CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY NĂM B

992

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY B

Lời Chúa: Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33

 

Mục lục

1. Sự chết và sự sống  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hạt lúa mục nát  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Được tôn vinh  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

4. Chuyện về con Dơi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Chấp nhận mục nát để trổ sinh mùa lúa mới  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

6. Thề hứa  (Trầm Thiên Thu)

7. Con đường hạt lúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Đã đến “Giờ” bước theo Chúa (Lm. Giuse Dương Hữu Tình, Gp. Hải Phòng)

9. Giờ con Người được tôn vinh  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

10. Chúa Nhật 5 Mùa Chay_B   (Br. Vincent SJ)

11. Vượt qua sự chết để vào cõi sống  (Lm. Đan Vinh – HHTM)

 

 

SỰ CHẾT VÀ SỰ SỐNG

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Theo quy luật chung, cuộc sống của chúng ta tồn tại nhờ vào sự hy sinh của những người có liên hệ, cụ thể là cha mẹ và những người thân. Chúng ta sống và tồn tại cũng là nhờ các loài sinh vật cỏ cây mà chúng ta dùng làm lương thực. Các loài động vật hy sinh cho chúng ta có thực phẩm. Các loài thảo mộc hy sinh cho chúng ta có lương thực và rau cỏ trong bữa ăn hằng ngày.

Điều khẳng định trên đây liên quan đến đời sống thể xác. Đức tin Kitô giáo dạy chúng ta, con người được thông ban chính sự sống của Thiên Chúa, nhờ Ngài mà chúng ta hiện hữu và sống động. Hơn thế nữa, Đức Giêsu đã trao ban chính mạng sống của mình để cho chúng ta được sống. Người chính là hạt lúa rơi xuống đất, chấp nhận mục nát đi để làm nảy sự sống mới tồn tại muôn đời.

Mùa Chay cũng được gọi là Mùa Thương Khó, vì đây là thời gian giúp chúng ta suy niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu. Chúng ta tôn vinh thập giá là phương thế qua đó Đức Giêsu giới thiệu tình thương yêu vô bờ bến của Chúa Cha. Đức Giêsu đã hiến chính bản thân mình làm của lễ dâng lên Đức Chúa Cha, xin ơn tha tội cho loài người. Sự sống và hạnh phúc của con người được phát sinh và tuôn chảy từ cây thập giá. Ơn cứu độ dồi dào như mạch suối trào tuôn từ chính vết thương ở cạnh sườn của Người. Chính từ vết thương này phát sinh Giáo Hội và các Bí tích. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Đó là huyền nhiệm của thập giá. Hai ngàn năm nay, con người chịu khổ hình trên thập giá đã lôi kéo biết bao người ra khỏi tối tăm để đến với ánh sáng, ra khỏi tội lỗi để đạt tới sự thánh thiện, ra khỏi hận thù để thực thi đức yêu thương.

Và như vậy, triết lý “hạt lúa” được đề nghị cho tất cả những ai muốn cất bước theo Đức Giêsu. Sự hy sinh này, đối với một số người, đã trở nên điều nghịch lý:

-Sẵn sàng hy sinh mạng sống thì sẽ giữ được nó mãi mãi

-Khư khư giữ lấy nó, sẽ bị mất muôn đời.

Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta: Người đã cho đi chính sự sống của mình. Người đã hiến mạng sống làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Chính nhờ sự chết của Người mà cả trần gian được ơn cứu rỗi. Sự chết của Người đã mở ra một kỷ nguyên mới. Máu của Người đổ ra để ký kết một giao ước mới, giao ước vĩnh cửu. Những ai sống trong thời giao ước mới này, sẽ được nhận biết Chúa và thực hành những gì đẹp lòng Ngài (Bài Đọc I).

Nếu hạt lúa vẫn nằm yên bất động sau khi được gieo xuống thì niềm trông đợi của bác nông phu sẽ trở nên vô vọng.

Nếu thân xác Đức Giêsu vẫn cứ tồn tại trong nấm mồ, thì nhân vật Giêsu sẽ còn gì để nói với chúng ta.

Không, Hạt-Lúa-Giêsu đã mục nát để phục sinh và đâm bông kết trái. Hạt lúa ấy đã trở nên bánh ăn để nuôi dưỡng chúng ta.

Nếu mỗi Mùa Chay, chúng ta chỉ hô hào khẩu hiệu sám hối, chúng ta chỉ thực hành một vài nghi lễ bên ngoài mà đời sống nội tâm không được biến đổi, thì chúng ta giống như hạt lúa, vẫn trơ trơ vô cảm khi được gieo vào lòng đời.

Có bao giờ bạn nghĩ là chúng ta đang sống nhờ sự chết của Đức Giêsu ?

Có bao giờ bạn có những hy sinh cố gắng để đem lại niềm vui cho bản thân, trước khi đem lại niềm vui anh chị em mình?

Những thực hành Mùa Chay như cầu nguyện, hy sinh, ăn chay, chia sẻ… đang làm cho con người ích kỷ đầy tham vọng của chúng ta chết đi, nhường chỗ cho một con người mới, được sinh ra nhờ liên kết với thập giá của Đức Giêsu.

“Ai phụng sự Thày, hãy theo Thày!”. Thực hành những điều nói trên đây là đi theo Đức Giêsu để trở thành môn đệ của Người.

Về mục lục

.

HẠT LÚA MỤC NÁT

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.

Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.

Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.

Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.

Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.

“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.

2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?

3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?

4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?

Về mục lục

.

 

ĐƯỢC TÔN VINH

Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Người xưa có câu : đã mang kiếp làm lừa, đừng sợ người ta mắng mình là ngu ngốc, đừng ngạc nhiên khi có kẻ cưỡi lên lưng. Được sinh ra làm người, bạn cũng chẳng nên bận tâm khôn hay dại, điều cần hơn là ta hãy sống tốt những gì mình đang có. Dù là lừa hay ngựa cũng là con vật chở hàng chở đồ, dù là người có điều kiện thuận lợi hay khó khăn, ai ai cũng đang hướng tới mục tiêu ở phía trước là được hạnh phúc.

Làm một cử chỉ đẹp để được tôn vinh hay được khen thưởng, chúng ta đã có khái niệm; còn chấp nhận chịu thua lỗ để được gọi là chiến thắng, chấp nhận chịu thiệt thân để được sống, được hạnh phúc, kinh nghiệm ấy hẳn là ta chưa có. Hạt lúa được gieo vào lòng đất chúng ta đã nghe, nhưng quá trình hư đi, thối đi như thế nào thì mọi người chỉ biết trên phạm vi lý thuyết mà thôi. Nếu “chảnh” hay tự mãn, chúng ta sẽ nghĩ Thầy Giêsu đang “lạc điệu” : ông nói gà bà nói vịt, đang đối diện với nguy hiểm chết người, Thầy Giêsu lại tuyên bố, giờ được tôn vinh !

Chỉ khi có tình yêu, người ta mới hiểu 2 từ vâng phục là gì, thế nào là thảo hiếu với Đấng bậc sinh thành dù là nghịch lý đau khổ, mất mát… Rõ ràng sinh tử là qui luật, thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi; quả thực, ai mà chẳng muốn được, sợ mất, thích bùi thích ngọt, ghét roi vọt trách mắng. Thấy khổ đau, biết mình mắc bệnh, sẽ lo tìm thầy chạy thuốc, trừ khi nào không né tránh nổi, bác sĩ bó tay, người ta mới vui lòng chấp nhận chết.

Như một nghịch lý khó chấp nhận được, làm sao “yêu sự sống mình ở đời này thì mất, còn ai ghét sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” ? Theo thầy thọ giáo, lếch thếch đó đây làm đệ tử với hy vọng có một chút bổng lộc, địa vị, còn theo thầy mà mất tất cả ở đời này, đúng là khó hiểu thật ! Cuộc đời sòng phẳng như câu tục ngữ : ăn miếng trả miếng, hòn đất ném đi, hòn chì ném lại ; hay ông cho cây giò bà thò chai rượu.

Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nói rằng : Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó, nghĩa là giờ được tôn vinh tùy thuộc hành động đức tin của mỗi người. Giờ mà Đức Giêsu mong muốn không phải là giờ chết, đúng hơn là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó. Giờ được tôn vinh mà Đức Giêsu nói tới là một nghịch lý, ví như hạt lúa gieo vào lòng đất phải chịu thối đi để sinh nhiều bông hạt. Đối diện với giờ được tôn vinh, tâm hồn Đức Giêsu đầy ưu tư xao xuyến tự nhiên, biết nói gì ? Đức Giêsu hướng chúng ta tới một tín thác hoàn toàn : “Xin cứu con khỏi giờ này, vì giờ này mà con đến thế gian, lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha”.

Giờ được tôn vinh của Đức Giêsu là giờ “chịu treo lên”, giờ hoàn tất sứ mạng, giờ mà Đức Giêsu có thể kéo mọi người tới sự sống đời đời. Thực ra, Chúa Giêsu luôn yêu cầu chúng ta phải chọn lựa : chấp nhận theo thầy hay bỏ cuộc, chấp nhận như hạt lúa chịu thối đi hoặc chỉ trơ trọi một mình ? Dù muốn hay không, khi còn sống trên trần gian, chúng ta còn phải đối diện với muôn vàn điều khó khăn, nghịch lý, giờ được tôn vinh của ta, tùy tự do ta chọn Chúa hay chọn thế gian ?

Câu truyện : Cầu nguyện sao cho lợi

Có một ông bố mua 10 tờ vé số, ông ấy về nhà dẫn theo thằng con đến nhà thờ tha thiết cầu nguyện, cầm tờ vé số đưa lên và ông khấn với Chúa như thế này : lạy Chúa ! con khổ quá rồi, xin Chúa thương cho con trúng tờ vé số này, con hứa sẽ dâng Chúa trọn vẹn tờ vé số này.

Thằng con đứng bên cạch níu áo Bố mà nói : Bố ơi như thế thì đâu được, dâng hết thì nhà mình lấy gì mà xài hả Bố. Ông bố nạt thằng con: xuỵt ! Tao đâu có ngu, tao còn 9 tờ trong túi đây này, khấn cầu phải như thế chứ…

Khôn ngoan thế gian và khôn ngoan trong Chúa hoàn toàn khác nhau. Chấp nhận nghèo khó ở đời này để được giầu có ở đời sau thật là một cám dỗ triền miên. Dám chịu khổ đau để đến vinh quang không thể thiếu ơn Chúa, tham sống sợ chết là tiểu nhân, khiêm tốn cậy dựa vào sức mạnh của Đức Giêsu để có sự khôn ngoan, đó mới là người quân tử.

Văn hào Vitor Hugo có nói tới một kinh nghiệm : dục vọng làm người ta nhỏ lại, tình yêu sẽ biến đổi người ta thành trẻ thơ. Đức Kitô không đòi buộc chúng ta phải từ bỏ tất cả tới mức, tự treo mình trên thập giá để đạt được vinh quang theo lối của Chúa, giờ Chúa được tôn vinh là giờ thế gian được cứu độ. Chúa kêu mời mỗi người hãy tự bỏ mình như hạt lúa, cần phải được vùi xuống đất, chết đi, để sinh bông hạt. Không phải chết về thể xác, nhưng chết về những tính xấu trong con người của ta : ích kỷ, kiêu căng, bất công, thù oán. Là môn đệ của Đức Kitô, ai ai cũng được mời gọi hướng tới giờ được vinh quang, và chúng ta có quyền hy vọng vào lời hứa : “Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta; và Ta ở đâu, kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó”. Amen.

Về mục lục

.

 

CHUYỆN VỀ CON DƠI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có một cô gái nói rằng: cô đang rất đau khổ, trước mặt cô là cả một bầu trời đen tối và cô đang phải sống với những giọt nước mắt tuyệt vọng cuối cùng.

Nghe thật bi thảm, cô vừa bị mất việc vừa bị người yêu phản bội. Đây là mối tình đầu của cô và nó đã kéo dài 5 năm với tất cả sự chân thành nồng nhiệt, thủy chung của trái tim tuổi trẻ. Với mất mát này, cuộc sống trước mặt cô chỉ là những ngõ cụt, đường cùng.

Đó là tâm trạng của rất nhiều người khi đối diện với thất bại, đau khổ, nghịch cảnh. Họ cảm thấy mình như đi vào đường cùng. Họ cảm thấy bầu trời đối với họ không còn lung linh rạng ngời mà chỉ còn bóng tối bao trùm. Họ thất vọng. Họ buông xuôi.

Thực ra , ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới đau khổ hay hạnh phúc. Điều quan yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy. Chúng ta có thể thấy điều ấy qua hình ảnh con dơi. Một con dơi bình thường luôn bay ra ngoài vào buổi tối. Nó là một sinh vật nhanh nhẹn, lanh lợi đến mức ấn tượng. Tuy nhiên, nó không thể cất cánh từ một địa điểm bằng phẳng. Nếu nó được đặt trên sàn hoặc một mặt phẳng, thì tất cả những gì nó có thể làm là lê bước loanh quanh một cách vô vọng và đau khổ. Cho đến khi nó tìm được một độ cao nào đó, chỉ cần là một góc nâng nhỏ thôi, để từ đó, nó có thể tung mình vào không trung. Và, ngay lập tức, nó bay lên như một tia chớp.

Đôi khi chúng ta cũng giống như những con dơi cứ quanh quẩn trong bế tắc cùng khổ. Chúng ta vật lộn với tất cả các vấn đề rắc rối và tuyệt vọng của mình, mà không bao giờ nhận ra rằng rất có thể một giải pháp ở rất gần, chỉ cần chúng ta nhìn lên cao hơn – hay nhìn về phía trước sẽ có một con đường mới cho chúng ta.

Khi nhìn vào đau khổ, Chúa Giê-su đã ví tựa cuộc đời như hạt lúa chịu mục nát mới trồi sinh sự sống. Ngài còn nói rằng khi Ngài bị treo lên thập giá thì không phải là đau khổ, hay là thất bại mà là cứu sinh cho nhân loại. Ngài không nhìn đau khổ như đường cùng mà là một khởi sự cho sự sống mới trồi sinh. Từ chính đau khổ ấy Ngài ngước nhìn lên cao để có thể thấy ý Thiên Chúa Cha đang đòi Ngài hiến tế cứu đời. Đối với Chúa Giê-su đi vào đau khổ còn như là định luật tất yếu của đời người, vì “hạt lúa phải mục nát mới trồi sinh bông lúa vàng”. Đối với Chúa Giê-su thập giá không là nỗi nhục mà là một hành vi cứu rỗi nhân gian qua sự hiến tế của Ngài.

Cuộc đời con người chắc chắn sẽ có những khúc quanh của đau khổ nhưng vẫn còn con đường phía trước. Dù hẹp. Dù quanh co. Nhưng vẫn có lối thoát cho cuộc đời chúng ta. Đừng thất vọng trước khó khăn. Đừng tháo chạy trước gian nguy. Hãy nhìn vào khó khăn của bổn phận, của thử thách như lời mời gọi chấp nhận mục nát đời mình để sống có ích cho tha nhân. Hãy đón nhận thập giá cuộc đời trong thiên ý Thiên Chúa như là hồng ân Ngài ban tặng cho chúng ta để hiệp thông cứu độ trần gian.

Xin cho chúng ta luôn biết tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có bình an, hạnh phúc cho dù vẫn còn đó những khó khăn thử thách. Xin cho chúng ta biết bám vào Chúa để nhờ ơn Chúa chúng ta vượt qua những khó khăn. Amen

Về mục lục

.

