Lời Chúa Năm C CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN. NĂM C

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN. NĂM C

CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN_C

Lời Chúa:  Gr 1,4-5,17-19;  1Cr 12,31-13,13;  Lc 4,21-30

——

Mục lục

1. Trung kiên trong thử thách (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đau khổ và hạnh phúc (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Kỳ thị  (Jorathe Nắng Tím)

4. Không được chấp nhận (Lm. Thái Nguyên)

5. Ngôn sứ muôn dân  (Giuse Hoàng Thanh Phong, SJ)

6. Số phận ngôn sứ của Đức Chúa  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Lối mòn trong ý nghĩ (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Thi hành sứ vụ ngôn sứ cho Chúa  (Lm. Đan Vinh)

 

Mục lục

1. Sứ mạng người tông đồ  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

2. Đừng đánh giá nhau vì quá khứ  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Ngôn sứ bị chối từ (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

4. Quê hương  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

5. Đức Giêsu kiên nhẫn – dịu hiền  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

6. Can đảm chấp nhận lỗi lầm (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

7. Ơn tiên tri  (Lm. Vũ Đình Tường)

8. Thành kiến  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

9. Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật 4 Thường niên_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Thân phận tiên tri (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

11. Thách thức  (Trầm Thiên Thu)

12. Chúng ta được kêu gọi làm ngôn sứ của Chúa (Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng, SDB)

13. Đánh mất hồng ân (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

14. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 4 TN_C  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

15. Chúa Nhật IV Thường niên_C  (Lm. Gioakim Nguyễn Minh Yên)

16. Lời Kinh thánh ứng nghiệm (Lm. Trầm Phúc)

17. Vượt thắng mọi thành kiến  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

18. Chúa Giêsu được sai đến với toàn thể nhân loại   (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

19. Sống với Chúa để nói lời yêu thương  (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

20. Đón nhận hay khước từ (JM. Lam Thy, ĐVD)

21. Để con thấy Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

22. Yêu là đón nhận  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

23. Số phận ngôn sứ  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

24. Thân phận ngôn sứ  (Lm. Giuse Nguyễn) 

25. Ngôn sứ  (Lm. Thái Sơn)

26. Thành kiến.  (Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)

27. Ơn cứu độ nhưng không của Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn Thành Long 

28. Chúa Nhật 4 Thường niên_C  (Lm. Antôn)

 

TRUNG KIÊN TRONG THỬ THÁCH

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Bài Tin Mừng được đọc trong Thánh lễ hôm nay diễn tả những cung bậc cảm xúc đối lập nhau nơi những người đồng hương của Chúa Giêsu: ban đầu là những lời trầm trồ thán phục, sau đó là những lời chê bai đàm tiếu và cuối cùng là sự hằn học phẫn nộ của dân chúng, đến mức họ định sát hại Chúa Giêsu bằng việc xô Người xuống vực thẳm. Xen kẽ giữa những cảm xúc đó là lời tuyên bố mạnh mẽ của Chúa Giêsu để khẳng định sứ vụ thiên sai của Người. Hai sự kiện có liên quan đến ngôn sứ Elia và Elisê được Chúa trích dẫn để cho mọi người lúc đó thấy, không chỉ những người Israel mới được đón nhận tình thương của Thiên Chúa, nhưng bất kể người nào, khi họ thành tâm thiện chí thực hiện những điều Chúa dạy, đều có thể được Ngài cứu độ. Qua những lời tuyên bố này, Chúa Giêsu khẳng định, Người có sứ mạng mang ơn Cứu độ đến cho muôn dân. Chúa cũng muốn minh chứng, Người là vị Ngôn sứ đích thật.

Thân phận của các ngôn sứ trong Cựu ước thường bị bạc đãi và chống đối. Giêrêmia là một ngôn sứ thi hành sứ mạng trong một bối cảnh rất phức tạp về mặt tôn giáo, chính trị và xã hội, vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ông đã gặp nhiều đau khổ, vì bị nghi kỵ, chống đối và ngược đãi. Chúa đã khích lệ ông và bảo đảm với ông: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi nhưng không làm gì được, vì có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”. Chúa đã giữ lời hứa với vị Ngôn sứ, giúp cho sứ mạng của ông sinh hoa kết trái. Những lời Chúa phán với ông Giêrêmia cho thấy sức mạnh của vị ngôn sứ không đến từ người đời, cũng không đến từ sự ngôn ngoan cá nhân, nhưng đến từ Thiên Chúa. Nhờ sức mạnh của Chúa, các ngôn sứ có thể đương đầu với những thế lực trần gian, thậm chí cả các vua chúa đầy quyền lực. Giêrêmia đã làm điều đó đối với triều đình vương quốc Giuđa, vào thời điểm dân Do Thái sắp bị bắt đi lưu đày ở Babilon. Mặc dù tiếng nói của ông không được triều đình đón nhận, ông vẫn can đảm chuyển tải thông điệp của Chúa.

Giêrêmia là một vị ngôn sứ thi hành sứ mạng trong đau khổ nhưng vẫn kiên cường. Đức Giêsu thi hành sứ mạnh thiên sai bằng con đường thập giá nhưng vẫn vâng lời Chúa Cha. Người tín hữu chúng ta cũng là những ngôn sứ giữa lòng cuộc đời. Những ai muốn sống Đức tin, đều phải trải qua những hy sinh sóng gió. Đó là lời phê phán từ những người xung quanh. Đó cũng là chính sự yếu hèn nhụt chí nơi bản thân mỗi người. Người tín hữu sống trong Giáo Hội không phải là khách qua đường, dửng dưng, bàng quan với những gì đang diễn ra trong cộng đoàn Đức tin. Trái lại, họ được mời gọi và có bổn phận phải gắn bó với Giáo Hội địa phương, để thi hành những nhiệm vụ Chúa trao qua Bí tích Thánh tẩy, tức là nhiệm vụ ngôn sứ, tư tế và vương đế. Người tín hữu tin tưởng phó thác nơi Chúa sẽ kiên vững trước dư luận của người đời. Họ không sống theo dư luận của đám đông quần chúng, nhưng lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho cuộc đời, vì Lời Chúa đem lại cho con người hạnh phúc đích thực.

Người tín hữu có thể sống Đức tin và giới thiệu Chúa cho người khác một cách đơn giản, đó là thực thi đức ái. Thánh Phaolô, trong Bài đọc II, đã diễn tả rất chi tiết hoa trái của lòng mến. Đoạn trích thư gửi tín hữu Côrinhtô hôm nay là một trong những áng văn chương tuyệt với của Tân ước, được gọi là “Bài ca đức mến”. Đức mến là điều kiện cần thiết làm cho những việc làm của chúng ta có giá trị, là nền tảng của trọn vẹn cuộc sống và là động lực thúc đẩy mọi hành động của chúng ta. Đức mến giúp con người nên hoàn thiện và sống lạc quan yêu đời trong một xã hội còn nhiều bất trắc. Thiếu đức mến, dù có hoạt động lao tâm khổ tứ đến mấy cũng là vô ích. Đức mến vừa đem lại sự thanh thản trong tâm hồn, vừa giúp ta sống khỏe thân xác. Tác giả đã gọi việc thực thi đức mến là “con đường trổi vượt hơn cả” để trở nên người Kitô hữu đích thực. Nội dung của Bài đọc II cần được đọc và suy tư nghiêm túc để có thể áp dụng trong đời sống Kitô hữu, giúp chúng ta sống vui, sống khoẻ và hạnh phúc. Thiếu đức mến, dòng sông cuộc đời ngừng trôi và đô thị sẽ trở thành sa mạc. Đức mến giúp người tín hữu vượt lên những khác biệt, để cùng chung tay với đồng bào xây dựng cuộc sống nhân ái hài hoà hơn.

“Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa. Xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn”. Trong những ngày chuẩn bị đón xuân Nhâm Dần, chúng ta hợp lời với tác giả Thánh vịnh dâng lên Chúa tâm tình phó thác cậy trông. Một năm mới đang đến với nhiều âu lo những cũng chan chứa hy vọng. Đức tin khẳng định: chính Thiên Chúa là hy vọng của chúng ta. Quyền năng và tình thương của Ngài sẽ giúp chúng ta sống trong an bình hạnh phúc, nếu chúng ta kiên trung trong thử thách và luôn tín thác nơi Ngài.

Về mục lục

KHỔ ĐAU VÀ HẠNH PHÚC

Lm. Jos DĐH.

Sinh ra làm người ai cũng giống ai: oa oa tiếng khóc chào đời, vui buồn sướng khổ mong trời thấu cho ! Thực tế thì niềm vui hạnh phúc, sợ hãi khổ đau, mọi lúc mọi nơi, vẫn đan xen với tự do chọn lựa của từng người trong chúng ta. Trải qua kinh nghiệm cuộc sống, nhiều người được công thành danh toại, thấm nhuần giá trị tình yêu khi vượt thắng khổ đau và buồn chán. Dù xuôi thuận hay trở ngại, ưu tư hoặc bi quan, sẽ chẳng ý nghĩa gì, nếu khởi đầu nơi chúng ta thiếu quyết tâm, chưa nghĩ tốt, chưa sống đẹp với anh chị em mình. Đâu phải vô tình mà cha ông chúng ta lại nói: không thể dạy trẻ hình thành tính cách, tính cách sẽ đến từ trải nghiệm chứ không phải lời giải thích. Đồng ý rằng, sức mạnh tự nhiên thôi thúc để từng bước, mỗi người sẽ vượt lên quy luật xã hội: qua đêm đen trời lại sáng.

Đức Giêsu trước khi được gọi là Thầy, là Thiên Chúa cứu độ, cũng tuân thủ quy luật: sinh ra và lớn lên trong một xã hội như chúng ta. Tại hội đường Nagiarét, Đức Giêsu hết sức hùng biện, thu hút được đám đông, bởi lời rao giảng và phong cách sống của Ngài rất thuyết phục. Khổ đau của Đức Giêsu, khổ đau của mỗi chúng ta, dù khác nhau, nhưng vẫn phản ánh một sự thật, sống trên đời là phải đối diện với phức tạp, hoặc có thể nói khổ đau như hình với bóng sẽ theo ta suốt hành trình làm người. Vì trung thành với sứ mạng Chúa Cha uỷ thác, Đức Giêsu mời gọi ta hãy theo Ngài vượt thắng khổ đau, cám dỗ, chúng ta sẽ thấy hạnh phúc thật ở phía trước. Cũng vì yêu thương, Đức Giêsu đã tỏ mình cho mọi người ở quê hương: “hôm nay ứng nghiệm đoạn kinh thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.

Không có gì quý hơn độc lập tự do, chẳng có gì đáng thương hơn khi cơm không đủ no, áo không đủ ấm ? Chẳng có gì đáng buồn hơn người hùng tài không được đón nhận, có gì đáng tiếc hơn khi tình yêu thương của Chúa bị từ chối ? Người đồng hương hôm xưa hiểu sai, hiểu nhầm, xúc phạm đến Đức Giêsu, có khi nào vì cái đầu của họ bất thường, hay do tính “tự mãn kiêu căng” của họ bùng phát như thứ dịch bệnh đáng sợ ? Xưa nay tài hoa và vận mệnh thường đố kỵ nhau: trăm năm trong cõi người ta, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. (Nguyễn Du). Gặp người tài giỏi, tiếp xúc với nhân vật nổi tiếng, chưa chắc đã hạnh phúc, có chăng là học được, hiểu được, rút tỉa được những tinh hoa từ người thông thái đức độ. Dù tiền nhân chúng ta khích lệ con cháu: thất bại là mẹ thành công, nhưng mấy ai đủ lạc quan để nói để sống: sau cơn mưa trời lại sáng, qua khổ đau mới đến vinh quang ?

Tại hội đường năm xưa, Đức Giêsu đã mặc cho khổ đau một ý nghĩa cao sâu hơn, khi Ngài đọc được ý tưởng của đám đông: “hỡi người thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình ! Điều chúng tôi nghe xảy ra tại Caphanaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông”. Chúng ta hôm nay có nghĩ rằng: người nổi tiếng là người phải làm được phép lạ, người tài trí thông minh phải có cội nguồn từ dòng tộc quý phái, hoặc phải đến từ các gia đình đại gia ? Con người không thể mạnh mà không có tình yêu, không thể suy nghĩ chuẩn mực, hiểu chính xác, khi chỉ dựa vào diện mạo vóc dáng bằng mắt xác phàm. Tình yêu không phải là sự rung động đơn phương, người ta chỉ hạnh phúc thật khi đã trải qua khổ đau. Ở đâu cũng có những người chi ly tính toán, ở đâu cũng nói yếu tố tạo nên thành công, tuỳ thuộc năng lực. tuy nhiên không phải tất cả những ai hạnh phúc là những người giầu người giỏi.

Khổ đau và hạnh phúc, niềm vui và buồn chán, tất cả như muốn nhắc chúng ta về sự phong phú và đa dạng của bức tranh xã hội, tất cả đang lý giải về giá trị của tình yêu mà mỗi người nhận lãnh và sẻ chia. Đức Giêsu thành công bởi lời nói, việc làm, và nổi tiếng ở các vùng lân cận, Đức Giêsu yêu gia đình dòng tộc, quê hương xứ sở, nhưng lại phải khổ đau, gian khổ nhiều vì sự xúc phạm của người đồng hương. Vâng, sức khoẻ tốt và trí tuệ minh mẫn, là hai điều sung sướng nhất ở đời này, nhưng ai cũng cần phải đủ kiên nhẫn để làm việc cho tới khi đạt được niềm vui hạnh phúc ở phía trước. Con người thời nào cũng thế, ái mộ người tài giỏi, nhưng chưa chắc đã tâm phục khẩu phúc những ai thành công hơn mình, người đồng hương đồng khói họ đưa đẩy Đức Giêsu đi con đường chật hẹp: qua đau khổ đến vinh quang.

Người Do-thái đã gây đau khổ cho Chúa Giêsu, đã có ý trục xuất và muốn xô Chúa xuống vực thẳm, vì đầu óc họ hẹp hòi, vì Chúa không làm phép lạ, không chữa bệnh, không đáp ứng đòi hòi của họ ! Người đồng hương nhìn quá khứ và đo lường bằng trực giác, nhân loại hôm nay nhìn sự việc và dựa vào tiền tài danh vọng để đánh giá, phân loại. Có thể cũng không ít lần ta kêu trách Chúa, tại sao con phải gặp đau khổ, biết bao lần chúng ta vừa tung hô Chúa ở nhà thờ, rồi sau đó lại hùa theo bọn xấu đòi đóng đinh Chúa chỉ vì ta không có được điều như ý ! Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, Ngài mời gọi ta đi con đường khổ đau thập giá để đến vinh quang, vì thế, rất cần đến sự khoan dung, để qua các tương quan, ta thấy điểm tốt nơi anh chị em mình. Amen.

Về mục lục

KỲ THỊ

Jorathe Nắng Tím 

Kỳ thị là tội ác, nhưng khuynh hướng kỳ thị lại là khuynh hướng  mạnh tiềm tàng nơi mỗi người, nên chúng ta dễ dàng kỳ thị những người không cùng vùng miền, không cùng ngôn ngữ, không cùng màu da, không cùng văn hoá, không cùng tôn giáo; chúng ta cũng bị thúc đẩy kỳ thị những người không cùng hàng ngũ, thành phần, trình độ, và bất cứ khác biệt nào giữa chúng ta và người chung quanh  cũng có thể trở thành nguyên nhân và động lực đẩy chúng ta xuống hố sâu kỳ thị là sản phẩm độc hại của lòng ganh ghét, đố kỵ.

Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa. Vì tính “riêng biệt, vượt trội, và được Thiên Chúa Giavê chọn” mà nhiều người Do Thái công khai kỳ thị đối với các dân tộc lân bang, điều mà Đức Giêsu đã nhiều lần lên tiếng chống lại. Không những thế, Ngài còn biểu lộ tình yêu thương, lòng tín nhiệm đặc biệt của Ngài đối với những người ngoại quốc, ngoài đạo bị kỳ thị, như đã ca ngợi đức tin của người đàn bà xứ Canaan (x. Mt 15, 28), hay với viên đại đội trưởng thuộc quân đội đế quốc Rôma, Ngài đã không tiếc lời tuyên dương ông trước mặt đám đông người Do Thái: “Tôi bảo thật các ông: Tôi không thấy một người Ítraen nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác  và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên goài … ” (Mt 8, 10-12), hoặc với người phụ nữ trải qua nhiều đời chồng xứ Samari Ngài đã thân tình trò chuyện và quan tâm lắng nghe chị trao gửi tâm sự lâu giờ bên bờ giếng Giacóp (x. Ga 4,7-26).

Đặc biệt trong Tin Mừng chúa nhật này, Đức Giêsu cho chúng ta thấy đồng hương Nadarét của Ngài cũng tỏ ra kỳ thị với Ngài, bởi  một khi đã lây nhiễm vi trùng Kỳ Thị, người ta sẽ không chỉ kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, mà còn kỳ thị giầu nghèo, sang hèn giữa đồng hương, đồng bào, đồng đạo với nhau, như nhiều bà con, láng giềng của Ngài ở Nadarét đã nói với nhau về Ngài: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4,22). Nhưng ý nghĩ kỳ thị, khinh bỉ, coi thường thân thế “không có gì đặc sắc, nổi bật” của cha mẹ Ngài và của Ngài đã bị Ngài lật tẩy, và Ngài đã từ chối làm phép lạ tại quê nhà (x. Lc 4, 23-24).

Với đồng hương dịp về Nadarét, Đức Giêsu còn thẳng thắn công kích chủ trương kỳ thị của phần đông người Do Thái và làm chứng cho họ thấy rằng: ngay trong Cựu Ước, các ngôn sứ cũng đã chống lại chủ nghĩa kỳ thị, khi Ngài kể cho họ nghe chuyện ngôn sứ Êlia khi trời hạn hán, “thiếu gì bà góa ở trong nước Ítraen, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ítraen, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi” (Lc 4,25-27).

Về phần chúng ta, có nhiều khi chúng ta tưởng thời đại chúng ta đang sống không còn nạn kỳ thị, không còn những cuộc chiến tranh đẫm máu vì kỳ thị, không còn  những nhà độc tài “kỳ thị” khát máu như Hitler đã thề tiêu diệt đến người Do Thái cuối cùng trên mặt đất.

Rất tiếc, thực tế khác xa điều chúng ta tưởng, bởi chính chúng ta đang tránh xa những người không giống chúng ta, chính chúng ta đang kịch liệt  công khai hoặc âm ỉ kỳ thị anh em, chị em trong cùng cộng đoàn, cùng giáo xứ, cùng giáo phận  chỉ vì họ khác biệt chúng ta về khả năng, sứ vụ, lãnh vực hoạt động, trong khi tất cả những khác biệt ấy đều là ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người như các chi thể của một thân thể duy nhất  để phục vụ Thân Thể mầu nhiệm của Ngài là Hội Thánh.

Và như thế, gốc rễ của nạn kỳ thị ở phạm vi quốc gia chính là chúng ta, phong trào kỳ thị có tầm vóc toàn cầu bắt nguồn từ trái tim phân biệt, loại trừ của chúng ta, như vết dầu ngày càng loang rộng, loang xa biến chúng ta thành những ốc đảo hoang vắng ích kỷ kình chống, xa lánh người khác .

Tóm lại, người Kitô hữu không thể là người kỳ thị, không thể chủ trương đường lối kỳ thị dưới bất cứ hình thức, và ở bất cứ mức độ nào, vì hoàn toàn đi ngược Tin Mừng, chống lại  đòi hỏi của Đức Ái là yếu tính của người môn đệ Đức Giêsu như thánh Phaolô đã qủa quyết: không có đức ái thì cho dù tài giỏi, khôn ngoan, quyền năng, đạo đức đến đâu, chúng ta cũng chẳng là gì và chẳng đem lại lợi ích cho ai, kể cả cho chính mình (x. 1Cr 13,1-6).

Quả thực, chỉ với đức ái, chúng ta mới có Chúa và có nhau không chỉ trong cõi đời này, nhưng thiên thu vĩnh cửu, và ngay cả hôm nay, nếu một trong chúng ta  có phải chết đi, chúng ta vẫn có nhau trong bao la vô tận của cõi sống đời đời, vì ở đó Thiên Chúa quy tụ tất cả những người yêu thương, và cho hiệp nhất với Ngài những ai có trái tim biết “tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7) vì tin “Thiên Chúa là Tình Yêu”, và  “Tình Yêu không bao giờ mất được”  (1 Ga 4,8 ; 1 Cr 13,8).

Về mục lục

KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Dân làng Nadarét chắc rất hãnh diện vì có Đức Giêsu là một thành viên lẫy lừng danh tiếng trở về thăm quê. Thế nhưng để đón nhận Ngài là một vị ngôn sứ thì lại là vấn đề khác, vì họ thấy Ngài cũng không có một uy thế hay quyền hạn gì lớn lao: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” Dân làng vẫn còn giữ nguyên những hình ảnh của Đức Giêsu đã từng sống với họ ba mươi năm qua. Một cuộc sống quá đỗi bình thường, chẳng có gì để nói, chỉ là con ông thợ mộc.

Đức Giêsu chắc không lạ gì với phản ứng thường tình của dân chúng, nên Ngài nhắc lại câu ngạn ngữ quen thuộc:“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Họ đã có sẵn định kiến về gia thế và bản thân Ngài, không muốn nhìn khác đi. Đúng là“Phá vỡ một định kiến còn khó hơn phá vỡ một hạt nhân nguyên tử” (Einstein). Con người quả khó thoát ra khỏi mình, nên cũng khó đón nhận ơn giải thoát mà Chúa Giêsu mang lại. Đúng là “Quen quá hóa nhàm”, “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Người ta hay có xu hướng tin vào những điều đồn đoán, được tô vẽ quá đáng từ tận đâu xa xôi, chạy theo những điều huyền bí, chứ không chịu tin vào sự thật ngay trước mắt.

Thật ra cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với dân làng Nadarét ban đầu rất tốt đẹp: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”. Nhưng tình cảm bị rạn nứt, không chỉ do định kiến của dân làng mà còn do họ đòi Chúa Giêsu phải ưu tiên cho họ: “Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphanaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!”. Nhưng phép lạ đâu phải là điều để coi chơi, hay để thử quyền phép xem thế nào, mà chỉ khi có lòng tin mới đưa đến phép lạ. Đức Giêsu không thể ưu tiên theo tình cảm, mà ưu tiên theo sứ mạng. Ngài không đến để thỏa mãn những đòi hỏi riêng tư của người thân, mà để chu toàn thánh ý Cha.

Sự rạn nứt đưa tới đổ vỡ khi Đức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisa. Hai vị này được Thiên Chúa sai đến thi ân cho dân ngoại, mà không dành riêng cho Israel. Dân làng không thể chấp một sự thật quá mỉa mai. Điều này chạm mạnh đến lòng tự hào và tự mãn của họ, là những người tự coi mình là dân độc nhất của Thiên Chúa, nên thay vì chân nhận ra sự thật, họ chuyển thành sự phẫn nộ đối với Chúa Giêsu. Khi có cảm tưởng mình bị coi thường, không còn chiếm giữ những đặc quyền, đặc lợi, thì họ tìm cách thủ tiêu Ngài. “Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi”.

Lắm lúc đời sống chúng ta cũng sao chép lại lối sống đạo của người Do Thái: lo đi tìm những cái xa lạ mà không nhìn ra những điều tốt đẹp nơi những người thân quen; không chịu khám phá ra ý nghĩa của biến cố, mà chỉ suy nghĩ và sống theo người khác; không mở lòng để đón nhận sự thật mà chỉ khư khư nắm giữ lập trường và quan điểm hẹp hòi của mình; coi đức tin chỉ là một mớ những kiến thức, chứ không phải là tâm tình và thái độ sống chân tình với Chúa và với nhau.

Ðức cố Hồng Y Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta như sau: “Nhiều người nói: ‘Tôi có đức tin…’. Có lẽ đức tin ấy là đức tin của giấy khai sinh, không phải là đức tin của đời sống. Con đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin hình thức và lý thuyết. Nhưng con phải sống một đức tin chân thật và trung thành. Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận, khiến người Do thái đã mất Chúa Giêsu, nền tảng của niềm tin, Ðấng mà họ đang ngóng chờ”.

Chỉ đóng khung trong những quan niệm, nghi thức và luật lệ, thì sớm muộn gì ta cũng xa rời đức tin chân chính. Sống là gì, nếu không là một sự hoán chuyển thường xuyên. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoàn không lưu chuyển, hay hệ thần kinh không vận động. Ðối với đức tin cũng vậy, luôn đòi hỏi một sự biến chuyển. Tin Chúa Giêsu là chấp nhận vô điều kiện, nên đòi ta phải thay đổi quan điểm, đường hướng và lập trường cho phù hợp với ước muốn của Thiên Chúa. Ta cần phá vỡ những định kiến, nhất là những cái nhìn sai lệch về các giá trị, để đón nhận Thiên Chúa và tha nhân một cách sâu xa và trọn vẹn hơn.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Làm người ai cũng ước mong,
được chấp nhận và yêu thương tôn trọng,
để thấy tự tin và an vui trong cuộc sống,
nếu không, sẽ dễ buông xuôi và thất vọng.
Nhưng Chúa lại nhiều lần bị từ khước,
không chỉ bởi thiên hạ quá hiểu lầm,
còn bị phủ nhận bởi những người thân,
vì ít ai dám nhận điều chân thật,
bởi nó đòi người ta phải hy sinh,
phải xoay lại hướng đi của đời mình.
Dân chúng ai cũng biết điều sai trái,
và ngỡ ngàng thán phục trước Lời Ngài,
nhưng lòng người vẫn kiêu căng tự ái,
không chấp nhận những gì mình đã sai,
nhất là khi đã mang nặng thành kiến,
và coi mình như những kẻ có quyền.
Chúa không chỉ bị thiên hạ loại trừ,
mà còn bị người ta muốn thủ tiêu,
chỉ vì đặt lại những gì người ta hiểu,
không thể sống theo kiểu của phàm nhân,
mà phải dám cải đổi lại bản thân,
để sống với tinh thần con cái Chúa.
Con vẫn luôn có nguy cơ sai lạc,
mỗi khi nhìn về Chúa và anh em,
với hiểu biết hời hợt và non kém,
với tự mãn và định kiến hẹp hòi.
Xin cho con có sức mạnh dám đổi thay,
biết ham chuộng những điều hay lẽ phải,
biết đón nhận và tôn trọng bất cứ ai,
để tim con được trở nên giống Ngài. Amen.

Về mục lục

NGÔN SỨ MUÔN DÂN

Giuse Hoàng Thanh Phong

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Bài Tin Mừng theo thánh sử Luca hôm nay, cho chúng ta thấy sự thay đổi thái độ rất nhanh chóng, của người dân Na-da-rét đối với Đức Giêsu. Chúng ta tự hỏi điều gì đã khiến họ thay đổi thái độ, từ “tán phục” thành “phẫn nộ” đến mức muốn “xô Người xuống vực.” Chúa Giêsu đã nói gì, hay làm gì khiến họ phật lòng không thể chấp nhận?

Sau khi đọc đoạn trích sách ngôn sứ I-sai-a, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe” (Lc 4,21b). Ở đây, chúng ta có thể nhận ra hai ứng nghiệm quan trọng trong tuyên bố trên của Đức Giêsu, đó là về căn tính, và về sứ mạng của Người. Trước hết, Đức Giêsu tuyên bố chính Người là Đấng Thiên Sai: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi” (Lc 4: 18a). Thật vậy, thánh sử Luca đã phác họa cho chúng ta thấy rõ Đức Giêsu được Chúa Cha sai đến, cùng với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Trong biến cố chịu phép rửa, chúng ta đọc có đoạn: “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu . Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha ; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Cũng vậy, khi chuẩn bị cho sứ vụ công khai,“suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ.” Và Đức Giêsu bắt đầu rao giảng với sự hướng dẫn của Thần Khí: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận” (Lc 4,14). Như vậy, Chúa Giêsu cho thấy Người chính là vị Ngôn Sứ đã được nói đến, và hôm nay đã ứng nghiệm như lời tiên báo xưa.

Thứ đến, điều ứng nghiệm được Đức Giêsu công bố chính là sứ mạng của mình, đó là: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn; công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha; cho người mù biết họ được sáng mắt; trả lại tự do cho người bị áp bức…(Lc 4,18-19). Đối với thánh sử Luca, Tin Mừng không chỉ được công bố cho người Do-thái, nhưng còn cho cả dân ngoại – cho toàn thể nhân loại. Trong biến cố dâng Hài Nhi Giêsu nơi đền thờ, ông Si-mê-on đã vui mừng bồng ẵm Đấng Cứu Độ mà muôn dân hằng mong chờ: “Xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài” (Lc 2,30-32).

Cũng vậy, gia phả của Đức Giêsu theo thánh sử Luca là không chỉ dừng lại ở tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng Đức Giêsu còn là con cháu của A-dam nữa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã không ngần ngại cho mọi người thấy các ngôn sứ xưa kia cũng được sai đến với dân ngoại. Cụ thể, ngôn sứ Ê-li-a được sai đến để giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Tương tự như thế, ngôn sứ Ê-li-sa đã chữa bệnh phong hủi cho một người ngoại giáo là ông Na-a-man là người xứ Sy-ri. Ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu đã ý thức rõ ràng rằng sứ mạng của Người vượt ra khỏi ranh giới của ‘dân tộc Do-thái’, để mang Tin Mừng Cứu Độ đến cho muôn dân. Dân Thiên Chúa giờ đây không chỉ giới hạn ở Dân riêng là Ít-ra-en, nhưng Thiên Chúa đã muốn quy tụ tất cả mọi người trong tình yêu thương của Người.

Đối với người dân Na-da-rét, họ biết Đức Giêsu vì là người cùng quê quán: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao ?” (Lc 4,22b).  Trong 30 năm sống ẩn dật tại quê nhà, có lẽ người dân Na-da-rét phần nào biết biết Đức Giêsu là một người tốt lành ‘trước mặt Thiên Chúa và mọi người’. Gần đây, họ mới bắt đầu nghe nói nhiều hơn về Đức Giêsu về năng quyền giảng dạy cũng như các phép lạ Người thực hiện ở khắp nơi. Sự thực, chính người dân nơi đây đã chứng kiến năng quyền giảng dạy của Đức Giêsu, và mọi người đều “tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra.”

Có lẽ họ cũng mong muốn chứng kiến tận mắt thêm việc Đức Giêsu làm những phép lạ mà họ nghe đồn thổi bấy lâu nay. Tuy vậy, sự việc đã khác đi khi Đức Giêsu có ý tỏ mình ra như vị Ngôn Sứ được Thiên Chúa sai đến. Thời Cựu ước, ngôn sứ là những người được Thiên Chúa gọi làm sứ giả, nhân danh Thiên Chúa để nói và chuyển đạt sứ điệp của Ngài, đôi khi báo trước điều sẽ xảy ra cho dân. Như thế ngôn sứ là người vĩ đại, được dân kính trọng mộ mến. Với hoàn cảnh của Đức Giêsu lúc này, người dân chưa chấp nhận.

Không chỉ thế, người dân Na-da-rét còn tỏ ra ‘phẫn nộ’ khi Đức Giêsu trích dẫn việc các ngôn sứ được sai đến với dân ngoại. Đối với họ, Thiên Chúa là Thiên Chúa của riêng họ, và dân ngoại thường luôn bị xem thường xa tránh. Như vậy, Đức Giêsu đã không được đón nhận như một vị Ngôn Sứ, đặc biệt với sứ mạng Loan Báo Tin Mừng cứu độ cho cả dân ngoại. Sự từ chối và ngay cả chống đối là điều mà các ngôn sứ của Thiên Chúa vẫn thường gặp phải trong khi thi hành sứ mạng. Cụ thể như trong bài đọc thứ nhất trích sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ : từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ” (Gr 1,18). Đối với  Đức Giêsu, dẫu có bị chống đối, Người luôn kiên định trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Cũng vì vậy mà các Tông đồ vẫn tiếp nối sứ mạng ấy, để rồi chúng ta có được cơ hội đón nhận được Tin Mừng Cứu Độ.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể học nơi Đức Giêsu, tinh thần sẵn sàng vượt ra khỏi những ‘răn giới,’ để có thể đến với hết thảy mọi người. Thật vậy, khi chúng ta mở rộng tâm hồn mình, chúng ta mới có thể thấy được những điều hay điều đẹp nơi các tôn giáo bạn. Khi chúng ta dám bước ra khỏi làn răn cục bộ, chúng ta mới có thể thấy những tinh túy nơi các nền văn hóa khác nhau. Khi chúng ta thôi ảo tưởng cho mình ‘là hay là giỏi nhất,’ chúng ta mới có thể thấy được những cái hay cái giỏi nơi anh chị em mình.

Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn vì hồng ân đức tin mà chúng con được lãnh nhận qua các vị truyền giáo. Xin cho mỗi người chúng con luôn nhìn thấy được những giá trị mà Thiên Chúa đã đặt để nơi mỗi người cách vô điều kiện. Xin cho mọi người trên thế giới dù khác nhau về quốc gia – văn hóa – tôn giáo luôn được hiệp nhất và tôn trọng lẫn nhau trong tình bác ái. Amen!

Về mục lục

SỐ PHẬN NGÔN SỨ CỦA ĐỨC CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Có nhiều loại ơn gọi: có ơn gọi dành cho hết mọi người, có ơn gọi chỉ dành cho một số ít người; có ơn gọi cho cả đời người. Giêrêmia đã được Thiên Chúa kêu gọi làm tiên tri cho nhiều dân tộc. Ông kể: “Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc” (Gr 1,4-5).

Trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với dân Ngài, chúng ta không thể không nhắc đến những vị ngôn sứ, những người được Thiên Chúa chọn gọi để loan báo cho dân Chúa biết được chương trình và kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người. Các ngài là những vị đại diện của Thiên Chúa để đồng hành với dân, hướng dẫn và bảo vệ dân, nhắc nhở dân không lạc vào con đường gian tà tội lỗi, nhưng luôn sống đời công chính, trung thành với giao ước đã được thiết lập giữa Thiên Chúa và dân, đặc biệt là sự chuẩn bị để đón Đấng Mêsia ngự đến. Ơn gọi ngôn sứ cao cả đấy, nhưng cũng đầy những hy sinh đau khổ, những trái ý, những thập giá trong cuộc đời thi hành sứ vụ của mình. Giêrêmia là một nhân chứng (x. Gr 20, 7-18).

Giêrêmia, vị ngôn sứ bị chống đối

Giêrêmia là chứng nhân của một thời đại quyết liệt. Đời sống của ông gắn liền nước Giuđa gần bốn mươi năm (626 – 587 trước CN). Với một sứ mạng cao cả và gian nan. Giêrêmia là một ngôn sứ thi hành sứ mạng trong một bối cảnh rất phức tạp về mặt tôn giáo, chính trị và xã hội, vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ông đã gặp nhiều đau khổ, vì bị nghi kỵ, chống đối và ngược đãi. Trong khi thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, Giêrêmia gặp phải toàn những chống đối, hắt hủi và bắt bớ cách dữ dội, vì phải nói lên những lời của Chúa cho dân Người. Mà lời của Chúa là những lời lên án, đe dọa và nhắm thẳng đến đời sống luân lý của dân, nên người ta không dễ gì đón nhận: “Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (Gr 20,8b). Đang trong lúc buồn phiền thì lời Đức Chúa lại cứ như ngọn lửa thiêu đốt tận xương tủy, khiến Giêrêmia không chịu nổi: “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt” (Gr 20,9b). Lời Thiên Chúa có một sức mạnh mà con người không thể chống lại nổi. Chúa đã khích lệ ông và bảo đảm với ông: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi nhưng không làm gì được, vì có Ta ở với người để giải thoát ngươi”. Chúa đã giữ lời hứa với vị Ngôn sứ, giúp cho sứ mạng của ông sinh hoa kết trái.

Đức Giêsu là Giêrêmia mới

Khởi đầu thi hành sứ vụ Thiên sai của Chúa Giêsu với những việc như chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, nhìn chung là vui mừng và sung sướng; mọi người đều …thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh Người, danh tiếng Chúa lan truyền khắp nơi.

Hôm nay Chúa Giêsu đã trở lại Nagiarét trong một tư cách hoàn toàn mới: Chúa Giêsu vào hội đường đọc một lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và loan báo “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4,21), khiến cho người nghe hiểu rằng lời tiên tri ấy quy chiếu về Người. Ðiều này khơi dậy sự bất bình của dân làng Nagiarét: một đàng, “mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra” (Lc 4,22). Nhưng đàng khác, các người đồng hương biết Người qúa rõ. Họ nói : “Ông ta là một người trong chúng ta. Yêu sách của ông chỉ có thể là sự tự phụ” (Ðức Giêsu thành Nagiarét, 11). “Người này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22), như thể nói rằng: một bác thợ mộc làng Nagiaret có thể có khát vọng gì đây? Chúa Giêsu bị chống đối. Sứ mạng của Chúa Giêsu vừa huy hoàng vừa gian nan. Người được người ta tung hô, ca tụng, nhưng cũng bị người ta chống đối, sỉ nhục như ngôn sứ Giêrêmia.

Vừa được ca ngợi, vừa bị phê phán, đó là thân phận chung của các ngôn sứ. Chúa sai các ngài đi để thông truyền sứ điệp của Chúa, kêu gọi dân từ bỏ đường tà, trở về với Chúa trong đường ngay nẻo chính. Hầu hết các vị ngôn sứ trong Cựu ước đều gặp phải những chống đối gay gắt, nhiều vị đã bị giết chết. Chúa Giêsu cũng đã phải chấp nhận thân phận của một ngôn sứ, giống như các ngôn sứ thời Cựu ước. Người ta phải tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại khơi dậy sự đổ bể ấy? Thưa, Chúa Giêsu đã không đến để tìm sự đồng ý của loài người. Vị ngôn sứ thật không vâng lời ai khác ngoài Thiên Chúa, và phục vụ chân lý, sẵn sàng trả giá.

Sứ mạng và ơn gọi của người Kitô hữu chúng ta  

Nếu chúng ta có ơn gọi làm ngôn sứ, để chu toàn sứ mạng cao cả này, chúng ta gặp những khó khăn là cái chắc. Có người đặt câu hỏi: “Tại sao Đạo Chúa dạy những điều tốt lành như vậy, mà vẫn có ít người theo, thậm chí còn có người chống đối?” Điều đã xảy đến với các ngôn sứ, đã xảy ra đối với Chúa Giêsu, rồi trong suốt lịch sử Giáo Hội đến chúng ta hôm nay, sẽ đến với những ai là ngôn sứ, chúng ta phải chấp nhận. Cuộc tranh đấu giữa Sự thật và sự gian dối, giữa Ánh sáng và tối tăm, giữa Yêu thương và thù hận, luôn là cuộc giằng co khốc liệt. Chúa mời gọi chúng ta làm sao để Tình yêu chiến thắng hận thù, Ánh sáng chiến thắng tối tăm và Sự thật chiến thắng gian dối. Như thế, trong cuộc sống trần gian hôm nay, chúng ta sẽ trở thành những ngôn sứ của tình thương.

Về mục lục

LỐI MÒN TRONG Ý NGHĨ

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Ngày 21/01, lễ kính thánh Anê, trinh nữ tử đạo, Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành thánh lễ tại nguyện đường thánh Macta. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha chia sẻ về đề tài “sự ghen ghét và đố kỵ”. Người ta có thể dùng lời nói mà giết hại lẫn nhau. Nhưng Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những tội lỗi xấu xa này.

“Bài đọc I trích sách Samuen thuật lại sự đố kỵ của Saun vua Ítraen, với Đavít. Sau chiến thắng vẻ vang trước người Philitinh, các phụ nữ từ khắp mọi thành của Ítraen kéo ra múa nhảy và ca hát rằng: ‘Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn’. Từ ngày đó, vua Saun nhìn Đavít với con mắt ghen tỵ và hoài nghi. Vua nghi ngờ sau này Đavít sẽ phản bội, và vì thế vua nảy sinh ý định giết Đavít. Nhưng sau đó, vua Saun đã nghe lời khuyên của người con trai mà suy nghĩ lại, không thực hiện ý đồ xấu xa của mình nữa. Ghen ghét là một căn bệnh sẽ dẫn đến sự đố kỵ

Lòng đố kỵ thật xấu xa! Đó là một thái độ xấu. Sự ghen ghét và lòng đố kỵ phát triển trong lòng người ta như cỏ dại. Nó phát triển và không để cho bất kỳ thứ thảo mộc tốt lành nào có thể mọc lên được nữa. Thứ cỏ dại ấy sẽ khiến tâm hồn người ta ra tối tăm, bệnh hoạn. Nó không để cho con người được bình an nhưng khiến con tim luôn dằn vặt, đau đớn. Một con tim đố kỵ rất có thể dẫn đến mưu sát và chết chóc. Kinh Thánh đã nói rất rõ: Lòng ghen tị tội lỗi đã mang sự chết vào trần gian.

Lòng đố kỵ dẫn đến việc ‘giết’ những người có điều mà mình không có. Nhưng người ấy sẽ luôn đau khổ, vì một con tim ghen ghét và đố kỵ sẽ luôn khổ đau, một sự khổ đau muốn người khác phải chết. Chúng ta không phải đi đâu xa mới có thể thấy những điều này. Rất nhiều lần, trong cộng đoàn của chúng ta, vì ghen ghét, người ta đã giết hại nhau bằng miệng lưỡi và ngôn từ của mình. Khi không thích hay ghen ghét một điều gì đó, người ta bắt đầu xì xầm, bàn tán. Và chính những lời bàn tán đó sẽ giết chết người khác.

Tổng trấn Philatô thật thông minh và nhạy bén vì biết rằng chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Đức Giêsu. Lòng ghen tỵ, theo cách giải thích của Philatô, một người thông minh nhưng lại không đủ can đảm chính là điều dẫn đến cái chết của Đức Giêsu. Các thượng tế trao nộp Ngài vì ghen tỵ. Bởi vậy, chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp chúng ta đừng vì ghen ghét, đố kỵ mà ra tay ‘trao nộp’ những người anh chị em của chúng ta trong cùng một xứ đạo, một cộng đoàn, một xóm làng, khiến họ phải đau khổ và phải chết. Ai cũng có những tội lỗi và thiếu sót, nhưng ai cũng có những nhân đức riêng của mình. Tội lỗi và nhân đức đều có nơi mỗi người. Chúng ta hãy để ý đến nhân đức và đừng giết chết người khác bằng những lời xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ”. (x.vietvatican.net, 21/01/2016).

Tin Mừng hôm nay kể về những lời xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ của dân làng Nadaret nên họ muốn giết Đức Giêsu.

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Người vào hội đường ngày Sabat. Giữa cộng đoàn toàn những người quen thuộc, Chúa Giêsu đọc và giảng giải ý nghĩa nội dung trích đoạn sách tiên tri Isaia, qua đó nhấn mạnh những điều Isaia tiên báo đã được ứng nghiệm. Sự ứng nghiệm ngay “hôm nay”, nơi bản thân con người mang tên Giêsu “con ông Giuse”.

Những người đồng hương quen thuộc của Chúa “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, nhưng họ vẫn chưa nhận ra vị cứu thế, ơn cứu độ và những người được cứu. Dưới mắt họ, Chúa Giêsu vẫn chỉ là “con của Giuse”. Chính những lối mòn trong ý nghĩ ngăn cản con người nhận ra sứ điệp mới. Những ý nghĩ đã thành nếp, sự đánh giá và nhìn nhận đã thành thói quen đang bịt mắt con người trước nhân tố mới. Tình trạng mù loà diễn ra khi con người bằng lòng với thế giới quen thuộc. Không mong chờ và khát khao sự thay đổi, nên khó lòng nhận ra huyền nhiệm náu mình bên dưới vẻ bình thường. (Khổng Thành Ngọc).

Để cảnh tỉnh họ, Đức Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Êlia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Itraen phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Êlia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ítraen thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xarépta, miền Xiđôn. Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Êlisa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Itraen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Naaman ngoại giáo, người nước Syri.

Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Đức Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành, kéo lên tận đỉnh núi, để xô xuống vực cho nát thịt tan xương.

Lòng đố kỵ ganh ghét thật khủng khiếp! Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi. Sự kiện này là khởi điểm những thử thách gian nan và cái chết đang chờ đợi Đức Giêsu trong những tháng ngày sắp tới.

Còn Đức Giêsu vẫn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Thân phận thật bi đát của tiên tri. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài muốn nói với họ về lòng tin của hai “kẻ ngoại” giúp cho họ được cứu thoát. Bà goá thành Xarepta qua khỏi nạn hạn hán, ông quan Naaman xứ Syria được khỏi bệnh. Cả hai nhờ tin mà được cứu. Câu chuyện “kẻ ngoại” được cứu đã khiến người “trong nhà” bị chạm nọc nổi cơn tam bành. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong và những gì thuộc về tinh thần cao thượng những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi người ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì người ta cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác. Những người ở làng quê Nadarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ muốn đẩy Ngài xuống vực. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nadarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarétđánh mất hồng ân vô giá.

Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Tôi đã suy nghĩ và tự phản tỉnh nhiều về những điều này khi cầu nguyện. Tôi nhận thấy mình được mời gọi và chắc chắn mọi người cũng được mời gọi phải nhận ra những gì là ghen ghét, đố kỵ trong tâm hồn mình, vì chúng luôn dẫn tới đau khổ và chết chóc, không làm cho người ta vui mừng, hạnh phúc được. Người có lòng ghen ghét, đố kỵ luôn nghĩ rằng những điều tốt lành mà người khác có chống lại họ. Và đó là khởi đầu của bao nhiêu tội lỗi, gian ác khác. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ mở con tim mình ra cho những ghen ghét, đố kỵ đi vào, vì chúng chỉ dẫn tới đau khổ và chết chóc mà thôi”.

Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi người ta biết tôn trọng, cảm thông, tha thứ và nâng đỡ nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái bao dung. Cuộc sống thật đẹp khi người ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau.

Xin Chúa cho chúng con có một trái tim luôn rộng mở để yêu thương mọi người. Amen.

Về mục lục

THI HÀNH SỨ VỤ NGÔN SỨ CHO CHÚA

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG : Lc 4,21-30
  2. Ý CHÍNH : ĐỨC GIÊ-SU BỊ NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG BÁCH HẠI.

Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã bị người đồng hương Na-da-rét không tin và bách hại : vì họ đã không được Người làm phép lạ để chứng minh vai trò Thiên Sai của Người trong khi Người lại đòi họ phải có đức tin như điều kiện để Người làm phép lạ. Người trưng dẫn hai nhân vật thời xưa là bà góa nghèo ở Sa-rép-ta thời Ê-li-a và quan Na-a-man ở Sy-ri-a thời Ê-li-sa đã nhận được phép lạ nhờ đức tin. Do không được thỏa mãn yêu cầu, nên dân Na-da-rét đã biến từ thái độ thán phục ban đầu sang tức giận muốn giết hại Người.

  1. CHÚ THÍCH :           

– C 21-22 : +Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe” : Đức Giê-su trình bày sự xuất hiện của Người như khai mở thời kỳ hồng ân mà các ngôn sứ đã loan báo, nhưng hồng ân cứu độ ấy không dành riêng cho dân Ít-ra-en mà cho mọi dân tộc. Tin mừng Lu-ca thường nhấn mạnh đến tính cách hiện tại của ơn cứu độ bằng từ “hôm nay” (x. Lc 2,11). +Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao ?” : Khi ra giảng đạo Đức Giê-su được 30 tuổi và thiên hạ vẫn cho rằng Người là con của ông Giu-se (x. Lc 3,23).

C 23-24 : + “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính mình !” : Đức Giê-su đã dùng câu tục ngữ này để diễn tả ý muốn của các người đồng hương Na-da-rét, đòi Người phải làm phép lạ để ưu tiên phục vụ đồng hương, giống như Người đã từng làm ở các nơi. + Ca-phác-na-um : là một thành phố nằm về hướng Tây Bắc biển hồ Ga-li-lê, và là trung tâm hoạt động của Đức Giê-su. Tại đây, Đức Giê-su đã chữa lành nhiều bệnh nhân và thực thi nhiều phép lạ (x. Mc 1,21-28) : tha tội trước khi chữa người bại liệt (x. Mc 2,1-12), quan tâm đến người tội lỗi (x. Mc 2,15-17), khoan dung trong việc giữ luật ăn chay và hưu lễ (x. Mc 2,18-27). + “Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào !” : Dân làng Na-da-rét muốn thử thách Người giống như Xa-tan đã làm. Họ muốn lợi dụng Đức Giê-su để phục vụ cho ích lợi của họ (x. Lc 4,1-14). Cũng vì tưởng đã thấu hiểu nguồn gốc của Đức Giê-su, nên họ không tin Người là Con Thiên Chúa từ trời mà đến. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai của Người (x. Lc 11,16). + “Không một Ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” : Ngôn sứ hay tiên tri là phát ngôn viên của Thiên Chúa để an ủi những người đau khổ tuyệt vọng, tiên báo tương lai tốt đẹp sắp dến và động viên dân Do thái trung thành với đức tin vào Thiên Chúa (x. Is 49,8-15); Cáo trách tội của các vua quan và dân chúng như ngôn sứ Sa-mu-en đã trách phạt vua Sa-un (x. 1 V 15,12-23), Ngôn sứ Na-than đã cáo trách tội “giết chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít (x. 2 Sam 12,1-15),  Ngôn sứ Giê-rê-mi-a trách phạt dân chúng tội tôn thờ tà thần (x. Gr 7,30-34)… Chính do “Trung ngôn nghịch nhĩ” và “Lời thật mất lòng” mà nhiều vị ngôn sứ đã bị người đương thời thù ghét và giết hại (x. Lc 6,23b). Câu “Không một ngôn sứ nào được tiếp nhận tại quê hương mình” tương tự câu “Bụt nhà không thiêng” của người Việt chúng ta.

C 25-27 : + Tôi nói cho các ông hay : Đức Giê-su muốn trình bày tính phổ quát của ơn cứu độ, nghĩa là ơn ấy được dành cho mọi dân mọi nước, chứ không dành riêng cho dân Ít-ra-en hay cho dân làng Na-da-rét. Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su cũng thường đề cao đức tin của dân ngọai như  : khen viên đại đội trưởng người Rô-ma (x. Lc 7,9) ; Dạy môn đệ noi gương bác ái của người Sa-ma-ri (x. Lc 10,36-37) ; Khen người đàn bà xứ Ca-na-an (x. Mt 15,28). + Ê-li-a và bà góa ngoại giáo thành Xa-rép-ta vượt qua cơn đói kém : Ê-li-a là một ngôn sứ rất nổi tiếng, sống vào thế kỷ thứ chín trước công nguyên. Một bà góa ở thành Xa-rép-ta miền Xi-đon sắp bị chết đói do trời hạn hán mất mùa. Nhờ tin và làm theo lời Ê-li-a dạy mà bà này đã được hưởng phép lạ làm cho hũ bột và bình dầu nhà bà đầy mãi cho tới khi hết nạn hạn hán (x. 1 V 18,1tt). + Ê-li-sa và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùi : Ngôn sứ Ê-li-sa là đồ đệ của ngôn sứ Ê-li-a, rất nổi tiếng vì có khả năng chữa bệnh cách lạ thường. Tại xứ Xy-ri-a có viên sĩ quan tên là Na-a-man bị mắc bệnh phong cùi. Nhờ làm theo lời một nữ tì người Ít-ra-en mách bảo, ông đã sang nước Ít-ra-en tìm đến xin ngôn sứ Ê-li-sa chữa bệnh. Nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa và khiêm tốn vâng lời dạy xuống sông Gio-đan tắm 7 lần nên ông đã được phép lạ khỏi bệnh (x. 2 V 5,1-14).

C 28-30 : + Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ : Họ phẫn nộ vì Đức Giê-su đã không thỏa mãn yêu cầu được xem Người làm phép lạ. Họ còn tức giận vì Người đã đề cao dân ngoại hơn dân Do thái là dân ưu tuyển của Đức Chúa. Họ ganh tị vì Người coi trọng thành Ca-phác-na-um ngoại giáo, hơn quê nhà Na-da-rét của Người. Sự kiện này tiên báo Người sẽ bị người ta chống đối, mà ông Si-mê-on đã tiên báo (x. Lc 2,34). Cuối cùng Người còn bị kết án chịu chết trên cây thập giá nữa (x. Lc 20,15). + Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi : Trước sự chống đối của dân làng Na-da-rét, Đức Giê-su đã vượt qua giữa họ mà đi trên đường của Người, là đường kết thúc tại thành Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,33).

  1. CÂU HỎI :

1) Tin mừng Lu-ca cho biết khi ra giảng đạo Đức Giê-su được bao nhiêu tuổi và người đời nghĩ Người là con của ai ? 2) Ngôn sứ và tiên tri giống hay khác nhau và có sứ vụ gì ? 3) Tại sao dân làng Na-da-rét đòi Đức Giê-su làm phép lạ cho họ xem và họ đã phản ứng thế nào khi không được thỏa mãn ? 4) Hãy kể ra một số trường hợp Đức Giê-su coi trọng dân ngọai hơn dân Do thái ? 5) Khi nêu ra hai phép lạ do ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa đã làm cho hai người đàn bà thuộc dân ngoại, Đức Giê-su muốn dạy điều gì với người đồng hương Na-da-rét ? 6) Tại sao dân làng Na-da-rét nổi giận muốn giết chết Đức Giê-su ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
  2. CÂU CHUYỆN :

1) NA-THAN SỬA LỖI VUA ĐA-VÍT CÁCH KHÔN NGOAN (x. 2 Sm 12,1-13) :

Sau khi vua Đa-vít phạm tội ngoại tình với nàng Bát-se-va vợ của tướng U-ri-gia, và vua ngầm hạ lệnh cho đại tướng Gio-áp mượn tay quân địch ngoài mặt trận giết chết vị tướng tài này, ngôn sứ Na-than đã được Đức Chúa sai đến cáo trách tội ác ngoại tình và “giết chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít. Ngôn sứ Na-than đã vào đền vua và trình lên một câu chuyện hư cấu về một nhà phú hộ có 10 ngàn con chiên, nhưng sai gia nhân đến nhà anh nông dân nghèo chỉ có một con chiên cái duy nhất mà anh rất mực thương yêu, rồi bắt con chiên ấy về làm thịt để đãi bạn bè. Vua Đa-vít sau khi nghe kể về hành động thất nhân ác đức của tên phú hộ đã tỏ thái độ tức giận với tên phú hộ. Bấy giờ Na-than mới nói : “Tên phú hộ gian ác ấy chính là đức vua. Vua đã phạm tội ngoại tình với nàng Bát-se-va rồi còn giết chồng là tướng U-ri-gia để đoạt vợ của ông ta”. Nhờ cách cáo tội khôn ngoan này mà Vua Đa-vít đã nhận ra tội lỗi to lớn của mình và đã hồi tâm sám hối.

2) HƯỚNG DẪN GIẢI PHÁP GIÚP MANG LẠI HẠNH PHÚC

Có một nhà hiền triết nọ chuyên làm cố vấn giúp đỡ những ai buồn phiền chán nản. Bất cứ ai đến xin cũng đều được nhà hiền triết cho lời khuyên hữu ích.

Một hôm, một người chủ xưởng may đến xin nhà hiền triết giúp giải quyết khó khăn gặp phải trong gia đình. Gia đình ông gồm 9 người : hai vợ chồng và 7 đứa con trai nhỏ. Họ sống chen chúc nhau trong một căn chòi nóng bức chật chội. Do không có chỗ chơi nên lũ trẻ rủ nhau vào vui đùa trong xưởng may tương đối rộng rãi. Bà mẹ luôn miệng la hét lũ trẻ để giữ trật tự. Còn ông chủ phần lo sản xuất quần áo,  phần bị lũ con la hét quậy phá nên tâm trí không lúc nào được thanh thản.

Nghe hoàn cảnh của gia đình ông chủ xưởng may, nhà hiền triết liền cho lời khuyên như sau :

– Ông hãy ra chợ mua một con dê đực và mang về cột nó trong xưởng may để lũ trẻ hết chỗ quậy phá.

Tuy không hiểu hết lý do, nhưng ông chủ xưởng may vốn tin vào khả năng của nhà hiền triết, nên vâng lời ra chợ mua về một con dê đực và cột nó vào góc xưởng may khiến lũ trẻ không còn chỗ vui chơi quậy phá. Nhưng bây giờ lại đến lượt con dê đực quậy. Không những nó phóng uế bừa bãi bốc mùi hôi thối trong xưởng may, mà miệng nó không ngừng kêu “be be”… khiến ai nấy đều rất khó chịu !

Mấy hôm sau, ông chủ xưởng may lại đến than phiền về sự quậy phá của con dê với nhà hiền triết và lần này ông lại cho lời khuyên :

– Ông hãy về nhà và mau mang con dê ra chợ bán đi.

Nghe vậy, ông chủ xưởng may cảm thấy vui như vừa được giải thoát khỏi gánh nặng. Ông vội về dắt con dê ra chợ bán, đang lúc bà vợ cùng gia nhân làm tổng vệ sinh để tẩy uế nhà xưởng. Bảy đứa nhóc sau khi thấy xưởng may sạch sẽ, lại rủ nhau vào trong xưởng vui đùa la hét như trước. Có điều bây giờ tiếng la hét của chúng không còn làm ông bố khó chịu. Ông tự nhủ : dù sao, tiếng la hét của lũ trẻ cũng dễ chịu hơn nhiều so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn đáng ghét kia … Và từ ngày đó gia đình ông chủ xưởng may lại được yên vui hạnh phúc như trước.

3) CAN ĐẢM NÓI LỜI TRUNG NGHĨA TRƯỚC KẺ THỦ ÁC :

Thôi Trữ là một quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công để đoạt ngôi báu. Ông ta cho mời các quan chức triều đình đến tư dinh để bàn mưu tính kế và uống máu ăn thề. Sau khi nghe Thôi Trữ công khai tuyên bố chống lại nhà vua, các quan chức triều đình có mặt đều tỏ ra khiếp sợ trước uy thế của Thôi Trữ và răm rắp nghe theo. Duy chỉ có Án Tử là vẫn điềm nhiên tự tại và không mở miệng thề hứa chi cả. Bấy giờ Thôi Trữ bảo Án Tử rằng : “Nếu ngươi theo ta, thì sau khi ta thâu đoạt được ngai vàng, ta sẽ chia một nửa nước cho. Còn nếu không nghe ta thì ngươi sẽ lập tức bị giết !”. Trước khí thế của quân phản loạn, Án Tử vẫn giữ bình tĩnh. Ông trả lời : “Lấy cái lợi để nhử và bắt người ta chống lại Quân vương là bất trung. Lấy binh khí để hiếp đáp làm cho lòng người sợ hãi phải nghe theo mình là thất đức. Giết thì giết! Ta đây quyết không làm theo việc bất trung thất đức của ngươi đâu!”. Nói xong Án Tử đứng dậy ung dung ra về, thế mà Thôi Trữ cũng không dám ra lệnh cho quân lính ngăn lại và giết hại như đã đe trước đó.

Câu chuyện trên cho thấy những lời nói đúng đắn cũng có sức mạnh chống lại được những kẻ gian ác. Những lời đó mang tính tiên tri mà mỗi tín hữu chúng ta đều có thể thực hiện được trong cuộc sống hằng ngày,

  1. THẢO LUẬN :

Trên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã luôn ưu ái và đề cao dân ngoại hơn dân Do Thái. Vậy chúng ta nên đối xử thế nào với anh em lương dân để giới thiệu Chúa cho họ ?

  1. SUY NIỆM :

Khi muốn dạy dân Chúa điều gì, Đức Chúa không trực tiếp hiện ra dạy dỗ, nhưng dùng các tổ phụ hay các ngôn sứ để tuyên sấm thay Ngài. Ngôn sứ phải được Thiên Chúa chọn và phải nói tất cả những lời Đức Chúa muốn ông nói. Những lời ngôn sứ nói ra thường không dễ nghe và khó được người nghe đón nhận, vì đã vạch trần những sai trái của họ, nhất là khi họ là nhà lãnh đạo dân chúng trong đạo ngoài đời.

  1. Đức Giê-su thi hành sứ vụ ngôn sứ và bị đồng hương chống đối :

Tin Mừng CN hôm nay thuật lại : Trong Hội đường Na-da-rét, sau khi đọc đoạn sách của Ngôn sứ I-sai-a về sứ vụ Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su tuyên bố : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Lúc đầu dân làng Na-da-rét thán phục về tài ăn nói khôn ngoan lưu loát của Đức Giê-su, nhưng rồi do thành kiến về nghề thợ mộc thấp hèn và gia cảnh tầm thường của Người, nên họ không tin Người là Đấng Thiên Sai. Họ đòi Đức Giê-su phải chứng minh vai trò Thiên Sai bằng các phép lạ như Người đã làm tại thành Ca-phác-na-um. Nhưng Đức Giê-su đã không làm phép lạ nào tại đây vì họ không tin. Sở dĩ dân ngoại đã được hưởng phép lạ, vì họ đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Rồi Người kết luận :“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ vì họ nghĩ Đức Giê-su đã coi trọng dân ngoại hơn dân Do thái, và đã xem thường người đồng hương. Họ hè nhau lôi Người lên triền núi để xô Người xuống vực, nhưng “người đã băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,30).

  1. Thi hành sứ vụ ngôn sứ hôm nay : Mỗi tín hữu chúng ta nhờ chịu phép rửa tội và thêm sức nên đã được tham phần vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Giê-su. Để chu toàn sứ vụ ngôn sứ cao quý này, chúng ta cần tránh và cần làm những gì ?

-Cần tránh thành kiến với tha nhân : Dân làng Na-da-rét do có thành kiến về nghề nghiệp và gia cảnh của Đức Giê-su, nên đã không tin vào sứ vụ Thiên Sai của Người. Thành kiến là một thói xấu mà ai trong chúng ta ít nhiều cũng mắc phải : Cùng một lời nói hay việc làm do một người có địa vị cao hay uy tín lớn nói thì được mọi người coi trọng, đang khi nếu lời nói hay việc làm đó lại do một người bình dân làm thì sẽ bị mọi người coi thường và không chấp nhận.

-Cần tránh thái độ ích kỷ cục bộ : Qua câu chuyện hũ bột tại nhà bà góa nghèo thời ngôn sứ Ê-li-a không bị cạn, và bệnh cùi của viên quan ngoại giáo Na-a-man thời ngôn sứ Ê-li-sa được khỏi bệnh cách lạ thường, Đức Giê-su cho thấy mọi dân tộc đều được Chúa ban ơn cứu độ chứ không chỉ riêng dân Do thái, miễn là họ phải có lòng tin, thể hiện qua việc thực hành Lời Chúa. Đức Giê-su muốn chúng ta hôm nay không đóng khung các họat động tông đồ hay việc chia sẻ bác ái trong phạm vi hạn hẹp, mà phải mở rộng tình thương đến hết mọi người.

-Cần nói Lời Chúa cách trung thực : Làm ngôn sứ không dễ, vì phải nói Lời Chúa cách chính xác, dù sự thật thường mất lòng. Nhưng đã là ngôn sứ thì chúng ta phải trung thành nói lời Chúa và sẵn sàng đón nhận hậu quả có thể bị kẻ ác thù ghét bách hại.

-Cần dũng cảm bênh vực công lý : Làm ngôn sứ đôi khi cũng phải lội ngược dòng. Chúng ta cần tránh ngả theo dư luận xấu, cũng không hùa theo số đông lầm lạc, mà phải biết ứng xử khôn ngoan theo lời Chúa dạy. Điều này đòi chúng ta phải dũng cảm đứng về phía sự thật và khôn ngoan để giữ hòa khí với mọi người. Chính thái độ can đảm và khôn ngoan dám bênh vực công lý này sẽ giúp người đời nhận biết tôn thờ Thiên Chúa như Lời Chúa phán : “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

  1. Thi hành sứ vụ Ngôn Sứ trong việc sửa lỗi anh em :

Mỗi Kitô hữu, qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, cũng là ngôn sứ của Chúa, vì đó là một trong ba chức năng của Đức Kitô mà mọi tín hữu được tham phần. Nhiệm vụ ấy đòi mỗi tín hữu phải can đảm thi hành triệt để trong cuộc sống hằng ngày, bằng chứng tá sống động, mặc dầu có thể bị chối bỏ hay chống đối.

– Sứ vụ ngôn sứ không dễ thực hiện : Để nói Lời Chúa cách hữu hiệu với người có lỗi để họ sẵn sàng đón nhận và sửa đổi, chúng ta cần làm việc đó cách khôn ngoan, như ngôn sứ Na-than đã làm khi sửa lỗi cho vua Đa-vít (x. 2 Sm 12,1-13).

– Cần sửa lỗi tha nhân thế nào? : Để việc sửa lỗi đạt kết quả, chúng ta nên theo thứ tự như sau :

+ Nhờ ơn Chúa giúp như Lời Chúa dạy : “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,8).

+ Cần tạo uy tín : Phải biết tự sửa mình trước khi sửa lỗi tha nhân, để tránh tình trạng : “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.

+ Cần sửa lỗi do tình bác ái thôi thúc chứ không do sự ganh ghét đố kỵ.

+ Cần áp dụng phương pháp “viên thuốc bọc đường” : “khen trước chê sau”, “khen nhiều chê ít”.

+ Cần sửa lỗi theo bốn bước theo Lời Chúa dạy như sau : Một là gặp riêng kẻ có lỗi; Hai là mang theo một hoặc hai nhân chứng; Ba là đưa kẻ có lỗi ra cộng đoàn; Bốn là coi kẻ cố chấp như dân ngoại và phó thác họ cho lòng thương xót của Thiên Chúa (x. Mt 18,15-17).

  1. LỜI CẦU :

Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con chu tòan sứ vụ Ngôn Sứ là rao giảng Tin Mừng trong xã hội hôm nay. Xin cho chúng con chuyên cần học sống Lời Chúa tại nhà thờ. Đọc câu Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày. Xin cho chúng con biết làm chứng cho “Sự Thật” (x Ga 14,6), và tin vào sức mạnh của sự thật, như Chúa đã dạy : “Sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Về mục lục

 

SỨ MẠNG NGƯỜI TÔNG ĐỒ

Lm. Jos. DĐH.

