CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: Gr 1,4-5,17-19; 1 Cr 12,31-13,13; Lc 4,21-30
——-
1. Ngôn sứ của tình thương (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Điều kiện để đón tiếp Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Người Việt hay dìm hàng (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Tin Chúa xót thương hay mong đợi phép lạ (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
5. Ghen ghét và đố kỵ (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Tự tôn và khinh người (Trầm Thiên Thu)
7. Nguyên nhân Đức Giêsu bị khước từ tại quê hương (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
8. Hãy như Đức Giêsu (AM. Trần Bình An)
9. Cần cái nhìn mới để đón nhận sự thật (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
10. Đức ái (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
11. Mầu nhiệm Ơn gọi (Lm. GB. Văn Hào, SDB)
12. Khước từ Đức Giêsu Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
13. Chúa Nhật 4 Thường niên_C (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)
14. Thi hành sứ vụ ngôn sứ hôm nay (Lm. Đan Vinh)
15. Chúa Giêsu, vị thầy thuốc cao tay đầy thương xót (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
16. Vượt qua khó khăn (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
17. Nghe và đón nhận lời sự thật Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
18. Không được chấp nhận (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
19. Hãy là ngôn sứ của Chúa Huệ Minh)
20. Lạy Chúa, xin mở rộng tim con (Dã Quỳ)
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Bài Tin Mừng được đọc trong Thánh lễ hôm nay nối tiếp Chúa nhật trước, trong khung cảnh Chúa Giêsu về thăm quê hương, nhưng mang nội dung nhấn mạnh tới một khía cạnh khác. Nếu Chúa nhật trước, chúng ta dừng lại ở sự ngạc nhiên, thán phục của bà con đồng hương, thì hôm nay, chúng ta thấy cuộc tranh luận gay gắt giữa Chúa Giêsu và dân thành Nagiarét, và kết cục là những người đồng hương muốn giết Chúa bằng cách xô Người xuống vực vì tức giận.
Sứ mạng của Chúa Giêsu vừa huy hoàng vừa gian nan. Người được người ta tung hô, ca tụng, nhưng cũng bị người ta chống đối, sỉ nhục. Chúa Giêsu đã kết thúc cuộc đời trần thế bằng cái chết đau khổ trên thập giá. Lý do người ta lên án tử cho Người là vì Người dám nhận mình là Con Thiên Chúa. Vừa được ca ngợi, vừa bị phê phán, đó là thân phận chung của các ngôn sứ trong Cựu ước (hay còn gọi là các tiên tri). Các ông là những người được Chúa sai đi để thông truyền sứ điệp của Ngài, kêu gọi dân từ bỏ lầm lạc, trở về với Chúa trong đường ngay nẻo chính. Hầu hết các vị ngôn sứ trong Cựu ước đều gặp nhiều chống đối gay gắt, nhiều vị đã bị giết chết. Chúa Giêsu cũng đã phải chấp nhận thân phận của một ngôn sứ, giống như các ngôn sứ thời Cựu ước.
Với một sứ mạng cao cả và gian nan, các ngôn sứ được Chúa sai đi và Ngài luôn ở cùng họ. Bài đọc I đã diễn tả điều ấy. Giêrêmia là một ngôn sứ thi hành sứ mạng trong một bối cảnh rất phức tạp về mặt tôn giáo, chính trị và xã hội, vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ông đã gặp nhiều đau khổ, vì bị nghi kỵ, chống đối và ngược đãi. Chúa đã khích lệ ông và bảo đảm với ông: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi nhưng không làm gì được, vì có ta ở với người để giải thoát ngươi”. Chúa đã giữ lời hứa với vị Ngôn sứ, giúp cho sứ mạng của ông sinh hoa kết trái.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, mỗi tín hữu chúng ta cũng được Chúa đặt làm ngôn sứ, tức là người được sai đi để chuyển tải Lời của Ngài cho cuộc sống hôm nay. Đây là một vinh dự và cũng là một trách nhiệm mà chúng ta thường hay quên lãng. Có thể chúng ta đặt câu hỏi: “Tôi có thể làm gì để chu toàn trách nhiệm một ngôn sứ?”. Thực hiện sứ vụ ngôn sứ là bắt chước noi gương một phần hành động của Chúa Giêsu, sống như Người đã sống. Bởi lẽ trọn vẹn cuộc sống của Chúa Giêsu là thực thi nhiệm vụ ngôn sứ để ý của Chúa Cha được thành toàn. Một cách cụ thể, hôm nay Thánh Phaolô đề nghị chúng ta một việc đơn giản, ai cũng có thể làm được, đó là thực thi đức mến. Đoạn trích thư gửi tín hữu Côrinhtô hôm nay là một trong những áng văn chương tuyệt vời của Tân ước, được gọi là “Bài ca đức mến”. Đức mến là điều kiện cần thiết làm cho những việc làm của chúng ta có giá trị, là nền tảng của trọn vẹn cuộc sống và là động lực thúc đẩy mọi hành động của chúng ta. Đức mến giúp con người nên hoàn thiện và sống lạc quan yêu đời trong một xã hội còn nhiều bất trắc. Thiếu đức mến, dù có hoạt động lao tâm khổ tứ đến mấy cũng là vô ích. Đức mến vừa đem lại sự thanh thản trong tâm hồn, vừa giúp ta sống khoẻ thân xác. Nội dung của Bài đọc II cần được đọc và suy tư nghiêm túc để có thể áp dụng trong đời sống Kitô hữu, giúp chúng ta sống vui, sống khoẻ và hạnh phúc.
Nếu chúng ta có ơn gọi làm ngôn sứ, đương nhiên chúng ta cũng phải trải qua những khó khăn hy sinh để chu toàn sứ mạng cao cả này. Có người đặt câu hỏi: “Tại sao Đạo Chúa dạy những điều tốt lành như vậy, mà vẫn có ít người theo, thậm chí còn có người chống đối?”. Thực tại này đã có từ thời các ngôn sứ của Cựu ước. Vấn đề này cũng đã xảy ra với Chúa Giêsu, rồi trong suốt lịch sử Giáo Hội đến chúng ta hôm nay. Cuộc tranh đấu giữa Sự thật và sự gian dối, giữa Ánh sáng và tối tăm, giữa Yêu thương và thù hận, luôn là cuộc giằng co khốc liệt. Chúa đang mời gọi chúng ta để làm cho Tình yêu chiến thắng hận thù, Ánh sáng chiến thắng tối tăm và Sự thật chiến thắng gian dối. Như thế, trong cuộc sống trần gian hôm nay, chúng ta sẽ trở thành những ngôn sứ của tình thương.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thoạt nghe Chúa rao giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết: “Người đã đến nhà nhưng người nhà không nhận biết Người”. Tại sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc. Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem cho ta niềm tin. Niềm tin đã là khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất: được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước của Chúa.
Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng. Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm phép lạ đê giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ khi ma quỷ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không làm phép lạ để thoả mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy nghĩ của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi. Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải bắt đầu và bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn chuyện tiên tri Elia ở nhà bà goá Sarepta trong thời hạn hán, làm cho bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn nhau.
Tôi là người có đạo. Nhưng biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xin Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để tôi trở nên tông đồ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
- Bạn khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có đúng không?
- Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được điều gì? Để được may mắn, khỏi tai hoạ, hay để được hiểu biết, yêu mến Chúa?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Người Việt có câu “thà chết cả đống còn hơn sống một mình”. Đây là câu cô đọng về thói đố kỵ, không muốn ai hơn mình, đôi khi lại còn muốn kéo mọi người xuống ngang bằng với mình. Tôi cũng từng nghe một người đã nói giỡn vui rằng: “nếu mỗi quốc gia đều có một chiếc chảo dầu dưới âm phủ cho những kẻ phạm tội bị thảy vào thì chắc chắn chảo dầu của người Việt Nam không cần đậy nắp. Đơn giản, nếu kẻ nào ngoi lên là ngay lập tức bị kéo xuống”.
Sự đố kỵ là lý do dẫn đến người Việt hay ghen tương, dìm hàng, nói xấu, tẩy chay nhau. Sự đố kỵ ấy lại thường xảy ra nơi những bà con láng giềng với nhau. Hai nhà đang sống cạnh nhau có thể rất thân thiết khi cơ hàn như nhau, nhưng chắc chắn sẽ có chuyện khi một nhà tự dưng phất lên. Sống trong một tập thể dường như có ai thành công thì ắt sẽ bị gièm pha, nhòm ngó.
Sự đố kỵ không chỉ muốn người khác thua kém mình mà thậm chí còn cầu mong cho họ gặp thất bại cay đắng mới hả dạ.
Có một nhà buôn rất sùng đạo. Dù hoàn cảnh cuộc sống vất vả thế nào thì cũng không bỏ việc cúng vái thần thánh. Lời khẩn cầu vang lên tới trời, và thần tiên xuất hiện và ban cho ông ta những điều ước, nhưng với điều kiện sẽ cho hàng xóm ông được gấp đôi. Ông vui mừng, nhưng rồi lại buồn, vì nếu:
– Bây giờ mình xin một chiếc xe thì sợ tiên lại cho họ hai chiếc.
– Xin một căn nhà thì sợ họ được hai căn.
– Xin 1 tỷ thì hàng xóm được 2 tỷ.
– Và cứ thế, ông đưa ra đủ thứ ước muốn, nhưng lại không chọn gì cả, vì sợ mình được một thì người khác được hai.
– Cuối cùng ông quyết định: xin thần tiên cho con bị mù một mắt. Vì ông nghĩ nếu mình bị mù một thì người kia sẽ bị mù hai con mắt.
Những người biệt phái năm xưa dường như cũng muốn dìm hàng với Chúa Giê-su. Họ không muốn Chúa Giê-su nổi lên giữa họ. Họ chỉ muốn Chúa sống bình dị an phận trong sự dẫn dắt của họ. Đó là lý do họ gièm pha, khó chịu khi Chúa Giê-su nổi lên với lời giảng dạy và việc làm đầy uy quyền. Họ không phục vì bản tính cố chấp không muốn ai hơn mình. Họ đã đánh mất niềm vui khi nhìn thấy thành công của người đồng hương. Và dường như Chúa Giê-su cũng không thể làm điều gì cho họ vì họ quá cứng lòng tin.
Ở đời vẫn còn đó sự đố kỵ dẫn đến ghen tương mà làm hại lẫn nhau.
Tôi vẫn nghe những lời nói xấu ông A, bà B nhưng đều phát xuất từ ghen tỵ mà dựng chuyện bêu xấu nhau.
Tôi vẫn thấy những người làm việc tông đồ nhưng vẫn rỉ tai nhau để kết bè, kết phái để loại trừ nhau.
Tôi vẫn thấy những ý tốt bị mọi người loại trừ chỉ vì “trứng mà khôn hơn rận” nên cố chấp loại trừ nhau.
Tôi vẫn thấy những người môn đệ của Chúa vẫn đố kỵ dìm hàng nhau bằng nói xấu, gièm pha và bất hợp tác với nhau.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu sống bên nhau mà thôi đố kỵ nhau. Cuộc sống sẽ thăng tiến nếu ai cũng hợp tác và khích lệ nhau thay cho sự chê bai, dìm hàng nhau. Đặc biệt những người trong một tổ chức, một hội đoàn cần có tình yêu thương hiệp nhất với nhau. Xin đừng đố kỵ ghen tương với nhau nhưng luôn hợp tác và chia sẻ thành công và thất bại với nhau.
Xin Chúa giúp chúng ta học nơi Chúa Giê-su luôn hiền lành và khiêm nhường để hòa hợp với mọi người. Xin đừng vì cố chấp mà dèm pha lẫn nhau gây mất tình hiệp nhất trong cộng đoàn. Xin loại bỏ trong chúng ta tính đố kỵ để sống hòa hợp với nhau. Amen.
.
TIN CHÚA XÓT THƯƠNG HAY MONG ĐỢI PHÉP LẠ
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Giữa lời tuyên bố của Đức Giê-su và sự mong đợi của cử tọa tại hội đường Na-da-rét, quả có một khoảng cách quá lớn: trong khi Người mời gọi các cử tọa đặt niềm tin nơi Người là hiện thân của sức mạnh tình yêu Thiên Chúa (đối với người Do Thái thì thần khí chính là sức mạnh của Đức Chúa) đang loan báo cho họ một Tin Mừng tha thứ, trả tự do, làm sáng mắt và ban hồng ân, thì các đồng hương chỉ mong chờ Người cho họ chứng kiến một trong số các sự lạ mà họ đã nghe Người từng thi thố tại các nơi khác. Họ tự cho mình cái quyền đòi buộc Người làm điều đó, đơn giản vì họ là đồng hương của Người, vì họ quá quen biết Người…; thế rồi họ cảm thấy bị súc phạm ghê gớm khi Người từ chối đáp ứng nguyện vọng của họ, một chỉ đơn thuần mời gọi họ hãy đặt trọn niềm tin nơi Người; “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quí vị vừa nghe”.
Đặt trọn niềm tin nơi ‘Thiên Chúa yêu thương’ phải được coi như tâm điểm của Tin Mừng; tin có nghĩa là: dù chưa thấy hay không thấy, nhưng đã dám đặt cược trọn cuộc sống mình vào một Thiên Chúa yêu thương cứu độ. Dấu chứng duy nhất và bảo chứng vững chắc nhất cho niềm tin này chính là: con người Đức Giê-su Ki-tô; “Phúc thay những ai không thấy mà tin!” (Ga 20:27). Nơi con người Đức Giê-su, môn đệ Gio-an hay Phao-lô (và mỗi Ki-tô hữu chúng ta), nhờ đức tin, ‘đã thấy tận mắt, đã chiêm ngưỡng, đã chạm đến’ tình yêu Thiên Chúa. Nơi Người, ‘Thiên Chúa yêu thương’ đã rõ mồn một, đã hoàn toàn ứng nghiệm và là một hiện thực không thể chối cãi. Thế thì còn cần gì phải có một bằng chứng nào khác, nhất là khi ta đã có bằng chứng vững chắc nhất là cái chết và phục sinh của Đức Ki-tô Giê-su! Bằng chứng này hơn hẳn những phép lạ, dấu lạ hay bất cứ một ân huệ nào đó Người ban cho. Phao-lô đã không đưa ra bất cứ một sự kiện cụ thể nào để chứng minh rằng Thiên Chúa yêu thương mình, cho dầu những sự kiện lạ xảy ra trong đời ông không phải là hiếm. Gioan cũng vậy, ông cảm thấy Thầy Giê-su yêu thương mình mà không nêu rõ một ân huệ đặc biệt nào đã nhận được. Qua Thập Giá Đức Ki-tô các ông tin chắc như đinh đóng cột rằng: ‘Thiên Chúa yêu thương’, và niềm tin này không gì có thể chuyển lay; “Không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Đức Giê-su Ki-tô,… đấng yêu thương tôi và phó mộp mình cho tôi”.
Vậy mà các đồng hương Na-da-rét đòi được tận mắt chứng kiến một dấu lạ hay một phép lạ! Sau này, sẽ có nhiều người Do Thái khác cũng đòi điều tương tự, như điều kiện để họ tin vào Đức Giê-su; không may là nhiều Ki-tô hữu chúng ta cũng thường đòi được tận mắt chứng kiến phép lạ. Họ đòi niềm tin và cậy trông của họ phải dựa trên bằng chứng cụ thể, được kiểm chứng bằng phép lạ nhãn tiền xảy ra cho chính họ theo cách thức mà họ công nhận là phi thường… Và chỉ như thế họ mới bị thuyết phục và tin chắc rằng: Chúa quả thật yêu thương mình; còn nếu không cầu được ước thấy điều họ cầu khẩn, họ đâm ra hoài nghi về tình yêu vô hạn của Thiên Chúa.
Một lần kia, tôi viếng thăm đền thờ Consolata, một địa điểm hành hương danh tiếng của thành phố Torino, Italia. Trên vách tường khu hậu trường ngôi đền, theo thói quen bên đó, người ta trưng bày các bức vẽ do chính các thụ nhân phác họa lại các phép lạ mà họ đã nhận được. Thôi thì đủ thứ: thiên tai, chiến tranh, tai nạn đủ loại, bệnh tật… Đột nhiên có một ai đó thì thầm sau lưng tôi: “Mình có được gì đâu!” Tôi ngoái lại hỏi chuyện và được biết đứa con gái rượu của ông mới thiệt mạng sau một vụ tai nạn. Trong thời gian nó nằm bệnh viện, ông đã cầu nguyện, đã xin khấn mọi nơi…, thế mà nó vẫn chết; ông đâm ra chán nản: tại sao người khác được mà mình lại không? Tôi thành thật thương cảm với ông nhưng, biết sao được: vì điều đó xẩy ra không chỉ cho riêng ông. Tuy nhiên cái thiếu ở đây chính là niềm tin của ông chưa đặt trên câu khảng định chắc nịch của Đức Giê-su ngày nào: “hôm nay đã ứng nghiệm”.