 


CHẤP NHẬN MỤC NÁT ĐỂ TRỔ SINH MÙA LÚA MỚI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Ở đất nước nông nghiệp như Việt Nam, cây lúa gắn liền với đời sống của người dân. Nghề trồng lúa của Việt nay tuy đã có rất nhiều thay đổi tiến bộ, nhưng vẫn bị xếp vào nền nông nghiệp lạc hậu. Vấn đề quan trọng nhất của nhà nông bây giờ không còn là nhất nước nhì phân, mà phải là nhất giống, nhì phân, tam cần tứ nước. Nhà nông ngày nay khi gieo trống, họ luôn quan tâm và chọn loại giống nào cho năng xuất cao, chất lượng tốt, có giá trị kinh tế cao. Hạt giống chất lượng, không mang mầm bệnh, có sức kháng rầy, kháng bệnh sẽ đem lại mùa lúa bội thu cho nhà nông.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh hạt lúa mì gieo vào lòng đất để nói về sự hy sinh, tự hiến của Ngài : Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Chúa Giêsu chính là hạt lúa mì được Thiên Chúa Cha gieo vào thế gian. Ngài đã chấp nhận hạ mình mang lấy thân phận con người, chịu mục nát bởi sự giới hạn trong thân phận con người, và nhất là chấp nhận cái chết trong phận con người để làm trổ sinh một mùa lúa mới, một dòng giống mới.

Khi nghe các môn đệ báo là có những người Hy Lạp muốn gặp, Chúa Giêsu trả lời : Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! Giờ Chúa Giêsu nói đến chính là thời điểm vinh quang của Thiên Chúa được tỏa rạng, Danh Chúa được muôn dân nhận biết. Giờ ở đây là thời Thiên Chúa thực hiện việc quy tụ con cái của Ngài từ muôn dân, muôn nước trở nên một dân duy nhất. Nhưng đặc biệt hơn nữa, Chúa Giêsu muốn nói đến giờ Ngài hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại qua cuộc tử nạn và phục sinh, mà Ngài đã dùng hình ảnh để so sánh : Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ cho được sự sống đời đời.

Với hình ảnh này, Chúa Giêsu cho thấy cuộc thương khó và cái chết của Ngài sẽ không rơi vào vô ích, nhưng sẽ đem lại sự sống mới cho nhân loại. Chúa Giêsu, khi được Thiên Chúa Cha gieo vào trần gian với sứ mạng giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của ma quỷ, tội lỗi và sự chết, Ngài đã âm thầm thực thi sứ mạng ấy trong vâng phục và từ bỏ chính mình để rồi hôm nay, Ngài thấy những mầm sống, những tia hy vọng đầu tiên hé nở qua việc những người dân ngoại tìm đến với Ngài.

Chấp nhận mang thân phận hạt lúa mì, thì cũng đồng thời phải chấp nhận nghịch lý “được và mất” : Ai yêu mạnh sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống ở đời này, thì sẽ giữ được sự sống đời đời. Đây là một nghịch lý nhưng không hề vô lý, nghịch lý này chỉ dành cho những ai nhận ra giá trị vĩnh cửu của Nước Trời và sự sống đời sau mới dám đánh đổi như thế. Chúa Giêsu chấp nhận nghịch lý này khi hy sinh mạng sống, chấp nhận cái chết đau đớn, nhục nhã vì tội nhân loại và Thiên Chúa Cha đã trả lại cho Ngài sự sống lại trong vinh quang và còn đặt Chúa Giêsu làm Đấng Kitô và là Chúa tể trên trời và dưới đất.

Thiên Chúa Cha đã chấp nhận của lễ là sự yêu mến và vâng phục của Chúa Giêsu, sự vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, đã là một hành động tôn vinh Danh Chúa và Thiên Chúa còn tiếp tục làm rạng Danh Ngài qua chính Người Con yêu quý của Ngài là Chúa Giêsu. Như thế, giờ tự hiến của Chúa Giêsu trên thập giá sẽ là giờ chiến thắng của uy quyền Thiên Chúa trên ma quỷ, của sự sống trên sự chết, của ân sủng và tình yêu trên tội lỗi và hận thù, đồng thời cũng là thời điểm Satan và các thế lực của nó sẽ bị loại trừ vĩnh viễn.

Một lần nữa, Chúa Giêsu nói về việc Ngài sẽ bị chết treo, nhưng cái chết treo này sẽ không còn là nỗi ám ảnh sợ hãi cho con người, cũng không còn phải là sự nguyền rủa của Thiên Chúa nữa nhưng sẽ là đỉnh cao, là điểm quy tụ lôi kéo mọi người quay về với Thiên Chúa : Một khi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng tôi. Với cái chết treo trên thập giá, Thiên Chúa sẽ thiết lập một giao ước mới với một dân mới được Thiên Chúa yêu thương, điều này đã được Giêrêmia loan báo trước từ lâu : Ta sẽ lập với nhà Israel và Giuđa một giao ước mới,…Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng lề luật của Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng và chúng sẽ là dân Ta. Từ đây, dân mới là Hội Thánh, trong đó có mỗi chúng ta, được Thiên Chúa yêu thương cách riêng và Ngài đã ghi khắc lề luật của Ngài trong mỗi chúng ta, để từ đây, chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa mà thôi.

Nghịch lý của hạt lúa mì vẫn mãi là đòi hỏi và thách thức cho mỗi người : Là cha mẹ, chúng ta càng cảm nhận được nghịch lý này đang là một thách thức cho mỗi gia đình. Thế gian kéo chúng ta về một cuộc sống dễ dãi, buông thả, không cần cố gắng, không phải hy sinh, nhưng trái tim và ơn gọi làm cha mẹ lại đòi chúng ta phải chấp nhận hy sinh, tiêu hao cuộc đời, sinh lực, tâm trí, khả năng cho cho gia đình, cho con cái, với hy vọng tương lai hạnh phúc sẽ đến với con cháu mình. Hơn thế nữa, ơn gọi làm con Chúa và ơn gọi nên thánh thúc đẩy chúng ta phải chấp nhận tiêu hao cả con người cùng với sự hy sinh từng ngày để vun đắp hạnh phúc và đời sống đức tin cho con cháu. Hãy chấp nhận mục nát cái tôi ích kỷ, nhỏ nhen để vun đắp cho gia đình thêm ấm cúng, thuận hòa. Hãy chôn vùi vĩnh viễn những đam mê như rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập, những lời nói chua ngoa hay những lời chửi bới tục tĩu để cho lòng nhân ái bao dung được nảy mầm, cho hạnh phúc được đơm bông kết trái.

Nếu cha mẹ dám chấp nhận một cuộc sống lương thiện, ngay thẳng thật thà, thì họ sẽ gặt được những hoa trái là những đứa con lương thiện. Nếu cha mẹ dám chấp nhận mục rã, hủy bỏ sự ươn lười của mình, họ sẽ gặt được những đứa con chăm ngoan. Nếu cha mẹ siêng năng trong đời sống đạo đức và công tác tông đồ, thì hoa trái của họ sẽ là những đứa con đạo hạnh, nết na. Cha mẹ nào cũng muốn hy sinh cho con, vì con, nhưng có những sự hy sinh uổng phí hoặc là hy sinh không đúng chỗ. Có người hy sinh vất vả chỉ để kiếm tìm cơm bánh cho con, mà lại quên vun đắp cho gia đình mình ấm cúng, thuận hòa, hạnh phúc. Có những người chỉ lo tìm kiếm của cải vật chất mà quên xây dựng đời sống đạo đức và tâm hồn cho con cái. Những hy sinh như thế là chưa đúng và còn là uổng công.

Là những người Công Giáo, đôi khi chúng ta cảm thấy mình bị thua thiệt so với những người khác, chỉ vì chúng ta muốn trung thành với Chúa Giêsu và giao ước mới của Ngài. Chúa Giêsu đòi chúng ta phải sống triệt để quy luật của hạt lúa mì, chấp nhận mục rã ở đời này để được hạnh phúc đời đời mai sau. Trong khi người đời chạy theo xu hướng hưởng thụ buông thả, nghiện ngập ăn chơi, thì chúng ta lại chấp nhận từ bỏ và tiết chế. Trong khi người đời tìm kiếm sự giàu sang vật chất thì chúng ta lại tìm kiếm gia tài trên trời ; và trong khi người đời dửng dưng, vô cảm với nhau, thỏa mãn trên sự nghèo khổ của anh em thì chúng ta lại đang muốn sống quan tâm, chia sẻ và cảm thông. Đó chính là quy luật của hạt lúa mì. Quy luật này phải là lý tưởng sống cho mỗi người trong thời đại hôm nay.

