Lời Chúa Năm A Các bài suy niệm Chúa Nhật 5 Phục Sinh_ A

Các bài suy niệm Chúa Nhật 5 Phục Sinh_ A

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH – Năm A

Lời Chúa: Cv 6,1-7; 1Pr 2,4-9; Ga 14,1-12

———

Mục lục

1. Tìm một lối đi  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Lối đi nào cho kiếp người (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Đường sự thật, sự sống (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Xin cho con biết Chúa (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Con đường Chúa đi  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Theo Chúa là đường, là sự thật và là sự sống (Lm. Trần Bình Trọng)

7. Thanh nhàn  (Lm. Vũ Đình Tường)

8. Chúa Giêsu là đường là sự thật và là sự sống (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

9. Vững chí  (Trầm Thiên Thu)

10. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 5 PS_A  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Mục lục

1. Nhà Cha Thầy (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đường Giê-su  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Cuộc trò chuyện thân mật  (Anna Cỏ May, Thanh tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

4. Đường Giêsu  (Bông Hồng Nhỏ, Thanh tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

5. Thầy là Đường   (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

6. Ai biết tôi là biết Chúa Cha  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

7. Sống hiệp thông trong Giáo hội   (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

8. Thiên Chúa của Đức Giêsu  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Biết và thấy Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

10. Mệnh lệnh phủ định  (Trầm Thiên Thu)

11. Tại sao Đức Giêsu lại căn dặn các môn đệ “Đừng xao xuyến” (Tu sĩ Jos. Ngọc Biển, SSP)

12. Hãy tin tưởng vào Chúa  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

13. Cùng đích  (Lm. Trần Việt Hùng)

14. Trở nên chân dung đẹp của Chúa Giêsu   (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

15. Người là Con Đường  (AM. Trần Bình An)

16. Con đường Giêsu (JM. Lam Thy, ĐVD)

17. Chết sẽ về đâu?   (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

18. Hãy tin Thầy (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

19. Đừng sợ hãi  (Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng)

20. Chúa Giêsu củng cố đức tin cho chúng ta (P.Trần Đình Phan Tiến)

21. Đường đến Chúa Cha (Giêrôrimô Nguyễn Văn Nội)

22. Đức Giêsu mạc khải sự thật về Chúa Cha   (Lm. Đan Vinh – HHTM)

23. Suy niệm Chúa Nhật 5 Phục sinh_A  (Lm. Anthony Trung Thành)

24. Vượt qua chướng ngại (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

25. Lòng anh em đừng xao xuyến (Fx. Đỗ Công Minh)

26. Thiên Chúa trong Đức Kitô – Đức Kitô trong mọi người  (Lm. Giuse Nguyễn)

27. -Chúa Nhật 5 Phục sinh_A  (Lm. Antôn)

 

TÌM MỘT LỐI ĐI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Phụng vụ của mỗi Chúa nhật Phục sinh diễn tả một khía cạnh về sứ mạng của Chúa Giêsu: Chúa nhật thứ nhất, chúng ta cùng với Giáo Hội khẳng định: Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết. Chúa nhật thứ hai, Chúa phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta, mặc dù chúng ta không thấy Người. Chúa nhật thứ ba, Đấng Phục sinh đang đồng hành để khơi lên niềm hy vọng nơi những người bi quan, chán chường, cụ thể là hai môn đệ trên đường Emmaus. Chúa nhật thứ bốn, Đấng Phục sinh đang hướng dẫn chúng ta như một mục tử, để đưa chúng ta đến bến bờ của hạnh phúc. Chúa nhật hôm nay, tức là Chúa nhật thứ năm, Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống.

Đường, Sự thật, Sự sống. Đó là ba yếu tố quan trọng làm nên căn bản của cuộc sống con người. Ai trong chúng ta cũng phải tìm cho mình một lối đi. Đó là định hướng cho một đời người. Ai trong chúng ta cũng phải sống theo sự thật, vì sự thật giải phóng con người và làm cho con người trở nên quang minh chính đại. Đi ngược lại với sự thật là sự dối trá mưu mô. Ai trong chúng ta cũng cần đến sự sống. Không chỉ sự sống phần xác mà còn sự sống thiêng liêng. Nhờ sự sống thiêng liêng mà chúng ta có tình yêu, hạnh phúc trong cuộc đời. Như thế, Đường, Sự thật và Sự sống làm nên vẻ đẹp của cuộc sống chúng ta và làm cho cuộc đời này có ý nghĩa.

“Thầy là Đường”. Trong lịch sử cũng như trong hiện tại, chưa có ai tuyên bố tự tin như thế. Hình ảnh con đường mang rất nhiều ý nghĩa đối với cuộc sống chúng ta.

Mỗi người, khi bắt đầu biết suy nghĩ, thì đã lo chọn cho mình một con đường, tức là một định hướng cho tương lai. Đó là định hướng về nghề nghiệp, về tình yêu, về phong cách sống, về nơi ăn chốn ở, về các mối quan hệ. Khi xác định được một con đường, họ cứ thế mà bước theo. Những chuyên viên tâm lý kết luận rằng, ở độ tuổi từ 25 đến 30 là lúc một người trẻ phải xác định được hướng đi cho tương lai cuộc đời. Nếu ở tuổi 30, tức tuổi “tam thập nhi lập” mà không trả lời được hỏi: đâu là định hướng tương lai của đời bạn? thì người đó khó mà có một tương lai tốt đẹp. Người ở tuổi 30 mà không chủ động chọn cho mình một định hướng, thì sẽ rơi vào lối mòn, bỏ mặc cho cuộc sống đưa đẩy về một tương lai vô định.

Con đường nào cũng có một đích điểm. Con đường Giêsu dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. “Lòng anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thày…. thày đi để dọn chỗ cho anh em”. Chúa Giêsu đã “đến đích” của con đường, tức là đến với Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ cho chúng ta trong nhà Cha trên trời. Đích điểm của con đường này, cũng là đích điểm của cuộc đời người tín hữu, đó là hạnh phúc viên mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa.

Con đường nào cũng nhiều thử thách gian nan. Người đi trên con đường có tên Giêsu phải chấp nhận qua cửa hẹp. Quả vậy, cửa rộng thênh thang thì dẫn tới hư hỏng. Chẳng có chiến thắng nào mà lại không trải qua đau khổ. Chẳng có vành nguyệt quế nào mà không qua tập luyện dày công. Con đường Giêsu cũng là con đường thập giá. Tuy vậy, thập giá không phải là chặng cuối của con đường. Chặng cuối của con đường là Phục sinh. Đi trên con đường Giêsu là chấp nhận những đề nghị của Người. với xác tín “qua thập giá tới phục sinh, qua đau khổ tới hạnh phúc”. Trong hành trình theo Chúa, có những khó khăn, hạn chế và ràng buộc. Tuy vậy, như “lửa thử vàng, gian nan thử đức”, những ràng buộc ấy giúp con người trưởng thành và tôi luyện để kiên trung vững vàng hơn.

Trong một cuộc hành trình, người bi quan chỉ nhận ra những vất vả gian nan; người lạc quan lại cảm nhận hạnh phúc dâng trào, vì mỗi bước đi là đang thu ngắn khoảng cách và gần tới đích. Hành trình theo Chúa cũng là hành trình Đức tin và hành trình cuộc đời. Chúa Phục sinh đang đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình này. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus đã minh chứng cho chúng ta: vào lúc bi quan chán nản và đau thương nhất, Chúa đến để cùng đi và nâng đỡ chúng ta. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy nhận ra Đức Giêsu là lý tưởng của chúng ta. Như viên đá bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu đã trở nên đá góc tường, là phiến đã chịu lực, đỡ nâng tòa nhà và bảo đảm cho sự vững chắc của tòa nhà ấy. Vì thế, hãy nhận ra vinh dự tuyệt vời mà Chúa ban cho chúng ta qua Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ nhờ Bí tích này mà chúng ta được gọi là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa. Những khái niệm này thật lớn lao vĩ đại, làm cho chúng ta – những con người trần mắt thịt – trở nên như những thần linh (Bài đọc II).

Nhờ sự hiện diện của Đấng Phục sinh, số người tin Chúa không ngừng tăng trưởng. Giáo Hội từ thời sơ khai ấy cho đến hôm nay, vẫn đang cố gắng thể hiện hình ảnh của Đấng Phục sinh giữa đời (Bài đọc I). Không chỉ bảy người được trao sứ vụ phục vụ bàn (sau này được gọi là Phó tế), nhưng mỗi tín hữu đều được trao vinh dự loan báo Đức Giêsu.

“Lòng anh em đừng xao xuyến”.  Chúa nói với chúng ta như thế, trong lúc chúng ta đang hoang mang hoảng sợ vì đại dịch COVID-19. Quả thật, nếu vững tin vào Chúa thì còn có gì làm chúng ta lo sợ. Hãy vững tin vào Chúa. Hãy tìm một lối đi dẫn đưa tới bến bờ hạnh phúc. Lối đi ấy có tên là Giêsu. Người là  Đấng Cứu độ chúng ta.

Về mục lục

LỐI ĐI NÀO CHO KIẾP NGƯỜI

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Đời người lẽ thường là phải theo lộ trình của sinh – lão – bệnh – tử. Tuy nhiên, cũng có người không đi hết lộ trình mà đi đường tắt chỉ sinh rồi tử. Đó là lý do người ta nhìn đời là phù du, là cõi tạm, kiếp nhân sinh cũng chỉ là tro bụi một mai cũng trở về bụi tro.
Có một  bài hát quen thuộc với giai điệu rằng:

“Người ơi hãy nhớ ta là cát bụi.
Sẽ về cát bụi thì xin đừng toan tính thiệt hơn.
Đời như thoáng mơ được mất ta đâu ngờ
Hỏi ai có bao giờ không trở về cát bụi đâu.

Sống để làm gì và chết rồi đi đâu vẫn là bài toán nan giải cho kiếp người chúng ta. Ai mà không biết sống tức là đang đi về cõi chết, nhưng chết rồi sẽ về đâu? Thân xác về cát bụi nhưng linh hồn sẽ về đâu?

Một bạn già nói với bạn mình: “Tôi sợ rằng chúng mình đều gần đất xa trời rồi, kiếm chỗ nào đi chơi cho thoải mái”. Người kia vui vẻ nói: “Theo mình nghĩ là chết là bỏ đất mà về Trời thì tụi mình xa đất gần  Trời mới đúng”.

Theo niềm tin ky-tô gíao thì chết là bỏ đất mà về trời. Bỏ cát bụi về chốn thần thiêng. Bỏ cõi tạm về cõi vĩnh hằng. Bỏ tham sân si để sống thanh thoát bình an. Bởi vì, quê hương đích thực của chúng ta là Nước Trời và cuộc sống chúng ta hôm nay đang hết lòng hướng về đó để có sự sống vĩnh cữu và hạnh phúc viên mãn với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, đâu là con đường, là cách thế thật sự để chúng ta đạt tới đích này.

Qua Chúa Giê-su đã cho chúng ta biết con đường về Trời, về nơi mà Ngài đã hứa rằng:“Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.

Tuy nhiên, để bước vào cõi Trời và thông hiệp sự sống thần linh của Thiên Chúa thì ngay từ đời này con người cần phải sống theo thánh ý và giáo huấn của Chúa.

Chúa Giê-su trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Ngài đã sống trọn vẹn 2 chữ yêu. Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì yêu nhân loại mà Ngài đã hy sinh chịu chết để cứu chuộc con người trở về làm con cái Thiên Chúa.

Là người ky tô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giê-su. Đường tình yêu là con đường duy nhất để về Trời. Và Ngài còn nhấn mạnh chỉ những ai thực thi huấn lệnh yêu thương mới là môn đệ đích thực của Thầy Giê-su: “Căn cứ điều này để người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.

Nguyện xin Chúa Giê-su Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Xin Người chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và gieo rắc tin mừng yêu thương đến tận cùng thế giới. Amen

Về mục lục

ĐƯỜNG SỰ THẬT, SỰ SỐNG

Lm Giuse Hoàng Kim Toan.

Đường mỗi người đang đi có thể là đường sự sống nhưng cũng đầy đường của sự chết. Con đường của sự chết do chỉ thích đi con đường của mình, càng đi càng lầm lạc, càng thấy đau khổ và bóng tối. Thánh Tôma hỏi Chúa Giêsu: ‘Làm sao chúng con biết đường đi” (Ga 14, 1 – 12)

Đường đi của cá nhân.

Con đường đi tự mình quyết định, xem ra thật đúng đắn và tự chủ. Thế nhưng, đường đi đâu dễ gì bằng phẳng như mong muốn. Phan Bội Châu trải qua nhiều đoạn đường gian nan, nói lên rằng: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Vì đường đi mỗi người không giống nhau, mỗi người có thể cứ loay hoay mãi giữa cuộc đời, bước đi mà chẳng biết đi đâu; hoặc có cố gắng bước đi trên đường đã hoạch định mà cứ hoài thất bại, vấp ngã. Đó là đường đời, con đường nội tâm bất trắc còn hơn nhiều, thất bại về chính mình với những lần sa ngã, với cả những con đường tưởng sống thiêng liêng cao cả mà rốt cuộc chẳng gặt hái được gì, không thấy mình lớn lên trong ân sủng, cứ giống như đứa trẻ khóc đòi những gì mình muốn cho được.

Vết thương do tự mình gây ra.

Đi tìm mình nhưng lại tùy thuộc vào cái bên ngoài, thật sự là  một điều tự gây thương tích cho mình. Theo các nhà tâm lý xuyên bản ngã, người nào tự mình muốn dập tắt lo âu lại thường gặp những lo âu khác, càng muốn giải quyết trở ngại thì lại gặp những trở ngại khác. Thư thánh Phêrô chỉ ra nguyên nhân: “cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” (2 Pet 1, 4). Con người chỉ tùy thuộc vào trần gian, lấp đầy những trấn an cho mình bằng những mua sắm như Pascal Bruckner nói: “Sự tiêu thụ là một sản phẩm tôn giáo được chế xuất, là tin vào sự phục hồi vô biên của sự vật, mà hội thánh là siêu thị, tin mừng là quảng cáo”. Không thể tự lấp đầy cho mình được sự bình an, niềm vui, đích thực, nên luôn cần tự sướng bằng cách khoe những gì sở hữu bằng mua sắm, thích được nhiều view, nhiều like…

Khinh chê trần gian, cho mọi sự vật trần gian là xấu, là dịp tội. Điều ấy cũng rất thường xuyên ở đời sống người tu sỹ hay người tín hữu nhiệt thành. Thật ra, những khinh thường đó cũng để che khuất góc tối đời mình. Vì thiếu vắng sống sự sống của Thiên Chúa ngay trong đời sống tu đức, đạo hạnh; nên chính mình lấy đời sống thiêng liêng, đạo đức để sống ảo, tự sướng, đánh bóng mình, thỏa mãn những dục vọng thầm kín.

Trở về với Chúa Giêsu là đường là sự thật và là sự sống.

Chúa Giêsu đến và ở lại trong mỗi người, điều đó Thánh Phaolô như nhắc nhở: “Tôi sống, không phải tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2, 20). Khi sống như thế Thánh Phaolô  “Tôi coi mọi sự như phân tro, để chỉ mong được lời lãi Tình yêu Chúa Kitô” (Pl 3, 8). Một cái nhìn rất tốt đẹp trên mọi nẻo đường đi khi đường đi ấy có Chúa. Đôi khi, như hai môn đệ trên đường Emmau, dù không nhận ra Chúa đang cùng đi với họ, nhưng Lời Chúa bên họ cũng làm cho lòng họ an vui. Dù khi cuộc đời người tín hữu, bước đi trong buồn nản, nếu cùng gẫm lại Lời Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn, giảng giải, cũng sẽ nhận ra Chúa Giêsu Kitô, Người đang sống với con người trong mọi nẻo đường.

Niềm vui ở nơi Chúa, tất cả là do Chúa tác tạo, mọi sự là hồng ân. Đó là một niềm vui biết mình đang được thông phần với Chúa trên mọi nẻo đường, lúc vui, khi buồn, khi thành công; lúc thất bại, lúc xao xuyến cũng như lúc bình an. Chúa Giêsu Kitô là niềm vui của sự sống, niềm vui của con đường hành trình và để xác tín lại một lần nữa: “Bỏ Ngài con biết theo ai, Thầy mới có Lời ban sự sống” (Ga 6, 68)

Tìm biết Chúa mỗi ngày và “xin Chúa ở lại với con vì trời đã về chiều” ( Lc 24, 13 – 35) để được cùng sống với Chúa, cùng Chúa và gặp được Chúa sống trong con.

Về mục lục

XIN CHO CON BIẾT CHÚA

Bông hồng nhỏ

          Mỗi người đều mang trong trái tim mình nhiều ước mơ, có những ước mơ cháy bỏng những khát khao. Theo Thầy Giêsu, các môn đệ cũng mang trong lòng những khát khao. Hôm nay, ông Philípphê đã thưa với Thầy Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14, 8). Ông đã thay mặt các anh em khác nói lên nỗi khát khao này.

          Chính Thầy Giêsu đã khẳng định điều này: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14, 7). Nghe lời ấy, ông Philípphê mới ngỏ ý xin cùng Thầy, Thầy đáp lại rằng: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Ga 14, 9). Mới nghe điều đó, ta cũng đã hết sức ngạc nhiên. Ông Philípphê xin Thầy tỏ cho biết Chúa Cha, vậy mà Thầy Giêsu lại trách ông chưa biết Người. Thầy Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9b). Nếu chỉ dừng lại bằng cái nhìn của tự nhiên, bằng kinh nghiệm của mình, ta cũng chỉ hiểu lờ mờ rằng, Thầy Giêsu có diện mạo rất giống Chúa Cha, đến nỗi chỉ cần nhìn thấy Thầy, ta có thể hình dung ra khuôn mặt và vóc dáng của Cha Người. Cũng giống như bao lần về quê nội chơi, ta nghe thấy mấy người lạ vui vẻ  bắt chuyện: “Con bố Hưng về chơi à!” Điều đó cũng khiến ta thầm hiểu rằng mình rất giống bố.

Lắng nghe tiếp Lời của Thầy, ta lắng nghe được tâm tư và cảm nhận được nỗi khát khao đang cháy bỏng của Người: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14, 11). Hai nỗi khát khao tìm kiếm và gặp gỡ nhau. Khát khao của con người được nỗi khát khao của Chúa Giêsu thánh hóa. Người môn đệ khát khao mong được gặp Chúa Cha cho lòng mãn nguyện đã gặp thấy nỗi khát khao của Thầy Giêsu, Người mong mỏi các ông tin vào Người, tin rằng “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14, 11). Đây là một mầu nhiệm đức tin. Bằng thái dộ vâng phục của đức tin, ta mới có thể đón nhận mầu nhiệm ấy bằng chính cả cuộc sống và con người mình. Bằng ân sủng và sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, mầu nhiệm đức tin ấy sẽ dần dần biến đổi cuộc sống của ta. Mỗi ngày ta hãy xin Chúa “xin cho con biết Chúa”, biết Chúa hơn để yêu mến Chúa hơn.

          Chúa Giêsu và Chúa Cha nên một trong Thánh Thần tình yêu. Ai ở trong Chúa Giêsu, lắng nghe và thực hành giới răn yêu thương của Người cũng sẽ được trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Hãy để cho tình yêu của Chúa Giêsu biến đổi tâm hồn ta và hãy đến gần Người hơn nữa, để Người dạy cho ta biết yêu như Người đã yêu, để nhờ được ở với Người, ta cũng được Người bày tỏ chính mình cho ta. Đó là hạnh phúc lớn lao của người môn đệ.

          Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con cảm nhận được nỗi khát khao của Chúa. Khát khao của Chúa làm cho khát khao trong con được diễn tả thành hành động, hành động của một đức tin mỗi ngày một lớn lên. Mỗi ngày Chúa vẫn hỏi con: “Thầy ở với con bấy lâu, thế mà con chưa biết Thầy ư?”. Đây quả là một lời mời gọi con tiến đến gần Chúa hơn và giúp con nhìn lại chính mình và sám hối. Xin cho con càng yêu mến Chúa, càng hiểu biết Chúa hơn nữa; càng hiểu biết Chúa lại càng yêu mến Chúa. Amen.

Về mục lục

CON ĐƯỜNG CHÚA ĐI

Anna Cỏ May

Khi muốn đến với ai đang ở xa hay đến một nơi nào đó, trước tiên chúng ta phải biết đường đi và địa chỉ nơi ở. Tuy nhiên, điều đó cũng không làm cho chúng ta cảm thấy khó khăn trong việc tìm đường. Vì chúng ta đã có phương tiện hữu ích là Internet. Chúng ta chỉ cần gõ tên đường, địa chỉ nơi ở là sẽ được hướng dẫn đi đến tận nơi. Đó là việc tìm đường đi ở thế gian. Còn đường đi đến Nước Trời thì sao?

Ông Tôma, sau khi nghe những lời nhắn nhủ yêu thương của Thầy, đã nói: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,5). Câu hỏi của ông không hẳn là sai, vì ông thuộc về thế gian nên chỉ biết hỏi chuyện ở thế gian (x Ga 3,31). Ông nghĩ rằng muốn đến với Thầy phải biết đường đi và chỗ ở của Thầy. Ông chỉ dừng lại ở việc nghe lời Thầy nói nhưng chưa hiểu ý cũng như ước mong của Thầy. Chúa Giêsu không lấy vậy làm buồn. Ngài đáp lại ông: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6a). Con đường Chúa Giêsu nói tới là con đường cuộc đời của Ngài. Ngài mời gọi các ông hãy sống lại cuộc đời của Ngài, là sống trong sự thật và tiếp nối con đường Ngài đi, đó là con đường tình yêu. Vì không ai đến với Chúa Cha mà không qua Ngài (x. Ga 14,6b). Con đường của Ngài không có địa chỉ, vì Ngài đi khắp nơi, đến tận cùng trái đất rao giảng Tin Mừng và yêu thương hết mọi người. Con đường của Ngài cũng không có ngã ba hay ngã tư, mà chỉ một con đường thẳng, không xen đường gian dối. Tên con đường của Ngài là con đường tình yêu, tình yêu thì luôn có sự đau khổ và sự hy sinh, hy sinh cả tính mạng của mình. Chính Ngài đã yêu Chúa Cha và nhân loại bằng việc đón nhận sự sỉ nhục cho đến chết và chết trên thập giá. Bài hát “Đường thập giá” của tác giả Giang Ân đã nói về con đường Ngài đã đi qua. Đó là con đường mang tên thập giá. Những ai yêu Chúa và theo Chúa cũng phải đi qua con đường đó mới có thể vào Nước Trời mà đến với Chúa Cha.

Ngày nay, chúng ta không thấy Ngài bằng con mắt xác phàm để đi theo và sống lối sống của Ngài. Chúng ta sẽ dùng đôi mắt đức tin để gặp thấy Ngài trong Bí tích Thánh Thể và các Bí tích khác. Chúng ta dùng đôi tai đức tin để nghe lời Ngài qua Kinh Thánh và để Thần Khí Chúa hướng dẫn chúng ta sống cuộc sống của Chúa qua các mối phúc, các điều răn và các giáo huấn của Hội Thánh. Đó là những kho tàng và đường lối Chúa Giêsu đã để lại cho tất cả mọi người bước đến Nước Trời.

Đức Cha Pierre Lambert de la Motte đã gửi  một Bức Tâm Thư cho các nữ tu Mến Thánh Giá. Trong thư ngài viết: “Mục đích chính của Tu hội các con là tiếp nối nơi bản thân mình cuộc đời đau khổ của Chúa Giêsu Kitô và hằng ngày dâng việc suy gẫm cầu nguyện của các con, nước mắt của các con, các việc làm của các con và các hy sinh của các con, để cầu xin Người ban cho lương dân và những Kitô hữu bất hảo được ăn năn trở lại. Nhưng điều hết sức quan trọng là phải thực hành mọi việc thay cho Chúa Giêsu Kitô” (Btt 8-9). Là Kitô hữu, đã chịu Bí tích Rửa tội, chúng ta đã từng nghĩ đến con đường của Chúa chưa? Chúng ta đã và đang bước đi trên con đường như thế nào? Nếu chúng ta chưa để ý hay chưa bước đi trên con đường của Chúa thì đây là lúc chúng ta bước đi, đặc biệt là trước đại dịch Corona này. Chúng ta sẽ bước đi trong lời mời gọi yêu thương của Chúa là anh em hãy yêu thương nhau (x.Ga 15, 12). Chúng ta hãy chia sẻ của cải cho nhau và cùng nhau cầu nguyện. Chúng ta hãy tha thứ và nâng đỡ nhau vượt qua khó khăn, cùng bảo vệ mội trường mà chúng ta đang hiện diện. Nhờ đó, không chỉ có chúng ta bước đi trên con đường của Chúa mà cả những người nhận được sự yêu thương từ chúng ta, chính họ cũng đang tiến bước đến cuộc sống hạnh phúc trong Nước Trời.

Lạy Chúa! Chúa là con đường để chúng con bước đi. Xin cho mỗi người chúng con luôn vững tin vào Chúa trên con đường tình yêu, một con đường không thiếu những đau khổ nhưng đích đến là cuộc sống vĩnh cửu. Amen.

Về mục lục

THEO CHÚA LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG

Lm Trần Bình Trọng

Lời giã từ của Chúa Giêsu, để lại cho các tông đồ cảm giác lo lắng và sợ hãi. Vì thế trong Phúc Âm hôm nay Chúa dùng những lời lẽ khích lệ để an ủi và trấn an các ông:

Lòng các con đừng lo lắng bối rối. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa và hãy tín nhiệm nơi Thày (Ga 14:1). Qua các tông đồ, Chúa cũng muốn ta đặt tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Chúa, vào chương trình quan phòng và cứu rỗi của Chúa.

Phó thác là điều mà ta có thể học được qua kinh nghiệm sống. Khi phải đương đầu với những khó khăn và vấn nạn của cuộc sống, ta cảm thấy như Chúa đi vắng. Nhiều người phải gặp cảnh lo âu, đau lòng và trắc trở trong cuộc sống. Ðứng trước những vấn nạn và trắc trở của cuộc sống, ta tự hỏi tại sao Chúa để gian nguy, khốn khó xẩy đến cho bản thân và gia đình ta? Tuy nhiên nếu nhìn sự vật bằng con mắt đức tin, ta sẽ thấy những cảnh gian nguy, khổ cực có thể là những thử thách làm tăng triển đời sống đức tin. Nhìn bằng con mắt đức tin, những khó khăn trắc trở của cuộc sống sẽ giúp ta xích lại gần Chúa trong lời cầu nguyện.

Từ giã các tông đồ về Trời, nhưng Chúa không bỏ rơi họ, mà vẫn ở lại với các tông đồ bằng ơn thánh, bằng sức mạnh thiêng liêng. Chúa còn hứa: Thày sẽ trở lại đón các con về cùng Thày, để cốt cho Thày ở  đâu, các con cũng được ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi (Ga 14:3-4).

Ðến đây Thánh Tôma liền thắc mắc là ông không biết đường. Chúa Giêsu đáp: Thày là đường, là sự thật, và là sự sống (Ga 14:6). Ðọc Thánh kinh, người ta thấy ông Tôma là người thực tế và có óc thực tiễn. Lần khác các tông đồ cho hay Chúa đã phục sinh và hiện ra với các ông, ông Tôma nhất định không tin. Ông đòi phải xỏ ngón tay vào lỗ đinh và cạnh sườn Người, ông mới tin. Vấn nạn của thánh Tôma nói lên sự thiếu hiểu biết của các tông đồ. Họ đã theo Chúa ba năm, nghe lời Chúa giảng dạy, chứng kiến phép lạ Chúa làm, mà họ vẫn chưa nhận thức được rằng, qua Ðức Kitô là họ được đến với Thiên Chúa Cha. Còn Thánh Philipê thì cũng cá mè một lứa. Ông xin Thày mình để cho được thấy Chúa Cha. Chúa Giêsu bảo ông Philipê là ông ta đã thấy Thiên Chúa Cha bằng việc xem thấy Chúa Con rồi.

Nếu đi lạc đường, sai hướng, Chúa Giêsu hứa sẽ chỉ lối cho ta đến cùng Chúa Cha. Qua bốn mươi năm trong sa mạc, ông Môsê cố gắng tìm đường1 đưa dân trở về đất hứa. Bây giờ Ðức Giêsu xác nhận Người là đường. Ðường của Chúa là đường lối Phúc âm.

Qua bao nhiêu thế kỉ, nhiều nhà triết học và học giả, đã cố công tìm sự thật2. Bây giờ Chúa Giêsu lại nói Người là sự thật. Sự thật cũng được tìm thấy trong sứ điệp Phúc âm. Qua bao nhiêu thế hệ, vua chúa người Trung Hoa và Ai Cập cố gắng tìm thuốc trường sinh để kéo dài mạng sống mãi mãi. Ngay cả gần đây những nhà lãnh đạo cộng sản Sô Viết cũng cố gắng làm như vậy. Còn bây giờ Chúa Giêsu lại bảo Người chính là sự sống, và là sự sống lại (Ga 11:25).

Chúa vẫn ở lại với  ta, đồng hành với ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Nếu ta đi lầm đường lạc lối, Chúa hứa chỉ đường cho ta trở về với Chúa qua Thánh kinh, qua Giáo Hội.  Người giảng dạy sự thật được ghi lại trong Phúc âm. Ðể đáp lại những khát vọng và những lời cầu xin của loài người qua nhiều thế hệ, Chúa Giêsu công bố Người là hiện thân của cả ba cùng đích: là đường, là sự thật, và là sự sống (Ga 14:6). Vào thời Trung cổ, tác giả sách: Gương Chúa Giêsu đặt những lời lẽ sau đây vào miệng Chúa: Ta là đường mà con phải bước theo, là sự thật mà con phải tin tưởng, là sự sống mà con hằng hi vọng.

Lời nguyện xin cho được hưởng sự sống vĩnh cửu:

Lạy Ðức Kitô phục sinh: là đường, là sự thật và là sự sống.

Con xin dâng lên Chúa những khó khăn trắc trở của cuộc sống.

Những lúc con đứng giữa ngã ba đường,

cũng như khi con bỏ đường đạo hạnh và công chính

xin chỉ cho con đường lối phải theo,

và dẫn dắt con về đường ngay nẻo chính.

Những khi tâm trí con bị lú lẫn về đạo lí phúc âm,

xin soi sáng cho con biết đâu là sự thật phải tìm kiếm.

để con được huởng sự sống vĩnh cửu. Amen.

Về mục lục

THANH NHÀN

Lm Vũđình Tường

Thế giới hữu hình bao gồm những gì mắt có thể nhìn, tay có thể đụng chạm, mũi có thể ngửi và lưỡi có thể nếm. Nói chung, giác quan giúp con người nhận biết chúng tồn tại trên đời. Chúng ta biết thế giới vô hình tồn tại qua cảm xúc. Đọc một câu chuyện bạn cảm thấy vui buồn, thương tâm. Nghe một câu nói bạn cảm thấy an ủi, mừng hay buồn. Nhờ vào những cảm xúc đó mà ta cho là chúng tồn tại trên đời. Rất thường khi nghe kể chuyện, khi đọc sách, chúng ta phải dùng đến thế giới hữu hình bằng cách mường tượng ra trong đầu những hình ảnh và bạn thấy dễ cảm nhận, thấy chúng gần hơn, xác thực hơn. Cả hai cách trên đều không thể dùng vào thế giới tâm linh, bởi thế giới tâm linh dùng ngôn ngữ của con tim. Con tim giúp bạn nhận biết thế giới tâm linh. Ai cũng biết yêu nhưng không ai giải thích được. Con người chỉ có thể diễn tả hình ảnh, hành động yêu thương, mà không thể giải thích được tình yêu. Tình yêu Đức Kitô dành cho bạn cũng thế. Bạn biết Thiên Chúa yêu bạn, và bạn đáp trả lại tình yêu đó. Đáp trả, diễn tả tình yêu Chúa qua kinh cầu, hành động bác ái, thương người và tha thứ. Chúng không phải là yêu mà là thành quả của yêu thương. Ngoài ra ta khó có cách nào tốt hơn để diễn tả tâm tình yêu thương. Đức tin thuộc vào thế giới tâm linh và thế giới tâm linh thường huyền bí, ngoài sức tưởng tượng của trí óc con người. Bởi thế giới tâm linh vừa mầu nhiệm, vừa huyền bí, không thể dùng giác quan cảm nhận nên niềm tin luôn bị thách thức giữa vững tin và ngờ vực. Môn đệ Đức Kitô muốn được nhìn thấy bằng thế giới giác quan, thế giới hữu hình. Các ông hỏi Đức Kitô điều đó. Cảm nghiệm của các tông đồ Đức Kitô, cũng là cảm nghiệm của các Kitô hữu. Thánh Thoma hỏi Đức Kitô chỉ cho biết đường về nhà Chúa Cha. Còn thánh thánh Philip xin Đức Kitô cho gặp Chúa Cha. nhờ vào thắc mắc của các Ngài mà chúng ta hiểu thêm về niềm tin, và về thân phận con người. Đáp lại thắc mắc của hai thánh nhân, qua giải thích của Đức Kitô chúng ta nhận được nhiều hữu ích cho niềm tin vào Đức Kitô.

Thứ nhất, Đức Kitô cho biết hiện tại các tông đồ chưa thể gặp được Chúa Cha, nhưng trong tương lai các vị sẽ được gặp Chúa Cha. Hiện tại các vị có thể nhận biết Chúa Cha qua nhận biết Đức Kitô,

‘Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha’ Gn.14, 9 vì ‘Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy’. Đức Kitô giải thích thêm ‘Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình’.

Đức Kitô cho biết con người không thể trực tiếp nhận biết Chúa Cha. Con người chỉ có thể nhận biết Chúa Cha qua nhận biết Đức Kitô. Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Các tông đồ chỉ có khả năng nhận biết bản tính con người của Đức Kitô, các ông không đủ khả năng nhận biết bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Tại sao thế? Bởi vì nhân loại có giới hạn riêng của mình. Chúng ta là những con người hữu hạn, được Thiên Chúa tạo dựng như thế. Giới hạn về nhiều phương diện. Giới hạn về sức khoẻ, tuổi tác; giới hạn về trí khôn, trí nhớ; giới hạn về tài năng, kiến thức; giới hạn về nhận thức và trí tưởng tượng; giới hạn về thời gian và không gian. Các giới hạn này khác nhau giữa người này với người kia. Giới hạn này cũng khác biệt ở trong cùng một người, giữa tuổi này với tuổi kia. Ví dụ như trí nhớ, sức khoẻ, sắc đẹp, bén nhậy. Con người dù cố gắng cách nào cũng không thể vượt thoát được giới hạn này. Con người chỉ có một lối thoát là chấp nhận thực tế giới hạn của mình. Vì thế mọi cố gắng chứng minh Thiên Chúa tồn tại, hiện hữu, là những cố gắng vượt quá giới hạn của con người. Cố gắng làm những gì quá giới hạn thường gặp phải thất bại ê chề. Bởi những giới hạn đó mà Đức Kitô cho các môn đệ biết hiện tại các ngài chưa thể nhìn thấy Chúa Cha, nhưng sẽ có ngày các vị sẽ diện kiến Chúa Cha. Để vượt qua các thắc mắc về giới hạn đức tin, Đức Kitô kêu gọi các môn đệ hãy đặt trọn niềm tin vào Ngài. Tin vào Đức Kitô các ông sẽ được thanh thản trong niềm tin, con tim được an bình, tâm trí được thanh thản. Hiện tại các môn đệ đang sống trong thế giới vật chất nên bị giới hạn về đời sống tâm linh. Con người sẽ vượt thoát giới hạn vật chất khi nào các ngài tái sinh vào cuộc sống trường sinh; lúc đó mọi giới hạn vật chất bị chấm dứt, và các ngài sẽ hiện diện trước tôn nhan Chúa Cha. Đức Kitô còn cho các tông đồ biết ‘Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở… thầy đi dọn chỗ cho anh em… Thầy đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó’ Gn.14,3.

