” (Kinh Hoà Bình của Thánh Phanxicô).

3) Yêu như Chúa yêu là phải biết hy sinh phục vụ.

Chúa Giêsu đã hy sinh tính mạng vì chúng ta. Giờ chúng ta cũng phải hy sinh tính mạng vì người khác. Hy sinh tính mạng là hy sinh những gì thuộc về chúng ta. Vì vậy, chúng ta có thể hy sinh thời gian, sức khoẻ, tiền bạc vì lòng yêu mến tha nhân. Chúng ta thấy điều này nơi gia đình, cộng đoàn giáo xứ và nơi các trung tâm từ thiện.

Trong gia đình: Cha mẹ hy sinh vì con cái; vợ chồng hy sinh cho nhau; người khoẻ hy sinh chăm sóc cho người đau yếu. Trong giáo xứ: Ban Hành Giáo hy sinh để phục vụ cộng đoàn; thầy cô giáo hy sinh để dạy giáo lý cho giới trẻ. Tại các trung tâm bác ái từ thiện, có rất nhiều người tự nguyện hy sinh vì những người bệnh hoạn tật nguyền. Tại những trung tâm đó, các nữ tu và những thiện nguyện viên đang ngày đêm âm thầm hy sinh phục vụ những người ốm đau, bệnh tật. Họ là những tấm gương hy sinh phục vụ, phản ánh phần nào gương hy sinh phục vụ của Đức Kitô.

Nhưng đây đó vẫn còn có những gia đình cơm không lành canh không ngọt, vợ chồng ly tán, con cái bơ vơ. Nhiều cộng đoàn vẫn còn sự chia rẽ, bất hoà, thiếu sự hiệp nhất yêu thương. Đây đó vẫn còn có cảnh chém giết lẫn nhau…Vậy, để không còn có những cảnh đau thương đó xảy ra, mỗi người chúng ta hãy toả sáng tình thương mọi nơi mọi lúc, như William Blake nói : “Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học tỏa sáng tình thương”. Đó cũng là cách chúng ta đang làm chứng cho Chúa, vì “Cứ dấu này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Bài Tin Mừng hôm nay là lời cáo biệt Đức Giêsu nói cho các môn đệ thân yêu trước khi Người ra đi chịu chết, đồng thời cũng là những lời trăn trối thâm tình nhất. Chính trong bối cảnh cụ thể và lịch sử đó mà ‘điều răn mới’ trở thành đặc biệt quan trọng và sâu sắc.

Không hiểu sao: mãi cho tới bây giờ, tôi vẫn chưa hết dị ứng với chữ ‘giới răn’ (commandments). Một từ vựng khác là ‘thập điều’ (Decalogue) xem ra nhẹ nhàng hơn nếu xét theo nguyên ngữ. Đối với người công giáo, cũng không biết từ bao giờ, từ ngữ ‘giới răn’ đã trở thành phổ biến và quen tai. “Điều răn’ có nghĩa là: một qui đinh, một điều buộc phải làm hay cấm không được làm, phát xuất từ một thẩm quyền tối thượng. Đã là điều răn, thì mọi người ai đều ‘phải’ tuân giữ. Người Việt Nam quen với khái niệm: ‘lời răn bảo’ (nên, hãy), với nội dung nhẹ nhàng và khích lệ hơn. Tôi thiết nghĩ là con người đương đại (đặc biệt giới trẻ hôm nay) cũng chuộng nhẹ nhàng khuyên nhủ hơn là răn đe. Hơn nữa, trong các ‘điều răn’ thì, luật buộc phải yêu thương lại có vẻ bất hợp lý hơn hết! Tình yêu không thể bó buộc! vì nó dựa trên tự do và nhận thức; không một ai, kể cả Thiên Chúa, có thể bắt buộc người khác phải yêu mình. Là chúa tể, Ngài chỉ có quyền bắt mọi tạo vật phải thờ lạy, phải kính sợ mình mà thôi! Thế thì ta phải hiểu câu nói của Đức Giêsu thế nào đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”.

Trước hết hãy nhớ rằng: các thính giả của Đức Giêsu trong cái giờ phút biệt ly đó là các môn đệ; mà các ông đều là những người Do Thái gốc (xem Ga 1:47). Các Pha-ri-sêu vẫn thường nói tới ‘điều răn’ (xem Mt 22:34-40), vậy thì việc Đức Giêsu đề cập tới một ‘điều răn mới’ là hoàn toàn hữu hiệu để lôi cuốn đám thính giả Do Thái lắng nghe Người. Chắc hẳn các môn đệ đã khá quen thuộc với các đoạn chương 20, câu 2-17 trong sách Xuất Hành, hoặc chương 5 câu 6-21 sách Đệ Nhị Luật. Các đoạn văn này đều đặt ‘10 giới răn ’ dựa trên thẩm quyền tối thượng của Đức Chúa Gia-vê, Đấng đã giải thoát dân khỏi ách nô lệ bên Ai-Cập và dẫn đưa họ vào đất hứa. Mười điều răn hay thập giới có thể được coi như các điều khoản của giao ước dân Do Thái ký kết với Gia-vê, Đấng giải phóng họ. Tự nó, thập giới là những qui luật rất nhân bản và hợp lý, kể cả ba khoản đầu trực tiếp liên quan tới Đức Chúa, tuy nhiên ta không thể khảng định thập giới đích thực là luật yêu thương! Đúng hơn, đó là luật công bằng, luật sòng phẳng, luật ràng buộc do cam kết của một khế ước giữa hai bên ký kết với nhau. Ngay cả ‘yêu tha nhân như yêu chính mình’ cũng chỉ xuất phát từ đòi hỏi công bằng của Cựu ước: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:40); chính Đức Giêsu đã khảng định như vậy.

Trong bối cảnh đó thì “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” mới là ‘điều răn’ hoàn toàn mới mẻ, vì nó vượt xa những đòi hỏi công bằng sòng phẳng của một giao kèo xã hội. Nền tảng và nguyên lý của ‘hãy yêu thương này’ chính là con người Đức Giêsu Ki-tô, Đấng đã hiến mình chịu chết trên thập giá… để thực hiện cuộc giải phóng và lập một vương quốc thứ tha. Đó chính là ‘điều răn’ căn bản của giao ước mới, nói theo lối diễn tả của của người Do Thái. Nó phát xuất từ sự khám phá ra, hay nhận thức được: sự trung thành tuyệt đối của một Thiên Chúa cứu độ, nhân ái và giầu lòng xót thương, để rồi tự đáy lòng mỗi người nẩy sinh và phát triển một tình yêu đáp trả quảng đại. Chính vì điều này mà, và trong tâm tình sâu đậm nhất của cuộc tiễn biệt, Đức Giêsu mới chính thức công bố ‘điều răn’ này! Sắp tới đây, các môn đệ sẽ tận mắt chứng kiến tình yêu này bắt đầu trở thành hiện thực: các ông sẽ được chứng kiến một Thiên Chúa yêu đến cùng, yêu tới độ “sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” trên Thập Giá (1 Ga 4:10).

Nếu thế thì đây không còn phải là một ‘điều răn’ chính hiệu nữa, có nghĩa là không phải là một điều gì áp đặt từ bên ngoài. Tình yêu mời gọi tình yêu! Những ai đã chứng kiến tình yêu Thập Giá, đã cảm nghiệm thấy “tình yêu đó là như thế này…” (1 Ga 4:8-11) thì việc ‘buộc’ hay ‘phải’ yêu thương anh em mình chỉ còn là một cách nói. Thực ra chẳng có buộc gì cả: nếu anh biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu Ki-tô hiến mình trên thập giá cho anh và biết cách thâm sâu, thì việc yêu người anh em lỗi phạm sẽ là một đòi hỏi nội tại, một công việc của cõi lòng. Ngược lại, nếu anh thấy mình chưa thể yêu thương người anh em, thì đơn giản là vì anh chưa thật sự thấu hiểu Thập Giá, nơi Thiên Chúa đã yêu và hiến mình cho anh bất chấp con người anh đầy tội lỗi. Gioan đã muốn diễn tả như thế trong các chương 4 và 5 của lá thư thứ nhất: hoặc biết về tình yêu xót thương của Thiên Chúa hoặc không thể yêu tha nhân: vì nếu thấu hiểu được lòng Chúa nhân ái xót thương, thì chúng ta ‘phải’, như một định luật hoàn toàn lô-gích hay đúng hơn một chuyển động tất nhiên của cõi lòng, yêu mọi người anh em của mình thôi, cho dầu họ có bất toàn tới mấy. Yêu thương tha thứ cho kẻ thù nghịch sẽ mãi mãi là điều không thể, là một nghịch lý của niềm tin, bao lâu Thập Giá chưa được chúng ta giương cao trong đời sống.

Do đó, nếu tôi chưa thấy mình có thể yêu mến hoặc tha thức cho cận nhân, thì tôi biết đâu là nguyên nhân rồi đó!

Lạy Chúa từ nhân, nếu con chưa thể yêu các anh em con, thì đơn giản là vì con chưa hiểu thấu và cảm nghiệm được: ‘Chúa yêu thương và hiến mình vì con’ tới mức độ nào. Xin cho con biết chiêm ngắm Thập Giá, nhất là khi cử hành Thánh Lễ, để con ngày càng vào sâu hơn trong tình yêu xót thương của Chúa. Chỉ qua cách đó, phải, qua cách duy nhất đó, con mới có thể trở nên một Linh Mục đích thực, biết yêu mến và tự hiến cho đoàn chiên và các anh em con ‘như Chúa đã yêu thương’. Xin hãy giúp con đạt được điều này trong công tác mục vụ hàng ngày của con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Bài đọc 1 Chúa nhật tuần trước cho chúng ta biết về sự thành công trong các cuộc hành trình rao giảng Tin mừng của thánh Phao-lô, dẫn dắt nhiều người Do thái và ngoại đạo tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai.  Nhưng trong khi đó cũng tạo ra những sự chống đối, ganh ghét và thù hằn.  Trong bài đọc 1 hôm nay, thánh Phao-lô quay trở lại thăm các cộng đoàn Ki-tô hữu ở An-ti-ô-ki-a.  Mặc dù đã bị đối xử một cách không tốt đẹp từ những người chống đối trong hành trình trước đây, nhưng không vì thế mà ngài sợ hãi.  Ở tại cộng đoàn này, thánh Phao-lô biết được những khó khăn và thử thách trong đời sống của những Ki-tô hữu, đồng thời chứng kiến sự thành công của sứ mạng rao giảng lời Chúa, và sự can đảm chứng nhân là môn đệ Chúa Ki-tô của mình, nhiều người tin và sống theo giới răn Chúa dạy.

Trong bài đọc 2 hôm nay chúng ta nghe đoạn cuối của sách Khải huyền theo thánh Gioan, và chương cuối này cho chúng ta biết mu5ch đích, ý nghĩa hay điểm chính của sách này.  Chúng ta thấy bài đọc 2 của những Chúa nhật tuần vừa qua cũng trích trong sách Khải huyền, tiên đoán chiến tranh, loạn lạc, nhiều sự đau khổ và kinh hoàng sẽ xảy ra, được diễn tả qua những hình ảnh kinh sợ.  Nhưng nếu chúng ta nhìn vào bài học lịch sử của thế giới, đều xác nhận sự tiên đoán khốc liệt của sách Khải huyền rất chính xác, có nghĩa là phải trải qua loạn lạc, sự kinh hoàng và đau khổ thì mới tới vinh quang, thì mới có hòa bình, vì loạn lạc và đau khổ là phần cuộc sống của thế giới ở trần gian này.

Mấy ngày trước đây, tôi có đọc được một bài báo có tựa đề: NGƯỜI VIỆT ĐỘC ÁC VỚI NHAU TỪ BAO GIỜ VÀ BAO GIỜ SẼ THÔI?  Trong bài báo này, tác giả cho biết ngày nay mỗi năm có thêm hàng mấy trăm ngàn người Việt ở quê nhà bị đau khổ hành hạ vì bệnh ung thư, và có đến hơn 70 ngàn người chết.  Lý do vì bị chính hành động độc ác của người Việt đầu độc nhau bằng thực phẩm, rau và hàng hóa nhiễm độc, pha, tẩm chất hóa học. Bây giờ trên cả nước không tìm đâu ra một tiệm bán đồ ăn, bán rau an toàn.  Sau năm 1975, chúng ta thấy mọi người tìm đủ mọi cách để sống, ngày nay người ta tìm để mọi cách để có lợi nhuận, kể cả những hành động độc ác đầu độc giết hại lẫn nhau, lan tràn khắp cả nước, và thấm vào mọi tầng lớp dân chúng.  Tác giả bài báo cho rằng vì “điều kiện xã hội, cơ chế chính trị đã khơi mầm tội ác và ngăn chận những mầm tốt được sản sinh.”  Chúng ta có thể đặt câu hỏi: “Bao giờ người Việt mới cảnh tỉnh?  Bao giờ hành động này sẽ chấm dứt?”   Tác giả bài báo đã kết luận rằng: “Người Việt có khả năng vươn lên như bất cứ dân tộc, quốc gia nào trên thế giới nếu có cơ hội, và cơ hội đó không do ai ban phát mà phải tự tạo cho chính mình.”  (Chân Trời Mới Media. Nguồn: FB Trần Trung Đạo)   

Tôi nghĩ rằng chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể biến đổi lòng dạ con người mà thôi. Chỉ khi nào người ta có một lòng tin thực sự vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, thì người ta mới tỉnh ngộ và chấm dứt không đầu độc, giết hại lẫn nhau. Chúng ta hãy đặt niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho anh chị em đang đau khổ, đang chịu cảnh gian truân.

