CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_B
Lời Chúa: Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33
——-
- Hãy Đến Mà Xem(Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
- Chúng ta có muốn thấy chúa Giêsu không?( Lm Ngọc Dũng, SDB)
- Đức Giêsu Chịu Khổ Hình Vì Yêu Nhân Loại( Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
-
Hạt lúa vùi chôn (Lm. Thái Nguyên)
-
Hạt lúa “Thiên Chúa làm Người” (Jorathe Nắng Tím)
-
Chết để sống (Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)
-
Giao ước tình thương (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
-
Khao khát gặp Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Hạt giống có mục nát đi mới trổ sinh bông trái (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Chuẩn bị chết (Trầm Thiên Thu)
1. Huyền nhiệm sự sống (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Hạt lúa mục nát (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Hạt lúa mì có thúi đi (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Theo Thầy (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
5. Mẹ lạnh lắm phải không? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
6. Nỗi lòng Cha (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
7. Được tôn vinh (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
8. Chính khi hiến thân là khi nhận lãnh (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
9. Hiến tế (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
10. Con đường hạt lúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Mục nát đi để trổ sinh dồi dào bông hạt (Tu sĩ Jos.Vinc.Ngọc Biển,SSP)
12. Suy niệm Chúa Nhật 5 Mùa Chay_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
13. Suy niệm Chúa Nhật 5 Mùa Chay_B. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
14. Hạt lúa mì gieo vào lòng đất (Lm. Giuse Phạm Quốc Phong, SDB)
15. Hành trình tự hủy (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
16. Giờ Con Người được tôn vinh (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
17. Hành trình sinh tử (Trầm Thiên Thu)
18. Trao ban và nhận lãnh (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
19. Vinh quang trong khổ nhục (Lm. Đinh Lập Liễm)
20. Hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi (Lm. Nguyễn Thái)
21. Chịu mục nát hay vẫn trơ trọi? (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
22. Hạt lúa gieo vào lòng đất (JM. Lam Thy, ĐVD)
23. Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất (Fx. Đỗ Công Minh)
24. Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật 5 Mùa Chay (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
25. Chết là khởi đầu đời sống mới (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
26. Đã đến giờ con người được tôn vinh (P. Trần Đình Phan Tiến)
27. Con đường tự hủy của Đức Giêsu là qua đau khổ vào vinh quang (Lm. Đan Vinh)
28. Suy niệm Chúa Nhật 5 Mùa Chay. Năm B (Lm. Anthony Trung Thành)
29. Hạt lúa mục nát và trổ sinh hoa trái (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
30. Thần thái của Kitô hữu (Lm. Giuse Nguyễn)
31. Vinh danh (Lm. Vũ Đình Tường)
32. Học yêu (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
33. Chiêm ngưỡng diện mạo Chúa Giê su Kitô (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)
34. Gặp gỡ Đức Kitô, Đấng Cứu Độ (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
35. Hiến lễ mới (Lm. Đinh Quang Thịnh)
36. Suy niệm Chúa Nhật 5 Mùa Chay. Năm B. (Lm. Antôn)
Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc
Tài giỏi đức độ, xinh đẹp nết na, hài hoà trong cư xử, nhiệt tâm nhiệt tình với việc được trao phó, bạn sẽ có sức hấp dẫn: tiếng lành đồn xa, …. Tâm lý chung, mọi người sẽ né tránh kẻ ăn không nói có, ngại tiếp xúc với ai xấu người xấu nết, và thật đáng sợ kẻ: bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao ! (Nguyễn Du). Các đấng bậc cho rằng: người dễ cười cũng là người dễ khóc, ấy vậy, khi đối diện với khổ đau cùng cực, họ sẽ im lặng ! Khả năng, độ nhạy bén mỗi người mỗi khác, còn thời gian, cơ hội, tất cả giống nhau, có chăng chúng ta hãy suy xét mình đang sử dụng tự do thế nào ? Tìm gặp người tài đức để tìm cảm giác, xin tư vấn, thọ giáo, hoặc để thoả mãn tính tò mò, mục đích và tâm trạng sẽ khác nhau. Người tài giỏi, đức độ, chức quyền, đại gia, ở đâu, thời nào cũng có, vấn đề là: tài được sử dụng, tình được hả hê !
Hãy mặc lấy tâm tình của một nhà giáo đủ tư cách, hãy là một thiên tài biết truyền cảm hứng, hãy ý thức mỗi giây phút trong đời chính là cơ hội được trao ban. Hãy đến với Đức Giêsu cho dù tâm tính bạn thất thường: không nghe, không thấy, không hiểu, hoặc chưa tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa. Hãy đến, dù bạn chẳng muốn nghe những lời nói như lạc đề: “đã đến giờ Con Người được tôn vinh; nếu hạt hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình” ! Xưa kia, Đức Giêsu không hề dửng dưng khi người ta tìm đến, không có ý gây khó dễ cho người tiếp xúc, có chăng, tất cả hãy vì yêu, vì tin, Một Thiên Chúa đang hiện diện. Ngay lúc này, Đức Giêsu vẫn đang nói với những ai tìm gặp Ngài vì tin vì yêu: tất cả những mơ ước của bạn sẽ thành hiện thực, nếu bạn đủ nhẫn nại theo đuổi chúng.
Hãy đến mà xem, Đức Giêsu không khéo mồm miệng, chẳng phải là “đại gia”, không chức quyền, nhưng dồi dào tình yêu thương, bao dung trong cư xử và luôn bênh vực kẻ cô thế cô thân. Đức Giêsu đã nói gì, có sức thuyết phục ra sao, mời bạn hãy tìm đến, lắng nghe, hẳn các bạn sẽ không phải thất vọng ! Thiếu niềm tin và tình yêu, làm sao Đức Giêsu có thể nói: “đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Chưa nếm mùi đau khổ, chưa thấm nhuần quy luật gieo gì gặt nấy, làm sao ta có thể chấp nhận: như hạt lúa phải thối đi, phải chết đi, mới sinh nhiều bông hạt ! Đức Giêsu gián tiếp cho thấy một kinh nghiệm: không thể có hạnh phúc, nếu chưa trải qua đau khổ thập giá. Đám đông tìm đến Đức Giêsu đâu phải bởi hy vọng sẽ giầu sang phú quý, mà do họ cảm nhận có bình an, niềm vui thật: chim khôn hót tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Đức Giêsu cho xem, cho thấy, một nghịch lý: “ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”. Theo Đức Giêsu, nếu chỉ để tìm vinh quang ở đời này quả là sai lầm, tin Đức Giêsu để hy vọng né tránh đau khổ thì không ổn, sống yêu thương để mong không phải gặp phiền toái, sao gọi là tin là yêu ? Theo Đức Kitô, sống niềm tin, sống sứ mạng người môn đệ, đâu phải để tìm hạnh phúc trần thế, mà là tự nguyện sống quy luật mục nát để sinh bông hạt. Yêu mạng sống mình thì sẽ mất, yêu thế thế gian thì được thế gian; yêu Chúa, tin Chúa, sẽ tìm được sự sống trong Chúa. Vấn đề không phải là yêu hay ghét, mà là sống thế nào cho đúng đẹp với tinh thần người môn đệ Đức Kitô. Khôn ngoan thông thái, giầu có địa vị, vừa có tiếng vừa có miếng, mới gọi là hạnh phúc ở đời này. Gặp được Đức Giêsu là có một nửa hành trình đời người làm con Chúa rồi, nhưng để đạt tới hạnh phúc thật, thì còn phải mang vác thập giá hàng ngày theo Đức Kitô.
Hãy đến mà xem, mang xác phàm như chúng ta, Đức Giêsu hôm xưa đầy thao thức: “bây giờ Thầy xao xuyến biết nói gì ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này,” ! Vâng, tình yêu không phải là lời nói suông, mà là hành động với cả con tim và khối óc ! Thân phận giới hạn của kiếp người đầy ưu tư, sợ đau khổ, sợ cám dỗ, sợ đủ thứ ! Đức Giêsu muốn nói với các học trò và chúng ta: hãy tin tưởng, cầu nguyện, hầu đủ sức mạnh và tình yêu để thắng thế gian. Nếu không có niềm tin, thì sẽ không bao giờ là mãi mãi, nếu thiếu tình yêu vâng phục, mọi thứ cũng bằng không ! Hãy đến mà xem, hãy tìm gặp Đức Giêsu để nghe, để thấm nhuần đạo làm người, đạo làm con Chúa: “khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ lôi kéo mọi người lên cùng Ta”. Hãy đến mà xem, chính niềm tin yêu, Đức Giêsu đã dang tay trên thập giá, vâng phục thánh ý Chúa Cha, và làm cho lời hứa thành hiện thực: “ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó”.
Có hai con chiên được vị mục tử cưng chiều, một con xin được theo ông chủ đi đến các nơi mà chủ tới. Một con xin được trẻ khoẻ, không ốm không đau. Vị mục tử cười nói với hai con chiên ngoan đó: các con có biết điều các con xin vượt quá khả năng của ta không ? Dù là con vua chúa, họ vẫn phải tuân thủ quy luật: sinh bệnh lão tử ! Cho dù là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng phải vượt qua đau khổ thập giá mới đến vinh quang ! Hãy suy gẫm mà xem, giầu có địa vị, tài giỏi đức độ, cũng chẳng đạt tới sự trường thọ ? Dù là linh mục tu sĩ, trẻ hay già đều phải chịu mục nát, để trổ sinh hoa trái với sứ mạng riêng tư. Đức Giêsu vẫn đang mời gọi: “ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, để Ta ở đâu, kẻ phụng sự Ta cũng ở đó”. Xin tình yêu Chúa mãi mãi là niềm tin và sức mạnh của chúng con.
CHÚNG TA CÓ MUỐN THẤY CHÚA GIÊSU KHÔNG?
Lm Ngọc Dũng, SDB
Khát vọng thấy Chúa được ghi khắc trong tim mỗi người. Khát vọng đó được diễn tả qua ước muốn vượt qua chính mình hay còn gọi là siêu việt chính mình. Bên cạnh đó, khát vọng nhìn thấy Chúa được diễn tả qua kinh nghiệm “thất bại” trong cuộc sống. Thật vậy, khi gặp thất bại, chúng ta nhận ra rằng có những điều chúng ta không thể giải quyết dựa trên sức riêng của mình hay của người khác, mà chúng ta cần đến sự trợ giúp của một sức mạnh thiêng liêng, vượt trên sự hiểu biết của con người. Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta về kinh nghiệm thất bại trong giao ước với Đức Chúa của con cái Israel. Họ đã cố gắng để giữ giao ước, nhưng rồi lại không trung thành với giao ước đã ký kết. Vì vậy, họ ngóng trông lên Đức Chúa để mong Ngài tái lập giao ước lại với họ. Vì yêu thương dân Ngài, Đức Chúa đã tái lập giao ước với nhà Israel và nhà Giuđa. Tuy nhiên, giao ước này không giống như giao ước cũ, giao ước mà đã bị cha ông họ huỷ bỏ (x. Gr 31:31-32). Giao ước mới Đức Chúa sẽ tái lập với con cái Israel sẽ được “ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết Đức Chúa,’ vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr 31:33-34). Những lời này cho thấy Đức Chúa yêu dân Israel và mỗi người chúng ta nhiều như thế nào. Qua bí tích rửa tội [hoặc qua lời khấn], chúng ta cũng đã ký kết với Thiên Chúa một giao ước. Nhưng nhiều lần chúng ta đã lỗi phạm và bất trung với lời giao ước đã ký kết. Thiên Chúa đã nhiều lần tha thứ cho sự bất trung của chúng ta. Ngài không nhớ đến những lỗi lầm của chúng ta. Ngài mong chờ chúng ta trở về với Ngài. Chúng ta chỉ làm được điều này khi chúng ta biết rằng giao ước đã được ký kết được khắc ghi trong tim của chúng ta chứ không phải tấm giấy chứng nhận rửa tội hoặc tuyên khấn. Khi chúng ta sống trọn vẹn luật yêu thương – mến Chúa yêu người – là chúng ta sống trọn vẹn với giao ước của mình với Thiên Chúa.
Tác giả thư Hípri chỉ ra cho chúng ta con đường trở nên thập toàn, con đường đó mang tên Giêsu. Chính “khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính” (Hr 5:7). Những lời này cho thấy thân phận con người ai cũng phải chết. Sự mỏng manh của kiếp sống con người đã làm cho chúng ta bám víu vào Chúa. Chính trong thân phận con người của chúng ta, Chúa Giêsu cũng cảm nghiệm được sự xao xuyến bồi hồi của kiếp sống khi đối diện với sự chết. Ngài cũng rơi lệ cầu khẩn Chúa Cha và lời cầu nguyện của Ngài được đón nhận, vì Ngài có lòng tôn kính. Ở đây, tác giả Hípri chỉ ra tiêu chuẩn để lời cầu nguyện được Chúa thương chấp nhận, đó là lòng tôn kính. Mỗi khi đến với Chúa chúng ta cần có lòng tôn kính được diễn tả qua sự vâng phục ngay cả khi phải đối diện với đau khổ: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Hr 5:8-9). Chính qua đau khổ chúng ta học được sự vâng phục thánh ý Chúa và tiến bước trên con đường thập toàn. Nói cách khác, con đường dẫn chúng ta đến thập toàn là con đường thập giá. Thập giá là suối nguồn ơn cứu độ cho những ai tín thác vào Đấng chịu treo trên thập giá. Đây chính là khát vọng của mỗi con người, khát vọng trở nên thập toàn. Nhưng điều nghịch lý là con người muốn trở nên thập toàn nhưng lại từ chối thập giá và những đau khổ trong cuộc sống. Không có con đường nào khác để trở nên thập toàn ngoài con đường thập giá.
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh “giờ của Đức Giêsu” (x. Ga 12:20-36). Chúng ta thấy trong trình thuật này việc Chúa Giêsu chấp nhận định mệnh của mình và kêu gọi đám đông lần cuối cùng. Đám đông này vẫn còn bị chia rẽ và không thể hiểu những gì Ngài nói nói về Đấng Messia khi dùng những khái niệm của riêng họ để hiểu. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về mối nguy hiểm sử dụng sức riêng mình để hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa mà không cần đến ơn thánh. Chính điều này sẽ dẫn chúng ta đến sự thất vọng ê chề vì trí hiểu của con người thì giới hạn mà mầu nhiệm Thiên Chúa thì vô hạn. Như vậy, để hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta cần phải khiêm nhường và cần đến sự mặc khải của Thiên Chúa.
Trình thuật Tin Mừng bắt đầu với sự kiện mấy người Hy Lạp đến tìm gặp Chúa Giêsu: “Khi ấy, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: ‘Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu” (Ga 12:20-22). Việc mấy người Hy Lạp đến với Chúa Giêsu ám chỉ rằng Chúa Giêsu đến để quy tụ con cái tản mác khắp nơi về. Điều này đã được báo trước trong chương 10 khi nói về đàn chiên: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10:16). Như vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu là để quy tụ, để hiệp nhất chứ không phải mang lại sự chia rẽ. Chi tiết này nhắc nhở mỗi người chúng ta về sự hiện diện của mình giữa anh chị em. Chúng ta phải là những người mang lại sự hiệp nhất như Chúa Giêsu. Bên cạnh chi tiết trên, điều chúng ta lưu ý trong những lời trên là việc những người Hy Lạp đến với Philíp, rồi Philíp đến với Anrê và cả hai đến nói với Chúa Giêsu. Điều này xảy ra là vì Philíp mang tên Hy Lạp, cả Anrê cũng thế. Hai ông là “cầu nối” giữa Chúa Giêsu và “dân ngoại” vì họ có tên “giống với dân ngoại.” Điều này mời gọi chúng ta suy gẫm về ơn gọi làm “cầu nối” của mình. Chúng ta cũng giống anh chị em mình trong bản tính con người, trong khát vọng đạt đến sự toàn hảo, mà sự toàn hảo chỉ tìm được trong Thiên Chúa. Vì vậy, mỗi người chúng ta được mời gọi trở nên những người giới thiệu Thiên Chúa cho mọi người để họ cũng được chia sẻ với chúng ta niềm vui được cứu độ.
Sự kiện mấy người Hy Lạp đến gặp đã làm cho “giờ của Con Người” đến: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12:23-24). Những lời này, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ của Ngài. Thuật ngữ “bây giờ” trong câu trên được lặp lại trong câu 27 và 31. Mỗi “giờ” là đỉnh cao của sứ vụ của Chúa Giêsu, và cũng là thời điểm mà thế giới bị phán xét. Tuy nhiên, điều chúng ta cần suy gẫm trong những lời trên là hình ảnh hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà Chúa Giêsu sử dụng để nói về điều sẽ xảy ra trong giờ của Ngài. Câu nói này vọng lại lời Thánh Phaolô viết cho tín hữu Côrintô: “Đồ ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống” (1 Cr 15:36). Theo các học giả Kinh Thánh, có thể đây là một câu ngạn ngữ thông dụng trong thời đó mà Thánh Gioan đã thay đổi để tương hợp với tình cảnh nói về cái chết của Chúa Giêsu bằng cách nhấn mạnh đến sự kiện là hạt giống trở nên “trơ trọi” trên mặt đất. Chỉ có cái chết của Chúa Giêsu mới mang lại ơn cứu độ cho mọi người. Cộng đoàn sẽ không trở nên “trơ trọi, cô độc,” sau cái chết của Chúa Giêsu, nhưng sẽ đạt đến một sự hiệp nhất mới với Ngài và với Chúa Cha (x. Ga 14:18,28; 16:22). Những lời này nhắc nhở chúng ta về hiệu quả của cái chết của Chúa Giêsu trong cuộc đời chúng ta. Ngài đã chết để chúng ta được hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhau. Nhưng trong cuộc sống thuờng ngày, chúng ta vẫn loại trừ anh chị em mình ra khỏi con tim. Chúng ta vẫn còn trở thành nguyên nhân của chia rẽ. Ước gì mỗi người chúng ta biết nhìn lên thập giá Chúa Giêsu mỗi ngày để kín múc ở đó nguồn yêu thương và tha thứ, hầu trở nên những khí cụ của hiệp nhất, của yêu thương, của cảm thông và tha thứ. Đừng làm cho cái chết của Chúa Giêsu trở nên vô hiệu trong cuộc đời chúng ta.
Sau khi dùng hình ảnh hạt lúa mì để nói về cái chết của mình để mang ơn cứu độ cho muôn người, Chúa Giêsu trình bày cho các môn đệ biết điều kiện để trở nên môn đệ của Ngài: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:25-26). Câu nói này xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau trong Tin Mừng Nhất Lãm (x. Lc 9:24//Mc 8:35//Mt 16:25; Mt 10:39//Lc 17:33). Điều chúng ta cần lưu ý ở đây là bối cảnh của Tin Mừng Nhất Lãm áp dụng câu nói này cho sự đau khổ và hư mất của người môn đệ. Thánh Gioan cũng có thể nghĩ đến những đau khổ mà cộng đoàn của ngài sẽ phải đối diện trong tương lai. Những lời trên chỉ ra rằng, người môn đệ của Chúa Giêsu là những người không “yêu quý” mạng sống mình ở đời này [sự sống thể lý], đến nỗi đánh đổi sự sống đời sau. Người môn đệ Chúa Giêsu là những người biết sử dụng sự sống đời này để đạt được sự sống đời sau bằng cách phục vụ Chúa Giêsu và ở lại với Chúa Giêsu. Chi tiết này khuyến cáo chúng ta về khuynh hướng phục vụ mà không ở lại với Chúa Giêsu. Như chúng ta biết, một trong những đề tài quan trong trong Tin Mừng Thánh Gioan là “ở lại.” Căn tính người môn đệ hoàn toàn lệ thuộc vào việc ở lại với Chúa Giêsu. Khi chúng ta phục vụ Chúa Giêsu mà không ở lại trong Ngài, chúng ta sẽ dần dần đánh mất chính mình, đánh mất căn tính của mình và hậu quả là sẽ đánh mất mạng sống của mình trong cõi vĩnh hằng.
“Giờ của Chúa Giêsu” là giờ chịu đau khổ, giờ bị giết chết như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, nhưng giờ đó lại là giờ để tôn vinh Chúa Cha: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:27-28). Chúa Giêsu cũng cảm thấy xao xuyến khi đối diện với giờ của mình, giờ Ngài phải đón nhận thập giá và đối diện với cái chết. Đây là điều mà chúng ta nghe trong thư Hípri [trong bài đọc 2]. Đây cũng là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta, đó là chúng ta cũng cảm thấy xao xuyến mỗi khi đối diện với đau khổ và sự chết [của mình hoặc của người thân]. Chúng ta sẽ vượt qua được giờ này, nếu chúng ta ý thức được chính qua đau khổ và sự chết của mình Thiên Chúa được tôn vinh thì chúng ta sẽ hiểu được mầu nhiệm phục sinh và quyền năng của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng kết thúc với việc chỉ rõ “giờ của Chúa Giêsu” cũng là giờ phán xét thế gian: “‘Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.’ Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào” (Ga 12:30-33). Những lời này cho thấy việc phán xét thế gian đạt đến đỉnh cao nơi thập giá. Ở đây, Thánh Gioan sử dụng thuật ngữ “thế gian” không như đối tượng của tình yêu Thiên Chúa như trong 3:16, nhưng như là biểu tượng của những người không tin và chống đối Thiên Chúa (x. Ga 8:24; 15:18-19; 16:8-11). Chính trên Thập Giá, Chúa Giêsu được tôn vinh. Trên Thập Giá, Chúa Giêsu kéo mọi người lên với Ngài, kéo mọi người vào trong tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta có để cho Ngài kép chúng ta vào trong tình yêu Thiên Chúa không?
ĐỨC GIÊSU CHỊU KHỔ HÌNH VÌ YÊU NHÂN LOẠI
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 5 Mùa Chay, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Vì yêu thương nhân loại, Đức Giêsu đã hiến thân chịu khổ hình, xin Chúa ban ơn trợ giúp, để chúng ta biết noi gương Người, mà tận tình yêu thương nhau.
Vì yêu thương nhân loại, Đức Giêsu Kitô đã hiến thân chịu khổ hình. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư Hípri cho thấy: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Đức Giêsu Kitô là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật. Người khai mở lòng tin của chúng ta, Người khước từ niềm vui dành cho mình mà cam chịu khổ hình thập giá. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời.
Vì yêu thương nhân loại, Đức Giêsu Kitô đã hiến thân chịu khổ hình, để trở thành Lễ Vượt Qua cho chúng ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Athanaxiô đã nói: Đức Giêsu là mục tử, là thượng tế, là đường, là cửa, và Người đã trở thành tất cả cho chúng ta thế nào, thì Người đã xuất hiện như một cuộc lễ, một đại lễ như vậy. Đức Kitô chịu hiến tế chính là Lễ Vượt Qua của chúng ta. Người tiền phong mở đường cho chúng ta đã đi vào thánh điện, đó là Con Chiên vô tỳ tích. Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. Người đã trở nên Vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Menkixêđê, Người tồn tại đến muôn đời muôn thuở.
Vì yêu thương nhân loại, Đức Giêsu Kitô đã hiến thân chịu khổ hình, để thiết lập Giao Ước Mới, được ký kết bằng chính Máu của Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Giêrêmia đã tiên báo về một Giao Ước Mới, mà Thiên Chúa sẽ thiết lập: Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.
Vì yêu thương nhân loại, Đức Giêsu Kitô đã hiến thân chịu khổ hình, để xóa bỏ tội lỗi nhân loại, vì thế, trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 50, vịnh gia đã kêu xin: Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thư gửi tín hữu Hípri cũng đã cho thấy: Đức Kitô đã học biết thế nào là vâng phục, để trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho cho tất cả những ai tùng phục Người. Phục tùng Chúa, chính là phục vụ Người, vì thế, câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói rằng: Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Đó chính là quy luật tiêu hao của tình yêu. Do đó, vì yêu thương nhân loại, Đức Giêsu Kitô đã phải hiến thân chịu khổ hình: đã chấp nhận bị khạc nhổ, để trả lại cho nhân loại sinh khí, trước kia, họ đã lãnh nhận trong vườn địa đàng; đã chấp nhận bị vả trên má, để phục hồi gương mặt hư hỏng của họ cho giống với hình ảnh của Thiên Chúa; đã chấp nhận những đòn vọt trên lưng, để cất đi gánh tội, đè nặng trên vai họ; đã chấp nhận bị đóng đinh vào cây thập giá, vì họ đã từng đưa tay hướng về cây trái cấm mà phạm tội. Ước gì ta cảm nghiệm được tình yêu thương, mà Chúa dành cho ta, để ta cũng biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu ta. Ước gì được như thế!
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Sống và chết là qui luật tự nhiên của muôn loài muôn vật. Chết là một cách để phát sinh sự sống mới, như Chúa Giêsu đã nói:“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Như vậy, chết là một sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một mức độ phong phú hơn nhiều. Đức Giêsu gọi giờ chết trên thập giá của Ngài là “giờ Con Người được tôn vinh”. Cũng từ đó, Ngài đưa ra một nguyên tắc sống:“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Ai mà chẳng yêu quí mạng sống mình; chẳng ai muốn đau thương hay chết chóc. Nhưng sống mà chỉ lo chiếm hữu và hưởng thụ, ta sẽ trở nên trơ trọi như hạt lúa giống không chịu vùi chôn. Cũng vậy, chẳng ai lại coi thường mạng sống mình, nhưng nếu coi trọng nó đến nỗi thành nô lệ cho chính mình, thì khác nào ta nuôi dưỡng một cái xác không hồn. Người ta nghĩ có được danh lợi quyền hành là vẻ vang, nhưng Đức Giêsu coi thập giá là vinh quang. Ngài dạy chúng ta, từ sự chết mới có sự sống, chỉ bằng cách hy sinh mạng sống, chúng ta mới giữ được sự sống; chỉ nhờ phục vụ, chúng ta mới trở nên cao cả. Qua những kinh nghiệm đau thương và buông bỏ, ta mới thấy mình được khi chấp nhận mất, thấy mình nhận lãnh khi chấp nhận cho đi. Như con ốc sên chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ, ta chỉ sống dồi dào khi ra khỏi những bận tâm và so đo tính toán cho mình để sống tình yêu.
Lời kinh Hòa Bình mà ta vẫn hát phải trở thành nguyên lý sống cho cuộc đời ta: “chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”. Từ đó ta mới hiểu rằng, sống và chết là hai hành vi trao đổi cho nhau trong từng giây phút và từng biến cố của đời mình. Sống là chấp nhận chết đi để triển nở: mỗi một hành vi khiêm tốn là chết đi một phần tính kiêu ngạo; mỗi một hành vi can đảm là chết đi một phần tính hèn nhát; mỗi một hành vi dịu dàng là chết đi một phần tính hung bạo; mỗi một hành vi yêu thương là chết đi một phần tính ích kỷ. Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa mới hình thành.
Tuy nhiên, quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, dù trong tinh thần hay thân xác cũng đều là hành vi của đau thương, tổn hại, mất mát, không dễ dàng chấp nhận, dù biết rằng đó là một cách tiếp nhận sự sống mới. Chính Chúa Giêsu cũng phải nao núng và dao động trước cái chết: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì?”. Chúa Giêsu không ngần ngại thố lộ với chúng ta nỗi xao xuyến và sợ hãi của Ngài. Ngài không làm ra vẻ anh hùng trước một sự hy sinh cao cả, nhưng Ngài đã bám níu vào Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này… Nhưng chính giờ này mà con đã đến”.
Như Chúa Giêsu, nếu ta biết tỉnh thức và cầu nguyện, ta sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Cầu nguyện không phải là liều thuốc giảm đau, không hẳn ngăn chặn được nao núng sợ hãi, cũng không mong Chúa đổi ý để cứu ta khỏi đau khổ hay sự chết, nhưng cầu nguyện là sự tin yêu và phó thác trước nỗi xao xuyến và giằng co của phận người. Nhờ vậy mà ta thanh thản trong sự hiến dâng trọn vẹn, để đi vào sự phục sinh vinh hiển với Chúa Giêsu, như Lời Ngài đã hứa:“Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Với niềm hy vọng lớn lao này, chúng ta hân hoan đón nhận cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng. Phải chăng trong tâm tình đó mà R. Tagore đã dâng lời nguyện: “Ôi! Thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối … Những gì ta là, những gì ta có, những gì ta hoài mong, những gì ta yêu thương, tất cả vẫn sâu xa bí mật trôi chảy về ngươi…Ôi Thượng Đế, kính lạy Người lần cuối. Như đàn hạc hoài hương, ngày đêm hối hả bay về tổ ấm trên núi cao, xin cho đời tôi phiêu du tới quê hương vĩnh cửu ngàn thu”.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Khi nhìn đồng lúa mênh mông bát ngát,
từng cây lúa nặng trĩu những bông hạt,
nhưng ai nghĩ đã qua nhiều ngày tháng,
hạt giống chôn vùi chịu mục nát rã tan.
Cũng thế, bao người sống âm thầm lặng lẽ,
sẵn sàng cho đi và chia sẻ cuộc đời mình,
vẫn tận tình trong lao nhọc hy sinh,
cho gia đình và xã hội được an bình.
Nhìn vào cuộc sống con mới hiểu,
nét đẹp đời người đâu phải là tuổi trẻ,
nhưng thực chất là tuổi của kẻ biết cho đi,
tuổi biết quên mình và sống vì người khác.
Từ ý nghĩa đó con mới thấy,
nét suy tư của những nếp nhăn trên trán,
nét đảm đang của những tấm lưng còng,
nét thong dong của những làn tóc bạc,
là những nét đẹp từng trải qua năm tháng,
của một cuộc đời đã gieo hạt nẩy mầm.
Đó là những hạt lúa đã gieo vào lòng đất,
chấp nhận chết đi để đem lại sự sống mới,
cũng chính là để xây dựng Nước Trời,
sống thực tâm theo lời mời của Chúa,
biến yêu thương thành hoa trái tuyệt vời,
để ban tặng cho đời và thế giới hôm nay.
Xin cho con tiến bước trong từng ngày,
trong âm thầm lặng lẽ và chia sẻ hiến trao,
thao thức góp phần cho cuộc sống dồi dào,
chỉ mong sao mọi sự được đẹp như ý Chúa,
để con hân hoan chờ đón một ngày Mùa,
Mùa vinh phúc, Mùa hồng ân cứu độ. Amen.
HẠT LÚA “THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI”
Jorathe Nắng Tím
Trong Tin Mừng nhất lãm, Đức Giêsu đã công khai nói với các môn đệ ít là ba lần về cuộc tử nạn và phục sinh sắp tới của Ngài : “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá, và ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 20,18-19). Nói điều này, Đức Giêsu đã làm sợ hãi và nản lòng các môn đệ, vì không ai đi theo Ngài đã nghĩ đến thảm cảnh Thầy mình sẽ bị kết án tử và đóng đinh là hình phạt nặng nề nhất chỉ dành cho tội phạm nguy hiểm. Chính vì thế Phêrô, tông đồ trưởng, tuy ở gần và yêu mến Thầy hơn các anh em khác cũng không đủ bình tĩnh cầm lòng, nhưng đã bức xúc lên tiếng can ngăn : “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”, và ông đã bị Đức Giêsu quở trách : “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23).
Hôm nay Tin Mừng Gioan kể lại câu chuyện giữa Đức Giêsu và hai ông Philipphê, Anrê cùng những người Hy Lạp được hai ông dẫn đến. Trong dịp này, Đức Giêsu cũng đề cập đến việc Ngài sẽ phải chết trong tay những kẻ chống đối, quyết tâm tiêu dệt Ngài, nhưng khác những lần loan báo trước, lần này, Ngài dùng hình ảnh hạt lúa : “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu qúy mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
Hình ảnh hạt lúa thật gần gũi với mọi người, và là hình ảnh gây nhiều ấn tượng, bởi ai cũng biết hat lúa phải được chôn vùi trong đất mới nẩy mầm, sau khi thối rữa. Nhưng chính từ tình trạng thối rữa của hạt lúa mà “sự sống mới” được trổ sinh, và đem lại nhiều bông hạt. Khi dùng hình ảnh hạt lúa, Đức Giêsu không chỉ loan báo việc Ngài sẽ phải chết và sống lại mà thôi, mà còn cho các môn đệ thấy “Con Người Thiên Chúa” của Ngài, mầu nhiệm nhập thể làm người của Ngài. Nói cách khác, Ngài mạc khải cho chúng ta : Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là con người, với hai bản tính Thiên Chúa và con người :
- Như hạt lúa sẽ bị thối rữa đi, Đức Giêsu mang lấy số phận phải chết của con người :
Phận người đáng thương nhất là “biết mình phải chết”. Mọi loài thụ tạo đều phải chết, trừ các thiên thần là thụ tạo thiêng liêng, nhưng con người đáng thương hơn tất cả, vì biết mình sẽ chết, biết thân xác tươi tốt, vạm vỡ, xinh đẹp của mình sẽ thối rữa, tiêu tan một ngày, trong khi con vật tuy cũng chết nhưng không biết mình phải chết. Chính vì “biết” mà phận người đắng đót, đau thương!
Đức Giêsu mang lấy phận người, khi xuống thế làm người. Như mọi người, Ngài lệ thuộc những điều kiện, và giới hạn của kiếp người, và chết là sự thật khủng kiếp đáng kinh sợ nhất, như chính Ngài đã xao xuyến, bồi hồi, hoảng hốt trước giờ lên đường đi chịu chết (x. Ga 2,27).
Nhưng số phận phải chết ở con người không đơn thuần tự động như cỗ máy đến thời hạn phải ngưng, vì con người có quyền và bổn phận trên cái chết của mình, khi cho nó một hướng đi, một đích tới, một giá trị, một ý nghiã mà ngoài bản thân mình, không ai có thể thay thế đảm trách quyền lợi và nghiã vụ tuyệt đối riêng tư này. Chính Đức Giêsu đã khẳng định : “Ai yêu qúy mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Như thế, bản thân mỗi người có quyền yêu hoặc không yêu mạng sống ; có quyền chọn cho mạng sống mình một tuyến đường, một đích điểm ; có quyền định đoạt tương lai đời đời cho mạng sống, bởi nếu sự chết toàn quyền định đọat mạng sống như toàn quyền trên thân xác, thì Đức Giêsu đã không nói với chúng ta về những khả thể yêu – ghét, mất – còn, tạm bợ – đời đời của mạng sống.
- Như “hạt lúa vâng phục” chấp nhận bị chôn vùi, thối rữa, Đức Giêsu mang tất cả sức mạnh toàn năng và sự sống viên mãn của Thiên Chúa :
Hạt lúa thối rữa, nhưng không tiêu tan “vô tích sự”. Trái lại, nó thối rữa để nẩy mầm, đội đất mọc lên thành cây lúa, trổ sinh những bông hạt. Tiếng nói từ trời của Chúa Cha : “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”, khi Đức Giêsu ngước mắt cầu nguyện : “Lậy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đến. Lậy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12,27-28) đã làm chứng thiên tính của Đức Giêsu, chứng thực Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu nhân loại trước nhiều người, nên cũng từ Ngài, từ bản tính Thiên Chúa của Ngài, sự sống trỗi dậy từ cõi chết, sức sống bùng phát từ “thối rữa” của hạt lúa bị chôn vùi, bởi ở nơi Ngài luôn hiện diện Ba Ngôi Thiên Chúa, trong Ngài luôn đầy tràn sức mạnh và sự sống viên mãn, đời đời của Đấng Toàn Năng.
Thánh Phaolô đã qủang diễn “hạt lúa vâng phục” là Đức Giêsu trong thư gửi cộng đoàn Do Thái : “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ; và khi chính bản thân đã đến mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,7-9).
Qủa thực, chính trong Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta được chết với Thiên Chúa, vì Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã chết với chúng ta ; chính cùng với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta cho cái chết của mình những giá trị và ý nghiã đời đời, khi được cùng với Thiên Chúa tiến về vương quốc vĩnh cửu của Ngài, vì Con Một Thiên Chúa đã đích thân dắt chúng ta đi với Ngài đến tận mộ phần tăm tối của sự chết ; chính nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta được sống lại và hưởng vinh quang phục sinh với Ngài, vì “nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2,11) .
Vâng, Đức Giêsu là Hạt Lúa của Thiên Chúa nuôi sống nhân loại, Hạt Lúa tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha xuống thế làm người để chịu chôn vùi, thối rữa với con người phải chết, Hạt Lúa Thiên Chúa là “sự sống lại và sự sống” (Ga 11,25) cho con người đáng phải chết được sống lại và sống đời đời.
Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Chúa Nhật V Mùa chay năm B, chúng ta được nghe một trong những tuyên bố mạnh mẽ nhất của Thầy Chí Thánh Giê-su: “Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất mà không thối đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi thì sẽ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ được nó cho cuộc sống đời đời”. (Ga 12, 24-25).
Đọc những lời lẽ này của Chúa, tôi cảm thấy dường như Ngài đang muốn thức tỉnh nhân loại. Nhân loại chúng ta đang ngủ mê trong một cuộc sống hời hợt bên ngoài. Chúng ta tưởng mình sống mà thực ra không phải. Chúa muốn giúp ta nhận ra đâu là cuộc sống đích thực, đâu là cuộc sống giả tạo. Hạt lúa mì được gieo vào lòng đất. Sau một thời gian, nó mục nát đi rồi nảy mầm thành một cây lúa trổ sinh nhiều bông hạt. Nếu nó không mục nát đi thì nó chỉ trơ trọi và rồi cũng tan biến đi. Đó là quy luật tất yếu của tự nhiên. Còn con người chúng ta thì sao?