Thoma xin Đức Kitô chỉ cho ngài đường đi. Nhờ câu hỏi này mà Đức Kitô cho biết a/ việc Đức Kitô ra đi không phải để các ông cô đơn, đơn độc một mình. Việc Đức Kitô ra đi là có lợi cho các ông, bởi Ngài đi trước chuẩn bị đón môn đệ trong ngày đoàn tụ. b/ các ông không thể tự sức riêng mình đến cùng Thiên Chúa. ‘Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy’ Gn 14,6. Con người có khả năng đi một mình trên đường trần thế, nhưng đường tâm linh, đường đức tin đẫn con người đến với Thiên Chúa, con người không có khả năng tự đi một mình. Con người cần Đức Kitô, hướng dẫn, chỉ đường, vạch lối. Đức Kitô là Đấng duy nhất biết đường dẫn ta đến cùng Chúa Cha. Đồng hành cùng Đức Kitô ta còn sợ chi, còn thắc mắc gì bởi có Đức Kitô cùng đồng hành. Kitô hữu sẽ có ngày diện kiến Chúa Cha và ngày đó sẽ đến trong tương lai và đó là điều Đức Kitô hứa ban cho ai trung thành đồng hành với Ngài. Hãy tin và được sống thanh thản.

Về mục lục

CHÚA GIÊSU LÀ ĐƯỜNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Đức Hồng Y George Pell, vị Hồng Y đáng kính của Giáo Hội đã được Tối Cao Pháp Viện Australia tuyên bố trắng án hôm 7/4/2020. Phát biểu sau khi tòa tuyên kết luận, Đức Hồng y nói: “Tôi đã kiên định trước sau như một để bảo vệ sự vô tội, ngay cả khi phải chịu cảnh bất công nghiêm trọng.”

Đức Hồng y cũng khẳng định ngài tha thứ cho người đã cáo buộc ngài và nhấn mạnh: “Tôi không muốn việc mình được tha sẽ làm tổn thương và mang lại cay đắng cho người khác; đã có quá nhiều đau đớn và cay đắng rồi.” “Điều cần thiết để có sự chữa lành là sự thật, nền tảng của công lý cũng là sự thật, vì công lý là sự thật cho mọi người.” Đức Hồng Y Pell được ra khỏi nhà tù của Úc sau 404 ngày bị giam giữ. Ngài là một người giữ nhiều chức vụ cao trong giáo hội Úc Châu và toàn cầu. Ngài cũng là một trong những hồng y cố vấn của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Những người ủng hộ cùng tạ ơn Chúa và coi Đức Hồng Y như là nạn nhân của một thế lực thế tục. Phe chống đối lại đang kêu gào “bênh vực cho các nạn nhân”. Vậy, ai là nạn nhân trong vụ án này? Đức Hồng Y là nạn nhân hay những kẻ cáo gian là nạn nhân ?

Thưa quý OBACE, có thể nói, chúng ta sống trong một thế giới mà sự thật, chân lý đang bị xem nhẹ bị bóp méo. Người ta lấy sự giả dối để che đậy bộ mặt thật của mình, lấy sự gian trá để dẫn đường thế giới. Hôm nay, Chúa Giêsu quả quyết cho chúng ta: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy.

Các tông đồ hình dung đến việc sẽ phải chia tay với Đức Giêsu. Các ông vẫn chưa hình dung Thầy các ông sắp làm gì, sẻ đi về đâu? Vì thế, các tông đồ tỏ ra buồn phiền lo lắng về hiện tại, tương lai của các ông. Các ông sợ mình sẽ lạc đường, mất phương hướng. Chúa Giêsu đã phải trấn an các ông và chỉ cho các ông một con đường, đó là con đường trở về Nhà Cha, nơi đó, mọi người sẽ gặp Thiên Chúa và gặp lại nhau trong niềm vui và hạnh phúc.

Các tôn giáo khác chỉ có thể dẫn người ta đi lanh quanh theo vòng luân hồi từ kiếp này qua kiếp khác không lối thoát. Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài chỉ cho chúng ta một con đường thẳng và là con đường hướng về trời đưa chúng ta về với Thiên Chúa:  Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào thầy. trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, Thầy đi để dọn chỗ cho anh em….Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy. Con đường của Chúa Giêsu là con đường đưa tới hạnh phúc đích thực được diễn tả qua niềm vui của người lữ khách về tới quê nhà, được cha mẹ và anh em đón tiếp yêu thương. “Quê nhà” là nơi Chúa Giêsu “đã ở”. Ngài từ đó ra đi đến với trần gian, nay Ngài lại dẫn tất cả trần gian trở về.

Thánh Toma còn băn khoăn về lời giải thích của Chúa Giêsu. Ông đặt vấn đề: Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi? Chúa Giêsu trả lời: Thầy là đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Con đường của Chúa Giêsu là con đường của sự thật và đưa tới sự thật là chính Thiên Chúa, vì Chúa là sự thật, là chân lý. Nơi Thiên Chúa không có mảy may sự gian dối. Sống và hành động theo sự thật con người sẽ được giải thoát. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc của quá khứ, tội lỗi; sự thật sẽ giải phóng chúng ta khỏi sự dữ và sự ác; sự thật sẽ đem lại cho chúng ta cuộc sống tự do. Chỉ những ai sống theo sự thật mới thực sự là con người tự do. Trái lại, những ai sống trong gian dối quanh co thì biến mình trở thành nô lệ của bóng tối và sự ác.

Chúa Giêsu đến để nói cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa chân thật tốt lành, là người cha yêu thương nhân loại. Ngài đã sống và bảo vệ sự thật đến độ chấp nhận hy sinh mạng sống trên cây thập gía, để mình chứng một tình yêu chân thật dành cho con người. Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã nói cho ông biết sự thật là: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này, tôi sẽ đem quân đội để chiến đấu. Nhưng nước tôi không thuộc chốn này. Philatô vì không phải là con người thuộc về sự thật đã không đón nhận được mạc khải thật đó. Ông đã hỏi lại Chúa: Sự thật là gì?

Chúa Giêsuu không trả lời Philatô, nhưng trước đó Philipphê hỏi Chúa: Thưa Thầy xin tỏ cho chúng con xem thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện. Chúa Giêsu đã mạc khải cho Philipphê một sự thật đó là: Ai thấy Thầy thì thấy Chúa Cha… Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Đây chính là một mạc khải sâu xa về màu nhiệm Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Qua mặc khải này Chúa Giêsu cho các môn đệ biết Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng “đồng hình, đồng dạng, đồng bản thể” với Đức Chúa Cha và là Đấng tạo dựng và cứu chuộc nhân loại.

Chính Thiên Chúa là chủ sự sống trên trần gian này, Ngài thông truyền sự sống cho loài nào, vật nào, loài đó vật đó sẽ có sự sống. Con người đã được dựng nên từ bùn đất và được Thiên chúa thổi hơi truyền trao sức sống thần linh của Ngài, làm cho con người có sự sống. Đặc biệt hơn nữa, Đức Giêsu là Đấng từ nơi Thiên Chúa Cha mà đến trần gian, Ngài đã rao giảng, chỉ đường, dẫn chúng ta về với Thiên Chúa là nguồn sự sống; Ngài còn trao tặng sự sống của Ngài cho nhân loại qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại trong vinh quang và ban cho con người được chia sẻ vào sự sống trường sinh bất tử với Ngài.

Sau khi về trời, Chúa Giêsu còn ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội. Chúa Thánh Thần chúng ta tuyên xứng Ngài là Đấng Ban sự sống.  Ngài làm Giáo Hội trở nên mới, có một sức sống mới, để tiếp tục làm chứng và rao giang về Chúa Giêsu là Đường là sự Thật và là Sự Sống. các tônng đồ và các tin hữu sơ khai đã thể hiện rõ néi sức sống thần linh của Thiên Chúa được ban qua Thánh Thần đang hoạt động trên từng người. Chúa Thánh Thần giúp Giáo Hội vượt qua những khó khăn của buổi sơ khai, ban sức mạnh, lòng can đảm để các tông đồ và các tín hữu mạnh mẽ sống theo con đường của Tin Mừng. Cuối cùng các tông đồ cũng đã chấp nhận cái chết để lànm chứng và bảo vệ cho sự thật là Thiên Chúa.

Sách Công Vụ hôm nay kề về hoạt động của Giáo Hội sơ khai. Nhờ đời sống chứng tá yêu thương, số những người tin theo Chúa Giêsu ngày càng gia tăng. Các tông đồ đã phải chọn thêm các phó tế, đặt tay trên họ, trao cho họ nhiệm vụ cùng với các ông phục vụ cộng đoàn. Mọi người đều sống theo sự thúc đẩy và sức sống của Chúa Thánh thần. Lời Chúa được loan truyền đi khắp nơi từ Giêrusalem đến tận cùng trái đất.

Giáo hội ngày này dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần vẫn đang nỗ lực làm chứng về về Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho thế giới. Giáo Hội không ngần ngại nói lên sự thật và bênh vực cho sự thật, cho dù bị hiểu lầm, bị chỉ trích, chống đối bằng nhiều cách. Thế giới này đang bị che phủ bởi thần tối tăm và gian dối là ma quỷ. Ma quỷ đang tìm mọi cách gieo rắc sự dối trá vào trong suy nghĩ, vào tâm hồn con người và không ngừng tấn công Giáo Hội bằng sự dối trá. Nó không bao giờ nói thật, nó chỉ nói một nửa sự thật mà thôi. Vì ma quỷ là cha của sự gian dối. Những ai dám sống theo sự thật, bênh vực sự thật là những người thuộc về Đức Kitô. Những ai sống và hành động theo sự gian dối thì thuộc về bóng tối và ma quỷ.

Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy sự dối trá. Sự dối trá được lặp đi lặp lại nhiều lần, nhiều ngày khiến cho người ta dần quen và chấp nhận nó như sự thật. Đó là một mưu chứơc rất nguy hiểm của ma quỷ. Nó sẽ làm cho lương tâm cùa chúng ta bị xói mòn, chai cứng khi quen sống với gian dối. Nó sẽ biến chúng ta thành kẻ độc ác, tàn nhẫn khi chúng ta đánh mất sự thật trong tâm hồn. Nó sẽ cướp mất sự sống thần linh trong chúng ta và sẽ đưa chúng ta đi lạc đường, không thể trở về với Thiên Chúa được.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm sống và làm chứng về Chúa Giêsu là đường đưa tối sự sống, là sự thật giải thoát nhân loại và là Đấng đem lại sự sống cho chúng ta. Amen

Về mục lục

VỮNG CHÍ

Trầm Thiên Thu

Kiên định là một đức tính cần thiết tập luyện và duy trì trong cuộc sống, cả đời thường và tâm linh. Để xây dựng đức tính này, điểm cốt lõi là cần đặt ra mục đích và quyết tâm hoàn tất, bắt đầu bằng việc xác định ước muốn sống kiên định như thế nào và hướng tới mục đích đó. Dần dần, khi đã thực sự kiên định, hãy cố gắng duy trì động lực và tự có trách nhiệm với chính mình. Trong quá trình tập luyện tính kiên định, cũng rất có thể phải thay đổi suy nghĩ để luôn sống lạc quan và làm việc một cách hiệu quả.

Con đường nào cũng có những loại “chông gai” đặc trưng, không là thảm lụa. Vì thế, rõ ràng rất cần kiên định, nói chung là luôn phải tự khó với chính mình. Chúa Giêsu đã từng động viên: “Đừng xao xuyến!” (Ga 14:1; Ga 14:27) và Thánh Phêrô cũng khuyến khích như vậy. (1 Pr 3:14) Điều đó cũng có nghĩa là không hèn hoặc không sợ hãi. Muốn vậy thì phải can đảm, muốn can đảm thì phải mạnh mẽ, muốn mạnh mẽ thì phải cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba, Đấng ban sức mạnh – một trong các ơn của Chúa Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần là Thần Khí, sống là nhờ thần khí: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63a) Lời Chúa Giêsu cũng là thần khí và là sự sống. (Ga 6:63b) Nhưng đôi khi người ta có thể ảo tưởng mà lầm lẫn, cái gì cũng bảo là “Ý Chúa.” Vì thế, Thánh Gioan Tông Đồ đã khuyên chúng ta PHẢI cảnh giác và đưa ra cách nhận biết: “Anh em ĐỪNG cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy CÂN NHẮC các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có NHIỀU NGÔN SỨ GIẢ lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào TUYÊN XƯNG Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào KHÔNG TUYÊN XƯNG Đức Giêsu thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và HIỆN NAY nó ở trong thế gian rồi.” (1 Ga 4:1-3) Đơn giản mà nhiêu khê, dễ mà khó.

Quả thật, lời cảnh báo của Thánh Gioan rất đáng sợ. Chúng ta cũng đã và đang thấy nhiều thứ giả, trong đó cũng có đủ loại “người giả” – còn đáng sợ hơn các loại giả khác. Những điều tương tự cũng đã được Đức Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó, sự cảnh giác càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong thế kỷ XXI đầy những khó khăn này, càng văn minh càng nhiêu khê. Thời nay mệnh danh là thời @ – mà đúng là cái chữ @ nó “vòng vo” rắc rối lắm, đôi khi giống như cứ loanh quanh trong mê cung, không biết lối ra. Và hơn bao giờ hết, người ta càng cần kiên định hơn.

Dù đời và đạo, cuộc sống luôn có nhiều thứ khiến chúng ta dao động, chia trí. Thật vậy, ma quỷ có thiên hình vạn trạng, nó len lỏi vào bất cứ nơi nào, thậm chí ma quỷ có thể cám dỗ người ta cảm thấy mình đạo đức và thánh thiện. Đó là dạng cám dỗ rất nguy hiểm, vì là dạng GIẢ DANH GIẢ NGHĨA. Thà rằng nó cám dỗ chúng ta khô khan, phạm tội, hoặc “quay lưng” lại với Chúa thì chúng ta dễ nhận biết mà tránh, đằng này nó lại làm cho chúng ta cảm thấy rất gần Chúa, thế mới đáng sợ, và chúng ta phải rất tỉnh thức. Đừng ảo tưởng, vì rất khó phân biệt, như Thánh Phaolô nói: “Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11:14)

Có một người quen ở Mỹ cho biết rằng em gái của họ lấy chồng là Phật tử, người chồng này làm cho cô ta bỏ đạo Công giáo và nói xấu Công giáo đủ thứ. Một thanh niên tại Saigon bỏ đạo Công giáo rồi cạo đầu và quy y, anh ta bảo rằng theo Công giáo phải giữ nghiêm luật nên “căng” quá, theo Phật giáo “khỏe” hơn nhiều. Còn tại Đồng Nai, một nữ tu bỏ đạo Công giáo rồi đi lập chùa riêng và làm ni cô trụ trì. Những người này không chỉ yếu đức tin Công giáo, mà còn thiếu tính kiên định.

Đừng vội hoang mang khi thấy có những trường hợp như vậy. Đó chỉ là những trường hợp hiếm hoi. Thật ra họ chỉ bất mãn một vấn đề nào đó vì họ không được thỏa mãn ý riêng, đồng thời họ là những người “yếu bóng vía” và chẳng hiểu rõ Công giáo, chỉ là dạng “lý sự cùn,” đầu óc thiển cận hoặc như “ếch ngồi đáy giếng” mà thôi. Những “ông tổ” của các đạo khác liên quan Kitô giáo cũng vậy, họ chỉ muốn theo ý riêng mà ly khai khỏi Công giáo. Rồi cũng chẳng đâu vào đâu, nhưng họ vẫn cố chấp.

Những người thiển cận hoặc nông cạn mới như vậy, còn những người sâu sắc không như vậy, bởi vì người ta càng giỏi thì càng nhận biết Thiên Chúa và tin yêu Ngài. Đa số các bác học đều là những người tin vào Thiên Chúa. Khoảng hơn 40 năm trước, chính Đức cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910-1995) đã rửa tội cho một Thượng tọa Phật giáo cao niên vào chính đêm Chúa giáng sinh. (Liên quan chuyện “theo đạo” nên liên tưởng, nhưng tiếc rằng lâu quá rồi nên không còn nhớ tên ông cựu họ Thích này). Hơn 20 năm trước, có một ni cô chán “ăn chay trường” rồi gia nhập Công giáo, sau đó cô này lấy chồng là người Công giáo. Vợ chồng họ người Đồng Nai, nay họ vẫn sống hạnh phúc tại Bình Dương. Và còn rất nhiều những trường hợp tương tự, từ khắp nơi trên thế giới, không thể kể hết.

Có điều vô cùng đặc biệt: Không một người nào mà dám nói “tôi là Thiên Chúa” khi lập đạo, chỉ có Chúa Giêsu mới xác định như vậy. Cũng chẳng có ai làm được những phép lạ như Ngài đã làm. Và cũng chỉ có Ngài dám nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14:6) Đặc biệt nhất là chẳng có ai bị giết chết mà sống lại như Ngài. Chỉ vài điều như vậy thôi cũng đủ để chúng ta biết đâu là “chân lý thật” và đâu là “chân lý giả.” Càng ngày khoa học và khoa khảo cổ càng phát hiện những điều chính xác như Kinh Thánh đã đề cập. Đó là chứng cớ minh nhiên, những kẻ phủ nhận chỉ là cố chấp. Và còn các phép lạ Thánh Thể và những lần Đức Mẹ hiện ra nữa…

Bằng chứng cụ thể trong sách Công Vụ: Khi nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ là Thánh Thần, ngay lúc đó đã có KHOẢNG BA NGÀN người theo đạo. (Cv 2:38-41) Đâu có thể đơn giản mà có số người đông như vậy cùng gia nhập đạo một lúc, cũng đâu phải họ theo đạo cho vui hoặc có lợi về vật chất, đặc biệt là không ai dụ dỗ họ theo đạo để được giàu sang, danh vọng,… Và rồi ngày nay, hằng tháng tại nhiều nhà thờ Công giáo vẫn có những người trưởng thành (chứ không nói trẻ em) vui mừng lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Đó là những bằng chứng hùng hồn, là phép lạ thực sự mà Chúa Thánh Thần đang tác động không ngừng trong Giáo Hội, Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.

Có những người gia nhập Công giáo không chỉ là người đã thực sự trưởng thành (tâm sinh lý), mà còn có những người lớn tuổi, họ sống đạo rất tốt với một đức tin trưởng thành và vững mạnh. Đặc biệt là có những người theo đạo Công giáo rồi đi tu trở thành tu sĩ hoặc linh mục – một người nổi bật là Lm Thiên Phong Bửu Dưỡng. [1] Họ đã trưởng thành, chắc chắn không ai có thể “dụ dỗ” được họ nếu họ không thực sự tin vào Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh. Ai cảm thấy còn “đắn đo,” hãy cố gắng giữ vững lòng tin, hãnh diện về Đức Tin Công giáo, và đừng dao động vì những chuyện không đâu. [2]

Những người càng giỏi càng tìm hiểu và nhận ra Thiên Chúa. Giáo Hội Công giáo đặt tiêu chuẩn cao về luân lý, rất cảm thông với người bất đồng ý kiến, nhưng KHÔNG NHƯỢNG BỘ bất kỳ áp lực nào. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Hòa Giải để tha thứ tội lỗi, để thương xót và ban ân sủng cho chúng ta, giúp chúng ta sống đời sống luân lý tốt hơn. Công giáo mệnh danh là Đạo Yêu Thương, vì Thiên Chúa là tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16)

Vô tri bất mộ. Con mắt liên quan lý trí, liên quan đức tin. Kinh Thánh xác định và lý giải: “Hết những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện hữu, và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hoá Công. Thế mà, lửa với gió, hay làn khí thoảng qua, hay tinh tú bầu trời, hay nước chảy cuồn cuộn, hay đèn trời thắp sáng, chúng lại coi là thần, là những bậc quản cai hoàn vũ.” (Kn 13:1-2) Rất rõ ràng, rất rạch ròi!

Ngay trong thời Giáo Hội sơ khai, khi Chúa Giêsu đã phục sinh và số môn đệ thêm đông, các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo CẦU NGUYỆN và PHỤC VỤ Lời Thiên Chúa.” (Cv 6:2-4)

Trình thuật Cv 6:5-7 cho biết: “Đề nghị đó được mọi người tán thành. Họ chọn ông Têphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia đã theo đạo Do Thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giêrusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.” Đó chính là Nhóm Bảy Người, tức là các Phó tế đầu tiên của Giáo Hội, trong đó có Phó tế Têphanô về sau chịu tử đạo. Không chỉ có Phó tế Têphannô mà còn biết bao vị tử đạo khác đã xả thần vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi nơi và mọi thời.

Niềm hãnh diện của Kitô hữu “không giống ai” chút nào, đôi khi người ta còn coi đó là dại dột hoặc ngu xuẩn, nhưng không phải vậy. Hãnh diện gì? Thánh Phaolô cho biết: “Vinh quang của tôi là Thập Giá của Đức Giêsu Kitô – Mea Gloria Est Crux Christi.” (Gl 6:14) Chắc chắn không ai và không tôn giáo nào có dạng vinh quang “ngược đời” như Kitô giáo. Người ta sợ đau khổ, nhưng khi đã cảm nhận được đau khổ, người ta lại bị đau khổ thu hút. Chắc chắn rằng những người không có niềm tin Kitô giáo sẽ chẳng bao giờ hiểu được điều đó, thế nên người vô thần bảo tôn giáo là thuốc phiện đã “ru ngủ” các Kitô hữu. Văn sĩ trào phúng Mark Twain (1835-1910, Mỹ) nhận định rất thú vị: “Chẳng thà mình không nói để người ta tưởng mình ngu, còn hơn mở miệng ra để người ta không còn nghi ngờ gì nữa.”

Thực sự cảm nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa, Thánh Vịnh gia hân hoan mời gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt.” (Tv 33:1-2) Và rồi không thể lặng im, Thánh Vịnh gia còn giải thích: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất.” (Tv 33:4-5)

Là tình yêu, Thiên Chúa thương xót chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, (Rm 5:8) còn thù nghịch với Ngài, (Rm 5:10) thậm chí Ngài còn chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu thương đó quá lớn lao. Thật vậy, Ngài luôn quan tâm chúng ta: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.” (Tv 33:18-19) Và còn hơn vậy, Ngài biết rõ từng người: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.” (Ga 10:14)

Thế nhưng có điều đáng quan ngại về chính chúng ta, rất cần xem lại chính mình, như Thánh Giacôbê đã phân tích: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ ĐẠO ĐỨC HÃO.” (Gc 1:26) Sở dĩ như vậy vì chúng ta vốn dĩ là “kẻ xấu.” (Lc 11:13)

Vừa khuyên nhủ vừa động viên, Thánh Phêrô nói: “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.” (1 Pr 2:4-6) Lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu, chúng ta không thể nào hiểu nổi. Suốt đời xin tín thác và tạ ơn Ngài!

Về hạnh phúc của những người được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần – các Kitô hữu, Thánh Phêrô cho biết thêm: “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy. Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.” (1 Pr 2:7-9) Có nhiều dạng ơn thiên triệu, nói theo bình dân là “ơn gọi,” và ơn gọi nào cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn gọi kết hôn, ơn gọi độc thân,… Ơn gọi nào cũng là để hoàn tất sứ mạng theo kế hoạch của Thiên Chúa. Ngài cũng nói với mỗi Kitô hữu như đã nói với Gia-cóp xưa: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1)

Thật tuyệt vời, nhưng Thiên Chúa cần chúng ta vững chí tích cực cộng tác, như Chúa Giêsu đã động viên: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14:1) Cuộc sống đã và đang chứng tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng là chỉ có Thiên Chúa là cứu cách và cùng đích, thiếu Đức Kitô thì chúng ta không thể làm được gì, dù là điều nhỏ nhoi. (x. Ga 15:5) Chúng ta có hoang mang hoặc lo sợ thì cũng chẳng “chuyển hóa” được gì, đúng như có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được.” (Mt 5:36)

Vì thế, tín nhân phải vững chí sống theo lời khuyên của Chúa Giêsu: “Đừng xao xuyến!” Nói theo kiểu nói ngày nay: “Cứ vô tư mà sống!” Tại sao? Bởi vì lo bạc râu, sầu bạc tóc. Mà có lo cũng chẳng được gì, rồi cái gì đến sẽ đến, lo nhiều chỉ khổ thêm mà thôi. Chúa Giêsu khuyên “đừng xao xuyến” nghĩa là Ngài bảo chúng ta phải vững chí tin vào sự TIỀN ĐỊNH và QUAN PHÒNG của Ngài. Thiết tưởng có điều nên lưu ý: “Không xao xuyến” nghĩa là đừng chạy theo những cái mà người ta cho đó là “sự lạ,” dạng này thường xuyên được người ta “chú ý,” nếu vậy thì chưa thực sự tin vào Thiên Chúa, chưa thực sự tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót.

Chúa Giêsu căn dặn: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:2-3) Người đời cũng biết nhận định: “Sinh ký, tử quy” (sống gởi, thác về). Thế gian chỉ là chuyến lữ hành về Thiên Đàng, như Thánh nữ Catarina đã khuyên: “Cuộc đời như chiếc cầu, hãy ĐI QUA chứ ĐỪNG DỪNG LẠI trên đó.” Chắc chắn chết không là “dấu chấm hết” mà là cuộc biến đổi, là “ngưỡng” bước vào sự sống vĩnh hằng. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì đã được chính Chúa Giêsu hứa: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” Đúng là hạnh phúc của mọi hạnh phúc, hơn cả mức tuyệt vời.

Ngày xưa, khi Chúa Giêsu bảo: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.” Ông Tôma đã ngạc nhiên và hỏi ngay: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” Ngài cười hiền: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Đây là câu “nổi tiếng” trong Kitô giáo, được trích dẫn rất nhiều, và cũng là niềm hy vọng chắc chắn của những người thực sự tin vào Con Thiên Chúa, Đấng nhập thể làm người, chịu chết và Phúc Âm. Rồi Ngài nói thêm: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” (Ga 14:7)

Sau đó, ông Philípphê xin Thầy Giêsu tỏ cho thấy Chúa Cha để được mãn nguyện. Nhưng Ngài trách ông đã ở với Ngài bao lâu rồi mà còn “hỏi ngớ ngẩn” như vậy. Rồi Ngài xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14:9) Chắc chắn đó là cách hiểu vượt quá tầm hiểu của phàm nhân, nếu chúng ta ở bên Chúa Giêsu hồi đó thì chúng ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như Tông đồ Philípphê mà thôi, nhưng có lẽ ngày nay chúng ta cũng chưa hơn người xưa. Buồn thật!

Chính Chúa Giêsu cũng đang nói với mỗi chúng ta qua lời giải thích với ông Philípphê và các tông đồ khác: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14:10-12) Có vẻ dài mà không dài, mà là mức độ cần thiết.

Về tầm quan trọng của Đức Tin, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh một lần nữa. Thật vậy, khi có đủ niềm tín thác vào Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót luôn quan phòng và tiền định cho mỗi người theo ơn gọi riêng (ơn thiên triệu), người ta sẽ thanh thản và vững chí sống lời khuyên của Thầy Giêsu trong mọi hoàn cảnh. Thánh Vịnh gia minh định: “Chúa là gia nghiệp đời con.” (Tv 16:5-6) Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta cũng khả dĩ xác định như vậy!

Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm đức tin và lòng can đảm để chúng con không bị dao động trước mọi nghịch cảnh, ngay cả khi đối diện với kẻ thù, mặc dù chúng con chỉ là bụi tro dám làm bận mắt Ngài. Xin làm cho chúng con nên thánh theo kế hoạch mầu nhiệm của Ngài, xin ban Thánh Thần để chúng con vững chí bước đi trên hành trình đức tin. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 5 PS_A

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh tập trung đề tài vào Giáo Hội.

Cv 6: 1-7

Bài Đọc I, trích từ sách Tông Đồ Công Vụ, cho chúng ta biết rằng Giáo Hội sáng tạo cơ cấu đầu tiên của mình: lập “nhóm Bảy Người” là một hình thức mới của công việc phục vụ.

1Pr 2: 4-9

Thánh Phê-rô viết rằng Giáo Hội đặt nền móng trên viên đá sống động là Đức Giêsu Kitô. Những người Ki-tô hữu cũng là những viên đá sống động, vì họ tiếp tục xây nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.

Ga 14: 1-12

Tin Mừng hôm nay là phần đầu bài diễn từ cáo biệt của Đức Giêsu với các môn đệ Ngài trong Tiệc Ly. Đức Giêsu giải thích cho họ biết nơi mà Ngài dẫn những người tin vào Ngài đi là nhà Cha của Ngài.

BÀI ĐỌC I (Cv 6: 1-7)

Bài Đọc I tường thuật một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của Giáo Hội tiên khởi: việc lập “nhóm Bảy Người” khác với “nhóm Mười Hai”. Giữa cộng đoàn Giêrusalem, bảy thành viên được chọn nhằm mục đích phụ giúp công việc với các Tông Đồ. Thánh Luca đưa ra hai lý do cho quyết định này: trước tiên, số các tín hữu ngày càng đông khiến cho các Tông đồ không thể nào đảm đương công việc điều hành cộng đoàn được. Thêm nữa, sự bất hòa giữa những “Kitô hữu Do thái bản địa” và những “Kitô hữu Do thái hải ngoại”.

Trong cộng đoàn Giêrusalem, có những Kitô hữu Do thái sinh trưởng ở Paléttin và nói tiếng Aram, và những Kitô hữu Do thái sinh trưởng ở hải ngoại, trở về định cư ở Giêrusalem và nói tiếng Hy-lạp. Ở Giê-ru-sa-lem có những hội đường, ở đó phụng vụ ngày sabát được cử hành bằng tiếng Hylạp, Kinh Thánh được sử dụng là bản Bảy Mươi, bản dịch Hy-ạp. Số người Kitô hữu Do thái hải ngoại này chắc chắn là thiểu số.

1. Mối bất hòa

Chung chung người phụ nữ Do thái lập gia đình rất sớm và thường vẫn còn sống sau khi chồng đã qua đời. Vì thế, số lượng các bà góa có thể là khá đông. Bổn phận giúp đỡ các bà góa phát xuất từ lòng đạo đức truyền thống. Trong việc phân phát lương thực hằng ngày, những cuộc tranh cãi nổi lên giữa các bà góa: các bà góa thuộc khối Do thái hải ngoại nghĩ rằng mình không được quan tâm bằng các bà góa thuộc khối Do thái bản địa. Chính mối bất hòa này tạo cơ hội cho các Tông Đồ siêu thoát những bận lòng vật chất để “chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”.

2. Việc tuyển chọn Nhóm Bảy Người

Chính cộng đoàn chỉ định bảy người: “Họ chọn các ông… đưa các ông ra và giới thiệu với các Tông Đồ”. Các tiêu chuẩn để chọn lựa nhóm bảy người là “được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan”. Nếu con số “Mười Hai” tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en (Mc 3: 14) thì con số “Bảy” được ấn định chắc chắn vì tính thánh thiêng và ý nghĩa viên mãn của nó, nhưng cũng có thể vì con số bảy tượng trưng cho bảy dân tộc ngoại giáo ở xứ Ca-na-an (Cv 13: 19). Như vậy, việc thiết lập nhóm Bảy Người nói lên hướng đi mới của Giáo Hội, đã đến lúc Giáo Hội và Tin Mừng Đức Ki-tô không còn bị giới hạn nơi những anh em Do thái, nhưng phải được phổ biến rộng rãi nơi các dân ngoại.

Dường như tất cả bảy cộng tác viên này được chọn giữa khối Ki-tô hữu Do thái hải ngoại, chắc chắn chủ yếu cốt là làm dịu đi sự bất đồng của khối này. Quả thật, tất cả tên của bảy cộng tác viên đều tên Hylạp. Dù thế nào, sự chọn lựa này chứng thực rằng cộng đoàn Giê-ru-sa-lem chấp nhận mở rộng mình ra hơn nữa với thế giới ngôn ngữ và văn hóa Hylạp. Thật đáng chú ý khi mà trong số bảy cộng tác viên, có một người tên là Nicôla quê Antiôkia, gốc dân ngoại, đã theo đạo Do thái, đoạn Kitô giáo. Ông là người Kitô hữu gốc dân ngoại đầu tiên đón nhận thừa tác vụ chính thức trong Giáo hội.

3. Nghi thức đặt tay

“Sau khi cầu nguyện, các Tông đồ đặt tay trên các ông”. Việc đặt tay có nghĩa truyền đạt quyền hành hay phẩm chất đặc biệt. Trong đạo Do thái, nghi thức này đã được thực hành từ xa xưa. Ông Môsê đã đặt tay trên ông Giô-suê và “ông đã được đầy tràn thần khí khôn ngoan” (Đnl 34: 9). Để là thành viên Thượng Hội Đồng, phải được Thượng Tế đặt tay.

Việc đặt tay trên bảy cộng tác viên chứng thực rằng ngay từ đầu người ta thấy trước rằng công việc của họ sẽ không bị giới hạn ở nơi “việc phân phát lương thực hàng ngày”. Quả thật, sau đó vì nhu cầu mục vụ đòi hỏi, bảy cộng tác viên ấy cũng tham dự vào việc phục vụ Lời Chúa như các Tông Đồ; và rồi do hoàn cảnh bách hại, họ chạy trốn ra ngoài xứ Pa-lét-tin và trở thành những nhà truyền giáo đầu tiên.

4. Nhiều tư tế đón nhận đức tin

Thánh Luca không bao giờ quên nhấn mạnh đức tin Kitô giáo phát triển rất nhanh, vì thế thánh ký nêu ra một số lượng lớn các tư tế Do thái đón nhận đức tin Ki-tô giáo. Chi tiết này rất quý báu vì nó giúp cho chúng ta hiểu biết hơn nỗi lo lắng của giáo quyền Giêrusalem và cuộc bách hại sắp giáng xuống trên cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, khởi đi với việc sát hại một trong bảy cộng tác viên là thánh Têphanô.