Mang thân là hạt lúa mì, mỗi người còn phải chấp nhận một sự nghiền nát, nhào nặn và đốt nóng để trở thành tấm bánh được dâng lên Thiên Chúa mỗi ngày trên bàn thờ, để tôn vinh Thiên Chúa, đem lại ơn cứu độ cho mình và cho mọi người ; đồng thời còn là tấm bánh được bẻ ra cho anh em. Xin cho chúng ta dám bẻ thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ, khả năng, của cải, lương thực để chia sẻ và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho anh em. Amen.

Về mục lục

.

 

THỀ HỨA

Trầm Thiên Thu

Trong cuộc sống có nhiều dạng thề hứa. Thế hứa là giao ước thực hiện điều gì đó. Những người sống đời sống hôn nhân có lời hứa chung thủy phu thê, nhưng người sống đời sống tu trì có lời hứa mà chúng ta gọi là lời khấn – ít nhất là ba lời khấn: Vâng lời, nghèo khó, khiết tịnh. Lời thề hứa nào cũng rất cần chữ TÍN.

Giữa các quốc gia có các hiệp ước, các công ty có hợp đồng, giữa các cá nhân cũng có giao kèo. Trẻ em cũng thường ngoéo tay nhau mỗi khi thề hứa với nhau. Trong nhạc phẩm “Ngoéo Tay Nhau Thề”, tác giả Vinh Sử và Cô Phượng mô tả: “Ngoéo tay nhau thề lòng không dối lòng, ngoéo tay nhau thề tình nghĩa mênh mông…”. Chính tình yêu cũng có lời nguyện ước giữa hai người yêu nhau.

Tuy nhiên, hứa thì dễ, giữ mới khó. Lời hứa cũng nhiêu khê. Sử gia Thomas Fuller (1608-1661) nói: “Lời thề trong giông bão bị lãng quên lúc bình yên”. Triết gia Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) nhận định: “Những người chậm chạp khi đưa ra lời hứa là những người trung thành với việc thực hiện nó nhất”.

Chuyện kể rằng…

Một anh chàng giật mình khi nghe một giọng nói khàn khàn, run run. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

– Ăn hộ tôi mớ rau…!

Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người để tới chỗ làm sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh:

– Dạ, con không ăn, bà ạ!

Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi gã quên rất nhanh cái cảm giác ấy. “Mình thương người thì ai thương mình?” – ý nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.

– Ăn hộ tôi mớ rau, cô ơi! – Tiếng bà cụ yếu ớt.

– Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn! – Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.

Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày, đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:

– Rau này bà bán bao nhiêu?

– Hai nghìn một mớ – Bà cụ mừng rỡ.

Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.

– Sao chú mua nhiều thế?

– Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!

Rồi gã nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy lòng mình vui vui…

Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, và gã nghĩ đến bà cụ

– Nghỉ ngơi thế đủ rồi đấy!

Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ.

Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ rồi.

Chiều Chúa Nhật, gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy, có lẽ gã thích thế. Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang “buôn chuyện”.

Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:

– Bà bán rau chết rồi.

– Bà cụ hay đi qua đây hả chị? – chị bán nước khẽ hỏi.

– Tội nghiệp bà cụ! Cách đây mấy tuần, bà cụ giở chứng, cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng bà nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh mà… chết!

Câu chuyện khiến lòng chúng ta chùng xuống, nỗi bâng khuâng rất lạ, rất khó tả. Bà cụ là người chân thật, trọng chữ tín. Mấy mớ rau chẳng đáng gì, nhưng với bà cụ, lời hứa rất đáng giá. Lời hứa nào cũng vô giá – dù lớn hay nhỏ, và phải được thực hiện bằng mọi giá!

Giữa Thiên Chúa và con người cũng có những lời thề hứa, chúng ta gọi là giao ước. Thời Cựu Ước, Đức Chúa đã tuyên phán: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31:31-33). Thiên Chúa đã hứa gì thì chắc chắn được làm, làm đến nơi đến chốn.

Chúng ta chỉ là tội nhân, chẳng đáng gì để được Ngài hứa, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài dành cho chúng ta những giao ước kỳ diệu và vô giá: “Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết Đức Chúa’, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr 31:34). Quả thật, tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3).

Thiên Chúa không đòi buộc gì nhiều, Ngài chỉ cần chúng ta thành tâm sám hối. Thế thôi, mọi thứ sẽ ô-kê ngay! Thế nhưng chúng ta là phàm nhân, không chỉ có máu Pharisêu mà còn có máu Cuội. Quá quắt lắm, vừa giả hình vừa hứa lèo. Mùa Chay về, dịp thuận tiện để chúng ta nghiêm túc xét lại chính mình, và rồi hãy sám hối: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4).

Chút tro rắc trên đầu (hoặc vẽ trên trán) cũng chỉ vô ích nếu chúng ta không “xức tro” tâm hồn và “xé lòng” vì tự cảm thấy bất xứng với Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chắc chắn Ngài xót thương mà bỏ qua hết nếu chúng ta thành tâm đấm ngực chính mình, đấm vào chỗ sâu thẳm nhất của con tim, chứ đừng đấm ngực người khác. Không chỉ vậy, chúng ta còn phải cầu xin Thiên Chúa biến đổi chúng ta bằng cách “đại tu” linh hồn chúng ta: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:12-15). Lời cầu nguyện chân thành như thế này là lời cầu nguyện có màu tím nhưng lại lung linh sắc hồng. Đẹp biết bao!

Sinh hữu hạn, tử bất kỳ. Cái khổ nhiều hơn cái sướng, cái buồn nhiều hơn cái vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười. Đời phàm nhân là thế. Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng phải chịu trăm cay ngàn đắng. Cay đến xé lòng, đắng đến cứng miệng. Còn con đường nào đau thương hơn Đường Thập Giá?

Thánh Phaolô cho biết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:7-9). Đức vâng lời rất cần thiết, cần thiết hơn cả lễ tế, thế nhưng lại là bài học khó học và khó áp dụng nhất.

Một hôm, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin được gặp Chúa Giêsu. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Ngài không trả lời thẳng vấn đề mà lại nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:23-26).

Đó là “giao ước” mà nghe lại như không là giao ước: Nếu thế này thì sẽ thế kia, nếu thế kia thì sẽ thế nọ. Rất bình thường mà lại rất lạ. Cũng với tinh thần đó, Thánh Phanxicô Assisi đã xác định: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình). Quả thật, vô cùng kỳ diệu! Người ta phải tìm hiểu thấu đáo, rồi phải can đảm sống, nhờ đó mới có kinh nghiệm, có kinh nghiệm rồi thì mới cảm nghiệm được dạng giao ước “ngược đời” như vậy.

Thiên Chúa đã giao ước với nhân loại sau khi Ông Bà Nguyên Tổ sa ngã. Ngài đã hứa chắc chắn: “Một khi đã thề với danh nghĩa là Đấng Thánh, thì cùng Đa-vít, Ta chẳng thất tín đâu” (Tv 89 :36). Ngài hứa ban Con Một làm Đấng Cứu Độ, và Ngài thực hiện đến cùng. Chúa Cha cương quyết đến mức Chúa Giêsu, theo nhân tính, còn tưởng Ngài bị Chúa Cha bỏ rơi trong nỗi đau khổ tột cùng và thốt lên: “Sao Cha nỡ bỏ con?” (Mt 27:45; Mc 15:34).

Vâng, lời hứa phải được thực hiện, Ý Cha phải được thể hiện. Nhưng với nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy lo sợ nên Ngài đã tâm sự với các môn đệ: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27a). Và rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:27b-28). Dù sợ nhưng Ngài vẫn chỉ mong Ý Cha nên trọn mà thôi. Ngay lúc đó có tiếng xác nhận từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:29). Dân chúng đứng ở đó nghe vậy, người thì bảo đó là tiếng sấm, người thì bảo đó là tiếng của một thiên thần. Người trần mắt thịt làm sao hiểu nổi! Và rồi Đức Giêsu nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:30-31).

Giờ G đã điểm. Sự giằng co rất gay go. Thời đại chúng ta đang sống cũng là thời điểm “tranh tối, tranh sáng”, Thánh Phaolô đã có lần thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Nhưng dù thế nào, Chúa Giêsu vẫn muốn thực hiện trọn đức tuân phục, và dù đau khổ tột cùng, Ngài vẫn hứa với chúng ta: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Ngài nói thế để ám chỉ Ngài sẽ phải chết cách nào: Chết treo trên Thập Giá. Chúa Giêsu chịu chết để hoàn tất lời hứa của Chúa Cha.