Nhiều Ki-tô hữu chúng ta, trong số đó có thể có cả tôi nữa, đôi khi cũng đã từng hành sử như thế: nhận được một phép lạ vẫn hấp dẫn hơn cả việc rước Thánh Thể, được ơn Chúa soi sáng còn quan trọng hơn cả nhận được chính Người! Đối với những người như thế: ‘hôm nay vẫn chưa ứng nghiệm’, và họ nghĩ rằng mình còn phải chờ đợi dài dài hơn nữa. Họ được nói cho biết là Thiên Chúa yêu thương, nhưng còn mong chờ một dấu lạ, một ân huệ cụ thể để xác định điều đó thực sự ứng nghiệm cho mình. Phúc Âm đã viết quá nhiều về các phép lạ Chúa làm, nhưng có lẽ chính điều đó lại làm cho một số Ki-tô hữu bị lung lạc trong niềm tin chăng: họ chờ đợi phép lạ, hơn là tín thác vào ơn cứu độ đã được thông ban qua Thập Giá và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Lạy Chúa, xin cho con được ơn huệ vĩ đại nhất là không bao giờ mất niềm tin vào “Thiên Chúa xót thương”. Xin cho con không bao giờ tách mình ra khỏi Đức Ki-tô Giê-su, bảo chứng vững chắc nhất bảo đảm ‘Lời đó đã được ứng nghiệm’ cho riêng con. Ngay cả khi con không được chứng kiến dấu lạ, hay liên tục gặp phải các thử thách gian truân tư bề, xin vẫn duy trì nơi con niềm xác tín không hề lay chuyển rằng: ‘Thiên Chúa hằng yêu thương tôi’. Nhất là trong giờ phút được coi là bất hạnh nhất của cuộc đời: giờ chết, xin cho con vẫn đặt trọn niềm tin nơi Giê-su Ki- tô, Cứu Chúa của con. A-men.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Sáng thứ 5, ngày 21.01, lễ kính thánh Anê, trinh nữ tử đạo, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại nguyện đường thánh Marta. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã chia sẻ về sự ghen ghét và đố kỵ. Người ta có thể dùng lời nói mà giết hại lẫn nhau. Nhưng Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những tội lỗi xấu xa này.
“Bài đọc một trích sách Samuen thuật lại sự đố kỵ của Saun vua Ítraen, với Đavít. Sau chiến thắng vẻ vang trước người Philitinh, các phụ nữ từ khắp mọi thành của Ítraen kéo ra múa nhảy và ca hát rằng: ‘Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn’. Từ ngày đó, vua Saun nhìn Đavít với con mắt ghen tỵ và hoài nghi. Vua nghi ngờ sau này Đavít sẽ phản bội, và vì thế vua nảy sinh ý định giết Đavít. Nhưng sau đó, vua Saun đã nghe lời khuyên của người con trai mà suy nghĩ lại, không thực hiện ý đồ xấu xa của mình nữa. Ghen ghét là một căn bệnh sẽ dẫn đến sự đố kỵ.
Lòng đố kỵ thật xấu xa! Đó là một thái độ xấu. Sự ghen ghét và lòng đố kỵ phát triển trong lòng người ta như cỏ dại. Nó phát triển và không để cho bất kỳ thứ thảo mộc tốt lành nào có thể mọc lên được nữa. Thứ cỏ dại ấy sẽ khiến tâm hồn người ta ra tối tăm, bệnh hoạn. Nó không để cho con người được bình an nhưng khiến con tim luôn dằn vặt, đau đớn. Một con tim đố kỵ rất có thể dẫn đến mưu sát và chết chóc. Kinh Thánh đã nói rất rõ: Lòng ghen tị tội lỗi đã mang sự chết vào trần gian.
Lòng đố kỵ dẫn đến việc ‘giết’ những người có điều mà mình không có. Nhưng người ấy sẽ luôn đau khổ, vì một con tim ghen ghét và đố kỵ sẽ luôn khổ đau, một sự khổ đau muốn người khác phải chết. Chúng ta không phải đi đâu xa mới có thể thấy những điều này. Rất nhiều lần, trong cộng đoàn của chúng ta, vì ghen ghét, người ta đã giết hại nhau bằng miệng lưỡi và ngôn từ của mình. Khi không thích hay ghen ghét một điều gì đó, người ta bắt đầu xì xầm, bàn tán. Và chính những lời bàn tán đó sẽ giết chết người khác.
Tổng trấn Philatô thật thông minh và nhạy bén vì biết rằng chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Đức Giêsu. Lòng ghen tỵ – theo cách giải thích của Philatô, một người thông minh nhưng lại không đủ can đảm – chính là điều dẫn đến cái chết của Đức Giêsu. Các thượng tế trao nộp Ngài vì ghen tỵ. Bởi vậy, chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp chúng ta đừng vì ghen ghét, đố kỵ mà ra tay ‘trao nộp’ những người anh chị em của chúng ta trong cùng một xứ đạo, một cộng đoàn, một xóm làng, khiến họ phải đau khổ và phải chết. Ai cũng có những tội lỗi và thiếu sót, nhưng ai cũng có những nhân đức riêng của mình. Tội lỗi và nhân đức đều có nơi mỗi người. Chúng ta hãy để ý đến nhân đức và đừng giết chết người khác bằng những lời xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ.” (x.vietvatican.net).
Tin Mừng hôm nay kể về những lời xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ của dân làng Nadaret nên họ muốn giết Đức Giêsu.
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghĩ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.
Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì ?”.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu ? Họ xì xầm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Để cảnh tỉnh họ, Đức Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Êlia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Itraen phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Êlia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ítraen thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xarépta, miền Xiđôn.Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Êlisa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Itraen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Naaman ngoại giáo, người nước Syri.Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Đức Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành, kéo lên tận đỉnh núi, để xô xuống vực cho nát thịt tan xương.Lòng đố kỵ ganh ghét thật khủng khiếp! Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói : Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi. Sự kiện này là khởi điểm những thử thách gian nan và cái chết đang chờ đợi Đức Giêsu trong những tháng ngày sắp tới.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nadarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng ân vô giá.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta… Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (Đức TGM Ngô Quang Kiệt).
Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Tôi đã suy nghĩ và tự phản tỉnh nhiều về những điều này khi cầu nguyện. Tôi nhận thấy mình được mời gọi và chắc chắn mọi người cũng được mời gọi phải nhận ra những gì là ghen ghét, đố kỵ trong tâm hồn hình, vì chúng luôn dẫn tới đau khổ và chết chóc, không làm cho người ta vui mừng, hạnh phúc được. Người có lòng ghen ghét, đố kỵ luôn nghĩ rằng những điều tốt lành mà người khác có chống lại họ. Và đó là khởi đầu của bao nhiêu tội lỗi, gian ác khác. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ mở con tim mình ra cho những ghen ghét, đố kỵ đi vào, vì chúng chỉ dẫn tới đau khổ và chết chóc mà thôi”.
Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi người ta biết tôn trọng, cảm thông, tha thứ và nâng đỡ nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái bao dung. Cuộc sống thật đẹp khi người ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau.
Xin Chúa cho chúng con có một trái tim luôn rộng mở để yêu thương mọi người. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Tự tôn và khinh người là hai động thái có liên quan lẫn nhau. Vì tự tôn, người ta cho mình là “số dzách” hoặc “ngon” hơn nên khinh miệt người khác. Tự tôn là tự kiêu, là kiêu ngạo, trái ngược với khiêm nhường. Khiêm nhường như tòa nhà, khó khăn lắm mới xây dựng nên; kiêu ngạo như đốm lửa, nó có thể thiêu rụi cả tòa nhà bất cứ lúc nào. Pascal nhận xét rất chí lý: “Cái tôi là đáng ghét”.
Nữ văn sĩ Jane Austen (1775-1817), người Anh, tác giả của các tác phẩm nổi tiếng như “Sense and Sensibility” (Tri Thức và Tri Giác), “Pride and Prejudice” (Kiêu Hãnh và Định Kiến), so sánh: “Kiêu căng và kiêu hãnh là hai chuyện khác nhau, dù các từ ngữ này thường được dùng như đồng nghĩa. Một người có thể tự hào về bản thân mà không tự cao tự đại. Kiêu hãnh liên quan nhiều tới quan điểm của chúng ta về bản thân; kiêu căng là những gì chúng ta muốn người khác nghĩ về mình”.
Có lẽ ai cũng đã từng hơn một lần cảm nhận được sự khinh miệt của người khác – qua ánh mắt, lời nói, cử chỉ, động thái. Với người khiêm nhường, họ cảm thấy buồn nhưng im lặng. Với người chưa khiêm nhường đủ mức, họ cảm thấy tức giận, uất ức hoặc căm phẫn, và họ phản ứng dữ dội, thậm chí có người dám ra tay hại đối phương. Đã có những vụ giết người chỉ vì người ta thấy “đối phương” dám “nhìn đểu” mình hoặc “nhìn thấy ghét”.
Chúa Giêsu đã từng bị người ta coi thường, bị ghét tới “tận cùng bảng số”, dù Ngài chỉ làm những điều tốt lành, là Đấng chí thánh. Còn chúng ta, nếu có bị khinh thì cũng dễ hiểu, là lẽ thường tình. Thật vậy, chúng ta là phàm nhân còn nhiều lầm lỗi, có bị khinh cũng chẳng lạ chi cả. Vả lại, chính chúng ta cũng có những lúc cảm thấy “khó ưa” người khác – tức là coi thường hoặc khinh người khác. Vậy nếu chúng ta có bị khinh thì cũng đâu có… oan!
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự (x. Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Chính Thiên Chúa cũng xác định rạch ròi với ngôn sứ Giêrêmia: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1:5). Rõ ràng Ngài biết trước từ đời đời, quan phòng và tiền định từ khi chúng ta chưa là “hạt bụi” nào trên thế gian này. Ngài biết mọi sự đã và sẽ xảy ra để nâng đỡ chúng ta, để bảo bọc chúng ta theo lòng thương xót của Ngài: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5).
Thiên Chúa đã tuyển chọn Giêrêmia làm ngôn sứ, và Ngài giao trách nhiệm cho ông: “Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy NÓI với chúng tất cả NHỮNG GÌ Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn. Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” (Gr 1:17-19). Thế thì an tâm rồi, có Chúa là thành lũy, là sức mạnh, là khiên thuẫn,… đâu sợ gì nữa!
Tuy nhiên, chúng ta dễ “ngủ quên trong chiến thắng” và dễ ảo tưởng. Phàm nhân là thế đó! Biết vậy, tác giả Thánh Vịnh đã không dám ỷ lại, mà luôn phải cầu xin: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Vì Ngài công chính, xin cứu vớt và giải thoát con, ghé tai nghe và thương cứu độ. Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con, núi đá và thành trì bảo vệ con, chính là Ngài. Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ, khỏi móng vuốt phường nham hiểm và bọn dã man” (Tv 71:1-4). Cuộc sống rất nhiêu khê, “căng” lắm, ba thù (xác thịt, thế gian, và ma quỷ) lúc nào cũng trực chiến. Mà ma quỷ như virus, chỗ nào cũng có, lúc nào cũng có. Sơ sảy một chút là “chết” với nó ngay thôi!
Cảnh giác với ma quỷ và thế gian là chuyện dễ hiểu, nhưng đặc biệt là phải cảnh giác mới chính mình. Ngoại gián là đáng sợ, nhưng nội gián còn đáng sợ hơn. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh không dám lơ là, phải luôn tâm niệm ngày đêm: “Lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân. Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài, Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ, con ca tụng Ngài chẳng khi ngơi” (Tv 71:5-6). Chắc chắn chúng ta cũng không thể làm khác hơn được, vì đó là “bí quyết” tự bảo vệ mình để làm khỏe mạnh hệ miễn nhiễm tâm linh.
Không chỉ vậy, chúng ta còn phải quyết tâm và không ngại miệng thân thưa với Chúa: “Miệng con công bố Ngài chính trực, suốt ngày tường thuật ơn cứu độ Ngài ban. Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa, con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này, con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài” (Tv 71:15 và 17). Vâng, đó là điều cần thiết, và như Thánh Phêrô đã xác định với Sư phụ Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68-69).
Thánh Phaolô động viên và chỉ “mẹo” cho chúng ta: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả” (1 Cr 12:31). Bí quyết đó là gì? Đức ái, hoặc đức mến.
Trong Thư I gởi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô dành cả chương 13 (1 Cr 13:1-13) để giải thích chi tiết và cụ thể: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, cái có ngần có hạn sẽ biến đi. Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”.
Đức mến là đức ái, là biết yêu thương, biết động lòng trắc ẩn, biết thương xót – đặc biệt đối với những người hèn mọn, thấp cổ bé miệng. Thương xót từ ánh mắt, ý nghĩ, đôi tay, đôi tai, cái miệng, con tim,… Mẹ Teresa Calcutta nói: “Có tin thì mới yêu”. Còn Thánh Gioan nói: “Ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3:15). Con tim luôn quan trọng hơn các chi thể khác.
Tự tôn trái ngược với khiêm nhường, khinh người trái ngược với yêu thương, với lòng thương xót. Thế mà đôi khi chúng ta lại không cho là vậy, mà cứ tưởng mình đang tốt lành, vì chúng ta thể hiện lòng thương xót nhưng có điều kiện, có chọn lựa, tùy đối tượng. Đúng là ảo tưởng và giả hình mà!
Thánh Luca cho biết rằng Đức Giêsu được quyền năng Thần Khí thúc đẩy nên Ngài trở về miền Galilê, đến hội đường, mở sách và đọc Kinh Thánh, xong rồi ngồi xuống. Cả hội đường chăm chú nhìn Ngài. Ngài bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21). Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài.
Rồi Ngài nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” (Lc 4:23). Ngài nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4:24). Một sự thật quá đỗi phũ phàng!
Người Việt nói: “Giòi trong xương giòi ra”. Những người khinh chúng ta không ai xa lạ, những người ở gần chúng ta, thân nhân và bạn bè, vì người xa kẻ lạ có biết gì đâu. Thật vậy, chính các thân nhân đã bảo Chúa Giêsu là người mất trí, bị điên khùng, tâm thần (x. Mc 3:21) nên họ tìm cách bắt Ngài về. Còn các kinh sư nói Ngài bị quỷ ám (x. Mc 3:22). Kinh khủng thật!
Con gà tức nhau vì tiếng gáy. Con người cũng có máu… gà! Không làm được gì thì người ta chê là dở, nói là hèn, chửi là ngu, rồi người ta khinh miệt và “đì” tới bến; làm được gì thì người ta không tin, nói là khoe mẽ, rồi người ta gièm pha, giật dây, trù dập. Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, cỡ nào cũng nói được, kiểu nào cũng bị khinh.
Thật vậy, Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng họ nên biết rõ mười mươi. Ngài đặt vấn đề với họ: “Vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi” (Lc 4:25-27). Tại sao thế nhỉ? Họ chỉ “bới bèo ra bọ, vạch lông tìm vết”, chứ không chịu “soi gương” xem mặt mình thế nào. Và ngày nay, chúng ta cũng có hơn gì họ đâu, vẫn mỉa mai, ghen tức, phe cánh,… Vậy mà vẫn tưởng mình “ngon”, thế mới chết chứ!
Y như rằng, nghe Chúa Giêsu nói vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Cháy nhà ra mặt chuột. Nham hiểm thật! Thế nhưng họ không làm gì được Chúa Giêsu, và Ngài băng qua giữa họ mà đi.
Chúa còn bị ghen ghét thì chúng ta chẳng là chi cả! Tuy nhiên, nói với kẻ vừa ngu vừa cố chấp thì không bằng nói với đầu gối, nói với cục đá, vì họ cứ trơ trơ cái mặt dày ra. Hãy ghi nhớ triết lý này: “Đừng cãi lý với kẻ say, đừng bắt tay với kẻ xấu, đừng chiến đấu với kẻ liều, đừng nói nhiều với kẻ ngu!”.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận thức đúng đắn, biết mình và biết người, để không ảo tưởng mà tự tôn, không kiêu ngạo mà khinh người. Vâng, lạy Chúa, tất cả đều là Hồng Ân của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
NGUYÊN NHÂN ĐỨC GIÊSU BỊ KHƯỚC TỪ TẠI QUÊ HƯƠNG
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Ở đời, người ta vẫn thường nói: “Bụt nhà không thiêng”, để nói lên thái độ khinh thường những gì là gần gũi. Nguyên nhân dẫn đến thái độ trên chính là do thói kiêu ngạo, tự mãn…
Thật vậy, kiêu ngạo là đầu mối sinh ra mọi giống tội.
Trong lịch sử cứu độ, chúng ta thấy rất nhiều thái độ kiêu ngạo đã từng xảy ra. Chẳng hạn như:
Lucifer đã muốn ngang bằng Thiên Chúa; Adam và Eva đã chống lại lệnh truyền của Người (x St 3, 1-20). Dân chúng muốn xây tháp Babel chọc trời…(x. St 11, 1-9).
Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như thay thế Thiên Chúa, thì lại là mối họa cho con người, bởi lẽ nó được khởi xướng từ Ma Quỷ, qua thái độ kiêu ngạo.
Vì thế, không lạ gì, khi con người kiêu ngạo với Thiên Chúa, thì đương nhiêu họ cũng khước từ anh chị em đồng loại và có nguy cơ giết chết đời sống tâm linh, đánh mất đức tin và không đón nhận được nguồn sống từ Thiên Chúa. Suốt ngày, họ chỉ quay quắt với chính mình, và không chừng đánh mất luôn chính bản thân!
