Các bài suy niệm Chúa Nhật 4 Thường niên Năm B

1004

CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN, NĂM B

Lời Chúa:  Đnl 18,15-20; 1Cr 7,32-35; Mc 1,21-28

——- 

Mục lục

  1. Diệt trừ tội lỗi  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Hỡi Ông Giêsu(Lm Jos. DĐH, GP. Xuân Lộc)
  3. Trở Thành Ngôn Sứ Nói Lời Thiên Chúa (Lm. Ngọc Dũng, SDB)
  4. Thờ Phượng Chúa Và Yêu Mến Nhau(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
  5. Đấng Thiên Sai  (Jorathe Nắng Tím)
  6. Đấng Thánh của Thiên Chúa. (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  7. Tình bạn bền lâu  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
  8. Lời uy quyền (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
  9. Lời Chúa là đèn soi cho con bước  (Lm. Giuse Nguyễn Hữn An)
  10. Nổi tiếng  (Trầm Thiên Thu)
  11. Chứng nhân trong cuộc sống (Lm. Giuse Lê Danh Tường)
  12. Lời quyền năng  (Lm. Thái Nguyên)
  13. Chúa Giêsu Kitô: Lời Thiên Chúa uy quyền (Pm. Cao Huy Hoàng)
  14. Ước mơ đẹp  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  15. Làm sao diệt được Satan  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  16. Ngạc nhiên, một thái độ của đức tin (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  17. Lời Thiên Chúa vs Lời người ta  (Lm. Xuân Hy Vọng)
  18. Giáo huấn mới (Lm. Vũ Đình Tường)
  19. Nhân chứng  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

 

Mục lục (2018)

1. Nhiệm vụ ngôn sứ (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Ma quỷ thời đại mới (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Tin mừng về lòng thương xót  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Như Đấng uy quyền  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan) 

5. Lời quyền năng cứu độ (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Vương quốc của Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

7. Quyền năng Chúa  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

8. Quyền năng và tình thương (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

9. Sức mạnh của Chúa  

10. Lời Chúa  (Lm. Trần Việt Hùng)

11. Chúa chữa người bị quỷ ám (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

12. Vị tôn sư đích thực (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

13. Giảng dạy như có thẩm quyền  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

14. Suy niệm Chúa Nhật 4 Thường niên_B  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

15. Suy niệm Chúa Nhật 4 Thường niên_B. (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

16. Uy quyền chỉ có ý nghĩa nhờ lối sống khiêm nhường (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

17. Vác đời  (Trầm Thiên Thu)

18. Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền (Đỗ Công Minh)

19. Chúa Giêsu là Thầy dạy và là Đấng trừ quỷ (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

20. Đấng Thánh của Thiên Chúa  (JM. Lam Thy, ĐVD)

21. Lề luật mới của Tin mừng  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An) 

22. Tin vào lời giảng dạy có quyền thế (Lm. Trần Bình Trọng)

23. Ma quỷ còn biết vâng lệnh Chúa truyền  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

24. Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật 4 TN_B (Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

25. Tâm phục khẩu phục (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

26. Huyền diệu cuộc đời  (Lm. Vũ Đình Tường)

27. Suy niệm Chúa Nhật 4 Thường niên, năm B  (Lm. Anthony Trung Thành)

28. Đức Giêsu – Đấng quyền năng (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

29. Chỉ phụng sự một mình Chúa (Lm. Đan Vinh)

30. Chúa Giêsu – Môsê Mới (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)

31. Sứ mạng làm người  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

32. Huấn luyện viên tài ba (Lm. Giuse Nguyễn)

33. Lời Ngôn Sứ (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

34. Hãy tin theo Đức Giêsu (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

35. Chúa Nhật 4 Thường niên, năm B  (Lm. Antôn)

36. Lời chân lý (P.Trần Đình Phan Tiến)

 

DIỆT TRỪ TỘI LỖI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Độc giả hôm nay cũng như những người chứng kiến sự kiện mà thánh Mác-cô thuật lại đều ngỡ ngàng và thú vị ở chi tiết: chính thần ô uế công khai tuyên xưng thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu. Theo khái niệm của Kinh Thánh, thần ô uế vừa tượng trưng cho ma quỷ Satan, vừa là lực lượng đối lập với những gì là thiện hảo, ngay lành và thậm chí còn đối lập với chính sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thần ô uế đã tuyên xưng: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Bằng một mệnh lệnh, Chúa Giêsu đã bắt nó phải buông tha người bị nó ám. Thánh Mác-cô hay diễn tả uy quyền của Chúa bằng cách ra lệnh cho các thế lực thiên nhiên hay ma quỷ, như trong Mc 4,9, Chúa đe gió và biển: “Im đi, câm đi”; Chúa ra lệnh cho người bại tay (x. 3,5). Chắc hẳn lời tuyên xưng của thần ô uế đã giúp nhiều người tin vào Chúa Giêsu, nhận ra Người là Đấng đến trần gian để xua đuổi thế lực của tối tăm, diệt trừ sự dữ và xây dựng một vương quốc thánh thiện, nhằm thánh hóa con người.

Thánh Mác-cô cho chúng ta một chi tiết đặc biệt nữa: Hội đường là nơi thánh thiêng của người Do Thái cũng giống như nhà thờ của các Kitô hữu ngày nay. Vào mỗi ngày Sa-bát, mọi người đều tập trung ở đó để đọc và nghe Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu, khi trở về thăm quê hương Nagiarét, đã vào hội đường và đọc Kinh Thánh trước mặt cộng đoàn (x Lc,4,16-28). Vậy mà, dưới ngòi bút tường thuật của thánh Mác-cô, nơi ấy cũng có thần ô uế ám ảnh. Chính nơi thờ phượng thiêng liêng của người Do Thái cũng có sự hiện diện của Satan. Với những chi tiết này, Thánh Mác-cô có ngầm ý khẳng định với chúng ta rằng, Chúa Giêsu đến để canh tân phụng vụ Do Thái đã trở nên lỗi thời và còn nhiều khiếm khuyết. Sau này, chính Chúa Giêsu tuyên bố Người là Đền thờ đích thực. Nền phụng vụ mới mà Chúa Giêsu đề nghị, đó chính là thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý. Sự hiện diện của Thiên Chúa không bị giới hạn bởi đền thờ hay hội đường, tình yêu thương của Chúa không phân biệt sắc tộc hay ngôn ngữ, nhưng ở đâu có tình yêu thương thì ở đó có Đức Chúa Trời. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, lời ca tụng tôn vinh Chúa phải xuất phát từ tấm lòng chân thành và phải đi đôi với thiện chí để nên trọn lành.

Sứ mạng của Đấng Thiên sai là đẩy lui quyền lực của bóng tối đang bao phủ nhân loại. Chúa Giêsu đã đến trần gian để giải phóng con người khỏi ách kìm kẹp của ma quỷ, là quyền lực của tối tăm. Người là ánh sáng trần gian đã bừng lên trong tăm tối để dẫn đưa con người về chính lộ. Những người Do Thái chuyên tâm đọc Sách Thánh sẽ dễ dàng nhận ra Chúa Giêsu chính là vị ngôn sứ mà Cựu ước đã loan báo. Sách Đệ Nhị Luật ghi lại những lời giáo huấn của ông Môisen, vị thủ lãnh đã dẫn đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập. Trong những lời trăng trối cuối đời, ông Môisen đã nói đến một vị ngôn sứ Chúa sẽ gửi đến. Vị này cũng đầy quyền uy để lãnh đạo dân như ông Môisen, và còn hơn cả Môisen nữa. Sứ mạng của vị Ngôn sứ này là đem Lời Chúa làm lương thực nuôi dân chúng (Bài đọc I). Chúa Giêsu chính là vị Ngôn sứ muôn dân mong đợi. Ngài đến để thanh tẩy con người khỏi mọi tội lỗi, để thiết lập một nền phụng vụ đích thực, không còn những uế tạp trần tục, nhưng có khả năng thánh hóa con người. Những người có mặt hôm đó tại hội đường, từ tâm trạng sững sờ đến trầm trồ thán phục: “Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh”.

Hơn hai ngàn năm đã qua, Giáo Hội không ngừng loan báo Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, là Đấng cứu độ và giải phóng con người. Giáo Hội cũng đang tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, nhằm đem ơn cứu độ đến cho mọi dân tộc. Loan báo Đức Giêsu cũng là sứ mạng của mỗi Kitô hữu. Đó chính là nhiệm vụ chúng ta đã lãnh nhận khi được chịu phép Thanh tẩy. Tuy vậy, trước khi nói đến loan truyền Tin Mừng cho người khác, mỗi chúng ta phải sống Tin Mừng trong cuộc sống cụ thể hằng ngày. Trong con người của chúng ta, đang hiện hữu vừa ánh sáng vừa bóng tối, vừa hình ảnh của Thiên Chúa nhưng cũng vừa hình ảnh của Satan. Chính vì thế mà chúng ta phải thanh tẩy bản thân mỗi ngày. Ơn gọi nên thánh không phải là những điều quá sức con người, mà đó là những điều rất bình dị trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã cụ thể hóa đời sống Kitô hữu bằng cách khuyên mỗi người trong gia đình và trong cộng đoàn hãy chuyên tâm thực thi bổn phận của mình đối với Chúa và đối với tha nhân. Người lập gia đình thì chăm lo việc gia đình. Người tu hành thì chăm lo việc Chúa. Những công việc đời thường, nếu được chu toàn với thiện ý và với tâm tình Đức tin, thì cũng góp phần làm cho chúng ta nên hoàn thiện (Bài đọc II).

Là Kitô hữu, chúng ta được tham dự vào chức ngôn sứ của Chúa Giêsu. Mục đích của chức năng này là rao giảng Lời Chúa. Được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu nhờ bí tích Thanh Tẩy, người Kitô hữu cũng đang cùng với Chúa Giêsu để diệt trừ sự dữ, đẩy lui quyền lực của tối tăm và làm cho ánh sáng cứu độ bừng lên nơi mọi nẻo đường của cuộc sống. Những người dân thành Caphanaum chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu làm đã đồn ra khắp vùng. Mỗi chúng ta khi cảm nghiệm những điều lạ lùng Chúa làm cho mình, hãy nỗ lực cố gắng để nói về Chúa cho mọi người xung quanh, để kể lại những kỳ công của Người.

Về mục lục

HỠI ÔNG GIÊSU

Lm Jos. DĐH, GP. Xuân Lộc

Mắt nhìn, tai nghe, con tim khối óc, được đụng chạm tới nỗi thống khổ của anh chị em mình, một vấn đề thiết thực, một nét đẹp rất đặc trưng nơi cuộc sống. Không ai thích nghèo, cũng chẳng ai muốn mình khờ dại, ấy vậy mà thời nào cũng có: người ăn không hết, kẻ lần chẳng ra. Thành công, nổi tiếng, ai chẳng vui, vì đó là vinh dự, nhưng nếu chỉ có một chọn lựa, hẳn ai cũng chọn hạnh phúc. Vừa có tiếng, vừa có miếng; được cả chì lẫn chài, được vinh quang ở đời này và cả đời sau, quả là phúc đức. Mọi người thán phục, nổi tiếng, vì giảng giải hấp dẫn, làm được chuyện phi thường, đúng là ai chẳng ước ao, vì người đời vẫn coi đó là thành công. “Hỡi ông Giêsu, có chuyện chi giữa chúng tôi và ông” ? Kẻ gian tham độc ác, không thể đem so sánh với cái đẹp thánh thiện. Diện mạo xấu xí, luôn sợ đối diện với sự xinh đẹp, quỷ dữ xấu xa, làm sao không khiếp sợ trước Đức Giêsu Đấng là Thầy là Chúa ?

“Vào ngày lễ nghỉ, Đức Giêsu vào giảng dạy tại hội đường, người ta kinh ngạc về giáo lý của Người”. Có sự khác biệt giữa lời nói việc làm, có sự thuyết phục nơi người nghe, có sự tác động nơi người khao khát nền hoà bình công lý, có niềm vui giữa người cho và người nhận. Trong tư cách là thầy dạy, Đức Giêsu chia sẻ thứ giáo lý mới bằng tình thương, đám đông thích thú không chỉ bởi tài hùng biện, mà còn do được thấm nhuần bằng tình yêu Thánh Thần. Người xưa cho rằng: ngày nào còn được sống trong tình yêu thì ngày đó chính là ngày tươi đẹp nhất trong cuộc đời của ta. Đám đông năm xưa không những cảm kích bởi lời giảng dạy, mà còn tâm phục khẩu phục bởi hạnh phúc trào tràn từ sâu thẳm bên trong: “vì Người giảng dạy người ta như Đấng uy quyền…”. Ở đời chẳng mấy ai phàn nàn khi nói: miệng người giầu có gang có thép. Nơi giảng đường, người ta nể phục ông thầy tài giỏi vừa biết nói vừa biết minh hoạ. Ở trong tình yêu Giêsu, người ta thán phục vì Ngài trục xuất được cả thần ô uế.

“Hỡi ông Giêsu, ông đến tiêu diệt chúng tôi sao” ? Chắc chắn Đức Giêsu không có ý làm hại ai, huỷ bỏ ai, như Ngài đã từng nói: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi biết ăn năn thống hối, …(Lc 15, 10). Đức Giêsu không sử dụng gươm giáo, súng đạn, không có binh lính “tiền hô hậu ủng”, thế mà “quỷ dữ” phải khiếp sợ bị tiêu diệt. Tình yêu thương không thay được cơm bánh, không hứa hẹn chức quyền, phú quý, nhưng tình yêu sẽ sống và trường tồn mãi ở hiện tại, tương lai. Tình yêu sẽ mãi mãi là thứ âm thanh phức tạp của tình cảm, tình yêu chưa chắc đã dẫn ta tới niềm vui bình an, nhưng sẽ đưa ta tới hạnh phúc. Trong khi ở đời người ta dùng sức, dùng mưu, dùng tiền của, để mong có được thứ hạnh phúc nay còn mai mất, dù người ta khôn hay dại. Đức Giêsu mời gọi bằng niềm tin, bằng tình yêu, đó là sức mạnh duy nhất để thắng đau khổ, thắng sợ hãi, để có mãi bình an, hạnh phúc thật, trước sự biến đổi kỳ diệu của Đấng là Thầy là Thiên Chúa cứu độ.