BÀI ĐỌC II (1Pr 2: 4-9)

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phêrô hôm nay, hòa hợp với hai bài đọc khác, nói với chúng ta về Giáo Hội, cơ cấu của Giáo Hội, sứ mạng của Giáo Hội và nền tảng của Giáo Hội là Đức Kitô.

Chúng ta nên nhớ rằng thư này được gởi đến cho những Kitô hữu đang chịu đau khổ, bị vu khống và ít nhiều bị loại bỏ. Vì thế, thánh Tông đồ nhắc họ nhớ rằng đức tin kiên vững đặt nền tảng trên Đức Kitô, “viên đá sống động” bị con người loại bỏ, nhưng được Thiên Chúa chọn.

1. Ẩn dụ của đá

Một mặt, “đá” tự nhiên gợi ra ngay tức khắc yếu tố vững chắc, bền vững trước mắt chúng ta. Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi thấy phần lớn các dân tộc liên kết đá với việc cúng tế các vong nhân, như niềm hy vọng vào cuộc sống bất diệt. Mặt khác, Đức Kitô được gọi là “viên đá sống động”, chính vì Ngài đã chiến thắng sự chết và phân phát sự sống vô tận. Thêm nữa, đây là hình ảnh mang chiều kích thiên sai mà Kinh Thánh đã nhiều lần gợi lên: viên đá quí giá (Is 28: 16), đá tảng góc tường (Tv 118: 22), phiến đá độc nhất (Dcr 3: 9). Vì thế, “đá” trước tiên phải là Đức Ki-tô, rồi đến chính vị lãnh tụ của Giáo Hội, người mà Đức Giê-su  gọi là “Kepha”, nghĩa là “đá tảng”.

2. Viên đá sống động

“Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ của Chúa Thánh Thần”, nghĩa là được Chúa Thánh Thần ở cùng, theo kiểu nói của thánh Phao-lô: “Anh em là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1Cr 3: 9). Ở đây, chúng ta có thể nhấn mạnh động từ “xây” mà thánh Phêrô sử dụng cũng là động từ mà Đức Kitô sử dụng khi Ngài nói với Phêrô: “Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.

3. Chức tư tế thánh

“Hãy để Người đặt anh em hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Ki-tô”. Bản dịch của nhóm CGKPV này có thể khiến chúng ta nghĩ rằng đây cốt là chức tư tế thừa tác. Trái lại, bản văn này gợi lên chức tư tế của toàn thể Giáo Hội: Chức Tư Tế Cộng Đoàn. Bản TOB dịch chính xác hơn: “Anh em được xây dựng thành ngôi nhà của Chúa Thánh Thần để hình thành nên một cộng đồng tư tế thánh”.

4. Hiến lễ thiêng liêng

“Dâng những hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô”. Cách diễn tả này rất gần với tư tưởng của thánh Phaolô, ví dụ như trong thư gởi tín hữu Rôma: “Tôi khuyên anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12: 1).

5. Lương dân hoán cải và người Do thái cứng lòng tin

Biểu tượng “đá” thúc đẩy thánh Phê-rô đề cập đến một vấn đề đau đớn tận đáy lòng mình: việc dân Ít-ra-en loại bỏ Đức Kitô. Thật cảm động khi thấy rằng thánh nhân đau xót biết bao trước sự lòng cứng tin của dân mình: thánh nhân cố gắng hiểu, trong ánh sáng Kinh Thánh, tại sao sự chọn lựa của Thiên Chúa lại không đạt đến đích. Biểu tượng “đá” chứa đựng một biện chứng: căn nguyên của ơn cứu độ hay cớ vấp ngã. Đức Ki-tô là dấu chỉ mâu thuẫn. Ngài đòi buộc một sự chọn lựa: Ngài là điểm tựa cứu độ hay tảng đá vấp ngã.

A- Căn nguyên của ơn cứu độ

Trước hết, “đá” có thể là hình ảnh về một sự vững chắc của toà kiến trúc: đá nền hay đá góc tường (đá này có thể chỉ đá chóp đỉnh để đảm bảo sự cố kết của tòa nhà). Theo ngôn ngữ biểu tượng: một phần thay cho toàn thể, đá có nghĩa toàn khối kiến trúc. Bản văn Is 28: 16: “Này đây Ta đặt tại Xi-on một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” mà thánh Phêrô trích dẫn, thật dễ dàng ủng hộ cách giải thích theo chiều hướng thiên sai. Viên đá quý giá mà Đức Chúa tuyển chọn để xây dựng dân Ngài sẽ là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia của Ngài.

“Kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng. Vậy, vinh dự cho anh em là những người tin”, trong câu này, chữ “vinh dự” đối lập với chữ “thất vọng”; nhưng đồng thời chữ “vinh dự” theo từ Hy lạp này cũng có nghĩa là “giá trị” vì thế gợi lên viên đá quý chính là Đức Kitô; nghĩa là trong Đức Kitô, những người tin cũng trở nên những viên đá quý. Những sắc thái ngữ nghĩa của bản văn khó diễn tả cho hết được.

 B- Cớ vấp ngã

Thánh Phê-rô tiếp tục tìm kiếm trong Kinh Thánh tại sao dân Do thái cứng lòng tin. Thánh nhân kết hợp Tv 118: 22: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” với Is 8: 14: “Một hòn đá làm cho vấp, một hòn đá làm sẩy chân” vào trong cùng một câu trích dẫn. Thánh Phê-rô lấy lại hình ảnh này để chứng minh trước Thượng Hội Đồng, sau khi thánh nhân bị bắt: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho chỗi dậy từ cõi chết… Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4: 10-11).

Thánh nhân nói trong bài đọc hôm nay, “Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy”. Đây không là chứng nhận số phận đã định trước, nhưng lời ta thán buồn phiền trước việc lời các ngôn sứ được ứng nghiệm, các ngài đã thấy trước sự loại bỏ này.

Đức Giêsu đã trích dẫn cũng chính lời tiên báo của Tv 118 sau khi đã kể dụ ngôn những tá điền sát nhân: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21: 42-43).

Dân Thiên Chúa mới này, dân mà thánh Phê-rô viết cho họ, đó là những dân ngoại trở lại đạo rất đông. Chính đó là những tước hiệu tuyệt vời mà xưa kia Đức Chúa đã trao tặng cho dân Ít-ra-en, từ nay được áp dụng cho dân mới này: “Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa…”.

TIN MỪNG (Ga 14: 1-12)

Đoạn văn này được định vị ở phần đầu của diễn từ cáo biệt mà Đức Giêsu ngỏ lời với các môn đệ của mình trong bữa ăn cuối cùng mà Ngài tham dự với họ.

1. Bối cảnh

Trước khi rời bỏ họ để bước vào cuộc Khổ Nạn của mình, Ngài nói với họ thật thân thương và trìu mến: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”. Ngài cố làm cho các ông hiểu biết hơn con người của Ngài và sứ mạng của Ngài. Ngài gợi lên tương lai theo cung bậc ngôn sứ. Ngài vừa mới loan báo cho họ một người trong họ phản bội Ngài và cho Phê-rô biết ông sẽ chối Ngài.

Nỗi buồn phiền chắc chắn hiện lên trên gương mặt của họ, vì Đức Giêsu nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến!”. Tiếp đó, Ngài ra sức cũng cố niềm tin của họ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Là những người Do thái mộ đạo, các Tông đồ tin vào Đức Chúa, nhưng họ không thể nào hiệp nhất giữa Đức Giêsu và Đức Chúa, vị Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Có thể nào Đấng Mêsia là chính Thiên Chúa sao? Vì thế, Đức Giêsu sẽ nhấn mạnh sự duy nhất của Ngài với Cha Ngài. Diễn từ của Ngài sẽ xoay quanh sự duy nhất này. Độc thần giáo tuyệt đối của Do thái giáo bất khả chuyển lay, nhưng đó không là một điều hiển nhiên.

Đức Giêsu sẽ trấn an các môn đệ theo hai cách: khi gợi lên rằng họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần này) và khi loan báo cho họ rằng Ngài sẽ hiện diện bên cạnh họ theo hình thức khác qua việc sai phái Thần Khí của Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần tới).

2. Họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài

“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở”. Căn nhà ở miền Pa-lét-tin có kích thước nhỏ bé, vì thế để làm cho các môn đệ hiểu rằng có chỗ cho nhiều người trong nhà Cha Ngài, Đức Giêsu gợi lên nhiều chỗ ở, nhưng Ngài không đặt bất kỳ thứ bậc của những chỗ ở này, không nói về nhiều cấp độ khác nhau trong hạnh phúc thiên giới. Ngài xác định rằng chính Ngài sắp xếp: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.

“Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đức Giêsu không hứa hẹn một cuộc hội ngộ với các môn đệ vào thời cánh chung, nhưng cái chết sắp đến của Ngài sẽ mở rộng nhà của Cha Ngài, như thế cái chết là lối vào sự sống. Chúng ta đọc các bản văn này chính xác sau lễ Vượt Qua bởi vì biến cố vượt qua soi sáng những lời này. Tuy nhiên, các môn đệ chưa nhận được ánh sáng này, vì thế họ không hiểu, họ xao xuyến. Thánh Tôma là một con người thực tiễn, thích những chính xác cụ thể, hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu?”.

Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giêsu gặp phải sự ngộ nhận này. Ngài thường lợi dụng sự ngộ nhận này để khai triển cuộc đối thoại đi xa hơn và dẫn đưa người đối thoại của Ngài vào trong thế giới của những thực tại vô hình.

3. “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”

Chữ “đường” thuộc từ vựng tôn giáo của Do thái giáo: chữ này chất nặng lịch sử, nhắc nhớ cuộc hành trình băng qua sa mạc và đám mây sáng chói soi lối chỉ đường về Đất Hứa. Vào thời trở về từ cuộc lưu đày, một sứ giả “đã chuẩn bị con đường cho Đức Chúa”. Đức Giêsu đã lấy lại hình ảnh này lần đầu tiên khi gợi lên rằng “con đường dẫn đến sự sống” thì chật hẹp, trong khi con đường dẫn đến họa diệt vong thì rộng mở thênh thang (Mt 7: 8).

Trong Tin Mừng Gioan, chữ “đường” chỉ một thực tại sâu xa hơn. “Thầy là đường”: Chính Đức Giê-su là đường, không phải chỉ bởi giáo huấn của Ngài, nhưng bởi vì con người của Ngài là sự hiện diện thần linh. Ẩn dụ “Đường” nối kết với ẩn dụ Cửa: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10: 9).

“Thầy là Sự Thật”. Đức Giêsu đã mặc khải Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Cha Ngài cho con người. Ngài là phát ngôn viên của Cha: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra”. Ngài là chứng nhân của Sự Thật.

“Thầy là Sự Sống”. Đức Giêsu là Thiên Chúa đang sống giữa con người, vị Mục Tử đến cho chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10: 10). Ngài là “bánh ban sự sống” và Lời Ngài cũng là sự sống: “Ai tuân giữ lời tôi sẽ không chết bao giờ”, v.v…

Nói cho cùng, Đức Giê-su là “Đường” dẫn chúng ta đến “Sự Thật và Sự Sống”. Nhưng Ngài cũng là “Sự Thật và là Sự Sống”. Vì thế, ai đi theo Ngài, thật sự sống trong “Sự Thật và Sự Sống” ngay khi còn sống trong trần thế rồi.

4. Biết Đức Giêsu chính là biết Cha Ngài

Vì muốn các môn đệ Ngài thấu hiểu hơn nữa mầu nhiệm con người của Ngài, Đức Giêsu tiếp tục gợi lên chân tính của mình. “Ấy vậy, chân tính của Ngài chính là Con Thiên Chúa”.

“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy”. Trong Tin Mừng thứ tư, động từ “biết” có một ngữ nghĩa rất mạnh: động từ này diễn tả một nhận thức của trí tuệ được tình yêu soi sáng, một sự thông hiệp trong mối tâm giao thật sự. Sự hiểu biết tròn đầy là sự hiểu biết hổ tương giữa Cha và Con. Sau này, trong lời cầu nguyện của Ngài, Đức Giêsu nói: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17: 3). Các môn đệ nhận biết Cha rồi vì họ tin vào Con, và sống trong tình yêu của Ngài. Đức Giêsu, nên một tròn đầy với Cha, nói: “Nếu anh em biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết và đã thấy Ngài”.

Chính lúc đó thánh Philipphê góp phần vào câu chuyện. Chúng ta biết vị Tông Đồ này chỉ qua Tin Mừng Gioan, trong đó ông xuất hiện bốn lần: ơn gọi của Philipphê (Ga 1: 43), bánh hóa nhiều (Ga 6: 5), những người Hy lạp xin được gặp Đức Giêsu (12: 21) và đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 14: 8). Philipphê vốn bản tính ngay thẳng và nhiệt thành, ông đòi hỏi một cuộc “thần hiển”, ông muốn “thấy Thiên Chúa”. Như thế là mãn nguyện lắm rồi. Khát vọng này là khát vọng của tất cả mọi người: thấy Thiên Chúa, biết chắc chắn Ngài hiện hữu, thấu hiểu mầu nhiệm cao vời nhất.

Như khát vọng của tất cả mọi nguời Do thái, ông ao ước được thấy Thiên Chúa hiện diện trong uy nghi sáng chói như cuộc thần hiển trên núi Xi-nai xưa. Thế nhưng cuộc thần hiển theo kiểu ấy không còn nữa kể từ ngày Ngôi Lời Nhập Thể. Thiên Chúa sẽ không còn xuất hiện trong sấm chớp chói lòa khiến con người khiếp sợ không dám đến gần, nhưng hiện diện trong hình hài nhân loại của Đức Kitô, để từ đây ai thấy Chúa Giêsu là thấy Đức Chúa Cha.

4. Công việc của Ngài chính là chứng nhân

Sau khi nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Ngài và Cha Ngài, Đức Giêsu nói tiếp: “Anh em cứ tin Thầy đi: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không, thì ít ra hãy tin vì công việc Thầy làm”. Đức Giêsu nhắc cho những tâm trí quá thực tiễn này nhớ công việc mà Ngài đã làm: đây không ám chỉ đến những dấu lạ của Ngài cho bằng sứ vụ và hành động cứu độ của Ngài. Đức Giêsu hứa với các môn đệ Ngài rằng họ sẽ làm những việc Ngài làm, nhưng còn làm những việc lớn lao hơn thế nữa, bởi vì công việc của họ sẽ được mở rộng khắp cùng cõi đất.

Từ nay, không ai có thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô. Lời dạy này tóm gọn tất cả Tin Mừng.

Về mục lục

 

NHÀ CHA THẦY

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Bài Tin Mừng hôm nay thường được đọc trong thánh lễ an táng hoặc thánh lễ cầu hồn. Vào lúc tang thương nhất của kiếp sống nhân sinh, tức là khi đối diện với cái chết, những lời Chúa Giêsu đem lại cho chúng ta niềm hy vọng lạc quan. Dù sống chết âm dương cách biệt, chúng ta vẫn tin rằng người thân yêu của chúng ta không tan biến vào cõi hư vô, nhưng đến nơi Chúa Giêsu đã dọn sẵn. Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh rất ý nghĩa và sinh động, đó là nhà Cha. Nhà Cha bao giờ cũng gợi nên tình cảm thân thương nồng ấm, là nơi trú ẩn an toàn trước những thử thách thị phi của người đời. Nơi nhà Cha, mọi lỗi lầm đều được tha thứ bao dung.
 
Những lời an ủi ngọt ngào của Chúa không chỉ hướng tới những người đã chết, mà còn giúp chúng ta, là những người đang sống, suy tư về ý nghĩa cuộc đời. Chúa nhật tuần trước, hình ảnh người Mục Tử nhân lành khẳng định với chúng ta, trên đường đời dương thế, chúng ta có Chúa Giêsu hướng dẫn, nhờ đó, chúng ta không sợ lạc đường. Người dẫn chúng ta như mục tử dẫn chiên tới suối mát lành và đồng cỏ xanh tươi. Chúa nhật hôm nay, Phụng vụ khẳng định với chúng ta, Đấng Phục sinh chuẩn bị và dọn sẵn cho chúng ta một nơi cư ngụ bền vững trên trời, nơi mà Người gọi là “Nhà Cha”. Đây không phải là một lời hứa suông, nhằm ru ngủ chúng ta giữa những lo toan bận rộn trần thế. Trái lại, đó là một khẳng định chắc chắn. Bởi lẽ Chúa Giêsu từ Chúa Cha mà đến. Người có sứ mạng nói với chúng ta về Chúa Cha. Thánh Gioan đã khẳng định: “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ, Con Một Ngài từ cung lòng Chúa Cha đến nói với chúng ta về Chúa Cha” (Ga 1,18). Vì vậy, những gì Chúa Giêsu nói với chúng ta về Nước trời và về Chúa Cha đều lả những điều chân thật và xác tín.
 
Đôi khi chúng ta tự hỏi: cái chết và sự phục sinh của Chúa có liên quan gì đến chúng ta, những người sống hai mươi thế kỷ sau Chúa Giêsu. Kinh Thánh đưa ra cho chúng ta câu trả lời: Đức Giêsu Phục sinh mở lối cho chúng ta về quê trời. Người cũng cho chúng ta một cái nhìn mới mẻ lạc quan về kiếp sống nhân sinh. Con người sau khi sống cuộc đời trần thế, nếu họ sống ngay chính và thánh thiện, được mời gọi về hưởng phúc vĩnh cửu nơi thiên quốc. Đức Giêsu gọi nơi ấy là nhà Cha. Còn hình ảnh nào sinh động và thân thương hơn là nhà Cha, nơi đó mình được sinh ra và lớn lên chập chững vào đời? Sau khi kết thúc hành trình trần thế, theo ngôn ngữ đời thường gọi là sau khi chết, người tin Chúa sẽ được về nhà Cha, là đấng sinh ra mình, là cội nguồn nơi chúng ta hướng về. Nhà Cha là nơi thân thương trìu mến. Nhà Cha cũng là nơi mọi người con, dù hư đốn đến đâu chăng nữa, cũng có một chỗ để cư ngụ và được đón tiếp. Nơi nhà Cha, những người con dù bất hiếu đến mức nào, nếu thành tâm sám hối, đều được tha thứ và yêu thương. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh thân thương này để nói về đích điểm của người tín hữu. Những ai xa quê đều hiểu nhà Cha có ý nghĩa như thế nào. Đó là nơi mọi người, nhất là khi gặp thất bại trên con đường công danh sự nghiệp, đều mong tìm về, với hy vọng tìm lại nơi trú ẩn bình yên.
 
Chúa Giêsu Phục sinh đã đi trước chúng ta để dọn đường cho chúng ta. Người luôn muốn những điều tốt đẹp cho chúng ta, mặc dầu chúng ta bất xứng và tội lỗi. Thánh Phêrô đã khẳng định điều này (Bài đọc II). Người tín hữu phải luôn tự hào, vì mình là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa. Danh xưng và vinh dự này dẫn chúng ta đến bổn phận phải loan truyền quyền năng của Thiên Chúa giữa các dân nước và trong môi trường chúng ta đang sống. Bởi lẽ những ai đã cảm nghiệm được những điều tốt lành Chúa đã làm đối với cuộc đời của mình, thì họ có bổn phận phải tuyên xưng Danh Chúa, đồng thời nói cho môi trường xung quanh rằng: Chúa đã làm cho tôi những điều kỳ diệu. Ngài yêu thương tôi và hôm nay, ngay lúc này, Người đang hiện diện để đỡ nâng tôi trong cuộc đời còn đầy những gian nan vất vả và những thử thách cam go khắc nghiệt trên đường đời.
 
Tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, cộng đoàn tín hữu luôn thi hành sứ mạng phục vụ. Tác giả sách Công vụ Tông đồ kể cho chúng ta vào thời sơ khai, Giáo Hội đã ý thức được sứ mạng quan trọng này và đã thiết lập bảy phó tế đầu tiên chuyên chăm lo việc đáp ứng những nhu cầu vật chất cho cộng đoàn. Nhờ đó, Giáo Hội vừa rao giảng Lời Chúa, vừa phục vụ những nhu cầu trần thế của con người. Giáo Hội vừa thi hành sứ mạng của Chúa Giêsu khi coi việc loan báo Lời Chúa là ưu tiên số một, vừa đáp ứng những nhu cầu bức thiết của con người mọi thời đại, nhằm nâng đỡ họ về tinh thần cũng như vật chất, để họ sống xứng với phẩm giá con người và nhờ đó, họ nhận ra Đấng Tối cao. Trong suốt hai mươi thế kỷ đã qua, Giáo Hội vẫn luôn trung thành với sứ mạng ấy.
 
Người công giáo là người đang tiến bước trong hành trình về quê trời. Tuy vậy, hướng về quê trời không làm cho họ quên đi những bổn phận trần thế. Bởi lẽ hạnh phúc nước trời chính là kết quả của một cuộc sống yêu thương vị tha và bác ái mà chúng ta thực hiện ờ đời này. Chúa Giêsu Phục sinh và là Mục tử đang hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Hãy nghe theo lời người. Hãy quảng đại tiến bước theo Người. Hãy chọn Người như lý tưởng hoàn hảo của đời sống chúng ta, để Người dẫn chúng ta đến bến bờ của hạnh phúc. Đó là Nhà Cha, nơi không còn u buồn và tang chế, nhưng là nơi hạnh phúc tràn đầy, là nơi Chúa Giêsu dọn sẵn cho chúng ta nơi nhà Cha vĩnh cửu.
 
Khi nghĩ đến cái chết, người ta thường lo sợ và coi như một điều xui xẻo. Nhưng cái chết là một thực tại gắn liền với kiếp nhân sinh. Không ai tránh khỏi cái chết, dù giàu có và nhiều tiền bạc. Khi đối diện với cái chết, người vô tín đồng nghĩa với sự trở về hư vô. Đối với người tin Chúa, chết là trở về nhà Cha. Chết là sự  biến đổi. Chết là cuộc vượt qua với Chúa Giêsu để về cõi sống. Nói cách khác, sự chết chỉ là sự biến đổi từ tình trạng hư nát hữu hạn sang tình trạng tồn tại vĩnh viễn.
 
Bài Tin Mừng hôm nay cũng được đọc trong lúc chúng ta chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Việc Chúa về cùng Chúa Cha mang nhiều ý nghĩa. Cụ thể đối với chúng ta là người tín hữu, Chúa về trời mà không xa chúng ta. Trái lại, Người vẫn ở với chúng ta như lời Người đã hứa. Nếu Người có đi xa, là để dọn chỗ cho chúng ta, để nhờ đó, chúng ta được ở cùng Người trong hạnh phúc vĩnh cửu. Đó là niềm hy vọng và là lý tưởng của người tín hữu chúng ta.

Về mục lục

.

ĐƯỜNG GIÊ-SU

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.

Chúa Giêsu là người mở đường.

Đi đâu cũng cần có đường. Không con đường nào tự nhiên có. Phải có người mở đường.

Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.

Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.

Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời. Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.

Chúa Giêsu là đường.

Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.

Chúa Giêsu là đích tới của con đường.

Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài. Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.

Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.

Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.

Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn hãy thử tìm ra những đặc điểm của con đường Giêsu (Vd: hiền lành, khiêm nhường…)

2) Bạn còn xa hay đã gần con đường Giêsu?

3) Bạn có mong đi trọn vẹn trong con đường Giêsu không? Nếu muốn, bạn cần những điều kiện nào nữa?

Về mục lục

.

CUỘC TRÒ CHUYỆN THÂN MẬT

Anna Cỏ may

Trong những thời gian Chúa Giêsu ở với các môn đệ, đã không ít lần thầy trò ngồi lại nói chuyện, đàm đạo thân mật với nhau. Hôm nay, Tin Mừng Gioan sẽ cho chúng ta biết một cuộc đàm đạo thân thiết giữa Chúa Giêsu với các môn đệ. Cuộc đàm đạo này diễn ra sau khi Chúa Giêsu loan báo Giuđa sẽ phản bội. Đây cũng là lời cáo biệt, lời hứa hẹn Chúa Giêsu sẽ quay trở lại với các môn đệ. Trong cuộc đàm đạo có bốn môn đệ là Phêrô, Tôma, Philípphê và Giuđa. Nhưng Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay nói về Chúa Giêsu với hai mộn đệ là Tôma và Philípphê.

        Khi nghe Chúa Giêsu nói những lời cáo biệt cùng câu trả lời dành cho ông Phêrô: “ Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được, nhưng sau này anh sẽ đi theo” (x. Ga 13,36). Có lẽ các ông lo sợ nên Chúa Giêsu đã an ủi. Ngài dùng những lời nói thân mật, xác tín và đầy tâm tình để làm cho họ vững tin. Ngài nói: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14, 1- 4).

        Chúa Giêsu tỏ lộ và xác quyết ý định của Thiên Chúa về chỗ ở. Chỗ ở đã có, nhưng chưa dọn sẵn vì công trình cứu chuộc chưa thực hiện. Nhờ sự chết, Ngài dọn sẵn chỗ ở và nhờ sự thăng thiên, Ngài mở cửa Nước Trời, để rồi Ngài lại đến và đem các ông về cùng với Ngài.

        Khi Thầy đang nói, thì ông Tôma vẫn đang bối rối và chia trí, không nghe Thầy nói thì hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”. Chúa Giêsu đang nói về việc Ngài về với Chúa Cha nên Ngài trả lời cho ông: “Chính Thầy là con đường, là sự thật, là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (x Ga 14, 5-6 ). Ngài nói cho các ông hay rằng: Đường để các ông đi là những con đường Chúa đã và đang đi, sự thật để các ông tin và sự sống để các ông chia sẻ cho nhau.

Chúa Giêsu là sự sống, là con của Chúa Cha, cùng đồng bản thể với Chúa Cha nên Ngài muốn các ông hiểu rõ hơn nữa. Ngài nói: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (x Ga 14, 7).

        Nghe những lời ấy, Philípphê liền hình dung ngay một cuộc hiển dung như ông đã từng nghe. Vì thế ông hỏi Thầy một cách thật thà: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” (Ga 14, 8). Với giọng âu yếm, có chút trách móc, Chúa Giêsu nói: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’? (Ga 14, 9). Chúa Giêsu đã công bố cho ông rõ về sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhưng để chứng minh điều ấy Chúa Giêsu tiếp tục cho các ông biết rằng Ngài không tự mình nói ra, chính Chúa Cha ở trong Ngài, và hãy nhìn và tin vào việc  Ngài làm (x Ga 14, 10-11).

        Chúa Giêsu đã khẳng định và công bố cho ông Tôma rằng Ngài là con đường, là sự thật và là sự sống. Còn ông Philipphê, Ngài nói lên chân lý về sự đồng bản thể của Ba Ngôi Thiên Chúa. Những lời ấy sẽ giúp chúng ta nhìn thấy rõ con đường của chúng ta đi và cho chúng ta thấy sự hiệp nhất nên một của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngoài ra chúng ta thấy sự yếu đuối, đa nghi, thiếu lòng tin và sự hiểu biết của các môn đệ khi ở cùng với Chúa Giêsu. Vậy sao các ông vẫn được Chúa tuyển chọn, yêu thương, dạy dỗ, sai đi và còn chúc bình an nữa?

        Vậy chúng ta đừng lo sợ gì về bản thân chúng ta mà hãy tin vào Chúa. Năng học hỏi tìm hiểu Lời Ngài qua bài Tin Mừng hằng ngày. Vì Ngài mãi luôn dẫn dắt chúng ta đi trên muôn nẻo đường.

        Lạy Chúa Giêsu, Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Xin cho chúng con vững tin vào Lời Chúa, để chúng con đứng dậy hân hoan lên đường về bến bình an là Nước Trời. Amen.

Về mục lục

.

ĐƯỜNG GIÊSU

Bông hồng nhỏ

Trời nắng đổ lửa. Đường xấu, gập ghềnh, khúc khuỷu. Người lữ khách bước đi miệt nhoài. Mặt đường in chiếc bóng liêu xiêu của người lữ hành. Bàn chân trần không chịu được sức nóng của mặt đường sỏi đá.

Trên một hành trình dài, người ta dễ dàng phàn nàn vì tình trạng con đường: đường ổ gà ổ voi, đường sục bùn lấm bẩn, đường gai góc sỏi đá,… Người ta thích một con đường rộng rãi, thênh thang và bằng phẳng hơn là một con đường chật hẹp khó đi.

  1. Đức Giêsu- con đường mới

Đức Giêsu nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.” (x. Ga,14,6a). Con đường Giêsu là con đường như thế nào, con đường ấy có gì đặc biệt để có thể dẫn chúng ta đến sự thật và sự sống? Con đường Giêsu là con đường duy nhất dấn đến Chúa Cha. “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (x. Ga 14,6b).

Nhìn vào cuộc đời của Đức Giêsu, ba mươi năm sống trong gia đình Nadaret, Đức Giêsu âm thầm lắng nghe lời Chúa Cha. Ngài học làm người, lớn lên trong ân nghĩa Chúa. Thời kỳ đã mãn, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ  và ra đi rao giảng Tin Mừng, mạc khải về Chúa Cha. Ba năm, những niềm vui mà các môn đệ nhận lãnh nhiều quá thể. Danh thơm tiếng tốt của Thầy đồn ra khắp các vùng lân cận. Dân chúng tung hồ Thầy, muốn đặt Thầy làm vua. Cuộc đời các ông sẽ lên như diều gặp gió. Đời người đến đây xem như đã công thành danh toại. Phải chăng, đây chính là con đường mà Thầy Giêsu nói đến?

Theo chân Thầy, chúng ta ngậm ngùi trong những lần Thầy khóc thương trước bao cảnh đời lầm than khốn khó. Những ngày cuối đời, Thầy bước đi trên một con đường gần như đơn độc, cô đơn và hãi hùng quá. Các môn đệ không ai hiểu được để chia sẻ với Thầy những nỗi niềm. Con đường ấy chỉ mình Thầy bước đi. Khi báo trước ngày mình chịu nạn, Đức Giêsu nói rõ, không úp mở. Các môn đệ ai nấy buồn rầu hết sức nhưng chẳng ai dám lên tiếng hỏi. Có kẻ đứng ra can ngăn Thầy: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải những chuyện ấy.” (x. Mt 16,22).  

Nhưng đường Thầy đi, Thầy nhất định sẽ bước đến cùng. Bởi Thầy yêu họ đến cùng. Đường hiến tế trên đồi Canvê, Thầy chịu đóng đinh để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Đường Thầy đi là đường tình yêu hiến tế.

  1. Trải nghiệm trên đường

Trước cái chết tức tưởi của Thầy, các ông buồn đau, sợ hãi. “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (x. Ga14,1). Tương lai tối mịt, giấc mơ ngày nào như bong bóng vỡ tan tành, tựa làn khói tan đi. Đức Giêsu biết trước các môn đệ sẽ xao xuyến. Trước khi mọi việc xảy đến, Đức Giêsu an ủi và dạy dỗ các ông.

Theo chân Thầy là chấp nhận từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Con đường hẹp hứa hẹn những vấp ngã, nhưng theo gương Thầy, dù ngã quỵ nhiều lần các ông vẫn vực dậy để bước tiếp.  Đường tình yêu là đường hiến tế, tha thứ và yêu cho đến cùng. Đó là con đường mà chính Thầy đã đi qua. Chính Thầy là con đường của sự thật và sự sống. Nơi Thầy, chúng ta được dấn đến Chúa Cha. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (x.Ga14,9b).

  1. Dấn thân cho con đường sứ vụ

Muốn bước đi trên con đường Giêsu đồi hỏi mỗi chúng ta phải bước vào cuộc khám phá khuôn mặt của Ngài. Theo Chúa, chúng ta biết trước con đường mình sẽ đi chắc chắn sẽ gặp những thách đố. Bởi thế gian thích bóng tối còn những ai bước theo Thầy sẽ đi trong ánh sáng. Ngày xưa Chúa chịu thử thách trăm bề nhưng tình yêu Chúa Cha nơi Ngài đã vượt lên trên mọi trở ngại và Thầy đã chiến thắng tử thần. Sự chết chẳng có quyền chi trên Người. Với một tâm hồn đầy lửa yêu mến Chúa và có “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5, 14), chúng ta sẽ hiên ngang làm chứng cho Nước Trời. Dù ở thời đại nào, người môn đệ cũng được mời gọi từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy. Bước vào cuộc hiệp nhất, nên một  với nhau như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Như thế, bước trên đường sứ vụ, dù làm việc gì, chúng ta cũng hướng về Thiên Chúa và làm vinh danh Chúa hơn. Để đạt được điều đó, mỗi chúng ta phải nỗ lực lắng nghe và thực hành lời Chúa mỗi ngày trong cuộc sống. Ai sẵn sàng bước đi trên con đường Giêsu, người ấy sẽ đến đích là Nhà Cha dấu yêu.

Lạy Chúa, đường Giêsu đòi hỏi chúng con can đảm theo chân Thầy. Xin Chúa gia tăng đức tin và lòng mến cho chúng con. Nếu có khi nào chúng con ngã gục, xin Chúa dìu chúng con lên và dấn bước chúng con. Amen.

Về mục lục

.

THẦY LÀ ĐƯỜNG

 Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

            Chúa Giêsu dạy: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.

  1. Đường đi là phương tiện liên kết mọi người lại với nhau. Đường đi còn là phương tiện để mọi người gặp gỡ nhau. Sống trên mặt đất, loài người vạch ra không biết bao nhiêu là đường đi: Từ những con đường mòn nhỏ bé, quanh co, xuyên qua rừng, băng qua núi như đường mòn Hồ Chí Minh, đến những con đường cái quan, đường sa lộ: rộng thông thanh, tráng nhựa nhãn bóng. Ngoài ra, con người còn vạch ra những con đường mơ hồ, mênh mông ngoài đại dương, hay trên không trung. Con đường nào cũng có khởi điểm và đích điểm.

            – Loài người chúng ta là khách bộ hành, là khách đi đường. Là lữ khách đi trên đường trần. Bước lên đường, người đi phải ngoan ngoãn, phải tín nhiệm con đường mình đi.

            Ngoan ngoãn: Vì khi đi, khách bộ hành không được rẽ ngang mà phải đi theo hướng chỉ của con đường.

            Tín nhiệm: Vì khi đã chọn đứng đường hướng, thì chắc chắn théo nào ta cũng tới đích.

            – Con đường tuy câm nín, không nói năng chi, nhưng rất oai vệ và có vẻ độc tài. Dường như con đường nào cũng nói với khách bộ hành rằng: “Bao lâu ngươi còn ở lại trên con đường, bấy lâu ngươi được an toàn. Bao lâu ngươi rẽ trái hay rẽ phải, ngươi sẽ bị lạc lối và không bao giờ tới đích”.