Như vậy, sự kiêu ngạo là con đường không thể đến với Thiên Chúa, ngược lại, nó dẫn đưa kẻ tự mãn đến hố diệt vong.
Đây chính là khinh nghiệm từ tạo thiên lập địa và đến muôn đời sau cho tất cả mọi người Kitô hữu.
- Vì kiêu ngạo nên họ không chấp nhận Đức Giêsu
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu bị đồng hương khước từ. Nguyên nhân cũng không là gì khác, đó chính là sự kiêu ngạo của người đồng hương.
Vì kiêu ngạo, nên trước mặt họ, Đức Giêsu chỉ là người bình thường nếu không muốn nói là tầm thường. Vì thế, mắt họ mờ đi và lương tâm trở nên trai cứng. Những dấu lạ điềm thiêng nơi Đức Giêsu đã không làm họ rung động và thay đổi đời sống, ngược lại, trước mặt họ: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”.
Tại sao vậy? Thưa sự kiêu ngạo đã là đó ngáng chỗ và lòng kiêu căng đã chiếm mất chỗ của Chúa trong cuộc đời của họ.
Trước thái độ trên, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu mà muôn đời vẫn giữ nguyên giá trị: Đó là: “Tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình”.
Qủa đúng như vậy, vì xét theo lẽ tự nhiên, một con người dù tài giỏi đến đâu, làm việc hiệu quả thế nào, và thành đạt trên nhiều lãnh vực hay nhiều nơi đi nữa, thì khi trở về gia đình, quê hương, họ luôn bị chính những người thân cận, làng xóm coi ở mức độ “thường thường bậc chung” vì lối suy nghĩ thiển cận, nên: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Điều này Đức Giêsu đã trải qua khi Ngài trở về quê hương của mình!
Chính vì sự coi thường này đã khiến cho ơn cứu độ của Thiên Chúa vuột mất khỏi họ, và suốt bao thế kỷ, họ vẫn đang chờ đợi một Đấng Kitô khác chứ không phải Đức Giêsu, Đấng đã hiện diện giữa họ cách đây hơn 2.000 năm.
- Thực trạng kiêu ngạo của con người hôm nay
Thực trạng ấy nơi những người đồng hương với Đức Giêsu khi xưa, hôm nay vẫn còn đây đó nơi chúng ta, vì: thói ích kỷ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, ác cảm, nên ta hay giam người anh chị em mình trong quá khứ và không bao giờ cho họ cơ hội để mở ra một tương lai tốt đẹp hơn…
Lý do họ không nhìn anh chị em mình dưới lăng kính màu hồng, mà toàn màu đen, bởi mắt họ đang đeo cặp kính râm của sự kiêu ngạo! Vì thế, lối suy nghĩ nông cạn, vu vơ và trống rỗng đã dẫn đến việc đánh giá, đối xử lệch lạc và thiếu công bằng cũng như bất nhân. Quả đúng là: “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”.
Những người nông nổi như vậy, họ đâu có hiểu được rằng: “Sông có khúc, người có lúc”.
Thật vậy, có người bị coi là không tốt, đồ bỏ, vứt đi ở chỗ này, nhưng họ lại được nhiều người coi trọng và kính nể ở một nơi khác… Còn có nhiều người được xem là nhẹ nhàng, tao nhã, lịch thiệp chốn quan trường, ngoài xã hội, nhưng khi về đến gia đình, họ lại là kẻ bất nhân, vô liêm sỉ với gia đình. Mở miệng ra là quát tháo, chửi bới nên “thượng thẳng tay, hạ thẳng chân” với người thân. Họ thuộc hạng “khôn nhà dại chợ”; “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”; … hay có những người ăn nói ngọt như đường mía lau, nhưng thực ra họ thuộc dạng: “Đội trên, đạp dưới” nên tâm địa bỉ ổi, xấu xa chẳng khác gì kẻ: “Miệng thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
- Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay vừa nhắc nhở, vừa mời gọi chúng ta ý thức sứ mạng tiên tri cũng như lối sống và cách thức loan báo Tin Mừng!
Trước tiên, sứ mạng tiên tri được trao ban cho chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Sứ mạng ấy càng thôi thúc mãnh liệt khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức.
Vì thế, mỗi người phải có trách nhiệm loan báo Lời Chúa, thi hành sứ mạng ở mọi nơi, mọi lúc, dù: “Thuận tiện hay không thuận tiện”; được ủng hộ hay chống đối, được đón nhận hay bị khước từ… được tôn vinh hay giết chết… Mặt khác, khi thi hành sứ vụ, chúng ta không thể chọn lựa theo ý mình, mà phải nói và làm điều Thiên Chúa muốn một cách trung thành (x. 1Cr 9,15-16); không được giả hình và bóp méo Lời Chúa (x. 2Cr 11,10 ; 13,8).
Thứ đến, khi thi hành sứ vụ, cần nhớ nằm lòng câu nói của Đức Giêsu: “Không tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”.
Bởi vì làm tiên tri không phải là chuyện đơn giản, mà là: “Vô cùng phong nhiêu”, phúc tạp! Vì Lời Chúa một đàng là lời tình yêu, nhưng một đàng là lời cật vấn lương tâm, vạch trần tội ác, bất công, gian dối, hình thức… nên: “Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước … Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con”(Ga 15,18-20).
Thật vậy, sứ mạng tiên tri đòi chúng ta chấp nhận lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào hay “hiệu ứng đám đông”. Đôi khi chấp nhận điên vì sứ vụ, khùng vì Tin Mừng, khi dám nói lên tiếng nói công lý, công bằng ngay tại những nơi nguy hiểm như: sòng bài, quán rượu, quán karaokê…, nơi những con người đang “quậy” tứ tung hay “điên cuồng” trong những cuộc chơi bất chính…
Khi lựa chọn như thế, sự lẻ loi, cô lập và chống đối hay phải thí mạng là lẽ đương nhiên!
Mong sao, sứ mạng và số phận tiên tri của Đức Giêsu trong thời của Ngài, cũng là của chúng ta trong thời đại hôm nay.
Ước gì vì: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” là lựa chọn của mỗi người Kitô hữu, vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” nên chúng ta “được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này”(Pl 2,15).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, để chúng con yêu cả những người thù ghét mình. Xin ban sức mạnh của Chúa, để chúng con can đảm, vững bước trên con đường thi hành sứ vụ.
Xin cho chúng con mặc lấy lòng bao dung, nhân hậu của Chúa, để chúng con đón nhận anh chị em chúng con trong tình Chúa và tình người. Amen.
.
AM. Trần Bình An
Những nét vẽ đơn giản, minh họa hình ảnh cô gái, chàng trai, kèm theo những dòng chữ theo mẫu câu: “Đây là… Hãy như…” đang làm đảo điên dân mạng. Đây là trò xuất phát từ nước ngoài, có tên gọi là “Be like Bill” ( Hãy như Bill ). Trên khắp các diễn đàn, trang mạng xã hội, hình ảnh về trào lưu này được chia sẻ rất nhiều. Ngay sau khi xuất hiện, dân mạng khắp nơi, trong đó có VN liền hưởng ứng nhiệt tình. Nhất là khi Trần Hoàng (hay còn được gọi là Hoàng Downy, 24 tuổi, cựu sinh viên Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội) “việt hóa” bộ ảnh “Be like Bill” thì trào lưu này ngày càng lan rộng, khiến dân mạng thích thú.
Trong loạt ảnh của Hoàng Downy, chàng trai này đã sử dụng những câu từ hài hước, dí dỏm để chọc cười người khác. Có thể kể như: “Đây là Hà. Hà độc thân. Hà vẫn vui vẻ và không than vãn về chuyện không có người yêu. Hà thông minh. Hãy như Hà”. Trong một ảnh khác, chàng trai này viết: “Quốc rất lịch sự. Quốc không gửi tin nhắn trêu chọc người khác. Quốc thường động viên an ủi bạn bè. Quốc là người tốt. Hãy như Quốc”…
Bộ ảnh này đã thu hút hơn 21.000 lượt like và hơn 6.400 lượt chia sẻ trên mạng xã hội. Bên cạnh đó còn thu hút hơn 7.400 bình luận. Dân mạng liên tục “tag” (đánh dấu) bạn bè có tên trùng hình ảnh mà Hoàng Downy mô tả để trêu bạn bè. Nhiều thành viên tìm xem và không thấy có tên giống mình trong loạt ảnh đã vội yêu cầu: “Làm tên cho tôi với”, “Còn thiếu tên này nè”… Ngay lập tức Hoàng Downy cập nhật bổ sung. Mọi người nhìn hình, đọc những dòng chữ hài hước và cười ngặt nghẽo. Thành viên Phan Vũ nhận xét: “Đây đúng là trò giúp xả stress. Nhìn mà không thể nhịn cười”. Còn thành viên Quốc Thanh thì bình luận: “Trò này thú vị thật, đọc vui nè”…
Cũng vì trào lưu này gây sốt, nhiều ứng dụng “Đây là… Hãy như…” đã được ra đời như: haychiase.net, appnet.com… thu hút hàng trăm ngàn lượt chơi của các thành viên. Ban đầu chỉ là trò hài hước để trêu đùa bạn bè, sau đó nhiều người đã sáng tạo và biến tấu lại để châm biếm, phản ánh những câu chuyện thời sự.
Với mẫu câu: “Đây là… Hãy như…”, dân mạng áp dụng vào những trường hợp “người tốt việc tốt” chia sẻ để mọi người làm theo như: “Đây là Nhung. Nhung tích cực tham gia các câu lạc bộ tình nguyện. Nhung hay đi từ thiện khắp các vùng miền trên cả nước. Nhung dễ mủi lòng trước các hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Nhung không tiêu xài hoang phí, mà dành dụm để giúp đỡ người khác. Nhung là người tốt. Hãy như Nhung”. (Xuân Phương, Cơn sốt “Hãy như Bill,” Thanhnien.vn)
Hôm nay Tin Mừng thánh Luca thuật việc Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường. Thoạt đầu dân chúng đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp, thốt ra từ miệng Người. Ai cũng muốn nghe và theo Người, cũng như có thể thiện ý ao ước Hãy như Đức Giêsu! Thế nhưng ngay sau đó, khi Người thẳng thừng từ chối, không chiều theo mong muốn của họ, Người liền bị tẩy chay, bị điệu ra ngoài thành, toan bị xô xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi, dẫu rằng Người hết sức bao dung, quảng đại, vâng theo Thánh Ý Chúa Cha và nhân ái đầy lòng thương xót con người.
Bao dung
Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” Mặc dù dân chúng vừa hết sức thán phục, vừa vui vẻ cảm phục Lời Chúa giảng dạy, nhưng họ liền trở mặt, quay ra bất kính, bất phục Đức Giêsu, vì lòng đầy tràn cố chấp, hẹp hòi, kiêu ngạo và thành kiến.
Vì trở nên bất nhã, miệt thị, mù quáng, tráo trở, họ hoàn toàn không nhận ra Đấng Messia đến cứu độ cả nhân loại, mà chỉ nhìn thấy một anh chàng khắc khổ, con ông Giuse thợ mộc bình dị. Họ bất bình, đố kỵ, nhỏ mọn, khi thấy Đức Giêsu từng lẫy lừng rao giảng Tin Mừng và làm những phép lạ rất ngoạn mục, kỳ tài, ở Capharnaum, mà không chịu phô diễn quyền năng ở Nazareth.
Một giáo xứ, một công đoàn hưng thịnh, phát triển, truyền giáo, không thể nào khép kín, chỉ biết quy tụ, vui vầy, hiệp nhất các thành viên với nhau, qua các sinh hoạt phụng vụ, kinh hạt, lễ lạc, rước xách, hay chỉ chăm lo, giúp đỡ, tương thân, tương ái cho người đồng đạo, đồng môn, cho con chiên trong nhà mà thôi.
Như thế cũng không khác dân làng Nazareth bảo thủ, háo danh lợi, nhỏ nhen, cục bộ, ấu trĩ, không dám can đảm thoát ra khỏi cái ghetto chật chội, tù túng, ra ngoài khuôn viên nhà thờ, giáo xứ, cộng đoàn, để dấn thân đem Tin Mừng đến với lương dân gần xa.
Bản thân Kitô hữu nào thiếu bao dung, thiếu lòng thương xót, thiếu nhân ái với tha nhân, cũng sẽ trở thành những tín đồ cuồng tín, tự cao, tự đại, tự mãn là đạo gốc chánh tông, khép mình vào trong pháo đài, mạo danh đạo đức, thánh thiện, bất khả xâm phạm, cứ mãi ảo tưởng rằng, Thiên Đàng đã dành sẵn cho mình. Vì thế, Đức Giêsu đã phải cực lực lên tiếng cảnh báo, xoá tan ngộ nhận đáng tiếc:“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7, 21)
Vâng phục
“Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” Đức Giêsu thấu suốt tâm tư, nguyện vọng, ước muốn của dân chúng tại đó. Người chẳng ngần ngại vạch trần tư tưởng thầm kín của họ, những sở thích rất dung tục, phàm hèn, những mưu đồ nhạo báng, kích động, khiêu khích, thách đố và xúc phạm.
Người vốn chẳng bao giờ tỏ ra thói mị dân, xu thời, chiều theo thị hiếu phàm nhân, để lấy lòng, mua chuộc sự tôn sùng, khâm phục, tình cảm của người đồng hương, kiếm chút vinh quang phù phiếm. Vì Người luôn dốc lòng vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa Cha: Cứu độ toàn thể nhân loại khỏi sự chết đời đời, chứ không dành riêng cho cư dân Nazareth hay dân Chúa chọn. Như các ngôn sứ vĩ đại Êlia và Êlisa, đã chẳng hề tỏ ra ưu ái riêng biệt cho dân Do Thái, mà lại đi cứu giúp bà goá thành Xarépta miền Siđon, hay cứu chữa ông Naaman, người xứ Xyria. Cả hai người may mắn này là dân ngoại nhưng đều biết tin yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chúc phúc cho những ai biết lắng nghe và vâng phục Thiên Chúa: “Phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa.” (Lc 11, 28)
Lòng Thương Xót
Phẫn nộ, mê muội, dân chúng muốn sát hại Đức Giêsu, khai trừ Người ra khỏi cộng đồng. “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.” Người vẫn bình tĩnh đi giữa dân chúng, vẫn hiện hữu ở giữa mọi người, vẫn quyến luyến, không lìa xa, vẫn thương yêu, chẳng nỡ giận dữ giã biệt, cũng như chẳng hề chống đỡ, đáp trả, kháng cự. Bởi vì “Thiên Chúa là đấng chậm bất bình và giàu lòng thương xót, đã không nỡ bỏ con người.” (Xh 34, 6)
Dẫu các Kitô hữu đã được Thanh Tẩy, đều được hiệp nhất với Cây Nho, Đức Giêsu, trở nên chi thể của Người, vẫn không hiếm trường hợp khích bác, lên án khai trừ, loại bỏ lẫn nhau, xa lìa nhau, chỉ vì đụng chạm, lạm dụng, tranh giành tiền của, vật chất, quyền hành, lợi danh. Chỉ vì chạy theo thế gian, kiêu căng, gian manh, đạo đức giả, tà tâm, tà ý mà lạnh lùng khước từ tha nhân, cũng như Lòng Thương Xót vô biên, vô hạn của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Roma hãy sống sao, xứng đáng báo đáp lại Lòng Thương Xót của Thiên Chúa:“Vậy hỡi anh em, nhân vì lòng thương xót của Thiên Chúa, tôi khuyên anh em: hãy hiến dâng thân mình anh em là lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Ðó là sự thờ phượng thiêng liêng của amh em. Ðừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương trí, mà biến hình đổi dạng, làm sao anh em thẩm định được ý Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo.” (Rm 12, 1-2)
“Nếu con chỉ “giữ đạo,” con chưa canh tân. Ma quỷ muốn đuổi Chúa ra khỏi thế gian và lôi thế giới ra khỏi Chúa. Con phải đem Chúa đến cho thế gian và đưa thế giới về với Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 650)
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu thoát chúng con khỏi cám dỗ xác thịt nặng nề, hẹp hòi, nhỏ nhen, chỉ tha thiết tìm kiếm vật chất, danh lợi hư ảo, phù vân, để chúng con biết hướng lòng lên Chúa hằng bao dung, khiêm hạ và tràn đầy Lòng Thương Xót, nguồn bình an, niềm vui, hạnh phúc và sự sống muôn đời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ hoàn toàn xả kỷ, khiêm nhu, vâng phục Thánh Ý Chúa và nhân ái với mọi người, xin dạy chúng con canh tân, biết bỏ mình cho đi, biết sống bao dung, tha thứ, biết đón nhận và phục vụ tha nhân, để được hiệp nhất bền vững trong Con Mẹ. Amen.
.
CẦN CÁI NHÌN MỚI ĐỂ ĐÓN NHẬN SỰ THẬT
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài được nuôi dưỡng và trưởng thành, để rao giảng.