Xưa nay gì cũng thế, giầu sang phú quý, quyền cao chức trọng, luôn được coi là vinh dự, là niềm vui hạnh phúc ở đời này. Biết bao những mơ ước tan thành mây khói: kiếm củi 3 năm thiêu rụi một giờ ; không thiếu những thành quả đến bất ngờ như mơ: mèo mù gặp cá rán. Cuộc đời trớ trêu, vui buồn lẫn lộn, tốt xấu khó lường, cũng vì thế mà chúng ta thấy xuất hiện những cụm từ: số giầu sang, số đỏ, số khổ, số ăn mày, số con rệp: chó cắn áo rách ! Công bằng mà nói, ở hoàn cảnh giầu nghèo, tài giỏi thấp hèn, ai cũng có cơ hội để đi trọn hành trình đời người cách tốt nhất. Số đen, số hưởng, số làm vương làm tướng, cũng chỉ là cách nói mỗi người, mỗi hoàn cảnh, tuy khác nhau, nhưng tất cả đều hướng tới hạnh phúc ở phía trước.

Kinh nghiệm cho thấy: người làm cha, làm chồng, người làm vợ, làm mẹ, người làm linh mục, tu sĩ, đều chung một mơ ước hoàn thành xuất sắc chức vị, ơn gọi của mình. Đức Giêsu tại hội đường năm xưa, Ngài đọc kinh thánh, chia sẻ, mọi người thán phục vì khả năng phong phú, vì trong sứ mạng của Ngài đầy tình yêu Thánh Thần. Đức Giêsu luôn thao thức kiện toàn sứ mạng Chúa Cha uỷ thác, muốn được hiệp thông để xây dựng quê hương, mang lại ấm no hạnh phúc trong tình yêu Chúa và tha nhân. Sứ mạng của Đức Giêsu bị dân làng từ chối, khó khăn chung cho những việc bác ái tông đồ: bị xúc phạm, chống đối, bị lên án, đóng đinh, làm tổn thương đến tình yêu thương của Thiên Chúa.

Mơ ước được giầu sang, ước muốn tài giỏi đức độ không phải là sai ; người giầu cũng phải khóc, Con Thiên Chúa còn bị từ chối, bị xúc phạm, quả thật ai cũng “khô hỏi khổ”, hoàn cảnh, sứ mạng nào cũng là tê tái, là thập giá. Nhiều người đặt câu hỏi tại sao Đức Giêsu không đáp ứng nhu cầu của những người đồng hương ? Cần phải có điều kiện nào Đức Giêsu mới thực hiện phép lạ, cần sử dụng khả năng hiểu biết thế nào để gọi là hợp lý, là đang sống tốt đạo đẹp đời ? Con người có nghĩa có tình, hẳn sẽ hiểu: không nhận ra Đức Giêsu là Chúa, không cảm nhận được những gì mình đang có là ơn ban, nhất định không phải vì ta khờ dại, túng thiếu vật chất, tinh thần, mà do ta chưa đủ khiêm tốn, thiếu quyết tâm chọn lựa.

Dân làng Nazarét không nhận ra Đức Giêsu là tình yêu đến từ Thiên Chúa, chỉ vì họ quá tự tin là họ biết lý lịch Đức Giêsu là con bác thợ mộc, nên dù được nghe, được nhìn, được gặp Đức Giêsu, họ vẫn chẳng thể nhận ra Con Thiên Chúa đang ở giữa họ. Đồng ý rằng, Đức Giêsu có ý thức: bụt chùa nhà không thiêng, Ngài dư biết điều đó, Ngài còn trưng dẫn 2 câu chuyện thời cựu ước nhằm nói lên: phép lạ tình yêu thương đến từ Thiên Chúa, không do công trạng của con người. Khó khăn chung của người đời là thích được phép lạ, thích được vật chất ; nơi Đức Giêsu, Ngài có ý hướng con người tới việc nhận lãnh đức tin, dẫn dắt con người tới hạnh phúc, đạt tới ơn cứu độ. Khó khăn riêng của người đồng hương năm đó là họ chỉ nghĩ Đức Giêsu là con bác thợ mộc, vì thế mà niềm tin, phép lạ chữa bệnh xác hồn không thể xảy ra, còn kéo theo những tư tưởng xúc phạm đến Thiên Chúa họ tin thờ !

Sứ mạng người môn đệ Đức Giêsu hôm nay vẫn nhiều gian truân, mang gương sáng đức tin đến, mang tình yêu Chúa đến, họ dửng dưng bất cần ! Thứ mà người đời mơ ước vẫn là tiền của vật chất, là phép lạ chữa được bệnh tật, là đáp ứng cho họ nhu cầu hạnh phúc ở hiện tại này. Bậc làm cha mẹ hôm nay cũng đang đối diện nhiều thách thức: con cái hư hỏng, chúng thích tự do suy nghĩ, tự do học tập, phóng khoáng hưởng thụ, không muốn bố mẹ xen vào chuyện riêng tư ! Kẻ làm con lại đổ lỗi cha mẹ cổ kính, hời hợt với con cháu, ích kỷ thích cấm đoán, muốn áp đặt con cháu hãy vui với phận mình: ở chùa quyét lá đa ! Đức Giêsu yêu nhiều, Ngài đau khổ nhiều, dân Do-thái năm xưa mong chờ phép lạ, đòi hỏi đặc quyền được yêu thương, do đó họ nghi ngờ Đức Giêsu, và càng rối rắm, xa cách tình yêu Thiên Chúa.

Tại một vùng hẻo lánh, có một quân nhân mang hình ảnh xấu xí vì chiến tranh, ai nhìn anh ta cũng đầy khinh bỉ, hoặc né tránh được càng xa càng tốt. Rồi khi quân nhân đó chết, người ta vô cùng ngạc nhiên tìm thấy tờ di chúc trong hộc bàn: “tôi xin gởi 1.000 USD này cho bé Kitty”. Vì bao năm nay, mọi người nhìn tôi khinh bỉ, nhưng bé Kitty luôn mỉm cười khích lệ mỗi khi bé nhìn thấy tôi. (Nụ cười đáng giá. Trích trong tuyển tập truyện hay Phương Tây). Một nụ cười tưởng dễ lắm, vậy mà chỉ có em bé Kitty làm được ! Người đau khổ vì bệnh tật, vì tai nạn chiến tranh, mơ ước “cỏn con” của anh là được người đời mỉm cười cảm thông, nhưng không hề dễ ! Tục ngữ có câu: ma không thương người ốm, kẻ trộm cũng không nể người nghèo. Rõ ràng ai cũng khổ, ai cũng phải tỉnh, phải đủ khiêm tốn để cậy trông tình yêu thương của Chúa, của đồng loại trợ giúp, hầu có thể chu toàn sứ mạng tông đồ của mình xứng hợp với thánh ý Chúa. Amen.

Về mục lục

.

 

ĐỪNG ĐÁNH GIÁ NHAU VÌ QUÁ KHỨ

 Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Khi đọc câu lời Chúa : “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4,24) cho tôi nhớ lại câu chuyện của người bạn kể với tôi rằng:

Một lần họp lớp trước khi ăn, mình lấy thuốc đau bao tử  ra uống, liền được một cô bạn học hướng dẫn tôi cách dùng thuốc như sau:

“Nếu bị đau bao tử, bạn đừng uống thuốc này, sẽ có nhiều tác dụng xấu…” . Cô bạn ấy chỉ dẫn cho tôi cách cặn kẽ, tự tin.

Thật không ngờ cô bạn ấy lại có phong thái tự tin, vững vàng đó. Năm lớp 9, cô ấy chỉ là cô bé nhút nhát có phần chậm hiểu nữa. Có những lần tôi đã phải mất hàng giờ để giảng cho cô ấy một bài toán đơn giản. Vậy mà trong lần gặp gỡ này, cô ta lại khác hẳn.

Chúng tôi thực sự ngạc nhiên vì cô bạn tôi có một kiến thức thực phong phú, sâu rộng. Có nhiều điểm trong học tập tôi chiếm ưu thế ; thế mà bây giờ chưa chắc tôi đã hiểu được chuyên môn cách sâu sắc như vậy. Tự nhiên tôi cảm thấy tức tối. Thay vì biết xấu hổ vì mình thụt lùi, tôi lại tự mãn nghĩ rằng “Dẫu sao nó cũng chỉ học đến Trung cấp y tế thôi”.

Đây là lối nhìn của người hẹp hòi, cố chấp và lạc hậu. Họ đâu nghĩ rằng mình đã lạc hậu và bạn bè chung quanh đã tiến xa và vượt trội mình. Với cái nhìn hẹp hòi sẽ nảy sinh tính ghen tị ,cáu giận, gièm pha, đôi khi còn hại người vô tội.

Nhà văn Balzac từng nói: “Người có tính ghen tị đau khổ hơn bất cứ một người bất hạnh nào, bởi hạnh phúc của người khác cộng với sự bất hạnh của mình làm cho ta đau khổ gấp nhiều lần”.

Cuộc sống đôi khi vì thành kiến chúng ta cũng phán xét anh em mình một cách bất công. Chúng ta không nhìn nhận cái tốt, cái hay nơi anh em mà còn hạ bệ bêu xấu về những tiêu cực quá khứ của anh em . Họ không biết rằng: sông có khúc người có lúc, để biết có cái nhìn nhận tích cực về hiện tại của nhau hơn là đánh giá nhau dựa trên quá khứ.

Thật khó tin, nhưng vẫn có những người Kitô hữu sống thiếu yêu thương và bởi ghen ghét đã gây nên biết bao phiền muộn, đau khổ, bất an cho anh em mình. Họ luôn làm mất bình an trong tâm hồn và thanh danh của người lối xóm bằng những mẩu chuyện ngồi lê đôi mách, họ khinh dể những người khác địa vị xã hội và kinh tế, họ dửng dưng với những mảnh đời bất hạnh,  kẻ thiếu thốn ngay bên cạnh mình. Họ sống như thể chưa bao giờ nghe Chúa nói: “hãy yêu mến người thân cận”, như thể họ chưa bao giờ nghe thánh Phaolô tông đồ khuyên: Tình yêu thì nhân hậu, khoan dung, không đố kỵ, ghen tương và luôn lấy mối dây thân ái để sống liên đới với tha nhân. Trái lại họ sống quá tàn nhẫn với người lân cận. Họ dùng thủ đoạn để lừa dối anh em, để kết  án, hạ bệ và xô đẩy anh em nhằm thỏa mãn tính tự tôn tự đại của mình. Năm xưa Chúa Giêsu đã bị người đồng hương kết án, phải chăng hôm nay vẫn còn đó những người Kitô hữu bị những người đồng đạo hãm hại, nhục mạ và đẩy vào đường cùng của lầm than?

Vâng, vẫn còn đó sự khinh dể, xa lánh của người đồng đạo với những người nghèo khổ, bệnh tật và lầm than. . .

Vẫn còn đó sự kết án vô căn cứ bằng lời ra tiếng vào, thêm mắm thêm muối để hại người vô tội.

Vẫn còn đó những sự ghen ghét để rồi không nhìn nhận sự thăng tiến của bạn bè, người thân mà chỉ nhìn quá khứ của họ để khinh chê coi thường.

Thế nhưng, chúng ta vẫn cảm tạ Chúa, vì nhân loại hôm nay vẫn còn có những con người đang cố gắng thực hành giới luật yêu thương với những người thân cận mình. Họ vẫn sống bao dung, độ lượng. Họ vẫn miệt mài xây dựng tình hiệp nhất cho cộng đoàn mình.

Ước gì những người mang danh Kitô hữu đừng bao giờ hạ thủ anh em mình chỉ nhằm thỏa mãn thói kiêu căng, tự cao tự đại của mình. Xin đừng cố chấp để rồi đả phá anh em mình mà hãy đón nhận anh em với tất cả khả năng và giá trị của họ.Ước gì  mỗi người chúng ta hãy biết sống theo lòng nhân hậu của Chúa để mở rộng đôi tay đón nhận anh em, để nâng đỡ, bảo vệ anh em và biết nắm lấy tay nhau tạo thành một vòng tròn thân ái, hiệp nhất và yêu thương. Amen

Về mục lục

.

NGÔN SỨ BỊ CHỐI TỪ

 Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Tổng thống Gobachop, một cựu đảng viên cộng sản Nga đã nhận định: Một trong những hậu quả mà cộng sản gây ra cho xã hội, đó là sự dối trá. Sự dối trá được dàn dựng, tuyên truyền có hệ thống đã ảnh hưởng sâu đậm trên mọi thành phần, mọi lãnh vực của xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa. Sự nguy hiểm ở chỗ khi sự dối trá được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ có người tin và tưởng đó là sự thật. Những người đang được hưởng lợi từ sự dối trá lại càng tìm cách để lừa dối người khác và loại trừ những ai dám nói và làm theo sự thật. Trong một xã hội mà con người không biết tôn trọng sự thật như thế, thì những ai lên tiếng bênh vực sự thật, nói sự thật lại bị quy kết như là kẻ chống đối.
Ngày xưa, mặc dù chưa có chế độ cộng sản, nhưng người Do Thái cũng bị rơi vào tình trạng sống giả dối, hình thức bên ngoài mà không có sự thật bên trong. Họ sống giả dối với Chúa, với nhau và che đậy sự dối trá đó bằng các hình thức tế tự, nghi thức bên ngoài. Các ngôn sứ là những người được sai đến để nói với họ sự thật, họ đã không chấp nhận và tìm cách loại trừ các ngài. Sứ mạng của các ngôn sứ là sống và làm chứng cho sự thật, dám hy sinh cả mạng sống để bênh vực sự thật, dù có có bị chống đối, khước từ.

Bài đọc một hôm nay, tiên tri Giêrêmia đã chia sẻ về ơn gọi của ông: Đức Chúa phán với tôi rằng: Trước khi cho ngươi thành hình trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi. Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân… hãy nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ…Ta sẽ làm cho nươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ…Chúng sẽ không làm gì được ngươi, vì có Ta ở cùng ngươi. Những lời này cho thấy, sứ mạng của ngôn sứ không phải là một sứ mạng dễ dàng. Các ngài được sai đi không phải để nói những lời vui tai, dễ nghe, cũng không phải để chiều theo dòng đời. Các ngôn sứ không phải chỉ đương đầu với các nhà lãnh đạo xã hội, những người có chức quyền, nhưng còn bị các tư tế và cả xứ chống đối. Vì những chân lý các ngài loan báo sẽ đụng chạm không chỉ giới cầm quyền mà đến cả nếp sống của toàn dân. Trong hoàn cảnh đó, Thiên Chúa không hứa cho các ngài sự thành công hoặc sự an toàn, nhưng báo trước cho họ biết những khó khăn họ sẽ gặp phải và Chúa hứa sẽ là Đấng bênh vực, bảo vệ và luôn ở với họ.

Quả thực cuộc đời của tiên tri Giêrêmia đã trải qua tất cả những chống đối đó. Giêrêmia sống trong hoàn cảnh đất nước đang bị đế quốc Syria phương Bắc đe dọa. Bọn quan chức xu nịnh và các ngôn sứ giả lộng hành, muốn vua Giôsia liên kết, thần phục quốc gia láng giềng để mong sự bình an. Tiên tri Gierêmia đã cảnh báo nguy cơ sẽ bị lệ thuộc vào các quốc gia láng giềng và kêu gọi nhà vua và toàn dân hãy tin tưởng cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa, thay đổi lại nếp sống. Tuy nhiên, những lời tuyên sấm của ông không được đón nhận, họ không muốn nghe và còn tìm cách loại trừ ông. Họ bỏ tù, đánh đập và bỏ đói ông chỉ vì ông đã kêu gọi hãy quay trở lại và tin tưởng nơi Chúa chứ đừng tin ở sự trợ giúp của người đời.

Mang cùng thân phận với các ngôn sứ, ngay thời gian đầu hoạt động công khai, Đức Giêsu cũng đã gặp không ít khó khăn, chống đối. Chúa nhật tuần trước chúng ta nghe Chúa Giêsu khẳng định về sứ mạng của Ngài: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi loan báo tin Mừng cho người nghèo khó…. Hôm nay ứng nghiệm lời ngôn sứ tai quý vị vừa nghe. Lập tức, những người Do Thái đã có những thái độ phản đối.

Phản ứng đầu tiên, những người Do Thái tỏ ra khinh thường thế giá và gia đình của Chúa Giêsu. Họ để cho thành kiến ngăn cản khiến không nhận ra Chúa Giêsu là một Ngôn Sứ của Thiên Chúa và là người thi hành sứ mạng Thiên Chúa trao phó. Họ nói với nhau: Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? Trong mắt những người Do Thái, Giuse- một ông thợ mộc nhà quê, ít học, nhà nghèo thì làm sao con cái có thể giỏi giang được. Hơn nữa, theo Kinh Thánh thì không có vị ngôn sứ nào xuất thân từ Nazareth, vì thế rõ ràng họ coi thường Chúa Giêsu. Đàng khác, họ đã nghe đồn về những phép lạ Chúa Giêsu hóa nước thành rượu tại Caphanaum, hóa bánh ra nhiều tại vùng Galile, vì thế, những người Nazareth cũng mong đợi những phép lạ tương tự như vậy tại Nazareth. Khi thấy Chúa Giêsu không đáp ứng những mong đợi đó, họ đã không tin nơi Ngài.

Chúa Giêsu đã gián tiếp cho họ biết tại sao Ngài không thực hiện các phép lạ tại Nazareth, vì họ thiếu một điều kiện căn bản đó là đức tin và sự khiêm tốn để đón nhận những giáo huấn mới. Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ về hai vị ngôn sứ trong cựu ước và hai tấm gương tin và đón nhận các ngài. Trước hết là câu chuyện xảy ra với bà góa thành Sarepta khi trời hạn hán, đói kém mất mùa. Lúc đó mẹ con bà góa chỉ còn chút bột và chút dầu cuối cùng trong nhà để đủ làm một cái bánh cho hai mẹ con, sau đó chờ chết. Tuy nhiên vì tin vào lời của ngôn sứ Elia và quảng đại với nhà tiên tri, bà sẵn dàng đem biếu cho ông phần bánh và nước còn lại của mẹ con bà. Bà không dành riêng cho mình, cũng không tiếc mạng sống của mình và con trai, bà tin vào lời vị ngôn sứ đã hứa với bà: Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi, cho đến ngày Chúa cho mưa xuống.Thiên Chúa đã làm cho bà như lời vị ngôn sứ đã hứa, đã nuôi sống mẹ con bà và vị ngôn sứ qua hết thời gian hạn hán, đói kém.

Ví dụ thứ hai về Naaman, một vị quan cao cấp của người Siria, ông nghe người đầy tớ là người Do Thái nói rằng ở đất Israel có một vị ngôn sứ rất tài giỏi. Ông đã tìm đến với ngôn sứ Eliseo, vị ngôn sứ này sai ông xuống sông Giodan tắm bảy lần sẽ được sạch. Lúc đầu, ông không tin vì nghĩ rằng, nước sông tại quê hương ông còn sạch hơn nước sông Giodan, vì thế ông định bỏ về. Nhưng sau đó, người đầy tớ khuyên ông cứ tin và tắm thử. Ông đã tắm bảy lần và được khỏi bệnh phong hủi. Naaman được khỏi bệnh phong không phải vì nước sông Giođan, nhưng ông được khỏi vì tin vào lời của ngôn sứ Eliseo.

Khi nghe Chúa Giêsu kể hai ví dụ này, những người Do Thái đã hiểu ngay Ngài muốn nói về sự cứng lòng, cố chấp của họ. Họ tỏ ra bực bội và muốn loại trừ Chúa Giêsu. Họ lôi Chúa Giêsu ra khỏi thành, kéo Ngài lên đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Phản ứng của những người Do Thái không chỉ là từ chối quyền năng và sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giêsu, mà họ còn cư xử với Chúa bằng bạo lực và muốn loại trừ Ngài.

Thưa quý OBACE, lịch sử cho thấy, dân Do Thái đã càng ngày càng đi xa giới răn lề luật của Thiên Chúa, các việc tế tự và giữ luật của họ chỉ còn là những hình thức giả dối bên ngoài. Sự gian dối giả tạo này không chỉ nơi người dân, mà còn từ nơi những nhà lãnh đạo là các thượng tế, luật sĩ. Cuộc sống của họ hoàn toàn trái ngược lại với những lời họ nói. Thiên Chúa đã sai nhiều các ngôn sứ đến để cảnh tình họ, nhưng họ đã không tin, không nghe và còn ra tay sát hại những ai dám vạch trần sự dối trá của họ. Thiên Chúa đã sai chính Con của Ngài là Chúa Giêsu, vị ngôn sứ của Thiên Chúa đến để nói lên sự thật, mời gọi họ quay trở lại với sự thật; họ cũng không tin và không nghe lời Ngài, cuối cùng họ đã loại trừ Ngài bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá.

Là người Công Giáo chúng ta tin và đón nhận Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là sự Sống, chúng ta không thể đi một con đường nào khác, mà phải đi theo con đường của Chúa Giêsu, đường của Tin Mừng. Chỉ khi đi theo con đường này chúng ta mới đạt được cùng đích cuộc đời là hạnh phúc mà thôi. Cũng vậy, đón nhận Chúa Giêsu là Sự Thật, chúng ta cũng phải dám sống và làm chứng cho sự thật, sự thật về Thiên Chúa yêu thương, cứu độ con người. Thiên Chúa muốn chúng ta sống, hành động theo sự thật, nói lên sự thật và dám bênh vực cho sự thật, dù có phải gặp nguy hiểm hay bị loại trừ.

Sống trong xã hội mà sự gian dối đang lan tràn, người Công Giáo phải trở thành những người nói thật, làm thật, việc thật. Người Công giáo phải sản xuất hàng hóa thật, chất lượng thật, gạt bỏ khỏi mình tất cả cách làm ăn gian dối, quanh co, mờ ám, cư xư với nhau trong công bằng và trong sự thật.

Nhờ Lời Chúa nhắc nhở hôm nay, xin cho chúng ta biết đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể mỗi ngày, để Chúa biến đổi cuộc sống cá nhân và gia đình, biến chúng ta thành những người dấn thân xây dựng xã hội và cuộc sống này ngày càng công bằng và chân thật hơn. Amen.

Về mục lục

.

QUÊ HƯƠNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Lời Kinh ứng nghiệm nơi Ngài,
Tai nghe cho thấu, đừng chai cứng lòng.
Nhiều người thán phục cầu mong,
Tin yêu quí mến, tình trong phục quyền.
Tiểu tâm những kẻ hão huyền,
Nghi ngờ giả định, tuyên truyền tẩy chay.
Hỏi rằng bác thợ có hay?
Giu-se thợ mộc, ở ngay trong làng.
Khinh chê thách thức rõ ràng,
Thực hành phép lạ, cả làng quan chiêm.
Tiên tri nhân chứng thanh liêm,
Mọi người đón tiếp, là điềm trời ban.
Đồng hương từ chối dẹp tan,
Không tin chẳng đón, dối gian phỉnh phờ.
Ê-li dấu chỉ không ngờ,
Một người bà góa, nương nhờ tấm thân.
Ê-li-sê đến cùng dân,
Phong cùi cứu chữa, Naa-mân người ngoài.
Hội đường căm phẫn với Ngài,
Hùa nhau trục xuất, lòng chai chối từ.

Chúa Giêsu trở về quê để rao giảng tin mừng. Nói về quê hương, tâm hồn ai cũng rạo rực niềm nhớ thương và trìu mến. Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn và là nơi chất đầy kỷ niệm của thời niên thiếu. Chúa trở về quê không chỉ thăm quê nhà mà còn đem tin mừng cứu độ. Thoạt đầu, mọi người qúi mến, thán phục nghe lời Chúa giảng dậy. Chúa Giêsu đã giảng như người có quyền, lời Chúa có sức đánh động và biến đồi tâm hồn. Ngày qua ngày, người ta cảm thấy như bị đe dọa phải thay đổi. Họ biết và nhận ra rằng nghe lời Chúa là một thách thức đổi đời. Lời của Chúa làm xáo trộn những tập tục sẵn có và người ta bắt đầu nghi vấn.

Dân làng toa rập chất vấn về nguồn gốc họ hàng và gia cảnh của Chúa. Đồng hương chỉ nhìn dáng vẻ bề ngoài. Họ không biết về nguồn gốc của Chúa từ đâu. Họ chỉ biết Ngài là con ông Giuse, thợ mộc và mẹ Ngài là Maria. Họ không thể tin được một thanh niên trẻ cùng làng xóm lại là Đấng Cứu Thế. Họ đã thách thức đòi Chúa làm phép lạ để họ thưởng thức. Chúa đã không thỏa mãn những đòi hỏi của họ. Thế là họ căm phẫn, chỗi dậy trục xuất Chúa ra khỏi thành. Tin mừng không được chấp nhận nơi quê hương. Chúa Giêsu đã nói: Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình.

Chúa đã xếp mình vào hàng các tiên tri và biết số phận của các tiên tri. Xưa cũng như nay, mọi người có khuynh hướng tẩy chay các tiên tri. Giống như thế, chúng ta thường muốn chối bỏ các tiên tri thật, bởi vì các ngài đòi hỏi chúng ta phải sống theo nẻo chính đường ngay, phải đi vào khuôn phép kỷ luật và sống đời gương mẫu. Chúng ta không muốn thay đổi nhiều, vì nghĩ rằng rượu cũ vẫn ngon hơn. Tin mừng của Chúa không dạy chúng ta đi tìm sự vui mừng hưởng lạc, nhưng là sống tin mừng cứu độ. Tin mừng sẽ đưa dẫn con người tới nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.

Truyện kể: Có một bà kia thường đọc sách Tin mừng và bà đọc rất sốt sáng. Được hỏi tại sao thế? Bà dùng thí dụ trả lời: Hôm qua, tôi nhận được thơ từ người yêu. Tôi chăm chú đọc, đọc đi đọc lại nhiều lần. Không phải tôi không hiểu lời lẽ trong thơ. Tôi đọc nhiều lần vì tôi biết đó là những lời của người rất thương tôi và tôi thương người ấy.

Chúa Giêsu đã mở đường dẫn chúng ta vào hạnh phúc và niềm vui Nước trời. Chúa không lập pháo đài để bảo vệ, chiến đấu hay phân rẽ con người. Chúa lập Hội Thánh để mở con đường cứu độ. Hãy lắng nghe Tin mừng của Chúa. Tin mừng sẽ là nguồn sức sống và là niềm vui ơn cứu rỗi. Tin mừng chính là lời yêu thương của Đấng từ trời cao đem xuống cho nhân loại. Ước gì lời của Tin mừng luôn mãi là một tin vui.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU KIÊN NHẪN – DỊU HIỀN

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Giêsu trở về quê hương Nazarét, Ngài vào Hội đường và người ta đưa cho Ngài đọc đoạn sách ngôn sứ Isaia. Và đoạn sách này đã ám chỉ về Ngài…Tin Mừng của thánh Luca viết : ” Dân Do Thái không chấp nhận việc Đức Giêsu thi hành sứ vụ cứu thế của Ngài ở Nazarét,quê hương của Ngài “. Dân Do Thái, đặc biệt những người dân ở Nazarét đã không đón nhận Ngài, họ thiển cận, ích kỷ không nhận ra Ngài là Đấng cứu thế, đang hiện diện giữa họ.

Thánh Luca viết :” Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ trổi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi “ ( Lc 4,29-30 ).

Thiên Chúa quyền năng và chính Ngài sự Thật, là sự Sống, là con Đường, nên không ai có thể làm được gì, nên tất cả mọi mưu mô, mọi mưu kế của con người đều không thể làm được gì gì, Ngài đã đi qua họ cách dễ dàng.

Những người đồng hương với Chúa Giêsu đã không thể tin nổi thần khí của Thiên Chúa lại đổ xuống trên con ông Giuse, thợ mộc. Đối với những người dân Do Thái lúc đó, họ luôn có một mơ ước là Đấng cứu tinh đến với họ phải là một vị vua đánh Đông dẹp Bắc và giải phóng dân tộc Israen khỏi ách nô lệ của người La Mã. Đàng này, Đấng họ mong đợi không thể nào lại là một người nghèo làm nghề thợ mộc và lại là con ông Giuse thợ mộc và bà Maria nội trợ…Nên, họ không đón nhận Đức Giêsu.

Dân làng Nazarét câm phẫn tột độ khi họ yêu cầu Chúa Giêsu làm phép lạ để họ tin, nhưng Chúa không làm theo ý của họ. Họ đã bạo động, đã muốn tiêu diệt Ngài và khử trừ Ngài : “ Không một ngôn sứ nào được đón tiếp nơi quê hương của mình “ ( Lc 4,34 ). Đức Giêsu đã không khi nào làm theo ý họ và Ngài cũng không chiều theo các đầu mục, các vị lãnh đạo tôn giáo đòi Ngài chứng minh giáo lý của Ngài.

Các người dân làng Nazarét kết án Chúa Giêsu là phạm thượng, lộng ngôn thì những người Pharisêu đòi đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá. Mặc dầu Chúa Giêsu rất yêu thương dân làng Nazarét nhưng Ngài không thể làm việc, rao giảng tại đó vì họ cố chấp, cứng lòng tin. Chúa đã phải bỏ quê hương mà đi rao giảng nơi khác. Chúa luôn kiên nhẫn, chờ đợi, tạo cơ hội để con người biết sám hối và tin vào Người.

Đức Giêsu đã bị dân Do Thái có thành kiến xấu về mình. Họ có định kiến về Chúa không thể xóa được. Do đó, dù Chúa tốt lành, công chính, thánh thiện, tuyêt đối hoàn hảo nhưng họ vẫn cho là Chúa có tội.

Dân Do Thái có thành kiến rất xấu với Chúa Giêsu. Chính thành kiến đã ngăn cản họ đến với Chúa là Chân lý. Đức Giêsu là Thiên Chúa mạnh mẽ, oai hùng đã vượt qua các tầng trời, đã băng giữa họ mà đi.Đấng oai hùng, mạnh mẽ ấy luôn có tấm lòng nhân từ khi con người ngỗ nghịch, quay lưng phản bội lại Người.

Chúa luôn ban cho chúng ta, tạo cho con người một cơ hội để quay trở lại với Người. Thiên Chúa luôn đòi hỏi chúng ta phải lắng nghe và thực Lời Người. Điều Người đòi hỏi là con người và chúng ta phải thực thi bác ái dẫu có bị người đời ghen ghét và thù oán. Vì “ tôi tớ không thể lớn hơn chủ. Nếu họ đã đã bắt bớ Ta, họ cũng sẽ bắt bớ các con …”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh để chúng con can đảm làm chứng cho Chúa dù thế gian có căm ghét, thù oán, bách hại chúng con.Xin cho chúng con luôn biết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao dân làng Nazarét lại không đón nhận Chúa Giêsu ?
2.Tại sao Chúa Giêsu lại bỏ quê hương Nazarét để tiếp tục thi hành sứ vụ tại những nơi khác ?
3.Thành kiến gây gì cho chúng ta ?
4.Chúa đòi hỏ chúng ta phải làm gì ?

Về mục lục

.

CAN ĐẢM CHẤP NHẬN LỖI LẦM

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Hôm ấy, Chúa Giê-su trở về quê hương Na-da-rét. Vì ưu ái người đồng hương, Người tỏ cho họ biết vai trò và sứ mạng của Người là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, được sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó…với hy vọng là những người đồng hương cốt nhục của mình sẽ sẵn lòng đón nhận Tin Mừng cứu độ.

Thế nhưng, vì in trí rằng Chúa Giê-su chỉ là một anh thợ mộc bình thường con của bác thợ Giu-se, bà con thân thích của Người đâu có ai sáng giá… nên họ đã không tin vào Người. Họ đã để vuột khỏi tầm tay một cơ hội ngàn vàng, đã đánh mất hồng ân vô giá.

Để cảnh tỉnh họ, Chúa Giê-su chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến, nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ I-sa-i-a, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Ít-ra-en phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ I-sa-i-a được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ít-ra-en thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xa-rép-ta, miền Xi-đôn.

Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân It –ra-en cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Na-a-man ngoại giáo, người nước Sy-ri.

Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Chúa Giê-su không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Người khủng khiếp!

Họ nổi cơn phẫn nộ chỉ vì Người đã chỉ cho họ thấy những sự thật phũ phàng liên quan đến họ. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Chúa Giê-su, lôi Người ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành.

Thế mà vẫn chưa hả giận, họ còn kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực, cho Người nát thịt tan xương, để vĩnh viễn loại trừ Người khỏi cuộc sống, vì Người đã dám nói lên sự thật, một sự thật phũ phàng liên quan đến họ…

Ôi, khủng khiếp thay cơn giận của đám dân thành Na-da-rét!

Cái tôi kiêu căng tự phụ trong mỗi người là nguyên nhân chính khiến người ta nổi giận với những ai chỉ lỗi cho mình. Cái tôi tự phụ nầy đã khiến con người trở nên mù tối trước những lầm lỗi của mình và tìm cách biện minh cho những sai trái của mình đủ mọi cách, kể cả việc dập tắt tiếng nói của người chỉ lỗi cho mình.

Nếu ngôi nhà chúng ta đang bị bén lửa từ phía sau, bỗng có người phát hiện và báo cho ta biết để kịp thời chữa cháy, hẳn chúng ta sẽ rất biết ơn người ấy và cấp tốc chữa cháy cho ngôi nhà.

Còn nếu trong hoàn cảnh đó, thay vì cám ơn và lo chữa cháy, chúng ta lại quay ra căm giận, hành hung người báo cháy cho mình thì thật là điên rồ không thể chấp nhận được.