  1. Chúa Kitô là con đường, vì Chúa muốn liên kết đất với trời, liên kết loài người với Thiên Chúa. Từ khi loài người phạm tội, con đường dẫn tới hạnh phcú vinh quang, con đường tới Thiên Chúa bị phá hoại, bị đứt quãng. Chúa Kitô đã tái lập giao thông, đã trở thành “chiếc cầu” làm cho con đường về nước trời được mở lại như cũ. Ai muốn đến với Thiên Chúa, muốn về quê trời đều phải đi con đường đó. Con đường Chúa là con đường độc đạo, tuy gồ ghề, chật hẹp, nhưng dẫn tới đích. Vì Chúa Giêsu đã từng dạy: “Đường chật hep và nhiều chông gai là con đường đưa ta lên quê trời hạnh phúc, còn con đường rộng thênh thang và nhiều hoan lạc, là con đường đưa ta đến chốn diệt vong”.
  2. Là khách bộ hành, con người được tự do chọn một trong hai con đường vừa nói:

            – Đa số người đời chọn con đường rộng thênh thang, vì con đường này dễ dãi, hợp với tính ươn lười của con người. Đi trên con đường này, không phải khó khăn vất vả. Nhưng ta đã biết tử thần luôn luôn rình rập trên con đường rộng thênh thang. Từ ngày người ta làm ra những xa lộ, hàng ngày biết bao tai nạn xe cộ đã xảy ra và giết chết hàng ngàn, hàng vạn người trên các trục giao thông ở khắp thế giới.

            – Ở thành phố Nữu Ước, nước Mỹ, một đêm lễ Chúa Giáng Sinh, chết tới 2000 người về tai nạn xe cộ. Riêng ở xa lộ Biên Hòa, không ngày nào không xảy ra tai nạn đụng xe chết người. Đúng như lời Chúa Giêsu phán: “Đường rộng thênh thang dễn con người đến chốn diệt vong, đến chỗ chết, nhất là chết đời đời trong hỏa ngục”.

            – Nhưng có một số người khôn ngoan, can đảm, chọn con đường gồ ghề, chật hẹp. Con đường này là con đường Chúa đã chọn, đã đi. Ai đi con đường này phải bỏ mình, vác thánh giá hằng ngày theo chân Chúa, phải khép mình vào kỷ luật, phải giữ giới răn Chúa, phải sống hy sinh vất vả, nghèo khó, phải chịu những đau khổ thử thách ở đời này. Nhưng con đường này đưa tới chiến thắng, đi tới hạnh phúc bất diệt, đưa tới nước trời.

            – Nhận mình là đường, Chúa Kitô muốn chúng ta đi theo con đường của Chúa. Đường của Chúa là đường chật hẹp, hy sinh. Đường của Chúa là đường sống khó nghèo, khiêm nhường, bác ái. Chỉ đi theo con đường Chúa đã vạch mới dẫn con người tới hạnh phúc bất diệt.

            Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin hướng dẫn con bướ theo nước bước của Ngài.

Về mục lục

.

AI BIẾT TÔI LÀ BIẾT CHÚA CHA

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”, thiết tưởng lời thỉnh cầu của tông đồ Phi-lip-phê cũng đồng thời diễn tả ước nguyện sâu xa của mỗi người chúng ta, các Ki-tô hữu hôm nay. Như biết bao người ‘có đạo’ khác, tôi vẫn đinh ninh rằng: mình thật sự tin có Thiên Chúa, và mình có trách nhiệm phải nói, phải chứng minh, phải thuyết phục để mọi người cùng tin rằng: thật sự có Thiên Chúa, Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Thế nhưng thú thật, khi làm công việc đó tôi thấy mình cần phải là một triết gia, một nhà lý luận hơn là một tín hữu; đồng thời cũng nhận ra rằng, cho dầu có học hành thông thái tới mấy chưa chắc mình có thể thuyết phục nổi ai. Nhiều người trong chúng ta đã từng có lần tự vấn: có thật tôi biết, tôi tin cách xác thực Thiên Chúa, như thể tôi đã tận mắt thấy Ngài chưa? Trong thâm tâm biết bao người trong chúng ta vẫn thầm ấp ủ mộng ước một ngày nào đó mình sẽ được ‘thấy’ Thiên Chúa, qua một phép lạ nhãn tiền chẳng hạn, khi Ngài tỏ lộ cách công khai quyền năng và thượng trí khôn ngoan của Ngài…

Có thể cũng tương tự như thế đối với các môn đệ, cụ thể hai tông đồ Tô-ma và Phi-lip-phê; mong muốn được biết cách sâu hơn về Thiên Chúa đã là ước vọng hai ông ấp ủ từ lâu, đồng thời cũng là mục đích của việc các ông đi theo Thầy Giê-su. Chắc chắn các ông đã từng được nghe Thầy nói nhiều về Chúa Cha; tuy nhiên giữa những gì Thầy trình bày và khái niệm các ông có về Đức Chúa Cựu Ước xem ra chẳng mấy ăn khớp với nhau. Trong thâm tâm các ông vẫn mơ ước một ngày nào đó Đức Giê-su tỏ cho các ông được thấy Chúa Cha trong quyền uy sáng láng, như hình ảnh các ông vẫn có về Đức Chúa. Các ông đinh ninh rằng, chỉ như thế các ông mới cảm thấy toại nguyện: “xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!

Đức Giê-su tỏ thái độ vô cùng kinh ngạc trước lời thỉnh nguyện của các ông: “Tại sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” Quả thật, Người ngạc nhiên có lẽ vì vẫn yên trí rằng: sự hiện diện trần thế của Người hiển nhiên là để mạc khải Chúa Cha, rằng Người chính là Lời của Cha. Người coi như minh nhiên việc các môn đệ phải hiểu được điều căn bản đó. Vậy mà cho tới giờ này các ông vẫn hoàn toàn mù tịt! “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà… anh chưa biết thầy ư? Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người… Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.

Cuộc đối thoại trên cho chúng ta thấy: có rất nhiều cách để một người tin hoặc biết về Thiên Chúa; sơ đẳng nhất vẫn là người ta mơ hồ biết rằng có Thiên Chúa; sau đó người ta có thể biết thêm một vài yếu tính của Ngài như Ngài tự hữu, Ngài tạo dựng trời đất, Ngài quyền năng, thông minh, thánh thiện vô cùng… Đầu óc suy luận của con người có thể dẫn chúng ta tới một niềm tin, hay hiểu biết về Thiên Chúa đại loại như thế (các tôn giáo khác đều ít nhiều tin như vậy). Thế nhưng có một thứ ‘biết’ khác, thứ biết mà Tin Mừng sử dụng, đó là biết trong tương quan sống động và mật thiết mà chỉ có tiếp xúc trực tiếp mới có. Thứ ‘biết’ này nhất thiết cần ‘chạm tới’, hay ít ra qua một cầu nối cụ thể…, và như thế thì chỉ duy nhất một mình Giê-su Na-da-rét, Đấng từ cung lòng Thiên Chúa mà đến, mới có thể cho biết được: “Không ai đã lên trời (để mà thật sự hiểu biết được Thiên Chúa là ai), ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13). Thiên Chúa mà người Ki-tô hữu tin khác xa một trời một vực với Thiên Chúa của triết học, hay của các tôn giáo khác. Vì thế cho nên, dầu không phủ nhận những khái niệm về Đức Chúa Gia-vê của người Do Thái đương thời, Đức Giê-su, bằng lời giảng dạy nhưng nhất là bằng chính cuộc sống và cái chết thập giá của Người, đã tỏ lộ cho các môn đệ thấy một Thiên Chúa vô cùng độc đáo: “Ngài yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một… Ngài không lên án thế gian… nhưng muốn thế gian được cứu độ” (Ga 3:16-17).

Trong cụ thể, một linh mục như tôi đã bao giờ được ‘thấy’ Thiên Chúa như thế chưa, hay ít ra tôi đã có ‘hiểu biết’ nào về Người?;  Cái ‘biết’ nào chi phối cuộc sống tôi và làm nền tảng cho những gì tôi trình bày cho giáo dân trong hướng dẫn mục vụ? Rất có thể hình ảnh và hiểu biết mà tôi có về Thiên Chúa, sau bao năm tu học, vẫn quá nặng tính triết lý hay thần học, hay quan niệm cũ của Cựu Ước, chứ chưa thực sự là diện mạo mà Đức Giê-su rắp tâm trình bày? Tôi vẫn thấy một Đức Chúa hùng mạnh, thưởng phạt công minh vừa dễ hiểu lại vừa thiết thực hơn, nhất là trong việc dạy cho các tín hữu làm lành lánh dữ…; thậm chí đôi lúc tôi còn dám đối kháng chính Đức Giê-su với Cha của Người khi khảng định: cái chết của Người trên thập giá là để làm nguôi cơn thịnh nộ công thẳng của Chúa Cha?! Chính cái lô-gích hạ đẳng, lối suy nghĩ cách nhân cách hóa Thiên Chúa đó đã bị Đức Giê-su thẳng thừng gạt bỏ, vì nó phá vỡ nội dung Tin Mừng của sứ điệp cứu độ: Người và Chúa Cha chỉ là một, không thể bị chia cắt hay đối kháng nhau; “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Khi khảng định Thiên Chúa là Đấng từ bi và giầu lòng thương xót, chúng ta không ngụ ý chỉ nói riêng về Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết trên thập giá để cứu độ chúng ta! Cái chết đó là một khảng định hùng hồn rẳng, chính Thiên Chúa – toàn bộ Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, là giầu lòng thương xót, là từ bi nhân hậu. Ta nghe biết điều đó qua những lời giảng dạy của Đức Giê-su; ta đã thấy điều đó trong cái chết Thập Giá tự hiến của Người, và ta gọi điều đó là Tin Mừng, là niềm tin cất chúng ta khỏi mọi nỗi sợ hãi, kể cả trong trường hợp ta có lỗi phạm và sa ngã vào những tội tày trời. Thấy và biết một Thiên Chúa như thế sẽ làm cho toàn bộ đời sống ta trở thành một niềm vui bất tận, cho dầu vẫn tồn tại nơi bản thân những yếu đuối và thất bại nặng nề. Tông đồ Phao-lô, trong chương 5 thư gửi các tín hữu Rô-ma, khảng định với chúng ta rằng: niềm tin Ki-tô hữu chính yếu hệ tại ở điều này.

Như thế trong tư cách Ki-tô hữu, tôi không cần cầu xin được thấy Chúa Cha…, vì Đức Giê-su đã cho tôi thấy tất cả rồi. Người cho tôi được thấy tỏ tường bộ mặt thật của Thiên Chúa qua Thập Giá  và cái chết tự hiến của Người, và đó là bộ mặt rất thực của một Thiên Chúa nhân hậu, từ bi và cứu độ!

Lạy Chúa từ nhân, kể từ lần được thoáng gặp Chúa qua biến cố chết lâm sàng tại Mongolia vào cuối năm 2007, con mới thực sự được‘thấy’ Chúa, trước hết như một Thiên Chúa vôcùng nhân từ và hay thương xót. Lẽ ra con đã phải nhận biết điều này từ lâu trước rồi, từ những năm tháng khi con học giáo lý và thần học. Tạ ơn Chúa vì đã cho con được‘thấy’ với cảm nghiệm, Chúa Cha là như thế, và điều đó đã đủ cho con lắm rồi. Con cầu xin để tất cả các Ki-tô hữu đều cùng con có sự hiểu biết qua cảm nghiệm rằng: Thiên Chúa của Đức Giê-su là như thế; để niềm vui của chúng con được nên trọn vẹn, và để chúng con vui mừng lên đường loan báo Tin Mừng về một Thiên Chúa yêu thương cứu độ cho hết thảy mọi người. A-men.

Về mục lục

.

SỐNG HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI

Lm. GB. Trần Văn Hào

Chúa Kitô Phục sinh đã khai sinh Hội thánh, nhiệm thể của Ngài. Chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin : Tôi tin Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Đây là 4 thuộc tính căn bản của mầu nhiệm Hội thánh. Trong các Chúa nhật Phục sinh, Giáo hội chọn các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ để dẫn đưa chúng ta đi sâu vào cảm thức về Giáo hội (Sensus Ecclesiae). Ý thức thuộc về Giáo hội giúp chúng ta kiện cường đức tin và cũng là cách thế thể hiện niềm tin vào Đấng Phục sinh một cách rõ nét nhất.

Tôi tin Giáo hội Duy nhất.

Trong bài đọc 1, tác giả sách Tông đồ Công vụ thuật lại một số hoạt động của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi với con số tín hữu khá đông, gồm cả những người gốc Do Thái và những người gốc Hy Lạp. Công việc mỗi lúc một nhiều, nên 12 Tông đồ không thể quán xuyến hết, nhất là cần có người đảm trách việc phân phối lương thực hằng ngày. Cuối cùng, các Tông đồ đã chọn thêm 7 phó tế, đặt tay trên các ông để các ông thi hành tác vụ. Trong thư gửi Giáo đoàn Êphêsô chương 4, Thánh Phaolô đã liệt kê ra 5 đặc sủng trong Hội thánh : Ơn làm Tông đồ; ơn làm Ngôn sứ; ơn đi Rao giảng Tin mừng; ơn làm Người lãnh đạo và ơn Dạy dỗ. Nhưng tất cả những đặc sủng ấy đều hợp nhất trong đức tin, để mọi người với những tác vụ khác nhau, đều gắn kết nên một với Đức Kitô là đầu (Eph 4,11-13). Vì vậy, Giáo hội vẫn luôn là một thực thể duy nhất, không thể bị chia cách, cho dù trong quá khứ, Giáo hội hữu hình vẫn có những vết thương của sự rạn nứt. Công đồng chung Vatican II khi nói về Giáo hội đã dùng thuật ngữ ‘Hiệp nhất trong dị biệt’ (Unity in Diversity). Nét giáo lý này cũng được thánh Phaolô nói tới rất nhiều trong các lá thơ Ngài viết, ví dụ trong thơ gửi giáo đoàn Galat, Thánh nhân viết : “Anh em đều thuộc về Đức Kitô, không có chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả chỉ là một trong Đức Kitô (Gal 3,28).

Đọc lại sách Tông đồ Công vụ, chúng ta cũng nhận ra những dị biệt trong cộng đoàn đầu tiên tại Giêrusalem. Hai Tông đồ trưởng là Phaolô và Phêrô cũng có những xung khắc trong quan điểm, nhất là về việc có cần phải cắt bì hay không cắt bì. Công đồng đã được triệu tập, và chính Thánh thần đã hóa giải những khác biệt để tất cả trở nên một lòng một trí với nhau. Thánh thần là sự sống của Đấng Phục sinh, và Thần Khí luôn hoạt động trong Hội thánh để nối kết mọi người trong một nhiệm thể duy nhất.

Tôi tin Giáo hội Thánh thiện.

Đây là tín điều thứ hai nói về Hội thánh. Trong phụng vụ hôm nay, Giáo hội trích đọc lại lá thư thứ nhất của Thánh Phêrô. Ngài mời gọi các tín hữu hãy trở nên những viên đá sống động để xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng, vì Thiên Chúa đã chọn chúng ta để hình thành nên hàng tư tế thánh, dâng của lễ lên Thiên Chúa. Thánh Tông đồ viết : ‘Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa (1P 2,9)’. Đức Giêsu là đầu và chúng ta là chi thể. Ngài thông truyền sự thánh thiện của Ngài cho tất cả chúng ta, bao lâu chúng ta còn gắn kết với Ngài như cành nho tháp nhập vào thân cây nho. Vì vậy, thánh Phaolô vẫn quen gọi các tín hữu là các ‘Đấng Thánh của Thiên Chúa’. Chúng ta là thánh không phải chỉ khi nào được Giáo hội tuyên phong (canonize), nhưng tự bản chất ơn gọi Kitô hữu, chúng ta là những vị thánh khi còn thông hiệp với Giáo hội. Tư tưởng này có thể làm cho nhiều người dị ứng, bởi vì chúng ta nhìn thấy bao nhiêu tội lỗi và những gương mù trong Giáo hội, ngay cả nơi các phẩm trật cao cấp. Tuy nhiên, Giáo hội hữu hình luôn đi đôi với Giáo hội vô hình, và đây không phải là hai thực tại tách biệt. Hiểu như một mầu nhiệm thánh thiêng và là nhiệm thể của Đức Giêsu, tự bản chất, Giáo hội vẫn luôn thánh thiện. Trong thực tế, Giáo hội lữ hành trần thế vẫn luôn bao gồm những con người yếu đuối đầy tội lỗi, và tất cả chúng ta không ai dám vỗ ngực tự hào nói tôi là một con người thánh thiện. Vì thế, trong cuộc lữ hành trần gian, Hội thánh luôn mời gọi con cái mình phải thực hành cuộc hoán cải (conversion) không ngừng. Hoán cải là trở về, là canh tân, là làm mới lại con người chúng ta trong máu Đức Kitô. Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chuẩn nhận văn kiện ‘Bắt đầu tiến trình làm mới lại từ Đức Kitô (Starting afresh from Christ) của Thánh bộ đặc trách đời sống thánh hiến và các tu đoàn tông đồ, để mời gọi các tu sĩ canh tân lại đời sống, khởi nguồn từ Đức Kitô. Bắt nguồn từ Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể thực hiện cuộc hoán cải canh tân này, và khi sống trong lòng Giáo hội, chúng ta luôn ý thức mình là những chi thể thuộc về một nhiệm thể thánh thiêng.   

Khởi nguồn từ Đức Kitô, là Đường, là Sự thật và là Sự sống.

Vào năm 1989, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tiếp tổng thống Gorbachop, bấy giờ là tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô. Trước khi từ giã, Đức Thánh Cha đã tặng ông ta một cuốn Kinh thánh ở ngoài bìa có viết dòng chữ ‘Tôi là Đường, là Sự thật và là Sự sống’. Đây chính là câu nói của Chúa Giêsu, ngỏ cho Tôma và các Tông đồ, mà Giáo hội đọc lại trong bài Tin mừng hôm nay. Toàn thể Giáo hội đều quy hướng về Đức Giêsu là đầu của nhiệm thể. Ngài cũng là con đường, là chính lộ dẫn đưa chúng ta tới hạnh phúc. Ngài là Sự thật giải thoát chúng ta khỏi những lầm lạc gây nên do tội lỗi. Ngoài Ngài ra, không có sự sống và ơn cứu độ. Những tư tưởng thần học của Thánh Gioan dẫn đưa chúng ta đến mầu nhiệm ngôi hiệp giữa Chúa Cha và Chúa Con : Chúa Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con. Cũng vậy, lưu lại trong Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được thông truyền sự sống khởi nguồn từ Chúa Cha.

Cả 3 bài đọc lời Chúa hôm nay đều khơi dậy nơi chúng ta ý thức ‘thuộc về’(sense of belonging). Chúng ta thuộc về Hội thánh, và Hội thánh thuộc về Đức Giêsu. Điều quan trọng là khi sống trong lòng Giáo hội lữ hành, chúng ta đã sống cảm thức thuộc về như thế nào, không phải trên lý thuyết, nhưng bằng lối sống chứng tá cụ thể hàng ngày.

Kết luận

Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện. Giáo hội lữ hành đã trải qua 2000 năm với biết bao vết thương của sự rạn nứt và chia rẽ. Những vết rạn nứt này không phải chỉ do những nhóm ly khai gây ra, nhưng trong đây còn là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Nhà văn Sienkievic người Ba Lan, trong cuốn sách ‘Quo vadis’ đã viết : “Đế quốc Rôma hùng mạnh của bạo chúa Neron rồi sẽ ngã đổ, nhưng con thuyền mộc mạc của bác dân chài miền Galilê vẫn luôn vững vàng lướt sóng”. Con thuyền đó chính là Giáo hội, là nhiệm thể thánh thiện của Chúa Giêsu mà chúng ta đang thuộc về.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA CỦA ĐỨC GIÊSU

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Phúc Âm Thánh Gioan chương 14 là lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ. Nó có cấu trúc xoay quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Con và vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn các môn đệ về với Chúa Cha.

Tôma và Philipphê đã hỏi Chúa 2 câu và Chúa đã mạc khải 2 chân lý thật quan trọng:

– Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.

– Ai thấy Thầy là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.

Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con ( x. Gm. Bùi Văn Đọc, Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, trang 184 ). Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô “Ai thấy Thầy là thấy Cha” ( Ga 14, 9 ) vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy” ( Ga 14, 10 ).

Toàn bộ Lịch Sử Cứu Độ được xây dựng trên tương quan Cha – Con “Chúa Cha yêu Chúa Con”. Hai chữ Tình Yêu là cách diễn tả sâu thẳm nhất tương qua Cha – Con. Tình yêu đó được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha ( Ga 14, 10 ). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.

Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết về Chúa Cha bằng nhiều cách: bằng lời nói, bằng việc làm, nhưng nhất là chính phận làm Con. Nhiều lần và bằng nhiều cách khác nhau, Chúa Giêsu đã nói với con người về Thiên Chúa là Cha, Đấng mà họ phải tin tưởng phó thác ( Mt 6, 32 ), noi gương ( Mt 5, 45 – 48 ), nguyện cầu ( Lc 11, 2 ), phải tôn thờ vì Ngài là Chúa trời đất ( Mt 10, 28 ), là Cha đầy quan tâm ân cần ( Mt 6, 25 – 32 ) và đặc biệt gần gũi với những kẻ tội lỗi ( x. sđd tr. 191 ).

Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó, sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó. Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Nadarét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các Môn Đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Dakêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Samari để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Mađalêna, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phaolô kẻ bắt bớ Giáo Hội làm Tông Đồ Dân Ngoại…

Quả thật Thiên Chúa của Đức Giêsu chẳng giống tí nào với Thiên Chúa các đạo binh của Ítraen. Người Do thái nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ về phe với dân Người chọn, chỉ bênh vực những người Do thái ngoan Đạo và lên án nguyền rủa, trừng phạt các dân ngoại cùng người tội lỗi. Thiên Chúa của Đức Giêsu không về phe với kẻ cầm quyền độc ác, người giàu có ích kỷ hay người đạo đức giả. Vì thế các bậc kinh sư, tư tế, kỳ lão trong dân không chấp nhận Thiên Chúa ấy mà trái lại họ đã giết Đức Giêsu để bảo vệ Thiên Chúa của họ. Họ đã giết Đấng Thánh để bảo vệ đền thờ, đã chà đạp và xoá bỏ “hình ảnh Thiên Chúa vô hình” ( Cl 1, 15 ) để bảo vệ Thiên Chúa của lề luật.

Thiên Chúa của Đức Giêsu, Thiên Chúa của chúng ta cũng không phải là Thiên Chúa của các triết gia, không phải là Thiên Chúa của các nhà du hành vũ trụ tìm kiếm mà là Người Cha nhân hậu, từ bi, đầy lòng thương xót. Người chỉ muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế. Người không phải là Người Cha nghiêm khắc độc đoán, Người Cha dễ tính xuề xoà mà là Người Cha yêu thương, tha thứ. Một Người Cha chuẩn bị sẵn sàng quần áo, giày dép, nhẫn đeo tay và vỗ béo con bê chờ sẵn đứa con hoang đàng trở về và hơn thế nữa còn ra ngoài ngóng trông rồi vui sướng tiến về phía con đón nó vào lòng hôn lấy hôn để ( Lc 15, 11 – 32 ). Lòng nhân hậu được tỏ bày khi tha thứ. Thánh Phaolô là người cảm nhận sâu xa lòng từ bi, nhân hậu, thứ tha ấy ( 2 Cr 3, 7 – 11 ).

“Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” ( Ga 1, 18 ). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha, một Thiên Chúa là Cha nhân hậu từ bi, đầy lòng xót thương, tha thứ và còn hơn thế nữa Chúa Giêsu là con đường độc nhất dẫn đến Cha “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu: “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” ( Cv 4, 12 ). Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh, sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi. Đọc và suy niệm Tin Mừng trong tin yêu, Chúa sẽ dạy chúng ta nghĩ gì, nói gì, làm gì. Khi đi vào con đường Chúa đã đi qua chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho anh chị em mình, nẻo đường dẫn lối về Thiên Chúa là Cha yêu thương.

Về mục lục

.

BIẾT VÀ THẤY CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Giêsu sau khi sống lại đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ của Ngài và minh chứng cho các môn đệ, cho nhân loại, cho mọi ngưởi rằng Ngài đã sống lại từ cõi chết. Hôm nay, khi Chúa Giêsu sắp trở về cùng Chúa Cha, Ngài đã mặc khải cho ông Philipphê biết :” Nếu anh em biết Thầy, thì anh em cũng biết Cha của Thầy “. Như thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hay Ngài chính là Thiên Chúa, là hình ảnh đích thực của Chúa Cha.

Thực tế, thắc mắc của ông Philippê cũng là thắc mắc của nhiều môn đệ, và nhiều người. Nhưng được Chúa mặc khải về Cha, nên vấn nạn ấy được ông Philipphê và nhiều người vững tin, an tâm. Chúng ta biết Chúa Giêsu trước những thử thách, trước những gian nan của cuộc khổ nạn, Ngài đã thực sự xao xuyến. Tuy nhiên, Ngài đã vững lòng, tin tưởng thật sự vào Thiên Chúa Cha, Đấng luôn luôn yêu thương Ngài. Do đó, Ngài đã khuyên các môn đệ hãy vững vàng, đừng xao xuyến vì chính Ngài đã mang lấy những xao xuyến đó và mách bảo cho các môn đệ bí quyết để “ đừng xao xuyến “. Bí quyết :” Hãy tin vào Thiên Chúa, và tin vào Thầy “. Và hôm nay, Chúa Giêsu lại quả quyết cho các môn đệ và cho chúng ta :” Thầy là Đường, là sự Thật và là sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy “, và ai thấy Thầy là thấy Cha, nếu các con biết Thầy thì cũng biết Cha “. Vâng, Thiên Chúa đã nhập thể làm người, đã chấp nhận kiếp sống con người ngoại trừ tội lỗi,Ngài đã dùng ngôn ngữ con người với tất cả những giới hạn của nó để mặc khải cho nhân loại, cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha là Đấng nào, là ai và con đường nào, lối nào chúng ta phải đi để đến với Ngài mà không sợ bị lầm đường, lạc lối vv…

Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta tin vào Thiên Chúa và tin vào Ngài. Tin vào Thiên Chúa vì Chúa Giêsu là hình ảnh đích thực của Thiên Chúa. Nếu Chúa không mặc khải thì nhân loại và chúng ta không thể nào biết được Chúa Cha. Đức Kitô đã chết để cứu rỗi con người, cứu độ nhân loại, cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Đức Kitô đã sống lại như lời Ngài đã nói và chúng ta là con cái của Chúa, chúng ta cũng sẽ được sống lại với Ngài :” Hãy tìm kiếm những sự trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa “ ( Cl 3, 1 ). Chúa Giêsu Kitô đã trở thành hình ảnh của Thiên Chúa Cha cho tất cả mọi người chúng ta. Ngài đã đến trần gian, sống giữa nhân loại, sống giữa chúng ta để mặc khải sự thật của Thiên Chúa Cha cho tất cả chúng ta. Chúa Giêsu đến trần gian để giúp, để hướng dẫn, chỉ đường dẫn lối cho chúng ta để chúng chúng ta biết Cha, trở về cùng Cha và đồng thời trở về với chính Ngài vì Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa Cha đích thực và Ngài cũng muốn chúng ta trở thành hình ảnh của Ngài cho anh chị em, cho những người anh em xung quanh chúng ta.

Mỗi người chúng ta có ý thức và vinh dự vì chúng ta là con cái của Chúa Giêsu Kitô hay không ? Bởi vì con mắt xác thịt chúng ta không thể nào nhìn thấy Chúa Cha là Đấng vô hình, nhưng với con mắt đức tin qua Kinh Thánh, qua Con người thật của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa. Có Đức Giêsu Kitô, chúng ta không chỉ thấy mà còn đến được với Thiên Chúa vì Ngài là Đường, là sự Thật và là sự Sống.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa vì Chúa đã chấp nhận xuống thế làm người để chúng con được tham dự vào sự sống của Chúa. Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1. Ai mặc khải Thiên Chúa Cha cho chúng con ?
2. Tại sao Chúa Giêsu lại nói :” Ai thấy Thầy là thấy Cha ? “.
3. Chúa có mời gọi chúng ta trở thành hình ảnh của Ngài cho những người xung quanh không ?
4. Tại sao chúng ta lại khắc khoải tìm kiếm Nước Trời ?

Về mục lục

.

MỆNH LỆNH PHỦ ĐỊNH

Trầm Thiên Thu

Trong các ngôn ngữ đều có dạng mệnh lệnh cách (imperative), dạng câu ngắn nhất: chỉ một động từ. Mệnh lệnh dùng để khuyến khích hoặc ngăn cấm, có thể là mệnh lệnh xác định – hãy làm điều này, hãy nhớ điều kia, hoặc mệnh lệnh phủ định – chớ làm điều kia, đừng làm điều nọ. Mỗi dạng mệnh lệnh đều có đặc tính nhất định.

Mệnh lệnh xác định thường dùng để khuyến khích hoặc động viên, mệnh lệnh phủ định thường dùng để ngăn cấm. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại sử dụng mệnh lệnh cách phủ định để khuyến khích chứ không để ngăn cấm. Ngài động viên: “Đừng xao xuyến!” (Ga 14:1; Ga 14:27). Tương tự, Thánh Phêrô cũng khuyến khích: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1 Pr 3:14). Câu nói động viên chúng ta “đừng sợ và đừng xao xuyến” cũng chính là bảo chúng ta “đừng nhút nhát và đừng lo lắng”. Như vậy có nghĩa là phải can đảm, muốn can đảm thì phải mạnh mẽ, muốn mạnh mẽ thì phải cầu xin Chúa Thánh Thần: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!”.

Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta biết Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần hoặc Thánh Linh, cũng gọi là Thần Khí. Nhưng đôi khi người ta có thể ảo tưởng mà lầm lẫn, cái gì cũng bảo là “Ý Chúa”. Vì thế, Thánh Gioan Tông Đồ đã khuyên chúng ta PHẢI cảnh giác và đưa ra cách nhận biết: “Anh em ĐỪNG cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy CÂN NHẮC các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi(1 Ga 4:1-3).

Quả thật, lời cảnh báo của Thánh Gioan thực sự đáng sợ! Và chúng ta cũng đã và đang thấy nhiều thứ giả, trong đó có “người giả” đủ loại – cả đời và đạo. Những điều tương tự cũng đã được Đức Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó, sự cảnh giác càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong thế kỷ XXI đầy những khó khăn này, càng văn minh càng nhiêu khê. Đúng là cái chữ @ nó “vòng vo” rắc rối quá chừng!

Trong cuộc sống (đời và đạo) luôn có nhiều thứ khiến chúng ta xao xuyến, chia trí. Ma quỷ có thiên hình vạn trạng, nó len lỏi vào bất cứ nơi nào, thậm chí ma quỷ có thể cám dỗ chúng ta cảm thấy mình đạo đức và thánh thiện. Đó là dạng cám dỗ rất nguy hiểm, vì là dạng GIẢ DANH GIẢ NGHĨA. Thà rằng nó cám dỗ chúng ta khô khan, phạm tội, hoặc “quay lưng” lại với Chúa thì chúng ta dễ nhận biết mà tránh, đằng này nó lại làm cho chúng ta cảm thấy rất gần Chúa, thực ra chỉ là “bẫy ảo giác” nó giăng để chúng ta dễ sập bẫy, thế mới đáng sợ, và chúng ta phải rất tỉnh thức – cảnh giác với cả chính mình!

Một người quen (tại Hoa Kỳ) cho biết rằng em gái của họ lấy chồng là Phật tử, người chồng này làm cho cô vợ bỏ đạo Công giáo và nói xấu Công giáo đủ thứ. Ngay tại Saigon, một thanh niên đã bỏ đạo Công giáo, rồi cạo đầu và quy y, anh ta bảo rằng theo Công giáo phải giữ nghiêm luật nên “căng” quá, theo Phật giáo “khỏe” hơn nhiều. Tại Đồng Nai, một nữ tu bỏ đạo Công giáo rồi đi lập chùa riêng và làm ni cô trụ trì. Thiên hình vạn trạng!

Khi thấy có những trường hợp như vậy, chúng ta đừng vội hoang mang hoặc xao xuyến, vì đó là những trường hợp hiếm hoi, chỉ đủ đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Thật ra họ chỉ bất mãn một vấn đề nào đó vì họ không được “như ý”, đồng thời họ là những người “yếu bóng vía” và chẳng hiểu rõ Công giáo, lý luận của họ chỉ là dạng “lý sự cùn”, đầu óc thiển cận hoặc giống như “ếch ngồi đáy giếng” mà thôi. Hãy quên họ đi!

Đối với những người thực sự giỏi (đúng nghĩa), họ không như vậy, thực tế cho chúng ta biết rằng người ta càng giỏi thì càng tin có Thiên Chúa. Đa số các bác học đều là những người tin vào Thiên Chúa. Khoảng 40 năm trước, Đức cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910-1995) đã rửa tội cho một Thượng tọa Phật giáo cao niên vào chính đêm mừng Con Chúa giáng sinh. (Nay chợt hồi tưởng liên quan chuyện “theo đạo”, nhưng tiếc rằng lâu quá rồi, tôi không còn nhớ tên ông cựu họ Thích này!). Hơn 20 năm trước, một ni cô chán “ăn chay trường” rồi gia nhập Công giáo, sau đó cô này lấy chồng là người Công giáo. Vợ chồng họ vẫn sống hạnh phúc tại Thủ Dầu Một (Bình Dương).

Thiết tưởng cũng nên xác định rằng không một người nào lập đạo mà dám nói “tôi là Thiên Chúa”, chỉ có Chúa Giêsu. Chẳng có ai làm được những phép lạ như Đức Giêsu đã làm. Và cũng chỉ có Đức Giêsu dám nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Đơn giản như vậy thôi cũng đủ để chúng ta biết đâu là “chân lý thật” và đâu là “chân lý giả”. Chính khoa học và khoa khảo cổ càng ngày càng phát hiện những điều chính xác như Kinh Thánh đã đề cập hàng ngàn năm trước. Các giáo phái ly khai với Công giáo, nghĩa là trước đó chính họ là Công giáo. Họ ly khai vì theo ý riêng chứ không muốn theo ý chung của Giáo Hội.

Sự thật mãi mãi là sự thật, và chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta (Ga 8:32). Sách Công Vụ đưa ra bằng chứng cụ thể: Khi nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ là Thánh Thần, ngay lúc đó đã có khoảng ba ngàn người theo đạo (Cv 2:38-41). Đâu có thể đơn giản mà có số người đông như vậy cùng gia nhập đạo một lúc, cũng đâu phải họ theo đạo cho vui hoặc có lợi về vật chất! Hàng tháng, tại nhiều nhà thờ Công giáo vẫn có những người trưởng thành (chứ không nói chi trẻ em) vui mừng lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Đó là những bằng chứng hùng hồn, thực sự là phép lạ mà Chúa Thánh Thần vẫn đang tác động không ngừng trong Giáo Hội – Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta cũng vẫn thấy có những người gia nhập Công giáo khi họ đã thực sự trưởng thành (tâm sinh lý), thậm chí là lớn tuổi, họ sống đạo rất tốt với một đức tin trưởng thành và vững mạnh. Đặc biệt là có những người theo đạo Công giáo rồi đi tu trở thành tu sĩ hoặc linh mục – trong đó có Lm Thiên Phong Bửu Dưỡng (*). Họ là những người đã trưởng thành, chắc chắn không ai có thể “dụ dỗ” được họ nếu họ không thực sự tin vào Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh. Ai cảm thấy còn “đắn đo”, hãy cố gắng củng cố và giữ vững lòng tin, hãy hãnh diện về Đức Tin Công giáo, và đừng bao giờ xao xuyến vì bất cứ điều gì!