Cái nhìn cũ không thể nhận ra và đón nhận Đức Giêsu
“Hôm nay đoạn sách thánh các người vừa nghe được ứng nghiệm.” Dân làng Nadarét hỏi nhau: “đây không phải là con ông Giuse sao?” Nếu người này là con ông thợ Giuse, thì có gì lạ? Liệu ông ta có thể là người đặc biệt sao, vì từ trước đến nay ông ta quá bình thường? Dân làng Nadarét không thể tin được, một người bình thường trong làng ai cũng biết, lại có thể là một người đặc biệt, Đấng Kinh Thánh đề cập tới.
Cái nhìn của người làng Nadarét cũng rất phổ thông đối với con người thời đại này. Phán đoán đánh giá con người qua dáng vẻ bên ngoài, qua qúa khứ. Nếu không dựa vào qúa khứ của một người mà xét đoán, thì dựa vào đâu? Nhưng khi làm như vậy, là đã có thành kiến về người đó. Trong một làng quê, người ta biết nhau từ nhỏ, biết cả tông ti họ hàng, nếu ai phạm một lầm lỗi nghiêm trọng, người đó và họ hàng rất khó sống tại địa phương đó. Chỉ còn cách bỏ làng mà đi. Trong một xã hội thời xưa, không dễ gì bỏ làng đi được, những người đó khổ như thế nào.
“Đừng kết án để khỏi bị kết án”. Hơn nữa, cần có cái nhìn rộng mở với mọi người, để có thể đón nhận những gì Thiên Chúa đang làm qua một người. Một người qúa khứ tội lỗi, bây giờ Thiên Chúa có thể biến đổi họ, có thể họ không như trước, có thể hiện tại họ là những người tuyệt vời. Theo kinh nghiệm sống, điều này rất khó xảy ra, nhưng khó không có nghĩa là không có. Đối với Thiên Chúa, tất cả đều có thể. Chị Maria Magdala là một điển hình.
Năm mới, xin cho chúng ta có cái nhìn “mới” về con người, đặc biệt những người vẫn sống với chúng ta, để chúng ta lạc quan và trông cậy vào Thiên Chúa hơn.
Khiêm tốn để đón nhận và cho đi
Sự đối kháng không chỉ ở mức độ không thích, không muốn nghe, nhưng đã đến độ người làng Nadarét muốn giết Đức Giêsu. Họ dẫn Đức Giêsu tới sườn đồi, và muốn xô Đức Giêsu xuống vực, nhưng Ngài đã băng qua giữa họ mà đi. Được sống với Đức Giêsu, được là người đồng hương (cùng làng) với Đức Giêsu, đáng lẽ là một ơn phúc, nhưng bây giờ lại là mối họa, là điều ngăn cản nhận biết Đức Giêsu. Tại sao vậy?
Tiên tri không được đón nhận tại quê hương mình. Vì người ta cho rằng họ đã biết rõ về con người đó. Và như vậy, con người đó đâu có gì để mình học, đâu có gì đặc sắc để mình phải lắng lòng. Không cần gì thêm, là một thái độ tự mãn, không thể đón nhận gì khác được, ngay cả Thiên Chúa. Người ta thường ví người tự mãn như một ly đầy nên không thể nhận gì hơn. Nếu không nhận, đâu có gì để cho. Một đại dương hay một dòng sông, luôn sẵn sàng đón nhận khe suối hay những giọt nước dù rất nhỏ, nên có thể cho mãi mãi mà không bao giờ cạn.
Một người tự mãn tự kiêu thường lấy mình làm tiêu chuẩn, và không mở lòng ra đón nhận sự thật. Vì coi mình vượt trên người khác, nên khi thấy người khác “có vẻ” coi thường mình, thì họ sẵn sàng hạ bệ hoặc tiêu diệt người khác. Đó là lý do tại sao người làng Nadarét muốn xô Đức Giêsu xuống vực.
Xin cho con có tâm hồn khiêm tốn, để con có thể đón nhận Đức Giêsu và Tin Mừng cứu độ trong đời sống từng ngày của con.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Hiện tại không ai trong chúng ta thấy Thiên Chúa bằng mắt trần, nhưng bạn có tin rằng Thiên Chúa đến với bạn mỗi ngày không? Xin bạn cho vài thí dụ.
- Có khi nào bạn “thấy” Thiên Chúa đến với một người bạn quen qua biến cố nào đó, nhưng người đó không nhận ra? Tại sao vậy, và làm sao để có thể nhận ra Thiên Chúa đến với mình?
- Tết này dịp bạn về quê, đâu là dự định của bạn? Điều bạn dự tính có ích lợi gì cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè, người thân, người yêu không?
- Năm mới, nếu cho bạn một điều ước, bạn sẽ ước điều gì?
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng tư tế ở miền Bắc Giêrusalem. Thiên Chúa đã gọi, thúc giục và tác động cách mạnh mẽ trong tâm hồn của ông ngay khi còn thơ trẻ. Giêrêmia chấp nhận sứ mệnh ra đi giữa bao thử thách và khó khăn. Sứ mệnh của ngài kéo dài qua nhiều thập niên trong lịch sử của cộng đồng Giêrusalem. Ngài đã tiên báo về sự đe doạ và sụp đổ của thành Giêrusalem. Tiên tri có cá tính riêng và rất mạnh mẽ chịu đựng những khổ cực cùng với đoàn dân. Giêrêmia đã giúp mọi người nhận ra những hậu qủa xấu mà họ phải gánh chịu do sự bất trung và tội lỗi gây nên. Đôi khi ông cũng cảm thấy đuối sức và ngại ngùng, nên đã muốn chối từ sứ vụ đặc biệt này. Nhưng cánh tay của Chúa luôn dẫn dắt ông trong mọi nẻo đường. Ông thố lộ tâm tư qua sự mạc khải: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” (Gr 1,5). Chúng ta biết rằng sứ mệnh tiên tri là một ơn gọi đặc biệt vì là trung gian giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa hứa ban sức mạnh và đồng hành cùng ông trong cuộc hành trình đầy gian nan này. Đối diện với sự ruồng bắt và cái chết, ai mà không lo sợ cho tính mạng của mình. Giêrêmia cũng không ngoại lệ, ông cũng là con người mang nhiều sự yếu đuối và lỗi lầm như mọi người. Sứ điệp của ông là kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để trở về cùng Thiên Chúa. Ông đã đặt niềm tin vào Chúa là kiên thuẫn và dũng lực. Thiên Chúa hứa: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì sấm ngôn của Thiên Chúa, có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” (Gr 1,19) Giêrêmia đã trung thành với sứ vụ được trao ban và đã chứng kiến bao cảnh thăng trầm của Dân Dothái từ năm 627 tới khoảng năm 587 BC.
Sứ mệnh khó khăn của các tiên tri là phải đối đầu với đời sống con người thế tục. Các nhà cầm quyền đã dùng mọi ảnh hưởng để loại trừ thần quyền ra khỏi cuộc sống. Họ dùng sức mạnh và bạo lực của thế quyền để đàn áp, tẩy chay và loại trừ các nhân chứng của sự thật và công chính. Lòng người thế trần bị nhuốm màu tội lỗi vì sống thả theo bản năng thú tính và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của tham sân si. Nhiều người không còn muốn nghe những lời khuyên răn luân lý đạo đức. Đôi khi họ cho rằng những người sống đạo hạnh, công chính và chân thật là những người dại khờ. Phải tranh đấu để sống. Sống là phải hưởng thụ. Chúng ta biết đời sống là cuộc chạy đua. Không phải mọi người đều nhận ra được con đường chính thật. Người ngu mà biết mình ngu là người có trí. Người ngu mà tưởng mình có trí thì càng ngu hơn. Không biết chính mình là người vô minh và ngu đần. Đôi khi họ lại tưởng nghĩ mình là người khôn ngoan và sành đời. Luôn tìm cách tiêu diệt những người công chính và coi họ như là cản mũi kỳ đà.
Chúa Giêsu biết rất rõ về số phận của các nhân chứng cho sự thật. Từ xưa, số phận các tiên tri hoặc ngôn sứ đã thường bị bách hại, xua đuổi và tẩy chay. Chính Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm điều này ngay tại quê quán mình: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” (Lc 4,24). Làm nhân chứng cho sự thật giữa một xã hội bị tục hoá như hiện nay là một sự dấn thân hy sinh và từ bỏ. Các trào lưu xuôi dòng đang cuồn cuộn kéo lôi con người như thác lũ đi vào cuộc sống hưởng thụ thế tục. Nhiều nhà cầm quyền có xu hướng chạy theo thị yếu và mị dân chấp thuận những khuynh hướng của nền văn minh sự chết. Các thế hệ trẻ hiện nay dễ bị đầu độc bởi nền văn hóa thụ hưởng rất tinh tế và nhẹ nhàng qua cách suy tưởng và phán đoán thuận theo đa số. Là Kitô hữu, chúng ta không thể chạy theo những trào lưu hào phóng bên ngoài, nhưng phải biết tìm kiếm nguồn chân thiện mỹ. Hãy yêu chuộng những vẻ đẹp của đời sống lương tâm tự nhiên đã được in ghi trong tâm hồn. Chúa Giêsu về lại làng quê mình để gặp gỡ và truyền rao sứ mạng cứu độ. Người đồng hương ngạc nhiên về lời giảng dạy của Chúa nhưng họ không mở lòng đón nhận chân lý. Họ đòi hỏi và thách thức quyền năng của Chúa: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” (Lc 4,29) Chúa Giêsu đâu làm gì nên tội để bị đối xử tệ như thế. Có lẽ tâm hồn của họ bị khép kín và trái tim bị đóng băng lạnh lùng. Họ không chấp nhận lời giảng và cũng không đón nhận chính Chúa. Họ đã vào hùa với nhau chống báng và xua trừ Chúa để khỏi phải nghe những lời chân thật. Chúa Giêsu cùng đồng số phận với các tiên tri bị người đời ngược đãi và thế gian chống đối ghét bỏ.
Số phận các ngôn sứ hôm nay cũng không khá hơn các vị tiền bối. Những nhà truyền giáo và các nhân chứng sự thật đều phải đối diện với hiện trạng thờ ơ và lạnh nhạt trong đời sống luân lý, đạo đức. Dù trong hoàn cảnh nào, xem ra sự kiện có thực mới vực được đạo hay đi đạo lấy gạo mà ăn vẫn có thể kéo lôi nhiều người. Khi cuộc sống ổn định về kinh tế và tài chính, đời sống đạo cũng nhờ đó mà thăng hoa. Chúng ta chấp nhận rằng thực tế cuộc sống luôn đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu cụ thể trước. Chính Giáo Hội cũng đang nỗ lực giúp đỡ những vùng truyền giáo xa xôi. Họ thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất. Nhân chứng sự thật không thể tách rời khỏi những nhu cầu căn bản cuộc sống của người dân.
Một điều rất quan trọng mà thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1 Cr 13,3) Đức mến là cốt lõi của việc ra đi làm nhân chứng. Là nhân chứng cho Chúa Kitô, chúng ta không thể thiếu tình yêu chia sẻ. Nếu tất cả mọi việc phục vụ tha nhân với trái tim yêu thương, sẽ mang lại niềm vui và ý nghĩa đích thực. Yêu rồi làm. Tình yêu sẽ thăng hoa tất cả. Phaolô khuyên dạy: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.” (1 Cr 13,4-6)
Đức ái là nhân đức tuyệt hảo. Chỉ có tình yêu mới có thể tha thứ, bao dung và liên kết nên một. Tình yêu như lửa hun đốt và hâm nóng những tâm hồn nguội lạnh. Một thái độ cảm thông yêu mến có thể xoá nhoà mọi lỗi lầm. Một cử chỉ yêu thương có thể khơi dậy niềm hy vọng. Một dấu ấn tình yêu có thể đổi đời. Một lời nói dễ thương có thể vỗ về tâm hồn nguội lạnh. Ôi tình yêu thật diệu vời! Ai trong chúng ta cũng có trái tim để yêu, chỉ cần chúng ta biết mở cửa trái tim để trao ban và đón nhận. Tình yêu như dòng sông nước chảy, càng chảy càng thấm nhuần. Yêu là cho đi và cũng là đón nhận. Một tình yêu tuôn trào sẽ tạo nguồn sống tươi vui và hạnh phúc. Chúng ta đang ngụp lặn trong biển tình: tình Chúa, tình gia đình và tình nhân lọai. Tình yêu chính là lẽ sống. Lạy Chúa, Chúa là Tình Yêu. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ dám hiến thân mình vì bạn hữu. Chúa đã hiến mình vì yêu thương chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Chỉ có đức mến mới tồn tại muôn đời: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” (1 Cr 13,13).
.
Lm. GB Văn Hào
Có một lần, một vị Giám mục gặp nhạc sĩ Văn Cao và hỏi ông: “Thưa ông, ông quả là một thiên tài đã sáng tác nhiều ca khúc nổi danh. Khi theo đuổi bộ môn nghệ thuật này, ông thấy điều gì ý nghĩa nhất ?”. Văn Cao suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Âm nhạc đối với tôi là một ơn gọi”. Không biết vị nhạc sĩ lão thành này có phải là một tín hữu Công giáo hay không, nhưng khi trả lời như thế, rất có thể ông đã từng được rửa tội, đã trải nghiệm đời sống đức tin và ý thức về con đường mà Chúa mời gọi ông dấn bước vào. Chỉ người Công giáo thực thụ mới hiểu thấu ơn gọi là gì.
Ơn gọi là một mầu nhiệm
Ơn gọi mà mỗi người chúng ta đang sống là một mầu nhiệm. Đó là con đường được chính Thiên Chúa vạch dẫn và gọi mời chúng ta bước đi. Mọi ơn gọi đều khởi phát từ Thiên Chúa. Đây không phải là tổng hợp những công việc chúng ta làm hay là sự nghiệp chúng ta theo đuổi. Người Công giáo nói chung, đặc biệt các linh mục và tu sĩ nói riêng được nghe nói rất nhiều về ý niệm này. Giáo hội vẫn dành riêng Chúa nhật thứ 4 Phục sinh để mời gọi mọi người hướng ý cầu nguyện cho ơn gọi, hay ơn thiên triệu. Chúng ta vẫn thường xuyên được nhắc nhở về bổn phận sống ơn gọi của Bí tích Thánh Tẩy. Nhưng trong thực tế, chúng ta đã am tường và sống hoàn thiện ơn gọi nơi mình như thế nào?
Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, Giêrêmia đã tường thuật lại lịch sử ơn gọi của ông. Thiên Chúa đã gọi và chọn ông làm ngôn sứ. “Trước khi ngươi được hình thành trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi. Trước khi ngươi chào đời, Ta đã thánh hóa ngươi. Ta đã đặt ngươi làm ngôn sứ cho dân” (Giê 1,5). Trong Giáo hội có nhiều loại hình ơn gọi. Người thì được mời gọi sống thiên chức linh mục hoặc sống đời thánh hiến tu sĩ. Đa phần còn lại, chúng ta sống ơn gọi nên thánh giữa đời trong bậc sống giáo dân. Nhưng tất cả đều quy tập về một ơn gọi căn bản duy nhất, đó là bước theo Chúa Giêsu để trở nên môn đệ Ngài. Một bữa nọ, có một cô gái đến gặp mẹ Têrêsa Calcutta để xin vào dòng. Chị ta nói: “Thưa Mẹ, con cảm thấy Chúa đang mời gọi con và muốn con hiến thân để phục vụ những người nghèo khổ giống như Mẹ đang làm”. Mẹ Thánh trả lời: “Điều quan trọng không phải là con tự chọn lấy cho mình một lối sống, nhưng con hãy quảng đại đáp lại tiếng mời gọi và bước theo Chúa Giêsu. Sau đó, Chính Ngài sẽ chỉ cho con biết con phải làm gì”. Điều cốt lõi để sống mầu nhiệm ơn gọi không phải là liệt kê tổng số những công việc chúng ta ‘làm’, những ở cách chúng ta ‘là’. Chúng ta là ai, có thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu hay không, chứ không phải chúng ta cần làm những gì.
Bài ca Đức mến, hiến chương ơn gọi
Đức Giêsu đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo như nhiều người thường hay nghĩ. Ngài đến để thực hiện kế hoạch cứu thế mà Chúa Cha đã vạch dẫn. “ Này con xin đến để thi hành thánh ý Cha” (Dt 10,9). Đây là con đường ơn gọi và cũng là sứ mệnh cứu thế của Chúa. Để thực hiện sứ mệnh đó, Đức Giêsu đã hoàn thiện một cách sung mãn mầu nhiệm tình yêu qua việc treo thân trên Thập giá để hiển thị điều Ngài nói với các môn sinh: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng vì bạn hữu”. Nói tóm lại, trong ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, và ngôi trường này có tên gọi là ‘trường học tình yêu’. Môn học duy nhất Ngài truyền thụ lại cho các học trò cũng chính là môn học về tình yêu. “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).
‘Tình yêu’ chính là tên gọi của Thiên Chúa như Thánh Gioan đã định nghĩa. Đó cũng là tiêu chí duy nhất để chúng ta hoàn thiện ơn gọi bước theo Chúa Giêsu.
Không phải vô tình mà Giáo hội chọn ‘Bài ca đức mến’ của Thánh Phaolô để đọc trong phụng vụ hôm nay. Đây là tổng lược về cuộc hành trình ơn gọi mà chúng ta phải sống để hoàn thiện mỗi ngày. Thánh Phaolô dẫn giải rất tỉ mỉ cách thức để giúp chúng ta biết cách thực hành. Ngài viết: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thực”. Ngoài ra, vị Thánh Tông đồ còn nêu những khía cạnh tích cực để diễn tả đức mến: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1 Cor 13,4-17).