Đôi khi tôi băn khoăn và tự hỏi: Tôi đang sống hay tôi đang chết? Chúa bảo tôi phải chết đi thì mới có cuộc sống đích thực. Vậy đâu là những gì tôi phải chết? Và đây là một vài điều.
Trước hết, tôi phải chết đi cho con người nhỏ nhen ích kỷ. Là con người, tôi thường có tâm lý cạnh tranh hơn thua. Thấy người khác hơn mình một chút, nhiều khi tôi không chịu đựng được. Tôi muốn được giàu có, được tài giỏi, được nhiều người biết đến và nhìn mình bằng một ánh mắt nể trọng. Tôi muốn và luôn luôn muốn một cái gì đó. Đôi khi những điều tôi muốn chỉ nhằm thỏa mãn cái tôi huênh hoang và hống hách của bản thân mình. Tôi muốn triệt hạ đối thủ để được nổi lên. Và Chúa bảo tôi phải giết chết đi con người đó nếu tôi muốn sống thật.
Thứ đến, tôi phải chết đi cho những suy nghĩ của mình. Con người tôi lúc nào cũng suy nghĩ miên man. Suy nghĩ giống như con ngựa bất kham luôn làm tôi căng thẳng. Tôi không sao ngưng dứt được dòng suy nghĩ của mình. Suy nghĩ về bản thân, về người khác, về quá khứ, về tương lai, về cơm áo gạo tiền, về gia đình, quê hương, dân tộc, thế giới…. thôi thì đủ loại. Ôi suy nghĩ và suy nghĩ! Dường như con người luôn ở trong dòng suy nghĩ miên man vô tận. Chúa bảo tôi phải ngưng dứt được cái dòng suy nghĩ miên man vô tận đó thì mới có thể tiến vào miền thinh lặng vĩnh cửu. Chỉ khi tôi ngưng dứt được dòng suy nghĩ của mình, tôi mới thực sự kết nối được với nguồn sống đích thực đang tràn trào trong tôi. Chỉ khi dòng suy nghĩ miên man dừng lại, tôi mới có cuộc sống đích thực.
Sau cùng, tôi phải chết đi cho những khái niệm ảo tưởng về thời gian. Thời gian chỉ như một tấm biển chỉ đường. Nó không có quyền gì chi phối tôi cả. Thế nhưng, nhiều lúc tôi bị vướng vào cái vòng luẩn quẩn của thời gian. Nhiều người bị ám ảnh về quá khứ. Quá khứ như một bóng ma lúc nào cũng đè nặng trên cuộc đời của nhiều người. Có những người triền miên đau khổ về quá khứ của mình. Không bao giờ họ tìm được cho mình một giây phút bình yên. Tôi tha thiết cầu xin những người nào đang ôm ấp và ngụp lặn trong đau khổ của quá khứ, hãy buông bỏ và tha thứ cho bản thân mình đi. Còn tương lai thì sao? Bao người ngày hôm nay quá ưu tư về tương lai. Tôi sẽ làm gì sau khi ra trường? Làm thế nào để kiếm tiền nhanh nhất? Tôi sẽ sống ra sao nếu…? Tất cả những điều đó không phải là điều chính yếu của cuộc sống. Hãy chặt đứt tất cả những ảo tưởng phù phiếm của thời gian đó đi. Hãy tiến vào và sống giây phút hiện tại này. Hãy luôn sống trong trạng thái ý thức của hiện tại. Cuộc sống bao la vô tận sẽ mở ra trước mắt chúng ta. Hiện tại và chỉ có hiện tại thôi mới là vĩnh cửu.
Lạy Chúa, Chúa dạy con phải chết đi thì mới có cuộc sống đích thực. Xin cho con biết chết đi cho tất cả những ảo tưởng mà con hay quơ góp. Và chính khi con chết đi là khi con được vui sống muôn đời. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Lời Chúa trong bài đọc I hôm nay đề cập đến giao ước. Vậy, giao ước là gì? Giao ước là do sự thỏa thuận của hai bên về một số những điều phải giữ, chẳng hạn như: giao ước hôn nhân, khấn dòng. Nếu một bên vi phạm, giao ước sẽ không còn hiệu lực nữa.
Phản bội giao ước
Nếu xưa trên núi Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với dân Israel, theo đó Thiên Chúa hứa Ngài là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá. Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng (x. Xh 32), dẫn đến hậu quả là nước mất, nhà tan, dân chúng lâm cảnh lưu đày.
Thiên Chúa không đành rút lại lời hứa, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu là lý do Chúa lại trao ban cho dân một giao ước mới, giao ước của tình thương. Giêrêmia là người duy nhất nói về “giao ước mới”, ông tuyên sấm: “Chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng”. Họ đã bất trung, lỗi lời giao ước, chạy theo các thần ngoại mà thờ, không tuân giữ các điều Chúa truyền dạy, sống bất công và vô luân. Chúa là Thiên Chúa tình thương, vấn vương khi tạo dựng, lòng thành tín của Chúa trải muôn ngàn đời, không hề lỗi lời giao ước. Thay vì chia tay để con người chết trong tội, Thiên Chúa chọn để thiết lập một giao ước mới khi tuyên sấm: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập”.
Giao ước tình thương
Nội dung của giao ước mới là: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết Đức Chúa,” vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi” (Gr 31,31-34).
Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môisen phải đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi giận. Nay Chúa trao ban Luật cho dân với một cách thức và công thức mới là ghi tạc vào lòng con cái Israel (x. Gr 31, 33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và cá nhân với Chúa (x. Gr 31, 34) không qua trung gian: “Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em ” (Gr 31, 34). Theo nghĩa Kinh Thánh là hiệp thông với Chúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: “Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 34), đây là nét đặc trưng của giao ước kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người trong dân. Một giao ước “khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho dân” (Gr 31, 34). Giao ước mới này sẽ được Đức Kitô thực hiện và hoàn tất trong “giai đoạn” vượt qua.
Đức Kitô kiện toàn giao ước
Đêm Vọng Phục Sinh, có nghi thức làm phép nước rảy trên dân chúng, nếu có dự tòng thì sẽ rửa tội họ bằng nước phép này. Phép Rửa tội, bí tích khai tâm, cửa ngõ đức tin và là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với con người. Nước dùng để rửa tội là nước lã như mọi thứ nước, nhưng được làm phép để rửa tội nên nước ấy mang một ý nghĩa đặc biệt vì trong đó có giao ước giữa con người với Thiên Chúa.
Nếu trong Cựu Ước, phép cắt được coi là “dấu chỉ giữa Thiên Chúa và người dân của Ngài” (St 17,10-14). Thì đến thời Tân Ước, Đức Giêsu đã đến và ban dấu chỉ cứu rỗi (x. Cl 2,11); (1Pr 3,11).
Ðể chứng minh giao ước này là giao ước đời đời không hề thay đổi, Đức Giêsu đã trao ban bánh và rượu trong Lễ Vượt Qua, tượng trưng cho thịt và máu của Người, làm dấu chỉ giao ước hữu hình ở lại luôn mãi với loài người chúng ta (x. Ga 6,53-56, Mt 26,17-28). Như vậy, bằng lời hứa bất biến Thiên Chúa đã liên kết với chúng ta, nên Kinh Thánh gọi chúng ta là con của lời hứa: “Hỡi anh em, như Isaac, anh em là con cái của lời hứa” (Gal 4,28).
Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta nhận lời hứa và phúc lành đặc biệt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu chúng ta giữ lời giao ước với Thiên Chúa và không vâng phục lời Chúa, chúng ta sẽ đánh mất phúc lành ấy.
Giao ước Thiên Chúa đã ký kết dân Israel qua trung gian Môise, cứu họ khỏi ách nô lệ Ai-cập, đưa vào đất Canaan, là xứ của lời hứa. Lúc ấy, Thiên Chúa không đưa họ tiến thẳng vào xứ Canaan ngay lập tức mà lại dẫn họ 40 năm trường trong sa mạc, ban cho họ các giới răn xem họ có vâng phục không (x. Đnl 8,2-16). Tuy nhiên, họ đã không tuân giữ, phần lớn trong số họ phải chết (x. Ed 20,10-13). Chỉ có hai người là Calép và Giôsuê vâng lời Thiên Chúa, và những người sinh ra trong sa mạc mới được đi vào xứ của lời hứa (x. Ds 14,6-38).
Hành trình vào Đất Hứa của dân Israel báo trước hành trình của người kitô hữu chúng ta về Nước Trời. Thật là bài học quí giá. Chúng ta cũng sẽ không thể vào được nếu chúng ta bất tín (x. Dt 3,18-19, 1Cr 10,1-11). Chúng ta hãy cỗ gắng tuân giữ luật Chúa và vâng theo lời Chúa để được vào Thiên Đàng. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa nhật hôm nay (Ga 12,20-22), Thánh Gioan đã kể lại lời giới thiệu về Chúa Giêsu. Khi Người long trọng tiến vào Giêrusalem để mừng Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và cũng là chuyến từ giã thế gian để về cùng Cha, có những người Hylạp khi được nghe giới thiệu, họ đã muốn tìm gặp Người. Họ là dân ngoại có cảm tình với Do thái giáo “Họ lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa dịp Lễ Vượt Qua“. Những người dân ngoại này tìm gặp Chúa Giêsu không chỉ để trông thấy mà thôi, mà còn muốn gặp để chuyện trò đàm đạo với Người. Họ đang bước tới trên con đường đức tin.
Họ đến gần Philipphê và xin ông giới thiệu để gặp Chúa Giêsu. Philipphê đi nói với Anrê. Cả hai ông đến thưa với Chúa. Ở đây ta thấy tầm quan trọng của vai trò trung gian, của người giới thiệu, đến với Chúa cần có người giới thiệu, người dẫn đường.
Những người Hy lạp năn nỉ Tông đồ Philípphê: Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu. Người Hy lạp ái mộ “muốn gặp Đức Giêsu”(Ga 12,21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. “Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết” (Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12,23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hy lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo Người. (Lm. Giuse Đỗ Vân Lực).
Chúng ta có ao ước gặp Chúa Giêsu không?
Để trả lời, trước hết nên tự hỏi lòng mình: tôi có yêu mến Chúa Giêsu không? Nếu thực sự tôi yêu mến Chúa, tôi rất ước muốn, khao khát gặp gỡ Người, và tôi sẽ tìm mọi cách để gặp Người cho bằng được. Dĩ nhiên, tôi cũng biết rằng, không giống như khi Chúa Giêsu còn tại thế, lúc mà những ai ao ước trông thấy Người, có thể thấy bằng mắt phàm; còn bây giờ tôi chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt đức tin, gặp Chúa bằng đức tin. Và nếu tôi ao ước thấy Chúa, gặp gỡ Chúa bằng đức tin, thì tôi sẽ toại nguyện, vì Chúa đã dạy rõ ràng : ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.
Thứ đến, Chúa luôn hiện diện cho chúng ta gặp Người, đặc biệt là trong Thánh lễ. Gặp gỡ Chúa khi dâng lễ mới là quan trọng. Chính vì thế mà khi Anrê và Philípphê đến thưa với Chúa Giêsu ước nguyện của mấy người Hy lạp, thì Chúa lại hướng các môn đệ đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh của Người. Chúa bảo, đã đến giờ Con Người được Tôn vinh, rồi Người lại nói đến hạt lúa mì gieo xuống đất phải chết đi mới sinh nhiều hạt khác. Và bấy giờ Người mới mời gọi ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó!. Như vậy là Ý của Chúa Giêsu đã rõ. Người hướng tất cả những ai muốn gặp Người, trong số đó có chúng ta, đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh. Nơi đó, lúc đó chúng ta sẽ gặp được Chúa. Điều đó không có nghĩa là phải đợi đến ngày lễ Phục Sinh, chúng ta mới gặp được Chúa. Chúng ta cùng nhau gặp Chúa ngay bây giờ khi cùng nhau cử hành Thánh lễ, và đón Chúa đến với chúng ta trong lòng Giáo Hội. Với đức tin, chúng ta gặp được Chúa trong mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh.
Chúa Giêsu đến trong Thánh lễ là Đấng đã chịu đóng đinh và chịu chết vì chúng ta, đã mặc lấy thân phận loài người như chúng ta, đã trải qua nhiều đau khổ, đã xin Thiên Chúa Cha cứu mình khỏi chết như lời thư gởi tín hữu Do Thái. Nhưng cuối cùng Người đã vâng phục Chúa Cha, sẵn sàng chịu chết. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã tôn vinh Người, cho Người sống lại từ cõi chết.Đó là mầu nhiệm Giáo Hội tuyên xưng và cử hành trong mỗi thánh lễ, là bí tích Giao ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với nhân loại nhờ Máu của Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, làm cho chúng ta thành Dân riêng của Thiên Chúa. Thánh lễ là bí tích của sự gặp gỡ, là bí tích của tình bằng hữu giữa Thiên Chúa và chúng ta nhờ Chúa Giêsu. Mỗi lần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, hãy nhớ câu nói của mấy người Hylạp: Chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu. (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Philípphê và Anrê là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến với Chúa (1,35-46). Bổn phận người môn đệ phải chu toàn trong đời sống là làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp gỡ Chúa Giêsu.Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Chúa Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Chúa Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Chúa Giêsu và việc “gặp” Người còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Chúa nữa. Chỉ khi đó họ mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục Sinh.
Hôm nay, Giáo xứ chúng ta có nghi thức tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng gia nhập vào Giáo hội. Đây là những lương dân thiện chí muốn trở nên Kitô hữu.Họ khao khát chân lý. Họ mong muốn tìm gặp Chúa Kitô và đón nhận tình yêu của Người. Sau những ngày tháng học hỏi về giáo lý, họ được tiếp nhận vào cộng đoàn và chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội trong Đêm Vọng Phục Sinh để trở thành con cái Chúa.
Kính thưa anh chị em Dự Tòng.
Trở thành Kitô hữu không chỉ là gia nhập vào cộng đoàn giáo xứ,chấp nhận giáo lý của Chúa Giêsu và Giáo hội mà còn quan trọng hơn là gặp gỡ Thiên Chúa và khám phá ra tình yêu vô bờ bến của Ngài trong chính cuộc đời mỗi người.
Thật ra, mỗi Dự Tòng đã được Thiên Chúa yêu thương. Ngài hiện diện trong cuộc đời mỗi người từ lầu rồi, mặc dù anh chị em chưa bao giờ nghĩ tới để nhận ra Ngài. Anh chị em tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực sự Thiên Chúa tìm kiếm anh chị em trước. Nhờ Ngài mà cuộc tìm kiếm của anh chị em thành tựu và hôm nay chúng ta đang gặp gỡ Ngài.
Một cuộc gặp gỡ,một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng.Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, kể từ nay cuộc đời anh chị em sẽ thay đổi dần.Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời anh chị em. Hãy đón nhận Ngài với lòng tri ân cảm tạ. Cùng với Ngài anh chị em hãy bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là cách tốt nhất để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho anh chị em.
Kính thưa cộng đoàn.
Hôm nay giáo xứ chúng ta tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng. Hạt giống đức tin đã ươm mầm và mọc lên. Biết bao công sức, bao nỗ lực của các hội đoàn, bao người đã dày công chăm sóc cho những hạt giống đức tin ấy để hôm nay Thiên Chúa cho mọc lên.
Những Dự Tòng đây đến với Chúa, tin và gặp gỡ Ngài là nhờ lời giới thiệu và gương sống chứng tá của tất cả chúng ta.
Có biết bao người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về Đạo của Chúa. Có những người theo Đạo vì trước kia đã học trường Đạo. Có người khác theo Đạo vì đã có một ân nhân là người Công giáo. Cũng có những người cảm phục một tấm gương chứng tá của Phúc Âm. Có người lại nhận thấy đời sống người Kitô hữu trong gia đình, làng xóm tràn đầy tình bác ái.
Hôm nay giáo xứ chúng ta hân hoan thu hoạch một mùa lúa do công lao của biết bao người. Tạ ơn Chúa và tri ân những người truyền giáo âm thầm cho Giáo hội. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng Chúa ban.Khi giới thiệu Chúa cũng chính là lúc chúng ta thánh hoá bản thân mình.
Thiên Chúa là tình yêu.Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương, ao ước và gặp gỡ Thiên Chúa tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn ” Đây là Chiên Thiên Chúa.Đây Đấng xoá tội trần gian“. (Ga 1,29). Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa chưa chắc đã cần nói nhiều.Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay.Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là tình yêu thương: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Chúng ta hãy là hạt lúa,đến mảnh đất nào thì gieo mầm xanh tình thương để mảnh đất ấy bừng lên sự sống xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt tốt đẹp.
HẠT GIỐNG CÓ MỤC NÁT ĐI MỚI TRỔ SINH BÔNG TRÁI
Lm Trần Bình Trọng
Danh tiếng Ðức Giêsu lúc này đã phải vang dội như sóng bạc đầu, nhất là việc Người vừa làm cho ông Ladarô đã chết bốn ngày sống lại ở Bêtania, cách Giêrusalem có hai dậm.
Vì thế một số người hành huơng Hy lạp xin ông Phi-líp-phê, có tên Hy-lạp, cho được yết kiến Ðức Giêsu, có lẽ với hi vọng được sự thông cảm của người cũng có tên Hy lạp chăng? Ông Phi-líp-phê lại hỏi ý kiến ông An-rê cũng mang tên Hy-lạp. Nhóm người Hy lạp đây không phải là người Do thái nói tiếng Hy lạp, nhưng là người Hy lạp sống ở Do thái, đã phải nghe đồn thổi về việc Ladarô được Ðức Giêsu cho sống lại (Ga 12:17). Trước khi đế quốc La mã thống trị Do thái, thì đế quốc Hy lạp đã đặt chân ở đây. Người Hy lạp được tiếng là ưa chuộng triết học, kiến trúc và nghệ thuật. Có lẽ vì những lí do đó mà họ đến viếng thăm Ðền thờ Giêrusalem với kiến trúc đồ sộ nguy nga và xin được gặp Ðức Giêsu.
Sau vụ Ladarô, các thượng tế và nhóm người Pharisêu đang tìm cách hạ sát Ðức Giêsu vì họ sợ ảnh hưởng của Người. Phúc âm ghi lại, họ sợ thiên hạ theo ông ấy hết (Ga 12:19). Còn Ðức Giêsu thì gián tiếp trả lời nhóm người Hy lạp khi bảo các môn đệ rằng: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga 12:24). Thoạt nghe, người ta cho rằng đó là lời phát biểu có tính cách tầm thường, vì ai quan sát cũng đều thấy và biết như vậy. Tuy nhiên Ðức Giêsu không chỉ nói đến tiến trình biến đổi của thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Luật đó còn được áp dụng cho cả loài người về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng liêng nữa.
Phúc âm còn ghi lại, Ðức Giêsu cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến: Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha (Ga 12:27-28). Khi Giuđa phản đối việc bà Maria xức dầu thơm cam tùng hảo hạng lên chân Ðức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau (Ga 12:3), Người cũng đã ám chỉ về cái chết của Người khi bảo người ta cứ để bà yên, hầu giữ lại dầu thơm cho ngày mai táng Người 1 (c. 7). Ðức Giêsu còn ám chỉ Người sẽ phải chết cách bị treo lên khỏi mặt đất (c. 32), nghĩa là trên thập giá.
Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu, để thay thế giao ước cũ trên núi Sinai, giao ước mà dân Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này không được viết trên bia đá và không phải bằng máu chiên cừu, mà Môsê đã dùng để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Ðó là ý nghĩa của lời truyền phép mà linh mục chủ tế tuyên đọc trong thánh lễ: Ðây là máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Theo thư gửi tín hữu Do thái, thì vâng lời và chấp nhận khổ giá là một phần của giao ước mới (Dt 5:8-9).
Sứ điệp mà Ðức Giêsu đến để công bố trong giao ước mới đưa tới sự chết. Và vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Xét theo bản thể Thiên Chúa, Ðức Giêsu không thể chịu đau khổ và chịu chết. Người chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong thân xác loài người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Ðức Giêsu cũng sống lại trong thân xác loài người của Ngưòi. Còn xét về bản thể Thiên Chúa, thì trước sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm, không bớt, không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Theo định luật đào thải của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào, nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Còn theo định luật cung cầu của kinh tế, thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ. Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ sống cho mình, không cho đi, thì mối liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và đời sống liêng liêng sẽ không phát triển được. Tất cả những định luật đó như công thức toán học, phương trình hoá học, định luật vật lí, định luật tâm lí, định luật kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ và trong tâm khảm loài người.
Ðể chia sẻ sự sống mới với Ðức Kitô, người ta phải đi theo tiến trình của kiếp sống con người: sinh lão bệnh tử. Trường hợp các vị tử đạo đã làm, là chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa để được hưởng sự sống mới. Tuy nhiên rất ít người được phúc tử đạo. Ða số loài người trải qua cái chết tự nhiên. Người ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như: chia ly là chết cho mình một nửa, để nói lên sự mất mát về tình cảm và tinh thần.
Như vậy theo nghĩa bóng của cái chết thì người tín hữu phải sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc bay để có thể được tham dự vào đời sống trong ơn nghĩa với Ðức Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng trả giá trong cách sống, cách nói năng và hành động để làm môn đệ Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu mất mát: mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội, nếu những nết xấu kể ra trên đây làm cản trở cho bước đường làm môn đệ Ðức Kitô, hay làm sứt mẻ mối liên hệ với Thiên Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa, ta mới có thể chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với Người (2 Tim 2:11).
Lời cầu nguyện xin cho được chết đi cho tội lỗi:
Lậy Chúa Giêsu! Chúng con xin cảm tạ Chúa
đã đến thế gian, chấp nhận hi sinh thập giá,
để cứu chuộc tội lỗi loài người, gồm tội riêng con.
Xin cho con được sẵn sàng chết đi cho tội lỗi
và các thứ tính mê nết xấu,
để con được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Amen
____________________________
- Theo linh mục Trần Văn Kiệm, các tiên tri Do thái có thói hay làm kịch mà báo tương lai. Ở đây bà Maria Bêtania cũng xoã tóc, xức dầu thơm cho Chúa, tức là làm y như nhà hiếu, khóc người thân thương khi tẩm liệm. Chính Đức Giêsu giải thích là cứ để bà Maria tẩm liệm Chúa cho ngày mai táng (Ga 12:7).
Trầm Thiên Thu
Đồi Sọ lặng Lẽ Cây Thánh Giá
Thế Trần Gieo Neo Nỗi Gian Truân
Thánh Ambrôsiô Optina nhắn nhủ: “Đừng lo sầu về quá nhiều điều, nhưng phải để tâm lo cho một điều chính: CHUẨN BỊ CHO CÁI CHẾT CỦA MÌNH.” Bất cứ việc gì, dù to hay nhỏ, đều phải chuẩn bị: Phải im lặng trước khi có thể lắng nghe, phải lắng nghe trước khi học hỏi, phải học hỏi trước khi hành động, phải hành động trước khi phụng sự, phải phụng sự trước khi hướng dẫn,… Chết là sự kiện quan trọng nhất đời người, vì một đi không trở lại, càng phải chuẩn bị đặc biệt. Vả lại, cái chết đến bất ngờ, không thể biết trước.
Thiết tưởng đây là cách chuẩn bị tốt cho cái chết mà Thánh Barsanuphius đã áp dụng: “Đừng tìm cách để nổi trội. Trong bất cứ việc gì, đừng sánh mình với người khác. Hãy mặc kệ thế gian, hãy vác lấy thập giá, hãy vứt bỏ tất cả những gì phàm tục, hãy giũ sạch bụi trần khỏi bàn chân.” Đó là cách buông bỏ. Muốn bỏ thì phải buông, có buông ra thì mới nhẹ mình.
Điều đó có vẻ đơn giản nhưng lại không dễ dàng, bởi vì tính xác thịt của con người nặng nề lắm. Chân phước Claude de la Colombière tâm sự: “Chúa đã dang tay để kéo con ra khỏi vũng bùn nhơ mà tình cảm của con đã đẩy con vào và bản tính quá buông thả của con đã nhận chìm con trong đó.” Chắc chắn rằng nếu không có ơn Chúa, chúng ta không thể làm được gì. (Ga 15:5) Tuy nhiên, Thánh Thomas Aquino cho biết: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ. Nhận ra những ai là người mà chúng ta phải tránh, đó là phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.”
Từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta.” (Gr 31:31-33) Bất kỳ Thiên Chúa hứa điều gì, dù to hay nhỏ, thì chắc chắn ứng nghiệm, không sai bao giờ.
Tất cả phàm nhân đều là tội nhân, chẳng đáng gì để được Ngài hứa, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài dành cho chúng ta những giao ước kỳ diệu và vô giá: “Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết Đức Chúa,’ vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.” (Gr 31:34) Quả thật, Thánh Vịnh gia không thể nín lặng nên đã thốt lên: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3)
Chúng ta cảm thấy khó thực hiện nhưng không phải do Thiên Chúa đòi hỏi hoặc bắt buộc nhiều, thực sự Ngài chỉ cần chúng ta thành tâm sám hối. Thế thôi, mọi thứ sẽ ổn, vì chính Chúa Giêsu đã “bù lỗ” cho chúng ta bằng giá máu. Nhưng là phàm nhân, chúng ta không chỉ có máu Pharisêu mà còn có máu Cuội – xạo ke. Thật là quá quắt lắm, vừa giả hình vừa hứa lèo. Mỗi Mùa Chay là cơ hội thuận tiện để chúng ta nghiêm túc xét lại chính mình, soi kiểu 3D – từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, từ bên này sang bên kia, rồi sám hối thật lòng: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.” (Tv 51:3-4)
Một chút tro rắc trên đầu (hoặc vẽ trên trán) cũng chỉ vô ích nếu chúng ta không “xức tro” linh hồn và “xé rách” lòng mình vì tự cảm thấy bất xứng với Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chắc chắn Ngài xót thương ngay, và sẵn sàng bỏ qua hết nếu chúng ta không vỗ ngực, nhưng chân thành đấm ngực mình, đấm vào chỗ sâu thẳm nhất của con tim, chứ không đấm ngực người khác. Không chỉ vậy, chúng ta còn phải cầu xin Thiên Chúa biến đổi chúng ta bằng cách “đại tu” linh hồn: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài.” (Tv 51:12-15) Lời nguyện chân thành đó là lời cầu nguyện có màu tím nhưng lại có sắc hồng lung linh. Tuyệt vời lắm!
Cuộc sống vô thường. Cái khổ nhiều hơn cái sướng, cái buồn nhiều hơn cái vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười. Đáng quan ngại là “sinh hữu hạn, tử bất kỳ.” Đời phàm nhân là thế. Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng phải trải qua trăm cay ngàn đắng. Cay xé lòng, đắng cứng miệng. Chẳng có con đường nào đau khổ và tang thương hơn Đường Thập Giá. Nhưng đó là con đường không thể tránh né, ai cũng phải đi qua.
Vừa giải thích vừa động viên, Thánh Phaolô cho biết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.” (Dt 5:7-9) Vâng lời rất cần thiết, cần thiết hơn cả hy lễ, (Hs 6:6; 1 Sm 15:22; x. Tv 50:8-9) thế nhưng đó lại là bài học khó thuộc và khó thực hiện.
Có mấy người Hy Lạp trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin được gặp Chúa Giêsu. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê, rồi hai ông Anrê và Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Ngài không trả lời thẳng vấn đề mà Ngài nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.” (Ga 12:23-26) Phải chết để có thể sinh ích lợi và tái sinh. Một loại triết lý sống vô cùng kỳ diệu.
Nếu thế này thì sẽ thế kia, nếu thế kia thì sẽ thế nọ. Rất bình thường mà cũng rất khác lạ. Chắc hẳn đã trải nghiệm nhiều nên Thánh Phanxicô Assisi có triết lý này: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (Kinh Hòa Bình) Quả thật, kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Ai cũng phải tìm hiểu thấu đáo, rồi phải can đảm sống, như vậy mới có kinh nghiệm, có kinh nghiệm rồi thì mới khả dĩ cảm nghiệm dạng triết lý độc đáo như thế.
Mọi điều phải được ứng nghiệm, lời hứa phải được thực hiện, Ý Cha phải được thể hiện. Nhưng với nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy lo sợ nên Ngài đã tâm sự với các môn đệ: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27a) Rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.” (Ga 12:27b-28) Mặc dù rất sợ nhưng Ngài vẫn mong cho ý Cha nên trọn. Ngay lúc đó có tiếng xác nhận từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:29) Mọi người có mặt ở đó nghe “tiếng động” như vậy, có người bảo đó là tiếng sấm, có người lại cho đó là tiếng của một thiên thần. Phàm nhân không thể hiểu được. Chúa Giêsu nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:30-31) Giờ G sắp sửa điểm!
Điều gì đến sẽ đến. Sự giằng co rất gay go. Thời đại chúng ta đang sống cũng là thời điểm “tranh tối, tranh sáng.” Đã có lần Thánh Phaolô phải thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành.” (2 Tx 2:7) Dù thế nào thì Chúa Giêsu vẫn muốn thực hiện trọn đức tuân phục, và dù đau khổ tột cùng thì Ngài vẫn hứa chắc: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12:32) Ngài nói thế để ám chỉ Ngài sẽ phải chết cách nào: Chết treo trên Thập Giá. Mọi điều ứng nghiệm từ A tới Z.
Chỉ là phàm nhân, là tội nhân, nhưng chúng ta vẫn được Thiên Chúa yêu thương và ban giao ước, do đó chúng ta cũng phải thề hứa với Ngài và tha nhân, hứa gì thì phải cố gắng thực hiện cho đúng. Bằng cách nào? Đó là đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu qua những điều trái ý mình hằng ngày.
Mùa Chay là Mùa Thương Khó, chúng ta hãy noi gương Thánh nữ Faustina cầu nguyện, đặc biệt biết tạ ơn về những gì mình không muốn: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những đau khổ nội tâm, về sự khô khan, về sự sợ hãi, về nước mắt, về sự lưỡng lự, về sự tăm tối nội tâm, về sự cám dỗ, về sự thử thách, về sự giày vò mà con không thể diễn tả, nhất là về những điều mà không ai hiểu, về giờ chết với sự chiến đấu dữ dội và cay đắng. Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những thập giá nho nhỏ hằng ngày, về sự đối nghịch với các nỗ lực của con, về sự gian khó của đời sống cộng đoàn, về sự hiểu lầm, về sự bẽ mặt vì người khác, về sự khó chịu mà người ta đối xử với con, về sự nghi oan, về sức khỏe yếu kém của con, về sự hy sinh, về sự chết cho chính con, về sự kém hiểu biết, về các kế hoạch thất bại của con.” (Nhật Ký, số 343)
Ôi, lời cầu nguyện vô cùng cao cả và tốt lành, hoàn toàn muốn tuân phục Ý Chúa, chắc chắn Ngài rất vui lòng. Tuy nhiên, muốn thực hiện thì chúng ta phải cố gắng lắm mới có thể hoàn tất lời ước nguyện đó. Thật là khó, nhưng với ơn Chúa thì người yếu đuối nhất cũng khả dĩ hoàn tất.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại, Ngài đã chịu chết để con được sống dồi dào và viên mãn, xin tăng lực can đảm và giúp con vững bước trên đường thập giá. Xin dạy cho con biết: đời sống con chung cuộc thế nào, ngày tháng con đếm được mấy mươi. (Tv 39:5) Con chân thành trở về, cố gắng canh tân cho hợp Thánh Ý Chúa, xin thương xót, tha thứ, cứu độ con và các tín nhân. Ngài Đấng hằng sinh và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Sự sống quanh ta thật huyền nhiệm. Từ con người đến muôn vật cỏ cây, mỗi loài mỗi kiểu, hết thảy đều mang trong mình sự sống. Nhờ sự sống mà muôn loài tăng trưởng và hoạt động. Tuy vậy, một điều xem ra là nghịch lý, đó là sự sống không dừng lại khi ta chết, nhưng lúc chết đi lại là lúc khởi đầu sự sống mới. Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định với chúng ta điều ấy.
Mùa Chay cũng được gọi là Mùa Thương Khó, vì đây là thời gian giúp chúng ta suy niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu. Chúng ta tôn vinh thập giá là phương tiện qua đó Đức Giêsu giới thiệu tình thương yêu vô bờ bến của Chúa Cha. Đức Giêsu đã hiến chính bản thân mình làm của lễ dâng lên Đức Chúa Cha, xin ơn tha tội cho loài người. Sự sống và hạnh phúc của con người được phát sinh và tuôn chảy từ cây thập giá, tức là từ sự chết của Chúa Giêsu. Ơn cứu độ dồi dào như mạch suối trào tuôn từ chính vết thương ở cạnh sườn của Người. Chính từ vết thương này phát sinh Giáo Hội và các Bí tích. Hai ngàn năm nay, Đấng chịu khổ hình trên thập giá đã lôi kéo biết bao người ra khỏi tối tăm để đến với ánh sáng, ra khỏi tội lỗi để đạt tới sự thánh thiện, ra khỏi hận thù để thực thi đức yêu thương.
Khi nói về hạt lúa mục nát, Chúa Giêsu muốn nói về cái chết của chính mình. Người không bị tiêu diệt do sự chết. Trái lại, như hạt lúa chấp nhận mục nát rồi nảy mầm kết trái, Người cũng sẽ trỗi dậy từ nấm mồ để ban sự sống cho con người. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: sự chết của Chúa Giêsu mang ơn cứu độ cho loài người. Người đã chết để chúng ta được sống. Người đã trở nên nô lệ để chúng ta được tự do. Người đã dùng cây thập giá để cứu độ trần gian, xóa bỏ bản án nguyên tội. Thập giá vừa nói với ta về tình yêu Thiên Chúa, vừa dạy ta biết sống vì người khác để đem niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Như thế, triết lý “hạt lúa mục nát” được đề nghị cho tất cả những ai muốn cất bước theo Đức Giêsu. Sự hy sinh này, đối với một số người, đã trở nên điều nghịch lý:
-Sẵn sàng hy sinh mạng sống thì sẽ giữ được nó mãi mãi
-Khư khư giữ lấy nó, sẽ bị mất muôn đời.
Nếu hạt lúa vẫn nằm yên bất động sau khi được gieo xuống thì niềm trông đợi của bác nông phu sẽ trở nên vô vọng. Nếu thân xác Đức Giêsu vẫn cứ tồn tại trong nấm mồ, thì nhân vật Giêsu sẽ còn gì để nói với chúng ta. Chính trong hạt lúa mục nát mà ta thấy sự sống mới; chính nhờ ngôi mộ trống mà chúng ta thấy niềm hy vọng.
Hạt-Lúa-Giêsu đã mục nát để phục sinh và đâm bông kết trái. Hạt lúa ấy đã trở nên bánh ăn để nuôi dưỡng chúng ta.
Hình ảnh hạt lúa mì cũng chứa đựng giáo huấn của Chúa Giêsu về định mệnh con người. Thiên Chúa dựng nên con người để cho họ được sống và được hạnh phúc, chứ không phải để chấm dứt với nấm mộ cô đơn lạnh lẽo nơi đồng hoang. Dưới nhãn quan của người Kitô hữu, sự chết là một cửa ngõ để họ bước vào đời sau. Tuy vậy, hạnh phúc vĩnh cửu chỉ dành cho người công chính, tức là những ai mến Chúa yêu người.
Không phải đợi đến khi chết mời được hưởng hạnh phúc Chúa ban. Lời Chúa hôm nay như một lời hứa phục hồi ngay ngày hôm nay, trong cuộc sống hiện tại. Ý tưởng này được diễn tả trong bài đọc trích sách ngôn sứ Giêrêmia: “Mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”. Đây là những lời an ủi của Chúa đối với dân Do Thái trong bối cảnh gian nan và tuyệt vọng. Chúa hứa với họ sẽ giúp họ hồi sinh. Mặc dù trong bối cảnh tăm tối, Chúa sẽ ban cho họ một tương lai sán lạn huy hoàng.
Thời đại huy hoàng mà Chúa đã hứa qua lời ngôn sứ Giêrêmia đã được thực hiện khi Chúa giải phóng dân Người khỏi cảnh lưu đày. Nhưng đặc biệt hơn nữa, thời đại huy hoàng ấy, Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, qua cái chết và sự phục sinh của Người. Tác giả thư Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người”(Bài đọc II).
Huyền nhiệm sự sống mời gọi chúng ta nhận ra Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Huyền nhiệm ấy cũng nhắc nhớ chúng ta, hãy biến đổi mỗi ngày trong hành trình phụng sự Chúa, để sự sống siêu nhiên lớn dần trong cuộc đời trần gian. Để được như thế, con người cũ phải chấp nhận chết đi. Đó chính là thông điệp của giáo huấn qua hình ảnh hạt lúa mì.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Càng gần tới Tuần Thánh, chúng ta càng nghiệm ra sự đau khổ của Chúa.Cái chết của Chúa không làm cho chúng ta kinh hãi, chán nản hay tuyệt vọng.Nhưng sự đau khổ, tử nạn và phục sinh của Chúa giúp chúng ta hiểu sâu xa tình thương vô biên của Chúa. Cây Thập giá con người nghĩ ra, tạo ra để làm khổ nhục con người. Đối với Chúa, cây Thập giá lại mang một ý nghĩa thâm sâu, cao vời vì Chúa đã nói :” Khi nào Ta được nâng cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “. Chúa đã chấp nhận cái chết theo ý Thiên Chúa Cha để cứu độ con người, để mang lại hạnh phúc cho con người :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). “…Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác…” ( Ga 12, 24 ).