Thói hư tật xấu và những đam mê tội lỗi cũng là những ngọn lửa âm ỉ đốt cháy đời mình mà chúng ta không hay biết. Vậy nếu có ai đó báo cho chúng ta biết lỗi của mình, tức là báo cho biết có ‘lửa’ đang bén vào ‘căn-nhà-cuộc-đời’ của ta, thì đừng phẫn nộ với người đó như người dân thành Na-da-rét năm xưa. Cần biết ơn họ sâu sắc vì nhờ họ cảnh báo mà chúng ta biết được những ‘ngọn-lửa-lầm-lỗi’  âm ỉ đốt cháy cuộc đời mình, để rồi cấp tốc cứu đời mình khỏi cháy.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho Lời Chúa soi dọi vào những ngóc ngách đen tối trong tâm hồn chúng con để vạch cho chúng con thấy những sự thật đen tối trong đời mình, để nhận ra cái TÔI của mình thật tăm TỐI, nhiều khi rất TỒI và cũng lắm TỘI.

Xin cho chúng con can đảm lắng nghe những lời phê bình chân thực của người khác mà không tìm cách biện minh hay chống chế.

Xin cho chúng con dám nhìn thẳng vào những thói xấu của mình, gọi đúng tên chúng, quan sát cách vận hành hay biểu lộ của chúng qua hành vi, lời nói, và cách cư xử hằng ngày của chúng con… để thấy chúng khả ố đến chừng nào. May ra lúc đó, chúng con  mới có thể cải thiện và đổi đời.

Về mục lục

.

ƠN TIÊN TRI

Lm Vũdình Tường

Đức Kitô về quê hương Ngài và giảng dậy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo huấn và sự khôn ngoan, thông thái của Ngài. Khi Ngài đang giảng, bỗng từ đám đông lên tiếng yêu cầu Ngài làm phép lạ như Ngài đã làm tại Caphanaum. Đức Kitô không đáp ứng lời họ yêu cầu, từ đó sinh ra bất mãn. Đám đông trở thành lớn tiếng, kẻ đồng í, người bất đồng và cuối cùng nhóm muốn giết chết Ngài trở thành nhóm chủ động.

Trước tiên, đám đông vui mừng, họ cảm thấy hãnh diện vì một người trong số họ, trong làng, từng sống âm thầm, bỗng nay trở thành nổi tiếng. Liền sau đó họ thắc mắc, có thể do ghen tị, họ nói với nhau bởi đâu con bác thợ mộc, con ông Giuse, có được khôn ngoan thông thái đến thế c.21. Dân làng tự nhận họ biết rõ nguồn gốc Ngài, biết Ngài con cái ai, anh em thế nào, sinh sống ra sao, nhưng họ không biết mục đích Ngài xuống trần gian, và Ngài có sứ mạng quan trọng cần thực hiện đó là thực hiện í Thiên Chúa Cha. Đám đông rất đúng khi nói Ngài là con bác thợ mộc ông Giuse, và bà Maria là mẹ Ngài nhưng họ không biết Ngài còn là Con Thiên Chúa và chính là Thiên Chúa. Là con bác thợ mộc, như chúng ta, Đức Kitô không thể làm phép lạ. Ngài làm phép lạ bởi Ngài là Con Thiên Chúa. Vì đám đông hiểu lầm nên Ngài thấy cần giải thích cho họ hiểu biết Ngài là ai. Đám đông trông đợi Đức Kitô làm phép lạ lớn nơi quê hương để họ cảm thấy hãnh diện hơn, tự hào hơn. Đức Kitô không đồng quan điểm đó và bởi họ chê bai, ghen tị,vì thế Ngài lên tiếng:

Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình c.24.

Nghe thế, đám đông tỏ ra bực mình hơn. Nhận biết thái độ chống đối của họ Đức Kitô nhắc cho họ biết hai câu truyện nổi tiếng, hầu như ai cũng biết, trong Cựu Ước. Truyện thứ nhất xảy ra trong thời kì hạn hán ba năm không mưa, đói kém, Thiên Chúa sai tiên tri Elijah không đến với dân Do thái nhưng đến với dân ngoại bà goá thành Sidonian để giúp đỡ gia đình bà. Truyện thứ hai là việc Thiên Chúa sai tiên tri Elisha không đến chữa bệnh cùi cho người Do Thái mà lại chữa bệnh cùi cho tướng Naaman của quân đội Syria. Nghe thế đám đông hung hăng đòi giết Đức Kitô bằng cách xô ngài té từ trên cao xuống c.29. Đám đông hung dữ không chỉ đơn thuần chối bỏ lời giảng dậy của Đức Kitô mà họ còn chối bỏ chính con người Đức Kitô.

Hành động của đám đông rất gần với hành động ma quỉ đối xử với Đức Kitô khi chúng cám dỗ Ngài (xin xem Lk 4,1-12). Đức Kitô cũng dùng Kinh Thánh đáp lại; ma quỉ cũng thách thức Đức Kitô làm phép lạ, Ngài không đáp lại lời chúng yêu cầu. Cuối cùng ma quỉ cũng muốn xô ngài từ trên cao xuống thấp. Hai câu chuyện nổi tiếng trong Cựu Ước nói đến tình thương Chúa trải rộng vô bờ, cho mọi dân, mọi nước, không bị giới hạn cho riêng một dân tộc nào. Người Do Thái nào cũng rành rẽ hai câu chuyện trên, tuy thế mục đích, í nghĩa của chuyện không phải ai cũng nhớ mà hầu như bị lãng quên. Đức Kitô nhắc chuyện đó cho biết Ngài là Người của mọi người, không phải của riêng ai, của riêng dân tộc hay phe, nhóm nào.

Đức tin giúp chúng ta nhận biết Đức Kitô là con thánh Giuse và là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Bởi không có đức tin nên người ta tranh biện nhiều về Đức Kitô. Làm sao người ta có thể dùng sự hiểu biết giới hạn của con người để tìm hiểu Đấng vô hạn, ngoài sức tưởng tượng của con người. Chỉ cần xem cách chết của Ngài đủ biết Thiên Chúa luôn có cách riêng của Ngài và cách đó rất khác với cách người ta suy tưởng. Đức Kitô c ó nhiều người tin theo, trung thành đến phút giây cuối đời. Ngài cũng bị nhiều người loại bỏ. Điều rõ ràng cả ma quỉ lẫn dân của Ngài muốn giết chết Ngài bằng cách xô từ trên cao xuống. Kết cục Ngài tự nguyện chết đền thay tội cho nhân loại, chết không phải từ trên cao bị xô xuống theo í loài người, mà chính là theo chương trình của Thiên Chúa – từ dưới thấp được kéo lên cao treo trên thập tự.

Chúng ta nhận ơn Thánh Thần trong ngày lãnh nhận bí tích thanh tẩy, chúng ta cũng nhận ơn làm tiên tri. Trở thành tiên tri trong thời đại mới bằng cách sống chứng nhân Kitô giữa đời, rao giảng Tin Mừng bằng cuộc sống hàng ngày, hành động yêu thương tha thứ và cuối cùng cũng được Thiên Chúa nâng lên cao, sống trong vương quốc của Thiên Chúa.

Về mục lục

.

THÀNH KIẾN

Lm, Gioan M, Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Chúng ta vẫn thường nói: “Quê hương là chùm khế ngọt”, “Không nơi đâu đẹp cho bằng quê hương”, “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Theo quan niệm này, thì ai ai cũng yêu mến quê hương xứ sở nơi mình sinh trưởng, là nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Thế nhưng, cũng theo quan niệm dân gian thì đôi khi “Bụt nhà không thiêng, gần chùa gọi bụt bằng anh”. Chúa Giêsu đã nói lên kinh nghiệm này trong hội đường Nazaréth khi Ngài về thăm quê hương “Không một tiên tri nào được vinh dự đón tiếp nơi quê hương họ hàng mình”.

Thật vậy, sau hơn một năm đi giảng dạy ở nhiều nơi, nay có dịp trở về thăm quê nhằm đúng ngày Sabát, Chúa Giêsu đến hội đường tham dự. Theo thông lệ, trước hết Ngài đọc sách thánh rồi cắt nghĩa lời Kinh thánh. Lời giảng dạy của Ngài như Đấng có uy quyền và đầy khôn ngoan, làm cho những người đồng hương lấy làm kinh ngạc.

 Họ ngạc nhiên bởi đâu mà Ông này khôn ngoan và quyền năng làm được các phép lạ như thế. Họ ngạc nhiên là vì họ quá biết rõ tông tích “Ngài là con bác thợ mộc Giuse và mẹ Ngài là bà Maria người cùng làng xóm cơ mà!”. Lối suy nghĩ thành kiến đó đã che mất con mắt đức tin, làm cho họ không nhận ra Thiên Chúa đang ở với dân Người.

Chính vì thành kiến và hẹp hòi trong cách nhìn, mà những người đồng hương đã không nhận ra Đấng Mêsia đang ở giữa họ. Họ không tin Đức Giêsu là Đấng Thiên sai, lại càng không thể tin Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng mà cha ông tổ tiên họ hằng đợi trông.

Lý do dân chúng không nhận ra là vì họ cứ tưởng Đấng Cứu thế sẽ uy nghi từ trên trời cao ngự đến. Nhưng ai ngờ Ngài lại sinh bởi một trinh nữ làng quê dưới đất. Người ta cứ tưởng Đấng Thiên sai phải cư ngụ trong lâu đài sang trọng dành cho các bậc vua chúa. Nhưng không ngờ Ngài lại sinh ra trong hang bò lừa thiếu thốn. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu độ trần gian phải oai phong lẫm liệt. Nhưng có ai ngờ Ngài lại quá hiền lành khiêm nhường giàu lòng xót thương. Người ta cứ tưởng Đấng Mêsia đến đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do thái lên hàng bá chủ thế giới. Nhưng không ngờ Ngài chịu thua hết mọi người, bị hành hạ, sỉ nhục, bị kết án tử như một phạm nhân. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế là vị vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Ngài lại quỳ gối xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ. Cho nên, dân chúng không hiểu về sứ mạng của Đức Giêsu.

Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng làm được mọi sự, nhưng đành phải bó tay trước sự chối từ của con người. Ngài trở nên bất lực trước những kẻ không có lòng tin. Nên Ngài không làm phép lạ nào tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng cản trở chương trình của Thiên Chúa, con người có tự do từ chối quà tặng của Ngài.

Nếu phép lạ là ân ban của Thiên Chúa, cần được đón nhận với niềm tin, thì chính niềm tin là ân huệ của Thiên Chúa chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Triết gia Pascal đã nói: “Để có niềm tin con người phải quì gối cầu nguyện”.

Anh chị em thân mến,

Khi đến với nhân loại, Đức Giêsu muốn làm người để cảm thông, thân thiện, chia sẻ thân phận hèn mọn của con người. Nhưng xót xa thay! Ngài đã bị những người đồng hương chối từ. Mặc dù họ kinh ngạc, thán phục sự khôn ngoan của Ngài, nhưng họ không tin Ngài là Thiên Chúa. Chính khi Thiên Chúa muốn hạ mình xuống sống với con người lại là lúc con người bị vấp phạm.

Nếu dân làng Nazaréth ép Đức Giêsu làm phép lạ để minh chứng Ngài là tiên tri, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Đức Giêsu chứng minh giáo lý của Ngài phải đến từ Thiên Chúa.

Nếu dân làng Nazaréth căm phẫn đến độ muốn xô Đức Giêsu xuống vực thẳm, vì Ngài không làm phép lạ nào tại quê hương, thì dân thành Giêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Chúa vào thập giá.

Sự cứng lòng tin của dân làng Nazaréth năm xưa không nhận ra dung mạo Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, biết đâu đó cũng là thái độ sống của ai  đó trong chúng ta ngày nay. Chúng ta khó lòng nhận ra Chúa Giêsu nơi những người đau khổ, cùng khốn. Chúng ta không nhận ra phép lạ mà Chúa đang thực hiện qua những hoàn cảnh tầm thường của cuộc sống.

Cuối cùng, thưa anh chị em, Mùa Xuân Kỷ Hợi đang về trên quê hương Việt Nam. Ngày tết là ngày đoàn tụ gia đình, bao người đi xa cũng về với gia đình, cùng chia vui với nhau một bữa cơm ngày tết, cùng dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp, và nhắc lại những kỷ niệm đẹp, ai ai  dễ dàng bỏ qua cho nhau những hiểu lầm thành kiến không tốt về người khác.

Nếu như cành mai, cành đào chịu cắt tỉa đi những cành, những lá trong đau đớn, để kết nụ đơm hoa đẹp cho đất trời thế nào, thì chúng ta cũng phải can đảm cắt tỉa đi những cành, những lá, đó là những thành kiến, những tính hư tật xấu, để tâm hồn chúng ta bung nở ra những nụ hoa bác ái yêu thương, những ân lộc tốt lành, đạo đức, cùng nhau đón chào mùa xuân mới, mà phúc lành của Chúa xuân sẽ tràn phủ trên quê hương và cho từng người chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN_C

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến.

Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống như bài Tin Mừng tuần trước: trong Hội đường của người Do thái ở Nazatreh, quê hương của Chúa Giêsu. Khán giả nghe Chúa nói hôm nay cũng là những người quen thuộc với Chúa. Điều khác biệt mà bài Tin Mừng hôm nay muốn cho chúng ta thấy không phải là những lời do Chúa dậy mà là thái độ của những  người nghe Chúa hôm đó. Thái độ đó như thế nào? Lúc đầu là thiện cảm và thán phục. Sau đó là bất mãn và căm phẫn và cuối cùng là muốn thủ tiêu Chúa. Câu hỏi chúng ta đặt ra ở đây là tại sao thái độ ấy lại có thể thay đổi mau chóng và quyết liệt đến như thế? Chúng ta sẽ tìm hiểu lý do.

Như Tin Mừng Mathêô, Marco và Luca thuật lại thì trước khi về Nazareth Chúa đã làm hai Phép lạ tại Carphanaum: Một là phép lạ Chúa chữa người đàn bà loạn huyết; hai là Chúa phục sinh đứa con gái của ông hội trưởng hội đưởng ở đó. Chắc chắn những điều ấy đã đến tai những người ở Nazareth vì Nazareth và Carphanaum cách nhau không bao xa.

+ Một Chúa Giêsu được đã nổi tiếng như thế bây giờ trở về quê hương của mình thì làm sao mà những người đồng hương cùng sống với Chúa bao nhiêu năm trời …lại không cảm thấy tự hào? Chắc chắn là phải có.

Tin Mừng cho chúng ta thấy tất cả những người có mặt trong hội đường hôm đó đều cảm thấy tràn ngập sự thán phục trước những lời đầy vẻ duyên dáng của Chúa. Họ ngỡ ngàng trước con người mà họ đã từng quen biết từ bao nhiêu năm nay….ngỡ ngàng đến nỗi họ phải thốt lên: “Người này không phải là con của ông Giuse đó sao? (Mc 6,2-4). Bởi đâu ông ấy được như thế? – Tại sao mà ông ta được khôn ngoan như vậy? – Ông ấy không phải là con bác thợ mộc, mẹ của ông ta không phải là bà Maria và anh em của ông ta không phải là Giacôbê, Giuđa và Simon đó sao vv và vv.

+ Nhưng rồi đàng sau sự tự hào đó là một cái gì khác hơn. Luca không nói thắng ra những gì họ mong ước nơi Chúa nhưng Luca cho chúng ta thấy chính Chúa đã thấy rõ ý đồ của họ nên Chúa đã vạch mặt chỉ tên những gì mà họ mới chỉ mong ước ở trong lòng: “Hẳn các ngươi sắp nói cho ta nghe câu ngạn ngữ này: Hỡi thầy thuốc hãy tự cứu lấy chính mình. Những gì chúng tôi nghe đã xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông đi” Không biết anh chị em nghĩ sao chứ riêng tôi tôi tưởng những người ở Nazareth mong ước như thế cũng là lẽ rất thường tình. Thế nhưng ở đây Chúa lại từ chối. Không những Chúa không đáp ứng những gì người đồng hương của Ngài mong mỏi mà ngược lại thái độ của Chúa xem ra có vẻ khiêu khích và thách thức đối với họ cho nên từ thái độ cảm phục tự hào lúc ban đầu, những người Nazareth đã chuyển qua thái độ bất mãn và thậm chí còn muốn giết cả Chúa.

+ Những mong ước của họ quá ích kỷ.

Họ tưởng họ là người đồng hương với Chúa và họ có quyền đòi hỏi Chúa phải ưu tiên làm cho họ những gì họ mong muốn.

Còn Chúa thì rõ rệt là Ngài không muốn như thế. Ngài là Thiên Chúa của mọi người. Con người không có quyền đòi hỏi bất cứ điều gì từ Thiên Chúa. Thiên Chúa hoàn toàn tự do.

Những người ở Nazareth cay cú không phải là vì Chúa vung vãi những phép lạ trong những thành khác và từ chối không làm ở quê hương, nhưng họ cay cú vì Chúa đã dùng hai thí dụ thời ngôn sứ Êlia và Êlisê để nói thẳng cho họ biết rằng Ngài có quyền làm Phép lạ cho cả dân ngoại, coi dân ngoại ngang hàng và nhiều khi còn có vẻ ưu tiên hơn cả dân Do thái. Điều đó đối với họ thật là quá đáng và chính vì thế mà họ tỏ ra phẫn nộ mặc dầu họ rất cảm phục trước những lời từ môi miệng Ngài nói ra.

+ Lý do thứ hai theo Charde R. Erdman: Tại họ chưa đủ niềm tin nơi Chúa. Sở dĩ như thế là vì họ quá quen với Chúa. Ông nói:”Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường lại không thể nhận ra hết sự vĩ đại của họ và nhiều khi người ta không hiểu được những kẻ mà họ tưởng là quen biết hơn hết”

Xin được minh họa bằng một chứng từ có thật:

Một hôm cậu bé Tagore làm thơ và đưa lên cho cha cậu xem. Ông thân sinh chê:

– Dở lắm!

Hôm sau, cậu bé lại đem cho cha một sáng tác mới. Ông thân sinh cũng bỉu môi:

– Thơ này là thơ thẩn!

Tagore mới nghĩ ra một kế. Cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và ghi xuất xứ là trích sao trong một tập thơ cổ. Cậu lại đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận. Lần này ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen:

– Tuyệt !tuyệt! – rồi đem khoe tíu tít với con trai lớn của ông hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học:

– Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này!

Ông con trai chủ nhiệm đọc xong, cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen ngợi là hay đáo để và muốn trích đăng lên tờ báo của ông. . . Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia để đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề ghi xuất xứ khi đăng.

Đến đây câu chuyện mới vỡ lẽ ra: Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore. Ông thân sinh giận sôi máu lên. Nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình trước đó.

Ngạn ngữ của chúng ta có câu: Quen quá hóa nhàm.

Hay câu khác: Gần chùa gọi Bụt bằng anh.

Con người thường hay phán đoán người khác theo những tiêu chuẩn nhiều khi rất giả dối, có khi chỉ theo những giáng vẻ bên ngoài thậm chí nhiều khi còn chụp lên họ những hình ảnh hoàn toàn méo mó theo cách nhìn và cách phán đoán rất chủ quan của mình.

Nhưng người Nazareth trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Họ tưởng được gần gũi với Chúa bao nhiêu năm trời là họ đã hiểu được Chúa. Thật là sai lầm. Đối với họ Chúa dù có thế nào đi nữa thì cũng chỉ là con bác thợ mộc………Trong trường hợp như thế nếu Chúa có làm được phép lạ thì phép lạ của Chúa cũng chẳng có được một giá trị nào ngoài việc thỏa mãn sự tò mò của họ. Và chính vì thế mà Chúa đã không làm được phép lạ nào. Ngược lại Chúa còn phải buồn mà nói cho họ biết một sự thực này: “Không một tiên tri nài mà được nổi tiếng tại quê hương mình”

Thế là những người đồng hương với Chúa đã để mật một cơ hội bằng vàng để được hưởng những hồng ân Chúa ban cho.

Còn chúng ta thì sao? Trên đời có những cơ may chỉ đến có một lần. Hãy biết quí trọng những hồng ân Chúa ban cho chúng ta hằng ngày.

Hạnh phúc chỉ đến với những ai biết rơi lệ khi tổn thương, biết đau đớn khi mất mát, biết khát khao và nuôi dưỡng những giấc mơ, biết cố gắng làm lại khi thất bại, bởi vì chỉ có như vậy, mọi người mới biết trân trọng những gì đã và đang đến trong cuộc đời mình.

Về mục lục

.

THÂN PHẬN TIÊN TRI

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP. 

Thời xưa, khi Thiên Chúa muốn dạy dân Chúa một điều gì, Ngài không trực tiếp hiện ra dạy dỗ, nhưng Ngài dùng các tổ phụ hay các tiên tri để tuyên sấm Lời Chúa. Tiên tri phải được Thiên Chúa chọn. Tiên tri không được lựa chọn lời Chúa mà phải trung thành nói hết những lời Ngài muốn nói, không được thêm bớt. Những lời tiên tri nói ra thường không dễ nghe và khó được chấp nhận vì những lời ấy vạch trần những sự sai trái  của mọi người, nhất là của cấp lãnh đạo trong đạo cũng như ngoài đời. Vì thế, tiên tri thường bị người ta chống đối, nhạo báng, lăng nhục và có khi bị giết vì sứ mạng. Tiên tri Giêrêmia là bằng chứng khẳng định điều trên.

Đức Giêsu cũng là vị tiên tri, vì Ngài được Thánh Thần xức dầu, sai đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân. Ngài nói lên sự thật, nhưng Ngài đã bị những người đồng hương chống đối, không chấp nhận mà còn muốn giết đi nữa. Người ta chấp nhận “sứ điệp” của Ngài nhưng không nhận sứ điệp từ nơi Ngài , vì Ngài cũng chỉ là một người Nazareth như ai, con bác thợ mộc Giuse… Vì vậy, số phận của Ngài cũng giống như số phận của các tiên tri bởi vì “Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình”.

Mỗi Kitô hữu, qua bí tích rửa tội và thêm sức, cũng là tiên tri của Chúa, vì đó là một trong ba chức năng của Đức Kitô mà mọi người được tham gia. Vì thế, mọi Kitô hữu có sứ mạng loan báo Tin mừng cho người khác. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi mỗi Kitô hữu phải can đảm thi hành một cách triệt để trong cuộc sống hằng ngày, bằng chứng tá sống động, mặc dầu bị người ta chối bỏ hay chống đối.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. 

Bài đọc 1 : Gr 1,4-5.17-19.

Giêrêmia là một trong những tiên tri lôi cuốn nhất. Tính ôn hòa và nhạy cảm của ông không thích hợp để trở thành tiên tri đối với một xã hội suy đồi. Nhưng Thiên Chúa đã gọi ông và ông phải vâng lời. Ôâng vẫn biết mình không có khả năng, và cũng ý thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Vì thế, ông đã phải cố gắng đi rao truyền Lời Chúa trước mặt dân Israel và các dân ngoại. Trước sự chống đối và bắt bớ, ông vẫn tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông không hề nao núng. Tiên tri Giêrêmia chính là hình ảnh của người Kitô hữu.

Bài đọc 2 : 1Cr 12,31 – 13,13.

Trong đoạn thư gửi cho tín hữu Corintô, thánh Phaolô khẳng định  sự cao trọng của đức Mến. Chúa ban cho Kitô hữu nhiều ơn riêng để họ góp phần xây dựng cộng đoàn (Chúa nhật trước), nhưng đức Mến vẫn là cao trọng hơn cả.

Đức Mến làm cho các ơn khác có giá trị, bởi lẽ nếu không có đức mến thì những ơn khác  chỉ là hư không, và đức mến mới khiến chúng ta tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa.

Bài Tin  mừng : Lc 4,21-30.

Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước nói về những hoạt động của Đức Giêsu tại quê hương Nazareth của mình. Theo đó, chúng ta thấy có ba ý chính :

–  Ngày sabat, Đức Giêsu vào hội đường Nazareth đọc Sách Thánh. Nhân dịp này, Ngài tuyện bố lời tiên tri Isaia cách đó 8 thế kỷ mà Ngài mới đọc, được áp dụng vào chính Ngài, và Ngài công bố sứ mạng của Ngài là mang Tin mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.

– Dựa trên lời đồn thổi về Ngài, người đồng hương cảm thấy phấn khởi qua bài giảng của Ngài. Họ hy vọng Ngài sẽ ưu tiên làm nhiều phép lạ tại quê hương, nhưng đã bị từ chối, bởi vì Ngài là  Đấng cứu độ của mọi người  chứ không phải của riêng ai :”mọi xác thịt sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa”(Lc 3,6). 

– Thất vọng vì sự từ chối của Đức Giêsu, họ tức giận và trục xuất Ngài khỏi thành bằng cách đưa Ngài lên đồi cao để xô xuống vực. Điều này hé mở cho ta thấy bóng dáng ngọn  đồi Golgotha, nơi họ sẽ giết Ngài, như cha ông họ đã từng giết các tiên tri.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. NGƯỜI LÀM TIÊN TRI.

  1. Ơn gọi Tiên tri

Trong đạo cũ, muốn dạy dân một điều gì thì Thiên Chúa thường gửi những vị Tiên tri đến để tuyên sấm lời Chúa.  Tiên tri, theo từ gốc Hy lạp, có nghĩa là người nói nhân danh người khác. Thánh Kinh nhắc đến 16 vị Tiên tri tất cả, gồm 4 Tiên tri lớn và 12 Tiên tri nhỏ. Không phải ai muốn làm tiên tri thì làm nhưng phải được Thiên Chúa chọn như Tiên tri Eâlia, Giêrêmia…

  1. Tiên tri Giêrêmia

Giêrêmia là một trong 4 tiên tri lớn thời Cựu ước, đã được Thiên Chúa cho biết :”Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm tiên tri cho chư dân”. Đúng là Thiên Chúa đã chuẩn bị, Ngài chọn Giêrêmia từ xa xưa, sai ông đi “để nhổ và lật đổ , để hủy và để phá”.Ôâng dám tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp. Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên:”Ôâng nội Giêrêmia này  dám nghĩ mình là ai mà bầy đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy”.

Tiếc thay, sứ vụ của ông quả đã thất bại, chính ông cũng chết tại Ai cập, nhưng dung mạo của ông không ngừng lớn lên sau khi ông chết. Ôâng là người có tâm hồn dịu hiền, sinh ra để được yêu mến, luôn luôn nêu cao những liên lạc thân mật tâm hồn  phải có đối với Thiên Chúa, ông đã quên mình, chịu đau khổ để phục vụ Thiên Chúa, nên ông trở thành một dung mạo của Chúa Kitô.

  1. Sứ mạng của tiên tri. 

Tiên tri là phát ngôn nhân của Thiên Chúa. Làm tiên tri chẳng dễ chịu chút nào, phiền toái là đàng khác. Tiên tri không thể chọn lựa điều phải nói, mà phải nói điều Thiên Chúa muốn, ông nói và nói nhân danh Chúa. Tiên tri phải tập trung vào việc diễn tả Lời Chúa, cho dù dân chúng đón nhận hay không (1Cr 9,15-16)). Các tiên tri phải nói sự thật (2Cr 11,10 ; 13,8) và sự thật thì hay mất lòng. Vì thế, mệnh lệnh ông mang lại cho dân chúng và cách riêng cho giới cầm quyền, nhiều khi bị đả kích chống đối và nhà tiên tri phải chết vì sứ mạng.

Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay nói với chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa không phải lúc nào cũng nói những lời dễ nghe, làm vừa lòng người ta. Chính vì tính chất khó nghe ấy mà tiên tri phải chết:”Giêrusalem ! Ngươi giết các tiên tri và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi”(Mt 23,37). 

Truyện : Án Tử cương trực.

Thôi Trữ quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.

Thôi Trữ bảo Án Tử :

– Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức.

Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Aùn Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng :

– Lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng . Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm C, tr 51).

II. ĐỨC GIÊSU, VỊ TIÊN TRI TUYỆT VỜI.

  1. Giảng dạy tại hội đường Nazareth.

Bài Tin mừng hôm nay cũng giống như Tin mừng của thánh Marcô,( Chúa nhật 14 B). Thánh Luca kể chung vào làm một hai lần Đức Giêsu trở về Nazareth. Có lẽ cả hai lần, người đồng hương của Ngài đối xử với Ngài cùng một cách, nên thánh Luca kể chung vào một.

Ngày sabat, Đức Giêsu vào hội đường cầu nguyện với bà con đồng hương và chú giải đoạn Sách Thánh vừa mới đọc, tức là đoạn sách của tiên tri Isaia nói về Đấng Cứu thế:”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…”. Mọi người chăm chú nghe Ngài giảng vì danh tiếng Ngài đã vang rộng. Ngài nói đơn sơ, hùng hồn, hấp dẫn, khôn ngoan và sâu sắc, khiến tất cả ai nghe đều thán phục. Họ ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài:”Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”.

  1. Người đồng hương thay đổi thái độ.

Người đồng hương hài lòng với “sứ điệp” của Đức Giêsu, nhưng người ta không muốn nhận sứ điệp ấy từ Ngài. Vì sao ? Vì Ngài là con ông Giuse ! Họ thấy trước đây Ngài làm nghề thợ mộc như ai, cha mẹ bình thường như họ, vì thế họ đâm ra hoài nghi và đòi Ngài làm phép lạ như đã làm ở Capharnaum. Ngài thấy họ không có lòng tin nên không làm cho họ phép lạ nào.

Thế là từ sự thán phục, thình lình đổi sang ghen tức. Họ ghen tức và trách Ngài tại sao không làm phép lạ nào nơi quê hương mà lại làm ở Capharnaum chỉ cách đó có 30 km ! Nhưng Đức Giêsu đã “đi guốc trong bụng họ”, Ngài biết họ đang nghĩ gì, nên Ngài nói đón đầu ngay:”Có lẽ các ông muốn mượn câu ngạn ngữ :”Hỡi thầy thuốc hãy chữa lấy mình” và các ông đòi tôi làm những việc hiển hách ở quê hương trước các nơi khác. Nhưng tôi bảo cho các ông biết:”Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”. Ngài đem câu ngạn ngữ đó ra để chứng minh cho thái độ của Ngài. Vì trước đây tiên tri Êlia được sai đến cùng bà góa ở Sarepta làm cho hũ bột của bà không vơi đi, bình dầu không bao giờ cạn. Và tiên tri Êâlisê được sai đến cùng ông Naaman, người Syria, khiến ông được khỏi bệnh cùi.  Còn người Nazareth cứng lòng thì Ngài không làm phép lạ. Vả lại, Ngài cũng cho họ thấy họ có thể bị loại để nhường chỗ cho dân ngoại, là những dân có thiện chí và ngay thẳng hơn họ.

Họ đã hiểu hai ví dụ trên ám chỉ về họ, nên họ nổi giận, lòng đầy căm phẫn trục xuất Ngài ra khỏi thành, và còn định dẫn Ngài lên triền núi và xô Ngài xuống vực cho chết quách đi. Đây là sự tiên báo số phận sau cùng của Đức Giêsu . Ngài bị giết bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv 7,57).

III. THỰC HÀNH SỨ MẠNG TIÊN TRI.

  1. Chúng ta cũng làm tiên tri.

Nhà thần học Karl Rahner của thế kỷ 20 viết:”… Chính bản thân Giáo hội là sự hiện diện vĩnh cửu của Lời tiên tri, Đức Giêsu Kitô”. Bởi thế Giáo hội phải tiếp tục nhiệm vụ tiên tri, nói lên tiếng nói của Thiên Chúa. Điều này luôn luôn là một thách đố lớn trong mọi thời đại, cho từng người Kitô hữu.  Giáo hội thật khôn ngoan khi sắp xếp bài đọc của thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại muốn dạy chúng ta về đức “Aùi”, dạy chúng ta đừng cay đắng cáu kỉnh khi người khác không đồng ý với niềm tin của mình. Ngược lại, Giáo hội dạy chúng ta tiếp tục can đảm làm nhân chứng, làm tiên tri qua lời nói và việc làm.

Người tín hữu chúng ta hôm nay cũng được kêu mời sống, làm tiên tri cho Đức Giêsu, trở thành một dung mạo của Ngài. Chúng ta hãy nhớ cho chỉ có Chúa mới ban dức tin cho chúng ta, đây là một ơn nhưng không. Chính Ngài đã có kế hoạch riêng cho từng người, còn kết quả thành hay bại là do từng người chúng ta quyết định. Biết bao lần ta được nghe Ngài, hay Giáo hội của Ngài nhắc nhở, thế nhưng chúng ta vẫn sợ thiên hạ hơn sợ các giáo huấn của Ngài. Đến nỗi nhiều người không dám làm một việc tuyên xưng đức tin dù đơn giản như không dám làm dấu thánh giá trước mặt người ta…

  1. Những việc cần tránh. 

a) Tránh thành kiến.

Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi :”Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cũng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.

Đứng trước thái độ khinh khi đó, Đức Giêsu đã cho người Nazareth thấy rằng tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình. Xét về mặt tâm lý, điều này thật chính xác. Bởi sự thường cho dù một người có tài năng, giúp ích và phục vụ rất hiệu quả cho nhiều người, nhiều nơi, nhưng khi trở về gia đình, trở về nơi sinh trưởng của mình thì lại bị những người bà con xóm giềng chỉ xem ở “mức độ thường thường”, do ảnh hưởng điều mà chúng ta vẫn thường gọi:”Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Đức Giêsu không nằm ngoài sự thường này.

Truyện : Sư huynh hỗn xược.

Ở Canada, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh”(Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.

Một hôm trường Đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ : Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ Viện trưởng, các Giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.

Đức thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường Đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 Giáo sư và sinh viên.

Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứùng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ.

Cả trường Đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức phấn khởi như lần này chưa ? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế ?

… Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh … thứ giả ! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh… để thực tập một phen !

Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh”  chưa từng thấy này.

Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mãnh liệt đến chừng nào.

                   (Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).

b) Tránh thói vị kỷ. 

Phần đầu bài giảng bữa trước đã được những người đồng hương nhiệt liệt khen ngợi:”Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”. Nhưng trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu áp dụng bài giảng của Ngài để chứng tỏ cho người Do thái thấy rằng chương trình cứu độ của Thiên Chúa cũng bao gồm cả những dân ngoại. Để chứng minh, Ngài đã dùng câu chuyện của tiên tri Êlia đang bị đói và người đàn bà góa đã giúp ông lại là một người dân xứ Siđon. Thời tiên tri Êâlisê, những người cùi Do thái đã không được chữa lành mà là một người cùi dân ngoại, ông Naaman, xứ Syria. Điều này làm cho họ giận dữ.

Đức Giêsu không muốn cho dân đồng hương của Ngài có đặc quyền hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa mà Ngài muốn cho mọi người, kể cả dân ngoại cũng được hưởng. Ngài dạy họ hãy tránh thái độ ích kỷ, phải biết mở rộng lòng ra đối với mọi người. Thiên Chúa là Chúa của mọi người chứ không của một riêng ai hay của một dân tộc nào.

Truyện : Thái độ ích kỷ

Xưa kia có một bà nông dân dữ tợn. Khi bà chết chẳng để lại một việc lành phúc đức nào, do đó ma quỉ chờ lệnh của Thiên Chúa đưa bà xuống hỏa ngục để dìm vào trong hồ lửa. Nhưng thiên thần bản mệnh vẫn đứng bên cạnh bà, cố gắng suy nghĩ, may ra tìm được một việc lành nào do bà đã làm  để bầu cử cho bà trước tòa Thiên Chúa. Sau cùng, thiên thần nhớ ra một điều : nó không lớn lắm, nhưng là điều thiên thần  có thể đưa ra biện minh trước Thiên Chúa. Thiên thần nói với Thiên Chúa :

– Xưa kia, bà đã nhổ một cọng hành trong vườn của bà và đem cho một người ăn xin nghèo khó.

Thiên Chúa trả lời :

– Được lắm. Hãy lấy cọng hành, để bà bám chặt vào nó, rồi kéo bà lên thiên đàng. Nếu thiên thần kéo bà lên được, hãy cho bà vào thiên đàng. Còn nếu cọng hành bị đứt, bà ấy sẽ ở dưới hỏa ngục muôn đời.

Thiên thần đưa cho bà cọng hành :

– Nào, mau lên ! Hãy nắm chặt lấy nó để ta kéo ngươi lên thiên đàng.

Và thiên thần kéo rất cẩn thận. Vừa kéo bà lên được một chút, những người tội lỗi khác nhìn thấy bèn cố gắng giành nhau bám vào chân của bà để họ cũng sẽ được cứu thoát. Nhưng người đàn bà đã vùng vẫy dữ dội, đá họ văng ra, đồng thời la hét rằng :

– Ta đã được cứu chứ không phải các ngươi. Đây là cọng hành của ta, không phải của các ngươi.

Ngay khi bà vùng vẫy la hét như vậy, cọng hành đã bị đứt, và bà bị rơi xuống hồ lửa.Vị thiên thần bản mạnh chỉ thương tiếc cho thân phận của bà rồi quay bước ra đi mà thôi.

       (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 74)

  1. Những việc cần làm.

Hãy nhớ lại lời Chúa:”Không tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”. Số phận của tiên tri là thế đó. Làm tiên tri không phải là chuyện dễ. Phức tạp lắm ! Một đàng phải nói lời Chúa một cách trung thực, một đàng lời Chúa không mấy êm tai dễ nghe vì vạch những cái xấu của họ ra. Nhưng đã là tiên tri thì phải nói lời Chúa và đồng thời cũng phải nhận những đau khổ màø người nghe dành cho kẻ làm tiên tri.

Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta trước. Ngài từng bảo các môn đệ:”Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước … Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con”(Ga 15,18-20). Bất cứ ai sống đúng là Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên chân thực thế nào.

Làm tiên tri nhiều khi phải lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào, sống theo dư luận hay theo chủ trương của một số người nào, mà phải sống theo chân lý, sống theo lời Chúa qua Sách Thánh hay qua lời giáo huấn của Giáo hội. Chính cách sống như thế làm cho người làm tiên tri cảm thấy lẻ loi, lạc lõng và đau khổ giữa những người khác. Có những người không dám tuyên xưng đức tin như không dám làm dấu thánh giá trong quán cơm, trong sở làm. Có người không dám khước từ để không đến những nơi gặp dịp tội như sòng bài, quán rượu, quán karaokê… Có người không dám giữ mình trong tiệc vui giữa những bạn đang “quậy” tứ tung…

Người làm tiên tri cũng đừng đòi Chúa làm phép lạ khi gặp sự khó khăn. Chúng ta muốn có một Thiên Chúa tỏ mình ra thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn đề của chúng ta thay cho chúng ta. Vả lại, Thiên Chúa không thích vai trò mà chúng ta ép Ngài làm. Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly kỳ… Khi Ngài chữa lành một người mù không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc mà để ám chỉ cho chúng ta biết rằng Ngài muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả chúng ta. Khi chữa lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Ngài muốn chữa lành mọi người chúng ta khỏi bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội lỗi chúng ta. Điều đó được nói rõ ràng trong Tin mừng (Lc 5,17-26).

Chúng ta là Kitô hữu được kêu gọi làm tiên tri của Chúa Cha cho thời đại chúng ta, cũng như Đức Giêsu từng là tiên tri của Chúa Cha cho thời đại của Ngài. Đây chính là sứ vụ mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép rửa tội và thêm sức. Chúng ta hãy lặp lại lời thánh Phaolô:”Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao  giữa lòng thế giới tối tăm này”(Pl 2,15).

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu :

 “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước những gánh quá nặng đè lên chúng con.

Xin giúp chúng con là muối ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối này”(M. Link).

Về mục lục

.

THÁCH THỨC

Trầm Thiên Thu

Giả hình hợm hĩnh quân biệt phái

Xảo quyệt mưu mô lũ quỷ ma

Ác nhân luôn mưu mô những điều xấu xa, chỉ vì tư lợi chứ không vì công ích. Sự dã tâm là ác ý, có ý “chơi khăm” người nào đó, “bằng mặt mà không bằng lòng”, trước mặt nói ngọt sớt như mía lùi mà sau lưng bất ngờ đâm thọc. Loại người này được gọi là “khẩu phật, tâm xà”, miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm, ác như mãng xà độc hại, rất đáng quan ngại!

Kẻ dã tâm khôn ranh rất tinh vi, vị kỷ mà không vị tha, chỉ tìm cách thỏa mãn tư lợi, còn ai ra sao cũng mặc, như người ta thường nói: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Đó là dạng “nhiễm xạ” tinh thần – cũng nguy hiểm như nhiễm chất phóng xạ thật. Kiểu như nhóm biệt phái giả hình, xét nét người khác để bắt bẻ, đả phá chứ không xây dựng.

Thách Thức tương đương Thử Thách nếu đó là điều khó khăn, mức yêu cầu, sự trở ngại có thể khó nhận ra hoặc tiên liệu, những thứ đó thường vượt tầm khả năng giải quyết. Đó là cuộc trải nghiệm quý giá, là vốn sống, là ngọn lửa thử vàng của ý chí và tài thao lược. Để thấu hiểu và vượt qua thách thức, thậm chí biến thách thức thành cơ hội, điều cốt lõi là bản lĩnh cá nhân, nhưng tinh thần và trí tuệ của tập thể cũng hữu ích, có thể là lá chắn và thanh gươm giúp chúng ta chiến thắng hoặc thành công.

Thách Thức tương đương Thách Đố nếu đó là kiểu gây hấn, chống đối người khác. Kiểu này nguy hiểm vì “cái tôi” bắt đầu nổi dậy, đè bẹp sự khiêm nhường. Thường thì kẻ yếu thế lại muốn chứng tỏ mình mạnh, giống như kẻ kém võ lại thích khua múa, kẻ ít chữ lại hay nói văn chương, kẻ nghèo lại khoái phô trương,… Cứ tưởng Khôn mà hóa Khốn!

Kinh Thánh đã minh định: “Khôn ngoan đã được tác thành trước vạn vật, sự hiểu biết anh minh đã có tự muôn đời” (Hc 1:4). Ai cũng được Thiên Chúa ban cho sự khôn ngoan, với mức độ có thể khác nhau, nhưng sự khôn ngoan cũng vẫn cần được trau giồi, và quan trọng là cách sử dụng sự khôn ngoan sao cho hợp lý. Có Khôn rồi mà còn phải Khéo nữa.

Ý thức nghiêm túc, tác giả sách Huấn Ca đặt vấn đề: “Gốc rễ của khôn ngoan đã được mặc khải cho ai? Và những công trình kỳ diệu của khôn ngoan, ai nào biết rõ?” (Hc 1:6). Và sau đó liền có câu trả lời mạch lạc: “Sự viên mãn của khôn ngoan là KÍNH SỢ ĐỨC CHÚA. Khôn ngoan lấy hoa trái của mình làm cho họ say sưa, lấy bảo vật của mình chất đầy nhà cửa họ, đem sản phẩm của mình đổ đầy kho lẫm” (Hc 1:16-17). Kinh Thánh cũng đã xác định nguồn gốc của sự khôn ngoan: “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời” (Hc 1:1).

Một danh nhân nào đó xác định: “Người khôn ngoan là người thấy cái gì cũng mới lạ”. Thấy mới lạ không là để tò mò, mà để khám phá và tìm hiểu thấu đáo. Đó là con người trong cuộc sống đời thường. Còn về tâm linh, người khôn ngoan là người biết kính sợ Thiên Chúa: “Lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan, mang lại bình an và sức khoẻ dồi dào. Đức Chúa đã thấy và đã đếm khôn ngoan, Người đổ mưa am tường và hiểu biết của trí tuệ, nâng cao vinh dự của những kẻ gắn bó với khôn ngoan” (Hc 1:18-19). Sự khôn ngoan rất cần trong đời sống, nhưng còn càng cần hơn trong đời sống Kitô hữu.

Tuy nhiên, điều quan trọng là người khôn ngoan không cậy nhờ phàm nhân, mà chỉ cậy nhờ vào Chúa. Họ tâm niệm và chân thành thân thưa: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ” (Tv 71:1). Chắc chắn họ sẽ không phải hổ ngươi, vì được Chúa soi sáng và hướng dẫn. Ngay trong những khi gặp thử thách, họ vẫn trọn niềm tín nguyện: “Vì Ngài công chính, xin cứu vớt và giải thoát con, ghé tai nghe và thương cứu độ. Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con, núi đá và thành trì bảo vệ con, chính là Ngài” (Tv 71:2-3). Đúng như Thánh Phaolô xác định: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39).

Phàm nhân luôn bị tác động bởi thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,dục). Đôi khi cầu nguyện mà có vẻ như không thấy “động tĩnh” gì, thế nhưng họ vẫn tin tưởng và khôn ngoan, vẫn vững tâm kiên trì: “Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ, khỏi móng vuốt phường nham hiểm và bọn dã man. Vì lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân” (Tv 71:4-5). Và họ xác tín từ những điều xem chừng rất tự nhiên: “Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài, Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ, con ca tụng Ngài chẳng khi ngơi” (Tv 71:6). Đó là niềm tín thác đích thực, chắc chắn Chúa vui lòng và sẽ không ngơ mãi, không nỡ để họ phải thất vọng.

Tin là chấp nhận hoặc từ chối. Làn ranh rất mong manh. Một niềm giữ vững đức tin, họ hiên ngang vui mừng thể hiện niềm tin đó: “Miệng con công bố Ngài chính trực, suốt ngày tường thuật ơn cứu độ Ngài ban, ơn của Ngài, nhiều khôn xiết kể! Con thuật lại bao chiến công của Chúa, nhắc nhở rằng: chỉ mình Ngài chính trực công minh. Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa, con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này, con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài” (Tv 71:15-17). Người biết tín thác vào Chúa thì đúng là người khôn ngoan thực sự.

Hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc, chúng ta có được gì cũng đều là hồng ân Chúa ban. Quả thật, nếu xét cho cùng, ngay những gì chúng ta đang sở hữu cũng không hoàn toàn thuộc quyền mình, vì chúng ta có thể mất chúng bất kỳ lúc nào – kể cả sự sống. Thánh Phaolô nói: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả” (1 Cr 12:31). Con đường trổi vượt đó là con đường khôn ngoan luôn sáng rực ánh hồng ân huyền nhiệm.

Kinh Thánh đã xác định khôn ngoan là biết kính sợ Chúa, mà kính sợ Chúa thì phải biết yêu thương – tức là đức mến. Một hệ lụy lô-gích, tính liên đới kỳ diệu. Vừa như một cách định nghĩa và vừa là cách giải thích, Thánh Phaolô nói về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13:4-7). Nghe có vẻ dài dòng, nhưng rõ ràng đến từng chi tiết. Đây là chương nói về đức mến rất tuyệt vời trong các thư của Thánh Phaolô. Quả thật, đức mến không đơn giản như chúng ta tưởng.

Như chúng ta đã biết, đức mến là một trong ba nhân đức đối thần (Tin, Cậy, Mến), cả ba đều quan trọng, nhưng đức mến quan trọng nhất, vì “đức mến không bao giờ mất được” (1 Cr 13:8a). Thật vậy ư? Chắc chắn đúng như vậy: “Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn” (1 Cr 13:8b-9). Lạ thật! Cái gì cũng hữu hạn, nhưng lòng yêu thương lại vô hạn. Ác nhân không hề có lòng yêu thương, thế nên họ ích kỷ và luôn tìm cách ghen ghét, mưu hại người khác, tìm cách thách thức bất cứ ai.

Đề cập tầm quan trọng của đức mến, Thánh Phaolô lý giải: “Khi cái hoàn hảo tới thì cái có ngần, có hạn sẽ biến đi. Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con” (1 Cr 13:10-11). Cách so sánh rất cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu.

Thánh Phaolô nói cả ba nhân đức đối thần quan trọng, nhưng không phải vì vậy mà coi nhẹ các đức đối nhân – nghĩa là chúng cũng không kém phần quan trọng. Không ai tin cậy và yêu mến Thiên Chúa lại là người mưu mô, xảo quyệt, ác độc, nham hiểm, không biết thương xót đồng loại. Chỉ có loài quỷ đội lốt người mới như vậy.

Sống yêu thương là thể hiện đức tin, mà đức tin thì trừu tượng, nếu không khéo sẽ hóa thành ảo tưởng. Thánh Phaolô cho biết: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1 Cr 13:12). Và ngài tái xác định tầm quan trọng của đức mến: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13:13).

Thách thức liên quan kiêu căng. Trình thuật Lc 4:21-30 đề cập sự thách thức của người Do Thái đối với Chúa Giêsu. Một lần tại Hội đường, khi mở Sách Thánh gặp câu nói về Thần Khí, Chúa Giêsu nói với cử tọa: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Nghe vậy, mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ môi miệng Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu đúng là một “nhân vật đặc biệt nhất”, một “dị nhân” chính hiệu, khiến ai cũng phải tâm phục và khẩu phục. Thế nhưng vẫn có những kẻ ác ý xấu xa muốn hại Ngài. Bản chất khó dời!

Chúa Giêsu biết bụng dạ xấu xa của họ nên Ngài nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!”. Người ta có dã tâm không phải vì Chúa Giêsu làm gì sai trái, mà vì tính đố kỵ, thói ghen ghét, không muốn người khác hơn mình, sợ mình lép vế, quen thách thức và ưa thọc gậy bánh xe. Nhưng Ngài vẫn thản nhiên nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Thế kỷ XXI rồi mà câu nói này vẫn đúng, bởi vì người ta khó có thể chấp nhận tài năng của những người cùng quê hương với mình!

Họ im lặng, không đối đáp được câu nào. Đuối lý, cụt hứng, hết cãi. Mà còn nói gì được nữa chứ? Chúa Giêsu liền nói thẳng một hơi: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi”. Quá rõ, thật thấm thía và đau điếng, trúng tim đen quá mà! Chẳng ai dám lý luận chi nữa!

Quái gở! Lũ ác nhân lật mặt như trở bàn tay, mới khen nức lòng mà lại chống đối ngay, bằng chứng là lời kể của Thánh Luca: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực” (Lc 4:28-29). Đúng là quá đểu – đểu thật chứ không đểu giả!

Tuy nhiên, chính những con người đểu cáng đó, dã tâm và nham hiểm, cũng chẳng làm gì được người ngay lành, chính trực. Thật vậy, Chúa Giêsu thấy họ phẫn nộ mà Ngài vẫn thản nhiên “băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4:30). Chắc hẳn lúc đó lũ “quỷ sống” ấy muốn lộn ruột gan và phát điên lên được. Ngày nay, những người mưu mô nham hiểm với người khác cũng vậy thôi. Loại ác nhân như vậy ở đâu cũng có, chẳng trừ nơi nào, y như ma quỷ có mặt mọi nơi để rình rập người tốt vậy. Chúng ẩn náu và hóa trang rất tinh vi bằng các loại trang phục nhân nghĩa hào nhoáng rất bắt mắt: “Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11:14).

Có nhiều mối phúc, một trong các mối phúc đó liên quan cách sống khôn ngoan và hướng thiện: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:1-2).

Lạy Thiên Chúa nhân lành chính trực, xin giúp con biết ghê tởm chính mình, nhưng biết cảm thông và yêu thương mọi người, nhất là những người hèn mọn, vô danh tiểu tốt, cô thân cô thế. Xin hoán cải và biến đổi con theo Thánh Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI LÀM NGÔN SỨ CỦA CHÚA

Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng

Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta về ơn gọi của ngôn sứ (tiên tri). Bài đọc 1 trình bày cho chúng ta về ơn gọi của Ngôn sứ Giêrêmia. Ngôn sứ là người như thế nào? Trong bài đọc 1, ngôn sứ được trình bày như là người được Thiên Chúa biết trước khi được thành hình trong lòng mẹ, được thánh hiến trước khi lọt lòng mẹ, thắt lưng, đứng dậy và nói cho dân tất cả những điều Đức Chúa truyền, không run sợ, là thành trì kiên cố và cột sắt chống lại dân (nguyên nhân chomọi người chống đối), sẽ không bị thua trận vì có Đức Chúa ở cùng để giải thoát (x. Gr 1:5,17-19). Còn Thánh Vịnh đáp ca trình bày cho chúng ta ngôn sứ là người mở miệng là tường thuật ơn cứu độ Thiên Chúa ban.Một trong những định nghĩa của ngày hôm nay về ngôn sứ mà mỗi người chúng ta được mời gọi để trở nên là: “Ngôn sứ là người có đôi mắt luôn ngước nhìn lên Chúa, có đôi tai luôn lắng nghe lời Chúa, có đôi môi luôn nói lời của Chúa, có con tim tràn đầy tình yêu của Chúa, có khối óc chứa đựng sự khôn ngoan của Chúa, có đôi tay để phục vụ Chúa và anh chị em, có đôi chân để đồng hành với những ai cô đơn trong cuộc sống.”Tóm lại, ngôn sứ là người để cho Chúa chiếm lấy và sử dụng họ theo cách thức Ngài muốn, nhất là, để cho Chúa yêu và tha thứ người khác qua họ.

Đề tài về ơn gọi của ngôn sứ đạt tới sự viên mãn trong hình ảnh của Chúa Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta về Chúa Giêsu là vị ngôn sứ như Êlia và Êlisa. Theo Thánh Luca, khác với các ngôn sứ khác, Chúa Giêsu được sai đến không chỉ cho dân Do Thái, nhưng cho muôn dân. Phản ứng đầu tiên của dân chúng trước những lời giảng dạy của Ngài là:“Ai cũng tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra” (Lc 4:22). Tuy nhiên, ngay sau đó, thái độ của họ thay đổi và họ vấp phạm về Ngài khi nhận ranguồn gốc tầm thường của Ngài: “Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?”(Lc 4:22). Qua điều này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một chân lý mà ít người biết đến: Nhìn thấy sự vĩ đại trong cái vĩ đạilàbình thường, còn nhìn thấy cái vĩ đại trong những gìtầm thường là phi thường. Thật vậy, ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra sự vĩ đại trong những khám phá nổi tiếng của khoa học. Nhưng rất ít người nhận ra sự vĩ đại của tình yêu mà một người cha hay một người mẹ dành cho con cái trong những công việc thật bình thường mỗi ngày. Khi chúng ta không nhận ra được sự vĩ đại trong những gì là bình thường, chúng ta dễ dàng rơi vào thái độ loại trừ. Đây là điều mà người Do Thái rơi vào khi họ nhận thấy nguồn gốc tầm thường của Chúa Giêsu. Như là một ngôn sứ, Chúa Giêsu cũng phải chấp nhận định mệnh bị loại trừ và bị giết như các ngôn sứ khác. Thật vậy, có câu nói trong đời rằng: “Quen thuộc sinh ra coi thường”:Những người và những vật quáquen thuộcsẽ dễ dàng làm chúng ta “coi thường.”Hay nói cách khác, chúng ta khó khám phá ra cái mới mẻtrong những người hoặc những vậtquá quen thuộcvà như thế chúng ta dễ dàng để định kiến chi phối cách nhìn và lối cư xử của mình.

Để vượt qua thái độ định kiến, Thánh Luca trong Tin Mừng mời gọi chúng ta có cái nhìn cởi mở và không loại trừ. Điều này được Thánh Luca trình bày qua việc chỉralối nhìn thiển cận của người Do Thái, đó là họ cho rằng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho “một dân tộc được tuyển chọn.” Nhưng theo Thánh Luca, ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến là cho mọi người,cả nam lẫn nữ. Điều này được phản chiếu trong hình ảnh của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en;thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi” (Lc 4:25-27). Chúng ta thấy hai ngôn sứ Êlia và Êlisa được sai đến với những người ngoài “dân được tuyển chọn.” Đây là điều sẽ tìm thấy trong sứ vụ của Chúa Giêsu như một vị ngôn sứ trong Tin Mừng của Thánh Luca.

Hai câu cuối cùng của Tin Mừng hôm nay chỉ ra phản ứng tiêu cực của những người nghe sự thật về chính họ:“Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành–thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4:28-30). Thái độ này hoàn toàn trái ngược với thái độ ngưỡng mộ và là hệ quả của thái độ coi thường trước đó mà họ có về Chúa Giêsu. Họ phẫn nộ vì Chúa Giêsu nói rằng: Ơn cứu độ dành cho họ cũng được chia sẻ cho những dân tộc khác. Họ phẫn nộ vì sự quảng đại và tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Đúng hơn, họ phẫn nộ vì họ ghen tỵ vì Thiên Chúa “đối xử tốt với những người khác như Ngài đã từng đối xử độ lượng với họ.” Tuy nhiên, sự phẫn nộ vì ghen ghét của họ không ngăn bước chân của Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện kế hoạch cứu độ muôn người của Chúa Cha: Không có hành trình nào cao đẹp bằng hành trình của người ngôn sứ đi theo con đường Thiên Chúa vạch ra dù bị chống đối và loại trừ.

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 trình bày cho chúng ta cách chi tiết hơn về con đường cao đẹp nhất của vị ngôn sứ. Đó không phải là con đường làm chính trị, kinh doanh hoặc thành công trong cuộc sống vật chất, nhưng là con đường đức ái, con đường yêu thương phục vụ. Con đường này là con đường “nằm trong” mọi con đường và làm cho mọi con đường khác trở nên đẹp. Thánh Phaolô còn đưa ra những đặc tính của đức ái mà vị ngôn sứ của Thiên Chúa phải sở hữu: “Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù,không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.Đức áitha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cor 13:4-7).

Khi sống đức ái đến mức thập toàn, chúng ta nhận ra rằng: Đối với Chúa, chúng ta làm việc gì [tổng thống, giám đốc hay người quét rác, rửa chén] không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta đặt bao nhiêu tình yêu [dành cho Chúa và dành cho người khác] trong công việc chúng ta làm. Thánh Phaolô nói rõ điều này khi ngài viết:“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cor 13:1-3). Chúng ta không là gì nếu chúng ta không có con tim tràn đầy tình yêu dành cho Chúa và cho người khác. Công việc của chúng ta không sinh hoa trái thánh thiện nếu chúng ta không làm vì lòng mến Chúa và tha nhân.

Thật vậy, chính đức ái sẽ theo chúng ta vào trong đời sống vĩnh cửu. Thánh Gioan Thánh Giá nói rằng: “Khi cuộc đời chúng ta ngả bóng về chiều, chúng ta sẽ bị xét xử trên tình yêu.” Chúng ta thấy, mọi thứ trong đời sẽ qua đi, mọi khát vọng của con người cũng sẽ qua đi, chỉ có khát vọng về tình yêu sẽ không bao giờ được thoả mãn: “Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn.Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi…. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cor 13:8-10,13). Hãy sống một đời sống thật yêu thương cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Đừng lãng phí cuộc đời trong hận thù, ghen ghét và không tha thứ!

Về mục lục

.

ĐÁNH MẤT HỒNG ÂN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Dịp Tết hằng năm, có nhiều bà con Việt Kiều về thăm thân nhân và ăn Tết ở quê nhà.

Sau những tháng ngày rao giảng Tin Mừng đó đây, hôm nay Chúa Giêsu trở về thăm làng quê Nagiarét. Ngày Sabbat, Chúa vào Hội đường tham dự giờ cầu nguyện và nghe giảng giải Thánh Kinh. Hội đường Do thái không phải là nơi thờ phượng, nhưng là nơi người do thái tập hợp hàng tuần vào các ngày Sabat để nghe đọc Sách Thánh và diễn giải Lời Chúa. Người Do thái chỉ có một nơi duy nhất dành để thờ phượng Thiên Chúa, để dâng lên Người Lễ Toàn Thiêu và lễ Tạ Tội, đó là đền thờ Giêrusalem. Các Hội đường ở các thành phố và làng mạc trong cả nước còn được sử dụng để dạy và đào tạo tàng lớp thanh thiếu niên về Kinh thánh. Trong thời tuổi trẻ, Đức Giêsu từng là một trong các thanh thiếu niên có mặt thưởng xuyên trong các giờ giáo lý Kinh thánh, và còn hơn thế nữa, là một học trò ưu tú bậc nhất và quen thuộc của ông Trưởng Hội đường tại quê nhà Nadarét .

Vì thế, khi Đức Giêsu trở lại Nadarét và đi vào Hội đường vào Ngày Thứ Bảy, ông Trưởng Hội đường tất nhiên đã nhận ra ngay cậu học trò ưu tú năm xưa của mình và đã đưa Sách Thánh cho Ngài đọc. Đây là hành động đầy kính trọng mà các vị Trưởng Hội đường thường dành cho các vị khách quý đặc biệt của họ. Đức Giêsu đọc sách Ngôn sứ Isaia và bắt đầu giảng giải Kinh Thánh.

Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì ?”.

Những người đồng hương ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và những phép lạ Ngài làm ở những nơi khác. Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc của Ngài, chỉ là một người thợ mộc, bà con với những dân làng bình thường, họ không tin. Dân làng Nadaret và cả họ hàng Chúa Giêsu không tin Chúa, đó là điều cả bốn sách Tin Mừng cho biết. Riêng Luca cho thấy họ đi tới chỗ muốn giết Chúa bằng cách xô xuống vực. Nhưng Chúa băng qua giữa họ mà đi, tiếp tục rao giảng cho những làng mạc khác.

Dân chúng xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ nên họ muốn giết Đức Giêsu.

Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu ? Họ xì xầm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Để cảnh tỉnh họ, Đức Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Êlia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Itraen phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Êlia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ítraen thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xarépta, miền Xiđôn. Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Êlisa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Itraen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Naaman ngoại giáo, người nước Syri.Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Đức Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành, kéo lên tận đỉnh núi, để xô xuống vực cho nát thịt tan xương.Lòng đố kỵ ganh ghét thật khủng khiếp! Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói : Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi. Sự kiện này là khởi điểm những thử thách gian nan và cái chết đang chờ đợi Đức Giêsu trong những tháng ngày sắp tới.

Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nadarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng ân vô giá.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta… Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (Đức TGM Ngô Quang Kiệt).

Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Tôi đã suy nghĩ và tự phản tỉnh nhiều về những điều này khi cầu nguyện. Tôi nhận thấy mình được mời gọi và chắc chắn mọi người cũng được mời gọi phải nhận ra những gì là ghen ghét, đố kỵ trong tâm hồn hình, vì chúng luôn dẫn tới đau khổ và chết chóc, không làm cho người ta vui mừng, hạnh phúc được. Người có lòng ghen ghét, đố kỵ luôn nghĩ rằng những điều tốt lành mà người khác có chống lại họ. Và đó là khởi đầu của bao nhiêu tội lỗi, gian ác khác. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ mở con tim mình ra cho những ghen ghét, đố kỵ đi vào, vì chúng chỉ dẫn tới đau khổ và chết chóc mà thôi”. (Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại nguyện đường thánh Marta, sáng thứ năm, ngày 21.01.2016, lễ kính thánh Anê, trinh nữ tử đạo. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã giảng về sự ghen ghét và đố kỵ. Người ta có thể dùng lời nói mà giết hại lẫn nhau. Nhưng Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những tội lỗi xấu xa này).

Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi người ta biết tôn trọng, cảm thông, tha thứ và nâng đỡ nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái bao dung. Cuộc sống thật đẹp khi người ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau.

Xin Chúa cho chúng con có một trái tim luôn rộng mở để yêu thương mọi người. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 4 TN_C

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Chúa Nhật IV Thường Niên Năm C này mời gọi chúng ta suy gẫm sứ mạng gian khổ mà các ngôn sứ đã kinh qua. Các ngài đã công bố những ý định của Thiên Chúa ngược lại với kỳ vọng của mọi người. Vì thế, để chu toàn sứ mạng của mình giữa những chống đối, các ngài phải cậy dựa vào Thiên Chúa.

Gr 1: 4-5, 17-19

Vốn bản tính là một người hiền lành, nhút nhát có một tâm hồn nhạy cảm, không muốn làm phiền lòng ai, ấy vậy tư tế Giê-rê-mi-a được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ của Ngài để loan báo án phạt sắp đến của Thiên Chúa cho một dân bất tín, vì thế ông bị mọi người căm ghét và tìm cách hãm hại.

1Cr 12: 31-13: 13

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng một bài thánh thi nổi tiếng ca ngợi đức mến cao trọng trên tất cả.

Lc 4: 21-30

Tin Mừng tiếp tục thuật lại phần thứ hai của câu chuyện Đức Giê-su về thăm Na-da-rét, ở đó Ngài gặp phải thái độ tiêu cực từ phía những đồng hương của Ngài, họ không hiểu và tìm cách hãm hại Ngài.

BÀI ĐỌC I (Gr 1: 4-5, 17-19)

Trong lịch sử của trào lưu ngôn sứ, ngôn sứ Giê-rê-mi-a chiếm lấy một chỗ đặc thù. Tác phẩm của ông chứa đựng, hơn bất kỳ tác phẩm nào khác, những lời trần tình bộc lộ cách tự nhiên đời sống nội tâm sâu xa của vị ngôn sứ. Trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, những lời phàn nàn của ông Gióp là tưởng tượng. Trái lại, trong cuộc đối thoại thường hằng với Thiên Chúa, những lời phàn nàn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a phản ảnh đúng những gì vị ngôn sứ đã thực sự kinh qua. Vốn là một con người hiền lành, nhút nhát có tâm hồn nhạy cảm, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lãnh nhận một sứ mạng hết sức khó khăn. Ngay đầu tác phẩm của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a thuật lại ơn gọi ngôn sứ của ông “từ năm thứ mười ba triều vua Giô-si-gia-hu”, tức là năm 626 t.CN. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a xuất thân từ một gia đình tư tế ở A-na-thốt, nơi có một thánh địa thời xưa, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 5 cây số.

  1. Thiên Chúa gọi tư tế Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ của Ngài

Thiên Chúa trực tiếp kêu gọi tư tế Giê-rê-mi-a khi Ngài xưng mình ở ngôi thứ nhất: “Ta”. Đây là biểu thức quen thuộc của các sấm ngôn, biểu thức này bày tỏ mối quan hệ mật thiết đặc biệt giữa Thiên Chúa và vị ngôn sứ của Ngài. Người ta cũng có thể nghĩ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa vang lên trong lòng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a.

Sáng kiến của Thiên Chúa là ưu tiên hàng đầu và vô điều kiện. Thiên Chúa chọn những ai phục vụ những ý định của Ngài đều là như thế. Đức Giê-su gọi các môn đệ của Ngài cũng theo cùng một cách như vậy: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15: 16).

Thiên Chúa đã gọi ngôn sứ Giê-rê-mi-a ngay từ trong lòng mẹ (1: 5). Trong Kinh Thánh cho đến lúc đó, kiểu nói này chỉ được dành cho ông Sam-son (Tl 13: 5). Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị sẽ lấy lại và áp dụng cho “người tôi trung” mầu nhiệm: “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi” (Is 49: 1).