Thánh Phanxicô Salê, vị tiến sĩ đức ái đã tóm kết về con đường ơn gọi này. Ngài viết: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu”. Sống sung mãn đức ái, chúng ta cũng sẽ đạt đến sự viên thành trong đời sống ơn gọi của chúng ta.
Gương mẫu Đức Giêsu
Đức Giêsu đã đi vào trần gian như một ‘ngôn sứ’ của Chúa Cha. Đó cũng là ơn gọi gắn liền với sứ mạng cứu thế của Ngài. Ơn gọi đó khởi đầu nơi máng cỏ Bêlem và hoàn tất nơi đỉnh cao Thập giá. Tại Bêlem, Ngài bị mọi người chối từ đến độ không một quán trọ nào chịu mở cửa tiếp đón. Trên Thập giá, sự từ chối đạt đến đỉnh điểm khi toàn dân đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên cướp. Cũng vậy, tại hội đường Do Thái mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại, sự chối từ đó dần dần được hiện lộ. Chúa đã trích dẫn lời Kinh thánh Cựu ước để ám thị về mình: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”.
Sống ơn gọi theo Đức Giêsu là chấp nhận đi vào con đường tự hủy của Thập giá. “Ai muốn theo tôi hãy bỏ mình vào Thập giá hằng ngày mà theo”. Don Bosco trong ngày lãnh tác vụ linh mục đã được thân mẫu Ngài dặn dò: “Hôm nay con đã trở thành Linh mục của Chúa. Cuộc sống con phải gắn kết với Thập giá Chúa Giêsu. Bắt đầu dâng Thánh lễ, là bắt đầu vác Thập giá cùng với Chúa để hiến thân trọn vẹn phục vụ các linh hồn”.
Kết luận
Ông Dunan là người sáng lập hội Hồng Thập tự quốc tế. Trong những năm tháng cuối đời, ông đã hiến tặng toàn bộ tài sản ông có để thực hiện ‘Bài ca Đức mến’ theo gương Chúa Giêsu. Ông nói với mọi người: “Khi tôi chết đừng để trên ngôi mộ của tôi những gì đắt tiền hay xa xỉ. Tôi không cần một cỗ quan tài xa hoa lộng lẫy. Tôi cũng không muốn có những vòng hoa phân ưu lỉnh kỉnh cùng những nghi lễ trang trọng bề ngoài. Điều duy nhất tôi mong muốn, là hãy để trên ngôi mộ của tôi một cây Thánh giá. Tôi muốn mọi người biết rằng khi tôi còn sống hay khi tôi đã chết đi, tôi vẫn mãi là môn đệ của Đức Kitô”. Ông Dunan đã thâm tín sâu xa và sống trọn vẹn ơn gọi của mình, còn chúng ta thì sao?
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiarét sau những ngày đi rao giảng với các môn đệ, danh tiếng của Ngài đã lừng vang ở nhiều nơi.Vào Hội đường Nagiarét, nơi gia đình Cha mẹ, họ hàng của Ngài thường lui tới ngày Sabat để cầu nguyện và đọc Sách Thánh. Chúa đã đọc đoạn ngôn sứ Isaia và Ngài đã tuyên bố thẳng thừng :” Lời tiên báo của Thánh Kinh về Đấng Messia, hôm nay đã thực hiện “. Tất cả những người có mặt trong Hội đường lúc đó đều hiểu Chúa Giêsu nói Ngài là Đấng Messia phải đến và đã đến.
Sau khi Chúa Giêsu đọc Sách Thánh và giải thích Sách Thánh, nhiều người xầm xì, bàn tán, có người rất thán phục những lời của Ngài nói, có người không tin, chê bai và khích bác. Những người khâm phục thì cho rằng lời của Chúa không chỉ là lời khôn ngoan, thượng trí theo bậc vĩ nhân, mà còn là lời hằng sống, là Ngôi Lời Thiên Chúa, là “ Nôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta “ ( Ga 1, 14 ). Những người khác không tán thành thì quay lại truy tìm tông tích của Chúa Giêsu : “ Ông này không phải là con Ông Giuse đó sao ? “. Nói như thế, họ chỉ nhìn ra một con người bình thường của Chúa Giêsu tại Nagiarét, nên họ đã đòi hỏi Ngài phải làm phép lạ chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Messia ( Lc 4, 23 ). Chúa Giêsu không chiều họ, không chùn bước trước sự đòi hỏi của họ, Ngài không cho họ một dấu chỉ nào, một phép lạ nào cả, để họ khỏi lầm tưởng về sứ mạng cứu thế của Ngài…Sứ mạng của Ngài không đóng khung hạn hẹp nơi gia đình, nơi quê quán của Ngài. Sứ mạng cứu thế của Ngài là sứ mạng phổ quát.Ơn cứu độ của Chúa Giêsu vượt qua mọi ranh giới, không chỉ thuộc về người Do Thái, nhưng thuộc về mọi người. Chúa đã đưa ra hai trường hợp của hai vị ngôn sứ Êlia và Êlisê, hai vị ngôn sứ đã thi ân giáng phúc cho bà góa Sarépta và Naaman, viên sĩ quan ngoại bang người xứ Syria.
Phản ứng của những người đồng hương của Chúa Giêsu, là phản ứng rất hời hợt. Họ tới Hội đường chỉ vì họ đạo đức theo kiểu bề ngoài, nhưng thực tế họ không có lòng tin, do đó, họ đã khước từ Chúa Giêsu, coi Chúa Giêsu chỉ là một người dân thường, họ đã mất cơ hội, mất dịp tốt để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Và chính Chúa đã nói :” Không một ngôn sứ nào được tiếp đón nơi quê hương mình “.
Tin Mừng của Thánh sử Luca hôm nay cho chúng ta thấy sự bi đát của Chúa. Chúa đã hiện diện, đã sống, đã làm nhiều việc tốt lành nhưng những người đồng hương của Chúa vì không có đức tin, nên đã không nhận ra Ngài. Sự bi đát này còn kéo dài trong toàn cõi Do Thái, bởi vì khi chứng kiến các phép lạ Chúa làm, người Do Thái đã không mở mắt đức tin, mở tâm hồn để nhận ra Đấng Cứu Thế. Họ đã căm phẫn đưa Ngài lên cao, muốn xô Ngài xuống vực thẳm cho chết. Việc này, còn tiên báo dân Do Thái sẽ đuổi Ngài ra khỏi thành và đóng đinh Ngài trên Thập Giá. Tin Mừng của Chúa được lan tỏa khắp nơi sau cuộc tử đạo của Stêphanô. Giáo Hội mở rộng vòng tay để đón nhận mọi người.
Qua đoạn Tin Mừng này và qua ý tưởng các bài đọc Chúa nhật hôm nay, chúng ta có thể trách những người đồng hương của Chúa Giêsu, nóng vội để làm mất cơ hội nhận ra Đấng Cứu Thế và lỡ đi cơ hội để trở nên môn đệ của Ngài. Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhìn vào chúng ta để tự suy nghĩ, bởi vì chính chúng ta cũng đã để mất đi nhiều vận may, nhiều cơ hội nhận ra Chúa nơi anh chị em chung quanh chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn luôn biết khiêm tốn để nhận ra những thiếu sót nơi mình và nhận ra Chúa nơi anh chị em của chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm vượt thắng tích ích kỷ để nhận ra những trổi trang nơi người khác. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa Giêsu đã trở về quê hương Nagiarét vào dịp nào ?
2.Chúa đã tuyên bố điều gì ?
3.Người Nagiarét trong Hội đường có đức tin hay không ?
4.Muốn nhận ra Chúa phải làm gì ?
5.Điều kiện tiên quyết để trở thành môn đệ của Chúa ?
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Sau khi nghe bài Tin mừng, có lẽ chúng ta có những thắc mắc: “Tại sao cuộc thăm viếng dân làng của Chúa Giê-su đã biến đổi từ sự ca ngợi qua căm phẫn, thù hằn và muốn giết chết?” Hay “Làm sao Chúa Giê-su có thể thoát đi được mà không bị hành hung hay bị thương?” Hay “Có phải thánh Lu-ca chỉ tóm tắt những sự kiện đã xảy ra trong những lần Chúa thăm viếng trước đây?” Chúng ta thấy thánh Lu-ca không chú ý hay có ý định trả lời những thắc mắc trên đây của chúng ta. Ngài chỉ chú ý đến một điểm duy nhất là: đối với dân làng, họ nghĩ Chúa Giê-su không là một người đặc biệt tuy họ đã nghe biết những câu chuyện nói về quyền năng qua những phép lạ Chúa đã làm. Thật sự, thánh Lu-ca muốn cảnh báo cho chúng ta biết về những gì sẽ xảy ra cho Chúa trong sứ vụ rao giảng và chữa lành, bắt đầu là một sự ưa thích của dân chúng, nhưng dần dần dân chúng hiểu được ý nghĩa những lời rao giảng và sứ vụ của Chúa, và họ bắt đầu chống đối Chúa, đưa đến cái chết Người. Cũng có thể thánh Lu-ca muốn dạy chúng ta điều quan trọng và cần thiết cho đời sống Ki-tô hữu, đó là, chúng ta không thể bắt Chúa phải theo ý định hay đường lối của chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta muốn nhận hồng ân cứu độ, chúng ta phải theo đường lối và sống theo sự dạy dỗ của Chúa. Chúng ta phải chấp nhận điều căn bản và quan trọng là: chúng ta phải trở thành và sống như người mà Chúa muốn chúng ta trở thành. Và Chúa sẵn sàng chấp nhận tất cả những hậu quả sẽ xảy ra cho Người để Người luôn trung thành với sứ mệnh Thiên Chúa Cha trao ban.
Bài đọc 2 hôm nay là một trong những đoạn văn tuyệt đẹp nhất của thánh Phao-lô viết về đức ái, hay đức yêu thương của Ki-tô giáo, và chúng ta rất thường nghe đọc trong những Thánh lễ Hôn phối và đúng như vậy. Thật sự bài đọc nghe có vẻ lãng mạng, và chúng ta nhận thấy những đôi nam nữ yêu thương nhau theo như sự diễn tả của thánh Phao-lô không mất đi tính cách lãng mạng trong tình liên hệ của họ. Nhưng đức bác ái, tình yêu thương mà thánh Phao-lô đề cập ở đây không xảy ra dễ dàng, hay không có sự cố gắng, sự hy sinh. Đức bác ái, tình yêu thương này cần sự hãm mình và sự vị kỷ, những điều này khó tìm và xảy ra trong xã hội này. Như thánh Phao-lô cho chúng ta biết đức ái, tình yêu thương thì không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu. Nhưng nếu chúng ta chú ý thì chúng ta sẽ nhận ra sự quan trọng và cần thiết trong cuộc sống của người Ki-tô hữu mà thánh Phao-lô muốn nhất mạnh: không có đức bác ái, không có tình yêu thương thì chúng ta sẽ vô nghĩa và vô phúc, bởi vì cuối cùng chỉ còn đức mến tồn tại.
Để chúng ta hiểu rõ chân lý yêu thương của Ki-tô giáo và để sống, thánh Phao-lô cho chúng ta thấy trong chương trước đoạn văn hôm nay, và chúng ta đã nghe đọc trong Chúa nhật tuần trước. Trong chương này, thánh Phao-lô so sánh Giáo hội như Thân Thể Chúa Ki-tô. Tất cả chúng ta là chi thể trong Thân Thể đó, và không ai trong chúng ta có thể nói chúng ta không cần sự ảnh hưởng, sự phụ thuộc hay sự liên hệ của các chi thể khác. Như thân thể con người, mỗi chi thể có những phần sự riêng, có những chức năng riêng, hay có những bổn phận riêng. Nếu một cánh tay bị cắt ra khỏi thân thể thì chỉ còn hình dáng là một cánh tay với xương, da và thịt. Nếu cánh tay không được dính liền với thân thể thì vô nghĩa, vô dụng và không có sự sống. Chúng ta tự hỏi “Sự gì liên kết chúng ta lại với nhau thành một thân thể?” Và câu trả lời: “Nếu không phải là đức mến.” Nếu không có đức yêu mến, tình yêu thương, chúng ta chỉ là những cá nhân riêng biệt, không còn liên kết trong cùng một thân thể có chung một đầu là chính Chúa Giê-su Ki-tô. Do đó, thánh Phao-lô khẳng định rằng nếu một người trong chúng ta nói được nhiều thứ tiếng, làm được nhiều phép lạ, có những tài năng như nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm, có mọi sự hiểu biết, khôn ngoan, và lòng tin đến nỗi làm được nhiều việc to lớn, chuyển dời được núi non, mà không có đức mến, không có tình yêu thương, thì người đó vẫn là không.
Chúng ta phải biết phân biệt và phải hiểu rõ ràng danh từ đức mến, còn gọi là tình yêu (agape) mà trong Phúc âm và thánh Phao-lô sử dụng là một thứ tình yêu mến không tìm sự đền ơn hay vinh danh, mà là thứ tình yêu của Chúa Giê-su ban cho chúng ta. Thánh Gioan trong thư thứ 1 nói rằng “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga. 4,8), như thế, nếu chúng ta không có tình yêu, chúng ta không có Chúa và ngược lại, Chúa không ở trong chúng ta. Và vì không có Chúa, không liên kết với Chúa, chúng ta không liên kết với đầu và với nhau.
Ông bà anh chị em thân mến. Thánh lễ giúp liên kết chúng ta nên một, và ở trong tình yêu của Chúa Giê-su Ki-tô. Chúng ta lắng nghe Lời Chúa nói với chúng ta, chúng ta cử hành hy lễ của Chúa Giê-su trên Thánh giá cho chúng ta, và chúng ta được kết hợp với Người qua Thánh Thể, là nguồn kết hợp mọi thứ tình yêu. Chúng ta xin Chúa giúp chúng ta qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng dâng lời cảm tạ đội ơn Chúa vì Chúa đã ban tình yêu, sự sống của Người cho chúng ta, và chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta sống tình yêu thương của Chúa trong đời sống hàng ngày, để chúng ta trở thành chi thể ích lợi cho thân thể, làm cho thân thể được khỏe mạnh và tốt đẹp.
.
THI HÀNH SỨ VỤ NGÔN SỨ HÔM NAY
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 4,21-30
(21) Đức Giêsu bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”. (22) Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: “Ông này không phài là con ông Giu-se đó sao?”.(23) Người bảo với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào! (24) Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (25) “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thiếu gì bà góa ở trong nước Ít-ra-en vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội. (26) Thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả. Nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Xi-đon. (27) Cũng vậy, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en vào thời ngôn sứ Ê-li-sa. Nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri-a thôi”. (28) Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. (29) Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành (thành này được xây trên núi). Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. (30) Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
- Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊSU BỊ NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG BÁCH HẠI.
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã bị người đồng hương Na-da-rét không tin và bách hại: vì họ đã không được thỏa mãn khi đòi hỏi Người phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai. Người đòi họ phải có đức tin là điều kiện để có phép lạ, Người trưng dẫn hai nhân vật là bà góa nghèo ở Sa-rép-ta thời Ê-li-a và quan Na-a-man ở xứ Sy-ri-a thời Ê-li-sa đã được phép lạ nhờ có đức tin. Do không được thỏa mãn yêu cầu, nên dân Na-da-rét đã biến từ thán phục ban đầu sang tức tối muốn bách hại Người.
- CHÚ THÍCH:
– C 21-22: + “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”: Đức Giêsu trình bày sự xuất hiện của Người như khai mở thời kỳ hồng ân mà các ngôn sứ đã loan báo, nhưng không dành riêng cho dân Ít-ra-en mà dành cho mọi dân tộc. Tin mừng Luca thường nhấn mạnh đến tính cách hiện tại của ơn cứu độ bằng từ “hôm nay” (x. Lc 2,11). + “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?”: Khi ra giảng đạo Đức Giêsu được 30 tuổi và thiên hạ vẫn cho rằng Người là con của ông Giu-se (x. Lc 3,23).