“Hỡi ông Giêsu, tôi biết ông là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Hỡi bạn, thiên hạ cho rằng: người biết đủ, dù ở trong khó nghèo cũng thấy vui, người tham lam, dẫu giầu nứt khố đổ vách vẫn buồn, người biết hài lòng với những gì mình đang có, sẽ luôn tìm thấy niềm vui nơi cuộc sống. Sự hiện diện của Đức Giêsu nơi hội đường làm thích thú nhiều tâm hồn, bởi họ được nghe, được chứng kiến “quỷ ma” phải khiếp sợ Đấng có uy quyền. Lúc này, Đức Giêsu không hiện diện cách hữu hình, mắt xác phàm không thấy, nhưng mắt đức tin cho ta cảm nhận Đấng đang đồng hành, Đấng sẽ mãi mãi là cuộc tình dài nhất, đẹp nhất. Hỡi ông Giêsu: đúng sai, phải trái, tin nhiều hay ít, tội hay phúc, tất cả chỉ là so sánh “khập khiễng” giữa Một Thiên Chúa cứu độ đang hoạt động nơi mọi tâm hồn. Hỡi ông Giêsu, chỉ có Đấng thánh của Thiên Chúa, mới khuất phục được sự xấu, mới chinh phục được tâm hồn người tin, theo Chúa.

Hỡi ông Giêsu, thần ô uế sợ lời quyền năng, trong khi đó, lời yêu thương vẫn có giá trị, vẫn đang làm thay đổi bộ mặt thế giới, dù Chúa đến chỉ một lần, dù đời người là một chuỗi dài để gặp, để tin và để sống thánh ý Chúa. Hỡi ông Giêsu, tôi biết ông đầy quyền năng đến từ Thiên Chúa, chỉ một lời: “hãy im đi và ra khỏi người này, tức thì thần ô uế phải xuất khỏi người ấy. Kinh nghiệm ở đời cho biết: vận động là sự đầu tư cho sức khoẻ, trường thọ là sự báo đáp sau những ngày tháng ta bỏ ra để rèn luyện thân thể. Hỡi ông Giêsu, chỉ một lời “quyền năng”, khiến đám đông phải tâm phục khẩu phục: “đấy là thứ giáo lý mới ư” ?  Và “danh tiếng Người liền vang dội khắp mọi nơi”. Vâng, tình yêu của Đức Giêsu với sứ mạng tông đồ tai hội đường đã được Thánh Thần tác động bằng Lời quyền năng trừ quỷ, khiến đám đông kinh ngạc. Tình yêu của đám đông hôm xưa, họ được nghe, được hiểu, được thấy sức mạnh Thánh Thần nơi Đức Giêsu, đám đông vô cùng hạnh phúc. Đức Giêsu cho thấy một chân lý: con đường đạt tới hạnh phúc là biết làm cho người khác hạnh phúc.

Về mục lục

TRỞ THÀNH NGÔN SỨ NÓI LỜI THIÊN CHÚA

Lm Ngọc Dũng, SDB

Lời Chúa trong hai tuần qua mời gọi chúng ta suy gẫm về sự đáp trả của người môn đệ Chúa Giêsu. Trong tuần này, lời Chúa đưa chúng ta vào trong huyền nhiệm ơn gọi làm người ngôn sứ của Thiên Chúa. Bài đọc 1 trình bày cho chúng ta ý định của Thiên Chúa về việc “sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18:15). Đây là điều dân Israel đã cầu xin với Đức Chúa vì họ không dám nhìn thấy sự thánh thiện của Đức Chúa với mắt phàm không tinh khiết của họ kẻo họ phải chết (x. Đnl 18:16). Vị ngôn sứ của Đức Chúa là người nói lời của Đức Chúa muốn nói với dân, vì vậy Đức Chúa “sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy” (Đnl 18:18). Như vậy, khi nghe lời của vị ngôn sứ là dân chúng nghe lời của Đức Chúa. Ngược lại, khi không nghe lời của vị ngôn sứ là không nghe lời Đức Chúa. Còn vị ngôn sứ thì phải trung thành truyền lại cho dân những lời Đức Chúa muốn nói với dân mà không được thêm bớt. Đức Chúa sẽ hạch tội cả người không nghe lời ngôn sứ và vị ngôn sứ nói lời Đức Chúa không truyền cho nói: “Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết” (Đnl 18:19-20). Những lời này khuyến cáo chúng ta về thái độ trước lời mời gọi của Đức Chúa qua những người Ngài gởi đến để nói lời Ngài cho chúng ta. Như chúng ta biết, qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta trở nên ngôn sứ của Đức Chúa. Vì vậy, chúng ta không chỉ lắng nghe lời Đức Chúa mà còn nói lại lời Đức Chúa cho anh chị em mình qua lời nói và hành động của mình. Chúng ta cần lưu ý rằng khốn cho chúng ta nếu không nói lời của Đức Chúa cho anh chị em mình. Mà lời của Đức Chúa là lời yêu thương và tha thứ, lời mang lại sự sống và ánh sáng. Hãy nói lời yêu thương, cảm thông và tha thứ qua lời nói và hành động cho anh chị em chúng ta!

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 chỉ ra cho các tín hữu Côrintô một thực tế trong cuộc sống đó là con người thường bận tâm lo lắng những gì mà người đó thấy quan trọng trong đời mình: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1 Cr 7:32-34). Qua những lời này, điều thánh nhân khuyên nhủ là sống tín thác vào Thiên Chúa, không bận tâm lo lắng điều gì vì Thiên Chúa chăm sóc họ. Điều quan trọng là mỗi người phải tìm cách đẹp lòng Thiên Chúa (x. 1 Cr 7: 32), không để mình bị giằng co giữa việc làm đẹp lòng Thiên Chúa và làm đẹp lòng người đời (x. 1 Cr 7:35). Kinh nghiệm này mỗi người chúng ta đều đã trải qua trong đời sống hằng ngày. Chúng ta thường bị giằng co giữa chọn lựa Thiên Chúa hay chọn lựa những điều thế giới mang lại cho chúng ta. Chúng ta chỉ chọn Chúa nếu Ngài quan trọng trong đời sống chúng ta. Câu hỏi chúng ta đặt ra để suy gẫm ở đây là: Thiên Chúa có vị trí như thế nào trong đời sống của tôi? Ngài có vị trí tối thượng trong đời sống của tôi không?

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta việc Chúa Giêsu giảng dạy và chữa lành trong hội đường ở Caphácnaum ngày sabát. Chúa Giêsu được trình bày như một vị ngôn sứ có uy quyền trong lời nói và việc làm. Như chúng ta biết, trong ngày sabát, người Do Thái đến hội đường để cầu nguyện, để đọc Kinh Thánh và để giảng dạy hoặc nghe giảng dạy. Tất cả những ai có đủ sự hiểu biết có thể được mời để giảng dạy mà không cần phải được ‘truyền chức’ để trở thành một rabbi. Trong ngày sabát hôm đó, Chúa Giêsu được mời để giảng dạy và “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1:22). Như chúng ta biết, trong các Tin Mừng, các kinh sư được trình bày như những người giải thích và dạy luật trong Cựu Ước. Họ không đơn giản là những người thư ký hay ghi chép. Cách thức giảng dạy của họ là nại đến quyền Kinh Thánh và lời cũng như hành động của các thầy dạy nổi tiếng trong Do Thái. Điều này khác với Chúa Giêsu. Ngài không nại đến Kinh Thánh. Cách thức của Ngài rất trực tiếp và tự tin trong chính uy quyền của mình. Nói cách đơn giản hơn, điều làm cho mọi người sửng sốt và lời dạy của Chúa Giêsu có uy quyền, khác với các kinh sư là Ngài không chỉ giảng dạy bằng lời, nhưng còn bằng hành động như là Đấng ban luật. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta rằng: Một lời giảng dạy có uy quyền là lời giảng dạy vừa bằng lời nói, vừa bằng gương sáng!

Sau khi giảng dạy ‘bằng lời’ như Đấng có uy quyền, Chúa Giêsu dùng ‘hành động’ để ‘củng cố’ lời giảng dạy của mình bằng việc chữa lành một người bị thần ô uế nhập. Đây không phải là vấn đề của sự ô uế mang tính nghi lễ, nhưng là một sự xâm nhập của quyền lực sự dữ. Nói cách khác, hành động của người bị thần ô uế nhập là do thế lực từ bên ngoài dưới sự ảnh hưởng của Satan (x. 1:12-13). Vì vậy, việc Chúa Giêsu chữa lành người bị thần ô uế nhập ám chỉ sự vinh thắng của Chúa Giêsu trong cuộc chiến chống lại Satan. Chính trong cuộc chiến này mà chúng ta hiểu được lời người bị thần ô uế nhập hay đúng hơn là Satan nói trong người bị nhập: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1:24). Satan không muốn Chúa Giêsu dính dáng gì đến công việc của nó vì nó biết Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng sẽ đến để tiêu diệt nó. Việc Triều Đại Chúa Giêsu đến mang lại sự cùng tận của quyền lực ma quỷ. Ma quỷ đã nhận ra căn tính và sự hiện diện đầy ý nghĩa của Ngài cho Nước Thiên Chúa đến. Nói cách cụ thể hơn, nơi nào có sự hiện diện của Chúa Giêsu, ở đó quyền lực của ma quỷ bị phá tan. Người nào có Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc đời mình, thì người đó luôn sống trong tình yêu của Thiên Chúa và không sống dưới sự thống trị của tội lỗi.

Điểm cuối cùng đáng làm chúng ta suy gẫm là việc Chúa Giêsu dùng lời để chữa người bị thần ô uế nhập: “‘Câm đi, hãy xuất khỏi người này!’ Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.” (Mc 1:25-26). Chi tiết này đưa chúng ta trở lại với lời giảng có uy quyền của Chúa Giêsu mà người ta thán phục được nói đến ở trên. Chính ‘lời đầy uy quyền có sức chữa lành’ này cũng mang lại một phản ứng nơi người xem: “Mọi người đều sững sờ đến nỗi họ bàn tán với nhau: ‘Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!’” (Mc 1:27). Điều này mời gọi chúng ta xem xét lại lời ăn tiếng nói của mình. Lời nói là phương tiện giao tiếp thường ngày. Nhưng lời nói của chúng ta có ‘uy quyền’ mang niềm vui, sự an ủi đến cho người nghe hay không? Hay lời nói chúng ta chỉ mang lại sự tổn thương và nỗi buồn cho người khác?

Về mục lục

THỜ PHƯỢNG CHÚA và YÊU MẾN NHAU

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần IV Thường Niên, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin cho mình: biết hết lòng thờ phượng Chúa, và thành tâm yêu mến mọi người.

 Thờ phượng Thiên Chúayêu mến mọi người được thể hiện trong đời sống hằng ngày qua lòng tin cậy mến của chúng ta. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô đã ca ngợi các tín hữu Thêxalônica: Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Anh em đã quay về với Thiên Chúa để phụng sự Người là Đấng hằng sống, chân thật, để chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến. Xin Chúa Giêsu cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết.

Cũng vậy, trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Inhaxiô thành Antiôkhia cũng đã tự hào về hội thánh Ximiếcna khi nói: Tôi nhận thấy anh chị em không hề nao núng và giữ vững đức tin một cách tuyệt vời, như những người đã chịu đóng đinh cả xác lẫn hồn vào thập giá của Chúa Giêsu Kitô, và được củng cố trong đức mến nhờ máu thánh của Người.

Trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Đệ Nhị Luật cho thấy: Thiên Chúa uy nghi cao cả, thờ phượng Người thật là chính đáng và phải đạo. Thiên Chúa oai phong rực rỡ khiến Dân Chúa phải cầu xin với Môsê: Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết. Chính vì thế, Thiên Chúa phán: Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ và Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy.

 Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 94, vịnh gia đã kêu gọi: Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng. Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.

 Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cho thấy: Người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người. Những người không bị những ràng buộc tình cảm gia đình, thì sẽ hoàn toàn tự do, toàn tâm toàn lực mà phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.

Tung Hô Tin Mừng: Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Đức Giêsu chính là Ánh Sáng, là Vầng Đông phá tan bóng tối của sự chết. Những lời Người giảng dạy là ánh sáng soi dẫn cho những ai đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, biết tìm về con đường sự sống.

Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô đã cho thấy: Đức Giêsu giảng dạy như một Đấng có uy quyền, bởi vì, Đức Giêsu là ngôn sứ của các ngôn sứ, Gioan Tẩy Giả được gọi là ngôn sứ vĩ đại, ấy thế mà, ông cũng chỉ dám nhận mình là ngọn đèn, còn Chúa mới chính là Ánh Sáng; ông là phụ rể, còn Chúa mới là chàng rể; ông là người dọn đường, còn Chúa mới là Đấng phải đến.

Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. Chỉ có Đức Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta mới có quyền uy như thế. Trong Đức Kitô, chúng ta đã được hòa giải với Thiên Chúa, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, vì thế, Thiên Chúa không còn xa cách, khiến chúng ta sợ hãi như trong bài đọc một của ngày lễ hôm nay, giờ đây, chúng ta thờ phượng Thiên Chúa, không như người đầy tớ khiếp sợ ông chủ hà khắc, nhưng là, con thơ kính sợ Cha hiền, và một khi, chúng ta thờ phượng Thiên Chúa như Cha của mình, thì đồng nghĩa, chúng ta phải yêu thương hết tất cả mọi người, bởi vì, tất cả chúng ta đều là con cái của Cha trên trời. Ước gì chúng ta biết hết lòng thờ phượng Chúa, và thành tâm yêu mến mọi người, như ơn xin mà các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin cho mình trong suốt Tuần IV Thường Niên này. Ước gì được như thế!