Thánh Phao-lô cũng sẽ định nghĩa ơn gọi của ngài như vậy: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong bụng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người”(Gl 1: 15). Thánh Lu-ca cũng sẽ nói về Gioan Tẩy Giả (Lc 1: 15) cũng như về Chúa Giê-su như vậy trong câu chuyện Truyền Tin.
Kiểu nói: “Ta đã biết ngươi” nói lên một sự hiểu biết chan chứa yêu thương, theo sắc thái ẩn chứa trong động từ Híp-ri, nghĩa là Thiên Chúa dành sự ưu ái của Ngài cho người mà Ngài chọn. Kiểu nói: “Ta đã thánh hóa ngươi” hàm chứa một sự tấn phong về phương diện thiêng liêng theo cùng một cách thức như các ngôn sứ khác.

Khi nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn quá trẻ: “Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!”. Chúng ta không biết tuổi đời của ông vào lúc đó, có thể khoảng chừng hai mươi tuổi. Ông tự coi mình còn trẻ người non dạ trước một sứ mạng cao trọng này.

  1. Sứ mạng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a

Chính người thanh niên còn trẻ người non dạ này mà Thiên Chúa truyền lệnh:“Hãy chỗi dậy! hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (1:17).

Sứ mạng của Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là kêu gọi toàn dân hoán cải và loan báo án phạt sắp tới, theo đó Thiên Chúa sẽ hủy diệt vương quốc, tàn phá Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ. Với tâm hồn nhạy cảm, ông sẽ khóc than về nỗi bất hạnh giáng xuống trên dân tộc của ông, nhưng với tư cách là ngôn sứ, ông sẽ kiên vững trong sứ điệp của mình cách sáng suốt đến kinh ngạc và nuôi dưỡng niềm hy vọng không lay chuyển của mình vào một “Giao Ước Mới”.

  1. Ơn phù trợ của Thiên Chúa

Vì loan báo những tai họa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị bách hại, bị chế nhạo. Ông sẽ cho thấy lòng can đảm khôn sánh trong những gian nan thử thách. Đức Chúa hứa với ông: “Này, hôm nay, chính ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ” (1: 18).

Trong các ngôn sứ, ngôn sứ Giê-rê-mi-a có vận mệnh gần giống với vận mệnh của Chúa Ki-tô.

BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 31: 13: 13)

Đoạn trích thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng một bản văn nổi tiếng được gọi là “bài ca đức mến”. Bài ca đức mến này hấp dẫn chúng ta vì nhiệp điệu của nó, những từ chính yếu được láy đi láy lại của nó, câu kết luận của nó gây ấn tượng trên chúng ta: “Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba điều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (13: 13).

  1. Chủ nghĩa cá nhân

Thánh Phao-lô vừa gợi lên sự giàu có của những ân huệ mà Thánh Thần ban cách quảng đại cho cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô. Tuy nhiên, những ân ban này gây nên những xáo trộn, những ghen tuông. Thánh Phao-lô đã nhận thức rất rõ một trong những khuyết điểm cốt yếu của các tín hữu này là “chủ nghĩa cá nhân”. Vì thế, thánh nhân thường hằng cầu xin cho họ ý thức rằng họ là một phần của thân thể duy nhất, thân thể của Đức Ki-tô.

Phương thuốc thật sự chữa trị chủ nghĩa cá nhân là yêu thương tha nhân và yêu mến Thiên Chúa. Đây là một ân huệ vượt trên mọi ân huệ. Mọi người trong cộng đoàn muốn được ơn nói tiên tri, được ơn nói tiếng lạ, được biết mọi điều bí nhiệm, thánh Phao-lô đáp lại: “Giả như tôi có được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết mọi điều bí nhiệm , mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì” (13: 1-2).

Thánh Phao-lô không nghi ngờ đức tin của các tín hữu Cô-rin-tô, thậm chí “chuyển núi dời non”; thánh nhân không nghi ngờ đức mến của họ, thậm chí đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí; thánh nhân không nghi ngờ đức cậy của họ, thậm chí sẵn sàng chết vì đức tin của mình. Điều quan trọng mà thánh nhân muốn nhắn gởi đến họ chính là nếu họ “không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì” (13: 3).

  1. Cao trọng hơn cả là đức mến

Nếu phần bút chiến chiếm một chỗ lớn trong lời khuyên bảo cháy bỏng của thánh Phao-lô, nó không là tất cả. Những phẩm chất của “đức mến” mà thánh nhân kể ra không dứt và cuối cùng thánh nhân quả quyết: “Đức mến không bao giờ mất được”. Viễn cảnh đều hướng đến yêu thương người thân cận, nhưng mến Chúa cũng được hàm chứa ở đây. Trong tất cả các thư của mình, thánh Phao-lô không ngừng lập đi lập lại đức mến đối với Thiên Chúa đang hoạt động trong chúng ta để sinh hoa kết trái, đó là những hoa trái của đức ái huynh đệ. Thánh Phao-lô chỉ cho thấy dù làm bất kỳ công việc nào, ngay cả hiến thân mình cho đến chết, mà không có đức mến thì chưa đủ. Chính đức tin gợi lên đức mến; chính đức cậy nâng đỡ đức mến. Tự bản chất, ba nhân đức này đều là thánh thiện, nhưng “cao trọng hơn cả là đức mến”.

TIN MỪNG (Lc 4: 21-30)

Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục suy gẫm câu chuyện Đức Giê-su về thăm những đồng hương Na-da-rét của Ngài theo thánh Lu-ca. Trong phần thứ nhất mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật trước, Đức Giê-su đã được mọi người đồng hương hoan hỷ chào đón và ngưỡng mộ, vì họ hãnh diện về danh tiếng của một người trong họ và thán phục về cách thức giải thích Kinh Thánh của Ngài. Trái lại, phần thứ hai mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hôm nay là một thất bại và gây nên làn sóng giận dữ từ phía những người đồng hương Na-da-rét. Câu chuyện này biểu tượng cho hai thái độ tương phản của dân Ít-ra-en: trước hết hoan hỉ tiếp đón Đức Giê-su, sau đó tìm cách loại bỏ và giết chết Người. Đồng thời, Đức Giê-su loan báo sứ mạng phổ quát của Người.

  1. Thái độ của người đồng hương Na-da-rét từ thiện cảm sang ác cảm (4: 22)

Từ thái độ thiện cảm: “Mọi người đều tán thưởng và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Đức Giê-su”, những người đồng hương Na-da-rét chuyển sang thái độ ác cảm với Ngài chỉ vì Ngài xuất thân từ một gia đình tầm thường: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?”. Gia thế tầm thường của Người đã che khuất tầm nhìn của họ khiến không thể nhận ra Đức Giê-su là Đấng được sai đến để thực hiện “lòng Chúa xót thương” trải rộng cho tất cả mọi người, nhất là những người bất hạnh, nghèo hèn, cùng khốn, bị áp bức trong xã hội, mà  ngôn sứ I-sai-a đã báo trước.

  1. Câu trả lời của Đức Giê-su (4: 23-27)

Đức Giê-su vạch trần những ý nghĩ thầm kín trong lòng họ khi trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình”. Câu tục ngữ này tiên báo thật hoàn hảo về những lời thách đố được lập lại đến ba lần ở dưới chân thập giá: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn”(23: 35, 37, 39).

Với niềm kiêu hãnh hẹp hòi và với cái nhìn nông cạn, họ cảm thấy bị chạm tự ái vì Đức Giê-su, người đồng hương của họ, đã không làm những điều kỳ diệu ở tại Na-da-rét như Ngài đã làm tại Ca-phác-na-um. Họ cho rằng mình có quyền chính đáng đòi hỏi Ngài thực hiện những phép lạ cốt để thỏa mãn tính tự phụ của họ, chứ không nhằm thay đổi lòng dạ của họ. Vì thế, Đức Giê-su trích dẫn câu tục ngữ thứ hai: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương của mình”. Qua câu tục ngữ thứ hai này, Đức Giê-su phác họa số phận chung của các ngôn sứ thời xưa, các ngài đã không được hiểu và bị bách hại bởi chính những người đồng hương của mình, tiêu biểu là số phận của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đồng thời tiên báo số phận của chính Ngài.

Cuối cùng, Đức Giê-su dẫn chứng hai mẫu chuyện về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sê được trích từ 1V 17 và 2V 5. Qua hai mẫu chuyện này, Đức Giê-su muốn ám chỉ đến sứ mạng phổ quát của Ngài. Ngài đến để thực hiện sấm ngôn Is 61: 1-2, nhưng không chỉ đóng khung cho những người đồng hương của Ngài: dân Na-da-rét hay toàn thể dân Ít-ra-en, mà còn mở rộng ra đến hết mọi dân mọi nước khác nữa. Việc Ngài chọn Ca-phác-na-um làm cứ điểm truyền giáo của mình theo cùng một ý nghĩa như vậy. Thành này, được gọi là “Ngã Tư của các dân tộc”, là nơi giao tiếp thường hằng của dân Do thái với những dân ngoại chung quanh. Chiều kích hoàn vũ của sứ điệp được phác họa rồi. Đó cũng là toàn bộ chương trình mà Giáo Hội, tiếp nối sứ mạng của Đức Giê-su, sẽ thực hiện như được miêu tả trong sách Công Vụ Tông Đồ, sách này cũng là công trình biên soạn của chính thánh Lu-ca. Chính vì sứ mạng này mà Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến để thực hiện bằng cả mạng sống mình và cũng vì sứ mạng này mà Giáo Hội hiện diện giữa nhân loại cho đến ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang.

  1. Tiên báo tương lai (4: 28-30)

Việc Đức Giêsu hủy bỏ đặc quyền đặc lợi của họ trong việc thi ân giáng phúc gây nên làn sóng giận dữ từ phía những người đồng hương Na-da-rét của Ngài. Sự phẫn nộ của họ: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ”, tiên báo sự phẫn nộ của những thành viên Thượng Hội Đồng sau này. Hành động dữ dội của họ: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành… kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”,  tiên báo cuộc Khổ Nạn của Ngài. “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”: tiên báo cuộc Phục Sinh tương lai của Ngài. Hiện thời, chưa tới giờ của các đối thủ, Đức Giê-su vẫn tiếp tục con đường của mình, con đường ấy rốt cuộc sẽ dẫn Ngài lên Giê-ru-sa-lem, ở đó Ngài sẽ bị dẫn ra ngoài thành thánh đến tận đỉnh đồi và bị đóng đinh tại đó.

Theo thánh Lu-ca, câu chuyện Đức Giê-su viếng thăm Na-da-rét mang tính ngôn sứ: câu chuyện này quy tụ mọi yếu tố tiên báo tiến trình sứ mạng của Đức Giê-su. Để hiểu một cách xác đáng những tương hợp lịch sử giữa cuộc viếng thăm Na-da-rét của Ngài và cuộc đời cứu độ của Ngài, chúng ta nên đọc liên tục: lòng nhiệt thành của đám đông dân chúng; đoạn thái độ từ chối của dân Ít-ra-en; sứ điệp được hứa cho lương dân; viễn cảnh Tử Nạn; và cuối cùng, sự tự do tối thượng của Đức Giê-su, Đấng làm chủ cuộc sống và cái chết của Người: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).

Câu chuyện này cũng tiên báo sứ mạng của Giáo Hội trong tương lai: việc loan báo về những đặc ân dành cho dân Ít-ra-en đã đến hồi kết thúc và thời kỳ Thiên Chúa đón nhận lương dân gây nên sự phẫn nộ từ phía người Do thái. Điều đó dự báo một chương trình như ở Cv 13, trong đó những người Do thái ở An-ti-ô-khi-a chuyển dần từ thiện cảm đối với thánh Phao-lô sang “phẫn nộ” khi họ thấy dân ngoại “nghe lời của Thiên Chúa” (Cv 13: 44-45). Nếu câu 24 đã tiềm ẩn những lời đe dọa đối với Chúa Giê-su thì câu 29 nói thẳng ra một mưu toan sát nhân đầu tiên. Việc dân thành Giê-ru-sa-lem loại trừ Đức Giê-su ra “khỏi thành” (x. Cv 3: 14-15), cũng như sau này đối với thánh Tê-pha-nô (Cv 7: 58), được loan báo theo cách đó. Ngay từ cảnh này, chúng ta biết rằng tước hiệu “ngôn sứ” dành cho Đức Giê-su hàm chứa sự loại bỏ và cuộc tử nạn.

Những người đồng hương Na-da-rét đã có sẵn hình tượng về Đấng Cứu Độ. Vì thế, khi không thể đòi hỏi Ngài hành động theo đúng ý muốn của họ, họ từ chối Ngài và thậm chí tìm cách hãm hại Ngài. Trong cuộc sống, chúng ta cũng thường hay cư xử với Lời Chúa theo cùng cách thức như thế. Chúng ta đọc và tìm cách uốn nắn lời Chúa sao cho phù hợp với sở thích, ước muốn của chúng ta, thay vì để cho lời Chúa thực sự chất vấn chúng ta. Chúng ta sử dụng Lời Chúa như phương tiện biện minh cho cách sống hiện nay của mình, thay vì để cho Lời Chúa thật sự là ngọn đèn soi đường dẫn lối cho chúng ta. Đó là lý do tại sao Lời Chúa không thể tác động vào cuộc sống của chúng ta, sinh hoa kết trái trong cuộc đời của chúng ta. Xin được mượn lời của tác giả thư gởi tín hữu Do thái về quyền năng của Lời Chúa để kết thúc buổi chi sẻ này: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4: 12-13).

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Gioakim Nguyễn Minh Yên

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ!

Ai trong chúng ta cũng có cha có mẹ sinh ra và ai trong chúng ta cũng đều có một mái ấm gia đình. Và gia đình chính là sợi giây linh thiêng mà mọi người ai cũng đều trân trọng.

Chúng ta đang ở vào những ngày cuối cùng của năm Âm lịch. Trong không khí nao nức chuẩn bị đón tết cổ truyền dân tộc, nhà nhà người người chạy đua cùng thời gian. Và ai nấy đều muốn dành thời gian cho gia đình của mình. Vì thế, dù bận rộn công việc như thế nào nhiều người đều vẫn thu xếp với mong muốn ở bên gia đình.

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ!

Hoàn cảnh của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay không phải như là chúng ta đang sống vào dịp tết. Nhưng nó rất phù hợp với những ai đang mang trong lòng nỗi buồn xa xứ. Sau khi Chúa Giêsu sai các tông đồ đi vào môi trường thực tế nhằm giúp các ông có được nhiều kinh nghiệm hơn cho công việc loan báo Tin Mừng sau này. Chúa Giêsu trở về quê hương thăm gia đình, nơi mà Ngài đã từng sinh trưởng với bao kỉ niệm thời thơ ấu. Nơi đây nhiều người mở rộng vòng tay đón nhận người con xa xứ nên họ mời Ngài vào hội đường để chia sẻ. Nhân cơ hội này Ngài trình bày cho họ về giáo lý của Ngài. Sau khi nghe những điều Ngài vừa trình bày “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” và họ tự đặt câu hỏi: “ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?” nghĩa là chính họ biết rõ xuất thân của Chúa Giêsu, nhưng họ không thể tin vào tai mình được. Lời Ngài như có ma lực cuốn hút họ, đưa họ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Nhưng cuối cùng lòng họ không tin. Chúng ta thử nghĩ đặt mình trong hoàn cảnh của Chúa Giêsu khi chúng ta rời quê hương đi học rồi ra trường thành đạt nay trở về muốn cho mọi người biết về những điều mắt thấy tai nghe về những nơi mà mình đã từng trải nghiệm. Nhưng mọi người không mấy đón nhận. Chúng ta có buồn không? Buồn chứ, tủi chứ. Chúa Giêsu cũng vậy, nên Ngài trưng dẫn tục ngữ biểu lộ nỗi chua chát trong lòng mình : “không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình.” thói thường những gì quen quá thì hóa nhàm. Chúng ta thường phán đón người khác dưới lăng kính chủ quan, tùy thể cái hình thức. Cũng chính não trạng trạng này đã làm cho đời sống chúng ta thiếu vắng tình người hơn, đời sống thiêng liêng trở nên lạnh nhạt hơn. Chúng ta dễ dàng lướt qua khi tha nhân đang cầu cứu. Chúng ta dễ bỏ Chúa trước những lợi lộc nhỏ nhoi hay những sự viếng thăm đầy tình Chúa tình người trở thành sự sung đột.

Không xung đột làm sao được khi một bên mang đầy thiện chí còn một bên thì luôn giữ thái độ khép kín, cho nên cơ hội được đón nhận ơn cứu độ cũng bị đóng kín và nhất là khi Chúa Giêsu trưng dẫn hai ví dụ trong thời Cựu ước: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thiếu gì bà góa trong nước It-ra-en vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thế mà ông được sai đến giúp bà góa thành Sa-rép-ta miền Xi-đon. Cũng vậy, thiếu gì người phong hủi ở trong nước It-ra-en vào thòi ngôn sứ Ê-li-a nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người Xy-ri-a”.

Chúa Giêsu muốn ám chỉ họ không xứng đáng để được hưởng ơn cứu độ vì họ cứng lòng tin còn các dân tộc khác lại có cơ hội hơn. “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành-thành này được xây trên núi-họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”.

Cộng đoàn phụng vụ thân mến!

Với sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắn gởi cho mọi người chúng ta luôn có thái độ quảng đại, bao dung trong cuộc sống. Luôn tạo cho mình cơ hội nhất là cơ hội để đến với Chúa và Chúa đến với mình. Đừng đóng khung bất cứ ai khi chưa hiểu hết về họ. Luôn nghĩ đến gia đình như Chúa Giêsu đã từng yêu đến. Với tâm tình đó cầu chúc tất cả mọi người trong năm mới này thêm nhiều công phúc, nhận đầy lộc thánh và hưởng thọ viên mãn.

Về mục lục

.

LỜI KINH THÁNH ỨNG NGHIỆM

Lm Trầm Phúc

Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã suy nghĩ về chuyến viếng thăm của Chúa Giêsu về Nadaret và Ngài đã giảng trong Hội đường. Hôm nay chúng ta tiếp tục suy nghĩ về việc Ngài rao giảng tại đó.

Ngài đọc một đoạn sách tiên tri Isaia nói đến Đấng sẽ được sai đến mang cho dân ơn giải thoát, là Đấng Thiên Sai. Ngài kết thúc bằng một câu không ai có thể ngờ : “  Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”. Gián tiếp Ngài công nhận mình là Đấng Thiên Sai, nhưng mọi người trong Hội đường không mấy ai hiểu. Rất tiếc rằng thánh sử không ghi lại những gì Chúa giảng hôm ấy mà chỉ ghi lại phản ứng của những người nghe mà thôi. Mọi người đều tán thành những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.

 Nhưng sau khi thán phục, dân Nadaret bắt đầu tự hỏi về thân thế của Ngài : “  Ông nầy không phải là con ông Giuse đó sao ?” Và từ đó xảy ra một cuộc tranh luận sôi nổi đưa đến quá khích đến nỗi họ muốn xô Ngài xuống vực sâu, vì Ngài đã cho họ thấy rằng dân Do thái trong lịch sử, đã từ chối các tiên tri, đã mất đi ơn Chúa. Những người lương dân được hưởng nhờ như bà góa ở Sarepta và ông Naaman người Syria.

Chúng ta đón nhận lời Chúa như thế nào ? Chúng ta có cảm thấy vui mừng vì Chúa đã nhìn đến chúng ta, thương chúng ta và đã ngỏ lời với chúng ta, mời gọi chúng ta bước vào cuộc đối thoại yêu thương của Ngài không ? Hay chúng ta chỉ lắng nghe tiếng mời gọi của thế gian, chăm chú nghe những lời mời gọi của thế gian mà lãng quên lời Chúa ? Càng tệ hơn khi chúng ta chống đối lời Chúa, xem như một cản trở hay không có lợi gì cho chúng ta. Chúng ta mất bao nhiêu thời giờ để chú tâm đến những chuyện phù phiếm, giả dối của thế gian mà bỏ qua lời mời gọi của Chúa. Chúa luôn mời gọi và mong mỏi chúng ta chấp nhận lời Ngài để bước vào hạnh phúc Ngài dành cho chúng ta, nhưng hình như chúng ta thích những thú vui chóng qua của thế gian hơn hạnh phúc tuyệt vời của Chúa. Chúng ta thích làm nô lệ thế gian hơn làm con Chúa. Nhưng hãy nhìn lại : thế gian đã cho chúng ta được gì ? Nỗi thất vọng triền miên. Vì mọi sự đều chóng qua và chúng ta vẫn là những con người nhỏ bé, không nắm được tương lai. Hôm nay, thế gian càng thêm hấp dẫn vì những phát minh mới, mang lại cho con người nhiều tiện nghi, nhiều thú vui hơn bao giờ hết, nhưng không bao giờ có bình an. Thế gian hôm nay là một nồi thuốc súng đang chực nổ bất cứ lúc nào. Hôm nay, con người đang sống trong lo sợ hơn là hạnh phúc. Thế chiến thứ ba đang chực chờ…tương lai của thế giới mù mịt.

Chỉ có Thiên Chúa mới là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta mà thôi : “ Chỉ có Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. “ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống…” Chỉ có tình thương của Chúa mới là bảo đảm cho chúng ta thôi. Phải tin rằng Chúa vẫn thương chúng ta, dù chúng ta có lãng quên Ngài, vì Ngài là Tình Yêu. Không ai có thể ngăn cản Ngài thương chúng ta. Nhưng chúng ta có đón nhận tình thương của Ngài không ? Dân Nadaret lúc đầu đã chăm chú nhìn vào Ngài, lắng nghe Ngài, nhưng sau đó đã nhìn nơi khác và đã đánh mất Ngài. Chúng ta hãy chăm chú nhìn về Ngài. Chúng ta nhớ, trong khi đi đường, đoàn dân chen lấn Ngài, chạm vào Ngài, nhưng không có ai trong họ được lành bệnh, chỉ có một người phụ nữ rón rén chạm vào áo Ngài và lập tức bà được khỏi bệnh. Ngài là như thế đấy ! Ngài là quyền năng nhưng chỉ có ai tin vào Ngài mới được chữa lành, mới thấy mình được chấp nhận.

Chúng ta có tin thật không ? Vì chúng ta có quyền từ chối hồng ân và tình thương của Ngài như dân Nadaret. Chúng ta tin vào cái gì ? Không có gì bảo đảm cho chúng ta cả. Mọi sự đều mong manh. Chỉ có Ngài thôi. Hãy chăm chú nhìn Ngài, hãy đến với Ngài, hơn nữa ăn lấy Ngài, nuốt lấy tình yêu đang mời gọi. Chúng ta sẽ không bao giờ thất vọng, vì Ngài là nguồn sống , là hạnh phúc duy nhất của chúng ta thôi. Hãy hỏi các thánh, họ sẽ nói cho nghe. Thánh Âutinh, sau nhiều năm sống trong trụy lạc đã thú nhận : “Con đã biết Chúa quá trễ !” Chân phước Charles de Foucauld, sau thời gian sống phóng túng đã tìm lại được Chúa và từ đó đã hoàn toàn sống cho Chúa, đã nhận ra rằng ngoài Chúa, không có hạnh phúc nào khác. Hãy đón nhận Chúa vô điều kiện, vì Chúa có thể đến với chúng ta bất cứ dưới hình thức nào. Chỉ cần chúng ta có sẵn sàng tiếp đón Ngài, dù dưới hình thức một tấm bánh hay dưới hình thức một người anh em đau khổ. Miễn là chúng ta không từ chối Ngài.

Về mục lục

.

VƯỢT THẮNG MỌI THÀNH KIẾN

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

1- Từ chuyện con bọ cạp

Chuyện kể, có một thiền sư ngắm nhìn dòng suối hiền hòa, bỗng nhiên trông thấy một con bọ cạp rớt xuống suối. Thầy đưa tay vớt nó và nhẹ nhàng để nó lên mặt đất. Con bọ cạp theo phản ứng tự nhiên: cong đuôi chích bất cứ ai đụng đến nó. Mặc dù bị nó chích rất đau, nhưng thầy không hề tức giận.

Sau đó, thầy đứng lên, đi được vài bước và quay lại nhìn con bọ cạp, thấy nó lại té xuống suối. Thiền sư vội vàng chạy lại cứu nó, rồi cẩn thận đưa nó lên mặt đất. Lần này, nó cũng chích thầy phát nữa.

Một người đi ngang qua, thấy vậy bực mình lớn tiếng: “Con bọ cạp vô ơn bạc nghĩa như vậy, cứu nó làm gì cho mệt. Kệ xác nó.”

Thiền sư nghe vậy thản nhiên trả lời: “Chích người là bản năng của con bọ cạp, còn lương thiện là bản năng của ta, sao ta có thể vì bản năng của nó, mà vứt bỏ bản năng của ta?”

Câu chuyện trên diễn tả lòng từ bi và cao thượng của vị thiền sư đối với con bọ cạp. Lòng từ bi khiến vị thiền sư sẵn sàng cứu vớt con bọ cạp chết đuối dẫu biết rằng rất có thể bị nó quay lại chích vào tay. Một cách nào đó, câu chuyện này giúp chúng ta hiểu hơn câu chuyện Tin Mừng hôm nay.

2- Đến câu chuyện Tin Mừng

Tiếp nối câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật vừa rồi, Chúa Giêsu trở về Nadarét. Đây là lần đầu tiên Người trở về thăm quê sau khi bắt đầu sứ vụ công khai. Chúa Giêsu vào hội đường, đọc và giải thích Sách Thánh. Dân chúng ngạc nhiên và thán phục những lời của Người. Nhưng sau đó, những người đồng hương của Chúa thắc mắc: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? Họ thách thức Chúa làm phép lạ như đã làm tại Caphanaum để họ tin. Trước sự khước từ của người đồng hương, Chúa Giêsu nói rằng: “Không một tiên tri nào được tôn trọng ở chính quê hương mình” (Lc 4,24). Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy và lôi Người ra khỏi thành, rồi đưa Người lên núi để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi (Lc 4,21-30).

Khi tường thuật lại sự kiện này, thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy rằng, những gì Kinh Thánh báo trước nay đã ứng nghiệm; những gì đã được hứa trong Cựu Ước nay được thực hiện nơi Đức Giêsu. Người đến khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ. Và cả những lời tiên báo của ông già Simêon về sự chống đối Đức Giêsu hôm nay cũng ứng nghiệm. Thánh Máccô còn cho thấy rằng sự chống đối này bắt nguồn từ ngay trong gia đình họ hàng của Người, khi họ nghĩ rằng Chúa Giêsu “bị mất trí và đi bắt Người về.” Còn thánh Luca liên hệ đến số phận của các tiên tri trong Cựu Ước, những người bị từ chối, bách hại, tù đày và bị giết chết. Đây cũng là số phận của Đấng Cứu Thế phải trải qua khi thực thi sứ mạng cứu độ.

Nguyên nhân của sự khước từ này là do sự thành kiến của những người đồng hương của Chúa. Họ bị giới hạn tầm nhìn của mình nơi sự hiểu biết hẹp hòi về lý lịch gia đình của Người. Họ chỉ nhìn nhận Đức Giêsu là một con người chứ không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai. Nên họ không tin vào Người và không nhận ra căn tính đích thực của Người.

Vì thế, Đức Giêsu không làm một phép lạ nào tại chính quê hương mình. Điều đó không có nghĩa là vì Người đã bị tước đoạt quyền năng làm phép lạ, nhưng vì sự cứng lòng, thành kiến và thiếu niềm tin của người đồng hương. Những thái độ đó ngăn cản Chúa không muốn thực hiện những dấu lạ cho họ. Bởi lẽ, dẫu Thiên Chúa quyền năng, phán một lời liền có trời đất, nhưng Người phải dừng bước trước thái độ cứng lòng và thiếu cộng tác của con người. Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để lòe mắt thiên hạ, hay ra oai quyền phép thần thánh của mình. Phép lạ Người thực hiện như là kết quả và phần thưởng cho những ai đã tin. Như Chúa thường nói: “Đức Tin con cứu chữa con.”

Như thế, khi bắt đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu phải đối diện với sự khước từ và chống đối. Điều đó cho thấy mầu nhiệm thập giá luôn xuất hiện trong cuộc đời và sứ vụ của Người. Đỉnh cao của sự chống đối và khước từ đó chính là thập giá. Nơi đó, sự phản trắc, tệ bạc và độc ác của con người được phơi bày đến mức tột đỉnh. Nhưng nơi đó, lòng từ bi, nhân hậu và tình yêu của Thiên Chúa cũng đạt tới sự viên mãn vô biên. Một Thiên Chúa bị con người từ chối và đóng đinh vào thập giá. Một Thiên Chúa đón nhận tất cả sự bạc nhược vô ân đó bằng một tình yêu không bờ bến, nhờ đó để chữa lành và cứu độ con người.

3- Thái độ của người Kitô hữu

Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có thể mắc phải thái độ thành kiến, hẹp hòi và vô ơn đối với Thiên Chúa và tha nhân như người Do Thái trong Tin Mừng hôm nay. Thái độ thành kiến là một hàng rào ngăn cản con người tới việc khám phá chân lý và những gì mới mẻ của cuộc sống do Chúa Thánh Thần mang lại. Thành kiến nhốt con người trong tầm nhìn hạn hẹp của mình, như cóc ngồi ở đáy giếng chỉ nhìn trời bằng cái vung. Nên nó làm cho con người không nhận ra những điều kỳ diệu và tốt đẹp nơi người khác. Vì thế, chúng ta loại bỏ nơi mình thành kiến khi tiếp cận cuộc sống bằng cách biết mở rộng tầm nhìn, cởi mở và tôn trọng người khác, biết đón nhận và học hỏi những điều mới mẻ từ người khác, cũng như biết bao dung và chấp nhận những khác biệt của họ mà không hề có thái độ loại trừ. Cuộc sống này đáng ngưỡng mộ và có nhiều điều mới mẻ đối với ai biết sống tích cực và ngạc nhiên.

Đối với Thiên Chúa, mỗi ngày chúng ta được mời gọi luôn có thái độ ngoan ngùy trước những tác động của Chúa Thánh Thần, trở nên dễ bảo và sẵn sàng để được Người hướng dẫn. Bởi lẽ, Người không thể làm gì trước sự chai lì của chúng ta và phép lạ không thể xảy ra với những người không có niềm tin như Tin Mừng hôm nay minh chứng.

Nguyện xin Chúa biến đổi lòng trí chúng ta theo thánh ý của Người. Amen!

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU ĐƯỢC SAI ĐẾN VỚI TOÀN THỂ NHÂN LOẠI

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi  

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Gr 1:4-5, 17-18;  1 Cr 12:31 – 13:13;  Lc 4:21-30)

Những hình ảnh chủ yếu nói lên sứ mệnh của Chúa Giê-su được trình bày qua Phụng vụ Lời Chúa của những Chúa Nhật đầu mùa Thường niên.  Chúa Giê-su là Đấng được Thánh Thần xức dầu tấn phong, là Đấng tuyên đọc Lời Chúa, Đấng làm phép lạ, chữa lành, trừ quỷ…  Đặc biệt hôm nay, bài đọc trích sách Giê-rê-mi-a và bài Tin Mừng nói với chúng ta về Chúa Giê-su là Đấng được Thiên Chúa sai đến trần gian, không phải cho riêng dân Do-thái mà thôi, nhưng cho mọi dân mọi nước.  Sứ mệnh của Chúa Giê-su là sứ mệnh phổ quát, liên hệ đến toàn thể nhân loại và đến ơn cứu độ dành cho mọi người không trừ ai.  Suy nghĩ vể chiều kích phổ quát của sứ mệnh Chúa Giê-su là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.

Hoàn cảnh khiến Chúa Giê-su khẳng định sứ mệnh phổ quát của Người chính là từ câu chuyện xảy ra ở hội đường Na-da-rét.  Tại đây, vì ganh ghét với những nơi Chúa Giê-su đã làm nhiều phép lạ, dân thành Na-da-rét đòi hỏi Chúa:  “Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!”  Dĩ nhiên, vì thấy họ không có lòng tin, Chúa Giê-su đã không đáp ứng yêu cầu của họ (xem Mác-cô 6:5-6) và Người còn nói lên một sự thật phũ phàng:  “Tôi bảo thật các ông:  không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”.  Họ muốn độc quyền “hưởng lợi” từ sứ mệnh của Chúa Giê-su, chứ không muốn chia sẻ phúc lành của Thiên Chúa với những người khác.  Họ đã thiển cận muốn Chúa Giê-su phải dành ưu tiên cho họ.  Họ không muốn hiểu chiều kích phổ quát sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh đã được sách ngôn sứ I-sai-a nói đến và vừa được Người tuyên đọc trong hội đường của họ.  Vì thế, để minh chứng đặc tính phổ quát của sứ mệnh, Chúa Giê-su đã đan cử hai câu chuyện:  chuyện ngôn sứ I-sai-a cứu giúp bà góa thành Xa-rép-ta khỏi nạn đói và chuyện ngôn sứ Ê-li-sa chữa lành quan Na-a-man người xứ Xy-ri mắc bệnh phong cùi.  Cả hai người này đều thuộc thành phần dân ngoại, chứ không phải dân Ít-ra-en.  Thế là dân chúng Na-da-rét đùng đùng nổi giận và muốn giết quách Chúa Giê-su, người đồng hương của họ!  Tính ích kỷ đã bưng tai bịt mắt họ khiến họ không muốn nhìn nhận Chúa Giê-su là Đấng cứu độ trần gian;  hơn thế nữa, họ còn muốn tiêu diệt luôn một người con thân yêu của Na-da-rét đã nổi tiếng khắp nơi, nên họ đã “kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”.  Nhưng Chúa Giê-su đã “băng qua giữa họ mà đi” vì giờ của Người chưa đến!