Chúng ta không phủ nhận rằng Giáo hội Công giáo đặt tiêu chuẩn cao về luân lý, rất cảm thông với người bất đồng ý kiến, nhưng không nhượng bộ bất kỳ áp lực nào. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, nhưng Chúa Giêsu không chỉ chịu chết vì chúng ta, mà Ngài còn thiết lập bí tích Hòa giải để tha thứ tội lỗi, để thương xót và ban ân sủng cho chúng ta, giúp chúng ta sống đời sống luân lý tốt hơn. Tất cả là Hồng Ân.

Ngày xưa, khi Chúa Giêsu đã phục sinh và số môn đệ thêm đông, các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp đã kêu trách các tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa(Cv 6:2-4).

Và trình thuật Cv 6:5-7 cho biết: “Đề nghị đó được mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no, Ti-môn, Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo đạo Do-thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin. Đó chính là Nhóm Bảy Người, tức là các Phó tế đầu tiên của Giáo hội, trong đó có Phó tế Tê-pha-nô về sau chịu tử đạo. Không chỉ có Phó tế Tê-phan-nô mà còn biết bao vị tử đạo khác đã xả thần vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi nơi và mọi thời. Ngày nay cũng vẫn có các chứng nhân ở đâu đó trên thế giới…

Đây là niềm hãnh diện của Kitô hữu: “Vinh quang của tôi là Thập Giá của Đức Giêsu Kitô – Mea Gloria est Crux Christi” (Gl 6:14). Chắc chắn không ai và không tôn giáo nào có dạng vinh quang “ngược đời” như Kitô giáo. Trong chúng ta, chắc chắn ai cũng sợ đau khổ, nhưng khi đã cảm nhận được đau khổ, người ta lại bị đau khổ thu hút. Thập Giá có sức hấp dẫn kỳ lạ. Vô tri bất mộ. Người không có niềm tin Kitô giáo sẽ chẳng bao giờ hiểu được điều đó, thế nên người vô thần bảo tôn giáo là thuốc phiện đã “ru ngủ” chúng ta – các Kitô hữu có vinh quang là Thập Giá của Đức Kitô.

Thánh Vịnh gia hân hoan mời gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt” (Tv 33:1-2). Và rồi không thể lặng im lâu, Thánh Vịnh gia phải giải thích ngay lập tức: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5).

Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), kỳ lạ là Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm 5:8), còn thù nghịch với Ngài (Rm 5:10), thậm chí Ngài còn chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu đó quá lớn lao, lòng thương xót quá bao la và sâu thẳm. Ngài luôn quan tâm chúng ta: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-19).

Nhưng chính mỗi chúng ta đều phải xem lại chính mình, như Thánh Giacôbê đã phân tích: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão(Gc 1:26).

Thánh Phêrô vừa khuyên nhủ vừa động viên: “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” (1 Pr 2:4-6). Lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu, chúng ta không thể nào hiểu nổi!

Thánh Phêrô cho biết thêm về hạnh phúc của các Kitô hữu, những người được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần: “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy. Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2:7-9). Có nhiều dạng ơn thiên triệu, nói theo bình dân là “ơn gọi”, và ơn thiên triệu nào cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn gọi kết hôn, ơn gọi độc thân,… Ơn gọi nào cũng là để hoàn tất sứ mạng theo kế hoạch của Thiên Chúa.

Cuộc sống không hề đơn giản, nhiệm vụ nào cũng khó, vì thế Chúa Giêsu đã động viên: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14:1). Cuộc sống đã và đang chứng tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng là chỉ có Thiên Chúa là cứu cách và cùng đích, thiếu Đức Kitô thì chúng ta không thể làm được gì, dù là điều nhỏ nhoi (x. Ga 15:5). Chúng ta có hoang mang hoặc lo sợ thì cũng chẳng “chuyển hóa” được gì, đúng như có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được(Mt 5:36). Vì thế mà chúng ta phải sống theo lời khuyên của Ngài: “Đừng xao xuyến!”. Nói theo kiểu nói ngày nay: “Cứ vô tư mà sống!”. Lo bạc râu, sầu bạc tóc. Mà có lo cũng chẳng được, cái gì đến sẽ đến, thế thì lo chi cho khổ? Nghe lời Chúa Giêsu bảo “đừng xao xuyến” cũng chính là tin vào sự TIỀN ĐỊNH và QUAN PHÒNG của Thiên Chúa vậy! Và có một điều thiết tưởng cũng nên lưu ý: cách nói “không xao xuyến” nghĩa là đừng chạy theo những cái mà người ta cho đó là “sự lạ”, dạng này thường xuyên được người ta “chú ý”, mà như vậy là chúng ta chưa thực sự tin vào Thiên Chúa, chưa thực sự tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót. Cẩn tắc vô ưu!

Tại sao không nên xao xuyến? Chúa Giêsu căn dặn: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:2-3). Người đời cũng biết nhận định: “Sinh ký, tử quy – sống gởi, thác về”. Thật vậy, thế gian chỉ là chuyến lữ hành về Thiên Đàng, “cuộc đời như chiếc cầu, hãy đi qua chứ đừng dừng lại trên đó” (Thánh nữ Catarina), chết không là hết mà chỉ là biến đổi, chính cái chết là “ngưỡng cửa” để bước vào sự sống đời đời. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì được Chúa Giêsu hứa: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đúng là niềm hạnh phúc của mọi niềm hạnh phúc!

Hôm đó, Chúa Giêsu bảo: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”. Nghe vậy, ông Tôma “gãi đầu” và hỏi ngay: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”. Đức Giêsu cười và đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Đây là câu “nổi tiếng” trong Kitô giáo, được trích dẫn rất nhiều, và cũng là niềm hy vọng chắc chắn của những người tin vào Con Thiên Chúa, Đấng-nhập-thể-làm-người. Đức Giêsu nói thêm: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14:7).

Sau đó, ông Philípphê xin Thầy Giêsu tỏ cho thấy Chúa Cha để được mãn nguyện., nhưng Ngài trách ông Philípphê ở với Ngài bao lâu rồi mà lại “hỏi ngớ ngẩn” như vậy. Rồi Ngài xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Chắc chắn đó là cách hiểu vượt quá tầm hiểu của phàm nhân, nếu chúng ta ở bên Chúa Giêsu hồi đó thì chúng ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như Tông đồ Philípphê mà thôi, e rằng chúng ta còn “tệ” hơn thế đấy!

Chúa Giêsu nói thêm để giải thích cho ông Philípphê và các Tông đồ khác – đồng thời cũng là nói với mỗi chúng ta hôm nay: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14:10-12).

Và rồi một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Đức Tin. Thật vậy, khi có đủ niềm tín thác vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn quan phòng và tiền định cho mỗi người theo ơn gọi riêng, người ta sẽ thanh thản và sống theo lời khuyên và cũng là lời động viên của Đức Kitô Giêsu: “Đừng xao xuyến!”. Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta đều có thể xác định như Thánh Vịnh gia: “Chúa là gia nghiệp đời con” (Tv 16:5-6).

Lạy Thiên Chúa nhân hậu, con chỉ là hạt bụi bé nhỏ nhất mà đã làm bận mắt Ngài, xin thương ban thêm Đức Tin và lòng can đảm để con không bị dao động trước mọi nghịch cảnh, ngay cả khi đối diện với kẻ thù. Xin làm cho con nên thánh theo ước muốn và kế hoạch mầu nhiệm của Ngài. Xin ban Thần Khí Ngài để con sống can đảm và bình an. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

——-

(*) Lm Bửu Dưỡng (OP, Dòng Đa-minh, 1907-1987). Cậu ấm Bửu Dưỡng thuộc dòng dõi hoàng gia triều Nguyễn, là cháu trực hệ đời thứ năm của vua Minh Mạng. Thân phụ là cụ Ưng Trình, đại thần Cơ Mật viện và đại thần Tôn Nhơn Phủ (1936) và Thượng Thư. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Như Uyển, cũng dòng dõi quan lại cấp Thượng Thư.

Cậu Bửu Dưỡng là con trai thứ năm. Thiếu thời, cậu học trường Quốc Học Huế, rồi trường Cao Đẳng Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, cậu trở về Huế làm thông phán sở Bưu Chính. Sinh trưởng trong gia đình hoàng tộc và tôn sùng đạo Phật, Bửu Dưỡng cũng rất ác cảm với Công giáo, nhưng “duyên Trời” ấn định khác.

Thượng tuần tháng 5-1928, cậu Bửu Dưỡng lên đường ra Quảng Trị, tìm lên vùng núi Phước Sơn, xin học giáo lý để nhận bí tích Rửa tội và gia nhập dòng Xitô (Cistercians). Lm Bề Trên Henri Denis (Cố Thuận, người Pháp) trực tiếp dạy giáo lý. Lễ rửa tội được cử hành ngày lễ Đức Mẹ lên trời, 15-8-1928. Tân tòng Bửu Dưỡng nhận thánh danh Bô-ni-pha-xi-ô (Bonifacius), nghĩa là “bộ mặt đẹp”. Bề Trên Dòng chủ lễ, bên cạnh là Phó tế Ta-đê-ô Lê Hữu Từ (sau đó làm giám mục).

Sau một năm ở tập viện Xitô Phước Sơn, tu sinh Bửu Dưỡng vì sức khỏe yếu, đau bao tử, bị chứng tê thấp, lại bị mụt nhọt ở chân, được Bề Trên cho về nhà nghỉ dưỡng bệnh tại gia đình ở Huế. Trong thời gian nầy, thầy Bửu Dưỡng có nhiều quan hệ với Dòng Chúa Cứu Thế, với ý muốn nhập dòng nầy nhưng không thành…

Trong khi dịch giùm cho các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế một số bài giảng, thầy được đọc sách của Thánh Tôma Aquinô, thầy say mê triết lý và thần học của vị tiến sĩ nổi tiếng thuộc Dòng Đa Minh và có ý muốn theo chân ngài trong một dòng tu chuyên nghiên cứu và thuyết giảng đạo lý Kitô giáo.

Linh mục Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế giới thiệu thầy với Dòng Đa Minh mới đến Hà Nội lập dòng và thầy được chấp nhận để thử một thời gian. Mọi sự đều êm xuôi. Thầy Bửu Dưỡng cảm thấy mình đi đúng hướng và được gởi đi du học tại Pháp ở Dòng Đa Minh chi nhánh Lyon.

Sau một năm tập viện, ngày 26-11-1936, tu sinh Bửu Dưỡng là người Việt Nam đầu tiên của tỉnh Dòng Đa Minh Lyon được tuyên khấn. Mặc dù mụt nhọt ở chân trở nên trầm trọng, thầy Bửu Dưỡng phải chịu giải phẩu cưa một chân, gắn chân giả. Bề Trên Dòng vẫn chấp nhận phong chức linh mục cho thầy vì khả năng trí tuệ đặc biệt của thầy.

Lễ phong chức được cử hành ngày 2-2-1940. Từ đó, linh mục con dòng cháu giống của vua chúa triều Nguyễn không còn gì trăn trở băn khoăn mà thẳng đường trực chỉ dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu cho đến trọn đời.

Trong “Cuộc Hành Trình Của Đời Tôi”, Lm Bửu Dưỡng viết: “Trước kia tôi rất ghét Kitô giáokhông muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với các linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một cuốn sách báo nào dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một cách vô lý, đến độ mỗi khi nhìn thấy chữ ‘Thiên Chúa’, tôi cảm thấy khó chịu và nếu có thể, tôi sửa thành chữ ‘Trời’. Khi dạy học cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ Thiên Chúa. Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ. Có những thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng nầy kéo dài trong suốt ba năm liền… Những lần tôi không giải trí với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng, sau khi nghe vài bản nhạc buồn… Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: ‘Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?’. Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng. Không bao giờ! Dù nó đúng, nó trật, nó hay… nhưng ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.

Ý Chúa nhiệm mầu, một Bửu Dưỡng thù ghét Công giáo đã trở thành một Bửu Dưỡng yêu mến Công giáo, và trở thành Linh mục Công giáo. Lm Bửu Dưỡng còn là người mở Học viện Minh Đức (Thủ Đức) nổi tiếng một thời trước năm 1975. May mắn tôi được gặp ngài một lần, được đọc cuốn “Ý Nghĩa Sự Đau Khổ” của ngài và “Công Đồng Vatican III” do ngài viễn tưởng. Trí óc của ngài đúng là một học giả hiếm có.

Về mục lục

.

TẠI SAO ĐỨC GIÊSU LẠI CĂN DẶN CÁC MÔN ĐỆ

“ĐỪNG XAO XUYẾN”

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong buổi tĩnh tâm các linh mục quốc tế ngày 12.10.1998 tại thành phố Monterrey, nước Mexico, qua bài nói chuyện của đức cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, ngài đã chỉ ra một số điểm sai xót của Đức Giêsu, một trong những điểm sai xót đó là những lời giảng dạy, hành động xem ra mâu thuẫn.

Ví dụ như: có lần, Ngài đưa ra lời mời gọi: phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị người ta oán ghét (x. Lc 6, 20-22); hay “ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9, 24); hoặc làm sao có thể ví Nước Thiên Chúa, Nước của Ðấng toàn năng, vô tận với một hạt cải (x. Lc 13, 18-19); và điều mâu thuẫn lớn nhất chính là “Con Thiên Chúa, Ðấng hằng sống”; “Đấng công chính!” lại phải chấp nhận sự chết và chết nhục nhằn trên Thập giá??? (x. Lc 23, 47).

Những mâu thuẫn kiểu như thế, hôm nay lại được Đức Giêsu cất lên khi căn dặn các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1). Phải chăng lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ giờ này xem ra có vẻ không tâm lý, mâu thuẫn với hoàn cảnh hiện tại, bởi lẽ các ông rất buồn vì Thầy trò sắp phải xa nhau. Vậy, câu hỏi được đặt ra là chính Đấng đang nói: “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1), Ngài có xao xuyến không? Và từ đó, như một hệ luận, chúng ta tin hay không tin vào lời nói của Đức Giêsu!

  1. Sự xao xuyến của Đức Giêsu

Thực ra trong cuộc đời của Đức Giêsu, Ngài cũng đã nhiều lần xao xuyến, chẳng hạn như:

Nhìn niềm tin trong viễn cảnh tương lai, Đức Giêsu đã thốt lên: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8); rồi khi về Giêrusalem, Ngài cũng thốt lên lời than thở “Giêrusalem, Giêrusalem! […] Ðã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các người không chịu” (Lc 13,34); hay trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, Ngài cũng trải qua nỗi xao xuyến thực sự, bởi vì chỉ còn một ít nữa thôi, Ngài sẽ từ biệt các môn đệ, sẽ bị bắt, do chính môn đệ thân tín của mình trao nộp, rồi Ngài cũng thấy trước được những đau khổ vì mình mà các ông phải chịu. Nỗi xao xuyến ấy bao trùm lên Thầy trò, khi kẻ đi người ở… Sự xao xuyến ấy dần càng tăng lên khi trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy sợ hãi, và Ngài đã than thở với các môn đệ: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức!” (Mc 14,34), và Ngài mướt mồ hôi máu. Sau đó, Ngài đã cầu nguyện tiếp: “Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14, 36). Cuối cùng, nỗi xao xuyến này được dâng lên đến tột đỉnh trên Thánh Giá, khi cơn đau đớn thấu con tim, báo hiệu giờ hấp hối đã gần, Ngài đã lớn tiếng kêu lên Thiên Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 14, 34).  

Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã trải qua những cơn xao xuyến. Thật ra, sự xao xuyến của Đức Giêsu cho thấy, Ngài vừa là Thiên Chúa và cũng là con người, nên những nỗi xao xuyến đó của Ngài như là con đường để dẫn đưa chúng ta là những người cũng xao xuyến đến sự sống đời đời.

Tại sao chúng ta lại xác tín điều đó, thưa, vì lời căn dặn của Ngài  “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1), là khả tín, đáng tin. Bởi vì sự xao xuyến này đã ngang qua cuộc đời của chính Đức Giêsu, và Ngài đã biến nó thành niềm hy vọng khi tin tưởng và tín thác nơi Thiên Chúa Cha là Đấng khơi nguồn và cùng đích của mọi sự.

  1. Sự xao xuyến của các môn đệ

Sau Đức Giêsu, sự xao xuyến cũng không buông tha các môn đệ. Các ông xao xuyến là bởi vì trước khi nói những lời ly biệt, Đức Giêsu đã tiên báo Phêrô sẽ trối Thầy (x. Ga 13, 38); Giuđa thì bán Thầy (x. Ga 14, 21); các môn đệ sẽ bỏ chốn (x. Mt 26, 56). Như thế, các ông thấy trước những viễn cảnh đó sẽ xảy ra, nên các ông lo sợ cho giờ phút kinh hoàng này sẽ đến với Thầy mình và các ông đều bị liên lụy là lẽ tất yếu.

Nỗi xao xuyến của các ông còn là nỗi sợ cô đơn. Các ông đã bỏ mọi sự, vợ con, nhà cửa, sự nghiệp để đi theo, ấy vậy mà giờ đây các ông sắp phải chia tay Thầy của mình. Sự chia tay này theo lối hiểu của các ông chẳng khác gì “rắn mất đầu”; hay “tàu không người lái”. Vậy thì các ông sẽ đi đâu và về đâu đây???

Thêm một lý do nữa khiến các môn đệ xao xuyến, đó là: khi còn sống với các ông, Đức Giêsu hướng dẫn, dạy dỗ và dẫn dắt các ông từng ly từng tý, vậy Ngài sắp ra đi thì ai là người dẫn lối chỉ đường cho các ông?

Buồn sầu và xao xuyến của các môn đệ là lẽ thường tình nơi thân phận con người trước những điều không may, nguy hiểm, chia ly, từ biệt, rồi phải đối diện với chốn trần gian đầy tục lụy, thù hằn, thử thách và ngay cả cái chết như Thầy của mình.

Tuy nhiên, những sự xao xuyến đó của các ông đã được Đức Giêsu trấn an khi nói: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Chỉ có niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa mới có thể giúp các ông vượt qua mọi gian nan, thử thách xảy đến trong cuộc sống trần gian; còn khi các ông xao xuyến không biết về đâu thì chính Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3), rồi khi các ông xao xuyến không biết định hướng cho cuộc sống tương lai thì Đức Giêsu lại nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Đường ở đây không phải Đức Giêsu muốn nói về một lối đi theo nghĩa đen, nhưng Ngài muốn các ông hiểu rằng: Ai yêu mến, tôn thờ, sống theo lời Ngài thì chắc chắn đến được với Chúa Cha. Vì Đức Giêsu và Chúa Cha là một. Thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha!; cuối cùng, sự ra đi của Đức Giêsu đem lại lời hứa hẹn tràn đầy niềm vui và bình an khi Ngài hứa trao ban Chúa Thánh Thần trên các ông. Như vậy, Đức Giêsu ra đi thì tốt hơn cho các ông, vì Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần đến dạy dỗ các ông biết những điều mà trước đây, các ông không thể hiểu được! (x. Ga 14, 26).

Như vậy, qua lời trấn an của Đức Giêsu “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1), Ngài muốn mặc khải cho các ông thấy rằng: quê hương họ ở trên trời (x. Pl 3, 19), mà Đức Giêsu sẽ là người đầu tiên trở về với nguồn cội, nơi mà từ đó được phát xuất ra để dọn chỗ cho họ. Vì thế, các ông đừng xao xuyến, hãy tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở.

  1. Sự xao xuyến của con người ngày hôm nay

Trong thực tại cuộc sống, chúng ta thường gặp những cảnh ngộ nhiều lúc không được như lòng mong muốn. Tâm trạng này của mỗi chúng ta cũng chính là tâm trạng của các môn đệ khi xưa, nào là: sự cô đơn; quan điểm và thực trạng xã hội hoàn toàn xa lạ với đường lối của Thiên Chúa, của Tin Mừng; rồi ốm đau; bệnh tật… nào là con cái hư hỏng; nào là buôn bán không gặp thời; nào là thất vọng vì những gương xấu trong cuộc đời; hay chính những chuyện tốt ta muốn làm mà cũng không được… Những sự xao xuyến ấy luôn luôn ở bên cạnh chúng ta, nó theo chúng ta như hình với bóng, vì thế, triết gia Martin Heideiger khi suy tư về con người, ông đã nói về sự xao xuyến này như sau: “Con người là một hữu thể bị ném ra cuộc đời, hiện hữu giới hạn trong thời gian, nghĩa là con người sống để mà chết. Và bởi con người sống và đi đến cái chết không thể tránh khỏi, nên con người mang nỗi khắc khoải khôn nguôi. Cái chết và nỗi khắc khoải được định nghĩa là thành tố làm nên con người hiện sinh. Đời người là như vậy. Chẳng ai làm người mà vô sự”.

Tuy nhiên, đối với chúng ta là người kitô hữu, chúng ta có một niềm tin mạnh mẽ, đó là: đằng sau cái chết là sự sống vĩnh hằng. Niềm tin này hôm nay được Đức Giêsu mặc khải: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở […] Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”(Ga 14, 1-3); hay lúc khác Đức Giêsu nói: “… tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 40).

Như vậy, chết không phải là hết. Cuộc sống này chỉ là một sự chuyển tiếp mà thôi. Khi tin như thế, Chúng ta có quyền hy họng vào lời căn dặn, trấn an của Đức Giêsu: “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14, 1).

Một mẫu gương đáng để chúng ta noi theo khi sống niềm tin của mình vào Đấng là đường, là sự thật, và là sự sống…. đó chính là triết gia Pascal. Cả cuộc đời và sự nghiệp của ông đã đi vào trong lối suy tư mang đậm niềm tin nơi Đức Giêsu. Điều này được chứng minh khi người nhà của Pascal tìm thấy nơi gấu áo của ông lúc ông đã qua đời, tấm giấy chính tay ông viết và lưu giữ suốt cuộc đời, ông viết: “Sự sống đời đời là hiểu biết và yêu mến Ðức Kitô và Ðấng đã sai Ngài… lửa, lửa, lửa; nước mắt, nước mắt, nước mắt của tình yêu”.

Ðó là bí quyết sống niềm tin, phó thác của B. Pascal một văn hào, một triết gia, một nhà toán học. Đây cũng phải là bí quyết sống của mỗi chúng ta khi xác định quê hương của chúng ta ở trên trời. Nơi quê hương ấy hoàn toàn khác với quê hương hay những thực tại mà chúng ta thấy hiện nay, vì thế, mọi việc làm, lời nói… của chúng ta hãy quy chiếu về đó như là điểm đến của cuộc đời nơi những người có niềm tin vào Chúa và cuộc sống đời sau.

Quê hương ấy được thánh Giáo phụ Augustinô diễn tả như sau: “Hội Thánh được biết có hai cuộc sống Thiên Chúa đã mạc khải và trao ban, đó là cuộc sống trong đức tin và cuộc sống trực kiến, cuộc sống lữ hành và cuộc sống nơi cư ngụ vĩnh viễn, cuộc sống lầm than vất vả và cuộc sống nghỉ ngơi an nhàn, cuộc sống ra sức làm việc và cuộc sống chiêm ngắm tôn nhan Thiên Chúa là phần thưởng”.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con không bị rơi vào tình trạng xao xuyến trước những điều bất trắc trong cuộc sống, xã hội và con người hôm nay, bởi xác tín rằng, quê hương chúng con ở trên trời, và mọi điều trái ý đó xảy đến như là một điều kiện cần cho được cứu rỗi. Có thế, chúng con hy vọng sẽ được vào nơi mà Đức Giêsu đã đi trước dọn đường và chuẩn bị cho chúng con. Amen.

Về mục lục

.

HÃY TIN TƯỞNG VÀO CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan khiến trái đất này đang nóng dần lên. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến – 60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ nhiều ngày.

Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh, đột ngột bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm chưa từng thấy trong lịch sử suốt gần 100 năm qua.

Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.

Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ… Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.

Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như “Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện” gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 8 người con cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết. Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay thật khó sống và khó yêu.

Những ngày hè thật là nóng, phiến quân IS đã làm thế giới lo sợ, nay cộng thêm khủng hoảng quan hệ Liên – Triều, khiến người ta lo âu về chiến tranh thế giới có thể xảy ra.

Trái đất và con người đang như thế, lời Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng : “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” (Ga 14, 1). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi sắp đến của Người đã làm cho các môn đệ cảm thấy bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông : ” Thầy đi để dọn chỗ cho các con ” (Ga 14, 2), và sau đó ” Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó ” (Gn 14,2-3). Qua thánh Tôma, các tông đồ đáp lại lời trấn an của Chúa Giêsu như sau: “: ” Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? ” (Ga 14, 5). Nhân định nầy rất đúng, và Chúa Giêsu đã không tránh né câu hỏi đi kèm theo đó. Câu trả lời của Chúa Giêsu qua bao thế kỷ vẫn còn giá trị như là ánh sáng rõ ràng cho bao thế hệ tiếp đến: “” Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy “(Ga 14, 6).

“Chỗ” mà Chúa Giêsu ra đi để chuẩn bị, là ở nơi “nhà Cha”; ở đó, người môn đệ sẽ có thể được sống đời đời với Thầy mình, và tham dự vào niềm vui của Người. Tuy nhiên, để đạt đến mục tiêu nầy, thì chỉ có một đường mà thôi: đó là Chúa Kitô, là Ðấng mà người môn đệ phải từ từ đồng hóa chính mình theo đó. Sự thánh thiện thật sự hệ tại ở điểm nầy: đó là không phải người Kitô sống, nhưng Chúa Kitô sống trong người đó (x. Gal 2,20). Ðây là đích điểm cao cả, được đi kèm với một lời hứa cũng hết sức khích lệ: ” Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”(Ga 14,12).

Chúng ta lắng nghe những lời trên của Chúa Giêsu: ” Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy…” Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như thế nào, nếu vô thần, nếu người kitô hữu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, được củng cố bởi Ðức Cậy hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô? “Thầy đi để dọn chỗ cho các con … để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó ” (Ga 14, 2).

Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay lòng người thay lòng đổi dạ. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Chúa Đức Giêsu Kitô. Hãy phó thác hoàn toàn cho Chúa, như trẻ nhỏ trong vòng tay của nguời Mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn. Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của hòa bình, sự thanh thản và niềm an vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta?

Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền…

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chăm chú nhìn lên Thiên Chúa Cha. Xin Mẹ hãy nắm tay hướng dẫn và thôi thúc chúng ta luôn vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.

Về mục lục

.

CÙNG ĐÍCH

Lm. Trần Việt Hùng

Các con xao xuyến làm chi.

Tin vào Thiên Chúa, từ bi vô ngần.

Thầy đi dọn chỗ ân cần,

Nơi nhiều chỗ ở, dự phần phúc vinh.

Nhà Cha cư ngụ thiên đình,

Các con dõi bước, bình sinh bên Thầy.

Là đường, sự thật đong đầy,

Thầy là sự sống, dựng xây Nước Trời.

Chính Cha hiện hữu muôn đời,

Mọi loài tạo tác, tuyệt vời cao sang.

Ngôi Hai Con Chúa dẫn đàng,

Tìm về chính lộ, nhẹ nhàng hân hoan,

Chúa Con chiến thắng khải hoàn,

Vinh quang thập giá, thành toàn ước mơ.

Cha Thầy yêu mến vô bờ,

Qua Thầy mạc khải, tôn thờ Ngôi Ba.

Thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

Dục lòng tin kính, mưa sa phúc lành.

Ngợi khen chúc tụng thánh danh,

Phụng thờ kính mến, lòng thành tri ân.

Chúa Kitô là tảng đá sống động đã bị người ta loại bỏ, nhưng đã trở nên tảng đá góc tường. Chúa đã trở thành trung tâm điểm của đời sống con người. Sau khi hoàn tất sứ mệnh nơi trần gian, Chúa đã trở về cùng Thiên Chúa Cha. Chúa về trời để dọn chỗ cho chúng ta. Rồi Ngài sẽ trở lại đem chúng ta đi với Ngài. Thật là hạnh phúc biết bao. Chúng ta sẽ có chỗ dung thân đời đời bên Chúa.

Nhiều người băn khoăn về ý nghĩa cuộc đời. Không biết kết cục cuộc đời sẽ ra sao? Sau khi chết sẽ đi về đâu? Cha ông nói chết là qua đời, quá vãng, từ trần, qui tiên và là vào thế giới bên kia. Các ngài cố gắng đi tìm ý nghĩa và cùng đích của cuộc đời. Tự con người đi tìm và tìm mãi vẫn không có một giải đáp đích thực. Có nhiều người cố tìm hạnh phúc ở đời tạm này và dừng tại đó.

Phúc âm hôm nay, Chúa đã mở cho chúng ta một con đường. Chúng ta tìm thấy ý nghĩa và cùng đích của cuộc đời trong Chúa. Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. Qua con đường của Chúa, chúng ta sẽ đạt tới đích. Con đường của Chúa là con đường yêu thương và tha thứ. Con đường của sự đơn sơ khiêm tốn. Con đường của sự từ bỏ và dấn thân. Sau cùng là con đường của thập giá. Đi đúng đường chúng ta sẽ hướng tới cùng đích. Chúng ta đừng lo lắng, vì Chúa Giêsu đã nói rằng trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở. Các con hãy tin vào Cha và vào Thầy.

Truyện kể: Vào một ngày nọ, có một nhà truyền giáo phục vụ bên Trung Quốc đã lâu năm và một ca sĩ mới sang khoảng hai tuần, cùng trở về Hoa Kỳ trên một chuyến tầu. Tầu cập bến, có cả ngàn người ra chào đón người ca sĩ, nhưng chẳng có ai để ý đến nhà truyền giáo. Nhà truyền giáo cảm thấy buồn trong lòng, thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, con dâng hiến cho Chúa cả cuộc đời. Còn anh ca sĩ chỉ có 14 ngày. Vậy mà có cả ngàn người chào đón anh về. Chúa trả lời: Hỡi con, con chưa về nhà mà.

Thật thế, quê hương trần thế chỉ là quê tạm và là nhà trọ của khách lữ hành. Chúng ta thấy đó, không có nơi đâu là bền vững. Người ta vẫn thường thay đổi chỗ ở trong cuộc sống mà. Ngôi nhà mà chúng ta mong ước và chờ đợi, đó chính là nơi Chúa hứa dọn sẵn cho chúng ta.

Chúng ta không còn lo âu sợ hãi khi đối diện với cuộc sống ngày sau. Có Chúa đi trước dọn chỗ rồi. Chúa sẽ dẫn đường chúng ta đi. Hãy phó thác vào sự quan phòng của Chúa. Hãy đặt bàn tay chúng ta trong lòng bàn tay Chúa. Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta về nhà Cha của chúng ta.  

Về mục lục

.

TRỞ NÊN CHÂN DUNG ĐẸP CỦA CHÚA GIÊSU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà  

Nhiều lần Chúa Giê-su nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò: Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào? 

Thế nên Phi-líp-phê mới đề nghị với Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” 

Chúa Giê-su là hình ảnh của Chúa Cha  

Bởi vì trăm nghe không bằng một thấy và vì không thể dùng ngôn ngữ hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha, nên Chúa Giê-su chỉ cho Phi-líp-phê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9. 12,45). 

Tiếp theo, Chúa Giê-su cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giê-su nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giê-su; những gì Chúa Giê-su thực hiện trong cuộc đời cũng là những hành động của Chúa Cha…: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Ngài làm những việc của mình. (Gioan 14, 10). 

Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giê-su. Nhìn vào Chúa Giê-su, nhân loại sẽ nhận biết Thiên Chúa Cha. 

Giáo hội là hình ảnh của Chúa Giê-su  

Tương tự như Phi-líp-phê hôm xưa thỉnh cầu Chúa Giê-su bày tỏ cho các môn đệ biết Chúa Cha, thì nay, nhiều người cũng muốn nhờ chúng ta bày tỏ cho họ nhận biết chân dung của Chúa Giê-su. 

Trước vấn nạn nầy, thánh A-tha-na-si-ô đưa ra một chỉ dẫn cụ thể như sau:  “Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo hội.” Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và mỗi người chúng ta, vì là thành phần của Giáo hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giê-su. 

Trở nên tấm ảnh đẹp của Chúa Giê-su  

Thiên Chúa tạo dựng nên con người theo hình ảnh Chúa. Hơn nữa, ki-tô hữu còn là chi thể của Chúa Giê-su (I Cor 6,15), là hiện thân của Thiên Chúa, được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su (Rm 8, 29. Pl 3,10)). Vì thế, ki-tô hữu thực sự là hình ảnh sống động của Thiên Chúa, bày tỏ chân dung Thiên Chúa cho mọi người. 

Giờ đây, nhìn lại mình, chúng ta có xứng đáng là hình ảnh, là tấm chân dung của Chúa chưa? 

Có một số người rất sợ bị người khác chụp hình, hoặc khi cần phải chụp hình thì cố tạo dáng, phải nở nụ cười thật duyên, phải làm sao cho ăn ảnh… vì sợ rằng tấm ảnh của mình, khi in ra, không đẹp. 

Tâm lý của người đời là hễ “tốt thì khoe nhưng xấu thì che” do đó, ai cũng sợ phô bày hình ảnh không đẹp của mình cho thiên hạ trông thấy. 

Một khi tấm ảnh được in ra, nếu thấy chân dung của mình tươi đẹp, người ta muốn phóng ra khổ lớn để trưng bày giữa phòng khách, muốn đưa lên “mạng” để cho nhiều người chiêm ngưỡng; ngược lại, nếu thấy chân dung mình xấu xí, người ta giấu kín hoặc huỷ nó đi. 

Mỗi một ki-tô hữu cũng là một tấm ảnh của Chúa Giê-su. Chắc chắn Chúa Giê-su không muốn chân dung của Ngài xấu xí. Có lẽ Chúa Giê-su cũng muốn dùng “nghệ thuật sửa ảnh” để chỉnh sửa tấm ảnh của mình cho xinh đẹp và tất nhiên, Chúa Giê-su cũng muốn trưng bày chân dung tươi đẹp của Ngài ra cho người ta trông thấy (Mt 5,16) và điều đáng buồn, là có lẽ Chúa Giê-su cũng muốn che giấu những tấm chân dung xấu xí của Ngài đi. 

Là ki-tô hữu, là chân dung của Chúa Giê-su, chúng ta cần phải được “chỉnh sửa” hằng ngày, không phải bằng kỹ thuật photoshop hiện đại, nhưng bằng cách chừa bỏ thói hư tật xấu và trau dồi nhân đức, để những vết đen của tội lỗi được xoá bỏ đi, để cho nét đẹp của tâm hồn đạo đức được toả sáng, nhờ đó, Chúa Giê-su sẽ hãnh diện về ta là tấm chân dung tươi đẹp của Ngài.