Về mục lục

ĐẤNG THIÊN SAI

Jorathe Nắng Tím

Suốt thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã nói với dân Ngài qua các ngôn sứ là những người được chính Ngài chọn giữa dân. Sách Đệ Nhị Luật đã ghi lại lời ông  Môsê  nói với dân: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em ; anh em hãy nghe vị ấy”, và Lời của Thiên Chúa nói với Môsê về sứ vụ của ngôn sứ  : “Ta sẽ đặt những Lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.” (Đnl 18,15.18).

Như thế, ngôn sứ là người thuộc về Thiên Chúa, vì được Thiên Chúa chọn, đồng thời thuộc về dân, vì được chọn từ dân để phục vụ dân, khi chuyển đến dân Lời Thiên Chúa muốn nói với họ. Vì thế, ngôn sứ là người đáng được yêu mến, kính trọng và lắng nghe, vì là phát ngôn viên của Thiên Chúa, trung gian giữa Thiên Chúa và con người, gần gũi con người, và được Thiên Chúa bảo đảm, phù giúp, với điều kiện ngôn sứ ấy phải trung tín và trung thực với Lời Ngài, không làm sai lệch Lời Ngài, như chính Ngài đã căn dặn : “Kẻ nào không nghe những Lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết” (Đnl 18,19-20).

Lịch sử Cứu Độ đã minh chứng sự trung thành, và dũng cảm của các ngôn sứ, khi các vị sẵn sàng chịu chết, chiu mọi nhục hình vì nói Lời Thiên Chúa, như Gioan Tiền Hô, vị “ngôn sứ gạch nối giữa Cựu Ước và Tân Ước” đã bị vua Hêrôđê chém đầu, vì nói sự thật khi ngăn cản vua cưới bà Hêrôđia, vợ ông Philipphê, anh trai mình (x. Mt 14,3-12).

Tin Mừng chúa nhật hôm nay đưa chúng ta đi vào Tân Ước, thời đại của Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, thời đại mà chính Thiên Chúa xuống thế gian, ở giữa con người để nói với con người. Trong thời Tân Ước, chính Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người nói với con người bằng ngôn ngữ của loài người, qua tiếng nói của con người, như vào những ngày đầu của sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Ngài đã vào hội đường ở Caphácnaum và giảng dậy. Ở đây Ngài đã làm “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dậy của Ngài, vì Ngài giảng dậy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22).

Ngài đã làm mọi người sửng sốt về nội dung giáo lý, vì Ngài đề nghị một giáo lý mới, một con đường mới, một giới luật mới là chính Ngài, chứ không như các kinh sư chỉ nhai đi nhai lại luật Môsê một cách giáo điều, khô khan, hay cứng cỏi quy chiếu vào những “bổn cũ” của người đi trước.

Ngài làm toàn thể cử tọa hôm ấy ngạc nhiên, ngưỡng mộ, vì phong cách, thái độ, và lối nói rất đáng kính và thuyết phục của Ngài như Tin Mừng Gioan đã viết : “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” (Ga 7,45). Điều này chứng tỏ Đức Giêsu không giảng như các kinh sư, cũng không như ngôn sứ của Cựu Ước, nhưng trong cương vị Ngôi Hai Thiên Chúa, trong tư thế Thiên Chúa làm người, với sứ vụ của Ngôi Lời nhập thể nói với  và cứu chuộc loài người.

Sự thật Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa đang trực tiếp nói với mọi người trong hội đường còn được xác nhận, minh chứng qua sự kiện một người bị qủy ô uế ám có mặt trong hội đường đã thình lình la lớn : “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi : ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24), và Đức Giêsu đã ra lệnh cho thần ô uế ra khỏi người này trước sự kinh ngạc của mọi người.

Thực vậy, bài học  mà chúng ta là những người đang sống trong thời đại của Chúa Thánh Thần có thể tìm thấy trong Tin Mừng Máccô hôm nay, đó là đừng đóng chặt cửa lòng nữa, nhưng biết mở lòng ra để đón nhận tiếng Thiên Chúa nói với lòng mình, qua Giáo Hội, vì Giáo Hội là “công trình hoạt động” của Chúa Thánh Thần. Ngài ở với Giáo Hội, hướng dẫn Giáo Hội như Đức Giêsu đã căn dặn các Tông Đồ trước khi lên đường chịu chết : “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14,26). Với trách nhiệm gìn giữ, bảo toàn kho tàng chân lý đức tin, và sứ vụ loan báo Tin Mừng là “kho báu Nước Trời” ấy, Giáo Hội  tiếp nối sứ mệnh cứu độ của Đức Giêsu, dưới sự trợ giúp của Chúa thánh Thần, và là ngọn hải đăng cho chúng ta không mất hướng, lạc đường.

Sở dĩ chúng ta cần học bài học tin tưởng và lắng nghe Giáo Hội, vì ở thời đại chúng ta hôm nay, người ta đang dồn hết lực lượng để tách Đức Giêsu ra khỏi Giáo Hội, cắt Giáo Hội lìa khỏi Đức Giêsu, vì ma qủy, thế gian biết : bao lâu chúng ta gắn bó với Giáo Hội là Thân Thể mầu nhiệm, Hiền Thê yêu dấu của Đức Giêsu, bấy lâu kho tàng đức tin, “chân lý  Đức Giêsu”, và công trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa sẽ không bị  suy giảm, rạn nứt.

Về mục lục

ĐẤNG THÁNH CỦA THIÊN CHÚA.

Bông hồng nhỏ

Quanh ta, nhiều người vẫn mải mê trang điểm cho vẻ bề ngoài thật ấn tượng. Phần mình, cũng có lúc ta muốn được trở nên tốt lành, được người khác biết đến. Có những khi, ta chợt nhận ra bản thân mình cũng mang những mặt nạ để che giấu đi phần xấu xí. Thật tệ hại khi ta bị Satan cầm buộc trong những đam mê xấu và lầm lạc trong con đường tội lỗi. Chúa ở đâu trong trái tim của ta? Ta có để cho Đấng Thánh của Thiên Chúa giải thoát mình khỏi quyền lực của Satan không?

Hôm nay, Chúa Giêsu rao giảng tại Caphácnaum và chữa lành một người bị quỷ ám. Người vừa giảng dạy xong thì một người bị thần ô uế nhập la lên rằng: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1, 23-24). Thần ô uế tin Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa nhưng nó không thực hiện thánh ý của Người. Nó đến để hủy diệt. Còn Chúa Giêsu, Người đến để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, khỏi quyền lực tử thần. Người yêu thương người tội lỗi cách đặc biệt. Chúa Giêsu đã mạnh mẽ quát mắng thần ô uế: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (Mc 1, 25). Người cũng mời gọi ta hãy có thái độ dứt khoát với Satan, không đối thoại với nó. Tự sức mình, làm sao ta có thể chiến thắng được quyền lực của sự dữ. Chúa Giêsu đã mạnh mẽ rao giảng là để ta nhận ra uy quyền của Người, Người cho ta  thấy tình thương vô bờ bến của Người qua những việc làm đầy quyền uy. Chính ta cũng đã hơn một lần cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương mình. Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa với ta: Thầy sẽ không bỏ con mồ côi (x. Ga 14,18). Bởi Người biết rõ sự yếu hèn của ta, Người hiểu rõ những giới hạn của ta. Người sẽ ở trong ta và làm cho ta mạnh sức. Nhưng, ta cần làm gì để được ở trong Chúa đây?

Satan tin Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa nhưng nó không thực hành lời của Người. Hay nói cách khác, nó tin Chúa nhưng nó không yêu mến Chúa. Bởi đó, nó luôn chờ sẵn, luôn rình rập để lôi kéo mọi người về phe nó. Là môn đệ của Thầy Giêsu, ngoài việc say mê nghe Lời của Người, ta cần phải thi hành những Lời người dạy. Nếu Lời Người làm ta sửng sốt hay cảm động, ta cũng hãy để Lời Người biến đổi trái tim ta. Mỗi khi thực hành những điều Chúa dạy, ta được ở gần Chúa hơn. Mỗi hành động yêu thương mà ta dành cho người khác đều gia tăng lòng yêu mến Chúa trong ta. Ta hãy vươn lên, hãy đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã. Đừng chùn bước, đừng lo lắng hay sợ hãi trước khó khăn. Hãy tin tưởng và yêu mến Chúa. Người sẵn sàng mở rộng trái tim đón nhận ta. Hãy nhìn vào trái tim bị đâm thâu của Người, trái tim ấy sẽ không bao giờ khép lại là để ta vào nương náu. Người yêu ta bởi Người là Tình Yêu (x 1 Ga 4,8).

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã không ngừng yêu thương con. Cảm tạ Chúa đã cho con cảm nhận được tình yêu Chúa đang ở xung quanh con và trong con. Amen.

Về mục lục

TÌNH BẠN BỀN LÂU

Anna Cỏ may

Muốn có được một tương giao tốt đẹp và bền lâu, chúng ta phải hiểu được mong muốn, nhu cầu của đối phương. Nói khác đi, chúng ta phải biết và hiểu về người đó.

Là người Kitô hữu, muốn đến với Chúa, muốn yêu Chúa và yêu người khác, chúng ta cũng phải biết về Chúa, biết về người khác. Vậy làm sao chúng ta biết được Người? Trong Tin Mừng Máccô, thánh sử Máccô đã tường thuật lại việc Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Thiên hạ đã sửng sốt về lời dạy của Người. Vì Người giảng dạy như một Đấng uy quyền, chứ không như các kinh sư. Mọi người còn sững sờ đến nỗi bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì?”, lời dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. Danh tiếng Người đồn ra khắp cả vùng lân cận miền Galilê (x. Mc 1, 21-28). Mọi người đã nhận biết Người qua việc nghe lời giảng và nhìn thấy việc Người làm.

Phần chúng ta, chúng ta nhận biết, đi theo và yêu Người bằng cách nào? Chúng ta nuôi dưỡng mối tình yêu đó ra sao? Chúng ta có thể nhận ra Chúa qua người khác, qua bài hát, trong đau khổ hay lúc thành công…  Chúa Giêsu và Hội Thánh đã không ngừng kêu gọi mọi người nhận biết, đi theo và yêu mến Chúa bằng cách lắng nghe và sống Lời Chúa mỗi ngày, năng lãnh các Bí tích, nhất Bí tích Thánh Thể. Có thế, chúng ta mới đạt đến sự nhận biết và yêu mến Người trọn vẹn. Có người tưởng mình đã nhận biết và yêu Chúa nhiều rồi, nhưng khi đi vào đau khổ, họ mới nhận ra mình chưa nhận biết, chưa theo Chúa và yêu Chúa đủ. Vậy, muốn giữ tình bạn lâu dài, chúng ta phải năng gặp gỡ, trao đổi, cho đi, cùng có sự nhường nhịn. Đối với Chúa, chúng ta càng phải thực hiện những điều ấy thường xuyên hơn và ý thức hơn. Vì Chúa là Đấng uy quyền và vô hình. Thánh Augustinô đã thốt lên: “Con đã yêu Chúa quá muộn màng”. Ước gì chúng ta cũng có được một chút tâm tình như Thánh nhân: nhận biết và yêu mến Người. Thánh Giêrônimô đã quả quyết: “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô”.

Lạy Chúa là Cha nhân lành! Chúng con cảm tạ Chúa đã không ngừng tỏ mình cho chúng con. Xin cho chúng con không ngừng nhận biết, đi theo và yêu mến Chúa mỗi ngày qua việc đọc, lắng nghe Lời Chúa và năng đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Chỉ có thế, chúng con mới yêu Chúa trọn vẹn mỗi ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

LỜI UY QUYỀN

Thiên San

Tại hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu dùng lời uy quyền giảng dạy cho dân chúng. Cũng tại đây, Người chữa lành cho một người bị quỷ ám. Những điều Người giảng dạy, những việc Người làm khiến cho dân chúng không khỏi kinh ngạc và sửng sốt: “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh.” (Mc 1, 27).

“Lời giảng dạy thì mới mẻ”. Hẳn nhiên những người Do Thái đã từng nhiều lần đấn hội đường và đã từng được nghe nhiều kinh sư lỗi lạc giảng dạy. Có khi nào vì họ đã quá quen với cách giảng dạy của các kinh sư và vì quá quen nên dẫn đến nhàm chán? Thường chúng ta sẽ dễ để nói rằng: “nghe rồi, khổ lắm, nói mãi”. Còn hôm nay, trước những gì họ chứng kiến, nghe và thấy, họ vô cùng sửng sốt. Họ nhận thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa cách giảng dạy của các kinh sư và Đức Giêsu. Các kinh sư chỉ giảng dạy bằng luật và bám vào luật một cách chi li. Đã rất nhiều lần Đức Giêsu lên tiếng chỉ trích thái độ đạo đức giả của nhóm kinh sư. Bởi họ chỉ giảng dạy nhưng chính họ thì không buồn động ngón tay vào (x. Mt 23, 2-7). Còn Đức Giêsu? Ngài giảng dạy bằng cả cuộc sống, lời nói đi đôi với việc làm. Hơn nữa, chính Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Ngôi Lời uy quyền. Lật dở những trang Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Người dạy tha thứ, trên thánh giá, Người đã xin Cha tha cho những kẻ làm hại mình. Người dạy yêu thương, trên thánh giá Người diễn tả một tình yêu cho đến cùng… trong các giáo huấn của mình, Đức Giê su thường nói rằng, “anh em đã nghe luật xưa dạy rằng, còn Thầy, thầy bảo anh em” (x. Mt 5, 21-22). Đó là sự mới mẻ trong cách giảng dạy của Đức Giêsu.