Bài đọc 1 cho chúng ta biết khi thánh Phao-lô đến củng cố tinh thần và đức tin của các môn đồ và Ki-tô hữu, ngài khẳng định rằng: “Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa.”  Ngài không nói nếu chúng ta tin và theo Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ phải đối diện với những gian truân và đau khổ. Nhưng gian truân và đau khổ của những người tin theo Chúa khác biệt với những gian truân và đau khổ thường tình trong cuộc sống.  Tôi tin chắc chắn những người không có Chúa Giê-su trong cuộc sống, đau khổ một cách khó khăn hơn, vì họ không được chia sẻ ơn sủng, ý nghĩa và cảm nghiệm tình yêu của Chúa.  Loạn lạc, gian truân và đau khổ sẽ đến hiện diện trong đời sống của tất cả mọi người sống trên mặt trái đất này, nhưng đó không phải là điểm chính hay ý nghĩa chính của sách Khải huyền.  Ý nghĩa chính của sách Khải huyền là chiến thắng vinh hiển cho những người trung thành tin theo và yêu mến Chúa Giê-su Ki-tô.   Bài đọc 2 hôm nay bắt đầu chương cuối của sách Khải huyền và cho chúng ta biết sự vui mừng vinh hiển qua hình ảnh Thiên Chúa sẽ thiết lập một trời mới, đất mới.

Ông bà anh chị em thân mến. Con đường dẫn dắt chúng ta đến công việc tạo dựng một công trình mới của Thiên Chúa là một giới răn mới mà Chúa Giê-su ban cho chúng ta: “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau.”  Có lẽ nhiều người thắc mắc tự hỏi có điều gì mới mẻ về giới răn yêu thương này?  Chúng ta đã nói và đã nghe rất nhiều về yêu thương.  Thưa, đây là điều mới cho chúng ta.  Chúng ta, là những con người bình thường, phải tuân theo mệnh lệnh yêu thương và yêu thương theo đường lối của Thiên Chúa.  Có nghĩa là chúng ta phải yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Chúng ta biết, người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Chúa muốn các môn đệ phải yêu như Chúa đã yêu, yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù ghét.  Tình yêu của Chúa được diễn tả cách cụ thể qua sự tha thứ, phục vụ, hy sinh, quảng đại, đau khổ và chết trên thập giá.  Tình yêu Chúa kêu mời chúng ta không độc ác với nhau, không thù ghét, làm hại người khác bằng bất cứ hình thức nào.  Nhưng làm sao chúng ta có thể thực hành những điều quá cao, vượt trên bản tính loài người của chúng ta?  Thật vậy, chúng ta chỉ có thể yêu thương theo như tình yêu của Chúa khi chúng ta có Chúa ở trong tâm hồn và trong đời sống, giúp chúng ta yêu thương cách này mà thôi.  Tầm quan trọng của tình yêu thương Chúa trong tâm hồn chúng ta thúc đẩy chúng ta chia sẻ sự yêu thương của Chúa với người khác trong vui mừng và an bình của Chúa, một sự an bình mà thế gian không thể ban cho chúng ta, và một sự vui mừng chỉ phát xuất từ Chúa mà ra thôi. Chúa nói: “Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.” (Ga. 15, 9-11)  

Để mọi sự có thể xảy ra, điều quan trọng là chúng ta phải luôn có một sự liên hệ mật thiết với Chúa Giê-su, và đón nhận Ngài vào trong tâm hồn chúng ta. Chúa Giê-su đã thực hiện điều đó một cách quyền năng và độc nhất trong Bí tích Thánh Thể mà chúng ta bây giờ cử hành.  Xin Chúa giúp chúng ta biết mở tâm hồn đón nhận Ngài.

Về mục lục

.

YÊU NHƯ THẦY YÊU

Lm. GB. Trần Văn Hào

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir un peu). Sự ra đi nào cũng để lại những vấn vương và lưu luyến cho người ở lại, nhiều khi còn mang vẻ bi thương và tang tóc nữa. Cuộc ra đi thụ nạn của Chúa Giêsu cũng thế. Chính vì vậy, trong giờ phút ly biệt đầy xốn xang và ngậm ngùi, Chúa Giêsu đã để lại những lời tâm huyết cuối cùng cho các học trò. Những lời dặn dò thân tình ấy được Giáo hội đọc lại cho chúng ta trong phụng vụ hôm nay, giống như một di chúc thiêng liêng. Các nhà chú giải vẫn gọi đó là ‘diễn từ biệt ly’. Trong những lời trăng trối sau cùng ấy, Chúa nói với các môn đệ: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Điều răn mới.

Ai cũng biết, yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người. Ngày xưa triết gia Aristotle đã nói cho các học trò của ông: “Tính ích kỷ và đầu óc hẹp hòi biến con người trở nên như thú vật, nhưng khi con người đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, họ sẽ trở nên như thần thánh”. Nói chung, tôn giáo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, và chẳng tôn giáo nào lại dạy con người làm những chuyện thất đức. Tinh thần ‘Tứ hải giai huynh đệ’ của triết lý Đông phương cũng tương tự như thế. Thế thì, giáo huấn của Chúa Giêsu có gì là mới lạ? và tại sao Chúa lại gọi đây là điều răn mới? Chúng ta phải đi sâu vào tư tưởng thần học của Thánh Gioan mới có thể khám phá ra tính cách mới mẻ và độc đáo của giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu gửi trao như một di chúc thánh thiêng.

Ngay từ thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã ban truyền thập giới trên núi Sinai qua Moisê, và 10 giới răn đó cũng được tóm kết qua 2 điều luật căn bản, đó là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều đó khi trả lời cho vị luật sĩ (Lc 10,27) hay cho vị kinh sư (Mc 12,28) hoặc cho chàng thanh niên giàu có (Mt 19,18-20).

Tuy nhiên các luật sĩ và biệt phái thời xưa chỉ giữ luật một cách máy móc và vụ hình thức. Chúa tuyên bố rằng Ngài đến không để bãi bỏ lề luật, nhưng mặc cho nó một chiều kích mới, đó là chiều kích nội tâm. Giới răn mới mà Chúa nói hôm nay cũng chính là việc thực hành tình yêu, nhưng đi vào cốt lõi căn bản, nhắm đến chiều sâu nội tâm hóa của giới luật yêu thương. Để huấn luyện các học trò hiểu thấu giới răn ấy, Chúa Giêsu lấy chính Ngài làm chuẩn mẫu:“ Anh em hãy yêu thương nhau ‘như’ Thầy đã yêu thương anh em”. Tính cách mới mẻ mà Chúa khởi dẫn chính ở điểm căn bản này.

Kinh nghiệm của Thánh Gioan.

Khi nói về mình, Gioan giới thiệu rất đơn giản bằng thuật ngữ ‘người môn đệ được Chúa yêu mến’. Gioan là người học trò duy nhất được tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly để lắng nghe từng nhịp đập nơi con tim thổn thức của vị Thầy khả ái. Ngài cũng đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria để mục kích trái tim Chúa bị đâm thâu và mở toang ra, tuôn đổ những giọt nước và máu của tình yêu cho đến vô tận. Tất cả những chi tiết này đều là những hình ảnh mà Thánh Gioan ghi lại để biểu thị bài học về tình yêu nơi Chúa Giêsu mà Gioan đã cảm thấu một cách tường tận. Trong Tin mừng thứ tư, thánh ký quảng diễn rất nhiều về tình yêu mà Chúa Giêsu đã diễn bày, nhất là qua hình ảnh người Mục tử nhân lành, biết các con chiên trong đàn, đi tìm kiếm con chiên lạc, và hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Gioan cũng dành ra suốt từ chương 13 đến hết chương 17 để viết lại diễn từ biệt ly, và điểm nhấn quan trọng nhất trong diễn từ chính là nói về tình yêu. Trong diễn từ này, Chúa Giêsu lập đi lập lại điệp khúc tình yêu qua chính mẫu gương của Ngài. “Không có tình yêu nào cao quý bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu”. “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”. “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”… Vì thế trong 3 lá thư Thánh Gioan để lại, đặc biệt trong thư thứ nhất, Ngài đã định nghĩa Thiên Chúa bằng một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,16). Những chân lý về tình yêu, về giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ được nói đến trong bài Tin mừng hôm nay, cũng được lặp lại rất nhiều lần trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan.

Yêu như Thầy đã yêu.

Nhiều người ngoại giáo thường hỏi chúng ta, đạo nào cũng hay, cũng đẹp, thế đạo Công giáo có cái gì đặc sắc mà các anh muốn quảng bá? Thánh Gioan hôm nay đã trả lời thay cho chúng ta.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương giống như Ngài đã yêu thương. Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm lý thuyết, nói một đàng làm một nẻo. Cái chết của Chúa Giêsu lột tả trọn vẹn tình yêu mà Ngài muốn diễn bày. Ngài đã đi đến tận cùng của giai điệu yêu thương khi bị treo thân trên Thập giá như một tên tội phạm và quảng diễn rất cụ thể điều Ngài đã nói với các môn sinh: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Trong bữa tiệc ly, Chúa còn cúi xuống rửa chân cho các học trò như một người tôi tớ. Bằng nhiều cách, Chúa đã cố gắng cắt nghĩa giới răn mới mà người muốn truyền thụ lại bằng chính cuộc sống gương mẫu của Ngài.

Kết luận

Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ đức ái, đã viết trong khảo luận về Đức Ái của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ, tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu”. Sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chính là con đường dẫn đến hoàn thiện và đó cũng là lộ trình nên thánh mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước. Nhưng chúng ta thực hành giới răn mới đó như thế nào? Một nhà xã hội học đã chua chát nhận xét: “Ngày nay, con người đã rất tiến bộ và thành công vượt bậc. Người ta đã lên được tới mặt trăng, đã nghiên cứu đến tận sao hỏa, đã chế tạo các phi cơ với vận tốc khủng khiếp… Nhưng có một điều rất đơn giản là học cách sống tử tế với vợ mình, mà nhiều người học mãi cũng chẳng xong”.

Nói về tình yêu trên lý thuyết rất dễ, nhưng sống và thực hành theo gương Chúa Giêsu không phải là một chuyện giản đơn. ‘Hãy yêu như Thầy đã yêu’ là bài học mà chúng ta phải nghiền gẫm và phải phấn đấu để thực hành cho đến suốt đời.

Về mục lục

.

TRỜI MỚI ĐẤT MỚI

Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm

Thiên Chúa là Đấng luôn mới, Ngài luôn có những chương trình và sáng kiến tuyệt vời để can thiệp và cứu độ con người trong những tình huống khác nhau. Ngài vẫn tiếp tục làm mới tất cả và đặc biệt con người. “Này đây Ta làm mới tất cả”

“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?

Núi bao nhiêu tuổi, vẫn là núi non!”

Một đồ vật, cũ theo thời gian. Một cái máy, không làm cái gì “mới” vì người ta biết cái gì sẽ xảy ra. Làm một cách “máy móc”, nghĩa là người ta có thể biết những hành động tiếp sau.

Con vật không có tự do, thế nên người ta có thể kiểm soát và chi phối chúng, bắt chúng làm theo ý người ta; chẳng hạn những con vật được dùng để làm xiếc. Khi một người nô lệ tiền bạc, người khác có thể dùng tiền bạc để chi phối hay điều khiển họ. Một người ham sắc, có thể bị điều khiển bởi người nữ. Chuyện Bao Tự- Kỷ vương là một thí dụ. Những người như vậy, tuy tự do mà chẳng tự do. Ai mà không thể cưỡng lại điều gì, e rằng người đó không còn tự do nữa.