– C 23-24: + “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính mình!”: Đức Giêsu đã dùng câu tục ngữ này để nói lên tâm trạng của dân Na-da-rét, muốn được ưu tiên nhìn thấy Người làm phép lạ phục vụ đồng hương như Người đã từng làm ở nhiều nơi khác. + Ca-phác-na-um: là một thành phố nằm về hướng Tây Bắc biển hồ Ga-li-lê, và là trung tâm hoạt động của Đức Giêsu. Tại đây, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân và làm nhiều phép lạ (x. Mc 1,21-28), tha tội cho người bại liệt (x. Mc 2,1-12), quan tâm những người tội lỗi (x. Mc 2,15-17), khoan dung về luật ăn chay và hưu lễ (x. Mc 2,18-27). + “Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào!”: Dân Na-da-rét đang lặp lại cơn cám dỗ của Xa-tan là muốn thử thách Người. Họ tính lợi dụng lòng tốt của Người để phục vụ cho ích lợi của họ (x. Lc 4,1-14). Cũng vì tưởng mình đã biết rõ nguồn gốc Đức Giêsu, nên họ không tin Người là Con Thiên Chúa từ trời mà đến. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai của Người (x. Lc 11,16). + “Không một Ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”: Ngôn sứ hay tiên tri là phát ngôn viên của Thiên Chúa để an ủi những người đau khổ tuyệt vọng, tiên báo một tương lai tốt đẹp sắp dến và động viên dân trung thành với đức tin vào Thiên Chúa (x. Is 49,8-15); Cáo trách tội của vua quan và dân chúng như Sa-mu-en đã trách phạt vua Sa-un (x. 1 V 15,12-23); Na-than cáo trách tội “giết chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít (x. 2 Si-mon 12,1-15); Giê-rê-mi-a lên án dân chúng phụng thờ tà thần (x. Gr 7,30-34)… Chính vì “Trung ngôn nghịch nhĩ”-“Lời thật khó nghe” mà nhiều ngôn sứ đã bị người đời giết hại (x. Lc 6,23b). Câu “Không một ngôn sứ nào được tiếp nhận tại quê hương mình” ở đây đồng nghĩa với câu “Bụt nhà không thiêng” của Việt Nam chúng ta.
– C 25-27: + Tôi nói cho các ông hay: Đức Giêsu muốn trình bày tính phổ quát của ơn cứu độ, nghĩa là cho mọi dân mọi nước, chứ không chỉ dành cho dân Ít-ra-en hay cho quê hương Na-da-rét mà thôi. Trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu cũng thường đề cao đức tin của dân ngọai như: khen viên đại đội trưởng Rô-ma (x. Lc 7,9) ; Dạy làm theo người Sa-ma-ri (x. Lc 10,36-37) ; Khen người đàn bà Ca-na-an (x. Mt 15,28). + Ê-li-a và bà góa ngoại giáo thành Xa-rép-ta được qua cơn đói kém: Ê-li-a là một ngôn sứ rất nổi tiếng, sống vào thế kỷ thứ chín trước công nguyên. Một bà góa ở thành Xa-rép-ta miền Xi-đon sắp bị chết đói vì nạn hạn hán mất mùa. Bà may mắn gặp được ngôn sứ Ê-li-a. Nhờ tin và làm theo lời Ê-li-a dạy mà bà đã được ông làm phép lạ cho hũ bột và bình dầu nhà bà đầy mãi cho tới khi hết nạn hạn hán (x. 1 V 18,1tt). + Ê-li-sa và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùi: Ê-li-sa là đồ đệ của Ê-li-a, nổi tiếng vì khả năng chữa bệnh lạ lùng. Tại xứ Xy-ri-a có viên sĩ quan Na-a-man bị bệnh phong cùi. Nhờ được một nữ tì mách bảo, ông đã sang nước Ít-ra-en tìm tới ngôn sứ Ê-li-sa để xin chữa bệnh. Nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa và khiêm tốn làm theo lời ngôn sứ xuống sông Gio-đan tắm 7 lần và sau đó ông đã được khỏi bệnh (x. 2 V 5,1-14).
– C 28-30: + Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ: Họ phẫn nộ vì Đức Giêsu đã không thỏa mãn đòi hỏi của họ muốn xem phép lạ. Họ còn tức giận vì Người đã đề cao dân ngoại hơn dân Do thái được Đức Chúa ưu tuyển. Họ ganh tị vì Người coi trọng thành Ca-phác-na-um ngoại giáo, hơn quê hương Na-da-rét của Người. Sự kiện này tiên báo Người sẽ bị người đời chống đối, mà ông già Si-mê-on đã báo trước (x. Lc 2,34), và sau này Người sẽ bị kết án tử hình thập giá (x. Lc 20,15). + Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi: Trước sự chống đối của dân Na-da-rét, Đức Giêsu đã băng qua giữa họ mà đi trên đường của Người sẽ chỉ kết thúc tại thành Giêrusalem (x. Lc 13,33).
- CÂU HỎI:
1) Tin mừng Luca cho biết khi ra giảng đạo Đức Giêsu được bao nhiêu tuổi và người đời nghĩ Người là con của ai ? 2) Ngôn sứ và tiên tri giống hay khác nhau và sứ vụ của họ là gì ? 3) Tại sao dân Na-da-rét đòi Đức Giêsu phải làm phép lạ cho họ xem và họ đã có thái độ thế nào khi không được như ý ? 4) Hãy kể ra một số trường hợp Đức Giêsu đã đề cao đức tin của dân ngọai ? 5) Khi nêu ra hai phép lạ của ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa đã làm cho hai người thuộc dân ngoại, Đức Giêsu muốn nói gì với người đồng hương Na-da-rét ? 6) Tại sao các người Na-da-rét nổi giận và muốn giết hại Đức Giêsu ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
- CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH CỦA SỰ THẬT.
Thôi Trữ là một quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công để đoạt ngôi báu. Ông ta cho mời các quan chức triều đình đến tư dinh để cùng bàn mưu tính kế và uống máu ăn thề với nhau. Sau khi nghe Thôi Trữ công khai tuyên bố chống lại nhà vua, các quan chức triều đình có mặt đều tỏ ra khiếp nhược trước uy thế của Thôi Trữ và răm rắp nghe theo. Duy chỉ có Án Tử là vẫn điềm nhiên tự tại và không chịu thề hứa chi cả. Bấy giờ Thôi Trữ bảo Án Tử rằng: “Nếu ngươi theo ta, thì sau khi ta thâu đoạt được ngai vàng, ta sẽ chia một nửa nước cho. Còn nếu không nghe ta thì ngươi sẽ lập tức bị tiêu diệt!”. Trước khí thế của quân phản loạn, Án Tử vẫn giữ bình tĩnh. Ông trả lời rằng: “Lấy cái lợi để nhử và bắt người ta chống lại Quân vương là bất trung. Lấy binh khí để hiếp đáp làm lòng người sợ hãi phải nghe theo là thất đức. Giết thì giết! Ta đây quyết không làm theo việc bất trung thất đức của ngươi đâu!”. Nói xong Án Tử đứng dậy ung dung ra về, thế mà Thôi Trữ cũng không dám ra lệnh cho quân lính ngăn lại và giết hại như đã đe dọa trước đó.
2) NGÔN SỨ NATHAN KHÔN NGOAN SỬA LỖI VUA ĐAVÍT (x.II Sm 12,1-13):
Sau khi vua Đavít phạm tội ngoại tình với nàng Bátseva là vợ tướng Urigia và ngầm ra lệnh cho đại tướng Gioáp mượn tay quân địch để giết chết tướng Urigia ngoài mặt trận, Nathan đã được Đức Chúa sai đến làm ngôn sứ cáo trách tội giết chồng đoạt vợ của nhà vua. Nathan đã vào gặp đền vua và bày ra một câu chuyện hư cấu về một nhà phú hộ có 10 ngàn con chiên, nhưng đã sai gia nhân đến nhà một người nông dân chỉ có một con chiên cái mà anh ta rất mực yêu mến, bắt con chiên cái này về làm thịt đãi bạn đến chơi. Rồi từ phản ứng giận dữ của vua Đavít khi nghe về hành động thất nhân ác đức của nhà phú hộ, Nathan mới thẳng thắn nói cho nhà vua biết: tên phú hộ ấy chính là nhà vua. Vua đã phạm tội ngoại tình với Bátseva rồi còn giết chồng là tướng Urigia để đoạt vợ của ông ta. Nhờ cách cáo tội khôn ngoan của Nathan này mà Vua Đavít đã dễ dàng nhận ra tội lớn lao của mình và sẵn sàng sám hối làm việc đền tội.
- THẢO LUẬN:
Đức Giêsu đã luôn tỏ ra ưu ái và đề cao dân ngoại. Vậy noi gương Đức Giêsu, chúng ta sẽ phải đối xử thế nào với anh em lương dân mà chúng ta có dịp gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, để giới thiệu Chúa cho họ ?
- SUY NIỆM:
- Đức Giêsu thi hành sứ vụ ngôn sứ tại quê hương và bị phủ nhận:
Tin Mừng CN hôm nay thuật lại như sau: Trong Hội đường làng Nadarét, sau khi đã đọc đoạn sách của Ngôn sứ Isaia về sứ vụ của Đấng Thiên Sai, Đức Giêsu đã chính thức tuyên bố như sau: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Lúc đầu dân làng Nadarét thán phục về tài ăn nói khôn ngoan của Đức Giêsu, nhưng do thành kiến về nghề nghiệp thấp kém và gia thế tầm thường của Người, nên họ đã không tin Người là Đấng Thiên Sai. Họ muốn Đức Giêsu phải làm các phép lạ như họ nghe Người đã làm tại thành Caphácnaum trước đó. Nhưng Người đã không làm một phép lạ nào tại đây vì họ không tin. Trong lời giải thích, Đức Giêsu cho biết lý do dân ngoại thời ngôn sứ Êlia và Êlisa đã được hưởng phép lạ vì họ đã tin và làm theo lời các ngôn sứ dạy. Rồi Người kết luận: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ vì cho rằng Đức Giêsu coi trọng dân ngoại hơn dân Do thái, và còn khinh thường đồng hương. Họ hè nhau lôi Người lên triền núi để xô Người xuống vực, nhưng “người đã băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,30).
- Sứ vụ ngôn sứ của người tín hữu nói chung:
Mỗi tín hữu chúng ta nhờ phép rửa tội và phép thêm sức cũng được tham phần vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Giêsu. Để chu toàn được sứ vụ cao quý này, dựa vào Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm xem chúng ta cần tránh những gì và cần phải làm những gì?
-Cần tránh thành kiến với tha nhân: Dân làng Nadarét do có thành kiến về nghề nghiệp và gia cảnh của Đức Giêsu, nên đã không tin vào sứ vụ Thiên Sai của Người. Thành kiến là thói xấu mà có lẽ ai trong chúng ta ít nhiều cũng đều mắc phải: Cùng một lời nói hay một việc làm nơi một người có địa vị cao hay có uy tín thì được mọi người nghĩ tốt và đánh giá cao, đang khi nếu do một người bình thường làm lại sẽ bị lên án và đánh giá thấp!
-Cần tránh thái độ ích kỷ cục bộ: Qua câu chuyện hũ bột nhà bà góa nghèo thời ngôn sứ Êlia không bị cạn, và bệnh cùi của quan Naaman thời ngôn sứ Êlisa được khỏi cách lạ thường, Đức Giêsu cho thấy mọi dân tộc đều được hưởng ơn cứu độ chứ không riêng dân Do thái, miễn là người ta phải có lòng tin thể hiện qua việc thực hành Lời Chúa dạy qua các ngôn sứ. Đức Giêsu muốn chúng ta không được đóng khung các họat động truyền giảng Tin Mừng hay chia sẻ bác ái trong phạm vi hạn hẹp của mình, mà phải biết mở rộng tình thương đến hết mọi người.
-Cần nói lời Chúa cách trung thực: Làm ngôn sứ không dễ, vì phải nói lời Chúa cách trung thực, dù sự thật thường hay mất lòng. Nhưng đã là ngôn sứ thì chúng ta phải trung thành nói lời Chúa và sẵn sàng đón nhận hậu quả bị người ta thù ghét bách hại.
-Cần dũng cảm bênh vực công lý: Làm ngôn sứ đôi khi cũng phải lội ngược dòng, khi không chiều theo dư luận xấu hay theo số đông lầm lạc và bất công. Trái lại, chúng ta phải khôn ngoan ứng xử phù hợp với lời Chúa. Điều này đòi hỏi vừa phải dũng cảm đứng về phía sự thật lại vừa phải khôn ngoan để giữ được hòa khí với mọi người. Chính thái độ can đảm và khôn ngoan bênh vực công lý này của các tín hữu sẽ giúp người đời nhận biết tôn thờ Thiên Chúa như lời Chúa Giêsu: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
- Phải thi hành sứ vụ Ngôn sứ thế nào trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót ?
– Gương thi hành sứ vụ ngôn sứ cách khôn ngoan của Nathan: Sứ vụ ngôn sứ không dễ thực hiện. Mỗi người chúng ta cần noi gương khôn ngoan của ngôn sứ Nathan khi tuyên sấm lời Chúa sửa lỗi cho vua Đavít (x. II Sm 12,1-13).
– Cần sửa lỗi tha nhân thế nào cho hữu hiệu? : Ngày nay, để việc sửa lỗi đạt kết quả, chúng ta cần áp dụng các phương cách noi gương Thiên Chúa giàu lòng thương xót như sau:
Cần ý thức tầm quan trọng của ơn Chúa bằng việc xin ơn Chúa giúp trước khi sửa lỗi, như lời Chúa dạy: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,8).
Cần tạo uy tín trước khi sửa lỗi, nên trước khi sửa lỗi cho anh em, cần tự sửa lỗi mình để tránh tình trạng: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”;
Cần sửa lỗi vì yêu thương trong sự cảm thông chứ không do mâu thuẫn, thù ghét thôi thúc;
Cần áp dụng phương pháp “viên thuốc bọc đường”, nghĩa là “khen trước chê sau”, “khen nhiều chê ít”;
Cần sửa lỗi từng bước theo Lời Chúa dạy: Một là chỉ nói riêng một mình với kẻ có lỗi; Hai là mang theo một hai nhân chứng; Ba là đưa kẻ có lỗi không chịu sửa sai ra cộng đoàn; Bốn là coi kẻ cố chấp như dân ngoại và phó thác họ cho lòng Chúa thương xót (x. Mt 18,15-17).
- LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp chúng con chu tòan sứ vụ làm ngôn sứ là rao giảng Lời Chúa trong xã hội hôm nay. Để chu toàn sứ vụ, xin cho chúng con siêng năng học sống Lời Chúa tại nhà thờ và đọc Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày. Xin cho chúng con biết làm chứng cho Chúa là “Sự Thật” (x Ga 14,6) bằng lối ứng xử thân thiện và khiêm tốn phục vụ những người đau khổ bất hạnh đang lạc xa Chúa. Xin cho chúng con luôn tin vào sức mạnh của sự thật như Chúa đã dạy: “Sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
.
CHÚA GIÊSU, VỊ THẦY THUỐC CAO TAY ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nếu như Chúa nhật III Thường niên, Chúa Giêsu thực hiện lời ngôn sứ đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật IV, Chúa Giêsu tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai, Danh tiếng Chúa lan truyền khắp nơi, Chúa chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, nhìn chung là vui mừng và sung sướng; mọi người đều …thán phục Người ; các thần ô uế phải vâng lệnh Người.
Nhưng hôm nay hoàn toàn ngược lại, vì sau một thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu đã trở lại Nagiarét trong một tư cách hoàn toàn mới: Chúa Giêsu vào hội đường đọc một lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và loan báo “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4,21), khiến cho người nghe hiểu rằng lời tiên tri ấy quy chiếu về Người. Ðiều này khơi dậy sự bất bình của dân làng Nagiarét: một đàng, “mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra” (Lc 4,22). Nhưng đàng khác, các người đồng hương biết Người qúa rõ. Họ nói: “ông ta là một người trong chúng ta. Yêu sách của ông chỉ có thể là sự tự phụ” (Ðức Giêsu thành Nagiarét, 11). “Người này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4,22), như thể nói rằng: một bác thợ mộc làng Nagiaret có thể có khát vọng gì đây?
Sự biết của họ gợi nhớ câu ngạn ngữ : “Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình! Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông” (Lc 4,23). Liền sau đó, Chúa Giêsu đã thở dài và tuyên bố câu nói để đời : “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình“(Lc 4,24). Tuyên bố của Chúa Giêsu vang lên trong hội đường như một sự khiêu khích. Người kể lại hai phép lạ mà các ngôn sứ Elia và Eliseo đã làm cho những người không phải dân Do thái, để chứng minh rằng đôi khi ngoài dân Israel có nhiều kẻ tin mạnh hơn. Tới đây thì tất cả những người có mặt đều phản ứng : “Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi” (Lc 4,28-30). Người ta phải tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại khơi dậy sự đổ bể ấy? Ban đầu dân chúng thán phục Người và có lẽ Người đã có thể có được một sự đồng ý nào đó của họ. Chúa Giêsu đã không đến để tìm sự đồng ý của loài người. Vị ngôn sứ thật không vâng lời ai khác ngoài Thiên Chúa, và phục vụ chân lý, sẵn sàng trả giá.
Về điểm này, thánh Augustinô (354-430), Giám mục thành Hippôn (Bắc Phi), tiến sĩ Hội Thánh đã chủ giải như sau : “Người rẽ qua giữa họ mà đi“, nghĩa là Chúa Giêsu là một thầy thuốc cao tay đã đến giữa chúng ta. Người vẫn rẽ ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta để làm cho chúng ta được khỏe mạnh. Chúa Giêsu đã đến, và Người thấy hội chứng mù lòa trong lòng nhân loại, Người liền hứa ban sự sáng cho chúng ta được thấy, thật đúng là : “Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm” ( 1 Cr 2, 9).
Nếu Chúa Giêsu, một Vì Thiên Chúa, là Thầy thuốc đến để chữa bệnh thì Người chữa bệnh gì cho nhân loại ? Người đã dùng phương thuốc nào ?