“Người dạy lại có uy quyền”. Tại hội đường, khi Đức Giêsu lên tiếng quát mắng thần ô uế: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này”, dân chúng nhận thấy sự uy quyền của Ngài (Mc 1, 25). “Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh” (Mc 1, 27). Qua dòng lịch sử, chúng ta nhận thấy sự hiện diện song song củaThiên Chúa và các thần ô uế hay còn gọi là ma quỷ. Các thần ô uế biết rõ xuất thân của Đức Giêsu: “Ông Giê su Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi, ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 24). Sự xuất hiện của Đức Giêsu khiến cho các thần ô uế phải run sợ. Chúng thuộc về bóng tối. Còn Đức Giêsu thuộc về ánh sáng hay nói đúng hơn, Người chính là ánh sáng. Ánh sáng đến xua tan đêm tối. Ngài cũng là Ngôi Lời của Thiên Chúa, mọi loài nhờ Người mà được tạo thành (x. Ga 1, 3). “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33, 6-7).

Chúng ta đã và đang phải đối diện với muôn vàn khó khăn, thử thách. Một trong những thử thách ấy đến từ các thế lực bóng tối. Ngày xưa, các thế lực ấy được gọi là các thần ô uế, ngày nay, chúng được gọi là ma quỷ. Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của chúng. Nhưng chúng ta đừng sợ vì chúng ta có Thiên Chúa ở cùng. Ngài ở với chúng ta qua Con Một yêu dấu. Điều chúng ta phải làm là tin nhận Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến, đi theo mọi điều Ngài truyền dạy. Ngài vẫn hiện diện, đồng hành cùng nhân loại chúng ta qua mọi thời và mọi nơi như lời Đức Giêsu đã hứa: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 20). Hôm nay, Đức Giêsu vẫn tiếp tục dùng Lời uy quyền của Người mà giảng dạy và cứu giúp chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời mình cho Ngài. Nhờ đó, chúng ta thoát khỏi sự tấn công của chúng.

Về mục lục

LỜI CHÚA LÀ ĐÈN SOI CHO CON BƯỚC

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Sau khi tuyển chọn các môn đệ, Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ mạng cứu thế. Ngài giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum vào ngày Sabat khiến “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người ”. Hành động trừ quỷ làm cho “mọi người kinh ngạc”. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền năng và có sức mạnh chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ và tẩy trừ tội lỗi để cứu chuộc loài người. Ngài tha tội và chữa lành thương tích trong tâm hồn con người. Dân chúng ngưỡng mộ, sửng sốt, kinh ngạc, thán phục và tuôn đến với Ngài.

  1. Sửng sốt về lời giảng dạy

Chúa Giêsu vào hội đường ngày Sabat. Vì là thành phần của dân giao ước nên mọi người trong hội đường đều có quyền đọc và bình giảng một đoạn sách Thánh nào đó. Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy dân chúng. Thánh Maccô không cho biết Chúa đọc đoạn sách nào, cũng không nhắc đến nội dung giảng dạy hôm ấy. Maccô chỉ kể “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Thiên hạ ngạc nhiên trước một kinh sư trẻ tuổi, phong thái giảng dạy như một Đấng có uy quyền khác với các kinh sư luật sĩ. Các kinh sư, là những người chuyên học hỏi Luật Môsê và dạy dỗ dân chúng, khi giảng dạy luôn dựa vào lời các bậc thầy nổi tiếng, càng ngược lên tới gần Môsê thì càng có giá trị. Còn Chúa Giêsu thì giảng dạy như Đấng có uy quyền: các người đã nghe…còn Tôi, Tôi bảo các ngươi…

Thiên hạ kinh ngạc vì chính quyền năng mà Chúa Giêsu dùng trong lời giảng dạy. Ngài giảng bằng năng quyền. Trong khi đó, các kinh sư thường dựa vào những lời trích dẫn từ các thầy thông luật vĩ đại trong quá khứ để hỗ trợ cho câu nói của mình. Điều này cho thấy có sự phân biệt giữa quyền năng và ảnh hưởng, giữa sức mạnh và sự kiểm soát. Một số người có quyền năng về mặt luân lý, nhưng lại không hề có sức mạnh; có người gây ảnh hưởng nhất, nhưng lại không cần phải kiểm soát những người mà họ gây ảnh hưởng. Một người có thể có tất cả quyền năng trên trần gian, lại vẫn thất bại trong vai trò của một người giảng dạy.

Thiên hạ còn kinh ngạc về giáo lý của Người. Giáo lý vừa đi vào nội tâm, vừa có một nội dung ưu việt hơn những bài học luân lý Cựu ước. Họ sửng sốt kinh ngạc là phải, bởi lẽ Chúa Giêsu không giải thích truyền thống của cha ông nhưng là giáo huấn của Chúa Cha. Người không công bố lề luật nhưng công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người xuất hiện như Đấng mang lấy thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao và là Đấng ban lề luật mới là Tin Mừng và là Thần Khí.

  1. Kinh ngạc vì uy quyền trong hành động

Chúa Giêsu giảng dạy và thiết lập Nước Thiên Chúa bằng hành động thực hiện nội dung lời rao giảng. Trong hội đường hôm ấy, có một người bị thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu, satan run sợ. Đối diện với Đấng quyền năng, satan sợ hãi: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi chăng?”. Nó tuyên xưng “Tôi biết ông là ai. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa bắt nó phải im ngay và Ngài dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân. Satan bị án phạt đời đời vì tội kiêu căng, tội gieo nọc độc cho Nguyên Tổ trong vườn địa đàng. Thiên Chúa không cho satan có quyền hành gì trên con người, trừ khi con người tự nguyện trở thành nô lệ.

Chúa Giêsu có quyền xoá bỏ tội lỗi cho con người. Ngài có quyền trên quỷ ô uế và thần dữ, bắt chúng vâng phục. Ngài ra lệnh cho chúng và chúng sợ hãi la lớn tiếng. Một uy quyền khác cũng cho biết Ngài có toàn quyền trên thế giới thiên nhiên khi thuyền chìm giữa biển vì sóng to gió lớn, các tông đồ sợ hãi kêu cầu và Ngài truyền lệnh cho sóng gió ngưng lại.

Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và nhiều hiệu năng trong hành động. Ngài đã giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của sự dữ. Con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của bản năng và của sự ác để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng trong sạch vẹn tuyền đã đẩy lui và tiêu diệt sức mạnh satan.

Ma quỉ là một quyền lực cụ thể đang hoành hành trên thế giới. Người ta có thể gọi tên quyền lực này là Belzebuth, Lucifer, Belial, là con rắn xưa, là tên dối trá, tên cám dỗ… Tất cả đều chỉ thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch Thiên Chúa và đưa con người vào nô lệ.

Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao hình thái nô lệ, biết bao xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người. Điều kinh khủng là người ta không nhận ra mình đang bị nô lệ. Nô lệ cho quyền lực như Hitler, Pônpôt… Nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc rượu chè. Nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, mọi thứ cuồng tín tôn giáo. Nô lệ là thứ tự do giả hiệu mà ma quỷ luôn quảng cáo và muốn mời mọc con người. Ma quỷ thường được vẽ như con vật xấu xí đáng sợ, nếu thế thì con người dễ nhận ra nó và nó khó cám dỗ được. Nhưng thực tế, ma quỉ mang dáng dấp xinh đẹp, hấp dẫn, sang trọng. Nó tấn công bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm rõ yếu điểm từng cá nhân từng tập thể để tấn công và mong hạ gục. Người ta tin vào những ngôi sao số mệnh, cầu cơ, bói toán, lá số tử vi. Tin vào những cái vô tri dẫn đến mê tín dị đoan sẽ làm nô lệ cho ma quỷ. Ngày nay nhiều người không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, đó là thành công lớn của ma quỉ.

Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.

  1. Lời Chúa là đèn soi cho con bước

Tin mừng hôm nay cho thấy hiệu lực phi thường của Lời Chúa. Lời Chúa giảng dạy làm mọi người sửng sốt thán phục. Lời Chúa uy quyền phán ra khiến thần ô uế phải tuân phục; Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa.

Là Kitô hữu, chúng ta phải đem Lời Chúa vào tâm hồn mình và làm cho nó trổ sinh hoa trái tốt. Là Kitô hữu, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ. Courtois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối, men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống Lời Chúa chiếu tỏ xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.

Sống Lời Chúa chính là soi mình vào tấm gương Chúa Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì:“Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh áng chỉ đường cho con đi” (Tv 118, 105).

“Là Kitô hữu, chúng ta phải luôn dựa vào giáo huấn của Chúa Giêsu qua huấn quyền của Hội Thánh; Chúa Giêsu bảo đảm, chân lý của Ngài được nói qua Hội Thánh. Do đó, Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, cuộc đời các thánh và sự khôn ngoan của Đức Thánh Cha và các Giám Mục phải luôn luôn được sử dụng làm nền tảng cho tất cả những gì chúng ta thụ huấn. Thứ đến, trong mọi đấng bậc, chúng ta là những người rao giảng; chúng ta chịu trách nhiệm về điều mình rao giảng. Lời rao giảng của chúng ta phải đặt nền tảng trên thẩm quyền của Hội Thánh, cụ thể là đấng bản quyền; nội dung chúng ta rao giảng là Chúa Giêsu, Lời Ngài và Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Nhờ hiệp thông với Hội Thánh và cầu nguyện, những gì chúng ta rao giảng phải được phân định và chiếu soi bởi Thánh Thần…” (Lm Minh Anh).

Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi khuyên các linh mục: “Các con nhận thánh chức linh mục để thi hành chính sứ vụ cứu độ mà Đức Kitô đã thực hiện và ủy thác cho Hội Thánh. Sứ vụ ấy bao gồm ba nhiệm vụ chính, đó là giáo huấn với tư cách là thầy, thánh hóa với tư cách là tư tế và cai quản với tư cách là mục tử và thủ lãnh.Để thi hành nhiệm vụ giáo huấn trong Đức Kitô là Thầy, các con hãy siêng năng đón nhận Lời Chúa bằng việc lắng nghe và suy niệm trong lòng, rồi đem phân phát cho dân Chúa bằng lời giảng dạy. Hãy chuẩn bị bài giảng thánh lễ mỗi ngày thật chu đáo, để có thể làm cho Lời Chúa trở nên lương thực hàng ngày cho dân Chúa. Bài giảng thánh lễ phải ưu tiên tập trung vào Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh. Không được tục hóa bài giảng bằng những nội dung và lời lẽ không phù hợp với sự thánh thiêng của phụng vụ Lời Chúa. Càng không được dùng tòa giảng để làm nơi phê bình chỉ trích cá nhân. Để cho lời giảng dạy có sức đánh động lòng người, các con cần có gương sáng đời sống thánh thiện đi kèm, vì người ta thích nhìn thấy bài giảng hơn là chỉ nghe bài giảng”.(x.Bài giảng lễ Truyền Chức Linh Mục, ngày 07.01.2021, tại Gp Quy Nhơn).

Chúng ta hãy cầu xin cho các mục tử biết noi gương Chúa Giêsu, vị Tôn sư khả kính đã giảng dạy như một Đấng có uy quyền, uy quyền của tình yêu và sự chữa lành.

Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới năm 2008 mời gọi: “Hãy để Lời Chúa vang lên lúc khởi đầu ngày sống, ngõ hầu Chúa là người nói đầu hết. Hãy để Lời Chúa vang vọng trong anh chị em vào buổi tối, để Chúa là người nói cuối cùng”. Chúng ta hãy ghi nhận và thực hiện lời mời gọi này để mỗi người, gia đình và cộng đoàn được Lời Chúa hướng dẫn mỗi ngày.

Xin Chúa cho chúng con sống tâm niệm lời Thánh Vịnh: “Hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa. Người phán: Anh em đừng cứng lòng nữa”.

Về mục lục

NỔI TIẾNG

Trầm Thiên Thu

Diễn viên Benedict Cumberbatch (sinh năm 1976, đóng vai Sherlock Holmes trong bộ phim Sherlock của đài truyền hình BBC) nhận định: “Sự nổi tiếng là một điều kỳ dị. Bạn phải tách mình ra khỏi nó. Người ta thấy giá trị ở bạn mà chính bạn không thấy.”

Nổi tiếng và nhiều người biết là điều vừa giống nhau vừa khác nhau – có tốt, có xấu. Nổi tiếng là nhiều người biết khi nhân vật nào đó có tài đức, tự lực cánh sinh, hoạt động nghiêm túc chứ không lóm lém, trá hình; nổi tiếng dạng thấp hèn là người lấy của người khác làm của mình, cướp công sức của người khác, tạo ra xì-căng-đan (scandal – vụ bê bối). Dạng này có vẻ xuất hiện nhiều: các văn nghệ sĩ có tiếng mà không có miếng vì bất tài, chỉ lưu manh, “lượm lặt” của người khác và ráp nối một cách khiên cưỡng, các câu lạc bộ thơ nhạc chỉ tâng bốc nhau chứ chẳng có gì đáng hội họp. Thùng càng rỗng thì càng kêu to. Đời đã vậy mà đạo cũng thế, cỏ lùng lúc nào cũng nhiều, triệt chỗ này thì nó trồi chỗ khác, còn lúa trồng hoài không lại cỏ.

Vấn đề nổi cộm trên thế giới hiện nay là Joe Biden, được gọi là đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Chỉ mới vô Tòa Bạch Ốc được 2 ngày mà đã “gay gắt” với hội đồng giám mục Hoa Kỳ. Là người Công giáo mà ủng hộ phá thai thì thật là nguy hiểm. Ông ta “nổi tiếng” vài lĩnh vực, nhưng toàn là lĩnh vực xấu xa!