Để hiểu đặc tính phổ quát của sứ mệnh Chúa Giê-su, chúng ta hãy trở lại với bài đọc 1 trích sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a.  Chính Giê-rê-mi-a đã tiếp nhận lời Thiên Chúa giải thích sứ mệnh Người trao cho vị ngôn sứ:  “Trước khi ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi;  trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân”.  Thiên Chúa đã chủ động tuyển chọn, thánh hóa và đặt Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ của Người.  Vậy là ngôn sứ của Thiên Chúa, Giê-rê-mi-a phải làm gì?  Tác vụ của ông là nói thay cho Chúa, nói những điều Người truyền cho ông nói và nói cho mọi người mọi nơi.  Nhưng những điều ông nói lại không phải là các điều người ta muốn lắng nghe, “từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ”.  Do đó họ không nhìn nhận sứ mệnh ngôn sứ của ông, đến nỗi còn tìm cách tiêu diệt ông nữa.  Tuy nhiên ông không hề sợ hãi vì ông tin tưởng vào sự che chở của Thiên Chúa, như Người đã hứa với ông:  “Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”.  Sứ mệnh của Giê-rê-mi-a là hình ảnh tiên báo sứ mệnh của Chúa Giê-su.  Giống như Giê-rê-mi-a, Chúa Giê-su không được đón nhận tại quê nhà.  Giống như dân vương quốc Giu-đa đã “giao chiến” với Giê-rê-mi-a, các kẻ thù của Chúa Giê-su là nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư, thượng tế và tư tế, tất cả đều tìm đủ cơ hội và đủ cách để bắt bẻ, làm mất uy tín của Chúa trước dân chúng.  Cuối cùng họ đã thành công trong việc bắt Người, làm chứng gian kết tội Người và nộp Người cho Rô-ma để áp lực họ đóng đinh Người vào thập giá.  Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn “ở với” Người, giải thoát Người và cho Người sống lại vinh hiển.  Còn Chúa Giê-su, nhiều lần Người đã xác tín rằng sứ mệnh của Người là cứu độ toàn thể nhân loại.  Người quả quyết Thiên Chúa “đã sai Con Một đến thế gian để “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).  Những lần khác,  Chúa Giê-su còn nói đến sứ mệnh phổ quát này:  “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”, hoặc: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 12:32;  3:14).

Sống sứ điệp Lời Chúa

Với bài đọc 1 và bài tin Mừng, ta hiểu được sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su là sứ mệnh phổ quát.  Nhưng còn bài đọc 2 trích thư 1 Côrintô thì sao?  Thánh Phao-lô nói đến tầm quan trọng và vai trò của đức mến được biểu lộ qua nhiều hành vi, rồi ngài kết luận:  “Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”.  Phải, chính với đức mến này, vì lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người, Chúa Giê-su và cả chúng ta nữa sẽ thi hành và chu toàn sứ mệnh!

Về mục lục

.

SỐNG VỚI CHÚA ĐỂ NÓI LỜI YÊU THƯƠNG

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Những Chúa nhật trước, các tín hữu được mời gọi bước theo Chúa Giê-su và sống trong Ngài. Chúa nhật thứ IV này, người môn đệ của Chúa được mời gọi nói lời yêu thương trong mọi hoàn cảnh. Dẫu biết rằng thân phận người ngôn sứ, người đi nói lời của Đấng Tình Yêu, luôn gặp trở ngại và khổ đau. Nhưng một khi được cảm nếm tình yêu của Chúa, người môn đệ chỉ còn biết nói lời yêu thương.

“vì Ta ở với ngươi”

Giê-rê-mi-a được người đời tặng cho cái tên là “vị ngôn sứ đau khổ” bởi đơn giản là đời ông quá khổ đau. Chẳng phải đến khi việc đã rồi thì ông mới giật mình thấm thía. Nhìn vào lịch sử, ông đã thấy và cảm được nó nên ông đã từ chối, đã đay đảy không nhận lời làm ngôn sứ của Chúa. Nhưng rồi mọi lý do, nào là còn trẻ, nào là chưa có kinh nghiệm, nào là nhiều thù địch, nào là không biết ăn nói, tất cả chẳng là gì với lời hứa của Vị Chúa Tình Yêu “Ta ở với ngươi và giải thoát ngươi”.

Lời của Thiên Chúa nói với chàng trai Giê-rê-mi-a trong bài đọc thứ nhất là lời có sức biến đổi. Lời ấy đã khiến một con người nhút nhát và sợ hãi nơi Giê-rê-mi-a trở nên một vị ngôn sứ mạnh mẽ, can đảm rao giảng lời yêu thương của Thiên Chúa. Bất chấp những đòn roi, những xỉ vả, lăng nhục từ người thân nghĩa thiết đến người dưng trong xã hội, Giê-rê-mi-a đã sống trọn vẹn một đời đi nói lời yêu thương của Trời.

Được sống với Chúa, được ở trong tình yêu của Chúa là quá đủ đối với Giê-rê-mi-a. Dù phải đối mặt với bao giông tố, nhưng Giê-rê-mi-a đã vượt thắng bởi sức mạnh của tình thương. Lời trần tình của ông thật thấm thía: “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20,9).

“Người rẽ qua giữa họ mà đi”

Thân phận trớ trêu của ngôn sứ tưởng như là chuyện của số ít trong thiên hạ. Nhưng đến cả Thiên Chúa xuống thế làm người, sống làm mẫu cho người thế noi theo cũng mang nỗi trớ trêu ấy. Thánh sử Luca trong bài Tin mừng đã viết lại sự đời nơi làng quê Nazareth, cái kịch tính của yêu thương và hận thù đã dần đẩy lên đến cao trào kinh hoàng nơi Đức Giê-su.

Ở nơi Đức Giê-su, không phải là một con người đi nói lời của Thiên Chúa như bao các ngôn sứ. Nhưng Ngài chính là LỜI CHÚA, một LỜI viết hoa với trọn vẹn Yêu Thương. Một lời Ngài nói mang trọn nghĩa yêu thương của TRỜI. Bởi thế mà người ta ngạc nhiên tròn mắt “thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra”. Sự thảng thốt của dân làng “Người này không phải là con ông Giuse sao?” diễn tả cái thực ấy nơi Đức Giê-su.

Sự thán phục và cảm nếm Lời Yêu Thương chẳng được bao lâu, thì cái kiêu căng, sự sợ hãi đổi thay nơi con người dân làng Nazareth đã trở nên sức mạnh ngăn cản dòng suối tình yêu chảy đến trong họ. Sự từ chối Lời Thiên Chúa quá phũ phàng khi “Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm”. Nhưng Tình yêu đã tìm lối để đi, dòng suối tình mến đã không vì thế mà ngưng chảy vào thế gian “Người rẽ qua giữa họ mà đi”.

Giê-su là con người đau khổ trên hết mọi con người khổ đau; nhưng Giê-su đã yêu thương hơn bất cứ trái tim yêu thương nào trên cõi đời này. Càng rời xa Chúa, lòng bác ái nơi con người càng trở nên mờ nhạt; càng ở gần Chúa, trái tim con người càng cháy bỏng tình yêu. Nơi Đức Giê-su, không chỉ là một con người ở cận kề bên Chúa, nhưng là người và Chúa làm một trong tình yêu, một tình yêu nguyên tuyền trọn vẹn.

“đức mến là trọng hơn cả”

Ở lại trong Chúa, người môn đệ cảm nhận được tình yêu huyền diệu ấy ngày đêm nung nấu, thôi thúc trong tâm hồn mình. Thánh Phaolo đã quả quyết về sự vĩnh cửu của tình yêu ấy. Đến cả đức tin, đức cậy rồi cũng qua đi, và chỉ còn lại đức ái. Ngài đã ca vang bài ca đức ái cho dân thành Cô-rin-tô được biết mà sống yêu thương nhau.

Lời ca của Thánh nhân cứ vang lên phân biệt rõ ràng từng cung bậc của cảm xúc. Người tín hữu được mời gọi sống những tiêu chí cụ thể của một nền văn mình tình thương: “Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.”

Được một lần cảm nếm lòng yêu thương tha thứ của Chúa như thánh Phaolo, được “ngã ngựa” một lần như ngài thật hạnh phúc muôn đời. Chính sự xúc động sâu thẳm trong tâm hồn người môn đệ trước tình yêu của Thầy đã làm biến đổi người môn đệ nên con người của yêu thương và tha thứ. Con người ấy chỉ còn biết nói lời yêu thương.

Lạy Chúa, xin Ngài ở với con, đừng để con lạc xa nguồn suối. Dù khó khăn, nhọc nhằn, con tin có Ngài giải thoát con.

Về mục lục

.

ĐÓN NHẬN HAY KHƯỚC TỪ

JM. Lam Thy.

Nếu như Tin Mừng Chúa nhật III Thường niên trình thuật Đức Giê-su thực hiện lời ngôn sứ Isaia đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật IV, Người tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai công khai loan báo Tin Mừng. Danh tiếng Chúa lan truyền khắp nơi: Người chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, nhìn chung là mọi người đều vui mừng, sung sướng và thán phục Đấng Thiên Sai.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/TN-C – Lc 4, 21-30) nối tiếp đoạn trích tuần trước (CN III/TN-C). Cùng trình thuật về chủ đề “Đức Giê-su về thăm Na-da-ret”, 2 tác giả Mat-thêu và Mac-cô chỉ miêu tả thái độ ngạc nhiên của những người đồng hương với Đức Giê-su khiến họ “vấp ngã vì Người”. Sau đó là Lời nói chua chát của Đức Giê-su: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” (Mt 13, 57; Mc 6, 4).

Riêng với thánh sử Lu-ca thì có thêm đoạn: “Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” (Lc 4, 21-23). Nếu chỉ thấy “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” thì đâu đến nỗi Đức Giê-su phải nói với họ như vậy.

Thực ra, Đức Giê-su đã quá hiểu cái kiểu tán thành và thán phục bằng “đầu môi chót lưỡi”, nhưng trong lòng thì lại nghĩ khác của những người đồng hương. Họ cho rằng “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13, 53-56). Vì thế, Đức Ki-tô vạch trần ý nghĩ đen tối đó. Cái kiểu tán thành và thán phục của những người đồng hương thật chẳng khác gì cảnh “Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không đao.” (“Kiều” – Nguyễn Du). Ngoài miệng thì khen ngợi tâng bốc, nhưng trong lòng thì chỉ muốn nốc-ao (knock out). Ôi chao là nhân tình thế thái!

Nói về thái độ xem thường người đồng hương, Việt Nam cũng đã có những kinh nghiệm được đúc kết thành châm ngôn, tục ngữ: “Bụt chùa nhà không thiêng”, “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Hoá cho nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin.” (Mc 6, 5-6). Với những người dân làng bình thường không tin vào Đức Ki-tô thì còn có thể hiểu được, nhưng đến cả những người bệnh được chữa khỏi mà cũng không tin thì quả thật hết biết! Và vì thế mới khiến cho một vị Thiên sai là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, phải “lấy làm lạ” và cuối cùng thốt lên câu nói chua chát như vậy (Mc 6, 4). Thế đấy!

Cũng vì biết quá rõ tâm địa của họ, nên Đức Giê-su nói thẳng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4, 24). Người còn chứng mình bằng cách nêu ra hình ảnh 2 vị ngôn sứ nổi tiếng thời Cựu Ước, đó là ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa (Lc 4, 25-27). Quả thật, ngôn sứ bị rẻ rúng nơi quê hương mình như lời nhận xét của Đức Giê-su đã xảy ra từ thời Cựu Ước, đó là trường hợp ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Vị ngôn sứ này đã tự thuật: “Người phán với tôi: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái It-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này”. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.” (Ed 2, 2-5).

Và sự tiên đoán của Đức Giê-su đã xảy ra. Đám người đồng hương của Đức Ki-tô vừa mới thơn thớt lỗ miệng “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, giờ đây khi nghe Người vạch trần cái “lòng chai dạ đá” của họ ra, thì ngay lập tức “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.” (Lc 4, 28-30). Đúng là trò “Lật mặt như trở bàn tay”. Thật không ngờ lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en sau bao thế kỷ cũng lại ứng nghịêm ở ngay dân được chọn (“dân nội” đàng hoàng!).

Như vậy thì rõ ràng không phải chỉ riêng dân làng Na-da-rét mới có cái nhìn sai lệch về Thiên Chúa thông qua những ngôn sứ được sai đến loan báo Tin Mừng; mà kể cả dân tộc Do Thái từ trước đó hàng mấy thế kỷ cũng nổi loạn chống lại Thiên Chúa vì cái thành kiến đè nặng trên lương tri họ (“Người phán với tôi: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá.” – Ed 2, 3-4). Ôi chao! Cứ tưởng đó chỉ là truyện cổ tích xảy ra cách đây hơn 20 thế kỷ, nào ngờ ở cái thời đại văn minh tiến bộ vượt bậc ngày nay vẫn còn không ít cảnh “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá” sống nhởn nhơ trên khắp địa cầu.

Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng cái bản tính cố chấp hẹp hòi của con người đã định vị trong con một cách nhìn lệch lạc, không đúng đắn, thiếu khách quan về con người, sự vật hay sự kiện. Thành kiến ấy khiến con nhìn một công trình bằng gỗ thì chỉ chú ý đến nước sơn choáng lộn bên ngoài, mà không cần biết đến chất lượng gỗ bên trong; con đã quên mất rằng “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Hơn thế nữa, khi nhìn anh em, con chỉ chú ý đến vẻ đẹp tô son trét phấn, áo quần loè loẹt bên ngoài, mà quên mất rằng “cái nết đánh chết cái đẹp”, quên mất rằng con người cũng chẳng khác một bông hoa “hữu xạ tự nhiên hương” (có mùi thơm thì tự nhiên có hương toả bay, còn nếu đã không có hương thơm thì cái sắc hoa bên ngoài cũng trở thành vô vị mà thôi). Cái thành kiến ấy đã khiến con gặp không ít trường hợp “tốt mã giẻ cùi”, và chỉ đến lúc đó, con mới thấy sáng mắt, mới thấy “bừng con mắt dậy, thấy mình… vô duyên!”

Ôi! Lạy Chúa! Khi nhìn ra được những sai lầm, con rất muốn tẩy rửa tâm hồn cho sạch mọi vết nhơ của những thành kiến đã trở thành định kiến trong con, con rất muốn thay đổi được cách nhìn, cách suy nghĩ, nhận định thiển cận của con. Lạy Chúa, con lại cũng biết rằng con người của con thật mỏng giòn yếu đuối, nhưng lại rất bảo thủ, khó lòng mà “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi” cố hữu được. Vì thế, cúi xin Chúa ban Thần Khí khơi dậy lửa Mến trong lòng con, soi sáng và hướng dẫn con tẩy rửa con người mình trong Nước và Thánh Thần như Lời Chúa đã hứa năm xưa.

Ôi! “Lạy Chúa, xin cho tất cả chúng con biết hết lòng thờ phượng Chúa, và thành tâm yêu mến mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật IV thường niên).

Về mục lục

.

ĐỂ CON THẤY CHÚA

Bông hồng nhỏ

Hai anh bạn thân gặp nhau, ngồi tâm sự:

Hùng: Tết này cậu về lâu không?

Mạnh: Một tuần.

Hùng: Ít thế. Sao cậu lại đi tu xa thế làm gì cơ chứ?

Mạnh: Ở gần thích thật nhưng Chúa chọn mình “ra khơi xa”.

Hùng: Tớ thấy Giáo phận mình còn thiếu người mục vụ, giáo dân tội lắm.

Mạnh: Tớ biết. Chúa ban cho mỗi người một ơn gọi… Với lại, truyền giáo không chỉ giới hạn trong một vùng miền nhất định, không chỉ cho quê hương mình. Cầu nguyện cho nhau nhé.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho các môn đệ lệnh truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15). Điều đó có nghĩa là Tin Mừng của Chúa là Tin Mừng cho muôn dân. Ngay khi khởi sự rao giảng tại quê hương Nadarét, Thầy Giêsu đã bày tỏ điều này cho những người đồng hương.

Nghe Thầy Giêsu đọc sách Thánh và khẳng định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21), mọi người trong Hội đường đều tán thành và thán phục những lời ân sủng thốt ra từ miệng người (Lc 4, 22). Đó là những phản ứng ban đầu của dân chúng. Nhưng rồi họ lại bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? (Lc 4, 23). Câu hỏi đó đã khiến lòng các ông khép lại trước lời ân sủng của Thiên Chúa. Biết Thầy Giêsu chỉ là con bác thợ Giuse nghèo hèn, sống cạnh nhà mình, dân chúng cho rằng họ đã biết rõ về Thầy. Tuy nhiên, cái họ biết còn rất giới hạn. Thầy hiểu rõ lòng dân chúng đang nghĩ gì và biết rõ thái độ không bằng lòng đón nhận một ngôn sứ cùng quê, nghèo hèn. Thầy Giêsu nói rõ cho họ, nhắc cho họ về tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa chọn Itraen làm dân riêng nhưng Người vẫn thương yêu dân ngoại như trường hợp cụ thể của bà góa thành Xarépta, miền Xiđôn và ông Naaman, người xứ Syri (x.Lc 4, 25 – 27).  Ta có bao giờ tự giới hạn con tim, giới hạn suy nghĩ chỉ vì cứ tưởng ta biết quá rõ về người bên cạnh chúng ta. Nếu ta nghĩ mình biết rõ về người này người kia là ta đã từ chối nhìn nhận một con người cụ thể với bao điều tốt đẹp nơi họ. Thiên Chúa vẫn không ngừng mời gọi ta bước ra khỏi cái nhìn hẹp hòi, suy nghĩ nông cạn của mình để đón nhận người khác.

Nghe những lời của Thầy Giêsu, mọi người trong Hội đường đều phẫn nộ (Lc 4, 28).  Tại sao họ phải phẫn nộ như thế? Phải chăng chính vì sự thật họ đã nghe khiến họ không chấp nhận được? Không những họ đã chối từ vị ngôn sứ Thiên Chúa đang ban cho họ mà họ còn muốn tiêu diệt Người. Họ lôi người ra khỏi thành, lôi Người lên tận đỉnh núi để xô người xuống vực (x. Lc 4, 29).  Khi bị lôi đi  như vậy, Thầy Giêsu không phản kháng gì ư? Thầy đủ quyền năng để thoát khỏi bàn tay giận dữ của đám đông dân chúng. Khi ấy, ta thấy một Giêsu rất nhẫn nhục. Có lẽ, Thầy chờ đợi lòng trắc ẩn trong trái tim đám đông hay vì Thầy muốn chứng minh rằng khi sự dữ đến mức đỉnh điểm thì Thầy vẫn điềm nhiên băng qua giữa họ mà đi? (x. Lc 4, 30).  Ở trước sự dữ, ta có giữ được sự an tĩnh trong tâm hồn hay ta để cho sự dữ đè bẹp?

Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa đã đem tình yêu trở về quê hương, đem Tin Mừng đến cho những người đồng hương và chỉ cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa không hề giới hạn. Xin Chúa cho con đừng giới hạn Thiên Chúa trong những gì con hiểu biết nhưng luôn biết đón nhận sự hiện diện của Chúa nơi anh chị em và sống tình bác ái cụ thể. Xin Chúa huấn luyện trái tim và trí tuệ của con để con thấy Chúa rất gần con, rất thân con và rất rất thương con. Amen.

Về mục lục

.

YÊU LÀ ĐÓN NHẬN

Anna Cỏ May

Trong mỗi ngày sống, chúng ta thường ngạc nhiên trước sự kỳ diệu của thiên nhiên và con người. Sự ngạc nhiên có khi đem lại niềm vui nhưng có khi là sự đố kỵ.

Chúa Giêsu, sau khi đọc sách Isaia, đã nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng người nói ra” (Lc 4, 21-22). Họ quay lại bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? (Lc 4, 23). Câu hỏi của họ có ý gì? Phải chăng họ ngạc nhiên trước lời nói của Ngài, ngạc nhiên về người con của ông Giuse, một người chỉ biết làm thợ mộc, một gia đình nghèo, hay ngạc nhiên về sự trưởng thành khôn ngoan tuấn tú của Ngài? Điều giúp chúng ta hiểu họ muốn nói gì qua lời Chúa Giêsu nói: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphacnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào!” (Lc 4, 23). Câu hỏi của họ là sự bất ngờ khó tin, khó chấp nhận về lời Chúa Giêsu nói. Họ chỉ nhìn Chúa Giêsu dừng lại ở nguồn gốc gia đình, con người của làng Nadarét, con của bác thợ mộc. Sự hiểu biết của họ có thể chỉ dừng lại trong tầm nhìn nông cạn và nghiêng về quá khứ, họ cần mở tầm nhìn ra để đạt tới sự hiểu biết đến từ Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu đã nhắc nhở qua lời: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4, 24). Chúa Giêsu nhắc nhở họ và khẳng định rằng chính cái nhìn đóng khung và thiếu lòng tin cùng coi mình trọng hơn cả sẽ khiến cho họ không đón tiếp một ngôn sứ nào. Đồng thời, họ cũng từ chối ơn được cứu thoát. Không chỉ vậy, thái độ của họ cũng khiến cho mọi người không đạt tới ơn cứu độ. Vì chính cái nhìn, lời nói là hàng rào ngăn cản người khác thay đổi bản thân và thăng tiến. Tất cả những thái độ ấy bắt nguồn từ sự kiêu ngạo, từ cái tôi, khiến họ không còn nhận ra lời yêu thương của Chúa Giêsu. Nếu như nơi họ có sự khiêm tốn, đón nhận, có tâm và có tầm thì họ sẽ vui mừng, hãnh diện về quê hương mình, khi quê mình có một người tài giỏi và tài năng. Chính rào cản này đã đóng khung họ cũng như người khác trước cơ hội biết Thiên Chúa.

Đối chiếu vào bản thân mỗi người, chúng ta đang có cái nhìn đóng khung với ai không? Chúng ta có thái độ nào khi thấy một người anh chị em mình thay đổi? Chúng ta có cho người khác cơ hội thay đổi, thăng tiến đời sống không? Chính khi cho người khác cơ hội thay đổi cũng là lúc chúng ta cho mình có cơ hội thay đổi.

Theo lẽ tự nhiên, chẳng ai muốn người khác giỏi hơn mình nên rất khó để nói lời động viên hay khen ngợi. Ngược lại chúng ta dễ dèm pha và muốn cho họ xấu hổ trước người khác. Tất cả những lẽ tự nhiên ấy đi ngược lại với Thiên Chúa, đi ngược với Đức Mến. Đức Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,… (x. Cr 13, 4). Đó là những gì mà Thiên Chúa hằng mời gọi chúng ta sống cách sống yêu thương. Vậy chúng ta phải làm sao? Hãy chạy đến trước Tôn Nhan Chúa, cầu nguyện và xin Ngài hướng dẫn. Vì chỉ có Chúa mới giúp mỗi người chúng ta sống yêu thương. Hãy đến với Chúa Xuân, đến với những người lầm lạc nay đã trở về để niềm vui gia đình, tình nghĩa hàng xóm và mùa xuân thêm ấm áp.

Lạy Chúa, Đấng hằng yêu thương tất cả mọi người chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận nhau trong tình yêu Chúa. Chính khi đón nhận nhau là chúng con mới có thể hoàn toàn đón nhận Chúa. Để mùa xuân này, chúng con tràn đầy tình yêu Chúa Xuân và tình yêu tha nhân. Amen.

Về mục lục

.

SỐ PHẬN NGÔN SỨ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Đã là Kitô hữu thì thảy đều được tham dự vào ba chức vụ của Chúa Kitô là ngôn sứ, tư tế và vương giả. Lướt cái nhìn qua ba sứ vụ ấy thì sứ vụ tư tế xem ra được kính nể hơn cả. Sứ vụ vương giả tuy có nhiều vất vả nhưng lại được trọng kính một cách nào đó. Còn sứ vụ ngôn sứ thì có lẽ hẩm hiu nhất.

Làm ngôn sứ là nhân danh Chúa và thay mặt Chúa mà trình bày ý, lời của Chúa cho đồng loại. Lời Chúa là lời tình yêu, nhưng cũng là lời chân lý. Chính vì thế mà Lời Chúa được ví như thanh gươm hai lưỡi phân rẽ tâm hồn con người. Ngay lời của con người, nếu là lời của sự thật, thì cũng đã dễ mất lòng. Phận người chúng ta xem ra công ít mà tội nhiều. Mặt tốt cũng có, việc lành cũng có, nhưng chẳng đáng là bao so với mặt tồn tại và những lỗi lầm. Và thế là người ta thật khó chấp nhận khi sự thật về con người mình bị phơi bày.

Ngôn sứ là người thường nói những lời khó nghe. Vâng lệnh Thiên Chúa để nói lời tình yêu mà cũng là lời sự thật, quả là một sứ vụ đầy cam go. Hình như các ngôn sứ khi được Chúa kêu mời thi hành sứ vụ, thì thường run rẩy hoặc tìm cách thoái thác. Quả thật chuyện “chưa được mạ thì má đã sưng” là chuyện xưa nay không hiếm. Nói lời sự thật cho nhau, nhất là cho những người đang nắm quyền cao, chức trọng, thì biết bao nguy hiểm rình chờ ập xuống đầu, xuống cổ, không biết khi nào. Thế mà Chúa vẫn cứ bảo với ngôn sứ: “Người hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ, nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (Gr 1,17).

Đã là ngôn sứ thì phải nói lời sự thật. Đây không chỉ là sứ mạng mà còn là cái giá của hạnh phúc người sứ ngôn. Nếu không nói thì chính sứ ngôn sẽ nhận lấy tại họa từ chính Thiên Chúa: “chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ”. Nếu người ngôn sứ mà không nói cho kẻ gian ác biết điều gian ác nó đã phạm, khiến nó phải chết trong sự gian ác của nó, thì chính Thiên Chúa sẽ đòi nợ máu nó nơi người sứ ngôn (x.Ed 3,18).

Vấn đề thật lắm oái ăm và thật nhiêu khê, khi nói lời sự thật mà đó là những sự không hay, không tốt có đụng chạm đến những người chức cao quyền lớn thì rất dễ bị quy chụp là phản động, là gây chia rẽ, là vạch áo cho người xem lưng, là… Và số phận các sứ ngôn từ trước đến nay dường như chẳng khác nhau bao nhiêu, chẳng hạn như Êlia, Giêrêmia, Gioan Tẩy Giả…thảy đều có kết cục chẳng sáng sủa chút nào.

Tuy nhiên làm sao để phân định rằng khi nào thì một ngôn sứ nói lời chân lý do Chúa phán truyền? Bởi chưng, cũng vẫn có đó nhiều sứ ngôn giả hiệu, chỉ nói những điều mình muốn nói, cho dù nhiều lúc đó là sự thật, nhưng không phải do Chúa ra lệnh nói. Chúng ta đừng quên, thần dữ cũng đã từng xui khiến nhiều người nó ám, mở miệng tuyên xưng Chúa Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng Messia và Chúa Kitô đã ngăn cấm chúng (x.Mc 1,21-28; Lc 4,31-37).

Dĩ nhiên, đã là ngôn sứ chính hiệu thì phải nói những gì Chúa phán dạy. Những gì Chúa phán dạy luôn hướng đến điều tốt đẹp. “Đã nhổ thì phải biết trồng”; “Đã đập phá thì phải biết dựng, biết xây” (x.Gr 1,10; 18,7-10). Ngôn sứ chính hiệu thì sau khi phê phán những điều tiêu cực, những mặt hạn chế, những lỗi lầm của con người, của xã hội, thì luôn đề ra giải pháp khắc phục và biện pháp sửa sai.

Như thế, mục đích của sứ ngôn khi nói lời sự thật thì luôn nhằm điều thiện hảo cho người nghe. Thánh Phaolô nói với tín hữu Côrintô rằng để mọi hành vi của chúng ta có giá trị thì phải xuất phát từ một tấm lòng đầy đức mến. “Giả như tôi được ơn nói tiên tri (làm ngôn sứ), và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng là gì” (1Cr 13,2). Tình mến ở đây phải là tình yêu như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta. Tình yêu thương đích thực được biểu hiện qua việc chúng ta làm tất cả chỉ vì hạnh phúc người mình yêu mến, trong sự liên đới đến cùng. Thánh tông đồ dân ngoại đã từng thốt lên:“Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên” (2Cr 11,29).

Một ngôn sứ của Chúa thì phải nói lời Chúa dạy. Lời Chúa dạy luôn là lời tình yêu, lời sự thật. Khi đã nói lời sự thật, dù rằng khởi đầu bằng những hiện thực chẳng hay chẳng tốt về tha nhân hay xã hội nhưng được kết thúc bằng những phương thế giúp nhau hoán cải, đổi thay, thăng tiến. Ngôn sứ của Chúa thì luôn chân thành mong ước điều tốt đẹp cho cả người mình phê phán hay góp ý. Và dĩ nhiên một trong những hệ quả dù không mong cũng thường xảy đến đó là thập giá.

Giêrêmia đã phải hứng chịu nhiều nỗi truân chuyên khi làm kiếp “tứ phía kinh hoàng” (x.Gr 20,4). Đó là thân phận con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt. Và ngay cả những người đồng hương của ngài, dân Anathốt, cũng đã đe dọa làm hại tính mạng ngài (x.Gr 11,19-21). Số phận của Vị Đại ngôn sứ là Giêsu Kitô cũng không hơn gì. Khi thẳng thắn nói cho người đồng hương biết về tính phổ quát của ơn cứu độ, tức là tình yêu của Thiên Chúa không dành riêng cho một ai, một dân tộc nào, một xứ sở nào, thì Chúa Giêsu đã phải đón nhận sự phẫn nộ, đúng hơn là sự cuồng nộ của dân Nagiarét. Sự ích kỷ đã làm cho tâm hồn người dân Nagiarét lúc bấy giờ ra mù quáng. Ăn không được thì đập bỏ, chứ không cho kẻ khác hưởng nhờ chăng? Dù sao đi nữa thì thái độ cuồng nộ đến nỗi bắt Chúa Giêsu đem lên núi để xô Người xuống vực cho chết là một thái độ không thể hình dung, nhưng lại là sự thật.

Một vài nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng Chúa Giêsu có hai lần về Nagiarét. Một lần thì Người được tung hô, đón nhận, và lần khác thì bị tẩy chay, ngược đãi. Thế nhưng, việc thánh sử Luca kể liền một mạch hai thái độ trái ngược của người đồng hương Chúa Giêsu cũng nhắc nhớ cho ta thấy rõ lòng người rất dễ đổi trắng thay đen, khi sự ích kỷ, nhỏ nhen ngự trị. Sau này dân thành Giêrusalem cũng thế. Trước thì hoan hô, chúc tụng Con vua Đavit, thế mà sau đó mấy ngày lại giơ cao nắm đấm, la gào: “đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá”(x.Mt 21,9; 27,23).

Làm tất cả vì hạnh phúc người mình yêu, nói lời sự thật cho mình yêu và rồi sẵn sàng đón nhận sự ngược đãi, bách hại trong sự khoan dung, tha thứ, chính là chân dung ngôn sứ thật. Tuyên phán những sự may lành thì không khó, nhưng khi phải nói những điều chẳng hay, để giúp nhau thay đổi thì quả là chẳng dễ chút nào, nhất là khi sự chẳng hay ấy lại liên hệ đến những người có thể làm hại chúng ta cách này cách khác. Tuy nhiên đã là Kitô hữu thì tất thảy chúng ta đều phải làm sứ ngôn cho Thiên Chúa. Đây là một sứ mạng không thể khước từ hoặc cố tình xao nhãng hoặc tìm cách biện bạch để bỏ qua. Ước gì không một ai trong chúng ta, cách riêng các mục tử trong Giáo hội, phải hứng chịu lời tuyên án của Thiên Chúa khi Người đòi nợ máu của người gian ác trên mình, vì đã không chu toàn sứ mạng ngôn sứ: nói lời tình yêu và nói lời sự thật.

Về mục lục

.