Con người luôn luôn mới vì con người luôn tự do. Con người, có thể thay đổi. Đổi thành tuyệt hơn hoặc tệ hơn. Tốt hơn và tuyệt hơn, không phải là chuyện “đã qua”, nhưng luôn là chuyện “hiện tại”. Vấn đề không là “quá khứ tôi tốt”, nhưng chính yếu là “lúc này tôi có tốt không?” Vấn đề không là “hôm qua nó xấu”, nhưng chính yếu là “bây giờ người đó thế nào?” Con người, luôn luôn có thể mới. Không ai biết được! Những lần trước, họ như vậy, nhưng không có nghĩa họ như vậy lần này. 999 lần trước, họ như vậy, nhưng lần này, có thể họ khác. Con người có thể mới, con người luôn luôn có thể mới.

Con người có tự do, không ai bắt họ “đổi” được. Cha mẹ, anh em, những người thân, muốn điều tốt cho họ, thế nhưng tất cả đều bất lực. “May ra Thiên Chúa có thể làm gì được chăng!” Thiên Chúa có thể làm được, nhưng Ngài lại cho con người “tự do”, nên dường như Ngài cũng “bất lực”!

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể biến đổi con người mà con người vẫn tự do. Thiên Chúa có thể làm điều đó, vì Ngài yêu con người vô cùng. Ngài có cách làm con người biến đổi. Dường như chỉ Thiên Chúa mới có thể làm con người biến đổi, vì “dường như” chỉ Thiên Chúa mới yêu thương “ai đó” vô cùng! Tình yêu có sức biến đổi con người mà con người vẫn tự do.

Thiên Chúa vẫn đang làm mới tất cả, qua Đức Yêsu chết và phục sinh.

Yêu nhau như Thầy yêu anh em

“Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau”.

Luật Cựu Ước dạy: “yêu thương tha nhân như chính mình” (Lv.19, 18). Chúa Yêsu dạy: “yêu thương tha nhân như chính Chúa yêu thương chúng ta”. Chúa đã yêu thương chúng ta đến độ Ngài sẵn sàng chết để chúng ta được sống, và Ngài mời gọi mỗi người hãy yêu thương người khác như Ngài yêu họ.

Yêu thương người khác như chính mình, đã là một điều khó; phương chi bây giờ Ngài mời gọi yêu thương đến hiến mạng sống cho tha nhân. Ai dám nói yêu thương là điều dễ? Yêu, phải hy sinh quên mình, và làm tất cả những gì là tốt lành cho người mình yêu.

Dấu chỉ để nhận ra một người là môn đệ Chúa, không là “được rửa tội”, không là “có đi lễ Chúa Nhật”, cũng không là “mặc áo dòng”, mà là “yêu thương nhau”! Không yêu thương nhau mà nhận mình là người theo Chúa, là phản chứng. Không yêu thương mà nói mình biết Thiên Chúa, là nói dối; vì “ai yêu thương thì biết Thiên Chúa; ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga.4, 7-8). Cái biết ở đây, không là biết nói “như con vẹt”, nhưng là biết bằng hành động, bằng con tim, bằng cảm nhận.

Thiên Chúa đang làm mới tất cả qua những trung gian

Thánh Thần Thiên Chúa đã dùng các Kitô hữu sai gởi Phao-lô và Barnaba đi rao giảng Tin Mừng. Thiên Chúa đã dùng Phao-lô và Barnaba để rao giảng và củng cố đức tin của các tín hữu.

Thiên Chúa vẫn đang dùng những con người hôm nay, những Ki-tô hữu, để làm con người đương thời tin vào Tin Mừng, tin vào Thiên Chúa, tin vào con người. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa con người và Thiên Chúa qua các chứng nhân rao giảng Tin Mừng, qua thừa tác viên bí tích hoà giải. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa người với người qua việc làm con người tin vào nhau, khi Thiên Chúa làm cho con người biến đổi, khi Thiên Chúa làm cho con người tin vào Thiên Chúa để có thể tin vào nhau.

Thiên Chúa vẫn đang làm mới con người, trái đất này, vũ trụ này qua những trung gian và phương tiện khác nhau. Khi tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành con người mới, tạo vật mới.

Tạ ơn Chúa, và cám ơn tất cả mọi người- những trung gian của Chúa cho tôi.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Bạn có thấy ai chán nản và tuyệt vọng không? Đâu là nguyên do làm con người tuyệt vọng?
  2. Con người luôn có thể không trung tín, vậy tại sao con người có thể tin vào nhau? (chẳng hạn vợ chồng, bạn bè)
  3. Bạn có kinh nghiệm được Thiên Chúa dùng như trung gian để làm mới ai đó không? Nếu được xin bạn chia sẻ.

Về mục lục

.

BÀI HỌC THỰC TẾ

Lm. Jos. DĐH.

Lời chào cao hơn mâm cỗ. Lỗ nhỏ làm đắm thuyền, lỗ kiến vỡ đê, tí lửa cháy trời. Đó là những câu tục ngữ, được tiền nhân đúc kết từ kinh nghiệm cuộc sống, nhắn gởi lại cho hậu thế. Có những tài sản cao quý đến độ con cháu luôn trân trọng như “bản di chúc”: tiếng khóc, tiếng cười, hoặc truyền thống sống đức ái của gia tộc. Nếu chưa làm mẹ, mấy ai hiểu lời người xưa : có tát cạn biển đông mới thấu tỏ lòng mẹ. Nếu chưa một lần được gọi là cha, liệu ai hiểu nổi : không trèo qua non thái, sao thấu hiểu được tình cha ? Bao lâu tôi và bạn đã thật khôn lớn, hẳn lời ru năm xưa sẽ vô cùng ý nghĩa : con ơi nhớ lấy câu này, ơn cha nghĩa mẹ, công thầy chớ quên.

Đức Giêsu quý mến học trò cách chân thành không khác gì tình “bằng hữu”, Ngài thực tế bài học yêu thương trong nhóm 12, cụm từ yêu thương ngắn ngủi ấy giá trị hơn “mâm cao cỗ đầy”. Trong yêu thương có sức mạnh nội tại như muối như men, như vị ngọt của tình huynh đệ, tình bè bạn, hiệp thông sống động trong tình Giêsu. Hãy yêu thương nhau, không đơn giản chỉ là mệnh lệnh, đúng hơn phải gọi là quà tặng, vì trong gói quà yêu thương có niềm vui khám phá, có đau khổ hạnh phúc, có tự do đón nhận.

“Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau”, mới ở điểm nào ?  hẳn chúng ta phải lưu ý là “như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau”. Mới và thực tế “như Thầy đã yêu” là yêu vô vị lợi, yêu không tính toán, yêu đến cùng. Mới và thực tế còn được hiểu là nguồn gốc yêu thương phát xuất từ Thiên Chúa, phải cảm nhận được tình yêu của Thầy Giêsu, nếu không giữa chúng ta yêu nhau chỉ là ích kỷ, vị lợi.

Thực tế tình yêu nào cũng đưa dẫn con người đến hạnh phúc, nhưng “yêu như Thầy yêu” mang mầu sắc dấn thân phục vụ, là dám hy sinh cho cả đối tượng gian ác. Có những thứ tình cảm mà người ta gọi là tình yêu, có những thứ nước mà người ta gọi là rượu, nghe có vẻ lạ. Thực ra, men để biến nước thành rượu, hay men để nung nấu tình bạn thành tình yêu, luôn cần đến một yếu tố là thời gian. Hãy yêu thương, sẽ chỉ là khẩu hiệu, lý thuyết nếu trong đó thiếu tính thực tế, không bắt nguồn từ tình yêu Giêsu.

Quan niệm thực tế của con người thường dựa vào sự công bằng, có gieo có gặt, bạn yêu tôi, tôi yêu bạn. Tình yêu mà Đức Giêsu đã từng thể hiện, tình yêu đó là vượt qua lẽ công bằng tự nhiên, làm ơn làm phúc cho người xa lạ, yêu thương không mong được đáp đền. Nét đẹp của tình yêu cũng được cha ông chúng ta thực tế với câu ca dao : chẳng thà ăn bát cơm rau, còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời. Tình yêu thương tự bản chất đã có hy sinh, chín bỏ làm mười, gia đình hòa thuận, nhà nhà an vui.

Trước vẻ đẹp phong phú của tình yêu, Chúa không cần chúng ta phải có đầu óc bách khoa, không cần người ta phải đạo đức nhiệm nhặt như các vị thánh khổ tu. Nhưng Ngài cần các học trò của Ngài biết sống yêu thương : “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”. Điều tốt nhất cha mẹ có thể làm cho con cái là họ biết yêu thương nhau. Điều thực tế hơn đối với người học trò Giêsu, đó là trái tim của người môn đệ luôn đủ tình yêu của Thầy Giêsu trước các tương quan tha nhân.

Làm sao người Kitô hữu chúng ta áp dụng vào cuộc sống hiện tại này bài học yêu thương của Đức Giêsu, khi mà đầu óc chúng ta trĩu nặng lý sự : có thực mới vực được đạo ? Trong khi Chúa Giêsu không hề phân biệt đối xử giầu nghèo, người xấu xa tội lỗi, người thánh thiện tốt lành, Ngài vẫn hết mực yêu thương. Tính ích kỷ nhỏ nhoi thường khép lòng người ta lại, để rồi hận thù, chia rẽ vây hãm các tương quan của với ta ! Bài học thực tế hơn cả đó là từng giây phút trong đời, chúng ta hãy cậy nhờ vào chuẩn mực của tình yêu Giêsu, một tình yêu mà trong anh chị em mình luôn có hình ảnh Đức Giêsu yêu thương.

Cảm nhận vẻ đẹp của tình yêu Giêsu, đón nhận tinh thần mới trong gói quà yêu thương để chia sẽ cho nhau, hẳn là mỗi người chúng ta đang thực thi đức ái Kitô. Nếu cha ông chúng ta nói rằng : hoa không xinh đẹp lấy đâu ra kẻ ngắm nhìn ? Tình không chín mùi, mấy ai dám bước lên xe hoa ? Vâng, người môn đệ của Đức Kitô không thể thiếu đức yêu thương trong tâm hồn, không thể cư xử có tình Chúa tình người trong các tương quan, khi chúng ta hiểu biết và sống đức yêu thương dựa trên môi miệng, Xin tình yêu Giêsu mãi mãi là sức mạnh, là ơn ban trước tinh thần quảng đại dấn thân, mỗi chúng ta đều là môn đệ của Ngài. Amen.

Về mục lục

.

DI CHÚC TÌNH YÊU

Dã Quỳ

Trong căn phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã trao ban chính mình cho chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể. Tình yêu trào tràn trong con tim của Người và vì thế, ân ban Thánh Thể còn được lồng vào bằng những dấu chỉ khác của tình yêu. Chúa rửa chân cho môn đệ là cụ thể hóa tình yêu trong phục vụ. Tiếp nối là trao ban di chúc thiêng liêng: Hãy Yêu Thương nhau. Đây là lệnh truyền, là tiếng gọi tha thiết với môn sinh của Chúa và với tất cả Kitô hữu chúng ta hôm nay.

Những người thầy trên trần gian khi truyền dạy cho môn sinh bài học đạo đức hay những luật lệ thì dường như không một thầy nào dám lấy chính mình ra để làm gương hay mời gọi trò hãy nhìn thầy, học cách sống của thầy, hoặc hãy sống như thầy đã sống…Thế nhưng, Chúa Giêsu – Chúa của chúng ta khi truyền ban bài học yêu thương, Người dạy môn đệ: “Các con hãy yêu thương nhau.” Vậy yêu cách nào? “Như Thầy đã yêu thương các con thì các con cũng hãy yêu thương nhau.”(Ga 13,34) Nghĩa là khi các con thực hành đức yêu thương nhau, các con hãy nhìn vào chính gương của Thầy đã yêu thương các con. Đây như là phương cách và cũng là động lực để các con có thể thực hiện được. Bởi vì, yêu thương nhau không dễ chút nào.

– Như Thầy đã yêu thương các con. Thầy yêu như thế nào? Chúa đã chứng minh tình yêu của Người yêu thương chúng ta bằng sự khiêm hạ nhập thể làm người “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”(Kinh Tin Kính N. C.); bằng cuộc đời nghèo khó hy sinh từ Belem, Nazareth đến đồi Canvê; tất cả là một tình yêu hy sinh vì chúng ta như lời Thánh Phaolô khẳng định “Chúa Kitô đã yêu tôi và hiến mạng vì tôi.”( x.Gl 2,20c)

Chúa yêu tất cả loài người chúng ta dù tội lỗi, yếu hèn, hay phản bội và Người muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi nỗi đau thương. Tình yêu của Chúa không chỉ dừng lại ở đó nhưng Người còn đi xa hơn là Chết và Phục Sinh để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Tình yêu của Chúa cũng không chỉ kéo dài trong cuộc đời ba mươi ba năm nhưng là mãi đến tận thế. Tất cả Tình yêu của Chúa là hy sinh, là hiến ban chính mình “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”(Ga 15,13)

– Các con hãy yêu thương nhau. Chúa không truyền dạy chúng ta: Như Thầy đã yêu thương các con thì các con cũng hãy yêu lại Thầy như vậy, nhưng Chúa  muốn chúng ta yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương ta. Đây là điều răn mới, mới ở chỗ yêu như Chúa yêu; yêu nhau như Chúa yêu ta và chính ở điểm này sẽ chứng minh chúng ta yêu Chúa thế nào và đáp đền tình Người yêu ta ra sao, như lời Thánh Gioan nhắc: “Nếu ai nói:’Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối.”(1Ga 4,20a) Khi chúng ta yêu thương nhau, chứng tỏ Thiên Chúa hiện diện ở giữa chúng ta và tình yêu của Người tràn đầy trong tim ta.