Có vẻ rất ư bình thường khi cuộc sống hằng ngày cứ trôi đi, trôi đi, chậm mà nhanh… Thế nhưng vẫn có nhiều chuyện lạ với nhiều mức độ khác nhau. Người ta có “máu tò mò” nên thấy cái gì khác thường cũng nhìn ngó, bàn ra tán vào, thêm mắm dặm muối, gia vị nhiều hơn chất liệu chính. Thật đáng sợ! Ít có người đi đường mà không để ý mấy thứ vớ vẩn. Cũng vì lợi dụng tính hiếu kỳ thái quá của con người mà có những kẻ xấu đồn thổi những chuyện không đâu nhằm lừa bịp. Nhẹ dạ cả tin thì “chết” thôi. Nhưng người ta đâu có biết “sợ” là gì. Thế thì “chết” thật!

Thực sự có những thứ kỳ lạ thì người ta lại không để ý, vì cứ cho rằng đó là “tự nhiên.” Thật ra đó là một phép lạ lớn lao, lớn lắm, quen mà lạ, lạ mà quen: Không khí. Thật vậy, nếu thiếu không khí trong một khoảng thời gian rất ngắn thì người ta sẽ ngộp và… chết mà không còn chút hơi thừa để ngáp, mọi sinh vật khác cũng chung số phận như thế, kể cả coronavirus đang hoành hành trên thế giới suốt hơn một năm qua.

Ai cũng thích nổi tiếng, thế nên người ta thường nói nhiều để người khác chú ý, dù chẳng đáng gì giữa một đám tiệc – cưới hỏi hoặc dịp mừng gì đó, thậm chí kể cả ma chay. Giới thiệu nhau đôi khi cũng quá lời, gọi là nịnh hót – vừa nịnh vừa hót!

Có nhiều chuyện lạ phổ biến trong Kinh Thánh, đặc biệt là thời Cựu Ước. Một trong các chuyện lạ đó là sự xuất hiện của các ngôn sứ – tiên tri. Thiên Chúa đã cấm hành nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn, (Ðnl 18:10-11) thế mà con người vẫn nhiễm “máu” mê tín, dị đoan, ngay cả những người Công giáo ngày nay vẫn chưa “dứt” nổi kiểu mê tín này. Đó là máu hiếu kỳ, tính tò mò, chạy đua đi tìm…  “sự lạ.” Thấy gì khác thường một chút đã cho là “phép lạ.” Đức tin còn ấu trĩ mà cứ tưởng là tín thác.

Kinh Thánh đã xác định: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy.” (Ðnl 18:15) Điều đó xảy ra vì dân chúng đã xin với Đức Chúa tại núi Khôrếp, trong ngày đại hội. Họ chân thật cho biết: “Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết.” (Ðnl 18:16)

Và chính Đức Chúa chứng thực: “Chúng nói phải.” (Ðnl 18:17) Rồi Ngài cam kết: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta thì chính Ta sẽ hạch tội nó. Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết.” (Ðnl 18:18-20) Bịa đặt hoặc cố chấp thì ai cũng sẽ bị trừng phạt, dù là người nói hoặc kẻ nghe.

Tháng ngày cứ đều đặn trôi qua, biết bao điều lạ mà người ta lại không cho là lạ, rồi cứ mơ tưởng “sự lạ” ở đâu đâu, chẳng khác chi là ảo tưởng, thích chuyện hão huyền. Cứng đầu cứng cổ thật chứ đâu khác gì dân Israel xưa. Vậy mà vẫn tự cho mình là “ngoan đạo.” Kể cũng “lạ” thật. Điều đó cho thấy con người rất háo danh, đến độ bất chấp. Đơn giản như những người nợ như chúa chổm, nhưng vẫn sĩ diện, mượn đầu heo nấu cháo rồi nổ bung ta-lông luôn!

Thực sự nhận biết các điều lạ xảy ra ngay bên mình hằng ngày nên Thánh Vịnh gia không thể im lặng, nên đã lên tiếng mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.” (Tv 95:1-2) Không thể trì hoãn sự sung sướng đang trào dâng như bọt bia trào miệng ly vậy.

Là thụ tạo, chúng ta không chỉ phải chúc tụng Chúa mà còn phải thờ lạy Ngài, đó là bổn phận và trách nhiệm của tín nhân, những người luôn được Ngài không ngừng trao ban hồng ân mỗi ngày, đơn giản và cơ bản nhất là hơi thở – liên quan không khí và sự sống. Tục ngữ Việt Nam nói: “Ăn cây nào, rào cây nấy.” Đó là điều hoàn toàn hợp lý. Nhận lãnh thì phải biết ơn. Đồng thời còn phải mời gọi người khác cùng hành động: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:6-7) Ước gì điều đó luôn được thực hiện với lòng thành kính của mỗi chúng ta để vinh danh Thiên Chúa.

Từ ngàn xưa, thấy dân chúng thoái hóa, lòng chai dạ đá, Thiên Chúa đã nhắc nhở: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.” (Tv 95:8-9) Lời nhắc nhở đó cũng là mệnh lệnh. Chắc hẳn đó cũng là lời khuyến cáo dành cho mỗi chúng ta ngày nay, ngay thời điểm này.

Cuộc sống có nhiều dạng xơ cứng – với mức độ khác nhau. Xơ gan là một dạng ung thư bất trị, nhưng xơ cứng tâm linh còn nguy hiểm hơn, vì đó là dạng “ung thư tâm linh,” có thể bất trị cả đời này lẫn đời sau, nhưng nếu chịu điều trị thì lại khả dĩ chữa lành. Đó là một dạng “nổi tiếng” thực sự, nhưng thuộc dạng tiêu cực, xấu xa.

Đề cập một dạng lạ về tâm linh, Thánh Phaolô nói: “Tôi muốn anh chị em KHÔNG phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng.” (1 Cr 7:32-34) Gọi là lạ nhưng lại không lạ chi cả. Họ vẫn là những con người bình thường như chúng ta, không có gì khác thường, nhưng không lạ mà lại lạ, bởi vì họ sống giữa đời thường mà lại không thuộc về đời thường, họ không bị hấp dẫn bởi sức hút nào khác ngoài sức hút của Thiên Chúa, họ là fan (người hâm mộ) của Thiên Chúa, vì Ngài quá nổi tiếng, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.

Đó là lời khuyên cụ thể và có thật chứ không mơ hồ hoặc dụ dỗ, chắc chắn rằng nếu không có ơn Chúa thì không thể hiểu được. Dĩ nhiên, tất cả đều là tự nguyện, không bắt buộc, và cũng không thể ép buộc. Thánh Phaolô giải thích: “Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co.” (1 Cr 7:35) Rất chi tiết. Rất rạch ròi. Rất minh bạch. Và cũng rất chân thành. Sự thật nào cũng có thể làm người khác được lòng hoặc mất lòng. Tùy.

Và như chúng ta đã biết, cuộc sống luôn có rất nhiều điều lạ – từ nhỏ tới lớn, từ đơn giản tới phức tạp, hoặc có thể là tiêu cực hoặc tích cực. Bất cứ thời nào cũng thế, đất nước nào hoặc dân tộc nào cũng vậy. Bởi vì cũng là con người cả thôi, tính hiếu kỳ luôn chực chờ “nổi dậy.” Nhưng người ta phải lưu ý rằng có điều lạ tốt và cũng có điều lạ xấu. Chúa Giêsu giáng sinh làm người, chịu chết trên Thập Giá, rồi phục sinh vinh quang. Các sự kiện đó vô cùng kỳ lạ, lạ hơn mọi thứ lạ khác. Các bí tích cũng toàn là những chuyện lạ. Cả đời chúng ta chứng kiến biết bao chuyện lạ, nói đúng ra là phép lạ. Chúng ta có thể “nổi tiếng” nếu tin nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa, là Đấng Cứu Độ duy nhất. Chúng ta nổi tiếng nhờ Danh Thánh Giêsu. Vô cùng kỳ lạ!

Trình thuật Mc 1:21-28 cho biết rằng Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Hôm đó là ngày sa-bát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài. Họ sửng sốt vì thấy quá đỗi lạ lùng. Tại sao? Vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Đó là sự nổi tiếng tốt lành.

Và rồi người ta cứ từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Ngay lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập và la toáng lên: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1:24) Còn hơn cả sự lạ lùng, chắc hẳn mọi người càng ngạc nhiên hơn. Nó không phải quỷ thường, mà là quỷ ô uế, nó biết rõ Ông Giêsu là ai, bởi vì Ngài quá nổi tiếng.

Chúa Giêsu quát mắng nó, bắt nó câm miệng và buộc nó phải xuất ra khỏi nạn nhân. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Nạn nhân được tự do, thoát khỏi nanh vuốt kìm kẹp của ma quỷ, đó là nhờ quyền phép của Đức Giêsu, Con-Thiên-Chúa-làm-người, Thiên-Chúa-ở-giữa-chúng-ta, Đấng VIP của mọi thụ tạo – kể cả giới vô thần và ma quỷ.

Thấy vậy, mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1:27) Không lạ sao được khi mà người ta mục kích sở thị chứ chẳng phải nghe đồn hoặc truyền khẩu. Tiếng lành đồn xa. Lập tức danh tiếng Ngài đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê. Xưa thế nào thì nay cũng vậy. Chúa Giêsu thực sự nổi tiếng, vì thế mà người ta ghét cay ghét đắng, ghét cả những ai sống theo giáo huấn của Ngài.

Lạy Thiên Chúa, chúng con không cần gì khác ngoài Ngài. Có Ngài là có tất cả, mất Ngài là trắng tay và trắng đời. Xin giúp chúng con phân định đúng – sai trong mớ hổ lốn “sự lạ” giữa cuộc đời này, để chúng con tin và hành động. Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ giữa xã hội nhiễu nhương ngày nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

CHỨNG NHÂN TRONG CUỘC SỐNG

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Bóng tối thì sợ ánh sáng; sự giả dối thì sợ hãi sự thật. Đức Giêsu đến trong thế gian, Ngài là ánh sáng soi chiếu vào bóng tối; là chân lý chiếu soi vào chốn lỗi lầm. Ngài rao giảng về Nước vĩnh cửu trong chân lý và sự thật. Lời của Ngài có uy quyền khiến đến ma quỷ cũng phải kinh hãi. Lời Chúa trong Chúa nhật IV Thường niên B diễn tả uy quyền trong giáo huấn của Đức Giêsu và sự sợ hãi của gian trá, ma quỷ trước uy quyền của Sự Thật.

Uy quyền trong giáo huấn của Đức Giêsu

Ngày Sabát là ngày quan trọng đối với người Dothái, là ngày họ ngồi lại với nhau nơi hội đường để nghe Lời Chúa. Tại hội đường trong thành Capharnaum, người Do thái vẫn thường lắng nghe Lời Chúa qua những trang Kinh thánh. Nhưng dường như những Lời ấy vẫn chưa đụng chạm tới họ, tới con người với cuộc sống cụ thể của họ; Dường như những Lời ấy vẫn chỉ phảng phất đâu đấy chứ chưa đi vào lòng họ. Kinh thánh vẫn là những trang xa vời, dân Dothái chưa thể gặp được chính Lời của Thiên Chúa qua những trang Kinh thánh ấy.

Thế nhưng hôm nay họ đã được lắng nghe chính Lời của Thiên Chúa. Vào hội đường Caphacnaum trong ngày Sabát. Đức Giêsu đã lên tiếng giữa cộng đoàn, giảng giải cho họ điều đã chép trong Kinh thánh, Thánh Marco đã thuật lại: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài”. Làm sao không sửng sốt được khi mà chính Lời từ Thiên Chúa đến để nói với họ. Chính Đức Giêsu là Lời trọn vẹn của Thiên Chúa đã lên tiếng bên tai họ thì còn lý do gì để họ phải xa cách Thiên Chúa nữa. Dân Do thái đã sửng sốt về giáo huấn của Đức Giêsu vì “Ngài giảng dạy như một Đấng có uy quyền”.

Giáo huấn của Chúa Giêsu không phải là của người phàm, song là của chính Thiên Chúa. Giáo huấn của Ngài chứa đựng uy quyền toàn năng của Thiên Chúa, chứa đựng tình yêu trọn vẹn nơi Thiên Chúa, chứa đựng sự chân thật và tốt lành thánh thiện tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Chính Lời Ngài đến trong thế gian để soi sáng cho nhân loại. Như một tấm gương phải chiếu vào cuộc đời để rồi mọi tội lỗi trong nhân gian đều bị lộ rõ trước sự tinh tuyền thánh thiện đến tột cùng của Thiên Chúa.

Thánh Marco đã để cho chính sự dữ, chính thần ô uế làm chứng về uy quyền trong giáo huấn của Chúa Giêsu.

Sự giao tranh giữa Chân Lý và gian trá

Cũng trong hội đường Capharnaum hôm ấy, thánh Marco đã thuật lại cho chúng ta thấy sự kinh hoàng của bóng tối, của ma quỷ khi đứng trước uy quyền của Chúa Giêsu.

“Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập la lên”. Giữa khung cảnh nghiêm trang của hội đường, Giêsu rao giảng về Chân lý; dân chúng lắng nghe và thán phục. Tất cả mọi người không ai đụng chạm hay lên án kẻ tội lỗi, ô uế kia. Thế nhưng người đó đã la lên cách đột ngột trong sự ngỡ ngàng. Tiếng la như phá tan bầu khí của hội đường, như bùng nổ do sự kìm nén đến mức tối đa.