Bằng chính một lời mạc khải, Chúa Giêsu đã ví mình như hạt lúa mì phải được biến đổi.Chúa cho chúng ta biết, thân xác của Ngài phải chết đi, Ngài mới sống lại. Đây là sự biến đổi con người của Ngài. Sự đau khổ mà con người dồn vào Chúa Giêsu và cái chết trên Thập giá của Người nói lên sự sống mới, cuộc sáng tạo mới.Hạt lúa mì có mục nát mới sinh hoa quả tốt đẹp. Hình ảnh hạt lúa mì rất ấn tượng vì qua cái chết và sự phục sinh của Chúa đã mở ra cuộc sống vĩnh hằng cho những ai hiệp thông với Thiên Chúa. Giờ mà những người ngoại tới tìm gặp Chúa Giêsu để nhận biết Người và tôn vinh Người trên núi Sion, thờ phượng Người là Thiên Chúa duy nhất của Israen. Đức Giêsu đã nói đến giờ của Người. Giờ mà Người được tôn vinh. Đây là giờ tử nạn của Chúa Giêsu, giờ mà Người được giương cao trên Thập giá, có nghĩa là giờ Người chịu đóng đinh trên Thập giá để cứu rỗi nhân loại, cứu vớt con người. Giờ mà Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu cùng với ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacobê và Gioan, Chúa chịu cơn hấp hối : mồ hôi và máu chảy ra. Giờ mà các môn đệ vẫn ngủ vùi trong khi Chúa đang buồn phiền, chịu thử thách tột độ. Giờ mà Đức Giêsu thưa với Thiên Chúa Cha với tất cả lòng mình :” Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến “. Đức Giêsu đã cho mọi người hiểu rằng :” Sự đau khổ, cái chết và phục sinh của Ngài “ đưa nhân loại vào đời sống vĩnh cửu. Do đó, Chúa Giêsu đã chờ đợi giờ này để hiến mạng sống của mình và ban hạnh phúc, sự cứu rỗi, và sự sống mới cho nhân loại, cho con người, cho chúng ta.
Chúa đã nói cách dứt khoát, minh bạch, quả quyết :” Ai muốn theo Ngài, phải vác Thập giá của mình, mà theo Ngài “. Theo Ngài có nghĩa là chấp lối sống của Ngài, chấp nhận đi theo con đường của Ngài… Chúa Giêsu cũng đã dứt khoát tuyên bố :” Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ lại cho được sự sống đời đời “. Chúa nhấn mạnh điều này bởi vì ghét không có nghĩa ghét bỏ sự sống Chúa ban tặng cho con người, nhưng là ghét bỏ tội lỗi, tật xấu, những đam mê xấu xa, những trụy lạc, sự lầm đường lạc lối, những tội này sẽ khiến chúng ta xa Chúa.
Chúa cho chúng ta hay cuộc đời sẽ mau tàn, mau lụi giống như kiếp hoa phù du sớm nở, chiều tàn, giống như cây cỏ mau úa, mau tàn. Sống ở gian trần này, con người một mặt vì kiếp sinh nhai, kiếp sống, phải lao động cần cù, miệt mài sáng tạo để làm ra của ăn của để, để đấu tranh sinh tồn, nhưng mặt khác con người phải biết “ tìm kiếm Nước Thiên Chúa “ và phải biết lắng nghe Lời Chúa, thực thi những điều Chúa dạy bằng những việc tỏa sáng ở đời như làm những việc bác ái, từ thiện, biết quảng đại chia sẻ, biết bỏ ý riêng của mình để theo ý của Chúa như Mẹ Maria đã biết nói lời Xin Vâng làm theo lời Chúa…
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu thương mọi người, xin giúp chúng con biết chia sẻ, cho đi và xin dạy chúng con luôn biết mến yêu Thập giá vì chính Chúa đã chọn cây Thập giá để cứu chuộc loài người.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
- Tại sao Đức Giêsu lại lấy hình ảnh hạt lúa mì để ám chỉ Ngài ?
- Tại sao Chúa lại nói liều mình mất mạng sống vì Người thì giữ được mạng sống của mình ?
- Chúa Giêsu trải qua cuộc hấp hối ở đâu ?
- Tại sao các môn đệ thân tín : Phêrô, Giacôbê , Gioan lại ngủ khi Chúa Giêsu đang trong cơn hấp hối ?
- Đi theo Đức Giêsu phải làm gì ?
.
Lm. Jos. DĐH.
Cho dù vô tâm hay đức độ, người ta cũng không thể chối bỏ một sự thật: cây thẳng lên nhờ uốn, trẻ khôn lớn, nhờ chăm sóc, giáo dục. Con cái lớn khôn, thành đạt, hệ tại tình yêu thương gia đình hướng dẫn, đầu tư, nói văn hoa một chút gọi là trách nhiệm, là nghĩa vụ của đấng làm cha mẹ. Gia đình dòng tộc sẽ vui và hạnh phúc biết bao khi con cháu nên người hữu ích, dù các ngài có được đền ơn đáp nghĩa, hoặc con cháu từ chối, hất hủi, các ngài vẫn đến một điểm dừng: “sinh lão bệnh tử”. Khi bước vào yêu, không ai nghĩ tới chuyện “sẽ nắm đằng lưỡi hay nắm đằng chuôi”. Khi yêu chẳng ai tính toán hơn thiệt, dẫu là tình yêu huyết thống, hay tình yêu đôi lứa.
Theo truyền thống: uống nước nhớ nguồn, theo quy luật tự nhiên: làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu, theo tâm lý chung: ốm tha, già thải, ít nhiều gì chúng ta còn có khái niệm để cân nhắc. Xưa kia, hoặc hôm nay, theo thầy để học nghề mưu sinh, theo thầy với mơ ước: thầy làm quan, trò làm tướng, không mấy khó hiểu. Tuy nhiên theo Thầy, đến với Thầy, để nghe những lời lẽ hết sức trừu tượng: “đã đến giờ Con Người được tôn vinh, nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình….” ! Không những hụt hẫng, mà hầu hết người ta phải khựng lại trước ý định làm thần dân của Ngài.
Theo thầy sẽ phải vượt qua chặng đường nguy hiểm mà tới thành công, theo thầy nhất định phải có gian truân vất vả, theo thầy làm thợ, với hy vọng có ngày làm thầy. Đức Giêsu thật rõ ràng nhằm giúp các học trò hiểu, và tin rằng theo Thầy để biết về tình yêu của Cha Thầy, khác với việc theo Thầy để biết về tình yêu thế trần. Theo Thầy Giêsu không phải để tận hưởng địa vị danh vọng, được bổng lộc ở đời này, mà là được xếp vào hàng ngũ các môn đệ, được biến đổi nên giống Thầy, và cùng chia sẻ sứ mạng Cha Thầy uỷ thác. Theo Thầy là đi đằng sau Thầy lên Giêrusalem, là trung thành vác đau khổ thập giá một cách trọn vẹn trong tin yêu phó thác.
Muốn có một sức khoẻ tốt, người ta cần ăn uống ngủ nghỉ điều độ, muốn có bình an, đừng làm điều xấu, không nên xét đoán anh chị em mình. Muốn theo thầy, phải tin thầy, để thầy hướng dẫn, dù nguy nan, sóng gió, vẫn đang làm chúng ta sợ hãi. Quan niệm của cha ông chúng ta cho rằng: mạng sống hơn đống vàng. Chẳng ai lại lấy tiền của vật chất để so sánh với mạng sống của con người, tiền, vàng, là loài vô tri vô giác, sự sống con người, chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên bằng tình yêu. Chính vì theo Đức Giêsu, những người học trò đầy giới hạn hôm xưa mới được trải nghiệm, được chắc chắn hơn về tình yêu và ơn cứu độ hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Theo Thầy tiến bước, từng ngày lắng nghe Thầy chỉ dạy, và tình yêu đã cho các ông cảm nhận mưa lâu thấm đất, các ông không mềm yếu như “con chi chi”, không dại dột như “con thiêu thân”, các ông đã biết khôn ngoan theo Thầy là đi đằng sau Thầy. Sau khi cho các học trò biết: “đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Đức Giêsu rất thực tế bằng một hình ảnh thật sống động: “nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thôi đi, sẽ sinh nhiều bông hạt”. Ai theo Thầy Giêsu, người ấy thuộc về Đức Giêsu, có thực lòng tin yêu Thầy, thì phải gắn bó, kết hiệp với Thầy, Thầy ở đâu, trò cũng ở đó, như thế mới đáng là môn đệ, là quy luật yêu thương của tình thầy trò.
Theo Thầy Giêsu để kiếm tìm chức vị bổng lộc, chúng ta không có ý đó, theo Thầy, tin Thầy là Thiên Chúa cứu độ, chúng ta hằng tin như thế. Sống niềm tin theo Chúa là đi con đường nhỏ hẹp, đi con đường thập giá, sẽ dẫn đưa đến vinh quang, không hề dễ tí nào, và chúng ta thường cho rằng bị nhiều cám dỗ. Gặp Đức Giêsu con bác thợ mộc, nhìn, xem, thấy, Đức Giêsu làm phép lạ, nhiều người Do-thái đã có kinh nghiệm ấy, còn được gặp Đức Giêsu phục sinh thì đại đa số là không thấy ! Hẳn vì chúng ta chưa thực sự theo Thầy Giêsu, không ưa thích nhìn lên cây thập giá, sợ đi con đường chật hẹp, và rất ngại đi theo theo qui trình “hạt lúa mì phải thối đi, hư đi, mục nát đi”.
Sách có câu: bất hạnh khổ đau làm nên con người, giầu sang phú quý tạo nên quái vật. Có, không, mất, được, đâu phải chỉ là nghịch lý, đúng sai, xấu đẹp, khái niệm sang hèn, khổ đau, sung sướng, còn là dịp để người ta chọn lựa, sống lý tưởng gieo gì gặt nấy. Theo Thầy Giêsu không có nghĩa là theo Ngài đứng xa xa xem xét, cũng đâu phải theo Thầy là đóng đinh vào cây thập giá mới là theo. Theo Thầy Giêsu là đi theo qui trình tin yêu và sống tin yêu, là tin vào tình yêu của ông bà cha mẹ, là ý thức vâng theo sứ mạng Chúa Cha trao phó, là quá trình được tập luyện và biến đổi nên giống Thầy Giêsu. Nếu không có đau khổ thập giá, thì không có phục sinh vinh hiển, tin Thầy được đưa lên cao, thì kẻ sống niềm tin theo Thầy Giêsu cũng được Thầy kéo lên hưởng phúc đời đời. Amen.
.
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Cuộc đời đẹp không phải là ở người có nhiều tiền và biết xài tiền. Cuộc đời đẹp không hẳn là ở địa vị cao sang quyền quý. Cuộc đời đẹp là dù ở cương vị nào cũng hy sinh hết mình vì tha nhân. Cho dẫu có thể hy sinh tính mạng nhưng cuộc đời họ tựa như hạt lúa chịu mục nát cho đời những bông lúa vàng ươm.
Chuyện kể rằng có một người phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, người phụ nữ nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng. Vì người mẹ đã dùng hết quần áo để quấn cho đứa trẻ. Có lẽ bà chết vì vượt cạn một mình trong đêm lạnh lẽo. Người phụ nữ đem bé về và nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình.
Vào một ngày lễ Giáng sinh, đó là sinh nhật lần thứ 12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.
“Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả – bà mẹ nuôi nghĩ – cậu sẽ lạnh cóng!” Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết: “Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?” Và cậu bé oà khóc: “Mẹ lạnh lắm phải không?””
Cái chết của người mẹ là cái chết đẹp. Một cái chết trở thành bất tử như lời Chúa Giê-su từng nói: “kẻ nào giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai chịu từ bỏ cuối cùng sẽ được lại”. Chính Chúa Giê-su đã sống điều đó. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã trở nên bất diệt khi Ngài trở thành hạt lúa chịu nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông lúa. Ngài đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu.
Thực vậy, người vĩ đại trong cuộc đời chúng ta không phải là những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc mà là chính những người đang hy sinh vì chúng ta. Họ là những người cha “chân lấm tay bùn” đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt mài nơi công trường. Họ là những người mẹ đang lặn lội ngược xuôi nơi bến chợ, đang hao gầy vì đàn con. Họ là những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền để phụ giúp gia đình. Đó là những con người cao cả, là những hạt lúa miến đang chịu nghiền nát vì tha nhân để trở thành tấm bánh cho anh em. Đó là những con người dám quên đi niềm vui riêng của bản thân để lo cái lo của đồng loại, để sống có ích cho tha nhân.
Nhưng thật đáng tiếc! Ý niệm phục vụ tha nhân. Ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong thế giới hôm nay. Người ta đang lo cho bản thân. Người ta đang chạy theo danh lợi thú để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Có mấy ai dám quên mình để sống cho thân nhân? Có mấy ai chịu nghiền nát đời mình để đem lại niềm vui cho tha nhân?
Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn. Hãy hy sinh niềm vui cùng những đam mê sở thích của mình để đem lại hạnh phúc cho những người chúng ta yêu mến. Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của Adam. Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa là Đấng đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen
.
Anna Cỏ may
Cuộc đời mỗi người như ngọn nến lung linh. Có lúc nó sáng rực lên cao, có lúc một cơn gió nhẹ làm nó đu đưa, ngã nghiêng, heo hút và bất chợt dập tắt. Đâu ai biết trước sự ra đi của mình để chuẩn bị trước, ngoài một mình Thiên Chúa mà thôi. Có một chân lý mà chúng ta không ai thay đổi được đó là sinh-lão-bệnh-tử.
Qủa thực, cái chết xảy ra với mỗi người đều khác nhau và cũng chẳng có ai ngờ trước được. Có nhiều sự ra đi như do tại nạn, do bệnh tật… Và chết vì mình thì dễ hơn chết vì người khác. Chúa Giêsu thì ngược lại, Ngài đã thực hiện được điều ấy. Ngài luôn tràn đầy tình yêu và giàu lòng thương xót. Tình yêu của Ngài luôn thu hút mọi người chạy đến tìm Ngài. Lòng thương xót của Ngài thể hiện rõ nơi những người mù, kẻ què, người câm. Và chính Ngài cũng đã tự hủy, hy sinh, chịu chết để cứu độ nhân loại. Tuy nhiên, vì mang thân phận như con người, nên lúc gần vào cuộc đau khổ, cận kề cái chết, Ngài đã thốt lên “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy không biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27). Một tâm hồn, một cõi lòng đang nặng trịu, đau buồn và cô đơn, không biết nói gì hơn. Ngài cảm nhận mình đang ngồi trong một căn phòng tối không thể thoát ra, chỉ nhìn thấy ánh sáng qua nhiều khe cửa sổ. Có ai hiểu Ngài? Ngài chỉ biết kêu lên Chúa Cha. Và từ trời cao vọng xuống “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”(Ga 12,29). Dầu đang đau đớn và tủi nhục là vậy, nhưng tình yêu và sự vâng phục của Ngài đã vượt qua sự yếu đuối ấy. Ngài tiếp tục đi vào cuộc đau khổ và chịu chết để thực hiện tình yêu ban đầu của Ngài. Ngài đã tự nói “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”(Ga 12,32).
Cho đến hôm nay, những lo âu sợ hãi về cái chết vẫn là một hữu thực nhức nhối và đó là một chân lý thật. Không ai là không khỏi sợ cái chết đến với mình. Dù sợ nhưng nhiều khi chúng ta không biết sống làm sao hay không biết sống thế nào cho tốt? Vì lẽ đó, chúng ta luôn cần Thiên Chúa ban thần khí để soi sáng tâm hồn mỗi người chúng ta, giúp ta vượt thắng những sợ hãi yếu đuối của bản thân và sống thánh thiện mỗi ngày hơn.
Lạy Chúa, cho đến bây giờ Chúa vẫn còn đang chịu khổ đau và cô đơn vì chúng con. Chúa không ngừng kêu lên Chúa Cha tha thứ cho chúng con và cho chúng con có cơ hội sửa mình. Chúng con xin Chúa tiếp tục soi sáng cho mỗi người chúng con nhận biết, đón nhận và cộng tác với Chúa trong từng công việc hằng ngày. Nhất là biết chuẩn bị một tâm hồn sốt sắng để thông phần vào sự sống vinh quang của Chúa. “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người”(Rm 8,17). Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Người đời luôn muốn được tôn vinh. Mang trong mình khao khát khẳng định bản thân, không ít lần ta cũng mong chờ một lời khen ngợi từ người khác. Hôm nay, đọc đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan, hai chữ “tôn vinh” như chần chừ cứ đứng mãi trong tâm trí ta. Hai chữ ấy cứ cố tình lưu lại thật lâu, thật sâu để đụng vào cõi lòng ta.
Thời bấy giờ, Đức Giêsu rất nổi tiếng. Có nhiều người biết đến danh Giêsu nhưng chưa có dịp được gặp. Trong số những người đi dự lễ có mấy người Hy lạp cũng có ao ước ấy. Họ đến gặp ông Philipphê, một trong các môn đệ của Thầy Giêsu để xin được gặp Ngài. Tin Mừng kể lại “Philipphê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 22- 23). Thật lạ, hôm nay Thầy Giêsu nhắc đến hai chữ “tôn vinh”. Con Người sẽ được tôn vinh cách nào đây? Lắng nghe tiếp, Thầy Giêsu lại cho ta biết “Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12, 24 ). Đó là quy luật tự nhiên của hạt giống. Điều đó ta cũng đã quan sát được khi trực tiếp gieo giống và chăm sóc cây trồng. Những điều Thầy dạy ngay sau đó cũng khiến ta phải suy tư. Ta đang đi theo Thầy đó thôi, một con đường không ít những khó khăn nhưng cũng nhiều những hồng ân. “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó” (Ga 12, 25-26 ). Nhìn ngắm cuộc đời của Thầy Giêsu, ta thấy một cách thế sống rất ngược đời. Thầy là Thiên Chúa, là Vua Vũ Trụ nhưng đã xuống thế làm người, sống nghèo hèn, khiêm hạ. Cuộc đời của Thầy là những tháng ngày nối dài của yêu thương, tự hiến. Tình yêu của Thầy là tình yêu của phục vụ và yêu thương đến cùng. Ta khao khát được trở nên môn đệ của Thầy. Và đây là điều ta sẽ sống và trải nghiệm từng ngày. Ta muốn phụng sự Chúa và ta đã theo Chúa để rồi Chúa ở đâu ta cũng ở đó với Ngài. Ngước nhìn Thánh giá, ta nhìn thấy nơi ta cũng sẽ được treo cao khi biết thông phần đau khổ của đời mình vào mầu nhiệm tự hiến của Thầy. Chúa Giêsu đã được tôn vinh như thế và được tôn vinh đến cùng khi Ngài phục sinh. Chúa đã ghét sự sống như lời Chúa đã khẳng định và Chúa đi vào một sự sống tuyệt vời mà những ai kiên trung bước theo Thầy cũng sẽ được chung hưởng. Phục vụ như Thầy là cúi xuống rửa chân, là dùng chính Máu Thịt làm của ăn nuôi sống linh hồn những người Chúa yêu khi cuộc đời ta trở nên tấm bánh bẻ ra cho những người ta gặp gỡ.
Lạy Chúa! Thật lạ lùng thay khi con được làm môn đệ Chúa. Xin Chúa dạy con hướng về Trời cao để lắng nghe tiếng phán từ Trời, tiếng ấy phán ra là vì con. Chúa biết rõ khát khao của lòng con. Xin Chúa lôi kéo, thúc đẩy và hướng khao khát của con quy hướng về Chúa, đúng với hai chữ được “tôn vinh” mà Chúa đã trải nghiệm và sống trước cho con. Amen.
.
CHÍNH KHI HIẾN THÂN LÀ KHI NHẬN LÃNH
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi đã đi được nửa chặng đường của Mùa Chay Thánh (Chúa nhật IV) với lời mời gọi “Mừng Vui Lên“, và tiến bước sang chặng thứ hai, Giáo hội khuyến khích con cái mình tiếp tục tiến lên không ngừng nghỉ trên con đường ăn năn đền tội, cải đổi đời sống để chuẩn bị Lễ Phục Sinh. Việc đền tội này gia tăng niềm vui cho chúng ta khi tiến gần tới đích.
Bước vào Chúa nhật thứ V Mùa Chay, Giáo hội trình bầy cho chúng ta đoạn Tin Mừng (Ga 12, 22-30), giúp chúng ta chuẩn bị bước vào Tuần Thánh tốt hơn và sống một cách sâu xa những mầu nhiệm quan trọng trong đời sống người Kitô hữu. Đàng Thánh Giá đối với người tín hữu là con đường phải qua, chết là để sống lại và hơn nữa để sống trọn vẹn đời sống người Kitô hữu, chúng ta phải chết.
Một phần đầu của đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ : “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12, 24). Trong hình ảnh này chúng ta tìm thấy một khía cạnh khác nữa của Thập Giá Chúa Kitô. Thật vậy, cái chết của Chúa Giêsu là một nguồn suối vô tận của sự sống mới, bởi vì nó mang theo trong chính nó sức mạnh tái sinh của tình yêu thương của Thiên Chúa. Ðược dìm mình trong tình yêu đó qua bí tích Rửa Tội, kitô hữu có thể trở thành “các hạt lúa” và đem lại nhiều bông hạt, nếu họ “liều mất sự sống mình” vì yêu thương Thiên Chúa và các anh chị em khác như Chúa Giêsu (Ga 12, 25).
Khi chú giải đoạn Tin Mừng này thánh Augustinô đã giải thích như sau : “Chúa Giêsu tự ví mình là “hạt lúa mì” được gieo vào lòng đất chịu mục nát đi để sinh nhiều bông hạt ; Người được Chúa Cha sai xuống trần gian phải được hiến tế vì sự bất trung của người Do thái ngõ hầu đức tin của cả nhân loại được triển nở”. Bánh Thánh, được làm nên bởi muôn hạt lúa miến, được nhân lên và bẻ ra để trở nên tấm bánh cho mọi người. Của chết của các vị tử đạo luôn làm nảy sinh những người tín hữu ; vì thế mới có cái ngược đời là, “ai yêu mạng sống mình” thì sẽ mất. Chúa Kitô chết để trao ban thịt máu mình cho chúng ta : phần chúng ta, chúng ta cũng phải bắt chước Chúa trao bán chính mình để được sống lại với Chúa và cùng với Chúa, trao ban quả phúc. Có biết bao người sống trong thinh lặng để mưu cầu lợi ích cho anh em ? Từ sự thinh lặng và khiêm nhường ấy chúng ta học được bài học trở nên hạt lúa mì mục nát đi để lấy lại sự sống.
Phần kết của đoàn Tin Mừng hôm nay là một lời khuyên chúng ta tiến bước trong ánh sáng của Con Thiên Chúa trên toàn cõi địa cầu : “ … phần Ta, khi nào Ta chịu đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (Ga 12, 32). Chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa là Cha nhân lành xua tan bóng tối ra khỏi lòng chúng ta. Chúa Giêsu nói : “Ðã đến giờ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23). Chúng ta tự hỏi : Giờ đó là giờ nào ? Thưa, đây là giờ của Thập Giá! Ðó cũng là giờ bại trận của Satan, ông hoàng của sự dữ, giờ chiến thắng vĩnh viễn của tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa. Chúa Kitô tuyên bố rằng “Người sẽ được nâng cao khỏi đất” (Ga 12, 32), đây là một kiểu diễn tả có hai nghĩa: “được nâng cao” bởi vì bị đóng đinh, và “được nâng cao” bởi vì được Thiên Chúa Cha tán dương trong việc Sống Lại, để lôi kéo tất cả mọi người đến với Người và hòa giải con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Giờ của Thập Giá, giờ đen tối nhất lịch sử, cũng là suối nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tin vào Người. Đây là giờ của Thiên Chúa, giờ phút được trao ban cho chúng ta, chúng ta đừng bỏ qua ! “Các con còn ngủ ư ?” chúng ta không thể thôi là ánh sáng thế gian này. Khi mặt trăng phản chiếu ánh sáng mặt trời, chúng ta phải phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa.
Thật vậy, chính từ trên thập giá mà Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho thế gian biết tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại đang cần ơn cứu rỗi. Thiên Chúa là Chúa duy nhất của chúng ta, chúng ta là dân Ngài. Giao ước tình yêu bền vững giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được thực hiện cách trọn vẹn trong hy tế Vượt Qua của Chúa Kitô.
Nhờ tham dự vào Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Kitô, mà chúng ta có thể sống sự phong phú của hạt giống gieo xuống đất, và được Chúa đón nhận vào trong Vương Quốc trên trời. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chu toàn sứ mệnh Cha trao,
Giê-su Cứu Thế, bước vào chông gai.
Hy sinh dâng hiến ngày mai,
Nhục hình chịu chết, mở khai Nước Trời.
Con Người dấn bước vào đời,
Chôn vùi sự sống, rạng ngời phục sinh.
Hạt mì gieo xuống lặng thinh,
Nẩy mầm sinh hạt, muôn hình đổi thay.
Ai yêu sự sống hôm nay,
Ngày mai sẽ mất, đời này đời sau.
Tâm hồn xao xuyến đớn đau,
Xin vâng chén đắng, sẽ mau tới gần.
Xin Cha cất khỏi tội trần,
Chu toàn thánh ý, chịu phần gian lao.
Vinh danh Chúa cả trên cao,
Muôn lời chúc tụng, tuôn trào thánh ân.
Chúa Giêsu ví mình như hạt miến được chôn vùi xuống đất và thối đi để sinh nhiều bông hạt. Một hình ảnh rất sống động trong cuộc sống. Chúng ta có thể quan sát mọi loại hạt giống, nếu muốn được lưu truyền, hạt giống cần được gieo trồng, chôn vùi và tan rữa để trở thành mầm cây mới. Sự sống con người cũng thế, cần vượt qua sự chết, linh hồn mới thanh thoát trong sự sống mới vĩnh cửu.
Trong những ngày cuối của hành trình rao giảng, Chúa Giêsu cảm thấy xao xuyến. Hướng đến những ngày sắp tới Chúa phải đối diện với khổ đau và sự chết. Chúa đã vén mở mục đích của mầu nhiệm nhập thể. Chúa đến để làm vinh danh Chúa Cha. Chúa sẽ hiến dâng mình làm của lễ hy sinh đền tội trên thánh giá và từ đó Chúa sẽ kéo mọi người lên cùng Chúa.
Chúa đến để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu chấp nhận thân phận một người tôi tớ. Như tiên tri Isaia đã nói về người tôi tớ: “Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết, như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi.” (Is. 52,7). Đây chính là hình ảnh Chúa Giêsu khi bị điệu đến trước quan tòa. Chúa âm thầm chịu đựng từng giây phút khổ đau trong sự khinh bỉ và chế nhạo.
Con đường cứu độ là con đường của thập giá. Cuộc sống của chúng ta phải chịu hao mòn, chịu thiệt thòi và chịu tan biến trong tình yêu. Chúa phán: “Không có tình yêu nào cao trọng hơn tình yêu của kẻ dám thí mình vì bạn hữu”. Chúa hiến thân vì yêu. Vì yêu, Chúa muốn chúng ta cùng được chia xẻ hạnh phúc với Ngài trong Nhà Cha.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, cao điểm của các nghi lễ phụng vụ. Mầu Nhiệm cứu độ sẽ được lập lại qua việc cử hành tưởng niệm Chúa chịu đau khổ, chịu chết và sống lại vinh quang. Chúng ta hãy suy niệm về mầu nhiệm tình yêu cao cả. Hãy thả mình trong biển tình yêu để gẫm suy về lòng thương xót của Chúa. Lạy Chúa, xin giúp còn ngước nhìn lên thánh giá. Chúa đang mời gọi: “Hãy đến với Ta hỡi những ai gồng gánh nặng nề, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho.”(Mt.11,28).
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Con đường Chúa Giêsu đã đi qua là con đường hạt lúa: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái” (Ga 12,23-24).
Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng. Hạt lúa mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương lai.
Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn lượn theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn hạt lúa đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát.
- Con đường hạt lúa Giêsu.
Từ khi nhập thể, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm tự huỷ: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế“. Như hạt lúa bị mục nát: “Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự“. Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên, đơm bông sinh hạt: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,6-11).
Phúc Âm Marcô viết: “Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói, Người phải chịu nhiều đau khổ. Phải có nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ cho Chúa là những người có địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức, chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân.
Con đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể chấp nhận. “Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,32-33). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau thương tơi tả. Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú.
Con đường Chúa đi thật quá hãi hùng: “Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi Giêrusalem…Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại” (Mc 10,32-34). Con đường mở mang Nước Trời sao quá khổ đau, bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa Giêsu đã đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống vinh quang.
- Con đường hạt lúa các môn đệ.
Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên con đường Chúa đã đi “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34). Thánh Phaolô kể về con đường đi của người môn đệ: “Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (CV 20,22-24). Người môn đệ của Chúa coi vinh dự là “đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin mừng. Trải qua tiến trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió trên cánh đồng truyền giáo mênh mông.
Xuyên suốt dòng lịch sử Giáo hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để Giáo hội lớn mạnh không ngừng “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”. Từng thế hệ chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các nền văn hoá, và đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng, mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.
- Con đường hạt lúa chúng ta hôm nay.
Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay như thánh Phaolô và các tông đồ là những con đường kiễu mẫu cho chúng ta đi theo.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Muốn sống một cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt lành, ta phải chết đi cho bản thân mình. Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả dối hận thù ghen ghét. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những gì đưa đến sa ngã.
Hạt lúa nào cố tự bảo vệ sự nguyên vẹn của mình thì nó sẽ dần dần bị hư mốc, rốt cuộc chẳng còn gì; còn hạt lúa nào chấp nhận bị phân huỷ dưới bùn đất thì sẽ đâm mầm, mọc thành cây, nở thành bụi và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào: từ một hạt sẽ biến thành trăm hạt khác. Định luật căn bản của sự sống là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Chết vì tình thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin là những cái chết làm trổ sinh muôn ngàn nét đẹp cho đời.
- Hạt lúa âm thầm và hạt lúa mục nát
Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương con người mọi nơi và mọi thời. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Chúa trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Chúa Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: “Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này” (Ga.12,27).
Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá, thì “Hạt lúa phải mục nát đi” (x. Ga 12,24) là con đường gian truân vất vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.
.
MỤC NÁT ĐI ĐỂ TRỔ SINH DỒI DÀO BÔNG HẠT
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển
Theo quy luật tự nhiên, chúng ta thấy cỏ cây ngoài đồng được mọc lên là nhờ vào những hạt giống đã chấp nhận bị chôn vùi, mục nát, để trổ sinh những cây non khác.
Theo quy luật sinh tồn của loài người cũng vậy! Cuộc sống của người này phụ thuộc vào người kia, nhất là sự sống của con cái phụ thuộc và sự sống và hy sinh của cha mẹ.
Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, con người có được sự sống thần linh, ấy là nhờ vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu. Ngài đã chấp nhận trở nên như hạt giống gieo vào lòng đất, để mục nát, để sinh ra và để nuôi sống chúng ta.
Như vậy, nếu hành trình của Đức Giêsu trên trần gian là hành trình mục nát của hạt lúa gieo vào lòng đất, thì với các môn đệ cũng như với tất cả chúng ta, những người mang danh của Ngài, chắc chắn không còn con đường nào khác để được hạnh phúc và sự sống đời đời mà không đi qua con đường của hạt lúa!
- Con đường tự hủy của Đức Giêsu
Thiên Chúa yêu thương nhân loại vô bờ, nên đã cống hiến “hạt giống Giêsu” cho loài người. Vì muốn làm đẹp lòng Chúa Cha, nên ngay từ giây phút đầu tiên trong thân phận hạt lúa, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn vai trò của mình, khi “… không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”. Và: “Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x. Pl 2, 6-8).
Thật vậy, con đường của Đức Giêsu đi là con đường tự hủy dẫn đến cái chết tức tưởi trên thập giá. Vì thế, việc hạ mình của Ngài đã làm cho rất nhiều người không thể hiểu được, nên đôi khi lại trở thành trò cười cho thiên hạ, thành sự thất vọng cho các môn đệ.
Chính vì Đức Giêsu lội ngược dòng như vậy, nên Phêrô đã không thể chấp nhận thầy của mình phải chịu như thế, nên khi được nghe loan báo về cuộc khổ nạn qua con đường khổ giá, ông đã mạnh mẽ lên tiếng can ngăn để Thầy khỏi bị những điều đó! (x. Mt 16, 22).
Nhưng Đức Giêsu đã nhất quyết vâng phục Thiên Chúa Cha để đi trọn vẹn con đường của hạt lúa trong thân phận tự hủy mà Cha của Ngài đã muốn Ngài phải đi. Chính vì điều đó, nên đến “Giờ” của Ngài: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,9-11).
2. Con đường tiếp bước của các môn đệ
Cùng một con đường như Thầy đã đi, các môn đệ là những người sẽ tiếp bước trên con đường ấy. Vì thế, nơi các ông không thể có một con đường nào khác để thay thế con đường tự hủy trong thân phận hạt giống mục nát.
Quả thật, Đức Giêsu đã nói với các ông: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34).
Như vậy, đi theo Chúa là đi trên con đường khổ giá, con đường của hy sinh, con đường dẫn đến cái chết. Tất cả những điều đó đang rộng mở để đón chờ người môn đệ của Thầy Giêsu bước tới. Điều này đã được thánh Phaolô cảm nghiệm và chia sẻ, ngài nói: “Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,22-24).
Quả đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ” (Mt 10, 24). Vì thế, người môn đệ chân chính chắc chắn phải là người phác họa lại hình ảnh, lối sống và hành vi của Thầy mình cách rõ nét hơn bao giờ hết! Thế nên, với người môn sinh, không có gì vinh dự và hãnh diện cho bằng: “Được thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11).
Khi nắm được quy luật tất yếu: “Phải qua đau khổ mới vào trong vinh quang” (x. Lc 24,26), các môn đệ đã trung thành đi đến cùng con đường khổ giá bằng việc lấy chính mạng sống của mình để làm chứng cho Đức Giêsu. Tuy nhiên, không chỉ riêng các môn đệ, mà trải qua suốt dòng lịch sử, thời điểm nào cũng vẫn có người tiếp bước trên con đường tự hủy của hạt lúa mì, đó là chấp nhận từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục và chấp nhận cái chết để đổi lấy sự sống đời đời.
3. Con đường dấn thân của mỗi chúng ta
Người ta vẫn thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, tức là chúng ta mang trong mình đặc tính, hình ảnh của Đức Giêsu và thuộc về Ngài hoàn toàn.
Nếu Đức Giêsu đã đi qua con đường vâng phục, đón nhận khổ giá và chấp nhận cái chết để cứu chuộc con người. Thì đến lượt chúng ta, có lẽ không con đường nào có thể đem lại cho mình sự sống đời đời ngoài con đường khổ giá và hy sinh. Vì thế, cùng một lời mời gọi cho các môn đệ khi xưa, hôm nay Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34).
Lời mời gọi này đã đưa chúng ta vào con đường của Đức Giêsu đã đi. Vì thế, chúng ta sẵn sàng mục nát đi cho ý riêng, để thay vào đó là hoa trái của đức vâng phục. Mục nát đi tính tự kiêu, tự phụ, khoe khoang, thích được ăn trên ngồi trước, được mọi người trọng vọng, để thay vào đó là hoa trái của lòng khiêm nhường. Mục nát đi sự dửng dưng, vô cảm để thay vào đó là sự liên đới, tình huynh đệ. Mục nát đi tính ích kỷ, óc bè phái để thay vào đó là hoa trái của lòng bao dung, quảng đại, yêu thương, thứ tha và hiệp nhất. Mục nát đi sự giả dối, gian tham, lọc lừa, để thay vào đó là hoa trái của sự thật thà, liêm chính. Mục nát đi thái độ được phục vụ, để thay vào đó là tinh thần hiến thân phục vụ mọi người. Mục nát đi những trào lưu tục hóa, dục vọng, để thay vào đó là hoa trái của sự thánh thiện. Và, mục nát đi những “chân lý nửa vời”, những hành vi tôn thờ ngẫu tượng, để thay vào đó là lòng khát khao đi tìm chân lý trọn vẹn là chính Chúa và tin tưởng tuyệt đối ở nơi Ngài….
Như vậy, khi chúng ta chấp nhận đi trên con đường của Đức Giêsu trong thân phận của hạt lúa, chắc chắn cuối con đường ấy, chúng ta sẽ gặp được niềm vui, bình an và hạnh phúc, nhất là được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn giúp sức cho chúng con, để chúng con can đảm, trung thành đi đến cùng con đường mà chính Chúa đã đi khi xưa, ngõ hầu chúng con được hạnh phúc bất diệt trong ngày mùa sau hết. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_B
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
nghĩa về sự vinh quang của Người về cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Người để cứu độ nhân loại.
Đức Giêsu đã nói đến giờ của Người: “Đã đễn giờ Con Người được tôn vinh” . Giờ là chủ đề lớn trong tin mừng Gioan. Giờ mà Đức Giêsu chịu chết trên thập giá là lúc Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, tội lỗi, sự chết, chính là lúc Chúa Giêsu được tôn vinh là Đấng Cứu độ duy nhất: “Khi nào Tôi bị treo lên. Tôi sẽ kéo mọi người lên cùng Tôi… Các ông sẽ biết Ta hằng hữu”. Giờ của Đức Giêsu cũng là giờ mà Chúa được phục sinh từ cõi chết. Chính lúc Chúa tắt thở là lúc mà mọi người tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ. Viên sĩ quan đâm cạnh sườn Chúa đã đấm ngực va tuyên xưng: “Ông này quả thực là Thiên Chúa”. Tên trộm bên hữu Chúa cũng tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu: Khi Ngài vào Nước của Ngài xin nhớ đến con”. Nhiều người chứng kiến Chúa chết trên thập giáhôm ấy cũng tuyên xưng rằng: “Ông Giêsu là Thiên Chúa thật”.