Chúng ta được Thiên Chúa giao ước, chúng ta cũng phải thề hứa với Ngài và tha nhân, nhưng phải thực hiện đúng. Bằng cách nào? Đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu qua những điều trái ý mình hằng ngày. Mùa Chay, Mùa Thương Khó, chúng ta hãy noi gương Thánh nữ Faustina cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những đau khổ nội tâm, về sự khô khan, về sự sợ hãi, về nước mắt, về sự lưỡng lự, về sự tăm tối nội tâm, về sự cám dỗ, về sự thử thách, về sự giày vò mà con không thể diễn tả, nhất là về những điều mà không ai hiểu, về giờ chết với sự chiến đấu dữ dội và cay đắng. Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những thập giá nho nhỏ hằng ngày, về sự đối nghịch với các nỗ lực của con, về sự gian khó của đời sống cộng đoàn, về sự hiểu lầm, về sự bẽ mặt vì người khác, về sự khó chịu mà người ta đối xử với con, về sự nghi oan, về sức khỏe yếu kém của con, về sự hy sinh, về sự chết cho chính con, về sự kém hiểu biết, về các kế hoạch thất bại của con” (Nhật Ký, số 343).

Ý nguyện thật là cao đẹp vì hoàn toàn muốn tuân phục Ý Chúa, nhưng để thực hiện thì chúng ta phải cố gắng lắm mới có thể hoàn tất lời ước nguyện, lời thề hứa. Thật không dễ dàng chút nào! Nhưng với ơn Chúa, người yếu đuối nhất cũng khả dĩ thực hiện.

Hành trình giao ước rất gian khổ, đầy máu đỏ tươi và nước mắt mặn chát, hành trình lời thề hứa là Hành Trình Thập Giá, phải qua Đường Thập Giá mới tới được Miền Ánh Sáng – Per Crucem ad Lucem.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, xin giúp chúng con can đảm thực hiện mọi lời thề hứa với Ngài và với tha nhân. Đã biết bao lần chúng con lỗi lời thề với Ngài, xin Ngài thương tha thứ; đã bao lần chúng con sai lời hứa với nhau, nhưng chúng con không cho đó là tội phạm tới tha nhân, chúng con thành tâm sám hối và quyết tâm chấn chỉnh, xin Ngài đại lượng thương xót. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

Về mục lục

.

 

CON ĐƯỜNG HẠT LÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Con đường Chúa Giêsu đã đi qua là con đường hạt lúa: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái” (Ga 12,23-24).

Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng. Hạt lúa mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương lai.

Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn lượn theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn hạt lúa đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát.

  1. Con đường hạt lúa Giêsu.

Từ khi nhập thể, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm tự huỷ: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế“. Như hạt lúa bị mục nát: “Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự“. Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên, đơm bông sinh hạt: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,6-11).

Phúc Âm Marcô viết: “Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói, Người phải chịu nhiều đau khổ. Phải có nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ cho Chúa là những người có địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức, chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân.

Con đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể chấp nhận. “Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,32-33). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau thương tơi tả. Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú.

Con đường Chúa đi thật quá hãi hùng: “Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi Giêrusalem…Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại” (Mc 10,32-34). Con đường mở mang Nước Trời sao quá khổ đau, bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa Giêsu đã đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống vinh quang.

  1. Con đường hạt lúa các môn đệ.

Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên con đường Chúa đã đi “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34). Thánh Phaolô kể về con đường đi của người môn đệ: “Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (CV 20,22-24). Người môn đệ của Chúa coi vinh dự là “đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin mừng. Trải qua tiến trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió trên cánh đồng truyền giáo mênh mông.

Xuyên suốt dòng lịch sử Giáo hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để Giáo hội lớn mạnh không ngừng “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”. Từng thế hệ chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các nền văn hoá, và đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng, mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.

  1. Con đường hạt lúa chúng ta hôm nay.

Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay như thánh Phaolô và các tông đồ là những con đường kiễu mẫu cho chúng ta đi theo.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Muốn sống một cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt lành, ta phải chết đi cho bản thân mình. Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả dối hận thù ghen ghét. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những gì đưa đến sa ngã.

Định luật căn bản của sự sống là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Chết vì tình thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin là những cái chết làm trổ sinh muôn ngàn nét đẹp cho đời.

  1. Hạt lúa âm thầm và hạt lúa mục nát

Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương con người mọi nơi và mọi thời. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Chúa trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Chúa Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: “Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này” (Ga.12,27).

Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá, thì “Hạt lúa phải mục nát đi” (x. Ga 12,24) là con đường gian truân vất vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.

Về mục lục

.

 

ĐÃ ĐẾN “GIỜ” BƯỚC THEO CHÚA

Lm. Giuse Dương Hữu Tình

Theo văn mạch Phúc Âm của thánh Gioan, sự kiện này xảy ra vào dịp lễ Vượt Qua của người Do-thái (x.Ga 11,55). Đây là dịp người Do-thái từ khắp nơi đổ về Giê-ru-sa-lem để mừng lễ, trong số đó có cả những người Do-thái đang định cư ở nước ngoài, thậm chí cả một số người ngoại quốc. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng lên dự lễ và Người đã được đón rước vào thành một cách rất long trọng (x.Ga 12,12-15). Nhân dịp này, có mấy người Hy-lạp muốn xin gặp Chúa Giêsu và họ đã nhờ qua thánh Phi-líp-phê. Các nhà chú giải giải thích lý do những người này gặp thánh Phi-líp-phê có lẽ vì ngài biết tiếng Hy-lạp, sở dĩ tên của ngài cũng là tên gọi Hy-lạp chứ không phải tên gọi Do-thái. Nhưng nhờ sự kiện này, chúng ta được lắng nghe những lời tâm huyết – quyết tử của Chúa Giêsu, những lời thoạt nghe thấy rất lạ lùng.

Lạ lùng ở chỗ, khi thánh Phi-líp-phê và thánh An-rê đến thưa với Chúa về việc có một số người Hy-lạp muốn gặp, Chúa không trả lời là cho gặp hay không. Những câu “trả lời” của Chúa xem ra chẳng ăn khớp gì với câu hỏi: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!….”. Thái độ lạ lùng này của Chúa lại là lý do để chúng ta dừng lại và khám phá ra tâm trạng của Chúa lúc bấy giờ. Đó là một tâm trạng đang chờ đợi. Dường như Người đang chờ đợi một điều gì đó, mong mỏi lắm, khát khao lắm thì phải. Câu Người thốt lên vén mở cho ta phần nào sự mong mỏi, chờ đợi đó: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!”. Vậy là đã rõ, Người chờ đợi, khát khao “giờ” của Người.

Trong Phúc Âm, có nhiều lần Chúa nhắc tới cái “giờ” này. Tại tiệc cưới Ca-na, khi Mẹ Maria nói với Người “Họ hết rượu rồi”. Chúa đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” (Ga 2,3-4). “Giờ tôi chưa đến”; có một sự mong chờ, một sự quyết định, nhưng chưa đến lúc. Hôm nay, khi nghe hai môn đệ nói có một số người Hy-lạp muốn gặp, Chúa bỗng thốt lên “Đã đến giờ”. Tại sao phải đợi đến lúc này? Tại sao mấy người Hy-lạp muốn gặp lại là dấu hiệu Chúa biết “giờ” đã đến? Phải chăng đây là dấu hiệu đã đến “giờ” phải quyết định?