Người đến để chữa nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh kiêu ngạo. Phương thuốc chữa trị cho căn bệnh kiêu ngạo là sự khiêm của Đức Giêsu Kitô. Một vị thầy thuốc tôn trọng bệnh nhân khi chữa trị cho các bệnh nhân, với phương thuốc : Hãy học cùng Người vì Người là Thiên Chúa khiêm nhường trong lòng, như Người mời gọi ta. Thật vậy, Người biết rằng, phương thuốc để chữa lành bệnh bệnh kiêu ngạo của chúng ta là sự khiêm nhường. Người biết rõ căn nguyên của bệnh tật và bốc đúng liều lượng để chữa trị. Trong thực tế, người bệnh là chúng ta không thể chạy đến cùng thầy thuốc, vậy mà đích thân thầy thuốc đã đến nhà chúng ta, Người đến cứu chúng ta, vì Người biết điều chúng ta cần.
Thiên Chúa đã đến với con người trong sự khiêm nhường, để con người có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa. Có người hỏi : Thiên Chúa vẫn ở trên cao, làm thế nào để ta có thể bắt chước Người được? Và nếu không bắt chước được Người, thì làm sao con người có thể được chữa lành? Người đến trong sự khiêm nhường, vì Người biết rõ tính tự nhiên của một thầy thuốc là phải túc trực thường xuyên bên người bệnh : thuốc có đắng, mới chữa được bệnh. Còn con người, con người tiếp tục nhạo báng Thiên Chúa, tay cầm chén, và nói: “Lạy Thiên Chúa của con, Người là ai ?” Người được sinh ra, Người đã chịu khổ hình, chịu đội mạo gai, bị đóng đanh và chịu chết trên cây thập giá! Ôi, tâm hồn sầu khổ! Ta chứng kiến sự khiêm tốn của thầy thuốc, mà lại không thấy được căn bệnh ung thư kiêu ngạo tiềm ẩn trong ta, đó là lý do tại sao ta không thích sự khiêm nhường.
Thường thì kẻ mắc bệnh tâm thần mới đánh lại bác sĩ khi bác sĩ đang chữa trị bệnh tật cho mình. Trong trường hợp này, bác sĩ đầy lòng thương xót không chỉ không tức giận chống lại người đánh, nhưng bác sĩ còn cố gắng để chữa bệnh cho người ốm. Bác sĩ của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô, Người không sợ bị giết bởi bệnh nhân điên rồ: Người đã làm cho cái chết của mình trở nên thần dược chữa lành họ, Người đã chết và đã sống lại.
Như thế Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bằng việc loan báo Tin Mừng, từ bỏ và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Chính lập trường của Chúa Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực để thực hiện một cảnh ngoại mục cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Người đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của chúng ta bằng liều thuốc khiêm nhường, để khi chúng ta sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, chúng ta có thể khiêm nhường đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Người sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ vẹn toàn.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con trung thành và tươi vui bước theo Chúa Giêsu trên con đường ấy. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Đường đi tới thành công, tuy không bao giờ bằng phẳng, nhưng đâu phải vì thế mà người ta bỏ cuộc, nghĩa là ai cũng có cơ hội để đi tới đích hạnh phúc. Hố sâu ngăn cách lớn nhất giữa vợ chồng là không duy trì được tình yêu, trách nhiệm và bổn phận nơi cha mẹ và con cái không thể làm tròn, đa phần vì gia đình chẳng tìm được tiếng nói chung. Khó khăn rắc rối trong các tương quan thường không phải là tri thức, mà là do thiếu cảm thông, không thể đón nhận nhau như người bạn, người cùng chí hướng.
Xưa kia tại Nagiarét, mâu thuẫn bất đồng mà Đức Giêsu phải đối diện chính là người quen biết, người đồng hương, như một định kiến : Bụt chùa nhà không thiêng. Thực ra, vì đức độ tài năng, Đức Giêsu trở nên nổi tiếng cả trong lời nói lẫn hành động, làm gây mất ảnh hưởng đến giới lãnh đạo lúc bấy giờ. Vì thế, việc Đức Giêsu xuất thân từ gia đình con bác thợ mộc, chỉ là cái cớ nhỏ. Trong đám đông lúc đó, đa số họ chỉ muốn Ông Giêsu thực hiện phép lạ để xem cho vui, nhằm thỏa mãn nhu cầu theo ý họ, hoặc Ông Giêsu phải hoạt động, làm việc theo sự chỉ đạo của họ. Và Đức Giêsu đã biết rõ đâu là thành ý của họ.
Sống trên đời, việc nhầm lẫn, hiểu sai, có khi vì cái đầu không bình thường, đôi khi vì tự mãn, khép kín lòng mình, hậu quả dẫn tới đổ vỡ, thất bại, là điều dễ hiểu. Người ta được kính trọng, hay bị ganh ghét khinh thường trong cuộc sống, chưa hẳn đó là “phúc hay họa”, vì ai ở đời này cũng cần phải chu toàn bổn phận đối với gia đình xã hội. Nếu gặp người tài giỏi đức độ, hoặc biết Đức Giêsu là nhân vật nổi tiếng, đâu đã gọi là phúc đức, quan trọng là đón nhận được giáo huấn của Đức Giêsu, được Ngài biến đổi tâm hồn mình xứng hợp với tình yêu, đó mới hạnh phúc.
Dẫu biết rằng, lý do để làm nên lịch sử đâu phải dựa vào một vài cá nhân, điều làm nên tâm hồn mới mẻ không phải là do được phủ lên mình tấm vải trắng. Đúng hơn, con người vĩ đại ở chỗ biết nói sự thật và luôn sống trọn vẹn cho sự thật. Thực tế vẫn cho rằng, “kẻ cắp” không thể ăn trộm được tình yêu thương, nhưng tình yêu lại có thể biến nhiều người “sa đọa” trở nên thánh nhân. Đức Giêsu phải đối diện với nhiều cản trở, khó khăn từ người đồng hương, nhưng cuộc chiến cao đẹp ở chỗ là Ngài đã mạnh mẽ nói lên sự thật về tình yêu của Thiên Chúa đối với bà góa ở Sarepta và người phong cùi Naaman được lành sạch.
Hành trình đời người, gian nan khốn khổ, thất thế, thất bại, như vàng thử lửa, gian nan thử đức, chúng ta đã nghe, đã đối diện; nhưng để vượt qua, để chiến thắng những cản trở, ai cũng phải đủ tình yêu, đủ sức mạnh. Phong cách chiến đấu, chiến thắng gian khổ của Chúa Giêsu không phải là tiêu diệt kẻ nào xúc phạm, hay hạ gục kẻ nào khước từ tình yêu Chúa, nhưng Ngài đã nhẹ nhàng vượt qua đám đông mà đi. Chân lý đức tin được phát triển nhờ tình yêu, sự thật được sáng tỏ bởi thời gian, nhưng tâm hồn bình an, hạnh phúc chỉ ở nơi những ai có Đức Giêsu.
Kinh nghiệm của người xưa cho thấy rằng : có cứng mới đứng đầu gió, có tài giỏi đức độ mới gánh được việc khó. Sứ mạng của Đức Giêsu tại trần gian khởi đầu là gieo hạt giống đức tin, và đi đến tận cùng của tâm hồn muôn dân thiên hạ là tình yêu cứu độ. Chúa Giêsu mong ước mỗi chúng ta phải là những môn đệ tài giỏi đức độ, nhờ đó chúng ta biết sống, biết bổ túc và hỗ trợ đức tin cho anh chị em mình. Người đồng hương hôm xưa nhìn thấy được quá khứ và đo lường bằng trực giác, nhưng họ không thấy được việc xô đẩy Đức Giêsu là từ chối, là tẩy chay tình yêu thương đang ở giữa họ.
Đã yêu nhau thì rắn độc cũng là lươn, khi không yêu nhau thì cá trê nướng cũng là đỉa. Thiếu tình yêu, không đủ khiêm tốn, đều có thể gọi là kẻ không có lập trường, dễ đánh mất cơ hội thành công. Sở dĩ người ta cảm thấy đau khổ, khó thắng vượt những khúc chắn đang cản đường cản lối ta đi, là vì ta đang tự vẽ ra những ý tưởng hạnh phúc sai lầm. Đức Giêsu chính là tình yêu thật, mỗi chúng ta không thể thấy và đón nhận Ngài bằng trí hiểu biết của mình, mà là bằng tinh thần khiêm tốn. Cái tôi và sự khiêm tốn tỉ lệ nghịch với nhau, ích kỷ càng lớn thì sự khiêm tốn càng không có gì, và khiêm tốn càng nhiều thì cái tôi càng bé lại. Con đường ngắn nhất để có được thành công hạnh phúc, chính là gặp được Chúa Giêsu và có mãi được tình yêu của Ngài trong cuộc sống này. Amen.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Chúng ta đang sống trong thời đại của truyền thông, thông tin. Những người nắm bắt và làm chủ được thông tin sẽ có nhiều cơ may thành công hơn. Tuy nhiên, đa số người dân lại bị ngập lụt trong các thông tin rác khiến người ta không biết đâu là sự thật và đâu là nguỵ biện, giả trá và không thể phân định đúng hay sai. Cuộc chiến thông tin tại Việt Nam trong những tuần lễ vừa qua là một bằng chứng cho thấy điều đó. Vì ngày nay, người ta có chủ trương tuyên truyền qua mạng lưới thông tin nên có những điều dối trá được lặp đi lặp lại nhiều lần. Trong khi đó, chân lý và sự thật được Tin Mừng và Giáo hội công bố thì nhiều người lại tỏ ra hoài nghi. Điều đó chứng tỏ rằng, người ta thích nghe những gì vui tai hơn là nghe và đón nhận sự thật.
Lời Chúa hôm nay cho thấy, Thiên Chúa luôn sai đến với dân Ngài những ngôn sứ để chỉ cho dân bước đi trên con đường sự thật, nhưng dường như dân chúng ít đón nhận những người mà Chúa sai đến. Giêrêmia là một trong những vị ngôn sứ đã phải trải qua một cuộc đời hết sức đau khổ vì sứ mạng nói lên sự thật của mình. Ông rất ý thức về việc được Chúa tuyển chọn, vì thế, ông miệt mài nói lời của Chúa, nói nhân danh Chúa, nhưng dân Do Thái đã khước từ ông, họ tìm cách loại trừ ông vì cho rằng, ông toàn nói những điều chống lại họ. Vị tiên tri tâm sự : Chúa đã nói với tôi “Ta đã gọi ngươi từ trước khi ngươi được hình thành trong dạ mẹ, đã đặt ngươi làm ngôn sứ cho dân, hãy nói cho chúng tất cả những điều ta sẽ truyền cho ngươi, trước mắt chúng, ngươi đừng run sợ”.
Giêrêmia sống trong hoàn cảnh đất nước Do Thái đã bị chia đôi, miền Bắc là Israel đã bị dân ngoại tấn công và đã bắt cả vua lẫn dân đi lưu đày. Vương quốc Duda đang bị sức ép của quân Babylon. Vua Duda thay vì tin tưởng nơi Thiên Chúa lại tìm cách liên minh với vua Aicập, nương tựa vào sức mạnh quân sự của họ. Giêrêmia đã lên tiếng phản đối liên minh này vì cho rằng đó không phải là ý Chúa. Tuy nhiên, vua Duda và triều thần đã không nghe theo lời khuyên của Giêrêmia mà bắt ông tống giam trong ngục. Giêrêmia đã không hề run sợ, cũng không ân hận về những gì ông đã nói vì ông tin rằng Thiên Chúa luôn ở với ông để giải thoát ông.
Thân phận ngôn sứ luôn là như thế. Dân chúng không muốn đón nhận các Ngài chỉ vì các Ngài đã dám nói lên sự thật, đã dám bênh vực chân lý. Họ không muốn nghe lời các ngôn sứ cảnh báo, bởi vì họ đã quen nghe những lời dối trá ngọt ngào, thích nghe những lời vừa tai vừa lòng hơn là những lời sự thật.
Chúa Giêsu trong vai trò là một Ngôn Sứ từ nơi Thiên Chúa mà đến cũng có chung một số phận như các vị ngôn sứ khác. Ngài đến để nói lời yêu thương của Thiên Chúa, để tìm kiếm và chữa lành những tâm hồn đau thương dập nát, công bố mùa hồng ân của Thiên Chúa. Để có thể đón nhận được tình thương của Thiên Chúa, mỗi người phải chỗi dậy, sám hối, từ bỏ nếp sống cũ và thực hành đời sống yêu thương, tha thứ và hết lòng tin tưởng vào Người. Tuy nhiên, những người Do Thái tại hội đường Nazaret hôm đó cảm thấy khó chịu khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố : Hôm nay đã ứng nghiệm lời ngôn sứ anh em vừa nghe.
Họ khó chịu vì họ không thể chấp nhận một giáo lý mới, giáo lý tình thương của Thiên Chúa. Họ không muốn thay đổi suy nghĩ, họ muốn Thiên Chúa phải trừng phạt tất cả kẻ dữ cũng như người có tội và ban phần thưởng cho họ là những người vẫn chu toàn lề luật. Những người này tự cho mình là những người công chính, đạo đức. Vì thế, họ không chấp nhận lời mời gọi hoán cải của Chúa Giêsu. Nhưng quan trọng hơn, do thành kiến, do kiêu ngạo, họ không chấp nhận Chúa Giêsu là sứ giả do Thiên Chúa sai đến và càng không chấp nhận Ngài là Thiên Chúa. Vì thế, những người này đã có cái nhìn khinh miệt Chúa Giêsu. Họ nói rằng : Ông này cũng chỉ là con ông Giuse trong làng.
Những người Do Thái cũng mang suy nghĩ như người Việt Nam : Một người làm quan cả họ được nhờ. Vì thế, họ mong đợi Chúa Giêsu làm vẻ vang cho làng Nazaret bằng cách làm những phép lạ cả thể tại quê hương như Ngài đã làm ở nơi khác. Họ muốn Ngài cũng làm phép lạ hoá bánh mỗi ngày, hoá rượu ra nhiều để cả dân làng không phải lao động vất vả mà vẫn có cơm bánh. Vì Chúa Giêsu đã không đáp ứng những ước muốn vậtt chất của họ nên họ đã từ chối Ngài.
Chúa Giêsu đã điều chỉnh lại suy nghĩ của những người Nazaret và cho họ thấy rằng không thể có phép lạ nào xảy ra nếu không có lòng tin. Chúa Giêsu đã nhắc lại hai câu chuyện về lòng tin vào lời của vị ngôn sứ nơi những người dân ngoại. Đó là phép lạ đã xảy ra cho bà goá thành Sarepta và ông Naaman. Bà goá thành Sarepta mặc dù chỉ còn một chút bột, một chút dầu để hai mẹ con ăn bữa cuối rồi chết, nhưng vì tin và làm theo lời của tiên tri Elia, bà đã dâng tặng phần ăn của và bà con bà cho vị tiên tri. Thiên Chúa đã trả lại cho bà bằng phép lạ hũ bột không cạn, bình dầu không vơi suốt những năm đói hạn. Cũng vậy, Naaman là một tể tướng của Syria bị phong cùi đến xin ngôn sứ Elisa chữa cho, vị ngôn sứ đã ra lệnh cho ông xuống tắm bảy lần tại sông Giodan, ông đã nghe theo lời của vị ngôn sứ và ông đã được lành sạch. Từ đó, vị quan này đã tin vào Thiên Chúa của Elisa.
Những người Do Thái khi nghe Chúa Giêsu giải thích, thay vì họ phải khiêm nhường đón nhận lời của Chúa, thì họ đã để cho sự hung hăng nổi lên trong lòng ; họ đứng dậy, lôi Chúa Giêsu ra khỏi thành và định xô người xuống vực. Một khi con người từ chối đón nhận Lời của Thiên Chúa, để mình bị chi phối theo bản năng, thì con người sẽ hành xử hung hăng, gian ác như thế. Kết thúc câu chuyện, Thánh Luca cho thấy, Chúa Giêsu băng qua giữa họ mà đi. Họ không làm gì được Người.
Chúa Giêsu đến để nói cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa hết mực xót thương con người. Ngài không muốn bất cứ ai trong con người chúng ta phải hư mất. Ngài luôn mời gọi mỗi người sám hối, quay trở về với Ngài để đón nhận và được sống trong tình yêu thương. Ngài cũng nói cho chúng ta biết rằng ma quỷ và tội lỗi là kẻ gây ra đau khổ và sự chết cho con người, cùng với nó là thế gian và xác thịt luôn muốn kéo con người chúng ta xa rời tình thương của Thiên Chúa, chúng đang tạo ra nhiều sự giả trá, dối gian để lừa gạt chúng ta theo nó. Thế nhưng, nghiều người cũng giống như những người Do Thái xưa, họ từ chối nghe và đón nhận sự thật, từ chối đi theo con đường chân lý để chạy theo những lời dụ dỗ, ngọt ngào của thế gian và ma quỷ.