Như thế giờ của Chúa là giờ thứ sáu tuần thánh và cũng là giờ của ngày Chúa nhật Phục sinh.
Muốn được phục sinh với Chúa trong vinh quang, chúng ta cũng phải sống giờ của mình như Đức Giêsu Kitô: Hy sinh, quên mình, chết đi với những tính hư nết xấu, chết đi cho tội lỗi, kiêu căng, bất công… để được sống lại hưởng hạnh phúc muôn đời. Vinh quang luôn luôn phải trả giá rất đắt!
Đức Giêsu minh họa cuộc đời của Ngài như“hạt lúa gieo vào lòng đất phải mục nát đi, mới sinh nhiều bông hạt”. Để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu cũng phải chết đi để bước vào cõi sống muôn đời, phải chết đi mới được phục sinh. Như thế con đường thập giá, con đường tử nạn là con đường dẫn đến sự phục sinh. Trong sự chết đã ẩn tàng sự sống. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. chính Chúa Giêsu đã đưa ra nghịch lý của cuộc đời: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất. Ai ghét sự sống mình ở đời này, thì giữ được nó cho sự sống đời đời”. Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta: Ai muốn theo Chúa thì không có đường nào khác ngoài con đường Chúa đã đi: con đường thập giá. Vì thế ai theo Người trên con đường khổ giá thì sẽ được vinh quang với Người.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ giá trị của Thập giá, của đau khổ. Con đường thập giá là con đường vinh quang. Ý nghĩa này giúp ta sống tinh thần tuần thánh, đồng thời thúc đẩy chúng ta vui nhận thập giá trong đời như cơ hội đền tội và lãnh nhận phần thưởng Chúa ban.
Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô cũng là sự từ bỏ, hy sinh và hoàn thiện của đời sống Kitô hữu. Cũng như Chúa Giêsu, người Kitô hữu đều được kêu mời trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất để được kêu gọi tham gia vào việc cứu rỗi tha nhân qua việc kết hợp với Chúa Kitô.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_B.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
Lời Chúa chúng ta vừa nghe mở ra cho chúng ta những viễn tượng hết sức mới mẻ về ý nghĩa và giá trị có liên quan đến việc chịu nạn chịu chết của Chúa Giêsu sắp tới và về những đòi hỏi Chúa muốn những ai đi theo Chúa phải chấp nhận.
1. Có thể nói khi bộc lộ những lời rất chân thành còn được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang hướng về cái chết sắp tới mà Ngài phải chịu.
Ngài sẽ phải chết nhưng cái chết của Ngài sẽ đem lại cái gì cho nhân loại?
Thông thường chúng ta thấy chết là chấm hết mọi sự.
Còn đối với Chúa cái chết không những không chấm dứt mà còn đưa cuộc đời của Ngài lên một tầm cao mới. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !” (Ga 12,23).
“Giờ” ở đây không phải là một khoảnh khắc chiếm một chỗ xác định rõ ràng trong dòng thời gian, mà là một thời điểm vô cùng quan trọng. Nó đánh dấu sự khởi đầu một thời đại mới sẽ kéo dài đến mãi mãi.
“Giờ” ở đây chính là lúc Đức Giêsu bước lên Thập giá. Khi đó mọi trục trặc vướng víu trong liên hệ giữa loài người với Thiên Chúa được tháo gỡ hết, tương giao giữa loài người với Thiên Chúa sẽ được thông suốt, nhờ thế tình thương và sức sống dồi dào của Thiên Chúa sẽ được chuyển thông dào dạt cho loài người.
Như vậy chết đối với Chúa chính là lúc được tôn vinh và Chúa còn cho cả con người được tôn vinh với Chúa “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12,32).
Chúng ta tìm được bài học nào ở đây?
Tôi tưởng bài học quí giá nhất mà chúng ta học được từ Chúa ở trong hoàn cảnh này là biết nhìn ra những giá trị nơi những cái mà người đời coi thường. Khi đối diện với cây Thập Giá, người đời cho đó là một hình phạt đáng nguyền rủa nhưng Chúa Giêsu đã nhìn nó như một phương tiện mang lại ơn cứu rỗi.
Có một chàng trai sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Để kiếm tiền nuôi sống gia đình, chàng trai phải bỏ học để đi bán bàn chải đánh răng với số tiền lãi ít ỏi. Bạn thử nghĩ xem, một chiếc bàn chải đánh răng chỉ lãi được một hào, thì một tháng chàng trai phải bán gần 10 nghìn chiếc bàn chải mới đủ tiền nuôi sống gia đình. Nhưng chàng trai vẫn cần mẫn làm công việc này. Trong vòng ba năm, chàng trai bán được gần 100 nghìn chiếc bàn chải. Có lẽ số tiền chàng trai kiếm được không phải là nhiều, nhưng chàng trai học được vốn kinh nghiệm quý báu trong bán hàng.
Không lâu sau, chàng trai lập nghiệp với số vốn vỏn vẹn có 3000 đô la. Bắt đầu bằng cách hợp tác với người khác, lợi dụng thương hiệu của người khác. Sau đó, dựa vào tài năng của bản thân, chàng trai tự sản xuất và tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, hơn nữa còn liên tục mở rộng mạng lưới tiêu thụ. Trong vòng thời gian 5 năm ngắn ngủi, anh đã tiêu thụ sản phẩm của công ty mình ở hơn 20 quốc gia, và trở thành một tỷ phú.
Người đàn ông này chính là ông vua bàn chải đánh răng của nước Mỹ James. Chính nhờ ba năm kiên trì công việc tiếp thị bàn chải đánh răng, hiểu biết cặn kẽ các khâu khác nhau từ sản xuất đến tiêu thụ, đồng thời kiên định niềm tin thể hiện tài năng trong lĩnh vực này, mà cuối cùng ông đã thành công.
Trong cuộc sống đôi khi một điểm yếu của ai đó lại trở thành điểm mạnh vững chãi nhất của họ. Có ưu điểm là một điều tốt nhưng nếu có thể biến khuyết điểm thành lợi thế lại càng là một điều kỳ diệu hơn. Chúa Giêsu đã biết biến thất bại của cây Thập Giá thành chiến thắng vinh quang. Ngài đã nhìn thấy ở nơi cây Thập Giá ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha và Ngài đã đón nhận cây Thập Giá với tất cả tấm lòng của người con thảo để từ đó Ngài mở ra cho Thiên Chúa Cha một dân tộc mới, dân tộc được cứu rỗi.
- Những đòi hỏi Chúa muốn những ai đi theo Chúa phải chấp nhận.
Đây là Lời của Chúa: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25-26).Phải coi thường mạng sống của mình, phải mất mạng sống của mình thì mới giữ lại cho mình sự sống đời đời. Đó là qui luật. Đó là ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày xưa tại trung tâm của một thành phố nọ có một bức tượng được người dân gọi là hoàng tử vui vẻ. Bức tượng điêu khắc này đứng sừng sững trên một trụ đá cao. Toàn thân bức tượng đều được dát bằng những chiếc lá vàng. Đôi mắt của chàng được làm từ đá ngọc bích phát sáng và trên thanh kiếm của chàng người ta thấy có một viên đá hồng ngọc. Người ta đã dùng chì để làm cho chàng một quả tim.
Là Hoàng Tử Vui vẻ nhưng giờ thì hoàng tử cảm thấy mình chẳng vui tí nào, vì chàng đang đứng trên trụ cao của thành phố và nhìn thấy mọi nỗi buồn vui, khổ sở của người dân.
Vào một đêm nọ, có một con Chim én bay đến đậu dưới vai Hoàng tử vui vẻ. Hoàng tử nói với nó, mình rất muốn giúp đỡ những người nghèo, nhưng lại không thể giúp được. Chim én nhỏ cảm động bởi tấm chân tình của Hoàng tử nên nhận lời giúp chàng. Do đó, Chim én nhỏ lấy hòn đá hồng ngọc từ thanh kiếm của Hoàng tử ra, tặng cho một người thợ may nghèo khổ, để bà ấy có tiền mua cam cho đứa con gái đang bị bệnh.
Chim én nhỏ lại lấy một viên ngọc bích ở một mắt của hoàng tử tặng cho một nhà văn nghèo để anh ta có đủ tiền hoàn thành tác phẩm của mình. Rồi một hôm, có cô bé nghèo khổ bán diêm trên đường, vì không cẩn thận cô đã làm rơi hết diêm xuống rãnh nước bẩn, vì thế cô bé buồn bã khóc òa lên. Thấy vậy, Chim én nhỏ lại lấy một viên ngọc bích ở mắt còn lại của Hoàng tử tặng cho cô bé bán diêm. Hoàng tử không còn ngọc bích nữa nên đã bị mù.
Rồi sau đó, Chim én lại lấy từng chiếc là vàng trên người hoàng tử tặng cho những người nghèo khổ.
Mùa đông đến rồi, những người dân nghèo khổ vì được Hoàng tử vui vẻ giúp đỡ nên đã có một năm mới thật vui vẻ. Buổi tối đêm giao thừa, Chim én nhỏ đã chết cóng dưới chân Hoàng tử. Khi Chim én nhỏ chết, tượng điêu khắc của hoàng tử cũng sụp đổ, trái tim bằng chì cũng vỡ nát.
Buổi sáng hôm sau, thị trưởng thành phố và các quan chức đến quảng trường, phát hiện bức tượng điêu khắc hoàng tử đã bị vỡ vụn, do đó họ quyết định vứt tượng điêu khắc đó đi, để khỏi làm ảnh hưởng đến cảnh quan thành phố. Và như thế, từng mảnh vụn của pho tượng điêu khắc, cùng với trái tim chì và xác Chim én nhỏ đều bị vứt vào đống rác. Thế là chấm dứt tất cả. Không còn ai biết đến hoàng tử Vui vẻ cà con Chim én nữa.
Thế nhưng từ trời cao Thượng Đế đã nhìn thấy tất cả. Để ân thưởng cho tấm lòng tốt của Hoàng Tử và sự hy sinh của con chim én, Thượng đế đã sai sứ thần đến thành phố này, ra lệnh cho sứ thần đem xác con Chim én và trái tim bằng chì của Hoàng Tử Vui vẻ về cho Ngài. Từ cái xác chết đó Thượng đế đã trả lại sự sống cho Chim én và cho Chim én được mãi mãi hát ca trong vườn hoa trên thiên đường. Còn Hoàng tử thì Thượng đế phục hồi lại sự sống và sau đó thì được sống vui vẻ trong lâu đài bằng vàng Thượng đế.
Thầy bảo thật anh em: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25-26)
.
Lm. Giuse Phạm Quốc Phong
“Hạt lúa mì gieo vào lòng đất, nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác” (Ga 12,24)
Có mấy người hilạp đến gặp Philiphe để xin gặp Chúa Giesu, vì họ muốn đi gặp để biết thật sự Chúa Giesu là ai, theo như những lời đồn đại của người ta. Có lẽ họ mong đợi sẽ được gặp một người vĩ đại, một nhà triết gia khôn ngoan, có thể chia sẻ với họ về những tư tưởng lớn lao. Nhưng ngược lại, họ lại tìm thấy một người Giesu đang đau khổ, bối rối và sợ hãi: “Bây giờ tâm hồn thầy xao xuyến, thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12,27). Chúng ta cũng là những người đang đi tìm Thiên Chúa, đi tìm chân lý và ý nghĩa cho cuộc đời mình, liệu rằng chúng ta có bị bất ngờ và thất vọng không, khi Thiên Chúa mà chúng ta muốn tìm kiếm, không phải là một nhân vật vĩ đại, nổi tiếng, hay một nhà triết học, một nhà tư tưởng lừng danh, hay là một người giàu có, danh giá, mà Ngài lại ẩn mình trong những người bé nhỏ và nghèo hèn nhất của xã hội, những người bệnh tật, những người bị bỏ rơi, … và có thể đã có những lúc chính chúng ta không thèm nhìn, không tiếp nhận và thậm chí xua đuổi Ngài ra khỏi cuộc đời của chúng ta.
Nhưng có lẽ chúng ta lại bất ngờ và thất vọng hơn nữa, khi chúng ta nhận được câu trả lời từ chính Chúa Giêsu cho các người hilap khi xưa và cũng là cho chúng ta hôm nay: “nếu các ngươi muốn hiểu Thầy, hãy nhìn hạt lúa mì kia, nếu các ngươi muốn nhìn thấy Thầy, hãy chiêm ngắm thập giá”. Ngài nói với mỗi người chúng ta: “Các con muốn hạnh phúc ư, hãy vác thập giá như Thầy đã vác”. Con đường mà Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta, cũng chính là con đường thập giá mà chính Ngài đã đi trọn vẹn, dường như đối với chúng ta trong thế kỷ này, hơi bị mâu thuẫn và khó chấp nhận được. Vì sao vậy? thưa là bởi vì, thế giới mà chúng ta hay thường gọi là “thế gian” đang giới thiệu và hứa hẹn với chúng ta một con đường “kiếm hạnh phúc” khác hẳn. Đó là một con đường “tự do tuyệt đối” do con người làm chủ nhân độc quyền, một “khoa học kỹ thuật đỉnh cao” có khả năng chinh phục và điều khiểnvũ trụ, một “tiến bộ vượt bậc của ngành y học và sinh học”, một cuộc sống “hưởng thụ mọi nhu cầu”, … thế gian đang chào mời và hấp dẫn chúng ta bằng cách tạo ra nhiều “nhu cầu” và bảo đảm với chúng ta rằng, chúng ta sẽ hạnh phúc khi được thỏa mãn các nhu cầu đó. Và chúng ta ít nhiều bị ảnh hưởng bởi sự hấp dẫn của nó, và nhiều người trong chính gia đình chúng ta, trong giáo xứ chúng ta đang đi theo “lý thuyết” này. Nhưng tiếc thay cho đến bây giờ, lý thuyết này đang mất dần đi hiệu lực và sức mạnh của nó, vì những sự dữ đang hoành hành thế giới với sức phá hoại không tưởng nổi.
Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào một con đường hoàn toàn khác hẳn, có vẻ đi ngược lại các xu hướng tự nhiên của con người. Nhà thần học gia nổi tiếng Karl Rahner có nói: “để biết được Thiên Chúa là ai, chỉ bằng cách là tôi phải qui gối xuống chân thánh giá”. Chính Chúa Giêsu đã đi vào trong con đường này, và Ngài mời gọi mỗi người chúng ta, nếu muốn hạnh phúc, hãy đi theo Ngài vào đó. Chúa Giesu là một hạt lúa mì, chết đi và sinh nhiều hạt mới, bước vào con đường thập giá và đã phục sinh, Ngài đã dùng cái chết của Ngài để tiêu diệt sự chết và tôn vinh Tình Yêu bất diệt mà Thiên Chúa dành cho con người.
Không có con đường rộng nào dẫn đến thiên đàng đâu, mà chỉ có con đường hẹp mới dẫn đên Nước Trời thôi. Vấn đề là chúng ta có dám đi vào con đường hẹp không, để được hạnh phúc với sự giúp sức và đảm bảo sẽ chiến thắng của chính Chúa Giesu và Giáo hội của Ngài. Con đường này chính là con đường “tình yêu” đích thật, không phải thứ tình yêu “tôn thờ cảm xúc” như một bộ phận lớn giới trẻ đang quan niệm và tìm kiếm. Một tình yêu dẫn dắt chúng ta đến tìm gặp Đấng là Nguồn Mạch của Tình yêu, để rồi tìm gặp được chính chúng ta trong mầu nhiệm tình yêu đó, với tư cách là “con Thiên Chúa” và chúng ta sung sướng gọi Thiên Chúa “Abba, Cha ơi, Bố ơi”. Một tình yêu đưa chúng ta đến gặp một Thiên Chúa Tha Thứ, một người Cha nhân hậu không bao giờ trách tội con mình, nhưng là tha thứ luôn luôn và quên hết mọi lỗi lầm của chúng ta.Một tình yêu mang chúng ta đi vào một Thiên Chúa của giao ước và trung thành cho đến cùng, Ngài đã yêu chúng ta và Ngài đã yêu chúng ta đến cùng, đó là chết thay, trả cái nợ mà đáng lẽ chúng ta phải trả: “đó là sự chết”.
Chỉ có “Tình Yêu” này mới có thể làm chúng ta thỏa mãn cơn khát vô tận của con tim chúng ta, và cũng chỉ có con đường “thập giá” này mới đưa chúng ta vào trong sự “hạnh phúc” đích thật. Ước gì trong tuần cực thánh sắp tới, chúng ta xin ơn được trở về với Thiên Chúa, trở về với chính chúng ta, để xin Người tha thứ và ơn can đảm đứng lên, bước theo Chúa vào trong con đường thập giá mỗi ngày, với sự đồng hành và giúp sức của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Xin cho mỗi người chúng ta dám can đảm chết đi con người cũ, chết đi cho Chúa và cho anh em, để chúng ta có khả năng trổ sinh bông hạt dồi dào.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã kể lại một giai thoại như sau. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng có tiếng khóc ngân xa nghe rất não nuột. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi : “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Câu hỏi đột ngột khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa con như thế nào. Bà bật dậy, ngồi vào bàn và mở cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan chương 13 câu 1, bà đọc thấy thánh ký đã viết : “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết trước giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian và Người yêu thương họ đến cùng.” Gấp sách lại, bà trở về giường và nói với đứa con : “Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng”.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta đến gần sát với cái chết của Đức Giêsu hơn. Con đường dẫn tới núi sọ và huyệt đá chính là con đường yêu thương trong hành trình tự hủy. Cuộc hành trình tự hủy đó giống như định luật của hạt lúa được gieo vào đất. Hạt lúa sẽ thối đi, sẽ chết đi nhưng sẽ sản sinh nhiều bông hạt khác.
‘Giờ’ Con Người được tôn vinh.
Cao điểm của hành trình tự hủy là ‘Giờ’ mà Con Người được tôn vinh. Chủ đề ‘Giờ’ được thánh ký Gioan nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong sách Tin mừng của Ngài. Trong phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã vén mở thực tại này khi trả lời Đức Mẹ : “Chuyện đó can gì đến bà và tôi, ‘Giờ’ của tôi chưa đến (Ga 2,4)”. Đó là ‘Giờ’ mà Chúa Giêsu không phải làm phép lạ biến nước thành rượu, nhưng biến rượu thành máu của Ngài, máu đổ ra trên Thánh giá để khai mở nguồn ơn cứu độ. Khi đàm đạo với thiếu phụ Samari bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu cũng nói : “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Sự Thật (Ga 2, 23)”. Liền sau đó, Chúa nói tiếp : “Giờ đã đến”. Đó là ‘Giờ’ Chúa Giêsu khai mở một nền phụng tự mới qua máu của Ngài đổ ra trên Thánh giá. Đặc biệt, khi đến thời điểm cận kề cái chết, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha : “Lạy Cha, ‘Giờ’ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha (Ga 17, 1)”. Cũng tương tự, trong bài Tin mừng hôm nay, khi loan báo về cái chết của mình, Đức Giêsu đã trả lời các môn đệ : “Đã đến ‘Giờ’ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Vì vậy, xuyên suất trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan luôn nhấn mạnh đến ‘Lễ Vượt qua’ cuối cùng, đó là giờ ‘Con người được treo lên để ai tin vào người con sẽ không phải chết nhưng có sự sống đời’. Thánh giáo phụ Irênê đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Nhưng muốn cho con người được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã đi vào hành trình tự hủy và chấp nhận cái chết nhuốc khổ như một tên tử tội đốn mạt.
Giờ Chúa Cha được tôn vinh cũng là giờ mà Đức Giêsu bị nhấn xuống tận đáy bùn đen trong xã hội loài người và đón nhận cái chết thảm khốc. Đây là nghịch lý của tình yêu được thánh Gioan nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Hình ảnh về hạt lúa được gieo vào lòng đất được Chúa Giêsu vay mượn để nói về cái chết của Ngài. Hạt lúa sẽ thối rữa trong lòng đất để sản sinh những hạt lúa khác. Cũng vậy, phải đi qua Thập giá mới đạt đến vinh quang. Phải đi vào lộ trình của mầu nhiệm tự hủy, chúng ta mới vươn đạt tới sự sống. Đây là nghịch lý cao cả mà Giáo hội mời gọi chúng ta quy hướng về trong suốt tuần lễ này, tuần lễ cuối cùng của mùa Chay, trước khi bước vào Tuần Thánh. Chúng ta suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu không phải chỉ qua ngắm nguyện, qua việc đi Đàng Thánh giá hay qua các cử hành phụng vụ. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải can đảm đi vào hành trình tự hủy cùng với Chúa Giêsu, bởi vì những ai cùng chết với Đức Kitô sẽ được cùng sống lại với Người (2 Tm 2, 11).
Bản chất đời sống Kitô hữu là đi sâu vào hành trình tự hủy song song với mầu nhiệm Thập giá, như Chúa đã nói : “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo”. Vác thập giá không phải đơn thuần chỉ là chịu đựng những nghịch cảnh hay những đau khổ, nhưng đó là lộ trình từ bỏ tận căn cách liên lỉ, từ bỏ chính cái tôi ích kỷ nơi con người mình, tức là phải chết đi cho con cũ của chúng ta mỗi ngày. Một cha xứ nọ có sáng kiến tổ chức một Thánh lễ an táng và mời cả cộng đoàn đến tham dự. Trong giây phút tiễn biệt người quá cố lần cuối, cộng đoàn đến trước quan tài và quan tài được mở ra cho mọi người nhìn mặt người chết lần cuối. Nhưng bên trong quan tài ấy không có một xác chết nào cả, chỉ có một tấm gương phản chiếu chính gương mặt của người đến phúng viếng. Ở phía dưới có ghi hàng chữ ‘Bạn hãy tập mai táng chính mình’. Chúng ta phải tập chết mỗi ngày, nhưng không phải là chết về thể lý mà chết trong hành trình tự hủy cách liên tục.
Cuộc chiến nội tâm.
Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái đã viết : “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã phải lớn tiếng rơi lệ mà dâng lời nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết (Dt 5, 7). Mang kiếp con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng khiếp sợ khi đối diện trước cái chết. Sự sợ hãi dâng cao đến độ mồ hôi và máu toát ra. Theo một số nhà khoa học phân tích, đây là hiện tượng thể lý khi sự sợ hãi dâng lên tột điểm, thần kinh sẽ căng ra và các mạch máu thấm vào những lỗ chân lông để rỉ ra bên ngoài. Nhưng trong cơn sợ hãi tột cùng ấy, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cái chết của Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta (Dt 5, 9).
Sự giằng co và cuộc chiến đấu nơi Đức Giêsu trở thành bài học quý giá cho mọi người ngày hôm nay. Nhiều lúc chúng ta cũng muốn vươn lên, nhưng bản tính yếu đuối của kiếp người lại kéo ghì chúng ta đi xuống. Trong những giây phút hấp hối bi thương nơi vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã chiến thắng những cám dỗ muốn thoái lui để hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa Cha. Cũng vậy, trong cuộc lữ hành đức tin trần thế, đặc biệt trong suốt mùa chay thánh này chúng ta cần suy niệm, học hỏi và bắt chước gương mẫu kiên định nơi Đức Giêsu.
Kết luận
Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang đi về cõi sống”. Sở dĩ thánh nữ có cái nhìn lạc quan như thế khi đối diện trước cái chết vì Ngài đã thâm tín sâu xa và sống triệt để điều mà chị Thánh đã tâm niệm và viết lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn : “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu vượt thắng mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác tình yêu”. Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống sung mãn ơn gọi tình yêu để ngày càng đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy cùng với Chúa Giêsu.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định. Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giê-su chính là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi, hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giê-su để di thể của Người chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong ‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian, là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giê-su đã xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giê-su công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao lên khỏi đất… là lúc ngài được tôn vinh’.
Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người phàm, Đức Giê-su cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos) ‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm! Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giê-su qua trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy Giê-su, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan… sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1 Cr 1:23-24)
Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giê-su cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giê-su chính là ‘khi được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”
Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su đã mạc khải cho tôi được biết: ‘Thiên Chúa là tình yêu’?
Lạy Đức Giê-su bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và chữ Y sáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giê-su chết treo trên đó), một Tinh Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. A-men.
.
Trầm Thiên Thu
Thi sĩ kiêm nhà viết kịch Bertolt Brecht (1898–1956, Đức) nhận định: “Cái đáng sợ không phải là CHẾT, mà là SỐNG RỖNG TUẾCH”. Rất lạ mà chí lý! Sống – Chết là một vòng đời, Sinh – Tử là một hành trình kiếp người.
Là phàm nhân, ai cũng một lần sinh và một lần chết, bởi vì chính Thiên Chúa đã xác định với con người: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Đối với nhân loại, cái chết là thất bại lớn nhất của con người, thế nhưng cái chết lại không đáng sợ như chúng ta tưởng, mà đáng sợ nhất là “cái chết ngay khi còn thở” – tức là sống mà như chết, sống rỗng tuếch, sống thừa, sống không có mục đích.
Người Việt Nam có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Có nhiều cách chết, có cái chết đáng khâm phục và có cái chết “lãng nhách”, do đó cái “tiếng” cũng có thể là TỐT hoặc XẤU, người Công giáo gọi là chết lành hoặc chết dữ. Người ta cũng nói: “Chết vinh hơn sống nhục”. Sống nhục là chết khi còn sống. Phàm cái gì có khởi đầu thì có kết thúc. Cũng vậy, có sinh ắt có tử.
Thánh Phaolô là người đã từng hăng hái và quyết ra tay triệt tiêu Ông Giêsu, nhưng rồi cuối cùng ông đã hoàn toàn biến đổi và phải thú nhận: “Đối với tôi, SỐNG là Đức Kitô, và CHẾT là một mối lợi” (Pl 1:21), và ông nói về Đấng mà ông tin yêu: “Đức Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến chết trên cây thập tự” (Pl 2:8). Chết đời tạm này để có thể sống đời vĩnh hằng.
YÊU ĐỂ SỐNG
Cuộc sống luôn cần yêu và được yêu. Như vậy, yêu là sống và sống là yêu – yêu để mà sống. Qua miệng ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa tuyên phán sấm ngôn: “Này sẽ đến những ngày Ta lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giuđa một GIAO ƯỚC MỚI, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng” (Gr 31:31-32). Rất lạ, bởi vì Giao-Ước-Mới này hoàn toàn khác với giao ước đã ký kết với tiền nhân. Giao ước đó là gì? Là giao ước Thiên Chúa lập với nhà Ít-ra-en, chính Ngài ghi vào lòng dạ dân chúng, khắc vào tâm khảm dân chúng Lề Luật của Ngài. Ngài là Thiên Chúa của họ, còn họ là dân của Chúa. Họ sẽ không còn phải dạy bảo nhau, và họ truyền miệng nhau: “Hãy học cho biết Đức Chúa” (Gr 31:34a). Học cho biết Đức Chúa về nhiều thứ, trong đó có việc học yêu. Do đó mà mọi người từ nhỏ đến lớn đều nhận biết Chúa. Điều tuyệt vời nhất là “Thiên Chúa sẽ tha thứ tội ác cho họ và không còn nhớ đến lỗi lầm của họ nữa” (Gr 31:34b). Là tử tội mà được tha bổng, được trắng án, có ai lại không hạnh phúc? Được sống thì phải biết yêu, và phải yêu để sống!
Và như chúng ta được biết, Giao-Ước-Mới đó mệnh danh là Tân Ước, là Luật Yêu Thương – không chỉ yêu người yêu mình mà phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27 & 35). Coi bộ “căng” dữ nghen. Vâng, không dễ chút nào! Thế nhưng yêu thương và tha thứ có hệ lụy lẫn nhau, không thể có cái này mà thiếu cái kia. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7:12). Ai có lỗi cũng muốn được bỏ qua, nhưng muốn được tha thì phải biết tha cho tha nhân, và thành tâm xin Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4). Thành tâm cầu xin như thế thì Chúa không thể không tha, vì Ngài chỉ chờ mong giây phút được tha thứ cho tội nhân biết sám hối: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề: Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống” (Ed 33:11a). Vả lại, Ngài KHÔNG làm ra cái chết (Kn 1:13).
Mặc dù đã được tha tội rồi, nhưng “vết chàm” chưa sạch (giống như “vết sẹo” vậy), thế nên chúng ta phải xin Chúa “đại tu” tâm hồn mình, và xin Ngài không ngừng nâng đỡ, nếu không thì chúng ta lại sa ngã ngay: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài” (Tv 51:12-13). Phần riêng Chúa ban cho chúng ta nhưng chúng ta đã “phung phí” hết, cho nên chúng ta lại phải tiếp tục kêu cầu: “Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:14-15).
YÊU ĐỂ CHẾT
Chắc chắn cuộc sống KHÔNG THỂ thiếu vắng tình yêu thương. Sống để yêu, sống vì yêu, và sống là yêu, nhưng cũng vì yêu mà chết. “Sống để yêu” là điều dễ hiểu, nhưng lại khó hiểu khi nói rằng “chết là yêu, để yêu và vì yêu”, thậm chí nghe chừng nghịch lý. Nhưng điều đó vẫn là sự thật minh nhiên.
Mong muốn điều gì thì phải nói, chứ ai biết “ngứa” chỗ nào mà “gãi” chứ? Chính Đức Giêsu Kitô, khi còn sống kiếp phàm nhân, Ngài cũng đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời, vì Ngài có lòng tôn kính. Ngài “được nhậm lời” không có nghĩa là Ngài thoát đau khổ và không phải chết. Nhưng Ngài “được nhậm lời” để “thoát chết” bằng cách “đi xuyên qua cái chết”, được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Hành-trình-sống-chết của Đức Kitô nhằm củng cố đức tin cho chúng ta – những người đang trên đường lữ hành trần gian, đi từ cõi sinh và sẽ đến cõi chết.
Nói về Đức Kitô, Thánh Phaolô xác định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:8). Vậy đó, cái gì cũng phải khổ luyện, không thể cứ “khơi khơi” mà có thể uyên thâm, hiểu sâu và biết rộng. Học thì phải hành, không thực hành thì chỉ là mớ lý thuyết suông, không thực tế, vô ích. Học đàn phải luyện ngày đêm thì mới nhuần nhuyễn, tập tành văn thơ thi phú cũng phải làm nhiều thì mới “lên tay”, làm bếp cũng phải nấu hằng ngày mới có thể nấu ăn ngon,… Và mọi thứ đều cần kinh nghiệm, gọi là “khổ luyện”. Lười biếng thì chỉ có nước “bó tay”. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đã theo đúng “quy trình” đó: “Khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Ngài trở nên NGUỒN ƠN CỨU ĐỘ VĨNH CỬU cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9).
Có mấy người Hy Lạp đồng hành trong số những người lên Đền Thờ Giêrusalem để thờ phượng Thiên Chúa. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” (Ga 12:21). Một ước muốn tuyệt vời, và chắc chắn Ngài không từ chối bất cứ ai. Câu nói của người Pháp rất thú vị: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Ông Philípphê nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Và Ngài trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Ga 12:23).
Sau đó, Ngài trầm giọng: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12:24). Một hình tượng giản dị và rất thực tế. Có lẽ Ngài biết có người không kịp hiểu nên Ngài giải thích luôn: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25). Ngài biết “giờ G” sắp đến, lòng Ngài cũng bồn chồn lo lắng vì thấy thương các đệ tử còn “non nớt”, nên Ngài nói như trải tấm lòng: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:26).
Là Thiên Chúa mặc xác phàm và theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy xốn xang nên Ngài tâm sự với các đệ tử: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27). Rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:28a). Ngài cảm thấy sợ, nhưng Ngài ý thức trọng trách của mình và muốn Chúa Cha được tôn vinh mà thôi. Khi đó, có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:28b).
Bất ngờ nghe tiếng vọng từ trời, dân chúng đứng ở đó ngạc nhiên, nhưng có người cứ tưởng chỉ là “tiếng sấm”, người khác lại cho là “tiếng một thiên thần” nói với Ngài. Đức Giêsu biết họ xì xầm nên nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người” (Ga 12:30). Vâng, giờ của Ngài sắp đến, “giờ” mà Ngài gọi là “giờ của kẻ ác”, là “thời của quyền lực tối tăm” (x. Lc 22:53). Thế nhưng chính “giờ” ấy lại là lúc “diễn ra cuộc phán xét thế gian này, lúc thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:31). Một sự hoán vị ngoạn mục, chiến bại mà chiến thắng!
Mọi sự có vẻ khác lạ, nhưng Chúa Giêsu vẫn bình tĩnh và hứa: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12:32). Ngài nói như vậy để ám chỉ Ngài sẽ phải chết cách nào, nhưng đầu óc phàm nhân của các đệ tử – mặc dù rất thân tín – cũng không đủ hiểu ý Ngài muốn nói. Và đó chính là lời-hứa-kỳ-diệu mà Ngài dành cho chúng ta!
Trong suốt hơn 30 năm làm người, hẳn là chưa bao giờ Ngài nói nhiều như lần này. Nói để từ giã. Nói để chia tay. Nói để trăn trối. Nói như không còn cơ hội để nói. Ngài muốn nói nhiều vì muốn mọi người BIẾT YÊU THƯƠNG NHAU, yêu để sống, yêu để chết, nghĩa là yêu cả lúc sống và khi chết. Ngài đã chịu chết để chúng ta được sống – sống đời đời. Mối Sinh và Mối Tử khép lại một Vòng Sinh – Tử, thật kỳ diệu! Hãy vững tin, bởi vì “Đức Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13:8).
Lạy Thiên Chúa, xin thương biến đổi cuộc đời con và tái tạo trái tim con nên giống Ngài hơn, để con có thể kính mến Ngài và yêu thương tha nhân trong từng hơi thở của cuộc sống. Xin giúp con can đảm từ bỏ chính mình, dám chết với Đức Kitô để xứng đáng được phục sinh cùng với Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Người đời thường nghĩ rằng: cho đi là mất. Họ tưởng rằng cho người khác một số tiền, một tài sản nào đó… thì họ sẽ bị mất mát, thiệt thòi. Thế nên lắm kẻ chủ trương rằng tốt nhất là đừng dại dột đem cho mà hãy khư khư giữ lấy cho mình. Tư duy nầy sẽ hình thành nơi ta một con người ích kỷ, chỉ chăm lo cho bản thân mà không quan tâm trợ giúp người khác.
Đây là một tư duy sai lầm, tai hại. Trái với chủ trương vị kỷ nầy, Chúa Giê-su dạy sống vị tha, biết xả thân cho người khác.
Cho đi thì còn, giữ lại là mất; chính lúc trao ban là lúc nhận lãnh.
Để làm rõ sự thật nầy, Chúa Giê-su dạy: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Quả vậy. Hạt lúa nào cố tự bảo vệ sự nguyên vẹn của mình thì hạt lúa đó sẽ dần dần bị hư mốc, rốt cuộc chẳng còn gì; còn hạt lúa nào chấp nhận bị phân huỷ dưới bùn đất thì sẽ đâm mầm, mọc thành cây, nở thành bụi và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào: từ một hạt sẽ biến thành trăm hạt khác.
Từ đó, Chúa Giê-su dạy rằng cuộc sống của con người ở đời nầy cũng như thế: “Ai yêu quý mạng sống mình (tự bảo toàn mình như hạt lúa trong kho) thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này (sống xả thân như hạt lúa chịu phân huỷ trong lòng đất) thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
Khi nói: “coi thường mạng sống mình ở đời nầy”, Chúa Giê-su không có ý dạy chúng ta coi rẻ mạng sống, nhưng là mời gọi chúng ta sẵn lòng chấp nhận xả thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Làm như thế không phải là thiệt thòi mất mát nhưng là cách để triển nở dồi dào phong phú.
Minh hoạ sau đây chứng tỏ sự thật nầy:
Tôi có hai cánh tay, hai cánh tay cùng thuộc về thân mình tôi nhưng mỗi cánh tay lại có một nếp sống khác nhau, một chủ trương khác nhau. Cánh tay trái của tôi theo chủ nghĩa vị kỷ, còn cánh tay phải theo chủ nghĩa vị tha.
Vì theo chủ nghĩa vị kỷ, luôn luôn quy về mình, nên tay trái của tôi rất ít tham gia vào công việc chung mà cứ để cho tay phải đảm đương mọi việc. Khi ăn cơm, tay trái dành cho tay phải cầm đũa. Khi viết bài, tay trái dành cho tay phải cầm bút. Khi cầm búa đóng đinh hay cầm cây kim may áo, nó chẳng chịu tham gia mà nhường cho tay phải làm hết.
Hậu quả của thói ích kỷ nầy là nó trở nên yếu đuối và thua kém tay phải trong mọi việc. Nếu tổ chức một cuộc thi giữa hai cánh tay thì khi thi viết, tay phải viết nhanh, viết đẹp, viết rõ ràng nên được điểm 10, còn tay trái viết chậm, nguệch ngoạc như mèo cào, như gà bới, nên không được điểm nào.
Khi thi đóng đinh thì tay phải đóng đinh nhanh gọn, chính xác; còn tay trái đóng trật lất. Khi thi may vá thêu thùa thì tay phải may nhanh, thêu đẹp; còn tay trái thì lóng ngóng chẳng làm được việc gì. Nói tóm lại, dù thi bất cứ môn gì, tay phải cũng dành được điểm mười còn tay trái chỉ được số không!