Yêu thương nhau như Chúa yêu ta phải được cụ thể hóa bằng việc làm như chính Chúa đã dạy, đã thực hiện. Phải “Yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.”(1Ga 3,18) chứ không chỉ nói suông. Tình yêu nói thì dễ nhưng để sống, đòi ta phải hy sinh vì “Hy sinh đó là thực tập sống tình yêu”. Tình yêu không hy sinh như xác không hồn.

Yêu như Chúa yêu không dễ chút nào khi yêu thương người mình chẳng thích chẳng ưa. Khó lắm khi yêu thương kẻ làm hại ta, hiểu lầm ta, gây đau khổ cho ta… Yêu như Chúa yêu còn là đón nhận những yếu đuối của anh em và can đảm sửa lỗi cho nhau. Chỉ khi tâm hồn ta hướng về mầu nhiệm tình yêu của Chúa, cảm nhận sâu xa tình Chúa yêu thương ta dẫu bao lần ta lỗi tội, lúc đó ta biết ơn vì Chúa đã yêu ta bằng một tình yêu vô cùng, thì đến lượt ta, lòng biết ơn và ân sủng Chúa sẽ giúp ta yêu thương người dù người chẳng yêu ta. Và khi yêu như vậy, tình yêu của ta mới có giá trị vì đòi ta hy sinh bỏ mình. Chắc chắn để có được tình yêu dạt dào trong tim và có thể yêu thương, ta phải cầu xin ân huệ của Chúa Thánh Thần thì ta mới có thể yêu như Chúa yêu và yêu bằng tình yêu của chính Chúa “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.”( Rm 5, 5b)

– Yêu thương nhau, dấu chỉ là môn đệ của Chúa. Tình yêu là luật, là tinh thần của người môn đệ Chúa Kitô và của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúa chọn gọi chúng ta, Người sai chúng ta ra đi nhưng chưa nói ta làm việc này việc kia, mà điều đầu tiên và quan trọng đó là “Yêu thương nhau” bởi vì: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con có lòng yêu thương nhau.”( Ga 13,35) Đây là lời chứng hiệu quả nhất và là lời rao giảng mà con người mọi thời đại đều muốn thấy và nghe.

Vậy sống yêu thương nhau là sứ mệnh của chúng ta. Tình yêu đưa đến hiệp nhất; tình yêu mang lại an vui. Vì thế, yêu thương nhau sẽ như mặt trời mọc lên chiếu sáng, lan tỏa cho mọi người xung quanh trong bất cứ nơi nào những Kitô hữu hiện diện, để rồi khi người ta nhận ra chúng ta là con cái của Chúa, người ta cũng sẽ nhận ra Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Tình Yêu và tin yêu Chúa. Đây là sứ vụ và cũng là thách đố cho mỗi cộng đoàn Kitô hữu chúng ta sống giữa lòng thế giới hôm nay.

Yêu thương nhau như Chúa yêu là di chúc, là luật, là tinh thần và là sứ mệnh của chúng ta, những môn đệ Chúa Kitô. Yêu thương nhau như Chúa yêu cũng là lời chứng hùng hồn trong công cuộc truyền giáo của Giáo hội. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần dạy bảo chúng ta và giúp chúng ta tuân giữ di chúc Tình yêu của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con và thí mạng vì chúng con. Xin ban Thánh Thần của Chúa cho chúng con để Người dạy chúng con biết yêu thương nhau như Chúa  đã yêu chúng con. Amen.

Về mục lục

.

YÊU NHƯ THẦY

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Đoạn Tin Mừng hôm nay nằm trong bối cảnh mà sự giã từ, sự dao động vì sắp ly biệt càng lúc càng trĩu nặng. Chúa Giêsu không còn nhiều thời gian để ở bên các môn đệ của Người. Người sắp bước vào một chuyến đi dài mà không ai có thể theo được.

Trước khi rời xa để thực hiện chuyến đi, Chúa để lại cho đoàn môn đệ và cho cả Hội Thánh của Chúa lời di chúc thấm thía, đó là di chúc tình yêu. Người gọi đó là điều răn mà Người ban cho họ.

Yêu người như yêu chính mình đã khó. Hôm nay Chúa dạy yêu như Chúa yêu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Sao lại là “điều răn mới”? Và sao lại là “yêu như Thầy”. “Yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?

I. ĐIỀU RĂN MỚI.

Tình yêu không mới. Đúng hơn, tình yêu đã là chuyện vĩnh cửu. Trong nhân loại, tình yêu đã có từ muôn thưở. Tình yêu sẽ còn tồn tại như chính con người vẫn tồn tại vậy. Nhưng vì sao Chúa lại gọi tình yêu do Chúa ban là “điều răn mới”? “Mới” là bởi hãy “yêu như Thầy”.

Không chỉ là yêu. Cũng không yêu chung chung. Nhưng là “yêu như Thầy đã yêu”! “Yêu như Thầy đã yêu” là thứ tình yêu mà người môn đệ của Thầy phải khám phá, phải học đòi, phải vươn tới, phải ấp ủ suốt đời, phải sống cho trọn vẹn.

Trong tình yêu mới này, trong giới răn hoàn hảo này, Chúa không còn lấy bất cứ cái gì để làm điểm đối chiếu cho tình yêu mà là lấy chính Chúa: “Yêu như Thầy”.

Sách Đệ Nhị Luật của bộ Cựu Ước dạy hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Tin Mừng theo thánh Mathêu đi một bước cao hơn, khi trích lại lời sách Lêvi: đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu mọi người như yêu chính mình (Mt 22, 39 – lấy bản thân làm điểm đối chiếu).

Nhưng kinh nghiệm của đời sống một Kitô hữu cho ta thấy, tình yêu ngoài Chúa, tình yêu không lấy Chúa làm trọng tâm, dù có tốt, dù lấy bản thân làm đối chiếu, vẫn không hoàn hảo.

Một người nghiện ngập, hay một người tự tử vẫn yêu chính mình. Yêu cuồn nhiệt nữa là đàng khác. Yêu bản thân cách mãnh liệt, họ mới chiều chuộng mình, họ mới trở nên mù quáng.

Vì thế, nếu yêu người khác như người nghiện, người tự tử yêu bản thân họ, sẽ là một thứ yêu vô cùng đáng sợ. Yêu theo kiểu mù quáng ấy, chẳng những chúng ta không cần, mà còn phải lên án, còn phải tránh xa. Vì thế, yêu người như yêu bản thân còn là thứ tình yêu còn khiếm khuyết.

Điều răn mới là di chúc quý báu của mọi Kitô hữu. Từ nay, người Kitô hữu được mời gọi hãy sống điều răn mới. Họ phải ghi tâm khắc cốt lệnh truyến của Thầy Chí Thánh. Họ phải truyền cho nhau từ đời nọ đến đời kia như gia sản có một không hai mà họ là người hạnh phúc được Thầy trao cho để sống, để giữ gìn, để loan báo…

II. YÊU NHƯ THẦY.

Chúa đã yêu chúng ta bằng tình yêu vị kỷ. Chúa đã yêu chúng ta bằng tình yêu hy sinh. Chúa đã yêu chúng ta bằng tình yêu cảm thông, hiểu biết và đón nhận.

Chúa đã yêu chúng ta bằng tình yêu tha thứ. Đó là một tình yêu trọn vẹn, tràn đầy. Yêu đến quên mình. Yêu đến mất mạng sống vì người mình yêu. Yêu đến không còn một tính toán nào. Yêu không vụ lợi cho bản thân, mà chỉ nghĩ đến người mình yêu. Yêu đến tha thứ vô điều kiện. Yêu không mặc cả. Yêu đến hiến dâng cả đời mình. Yêu đến mức dù có thế nào cũng không bao giờ hối hận. Yêu tha thiết, yêu tận cùng, yêu không giới hạn…

Chúa Kitô đã yêu thương con người bằng một tình yêu mãnh liệt như thế. Để rồi bằng chính tình yêu ấy, Người đòi chúng ta cũng hãy yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta.

Vì “Yêu như Thầy đã yêu” là điều răn của Thầy, nên từ nay, người môn đệ yêu thương nhau, sống chan hòa cùng nhau, hy sinh và tận tụy vì nhau, đó sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh dự, là tước hiệu, là tên gọi của người môn đệ.

Nét riêng biệt, không thể nhầm lẫn, không thể pha trộn là từ nay họ yêu nhau như Thầy của họ đã yêu họ. Bởi đó mà “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”.

III. MỘT MINH CHỨNG CHO LỐI SỐNG “YÊU NHƯ THẦY”.

Chúa muốn chúng ta yêu nhau bằng chính tình yêu của Chúa. Điều này khó. Nó như một thách thức lớn cho sự phấn đấu của bản tính nhân loại. Nhưng khó không có nghĩa là không thể thực hiện.

Nhiều anh chị em của chúng ta đã sống bằng chính tình yêu của Chúa cách hết sức anh dũng. Họ đã làm được. Chúng ta tin rằng, một khi thấm nhuần lời Chúa dạy, chúng ta cũng sẽ làm được, cũng sẽ anh dũnh như họ.

Câu chuyện về thánh Maximilien Kolbe mà nhiều người biết đến sẽ như một minh chứng cụ thể cho lối sống “yêu như Thầy” của mỗi người chúng ta.

Nhắc lại cái chết của linh mục Maximilien Kolbe, người Balan, được vị giáo hoàng đồng hương của Cha, Đức Gioan Phaolô II phong thánh năm 1982, là nhắc tới một trong những giai đoạn kinh hoàng nhất của lịch sử loài người.

Đó chính là giai đoạn diễn ra chiến tranh thế giới lần thứ II, trong đó sự man rợ và diệt chủng của Đức quốc xã gây ra, muôn muôn đời thế giới khó có thể quên được.

Thánh Maximilien Kolbe thụ phong linh mục năm 1918. Cha đã hai lần bị Đức quốc xã bắt. Lần đầu bị bắt năm 1940, bị giam tại trại Oranienburg. Lần thứ hai Cha bị bắt ngày 17.2.1941 và bị giam tại trại tập trung Auschwitz.

Auschwitz là một nhà tù hãi hùng bao gồm mọi hình phạt và kỷ luật sắt ghê gớm, độc ác dành cho các tù nhân. Mỗi tù nhân không còn được mang tên mình, thay vào đó là những con số. Cha Maximilien Kolbe mang số tù binh là 16.670.

Tại nhà tù này, Đức quốc xã đưa ra một quy định hết sức oan nghiệt: Nếu có một tù nhân trốn trại, thì mười người khác phải chết thay. Rất nhiều tù nhân là nạn nhân của thứ luật lệ tàn độc này. Cha Maximilien Kolbe cũng trở thành một trong những nạn nhân ấy.

Đó là một buổi chiều tháng 8.1941, một người tù đã vượt ngục thành công. Thế là mười người khác bị chỉ định chết thay cho anh.

Trong số mười người này có anh lính Gajowniczek. Anh kêu khóc thảm thiết vì anh còn mẹ già, còn vợ, còn con thơ không ai nuôi dưỡng.

Trước thảm cảnh đó, vì lòng yêu mến Chúa, yêu thương con người, Cha Maximilien Kolbe đứng ra xin được chết thế cho anh lính tội nghiệp kia. Được chấp nhận, Cha cùng đoàn tử tù bước vào phòng hơi ngạt số 14.

Hôm sau, người ta mở cửa phòng để lôi xác ra ngoài, nhưng Cha Maximilien Kolbe còn thoi thóp, người ta chích cho Cha một mũi thuốc ân huệ. Cha tắt thở đúng vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 14.8.1941.

Tấm gương chết thay cho người lính vượt ngục của cha Maximilien Kolbe dạy ta can đảm sống điều răn mới của Chúa. Từ nay, Kitô hữu có sống là sống cho Chúa, cho anh chị em của họ. Họ có chết cũng là chết cho Chúa và cho anh chị em.