Được tham dự vào chức năng ngôn sứ của Chúa Giêsu, mỗi chúng ta cũng phải trở thành ngôn sứ, là người nói lời của Thiên Chúa cho anh em, cho gia đình mình. Hãy nói với nhau bằng những lời lẽ yêu thương và sự thật. Hãy trở thành sứ giả, thành cộng tác viên của Chúa trong việc yêu thương và phục vụ. Chung quanh chúng ta còn rất nhiều người đang cần được nghe Tin Mừng tình thương của Chúa, bao nhiêu tâm hồn cần băng bó chữa lành. Chúng ta sẽ phải là những người bước đến với họ, nâng đỡ và an ủi họ. Trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Fancis mời gọi chúng ta phải đi ra, tức là phải bước ra khỏi nhà mình để đến với người chung quanh, đi ra khỏi sự êm ấm, tiện nghi của mình để đến với những người đang sống ở vùng ven. Vùng ven không chỉ là những khu ổ chuột, mà vùng ven của tâm hồn, là những người chúng ta không quan tâm hoặc bỏ rơi họ từ lâu. Hãy bước đến với họ và đem Tin Mừng tình thương đến với họ.
Sự thật sẽ giải thoát con người. Lời của Chúa là sự thật có thể chữa lành bệnh tật trong tâm hồn con người, có thể chữa khỏi những căn bệnh do tội lỗi gây ra trong tâm hồn. Muốn vậy, chúng ta cần phải uống những liều thuốc Lời Chúa. Lời Chúa có thể đắng đót ngoài miệng nhưng sẽ trở nên ngọt ngào trong tâm hồn. Lời Chúa sẽ chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta, chỉ cho chúng ta sống theo chân lý và sự thật, sẽ dạy chúng ta biết sống thảo hiếu với Thiên Chúa, sống hoà thuận với anh em, sẽ soi sáng chỉ lối khi chúng ta rơi vào tối tăm của thử thách.
Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Xin cho chúng ta nhờ tin và đón nhận sự chỉ dạy của Người, chúng ta biết sống theo thánh ý Thiên Chúa và học nơi Ngài để chúng ta trở thành những người sống và làm chứng cho sự thật trong thế giới gian dối này. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Không tin lý thuyết này nhưng lại tin giả thuyết nọ.
Thành ra ai cũng phải chọn một niềm tin.
Không phải chọn một cách vu vơ, mù quáng,
nhưng Tin là thái độ căn bản trong cuộc sống.
Chẳng ai có thể sống mà không tin.
Không tin người này nhưng lại tin người kia.
một cách sáng suốt và tự do.
Ðiều khó là giữ cho lòng mình được tự do thanh thoát,
không bị những định kiến ràng buộc hay tư lợi chi phối,
nhờ đó chúng ta dám chọn sự thật,
dù sự thật đó làm đổ nhào mọi điều ta nghĩ,
và xoay lại hướng đi của cả đời ta.
Có lẽ dân làng Nadarét ít có thứ tự do này.
Khi Ðức Giêsu giảng trong hội đường Nadarét thân quen,
họ đã ngỡ ngàng thán phục trước lời Ngài nói.
Hãnh diện biết mấy khi một thành viên trong làng
nay được tiếng tăm lẫy lừng khắp miền Galilê!
Nhưng tin Ðức Giêsu là một ngôn sứ
lại là điều họ không làm được.
“Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”
Ký ức của họ vẫn còn giữ nguyên những hình ảnh
của Ðức Giêsu sống tại đây hơn ba mươi năm qua.
Một cuộc sống quá đỗi bình thường!
Một ông thợ mộc, con một ông thợ mộc khác.
Gốc gác, họ hàng của Ðức Giêsu, họ đều nắm rõ.
Tiếc là họ đã không thể đi xa hơn.
Cái hiểu biết trước đây khiến họ mãn nguyện, tự hào,
và tưởng mình chẳng còn gì để biết thêm về Giêsu.
“Những gì ông đã làm ở Caphácnaum, hãy làm ở đây xem.”
Người làng Nadarét không tin Ðức Giêsu là ngôn sứ.
Họ muốn Ngài chứng minh bằng phép lạ.
Họ muốn thấy tận mắt, chứ không chỉ nghe nói thôi.
Nhưng Ðức Giêsu không làm phép lạ để ép người ta tin.
Chính lòng tin đưa đến phép lạ,
mà Ngài lại chẳng gặp lòng tin nào nơi người đồng hương.
Lòng chai đá cứng cỏi của họ chuyển thành sự phẫn nộ,
khi Ðức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisa
được Thiên Chúa sai đến thi ân cho dân ngoại.
Dân làng không giữ được Ðức Giêsu cho riêng mình.
Khi thấy mình chẳng còn chút đặc quyền, đặc lợi,
thì họ tìm cách thủ tiêu Ngài.
Tin Ðức Giêsu là ngôn sứ, là Mêsia, là Con Thiên Chúa,
điều đó chẳng dễ dàng chút nào.
Người không tin cũng có thể đưa ra bao lập luận.
Ðiều cần thiết là phải tìm kiếm chân lý với cả tâm hồn.
Chúa Thánh Thần vẫn soi sáng cho người thành tâm thiện chí.
Hôm nay, chúng ta đã biết, tin và gần gũi Ðức Giêsu,
nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ tương tự như người Nadarét:
tưởng mình đã múc cạn được mầu nhiệm
hay muốn độc quyền giữ Ðức Giêsu cho mình.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thính ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
.
Huệ Minh
Mở đầu Trang Tin Mừng hôm nay là câu đầy ý nghĩa của Trang Tin Mừng tuần trước. Thật vậy, rõ ràng là sự gì Kinh Thánh đã nói về Người, thì “hôm nay” được ứng nghiệm. Điều đó đồng nghĩa với: “Tôi là Đấng cứu Thế”đây. Từ “hôm nay”, có nghĩa là đã đến lúc Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa từ ngàn xưa.
Hình bóng của Giêrêmia chính là hình ảnh của Đấng Cứu Thế hôm nay. Trang Tin Mừng (Lc 4, 21) hôm nay, nhắc lại câu nói tuần trước của Chúa Giêsu. Vâng! Thưa quý vị: “Hôm nay đã ứng nghiệm Lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
Giêrêmia là một trong bốn đại ngôn sứ thời Cựu Ước, đã được Thiên Chúa cho biết :” Trưóc khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân”.
Thật sự Thiên Chúa đã chuẩn bị và đã chọn Giêrêmia từ xa xưa. Thiên Chúa sai ông đi “để nhổ và lật đổ, để hủy và để phá”. Tiếc thay, sứ vụ của ông quả đã thất bại, chính ông cũng chết tại Ai cập, nhưng dung mạo của ông không ngừng lớn lên sau khi ông chết.
Nhìn vào cuộc đời, ta thấy ông là một người có tâm hồn hiền hậu. Ông vốn dĩ sinh ra để được yêu mến, luôn luôn nêu cao những liên lạc thân mật tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa. Đọc kỹ cuộc đời ông, ta thấy ông đã quên mình, chịu đau khổ để phục vụ Thiên Chúa và quả thật ông đã trở thành một dung mạo của Chúa Kitô.
Ta thấy ngôn sứ là người được sai đi để nói Lời của Thiên Chúa. Mặc nhiên, ngôn sứ chính là Lời của Thiên Chúa. Người được thay thế nói Lời của Thiên Chúa,như vậy chúng ta thấy ngôn sứ thật diễm phúc.
Trong lịch sử Thánh Kinh, ta thấy rất nhiều ngôn sứ, nhưng có một số ngôn sứ nổi bật như ngôn sứ Giêrêmia. Như trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Đây Ta đặt Lời nói Ta trong miệng ngươi”.
Ta thấy ngôn sứ Giêrêmia thật là diễm phúc, như vậy, lời của ông nói ra chính là Lời của Thiên Chúa được đặt vào miệng ông.
Chúa Giêsu cũng vậy khi ta thấy lời của Chúa Giêsu hôm nay cũng được mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài.
Thật vậy, Chúa Giêsu đúng là một “người đặc biệt nhất” trong những người đặc biệt, một “dị nhân” chính hiệu, khiến ai cũng phải tâm phục và khẩu phục. Thế nhưng đáng tiếc là người ta đã cố tình không nhận ra Chúa và dã tâm tìm cách hại Ngài.
Chúa Giêsu biết lòng dạ xấu xa của họ nên Ngài nói với họ như thế này: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” (Lc 4, 23).
Người ta có dã tâm không phải vì Chúa Giêsu làm gì sai trái, mà vì tính đố kỵ, thói ghen ghét, không muốn người khác hơn mình, sợ mình lép vế. Ngài thản nhiên nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4, 24). Câu nói này vẫn đúng ngay trong những ngày này dù cây nói này quả là quá xa với thời đại của chúng ta!
Thấy họ im lặng, không đối đáp được câu nào, mà làm sao họ cãi lại chứ? Rồi Chúa Giêsu nói một hơi: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn.
Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi” (Lc 4, 25-27).
Quá rõ, thật thấm thía và đau điếng, trúng tim đen mà! Còn ai cãi được gì nữa?
Tưởng chừng họ ngưỡng mộ và tin vào lời của Chúa nhưng tiếc thay họ lật mặt như trở bàn tay, mới khen nức lòng mà lại chống đối ngay. Thánh sử Luca kể: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực” (Lc 4,28-29).
Nhìn họ, ta thấy lòng dạ của họ quá dã tâm và nham hiểm. Cũng chính vì lòng chai dạ đá nên họ chẳng làm gì được người chính trực. Thấy họ phẫn nộ, Chúa Giêsu thản nhiên “băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4, 30). Chắc hẳn lúc đó bọn ác nhân muốn lộn ruột gan và phát điên lên được.
Cũng vậy, ngày hôm nay ta thấy cũng không thiếu những lòng dạ mưu mô nham hiểm với người khác. Loại người này ở đâu cũng có, chẳng trừ nơi nào, y như ma quỷ có mặt mọi nơi để rình rập người tốt vậy!
Sự thật luôn phũ phàng, vì: “Không một ngôn sứ nào được đón nhận tại quê hương mình” (c 24). Vâng! Chính Chúa Giêsu đã nói như vậy. Tại sao? thưa, bởi vì họ không đón nhận sự thật, họ không muốn nghe sự thật, và không tin sự thật. Chỉ có ai muốn đón nhận sự thật, thì mới lắng nghe sự thật. Vì “sự thật thì mắc lòng”.
Và như thế! Là họ, người Nazaret không phải là những người nghèo được đón nhận Tin Mừng. Vì họ không đón nhận ngôn sứ đích thực của Thiên Chúa. Họ tìm vết bới lông, họ soi mói nguồn gốc lai lịch của Đấng Cứu Thế và như vậy, họ khinh dễ Chúa Giêsu.
Như vậy, họ hay Chúa Giêsu bị thất bại tại Nazaret, quê hương của Người Trước đó chính họ đã ngưỡng mộ Chúa Giêsu, họ khâm phục những gì từ miệng Người nói ra (c. 22). Nhưng chính Người đã đọc được ý nghĩ ngay trong thâm tâm của họ, vì Chúa không muốn họ khâm phục Người bằng môi miệng. Người đã kể tội của họ và tội của cha ông họ, thế là họ tìm cách trục xuất Chúa Giêsu ra khỏi họ.
Phần ta là Kitô hữu được kêu gọi làm ngôn sứ của Chúa Cha cho thời đại chúng ta, cũng như Chúa Giêsu từng là tiên tri của Chúa Cha cho thời đại của Ngài. Đây chính là sứ vụ mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép rửa tội và thêm sức. Chúng ta hãy lập lại lời thánh Phaolô; “Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để toả sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tăm tối này” (Pl 2, 15)
.
Dã Quỳ
Ai trong chúng ta cũng có xung quanh mình những người thân, bạn bè, hàng xóm…và thường chúng ta luôn biết trước về những biểu hiện, những tính nết của họ. Vì thế, tim ta sẽ dễ ghen ghét, tai ta dễ đóng lại và không thể chú ý nghe những gì họ nói cho dù là hay và tốt.
Với những người trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Khi Chúa Giêsu vừa trở về Nazareth, nơi Người sinh trưởng, Người vào hội đường đọc và giảng giải Kinh Thánh. Mọi người nghe, tán thành, thán phục. Nhưng rất nhanh, họ đàm tiếu, từ chối những gì Chúa công bố bởi vì “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”(Lc 4, 22b) Cũng đám người ấy, thoạt đầu nghe Chúa nói thì ca ngợi và chắc chắn họ cũng đã nghe đồn về những lời giảng dạy và những phép lạ Chúa đã thực hiện ở nơi khác. Thế nhưng, họ đã không nghe, không nhìn và không đón nhận được những gì tốt đẹp Chúa Giêsu đã nói, đã làm bởi vì:
– Thành kiến và nhãn mác đã ngăn cản tai họ. Cho dù họ nghe những lời Chúa Giêsu nói thật hay, nhưng cái nhãn “Con nhà thợ mộc và người cùng quê” đã ngăn cản họ. Con của một người thợ mộc thì có cái gì tốt để dạy chúng ta? Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong làng xóm của họ thì làm sao lại là một Ngôn Sứ và hơn thế nữa là Đấng Mêsia được. Tất cả những lời tiên báo về Chúa Giêsu- Đấng Cứu Thế đều được ghi trong Sách Thánh và những gì Chúa thực hiện đều được ứng nghiệm, tai họ đã nghe, mắt họ đã thấy, nhưng trí họ thành kiến nên lòng họ không chấp nhận. Họ tìm kiếm một Đấng Mêsia cao trọng theo dáng vẻ thế gian và theo trí họ suy tưởng nên với Chúa Giêsu, một Thiên Chúa Nhập Thể, sống cùng và sống giữa họ để yêu thương, cảm thông, giảng dạy, chữa lành…cho họ thì họ lại không nhìn nhận và không đón nhận. Lời Thánh sử Gioan nói thật chính xác về họ “Người ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.”(Ga 10-11) Những người đồng hương của Chúa Giêsu như thế. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Liệu Lời của Người và nhất là giới răn Người đòi hỏi, mong muốn chúng ta sống, có là những trở ngại ngăn ta không đón nhận Chúa và giáo huấn của Người?
– Kiêu căng và chai cứng đã khép kín tim họ. Với thái độ xem thường danh phận của Chúa và lòng họ kiêu căng không đón nhận những lời giảng dạy nhưng lại đòi phép lạ chứng minh. Chúa Giêsu thấu rõ lòng trí họ và Người biết họ luôn tự hào là những người am tường Kinh Thánh, là Dân Thiên Chúa và chắc chắn họ sẽ hơn Chúa Giêsu và những gì Người rao giảng. Chúa đã cho họ thấy, Thiên Chúa chỉ yêu thương cứu giúp những ai khiêm hạ nhỏ bé. Hình ảnh bà góa thành Xa-rép-ta và Na-a-man phong hủi người Sy-ry-a mà Chúa đưa ra để cho họ nhận biết cái cách sống kiêu căng và thiếu tin tưởng, không tôn trọng các ngôn sứ và lòng chai đá sẽ chẳng bao giờ lãnh nhận được phép lạ. Thế nhưng, qua những lời Chúa nói, lòng kiêu ngạo của họ càng đẩy lên tới tột cùng, đến độ trái tim họ trở nên thù ghét, họ phẫn nộ, trục xuất Chúa và muốn sát hại Người. Đây có lẽ cũng là não trạng chung của nhiều người trong chúng ta. Tự cao tự đại cho mình hơn người thì sẽ không bao giờ đón nhận ý kiến hay và những điều tốt đẹp người khác làm. Đồng thời sẽ dẫn người ta đến ganh ghét, thù hận vì những gì người khác thực hiện tốt hơn ta hoặc vì những gì người khác góp ý chỉ ra điều sai của ta, làm phiền lòng ta.
“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.”(Lc 4,24) Đây là trường hợp chung cho tất cả các chứng nhân Tin Mừng và cho từng người Kitô hữu chúng ta hôm nay. Chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu đã trải qua cũng sẽ là con đường chung cho những Kitô hữu chân chính bước đi theo Chúa sát kề như Lời Chúa đã nhắn nhủ “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.”(Lc 10, 3) Nhưng lòng chúng ta khiêm nhường và tin tưởng Chúa Giêsu luôn ở bên ta, chính Người đồng hành với ta trong từng bước đường sống và làm chứng cho Tin Mừng. Sự hững hờ, khinh rẻ, chống đối vẫn mãi có đó vì chắc chắn Lời Chúa sẽ làm cho người ta phải thay đổi lối sống nên khó chấp nhận. Người truyền giáo cần bình tĩnh, trung kiên và đầy tình yêu để có thể vượt qua tất cả như lời thánh Phaolo khuyên” Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.”( 1Cr 13,7) Như Chúa Giêsu nhẹ nhàng đi qua giữa những người chống đối, triệt hạ mình “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”(Lc 4,30) Và chúng ta vẫn kiên trì rao giảng, đem Chúa cho mọi người bằng đời sống yêu thương, bác ái, cảm thông, nâng đỡ và đón nhận nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy mở rộng con tim và đôi tai chúng con, giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa, biết sửng sốt và thán phục những việc kỳ diệu Chúa đã làm và biết giữ lại trong tim hình ảnh Chúa là Tình Yêu, là Đấng Cứu Độ chúng con, để rồi chúng con cũng trung thành và can đảm với sứ mệnh rao giảng về Chúa và Lời Chúa cho dù có gặp khó khăn chống đối. Lạy Chúa, xin chúc lành cho chúng con.Amen.
.