Vâng, chính ánh sáng và chân lý nơi Thiên Chúa đã chiếu vào góc khuất âm u ấy của người bị thần ô uế nhập. Chính bóng tối không chịu được ánh sáng; Chính ma quỷ không đứng vững được trước sự thánh thiện của Thiên Chúa; Chính sự hiện diện của Đức Giêsu đã tạo nên sự căng thẳng càng lúc càng gia tăng nơi người bị thần ô uế ám. Chính sự sợ hãi đến tột cùng của thần ô uế đã khiến người đó phải thốt nên lời và nài xin sự yên thân.

Tin mừng về Chúa Giêsu theo thánh Marco không bộc lộ ngay tất cả dung nhan của Đức Giêsu cho độc giả. Thánh Marco muốn độc giả từ từ khám phá dung nhan của Đấng Messia, Đấng Cứu Độ nhân loại. Ở đây, lời tuyên bố đột ngột của thần ô uế “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, rồi ngay lập tức Đức Giêsu trừ khử cũng chỉ một lời, đã đẩy đọc giả của Tin mừng Marco đi đến chỗ không thể dửng dưng trước con người Đức Giêsu. Họ phải tự hỏi và tìm hiểu về Giêsu.

Và đến lượt chúng ta, chắc chắn khi đụng chạm đến Giêsu, chúng ta cũng tự hỏi Ngài là ai. Sự ngạc nhiên trước Đức Giêsu luôn là thái độ cần thiết cho cuộc tìm kiếm Thiên Chúa của chúng ta. Kinh thánh là Lời Thiên Chúa. Nếu bạn thực sự lắng nghe Lời Chúa, bạn cũng sẽ thấy ngạc nhiên về Giêsu trong đó. Sự ngạc nhiên ấy sẽ là khởi điểm cho bước đường bạn tìm đến với Ngài. Và chính khi bạn mang trong mình Đức Giêsu, bạn cũng sẽ bắt gặp sự phản ứng từ những người xung quanh.

Sự hiện diện của Kitô hữu trong xã hội hôm nay

Xã hội Việt nam hôm nay đang nổi cộm với biết bao vấn nạn. Sự dối trá tràn ngập khắp mọi nơi, mọi môi trường, từ đầu đường xó chợ tới nơi giảng đường; từ gia đình đến xí nghiệp, cơ quan nhà nước; từ người vô học đến người có học vị tiến sỹ. Tất cả tràn ngập sự giả dối khiến cho người ta ra đến đường là phải cảnh giác, về đến nhà cũng phải cảnh giác. Câu chuyện cảnh giác luôn là điều người ta nhắc nhau hàng ngày. Khi sự giả dối trở thành thói quen, thành thông thường; mọi sự gian lận không phải là chuyện ngạc nhiên nữa thì xã hội sẽ thấy lạ trước những con người sống ngay thẳng, thành thật, liêm chính.

Cả cơ quan đều chia nhau số tiền tham ô, tham nhũng, biển lận. Bạn là người Công giáo sống theo Giêsu nên bạn từ chối. Chẳng cần bạn phải lên tiếng phản đối, bạn vẫn là cái gai trong mắt mọi người. Cũng giống như người bị thần ô uế ám trong bài Tin mừng hôm nay, rồi đến lúc họ cũng sẽ hét lên mời bạn đi chỗ khác.

Sự thật thà của con cái Chúa sẽ là cái gai trong một xã hội có quá nhiều sai lầm. Nhưng bạn sẽ lựa chọn thái độ nào đây?

Nếu bạn đồng tình đi theo mọi người xung quanh thì cuộc sống hiện tại của bạn tạm ổn. Nhưng bạn phải chấp nhận mất Giêsu. Bạn phải chuẩn bị nghị lực mà đối diện với lương tâm mình mỗi khi đêm về.

Nếu bạn chọn Thiên Chúa là gia nghiệp và cùng đích của đời bạn thì bạn hãy trao phó mọi sự trong tay Ngài. Có Chúa cùng đồng hành, sự kiên trung bước đi trong đường lối Chúa sẽ là ánh sáng chiếu soi vào những bóng ma trong xã hội hôm nay. Sự hiện diện của bạn sẽ là lời nhắc nhở cho mọi người và cũng là lời mời gọi mọi người gột rửa tâm hồn.

Lạy Chúa, xin giúp sức cho con, xin củng cố đức tin cho con và an ủi con trong lúc bị người đời xa lánh.

Về mục lục

LỜI QUYỀN NĂNG

Lm. Thái Nguyên

Suy Niệm

Khi Môsê sắp từ giã cõi đời, ông an ủi dân đừng khóc thương, và cho biết Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Ngôn Sứ còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ. Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ ưu việt mà Môsê tiên báo. Thánh Marcô không nói rõ Đức Giêsu đã giảng điều gì, nhưng cho thấy “Dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Sở dĩ thánh Marcô không trình bày nội dung giáo huấn, vì muốn chúng ta hướng tới điều quan trọng hơn là chính con người Đức Giêsu.

Lúc dân chúng đang tự hỏi về Đức Giêsu, thì có một người bị thần ô uế nhập, giận dữ la lên, vì sợ Chúa đến tiêu diệt, nhưng đồng thời cũng xưng nhận Ngài “là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Kẻ bị quỷ ám ở ngay trong hội đường là “nơi thánh”, mà vẫn yên hàn như sống trong nhà nó, và chỉ khi gặp “Đấng Thánh”, quỷ mới sợ hãi hét lên và đi ra khỏi đó. Đức Giêsu không dùng phù chú ma thuật. Ngài chỉ ra lệnh: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Thần ô uế vâng lời. Với lời nói có sức mạnh linh thiêng, Ngài chứng tỏ quyền lực cao cả của Triều Đại Thiên Chúa mà Ngài loan báo, đồng thời dùng quyền lực đó để giải thoát con người, trả lại cho họ sự tự do của con cái Thiên Chúa.

Xưa nay những người bị quỉ nhập không nhiều, nhưng những người bị quỉ lèo lái thì không ít. Quỉ không giống như những hình tượng ma quái xấu xí như trong các hình vẽ, nhưng thường mang dáng vẻ hấp dẫn. Nó tấn công chúng ta bằng những thủ đoạn rất tinh vi, nhẹ nhàng và ngọt ngào. Ai hảo ngọt và thiếu khôn ngoan thì dễ bị mắc bẫy. Cái tinh khôn của quỉ là nắm rõ yếu điểm nhất của từng cá nhân và tập thể. Cái tinh xảo của quỉ là ngụy tạo, nó luôn cho ta cảm tưởng là mình vững vàng, có sa sút hay vấp phạm đôi chút cũng không sao, thường hay biện minh cho những hành động sai trái của mình, và cứ thế lần hồi ta sa vào cạm bẫy, sống dưới sự điều khiển của nó mà vẫn không hay biết.

Quỉ chẳng bao giờ xuất hiện cho ta thấy, nhưng thường nó là những mãnh lực sự dữ, cố hết sức để kéo ta xa Chúa, đó là mục đích duy nhất của nó. Bằng mọi cách nó chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người, nên nó thường lừa bịp con người bằng những thứ hạnh phúc giả tạo. Chúng ta chỉ có thể khám phá ra hành tung của nó qua những đam mê và dục vọng, sợ hãi và ghen ghét, ích kỷ và hưởng thụ, cầu an và lười biếng… Chúng ta tự hào là mình không bị quỉ ám, vì chẳng làm điều gì xấu. Nhưng những điều vốn không xấu vẫn có thể trở thành ngẫu tượng như tiện nghi, chức tước, quyền hành, địa vị, danh giá… Cả những cái tốt cũng có thể làm cho ta trở nên kiêu kỳ và dựa vào đó để đánh bóng bản thân. Cái ám nào cũng làm cho ta bị cắt xén, giảm thiểu tự do, và bớt đi chính mình.

Tinh vi hơn nữa, có một thứ ám xem ra bình thường, như một phong cách làm việc, nhưng nó khiến ta phải suy tư và khuôn đúc theo một lập trình, không thể sống khác đi được, như một thứ bản năng sinh tồn hay một thứ thói quen xơ cứng. Điều đó khiến ta không còn khả năng đổi mới. Ngoài ra, vẫn luôn có những cách suy nghĩ và lối sống tiêu cực nào đó đang len lỏi vào đời sống chúng ta, nhất là khi đứng trước những va chạm và thử thách. Chỉ khi nhận ra những điều đó, ta mới thấy cần Chúa biết bao, để tiếng nói uy quyền của Ngài trục xuất khỏi ta những gì làm ngăn chặn sự sống của Thiên Chúa.

Chúng ta đang sống trong một xã hội nhiễu nhương và nhiều bấn loạn do sự dữ hoành hành. Có bao người bị ám bởi thần ô uế: ô uế bởi tiền bạc, bởi nhục dục và đam mê lợi lộc. Có bao người mang những bệnh trạng nặng nề trong cái nhìn, trong cách nghĩ, trong lối sống, tạo nên một xã hội bệnh hoạn, một xã hội đang hết sức cần đến quyền năng Chúa cứu chữa. Chúng ta cần mang Đức Kitô đến cho họ, nhưng trước hết, bản thân ta cần được tẩy uế hằng ngày để sống an bình và thanh khiết trong ơn cứu độ của Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Trong đời sống nhân loại,
vẫn luôn có những kẻ lạc loài,
chẳng tìm được ai để mình tin tưởng,
vẫn có bao người đang vất vưởng,
giữa cuộc đời thiếu thốn tình thương.

Có nhiều kẻ lại tôn thờ ngẫu tượng,
vì không biết đường biết hướng về đâu,
tưởng tiền bạc hay khoái lạc là hạnh phúc,
càng tệ hơn nữa khi chạy theo tình dục,
khiến tâm hồn bị ma quỉ hành hung,
trở thành ô uế cho tà thần sử dụng,
thành tai ương kinh khủng cho chính mình.

Lại có những người mang bệnh hoạn,
trong lối nhìn, lối sống, lối nghĩ suy,
nhất là giới trẻ càng dễ bị hư đi,
khi xây dựng đời mình trong hoang tưởng.

Chúng con xin Chúa dủ lòng thương,
nhìn đến những người đang lạc hướng,
đang sống đa đoan lắm đoạn trường,
cứu vớt kẻ sa lầy trong nghiệp chướng,
giải thoát ai phải sống cảnh tai ương.

Xin giúp chúng con làm gì đó cho họ,
để chứng tỏ lòng con yêu mến Chúa,
nhưng trước tiên cho con thấy bản thân,
đừng để bị khống chế bởi tà thần,
do chuyên cần hy sinh và cầu nguyện,
cậy nhờ bàn tay Chúa uy quyền,
giữ gìn con khỏi những điều ô uế,
để luôn sống trung trinh lời ước thệ,
trong cuộc hành trình về bến quê. Amen.

Về mục lục

CHÚA GIÊSU KITÔ: LỜI THIÊN CHÚA UY QUYỀN

Pm. Cao Huy Hoàng

Trên thế gian này, có những chuyện quá xưa cũ, mà người ta vẫn lầm tưởng như là mới mẻ lắm. Điển hình, sự ngu muội của một số người vẫn cho mình là tiến bộ từ loài vượn đến loài người, và chưa hề mường tượng ra có một loài người đang tiến bộ từ loài người đến loài thiêng liêng thần thánh, chưa nói đến việc loài người ấy được tan hòa trong thiên tính vô cùng cao quí của một Đấng Thiêng Liêng là Đức Chúa Trời, được làm con Chúa Trời.

Cái thói ăn bậy, nói bừa, như “con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói”, cái thói xảo trá gian ngoa “đâm đầu thóc, thọc đầu gạo” của loại đòn xóc hai đầu, hoặc cái thói “nói đàng đông, làm đàng tây, nói một đường, làm một nẻo” vẫn là cái căn cốt của con quỷ Satan ngay từ buổi bình minh sáng thế. Có gì mới đâu! Thế nhưng, có những con người chủ trương sống và kêu gọi người ta sống lại cái thủa ban đầu của sự tăm tối ngu muội ấy, vì người ta không ưa thích sự thật, hoặc dùng sự thật bên ngoài như bức màn che bao điều giả dối ở bên trong: sự giả dối ngay trong hôn nhân gia đình: khoái lạc dưới tên gọi hạnh phúc; ở nhà trường, ở xã hội, thành tích thi đua thay cho thực lực, xin-cho có điều kiện được gọi là tự do, bố thí rửa tiền mang áo lụa thơm mùi bác ái…. Người ta đang tưởng mình sống, thật ra đang sống trong sự chết, tưởng mình tự do, thực ra đang nô lệ, tưởng mình chiến thắng, thực ra đang bại trận trong chính cuộc đời mình.

Sự giả dối đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, không loại trừ quốc gia, dân tộc, giáo hội, tổ chức, cá nhân…vì Satan luôn chọn ‘lòng người” làm sào huyệt xuất phát, để chống lại sự thật là chính Thiên Chúa. Và khi lòng người giả dối, sẽ trổ sinh bao điều ô uế cho chính mình và cho cuộc đời. Mưu đồ của Satan còn khủng khiếp hơn nữa, khi chúng tôn vinh các sự dối trá bằng những tuyên dương, bằng cách đội cho các thông tin sai sự thật chiếc vương miện hoa hậu, bằng cách truyền bá rằng sự giả dối đang chiến thắng, đang thống trị.

Ai có thể tin được? Có đấy, có biết bao nhiêu người lầm tưởng.

Riêng với các tín hữu công giáo, là những người con của Thiên Chúa, con của sự thật, thì Lời Chúa hôm nay, đang cảnh tỉnh mỗi người đề phòng mưu chước của Satan, và một lần nữa khẳng định cho con cái Chúa biết rằng: Uy quyền thuộc về Thiên Chúa.