Cách chung, trong đời sống hằng ngày, ta có thể thể hiện lối sống “yêu như Thầy” bằng tất cả những nghĩa cử yêu thương, đón nhận như: làm hòa với kẻ ghét mình; cầu nguyện cho những ai thù nghịch mình; luôn sống mối phúc thứ bảy là gây bầu khí hòa thuận chứ không xung khắc bất hòa; hay bằng những việc hy sinh, phục vụ nhằm xây dựng và kiến tạo đời sống…

Thế giới hôm nay như sa mạc thiếu vắng tình yêu. Nhận lãnh điều răn mới hãy “yêu như Thầy”, người Kitô hữu có nhiệm vụ mang tình yêu ra đi biến sa mạc thành đồng xanh màu mỡ.

Về mục lục

.

ĐẶC ĐIỂM CỦA LÒNG YÊU THƯƠNG CHÂN THỰC

Lm. Giuse Trực

Tông huấn mới của Đức Thánh Cha Phanxicô được công bố sáng ngày 8-4-2016, tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Văn kiện này đúc kết thành quả của hai Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình do Đức Thánh Cha triệu tập năm 2014 và 2015. Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới này mang tên: “Amoris laetitia” (Niềm vui yêu thương).

Trong chương 4, số 90 của Tông huấn, Đức Thánh Cha đã trích một đoạn thư của thánh Phaolô gởi cho giáo đoàn Côrintô: “Lòng yêu thương thì kiên nhẫn, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không cao ngạo hay khiếm nhã. Lòng yêu thương không tìm tư lợi, nó không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Lòng yêu thương tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13:4-7). Đức Thánh Cha muốn đặt lại những yếu tính này vào đời sống hôn nhân gia đình, vì nó sẽ là nền tảng để xây dựng hạnh phúc.

Đặt đoạn thư của thánh Phaolô dưới ánh sáng của đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ thấy được những đặc điểm của lòng yêu thương chân thực.

I. TỪ ĐOẠN TIN MỪNG

Qua 5 câu ngắn ngủi của đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy được tất cả tình yêu thương của Thiên Chúa Cha qua Đức Giêsu Kitô khi Ngài để lại cho các môn đệ di chúc như 1 kho tàng quý giá: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34). Không chỉ ban cho các môn đệ, mà qua các môn đệ đến với tất cả mọi người: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga13, 35). Vì vậy đây vừa là ân ban, nhưng cũng vừa là trách nhiệm cho những môn đệ của Đức Giêsu.

Như vậy giới răn mới của Đức Giêsu chính là tình yêu thương. Khi các môn đệ của Ngài biết sống theo giới răn mới này thì chắc chắn họ sẽ tìm được hạnh phúc đích thực.

II. ĐẾN TÔNG HUẤN NIỀM VUI YÊU THƯƠNG

Chúng ta bắt gặp những đặc tính của tình yêu thương trong Tông huấn “Niềm Vui Yêu Thương” mà Đức Thánh Cha Phanxicô vừa ban hành. Ngài đã hướng dẫn hết sức cụ thể từng đặc tính một qua đoạn thư của thánh Phaolô gởi cho tín hữu Côrintô. Nhưng trong khuôn khổ bài giảng trong thánh lễ mà cũng chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề nghị với các linh mục: “Làm ơn giảng ngắn lại”, chúng ta chỉ tìm hiểu 3 đặc tính: “Kiên nhẫn, không ghen tương, và chịu đựng”.

  1. “Lòng yêu thương thì kiên nhẫn”

Theo từ điển Tiếng Việt, kiên nhẫn: “là trạng thái của sự chịu đựng trong những hoàn cảnh khó khăn, có nghĩa là kiên trì đối mặt với sự chậm trễ hoặc hành động khiêu khích mà không biểu hiện sự khó chịu hoặc giận dữ một cách tiêu cực”.

Còn với Đức Thánh Cha Phanxicô, kiên nhẫn không chỉ là sự chịu đựng, mà nó xuất phát từ tính cách của Thiên Chúa: “Chậm nổi giận”. Như vậy “chậm nổi giận” là đức tính của một người không hành động bốc đồng, nhưng họ tránh gây xúc phạm đến người khác. Đức Thánh Cha viết: “Sự “kiên nhẫn” của Thiên Chúa, được chứng tỏ qua lòng thương xót của Người đối với những người tội lỗi, là dấu chỉ uy quyền thực sự của Người”.

Từ đó chúng ta nhận ra uy quyền thực sự của một con người chính là sự kiên nhẫn trước những sai lỗi của người khác. Nó xuất phát từ một tình yêu thương hết sức mạnh mẽ. Tình yêu thương này chấp nhận những sai lỗi và chờ đợi sự sửa đổi của người khác. Đó cũng chính là lý do để chúng ta tin vào Thiên Chúa, vì Ngài luôn kiên nhẫn với chúng ta.

  1. “Lòng yêu thương không ghen tương”

Đức Thánh Cha viết: “Lòng yêu thương không có chỗ dành cho việc không vui trước vận may của người khác”.

Đức Chúa đã truyền cho dân: “Ngươi đừng thèm muốn nhà cửa của người lân cận ngươi; ngươi đừng thèm muốn vợ của người lân cận ngươi, hay đầy tớ nam đầy tớ nữ của họ, hay bò lừa, hoặc bất cứ điều gì của người lân cận ngươi” (Xh 20,17).

Như vậy sâu xa của việc ghen tương là vì con người ham muốn vô độ, cái gì cũng muốn, nên thấy người khác sở hữu, họ cũng muốn sở hữu, mặc dù họ không biết phải làm gì với những điều họ sở hữu, đơn giản là “có cho có với người ta”. Và kế đến, ghen tị là vì muốn người khác nhìn nhận giá trị của họ. Họ sợ người khác đánh giá họ qua những gì họ sở hữu. Người ta có, anh không có, vậy là anh thua người ta rồi! Vì vậy phải tìm mọi cách có cho bằng được điều người khác có, dù mình không cần đến và đôi khi đã dư thừa.

Như vậy ghen tương là vì chúng ta chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến người khác. Tình yêu của chúng ta chỉ là tình yêu vị kỷ chứ không phải vị tha, và càng không phải là vị Thiên. Rõ ràng chúng ta không quan tâm đến hạnh phúc của người khác. Khi thấy người khác được điều này điều nọ, thay vì vui mừng với hạnh phúc của họ, chúng ta lại tức tối, bực bội, hậm hực… tìm cách để họ mất đi điều đó, đồng thời để nó về tay chúng ta. Không nghĩ đến hạnh phúc người khác, chỉ nghĩ đến hạnh phúc của mình.

  1. “Lòng yêu thương chịu đựng mọi sự”

Sự chịu đựng mà Đức Thánh Cha muốn nói ở đây không phải chỉ là sức mạnh của lý trí và ý chí để chấp nhận một cơn đau, mà nó xuất phát từ “lòng yêu thương không bao giờ bỏ cuộc, dù trong những giờ phút đen tối nhất. Nó chứng tỏ một anh hùng tính ngoan cường, một sức mạnh đề kháng bất cứ trào lưu tiêu cực nào, một dấn thân không thể nào dẹp bỏ đối với sự thiện”. 

Như vậy sự chịu đựng mà Đức Thánh Cha đề cập đến xuất phát từ thái độ tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp. Chính thái độ đó giúp con người luôn nhìn ra những cái đẹp trong cái xấu. Mục sư Martin Luther King đã viết: “Người ghét bạn nhất vẫn có điều tốt ở trong họ; ngay quốc gia ghét bạn nhất cũng có điều tốt trong nó”.

Chỉ có tình yêu thương mới có thể giúp con người chịu đựng để mong chờ một tương lại tốt đẹp. Đó là tấm gương của thánh nữ Mônica và nhiều vị thánh khác.

Vì vậy, khi chúng ta bị người khác đối xử tệ bạc, khi chúng ta trở thành một con rối trong một tập thể, hay con cờ trong một thế cờ… lòng yêu thương sẽ giúp chúng ta chịu đựng vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa luôn muốn mọi sự tốt lành cho chúng ta.

Sau cùng Đức Thánh Cha viết: “Trong đời sống gia đình, ta cần vun sới sức mạnh yêu thương ấy, một sức mạnh có thể giúp ta đấu tranh với mọi sự ác đang đe dọa nó. Lòng yêu thương không nhường bước cho hận thù, cho khinh miệt người khác hay ước muốn gây thương tích hoặc chiếm ưu thế. Lý tưởng Kitô Giáo, đặc biệt trong gia đình, là một tình yêu không bao giờ bỏ cuộc”.

Với những gợi ý của Đức Thánh Cha Phanxicô từ bài ca đức ái của thánh Phaolô, chúng ta nhìn thấy được những đặc tính của tình yêu thương mà Đức Giêsu đã muốn chúng ta sống là làm chứng. Đó là một tình yêu “kiên nhẫn, không ghen tương và chịu đựng”.

Xin ơn Chúa giúp để chúng con biết yêu thương như Chúa dạy.

Về mục lục

.

PHỤC VỤ TRONG YÊU THƯƠNG KHIÊM HẠ

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 13,31-33a.34-35

(31) Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. (32) Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (33a) Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy. Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. (34) Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (35) Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau”.

2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay trích trong bài từ biệt của Đức Giêsu nói trong bữa tiệc ly vào chiều thứ Năm tuần thánh. Khi Giuđa rời khỏi bàn tiệc lao mình vào bóng tối thì Đức Giêsu tuyên bố “Giờ Người được tôn vinh” đã bắt đầu đúng theo thánh ý Chúa Cha. Sau đó Đức Giêsu ban cho các môn đệ điều răn mới là “Hãy yêu thương nhau như Thầy”. Tình yêu ấy chính là dấu chỉ để người đời phân biệt môn đệ thực sự của Người.

3. CHÚ THÍCH:

– C 31-32: + Khi Giuđa đi rồi: Có lẽ Giuđa ra khỏi phòng tiệc sau khi Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ và trước khi thiết lập bí tích Thánh Thể. Từ giờ phút này, Người nói về số phận của Người và trăn trối những lời cuối cùng cho các môn đệ. + Giờ đây Con Người được tôn vinh: Cuộc thương khó bắt đầu, vì Giuđa đã tiến hành công việc nộp Người. + Và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người: Thiên Chúa cũng được vinh hiển nhờ việc Đức Giêsu “vâng lời cho đến chết trên cây thập giá” (x. Pl 2,8). + Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình: Nếu Đức Giêsu làm cho Chúa Cha được vinh hiển nhờ cái chết của Người trên thập giá, thì Chúa Cha cũng sẽ ban cho Người được vinh hiển bằng cách cho Người sống lại vinh quang.

– C 33a.34-35: + Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy: Đức Giêsu giống như người cha trăn trối những lời sau hết cho con cái trước khi chịu chết. + Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em: Điều răn này mới ở chỗ: thay vì lấy bản thân làm khuôn mẫu để yêu người khác như luật cũ dạy “Yêu đồng loại như chính thân mình” (x. Lv 19,18), Đức Giêsu lại đòi môn đệ phải yêu thương nhau theo khuôn mẫu tình yêu của Người dành cho họ, là hy sinh mạng sống mình vì họ. Thánh Gioan viết: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết được tình yêu là gì: Đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta” (1 Ga 3,16). + Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy…: Tình yêu hy sinh như thế sẽ trở thành dấu chỉ đặc biệt để người đời nhận biết ai là môn đệ đích thực của Đức Giêsu.

4. CÂU HỎI: 1) Giuđa có được Đức Giêsu rửa chân và có được tham dự bữa tiệc Thánh Thể hay không? 2) Tại sao sau khi Giuđa rời bàn tiệc, Đức Giêsu lại nói: “Giờ đây Con Người được tôn vinh” ? 4) So sánh với điều răn yêu người của Luật Môsê, điều răn yêu thương lẫn nhau của Đức Giêsu mới ở điểm nào ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

2. CÂU CHUYỆN: ĐẶC ĐIỂM CỦA TÌNH YÊU THỰC SỰ:

1) YÊU THƯƠNG LÀ QUÊN MÌNH VÌ NGƯỜI MÌNH YÊU:

Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kôbê Nhật Bản. khiến cho nhiều nhà cửa trong thành phố sụp đổ trở thành những đống gạch khổng lồ, gây thiệt hại rất lớn cho thành phố về người và của. Các đội cứu hộ ngày đêm làm việc khẩn trương để lôi ra từ những đống gạch đổ nát nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng cũng chính từ tai họa này, người ta đã khám phá ra một câu chuyện rất cảm động về một tình yêu hy sinh quên mình như sau:

Đến ngày thứ hai của cuộc đào bới, thì từ dưới một ngôi nhà đổ nát, người ta đã đào lên được hai mẹ con vẫn còn sống thoi thóp. Đứa con nhỏ mới được vài tháng tuổi đang nằm ngủ yên trong lòng mẹ, đang khi mẹ của em lại bị hôn mê bất tỉnh. Sau khi tỉnh dậy, một nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: “Làm thế nào mà hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia ?”. Chị đáp: “Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may chúng tôi đã không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi khóc đòi ăn đang khi tôi chẳng còn giọt sữa nào. Tôi quờ quạng tìm xem có cái gì ăn cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi chạm vào một con dao sắc trong cái giỏ bên mình. Tôi cầm dao rạch một đường ở ngón cái cho chảy máu, rồi ấn chỗ bị cắt cho con bú máu thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay tôi được mươi phút thì cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay và cho cháu bú. Sau đó tôi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi cả hai mẹ con được cứu sống”. Nhà báo tiếp tục hỏi: “Thế chị không nghĩ rằng khi làm như thế thì chị sẽ bị mất máu và sẽ bị chết hay sao?” Chị ta trả lời: “Lúc ấy, tôi không nghĩ đến mình, mà chỉ lo cho con tôi có cái gì bú để cho nó được sống!”.