“Giờ đã đến”, ơn cứu độ đã điểm và đã chín muồi vì đã có dấu hiệu khát khao ơn đó nơi dân ngoại. Giá trị ơn cứu độ sẽ không chỉ còn cho người Do-thái mà cho cả dân ngoại, cho toàn thể địa cầu; không còn chỉ cho một dân tộc được tuyển chọn và gắn bó với niềm tin, mà còn cho cả những dân tộc sống bằng triết lý cao siêu thông thái. Ơn cứu độ sẽ lan tràn nhưng một dòng thác lũ để giải thoát cả trần gian này. Đó là ơn cứu độ phổ quát. Vận mạng và sự sống đích thực của cả loài người đang chờ đợi giây phút này, giây phút chín muồi của ơn cứu độ. Ơn cứu độ ấy giờ đây chỉ còn đợi chờ hiệu lệnh, chờ đợi một quyết định dứt khoát nơi Người. Và lúc này đây, chính Người đã lên tiếng như một hiệu lệnh: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Những câu như thế và những câu tiếp theo: “Ai yêu quý mạng sống mình , thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” không còn là những câu giảng dạy đạo lý bình thường mà là những lời khẳng định cương quyết. Người khẳng định chắc chắn như thế vì Người đã chọn lựa rồi, quyết tâm rồi và chắc chắn sẽ làm. Đó quả là một cuộc chiến cam go, hồi hộp, sợ hãi, xao xuyến như được tả trong những câu Phúc Âm tiếp theo. Nhưng quyết tâm vẫn là quyết tâm, vận mạng và sự sống sống còn của cả loài người đang chờ đợi giây phút này. Một lần nữa tiếng Chúa lại vang lên như một lời quyết tử: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”.

Chúa nhật tuần tới chúng ta sẽ bước vào tuần thánh. Lời quyết tử của Chúa cũng chính là án tử cho Người. Thế nhưng án tử đó lại là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của sức mạnh trên sự yếu đuối, của sự sống trên sự chết, của tình yêu trên hận thù.

Tâm tình của Chúa được ghi lại trong Phúc Âm hôm nay phải chăng là một lời mời gọi hết thảy chúng ta: Này bạn, bạn có dám quyết tử không? Hay phải chăng cả cuộc đời của bạn không bao giờ có một “giờ” nào được coi là “giờ” có ý nghĩa? Nếu không, vậy khi nào “giờ” của bạn mới tới? Hãy nhớ cho rõ những lời của Thầy Chí Thánh: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.

Về mục lục

.

 

GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB

‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định. Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giê-su chính là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi, hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giê-su để di thể của Người chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong ‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian, là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giê-su đã xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giê-su công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao lên khỏi đất… là lúc ngài được tôn vinh’.

Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người phàm, Đức Giê-su cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos) ‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.

Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm! Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giê-su qua trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy Giê-su, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan… sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1 Cr 1:23-24)

Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giê-su cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giê-su chính là ‘khi được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”

Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su đã mạc khải cho tôi được biết: ‘Thiên Chúa là tình yêu’?

Lạy Đức Giê-su bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và chữ Y sáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giê-su chết treo trên đó), một Tình Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. A-men.

Về mục lục

.

 

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY B

Br. Vincent SJ
Bước vào Cầu Nguyện:
Tiền nguyện: đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa và xin ơn Chúa Thánh Thần để biết cầu nguyện làm sao cho đẹp lòng Thiên Chúa
Kinh dọn lòng: Lạy Chúa, xin cho tất cả mọi lời nói, ý hướng và mọi hành động của con đều hoàn toàn qui hướng về việc phụng sự, ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa
Ơn xin: Xin cho con dám bước vào con đường Thập Giá Chúa để được cùng Vinh Quang với Chúa trong Nước Cha
Suy niệm:
Đoạn Tin Mừng này tiếp tục nói đến giờ tôn vinh của Chúa Con trong chương 11,4 và giờ đó đang trở thành hiện thực. Chính cái chết của Chúa Giêsu sẽ mở toang cánh cửa cho muôn dân, đó là lý do tại sao mấy người Hy Lạp đến gặp Ngài và cũng là dấu hiệu loan báo giờ đã đến. Giờ mà Chúa Giêsu sẽ trở về cùng Cha và mọi người sẽ liên kết với nhau thành một dân có cùng một Cha. Tôi cảm thấy mình nhận biết về giờ của bản thân như thế nào ( giờ học, giờ ăn, giờ ngủ, giờ kinh nguyện, thánh lễ…. ), tôi thấy mình có gắn bó với Giêsu và để cho những người khác nhận ra một Giêsu nơi con người tôi hay không?
Những người Hy Lạp họ muốn gặp Đức Giêsu. Họ chọn Ngài là cùng đích đời họ. Đó là một bước chuyển biến trong tâm hồn những người Hy Lạp này, được xem là những người ngoại giáo, trở thành những Kitô Giáo. Việc họ muốn gặp Đức Giêsu cho thấy họ tin vào Ngài và muốn đi theo Ngài. Nhìn lại cuộc sống thường ngày tôi có thấy mình khao khát để gặp Thầy Giêsu hay không và tôi có tin rằng Ngài chính là cùng đích cuộc đời tôi, để tôi có thể sống và chết cho Ngài không? Việc họ có gặp được Giêsu hay không chúng ta không biết, tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng, người trung gian là Philipphê đã gặp Chúa, thì chắc rằng họ cũng sẽ được nghe kể lại hay được dẫn trực tiếp đến Thầy Giêsu.
Sự môi giới của Philípphê cho những người Hy Lạp cũng là dấu chứng cho thấy có nhiều cách thế để đến và gặp Giêsu. Tôi cũng được Chúa mời gọi để trở nên trung gian làm cho những người khác nhận biết Chúa ngang qua đời sống của mình. Vậy tôi đã sống vai trò trung gian này như thế nào?
Khi Phiplípphê mở miệng hỏi thì lập tức Đức Giêsu trả lời “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Giờ mà mọi người sẽ nhận biết Đức Giêsu là ai và ngang qua ao ước của những người Hy Lạp, Con Người Giêsu lại càng được mạc khải sắc nét hơn. Đó cũng chính là điều mà mỗi chúng  ta, những người môn đệ của Đức Giêsu, cần truyền đạt lại cho mọi người rằng qua cái chết của Đức Giêsu, ơn cứu độ được mở ra cho tất cả chúng sinh.
Giờ tôn vinh của Đức Giêsu được mạc khải cách long trọng bằng câu nói : “thật, Thầy bảo thật anh em”. Giờ, còn trì trệ cho đến lúc này, cuối cùng đã đến, giờ vừa là sự chết vừa là sự tôn vinh. Để diễn tả cái chết gắn liền với vinh quang, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn quen thuộc nơi thôn quê về hạt lúa cần phải mục nát để mang lại nhiều hoa trái. Câu chuyện có vẻ như rất bình thường đối với những người nông dân và mọi người lại là điều được Chúa Giêsu nhắc đến. Có lẽ, con người ngày nay thường hay quên hay không áp dụng những điều bình thường xảy ra trước mắt chúng ta để đưa vào cuộc sống nhân sinh quan. Người ta thường tìm kiếm những gì là vĩ đại, cao sang mà quên đi cái tầm thường thân thương. Chính Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa, đã từ bỏ địa vị của mình mà xuống thế làm người. Chúa Giêsu chính là hạt giống cần được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại nhiều hoa trái cho mọi người. Một hạt giống vẫn mãi mãi là hạt giống, nhưng nếu nó được gieo vào lòng đất, được chăm sóc, bảo vệ thì nó sẽ sinh nhiều hạt giống khác. Chính cái chết của Chúa Giêsu đã lôi kéo mọi người về cùng Cha. Tôi cảm thấy mình là hạt giống cần được gieo xuống, cần được chết đi hay không? Hay tôi vẫn muốn mình mãi mãi là hạt giống, không muốn người khác đụng vào, muốn được yên thân? Nếu vậy, tôi có thấy Lời Chúa đụng chạm gì đến cách sống của tôi, thái độ của tôi đối với Chúa và tha nhân như thế nào? Người ta thường nói chết đi cho người khác thì dễ, con chết đi cho chính mình thì khó. Đó là người ta nói, còn nếu chúng ta nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta sẽ có sức mạnh để chết đi cho chính mình, để cuộc đời chúng ta nên giống Chúa và làm chứng cho Nước Cha.
Đã làm người thì phải trải qua cái chết, Chúa Giêsu cũng đi qua cái chết nhưng cái chết của Ngài không những đi vào vinh quang với Cha mà còn là cách thức để khai sinh và nuôi dưỡng Giáo Hội, những hạt giống được trổ sinh nhờ Máu Con Chiên. Cái chết của Đức Giêsu nối kết con người với Ngài “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”, một sự liên kết không chia lìa như nhành nho gắn liền với thân nho mà Gioan sẽ tiếp tục diễn tả trong chương 15. Đó cũng chính là thân phận của con người, của cộng đoàn khi gắn kết với Chúa Giêsu và phần thưởng là “Cha Thầy sẽ quí trọng người ấy”. Tôi có thấy mình gắn kết với Chúa Giêsu không và tôi có muốn được dự phần vào phần thưởng Cha ban tặng không? Tôi có tin và xác tín điều Chúa Giêsu nói? Nếu tôi là người môn đệ của Chúa thì tôi cũng phải trở nên giống Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng đi để chia sẻ cuộc sống đói, no, vui, buồn, thành công, thất bại với Thầy, ngay cả đi vào trong cái chết với Thầy. Tôi thấy mình bước đi như thế nào?
Điều trái ngược là những người yêu quí mạng sống mình là những người qui kỉ, tìm vinh quang cho riêng mình, ưa thích sự tối tăm, và mến chuộng thế gian lại là cách sống và cách hành xử thường ngày của con người ngày hôm nay. Bản thân tôi có thấy nơi mình nhuốm màu của cách hành xử này không? Nếu có, tôi cần làm gì để tránh xa nó?
Đứng trước những môn đệ thân thương và cảm thấy cái chết gần kề, Đức Giêsu cũng cảm thấy sao xuyến “bây giờ, tâm hồn Thầy sao xuyến”. Điều chắc chắn rằng, không ai có thể nói mạnh về cái chết. Đứng trước cái chết, con người chỉ biết cúi đầu và im lặng. Tuy nhiên, nỗi sao xuyến thì vẫn còn đó. Chúa Giêsu cũng không biết nói gì nhưng Ngài tin tưởng và phó thác mọi sự trong tay Cha “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến”. Tôi có thấy mình phó thác cuộc đời trong vòng tay yêu thương của Chúa Quan Phòng không? Hay tôi vẫn loay hoay tìm kiếm cho chính mình một cõi riêng tư?
Chúa Giêsu không chỉ phó thác cuộc đời cho Cha mà còn vâng phục Cha hoàn toàn “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Để tôn vinh Cha cần phải bỏ mình. Để nói tốt về người khác cần phải khiêm tốn. Trong năm tân Phúc Âm Hóa đời sống xứ đạo – buôn làng – cộng đoàn đời tu , tôi thấy mình sống vâng lời cha mẹ, anh chị em trong gia đình, thầy cô giáo, các giảng viên giáo lý hay bề trên cộng đoàn như thế nào? Đâu là những khó khăn tôi gặp phải khi sống chiều kích vâng lời này?
Trước sự vâng phục và phó thác của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã chuẩn y qua tiếng từ trời “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”. Có lẽ, đây là lần đầu tiên trong tin mừng Gioan, Chúa Cha lên tiếng nói với Chúa Con. Chính việc can thiệp của Chúa Cha minh chứng rằng Chúa Giêsu chính là Chúa Con và là Đấng Thiên Sai. Tôi có thấy sứ mạng của tôi nằm trong chương trình của cha mẹ, bề trên, của cộng đoàn và làm cho tôi được triển nở hạnh phúc không? Nơi công việc và sứ vụ tôi làm, tôi có thấy Chúa đồng hành với tôi hay không?
Có điều bất thường xảy ra là tiếng Chúa Cha nói cho Chúa Giêsu lại được dân chúng nghe thấy và họ đã phản ứng. Họ nghe mà họ không hiểu và nghĩ đó là tiếng sấm hay tiếng một thiên thần. Chính Chúa Giêsu lại là người giải thích Lời Cha. Lời đó vang xuống không phải vì Chúa Giêsu nhưng vì những người đứng đó và những người đang đọc Lời Chúa hàng ngày vì thiếu sự tin tưởng nơi Thiên Chúa nên sẽ bị dẫn tới án phạt “thủ lãnh thế gian sắp bị tống ra ngoài”. Đứng trước lời sấm này, tôi thấy mình cần hoán cải những gì? Gần sắp kết thúc mùa chay, tôi được mời gọi đổi mới ra sao?
Điều an ủi cho mỗi người chúng ta đó là Chúa Giêsu được giương cao sẽ kéo mọi người đến với Ngài. Con người sống trong bóng tối, bóng mờ, của sự cứng lòng tin, sự dữ là những cản trở đưa con người đến với Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ, bóng tối và mời gọi mọi người nổ lực để chiến thắng sự ác xung quanh mình cũng như trong lòng mình. Tôi có thấy rằng cái chết của Chúa Giêsu có phần trách nhiệm của tôi không? Tôi có tin ngang qua cái chết của Chúa Giêsu đã cứu tôi khỏi tội và đưa tôi vào làm con cái Chúa không? Tôi cần diễn tả tâm tình đó như thế nào?
Lạy Chúa, cám ơn Chúa đã cho con làm người và làm con Chúa. Xin cho con trở nên hạt giống tốt nhưng cũng biết làm trổ sinh những hạt giống khác nhờ chết đi chính bản thân con và nhất là nhờ trở nên giống Chúa, con sẽ nhẹ nhàng và sống hạnh phúc với những người xung quanh con.