Lời Chúa đầy quyền năng vì là Lời của sự thật và Lời ban sự sống. Chỉ một Lời ngài phán, đã có ngay bầu trời và tinh tú cùng muôn vạn vật có sự sống (Tv 32). Công trình trần gian do Lời Chúa tác thành vẫn tồn tại, và tồn tại trong vẻ đẹp huy hoàng của Thiên Chúa mà người trần gian đến muôn đời vẫn không thể hiểu thấu.

Lời Chúa đầy uy lực khiến người nghe phải rung động tâm can vì Lời Chúa là tình yêu. Uy lực của tình yêu vô biên vì tình yêu chân thành, không hề giả dối, tình yêu tín trung không bao giờ phản bội, tình yêu thường hằng bất biến vì tình yêu không lệ thuộc thời gian không gian hữu hạn.

Thiên Chúa đã đặt Lời của Người vào miệng lưỡi của các tiên tri, để các Ngài thông tin cho nhân loại biết về một Thiên Chúa đầy toàn năng, toàn ái. Sách Đệ Nhị Luật 18,18-19, ghi rõ: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những Lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.19 Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó”.

Thiên Chúa vẫn biết, Satan vẫn luôn đã và đang rêu rao phủ nhận sự hiện diện của Ngài. Còn Satan vẫn biết có Thiên Chúa, nhưng luôn muốn và làm cho con người không biết, hoặc biết mù mờ, hoặc từ chỗ biết đến chỗ phủ nhận từ chối. Satan không muốn cho con người chấp nhận có một sự thật hiển nhiên, tỏ tường là Thiên Chúa. Vì thế, ngay cả các tiên tri, cũng có thể bị chúng phỉnh lừa để nhân danh Thiên Chúa mà không nói Lời Thiên Chúa đã truyền, như Ngài đã tiên liệu và căn dặn: “Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết.”(c 20)

“Nhân danh Chúa mà nói lời Thiên Chúa không truyền dạy” là mưu chước tinh xảo nhất của Satan trong thời đại hiện nay. Chỗ này, chỗ kia, rồi chỗ nào cũng có những người áp đặt ý của mình thành ý của Thiên Chúa, lời của mình thành Lời của Thiên Chúa, giới thiệu cho người nghe một khuôn mặt Thiên Chúa đã bị biến dạng. Thiết tưởng, việc học hỏi lời Chúa trong các gia đình, trong các lớp giáo lý, cần được thực hiện nghiêm túc hơn nữa, từ người dạy đến người học, không chỉ để hiểu được Lời Chúa, sống lời Chúa, mà còn để cho Lời Chúa tác động trong mọi hành vi cử chỉ ngôn từ, và còn để phân biệt lời nào, ý nào của Chúa, lời nào, ý nào của loài người.

Để củng cố, kiện toàn cho Lời của Thiên Chúa đã được đặt nơi miệng của các Tiên Tri, Thiên Chúa đã sai chính Ngôi Lời của Ngài đến trong trần gian là Đức Giêsu Kitô. Quyền năng của Lời Thiên Chúa nay được ủy thác nơi chính Đức Giêsu Kitô. Vì thế, thánh Marcô ghi nhận rằng: “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy.22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1, 21-22).

Sự thật về Thiên Chúa là “Thiên Chúa là sự thật”. Sức mạnh của sự thật cũng chính là sức mạnh của Thiên Chúa. Đức Giêsu đang mang cả kho tàng sự thật của Thiên Chúa đến trong trần gian, và sức mạnh ấy chiến thắng sự giả dối đang ngự trị trong lòng con người, đang làm cho con người ra ô uế. Thần ô uế, con quỷ giả dối, biết khiếp sợ trước Lời đã hóa nên người phàm: ” Ông Giêsu Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (c 25). Vâng, Satan vẫn biết Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, vẫn biết chỉ có Đức Giêsu sẽ tiêu diệt nó khỏi lòng con người, để con người được an nhàn thư thái. Và quả vậy, thánh Marco hôm nay cho biết: Đức Giêsu đã không tiêu diệt con cái của Thiên Chúa, nhưng ngài dùng uy quyền của Lời Thiên Chúa mà trục xuất satan và ảnh hưởng của nó ra khỏi con người. “Câm đi, hãy xuất khỏi người này! “. Ngài trả lại cho con người ấy nét đẹp nguyên tuyền của con cái Thiên Chúa, con cái của sự thật.

Ma quỷ không thể thắng được Lời của Thiên Chúa, nhưng sự dữ vẫn cứ tồn tại. Vì ma quỷ vẫn luôn nhũng nhiễu Thiên Chúa, làm rối loạn tâm can con cái của Ngài. Quỷ đang ám các chính phủ để củng cố quyền lực trần gian, lừa lọc nhau mưu lợi, tham nhũng, làm cho con cái Chúa lầm tưởng rằng phải cậy thế, cậy thần mới là chân lý. Quỷ đang ám các nhà kinh doanh người, kinh doanh trên thân xác con người, kiểu nầy, cách nọ. Quỷ cũng đang ám tâm trí bao người ăn chơi hưởng thụ vô trách nhiệm trước tội giết chết các thai nhi không thương tiếc. Quỷ đang ám các gia đình bắt đầu từ sự dối trá trong tiền bạc, trong tình cảm, đến dối trá cho những cuộc trăng hoa mây mưa ngoài vòng pháp luật của gia đình, làm mất sự thánh thiện của hôn nhân công giáo, và dần dần, phá vỡ tan tác khi cầm một tờ ly dị được xem như sự giải thoát, sự tự do.. Thần ô uế cũng đang ám tôi, ám bạn, làm cho cuộc đời mình sống trong sự giả dối từ sáng sớm đến chiều tối, và ngay cả khi vào giấc ngủ-hình ảnh của sự chết ngàn thu.

Đã đến thời gian không chỉ tin vào sức mạnh của Lời Thiên Chúa, mà phải sống Lời Thiên Chúa cách thiết thực là kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Quyền Năng mà nhờ sức mạnh của Ngài làm thành lũy che chắn cho cuộc đời trước bao lời mời gọi của ma quỷ, của thần ô uế.

Nguyện xin Lời của Đức Kitô là sự thật đầy quyền năng, là giới răn mới của Thiên Chúa, thanh tẩy tâm trí chúng con khỏi sự giả dối trong tư tưởng, trong lời nói, trong hành động, để các sự ô uế không thấm nhiễm cuộc đời chúng con và thế lực chống lại Thiên Chúa không thể huyênh hoang rằng con cái của Chúa đã bại trận.

Và xin cho chúng con can đảm làm chứng cho sự thật, cho chân lý, cho Thiên Chúa trong thời đại con quỷ dối trá muốn khống chế tất cả loài người.

Về mục lục

ƯỚC MƠ ĐẸP

Lm. Jos DĐH.

Gặp và tiếp xúc với người vừa tài vừa giỏi, quả là thích thú, được thấy, được nghe người đức độ ăn nói lưu loát, truyền cảm, ta đã có kinh nghiệm về niềm vui đó. Tuy nhiên không phải cứ hiền lành là nghèo đói, thông thái là no giầu, chẳng ai nghĩ kẻ có duyên ăn nói là thành công, đồng ý rằng, thán phục người khác bao giờ cũng khó ! Không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta nói: một người biết lo, bằng kho người làm. Bậc làm cha mẹ sẽ hạnh phúc lắm, khi các thành viên gia đình, biết lắng nghe, cảm thông, cùng sống đúng, sống đẹp, với những điều kiện mình đang có. Ước mơ được thấy bức tranh sống động, người người biết giúp nhau nghe tốt, hiểu tốt, và sống thật ý nghĩa, như lời khuyên của bậc hiền nhân: nếu bạn không thể làm cho khuôn mặt của mình sáng láng, xin cũng đừng cản trở đám mây che mất điều tốt đẹp.

Tại hội đường năm xưa, “đám đông kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy như Đấng có uy quyền…”. Đám đông hôm đó là những ai, Đấng uy quyền rao giảng bằng thứ ngôn ngữ đặc biệt nào, có phải chúng ta đã từng ước mơ có mặt để nghe, để được thấm nhuần lời yêu thương, khích lệ, một niềm vui tràn đầy trong Thiên Chúa Đấng cứu độ ? Mơ ước được ăn nên làm ra, được “cả chì lẫn chài”, được cả đời này, đời sau, cũng chưa phải là ước mơ sai lầm. Thực ra, giáo lý đức tin đi sâu vào lòng người, lời giải thích hút hồn được đám đông, chính là tình yêu, là niềm vui bình an trong Đức Giêsu Kitô. Cuộc sống là một chuỗi dài những chọn lựa, tình yêu và hạnh phúc cho ta một cơ hội thứ hai, kết quả nhiều hay ít, tròn đầy hay tương đối, vẫn được gọi là ngày mai, là tương lai đầy hy vọng.

Tất cả những “con cá” đánh bắt được dưới sông nước đều tươi tốt, tất cả những ước mơ hướng tới sự thiện, đều đáng trân trọng, cũng như mỗi người đều có những nét đẹp riêng. Tất cả những ai đi lễ chùa, đi tới hội đường, họ đều có mơ ước đẹp, ít nhất họ có “cái tâm”, muốn gặp, muốn được, dù là sự bình an trong phút chốc, hoàn toàn không phải do họ dư tiền, thừa thời gian. Bước vào hội đường cầu nguyện như bao ngày lễ nghỉ, hôm đó mọi người phấn khởi vì cảm nhận được sự ngọt ngào, dễ nghe, dễ hiểu, họ khâm phục kính nể: “Người giảng dạy như Đấng uy quyền”. Rõ ràng không ai đến hội đường, đến nhà thờ, để tìm kiếm địa vị, lợi nhuận kinh tế, có chăng, vì niềm tin, vì khao khát được bình an, được niềm vui tâm hồn.

Mơ ước đẹp và tròn đầy của đám đông hôm đó, được Đức Giêsu phủ kín tâm hồn, họ tâm phục khẩu phục, vì Lời Đức Giêsu có sức mạnh vô biên, tác động đến người nghe tỏ tường, hạnh phúc. Tâm lý chung, ai ai chẳng thích trao đổi với người vui vẻ cởi mở, kính trọng người đức độ, uy tín, nể phục người tài giỏi, không muốn gần kẻ cọc cằn, nóng tính, hoặc sợ kẻ lạnh lùng, thô bạo. Có phải đám đông dân chúng sau khi gặp Đức Giêsu, họ muốn diễn tả, muốn giới thiệu cho các thế hệ về Một Đấng thân thiện, dễ mến, ngọt ngào trong lời chia sẻ, nghiêm túc trong hành động ? Thắc mắc sẽ được lý giải, khi ta được nghe, được thấy, được chứng kiến “Lời quyền năng” và sức mạnh của Đức Giêsu chữa lành người bị quỷ ám.

Mơ ước đẹp, trọn vẹn, và tròn đầy, hôm xưa hôm nay, có lẽ không khác nhau, vì ở hội đường hay ở nhà thờ, thì niềm vui chung vẫn là được gặp Đức Giêsu, được nghe, được hiểu, và được biến đổi tâm hồn của mình nên xứng hợp với tình yêu Chúa. Tại hội đường năm xưa, tại nhà thờ năm nay, Đức Giêsu vẫn là Thầy dạy, vẫn là Chúa, là Đấng cứu độ, Lời rao giảng, Lời quyền năng, tình yêu và sức sống được nối tiếp, trổ sinh bông hạt. Mơ ước của Đấng Kitô thì sao? chắc chắn là Ngài mơ ước mọi người, mọi thời được nghe, được hiểu, và được thấy Thiên Chúa cứu độ. Nếu Đức Giêsu chu toàn được sứ mạng tại trần thế, thì tất cả những ai là môn đệ Đức Kitô, đều đáng được biến đổi, được trở nên chứng nhân của tình yêu. Có thể chúng ta chưa nổi tiếng, hay chưa có tiếng tăm lừng lẫy, hẳn cơ hội để Đức Giêsu thực hiện phép lạ, cơ hội để ta sử dụng nén bạc, đều tùy thuộc con tim và khối óc đang hiệp thông, diễn tả.

Ngày hôm nay, bạn suy nghĩ gì về sự ngọt ngào, và lời đầy quyền năng của Đức Giêsu, khả năng hùng biện, tính thuyết phục, có còn được nghe, được hiểu, để sống tốt không ? Cho dù kinh nghiệm và sự hiểu biết của ta còn giới hạn, thì lời khuyên mạnh mẽ nhất vẫn là: học mà không suy nghĩ thì vô ích, suy nghĩ mà không học thì hiểm nghèo ! (Khổng Tử). Đức Giêsu đã trở nên cần thiết cho đám đông, không phải chỉ vì Ngài nói hay, nói giỏi, hay chữa lành đủ mọi thứ bệnh tật, xua trừ ma quỷ, sự xấu, mà do họ được Chúa yêu thương, được sự cảm thông, được đụng chạm tới trái tim chai cứng của họ. Mơ ước đẹp và trọn vẹn của Đức Giêsu, của mỗi chúng ta chính là: tất cả được nên một trong tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cứu độ. Amen.

Về mục lục

LÀM SAO DIỆT ĐƯỢC SATAN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 Con người thường hay nói tới Satan. Rất sợ Satan. Bởi vì Satan tượng trưng cho sức mạnh của bóng tối. Satan có thể khiến cho chúng ta phải khốn khổ khi nằm trong vòng kiềm tỏa của nó. Cụ thể là với Đại dịch Covid 19, con người ở thời hiện đại vẫn ngạo nghễ, luôn nghĩ mình thông minh, làm được mọi sự nhưng đâu ngờ bóng tối của Satan với tên gọi Covid đã bao trùm toàn thể địa cầu  trong sợ hãi bất lực. Satan đã đánh bại sự ngạo nghễ của con người. Con người mãi nhỏ bé trước sự dữ do Satan đưa tới. 

Nhưng Satan là ai? Satan có quyền lực gì?  