Cả hai cánh tay phải và trái đều thuộc về thân mình tôi, cùng được chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau, thế mà tay trái vì theo thói ích kỷ, chẳng bao giờ muốn hi sinh phục vụ toàn thân, chẳng dấn thân chăm lo cho người khác, nên nó trở nên yếu đuối và thua kém trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, vì tay phải theo chủ nghĩa vị tha, luôn chấp nhận đảm đương mọi công việc nặng nề khó nhọc, lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh phục vụ toàn thân và phục vụ nhiều người … nên nó mạnh mẽ hơn, khéo léo hơn, tài giỏi hơn, vượt xa tay trái về mọi mặt.
Nhờ tự huỷ mình đi như hạt lúa, Chúa Giê-su được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Cuộc đời của Đức Giê-su là một minh chứng cho chân lý nầy. Người là Một Hạt Lúa chấp nhận tự huỷ đi. Dù là Thiên Chúa thật đồng hàng với Chúa Cha nhưng Người đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa Cha, trái lại Người đã hủy mình ra không, mang lấy thân phận giòn mỏng của kiếp người, chấp nhận chết ô nhục trên thập giá, chịu mai táng trong lòng đất, để phục vụ và cứu rỗi muôn dân. Nhờ đó, Người được phục sinh vinh quang, được lên trời vinh hiển, được tôn vinh làm vua trên trời dưới đất (Philip 2, 6-8).
Thánh Phao-lô tóm lược cuộc đời tự huỷ của Chúa Giê-su như sau: Vì chấp nhận tự huỷ như thế, “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và …tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”. (Phi-líp-phê 2, 9-11)
Đón nhận bài học của Chúa Giê-su
Một ngọn nến phải chấp nhận tiêu hao thì mới có thể toả sáng. Một máy bay phải tiêu hao nhiên liệu mới có thể cất cánh. Một vệ tinh, một tàu vũ trụ phải tiêu hao một số năng lượng khổng lồ mới có thể được phóng lên không gian…
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết khôn ngoan chấp nhận hi sinh, sẵn sàng tiêu hao thời giờ, sức khoẻ, trí tuệ, nghị lực để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, nhờ đó cuộc đời chúng con sẽ phát triển vạn lần tươi đẹp.
.
Lm. Đinh Lập Liễm
Đức Giêsu nói: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12,23). Ngài được tôn vinh như thế nào? Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng sự giầu sang, danh vọng, quyền thế, vinh quang thế gian; Ngài được tôn vinh chính lúc bị treo trên thập giá vì Ngài đã vâng theo thánh ý Cha Ngài; Ngài chiến thắng vẻ vang trong khổ nhục.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cùng Cha: ”Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đến” (Jn 12:27). Giờ này là giờ nào? Phải chăng là lúc ký giao ước mới trong máu của Ngài đổ ra trên thập giá? Đúng như vậy!
Lịch sử cứu độ qua các mối tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại, ta thấy có nhiều giao ước đã được thay đổi: Từ giao ước Adong (St 3,15), đến Noe (St 9,1-17), với Abraham (St 17,1-27) đến lời hứa giao ước mới mà Thiên Chúa dùng tiên tri Giêrêmia loan báo (Gr 31,31-34): tất cả những lời giao ước đó đều thấy thực hiện viên mãn trong GIỜ của Đức Giêsu. Giao ước mới quả đã thực hiện lời Thiên Chúa hứa với nguyên tổ (St 315) đem lại chiến thắng cho con người, và tái lập tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và loài người.
Đức Giêsu nói: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Jn 12:23). “Giờ” ở đây không phải là giờ vinh quang cho bằng là “Giờ hiến tế” đem lại vinh quang cho Ngài: Giờ vinh quang của Con Người là giờ tử nạn và phục sinh của Ngài.
Khi chấp nhận mục nát như hạt giống gieo vào lòng đất với cuộc Vượt Qua trên thập giá, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn mầu nhiệm tự hy sinh bản thân mình. Mầu nhiệm này đã bắt đầu bằng việc Nhập Thể và kéo dài trong suốt cuộc sống của Ngài. Sự tự hủy này trước hết, hệ tại ở sự vâng phục hoàn toàn của Đức Giêsu trước thánh ý của Chúa Cha. Tâm tình tuân phục đó của Đức Giêsu cũng được tỏ lộ cách cụ thể qua lời Ngài thưa với Chúa Cha, mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin làm vinh danh Cha” (Jn 12:23, 27-28).
Mặc dù luôn đặt ý Cha trên hết mọi sự, nhưng trong bản tính của một con người, đứng trước con đường thập giá, Đức Giêsu cũng không khỏi sợ hãi, xao xuyến, ngần ngại. Ngài sợ hãi vì trước mắt, thập giá chính là “một điều điên rồ đối với dân ngoại, là cớ vấp phạm cho người Do Thái” (1 Cr 1,23). Vì thế, khi biết rằng sắp đến “giờ” của Ngài, Đức Giêsu đã phải thốt lên: ”Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Jn 12:27).
Lắng nghe lời tâm sự tha thiết tự đáy lòng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng: sống vâng phục không phải là một điều dễ dàng. Sự vâng phục này đòi hỏi Đức Giêsu một sự cố gắng, kiên trì để vượt qua bản thân, sẵn sàng đón nhận các biến cố vui buồn Thiên Chúa gửi đến từng ngày trong cuộc sống; hay nói cách khác, Đức Giêsu cũng đã phải học để có thể sống vâng phục, như lời tác giả thư Do Thái viết: ”Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài (Đức Giêsu) đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu.” Thế nhưng, chính nhờ sự vâng phục trọn vẹn đó mà Đức Giêsu khi hoàn tất ”Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Hr 5:7-9).
Với tư cách là con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng cảm thấy sợ hãi trước đau khổ. Trong vuờn Cây Dầu Ngài cũng đã xao xuyến (x. Mt 26,38) và phải kêu xin cùng Cha: ”Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26.39). Theo tính tự nhiên, Đức Giêsu muốn trốn tránh sự đau khổ, nhưng Ngài lại muốn tuân theo thánh ý Cha để cho Cha định liệu. Và ý của Chúa Cha là muốn cho Con Ngài chịu chết trên thập gia để cứu chuộc nhân loại (Rm 8:32).
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy rõ quan niệm của Chúa đối với đau khổ, đối với mọi thánh giá trên đời. Đức Giêsu dùng cây thánh giá như bậc thang tới vinh quang “Per Crucem ad lucem.” Quan niệm đó mới nhìn qua là một nghịch lý, song Ngài đã giải thích bằng một dụ ngôn vắn tắt và đầy ý nghĩa: dụ ngôn hạt giống: ”Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất, mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thôi đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất và ai ghét mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12,24).
Cây thánh giá còn là phương tiện chinh phục. Ngài cho biết, Ngài được giương lên cao thì cũng sẽ có nhiều người cùng được lên cao với Ngài: ”Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32). Lịch sử đã chứng minh cho lời Chúa. Biết bao người đã tin theo Ngài vì cái chết đau thương đầy tình thương xót của Ngài. Biết bao người đã bỏ tất cả và cảm mến tấm lòng thương xót của Ngài. Thập giá Chúa đã in sâu vào trong lòng người ta.
Những người theo Đức Kitô sẽ được tôn vinh, nhưng muốn được tôn vinh thì cũng phải có điều kiện, phải nói được như Thánh Phaolô: vinh quang của ta là thánh giá Đức Kitô (Gal 6:14). Chúng ta sẽ tìm được vinh quang trong sự từ bỏ, trong việc cho đi và chấp nhận thánh giá trong đời.
Thánh Phaolô đã vinh tụng Đức Giêsu trong bài thánh ca: ”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Đức Giêsu đã tự chọn lấy cái chết để chiếm lấy sự sống. Mới nghe thì ai cũng cho là phi lý vì chết và sống trái ngược nhau, làm sao có thể dung hòa được; nhưng chết và sống không hẳn là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống có thể sống được là nhờ sự chết. Ta có thể đưa ra vài ví dụ: – Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới trở thành chất bổ dưỡng cho cây. – Nơi sinh vật: các thức ăn phải “tiêu” mới “hoá” thành lương thực. – Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và hoa mầu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống. Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 165)
Theo như Flor McCarthy thì “Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn.” Thực vậy, mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi; mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi; mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung hăng chết đi; mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi. Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh.
Với con đường hy sinh, Đức Giêsu đã chứng minh một chân lý xem ra có vẻ nghịch lý: ”Cho là nhận” và “Chết là con đường đưa tới sự sống.” Thật vậy, với kinh nghiệm thường ngày, chúng ta cũng có thể nhận ra điều này. Mỗi khi chúng ta mở bàn tay để cho là lúc chúng ta có thể nhận được, và sẽ trở nên phong phú. Còn nếu chúng ta cứ nắm bàn tay lại để giữ cho chính mình, thì cũng đồng thời, chúng ta không có thể đón nhận được bất cứ điều gì. Như thế chúng ta sẽ trở nên nghèo nàn và cô đơn.
Cảm nghiệm sâu sắc chân lý từ mầu nhiệm tự hủy của Đức Giêsu, Thánh Phanxicô Assisi, trong lời kinh Hoà bình, đã ca lên: ”Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.”
Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi.”
Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im lặng, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dẫy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trại trưởng. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên súng: “Anh muốn gì?” Kolbe nói: “Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.”
Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục Công Giáo. Cha đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982.
Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau. Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Jn 12:23). Và Ngài cho biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh. Hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh: ”Thầy bảo thật anh em, nếu hạt giống gieo xuống đất…” Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: ”Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Mk 8:35).
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đối tất yếu của một cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có thể chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Do đó, chết là điều kiện tất yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Người ta nói không sai: “Có khó mới có miếng ăn, Không dưng ai bỗng đem phần chia cho (Ca dao).
Trong Kinh Thánh có rất nhiều câu nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc; trong đó có vài câu chúng ta thường nghe như: “Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng, Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương” (Tv 126,6). Hoặc: “Nếu ta cùng chết với Ngài, nếu chúng ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào hướng bay cuối một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.
Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống phi đạo, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉnh tháp chuông một bóng đèn nê-ông lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tầu cập bến an toàn.
Lạy Chúa Giêsu, Thánh giá Chúa là một mầu nhiệm mà lý trí chúng con khó hiểu. Xin Chúa ban ánh sáng soi dẫn ý nghĩa cho chúng con. Xin ban cho chúng con nghị lực chấp nhận nó với tất cả những đòi hỏi của nó. Xin ban cho chúng con vui sống mầu nhiệm ấy với Chúa. Amen.
.
HẠT LÚA MÌ RƠI XUỐNG ĐẤT THỐI ĐI
Lm. Nguyễn Thái
Vào một đêm giông bão, gió thổi tứ phương, mưa như thác lũ, một cặp vợ chồng già dìu nhau vào văn phòng của một cái khách sạn nhỏ ở Philadelphia. Với sự ngập ngừng e ngại, họ hỏi người thư ký: “Ông có thể kiếm cho chúng tôi một phòng ngủ qua đêm được không? Giờ này tất cả các khách sạn lớn đã không còn phòng nữa.” Người thư ký trả lời: “Thưa cụ, mọi phòng đã có người rồi, nhưng tôi không thể để ông bà cụ ra ngoài trời mưa vào lúc 1 giờ sáng như thế này được. Xin hai cụ cho biết hai cụ có thể ngủ trong phòng của tôi được không?” “Nhưng còn ông thì ngủ ở đâu?”, người khách hỏi. “Ồ, không sao, tôi có cách mà,” người thư ký trả lời, “Đừng lo cho tôi.” Sáng hôm sau, khi trả tiền phòng, ông cụ đã nói với người thư ký trẻ, người đã nhường phòng cho cụ: “Ông là người quản lý tốt, ông phải là quản lý của một khách sạn đẹp nhất nước Mỹ. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ xây cho ông một cái.”
Hai năm sau, người thư ký trẻ đó nhận được một lá thư có kèm theo một vé máy bay khứ hồi đi New York, và một lá thư của ông cụ trong đêm mưa bão, yêu cầu người thư ký đến gặp ông tại thành phố New York, lớn nhất nước Mỹ. Ông cụ dẫn người thư ký tới góc đại lộ số 5 và đường 34, khi chỉ tay về một tòa nhà trọc trời mới xây, ông tuyên bố: “Đây là khách sạn tôi vừa mới xây xong dành cho ông điều hành.” Xúc động không nói nên lời, người quản lý trẻ tuổi tên là George C. Boldt, chỉ nói lắp bắp được mấy câu cám ơn. Người đại ân nhân của ông quản lý chính là William Waldorf Astoria. Ngày nay khách sạn đó được xếp vào loại sang trọng bậc nhất, chính gốc của dòng họ Waldorf Astoria.
Một hành động hy sinh nhỏ tạo nên một mối lợi lớn. Người quản lý trẻ phải hy sinh ngủ ngoài phòng ngủ của mình đêm hôm đó để nhường phòng cho ông bà cụ. Anh đã hy sinh bản thân mình đang khi nghĩ đến ích lợi của người khác (1 Cr 10:24). Sự hy sinh của anh như hạt giống được gieo xuống đất, vài năm sau nó đã nẩy mầm, đâm chồi nẩy lộc (Mt 13:23) khi anh trở thành người quản lý của khách sạn sang trọng nhất New York.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan 12: 20-33, Chúa Giêsu đã nói: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt.”
Đây là một nguyên tắc căn bản trong đời sống thiêng liêng: chỉ có sự hy sinh bản thân mình -self-denial, tự hủy diệt – dying to himself – con người ích kỷ của mình, mới phát sinh được hoa trái. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Ngài tự nguyện chấp nhận để mình bị đóng đinh trên thập giá (Gl 5:24): Ngài hy sinh bản thân mình để mang lại sự cứu rỗi cho toàn thể nhân loại.
Tự hy sinh bản thân mình là điều cần thiết để chiến thắng tính ích kỷ, kiêu căng, và những dục vọng cá nhân làm cản trở sự phát triển bản tính tốt đẹp bên trong con người chúng ta (Rm 13:13). Một người luôn luôn nghĩ về mình bị rơi vào trong cái lồng cạm bẫy của cái “tôi” đáng ghét (Gl 6:2). Và hậu quả là, người ấy không thể nhận diện ra con người thật sự của mình là ai và sự liên hệ giữa họ với Đấng Tối Cao.
Theo quan điểm của Ấn Độ giáo, từ chối “cái tôi” chính là con đường để đi tìm cái “tôi” siêu việt thực sự, và trở nên một với Thực Tại Tối Cao. Do đấy, chúng ta thường thấy các đạo sĩ Ấn Độ sống một đời khổ hạnh, tập luyện những cách thế chế ngự bản thân rất nghiêm khắc. Có vị luyện tập đứng liên tiếp trong suốt 12 năm trời, đến độ hai bàn chân đều sưng phồng lên.
Phật giáo cũng dạy rằng con đường dẫn tới mục đích của tôn giáo đòi hỏi một người phải từ bỏ chính mình và dục vọng của mình. Tất cả những sự tập luyện như ngồi thiền, suy niệm, đều nhằm đạt đến tình trạng vô vi, vô ngã. Diệt dục để nhằm tới sự hiệp nhất với Đại Ngã, Hữu Thể Tuyệt Đối.
Và theo quan điểm của Kitô giáo, sự từ bỏ chính mình là cách thế để phục hồi lại con người thật sự của mình đã được tạo dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (Cl 3:10). Tất cả những quan điểm trên đều khẳng định một sự nghịch lý mà Chúa Giêsu đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25).
Cây tre là một loại cây đa dụng, rất có ích lợi cho đời sống ở nông thôn. Để mang lại ích lợi này, cây tre phải biết chấp nhận hy sinh chính bản thân mình. Tác giả William Hoffsuemmer đã diễn tả tâm sự của một cây tre như sau:
Có một bác nông dân nọ, trồng được một bụi tre sau nhà. Ngày ngày bác ra ngắm bụi tre, thấy tre mọc cao hơn, lớn hơn, xanh tươi hơn, bác vui lắm! Một ngày nọ, bác nông dân lượn qua lượn lại, ngắm nghía bụi tre thật kỹ càng, từng cây một. Rồi bác đứng trước một cây tre cao nhất, to nhất, đẹp nhất và nói: “Chà cây tre này có lý lắm nghe, ta cần cháu lắm tre ơi!” Cây tre vui vẻ trả lời: “Thưa bác, cháu luôn sẵn sàng cho bác dùng cháu vào bất cứ việc gì!” Nghe vậy bác nông dân mới thẳng thắn nói: “Nhưng để dùng cháu, ta phải chặt cháu xuống.” Cây tre hoảng quá, phản ứng lại ngay: “Chặt cháu xuống à? Tại sao vậy bác? Cháu là cây tre đẹp nhất trong vườn bác mà! Thôi đi bác! Hãy dùng cháu vào bất cứ việc gì bác muốn, nhưng đừng chặt cháu xuống!” Rồi tre khóc!
Bác nông dân tội nghiệp cây tre mới nhỏ nhẹ khuyên lơn: “Này cháu, nghe bác này, nếu bác không chặt cháu xuống, thì bác không thể nào dùng cháu được!” Tre im lặng một lúc không nói. Ngay cả gió cũng im hơi lặng tiếng, nín thở. Bầu không khí hoàn toàn im bặt. Thế rồi cây tre từ từ cúi đầu xuống thì thầm: “Thưa bác, nếu cái cách duy nhất bác dùng cháu là phải chặt cháu xuống thì thôi bác cứ làm theo ý bác đi!”
Bác nông dân thở phào nhẹ nhõm, rồi lại ngậm ngùi nói: “Cháu à! Nhưng đấy mới chỉ là một phần thôi, ta sẽ còn phải tỉa tất cả cành lá trên mình cháu đi nữa!” Cây tre sợ hãi kêu lên: “Chúa ơi! Xin cứu con với! Thế là kết thúc tất cả vẻ đẹp mỹ miều của đời con rồi! Còn đâu màu xanh tươi nõn nà, còn đâu thân hình mềm mại thon thả, còn đâu những chiếc lá hình móng tay cong vút! Xin cho con giữ lại chỉ một cành thôi, một chiếc lá nhỏ kỷ niệm thôi! Please! Please! Bác nông dân lại thương hại trả lời: “Nếu ta không cắt tỉa các cành lá thì ta cũng không thể dùng cháu được!”
Hoàng hôn đã buông rơi. Mặt trời ngại ngùng giấu mặt sau bụi tre. Những cánh bướm cũng phân vân bối rối chập chờn qua lại. Cây tre cảm thấy đau buốt từ trong lòng, nhỏ nhẹ thưa với bác nông dân: “Thưa bác, xin hãy làm theo như ý bác muốn!” Bác nông dân xúc động nói: “Cháu yêu quý, bác đau đớn còn hơn cháu nữa. Bác còn phải chẻ cháu ra làm hai, róc tất cả ruột gan bên trong của cháu ra nữa. Nếu không, bác cũng không thể dùng cháu được.”
Cây tre lại im lặng một hồi, rồi cong người cúi xuống thật thấp sát đất, khiêm tốn nói: “Thưa bác, xin bác hãy chặt cháu xuống, tỉa hết các cành lá, chẻ cháu ra làm hai, và róc tất cả những mắt mấu trong ruột cháu như bác muốn!” Thế là bác nông dân lấy dao ra, chặt cây tre xuống, róc tất cả cành lá xum xuê đi, chẻ tre ra làm đôi, moi móc cẩn thận những mắt mấu bên trong. Rồi bác vác cây tre ra đi, băng ngang qua những cánh đồng khô cạn, tới một con suối gần đó. Bác nối cây tre với dòng suối nước để tre trở thành máng dẫn nước vào cánh đồng khô cằn. Có nước, đồng lúa mọc tươi tốt, trổ bông, phát sinh lúa gạo nuôi sống bác nông dân và gia đình. Và như thế, chỉ khi cây tre biết chấp nhận hy sinh, bị chặt xuống, bị tỉa cành lá, bị chẻ đôi ra, róc hết ruột gan đi, nó đã trở thành một cái ống máng dẫn nước từ nguồn suối chảy vào cánh đồng, nuôi dưỡng mùa màng.
Giống như cây tre, muốn mang lại ích lợi, chúng ta phải chấp nhận sự hy sinh, tự hủy mình đi, tự hư vô hóa chính mình, để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa, như thư gửi tín hữu Do Thái đã diễn tả về Chúa Giêsu trong bài đọc thứ hai: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu, và khi hoàn tất, Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài” (Dt 5:8-9).
Sách Giáo Lý Công Giáo khuyên chúng ta bước theo gương mẫu của Chúa Giêsu Kitô như sau: “Dân Thiên Chúa dự phần vào chức năng vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô hành sử vương quyền của mình khi thu hút mọi người lại với Ngài bằng cái chết và sự Phục Sinh của Ngài (Ga 12:32). Đức Kitô, Vua và Chúa vũ trụ, đã hạ mình làm đầy tớ của mọi người, vì Ngài “đến”, không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28). Đối với các Kitô hữu, “cai trị là phục vụ Ngài” (Lumen Gentium 36), nhất là phục vụ “những người nghèo và những người đau khổ, vì nơi những người này, Giáo Hội nhận ra hình ảnh nghèo khó và đau khổ của Đấng Sáng lập của mình” (Lumen Gentium 8). Dân Thiên Chúa thực hiện “phẩm chức vương giả” của mình bằng cách sống phù hợp với ơn gọi của mình là phục vụ cùng với Chúa Kitô” (số 786).
Chúng ta sắp sửa bước vào Tuần Thánh, tưởng niệm sự thương khó và cuộc tử nạn Chúa Giêsu đã chịu để mang lại ơn cứu rỗi cho nhân loại. Hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập giá đang kêu lên thảm thiết: Lạy Cha, sao Cha bỏ con? Người đang bị treo lên cao, đang bất động hoàn toàn trong cái chết sống động. Chính lúc đó, khi trở nên cóng lạnh, Chúa đã ném lửa xuống trần gian; và khi bất động không cùng, Chúa đã trút sự sống vô biên của Chúa xuống trên chúng con. Giờ đây chúng con sống trong viên mãn và hoan say; dù chỉ nên giống Chúa một phần nhỏ thôi, và kết hợp đau khổ của con với đau khổ của Chúa để dâng lên Chúa Cha; như thế cũng đủ cho con rồi. Con tin chắc rằng hơn bao giờ hết trong những giờ phút này, bao ánh sáng và lửa đang ùa vào trần gian.
.
CHỊU MỤC NÁT HAY VẪN TRƠ TRỌI?
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Con người sinh ra để sống rồi lại phải chết. Chết là tận số của một kiếp người. Ai cũng quý mạng sống mình. Ốm đau thì đi bác sĩ, uống thuốc. Chẳng ai muốn chết.Nhưng có một Đấng lại có một triết lý sống ngược lại với thực tại trên: sống để chết và chết để sống. Đấng ấy là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Để minh họa cho chân lý trên, Đức Giêsu đã đưa ra ví dụ về hạt giống được gieo vào lòng đất: “ Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” Áp dụng vào cuộc sống của mỗi người, Đức Giêsu lại bảo: “ Ai yêu qúy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” ( Ga 12: 24-25) Mạng sống phải chết đi như hạt giống gieo vào lòng đấ,phải mục đi thì mới sinh nhiều hoa trái; ngược lại, hạt giống không mục đi như người yêu mạng sống của mình thì sẽ mất. Nhưng như thế nào là hạt chịu mục nát và hạt vẫn trơ trọi?
Khi nói như trên, Đức Giêsu không khuyến khích chúng ta ghét bỏ hay coi thường mạng sống của mình; ngược lại, Ngài còn dạy chúng ta phải biết tôn trọng mạng sống của mình. Chúng ta sẽ không có khả năng yêu mến bất cứ ai, nếu chúng ta không biết yêu mến chính con người của mình. Điều quan trọng chúng ta cần biết là sống mà như chết thế nào để từ cái chết ấy có sự sống đời đời. Ngài muốn chúng ta coi thường mạng sống của mình cho một mục đích cao cả hơn là phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.Sự chết ờ đời này là một phần của sự sống mai sau. Chúng ta được sinh ra rồi chết đi, nhưng chính khi chết đi, chúng ta mới có được sự sống trọn vẹn: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Mục nát đi, theo như lời kêu gọi của Đức Giêsu, không phải là hủy hoại sự sống của mình ở trần gian này, nhưng là chết đi cho tội lỗi,từ bỏ ý riêng của mình, hy sinh bản thân mình vì Chúa, vì tha nhân. Mục nát ở đây là chịu biến đổi, chịu hy sinh quên thân mình vì người khác, vì Chúa, vì hạnh phúc mai sau.
Hạt giống không chịu mục nát đi là hạt giống chỉ sống cho chính mình, quí mạng sống mình ở đời này hơn mạng sống vĩnh cửu mai sau, là tìm vinh quang cho riêng mình, là tìm mọi cách để thỏa mãn những dục vọng trấn thế hơn là chịu mục nát để tìm cuộc sống vĩnh cửu mai sau.
Trái lại, hạt giống chịu mục nát là hạt giống hy sinh chính bản thân mình để tìm được sự sống vĩnh cửu đời sau. Hạt giống chịu mục nát đi là hạt giống chịu biến đổi, chịu cải hóa kiếp sống này vì sự sống ngày mai. Chịu mục nát đi là từ bỏ ý riêng của mình để vâng theo thánh ý Chúa, là chết đi cho những đam mê dục vọng tội lỗi làm con người xa rời tình thương của Thiên Chúa.
Đức Giêsu là tấm gương của hạt giống chịu mục nát. Sự mục nát của Ngài đã mang lại nhiều hoa trái cho nhân loại: “ Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã đạt tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho nhửng ai tùng phục Người.”( Dt 5: 8-9 ) Đức Giêsu chịu mục nát khi chỉ vâng theo thánh ý Chúa Cha: Xin cho con khỏi uống chén này, nhưng không phải theo ý con mà theo ý Cha. Ngài chịu mục nát khi chấp nhận cái chết nhục nhã, khổ đau trên thập giá vì yêu thương nhân loại.Qua cái chết của mình, Đức Giêsu đã được tôn vinh, và cái chết của Ngài sẽ mang lại sự sống vĩnh cửu cho những ai bước theo gương mục nát của Ngài.
Như những người Hy lạp khao khát muốn gặp Đức Giêsu, và qua trung gian của các môn đệ,họ đã gặp được Đức Kitô, và Ngài đã hé mở cho họ biết đâu là con đường dẫn họ đến sự sống muôn đời. Đức Giêsu và Giáo Hội đã cho chúng ta gặp Thiên Chúa, biết con đường nào dẫn đến sự cứu độ của Thiên Chúa; nhưng chúng ta đã chịu mục nát theo gương Đức Kitô hay vẫn còn trơ trọi một mình!
.
JM. Lam Thy
Khi dân chúng thấy Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem, “họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en!” (Ga 12, 13). Trong số đó có mấy người Hy Lạp đến gặp ông Phi-lip-phê xin được gặp Đức Giê-su. Ông Phi-líp-phê nói với ông An-rê, rồi cả 2 ông cùng đến thưa với Đức Giê-su. Đức Giê-su trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.” (Ga 12, 20-33).
Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, ba lần Đức Giê-su đã tiên báo cuộc Thương khó và Tử nạn của Người (Lần thứ nhất: xc. Mt 16, 21-27; Mc 8, 31-33; Lc 9, 22. Lần thứ hai: xc. Mt 17, 22-23; Mc 9, 30-32; Lc 9, 43-45. Lần thứ ba: xc. Mt 20, 17-19; Mc 10, 32-34; Lc 18, 31-34). Điều ấy làm cho các môn đệ thất vọng. Giờ đây họ đang có mặt tại nơi sẽ xảy ra điều Người đã tiên báo, nên chắc họ cảm thấy tinh thần nao núng. Nhưng Đức Giê-su muốn họ nhìn cái chết của Người theo ý nghĩa kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa Cha đã ấn định. Trước hết, Người cho họ biết giờ chết của Người là “giờ Con Người được tôn vinh”. Rồi để giải thích “được tôn vinh” như thế nào, Người sử dụng dụ ngôn cái chết của hạt lúa là khởi đầu cho tiến trình “sinh được nhiều hạt khác” (Bài Tin Mừng CN V.MC-B – Ga 12, 20-33).
Nhiều người chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay cho rằng: “Như hạt lúa miến gieo xuống đất phải mục nát đi mới có thể nảy sinh nên những cây lúa miến tươi tốt trổ sinh nên bao hạt lúa miến khác”. Nếu căn cứ vào thực tế sẽ thấy không phải như vậy, vì hạt lúa gieo vào lòng đất không hề mục nát, bởi nếu mục nát thì không thể mọc thành cây lúa rồi trổ sinh hoa trái được. Thực sự, hạt lúa chỉ hư đi 2 mảnh vỏ trấu bên ngoài khi hạt gạo bên trong nảy mầm (đâm rễ và trổ sinh 2 cái lá đầu tiên). Thực ra, Đức Ki-tô cũng không hề nói mục nát, mà Người dùng tiếng “chết” để chỉ sự biến đổi từ sự chết sang sự sống: Cái hình hài bề ngoài là 2 mảnh vỏ trấu (ám chỉ thân xác con người) chết đi để mầm sống bên trong là hạt gạo (linh hồn) nảy sinh cây lúa khác (thu nhận các tín hữu mới). Đức Ki-tô luôn dùng sự mâu thuẫn hay đối kháng trong vật chất hoặc cuộc sống loài người để nêu bật lên chủ ý của Người. Cũng trong bài Tin Mừng hôm nay, từ vấn đề chết – sống của hạt lúa miến, Người muốn nhấn mạnh đến sự sống vĩnh cửu mai sau:
Người đã từng dạy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận như yêu chính mình.” (Mt 22, 37-39). Nay Người lại dạy: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất” (Ga 12, 25). Như vậy thì có gì mâu thuẫn không? Muốn “Yêu anh em như yêu chính bản thân mình” (“ái nhân như ái thân”) thì tiên vàn phải yêu bản thân trước đã, nhiên hậu mới có thể san sẻ tình yêu ấy cho anh em. Không ai có thể ghét bản thân để đi yêu tha nhân được. Chính vì thế, mới nghe qua “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất” thì thấy có vẻ mâu thuẫn, nhưng nếu bình tĩnh đọc tiếp Lời dạy của Đức Ki-tô sẽ hiểu rõ Người muốn dạy thế nào (“còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” – Ga 12, 25). Coi thường (xem nhẹ) mạng sống ở đời này, sẵn sàng từ bỏ nó (từ bỏ chính mình) thì mới có hy vọng đến được với sự sống đới đời.
Cũng đã có một thời gian ở Việt Nam (trước năm 1975) nổi lên phong trào đưa ra khẩu hiệu “cái tôi đáng ghét”. Tìm hiểu kỹ phong trào này, thấy mâu thuẫn ngay từ cơ bản. Tại sao thế? Nếu anh thực sự ghét cái tôi của anh thì anh cứ việc ghét và trừ khử nó đi, chẳng cần phải lu loa với mọi người làm chi. Sở dĩ anh hô hoán lên “cái tôi đáng ghét” chỉ cốt để thiên hạ thấy và thán phục anh là con người biết sống khiêm tốn (không đề cao “cái tôi”) và có lòng vị tha (tôn trọng, yêu mến tha nhân). Như vậy thì chẳng phải là anh đã quá yêu anh và còn muốn mọi người yêu mến tôn trọng anh nữa đó sao? Thông thường tâm lý con người luôn chỉ biết yêu mình, yêu mình hơn tất cả, còn đối với anh em thì… hãy đợi đấy! Chính vì thế nên Đức Ki-tô mới dạy “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.” (Mt 7, 12). Quả thật mình có yêu bản thân mới mong muốn người khác làm cho mình những điều tốt đẹp, vậy thì hãy làm cho anh em những điều tốt đẹp như mình mong ước anh em làm cho mình. Đó là một cách diễn tả khác của Lời dậy “yêu người thân cận như chính mình”. Đức Khổng Tử cũng dạy tương tự: “Điều gì mình không muốn (người khác) làm cho mình, thì (mình) cũng đừng làm cho người khác” (“Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” – Luận Ngữ).
Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay nói về “Hạt lúa cần phải chết đi”. Quả thật 2 mảnh vỏ trấu bên ngoài hạt gạo (hình ảnh thân xác con người) phải chết đi thì hạt gạo mới nảy mầm sống mới và sinh nhiều hạt lúa khác. Mạng sống con người nơi trần thế là tro bụi tất nhiên sẽ trở về với bụi tro, nếu cứ bám chặt lấy những hư danh phù phiếm chóng qua trên đời, thì chắc chắn sẽ mất tất cả. Còn nếu chân nhận được cuộc sống trường tồn vĩnh cửu mai sau sẽ “khóc lóc nghiến răng” hay “chan hoà hạnh phúc” là tuỳ thuộc ở chỗ ngay trong cuộc sống tạm bợ này có biết sẵn sàng “coi thường mạng sống mình” hay không mà thôi. Và như thế thì Lời dạy của Đức Ki-tô đã rõ ràng như 2 với 2 là 4: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.” (Mt 16, 26). Người cũng không dạy suông mà lấy ngay chính mạng sống trần thế của Người để minh họa, dẫn chứng cho Lời dạy chí tình chí nghĩa ấy (“Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” – Pl 2, 8-9).
Hỡi “cái tôi” (đáng yêu hay đáng ghét?!!) của tôi ơi! Hãy lắng nghe: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro. Một mai người sẽ trở về bụi tro. Ôi! Thân phận con người tựa bông hoa nở tươi. Một làn gió nhẹ lung lay cũng biến tan sắc màu.” (Kim Long – “Hỡi người” – TCCĐ). Ôi! Lạy Chúa Giê-su! Xin cho con được sáng mắt sáng lòng nhìn ra thân phận yếu hèn mỏng manh như đoá hoa phù dung sớm nở tối tàn của con, để con luôn biết can đảm từ bỏ cái tôi – cái xác phàm tục như hai mảnh vỏ trấu của hạt lúa mì – mà sống theo Lời Chúa dạy, ngõ hầu được như Thánh Phao-lô thủa xưa: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 19-20).
Ôi! Lạy Chúa! “Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết.” (Tv 50, 7-9). Ôi! “Lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại, Đức Giê-su Ki-tô đã hiến thân chịu khổ hình; xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết noi gương Người tận tình yêu thương mọi anh em. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.” *(Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật V Mùa Chay)
.
AI YÊU QUÍ MẠNG SỐNG MÌNH THÌ SẼ MẤT
Fx Đỗ Công Minh
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Gioan cho mỗi người tín hữu chúng con nhận ra điều kiện để gặp được Chúa Giêsu. Những người Hy Lạp ngày đó chắc chưa hề biết Chúa, có chăng họ mới chỉ nghe nói về Người. Nhân ngày Lễ Vượt qua, một Lễ lớn của người Do Thái, họ biết Chúa Giêsu chắc sẽ tham dự nên nhờ ông Philipphê giới thiệu. Nghe biết điều ấy, Đức Giêsu đã nói về thời gian của Người :” Đã đến giờ Con Người được tôn vinh “ . Nhân dịp này Chúa cho các ông biết về việc Người sắp phải đi vào cuộc thương khó. Với hình ảnh rất ấn tượng : Hạt lúa mì, một lọai hạt giống rất gần gũi với dân tộc Do Thái. Như nhiều lần Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để giảng dạy. Lần này Người ví chính mình như một hạt lúa mì, muốn trổ sinh nhiều bông hạt phải vùi sâu trong lòng đất, phải chịu đau đớn nứt lớp vỏ bên ngòai, tức là chết đi, để phần hạt nhân bên trong nẩy mầm, đâm rễ hầu trở thành những đọt cây vươn lên mặt đất, trưởng thành sinh sôi nhiều bông hạt. Còn không chấp nhận tự hủy mình, nó sẽ trơ trọi, vô tác dụng. Một cách tiên báo về cuộc tử nạn và Phục sinh của Người sắp trải qua. Cũng qua đây, Chúa muốn mời gọi những ai muốn đến với Người: ” Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại cho cuộcsống đời đời ”. Đức Giêsu cũng hứa cho những người muốn theo Người : ” Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy “.
Giáo hội Việt Nam chúng con, cách riêng tại Giáo phận Saigon, những ngày này đang chìm trong đau thương theo sự thông thường của cuộc sống con người. Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc đã được Chúa đưa về nước Người, ngay trong thời gian đức cha về lại nơi cội nguồn của Hội Thánh, viếng mộ hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phao Lô. Ai ai cũng thương tiếc, ai ai cũng xót xa. Nhưng trong lòng tin vào Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, chúng con nhận ra rằng Đức Tổng Phaolô như hạt lúa mì được vùi sâu trong lòng đất sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. Cho đến những giờ phút cuối đời, Đức Cha đã sống đời “Tự hủy”, phó thác trọn đời mình cho Chúa, dâng Thánh lễ cuối cùng của cuộc đời tận hiến với lòng hân hoan, với niềm xác tín muốn hiến trọn đời mình làm của Lễ dâng lên Thiên Chúa, như bài ca “Hy lễ cuối cùng”:
Lạy Chúa, trọn đời con hiến dâng cho Ngài, trọn đời con bước theo chân Ngài. Con muốn Chúa ở đâu, thì cho con ở đó, để trọn đời con dâng làm hy lễ, để trọn đời con trong Chúa muôn đời”
Xin cho con những ngày mùa Chay Thánh này, qua biến cố về sự ra đi của vị chủ chăn, người con của Chúa là Đức Tổng Phaolô Bùi Văn Đọc, con càng ý thức hơn về thân phận mình, làm sao để sống xứng đáng là hạt lúa mì của Chúa. Con cũng sẽ trở về nơi mình xuất phát, nhưng con có trổ sinh được điều gì tốt đẹp trước mặt Chúa và mọi người ?