Lạy Chúa Giê-su, 

Đã bao lần chúng con làm cho chân dung Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.

Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực của Chúa cho thế giới hôm nay.

Về mục lục

.

NGƯỜI LÀ CON ĐƯỜNG

AM. Trần Bình An

Ở La Mã, đường Appia là con đường được làm ra cổ xưa nhất. Đây là con đường dài khoảng 200km nối liền giữa thành phố Capua, Caserta, Campania, với thủ đô La Mã.

Con đường trải dài 200 km đó gần như là một đường thẳng. Đặc trưng nhất của các con đường được người La Mã làm ra, chính là dạng đường thẳng. Về sau, trong hệ thống đường xá trải rộng khắp La Mã, những con đường có thể gọi là huyết mạch, thì chạy dài thẳng tấp vài chục km, xuyên ngang dốc núi hiểm trở, vượt qua thung lũng, san lấp các đầm lầy băng băng thẳng tiến. 

Kể từ khi con đường Appia được bắt đầu làm vào năm 312 trước Công nguyên cho đến năm 180 sau Công nguyên, trải qua 500 năm, người La Mã như bị thôi thúc bởi cái gì đó vẫn tiếp tục làm đường. Tổng chiều dài của các con đường vào khoảng 290.000 km. Theo tính toán là hơn 7 vòng trái đất, chỉ những con đường huyết mạch thôi cũng lên đến chiều dài 86.000 km. Nhân tiện đây cũng xin nói thêm, các xa lộ liên bang của Mỹ cũng chỉ hơn 88.000 km. Thế nhưng, nếu so về diện tích thì Đế quốc La Mã chiếm 7.200.000km2, Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ chiếm 9.360.000 km2 . 

Đường được trải bằng đá. Rất nhiều lớp đá chồng chất lên nhau có độ dày từ 1-1,5 mét. Lớp mặt được lát đá dăm, đá chẻ, bên dưới là đá vụn, dưới nữa là các tảng đá được kết dính bằng vữa. Thật đáng kinh ngạc đường cao tốc hiện đại theo tiêu chuẩn Nhật Bản, thì độ dày các lớp đá cũng 1,4 mét, còn đường thông thường cấp Tỉnh lộ chỉ dày vỏn vẹn có 15cm mà thôi. 

Chiều rộng các con đường không rộng lắm. Bề rộng lòng đường Appia vào khoảng 3 mét. Tuy nhiên, ven mỗi bên đường người ta xây dựng lối dành cho người đi bộ có bề rộng 1,5 mét, và phía ngoài lối đi bộ đó là bãi cỏ rộng 6m. Tổng cộng khoảng không gian 18 mét của con đường được đảm bảo cho việc đi lại. 

Rồi người ta dựng các cột mốc biểu thị lộ trình. Ở những nơi xung yếu, người ta dựng các trạm dừng chân. Nơi đây, lữ khách có thể đổi ngựa, ăn uống và ngủ nghỉ. 

Dĩ  nhiên không phải là tất cả các con đường là đều được trang bị như vậy. Ở các vùng núi hay biên giới sâu xa, bề rộng đường hẹp đi, các trạm dừng chân được thay thế bằng đồn đóng quân của quân đội La Mã. Thế nhưng, các con đường được xây dựng trên toàn thế giới La Mã bao trùm miền Viễn Đông đến Bắc Phi, và phủ cả Châu Âu. (Nguyễn Thị Hồng Lan dịch, Wakyama Shigeru, Đường Nào Cũng Về La Mã) 

Trong Tin Mừng thánh Gioan hôm nay, Đức Giêsu tuyên xưng là “con đường, là sự thật và là sự sống.” Nếu con đường nào cũng dẫn về Roma, thì con đường Đức Giêsu luôn dẫn đi trong sự thật và sự sống. 

Người là Con Đường

Câu trả lời rất minh bạch của Đức Giêsu cho ông Tôma, cũng như cho mỗi người:”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.” Đó là mặc khải vô cùng quan trọng, rất chính xác, rất rõ ràng dành cho những ai đi theo Người. 

Người giới thiệu chính mình là con đường đức tin chật hẹp, chông gai, đầy khó khăn, nhưng hãy chọn đi, nếu muốn được sống: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.’(Mt 7, 13-14) Đó cũng chính là con đường cứu độ, như Đức Giêsu đã bao lần công khai khẳng định: “Các ông này là tôi tớ Thiên Chúa Tối Cao ; họ loan báo cho các người con đường cứu độ.” (CV 16, 17) 

Người là sự thật 

Trước quan toà Philatô,  Đức Giêsu dõng dạc xác nhận Người đến đem công lý, làm chứng cho sự thật, nhiệm vụ của Người đến thế gian: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” 

Người ban công lý và sự thật, khi rao giảng Tin Mừng cứu độ: “Cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em.” (Ep 1, 13) Trong thư gửi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô cũng tiếp tục nhấn mạnh Tin Mừng là chân lý:“Lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em.” (Cl 1, 5-6) 

Người là sự sống

“Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Không thể nào được sống, được thấy Chúa Cha, mà không qua Đức Giêsu, không qua con đường của Người dẫn dắt, cứu độ và giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết. 

Để được sống nhờ Đức Giêsu gia ân, thánh Phaolô kêu gọi điều chỉnh đời sống, như ban đầu chúng ta được tạo dựng tốt lành bắt nguồn từ sự thật:“Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hỏng buông theo những đam mê lầm lạc… Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên tạo theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật.” (Ep 4, 22 & 24) 

“Ngôi Lời đã nhập thể, và Đức Chúa Cha đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu và đẹp lòng Ta, hãy nghe lời Người.” Người là sự sống: con chỉ sống bằng tinh thần của Người. Người là đường: con chỉ theo bước chân người.” (Đường Hy Vọng, số 550) 

Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng, mở mắt, mở linh hồn chúng con luôn biết và ghi nhớ rằng, Chúa chính là con đường, là sự thật và là sự sống, để chúng con cải cách đời sống theo Tin Mừng. 

Khấn xin Mẹ Mân Côi, xin cầu bầu chúng con luôn vâng theo lời Mẹ, biết ăn năn, sám hối và cầu nguyện, xin Chúa cứu giúp chúng con trung thành với Chúa luôn mãi. Amen.

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG GIÊSU

JM. Lam Thy

Trong nhóm Mười Hai Tông đồ tiên khởi, ngoài một Giu-đa It-ca-ri-ốt chối Chúa phản Thầy, số còn lại tuy không đến độ quá quắt như Giu-đa, nhưng vẫn còn bán tín bán nghi (khi thì tin Thầy mình là Thiên Chúa, lúc lại ngờ là ma). Vì thế nên mới có cảnh cho đến giờ phút cận kề cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, sau gần 3 năm theo Thầy nhưng vẫn chưa tin Thầy mình chính là Con Thiên Chúa, nên mới thắc mắc như kiểu Tô-ma và Phi-líp-phê trong bài Tin Mừng hôm nay (CN V/PS-A – Ga 14, 1-12). Cái thắc mắc của Tô-ma (“Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”) thì còn khả dĩ, vì Đức Giê-su dùng nghĩa bóng trong Lời dạy của Người, nhưng đến câu cuối thì Người lại nói: “Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 4). Tuy nhiên, đến như Phi-líp-phê thì lại đặt một câu hỏi bộc lộ rõ tâm trạng chưa tin tưởng Thầy mình là Con Thiên Chúa, nên khi nghe Thầy nói: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” (Ga 6-7), Phi-líp-phê mới thưa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” 

Chính vì những thắc mắc của các Tông đồ bày tỏ tâm trạng nửa tin nửa ngờ như thế, nên Đức Ki-tô mới phải nhắc nhở (gần như quở trách): “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.” Và Người nhấn mạnh: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.” (Ga 14, 9-11). 

Thật là chua xót! Người Thầy ở liền bên, dạy bảo biết bao điều hay lẽ phải, và làm biết bao nhiêu việc chỉ có Thiên Chúa mới làm được. Vậy mà nay phải nói với những người thân cận nhất của mình như thế! Chẳng khác nào nói: Nếu không tin vào lời nói thì hãy tin vào việc làm của Thầy, bởi chính tự bản chất việc làm đã nói lên một cách chắc chắn bản chất của người làm nên những việc ấy! Thế mà chỉ một thời gian ngắn sau đó lại vẫn còn cảnh vừa mới tuyên xưng Thầy mình là Thiên Chúa, đã vội vàng chối bỏ đến 3 lần trong một đêm. Quả thật “Đời là thế, thế thời phải thế!”, biết sao được! Chính vì vậy nên mới nói đó chính là những thử thách nghiệt ngã trên hành trình tìm kiếm một con đường – con đường dẫn tời chân lý vĩnh cửu. 

Đã gọi là hành trình tức là đi trên một con đường (theo từ nguyên thì hành trình là  “Đường đi qua trong một chuyến đi dài”), sao lại còn nói “hành trình tìm kiếm một con đường”. Vấn đề là ở chỗ đó; ví dụ: “Đường nào cũng tới La Mã”, tôi đang trên đường đi tìm con đường ngắn nhất để tới La Mã. Nói cách khác là đang trên một con đường đi tìm một con đường khác. Các thánh Tông đồ tiên khởi đi theo Thầy Giê-su cũng với mục đích tất yếu là đi tìm một con đường – con đường hạnh phúc theo cách hiểu riêng của mỗi người. Đáng lý thấy Thầy giảng dạy, nhất là chứng kiến tận mắt những việc Thầy làm, thì các ngài phải hiểu được Thầy mình là ai. Cho tới khi đã được thấy tỏ tường vinh quang Phục Sinh, tức là được thấy những chứng liệu minh hoạ cho Lời dạy của Thầy – Thầy đã hoàn tất cuộc hành trình cứu chuộc nhân loại mà Chúa Cha đã trao phó; vậy mà vẫn cứ bán tín bán nghi, để đến nỗi Thầy phải nói lên câu nói chua xót như vậy. Đi theo Thầy để tìm kiếm con đường hạnh phúc, mà không biết “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”.(Ga 14, 6)! Vậy đó!

Tuy nhiên, cũng đừng vội trách người xưa, mà hãy nhìn vào con người thời nay mà xem. “Gần chùa, gọi Bụt bằng anh” (tục ngữ VN) cũng là lẽ thường tình. Thầy sống một cách khiêm nhường quá, thân tình quá, bao dung quá, Thầy không coi học trò là tôi tớ mà là bạn hữu, Thầy không đến để được phục vụ mà là để phục vụ và thậm chí còn hiến dâng cả mạng sống mình làm giá chuộc học trò, cứu độ nhân loại. Thầy là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật mà lại quỳ xuống rửa chân cho học trò, rồi còn dạy “ai tát con má trái thì hãy đưa má phải cho họ tát tiếp”. Không, nếu thật sự Thầy là Thiên Chúa thì Thầy không thể qúa bình thường (đến độ gần như tầm thường) như vậy được. Vì thế mới đi nghe hết thầy bói này đến thày tướng kia, để mò tìm hết đền này, miếu nọ, tìm những thần này, thần khác, rồi cứ mải miết mê muội với những mộng tưởng con đường dẫn tới hạnh phúc. Hoá cho nên cũng chẳng lạ gì khi thấy vẫn còn quá nhiều người tin rằng con đường hạnh phúc là con đường vinh hoa phú quý, giàu sang danh vọng. Vâng, quả thật “gần chùa gọi Bụt bằng anh” vì “Bụt chùa nhà không thiêng”, nên mới ra cớ sự.  

Cuối cùng, thì lại phải nhắc đến một điều mà mỗi khi nhắc tới là y như rằng lại được nghe điệp khúc “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Nhưng cho dù có “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, cũng vẫn phải nhắc lại: Đó là vấn đề “Đức tin” – Đức tin và cuộc sống, đức tin trong cuộc sống. “Nếu không tin vào những lời nói của Thầy thì hãy tin vì những việc làm của Thầy” (Ga 14, 11). Thầy đã làm những công vịêc ấy vì ai và để làm gì? Cái mục đích cuối cùng nhắm tới phải chăng là đem lại hạnh phúc, đem lại sự sống cho các môn đệ? Vậy thì phải chăng Thầy chính là con đường hạnh phúc, con đường dẫn tới sự sống đích thực, mà mọi người đang kiếm tìm? 

Ôi! Lạy Chúa! Những sự kiện nhãn tiền xảy ra kề bên con, ngay trong cuộc sống của con, mà con vẫn bán tín bán nghi, lại đi tin vào vào những điều mơ hồ ảo tưởng. Rõ ràng là con đang đi trên một con đường, một hành trình dẫn về chân lý vĩnh cửu, dẫn tới hạnh phúc viên mãn, bởi luôn có Người Thầy Chí Thánh đồng hành; vậy mà con vẫn u mê không nhận thức được. Cúi xin Chúa hãy ban Thánh Thần soi sáng cho con hiểu ra được và vững tin rằng chỉ có một con đường duy nhất dẫn con về quê hương đích thực, sự sống vĩnh cửu, đó là CON ĐƯỜNG GIÊ-SU. Ôi! Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con! Amen.

Về mục lục

.

CHẾT SẼ VỀ ĐÂU?

 Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cái chết là điều mà ai cũng ngại khi phải nhắc đến. Thế nhưng, cái chết nó là một phần của cuộc sống. Cái chết đã bám vài kiếp người chúng ta. Nó là định luật tất yếu của đời người.

Nhà thơ Du Tử Lê, khi phải  ngồi đối diện với quan tài của người mẹ thân yêu đã suốt đời khổ nhục mà nay sắp tan vào bụi đất. Ông đã trăn trở với vấn nạn thẳm sâu nhất của một đời người: Chết rồi sẽ đi đâu? Ông đã ta thán rằng: 

Chưa bao giờ tôi thấy,

tại sao kiếp người lại có thể vô nghĩa đến thế.

Người ta nói, chết là về nhà

Thế nhưng, ngôi nhà nào đây?

Trên mặt đất hay sâu lòng địa ngục?  

Và rồi, Vũ Khắc Khoan trong tác phẩm “Đọc Kinh” đã khắc khoải nói lên: “Cái đó, cái mà cho đến hôm nay, chưa một vị thiện-trí-thức, chưa một vị bồ tát nào mô tả được hình tượng, xác định được thể chất, cái đó có thể giản dị như mưa và nắng, hiện hữu rất tự nhiên  -mặt trời lại mọc lúc đêm tàn- nhưng cũng lại có thể vô cùng phức tạp, ẩn hiện vô lường, vô lượng danh hiệu… Những nửa khuya tỉnh giấc, cái đó – chính nó- đôi khi vẫn thấp thoáng trong tôi, hóa trang thành những lời tra vấn trớ trêu, những tại sao ray rứt, lãng đãng quanh tôi, tưởng như dễ dàng nắm bắt, bỗng lại xa vời, nhòa dần, biến hẳn tuyệt mù.”  

Và Vũ Khắc Khoan đã khơi dậy câu hỏi ngàn đời nay trở thành câu hỏi chính mình: “Cõi đó, lạ lạ quen quen. Cõi đó hằng đêm. Cõi đó, riêng tôi. Một mình.” 

Muốn lý luận gì thì lý luận, nhưng đứng trước quan tài của một người thương yêu, mình mới thấy thấm thía. Thân xác đẹp đẽ có quấn quít mấy rồi cũng trở về cát bụi. Cái gì còn lại? Vợ chồng dù có trở thành một xương một thịt, rồi cũng đến một lúc thấy chẳng phải vậy khi một trong hai phải bước đi lên xe tang mà bay vào cõi vĩnh hằng. Một mình. 

Ai mà chẳng có một lần ra đi. Sinh ký tử qui: sống gửi thác về. Nhưng về đâu, quê nào, nhà nào, thì vẫn là một câu hỏi khúc mắc nhất. Cõi lớn nào ? Ngàn Xưa nào? Đó là một niềm tin hay một ảo tưởng? Phải chăng đó là cảm nghiệm mà nhà thơ Hàn mạc Tử đã từng thốt lên:   

Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền

Không u ám như cõi lòng ma quỉ

Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị

Nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh.  

Đúng là đứng trước cái chết, con người mới thấy niềm tin quan trọng tới cỡ nào ! Niềm tin sống gửi thác về gắn liền với sinh mệnh đời mình. Vì thế mà nhiều người lớn tuổi thản nhiên mua trước cỗ quan tài để sẵn trong nhà, như sắm sẵn một chiếc xe để đi về quê mẹ sau những chiều chiều ra đứng ngõ sau vọng nhìn canh cánh ruột đau chín chiều. 

Niềm tin ky-tô giáo dựa vào biến cố Phục sinh của Chúa Ky-tô. Cái chết của Chúa Giê-su là mở đầu cho một cuộc khải hoàn vào thiên quốc. Ngài về cùng Chúa Cha. Về nơi mà Ngài đã ra đi. Về chung hưởng vinh phúc với Chúa Cha trên trời. Ngài cũng khơi lên niềm hy vọng cho kiếp người chúng ta, vì trong nhà Cha trên trời luôn có một chỗ cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta, và Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Ngài. 

Cuộc khải hoàn vinh thắng của Ngài là về Trời để Chúa Cha tôn vinh Ngài. Ngài đã tôn vinh Chúa Cha trong cuộc sống dương gian và hôm nay Chúa Cha lại tôn vinh Ngài trong vương quốc trường sinh. 

Là người ky tô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đòi hy sinh và từ bỏ. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giê-su. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. 

Nguyện xin Chúa Giê-su Phục Sinh chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và thanh thoát với những bận rộn của cuộc sống bon chen hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

HÃY TIN THẦY

Lm. Jos. DĐH.

Đối với người thành đạt, mấy khi họ phải nghĩ tới: lấy gì để ăn, tìm gì để mặc ; nếu cuộc sống của ta thiếu trước hụt sau, hẳn ít khi ta nghĩ tới việc làm duyên làm dáng. Nếu đang sống trong niềm vui và bình an, có thể cụm từ ưu tư lo lắng luôn ở xa ta. Thực tế thì ăn mặc là nhu cầu, tâm trạng vui buồn là cảm xúc tự nhiên được bộc lộ từ sâu bên trong ra ngoài. Hoàn cảnh “xuôi thuận” của mỗi người mỗi khác, nhưng tiếng nói từ thâm tâm ai cũng được thôi thúc sống có ý thức có trách nhiệm, ít là với bản thân, với gia đình. Xã hội thời nào cũng vậy, cha mẹ luôn yêu thương con, thầy muốn truyền kiến thức kinh nghiệm cho trò, anh chị em thì khao khát được sống bầu khí hòa thuận thương yêu.

Đủ nắng hoa sẽ nở, đủ yêu thương hạnh phúc sẽ đong đầy ; đủ khôn ngoan và bình tĩnh, nhiều khó khăn phiền muộn sẽ được tháo gỡ, nhưng người ta phải đủ niềm tin mới theo Đức Giêsu một cách trọn vẹn. Hãy tin vào Thiên Chúa, hãy tin vào Thầy, lời nói đó, Đức Giêsu không chỉ trấn an các học trò, hay nhắc nhớ nhân loại chúng ta cách chung chung, đúng hơn, tin Thiên Chúa, tin Thầy, chính là căn bản để được gọi là môn đệ Đức Giêsu. Nghe biết về sở thích của anh chị em mình đã khó rồi, tin họ luôn nghĩ tốt, nói tốt về mình lại càng khó hơn ! Các môn đệ tin Thầy Giêsu đến từ Thiên Chúa đã là một bước tiến rồi, làm sao các ông không cảm thấy lo lắng ưu tư khi nghe nói tới chuyện Thầy sẽ chết đi và sống lại. Yêu quý người có thế lực xã hội, tin tưởng vào một đại gia sẽ dễ hơn, nhưng phải mường tượng về sự tồn tại của yêu thương giữa tình trò sống động mãi, bao giờ cũng phức tạp hơn nhiều.

Tin bố mẹ luôn yêu thương con cháu, tin các ngài khi qua đời vẫn đang hiệp thông phù hộ cho con cháu đâu phải dễ, nhất là mỗi lúc ta gặp khủng hoảng về đời sống tinh thần, vật chất. Cuộc sống nào cũng khó khăn, niềm tin nào mà không phải chứng thực, tất cả đều sáng tỏ với thời gian. Chuyến ra đi, hay cuộc chia tay tạm thời giữa tình thầy trò Giêsu làm sao không có xúc động, dù số học trò đã hiểu, đã tin Thầy đến từ Thiên Chúa, dù Đức Giêsu có hứa hẹn sẽ quay trở lại đón các ông: “để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó”. Tuy nhiên, căn bản cho tính bền chặt đối với các môn đệ vẫn là tình yêu, là hiệp thông tin tưởng vào Thầy Giêsu.

Sách có câu: người quân tử nói bằng việc làm, kẻ tiểu nhân nói bằng miệng lưỡi. Nhưng dù là tiểu nhân hay quân tử, mỗi người đều đang có một hướng mà họ cho rằng đó là con đường dẫn tới hạnh phúc. Đức Giêsu thấu biết sự giới hạn của các học trò, bài học mà các ông cần lĩnh hội trước hết phải là ơn bình an, để rồi các ông biết tin vào Thiên Chúa, tin vào Thầy, thay vì tin vào số phận hên xui, vào sức riêng của con người. Sống yêu thương hay sống niềm tin vào Thầy Giêsu không phải là thụ động, trông chờ như chờ “sung rụng”, nhưng là để con tim và khối óc nên một trong hoạt động của tình yêu Ba Ngôi. Đức Giêsu xác thực với Philipphê, với chúng ta: “ai thấy Thầy là xem thấy Cha”, cũng trong tình hiệp thông đó, các con không thể lạc đường sai lối vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.

Các chuyên viên về tình yêu hôm nay vẫn đang tư vấn cho người trẻ: nếu bạn yêu một người nào đó thật nhiều, đừng đợi tới ngày mai mới nói cho người ấy biết, vì rất có thể ngày mai, bạn đã là người đến sau. Trong tình yêu, Chúa Giêsu không cần các học trò thố lộ tình cảm hôm nay hay ngày mai, Ngài ý thức tất cả những ai muốn theo Chúa, hãy tin Ngài là Đường là Sự thật và là Sự sống. Ở trong tình yêu của Chúa Giêsu, là ở trong Chúa Cha, sống tin yêu vào Thiên Chúa sẽ không tính theo thời gian trước hoặc sau, mà tính bằng sự hiệp thông tròn đầy nên một tình yêu. Tin Thầy Giêsu là tin Chúa Cha, là cảm nhận được sức mạnh của tình yêu Thánh Thần, là làm được những việc Thầy Giêsu đã làm.

Hãy tin Thầy, hãy theo Thầy, chắc chắn Đức Giêsu không nói với các học trò theo cảm tính tự nhiên, lời mời gọi ấy hẳn vẫn đang sống động nơi tất cả những ai tự nguyện sống tinh thần thần người môn đệ theo Đức Kitô. Hãy tin Thầy, để chúng ta dễ dàng hơn khi quên đi quá khứ tội lỗi bất xứng của mình, hãy tin Thầy Giêsu để chúng ta thấy hiện tại và tương lai lúc nào cũng có sự hiệp thông nên một của tình yêu Ba Ngôi. Chúa Giêsu chỉ cần nơi các tông đồ, nơi chúng ta niềm tín thác vào tình yêu của Ngài, để chúng ta được xem thấy Chúa Cha, biết sống những nghĩa cử yêu thương, và biết nhận ra niềm vui hạnh phúc của hiện tại và tương lai. Amen.

Về mục lục

.

ĐỪNG SỢ HÃI

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Đã làm người, không thiếu những nỗi sợ trong cuộc đời vây lấy bản thân từng người. Không đơn giản là nỗi sợ hãi những điều khủng khiếp tấn công, mà còn có cả những điều lẽ ra “không đáng sợ”, cũng làm chúng ta khiếp đảm, bạc nhược, trốn chạy…

Bởi ai cũng để cho những nỗi sợ hãi vây bọc, vì thế, cuộc sống càng ngày càng tăng thêm tội ác, tăng thêm những: sự bất công, sự bị mê hoặc, sự luồng cúi, sự giành giật, sự phản bội chân lý, sự a tòng những điều dữ, sự ngông cuồng, sự ức hiếp, sự tráo trở, sự chết chóc oan uổng của người vô tội, sự khủng bố tinh thần và thể xác, sự phải gánh lấy đau khổ, thậm chí đau khổ kéo dài…

Với kẻ “sợ”, những nỗi sợ hãi ấy vô vàn lần cướp đi một phần, hoặc cướp đi tất cả sự bình an, thoải mái, cũng như sự tỉnh táo nơi bản thân.

Bởi ý thức sự cần thiết của lòng can đảm, ngay khi khởi đầu triều đại giáo hoàng của mình, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ngỏ cùng thế giới: “Đừng sợ! Hãy mở cửa đón Chúa Kitô”.

Lời “Đừng sợ” này vang lên suốt triều đại giáo hoàng của đấng kế vị thánh Phêrô, để nhắc mọi người con của Hội Thánh và bất cứ ai yêu đời sống thiện tâm về lòng can đảm đối đầu cùng thử thách và nghịch cảnh. Nhất là “Đừng sợ” những khi cần thiết phải làm chứng và nêu cao chân lý, công lý.

Ngược về thời đầu của lịch sử Kitô giáo, cũng vẫn là sự hoang mang, nỗi sợ hãi hằn trong tâm trí các môn đệ của Chúa Giêsu. Một mặt, họ sợ hãi vì chứng kiến Thầy bị giết cách tan thương, tủi nhục.

Mặt khác, họ tiếp tục hoang mang trước niềm tin phục sinh. Phục sinh là sự kiện vượt quá trí hiểu của con gười, vì thế, sau biến cố Chúa Giêsu đã thực sự chết trên thập giá, mà nay nhiều môn đệ tin rằng, Người đã phục sinh, thì nhiều môn đệ khác của Chúa vẫn bàng hoàng, vẫn bán tín bán nghi, chưa thực sự an tâm về niềm tin phục sinh ấy. Họ nghi nan bởi mầu nhiệm phục sinh, một chân lý chưa từng có, đến với họ vừa quá diệu kỳ, nhưng cũng quá bất ngờ.

Do đó, thánh Phêrô với tư cách lãnh đạo tối cao của Hội Thánh, lên tiếng trấn an và củng cố đức tin, đồng nhắc lại sứ mạng được sai đi cho các anh em mình: “Vinh dự cho anh em là những kẻ tin… anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người” (bài đọc 1: 1Pr 2, 7.9).

Lui về khoảng thời gian xa hơn. Đó là thời Chúa Giêsu còn hiện diện giữa trần thế, càng cho thấy, nỗi sợ hãi là một hiện thực luôn áp đảo, gây khó khăn cho con người.

Tin Mừng hôm nay, Chúa nhật V mùa Phục sinh năm A, Hội Thánh mời gọi chúng ta sống lại giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu nơi dương thế. Chúa từ giã và an ủi:

“Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Thói thường, lời khiến người ta khó quên nhất ngay trước khi chia lìa nhau là lời giã từ. Tin Mừng hôm nay diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu y như thế: da diết, luyến nhớ, yêu thương… Một tình cảm rất con người.

– Chúa Giêsu sắp từ giã môn đệ để về cùng Cha. Sự lưu luyến làm cho mọi người trong cuộc đau lòng. Vì thế, lời ủi an của Chúa như thêm sức mạnh để họ vượt qua.

–  Nhưng không chỉ an ủi. Lời giã từ của Chúa còn chứa đựng nội dung ước hẹn. Ước hẹn là diễn tả nỗi lòng tha thiết, gắn bó, nhung nhớ, yêu thương… Nó cũng làm cho người ở lại sẽ an tâm hơn, vơi bớt nỗi biềm, để có thể đứng vững hơn.

Lời ước hẹn làm cho cả người đi lẫn người ở, luôn đau đáu nhớ về nhau, sống kề lòng nhau, dù thực tế có xa cách ngàn trùng.

– Đó cũng là lời giải thích lý do và ý nghĩa việc Chúa rời xa môn đệ. Chúa không bỏ những ai Chúa tuyển chọn. Chúa hiện diện bên họ. Chúa chờ đợi họ đi về phía Chúa.

– Tuy nhiên, trong lời trăn trối, bên cạnh tình cảm mà Chúa thể hiện trước giờ ly biệt, còn toát lên sự trấn an lớn lao đối với những bấn loạn, sự xoa dịu đối với những rối bời đang hiện diện trong lòng môn đệ.

Chúa đã phục sinh. Đoàn môn đệ hãy tin vững chắc vào Chúa. Họ hãy dừng lại nỗi hoang mang, sợ hãi.

Chỉ có tin vào Chúa mới có thể xóa sợ hãi, thêm can đảm.

Chỉ có đức tin mới có sức động viên, giúp môn đệ thêm nghị lực vượt qua tình cảm chia cắt, bước tiếp con đường Chúa đã hướng dẫn.

Nếu Chúa gởi gắm nơi chúng ta, những môn đệ của Chúa những uớc hẹn, là Chúa gởi gắm về những bảo đảm: tiếp tục yêu thương; tiếp tục gắn bó; tiếp tục hiện diện và tha thiết để được đón nhận chúng ta, để Chúa có chúng ta và chúng ta có Chúa, cả hai tồn tại vĩnh cửu..

Môn đệ hãy đừng sợ! Lời Chúa ước hẹn sẽ trở lại có sức xoa dịu niềm đau bằng viễn ảnh hạnh phúc của ngày gặp lại.

Môn đệ hãy dừng sợ! Chúa sẽ trở lại đón rước chúng ta. Chúng ta sẽ được mang đến nơi tốt đẹp mà Chúa dọn sẵn để chờ đợi, để cùng hưởng sự sống của chính Chúa, sự sống phục sinh vinh thắng.

Lời trấn an chứa đầy sự ước hẹn của Chúa, Hội Thánh muôn đời ghi khắc, để dù bất cứ hoàn cảnh nào, thăng hay trầm, khó khăn hay thuận lợi, Hội Thánh vẫn tin tưởng để luôn kiên vững trung thành với Chúa, trung thành với đường lối cứu độ của Chúa, không bao giờ giảm thiểu, không bao giờ ngưng trệ.

Chúng ta, từng người hãy vui lên, đừng sợ hãi. Chúa chiến thắng. Chúa hiện diện hết sức gần gũi, ấm áp, không bằng không gian, nhưng bằng tình mến, bằng niềm thương, bằng Lời chân lý, bằng Thánh Thần mà Chúa nhận lãnh và ban cho chúng ta từ nơi Chúa Cha, bằng nguồn sống thần linh là kho tàng bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể.

Từng người hãy cùng Hội Thánh ghi khắc sự ủi an, sự ước hẹn của Chúa để cảm nhận tất cả sự vỗ về, sự âu yếm, để ngày một thêm can đảm, thêm nghị lực sống.

Đoàn môn đệ của Chúa Giêsu hôm nay cũng đang lữ hành tiến về nơi mà Chúa “đã dọn sẵn” cho mình. Như các môn đệ xưa, chúng ta hãy hết lòng trông cậy, và ngẩng cao đầu trong ơn Chúa cứu chuộc mà vượt thắng khó khăn, không đầu hàng nghịch cảnh, luôn sống tích cực, sống thánh thiện.

Chính niềm tin vào Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta biết những phương cách để giúp vượt qua mọi nỗi cheo leo trong đời.

Điều quan trọng là: Chúng ta đừng sợ hãi.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU CỦNG CỐ ĐỨC TIN CHO CHÚNG TA

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, nếu nói theo bối cảnh Tin Mừng, thì đây là giai đoạn “Thầy trò sắp ly biệt”, còn nếu nói theo , lịch Phụng Vụ hiện thời là lúc “hậu“ phục sinh, đây cũng là lúc mà đức tìn của các Tông Đồ còn sơ khai, chưa chín mùi.

Vâng, thưa quý vị, Đức Tin là một ân ban vô điều kiện, đồng thời tính chất cảu “đức tin “, có nghĩa là Thiên Chúa mời gọi, con người đáp trả, nói theo từ ngữ “chuyên môn” của kỹ thuật thông tin là : Một bên phát tín hiệu, còn bên kia nhận tín hiệu. Như vậy, Đức Tin cần có hai yếu tố là : “Phát và nhận”, từ đó , suy ra “tình yêu” đúng nghĩa cũng phải đòi hỏi hai yếu tố trên là “cho và nhận”, ví dụ : Ai cho chúng ta vật gì, thì người ấy được nhận lại hai chữ “cảm ơn” ( thank you). Chắn chắn , nếu thiếu đi một vế, thì tình cảm bất thành. Đây không phải là tính cách trao đổi, nhưng điều tối thiểu của “tình yêu” là như vậy.

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, những Lời đầu tiên của trang Tin Mừng hôm nay ( Ga 14, 1- 12) là Lời “động viên” của Chúa Giêsu : “ Lòng các con đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” ( Ga 14, 1)

Theo đó, Đoan Tin Mừng hôm nay có thể được chia ba phần rõ rệt :

  • Thứ nhất : Chúa Giêsu củng cố niềm tin của các tông đồ vào Thiên Chúa và vào Người. Vì chính Người là Thiên Chúa.
  • Thứ hai : Chúa Giêsu mặc khải chính mình qua thánh Tôma, vì sự “đòi hỏi”của ông.
  • Thứ ba : Chúa Giêsu mặc khải Chúa Cha qua thánh Phi-lip-phê , vì sự “yêu cầu” của ông.

Vâng, ý thứ nhất là ý tổng hợp, vì ý thứ nhất bao trùm cả Đoạn Lời Chúa hôm nay là : Chúa Giêsu đòi hỏi lòng tin mạnh mẽ hơn, xác quyết hơn vào Thiên Chúa .

Theo đó, cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu chính là “con đường “ đưa chúng ta trở về với Chúa Cha “ơn cứu độ” duy nhất từ Thiên Chúa. Như vậy, từ các Tông Đồ đến chúng ta là những người được bước theo Đức Kitô. Tin vào Lời Hứa của Người, vì vậy, cuộc Tử Nạn của Người là một sự “trao đổi” , sự nhận lại “quyền “ làm con của chúng ta với Thiên Chúa.

Người tỏ rõ chính Người là :  “Là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Qua con đường ấy, Người dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha, là Đấng tạo thành muôn vật, muôn loài. 

Thưa quý vị , phàm nhân không thể tìm ra “con đường” như Chúa Giêsu, vì có biết bao phàm nhân là bá chủ một thời, hay ước vọng làm bá chủ trái đất, nhưng ước vọng duy nhất là “trường sinh” trên mặt đất nầy, nhưng vô vọng. Vì , mặt đất không thể có trường sinh, chỉ có Nước Trời là vương quốc vĩnh cửu, mà như vậy, Chúa Giêsu chính là Nước Trời, bởi vì nơi Người có sự sống, và sống muôn đời.