2) TÌNH YÊU KHÔNG ÍCH KỶ NHƯNG LUÔN BIẾT NGHĨ ĐẾN NGƯỜI MÌNH YÊU:

Một ông lão đang đào đất gieo trồng mấy hột đào. Cháu trai của ông thấy vậy liền thắc mắc hỏi: “Ông ơi, tại sao ông lại phải vất vả trồng đào làm chi ? Liệu ông có sống được tới ngày cây đào ra trái hay không ?”. Bấy giờ ông lão mới âu yếm đặt tay lên vai đứa cháu, vừa cười vừa nói: “Này cháu, trái đào chúng ta ăn bây giờ chẳng phải là do người trước đã trồng đó sao ? Chúng ta ăn trái đào do người trước trồng, thì tại sao ta lại không trồng cho người sau được hưởng hả cháu ? Còn nếu ai cũng nghĩ rằng: chỉ khi nào mình được ăn mới trồng, thì liệu bây giờ chúng ta có được ăn những trái đào thơm ngon này không hả cháu ?”

3) YÊU THƯƠNG LÀ QUẢNG ĐẠI CHO ĐI HƠN LÀ NHẬN LÃNH:

Một sinh viên nghèo nọ theo học ngành mỹ thuật, ngày kia ghé thăm phòng vẽ của một danh họa Pháp. Bấy giờ trong phòng vẽ rất vắng lặng. Rồi cậu ta nhìn thấy một lão hành khất đang ngồi ở một góc tối để chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Thấy bộ dạng tiều tụy đáng thương của người hành khất, cậu sinh viên liền động lòng trắc ẩn. Cậu ta mở bóp ra và tìm mãi mới thấy còn một quan tiền và sau đó cậu đã lấy ra tặng cho ông lão nghèo khổ kia. Khi họa sĩ đến làm việc, người hành khất mới hỏi xem cậu sinh viên có lòng quảng đại kia là ai. Dựa theo lời của người hành khất, họa sĩ cho biết : “Thưa đó là một sinh viên nghèo nhưng rất hiếu học”. Chiều hôm đó, cậu sinh viên đã nhận được một món quà gói kín, trên có đề tên người gửi là “Nam tước GIẮC ĐỜ RÓT-SIN” (Jacques De Rothschild). Mở gói quà ra, cậu thật vui mừng khi đếm được tới 10 ngàn quan, kèm theo một bức thư nội dung như sau: “Đây là số tiền lời do một quan tiền mà cậu đã bố thí cho người nghèo vào sáng hôm nay !”. Thì ra người hành khất ngồi chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ chính là một nam tước ham thích hội họa. Ông cũng là một người rất giàu có và tốt bụng.

4) TÌNH YÊU CÓ SỨC BIẾN ĐỔI NGƯỜI YÊU NÊN TỐT:

Cách đây ít lâu, đài truyền hình Thành phố đã chiếu một bộ phim giáo dục rất hay, mang tựa đề là “Giai điệu hạnh phúc” (La Mélodie du bonheur). Câu chuyện về một nữ dự tu tên là MA-RI. Chị được mẹ bề trên sai đi làm gia sư trong một gia đình của viên đại úy góa vợ. Mấy đứa con của viên đại úy lúc đầu tỏ ra ngang bướng khó dạy. Nhưng nhờ thái độ khoan dung vui vẻ cùng với tài năng nhảy múa ca hát, nhất là nhờ một tình thương bao la, với một trái tim biết cảm thông và chia sẻ mà cuối cùng cô giáo Ma-ri đã cảm hóa được các em và biến chúng trở thành những học sinh chăm ngoan và tài giỏi.

5) TÌNH YÊU LÀ ĐIỀU KIỆN TÁI TẠO SỨC SỐNG MỚI CHO CỘNG ĐOÀN:

Một Tu viện trưởng đến thăm một vị ẩn sĩ khôn ngoan, để xin tư vấn về cách điều hành tu viện mà ông đảm trách. Ông cho biết: trước đây tu viện của ông là một trung tâm thu hút rất nhiều khách thập phương đến hành hương cầu nguyện. Nhà nguyện trong tu viện luôn vang tiếng ca hát cầu kinh. Số người đến gõ cửa xin vào tu đông đến nỗi không còn chỗ nhận thêm. Thế nhưng hiện nay tu viện lại rơi vào tình trạng vắng tanh vắng ngắt. Các tu sĩ chỉ còn lèo tèo mười lăm ông già. Ai nấy chỉ biết lo cho bản thân mà không biết nghĩ đến kẻ khác. Nói chung tình trạng tu viện hiện đang xuống cấp trầm trọng. Sau đó, Tu viện trưởng yêu cầu vị ẩn sĩ tư vấn để tìm ra nguyên nhân và phương thế khắc phục. Vị ẩn sĩ sau khi nghe biết tình hình đã góp ý với tu viện trưởng như sau: “Theo thiển ý tôi thì nguyên nhân chủ yếu của tình trạng xuống cấp bi đát kia chính là tội vô tình!” và giải thích thêm: “Đức Giêsu hiện đang cải trang thành một người trong tu viện, nhưng không một ai trong tu viện nhận ra Người”.

Nhận được lời giải đáp, tu viện trưởng trở về tu viện, triệu tập các tu sĩ và cho biết Đức Giêsu hiện đang cải trang thành một người trong nhà. Ai trong cộng đoàn cũng có thể là Đức Giêsu ! Từ ngày đó, các tu sĩ đã đối xử với nhau như đối với Đức Giêsu: họ đã biết quan tâm phục vụ lẫn nhau, tôn trọng nhau và sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm khuyết điểm của nhau. Bầu khí cộng đoàn đã dần dần nồng ấm trở lại. Mọi người đều cảm thấy an vui. Ngày ngày họ chăm chỉ lao động ngòai đồng khiến năm ấy tu viện được mùa nho và lúa mì bội thu. Họ chia sẻ hoa lợi cho dân nghèo. Tấm gương đạo đức của họ ngày càng đồn xa khiến khách hành hương lại lục tục kéo đến nghe giảng dạy và xưng tội. Số tu sĩ ngày một gia tăng. Chính nhờ sống tình yêu thương mà tu viện đã hóa nên sinh động và ngày càng tốt đẹp hơn trước.

3. THẢO LUẬN: 1) Bạn thích câu chuyện nào nhất trong các câu chuyện trên và rút ra cho mình những bài học cụ thể nào về một tình yêu chân chính ? 2) Bạn hãy kể ra những bằng chứng nào cho thấy gia đình, xứ đạo hay hội đoàn của bạn đã sống được giới răn mới yêu thương của Đức Giêsu hôm nay ?

4. SUY NIỆM:

1) THẦY BAN CHO ANH EM MỘT ĐIỀU RĂN MỚI:

Có nhiều dấu hiệu để giúp người khác nhận ra một Kitô hữu như: đeo ảnh, làm dấu thánh giá, treo ảnh Chúa trong nhà… Nhưng dấu hiệu quan trọng nhất Đức Giêsu dạy hôm nay chính là sống tình yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”. Yêu thương nhau cũng chính là một phương thế truyền giáo hữu hiệu như Lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Tiếc thay, hiện nay vẫn còn những bất đồng giữa những người cùng tôn thờ Thiên Chúa và cùng tin Đức Giêsu, nhưng lại chưa hiệp thông được với nhau như Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo, Tin Lành… Thậm chí đã từng xảy ra những mối hận thù và giết hại lẫn nhau giữa những người cùng nhận mình là con của Thiên Chúa như hai cộng đồng Công Giáo và Tin Lành ở Bắc AiLen, hai bộ tộc Hutu và Tútsi ở Ruăngđa. Biết đến bao giờ các tín hữu mới có thể cùng đọc chung một kinh Tin kính, mừng chung các đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh trong cùng một ngày, cùng cử hành một lễ nghi phụng vụ chung ? Thế giới hiện nay giống như một sa mạc khô khan cằn cỗi vì thiếu tình yêu. Ước chi các cộng đoàn Kitô sẽ trở thành những ốc đảo, có cỏ xanh tươi và nước suối trong lành, cuốn hút các con chiên lạc quay về sống trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Thầy và mọi người đều là anh em với nhau, như lời ước nguyện của Người: “Xin cho chúng nên một” (Ga 17,21).

2) HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẦY:

Đức Giêsu đòi các môn đệ phải yêu thương nhau “như Thầy đã yêu” như sau:

– Hy sinh mạng sống vì người yêu: chịu chết trên cây thập giá để biểu lộ một tình yêu cao quý nhất và để đền tội thay cho mọi người chúng ta như Người đã nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.

– Nâng môn đệ lên bạn nghĩa thiết ngang hàng với Người: “Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu của Thầy”. Đức Giêsu là Thầy, là Chúa của các môn đệ, nhưng Người đã coi họ là bạn thể hiện qua việc chia sẻ: “tất cả những gì Thầy đã nghe được nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết”.

– Khiêm nhường rửa chân phục vụ môn đệ, cảm thông với những kẻ bất hạnh bằng việc làm phép lạ: cho người mù được sáng mắt, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi như các người thu thuế và gái điếm cùng nhận được ơn thứ tha tội lỗi và sau này còn được vào Nước trời với Người…

– “Yêu cho đến tột cùng”, yêu đến nỗi sẵn sàng hiến thân chịu chết để đền tội thay cho loài người và thiết lập bí tích Thánh Thể để nên của ăn cho chúng ta.

– Tóm lai: Chúa dạy “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu” không phải là thứ tình yêu ích kỷ, chỉ tìm cách chiếm đoạt và lợi dụng người yêu (Êros), nhưng là thứ tình yêu quảng đại vị tha, sẵn sàng hiến thân cho người mình yêu được hạnh phúc (Agapê).

3) CẦN THỰC HÀNH YÊU THƯƠNG NHAU CỤ THỂ THẾ NÀO?:

– Năng gặp nhau:  Những người kitô hữu có tình yêu thương sẽ năng tụ họp nhau, thích gặp gỡ trao đổi với nhau. Vào ngày Chúa Nhật, chúng ta sẽ đến nhà thờ để cùng nhau cử hành thánh lễ, sau là để gặp nhau trò chuyện, giải trí và chia sẻ tâm tình với nhau. Yêu nhau nên cầu nguyện điều lành cho nhau. Mong cho nhau được sự may mắn, làm ăn thành đạt, sức khoẻ dồi dào, có lòng đạo đức, mãn nguyện theo ý muốn.

– Yêu nhau và làm những điều lành cho nhau: Có thể đó là sự giúp đỡ khi túng thiếu hay ốm đau, sự chăm sóc sức khoẻ, đời sống tâm linh của nhau, là sự chia sẻ của cải vật chất và tinh thần cho nhau. Giúp nhau củng cố và giáo dục đức tin, giúp hoà giải với nhau, giúp nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, giúp nhau thành đạt trong công ăn việc làm. Dấu hiệu rõ nhất của tình yêu là hy sinh thì giờ, sức khoẻ, tiền bạc, và thậm chí cả sự sống vì nhau.

– Mang Chúa đến cho nhau: Mỗi người kitô hữu khi đã chịu phép rửa đều là đền thờ của Thiên Chúa, trong đó có Chúa Thánh Thần cư ngụ. Điều tốt nhất mà những người có đạo có thể làm là mang đến cho nhau ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta gắn bó mật thiết với Thiên Chúa và nên một với nhau.