Xin Chúa giúp con, Chúa ơi !
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay năm B dâng hiến những chủ đề rất gần với những tưởng niệm lễ Vượt Qua: thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô. Cả ba bài đọc đều cấu trúc theo một nét chung: ở giữa lòng của nỗi xao xuyến vang lên một tiếng kêu tràn đầy hy vọng.
Gr 31: 31-34
Trước khi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ bị tàn phá, ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố rằng không có gì phải mất cả: này sắp đến những ngày, Thiên Chúa sẽ thiết lập một “Giao Ước Mới”. Đức Giê-su lấy lại diễn ngữ này khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em”(Lc 20: 20; 1Cr 11: 25).
Dt 5: 7-9
Thư gởi tín hữu Do thái nhắc nhớ rằng Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến tận đáy lòng trước tấn thảm kịch của sự chết, nhưng nhờ cuộc Tử Nạn của Ngài, sự chết trở nên “nguồn ơn cứu độ đời đời” cho nhân loại.
Ga 12: 20-33
Tin Mừng Gioan gợi lên rằng trước cuộc Tử Nạn gần kề của Ngài, Đức Giê-su xao xuyến, nhưng rồi trấn tĩnh khi nghĩ đến cuộc chiến thắng vinh quang của Ngài trên Xa-tan, quyền lực của sự Dữ.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 31-34)
Chúng ta thường nghĩ rằng diễn ngữ “Giao Ước Mới”, được rút gọn: “Tân Ước”, xuất xứ từ các sách Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su đã sử dụng diễn ngữ này vào buổi chiều Tiệc Ly: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25). Thật ra, diễn ngữ này được gặp thấy rồi trong Cựu Ước. Diễn ngữ này xuất hiện lần đầu tiên ở nơi đoạn trích hôm nay đánh dấu đỉnh cao sứ điệp tinh thần của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ông loan báo một “Giao Ước Mới” dưới hai dấu chỉ: tác động nội tâm của Thần Khí và ơn tha thứ tội lỗi. Quả thật, đây là sấm ngôn linh hứng của vị ngôn sứ, nhưng cũng là thành quả của một kinh nghiệm mà vị ngôn sứ đã sống với một tâm trí minh mẫn.
Kinh nghiệm này được hình thành hai giai đoạn: “thời kỳ hạnh phúc” và “thời kỳ bi thương” của dân tộc mình. Giê-rê-mi-a có lẽ chào đời vào năm 645 trước Công Nguyên. Vào thời niên thiếu của mình, ông đã kinh qua thời kỳ hưng phấn: cuộc cải cảnh của vua Giô-si-gia, khởi sự vào năm 622 trước Công Nguyên. Trước triều đại của vị vua cải cách này, là triều đại của vua Mơ-na-se, vị vua vô đạo đã du nhập và phổ biến việc thờ ngẫu tượng cho đến tận Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Ông còn bảo trợ tội bội giáo của dân chúng nữa.
- Thời kỳ hạnh phúc
Vào năm 622, trong khi Nhà Đức Chúa đang được trùng tu, người ta tìm thấy “sách Luật” (có thể đây là sách Đệ Nhị Luật hay ít ra những bản văn cốt yếu của sách này), sách đã bị quên lãng hơn nữa thế kỷ qua (vua Mơ-na-se đã cai trị từ năm 687 đến 642 trước Công Nguyên).
Vua Giô-si-gia công bố trước toàn dân tất cả các lời trong sách Luật đã tìm thấy trong Nhà Đức Chúa. Vua long trọng cam kết đi theo đường lối của Đức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Ngài. Toàn dân đồng thanh chấp nhận Giao Ước (2V 23: 1-3). Vua Giô-si-gia thực hiện cuộc cải cách tôn giáo tận căn: trừ tiệt tất cả mọi vết tích thờ ngẫu tượng ra khỏi đất nước, dẹp bỏ các tế đàn ở nơi cao và tập trung việc phụng tự kính Đức Chúa vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Nhưng than ôi! Vào năm 609, vua tử trận trong cuộc chiến chống quân đội Ai-cập. Ngay sau cái chết của vua, nền phụng tự ngoại giáo lại có cơ hội bộc phát. Chính vào thời điểm này mà những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a vang lên, loan báo những tai họa thảm khốc nhất nếu nhà Giu-đa không thành tâm hoán cải (Gr 26). Vì thế, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã chứng kiến việc tái lập Giao Ước bị thất bại: công việc cải cách đã tác động đến phụng tự, nghi lễ, nhưng đã không biến đổi tấm lòng của dân chúng. Vị ngôn sứ không quên bài học này.
- Thời kỳ bi thương
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, được mệnh danh là ngôn sứ của những tai họa, không ngừng cảnh báo quốc họa rất gần kề; vì thế, người ta đã âm mưu hãm hại ông, quấy nhiễu ông và tống giam ông. Những sấm ngôn của ông bị vua Giô-gia-kim xé từng trang và bỏ vào lò sưởi. Tuy nhiên, những lời sấm này đã được ứng nghiệm. Kinh thành Giê-ru-sa-lem bị quân đội của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đánh chiếm vào năm 597 trước Công Nguyên; thành phần ưu tú bị phát lưu ở Ba-by-lon; Đền Thờ bị phá hủy vào năm 587, sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ hai.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đọc được những ý định của Thiên Chúa qua thực tại bi thảm này: cuộc tái lập Giao Ước tỏ ra thất bại, Thành Đô hoang tàn đổ nát, Đền Thờ chẳng bao lâu sau bị tàn phá, đây không phải là những dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa có một kế hoạch khác, vì lòng chai dạ đá của dân Ngài sao? Chính như vậy mà ngay vào lúc Kinh Thành Giê-ru-sa-lem sắp bị tàn phá, vị ngôn sứ loan báo rằng không có gì phải mất cả và diễn tả niềm hy vọng bất diệt của Ít-ra-en bằng những lời lẽ tuyệt vời: “Này sắp đến những ngày” Đức Chúa sẽ thiết lập với dân Ngài một Giao Ước Mới, không còn là Giao Ước được khắc trên bia đá như Ngài đã ban cho ông Mô-sê, cũng không trên cuốn sách như được tìm gặp trong Đền Thờ, nhưng sẽ được ghi tạc vào lòng dạ dân chúng, sẽ khắc sâu vào tâm khảm dân chúng…
Ở những nơi khác, vị ngôn sứ công bố: “Ta sẽ ban cho chúng một tâm hồn để nhận biết rằng chính Ta là Đức Chúa” (Gr 24: 7) hay “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và một con đường hành động, để chúng kính sợ Ta mãi mãi, nhờ đó chúng và con cháu sau này được sống hạnh phúc. Ta sẽ lập với chúng một Giao Ước muôn đời: Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo dõi, và không ngừng thi ân cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta, để chúng không xa rời Ta nữa”(32: 39-40).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo cuộc sống theo Thần Khí và dưới tác động của ân sủng. Nhờ tác động của Thần Khí, mọi người, từ bé thơ cho đến người lớn, đều nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa mà không cần phải dạy bảo nhau nữa.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong cảnh lưu đày ở Ba-by-lon cũng thoáng thấy một niềm hy vọng về một Giao Ước Mới: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Chính thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành” (Ed 36: 26-27).
Cuộc đời của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã là một mẫu gương về một cuộc sống trong Thần Khí rồi. Một con người đạo hạnh tận đáy lòng, đối thoại thường hằng với Thiên Chúa, vị ngôn sứ xứng đáng được gọi là “cha của kinh nguyện”. Bằng cuộc sống của mình, ông làm chứng về tôn giáo mà ông loan báo. Chính từ môi miệng ông mà sấm ngôn về “Giáo Ước Mới” được thốt lên thành lời. Đó không phải là hợp lý sao?
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 7-9)
Phải nói một cách chính xác, “thư gởi các tín hữu Do thái” tự nó không thực sự là một “bức thư” vì tác giả không tự giới thiệu mình và cũng không cho biết người nhận thư là ai (nhan đề “thư gởi tín hữu Do thái” xuất hiện sau này vào thế kỷ thứ hai).
Bức thư này được gán cho thánh Phao-lô vì vài tư tưởng và ngôn từ rất gần với tư tưởng và ngôn từ của thánh nhân, nhưng đề tài trọng tâm không thuộc về thánh Phao-lô: tác giả muốn chứng tỏ rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế Tân Ước, cao vời trên vị Thượng Tế Cựu Ước. Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian tuyệt vời, vị Tư Tế duy nhất và hiến lễ của Ngài thì thập toàn. Ấy vậy, thánh Phao-lô không bao giờ gán cho Đức Ki-tô tước hiệu tư tế.
Chắc hẳn người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái chịu những bách hại và chắc chắn mang một nỗi nhớ khôn nguôi về nền phụng tự Cựu Ước. Về niên biểu, bức thư này chắc chắn được viết trước khi Đền Thờ và Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá vào năm 70 sau Công Nguyên, bởi vì tác giả nói về phụng vụ Đền Thờ như phụng vụ hiện hành và luôn luôn sinh động. Ngoài ra, nếu bức thư được viết sau biến cố năm 70, tác giả không thể nào không ám chỉ đến biến cố này, vì biến cố này rõ ràng củng cố đề tài của ông về tình trạng vô hiệu của Giao Ước Cũ.
Đoạn trích ngắn này diễn tả sâu sắc hai khía cạnh bất khả phân của con người Đức Ki-tô: nỗi xao xuyến của kiếp sống phàm nhân và vị thế Con Thiên Chúa. Hai khía cạnh này khiến cuộc Tử Nạn của Ngài được phơi bày hết mức kịch tính.
- Kiếp sống phàm nhân (5: 7)
Qua những lời này: Đức Giê-su “lớn tiếng kêu van khóc lóc, mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết”, chắc hẳn tác giả ám chỉ đến những lời khẩn nguyện tột cùng của Đức Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni, trong đó Đức Giê-su đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha lớn tiếng đến mức ba môn đệ ở gần đó có thể nghe được. Nhưng đây cũng có thể ám chỉ đến tiếng kêu cuối cùng của Ngài lên cùng Cha Ngài trong cơn hấp hối trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con”(Mt 27: 46). Dù thế nào, tác giả muốn nhắc nhớ rằng Đức Giê-su đã chia sẻ tận mức những yếu đuối của chúng ta và nỗi sợ hãi của chúng ta trước cái chết. Quả thật, “Thiên Chúa đã nhận lời Ngài” nhưng không theo cách thế mà con người ở nơi Đức Giê-su mong ước: để có thể chiến thắng tử thần, Ngài phải trải qua sự chết.
- Vị thế Con Thiên Chúa (5: 8-9)
Trong phần hai, tác giả muốn cho thấy rằng không có bất kỳ kiếm khuyết nào ở nơi Đức Giê-su. Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su chấp nhận thánh ý Chúa Cha với một thái độ vâng phục trọn vẹn. Từ “vâng phục” âm vang tư tưởng của thánh Phao-lô. Thánh Phao-lô nói về “sự vâng phục tràn đầy niềm tin”.
“Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục”. Gian khổ là trường đào tạo tốt nhất để thành nhân, nhân loại tiến bộ nhờ những kinh nghiệm đau thương. Tác giả áp dụng tư tưởng này vào Đức Ki-tô: “bản thân đã tới mức thập toàn”. Chính không phải với tư cách là Con Thiên Chúa mà Ngài “đạt tới mức thập toàn”, nhưng với tư cách là Đấng Cứu Độ. Bằng đau khổ mà Ngài sẵn lòng chấp nhận, Đức Ki-tô đã trở nên hy lễ hữu hiệu tận mức đem lại ơn tha thứ tội lỗi. Như vậy, Ngài trở nên Đấng Trung Gian lý tưởng, vừa người anh em của nhân loại vừa Con của Thiên Chúa, làm một với Thiên Chúa và làm một với chúng ta. Đó là một trong những tư tưởng cốt yếu của “thư gởi tín hữu Do thái” này .
TIN MỪNG (Ga 12: 20-33).
Trong Tin Mừng Gioan, câu chuyện này xảy ra ngay sau bài tường thuật về việc Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vào lúc lễ Vượt Qua sắp đến gần.
Trong cùng một chuyển động, đến lượt mình, những người Hy-lạp, đại diện thế giới lương dân, bày tỏ ước nguyện “muốnđược gặp” Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ “muốn được gặp” bày tỏ dáng dấp niềm tin rồi. Lời thỉnh cầu của họ đã gây xúc động sâu xa ở nơi Đức Giê-su: những người Hy lạp này đại diện thế giới lương dân mà cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài sẽ mở ra cho họ con đường cứu độ. Cuộc Tử Nạn sắp đến gần của Ngài làm cho Ngài xao xuyến.
Câu chuyện này thật cảm động. Dù thánh ký không nêu lên nỗi xao xuyến ở vườn Ghết-sê-ma-ni, nhưng tình tiết được trình bày ở đây như tham dự trước nỗi xao xuyến ở vườn Ghết-sê-ma-ni.
- Niềm tin của những người Hy-lạp
Những người Hy-lạp này đến Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua, họ thuộc vào số những lương dân có thiện cảm với Độc Thần Giáo Do thái. Sách Công Vụ gọi họ “những người sùng mộ Thiên Chúa” hay “những người kính sợ Thiên Chúa”.
Họ ngỏ lời xin được gặp Đức Giê-su với ông Phi-líp-phê. Ông Phi-líp-phê nói lại với ông An-rê, đoạn cả hai đến thưa chuyện với Thầy mình. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp với những người Hy-lạp đến xin gặp Ngài. Thời gian của những cuộc chuyện trò riêng tư đã qua, nay giờ thực hiện ơn cứu độ phổ quát đã điểm.
- Giờ của Đức Giê-su
Trước đây, Đức Giê-su đã từ chối mang sứ điệp của Ngài đến lương dân, giờ đây Ngài biết rằng thời của họ đã đến; Ngài sắp đổ máu mình ra cho tất cả họ. Trước đó vài ngày, Ngài đã nói: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này” (Ga 10: 15-16). Những chiên khác không thuộc ràn này, chính là những lương dân này, họ đang thỉnh cầu được gặp Ngài. Xúc động tận đáy lòng, Đức Giê-su hân hoan nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!”.
Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” để nói về mình. Tước hiệu này quy chiếu đến thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, trong đó một nhân vật huyền nhiệm “như Con Người đến trên mây trời” nhận được danh dự, quyền năng và vinh quang (Đn 7: 13-14). Tước hiệu bí ẩn này cho phép Đức Giê-su diễn tả tính siêu việt của Ngài ở nơi nhân tính của Ngài, đồng thời vẫn giữ được mầu nhiệm con người Ngài.
“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Trong Tin Mừng Gioan, giờ tôn vinh bắt đầu ở đồi Can-vê. Thật ra, việc tôn vinh bao gồm cuộc Phục Sinh và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, mà bước đầu tiên chính là Thập Giá. Chính ở nơi Thập Giá mà hành động cứu độ viên mãn của Đức Giê-su được thực hiện và ý định yêu thương vô hạn của Thiên Chúa được thể hiện. Chúa Giê-su diễn tả chân lý này bằng một sự so sánh rất giản dị: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
- Lời mời gọi theo Ngài
Chúng ta ghi nhận rằng mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn của Ngài, Ngài đều mời gọi bước theo Ngài trên con đường gian nan của sự từ bỏ: “Ai quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này , thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời” (x. Mt 16: 21-24; Mc 8: 31-35; Lc 9: 22-23). Chính đó là câu trả lời của Ngài cho những người Hy-lạp mong ước được gặp và biết Ngài. Một cách nào đó, Ngài cho họ một cuộc hẹn gặp: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Không ai có thể gặp gỡ Đức Giê-su, nếu không chung bước trên cùng con đường với Ngài.
Viễn cảnh của con đường đau khổ này làm xao xuyến Đức Giê-su. Ba chuyển động nối tiếp nhau: xao xuyến tận đáy lòng, kêu cầu cùng Chúa Cha và chấp nhận dâng hiến mạng sống mình, mà các sách Tin Mừng Nhất Lãm dùng để mô tả con người của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni. Nhưng vào giây phút này, Đức Giê-su không để cho mình ngã quỵ dưới sức nặng của cuộc Tử Nạn, nhưng trấn tĩnh lại ngay. Thêm nữa, một tiếng phán từ trời an ủi Ngài.
- Tiếng phán từ trời
Trong Tin Mừng Gioan, đây là cuộc Thần Hiển duy nhất. Thánh Gioan không tường thuật cuộc Biến Hình; thánh nhân tường thuật biến cố Phép Rửa chỉ gián tiếp và không có bất kỳ ám chỉ nào đến tiếng phán từ trời. Đoạn văn này là đoạn văn duy nhất ám chỉ đến sự can thiệp từ trời. Đây là dấu chỉ sau cùng được ban cho đám đông. Phải chăng đây là dấu chỉ mà người Biệt Phái đòi hỏi nhưng bị từ chối? Đức Giê-su chỉ ban dấu chỉ này vào lúc quá muộn: án tử của Ngài đã được quyết định rồi.
- Cuộc chiến thắng trên Xa-tan
Vào lúc nỗi buồn phiền dâng cao, Chúa Giê-su lấy lại niềm hưng phấn lúc ban đầu: ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho thế gian sẽ đánh dấu sự thất bại của Xa-tan. Nhân loại sẽ tránh khỏi quyền thống trị của sự Dữ. Thập Giá sẽ là dấu chỉ của cuộc chiến thắng này: “Phần tôi, khi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Động từ “nâng lên” được dùng ở đây có nghĩa vừa “được giương lên cao” vừa “được tôn vinh”, tức là được đưa lên trên Thập Giá và được tôn vinh bên cạnh Chúa Cha. Đức Giê-su đã trả lời cho ông Ni-cô-đê-mô theo cùng một cách như vậy: “Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3: 14-15).
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
Hạt lúa mang mầm sự sống, nhưng có chết đi mới sinh nhiều bông hạt, nếu không chết đi, nó chỉ trơ trọi một mình. Đó là quy luật của mọi mầm sống hướng tới ngày sinh hoa kết trái. Nhưng trước cái qui luật ấy, ai cũng sợ hãi, kể cả Đức Giê-su, vị Thiên Chúa làm người: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Tuy xao xuyến, sợ hãi trước ‘Giờ chết’, nhưng Đức Giê-su đã ý thức rằng: Chính lúc chết đi là thời khắc “Con Người được tôn vinh”. Nên Ngài đã sẵn sàng thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến” trong trần gian.
Quả thật, Đức Giê-su đã can đảm, tự nguyện chấp nhận chết treo trên cây thập giá và bị chôn vùi trong lòng đất, rồi ngày thứ ba mới sống lại vinh quang. Hơn nữa, Đức Giê-su có chấp nhận chết đi và chết một cách nhục nhã như thế, thì Hội thánh mới được sinh ra và mọi người mới được kéo lên cùng Thiên Chúa.
“Chết đi để được bước vào đời sống mới” là quy luật của sự sống tự nhiên cũng như sự sống siêu nhiên. Thế nhưng con người, nhất là người thời nay, kể cả các Ki-tô hữu thường chỉ áp dụng quy luật này trong việc tìm kiếm vinh quang trần thế và hạnh phúc đời này, còn sự sống và hạnh phúc đời sau thì chẳng thấy mấy ai. Cụ thể:
Có người sẵn sàng thức khuya dạy sớm, lao tâm khổ tứ để làm giàu, nhưng lại ngại khó ngại khổ trong đời sống đạo.
Có người học đủ mọi thứ, đọc đủ mọi chuyện, nhưng lại không chịu học giáo lý, không chịu đọc Tin Mừng.
Có người tham gia mọi cuộc chơi, không cuộc vui nào vắng mặt, nhưng lại ngại ngùng không tham gia hoạt động tông đồ.
Có người đi đủ mọi nơi mọi chỗ, nhưng nhà thờ, nhà xứ, lễ lạy không thấy đi bao giờ.
Có người tôn thờ, sùng bái mọi thứ, nhưng lại không chịu tôn thờ Chúa.
Có người sẵn sàng đầu tư tiền của, sức khoẻ, thời gian, tâm huyết cho công việc thế trần, nhưng lại chểnh mạng coi nhẹ việc đầu tư cho Nước Trời mai sau.
Có người cẩn thận tuân theo ngày tháng và ‘tứ thời bát tiết’ trong trời đất, để điều chỉnh cuộc sống và thu xếp công việc làm ăn, nhưng lại chẳng tuân theo ngày tháng và Mùa trong năm Phụng vụ mà điều chỉnh cuộc sống và thu xếp việc linh hồn
Có người tận tâm phục vụ mọi đối tượng đến nỗi bán rẻ cả nhân phẩm và coi thường mạng sống của mình, nhưng lại ngại ngùng phục vụ Đức Ki-tô và Vương quốc của Ngài.
Sống như thế là chỉ lo giữ mạng sống mình và tìm kiếm những sự đời này. Đức Giê-su dạy rằng: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời sau. Ai tin theo và phục vụ Thày, thì Thày ở đâu, kẻ tin theo và phục vụ Thày cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thày, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy”.
Lạy Chúa Giê-su, Ngài là hạt lúa mì của Thiên Chúa Cha gieo xuống cánh đồng trần gian đã vui lòng chết đi trên cây thập giá và phục sinh vinh hiển, để khai mở cho nhân loại một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự sống bất diệt nơi Thiên Chúa. Xin cho con cũng biết đóng đanh tính xác thịt, thế gian và tội lỗi cùng với Chúa, để được cùng với Ngài trỗi dậy trong vinh quang vĩnh cửu. Amen.
.
ĐÃ ĐẾN GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn , Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật V MC hôm nay trình thuật cho chúng ta một bối cảnh “dầu sôi, lửa bỏng”, bởi vì, “ hành trình” Tử Nạn và PHục Sinh của Chúa Giêsu lên Giêrusalem sắp diễn ra.
Có mấy người Hy-lạp , lên Giêrusalem để thờ phượng Thiên Chúa, nghe danh tiếng Chúa Giêsu, họ muốn gặp gỡ Người, liền tìm đến ông Phi-lip –phê người Betsaiđa, miền Ga-li-lê, để xin được gặp Chúa Giêsu. ông Phi-lip-phê liền đi gặp ông An-rê, hai người đến thưa với Chúa Giêsu, thì Người trả lời rằng : “ Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !” ( c 23)
Như chúng ta biết, Mầu Nhiệm Nhập Thế và Nhập Thế của Chúa Giêsu là một Mầu Nhiệm làm Người, để cứu chuộc nhân loại tội lỗi.
Vì vậy, khi “ Đến giờ Con Người được tôn vinh” , có nghĩa là đồng nghĩa với “Con Người phải chịu Tử Nạn”, như vậy, cuộc tử Nạn của Chúa Giêsu là một Mầu Nhiệm, vì thế khi nói đến Mầu Nhiệm là nói đến “chương trình” bởi Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn có “kế hoạch” của Ngài, mà , mà ngôn ngữ nhân loại gọi là “Thánh Ý” nhiệm mầu. Vì vậy, tất cả mọi biến cố trong cuộc đời Cứu Thế của Chúa Giêsu là một Mầu Nhiệm.
Khi nói đến “Mầu Nhiệm” , thì phàm nhân không thể nào hiểu thấu “Thiên Ý” của Thiên Chúa, dù ngay lúc bấy giờ những người chứng kiến thân cận với Đấng Cứu Thế cũng không thể hiểu được., huông chi là thế hệ chúng ta.
Nhưng, qua sự mạc khải từ ân sủng muôn đời, phàm nhận đồi lúc nhận được do tình thương bởi Thiên Chúa, Đấng là tình yêu muôn thuở., nói ra những Ý Định Nhiệm Mầu cho chúng ta.
Hôm nay đây, theo Tin Mừng (Ga 12 , 20 – 33), Chúa Giêsu cho chúng ta biết, “ hạt lúa mỳ gieo vào lòng đất không chết đi, thì vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chêt đi nó mới sinh nhiều bông hạt “ ( c 24)
Lời Chúa cho chúng ta thấy một nghĩa đen, một hình ảnh truyền sinh, có nghĩa là “lưu truyền sự sống”, có nghĩa là : hạt giống nảy mầm là hạt giống tốt, hạt giống ấy không thể còn nguyên như hình dạng ban đầu, mà là phải “ chết “ đi. Cái chết cho chúng ta thấy sự hư nát, sự thối rửa, sự tan rã.. Như vậy, thân hạt lúa phải đau đớn, phải chuyển đổi, phải cọ sát, chứ không y nguyên được.
Từ đó, chúng ta hiểu được hành trình làm người của một đời người và đến “hành trình” Cứu Chuộc trong Mầu Nhiệm Làm Người của Chúa Giêsu như thế nào. Từ đó, chúng ta.hiểu được câu kế tiếp ( c 25) “ Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất: còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
Câu nói ấy của Chúa Giêsu đường như nghe” chói tai” , ngược đời, đối vối người đời.nhưng thật là chân lý, bởi vì, “ hạt lúa gieo vào lòng đất, nếu không chết đi thì nó trơ trọi một mình…”. Như vậy, khi hạt lúa chết thì chính lúc nó vực dậy sự sống truyền sinh.
Từ đó, một định nghĩa đúng cho Lời của Chúa Giêsu là : Con người ( phàm nhân) là sáng tạo và cống hiến.. Vâng, thật ra “ SÁNG TẠO và CỐNG HIẾN”. chính là hình ảnh của Thiên Chúa, thật ra người đời không thể làm được điều nầy, nếu người đời không có Thiên Chúa.
Những ai mang hình ảnh Thiên Chúa đều muốn thực thi chân lý nầy, “Sáng Tạo và Cống Hiến” là hình ảnh Thiên Chúa, là hạt lúa gieo vào lòng đất, là nhận lãnh và trao ban.
Theo đó Lới Chúa không phải là “ ngườc đời” mà là đế Cứu Đời theo chân lý. Cứu đời không phải “cầm tiền” cho tha nhân theo nghĩa đen, mà là thực thi công lý và tình thương theo Tin Mừng của Chúa Giêsu..
Phần thứ 2:
- Chúng ta thấy Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu vang vọng Đất Trời, minh chứng lời của Người là chân lý từ trong Thiên Chúa, và thấu động đến Thiên Chúa là Cha. Tâm hồn Chúa Giêsu cũng xao xuyến bồn chồn, một tâm hồn ưu tư, buồn não cho thế nhân.
- Đến độ, Người thốt lên Lời :” Lạy Cha xin tôn vinh Danh Cha”
Liền có tiếng vọng xuống : “ Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa” ( c 28)
Như vậy đây là lần thứ ba, tiếng phán từ Trời bởi Thiên Chúa Cha, minh chứng Đức Kitô – Giêsu là Người Con Chí Ái.
-Lần thứ nhất : Người Chịu Phép Rửa.
-Lần thứ hai: Người biến hình trên núi.
-Lần thứ ba : Người chuẩn bị bước vào hành trình tử nạn.
Phần Người, “ Khi được giương cao khỏi mặt đất, Người sẽ kéo mọi người lên với Người ” ( c 32) Như vậy, khi hoàn tất phần Nhân Tính, Chúa Giêsu sẽ trở vế phần Thiên Tính của Người trong Nước Vinh quang, và kéo những ai bước theo Người trong đau khổ dưới thế trần cùng lên với Người./.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con .
.
CON ĐƯỜNG TỰ HỦY CỦA ĐỨC GIÊSU
LÀ QUA ĐAU KHỔ VÀO VINH QUANG
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 12,20-33
(20) (Khi ấy) trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp, (21) họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa miền Ga-li-lê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su. (22) Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: “Đã đến Giờ Con Người được vôn vinh! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy. Và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy. (27) Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”. (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: “Đó là tiếng sấm!”. Người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!” (30) Đức Giê-su đáp: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
- Ý CHÍNH:
Việc dân Do Thái suy tôn khi đón rước Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem và việc dân ngoại đến xin gặp mặt là dấu hiệu tiên báo đã đến “Giờ” Đức Giê-su được tôn vinh. Được tộn vinh nghĩa là được vào trong vinh quang qua khổ nạn thập giá, giống như hạt lúa chỉ phát sinh được nhiều hạt lúa khác sau khi trải qua một quá trình tự hủy trong ruồng đất. Đức Giê-su qua cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, để ban ơn cứu độ cho loài người, và đến ngày tận thế Người sẽ đến lần thứ hai để phán xét và tiêu trừ ma quỷ cùng những kẻ theo chúng vào hỏa ngục đời đời.
3) CHÚ THÍCH:
– C 20-22: + Mấy Người Hy lạp: Đây là lương dân theo văn hóa Hy-lạp, có thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Họ lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su, họ đã mạnh dạn đến xin gặp Người. + Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su: Sở dĩ hai ông Phi-líp-phê và An-rê cùng đến thưa Đức Giê-su điều này vì cả hai ông đều nói thạo tiếng Hy-lạp, và cả hai đều sống ở Bết-xai-đa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.
– C 23-25: + Đã đến Giờ: Tin Mừng nhiều lần nói đến “Giờ”: Giờ của Ta (x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x. Ga 7,30 ; 8,20), Đã đến Giờ Người phải rời khỏi thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giê-su bị bỏ rơi (x. Ga 16,32), Giờ Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + được tôn vinh: là Giờ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Đức Giê-su phải trải qua cuộc khổ nạn rồi sống lại để vào trong vinh quang cùng với Chúa Cha. + Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất: Đức Giê-su đã dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có chết đi mới gây được một mùa gặt bội thu. Cũng vậy, Đức Giê-su cũng phải trải qua cuộc thương khó và bị giết chết, rồi mới được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Từ cạnh sườn của Người bị đâm thâu, Hội Thánh được sinh ra và ngày một phát triển. + Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này…: Coi thường hay ghét mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Đây là một câu có hai vế đối nghịch nhau: Ai chăm lo hưởng thụ ở đời này thì sẽ mất sự sống vĩnh cửu đời sau. Còn ai chấp nhận gian nan thử thách đời này, thì sẽ được sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35 ; Mt 16,25 ; Lc 9,24).
– C 26-28: + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su thì phải đi con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống lại. +Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giê-su cảm thấy bất an xao xuyến, vì Người có nhân tính giống như loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ Người vô tội (x. Ga 8,46 ; 1 Ga 3,5). + Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giê-su cũng sợ hãi, đau khổ trước cái chết như mỗi người chúng ta. Người đã cầu xin Chúa Cha cứu mình khỏi “Giờ khổ nạn” ấy. Nhưng Người sẵn sàng chấp nhập vâng theo Ý Chúa Cha, nghĩa là cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ. Lời cầu xin này cũng được lặp lại trong vườn Câu Dầu (x. Lc 22,42-44). + Có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”: Tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống như khi Đức Giê-su chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và biến hình (x. Mt 17,5). Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Ngài nhờ những “dấu chỉ” do Đức Giê-su thực hiện. Từ đây, Thiên Chúa sẽ lại tôn vinh Đức Giê-su khi cho Người từ cõi chết trỗi dậy.
– C 29-30: + Đó là “tiếng sấm!”… “Tiếng một thiên thần!”: Chỉ mình Đức Giê-su mới nghe được tiếng Chúa Cha. Còn các người khác chỉ nghe thấy âm thanh rền vang mà không hiểu nội dung nói gì ? nên kẻ thì cho đó là tiếng sấm, kẻ khác lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giê-su. Sự kiện này tương tự như trường hợp Sao-lô sau khi bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su là Giờ phán xét và kết án: Những kẻ không tin sẽ bị liệt vào hàng ngũ Xa-tan đối nghịch với Thiên Chúa. Họ sẽ chịu chung số phận là bị loại ra khỏi Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập.
– C 31-33: + Được nâng cao lên khỏi mặt đất: Đức Giê-su sẽ bị treo trên thập giá (x. Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x. Ga 3,13 ; 6, 62), sau khi từ cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giê-su sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Với điều kiện họ cũng phải đi theo con đường tự hủy là bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là chấp nhận cùng uống chén đắng với Người (x. Mt 20,23).
4. CÂU HỎI: 1) Đức Giê-su đã tuyên bố điều gì trước sự kiện dân Do thái hoan hô đón rước Người vào thành Giê-ru-sa-lem và một số lương dân đến xin gặp mặt? 2) “Giờ” của Đức Giê-su được Tin Mừng nhắc đến bao nhiêu lần? 3) “Giờ được tôn vinh” của Đức Giê-su nghĩa là gì? 4) Từ “ghét” sự sống mình ở đời này nghĩa là gì? 5) Tại sao Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến bất an trước giờ tử nạn? 6) Đức Giê-su đã cầu xin Chúa Cha thế nào ? 7) Thế gian bị phán xét và ma quỷ thủ lãnh thế gian sẽ hoàn toàn bị đánh bại vào lúc nào? 8) Muốn được Chúa ban ơn cứu độ, đưa lên thiên đàng hưởng vinh quang với Người đời đời thì ngay từ bây giờ các tín hữu phải làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
- CÂU CHUYỆN:
1) CHA KÔN-BÊ ĐÃ TỰ HỦY KHI CHẾT THAY CHO MỘT BẠN TÙ:
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê được thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck). Về sau ông đã kể lại sự biến đổi của nhà tù đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay cho tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam đã biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh giành thực phẩm được người thân tiếp tế… thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, sẵn sàng nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã có tinh thần tự hủy khi sẵn sàng hy sinh chết thay cho một người không quen biết.
2) MẦU NHIỆM TỰ HỦY CỦA THÁNH GIÁ LÀ ÁNH SÁNG DẪN ĐƯỜNG:
Phi trường quốc tế Pen-syl-va-ni-a là một trong những sân bay lớn nhất và hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng một cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào hướng bay của phi đạo đón nhiều chuyến bay nhất của phi trường.
Do sợ tháp chuông nhà thờ có thể gây nguy hiểm cho các máy bay khi đáp xuống phi đạo, cộng đoàn giáo dân nhà thờ đã gắn trên đỉnh tháp chuông một cây thánh giá bằng đèn nê-ông. Từ đó, mỗi lần đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các viên phi công đều lấy cây thánh giá nê-ông này làm chuẩn để đáp máy bay xuống phi đạo. Cây thánh giá trên nóc nhà thờ được sử dụng như ngọn đèn hải đăng giúp cho tầu thuyền từ ngoài khơi có thể cập bến an toàn.
Cũng vậy, con đường bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa Giê-su cũng chính là đường duy nhất dẫn đưa ta lên trời với Chúa Cha.
3) GIÁ ĐẮT CHO THÁI ĐỘ BẤT NHÂN VÔ CẢM TRƯỚC NỖI ĐAU CỦA THA NHÂN:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu tên cầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đập tàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại, nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình… Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: “Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!”. Người đàn ông ngạc nhiên nói: “Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cô mà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?”
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: “Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy.” Ðiều bất ngờ là các hành khách trước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: “Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?” Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực sâu như tên bắn.
Hôm sau, môt tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng “Phục Hổ Sơn”: Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu bên sườn núi. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã bật khóc khi đọc được bản tin này!
4) NHỮNG CÁI CHẾT TỰ HỦY MANG LẠI HÒA BÌNH CHO NHÂN LOẠI:
Ngày 3/11/1995 Cái chết của Thủ Tướng Ít-raen là YITZHAK RABIN, đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích đã giết ông, vì họ không chấp nhận con đường mà ông đang thực hiện mang lại nền hòa bình giữa dân Ít-ra-en với dân Palestine và các nước vùng Trung Đông.
Cái chết của Thủ tướng Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của MAHATMA GANDHI 50 năm trước: một thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh ta không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy người Ấn giáo tha thứ cho người Hồi Giáo.
Người ta cũng không thể không nhắc đến cái chết vào năm 1968 của MARTIN LUTHER KING, vị mục sư da đen người Mỹ, khi ông đang hăng say đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da đen tại Hoa Kỳ bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động.
Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Cách đây hơn 2000 năm, cái chết của Đức Giê-su chính là khởi điểm cho những cái chết của các vĩ nhân đã hy sinh tự hủy chịu chết để đấu tranh cho nhân loại được sống an vui hạnh phúc hơn.
- SUY NIỆM:
1) Mầu nhiệm tự hủy trong thiên nhiên:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường. Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đên nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: “Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnh kia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dần và không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúa với hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người. Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trăm hạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
2) Con đường tự hủy của Đức Giê-su.
Đức Giê-su đã trỗi dậy từ trong cõi chết và mở ra con đường cứu độ cho loài người chúng ta là “Qua đau khổ vào trong vinh quang”.
Tông đồ Phao-lô đã diễn tả mầu nhiệm tự hủy của Đức Giê-su qua ba giai đoạn như sau:
+ Mầu nhiệm Nhập Thể: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Người giống như hạt lúa được gieo vào lòng đất.
+ Mầu nhiệm Tử Nạn: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8). Đức Giê-su chấp nhận chịu chết đau thương trên cây thập giá giống như hạt lúa phải chịu mục nát đi.
+ Mầu nhiệm Phục Sinh: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,9-11). Đức Giê-su đã từ cõi chết trỗi dậy giống như từ hạt lúa bị mục nát đã trồi lên một mầm xanh là cây lúa và đến mùa cây lúa sẽ trổ sinh ra nhiều bông hạt khác.
Tin Mừng Mát-thêu đã trình bày quá trình tự hủy của Đức Giê-su như sau: “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).
3) Con đường tự hủy của các môn đệ Đức Giê-su.