Chúa Giêsu mời gọi môn đệ “tin “ vào Thiên Chúa và tin vào Người là một ân huệ vô song, là một sự mạc khải vĩ đại nhất, bởi vì, khi phàm nhân “chiếm hữu” được sự sống muôn đời, thì họ không cho ai vào, chỉ để cho họ và gia đình họ vào mà thôi. Nhưng, khi mở được Nước Hằng Sống nhờ cuộc Tử Nạn và, Phục Sinh, có nghĩa là Chúa Giêsu mở rộng “cửa Trời” cho tất cả những ai “TIN “vào Thiên Chúa đều được vào.

Như vậy, niềm an ủi và khích lệ lớn lao bởi sự chân thật trên hết là Đức Giêsu- Kitô, Chúa chúng ta. Theo đó, “Lời an ủi” của Người là một niềm tin vững chắc và niềm cậy trông không sai chạy cho những ai tin vào Chúa Giêsu. Vì, “Các con đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy… “ ( C 1) là một điểm tựa vững chắc cho chúng ta.

Một điểm tựa trong cuộc sống là điều cần thiết, điểm tựa, chứ không phải điểm để lợi dụng. nhà bác học Enstein đã nói : “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ bẫy tung trái đất “, dù là sự hoang đường, nhưng triết lý của nó cho chúng ta một ý nghĩa tuyệt đối là “ điểm tựa”.

Như vậy, nếu “bẫy được trái đất”, thì Enstein phải cần có điểm tựa, nhưng không ai có thể cho ông ta điểm tựa đó, nhưng để vào được Nước Trời chúng ta cần có “ĐIỂM TỰA GIÊSU” chắc chắn chúng ta sẽ vào được Nước Trời, vì Chúa là “sự thật”, và Người đã nói : “Nhà Cha Thầy còn nhiều chổ ở ” ( c 2).

Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta biết, Người là :”Đường, sự thật, sự sống” , một mặc khải chân lý mang lại cho nhân thế một “ĐIỂM TỰA” tuyệt đối, vì trong Chúa Giêsu có Thiên Chúa, vì chính Người đã mặc khải Chúa Cha cho chúng ta.

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ , Cha đã ban Thánh Tử Giêsu- Kitô cho nhân thế, để nhờ Người chúng con biết được “Con Đường” đến với Cha là “ Con Đường Sự Thật và là Sự Sống”./. Amen

Về mục lục

.

ĐƯỜNG ĐẾN CHÚA CHA

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội 

I.  LẮNG NGHE LỜI CHÚA (Ga 14,1-12):

1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. 3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”

 5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” 6 Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. 7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”

 8 Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” 9 Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”? 10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.”

II. TÌM HIỂU & SUY NIỆM LỜI CHÚA:

2.1 Các Tông Đồ xao xuyến trước một tương lai mịt mờ vì Thầy sẽ không còn ở đó nữa. Đức Giê-su trấn an các ông rằng cứ tin vào Thầy và tin vào Thiên Chúa thì chẳng có gì phải sợ cả. Thầy có vắng mặt thì cũng là đi lo chuyện cho các ông mà thôi. Đức Giê-su còn mời các Tông Đồ hãy đi theo Thầy vì Thầy là ĐƯỜNG dẫn đến Chúa Cha,  Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy. Các Tông Đồ chắc hẳn rất ngạc nhiên và vui mừng về điều (mạc khải) mà Thầy vừa hé mở cho các ông. Nỗi âu lo xao xuyến của các ông có là gì so với viễn tượng được Thầy đưa vào Huyền Nhiệm của Cha.

2.2 Lời mời gọi Thầy Giê-su dành cho các Tông Đồ cũng là lời Thầy mời gọi mỗi người chúng ta. Nhiều khi chúng ta âu lo xao xuyến vì chuyện này chyện kia, nhiều lúc chúng ta không biết phải đi lối nào, phải bước theo ai trong cuộc sống hỗn độn và quay cuồng. Thầy Giê-su cho chúng ta câu trả lời/giải pháp vượt xa sự mong đợi của chúng ta. Câu trả lời hay giải pháp đó là cứ bám chặt vào Thầy, cứ theo sát gót Thầy là chúng ta sẽ gặp được Cha, sẽ được Cha đón vào Nhà.

2.3 Tâm tình chúng ta phải có là tin tưởng, cậy trông, phó thác và biết ơn, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những việc làm cụ thể: hy sinh, từ bỏ, mạnh dạn dấn thân phục vụ và mô phỏng cách sống của Thầy, trong tương quan với Cha và với tha nhân, nhất là với người nghèo cần được chúng ta yêu thương và giúp đỡ.

III. THỰC THI LỜI CHÚA:

3.1 Đáp lại lời Thầy Giê-su, tôi tin vào Thầy vì Thầy từ nơi Cha mà đến, vì Thầy nói Lời của Cha, vì Thầy ngỏ Ý của Cha.

3.2 Đáp lại lời Thầy Giê-su, tôi bước theo Thầy để được Thầy dẫn tới Chúa Cha, đưa vào huyền nhiệm của Cha, được sống với Cha và với Thầy.

3.3 Đáp lại lời Thầy Giê-su, tôi tin vào Thầy và bước theo Thầy thì tôi phải suy nghĩ, nói năng và hành động như Thầy:  “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi.”

IV.  CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA:

4.1 Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha về Con Một mà Cha đã ban cho loài người chúng con. Người đã xuống trần gian và cứu chuộc chúng con bằng cuộc sống và cái chết thập giá. Người mở đường cho chúng con về với Cha. Người đưa chúng con vào Huyền Nhiệm của Cha. Chúng con hân hoan sung sướng và cảm tạ Cha.

4.2 Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Chuộc chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa là Đường đưa chúng con vào nhà Cha, vào Huyền Nhiệm của Cha. Chúng con vui sướng hân hoan và cảm tạ Chúa! Xin Chúa dẫn chúng con đi trên con đường mà Chúa đã đi. Xin Chúa đưa chúng con đến nơi mà từ đó Chúa đã đến trần gian.

4.3 Lạy Thánh Tô-ma, Thánh Phi-lip-phê và các Thánh Tông Đồ, các ngài đã được phúc trao đổi trực tiếp với Thầy Giê-su nên được Thầy chỉ bào cho biết Thầy là ĐƯỜNG tới Chúa Cha và Thầy ở cùng Chúa Cha. Các ngài đã về Nhà Cha bằng con đường Giê-su. Các ngài đang ở với Cha và với Thầy Giê-su. Xin các ngài trợ giúp chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU MẠC KHẢI SỰ THẬT VỀ CHÚA CHA

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 14,1-12

(1) Lòng anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. (2) Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở. Nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. (3) Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại, và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. (4) Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi. (5) Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ?” (6) Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. (7) Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người. (8) Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (9) Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. (10) Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (11) Anh em hãy tin Thầy, Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy. Bằng không, thì hãy tin vì chính các việc kia vậy. (12) Thật, Thầy bảo thật anh em: Ai tin vào Thầy, thì Người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.

  1. Ý CHÍNH:

Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã tiên báo việc Người sắp từ giã Môn đệ mà về trời với Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ và sẽ trở lại đón các ông lên trời với Người (1-4). Sau đó, Đức Giê-su mặc khải Người là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Người. Ai biết và thấy Người là đã thấy và biết Chúa Cha (5-7). Rồi Người cũng cho biết mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Cha với Người: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (9). Cuối cùng Người còn hứa sẽ ban quyền năng lớn lao cho những kẻ tin vào Người (12).

  1. CHÚ THÍCH:

– C 1-2: + Đừng xao xuyến: Có lẽ sau khi nghe Thầy cho biết sắp phải chịu tử nạn (x. Ga 12,32-33), có một kẻ trong Nhóm Mười Hai sẽ phản nộp Thầy (x. Ga 13,21) và Phê-rô sẽ chối Thầy ba lần (x. Ga 13,38), thì các môn đệ cảm thấy xao xuyến và lo âu chán nản, nên Đức Giê-su đã phải lên tiếng để động viên tinh thần của các ông. + Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy: Anh em đã tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào quyền năng và tình thương của Thầy sẽ cứu anh em khỏi mọi nguy hiểm đang chờ đón anh em. + Nhà Cha Thầy: Là trời cao hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa ngự trị. + Nhiều chỗ ở: Theo một số giáo phụ (I-rê-nê, Clê-men-tê, Ô-ri-dê-nê) thì câu này nghĩa là trên thiên đàng có nhiều cấp độ hạnh phúc khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các học giả ngày nay (Maldonat, Lagrange, Durant, Huby) lại hiểu là trên thiên đàng sẽ có đủ chỗ ở cho tất cả mọi người. + Nếu không…: Nếu không phải như thế thì Đức Giê-su đã nói rõ để các ông khỏi thất vọng.

– C 3-4: + Đi dọn chỗ: Đức Giê-su cho các môn đệ biết Người không về trời một mình, mà Người sẽ quay lại đón các ông lên trời, để các ông cùng được hưởng hạnh phúc với Người. + Thì Thầy sẽ trở lại: Khi nào Người trở lại ? Có ba ý kiến: Ý THỨ NHẤT: vào thời Giáo hội sơ khai, người ta cho là đến ngày tận thế Chúa Giê-su sẽ lại đến phán xét chung toàn nhân loại và sẽ cho các Môn đệ được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Người (x. Mt 25,31-46). Ý THỨ HAI: cho rằng sự đoàn tụ với Chúa xảy ra ngay sau cái chết của từng cá nhân Môn đệ. Ngày nay nhiều người theo Ý THỨ BA: Đức Giê-su sẽ đoàn tụ với các Môn đệ sau khi Người từ cõi chết sống lại. Từ đây, Người sẽ hiện diện với các Môn đệ mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Người sẽ ở giữa và ở trong các tín hữu bằng ơn thánh hóa (x. Ga 14,17-18). Rồi sau khi họ chết, Người sẽ ban cho họ được hưởng hạnh phúc thiên đàng tùy theo công việc họ đã làm khi còn sống (x. Mt 16,27).

– C 5-7: + Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường ?: Câu này cho thấy Tô-ma là một con người thực nghiệm: đòi phải sờ mó, nhìn xem và kiểm chứng rồi mới chấp nhận (x. Ga 20,24-29). Câu nói của Tô-ma chứng tỏ ông cũng như Phê-rô và các người Do thái khác đều không hiểu gì về việc ra đi của Đức Giê-su (x. Ga 13,37; 7,35-36; 8,14). + Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống: *LÀ CON ĐƯỜNG: Đức Giê-su là con đường duy nhất dẫn đưa loài người từ đất lên trời, giống như chiếc thang tổ phụ Gia-cóp đã nằm mơ. *LÀ SỰ THẬT: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đức Giê-su mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa (x. Ga 12,45; 14,9) và chỉ đường cho các tín hữu phải ăn ở sao cho đẹp lòng Chúa Cha, nhờ lắng nghe lời Người (x. Mt 17,5). *LÀ SỰ SỐNG: Con đường dẫn đến mục tiêu cuối cùng là sự sống sung mãn nơi Chúa Cha. Chúa Cha đã ban sự sống cho Đức Giê-su, nên chỉ Người mới có thể ban sự sống đời đời cho những ai tin Người (x. Ga 3,36; 10,28). Tín hữu mang nơi mình mầm sống vĩnh cửu phải tiếp tục đón nhận sự sống ấy qua các phép bí tích do Đức Giê-su thiết lập, và cố gắng góp phần làm phát triển sự sống đó cho đến khi đạt tới sự sống sung mãn với Chúa Cha ở đời sau. + Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy: Qua thập giá, Đức Giê-su đã giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Từ đây, không ai có thể nhận được ơn cứu độ nếu không đi “con đường thập giá” (x Mt 16,24) và không được tái sinh bởi nước và Thần Khí (x Ga 3,5). Vì dưới gầm trời này không một danh nào khác ban ơn cứu độ ngoài Danh Giê-su Ki-tô. + Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người: Thực ra các môn đệ đã không xem thấy Chúa Cha vì Người thiêng liêng vô hình, mà chỉ xem thấy Chúa Giê-su, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm. Tuy nhiên ai xem thấy Chúa Giê-su cũng kể như đã thấy Chúa Cha rồi, vì Chúa Giê-su là Em-ma-nu-en nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x Mt 1,23), và Người hằng làm đẹp lòng Chúa Cha (x Mt 17,5) và vâng theo ý Cha. Có lần Người đã khẳng định: “Tôi và Chúa Cha là Một” (Ga 10,30).

– C 8-10: + Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha: Phi-líp-phê đòi Đức Giê-su chỉ cho xem Chúa Cha như Mô-sê ngày xưa đã xem thấy Đức Gia-vê trong đám mây trên núi Si-nai (x. St 24,9-17). + Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha: Đức Giê-su đã cho Phi-líp-phê biết ngày nay Thiên Chúa sẽ không tỏ hiện trong sấm chớp như xưa, mà sẽ ngự nơi con người Đức Giê-su. Từ nay không có con đường nào khác để người ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa, ngoài con đường duy nhất là chính Đức Giê-su (x. Ga 1,18), vì Người được ví như Đầu của thân thể nhiệm mầu là Hội Thánh (x Ep 5,23). + Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy: Chúa Cha được mặc khải nơi Đức Giê-su là Con của Ngài (x. Ga 12,45; 14,7). Tất cả đời sống, lời nói và việc làm của Người là nơi mà Chúa Cha sẽ được tỏ mình ra cách hoàn hảo. Vì Đức Giê-su luôn kết hiệp với Chúa Cha và làm theo ý Chúa Cha.

– C 11-12: + Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm: Đó là được tham phần vào sứ mệnh cứu độ loài người. + Còn làm những việc lớn hơn nữa bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha: Không phải các Môn đệ sẽ làm được những phép lạ lớn hơn Đức Giê-su, nhưng sau khi Người lên Trời, các ông được trao sứ mệnh thay Người đi rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc đến tận cùng thế giới với ơn phù trợ của Thánh Thần (x. Cv 1,8).

  1. CÂU HỎI:

1) Tại sao các Môn đệ bị xao xuyến khiến cho Đức Giê-su phải động viên tinh thần các ông ?

2) Đức Giê-su muốn nói gì qua câu “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở” ?

3) Đức Giê-su hứa đi trước để dọn chỗ và Người sẽ trở lại đón các môn đệ đi theo Người vào lúc nào ?

4) Khi tự ví mình là con đường, là sự thật và là sự sống, Đức Giê-su muốn dạy chúng ta điều gì ?

5) Câu “Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” có ý nghĩa thế nào ?

6) Ngay từ bây giờ các Môn đệ đã xem thấy Chúa Cha qua ai ?

7) Từ đây ai muốn gặp Chúa Cha thì phải gặp qua người nào ?

8) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ làm được những việc Người đã làm và còn làm được việc gì lớn hơn nữa cụ thể là những việc gì ?

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA : “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9b).
  2. CÂU CHUYỆN :

1) MẮT PHÀM KHÔNG THỂ THẤY THIÊN CHÚA VÔ HÌNH :

Một ông vua kia do cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra lệnh triệu tập tất cả các giám mục trong nước vào trong hoàng cung. Vua ra lệnh cho các Giám mục trong một tuần lễ phải chứng minh Thiên Chúa là Đấng có thực. Nếu không chứng minh được thì tất cả các Giám mục sẽ bị khép vào tội lừa bịp dân chúng và bị án treo cổ. Thật là một đòi hỏi nan giải, vì làm sao có thể chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa vô hình được ? Rồi càng gần đến hết hạn định, tâm trạng các vị Giám mục lại càng bị bồn chồn lo lắng. Bấy giờ một tu sĩ trẻ nghe biết câu chuyện, liền đến xin phép được thay cho các Giám mục để chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa. Đúng hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng quần thần đến một ngọn đồi giữa buổi trưa nắng gắt. Anh chỉ tay lên mặt trời và tâu nhà vua: “Muôn tâu bệ hạ, thảo dân xin bệ hạ nhìn theo ngón tay của thảo dân, thì sẽ xem thấy Thiên Chúa”. Nhà vua và các quan cận thần đều nhìn lên mặt trời theo hướng ngón tay của anh tu sĩ kia, nhưng không ai có thể nhìn được vì bị chói mắt. Bấy giờ nhà vua liền nổi giận ra lệnh chém đầu anh tu sĩ vì cho rằng anh ta đã dám đánh lừa mình. Bấy giờ vị tu sĩ liền quỳ dưới chân nhà vua và thưa rằng: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đòi xem bằng được Thiên Chúa. Nhưng mặt trời kia chỉ là một tạo vật tầm thường của Thiên Chúa, mà bệ hạ còn không thể xem được, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa là Đấng vô cùng cao cả được ? Thiên Chúa luôn hiện hữu, nhưng vì Ngài thiêng liêng vô hình, nên người ta không thể xem thấy Ngài bằng cặp mắt xác thịt, mà chỉ có thể thấy Ngài bằng cặp mắt đức tin thôi”

2) NĂM NGƯỜI MÙ CHO BIẾT VỀ HÌNH DẠNG CON VOI :

       Bài thơ của John Saxe kể lại câu chuyện năm gã mù người Ấn Độ đứng vòng quanh một con voi và muốn biết hình thù của con voi ra sao. Gã mù thứ nhất liền tiến ra sờ vào bên hông của con voi liền bảo voi giống như một bức tường. Gã thứ hai sờ thấy ngà voi thì bảo nó giống như một thanh gươm. Gã thứ ba sờ thấy chiếc vòi thì bảo nó giống một con rắn khổng lồ. Gã thứ tư sờ vào cái tai thì bảo nó giống như một chiếc quạt lớn. Gã thứ năm sờ vào cái đuôi thì bảo nó giống như một bó dây thừng. Thế thì ai trong năm gã mù này trả lời đúng ?  Có lẽ cả năm gã mù đều trả lời đúng, nhưng chỉ đúng một phần khi dựa vào cảm nghiệm giới hạn của mình. Phải nhờ ngồi lại đối thoại với nhau thì họ mới có được một cái nhìn tổng hợp về hình thù của con voi mà mắt họ không xem thấy.

3) CÓ THẾ GIỚI NÀO KHÁC SAU KHI CHẾT KHÔNG ?

Có một gia đình kia. Bà vợ rất sùng đạo, luôn dạy con cái giữ đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ nhà thờ. Trái lại, ông chồng lại không tin vào Thiên Chúa và luôn miệng nhạo báng những hành vi thờ phượng của vợ. Dù sống giữa hai niềm tin đối kháng nhau của bố mẹ, cậu con trai duy nhất của họ vẫn luôn yêu mến và tỏ lòng hiếu thảo với hai cha mẹ. Ngày nọ, đứa con mắc bệnh hiểm nghèo, các bác sĩ bệnh viện cũng vô phương cứu chữa. Khi biết mình sắp chết, cậu bé đã hỏi bố rằng: “Bố ơi, bác sĩ nói con sẽ không còn sống được mấy ngày nữa! Vậy con xin bố hãy nói cho con biết, con phải tin theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì sẽ chẳng có thiên đàng, chẳng có Thiên Chúa và sau này cũng chẳng có bố mẹ để yêu thương và bảo vệ con ! Còn tin theo mẹ, thì con sẽ có Thiên Chúa là cha nhân lành ban thưởng hạnh phúc thiên đàng cho con, và sau này con cũng hy vọng sẽ được gặp bố mẹ mãi mãi.

Ông bố nghe con nói mà nước mắt lưng tròng. Ông ôm con và nói: “Con hãy tin theo mẹ của con đi nhé”. Cậu bé lại nói: “Nhưng nếu bố không tin giống như mẹ, thì làm sao con có thể gặp được bố trên thiên đàng được?” Trước câu nói đơn sơ chân thành của con, ông bố đã nói với con : « Bố cũng tin giống như mẹ của con. Sau này cả gia đình chúng ta sẽ gặp nhau trên Thiên Đàng con nhé ». Kể từ ngày đó, ông đã hoàn toàn thay đổi lối sống để trở thành người tín hữu đạo hạnh với hy vọng sau này cả gia đình sẽ được sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.

4) DẤN THÂN ĐI THEO CHỦ TƯỚNG :

Trận chiến tranh giữa hai bên: một bên là nước Pháp và bên kia là liên minh hai nước Ý và Áo đầu năm 1796 đã kết thúc với chiến thắng của Pháp vào ngày 17.11.1796 như sau :

Đại tướng Bonaparte đã đưa quân đến một địa điểm, có cái cầu bắc qua trận tuyến quân địch. Trong lúc trận thế căng thẳng, đại tướng Bonaparte liền ra lệnh cho quan Pháp xung phong đi qua cây cầu để sang bờ bên kia. Nhưng trước họng súng của quân thù, không một người lính nào dám tuân lệnh để xung phong tiến lên thành cầu ! Đại tướng liền xuống ngựa, giựt lấy lá cờ dẫn đầu của người lính cầm cờ và ông vừa tiến lên thành cầu vừa hô to : ”Ai yêu tổ quốc  thì đi theo ta”. Nhưng rồi khi ngó lại, ông thấy trên cầu chỉ có một mình với lá cờ bị rách tơi tả do đạn của quân địch. Trong lúc nguy cấp, bỗng xuất hiện một cậu bé 13 tuổi vừa đánh trống thúc quân vừa hô xung phong và tiến lên cầu đi theo đại tướng. Quân sĩ thấy vậy liền ào ào xung phong theo sau lên cầu sang bên kia sông và đại tướng Bonaparte đã toàn thắng trận chiến đầy cam go chấm dứt cuộc chiến tranh.

Tám năm sau, khi Bonaparte đã lên ngôi lấy tên là hoàng đế Napoléon, có dịp trở lại chiến trường xưa và được mọi người đón rước linh đình. Hoàng đế Napoléon ngỏ ý muốn gặp lại cậu bé Vidal bấy giờ đã được 20 tuổi, và đang đóng quân tại địa phương.

Viên sĩ quan tùy tùng báo cáo cho biết cậu lính trẻ đã được trưởng đơn vị cho nghỉ phép về nhà đưa đám tang mẹ mới qua đời. Hoàng đế Napoléon liền bỏ mọi lễ nghi, cùng đoàn người lên xe đến làng của Vidal. Đến nơi vừa kịp lúc di quan đến nghĩa trang. Hoàng đế liền cùng các quan xuống xe đi bộ theo sau quan tài đến tận huyệt mộ. Tại đây ông đã nói mấy lời phân ưu với Vidal trước khi hạ huyệt. Rồi Hoàng đế ngỏ ý muốn đi chung với cậu trên đường từ nghĩa trang về làng. Khi Vidal từ chối không dám, Hoàng đế Napoléon đã nói với cậu như sau: « Tám năm trước con đã liều chết xung phong đi theo ta lên con đường chết, nay con hãy cho ta đi chung trên con đường sống để chia sẻ nỗi đau với con » (x. Những tia sáng).

5) NGƯỜI PHỤC VỤ CHÚA KI-TÔ :

Thỉnh thoảng trong các bức tranh thánh, chúng ta lại bắt gặp một người đàn ông trung niên cao lớn có chòm râu rậm ẵm đứa trẻ lội qua sông. Đứa bé đó chính là Chúa Hài Đồng, còn người đàn ông kia là thánh CHRISTOPHER, có nghĩa Người mang Chúa Ki-tô, dựa theo truyền thuyết nổi tiếng sau đây:

Christopher là một người khổng lồ gốc Canaan có chiều cao 2.3m. Tên ông là Reprobus, nghĩa là kẻ bơ vơ, bị xã hội ruồng bỏ. To cao như vậy mà Reprobus lại có khát vọng phục vụ một vị vua vĩ đại. Ông tìm đến nhà vua được truyền tụng là xuất chúng nhất, nhưng phát hiện ra ông vua này lại sợ quỷ Satan. Thế là ông lại bỏ đi tìm quỷ. Tìm thấy Satan rồi, ông dốc lòng phục vụ hắn, nhưng rồi ông lại phát hiện ra quỷ cũng biết sợ Chúa Giê-su. Ông bèn lang thang đi tìm Chúa Giê-su. Theo hướng dẫn của một nhà tu hành mộ đạo, Reprobus làm nhiệm vụ đưa mọi người qua một con sông hiểm trở. Nhà tu hành khuyên ông làm việc thiện này sẽ làm Chúa hài lòng và sẽ gặp được Chúa Giê-su.

Ông khổng lồ Reprobus miệt mài cõng người qua con sông dữ cho tới một ngày, một đứa trẻ xuất hiện. Tuy bé nhưng lại nặng như chì, ông khổng lồ vốn khỏe mà bưng em nhỏ qua sông cũng mệt bở hơi tai. Hài nhi Giê-su cho Reprobus biết sức nặng siêu phàm là do cả thế giới mà ngài đỡ trên tay. Sau khi hé lộ danh tính của mình cho Reprobus, Chúa Giê-su đã lập tức biến mất.

Sau khi gặp mặt Chúa Giê-su, anh chàng khổng lồ Reprobus đổi tên thành Christophoros (kẻ mang vác Chúa). Về sau người ta đọc thành Christopher. Từ đó Christopher bắt đầu rao giảng truyền đạo, thu phục thêm nhiều con chiên về cho Chúa. Nhà vua đương thời là hoàng đế La Mã Decius (249-251) quyết tâm đàn áp Thiên Chúa giáo. Hoàng đế Decius không để cho Christopher được yên. Ông bị bỏ tù, tra tấn, và cuối cùng bị xử tử chặt đầu.

Từ đó thánh Christopher trở thành vị thánh bảo trợ đặc biệt cho các du khách và binh sĩ khi ra trận. Cả đời ngài đã đưa người qua sông an toàn, thế nên từ Âu sang Á, những người lữ hành thường mang theo dây chuyền có mặt hình thánh Christopher, xe cộ du lịch cũng hay có tượng ngài để phù hộ cho khách đi đường bình an.

Thánh Christopher đã nâng đỡ Chúa Giê-su bằng bốn cách: Trên vai khi ngài cõng Chúa qua sông; Trong cơ thể khi ngài chịu sự tra tấn của nhà vua; Trong tâm khảm khi ngài tận tuỵ hiến dâng lòng mến Chúa; Và bằng môi miệng khi ngài rao giảng Tin Mừng. Vì thế mỗi tín hữu chúng ta đều có thể trở thành một “Christopher – người mang vác Chúa” nếu chúng ta quyết tâm yêu mến phụng sự Chúa và chuyên cần làm việc thiện.

  1. SUY NIỆM :

1) CHẲNG AI THẤY THIÊN CHÚA BAO GIỜ :

Chẳng ai có thể thấy được Thiên Chúa vì Ngài là đấng thiêng liêng vô hình. Nhưng người ta có thể cảm nghiệm về sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng những cách khác. Giống như mắt ta không thể nhìn sợi giây nào có điện hay không, nhưng ta có thể nhận biết có điện bằng nhiều cách khác. Chẳng hạn khi cả xóm đang tối thui vì cúp điện đột nhiên có điện lại, là đám trẻ con liền la to: «Có điện rồi». Tại sao lũ trẻ lại nhận ra có điện lại là do chúng thấy bóng đèn cháy sáng, quạt quay mát, tivi có hình ảnh v.v… Cũng vậy đối với Thiên Chúa. Tất cả những gì đang hiện hữu và hoạt động nơi bản thân và môi trường chung quanh chúng ta đều chứng tỏ có Thiên Chúa. Vì nếu không có Thiên Chúa thì sẽ chắc chắn sẽ không thể có những biểu hiện ấy.

2) AI THẤY THẦY LÀ THẤY CHÚA CHA :

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu hỏi của tông đồ Phi-líp-phê muốn được Thầy chỉ cho xem thấy mặt Chúa Cha, thì đã được Người trả lời như sau: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ?”. Thực vậy, “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha. Chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Con người tuy có thể nhận biết có Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ của Ngài, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt của Ngài. Chính Chúa Con là Chúa Giê-su đã tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa nơi Người: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9). Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Người đã cho nhân loại nhận biết Chúa Cha nơi lời nói và hành động của Người như sau: Thiên Chúa là một người Cha từ bi nhân hậu, đầy lòng xót thương, sẵn sàng tha thứ tội lỗi của con cái. Chúa Giêsu trở thành con đường độc nhất dẫn đưa loài người đến với Chúa Cha: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6).- “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12).

Đức Giê-su là Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình khi từ trời xuống thế mặc lấy thân xác phàm nhân (x. Ga 1,14). Người nên giống loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không phạm tội (x. Dt 4,15). Chính nhờ Đức Giê-su mà loài người chúng ta mới biết « Thiên Chúa là Tình Yêu » (1 Ga ,16); Thiên Chúa là Một theo Bản Tính, nhưng là Ba theo Ngôi Vị (Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi).

3) THẦY LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG :

 Khi nghe Đức Giê-su cho biết trong nhà Cha của Người có nhiều chỗ ở, và Người sắp về trời là để dọn chỗ cho các môn đệ. Rồi Người sẽ trở lại để đem các ông lên trời với Người, để Thầy trò sẽ được ở bên nhau mãi mãi. Ông Tô-ma thắc mắc « Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường đi ? Đức Giê-su trả lời: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). 

– Là Con đường: Đức Giê-su vừa là mục tử dẫn đường cho đoàn chiên là các tín hữu lên trời, mà Người còn là con đường, là chiếc cầu duy nhất dẫn đưa loài người lên trời.

– Là Sự Thật: Đức Giê-su đến để bày tỏ sự thật về Thiên Chúa cho chúng ta (x. Ga 12,45). Người là hình ảnh của Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,10); “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30).

– Là Sự Sống: Đức Giê-su đã trải qua sự chết và đã sống lại vinh quang, để mở đường sống cho những ai tin và chấp nhận đi con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang” của Người, như thánh Phao-lô viết: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6,8). Người đã lập bí tích Thánh Thể để biến bánh rượu trở thành Mình Máu Người và mời gọi các tín hữu lãnh nhận để được tham phần vào sự sống đời đời với Người.

4) TRỞ THÀNH CON ĐƯỜNG DẪN ĐƯA THA NHÂN LÊN TRỜI VỚI CHÚA CHA :

Trờ thành Ki-tô hữu tức là thành một Chúa Giê-su khác trước mặt tha nhân. Mỗi người chúng ta phải sống thế nào để cũng có thể nói như thánh Phao-lô: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1, 21). “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Thánh Phê-rô cũng đã khẳng định trước Thượng Hội Đồng Do thái như sau: “Chính Đấng ấy, là Tảng Đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, Tảng Đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,11-12).

Ngày nay Đức Giê-su đã về trời với Chúa Cha, và đã mở con đường sống cho loài người là đạo công giáo. Cuộc đời của Đức Giê-su chính là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta lên trời. Mỗi lần học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ nhận biết thánh ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì. Một khi biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa, chúng ta sẽ đi Con Đường Giê-su : là « đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi », là đường « Bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa », là đường « mến Chúa yêu người », đường « Qua đau khổ vào trong vinh quang »… thì chúng ta cũng sẽ trở thành con đường để đưa tha nhân cùng được lên trời với chúng ta. Mỗi lần dự lễ và rước lễ sốt sắng, chúng ta sẽ được Chúa Giê-su ban sự sống là ơn Thánh Thần để giúp ta hăng hái chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất.

  1. THẢO LUẬN :

1) Bạn có đồng ý với lập luận như sau: “Đạo nào cũng tốt. Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Do đó, Hội Thánh chẳng cần phải truyền đạo cho ai. Chỉ cần giúp anh em lương dân sống theo đạo làm người là đủ” ? Tại sao ?

2) Khi gặp một hoàn cảnh nan giải, bạn cần làm gì để nhận biết thánh ý Thiên Chúa và vâng theo Lời Người chỉ dạy ? 3) Hát bài kết thúc như sau: “Con đây ! Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì ?”

  1. NGUYỆN CẦU :

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Thánh ý Thiên Chúa là muốn cho mọi người đều được nhận biết chân ly và được hưởng ơn cứu độ. Xin ban cho những ai chưa biết Thiên Chúa, được nghe Lời Chúa để có đức tin và quyết tâm sống theo gương Chúa làm và lời Chúa dạy để được hưởng ơn cứu độ. Xin thôi thúc các tín hữu chúng con biết ý thức sứ mệnh phải chia sẻ niềm tin, hạnh phúc, niềm vui và sự bình an cho lương dân đang sống chung quanh chúng con.

– LẠY CHÚA. Chúng con cảm thấy mình thật nhỏ bé và bất lực, khó lòng có thể chu toàn sứ mệnh truyền giáo mà Chúa đã trao cho Hội Thánh trước khi về trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: Sứ mệnh truyền giáo trước hết phải được thực hiện cho những người thân quen như: cha me, vợ chồng, con cái, anh em và bạn bè của chúng con, rồi sau đó mới đến người khác. Xin giúp chúng con năng nhìn ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và suy niệm các hành vi và lời dạy của Chúa, vì Chúa chính là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy và quyết tâm thực hành theo trong đời sống thường ngày. Xin cho chúng con biết từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ ngày một nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em của mọi người.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH_A

Lm. Anthony Trung Thành

Sống trong xã hội tiến bộ như hôm nay, để đi đến một địa chỉ nào đó, có rất nhiều con đường để lựa chọn. Có con đường rộng. Có con đường hẹp. Có con đường khó đi. Có con đường dễ đi. Có con đường cong. Có con đường thẳng. Có con đường gồ ghề sỏi đá. Có con đường bằng phẳng. Có con đường ngắn. Có con đường dài…Nhưng chắc chắn trong muôn vàn con đường đó sẽ có một con đường thuận tiện hơn cả, sẽ dẫn tới đích nhanh nhất.

Đích đến của mỗi Kitô hữu chúng ta là Thiên Đàng. Để tới Thiên Đàng cũng có nhiều con đường đi, nhưng con đường thuận tiện hơn cả và dẫn tới Thiên Đàng nhanh nhất đó là con đường Giêsu.

Thật vậy, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, sau khi yên ủi các môn đệ: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”(Ga 14,1), Đức Giêsu cho các ông biết: Trên Thiên Đàng “có nhiều chỗ ở” và Ngài muốn cho các ông tới đó, vì Ngài “đi trước để dọn chỗ,” rồi Ngài “sẽ trở lại đón các ông…vì Thầy đi đâu các ông đã biết đường rồi.” (x. Ga 14, 2-4).

Vậy, đường của Đức Giêsu đi là con đường nào? Chính những người thân cận của Đức Giêsu vẫn còn vu vơ, chưa biết. Tôma là hiện thân của con người thực dụng, ông muốn biết một cách chính xác những gì ông chưa hiểu. Chính vì thế, ông mới hỏi Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” (Ga 14,5). Cám ơn Thánh Tôma, vì nhờ ông mà chúng ta có được một câu trả lời hết sức quan trọng của Đức Giêsu: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người” (Ga 14, 6). Như vậy, chính Đức Giêsu là đường đi, muốn tới Chúa Cha, muốn tới Thiên Đàng, thì cần phải đi trên con đường Giêsu. Nhưng con đường Giêsu là con đường nào? Đó là con đường Ngài đã đi trong suốt 30 năm đời sống ẩn dật: khiêm nhường, hy sinh phục vụ, vâng lời Đức Mẹ và Thánh Giuse, càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Ngài…Đó là con đường Ngài đã đi trong suốt 3 năm đời sống công khai: rao giảng Tin mừng, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, tha thứ tội lỗi, tuyển chọn và huấn luyện các Tông đồ, thiết lập Giáo hôi, thiết lập các Bí tích, chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá để cứu độ thế gian.