4) NGƯỜI TA CỨ DẤU NÀY MÀ NHẬN RA ANH EM LÀ MÔN ĐỆ THẦY:

Cụ thể: trong mỗi cộng đoàn, chúng ta cần thể hiện tình yêu thương nhau như sau:

– Mỗi tuần họp mặt để cùng tìm hiểu Lời Chúa và xin Chúa giúp thực hành Lời Chúa.

– Quảng đại cho đi mà không cần tính tóan.

– Không chấp nhất những lầm lỗi khuyết điểm của nhau.

– Luôn bênh vực, làm trạng sư bào chữa lỗi lầm khuyết điểm cho nhau.

– Sẵn sàng tha thứ cho những ai đã xúc phạm đến mình.

– Quan tâm thăm viếng, phục vụ những người đau liệt, an ủi những cô thân cô thế, viếng xác đọc kinh cho người mới qua đời, an ủi những người gặp tai ương hoạn nạn…

Thể hiện tình yêu thương cách cụ thể chính là một phương thế hữu hiệu để giới thiệu Chúa đến với anh em lương dân, giúp họ sớm nhận biết tin theo Chúa và cùng được hưởng ơn cứu độ là sự sống đời đời với chúng ta.

5. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin dạy chúng con biết yêu thương và hợp tác với tha nhân trong việc xây dựng Nước Thiên Chúa ngay ở trần gian. Xin cho chúng con biết đến với tha nhân không chút thành kiến, nhưng luôn biết tin tưởng họ. Khi làm việc chung, xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa ở giữa chúng con để bỏ qua những sự kẻ khác xúc phạm đến tự ái của chúng con, cho chúng con tránh thói xấu ích kỷ nhỏ nhen và những thành kiến hẹp hòi về người khác.

– LẠY CHÚA. Ước chi chúng con biết đi bước trước đến với tha nhân. Xin cho chúng con đón nhận được ơn Thánh Thần để sẵn sàng mở rộng đôi tai lắng nghe người khác, mở lòng yêu thương và mở rộng tay để nối vòng tay lớn và chân thành phục vụ. Xin cho Thánh Ý Chúa sớm được thực hiện nhờ sự hiệp nhất của các môn đệ Chúa, khi biết cùng nhau xây dựng một “Trời Mới Đất Mới” công bình và yêu thương, bắt đầu từ gia đình, cộng đoàn rồi xứ đạo và sau cùng đến các dân tộc trên thế giới.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CÁI MỚI CỦA TÌNH YÊU

Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh

Tôi được đánh động rất nhiều bởi lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau”. Tôi được đánh động vì lời ấy hàm chứa tất cả sự cao sâu, cả một lẽ sống lớn lao mà chính Chúa Giêsu đã sống.

Nói đến tình yêu, người ta nghĩ ngay đến tình yêu đôi lứa. Không có thứ tình nào được người ta quảng bá, say mê, đau đớn, vui mừng, khóc lóc, cả đến bi thương, lắm lúc mang đầy vẻ hận thù như sự yêu đương trai gái. Cứ tìm trong kho tàng văn chương, ta sẽ thấy. Tình yêu đôi lứa phổ biến từ ngàn xưa, trải rộng từ trong ca dao, tục ngữ đến thơ ca, âm nhạc, văn học, đủ mọi ngành  mỹ thuật, mỹ nghệ, báo chí, sách vỡ…

Nhưng tình yêu mà người ta vẫn thấy trong thực tế và trong văn chương ấy phải phân biệt thành nhiều loại “yêu” khác nhau thì mới chính xác. Đó là:

Tình như lửa cháy: Người ta đến với nhau nhanh như ngọn lửa làm cháy một tờ giấy. Chỉ cần gặp nhau, hẹn hò, khoác tay nhau dù chỉ một lần, thế là yêu. Yêu nhanh như ngọn lửa cháy, vì thế lửa tàng thì tình cũng rụi.

Tình theo cảm giác: Ta bắt gặp nhiều ở lứa tuổi mới lớn dạng yêu đương này. Đó là một thứ yêu đương cuồng nhiệt đến mức như điên dại, nhưng không hề có một chiều sâu nào, mà chỉ là ham thích theo bản năng. Một thứ yêu cảm giác như thế chỉ có thể dừng lại ở chỗ va chạm xác thịt, hôn hít, âu yếm…

Tình nhục dục: Nói cho đúng, là một thứ chiếm đoạt để thỏa mãn nhục dục. Đến với nhau, chưa kịp biết tên nhau, trong đầu đã sinh lòng ham muốn chiếm đoạt thân xác của nhau. Tìm cách đưa người mình mới quen lọt vào vòng u tối của đam mê xác thịt bằng những lời ngon ngọt, bằng tất cả ngón nghề dụ dỗ của một kẻ nặng lòng ham hố.

Tình trung gian: Không phải hôn nhân nhờ may mối, Nhưng nhờ một “chất xúc tác” nào đó, nghĩa là người ta không nhắm đến tình yêu, người yêu cho bằng nhắm cái mà đối phương đang có. Người ta còn gọi kiểu trung gian này bằng nhiều tên như: tình đô la; tình Việt Kiều; tình vọng ngoại; tình đào mỏ… Nói tóm lại, đó là… tình vật chất.

Tình “cưỡi ngựa xem hoa”: Giới trẻ ngày nay thích sống thử. Lúc nào thích thì ở. Đến lúc chán, vứt áo ra đi. Đó là một loại “tình” không hề yêu. Không bao giờ có chuyện sống thử mà gọi là tình yêu. Kẻ nào bước vào hôn nhân mà chỉ là thử nghiệm, chắc chắn suốt đời, chẳng bao giờ trung thành với ai, trách nhiệm với cái gì. Vì đối với họ, tất cả chỉ là thử. Tình như thế, đúng là như người ta “cưỡi ngựa xem hoa”.

Những loại tình trên, gọi là tình cho… “oách”, thật ra, đó chỉ là những biến dạng, là lạm dụng ý nghĩa của hai chữ tình yêu. Ta phải coi đó là một thứ gian trá, là lừa đảo, làm băng hoại đời sống cộng đồng, là những kiểu tình chớp nhoáng, đáng phản đối.

Chúa Kitô đòi các môn đệ của Người hãy loại bỏ tất cả những thứ tình mang trá bên trên. Người môn đệ của Chúa hãy yêu bằng tình yêu cao cả, tình yêu hiến thân và hiến dâng. Đó là một thứ tình mà Chúa gọi là “điều răn mới”.

Vậy điều răn yêu thương mà Chúa gọi là mới, thì mới ở chỗ nào?

Mới, vì chính bản thân người dạy cũng là thước đo của tình yêu chúng ta. Có ai trong cuộc đời này dám nói: “Hãy yêu như tôi đã yêu”. Chỉ có mỗi một mình Chúa Giêsu dám khẳng định điều đó mà thôi.

Mới, là bởi tình yêu ấy đưa ta tới một chân trời kỳ diệu, huy hoàng và lớn lao: người trần thế, ngang qua tình yêu, tham dự vào vĩnh cửu, sống chính sự sống của Thiên Chúa.

Mới, bởi không có bất cứ tình yêu nào, ngoài tình yêu của Chúa, cho ta nếm hưởng hạnh phúc sung mãn và ơn cứu độ đời đời.

Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu tha thiết, một tình yêu mặn nồng, một tình yêu đã xóa hết mọi khoảng cách, dù cho những khoảng cách đó rất lớn: Thiên Chúa – con người; Đấng tạo hóa – thụ tạo.

Chúa đã yêu, tình yêu đã đưa Người đến sự từ bỏ và hiến dâng trọn vẹn. Bằng một tình yêu  đã xóa mọi khoảng cách, Chúa Kitô chấp nhận chia sẻ đến cùng kiếp người mong manh, yếu đuối của ta. Người đã lặn sâu trong kiếp người nhỏ bé ấy, để tất cả những gì làm nên sự sống của một con người cũng trở thành của chính Chúa Kitô.

Hoàn toàn trút bỏ, Chúa Kitô dạy ta bài học của sự từ bỏ là chấp nhận hiến dâng cuộc đời mình làm giá cứu chuộc chính mình và anh em quanh mình.

Bởi vậy, nếu Chúa đã chọn tình yêu làm lẽ sống cho mình, để qua tình yêu ấy, Chúa hạ mình từ trời cao hóa nên người dương thế, đã chấp nhận hiến dâng mạng sống, trao bao chính bản thân và cuộc đời như một quà tặng, thì môn đệ của Chúa là chính chúng ta, cũng được mời gọi xóa mình vì yêu. Có như thế, chúng ta mới thật là kẻ biết “yêu như Thầy”.

Vì thế, một khi đã chọn Thầy Giêsu làm mẫu mực và chuẩn mực để bước theo, tất cả những gì Thầy đã sống phải là lẽ sống, là hướng nhắm để đi tới của người môn đệ.

“Hãy yêu như Thầy đã yêu”. Chúa đã yêu như thế nào để tình yêu ấy trở thành chuẩn mực cho ta, đến lược mình, Ta phải yêu thế ấy để gọi là “yêu như Chúa yêu”.

Bạn ạ, Kitô giáo có nhiều dấu chỉ: thánh giá, nhà thờ, ảnh tượng… Nhưng chỉ có một dấu chỉ hữu hiệu để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, đó là: tình yêu của mình với anh chị em.

Dù cách biểu hiện tình yêu ấy vẫn không có gì mới, vẫn chỉ là: cảm thông, tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại… Nhưng cái cũ ấy lại được rọi chiếu từ tình yêu của Chúa Kitô, hiến dâng như Chúa Kitô, tha thiết, và đặt trọn tâm tình không một chút mảy may chấp nhất, thành kiến, vụ lợi…, đó là cái mới trong tình yêu của ta.

Vậy hãy học và hãy yêu bằng tình yêu Giêsu, để loại trừ những thứ tình chớm nhoáng, mang trá. Yêu bằng tình yêu Giêsu để làm mới tình yêu nhân loại. Yêu bằng tình yêu Giêsu để tình yêu nhân loại được thánh hóa, và được dự phần vào vĩnh cửu.

Về mục lục

.

YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU

Huệ Minh

Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại những tâm tư của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ trước khi Ngài bước vào cuộc thương khó. Giờ đây, sau khi Ngài trỗi dậy từ cõi chết và trước khi rời xa các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu một lần nữa nhắn nhủ các môn đệ những lời từ sâu thẳm cõi lòng: anh em hãy thương mến nhau.

Chúa Giêsu không nhắc nhở các môn đệ ghi nhớ điều gì khác, không phải là những điều Ngài đã giảng dạy, không phải là các phép lạ lớn lao, nhưng là điều liên quan đến chính nội tâm của từng người, đó là khả năng để yêu mến. 

Với điều răn “Anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (13,34), Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ ý muốn cuối cùng và di chúc của Người: Người sẽ nhắc lại thêm hai lần nữa (x. Ga 15,12.17).

Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy mộtcách thức theo đó Ngài sẽ tiếp tục hiện diện giữa các ông và Ngài quy định cách sống của các ông. Các môn đệ phải quy hướng bản thân về tình yêu của Ngài, là tình yêu mà mỗi ông đã trải nghiệm.

Trong tình yêu này, mỗi ông phải là Giêsu cho người khác, phải chấp nhận người khác, giúp đỡ người ấy, quan tâm đến điều thiện hảo của người ấy, như chính Chúa Giêsu đã làm. Như thế, các ông sẽ làm cho Chúa Giêsu hiện diện cho nhau trong cái đặc điểm tiêu biểu của Người: tình yêu. Các môn đệ được ngỏ lời với như là mộtcộng đoàn, các ông phải định hướng đời mình theo sự hiệp thông đời sống mà các ông đã có thể có với Chúa Giêsu.         

Chúa Giêsu không nghi ngờ lòng nhiệt thành của Phêrô, Ngài cũng không cần lo lắng về lòng trung thành của Giacôbê hay của Gioan, Chúa Giêsu đã từng khen ông Nathanaen là nơi ông “không có gì gian dối”, v.v. Chúa Giêsu hài lòng về nhiều đặc nét cá tính của môn đệ. Duy chỉ có một điều khiến Chúa Giêsu ưu tư là tương quan giữa các ông với nhau.

Chắc chắn Chúa Giêsu nhớ khi Ngài loan báo cho các ông về cuộc thương khó Ngài sắp trải qua, các ông lại lo tranh luận xem ai là người lớn nhất. Trong bối cảnh ấy, cũng dễ hiểu tại sao Chúa Giêsu chỉ căn dặn các môn đệ điều mà Ngài gọi là “điều răn mới”: “như Thầy đã yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy: là anh em có lòng yêu mến nhau.” (Ga 13, 34-35)

“Mọi gười cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”. Xin ban thêm đức tin và lòng yêu mến cho chúng con, để chúng con có thể thờ phượng Chúa với tâm tình biết ơn, chúc tụng Chúa hết con người chúng con. Để khi cảm nhận được những tình yêu Chúa, chúng con biết cho đi, biết chia sẻ những gì chúng con nhận được cho anh chị em chung quanh của chúng con, và như thế chúng con trở nên nhân chứng tình yêu Chúa cho mọi người.