Đức Giê-su đã mời gọi các môn đệ đi theo con đường thập giá của Người: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Nhóm 12 Tông đồ sau khi nhận được Thánh Thần đã chấp nhận con đường tự hủy của Đức Giê-su như tông đồ Phao-lô đã chia sẻ với các kỳ mục ở Ê-phê-sô như sau: “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi” (Cv 20,22-23).
Sau các Tông đồ, đến lượt các tín hữu cũng chọn đi con đường tự hủy là chấp nhận chịu chết vì danh Chúa, nhờ đó Hội Thánh mới có điều kiện để ngày càng phát triển như lời Téc-tu-li-a-nô đã tiên báo: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”.
4) Con đường tự hủy của các tín hữu hôm nay.
Để đi con đường tự hủy qua cuộc tử nạn vào trong vinh quang phục sinh của Đức Giê-su, các tín hữu cần phải được ơn Thánh Thần trợ giúp. Chúng ta hãy chuyên cần cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a để đón nhận được ơn Thánh Thần hầu được biến đổi nên người mới.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy áp dụng mầu nhiệm tự hủy bằng việc thực hành các nhân đức đối lập với các thói hư như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức”:
– Mỗi ngày ta quyết tâm thực hành một việc tốt như sau:
Để loại trừ thói ích kỷ lười biếng, chúng ta sẽ xếp gọn đồ đạc và quét nhà lau nhà mỗi ngày.
Để làm chủ thói xấu vô cảm, chúng ta sẽ lên tiếng bênh vực người thân cô thế cô thay vì im lặng.
Để loại trừ thói kiêu ngạo tự mãn, chúng ta sẽ năng khen ngợi tha nhân cách thành thật.
Để loại trừ thói ganh ghét đố kỵ, chúng ta sẽ bào chữa lỗi lầm thay vì phê phán người vắng mặt.
Để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, chúng ta sẽ mỉm cười thân thiện và mở lời chào hỏi làm quen với người mới gặp. Tránh sự to tiếng la mắng người khác.
Để “thêm bạn bớt thù”, chúng ta sẽ mở rộng vòng tay để kết thân với người bên cạnh. Mỗi gia đình công giáo sẽ quan tâm cầu nguyện và đi bước trước đến chào hỏi gia đình mới đến khu xóm để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng.
- THẢO LUẬN: Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để sống mầu nhiệm tự hủy noi gương Đức Giê-su?
- LỜI CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU, Khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu mục Do Thái tưởng mình đã hoàn toàn chiến thắng Chúa. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa không phải là sự thất bại, nhưng là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có chết đi mới sinh được nhiều bông hạt mới, thì nhờ cái chết thập giá, Chúa đã được Chúa Cha tôn vinh cho sống lại và đặt làm Chúa tể muôn loài. Rồi Hội Thánh về sau cũng noi gương Chúa chấp nhận bị Đế quốc Rô-ma bách hại, và cuối cùng đã được tôn vinh, khi chinh phục cả Đế quốc Rô-ma tin Chúa và gia nhập vào Hội Thánh.
– Trong những ngày Mùa Chay này, xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con vui lòng đón nhận những đau khổ gặp phải trong cuộc sống, với niềm tin yêu hy vọng. Xin cho chúng con ý thức rằng: thập giá là con đường tự hủy Chúa Giê-su đã chọn để làm theo thánh ý Chúa Cha. Nhờ đó chúng con sẽ ngày nên hoàn thiện, hy vọng sau này sẽ được Chúa Cha tôn vinh trên Thiên Đàng.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- D) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY. NĂM B
Lm. Anthony Trung Thành
Để chuẩn bị tinh thần cho các Môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Nhưng đi liền với lời tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết thì Ngài cũng cho biết “ngày thứ ba” Ngài sẽ sống lại. Như thế, đau khổ và sự chết như là điều kiện tất yếu để Ngài bước vào ngày phục sinh. Chính vì vậy, qua bài Tin mừng hôm nay, sau khi nhắc tới nguyên lý của hạt lúa mỳ phải mục nát đi thì mới sinh bông hạt, Đức Giêsu khẳng định : “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.” (Ga 12,25).
Thoạt nghe, nhiều người cho rằng lời khẳng định của Đức Giêsu có vẻ rất nghịch lý với cuộc sống. Bởi vì, bình thường không ai ghét mạng sống mình bao giờ, nhưng trái lại họ yêu và rất yêu mạng sống của mình. Họ chăm sóc mạng sống ấy bằng nhiều cách thế khác nhau: ăn uống, ăn mặc, trang điểm, đi khám bác sĩ và nhiều hình thức khác nữa. Thực ra, biết yêu mạng sống mình, chăm sóc cho bản thân không phải là điều xấu. Nếu làm đúng cách thì đó lại còn là một thái độ rất tốt. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở thái độ yêu mạng sống mình, chăm sóc cho bản thân mình mà quên mất tình thân, quên mất tình người, quên mất những bổn phận khác thì sẽ trở thành người xấu. Khi Đức Giêsu nói “ai yêu sự sống mình thì sẽ mất” ám chỉ những người chỉ lo cho mình mà không màng chi đến người khác. Những người chỉ muốn nhận mà không biết cho. Họ là những người ích kỷ giống như chiếc ao tù đọng không có sự sống.
Hơn nữa, lời dạy của Đức Giêsu còn muốn chúng ta đi xa hơn. Ngài muốn nói tới sự sống linh hồn của chúng ta. Để được sống phần linh hồn, mỗi người chúng ta cần phải chết đi cho tội, chết đi tính ích kỷ. Để có sự sống phần linh hồn có khi chúng ta cũng phải chấp nhận chết đi sự sống phần xác vì phải hiến thân, phải quên mình, đúng như lời khẳng định của Thánh Phanxicô Assisi trong lời kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” Vì thế, giáo huấn của Đức Giêsu không nghịch lý nhưng là một chân lý. Chân lý này đã được chính Ngài thực hiện một cách trọn vẹn trong cuộc sống. Chính Ngài là Con Thiên Chúa nhưng đã chấp nhận mục nát đi để sinh ơn cứu độ cho nhân loại chúng ta. Thánh Phaolô cho biết: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.”(Pl 2,6-9).
Thật vậy, vì vâng lời Chúa Cha và để cứu độ nhân loại, Ngài đã chấp nhận sống mầu nhiệm tự hủy nơi bản thân mình từ khi nhập thể cho đến khi chịu chết trên thập giá để được sống lại vinh quang. Ngài sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, làm con nuôi của Thánh cả Giuse, sống 30 năm với nghề thợ mộc tại làng Nazaréth như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm ra đi rao giảng Tin mừng: Ngài rao giảng và làm phép lạ để cứu giúp nhiều người. Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Cao điểm của sự phục vụ ấy là việc Ngài rửa chân cho các môn đệ vào tối trước ngày Thứ năm tuần thánh. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn chịu chết để cứu độ nhân loại. Như vậy, Đức Giêsu là hạt lúa mỳ chịu mục nát đi để đem lại sự sống cho nhân loại chúng ta. Ngài đã hy sinh mạng sống của mình để cho nhân loại được sống.
Noi gương Đức Giêsu, có rất nhiều vị thánh cũng đã chấp nhận hy sinh, chấp nhận làm hạt lúa mỳ mục nát đi để người khác được sống. Đó là sự hy sinh của Thánh Maximilianô Kolbê đã chấp nhận chết thay cho người tử tù được sống. Đó là sự hy sinh của Mẹ Têrêxa Caculta và các nữ tu thuộc dòng của mẹ, suốt cuộc đời vì những người nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề xã hội tại các khu ổ chuột. Đó là sự hy sinh của các Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ đã dâng hiến đời mình vì hạnh phúc và phần rỗi của tha nhân. Đó là sự hy sinh của những người vợ người chồng vì hạnh phúc của người bạn đời. Đó là sự hy sinh tận tụy của những người cha người mẹ vì niềm vui và hạnh phúc của con cái. Đó là sự hy sinh cho nhau của anh chị em ruột thịt trong gia đình. Và còn biết bao tấm gương hy sinh khác trong đạo ngoài đời mà chúng ta không thể kể hết ra đây. Nếu tìm kiếm trên mạng, chúng ta sẽ đọc được những câu chuyện rất cảm động về sự hy sinh đó. Chẳng hạn: Cha lấy thân làm “bao cát” để kiếm tiền cứu con; Đôi vợ chồng già ăn xin kiếm tiền nuôi con ăn học; Đóng giả làm đàn ông suốt 43 năm để dễ kiếm việc làm, nuôi con khôn lớn; Mẹ già bán cầu từ tinh mơ để kiếm tiền nuôi con; Người mẹ làm đôi chân cõng con đi học mỗi ngày; Mẹ 90 tuổi chăm con bại não suốt 50 năm…Và câu chuyện sau đây cũng phần nào cho chúng ta thấy sự hy sinh cao cả của một cậu bé 8 tuổi.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và thường đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị một cơn đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần được mau chóng tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn máu cùng nhóm để truyền. Rất may là máu của cậu bé cùng nhóm máu với cô em. Khi được hỏi có muốn cho máu để cứu sống em gái không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã lấy lại bình tĩnh và trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm.” Sau đó bác sĩ đã lấy máu của cậu truyền cho cô em. Một lúc sau tỉnh dậy, cậu bé đã làm cho mọi người trong phòng ngạc nhiên và buồn cười khi nói: “Ô hay! Con chưa bị chết hay sao? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?” Thì ra cậu bé đã tưởng lầm rằng khi bằng lòng hiến máu cho em, là cậu phải cho em tất cả số máu trong con người mình! Nhưng vì quá thương em và không muốn cho em bị chết, nên sau khi ngần ngại một chút, cậu đã quyết định hy sinh chịu chết để cho em gái mình được sống! (Sưu Tầm)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hy sinh để cứu độ chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa. Ngoài Chúa ra, còn biết bao nhiêu người khác cũng đã hy sinh vì chúng con, xin Chúa trả công bội hậu cho các vị ân nhân đó. Xin cho mỗi chúng con cũng biết chấp nhận hy sinh để đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
.
HẠT LÚA MỤC NÁT VÀ TRỔ SINH HOA TRÁI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có một linh mục vừa chịu chức được hơn một năm, thì phát hiện bị suy thận trầm trọng. Ngài được sinh ra trong một gia đình đông anh chị em. Cuộc sống vùng nông thôn của một gia đình đông con hết sức khó khăn, song cha mẹ của ngài vẫn ngày ngày tần tảo ruộng vườn để nuôi các con ăn học thành tài. Một trong những động lực lớn lao để cho hai ông bà hy sinh cả cuộc đời là mong cho con trai được làm linh mục. Mong ước của ông bà đã được toại nguyện khi cậu con trai được phong chức linh mục cách đây hơn một năm. Tuy nhiên, ngay sau những ngày lễ tạ ơn, người con trai linh mục của ông bà đã phát hiện ra căn bệnh suy thận. Bác sĩ cho biết, bệnh nhân cần được ghép thận mới có thể qua được. Một lần nữa, sự lo âu và bao nhiêu day dứt lại đổ xuống trên ông bà. Các anh em trong gia đình sẵn sàng hiến thận cho người em của mình, nhưng người cha nhất mực không đồng ý. Chính ông sẽ cho con trai ông quả thận của mình, vì ông nói, cả một cuộc đời hy sinh vì con, thì bây giờ ông sẵn sàng tiếp tục hy sinh để cứu sống con và để con ông có thể tiếp tục sống và phục vụ người khác trong vai trò là một linh mục. Việc làm của người cha này giống như hạt lúa mì chấp nhận vùi cuộc đời mình vào gia đình, chấp nhận mục rã để trổ sinh hoa trái nơi con cái.
Thưa quý OBACE, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hạt lúa mì gieo xuống đất, chấp nhận bị mục rã, làm trổ sinh hoa trái mới, để nói về sự hy sinh đến cùng mà Thiên Chúa đã làm vì con người chúng ta.
Tin Mừng Gioan thuật lại: Sau nhiều năm rao giảng Tin Mừng, nhiều người đã nghe biết về Chúa Giêsu, trong đó không chỉ những người Do Thái mà cả những người ngoại quốc. Lần này, Chúa Giêsu và các tông đồ lên Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, có mấy người Hy Lạp đến gặp các tông đồ để xin các ông: “Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu”. Các tông đồ đến thưa với Chúa Giêsu, khi đó Chúa Giêsu đã nói với các ông: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”.
Theo tác giả Gioan, giờ mà Chúa Giêsu nói: “Con người được tôn vinh” là giờ Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, bị treo trên thập giá. Đó là giờ mà nhân loại sẽ nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa như Ngài đã nói: “Khi nào các người treo ta lên, các người sẽ biết Ta là Đấng Tự Hữu”. Với sự kiện những người Hy lạp tin và tìm đến với Chúa Giêsu, cho thấy giờ quan trọng đó đã đến. Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian là để thực hiện “giờ cứu độ nhân loại” bằng cái chết thập giá. Thập giá sẽ trở thành dấu chỉ để quy tụ mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ về cho Thiên Chúa. Giờ Chúa Giêsu bước lên thập giá cũng chính là giờ Thiên Chúa được tôn vinh, được nhân loại nhận biết, là giờ sự sống được trao ban cho nhân loại. Để giải thích rõ hơn về giờ Thiên Chúa được tôn vinh, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hạt lúa mì được gieo vào lòng đất, nếu không chết đi thì sẽ chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt. Chúa Giêsu chính là hạt lúa mì được Thiên Chúa Cha gieo vào trần gian, Ngài chấp nhận từ bỏ thân phận của một vị Thiên Chúa để trở nên giống phàm nhân. Ngài chấp nhận sự giới hạn yếu đuối của con người, chịu đói khát, bị từ chối, bị phản đối và nhục mạ, bị phản bội, hành hạ và cuối cùng Ngài chấp nhận cái chết đau đớn ghê sợ trên cây thập giá. Chúa Giêsu đã chấp nhận hy sinh, bị chôn vùi trong cái chết của thân phận con người và từ trong cõi chết Ngài đã trỗi dậy để đem lại cho nhân loại sự sống mới, mùa gặt mới.
Chúa Giêsu cũng mời gọi những kẻ theo Ngài, muốn trở thành bạn hữu với Ngài cũng sẽ phải chấp nhận bước vào “quy luật mục rã” của hạt lúa mì như Ngài: “Ai phụng sự Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người đó”. Như thế, Chúa muốn tất cả những ai muốn theo Chúa, không thể đi một con đường nào khác ngoài con đường của Chúa. Ai trở nên bạn hữu với Chúa, sống thân mật với Chúa thì được Chúa Cha yêu thương và cho vào trong nhà của Chúa.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng cho thấy giờ mà Chúa sắp trải qua không phải là giờ phút dễ dàng. Chúa Giêsu đã thấy trước sự ghê sợ đau đớn của khổ hình thập giá, với sức riêng của con người, khó có thể chịu đựng nổi. Chúa Giêsu mang thân phận con người, có những lúc cũng bị cám dỗ chọn một giải pháp khác dễ hơn, bớt đau khổ hơn. Ngài đã thưa cùng Chúa Cha: “xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến”. Lời cầu xin này cũng tha thiết như lời cầu xin trong vườn cây dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, một vâng theo ý Cha”. Cả hai lần cầu xin, cho thấy, Chúa Giêsu bị giằng co giữa con người tự nhiên và sứ mạng Chúa Cha trao phó. Kết cuộc cả hai lần, Chúa Giêsu sẵn sàng đón nhận ý Cha, chấp nhận sự hủy diệt như hạt lúa mì, và chấp nhận bước lên thập giá để cho ý Chúa Cha được trọn vẹn, cho Danh Cha được tôn vinh.
Thư Do Thái sau này đã nhìn thấy thái độ vâng phục hoàn toàn nơi Chúa Giêsu và nhìn thấy tình thương vô biên nơi Chúa Cha. Thư Do Thái đã nói: “Mang thân kiếp con người, Đức Giêsu đã khóc lóc van xin lên Đấng có quyền năng cứu mình khỏi chết. Vì có lòng tôn kính, Người đã được nhậm lời”. Chắc chắn không có cha mẹ nào vui khi thấy con mình đau khổ, Thiên Chúa không thể vui khi thấy Đức Giêsu phải trải qua đau khổ và phải chết. Cha mẹ nào cũng muốn và làm điều tốt nhất cho con, Thiên Chúa cũng muốn điều tốt nhất và làm điều tốt nhất cho Chúa Giêsu con của Ngài. Sau khi vâng phục hoàn toàn để đón nhận cái chết thập giá, Thiên Chúa đã cho Chúa Giêsu được sống lại trong vinh quang, trở nên Nguồn ơn cứu độ và là Đấng ban ơn cứu độ cho nhân loại và đặt Chúa Giêsu làm Chúa tể trên trời và dưới đất.
Thưa quý OBACE, quy luật của hạt lúa mì phải mục nát để sinh nhiều bông hạt là quy luật chung cho tất cả mỗi chúng ta. Các học sinh, sinh viên muốn học giỏi thành tài thì phải chấp nhận chôn vùi thời gian, sức lực, tuổi trẻ của mình với đèn sách. Các cầu thủ, ca sĩ hoặc vận động viên muốn đạt giải cao thì không thể tự nhiên đạt được, nhưng phải trải qua rất nhiều thời gian khổ luyện. Cũng vậy, để có được một gia đình êm ấm thuận hòa hạnh phúc, thì mọi thành viên, đặc biệt là cha mẹ, phải chấp nhận hy sinh cả cuộc đời mình: thời gian, sức lực, tuổi trẻ và phải hy sinh cả những sở thích đam mê riêng, để vun đắp cho hạnh phúc chung của gia đình. Hơn nữa, để có một gia đình đạo đức, con cái ngoan ngoãn đức hạnh, cha mẹ cần phải hy sinh hơn, sống đạo đức và làm nhiều gương sáng hơn. Cha mẹ siêng năng đến với Chúa trong thánh lễ mỗi ngày, siêng năng cầu nguyện, tạo lập nên những giờ kinh cho gia đình, tham gia công tác tông đồ, gia đình sẽ trổ sinh những đứa con đạo đức ngoan ngoãn, yêu thích công việc nhà Chúa.
Trong đời sống cá nhân, mỗi người được mời gọi để sống theo quy luật mục nát của hạt lúa mì, dám chôn vùi những tội lỗi, thói hư tật xấu, những thú vui và đam mê xấu, nhất là dám hủy bỏ cái tôi ích kỷ và tính tự ái tự mãn, kiêu căng. Vì những tính xấu này sẽ khiến ta như “hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, trơ trọi một mình”. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận để cho Ơn sức mạnh của Chúa làm cho nó mục nát tan biến, thì cuộc sống chúng ta sẽ được Chúa biến đổi, làm cho trổ sinh những hoa trái tốt lành là: tình yêu thương, lòng quảng đại, sự khiêm nhường… Muốn được như vậy, chúng ta cần phải sẵn sàng trở nên hạt giống trong tay người chủ ruộng là Thiên Chúa, để cho Chúa gieo theo ý Chúa và để cho Lời Chúa và Thánh Thể chăm sóc, cắt tỉa chúng ta mỗi ngày. Như thế chúng ta sẽ trổ sinh mùa màng, hoa trái tươi mới cho bản thân, gia đình và giáo hội.
Các bạn trẻ cũng cần phải chấp nhận quy luật “hạt lúa mì” hôm nay, đừng để tuổi trẻ trôi qua trong uổng phí hoặc lười biếng, nhưng biết dành hết thời giờ, khả năng và sức lục Chúa ban để vun đắp cho tương lai của mình. Cắt bỏ, chôn vùi những thú vui và những đam mê lôi kéo của xã hội hôm nay, hãy dồn năng lượng tuổi trẻ của mình để cống hiến và phục vụ, hãy mạnh dạn vùi cả cuộc đời mình trong bàn tay của Chúa, chắc chắn Chúa sẽ làm cho cuộc đời ta trổ sinh hoa trái theo ý Chúa. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Trào lưu “quan trọng vẫn là thần thái” đang sốt trên các trang mạng xã hội để nói lên sự tự tin của một người, bất chấp tất cả, miễn là thể hiện một điều gì đó với tất cả niềm đam mê. Riêng đối với Kitô hữu, muốn làm gì thì làm, miễn là đạt được mục đích cuối cùng của cuộc đời mình là ơn cứu độ. Vì vậy thần thái của Kitô hữu chính là ơn cứu độ. Phụng vụ lời Chúa trong 3 tuần cuối cùng của mùa chay giúp chúng ta tập luyện để đạt được thần thái đó. Chúa Nhật thứ III là sự thanh tẩy tâm hồn mình. Chúa Nhật thứ IV là phải sống theo Đức Giêsu Kitô. Chúa Nhật thứ V hôm nay là phải chấp nhận thân phận của hạt lúa mì. Với gợi ý đó, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về giá trị đích thực của cuộc đời chúng ta, hay theo trào lưu là thần thái của Kitô hữu.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Giêrêmia loan báo về một giao ước sẽ được Thiên Chúa ký kết không phải trên giấy tờ, mà vào tận đáy lòng của dân, dấu chỉ của giao ước đó là sự yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa: “Ta sẽ lập một giao ước mới, và không còn nhớ đến lỗi lầm của dân Ta nữa”. Qua đó Thiên Chúa cho biết giá trị đích thực của con người là được sống trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
Thánh vịnh 50 là tâm tình sám hối ăn năn của vua Đavit sau khi ông phạm tội tày trời là giết chết vị tướng của mình là Uria để chiếm đoạt vợ của ông ta. Tại sao vua Đavit lại sám hối ăn năn trong khi ông đường đường là một ông vua, hơn nữa là một ông vua với nhiều chiến công lẫy lừng? Thưa vì ông nhận biết chỉ có Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc cho cuộc đời mình.
Trong bài Tin Mừng, khởi đi từ việc có những người Hy Lạp đi dự lễ Vượt Qua ở Giêrusalem muốn gặp Đức Giêsu, mà những người này là những người dân ngoại, họ nghe nói về Đức Giêsu nên muốn tìm đến với Ngài. Lúc đó, Đức Giêsu thốt lên: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Tại sao khi những người dân ngoại tìm đến Chúa, Chúa nói đó là lúc Con Người được tôn vinh? Ngài cho chúng ta thấy mong mỏi của Thiên Chúa là cho con người được biết Ngài, tin vào Ngài. Ngài xuống thế làm người là để rao giảng tin mừng tình thương của Thiên Chúa. Công sức của Ngài bỏ ra như hạt lúa gieo vào lòng đất, bất chấp tất cả, miễn là làm sao có người được biết Chúa. Hôm nay hạt giống mục nát đó đã sinh bông hạt, bằng chứng là những người dân ngoại lên đền thờ Giêrusalem để dự lễ và muốn được gặp Chúa. Đức Giêsu đã chấp nhận mất mát để đem đến ơn cứu độ cho con người, thì con người cũng phải bất chấp tất cả để có được ơn cứu độ đó. Thần thái của Kitô hữu là vậy!
Đức Giêsu đến trần gian là vì tổ tông loài người đã chọn lựa sai lầm hạnh phúc của cuộc đời họ. Ông bà nguyên tổ đã không chọn sống trong hạnh phúc với Chúa, nhưng họ muốn thứ hạnh phúc khác ngoài Chúa, thứ hạnh phúc làm thỏa mãn tính kiêu căng của họ. Chọn lựa đó làm cho họ phải gánh chịu hậu quả là mất đi hạnh phúc với Chúa, mà cũng chẳng có hạnh phúc từ “trái táo”. Nhưng chỉ vì yêu thương loài người mà Thiên Chúa đã sai Con Một của mình là ĐGK đến trần gian để chuộc lại lỗi lầm cho con người, trả lại hạnh phúc cho họ. Ngài không cứu độ bằng những hình thức dễ dãi như hứa ban nhà lầu, xe hơi, trái táo cắn vỡ,… hoặc chỉ bằng lời nói quyền năng của Ngài, mà Ngài đã cứu độ bằng con đường thập giá, bằng chính mạng sống của Ngài, để chúng ta thấy hạnh phúc mà Thiên Chúa hứa ban cho con người quý giá biết là chừng nào. Thần thái của con người còn lâu mới bằng thần thái của Đức Giêsu.
Có những người không biết được cùng đích của cuộc đời mình nên đã dẫn đến chọn lựa sai lầm. Đối với họ chỉ có hạnh phúc ở đời này với những gì có thể cảm nhận được, ví dụ tiền bạc, vật chất, được thỏa thích với những gì mình muốn; cao hơn một chút là được yêu thương, được nhìn nhận, được tôn trọng… chỉ thế thôi. Vì vậy khi không nhìn thấy được những điều đó nữa, thì không còn lý do gì để sống cả. Đó là lý do trong thời hiện đại mà vẫn có nhiều vụ tự tử xảy ra, lại xảy ra ở ngay những nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc. Lo lắng nhất của xã hội ngày hôm nay hay có thể gọi là vấn nạn của các gia đình chính là việc nhiều người lấy ma túy hay những chất gây nghiện khác làm niềm vui. Mà một khi đã dính đến những chất gây nghiện này, không sớm thì muộn chắc chắn sẽ hủy hoại con người đó, vì nó sẽ làm tê liệt thần kinh, gây nên ảo giác, ảnh hưởng đến sức khỏe của chính bản thân, mất hết lý trí, ý chí và nhân cách của con người; gây nguy hiểm cho gia đình và xã hội… Cho nên đó có phải là cùng đích của con người không?
Có những người, kể cả người Công giáo, lấy tiền bạc làm cùng đích cho cuộc đời mình. Vì vậy mà ưu tiền hàng đầu trong cuộc đời của họ chính là việc kiếm tiền. Dĩ nhiên việc kiếm tiền để lo cho gia đình được ổn định là chuyện cần thiết, nhưng có những người vì kiếm tiền mà bất chấp tất cả, kể cả việc bỏ lễ và làm điều xấu. Nhưng thử hỏi việc kiếm tiền đó có đem lại hạnh phúc đích thực cho họ không bởi vì đến ngày chết người ta không đem theo được gì cả…
Những chọn lựa sai lầm này khiến cho chính họ phải gánh lấy hậu quả vì họ không được hạnh phúc đích thực, mà nó còn ảnh hưởng đến thế hệ mai sau, vì chính người lớn không cho thế hệ tiếp nối thấy được đâu là giá trị vững bền. Nếu cha mẹ sẵn sàng hy sinh tất cả để được hạnh phúc thật thì con cái cũng sẵn sàng vượt qua những khó khăn hiện tại để có được hạnh phúc như cha mẹ nó. Nếu thầy cô, những người lớn xung quanh dám từ bỏ những thói hư, những tật xấu vì một hạnh phúc trong tương lai, thì đứa trẻ cũng cảm nhận và sẽ sống cho một tương lai hạnh phúc.
Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người biết chọn cho mình giá trị đích thực, đúng đắn. Giá trị đó không phải là những thứ chóng qua, cũng không phải là những danh vọng hão huyền, càng không phải là dục vọng thấp hèn. Giá trị đó chính là ơn cứu độ mà Đức Giêsu Kitô đã đem đến cho con người. Khi chọn giá trị đó, đòi hỏi con người phải biết hy sinh, nỗ lực dấn thân vì một tương lai tốt đẹp. Nói cách khác, khi chọn sống theo giá trị này, con người phải chấp nhận chết đi mỗi ngày như hạt lúa gieo vào lòng đất phải mục nát đi thì mới sinh nhiều bông hạt. Đây không phải lý thuyết mà đạo công giáo đưa ra để người ta tự khám phá, ai thấy hay thì theo; mà đây là con đường chính Đức Kitô đã đi, tất cả những ai muốn có được giá trị đích thực cũng phải đi trên con đường này. Con đường này còn được các thánh, nhất là các thánh tử đạo, rồi những bậc cha ông tổ tiên của chúng ta can đảm bước theo. Có nhiều gia đình bây giờ nhìn lại để họ tự hỏi điều gì đáng tự hào nhất mà ông bà tổ tiên của họ để lại? Thưa không phải tiền bạc, tài sản, mà chính là đời sống đạo của ông bà tổ tiên. Nhưng đến thời chúng ta đã đánh mất đi gia sản quý giá của cha ông. Chúng ta phải sám hối về điều đó. Hay nói cách khác, thần thái của chúng ta lạ lẫm lắm so với thần thái của ông bà tổ tiên.
Điều quan trọng là chúng ta phải nhắc nhở mình mỗi ngày biết chết đi với những đam mê, những tội lỗi. Không ai muốn mình phải mất ơn cứu độ đời đời. Chỉ tại vì những đam mê, những tật xấu đã dính bén vào con người của mình quá sâu, hay nói theo kiểu y học, nó đã trở thành khối u và gây nên chứng ung thư tâm hồn. Muốn được cứu, dứt khoát phải chấp nhận làm một cuộc giải phẫu để cắt bỏ khối u đó. Từ bỏ nào cũng gây đau đớn, nhưng có đau đớn mới cắt bỏ những khối u sấu xa khỏi con người chúng ta. Mùa chay thánh năm nay là thời gian thuận tiện để chúng ta làm cuộc giải phẫu tâm hồn khi dám nhìn thẳng vào những đam mê, những tội lỗi của mình, và nói thẳng với nó: chính mày là nguyên nhân làm cho tao mất linh hồn, mất ơn cứu độ đời đời. Và hứa với lòng mình từ đây phải tăng sức đề kháng để chống lại với những cám dỗ làm mất ơn cứu độ bằng cách gắn bó với Chúa mỗi ngày một hơn.
Xin ơn Chúa giúp qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, thánh cả Giuse và cha Phanxicô cho chúng ta biết đâu là hạnh phúc đích thực của cuộc đời mình. Và khi đã biết rồi, xin cho chúng ta mạnh dạn để từ bỏ những gì không xứng hợp với hạnh phúc đó. Hãy mạnh dạn bày tỏ thần thái của chúng ta!
.
Lm Vũdình Tường
Vinh Danh Chúa bằng cách ca tụng tình Chúa vô biên, một mình Ngài đáng tôn vinh, ca tụng, phụng thờ. Hai cách ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Thứ nhất, ngoài Thiên Chúa ra không còn thần thánh, vị nào nào khác đáng được chúc tụng, tôn vinh. Thứ hai, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa bằng cách lắng nghe, thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Đây chính là điều Chúa Cha nhiều lần phán bảo lắng nghe tiếng Chúa Con.
Đây là Con Ta hằng yêu dấu, các ngươi hãy nghe Lời Ngài. Mt 3,13; Lk 3,22
Chính Đức Kitô cũng kêu gọi lắng nghe tiếng Ngài là dấu chỉ bề ngoài cho biết người đó yêu mến Đức Kitô. Yêu mến Thiên Chúa bằng cách sống theo giáo huấn của Đức Kitô. Yêu mến Đức Kitô trở thành môn đệ Đức Kitô và nhận ra Đức Kitô nơi các anh chị em khác.
Ai yêu mến Ta thì giữ điều răn của Ta Gn 14,15
Kitô hữu Vinh Danh Thiên Chúa bằng cách lắng nghe tiếng Chúa với tâm tình tạ ơn, phó thác xuất phát tự tâm hồn. Kitô hữu chân chính là người có đời sống, lời nói và hành động trong cuộc sống luôn chung đôi với nhau, nghĩ sao nói thế, nói sao làm thế, làm cho tình yêu Chúa sống động trong cuộc sống. Khi lời nói hành động được hướng dẫn bởi tình yêu và ân sủng Chúa đời sống nội tâm người đó được đong đầy tình yêu và họ tiến trên đường thánh thiện. Là Kitô hữu tất cả đều cần tình yêu và ân sủng Chúa bởi ngoài Chúa ra không còn chúa nào khác có khả năng giúp Kitô hữu sống thánh thiện. Đức Kitô là Đấng duy nhất chúng ta tôn thờ; Ngài là Con Thiên Chúa, nơi Ngài là nguồn ân sủng vô biên, tình yêu bất tận và giáo huấn Ngài cao sánh, khôn lường. Ngài đến trần gian mặc khải cho nhân loại biết tình yêu Chúa Cha, làm Sáng Danh Chúa Cha và Chúa Cha làm Sáng Danh Chúa Con.
Lậy Cha xin làm Sáng Danh Cha và có tiếng từ trời phán ra Ta đã làm Sáng Danh Ta và còn tiếp tục làm Sáng Danh Ta Gn 12, 28
Đức Kitô làm Sáng Danh Chúa Cha
1. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách cho nhân loại biết tình yêu và ân sủng Chúa. Tình yêu đó được thể hiện qua Đức Kitô, Con một Thiên Chúa xuống trần gian vác thập giá cứu chuộc nhân loại khỏi án phạt vì tội bất trung, giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi. Lúc rao giảng Đức Kitô cho người ta biết Thiên Chúa có quyền tha tội, mở mắt người mù từ lúc mới sinh, người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại Gn 5,3
2. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách dùng miệng con người dâng lời chúc tụng vì nghe lời giảng của Đức Kitô tâm hồn họ mở ra, tim họ rực sáng và lòng họ đầy hoan lạc họ lớn tiếng ca ngợi, tôn vinh, chúc tụng
Dân chúng sửng sốt về lời Người giảng dậy vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền Mat 7,29
3. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách tuyên chiến với ma quỷ, tử thần. Đức Kitô xua đuổi ma quỷ, bắt chúng vâng phục lời Người phán bảo. Ma quỷ run sợ trước lời của Đức Kitô chúng than
Ông Giêsu, chuyện chúng tôi, can gì đến ông. Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Đức Kitô quát mắng chúng: Câm đi hãy xuất khỏi người này. Lc 4,34. Ma quỷ phải nghe lời Ngài, không dám làm hại anh ta.
4. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách cho nhân loại biết mối liên hệ thắm thiết vể cả lời nói lẫn hành động và quyền năng giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần
Chúa Cha yêu thương Chúa Con và trao mọi sự trong tay Người Gn 3,35
Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất Mt 28,18
5. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách vâng lời Chúa Cha. Ngài đến trần gian không phải để làm theo í riêng mà chính là làm cho í Chúa Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Tôi tự trời xuống, không phải để làm theo í tôi, nhưng để làm theo í Đấng đã sai tôi Gn 6,38
Chúng ta cầu xin được kết hợp với Đức Kitô bằng cách sống trung thành với giáo huấn của Ngài để trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa
Ai thi hành í muốn của Cha Ta, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em Ta Mt 13,50
.
“Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng, Lề luật của Ta” (Gr 31,33). Chắc hẳn Lề luật mà Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm khảm dân của Người chính là Luật của tình yêu. Sau này chính Con Một Người nhập thể đã khẳng định rằng mọi lề luật và lời ngôn sứ gồm tóm trong điều này là anh em hãy làm cho tha nhân những gì anh em muốn tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12).Một trong những khao khát đượm tính hiện sinh của con người đó là được sống và sống mãi. Cái khát vọng này như đã trở thành vô vọng với cả những người quyền cao chức trọng, với các vua chúa xưa lẫn nay. Sở dĩ nó đã trở thành vô vọng, vì người ta quá băn khoăn về cuộc sống đời này trong sự vị kỷ. “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”(Ga 12,25 ). Sự coi thường ở đây không phải là thái độ lơ là, vô trách nhiệm, mà là một sự hiến mình vì tha nhân trong tình yêu.
Quy luật của tình yêu đã được thánh Phanxicô Axidi phác họa trong lời kinh hoà bình: “Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính khi quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chắc hẳn thánh nhân thuộc nằm lòng lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Thật, Thầy bảo thật với anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
Đã là quy luật thì có tính khách quan cần phải tuân thủ. Để tuân thủ quy luật nào đó thì trước hết phải nhận biết nó. Thế nhưng không phải mọi quy luật đều hiện hữu cách minh nhiên dễ thấy, dễ nhận ra. Định luật vạn vật hấp dẫn đã có từ khi vũ trụ hình thành thế mà đến cuối thế kỷ XVII Isaac Newton mới phát hiện. Việc khám phá định luật này là kết quả của một quá trình nghiên cứu mà việc thấy quả táo rơi chỉ là điểm khởi đầu. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5,9), nói đúng hơn, đó là Chúa Giêsu đã trải qua nhiều đau khổ mới học biết thế nào là yêu thương.
Yêu thương không hẳn chỉ là cho đi những gì mình có. Với quyền năng của Đấng tạo thành, có từ đời đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Chúa Kitô có thể biểu lộ tình yêu bằng việc cung cấp lương thực cho con người. Người cũng đã biểu lộ tình yêu bằng việc giáng phúc thi ân chữa lành bệnh tật, cho người què được đi, người mù được thấy người điếc được nghe… Người cũng đã biểu lộ tình yêu khi làm chủ thiên nhiên hay làm chủ cả quỷ thần. Người lại đã từng biểu lộ tình yêu khi làm cho một số người sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, nếu chỉ cho đi những gì mình có bằng khả năng và quyền hạn của mình thì cũng chưa hẳn đã là yêu đến cùng.
Yêu thương cách đích thực là cho đi những gì mình là. Phút giây nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự nguyện cho đi thân phận của một vị Thiên Chúa. Lời đáp ca trong Thánh Lễ Truyền Tin, nói đúng hơn là Thánh Lễ mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể: “Hy sinh và lễ vật, thì Chúa chẳng ưng, này Con xin đến để thực thi ý Người” (x.Tv 40). Suốt ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nỗ lực không ngừng cho đi cái thân phận của Đấng Thiên Sai, Đấng từ trời mà xuống, để sống kiếp “không chỗ tựa đầu”(x.Lc 9,58). Vì yêu thương Chúa Giêsu đã đau xót tột độ đến nỗi mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu trong vườn cây dầu, để rồi cho đi thân phận một con người, thân phận của vị vua trên các vua và cả thân phận Con Thiên Chúa của mình bằng cái án bất công và cái chết ô nhục trên thập giá. “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt 27,40). “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”(Lc 23,37). Người vẫn ở đó, trên thập giá cho đến hơi thở cuối cùng.