THÂN PHẬN NGÔN SỨ

Lm. Giuse Nguyễn

Bài “người hành khất”, trong nhật ký truyền giáo của cha Piô Ngô Phúc Hậu kể về việc cha đi xin tiền cho giáo điểm Năm Căn. Cha nghe nói có một ông giám đốc là người công giáo ở đường Pasteur rất giàu, nên cha mon men đến đó. Thấy cha, ông hỏi“đi đâu vậy ông cha?” Cha vào thẳng vấn đề: “Thưa ông Bảy, con đi truyền giáo ở Năm Căn, thiếu thốn về mọi phương diện. Con đến xin ông Bảy giúp đỡ”. Ông hỏi:“Cha muốn tôi giúp cái gì?” Cha trả lời: “Xin ông Bảy giúp cho chúng con một cái máy Kohler 7”. Ông giám đốc nhún vai theo kiểu tây phương, rồi đi vào hành lang và biến mất trong tòa nhà đồ sộ. Còn cha thì đứng đó, hụt hẫng. Một cái máy Kohler so với ông giám đốc giàu sụ chẳng là gì… Có một giáo dân chia sẻ: “Tội nghiệp các cha, lặn lội xin chỗ này, vay chỗ nọ, mất giờ, mất sức, mất đủ thứ, mà chẳng phải cho mình, toàn cho Họ đạo, cho Giáo hội”… Tất cả âu chỉ là thân phận của ngôn sứ mà thôi.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài Đọc I: Gr 1, 4-5.17-19

Trong bài đọc I, tiên tri Giêrêmia chia sẻ về ơn gọi của mình. Ông luôn xác tín Thiên Chúa đã chọn gọi mình: “Trước khi ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi, Ta thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr1, 5). Vì vậy ông luôn trung thành với sứ mạng của mình. Ông sống trong hoàn cảnh đất nước Giuđa bị đế quốc Babylon đe dọa. Nhà vua và triều thần sợ hãi muốn tìm sự cứu giúp của Ai Cập. Còn Giêrêmia thì kêu gọi nhà vua đừng sợ, đừng cậy dựa vào sức mạnh của nước ngoài, mà hãy cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa. Đồng thời mời gọi dân chúng hãy lo sửa đổi cuộc sống, thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi họ. Tuy nhiên lời kêu gọi của Giêrêmia không được nhà vua và dân chúng ủng hộ, ngược lại họ còn xem ông là một tên độc mồm độc miệng và bắt bỏ tù ông. Nhưng ông vẫn trung thành với sứ mạng, vì ông tin tưởng vào Thiên Chúa: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được ngươi” (Gr 1, 19)

Tin Mừng: Lc 4, 21-30

Tuần trước Đức Giêsu trở về quê hương của mình. Bài giảng của Ngài đã làm cho nhiều người thích thú. Tuy nhiên họ không chấp nhận Ngài là một tiên tri đơn giản vì:“Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4, 22). Họ muốn một vị tiên tri theo cái nhìn của họ. Họ thách thức Chúa làm phép lạ: “Những gì ông làm ở Caphacnaum, ông làm tại quê hương ông xem nào!”(Lc 4, 23b). Đức Giêsu không làm theo thách thức của họ. Ngài cho họ biết phép lạ không phải là một màn biểu diễn ngoạn mục mà để bày tỏ tình thương của Thiên Chúa và củng cố lòng tin. Giống như bà góa thành Sarepta thời tiên tri Elia, lúc hạn hán xảy ra trong 3 năm 6 tháng, nhưng hũ bột và bình dầu nhà bà không cạn vì bà đã đón tiếp vị ngôn sứ của Chúa. Hay vào thời của Êlisa, thiếu gì người cùi, nhưng chỉ một mình ông Naaman, người ngoại giáo được khỏi, vì ông tin tưởng vào vị tiên tri của Chúa. Qua đó, Chúa còn muốn cho họ thấy ơn cứu độ của Chúa dành cho mọi người, kể cả người ngoại giáo chứ không dành riêng cho một ai; miễn họ tin tưởng và đón tiếp Chúa. Đỉnh điểm của bài Tin Mừng hôm nay là sự tức giận của dân Do Thái vì Ngài đã không làm theo ý họ. “Họ đứng dậy lôi Người ra khỏi thành” (Lc 4, 29a), tệ hại hơn nữa: “Họ kéo Người lên tận đỉnh núi để xô Người xuống vực” (Lc 4, 29b).

Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy thân phận của một ngôn sứ là như vậy đó. Người xưa nói một câu xem ra đúng với thân phận của ngôn sứ: “Bạc như dân, bất nhân như lính”. Nhưng cho dù người ta có đối xử tệ bạc với mình, có hất hủi mình, thì một ngôn sứ vẫn phải trung thành với sứ mạng của mình.

II. THÂN PHẬN NGÔN SỨ, THÂN PHẬN MỖI CHÚNG TA

Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta cũng đã lãnh nhận sứ mạng ngôn sứ, nghĩa là phải nói thay lời Thiên Chúa. Dĩ nhiên chúng ta không thể làm ngôn sứ theo kiểu của Giêrêmia, Isaia, hay Đức Giêsu…, mà chúng ta làm ngôn sứ trong chính cuộc sống của mình, mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, nhưng điểm chung là cho mọi người chung quanh biết chân lý, biết sự thật, biết tìm về Chân Thiện Mỹ. Điểm chung nữa đó là chúng ta đều phải mang thân phận của một ngôn sứ, là sẽ gặp khó khăn, nguy hiểm, thậm chí bắt bớ và giết chóc. Giáo hội Việt Nam chúng ta tự hào vì hiện tại có hai bộ hồ sơ phong thánh cho những vị tôi tớ Chúa, đó là ĐHY. Px. Nguyễn Văn Thuận, và cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Các Ngài đã sống sứ mạng ngôn sứ của mình, và vì vậy chúng ta hãy dõi theo tấm gương của các Ngài.

  1. ĐHY. Px. Nguyễn Văn Thuận

Ngài mang thân phận của một ngôn sứ một cách rõ ràng vì Ngài bị bắt, bị cầm tù, trong khi bản thân Ngài chẳng làm gì nên tội. Ngài làm ngôn sứ khi ở trong tù mà vẫn hát những bài thánh ca cho những người cai ngục nghe, vẫn dạy giáo lý cho những cán bộ trại giam, và vẫn viết những lá thư mục vụ cho giáo dân của mình trên những tờ lịch. Ngài ý thức rõ dù ở đâu, làm gì vẫn phải làm ngôn sứ cho Thiên Chúa… Giáo Hội muốn đề cao nhân đức của Ngài nên đã làm hồ sơ tuyên thánh cho Ngài.

  1. Cha Px. Trương Bửu Diệp

Gần chúng ta hơn, có cha Px. Trương Bửu Diệp. Trong thời buổi nhiễu nhương, có người khuyên cha về Bạc Liêu lánh nạn, cha nói “tôi sống với giáo dân của tôi, thì tôi cũng sẽ chết với giáo dân của tôi”. Quả thực như vậy, cha đã bị bắt cùng với một số giao dân của mình. Cha đã mang thân phận ngôn sứ thực sự khi chịu chết thay cho giáo dân của mình. Khi còn sống Ngài làm cho mọi người biết Chúa. Khi đã chết vẫn tiếp tục sứ mạng ngôn sứ qua việc lôi kéo mọi người khắp nơi đến với Ngài, để qua Ngài họ đến với Chúa.

  1. Thân phận chúng ta

Với thân phận ngôn sứ, chúng ta phải trung thành với Bí tích rửa tội mình đã lãnh nhận. Thánh Phaolô đã nhắc các tín hữu của mình: “Anh em hãy kiên vững trong đức tin”. Còn Đức Giêsu thì nói với chúng ta: “Ai bền đỗ đền cùng sẽ được cứu độ”. Đời sống đức tin của chúng ta không phải một ngày một bữa, mà là trọn cả cuộc đời. Vì vậy đừng để mình sống đạo theo tình cảm, vì sẽ có lúc tình cảm nhạt nhòa và chúng ta sẽ không còn sống đạo nữa. Nhưng phải sống đạo bằng thái độ đức tin. Chúng ta biết chúng ta tin vào ai, để rồi chúng ta phó thác cuộc đời chúng ta cho Đấng đó. Khi đã xác tín được như vậy, thì chúng ta sẽ trung thành trong đời sống đức tin, dù cuộc đời chúng ta có như thế nào đi chăng nữa. Đặc biệt với những gia đình gặp khó khăn, hãy nhớ đó là thân phận của ngôn sứ để can đảm chiến đấu cho đến cùng.

Với thân phận ngôn sứ, chúng ta phải biết rao truyền chân lý cho người khác, dù cho chân lý đó không được người khác đón nhận. Chân lý đó chính là tình yêu thương, công bằng, lẽ phải trong cuộc sống. Kitô hữu bị cám dỗ càng ngày càng trở nên giống người khác, kể cả làm những việc sai, miễn là có lợi cho mình. Hãy nhớ kitô là những người có Chúa Kitô, những người rập khuôn cuộc đời mình với Chúa để sẵn sàng vác lấy thập giá hằng ngày.

Tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy thân phận của một ngôn sứ. Họ phải sống và nói theo những gì Chúa chỉ dạy. Và chắc chắn khi sống và nói như vậy họ có thể gặp chống đối, thậm chí phải bỏ mạng, nhưng ngôn vẫn trung thành với nhiệm vụ của mình. Từ đó mời gọi chúng ta ý thức lại thân phận ngôn sứ của mình để trung thành với đức tin mình đã lãnh nhận, và loan truyền đức tin đó qua việc sống đức công bằng trong đời sống chúng ta.

Xin Mẹ Maria giúp chúng con trung thành cho đến chết như Mẹ vẫn hiên ngang bước đi trên con đường thập giá xưa.

Về mục lục

.

NGÔN SỨ

Lm. Thái Sơn

Hai từ này còn gọi là “sứ ngôn” hay “tiên tri”. Phải chăng, “ngôn sứ” là người nói thay cho ai, hoặc là người biết trước sự việc trong tương lai? Chuyện vui kể rằng:

Người con đưa cha đến gặp bác sĩ. Sau khi khám bệnh, bác sĩ nói là người cha bị bệnh ung thư rất nặng và chỉ sống được ba tháng nữa thôi.

Trên đường về nhà, người cha nói với con ghé vào quán rượu gần nhà để uống chút đỉnh, vì đàng nào ông ta cũng sắp chết rồi.

Trong quán rượu, ông ta nói với mọi người là ông ta sắp chết vì bệnh AIDS. Sau khi ra khỏi quán, người con hỏi cha:

– Tại sao ba lại nói là sẽ chết vì bệnh AIDS thay vì bệnh ung thư?

– Thì tao không muốn thằng nào léng phéng với mẹ mày sau khi tao chết. (Sưu tầm)…

Thưa các bạn!

Phải chăng, đây là “diệu kế” để đánh lạc hướng người khác, chứ không phải là nói thay hay nói trước một sự việc sắp xảy ra, nhằm nhắc nhở hay dạy dỗ điều gì đó?

Trong nhà đạo, “ngôn sứ” là người được sai đi nói thay mặt ai đó nói chung và thay mặt Thiên Chúa nói riêng trong Thánh Kinh.

Tin Mừng Chúa nhật 4 Thường Niên năm C, Đức Giêsu được mô tả như các ngôn sứ Elia và Elisa, Ngài không phải chỉ được sai đến với dân Do Thái mà thôi.

Tại hội đường Nazaret, Đức Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra” (Lc 4,21-22).

Thế nhưng, Đức Giêsu đã bị người đồng hương chống đối, còn muốn giết đi nữa. Họ chấp nhận sứ điệp của Ngài, nhưng không nhận sứ điệp từ nơi Ngài, vì Ngài cũng chỉ là một người Nazareth như ai, con bác thợ mộc Giuse…

Hơn nữa, Đức Giêsu cũng giống như vị ngôn sứ, được Thánh Thần xức dầu, và sai đi rao giảng Tin mừng. Vì vậy, số phận của Đức Giêsu cũng chẳng khác số phận của các ngôn sứ, bởi vì “Không một ngôn sứ nào được đón tiếp nơi quê hương mình”.

Cổ nhân thường nói: “Bụt nhà không thiêng” hay “Gần chùa gọi bụt bằng anh”… Thiết tưởng, thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị và không ai thoát cần loại bỏ, lên án và đổi mới…

Là người, “bạn & tôi”qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, cũng là ngôn sứ của Thiên Chúa, đó là một trong ba chức năng của Đức Kitô mà mọi người được tham gia: “tư tế, ngôn sứ, vương đế”.

Ước gì, mỗi Kitô hữu có sứ mạng loan báo Tin mừng cho người khác. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi mọi người phải can đảm và hăng say thi hành trong cuộc sống, bằng chứng tá sống động, mặc dầu bị người ta chối bỏ hay chống đối.

Ước chi, “bạn & tôi” biết xóa bỏ thành kiến và trong năm mới xin Chúa ban ơn can đảm mới, hăng say mới, hy sinh mới, và trung thành với Chúa và với nhau mãi. Amen

Về mục lục

.

THÀNH KIẾN.

Anphong Nguyễn Công Minh

Hôm nay Bài Tin Mừng Luca thuật lại việc Chúa Giêsu vinh qui về làng sau khi đã nổi được một ít danh trên thành Capharnaum. Nhưng danh gì thì danh, danh đâu mặc kệ, người dân làng quê Nazareth vẫn cứ nhìn chàng Giêsu là con trai ông già Giuse thợ mộc. (Đúng ra là thợ tạp dịch, chứ thợ mộc cũng có giá rồi). Nhìn như thế là nhìn bằng cặp mắt xem thường: “Nào chàng này chẳng phải Giêsu là con trai của ông Giuse đó sao?” (chứ đâu phải con nghị này tướng kia đâu !)

Vậy đề tài của chúng ta sẽ là “thành kiến.” Thành kiến là khi chúng ta nhìn (kiến là thấy, là nhìn) ai đó, mà chúng ta có sẵn cái nhìn nào đó về người ấy (thành là xong, có sẵn), mà thường là cái có sẵn xấu. Cái có sẵn tốt, người ta không gọi là thành kiến. Xem ông ta là thánh, không phải “thành kiến”, mà coi bà ta là quỉ, quỉ cái, thì đích thị là thành kiến.

Sách Liệt Tử thuật chuyện có người kia làm mất cái búa, nghi cho đứa con người láng giềng lấy trộm. Nghi nó ăn trộm tức là tạo thành kiến (thấy sẵn) trong nó là tên ăn trộm, nên anh trông dáng nó đi: rõ là đứa ăn trộm búa. Nhìn vẻ mặt nó: rõ là đứa ăn trộm búa. Thấy nó cử động: rõ là đứa ăn trộm búa. Nhất cử nhất động của nó không một tý gì là không phải của một đứa ăn trộm búa. Tối hôm đó, người ấy bới trong góc nhà, thấy lại cái búa. Hôm sau, trông đứa trẻ con nhà láng giềng, cử động nhất nhất không một tí gì là giống đứa ăn trộm búa nữa.

Thành kiến quả là tai hại độc ác. Tại nó mà sự giao thiệp giữa con người và con người trong xã hội từ xưa đến nay trở thành vô cùng gay go phức tạp.

Thành kiến thường do đâu mà có, các nhà tâm lý kể cho ta nghe khá dài, ta không liệt kê tại đây, chỉ tóm bằng chữ GATO, Ghen Ăn Tức Ở.

Ta, người có Đạo, nhìn kẻ không cùng Đạo với ta là kẻ ngoại Đạo với nghĩa hơi khinh thường: “Ôi chấp gì tên ngoại đạo đó.” Nhưng có chắc gì kẻ có Đạo như ta bác ái thương người như kẻ ngoại đạo kia không, mà Karl Rahner gọi là “Kitô hữu vô danh,” còn chúng ta kẻ mang danh Kitô hữu, nhưng lại là “Kitô hữu vô thần.”

Ta, người Đạo gốc nhìn kẻ kia là Đạo theo với cái nhìn tự hào về mình. Nhưng ai lại không phải là Đạo theo. Không theo sao theo vào được Đạo. Giống như người con ruột kia tự hào khi chỉ cô gái nọ mà nói: “cô ta là con nuôi đó.” Tôi xin nói. “Tôi cũng là con nuôi.” Ai cũng là con nuôi, không nuôi làm sao sống đến bây giờ. Thì cũng vậy, ai cũng là Đạo theo hết, không theo làm sao trèo vào được Đạo. Tự hào đạo gốc mà xem lễ dưới gốc cây còn tệ hơn đạo theo mà leo lên cao, vào ghế đầu ngồi đàng hoàng.

Vì thế đừng có thành kiến gì về ai. Thành kiến làm cho người ta mù quáng, đến nỗi không thể nhận ra đâu là sự thật, và khó lòng có được nhận xét đúng đắn về người khác. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu trở về thăm quê nhà Nadarét. Những người đồng hương tuy thán phục lời giảng của Người, nhưng vì có thành kiến về gia đình tầm thường của Người, nên đã không chấp nhận sứ mệnh Thiên Sai của Người. Họ muốn thấy Người làm phép lạ để chứng minh sứ mệnh ấy. Khi không được thoả mãn, và nhất là sau khi nghe Người không phân biệt dân Do Thái với dân ngoại, dân thành ngoại giáo Ca-phác-na-um hay dân Nadarét đồng hương…thì họ đã nổi giận và tìm cách giết hại Người.

A Lưu là tên tiểu đồng. Nó thực là ngây ngô, không được việc gì cả. Vậy mà Chu Nguyên Tố nuôi nó suốt đời. Lúc ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn suốt buổi mà không sạch được cái buồng con. Ông giận mắng thì nó quăng chổi, lẩm bẩm: “Ông quét giỏi thì phiền đến tôi làm gì ?” Khi ông đi vắng, sai nó trực ngoài cửa, dù khách quen đến, nó cũng không nhớ được tên ai. Có hỏi, thì nó nói: người ấy lùn mà béo … Người ấy gầy mà lắm râu … người ấy xinh đẹp … người ấy cao tuổi và chống gậy… . Đến khi nó liệu chừng không nhớ xuể, nó đóng cửa lại, không cho ai vào nữa.

Nhà có cái ghế gãy chân, ông sai nó đi chặt cây có chạc ba để chữa lại. Nó cầm búa, cưa, đi khắp vườn. Hết ngày về nó chìa hai ngón tay làm hiệu và nói: “Cành cây có chạc đều chĩa lên cả, không có cành nào chúc xuống đất”. Cả nhà đều cười.

Trước sân có vài cây liễu mới trồng ông sợ trẻ láng giềng đến nghịch hỏng, sai nó trông nom giùm. Đến lúc nó vào ăn cơm, nó nhổ cả cây lên mà cất đi một chỗ. Công việc nó làm, nhiều chuyện đáng cười như thế cả.

Ông Chu Nguyên Tố là người viết chữ chân tốt mà vẽ lại giởi lắm. Một hôm, ông hòa phấn với mực để vẽ, thấy A Lưu, ông hỏi đùa: “Mày vẽ được không ?”. A Lưu đáp: “Khó gì mà không được”. Ông bảo vẽ, A Lưu vẻ nét đậm, nét nhạt, nét xa, nét gần y như người xưa nay vốn đã biết vẽ. Ông thử luôn mấy lần, lần nào A Lưu cũng vẽ được như ý cả. Từ bấy giờ, ông dùng tới A Lưu luôn, không lúc nào rời. Sau A Lưu nổi tiếng là một nhà danh họa. (trích Lục Dung)

Câu chuyện dường như cố ý nêu lên những cái ngây ngô đờ đẫn… để rồi đưa ra một nhận xét bất ngờ của Hàn Tín dụng quân: “dụng quân như dụng mộc.” Trong trời đất, không vật nào là vật bỏ, chỉ vì ta không biết dùng do thành kiến mà phí uổng không biết bao nhiêu là nhân tài.

Nhưng có tiểu đồng A Lưu cũng phải có ông chủ Chu Nguyên Tố. Có Hàn Tín phải có Trương Lương. Trong ngành giáo dục ngày nay, không thiếu chi A Lưu. Chỉ có Chu Nguyên Tố, kẻ biết nhìn người, không thành kiến, thật là hiếm hoi, có thể đếm được trên đầu ngón tay.

Phần ta người Kitô hữu, có khi ta cũng như người Nazaret xưa, vì thành kiến mà không nhận ra Đức Kitô. Thánh Martino thành Tours không thành kiến nên thấy được Vua Kitô qua hình dạng người ăn xin khi thánh nhân cắt nửa vạt áo tặng kẻ ăn mày rét lạnh, và ban đêm Vua Giêsu khoác mảnh áo đó đến với Martino. Thánh Phanxicô giục thành kiến ra sau để nhận ra Chúa Kitô nơi người phung hủi. Phanxicô ôm hôn người phung. Và cuối thế kỉ 20 vừa qua, khuôn mặt nổi bật của nhân loại, mẹ Têrêxa Calcutta, không hề có thành kiến, đã nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô ở khắp nơi, nằm la liệt gần chết. Mẹ và con cái mẹ đem về để Chúa Kitô có cái chết xứng đáng. Nâng niu người hấp hối như nâng niu Mình Thánh Chúa.

Einstein có nói, phá vỡ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ một nhân nguyên tử. Trên thế giới này mấy nước đã làm được chuyện đó: phá vỡ nhân nguyên tử để chế ra bom nguyên tử. Ấy vậy mà chế bom nguyên tử còn dễ hơn phá vỡ thành kiến.

Khi vợ nhìn người chồng với thành kiến là “đồ lười” thì chồng có chăm đến mấy cũng chẳng được điểm.

Khi chồng nhìn vợ bằng thành kiến “đồ lăng loàn” thì vợ có cố tu thân đến mấy cũng chẳng xoá tan thành kiến nơi chồng.

Khi con cái nhìn cha mẹ như là ông kẹ, là kỳ đà cản mũi, thì cha mẹ có làm gì nâng đỡ con, cũng bị con hiểu sai là cản trở.

Khi cha mẹ nhìn con cái thấy chỉ là một “lũ yêu” thì con cái nhiều khi thành lũ yêu thật, chẳng được tích sự gì.

Chúng ta cầu xin Chúa, Đấng toàn năng có thể làm được mọi việc, cho mỗi người chúng ta bớt thành kiến trong cách nhìn người để nhận ra nơi anh chàng Giêsu, cà lơ phất phơ ngoài đường, con bác thợ, là Chúa Kitô để không xua đuổi Người đi, và không tìm cách giết Ngài như dân làng Nazaret xưa. Amen.

Về mục lục

.

ƠN CỨU ĐỘ NHƯNG KHÔNG CỦA CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội Đường Nazaret, Chúa Giêsu không những đã nói rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để hoàn tất, để làm “ứng nghiệm” tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo, mà còn cho những người đồng hương của Ngài biết những chiều kích sâu xa của ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho con người.

  1. Trước hết, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính thần linh

Đức Kitô không loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ con người, cho dù người đó là một anh hùng, hay một siêu nhân, mà Ngài loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải là một nhà cách mạng, một nhà giải phóng dân tộc thuần tuý phàm trần. Do đó, ơn cứu độ mà Ngài đem đến không phải là ơn cứu độ thuộc hạ giới. Ơn cứu độ của Ngài là ơn cứu độ đến từ thượng giới, vì Ngài là Đấng Thiên Sai, Đấng từ Thiên Chúa Cha mà đến.

Và chính vì ơn cứu độ đến từ thượng giới, nên để có thể đón nhận, cần có niềm tin. Điều này dân làng Nazaret không có. Mặc dù, họ hài lòng với sứ điệp của Chúa Giêsu, họ vỗ tay tán thưởng những lời từ miệng Người thốt ra; nhưng họ đã từ chối đón nhận sứ điệp ấy từ Người. Trở ngại lớn nhất nơi họ chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4, 22). Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó, nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth.

Tôi có thường “đóng khung” Thiên Chúa và các mạc khải của Ngài trong cái nhìn hẹp hòi thành kiến không?

  1. Thứ đến, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính nhưng không

Ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô hoàn toàn xuất phát tình yêu nhưng không của Ngài, chứ không phải vì con người xứng đáng. Thân phận con người là tội lỗi và ngàn lần bất xứng. Không ai có quyền đòi hỏi và cho rằng mình có công trạng.

Vì thế, để có thể đón nhận ơn cứu độ nhưng không ấy, cần có một thái độ khác đó là thái độ chân thành khiêm tốn. Dân làng Nazareth nghĩ rằng mình xứng đáng với những phép lạ và những đặc ân đến từ Chúa Giêsu. Họ thiếu sự chân thành và khiêm tốn để đón nhận. Hơn thế, họ còn yêu sách đối với Chúa Giêsu: bắt Chúa Giêsu phải đáp ứng theo những đòi hỏi của họ, và vì thế khi Chúa Giêsu không đáp ứng theo ý muốn của họ, lập tức họ nổi giận trục xuất Ngài ra khỏi hội đường.

Tôi có thường đỏi hỏi, yêu sách Chúa làm theo ý mình hay lời cầu xin của mình vì nghĩ mình xứng đáng, mình có công đức hay không? Nếu tôi áp lực, yêu sách Chúa làm theo ý muốn của mình thì một ngày nào đó, tôi sẽ “nghỉ chơi” với Chúa, thậm chí là “khai tử” Chúa chỉ vì không được Chúa đáp ứng. (Dẫn chuyện minh hoạ: Phơi nắng Chúa Giêsu).

  1. Sau nữa, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính phổ quát

Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ của Ngài không dành cho một dân tộc, một quốc gia, hay một nhóm người nào. Tin Mừng cứu độ phải đến với hết mọi người (Lc 4,42); Tin Mừng không chỉ dành cho một số người độc quyền. Những người không phải Do Thái không nằm bên ngoài ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ tước hiệu “bà con”, “họ hàng”, “đồng hương đồng khói”, “dòng dõi Apraham”… đều không có ý nghĩa gì, càng không thể đổi lấy ơn cứu độ được.

Vì thế, để có thể xứng đáng đón nhận, cần có thái độ quảng đại và bao dung. Dân làng Nazareth vì cho rằng mình có đặc quyền đặc lợi, mình là “con cháu Abraham”, là “dân Chúa chọn”, là “người làng” của Chúa Giêsu, nên họ không muốn những người khác được hưởng ơn cứu độ. Vì thiếu sự quảng đại và bao dung, nên họ đã nổi giận khi Chúa Giêsu có vẻ đề cao dân ngoại, ưu tiên cho dân ngoại. Và cũng vì thiếu quảng đại và bao dung, nên khi Chúa Giêsu từ chối làm theo ý họ và ưu ái đối với họ, họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, theo kiểu “ăn không được thì đạp cho đổ”. Tắt một lời, vì hẹp hòi, không muốn cho dân ngoại được hưởng những ân huệ từ Thiên Chúa, nên dân làng Nazareth đã có ý hãm hại Chúa Giêsu, một người đồng hương với mình. Thật phũ phàng! Tin Mừng thánh Luca cho thấy rõ điều đó: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tới đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (Lc 4,29).

Tôi có nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa Giêsu, khi sống hẹp hòi ích kỷ không? Tôi có muốn giữ Chúa cho riêng mình, giữ chân lý do cho riêng mình, và giữ những ân huệ của Thiên Chúa cho riêng mình không?

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Antôn

Chúng ta thấy trong những ngày gần Tết nhiều người Việt sống khắp nơi trên thế giới trở về quê hương mừng Tết như thường nói: “Không nơi đâu đẹp bằng quê hương”, hay “Ta về ta tắp ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.”  Khi đề cập tới quê hương hay nói những điều đó là người ta ngụ ý rằng: bất cứ ai cũng yêu mến quê hương mình, yêu quí nơi đã được sinh ra và lớn lên.  Đây là nhận xét chung về tình cảm cá nhân mỗi người dành cho quê hương đất nước, đặc biệt nơi sinh trưởng. Còn về phương diện tình cảm cá nhân dành cho những người đồng hương hay cùng một quốc gia thì khác.  Có người này và có người khác; có những hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác. Chúng ta thấy điều này rõ ràng ngay tại những cộng đoàn Công giáo người Việt ở quốc gia Hoa kỳ này.  Nhiều người nhận ra những giá trị tinh thần và tha thiết với những gì đã thấm vào dòng máu, hòa lẫn chung vào thân thể của mình, vượt qua những giới hạn cá nhân và hoàn cảnh, tụ họp vào các giáo xứ để đùm bọc và nâng đỡ nhau sống đức tin theo tinh thần người Việt.  Và có những người Việt khác vì lý do cá nhân này, lý do nọ từ chối không muốn gia nhập giáo xứ, mà gia nhập và sinh hoạt trong những giáo xứ người Hoa kỳ hay người Mễ.  Có lẽ vì quan niệm cố hữu của người Việt chúng ta: “Bụt nhà không thiêng.”  Và điều này phản ảnh một phần nào câu nói bất hủ của Chúa Giê-su trong bài Tin mừng: “Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình.”  Chúa Giê-su đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Người, tại quê hương Na-da-rét của Người.

Bài Tin mừng cho chúng ta biết sau hơn một năm giảng dạy tại nhiều nơi, Chúa trở về quê hương Na-da-rét.  Hôm ấy đúng vào ngày Sa-bát, Chúa đến hội đường và người ta mời ngài giảng dạy.  Theo thông lệ, trước hết Người cũng đọc Sách Thánh rồi giảng dạy: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe.”  Tin mừng còn ghi lại mấy câu tuyên bố của Chúa Giê-su, nhưng câu nói đó cũng đủ để cho mọi người biết Người muốn giảng dạy điều gì.

Thật vậy, bài Tin mừng đưa đến nhiều câu hỏi thí dụ như: “Tại sao và lý do gì đã làm cuộc thăm viếng và giảng dạy của Chúa Giê-su bắt đầu rất tốt đẹp sau đó trở thành thù ghét?”  Ban đầu: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” Nhưng sau đó là đổ vỡ hoàn toàn, trở nên tẩy chay, thù ghét và muốn thủ tiêu: “Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Người ra khỏi thành. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.”  Một câu hỏi khác: “Làm sao Chúa có thể thoát được mà không bị thương tích hay hề hấn gì?”  Và câu hỏi khác: “Đây có phải là sự tóm tắt những sự kiện đã xảy ra nhiều lần, trong những cuộc thăm viếng của Chúa Giê-su trước đây, báo trước những gì sẽ xảy ra đàng trước trong sứ vụ của Người?”

Đúng vậy, với lời tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”, Chúa Giê-su khẳng định và muốn cho họ biết Người là ai, là người được Thiên Chúa sai đến, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế mà mọi người đang trông đợi.  Nghe Chúa nói vậy, những người hiện diện hết sức bực tức, nổi giận kéo Người ra khỏi hội đường, đưa Người lên núi để xô Người xuống vực thẳm cho chết đi, nhưng giờ Người chưa đến, nên họ không làm gì được Người.  Dân làng Na-da-rét không nhận Chúa, từ chối và xua đuổi Người, tuy họ đã nghe lời Người giảng dạy và những phép lạ Người đã làm, vì bản thân “con bác thợ mộc” của Người, vì sứ mệnh, lời giảng dạy và mục đích của Người không phù hợp, không thuận với quan niệm và ý muốn của họ.

Thật ra Thánh Lu-ca không chú ý đến, và cũng không trả lời trực tiếp cho những thắc mắc trên của chúng ta, nhưng cho chúng ta biết sự kiện: dân chúng Na-da-rét không coi Chúa Giê-su là một người đặc biệt, chỉ là một con người tầm thường và còn tầm thường hơn họ.  Có lẽ Thánh Lu-ca muốn cảnh báo cho chúng ta biết và ám chỉ sứ vụ rao giảng và chữa lành của Chúa Giê-su bắt đầu rất nổi tiếng trong quần chúng, nhưng dần dần dân chúng hiểu được ý nghĩa lời giảng dạy và hành động của Người cho nên họ từ bực tức, ganh ghét, thù hằn đến muốn giết Người.  Hay Thánh Lu-ca muốn dạy cho chúng ta biết chúng ta không thể uốn nắn, hay muốn Chúa Giê-su phải giảng dạy theo ý chúng ta muốn, thích, hay hành động theo cách thức của chúng ta làm, hay sống theo đường lối của chúng ta, mà chúng ta phải sống theo lời giảng dạy, giáo huấn của Người thì mới được hưởng ơn cứu độ và hạnh phúc Nước Trời.

Qua thái độ của những người Na-da-rét đối với Chúa trong bài Tin mừng, chúng ta có thể nhận biết họ khinh thường và không có lòng tin vào Người.  Và qua sự kiện đó cho chúng ta một bài học hữu ích, đó là dựa vào thành kiến để đánh giá người khác. Vì thành kiến, vì tự ái, vì ganh ghét, nhiều khi chúng ta phán đoán, đánh giá người khác một cách hấp tấp, vội vàng hay thiếu trung thực, nhiều khi còn chỉ trích, nói xấu và vu khống, đưa đến tranh chấp, chia rẽ và thù ghét.  Chúng ta hãy nhớ người xét đoán hồ đồ, không trung thực hay theo thành kiến không sống được với ai và cũng không ai dám chơi, bạn bè thân thiết với họ.  Họ mất niềm tin nơi mọi người, mọi người lánh xa họ.  Vì vậy chúng ta cố gắng sữa chữa những tật xấu để đời sống và những mối liên hệ với người khác tốt đẹp hơn.

Một điểm quan trọng nữa mà chúng ta phải chú ý là bác ái hay tình yêu thương trong bài đọc 2 hôm nay thật hay và đầy ý nghĩa mà chúng ta thường xử dụng hay nghe đọc trong Thánh lễ Hôn phối. Thật vậy, đó là chủ đích và ước vọng của mỗi gia đình vợ chồng.  Nhưng những điều này không phải tự nhiên mà đến.  Muốn đạt được tình yêu và hạnh phúc này, gia đình vợ chồng phải cố gắng, hy sinh và quảng đại.

Thánh Phao-lô nhấn mạnh cho chúng ta biết tình yêu thương không phải là ích kỷ, kiêu hãnh, giận dữ và ý nghĩ xấu. Tình yêu thương là kiên tâm và nhân hậu, tha thứ, tin tưởng và trông cậy.  Nếu nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và khôn ngoan, có đầy lòng tin chuyển dời được núi non, nếu  phân phát hết của cải để nuôi kẻ nghèo khó, mà không có tình yêu thương, bác ái thì cuộc sống Ki-tô hữu sẽ không có gì, vô nghĩa.  Vì vậy, chúng ta phải đặt trọng tâm cuộc sống vào tình yêu thương, bác ái và quảng đại.

Xin kính chúc tất cả ông bà anh chị em một Mùa Xuân, một Năm Mới Kỷ Hợi an bình, sức khỏe tốt và tràn đầy ơn lành của Chúa.

Về mục lục

.

 

Exit mobile version