Chúa Giêsu để lại cho các ông một mẫu gương của lòng yêu mến, đó là hãy yêu thương như Ngài, yêu thương hết lòng và yêu đến cùng. Khía cạnh thứ hai là chính ở dấu chỉ các môn đệ yêu mến nhau làm chứng cho người ta các ông là người của Chúa, là môn đệ của Thầy Giêsu.

Như vậy, tất cả những điều khác, dù quan trọng và hữu ích, nhưng nếu chưa có lòng yêu thương thực sự đối với nhau, hình ảnh người môn đệ có nguy cơ bị phai mờ, vai trò chứng nhân của Thầy Giêsu có thể không đủ thuyết phục. Yêu mến như Thầy trở thành khuôn mẫu và dấu chỉ cụ thể không những cho các môn đệ mà còn cho tất cả những ai bước theo Chúa.

Kinh nghiệm thực tế chỉ cho chúng ta rằng liên đới và yêu mến tha nhân là một thách đố lớn lao. Không dễ để đồng cảm với người bên cạnh và càng khó hơn để yêu thương những ai khác biệt hay thậm chí thù nghịch. Để yêu thương cần một con tim trong suốt và cõi lòng rộng mở. Con tim trong suốt để không lưu giữ những dấu vết ích kỷ và cõi lòng rộng mở để tha thứ không ngừng. Được như thế, ta mới có thể yêu mà không tính toán, thương mà không quản ngại khó khăn.

Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kô-bê Nhật Bản. khiến cho nhiều nhà cửa trong thành phố sụp đổ trở thành những đống gạch khổng lồ, gây thiệt hại rất lớn cho thành phố về người và của. Các đội cứu hộ ngày đêm làm việc khẩn trương để lôi ra từ những đống gạch đổ nát nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng cũng chính từ tai họa này, người ta đã khám phá ra một câu chuyện cảm động về một tình yêu hy sinh quên mình như sau:
          Đến ngày thứ hai của cuộc đào bới, thì từ dưới một ngôi nhà đổ nát, người ta đã đào lên được hai mẹ con vẫn còn sống thoi thóp. Đứa con nhỏ mới được vài tháng tuổi đang nằm ngủ yên trong lòng mẹ, đang khi mẹ của em lại bị hôn mê bất tỉnh.

Sau khi được cứu sống, một nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: “Làm thế nào mà hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia?”. Chị đáp: “Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may chúng tôi đã không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi khóc đòi ăn đang khi tôi chẳng còn giọt sữa nào. Tôi quờ quạng tìm xem có cái gì ăn cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi chạn vào một con dao sắc trong cái giỏ bên mình. Tôi cầm dao rạch một đường ở ngón cái cho chảy máu, rồi ấn ngón tay bị cắt vào miệng con để bú máu thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay của tôi được mươi phút thì cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi ngón tay khác và cho cháu bú. Sau đó tôi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi cả hai mẹ con được cứu sống”. Nhà báo tiếp tục hỏi: “Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ bị mất máu chết sao?” Chị ta trả lời: “Lúc ấy, tôi không nghĩ đến mình, mà chỉ lo kiếm cái gì cho con bú để nó được sống!”.

Để yêu thương cần một con tim trong suốt và cõi lòng rộng mở. Con tim trong suốt để không lưu giữ những dấu vết ích kỷ và cõi lòng rộng mở để tha thứ không ngừng. Được như thế, ta mới có thể yêu mà không tính toán, thương mà không quản ngại khó khăn.

Ước gì lời nhắn nhủ yêu thương của Chúa cho các môn đệ được chúng ta thuộc lòng, khi chứng kiến chúng ta bày tỏ lòng thương mến anh chị em đồng loại, nhìn ra tình yêu của Chúa tiếp tục hiện hữu và người môn đệ của Chúa không ngừng bày tỏ Ngài cho thế giới. Xin Chúa Giêsu phục sinh thánh hoá chúng ta trong lửa mến để tình yêu thương không bao giờ vơi cạn nơi con tim nhỏ bé của chúng ta nhờ biết mở ra với tình yêu vô hạn của Chúa.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU CĂN CỨ VÀO THẬP GIÁ

Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, tình yêu đơn thuần tưởng chừng ai cũng có thể hiểu, đó là tình yêu qua lại giữa hai người. Người ta thường nói : “Có qua , có lại, mới toại lòng nhau ”. Có nghĩa là định nghĩa tình yêu đơn thuần phải là “có qua, có lại”, nghĩa là hôm nay : Anh giúp tôi, mai tôi giúp anh. Anh cho tôi chiếc bánh, tôi phải trả lại anh chiếc kẹo. Nếu không như vậy, thì không phải là “tình yêu”. Như vậy, tình yêu , mà dựa vào sự có qua có lại theo ý nghĩa vật chất, đó là “TÌNH BẠN HỮU”, gọi là “AGAPE”. Theo đó, tình yêu ấy vẫn tốt đẹp, nhưng chưa đạt đến sự trọn lành.

Còn tình yêu nam nữ, trai gái, vợ chồng, vượt trên tình ” bạn hữu “ một chút là tình yêu qua lại giữa “thân xác” với nhau. Điều nầy cũng là một tình yêu tốt lành, bởi vì nó cũng được dựng nên bởi Thiên Chúa, nó cũng nằm trong yếu tố tình yêu. Tình yêu nầy phổ quát hơn, thuần túy hơn, được gọi là “ EROS” nghĩa là quan hệ tính dục. Tình yêu nầy tạo nên sự gắn bó hôn nhân , gia đình, tạo nên xã hội con người. Được chúc phúc, tức được thánh hóa, được nâng lên hàng Bí Tích , đó là Hôn Nhân Công Giáo. Căn cứ vào điều ấy, nếu ngược lại, thì tình yêu “eros” sẽ bị lạm dụng, tức phạm tội. Qua Bí Tích Giải Tội tùy theo mức độ vẫn được Thiên Chúa tha thứ qua Giáo Hội của Người. Như vậy, tình yêu “EROS”, nếu được nằm trong ân sủng thì tình yêu” EROS” vẫn là tình yêu tốt lành. Còn nếu thánh thiện , thì tùy vào trường hợp cụ thể.

Như vậy, chúng ta thấy, hai tình yêu nêu trên được gọi là phổ quát hay thuần túy, đều tốt đẹp, nếu nó nằm trong “trật tự”. Vâng , “TRẬT TỰ ” có nghĩa là ”giới luật ”. Nhưng, nếu chỉ có hai loại “tình yêu” nầy, thì cũng bình thường thôi, bởi vì tình yêu thuần túy mà.

Vâng, thưa quý vị, tình yêu thuần túy có nghĩa là chưa đặt nền tảng trên “Tôn Giáo”. Tình yêu thuần túy là tình yêu mà mọi người, hay là quyền làm người phải có, phải biết, không cần phải nói.

Nhưng còn một thứ “TÌNH YÊU” thứ ba là gì? Thưa, đó là “ TÌNH YÊU CỦA ĐỨC KITÔ”. Vâng,  khi xác tín Tình yêu của Đức Kitô, là ”tình yêu” ấy không dựa vào tình yêu thuần túy tự nhiên nữa, mà là một tình yêu “tự hiến “ siêu nhiên, đó là tình yêu bởi Thập Gía. Tiêu chuẩn tình yêu nầy là căn cứ vào Thập Gía của Đức Kitô. Khi Chúa Giêsu để lại tình yêu nầy cho môn đệ, rồi đến cho giáo hội và nhân loại. Tình yêu nầy, Người cũng muốn cho phổ quát, đó là ”ơn cứu độ” của Thiên Chúa. Nhưng. “TÌNH YÊU” nầy đòi hỏi cao hơn, tuy là phổ quát, nhưng không dễ đạt được, bởi vì tiêu chuẩn của nó là “ tự hiến” đôi lúc cảm thấy “đơn phương” tuyệt vọng. Bởi vì hành trình của tình yêu “tự hiến” là “HÀNH TRÌNH THẬP GIÁ”. Tình yêu bởi Thập Gía, mặc nhiên phải là hành trình Thập Gía. Hành Trình Thập Gía là hành trình bước theo Đức Kitô, Người nói: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Tôi. Vì ai yêu mạng sống mình vì đời nầy thì sẽ mất. Còn ai tự hiến mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ được mạng sống muôn đời” ( Mt 10, 38 -39)(Lc 14, 27)

Như vậy, tình yêu mà Chúa Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 13, 31 -33a; 34- 35) là tình yêu gì ? ! Há chẳng phải là “Tình Yêu bởi Thập Gía “ hay sao?!

“Thầy để lại cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” ( c 34). Tình Yêu ấy há không phải dựa trên tiêu chuẩn của ”THẬP GIÁ” hay sao? “ NHƯ THẦY ĐÃ YÊU ”, chứ không phải như “phàm nhân đã yêu”. Như vậy, tình yêu của Đức Kitô là tình yêu là “tình yêu” như thế nào? Thưa, đó là “tình yêu” cho đi không đòi đáp trả, là “TÌNH YÊU THẬP GIÁ”.

Vâng, thứ tình yêu ấy được gọi là “PHILIA” là “Tinh yêu anh em” “brotherly love”. Tình anh em là tình không tính toán, bởi vì như : ”Chúa Cha đã yêu thương Thầy như thế nào, thì Thầy cũng yêu thương anh em như vậy “. Thật vậy, tình Philia là yêu cho đi không tính toán, không so đo, không cân đong, đo , đếm. Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Người phải yêu nhau như thế, yêu như Chúa yêu, chứ không phải yêu như “phàm nhân yêu nhau”. Yêu như Thầy Kitô  đã yêu là dùng tiêu chuẩn Thập Gía, Thập giá của Đức Kitô là thước đo của tình yêu tự hiến.

Tình yêu “Philia” là tình yêu anh em ruột thịt của “con “cùng một Cha trên trời. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh, tình chất của “Philia” để giáo huấn, để truyền đạt một thứ “TÌNH YÊU” vô vị kỷ, vô vị lợi cho nhân loại biết rằng: Tình Yêu đích thực là tình yêu “Con cùng một Cha trên trời”. Mặc nhiên, tình yêu ấy khác với hai thứ tình yêu “thông thường” của phàm nhân. Vâng, chúng ta thấy, các tôn giáo khác Kitô giáo, họ cũng có thứ tình yêu : “Từ Bi” “Hỷ Xả” . Nhưng, là chung chung, có nghĩa là nhìn thấy tha nhân”khổ” họ cũng giúp, “đói” họ cũng cho cơm ăn. Nhưng, để ”xả thân, vị tha ” ( vì người khác), như các tu sĩ công giáo, thì rất hiếm. Bởi vì, họ không có , không biết ”Thập Gía” của Đức Kitô.

Vâng, “Mến Thánh Gía” không phải là  một cụm từ theo “cảm tính thông thường”, là môn đệ của Đức Kitô thì tôi phải mến Thánh Gía. Vâng, điều ấy chỉ đúng một phần, còn điều chính yếu là tôi phải biết “ nhận lấy” Lời  “DI  HUẤN “ trong Tin Mừng thánh Gioan (Ga 13, 31 -38), bởi vì đây là “Những Lời Di Huấn sau cùng” của Đức Kitô.

Năm Kính LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT 2016 là năm để gợi nhớ, suy niệm sâu sắc hơn về LÒNG TỪ BI CỦA THIÊN CHÚA. Không những Chúa Giêsu tỏ hiện ra cho các thánh, mặc khảỉ về “một tình yêu” tự hiến hoàn toàn của Người, mà là Người muốn lập lại nhiều lần “Di Huấn” “TìNH YÊU THẬP GIÁ”, một thứ tình yêu “duy nhất” mà nhân loại cần đến, mà các tôn giáo khác không thể có được là : “Thầy truyền cho anh em, một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, NHƯ THẦY ĐÃ YÊU thương anh em”. Vâng, chỉ có nơi “Kitô giáo” mà thôi. Vâng, đó là “tình anh em ruột thịt”, chứ không phải là tình ”EROS” hay là “AGAPE”.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã đến thế gian để Sống, để Yêu và để chết, rồi Phục Sinh. Xin cho phàm nhân nhận ra chân lý tình yêu nơi Chúa mà thực thi, hầu dẫn đưa họ về bên Chúa là Đấng TÌNH YÊU muôn thuở vì TỰ HIẾN vô vị lợi vì nhân loại, để minh chứng tình nơi Chúa là Philia ./. Amen

Về mục lục

.