Về mục lục

.

 

VƯỢT QUA SỰ CHẾT ĐỂ VÀO CÕI SỐNG

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 12,20-33

(20) (Khi ấy) trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp, (21) họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa miền Ga-li-lê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su. (22) Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: “Đã đến Giờ Con Người được vôn vinh! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy. Và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy. (27) Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”. (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: “Đó là tiếng sấm!”. Người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!” (30) Đức Giê-su đáp: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.

  1. Ý CHÍNH:     

Việc dân Do Thái suy tôn khi đón rước Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem và việc dân ngoại đến xin gặp mặt là dấu hiệu tiên báo đã đến “Giờ” Đức Giê-su được tôn vinh. Được tộn vinh nghĩa là vào trong vinh quang qua khổ nạn thập giá, giống như hạt lúa phải chết đi thì mới phát sinh ra nhiều hạt khác. Từ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Đức Giê-su sẽ phá hủy bức tường ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại để ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, và đến ngày tận thế thủ lãnh sự tối tăm là Xa-tan sẽ bị ném vào hỏa ngục đời đời.

3) CHÚ THÍCH:

– C 20-22: + Mấy Người Hy lạp: Đây là lương dân theo văn hóa Hy-lạp, có thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Họ lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su, họ đã mạnh dạn đến xin gặp Người. + Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su: Sở dĩ hai ông Phi-líp-phê và An-rê cùng đến thưa Đức Giê-su điều này vì cả hai ông đều nói thạo tiếng Hy-lạp, và cả hai đều sống ở Bết-xai-đa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.

– C 23-25: + Đã đến Giờ: Tin Mừng nhiều lần nói đến “Giờ”: Giờ của Ta (x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x. Ga 7,30 ; 8,20), Đã đến Giờ Người phải rời khỏi thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giê-su bị bỏ rơi (x. Ga 16,32), Giờ Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + được tôn vinh: là Giờ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Đức Giê-su phải trải qua cuộc khổ nạn rồi sống lại để vào trong vinh quang cùng với Chúa Cha. + Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất: Đức Giê-su đã dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có chết đi mới gây được một mùa gặt bội thu. Cũng vậy, Đức Giê-su cũng phải trải qua cuộc thương khó và bị giết chết, rồi mới được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Từ cạnh sườn của Người bị đâm thâu, Hội Thánh được sinh ra và phát triển. + Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này…: Coi thường hay ghét mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Đây là một câu có hai vế đối nghịch nhau: Ai chăm lo hưởng thụ ở đời này thì sẽ mất sự sống vĩnh cửu đời sau. Còn ai chấp nhận gian nan thử thách đời này, thì sẽ được sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35 ; Mt 16,25 ; Lc 9,24).