Mất những tất cả gì mình có, thật đau xót, nhưng dẫu sao vẫn còn chính mình. Mất tất cả những gì mình là, đúng là một điều tồi tệ, vì chẳng còn gì, ngay cả bản thân. Thế nhưng khi cái điều tồi tệ ấy khi được thực hiện bằng sự ý thức và tự do vì hạnh phúc của tha nhân, thì nó trở thành tiền đề cho tiến trình yêu thương và phát triển. Khi bị mục nát đi, chẳng còn là hạt lúa thì cây lúa mọc lên và các gié lúa trĩu hạt hình thành.
Đã yêu là phải tuân thủ quy luật của tình yêu. Để biết được quy luật thì phải học hỏi, tìm tòi. Học mà thôi, vẫn chưa đủ, cần phải tập luyện liên lỉ. Có đau đớn và cũng có xót xa. Có xao xuyến và cũng có hy sinh. Nhưng không thể không tập luyện. Để được sống và sống dồi dào, để sinh được hoa trái và hoa trái tồn tại, khởi đầu xin hãy tập cho đi những gì mình có và tiến dần đến chỗ trao ban những gì mình là, vì người mình yêu, vì người yêu mình, vì cả người ghét mình lẫn kẻ bách hại mình.
.
CHIÊM NGƯỠNG DIỆN MẠO CHÚA GIÊSU KITÔ
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Bài Tin Mùng Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng diện mạo Chúa Giêsu, một khuôn mẩu linh mục tư tế đau khổ, đầy lòng trắc ẩn, đồng cảm và kết hợp nhân loại.
THIÊN CHÚA TRONG CỰU ƯỚC
Qua các Tin Mừng, chúng ta thấy ai cũng đều mong ước được gặp Chúa Giêsu, ngắm nhìn diện mạo, vẻ đẹp huy hoàng và vinh quang của Thiên Chúa. Các Ca Vịnh đều nói lên lòng ước mong được ngắm nhìn diện mạo Chúa !
« Xin dung nhan Chúa hãy tỏa chiếu sáng trên tôi tớ Chúa » (Cv 119 :135).
Không phải chúng ta cầu khẩn để được gặp mặt Chúa mà chính Chúa cũng thúc dục, nhắc nhở chúng ta đi tìm kiếm Chúa:
« Hãy tìm kiếm mặt ta và dung nhan ta » (Cv 27: 8).
Nhưng có lẽ chúng ta không thể kiếm ra được gương mặt mà Chúa muốn chúng ta đi tìm, nên đã có lời than van :
« Xin Chúa đừng lánh mặt tôi » (Cv 102:2)
« Tại sao Chúa cứ lánh mặt tôi »(Cv 88:14).
« Chúa còn lánh mặt tôi đến bao lâu nữa » (Cv13:2).
Chúng ta cầu khẩn, chúng ta tìm tòi nhưng chúng ta không thể kiếm ra được diên mạo Chúa. Lúc đó chúng ta cảm thấy bối rối. Ông Maisen, với tính cách bạn nói với bạn, xin được gặp mặt Chúa, thì Chúa nói với ông:
«Ngươi không thể nhìn được mặt ta, vì không ai nhìn thấy ta mà sống được» (Xh 33:20).
THIÊN CHÚA TRONG TÂN ƯỚC
Nhưng trong Tân Ước thì khác, Thiên Chúa đã thay đổi, đã xuống thế làm người như chúng ta để cứu chuộc muôn dân. Hãy coi Tin Mừng thánh Gioan (chương 12) nói về sứ vụ công khai của Đức Giêsu đi tới đỉnh điểm. Đây là hành động chính thức và sau cùng trước khi xẩy ra những biến cố khổ nạn của Chúa. Có rất nhiều người dân ngoại, không phải là Do Thái lần đầu tiên đi tìm kiếm Chúa Giêsu. Họ đến không phải chỉ để xem mặt hoặc tham dự cuộc ra mắt của Chúa, nhưng để “gặp” Người. Theo Gioan, từ “gặp” có nghĩa là “tin” vào Người. Một yêu cầu đơn giản và lạ lùng: «Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu» (Ga12:21).
Trong ca vịnh, khi chúng ta cầu khẩn để gặp mặt Chúa là chúng ta xin được gặp Chúa là Chúa thực để ngắm nhìn xâu thẳm trong Chúa. Ở chương chót của sách Khải Huyền có viết : «Họ sẽ được nhìn thấy dung nhan Người» (Kh 22: 4). Chúng ta đã nhìn thấy diện mạo Chúa thể hiện qua con người Giêsu thành Nazareth. Biết bao nhiêu lần chúng ta thèm muốn được nhìn thấy dung nhan Chúa Giêsu ? Chúng ta sẽ làm gì khi chúng ta “gặp” được mặt Chúa Giêsu Kitô?
TƯ TẾ TRONG CỰU ƯỚC
Tác giả của thư gửi tín hữu Do Thái mang nặng tư tưởng và tính thần học của thánh Phaolo và Gioan là tác giả khi chiêm ngưỡng là nhìn thấy sự khổ nạn và hấp hối của chúa Giêsu trong vườn cây dầu có liên quan đến chức tư tế và những hiến tế trong đền thánh. Trong Cựu Ước không bao giờ thấy đòi hỏi thầy cả thượng tế phải tự mình trở nên giống như những người anh em, trái lại ông ta cố gắng trở nên khác với họ. Thái độ đồng cảm với những kẻ tội lỗi đã tỏ ra không thích hợp với chức tư tế của thời Cựu Ước. Ngoài ra không có bản văn nào đòi hỏi vị thượng tế phải là người không vướng mắc tội lỗi gì cả.
TƯ TẾ TRONG TÂN ƯỚC LÀ ĐỨC KITO KHỔ NẠN
Trái lại chức tư tế trong Tân Ước thì khác. Thư gửi tín hữu Do Thái (Dt 5 :7-9) cho thấy Chúa Giêsu là một tư tế rất khác biệt, có đầy lòng trắc ẩn phi thường, tính đồng cảm và tình liên đới bền chặt. Trong những ngày còn ở dương thế, chúa Giêsu đã chia sẻ với chúng ta một con người bằng xương bằng thịt như chúng ta. Ngài cũng cầu nguyện, cũng đau khổ, cũng sầu muộn và khóc than như chúng ta. Chúa Giêsu cũng bị thử thách, bị ma quỉ cám dỗ bằng mọi cách như chúng ta nên Chúa thấu hiểu những khó khăn của chúng ta cả trong lẫn ngoài, do đó ngài có lòng trắc ẩn, cảm thông và đồng cảm rất sâu đậm với chúng ta. Đức Giêsu là tư tế độc nhất, đặc biệt, có đầy đủ ý nghĩa và là mẫu mực từ đó cho đến giờ.
TƯ TẾ/LINH MỤC GIÊSU LÀ CHÚA, LÀ THẦY VÀ BẠN CỦA CHÚNG TA
Chúng ta rút ra được bài học gì qua những hình ảnh của chúa Giêsu? Những thử thách hàng ngày và những yếu đuối của chúng ta, thay vì là hố xâu ngăn cách giữa Chúa Giêsu và chúng ta thì lại là điểm hội tụ, nơi gặp gỡ giữa chúng ta và Chúa, không phải chỉ với một mình chúa Giêsu Kitô mà còn với chính Thiên Chúa nữa. Hiệu quả là từ đó về sau, không ai trong chúng ta khi bị đau khổ mà không cảm nhận được có Chúa Kito luôn luôn ở bên cạnh trong mọi hoàn cảnh, vui cũng như buồn. Chúng ta lắng nghe lời Chúa Giêsu vì Chúa là đấng « đáng kính và đáng tuân phục». Chúng ta cũng sẽ được Chúa nghe lời và an ủi bởi vì chúng ta biết cầu nguyện Chúa liên lỉ, kính thờ Chúa, phục tùng và lắng nghe lời Chúa thúc dục trong lòng. Chúa Giêsu là một linh mục, là Thầy, là Bạn và là Chúa chúng ta.
CƠN HẤP HỐI CỦA THÁNH G.H. GIOAN PHAOLO II
Trong bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy những người lên Jerusalem thờ phượng Thiên Chúa có những người Hy Lạp đến nói với ông Philipê là người đến từ làng Bethsaida, miền Galilea là họ muốn gặp Đức Giêsu: « Ông Philipe đi nói với ông An Rê rồi ông An Rê cùng ông Philipe đến nói với Chúa Giêsu » (Ga 12: 20-22).
Để gặp Chúa Giêsu, phải được một môn đệ dẫn tới gặp. Lời giới thiệu của những người đã từng sống với Ngài, ở bên cạnh Ngài, cho chúng ta biết về Ngài và chúng ta không thể biết về Ngài nếu không có sự giới thiệu ấy.
Sự giới thiệu ấy thế nào? Đó là những bản văn viết của các tông đồ, nhất là những bản Tin Mừng được lưu truyền cho chúng ta do truyền thống, tập tục, qua cha mẹ, các linh mục, phó tế, thầy giáo, giáo lý viên, những nhà giảng thuyết và những tín hữu là những chứng nhân và người mang Tin Mừng của Chúa. Nhận biết ra những vị then chốt này quả là quan trọng và cần thiết! Họ là những chứng nhân sống động và có liên kết với truyền thống và Tin Mừng về Chúa Giêsu Kitô.
Một người trong hàng triệu người như vậy trên khắp thế giới là Karol Wojtyla, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II. Cả thế giới chứng kiến một cách công khai cuộc hấp hối và khổ nạn của đấng nối nghiệp thánh Phêro. Sắp đến ngày mừng kỷ niệm lễ giỗ của Ngài vào ngày 2 tháng 4, chúng ta không thể không nhớ lại cái ngày đầy sống động ấy. Cử chỉ của ngài đã khiến chúng ta nhớ lại gương mặt Thiên Chúa với những hình ảnh Chúa Giêsu chịu đóng đanh trên thập giá.
Một trong những bài học đáng ghi nhớ nhất mà Ngài đã dạy cho chúng ta vào những giờ phút cuối cùng của triều đại ngài là tất cả mọi người đểu phải chịu đau khổ, ngay cả vị đại diện của Chúa Kitô. Thay vì che dấu những tật nguyền của mình như đa số những vị thủ lãnh trên thế giới, Ngài để cho cả thế giới nhìn biết những điều Ngài đã và đang hứng chịu. Cử chỉ cuối cùng của đời Ngài cho thấy dù là lực sĩ rồi cũng phải bất động, tiếng nói trước kia có âm vang sang sảng thì nay cũng phải bặt tắt và bàn tay đã viết lên biết bao tông thư vĩ đại giờ này cũng không còn động đậy được nữa. Tuy nhiên không có gì làm cho Ngài phải ngập ngừng, e ngại, ngay cả những yếu ớt bệnh hoạn ẩn dấu bên trong căn bệnh Parkinson của Ngài, và cuối cùng Ngài đã không thể nói và cử động được nữa. Nhiều người tin rằng thông điệp mãnh liệt nhất mà Ngài đã truyền giảng lúc đó là khi Ngài không còn nói và cử động được nữa.
Một trong những khoảnh khắc giảng dạy trong thinh lặng khó quên của những ngày cuối cùng đó đã xẩy ra vào đúng đêm thứ Sáu Tuần Thánh năm 2005 khi Đức Thánh Cha đang ngồi trong nhà nguyện riêng của ngài ở Vatican coi truyền hình cuộc khổ nạn đoạn đường thánh giá được diễn lại ở đấu trường Colosseum tại Rome. Đến chặng đường Chúa chịu chết, ống kính truyền hình trong nhà nguyện chiếu Đức Thánh Cha giữ cứng Cây Thánh Giá trong tay, ôm vào ngực, má ngài đè chặt lên phiến gỗ. Ngài chấp nhận đau khổ và cái chết không cần nói. Hình ảnh đó tự nó đã nói nên lời.
Trước khi ra đi mấy tiếng đồng hồ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã nói : « Hãy đề cho tôi đi về nhà Cha.» Trong khi những lời kinh thân thiết nhất được vang lên, thánh lễ được cử hành ngay dưới chân giường của Ngài và hàng ngàn vạn người đang hát vang dưới công trường thánh Phêro thì ngài nhắm mắt lìa đời lúc 9:37 chiều tối ngày 2 tháng 4 năm 2005. Qua cuộc khổ nạn công khai, nỗi đau khổ và sự chết của ngài, vị tư tế thánh thiêng này, người nối nghiệp các thánh tông đồ và là đầy tớ của Thiên Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy dung nhan Chúa Giêsu bằng một phương cách rất đặc biệt và sống động.
Đến đây, tất cả mọi hình ảnh, công đức, sự nghiệp của Ngài lại hiện ra trong tâm trí tôi. Những việc Ngài đã làm cho Giáo Hội, cho Ba Lan, cho con người, cho cả thế giới…dù không nói lên, nhưng vẫn còn âm vang đâu đó. Đặc biệt câu nói tuy bình thường nhưng bất hủ: Các Con Đừng Sợ…
ĐÔI LỜI KẾT: HÃY XIN CHO ĐƯỢC GẶP MẶT CHÚA
Như chúng ta đã biết, khi đoàn người đi lên Jerusalem thờ phượng Chúa, có những người Hy Lạp, đến xin ông Philiphê cho gặp Chúa Giêsu thì Chúa trả lời:”…Thật vậy, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh sôi nhiều hạt lúa khác. Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ được sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy….” (Ga 12: 20-26).
Chúa Giêsu là tư tế, là linh mục và là Thiên Chúa. Một hình ảnh đau khổ, hấp hối, chịu cực hình, chịu đóng đanh chết trên thập giá vì tội lỗi nhân loại. Các thánh tông đồ như Phêro, Phaolồ…đều chịu cực hình và chịu chết như Thầy mình là Đức Giêsu Kitô. Những gương sáng, hình ảnh, dung nhan diện mạo đầy lòng trắc ẩn, đồng cảm và kết hợp nhân loại của chúa Kitô, của các thánh tông đồ đã để lại cho tất cả chúng ta, cho những ai là môn đệ của Chúa.
Đừng quên. Hãy Tin. Hãy yêu mến Chúa!
.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Gr 31:31-34; Dt 5:7-9; Ga 12:20-33)
Trong lịch sử cứu độ và lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã thiết lập nhiều giao ước với loài người. Nội dung của từng giao ước thay đổi và dấu chỉ nói lên giao ước cũng mỗi lần một khác. Dấu chỉ đầu tiên là cầu vồng sau cơn lụt đại hồng thủy nói rằng Chúa sẽ không khi nào dùng hồng thủy để hủy diệt nhân loại. Rồi đến việc cắt bì là dấu chỉ Thiên Chúa tuyển chọn Áp-ra-ham làm cha đức tin của dân riêng Chúa là Ít-ra-en. Sau đó là bia đá ghi chép Mười điều răn, dấu chỉ mối tương quan giữa Thiên Chúa với Ít-ra-en. Tuy nhiên trong giao ước mới và cuối cùng, Thiên Chúa đã chọn một phương thức vô cùng đặc biệt, là lấy chính máu Con Một Người là Chúa Giê-su để ký kết với toàn thể nhân loại. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta dấu chỉ của Giao ước Mới: Chúa Giê-su Ki-tô, để nhờ Chúa Ki-tô, chúng ta có thể sống mối tương quan sinh động với Thiên Chúa và anh chị em.
Trước hết ta hãy lắng nghe Thiên Chúa tuyên bố qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a rằng Người sẽ thiết lập một giao ước mới với nhà Ít-ra-en, không giống như giao ước Người đã lập với tổ tiên họ. Vậy nội dung giao ước ấy như thế nào? Đó là “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta”. Một giao ước quan trọng mà nội dung giản dị như vậy sao? Không đâu. Nếu mục đích của giao ước là thể hiện được mối tương quan giữa Chúa và chúng ta, thì việc tuân giữ Lề Luật Chúa đích thực là điều cốt yếu. Kinh nghiệm quá khứ đã cho thấy Chúa khắc Lề Luật Người vào bia đá trao cho ông Mô-sê. Nhưng bia đá mòn rồi mà dân Chúa vẫn chứng nào tật nấy, không tuân thủ Lề Luật Người. Cho nên lần này Chúa phải khắc vào “tâm khảm” họ để họ không thể quên. Nhưng chúng ta cũng đừng quên mục đích quan trọng của giao ước, không những nó nói lên tương quan mật thiết giữa chúng ta với Chúa, mà tương quan ấy còn được bảo đảm qua việc “Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa”! Liệu chúng ta có cảm nhận được sự tuyệt vời của giao ước này không? Đây nhé, Chúa đã nhận chúng ta làm dân của Chúa, điều này đã quá đủ rồi vì thực sự chúng ta không xứng đáng. Thế mà Người còn hứa sẽ tha thứ tội ác và mọi lỗi lầm của chúng ta nữa. Giao ước là phải công bằng cho cả hai bên chứ, nhưng Chúa đã nhận phần thiệt thòi, chỉ vì Người quá yêu thương chúng ta!
Vậy Thiên Chúa đã thực hiện giao ước thiệt thòi ấy như thế nào? Bằng cách “nộp” Con Một của Người cho chúng ta, sai người Con ấy là Chúa Giê-su xuống thế gian làm người phàm, để Ngài vâng lời Thiên Chúa đến nỗi vui lòng chịu chết và chết trên thập giá mà chuộc tội cho nhân loại. Chính Chúa Giê-su đã nói về sứ mệnh của Người chẳng khác gì hạt lúa gieo vào lòng đất. Hạt lúa ấy phải chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác. Cũng vậy, Chúa Giê-su phải chết đi trên thập giá thì mới có thể chuộc chúng ta về để chúng ta được phục hồi chức phận làm con cái Thiên Chúa. Nói khác đi, theo giao ước mới, Thiên Chúa đã trả một cái giá vô cùng đắt để giao ước ấy được thực hiện!
Khi suy niệm về hạt lúa gieo vào lòng đất và về cái giá đắt Thiên Chúa phải trả cho giao ước, bằng những suy tư thần học, thánh Phao-lô đã khẳng định rằng: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (bài đọc 2). Đúng vậy, khi ban Con Một cho chúng ta, Thiên Chúa Cha đã muốn Ngài trở nên “nguồn ơn cứu độ” cho chúng ta, chỉ với điều kiện dễ dàng là chúng ta hãy tùng phục Ngài như Ngài đã vâng phục Chúa Cha. Tùng phục Chúa Giê-su có nghĩa là chúng ta hãy gặp gỡ Người, trong mối tương quan với Người tạo nên sự thay đổi, chúng ta sẽ trở nên “đồng hình đồng dạng” với Người.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Thiên Chúa ban cho ta Ân Sủng trọng đại nhất, đó là Chúa Giê-su Ki-tô. Bài Tin Mừng hôm nay còn để lại một hình ảnh đẹp về việc gặp gỡ Chúa Giê-su: có mấy người Hy-lạp đến gặp tông đồ Phi-líp-phê và xin ông: “Chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su!” Cả đến những người không phải Do-thái cũng mong ước được gặp Chúa Giê-su, vậy mà chúng ta không ao ước gặp Chúa, thì ta là gì đối với Chúa? Chúa luôn mở rộng cánh tay đón chào ta. Chúng ta có thể gặp Người dễ dàng, qua cầu nguyện và việc lãnh nhận bí tích, nhất là khi rước Chúa vào lòng. Vậy chúng ta còn đợi gì nữa?
.
Lm. Đinh Quang Thịnh
Tuần tới, Chúa nhật lễ Lá đưa Đức Giêsu vào cuộc khổ nạn. Ngài sẽ bị giết chết trên thập giá.Đó là Hy Lễ mới Ngài thiết lập thay thế của lễ chiên cừu bò lừa bị sát tế dâng lên Chúa trong dịp lễ Vượt Qua, theo Luật Môsê.Ngài xác nhận: “Những kẻ thờ phượng đích thực,sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật,vì Chúa Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Hy Tế này Đức Giêsu vừa là Chủ Tế vừa là Của Lễ (x Giáo Lý HT số 1410). Hiệu quả của Hy Tế này là ban Giao Ước Mới, cũng là Di Chúc (x Dt 9,16), và ban ơn tha tội cho những ai đến thông hiệp với Ngài.
1/ Đức Kitô là Tư Tế mới
Ta biết Ngôi Hai Thiên Chúa chỉ “hành nghề Tư Tế” khi Ngài nhập thể làm người, “Ngài đã dâng lên Chúa Cha chính Con Người của Ngài cùng với lời khẩn nguyện lớn tiếng kêu van trong nước mắt và Ngài đã được nhậm lời thoát khỏi sợ hãi. “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua đau khổ mà học cho biết vâng phục, một khi đã thành toàn, Ngài đã nên nguyên nhân cứu rỗi đời đời cho những ai tùng phục Ngài” (Dt 5,7-9 : Bài đọc II).
2/ Đức Kitô là Lễ Vật mới.
Ngài không giết con vật nào để dâng cho Chúa Cha mà dâng chính mình Ngài trên thập giá .Ngài chết vì 3 nguyên nhân:
- Do Satan tấn công. Ngài nói : “Như ông Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng PHẢI BỊ treo lên như vậy” (Ga 3,14 : Bản dịch của NTT) : Loan báo Khổ Nạn lần I.
- Do phàm nhân tấn công. Ngài nói: “Khi các ngươi NHẮC CON NGƯỜI LÊN CAO, bấy giờ các ngươi biết Ta là Chúa” (Ga 8,28: Bản dịch của NTT): Loan báo Khổ Nạn lần II.
- Do Chúa Cha muốn. Ngài chấp nhận đau khổ để biểu lộ quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Ngài nói : “Một khi TA ĐƯỢC GIƯƠNG cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta” (Ga 12,32 : Bản dịch của NTT) : Loan báo Khổ Nạn lần III.
Ngài bị giết chết không phải như hạt lúa thối đi, vì hạt giống thối thì không bao giờ mọc lên được.Thế nên phải hiểu Lời Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,23-24 : Tin Mừng). “Hạt lúa chết đi” là ám chỉ chính Ngài sẽ bị giết và được ông Nicôđêmô lãnh xác Ngài an táng trong lòng đất, chưa trọn ba ngày, thì “hạt giống” này đã mọc lên (Chúa Giêsu Phục Sinh), để rồi Ngài sai các Tông Đồ đi khắp thế giới tập họp môn đệ cho Ngài bằng hai việc : ban Thánh Tẩy cho họ, và dạy họ mọi điều Đức Giêsu đã truyền cho các ông (x Mt 28,19-20), và cứ như thế cho tới ngày cánh chung, thì từ “hạt lúa ” ấy đã chết sinh ra biết bao hạt khác, mà trong một thị kiến ông Gioan cho biết : “Con Chiên đứng trên núi Sion và với 144 ngàn người, mang danh của Ngài và danh của Cha Ngài viết trên trán họ. Ngoài 144 ngàn người ấy, những người đã được mua chuộc từ cõi đất, họ là những kẻ không bị dây dớm với phụ nữ vì họ trinh khiết ; họ được tháp tùng theo Chiên Con bất cứ Ngài đi đâu;họ đã được mua chuộc giữa loài người, làm tiên thường hiến dâng Thiên Chúa và Con Chiên” (Kh 14,1.3b-4).
Những người được Chúa cứu độ, ngôn sứ Isaia cho biết là bởi Người Tôi Tớ Giavê diễn tả Đức Giêsu Khổ Nạn: “Thiên Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,và nhờ người,ý muốn của Thiên Chúa sẽ thành tựu.Nhờ nỗi thống khổ của mình,người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện.Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản,và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt,nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân;nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53, 10-12).
3/ Hiệu qủa Hiến Lễ mới.
Xưa kia, nhiều lần Thiên Chúa đã ban Giao Ước cho con người :
- Giao ước với ông Noe không còn lụt qua dấu hiệu chiếc cầu vồng (x St 9,1-17)
- Giao ước với ông Abraham sinh con đông như sao trời như cát bãi biển qua dấu phải chịu cắt bì (x St 17,1-27)
- Giao ước với ông Môsê qua luật pháp được đánh giá bằng máu chiên bò (x Xh 24)
- Giao ước với dòng dõi vua Đavid được trường tồn, vinh quang qua dấu một trinh nữ sinh con (x 2Sm 7).
Đặc biệt nhất là giao ước với dân Chúa: “Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, …Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. …Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.” (Gr 31,31-34 : Bài đọc I)
Ta để ý đến nội dung Giao ước mới do ngôn sứ Giêrêmia loan báo như trên có hai hiệu quả chính : Ban Giao Ước Mới và tha tội cho những người Chúa tuyển chọn.
* Được Thần Khí Chúa đặt LỜI VÀO CON NGƯỜI (x Gr 31,33).
* Được Chúa THA TỘI. (x Gr 31,34)
Hai hiệu quả trên Đức Giêsu đã thực hiện trong mầu nhiệm tử nạn và Phục Sinh của Ngài :
a- Ban Giao ước mới : Chúa Giêsu là hiện thân Lời của Chúa Cha, là Ngôi Lời hằng hữu (x Ga 1,1), đồng thời Ngài là “hạt lúa tốt” của Thiên Chúa gieo xuống gian trần, để sinh nhiều “hạt lúa tốt” khác (x Ga 12,24), đó là những người đã được Hội Thánh dùng quyền năng Chúa Thánh Thần ghi tạc Lời Chúa vào tấm xương thịt và linh hồn,như thánh Tông Đồ nói với giáo đoàn Côrinthô: “anh em là bức thư của Đức Kitô do tay chúng tôi soạn ra, viết không phải bằng mực, nhưng là bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải trên những tấm đá mà là trên những tấm lòng,tấm thịt.” (2Cr 3,3). Đặc biệt Giao ước được ban trong giờ chết lại trở thành DI CHÚC cho người nhận (x Dt 9,16).
Hiểu được như thế ta mới rõ lý do thánh Gioan Tông Đồ viết về Đức Giêsu trên thập giá, ông nhấn mạnh về Thiên tính của Ngài: “Ngài nghiêng đầu trao ban Thần Khí” (Ga 19,30), khác với Nhất lãm viết về nhân tính của Chúa Giêsu: “Ngài gục đầu tắt thở” (Mc 15,37).
b- Tha tội : Đức Giêsu nói : “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12,31) Đầu mục thế gian bị khai trừ chính là Satan, thế gian, tội lỗi, không có quyền thống trị con người, vì Chúa Giêsu Phục Sinh đã đánh gục nó! Bởi thế, Bí tích Thánh Thể (Lễ Tế mới của Đức Giêsu dâng) là trung tâm phát sinh mọi ơn của các Bí tích khác, nên trở thành Bí tích tha tội bậc nhất : Ai mắc tội nhẹ với lòng sám hối lên rước Lễ đã được Chúa tha thứ, thậm chí người mang tội trọng CẦN rước Lễ, muốn xưng tội mà chưa có điều kiện, cũng được rước Lễ, “kèm theo quyết tâm thống hối trọn vẹn bao gồm dốc lòng quyết đi xưng tội sớm ngần nào có thể” (Giáo Luật số 916 và Giáo Lý HT số 1407.1414.1416). Vì thế mỗi khi tham dự Thánh Lễ, ta cất lời cầu: “Lạy Chúa, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51/50,12a : Đáp ca).
4/ Đồng tế.
Đức Giêsu không thiết lập lễ tế một mình, Ngài nói : “Khi được giương cao,Ta sẽ kéo mọi người lên (đồng tế) với Ta” (Ga 12,32). Nhưng với bản tính loài người, Đức Giêsu lo sợ bị cô đơn. bởi đó Ngài thốt lên: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người có còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa không?” (Lc 18,8). Vì thế Ngài nói : “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? và Ngài cầu nguyện : Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến” (Ga 12,27: Tin Mừng).Giờ của Ngài là giờ tự nguyện hiến tế, đồng thời là giờ Ngài biểu lộ vinh quang (x Ga 2,4 ; Ga 7,6.8.30 ; Ga 8,20), và Đức Giêsu muốn mọi người cộng tác với Ngài, như thánh Tông Đồ nói: “ Nay tôi vui sướng trong các nỗi thống khổ chịu vì anh em; và trong thân xác tôi, tôi bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi quẫn bách Đức Kitô phải chịu vì thân mình Ngài là Hội Thánh” (Cl 1,24 : bản dịch NTT). Để khi Ngài được Chúa Cha tôn vinh thì kẻ ấy cũng được thông phần vinh quang với Ngài (2Tm 2,10). Bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Ai hầu hạ Ta, thì hãy theo Ta, và Ta ở đâu kẻ hầu hạ Ta cũng sẽ ở đó. Mà ai hầu hạ Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó” (Ga 12,26 – Bản dịch NTT: Tung Hô Tin Mừng). Động từ “hầu hạ”, Hy ngữ là “Litrêô” dịch sang tiếng Do Thái là “Avad”, có hai nghĩa : phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân ; còn động từ “treo lên” (x Ga 12,32) Hy-ngữ là “Hupsun”, cũng có hai nghĩa : bị đóng đinh và được tôn vinh. Như thế bản chất của Thánh Lễ là đồng tế, nên giáo luật số 906 qui định: “Nếu không có lý do chính đáng và hợp lý, tư tế không được cử hành lễ Thánh Thể nếu không có ít là một vài giáo dân tham dự”.
Tác giả sách Sáng thế viết về Đức Giêsu là Tư Tế theo kiểu Melkisedek, nghĩa là ông Abraham đã thắng mọi vua chúa trên đời để bảo vệ tài sản cho cháu Lot. ông Abraham mạnh hơn các vua chúa đến thế, mà ông còn phải dâng cho Melkisedek chiến lợi phẩm. Rồi ông Abraham được nhận lại bánh và rượu từ tay Melkisedek trao cho (x St 14). Điều ấy chứng tỏ nay Đức Giêsu có quyền đòi mọi người phải có lòng nhân ái như ông Abraham đối với cháu Lot, để việc nghĩa ấy góp chung một của lễ với Đức Giêsu, hầu lôi kéo muôn dân đến với Chúa Cha, như dân Hy Lạp nhờ môn đệ Đức Giêsu dẫn đến gặp Ngài (x Ga 12,20-23 : Tin Mừng). Đó là những kẻ do Cha lấy từ thế gian trao cho Đức Giêsu, vì thế Chúa Cha đã nói với Đức Giêsu : “Ta đã tôn vinh danh Ta, và Ta lại sẽ tôn vinh”, và Đức Giêsu hiểu ý Chúa Cha nên nói với dân: “Tiếng ấy phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi” (x Ga 12,28-30 : Tin Mừng).
THUỘC LÒNG.
Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24).
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY. NĂM B.
Lm. Antôn
Trong đời sống tôi tin chắc tất cả mọi người chúng ta muốn và cố gắng trở thành những người ngay thẳng và thành tín giữ lời hứa. Chúng ta tôn trọng, kính nể và muốn có những người bạn thân thích với những người có những đức tính này. Không ai thích hay muốn có những người bạn gian dối và bất tín. Vì chúng ta đánh giá sự thành thật và ngay thẳng cao, và chúng ta khâm phục những người giữ lời hứa, cho nên khi gặp người không thành thật hay nói dối thì chúng ta tránh xa hay không tôn trọng người đó nữa. Một khi chúng ta thấy con cái, cháu chắt trong gia đình của mình nói dối, hay không thành thật thì, là những bậc cha mẹ, chúng ta rất quan tâm và lo lắng. Khi kết hôn, vợ chồng cam kết thương yêu, trung thành và cùng nhau xây dựng hạnh phúc, hòa thuận. Khi sống chung với nhau và để cho những lời cam kết, những ước nguyền thành sự thật, vợ chồng phải hy sinh, cố gắng và thành tâm sống cũng như trung thành với những lời đã thề hứa.
Lời hứa trong Kinh thành được gọi là giao ước, và Thiên Chúa đã giao ước trước hết với dân Do thái và sau đó với chúng ta. Giao ước chứa đựng hai yếu tố quan trọng và cần thiết đó là trung thành và ngay thẳng. Chúng ta tin Thiên Chúa dù trong bất cứ hoàn cảnh nào luôn luôn trung thành với giao ước và với chúng ta. Thế nhưng con người chúng ta lại không có lý lịch tốt về sự trung thành và ngay thẳng với Thiên Chúa.
Chúng ta biết giao ước của Thiên Chúa với loài người bắt đầu từ cuộc xuất hành khỏi Ai cập của người Do thái. Sau khi cứu họ ra khỏi cuộc sống nô lệ và đau khổ, họ cam kết sẽ luôn nhớ ơn và trung thành với Chúa. Chúa cũng đã hứa với họ sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân riêng của Người. Chúa hứa sẽ ban ơn và bảo vệ họ nếu họ trung thành với Người. Họ nhận được bia giao ước của Chúa tại núi Si-nai trong đó có khắc ghi 10 giới răn hướng dẫn cuộc sống của họ mật thiết với Chúa. Từ đó giao ước không còn ghi trong bia gạch đá mà trong tâm hồn, trong thâm tâm của họ. Thiên Chúa mong ước họ sống một cuộc sống tự nhiên trong thành thật, ngay thẳng có lòng yêu thương đối với Thiên Chúa và với nhau.
Giao ước của Thiên Chúa được thể hiện một cách rõ ràng, thực tế và gần gũi hơn với loài người qua Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Chúa Giê-su là giao ước mới của Thiên Chúa với chúng ta. Người cho chúng ta biết tình yêu cao quí và ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha cho chúng ta qua cái chết đau thương của Người trên thập giá.
Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói về hạt lúa mì và mạc khải cho chúng ta biết một quy luật của sự sống, đó là, nếu hạt giống lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi và không biến đổi thì chỉ là hạt lúa trơ trọi một mình, không sinh hoa kết trái. Nhưng nếu nó chết đi và biến đổi đi nó sẽ trở thành sự sống và sinh nhiều bông hạt, và quan trọng hơn nữa là sẽ có đời sống vĩnh cữu muôn đời.
Qua hình ảnh sinh động này, Chúa Giêsu muốn cho biết chính Người là hạt lúa được gieo vào mảnh đất trần gian. Và qua cuộc thương khó và cái chết trên thập giá, thân xác của Người sẽ bị “mục nát bị hoà tan” để rồi từ trong sự tan biến ấy sẽ dẫn đến sự sống lại, phục sinh vinh quang và có sự sống đời đời. Như thế Chúa Giê-su Kitô chỉ được tôn vinh khi Người trải qua cuộc khổ nạn, chịu chết và biến đổi đến sự sống lại.
Chúng ta biết thông thường chết là chấm dứt mọi sự, còn đối với Chúa cái chết không những không chấm dứt mà còn đưa cuộc đời Chúa lên một tầm mức cao mới như Người nói: “Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh.” Như vậy, cái chết đối với Chúa không những là lúc Người được tôn vinh, mà Chúa còn cho cả những người tin theo Chúa cũng được tôn vinh như Người như Chúa khẳng định: “Khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta.”
Và vì vậy cho nên, ông bà anh chị em thân mến, Chúa Giê-su Kitô kêu mời mỗi người chúng ta, là dân riêng được Người tuyển chọn, trở thành những hạt lúa giống, trong mùa chay thánh này, cũng cần phải được vùi xuống đất, chết đi và biến đổi để có cuộc sống mới sinh nhiều bông hạt tốt, mang lại lợi ích cho Chúa.
Sự chết ở đây, như chúng ta biết, không phải là sự chết thể xác, nhưng là cái chết cho tội lỗi, cho những tính mê nết xấu trong con người của chúng ta, là cuộc sống không ngay thẳng, nghiện ngập, lười biếng, ích kỷ, kiêu căng, thù hằn, ghen ghét. Hay là cái chết cho cuộc sống bất trung với giao ước 10 điều răn của Chúa và 6 điều răn của Hội thánh.
Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được dìm vào trong nước có nghĩa là được dìm trong cái chết của Chúa Giê-su Kitô để có một đời sống mới. Thế nhưng vì tội lỗi, vì những cám dỗ của ma quỉ và bản tính con người, chúng ta đang sống trong một cuộc sống lưu đày xa Chúa, hay chỉ có hình thức. Ước gì, trong mùa chay thánh này, chúng ta như hạt lúa giống được chôn vào lòng đất, để cho tội lỗi trong con người chúng ta chết đi, và qua Bí tích Hòa giải, xưng tội, được biến đổi, có một cuộc sống mới thánh thiện hơn, mến Chúa hơn, có sống bác ái và quảng đại, khiêm nhường hy sinh phục vụ, sinh nhiều hoa trái tốt cho Chúa, gia đình hoà thuận, thương yêu. Chúng ta được kêu gọi cố gắng sống ngay thẳng, thành thật trung thành với giao ước với Chúa, với vợ chồng trong gia đình.
Tuần này, chúng ta sẽ có những buổi tĩnh tâm hướng dẫn chúng ta có những cái nhìn thành thật vào cuộc sống cá nhân, gia đình và đức tin. Tuần tới, chúng ta bắt đầu vào tuần thánh, tuần hồng ân đi vào cuộc thương khó và ân sủng. Xin ông bà anh chị em chuẩn bị tâm hồn để cùng bước với Chúa Giêsu, Đấng đã dùng cây Thánh giá để biểu lộ sự trung thành, lòng yêu thương và ơn cứu chuộc cho chúng ta.
.