Muốn đi trên con đường của Giêsu, chúng ta phải theo vết chân Ngài. Muốn đi trên con đường của Giêsu, chúng ta phải thực hiện giáo huấn của Ngài. Giáo huấn của Đức Giêsu dạy chúng ta được ghi lại trong các cuốn Tin mừng. Giáo huấn của Đức Giêsu dạy chúng ta được cô đọng trong 10 điều răn, tóm lại trong hai điều này là mến Chúa và yêu người.

Đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của Đức Maria, nghĩa là biết sống phó thác, khiêm nhường, phục vụ. Đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của các Thánh. Nhưng mỗi thánh cũng có một con đường để đi: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã đi con đường thơ ấu thiêng liêng; Thánh Đamiêng đã đi con đường phục vụ người cùi; Thánh Phanxicô Xaviê đã đi con đường truyền giáo; Thánh Têrêxa Caculta đã đi theo con đường phục vụ người nghèo; Thánh Maria Goretti đã đi con đường tha thứ cho kẻ thù; các thánh Tử đạo đã đi con đường đau khổ…Nhưng tất cả các con đường đó đều được Đức Giêsu vạch ra. Chính vì thế, hãy đến với Đức Giêsu, chúng ta sẽ chọn một con đường thích hợp cho mình để tới tới Chúa Cha, để về Thiên Đàng.

Bài đọc I, trích sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết một số sinh hoạt của Giáo hội thời sơ khai (x. Cv 6,1-7). Khi số tín hữu ngày càng đông, các tông đồ không thể đáp ứng hết mọi công việc phục vụ nên đã mời gọi một số người cộng tác, đây là sự xuất hiện đầu tiên của chức phó tế trong Giáo hội. Chắc chắn ngoài 7 vị phó tế ra còn có nhiều người giúp đỡ các ông trong những lãnh vực khác. Sự phân chia các công việc này là mô hình đẹp cho các cộng đoàn giáo xứ hôm nay. Thật vậy, trong các giáo xứ, cha xứ là người chủ chăn được Giáo hội giao phó để coi sóc đoàn chiên. Nhưng một mình cha xứ không thể đảm đương hết tất cả các công việc. Vì thế, để cha xứ chu toàn bổn phận của mình cần có nhiều người cộng tác như: Cha phó, thầy Phó tế, chủng sinh, các Sr…Đặc biệt, trong giáo xứ luôn có Hội đồng mục vụ Giáo xứ, là cánh tay nối dài của cha xứ. Ngoài ra, trong giáo xứ còn có các ban ngành đoàn thể như: Ban Phụng Vụ, Ban Giáo lý, Ban Gia Trưởng, Ban Hiền Mẫu, Ban Giới Trẻ, Ban Phụ Lão và các hội đoàn khác. Tất cả các ban ngành được thành lập nhằm giúp đỡ Cha xứ hoàn thành trách nhiệm của mình. Nếu mỗi người trong cương vị của mình biết chu toàn bổn phận, trách nhiệm, thiết nghĩ đó cũng là con đường nên thánh. Con đường đến được với Chúa Cha, con đường dẫn tới Thiên Đàng.

Một con đường khác nữa để đến với Chúa Cha, đến với Thiên đàng, đó là con đường mà Thánh Phêrô đã vạch ra trong bài đọc II (x. 1 Pr 2, 4-9). Thật vậy, Thánh Phêrô cho chúng ta biết phẩm giá cao quý của người Kitô hữu, đó là “dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa.” Nhưng để gìn giữ phẩm giá cao quý đó, Ngài nhắc nhở chúng ta phải chu toàn bổn phận của mình như những viên đá sống động được tham dự vào viên đá tảng là chính Đức Giêsu, để xây dựng tòa nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô. Ngoài ra, mỗi Kitô hữu cũng phải biết “rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.”

Tóm lại, Đức Giêsu là con đường để mỗi người chúng ta đi và ai đi theo con đường của Ngài vạch ra chắc chắn sẽ tới được Chúa Cha, tới được cùng đích của mình là Nước Thiên Đàng. Nguyện xin Đức Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống giúp mỗi người chúng ta biết đi theo con đường của Ngài vạch ra, hầu tất cả mỗi người chúng ta được nên thánh. Amen.

Về mục lục

.

VƯỢT QUA CHƯỚNG NGẠI

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa 

VẤN NẠN CỦA ĐỨC KITÔ : 

“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14, 8). Bắt nguồn từ Do Thái giáo, niềm tin Kitô giáo cho hay rằng hạnh phúc thật là được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa. Thế mà xưa nay chưa từng có ai nhìn thấy tôn nhan Thiên Chúa mà còn sống. Ngay cả Môsê, vị ngôn sứ vĩ đại, người được ưu tuyển đàm đạo với Giavê diện đối diện mà cũng chỉ được phép nhìn thấy Thiên Chúa phía sau lưng Người (x.Xh 33,21-23). Và chúng ta đừng ngạc nhiên trước lời yêu cầu của Philipphê. Tuy nhiên chúng ta cần phải ngạc nhiên với câu trả lời của Chúa Giêsu: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9). Trong thân phận con người, cái yếu tố hữu hình, một trong những yếu tố của nhân tính mà Con Thiên Chúa đón nhận khi nhập thể, một khía cạnh nào đó, đã trở thành chướng ngại. 

“Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10,33). Giả như Chúa Kitô nhập thể, nhập thế trong thời đại hôm nay thì số phận của Người sẽ không khác xưa. Đấng vô hình lại ở trong kiếp hữu hạn, hữu hình ư? Đấng sáng tạo lại mang kiếp được tạo thành, mong manh sao? Thật khó mà chấp nhận cũng như đón nhận. Ngay cả các môn đệ, các tông đồ, ở với Thầy bấy lâu nay mà vẫn chưa biết rằng Thầy với Chúa Cha là một. Dù đã tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng trong tâm trí các tông đồ lúc bấy giờ thì Thầy cũng chỉ là một con người được Thiên Chúa sai đến, hay là một đại ngôn sứ mà thôi. Tâm trí các ngài còn nhiều tăm tối u mê, không thể hiểu thấu lời của Thầy cũng như căn tính của Thầy cho đến khi Thầy phục sinh từ cõi chết và Thánh Thần được trao ban (x.Ga 16,13). Cho đến tận thế, với người chưa tin, Đức Kitô Giêsu dù “là viên đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường mãi vẫn là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã” (x.1P 2,7-8). Nhập thế vào đời, Chúa Kitô là hình ảnh của Chúa Cha. Đã là hình ảnh thì tồn tại sự hạn chế của cái khả giác. 

VẤN NẠN CỦA HỘI THÁNH: 

Tôi tin Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Tôi tin Hội Thánh là Hiền Thê tinh tuyền xinh đẹp của Đức Kitô. Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền… Những lời tuyên xưng trên đây phải chăng đã được chấp nhận và đón nhận cách dễ dàng với tất cả những người tin vào Đức Kitô (Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo, Tin lành), chưa kể là với bà con ngoài Kitô giáo? Với người khác niềm tin, bất đồng chính kiến thì đã rõ. “Chúa Kitô loan báo Nước Trời và Hội Thánh lại đến!” (Alfred Loisy). Câu nói hàm chứa sự mỉa mai lẫn sự chê bai, ngờ vực của văn sĩ thế kỷ ánh sáng khiến chúng ta nhận ra vấn nạn luôn còn đó. Nhìn chung vấn nạn thường xoay quanh tính hữu hình của Hội Thánh Chúa. 

Giáo lý Công giáo nêu rõ: “Chúa Kitô thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, không hề phạm tội, chỉ đến để đền tội cho dân; còn Hội Thánh, vì ôm ấp trong lòng những kẻ tội lỗi, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh luyện mình. Do đó, Hội Thánh luôn nỗ lực sám hối và canh tân. Tất cả các chi thể của Hội Thánh, kể cả các thừa tác viên, phải tự nhận là người tội lỗi…” (GLCG chung số 827). Quả là một mầu nhiệm mà chúng ta không dễ thấu đạt và với anh em ngoài Hội Thánh thì càng khó hơn nhiều. Hội Thánh là hiện thân của Đức Kitô theo dòng thời gian. Thế mà nhiều khi chân dung Đức Kitô lại bị biến dạng do bởi một số chi thể “què quặt hay mù loà về tâm linh lẫn nhân cách” hoặc do bởi cái cơ chế đã có khi mang dáng vẻ thế trần của Hội Thánh. Các chướng ngại hay cớ vấp phạm xuất hiện do bởi các nguyên nhân khách quan cũng có nhiều mà do bởi các nguyên nhân chủ quan cũng không thiếu. 

VƯỢT QUA CHƯỚNG NGẠI: 

Vấn nạn của cái khả giác dường như là muôn thuở. Làm sao để vượt qua nó? Chúa Kitô đã khai mở: “Nếu ta không làm các việc của Cha Ta thì các ông đừng tin Ta. Còn nếu Ta làm các việc đó thì ít ra hãy tin các việc Ta đã làm” (Ga 10,37-38). Những việc của Đức Kitô thực hiện là dẫn đưa nhân loại đến cùng sự thật, đến cùng sự sống, vì Người “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Người đến thế gian này “là để làm chứng cho sự thật” (Ga 19,37). Chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và cho chúng ta được sống và sống dồi dào (x.Ga 8,32; 10,10). 

Tuy nhiên một thực tế thật khó phủ nhận vẫn tồn tại. Đó là rất nhiều người đương thời với Chúa Giêsu đã nghe lời chân lý của Người, đã chứng kiến các kỳ công vừa cao cả vừa đượm đầy tình yêu của Người, vẫn chưa hoặc không biết Người và tin nhận Người. Chúa Giêsu đã mở thêm một con đường mới, có thể nói là con đường tuyệt hảo cuối cùng, đó là chịu treo trên thập giá và tuôn ban Thánh Thần từ Trái Tim Cực Thánh của mình. Ngay đêm tiệc ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho các ngài: “Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.  Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu” (Ga 13,18-19). “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm” (Ga 19,37). Và “Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Ta Hằng Hữu” (Ga 8,28). “ Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32). 

Trước tình yêu tự nguyện trao ban, một tình yêu không điều kiện, một tình yêu không quản ngại hiến dâng của Đức Kitô và trước một tình yêu quảng đại của Nguời, Đấng sẵn sàng đón nhận những gì chúng ta đang có, đang là, dù đó có thể là những điều chưa tốt, những mặt hạn chế, những lỗi lầm, thì chúng ta mới có thể thốt lên như Tôma: “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con”. Quả thật  nói như lời thánh Tông Đồ dân ngoại rằng không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa nếu không được Thánh Thần thúc đẩy. 

Trở lại với chuyện của Hội Thánh. Trò không thể hơn thầy. Để Hội Thánh ngày càng trở nên bí tích của Đức Kitô cách khả tín và hữu hiệu hơn, thiết nghĩ rằng mỗi phần tử của Hội Thánh cần can đảm đối diện với sự thật, sống trong sự thật đồng thời tích cực thực thi công lý và tình yêu. Tuy nhiên, xin đừng quên chính khi bị đâm thâu cạnh sườn, chính khi bị treo lên cao để cho tình yêu tuôn ban thì đó mới là lúc căn tính của Hội Thánh được hiển lộ cách rõ nét. Chính khi bị nguyền rủa, chúng ta vẫn chúc lành; bị bắt bớ chúng ta vẫn yêu thương; bị vu khống, chúng ta vẫn chia lời ủi an, hay nói như thánh Phanxicô Axidi là đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp…(x.1Cor 5,12-13), là lúc chúng ta làm cho tha nhân thấy rằng không phải ta sống mà là Chúa Kitô đang sống trong ta. 

 Đức Bênêđictô XVI tuyên bố “cuộc đời và các hoạt động của các vị thánh đã góp phần to lớn làm nên chân dung Hội Thánh”. Ngài Tertulianô khẳng định: “máu của các thánh tử đạo là hạt giống phát sinh người tín hữu”. Đức Gioan Phaolô II trong ngày tuyên phong hiển thánh 117 vị tử đạo Việt nam đã nhấn mạnh rằng hạt giống ấy là ngoài các vị thánh tử đạo trước đây thì ngày nay là tất cả những ai đang chịu áp bức, bóc lột mà vẫn trung kiên trong niềm tin, là tất cả những ai đang tìm hiểu và sống mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô. Thánh giá bài trừ sự gian dối, bài trừ tội ác và giúp ta sống trong bình an và tha thứ ngay tại môi trường ta đang sống. 

Dù là điên dại với người Hy lạp hay là cớ vấp phạm với người DoThái thì thập giá vẫn mãi là dấu chỉ cao cả của tình yêu. Vì không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (Ga 15,13). Và thập giá Chúa Kitô mãi là nguồn ơn cứu độ. Chính trên thập giá, Chúa Kitô đã trao ban Thánh Thần cho chúng ta từ Trái Tim bị đâm thâu của Người. Xin Thánh Thần Thiên Chúa, là Thần Chân Lý, là Nguồn Tình Yêu ở cùng chúng ta, ở cùng Hội Thánh cho đến ngày Đức Kitô quang lâm (x.Kh 22,17). Nhờ Thánh Thần, chúng ta có thể tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa. Với Thánh Thần, chúng ta sẽ làm cho muôn dân nhận ra chúng ta là môn đệ của Đức Kitô và đích thực là Kitô hữu.

Về mục lục

.

LÒNG ANH EM ĐỪNG XAO XUYẾN

   Fx Đỗ Công Minh  

Bài Tin mừng hôm nay là một đọan trong diễn từ cáo biệt của Đức Giêsu với các tông đồ. Xao xuyến là một động từ diễn tả một con người có những tình cảm dấy lên trong lòng và thường kéo dài, khó dứt. Các Tông đồ khi được biết Chúa Giêsu sắp rời bỏ các ông thì ai nấy xao xuyến, không biết Thầy mình đi đâu? Thầy đi luôn, đi mãi ? Hiểu được tâm trạng các ông, Người an ủi”Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu,thì anh em biết đường rồi “ .

Chúa Giêsu hiểu các môn đồ của mình đang dấy lên trong lòng một tình cảm khó quên, vì Thầy trò đã từng sống với nhau mấy năm trời. Nay đến lúc sắp chia tay, trong lòng các môn đệ rối bời, không biết sẽ ra sao ngày mai? Xao xuyến đến mức TôMa phải bật lên câu hỏi “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường “. Chính từ câu hỏi rất thành thật , đơn sơ của TôMa mà Chúa đã mạc khải cho các ông về Người. “Thầy chính là Đường, là Sự thật và là Sự sống”. Chúa Giêsu mạc khải cho con người biết một Thiên Chúa Cha, đấng đã sai Người đến thế gian để “Những ai tin vào con của Ngài thì được cứu và được sống muôn đời “. Đức Giêsu chỉ cho con người một con đường duy nhất, ngắn nhất để đến được với Cha “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy “. Đó cũng là lời giải thích cho dụ ngôn Chúa nhật thứ tư Phục sinh vừa qua, Người tự nhận mình là cửa của RÀN. Chúa Giêsu cũng mạc khải về chính mình và sứ mạng của Người  cho nhân lọai. Người cũng chính là con đường để dẫn tới sự thật và sự sống.

Sống với Chúa ba năm trời, được chứng kiến nhiều phép lạ Chúa làm, được nghe biết bao lời giảng dạy. Có lúc được Chúa vỗ về ủi an, có lúc được Chúa hé mở vinh quang nước trời, nhưng cũng có lúc bị Chúa nghiêm khắc phê bình, thậm chí la rầy, để các ông hiểu Đức Kitô là ai ? Vậy mà Tôma lại không biết Thầy mình sẽ đi đâu. Còn Philliphê lại đòi hỏi: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện “ để đến nỗi Chúa phải than lên: “ Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philliphê, anh chưa  biết Thầy ư ?”

Lạy Chúa,

Con được sống trong Hội Thánh Chúa nhiều chục năm trời, được học hỏi Giáo lý, Thánh kinh , được nghe biết bao bài giảng dạy, tham gia nhiều khóa học của Hội Thánh, vậy mà con vẫn chẳng hơn gì TôMa, hay Philliphê. Vẫn không nhận ra Chúa từng ở với con bấy lâu. Con không chỉ là xao xuyến mà là tội lỗi, cứng lòng, hèn tin.

Xin Chúa cho con nhận ra Chúa là Đường cho con bước đi, là Sự Thật và là Sự Sống. Con phải tin thật và sống thật. Xin cho lời Thánh Phêrô phải là lời con thưa với Chúa mỗi ngày, từng ngày :”Lạy Thầy, xin thêm Đức tin cho con “.

“Lạy Ngài ơi thương đến, xin củng cố đức tin, vì lòng tin con đây, còn mỏng giòn non yếu. Lạy Ngài ơi thương đến, xin củng cố đức tin, vì lòng tin con đây, đã hầu vỡ tan rồi! “

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA TRONG ĐỨC KITÔ – ĐỨC KITÔ TRONG MỌI NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn

Khi Philipphê muốn Đức Giêsu cho ông ta thấy Chúa Cha, thì Đức Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Đây là chân lý mặc khải cho chúng ta biết rằng: Thiên Chúa ở trong Đức Kitô. Thánh Matthêu trong trình thuật về ngày phán xét cũng ghi lại lời của vị Vua Vũ Trụ: “Những gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi làm cho chính Ta”. Đây lại là một chân lý mặc khải khác: Đức Kitô ở trong mọi người. Nỗ lực của Giáo Hội là muốn cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha yêu thương. Tình yêu đó được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Con Một Ngài, Chúa chúng ta. Để rồi khi Đức Giêsu sống lại, về trời, không còn hiện diện một cách hữu hình nữa thì chúng ta vẫn có thể biết Ngài nơi những con người chúng ta gặp gỡ, bởi vì con người được dựng nên giống hình ảnh Chúa, và mỗi người đều là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều người chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa; vẫn còn những bạo lực, những bất công, những tàn nhẫn, những hận thù, những chia rẽ, những xúc phạm đến quyền con người. Đứng trước thực tế đó, được ánh sáng Lời Chúa hôm nay soi dẫn, tôi xin chia sẻ với cộng đoàn chủ đề: Thiên Chúa trong Đức Kitô và Đức Kitô trong mọi người.

I.  PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài đọc I: Cv 6, 1-7

Sách Tông đồ Công vụ kể lại sinh hoạt của các kitô hữu đầu tiên. Họ sống chung với nhau trong một cộng đoàn.Tuy nhiên ngay từ đầu đã có những con người không được tôn trọng, cụ thể là những bà góa. Họ không được quan tâm, chăm sóc chu đáo như những người khác. Chính vì vậy mà họ đã trình bày với các Tông Đồ. Các Tông Đồ đã giải quyết bằng cách chọn những phó tế để chuyên lo phục vụ chuyện ăn uống: phần thể xác, còn các Tông Đồ thì chuyên lo cầu nguyện và rao giảng Lời Chúa: phần linh hồn. Điều này cho chúng ta thấy rằng, thời nào cũng có những con người bị lãng quên, không được quan tâm chăm sóc. Nhưng Chúa thì không bao giờ quên lãng họ, vì vậy Ngài sẽ làm cách này hay cách khác để chăm sóc họ. Thiên Chúa muốn cho người ta biết rằng Ngài ở trong mọi người.

  1. Tin Mừng Ga 14, 1-12

Đây là một trong những lời từ biệt được xem là di chúc của Đức Giêsu. Đã là lời từ biệt, là di chúc thì chắc chắn rất chân thành và tha thiết. Trong lời từ biệt này, Đức Giêsu trấn an các môn đệ đừng xao xuyến vì việc ra đi của Ngài là trở về với Chúa Cha, hơn nữa còn là đi dọn chỗ cho các ông và những kẻ tin vào Ngài, để nếu các ông đi theo con đường Ngài chỉ thì các ông sẽ được ở với Ngài bên cạnh Chúa Cha. Ở đây Đức Giêsu nhắc đến 2 điều: con đường và Chúa Cha. Ông Tôma thắc mắc liền: Đường nào, Thầy chỉ cho chúng con với?! Còn ông Philipphê cũng xin một điều rất khôn: Thầy nói Chúa Cha, mà Chúa Cha đâu, Thầy chỉ cho con coi?! Đức Giêsu có vẻ buồn vì các ông theo Ngài bấy lâu mà không hiểu gì cả. Nhưng sau đó Ngài cũng đáp ứng 2 đòi hỏi của 2 ông. Thứ nhất chỉ cho 2 ông: con đường là chính Ngài ; và thứ hai: ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha.

      Từ những bài đọc hôm nay chúng ta thấy rất rõ mặc khải của Thánh Kinh: Thiên Chúa trong Đức Kitô và Đức Kitô trong mọi người. Chúng ta được Lời Chúa nuôi dưỡng thì chúng ta phải sống bằng Lời Chúa. Sống bằng Lời Chúa trong tuần này là cám ơn Chúa vì đã ban Đức Giêsu là đường cho chúng ta dõi bước đi theo để về quê trời. Sau nữa là tập nhận ra Đức Giêsu nơi anh chị em của mình để có thể yêu thương họ bằng một tình yêu chân thành, không giả dối.

II.  THIÊN CHÚA TRONG ĐỨC KI TÔ

Đức Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Chỗ khác Ngài xác định: “Tôi với Cha là một”. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy rằng: Có một Chúa mà Ngài có Ba Ngôi; Ba Ngôi nhưng một Chúa. Vì thế trong Cha có Con và Thánh Thần; trong Thánh Thần có cả Cha và Con; cũng như trong Con có cả Cha và Thánh Thần. Đó là sự thật về Thiên Chúa. Cho nên hành động của Thiên Chúa không phải là hành động đơn độc, mà là hành động của sự hiệp thông. Đó là câu trả lời cho ông Philipphê: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”.

Chúng ta cám ơn Chúa vì mặc dù Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, nhưng Ngài cũng tỏ mình ra nơi Đức Giêsu Kitô để chúng ta thấy hành động của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta mới có thể noi theo. Chúng ta biết được Thiên Chúa không phải là Đấng nói bằng miệng, mà là Đấng hành động cụ thể nơi một con người Giêsu. Vì vậy sự thật Thiên Chúa ở trong Đức Kitô sẽ củng cố niềm tin vào Thiên Chúa cho chúng ta. 

III.  ĐỨC KITÔ TRONG MỌI NGƯƠI

Từ sự thật Thiên Chúa ở trong Đức Kitô, chúng ta phải sống sự thật này như thế nào đây? Thưa chúng ta phải nhận ra Đức Kitô nơi mọi người. Đức Giêsu đã nói: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”. Và một lời khẳng định khác: “Những gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn  nhất của Ta đây là các ngươi làm cho chính Ta”. Từ những lời xác quyết của Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ ràng Ngài ở trong mọi người.

  1. Nhìn bằng ánh mắt của Đức Kitô

Có một thực tế là đối với những người đem đến lợi ích cho tôi, những người tôi cảm thấy dễ chịu, thì tôi nhìn và đón tiếp họ còn hơn cả Đức Kitô nữa. Còn đối với những người bề ngoài khó nhìn, có vẻ như người xấu, những người tự nhiên tôi cảm thấy ghét, những người đem đến phiền phức cho tôi… thử hỏi mấy khi tôi nhìn và đón tiếp họ như là hiện thân của Đức Kitô? Có người lập luận là Chúa đâu ở trong người xấu, người tội lỗi, vì vậy tôi tránh xa, không giao thiệp, không đón tiếp họ là đúng rồi! Chúa không ở trong những người đó hay vì tôi không có Chúa nên tôi  không nhìn ra Chúa nơi bản thân của họ? Khi tôi có Chúa trong mình thì cái nhìn, suy nghĩ, lời nói, việc làm của tôi là cái nhìn, suy nghĩ, lời nói và việc làm của Chúa. Giả dụ những người tôi gặp gỡ thực sự là người xấu, người tội lỗi, người sẽ gây phiền phức cho tôi thì tôi càng phải nhìn và đón tiếp họ như cái nhìn của Đức Kitô. Mặc dù Đức Giêsu yêu thương mọi người, nhưng Ngài lại đặc biệt quan tâm đến người nghèo, người tội lỗi và người bệnh tật, bởi vì những người đó ít được người khác quan tâm. Cái trớ trêu ở đời là những người càng đầy đủ thì càng được người ta quan tâm và nhìn nhận, còn những người càng thiếu thốn thì càng bị người ta bỏ rơi và loại trừ. Đầy đủ và thiếu thốn ở đây là nói chung về mọi mặt chứ không phải chỉ là vật chất. Đức Kitô ở trong mọi người, không phân biệt một ai. Vì vậy chúng ta hãy tập nhìn ra Ngài nơi mọi người chúng ta gặp gỡ.

  1. Luyện tập

Tuy nhiên, không phải muốn nhìn Đức Kitô nơi người khác là nhìn đâu; nhìn không được, nhìn không ra. Có hai yếu tố quan trọng để chúng ta có thể nhìn thấy Đức Kitô nơi người khác.

  1. Thứ nhất là do yếu tố nhân bản, tính tình của mỗi người. Người có lòng nhân ái thì dễ yêu thương người khác hơn. Người ích kỷ, chỉ lo cho bản thân của mình, chỉ tìm những gì có lợi cho bản thân mình thì khó lòng mà sống cho người khác lắm. Người chưa trưởng thành nhân cách sẽ sống theo dư luận, sợ chuyện này chuyện kia ảnh hưởng đến mình thì dễ dàng quỵ lụy, luồng cúi, nịn bợ những người có thể đem lại lợi ích cho mình. Ngược lại, người trưởng thành họ sống có bản lãnh, không quỵ lụy, luồng cúi, hay nịn bợ một ai, vì vậy họ sẽ đối xử với mọi người như nhau.
  2. Thứ hai là yếu tố đạo đức. Có nghĩa là sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô trong việc đọc và suy niệm lời Chúa, trong kinh nguyện, thánh lễ, những việc lành phước đức. Những việc này sẽ giúp người ta gần gũi với Đức Kitô, hiểu biết Đức Kitô và cuối cùng là hành động như Đức Kitô.

Qua lời Chúa hôm nay, chúng ta phải tập luyện cho mình có một đời sống nhân bản trưởng thành, những đức tính tự nhiên như lòng nhân ái, tha thứ, quảng đại, sống có bản lãnh… và nhất là tập cho mình có lòng đạo đức qua việc đọc và suy niệm lời Chúa, tham dự thánh lễ, siêng năng cầu nguyện và làm những việc lành phước đức… để có thể nhận ra Đức Kitô mọi người, nhất là những người trong gia đình tôi. Riêng với các bạn trẻ, nếu nhận ra Đức Kitô nơi người khác thì mới có thể tôn trọng phẩm giá của họ và đối xử với họ theo cung cách của Đức Kitô.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã cưu mang, sinh ra và nuôi dưỡng Đức Giêsu. Xin Mẹ giúp chúng con cũng được gặp gỡ Chúa hằng ngày nơi mọi người chúng con gặp gỡ.

Về mục lục

.

-CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH_A

Lm Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Hôm nay là Chúa Nhật Thứ 5 Phục Sinh, là mùa chúng ta mừng kính Chúa Giê-su Ki-Tô sống lại từ cõi chết.  Người đang sống, hiện diện giữa chúng ta, ban cho chúng ta bình an, niềm vui thật của Người, nhất là củng cố đức tin cho chúng ta để chúng ta trung thành kính thờ Người, sống Lời Người dạy bảo và can đảm làm chứng cho Người.  Tuần này cũng là tuần chúng ta mừng Ngày Của Mẹ.  Ngày Của Mẹ là ngày đặc biệt để con cái thể hiện lòng biết ơn và tri ân của mình với người mẹ, vì công ơn sinh thành và dưỡng dục, cũng như tình thương yêu của mẹ, nhất là đã gieo hạt giống đức tin đầu tiên vào trong tâm hồn chúng ta.  Vì vậy, đạo làm con, chúng ta phải thảo hiếu, kính trọng mẹ cha như Chúa đã dạy, và làm những điều tốt lành để mẹ được vui.

Ngoài người mẹ đã sinh ra thân xác, chúng ta còn có một người Mẹ Hiền mà Giáo hội mừng kính trong Tháng Năm, Thánh Hoa này, đó là Đức Mẹ Maria. Và trong tuần này, cùng với Giáo hội, chúng ta mừng kỷ niệm 100 năm Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với 3 trẻ là Lucia lúc đó 10 tuổi, Phanxicô 9 tuổi, và Gia-xin-ta 7 tuổi, đang chăn đoàn chiên tại cánh đồng, ở một làng quê có tên là Fatima, nằm giữa trung tâm nước Bồ Đào Nha.  Từ ngày 13 tháng 5, đến ngày 13 tháng 10, năm 1917, Đức Maria đã hiện ra với 3 em nhiều lần, và nhờ 3 em chuyển một thông điệp đặc biệt của Mẹ đến cho mọi người, nhất là đến với các Ki-tô hữu chúng ta, là những người con có lòng yêu mến Mẹ.  Thông điệp này là: Cải thiện đời sống; Tôn sùng Mẫu Tâm và Năng lần hạt Mân côi.  Sự kiện hiện ra và thông điệp này đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Huyền Linh, sáng tác bài thánh ca “Lời Mẹ Nhắn Nhủ”, với những lời ca mà chúng ta quen thuộc và thường hát  như sau: “Năm xưa trên cây sồi, làng Pha-ti-ma xa xôi.  Có Đức Mẹ Chúa Trời, hiện ra uy linh sáng chói.  Mẹ nhắn nhủ người đời, hãy mau ăn năn đền bồi, hãy tôn sùng Mẫu Tâm, hãy năng lần hạt Mân Côi.”  

Như mọi người đã biết, trong tuần vừa qua, Đức thánh cha Phan-xi-cô đã đến Fatima để cùng với hơn 1 triệu tín hữu cử hành ngày kỷ niệm này và nâng 2 em Phan-xi-cô và Gia-xin-ta lên bậc hiển thánh. Trong buổi chiều lần hạt Mân côi cùng với khách hành hương đến từ mọi nơi, Đức thánh cha Phanxicô kêu gọi mọi người xét xem Đức Maria của họ là ai, và nhấn mạnh rằng: “Nếu muốn là người Kitô hữu, ta phải là người Maria hữu.”  Ngài nói: “Hành hương với Đức Mẹ… Nhưng Đức Mẹ nào?  Một thầy dạy đời sống thiêng liêng, một phụ nữ “có phúc vì đã tin” Lời Thiên Chúa, người đầu tiên theo Chúa trên “con đường hẹp” của thập giá, hay một Đức Bà “không ai với tới” hay một “bức tượng thạch cao” mà ta đến xin ơn huệ với thật ít phí tổn?”  Đức thánh cha sau đó kêu gọi mọi người nếu yêu mến Mẹ Maria và là người con của Mẹ, thì hãy noi gương Mẹ sống lời Chúa Giê-su dạy bảo.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su hứa với các môn đệ trước khi chia tay từ giã các ông để đi vào cuộc khổ nạn rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó.” 

Ông bà anh chị em thân mến.  Đây là lời Chúa hứa với các môn đệ ngày xưa, nhưng chúng ta xác tín đây cũng là lời Chúa hứa với tất cả chúng ta hôm nay, những người tin yêu mến Chúa.  Chúa hứa với chúng ta Người sẽ dọn một chỗ cho chúng ta trên nhà Cha trên Thiên đàng, để Chúa ở đâu, thì chúng ta sẽ ở đó.  Chúa còn chỉ bảo cho chúng ta biết: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.”  Có nghĩa là chúng ta có một chỗ trên Thiên đàng và sẽ ở nơi đó nếu chúng ta thực hành những điều Chúa dạy bảo.  Thứ nhất là đi đúng con đường Chúa đã chỉ cho: là con đường tự chế, không đi ra ngoài điều răn của Chúa, biết làm những việc đạo đức, chấp nhận hy sinh, thiệt thòi, và biết khiêm nhường hy sinh phục vụ. Tất cả những cố gắng ấy là những bước chân đi theo con đường hẹp mà chính Chúa Giê-su đã đi trước, và Đức Maria cũng đã đi. Chúng ta biết đường có nhiều loại, và đường nào cũng có ranh giới hai bên, có khởi đầu và điểm đến.  Chúng ta không thể đi ra ngoài ranh giới con đường của Chúa đã đi và chỉ bảo chúng ta mà có thể đến Chúa Cha và đích điểm là Thiên đàng được.  Thứ hai là cố gắng sống chân lý sự thật Chúa dạy là giới luật yêu thương, sống bác ái và quảng đại.  Đó là chân lý, là cốt lõi đạo Chúa, đạo của chúng ta.  Chúa sẽ căn cứ vào tình yêu thương và quảng đại chúng ta sống để phán xét và ban thưởng chỗ dành sẵn cho chúng ta, hay phạt chúng ta ở nơi đau khổ triền miên. Và thứ ba, chúng ta phải kết hợp mật thiết với sự sống của Chúa, là được nuôi dưỡng đời sống mình bằng Lời Chúa và Thánh Thể.  Đó là lương thực nuôi linh hồn và kết hợp linh hồn với Chúa.  Như nhựa cây cần thiết để nuôi sống thân cây và cành như thế nào, thì linh hồn chúng ta cũng cần đến Lời Chúa và Thánh Thể như vậy.

Ông bà anh chị em thân mến. Nếu chúng ta muốn lên chỗ ở mà Chúa dọn sẵn cho chúng ta, thì chúng ta hãy cố gắng sống 3 sứ điệp Fatima của Đức Mẹ Maria: “Cải thiện đời sống; Tôn sùng Mẫu Tâm; năng lần Hạt Mân Côi.”  Nhất là nghe lời Mẹ Maria khuyên bảo, sống Lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay, đó là đi đúng con đường Chúa chỉ bảo, sống chân lý Chúa dạy, và kết hợp mật thiết với sự sống của Chúa. Còn nếu chúng ta không muốn ở chỗ Chúa đã dọn sẵn là do sự tự do quyết định và là lỗi của chúng ta chứ không phải do ai khác.  

Trong tuần mừng Ngày Của Mẹ hôm nay, xin chân thành chúc mừng tất cả người mẹ trong giáo xứ và hiện diện trong Thánh lễ, nhất là các hội viên của Hội Hiền Mẫu. Xin Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của Hiền Mẫu Maria, ban nhiều ơn lành cho các người mẹ trong ngày vui mừng này.  Và xin Mẹ cũng cầu bầu cho tất cả chúng ta, là con cái của Mẹ, biết lắng nghe và sống lời Con Mẹ dạy, để chúng ta được sống trong bằng an, ơn lành, cùng được hạnh phúc Nước Trời như Mẹ.

Về mục lục

.

Exit mobile version