– C 26-28: + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su thì phải đi con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống lại. +Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giê-su cảm thấy bất an xao xuyến, vì Người có nhân tính giống như loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ Người vô tội (x. Ga 8,46 ; 1 Ga 3,5). + Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giê-su cũng sợ hãi, đau khổ trước cái chết như mỗi người chúng ta. Người đã cầu xin Chúa Cha cứu mình khỏi “Giờ khổ nạn” ấy. Nhưng Người sẵn sàng chấp nhập vâng theo Ý Chúa Cha, nghĩa là cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ. Lời cầu xin này cũng được lặp lại trong vườn Câu Dầu (x. Lc 22,42-44). + Có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”: Tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống như khi Đức Giê-su chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và biến hình (x. Mt 17,5). Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Ngài nhờ những “dấu chỉ” do Đức Giê-su thực hiện. Từ đây, Thiên Chúa sẽ lại tôn vinh Đức Giê-su khi cho Người từ cõi chết trỗi dậy tại Giê-ru-sa-lem.

– C 29-30: + Đó là “tiếng sấm!”… “Tiếng một thiên thần!”: Chỉ mình Đức Giê-su mới nghe được tiếng Chúa Cha. Còn các người khác chỉ nghe thấy âm thanh rền vang mà không hiểu nội dung nói gi? nên kẻ thì cho đó là tiếng sấm, kẻ khác lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giê-su. Sự kiện này tương tự như trường hợp Sao-lô sau khi bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su là Giờ phán xét và kết án: Những kẻ không tin sẽ bị liệt vào hàng ngũ Xa-tan đối nghịch với Thiên Chúa. Họ sẽ chịu chung số phận là bị loại ra khỏi Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập.

– C 31-33: + Được nâng cao lên khỏi mặt đất: Đức Giê-su sẽ bị treo trên thập giá (x. Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x. Ga 3,13 ; 6, 62), sau khi từ cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giê-su sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Với điều kiện họ cũng phải bỏ mình, vác thập giá mà theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là uống chén đắng như Người đã uống (x. Mt 20,23).

  • CÂU HỎI: 1) Đức Giê-su đã tuyên bố điều gì trước sự kiện dân Do thái hoan hô đón rước Người vào thành Giê-ru-sa-lem và một số lương dân đến xin gặp mặt? 2) “Giờ” của Đức Giê-su được Tin Mừng nhắc đến bao nhiêu lần? 3) “Giờ được tôn vinh” của Đức Giê-su nghĩa là gì? 4) Từ “ghét” sự sống mình ở đời này nghĩa là gì? 5) Tại sao Đức Giê-su xao xuyến bất an trước giờ tử nạn? 6) Đức Giê-su đã cầu xin với Chúa Cha thế nào để nêu gương vâng phục ý Cha cho chúng ta? 7) Thế gian bị phán xét và ma quỷ thủ lãnh thế gian sẽ hoàn toàn bị đánh bại vào lúc nào? 8) Muốn được Chúa Giê-su cứu độ, đưa lên thiên đàng hưởng vinh quang với Người thì ngay từ bây giờ các tín hữu phải làm gì? 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) SẴN SÀNG CHỊU CHẾT ĐỂ BẠN TÙ ĐƯỢC SỐNG

Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!

Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế… thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen biết.

2) GIÁ ĐẮT PHẢI TRẢ CHO THÁI ĐỘ VÔ CẢM:

Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.

Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu tên cầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đập tàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại, nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.

Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình… Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: “Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!”. Người đàn ông ngạc nhiên nói: “Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cô mà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?”

Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: “Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy.” Ðiều bất ngờ là các hành khách trước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: “Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?” Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực như tên bắn.

Hôm sau, môt tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng “Phục Hổ Sơn”: Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã đọc được bản tin và bật khóc!

  1. SUY NIỆM:

1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:

Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường. Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đên nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: “Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”

Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!

Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnh kia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dần và không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúa với hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người. Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trăm hạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!

Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).

2) Con đường hạt lúa của Đức Giêsu.

Đức Giê-su đã trỗi dậy từ trong cõi chết và mở ra một con đường cứu độ cho loài người chúng ta là “Phải qua đau khổ để vào vinh quang”.

Tông đồ Phao-lô đã diễn tả mầu nhiệm hạt lúa Giê-su qua ba giai đoạn như sau:

+ Mầu nhiệm Nhập Thể giống như hạt lúa được gieo vào lòng đất: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

+ Mầu nhiệm Tử Nạn giống như hạt lúa phải trải qua giai đoạn bị mục nát: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8).

+ Mầu nhiệm Phục Sinh giống như hạt lúa đã được biến đổi gia tăng gấp bội: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,9-11).

Tin Mừng Mát-thêu cũng trình bày mầu nhiệm hạt lúa của Đức Giê-su như sau: “Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Nghe vậy, các môn đệ không muốn chấp nhận. “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy. Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23).

3) Con đường hạt lúa của các môn đệ.

Đức Giê-su đã mời gọi mọi người đi con đường thập giá của Người: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Nhóm 12 Tông đồ sau khi nhận được Thánh Thần đã chấp nhận đi theo con đường hạt lúa của Đức Giê-su. Phao-lô Tông Đồ dân ngoại đã bày tỏ với các kỳ mục ở Ê-phê-sô như sau: “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi” (Cv 20,22-23).

Sau các Tông đồ, đến lượt các Ki-tô hữu cũng đã chọn đi con đường của hạt lúa là chấp nhận bị mục nát, chịu chết vì danh Chúa để từ đó Hội Thánh không ngừng được phát triển như lời ông Téc-tu-a-nô đã nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”.

4) Con đường hạt lúa của các tín hữu hôm nay.

Để đi được con đường tử nạn và phục sinh này, đòi chúng ta phải được ơn Thánh Thần trợ giúp. Mỗi người chúng ta cần noi gương các Tông đồ năng cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a để xin ơn Thánh Thần biến đổi.

Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy áp dụng mầu nhiệm cây lúa bằng việc thực hành theo kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” cụ thể như sau:

– Mỗi ngày quyết tâm làm một việc phục vụ tha nhân như: quan tâm giúp đỡ người thân làm việc nhà, để loại trừ thói xấu ích kỷ lười biếng nơi mình.

– Can đảm lên tiếng bênh vực công lý thay vì thái độ im lặng để diệt trừ thói xấu vô cảm hèn nhát trong ta.

– Khiêm tốn năng khen ngợi tha nhân cách thành thật để loại trừ thói xấu kiêu ngạo tự mãn nơi bản thân mình.

– Tập làm luật sư bào chữa lỗi lầm cho tha nhân thay vì làm quan tòa kết án họ, để loại trừ thói xấu ganh ghét đố kỵ những ai hơn mình.

– Tập mỉm cười thân thiện và đi bước trước chào hỏi tha nhân ngay từ khi sáng sớm để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, ưa xử dụng bạo lực và nói năng hách dịch làm thất nhân tâm.

– Tập thói quen mở rộng vòng tay thân ái để mỗi ngày một “thêm bạn bớt thù”. Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân để mở mang Nước Chúa.

  1. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong những ngày Mùa Chay này, để noi gương Đức Giê-su, giống như Cha Kôn-bê xưa đã làm, đó là: hy sinh bản thân và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những bệnh nhân hay những người gặp cảnh đáng thương?
  2. LỜI CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU, Khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu mục Do Thái tưởng đã hoàn toàn chiến thắng. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa không phải là sự thất bại, nhưng là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có chết đi mới sinh được nhiều hạt lúa mới, thì nhờ sự chết trên thập giá, Chúa đã được Chúa Cha tôn vinh bằng việc cho phục sinh, đặt làm Chúa tể muôn loài. Rồi Hội Thánh cũng noi gương Chúa để chấp nhận bị đế quốc Rô-ma bách hại suốt 300 năm, và cuối cùng đã được tôn vinh, qua việc chinh phục được cả Đế quốc tin theo Chúa và gia nhập vào Hội Thánh.

– Trong những ngày Mùa Chay này, xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con sẵn sàng đón nhận những đau khổ thập giá với thái độ tin yêu và hy vọng, noi gương Chúa xưa. Xin cho chúng con ý thức rằng: thập giá là con đường duy nhất để nhờ đó chúng con xứng đáng nên hoàn thiện noi gương Chúa, và ngày sau còn được Chúa tôn vinh lên Quê Trời hưởng hạnh phúc đời đời.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

D) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.