Theo sách khải huyền thì “đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Satan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ. (Kh 12:9). Nó ru ngủ con người bằng trăm phương ngàn kế với những lời thì thầm mật ngọt. Satan không hiện nguyên hình. Satan không tự làm sự dữ. Satan chỉ dẫn dụ con người bày trò tội lỗi hại người. Nó chỉ đứng đằng sau để điều khiển. Thế nên, sự dữ bao trùm nhân loại cũng có phần của con người đã tiếp tay cho Satan để gây nên đau thương cho anh chị em mình. 

Vì thế, Satan đôi khi cũng bị nói oan. Vì nhiều chuyện chỉ do con người làm ra mà lại cứ nói tại ma quỷ nó làm. Vợ chồng cãi nhau cũng tại ma quỷ xui khiến. Cộng đoàn chia rẽ cũng bởi ma quỷ cám dỗ. Dịch cúm Tàu cũng do ma quỷ  làm ra. . . 

Thực ra ma quỷ có thể gieo rắc sự xấu là do con người tiếp tay. Ma quỷ bày trò nhưng nó không khống chế để ép buộc con người làm theo ý nó. Thiên Chúa khi tạo dựng đã ban cho con người sự tự do. Con người hoàn toàn tự quyết định về lời nói và hành vi của mình. Con người có thể quy phục Thiên Chúa để cộng tác với Ngài mà làm cho vũ trụ mỗi ngày hoàn thiện hơn. Và con người cũng có thể nghe theo ma quỷ để phá hủy vũ trụ này ngày một tồi tệ hơn. 

Điều đáng buồn là thế giới đầy sự dữ. Sự dữ do con người tiếp tay với ma quỷ để gieo rắc sự dữ cho môi trường sống của mình.

Ở nơi nào đó ta vẫn thấy những ma men say sỉn quậy phá vợ con hay hàng xóm lang giềng.

Ở nơi nào đó ta vẫn thấy những con ma ngáo đá, có cả nam lẫn nữ, nói lăng lảm nhảm, chạy nhảy tung tăng đánh rơi hết nhân phẩm giữa phố phường.

Ở nơi nào đó ta vẫn thấy quỷ dữ lộ nguyên hình khi giết các thai nhi, tẩm chất độc vào đồ ăn, ra đường chạy xe lạng lách, lấn đường, lấn tuyến xem thường tính mạng người khác.

Và ở nơi nào đó ta vẫn thấy ma quỷ xen lẫn giữa đám đông trong các gia đình, các hội đoàn, xứ đạo để rỉ tai nói xấu, gây chia rẽ cho nhau. 

Hình như thế giới hôm nay Ma quỷ đã chiến thắng nên sự dữ, sự ác lên ngôi. Công bằng, công lý bị bẻ gẫy. Một thế giới do ma quỷ dẫn dắt nên điêu tàn chết chóc.  Cũng vậy, khi một con người sống dưới sự kiềm tỏa của ma quỷ ta thấy họ bạc nhược, suy tàn và bị xa lánh. Nhìn vào thế giới hôm nay ai cũng cảm thấy bất an và lo sợ. Làm sao có thể cứu thế giới khỏi bóng tối sự dữ? Làm sao có thể giải cứu thế giới và con người khỏi sự kiềm tỏa của ma quỷ?  Con người chúng ta thật nhỏ bé trước thế lực sự dữ đang bủa vậy! 

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, chỉ cần có sự hiện diện của Chúa Giê-su thì ma quỷ đã khiếp run. Và chỉ cần Chúa phán một lời thì ma quỷ đã phải lui ra để trả lại tự do cho người. Ma quỷ đã làm cho thế giới điêu linh và sự dữ lên ngôi. Người Công Giáo đã làm gì để đẩy lùi sự dữ? 

Điều đầu tiên khởi đi từ bản thân hãy để Chúa chiếm trọn con người của chúng ta. Hãy xa lánh tiếng mời gọi bước theo con đường ma quỷ. Và rồi hãy  mời Chúa Giê-su đến thống trị gia đình bạn. Hãy để Chúa làm chủ gia đình của bạn thì bóng tối sự dữ sẽ tiêu tan, gia đình sẽ êm ấm hạnh phúc. Là người ky-tô hữu chúng ta còn có bổn phận mang ánh sáng tin mừng Chúa chiếu soi cho thế giới đang đầy tội lỗi. Hãy sống chứng nhân cho tin mừng yêu thương và dám mạnh dạn bảo vệ tiếng nói của lương tâm, của công lý để ngăn chặn bất công và sự dữ lên ngôi. 

Đây cũng là điều mà Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã phản đối tân Tổng Thống Joe Biden khi ủng hộ việc cho phép phụ nữ phá thai, các giám mục Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng: “Chúng tôi đặc biệt thúc giục tổng thống bác bỏ việc phá thai và cổ vũ việc trợ giúp phò sinh cho các phụ nữ và các cộng đồng đang cần được giúp đỡ.”

Ước mong cho ánh sáng của tin mừng được mọi người tín hữu thắp sáng lên bằng việc cùng nhau sống tinh thần của Phúc âm và còn dám mạnh dạn nói không phải tội lỗi và đẩy lùi sự dữ ra khỏi moi trường sống của chúng a. Amen

Về mục lục

NGẠC NHIÊN, MỘT THÁI ĐỘ CỦA ĐỨC TIN

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Cuộc sống luôn có những điều bất ngờ xảy ra làm chúng ta phải ngạc nhiên. Có những ngạc nhiên làm chúng ta bối rối thắc mắc. Có những ngạc nhiên làm chúng ta thất vọng. Nhưng cũng có những ngạc nhiên làm chúng ta thú vị, vì nó đưa chúng ta tới những chân trời mới để khám phá những điều mới mẻ và kỳ diệu của cuộc sống. Chính vì thế, triết gia Platôn cho rằng trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần biết ngạc nhiên và ông gọi đó là sự “ngạc nhiên triết học,” sự ngạc nhiên giúp nhận ra chân lý.
Một cách tương tự, trong đời sống đức tin, chúng ta cũng cần phải biết ngạc nhiên trước mầu nhiệm và tình yêu Thiên Chúa để có thể hiểu biết và yêu mến Người hơn. Tôi gọi đó là sự “ngạc nhiên của đức tin.”
Thánh Máccô trong bài Tin Mừng hôm nay nói nhiều đến thái độ ngạc nhiên của dân chúng trước Con Người, lời giảng dạy và giáo lý của Chúa Giêsu. Máccô kể:
“Tại thành Caphácnaum, ngày Sabát, Đức Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22).
Sau đó Chúa Giêsu thấy một người bị thần ô uế ám, Người truyền lệnh cho nó phải xuất ra khỏi người này. Thần ô uế phải tuân phục Chúa. Thấy thế, mọi người đều sững sờ đến nỗi họ bàn tán với nhau:
“‘Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh.’ Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi” (Mc 1,27-28).
Quả thế, dân chúng ngạc nhiên về Chúa Giêsu bởi vì họ nhận ra Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ đã được Môsê tiên báo mà họ chờ đợi. Người là sự thành toàn của các lời hứa. Người là vị Môsê mới, có uy quyền và trỗi vượt hơn các ngôn sứ. Người là Đấng Thiên Sai, Người là Tin Mừng cần tin, tiếp nhận và thông truyền cho mọi người biết để họ cũng được Người cứu độ. Họ nhìn thấy nơi Chúa Giêsu “một niềm hy vọng mới,” bởi vì cách ứng xử và giảng dạy của Người chạm đến con tim của họ, đến tâm hồn họ. Giáo huấn của Người mới mẻ vì là giáo lý đến từ Thiên Chúa, đó là Tin Mừng giải thoát và có sức mạnh của Thánh Thần. Khi mọi người nhìn thấy Chúa Giêsu và nghe giáo huấn của Người, họ cảm thấy một cái gì đó khuấy động bên trong – chính là Chúa Thánh Thần đang khuấy động tâm hồn họ. Họ đi đến gặp Đức Giêsu và tin vào Người.
Để hiểu biết, bước theo và yêu mến Thiên Chúa của Đức Giêsu, chúng ta cần có thái độ ngạc nhiên của đức tin như thái độ của dân Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI cho rằng: “Trước huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, có lẽ là nỗi ngạc nhiên sững sờ là hình thức và lời tuyên xưng đúng nhất về Thiên Chúa.”
Bởi vì, Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa của ngạc nhiên. Người luôn có những cách thế, đường lối và ân sủng làm chúng ta phải ngạc nhiên. Vì Người là tình yêu và luôn yêu ta trước nhất. Người chờ đợi chúng ta với một sự ngạc nhiên. Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên. Chúng ta hãy để cho mình được Thiên Chúa làm cho ngạc nhiên. Chúng ta cần tránh một thứ “tâm lý tự cho mình là đầy đủ” khi nghĩ rằng chúng ta đã biết hết. Đông thời, chúng ta cũng được mời gọi đừng sống đức tin như một thứ máy móc mà mọi thứ đã được cài đặt sẵn. Theo ý nghĩa đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô gần đây dạy:
“Nếu chúng ta không biết ngạc nhiên, không linh hoạt hồng ân này của Thiên Chúa là đức tin, nhưng cứ để đức tin chúng ta suy yếu, tan loãng, thì kết cục đức tin chỉ còn là một thứ văn hóa. ‘Vâng, tôi là một Kitô hữu, đúng lắm’ – nhưng chỉ là một thứ văn hóa – một kiến thức ngộ đạo thuyết, hay một dạng chuyên biệt của kiến thức. ‘Vâng, tôi biết rõ tất cả các khía cạnh của đức tin, tôi rành rẽ giáo lý.’”
Vì thế, Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy biết ngạc nhiên. Ngài cho rằng: điều trọng yếu là phải linh hoạt hồng ân này mỗi ngày: phải đưa nó vào cuộc sống.
Xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta vào những đường lối mới mẽ của Thiên Chúa để chúng ta cũng ngạc nhiên, khiêm tốn, chúc tụng và chiêm ngắm huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta mỗi ngày. Amen!

Về mục lục

LỜI THIÊN CHÚA vs LỜI NGƯỜI TA

Lm. Xuân Hy Vọng

Kính thưa quý cộng đoàn Phụng vụ! Năm mới cũng mới sang, nhưng mọi thứ bất ổn, tai ương vẫn đang rình chờ thế giới nói chung, và chúng ta nói riêng. Hằng ngày, chúng ta dùng lời ăn, tiếng nói, dùng ngôn từ, lý lẽ để truyền tải suy nghĩ, ý tưởng, hầu liên kết với mọi người. Tuy nhiên, đôi lúc chúng ta chỉ nói mà không làm, hoặc chẳng giữ lời mình nói, “ngôn hành bất nhất”, tất bật hành tung. Thế nhưng, Lời Chúa trong đời sống chúng ta hằng vang vọng, và tác động mạnh mẽ đến chúng ta.
Theo sách Đệ Nhị Luật, Thiên Chúa sẽ gầy dựng và ban cho dân Chúa một ngôn sứ, và vị ngôn sứ này nhân danh Chúa mà nói những gì Ngài truyền. Vì vậy, ngôn sứ còn được gọi là “thiên khẩu” (cái miệng của Thiên Chúa). Tất cả lời lẽ của vị tiên tri đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, còn ai tự phụ nhân danh Chúa mà nói lời của riêng mình, hoặc mượn danh các thần khác mà nói, thì hậu quả khôn lường “và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà ngươi sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó…” (Đnl 18, 19). Tương tự, Thánh Phao-lô cũng dùng lời Chúa khuyên nhủ, răn dạy giáo đoàn Cô-rin-tô về việc hết lòng phục vụ Chúa, sống lo liệu chứ không lo lắng bận tâm, và hướng dẫn họ đến đời sống đoan chính, gắn bó thiết tha với Chúa mà không bị giằng co (x. 1Cr 7, 32.35). Vì lẽ “tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2Tm 3, 16).
Hơn nữa, lời uy quyền này không phải qua trung gian như Mô-sê, hay các tiên tri xưa kia, mà chính từ Ngôi Lời, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, là Lời của Thiên Chúa. Do đó, khi Đức Giê-su trở về quê Na-da-rét, Ngài tuân giữ lề luật, vào hội đường lắng nghe và giảng dạy, thì ai nấy đều sửng sốt về Ngài, “người ta kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ” (Mc 1, 22). Thời ấy, dân chúng còn chưa biết rõ thân phận của Ngài, nên họ phản ứng theo lệ thường dễ hiểu. Còn nay, chúng ta đã thông hiểu Đức Giê-su chính là Lời, Đấng trực tiếp thông truyền, chuyển tải, chuyện trò, hướng dẫn, dạy dỗ chúng ta mỗi lúc, đặc biệt khi đọc và suy gẫm Lời Chúa, lúc tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích và qua các biến cố trong đời sống thường nhật, trong gia đình, trong cộng đoàn, giáo xứ, hội dòng, v.v…, mà chúng ta vẫn là người đứng ngoài, không biết đón nhận sao! Mỗi lúc chúng ta tiếp xúc với Lời Chúa, lắng nghe, học hỏi và sống Lời Chúa qua Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức thánh…, thì chính Đức Giê-su Ki-tô là Lời, trực tiếp ‘hàn thuyên’, thông truyền, răn dạy chúng ta. Thay vì chỉ sửng sốt, ngạc nhiên, chúng ta cần biết nhận ra, mở lòng đón nhận, ghi tạc trong tâm trí và thực hành Lời Chúa cách cụ thể trong mọi trạng huống cuộc đời.
Nhờ Lời uy quyền, ma quỷ khiếp run và tuân thủ ngay lập tức, “Chúa Giê-su quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này! Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy” (Mc 1, 25-26); còn nữa “Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Ngài” (Mc 1, 27). Trong đoạn trần thuật bài Tin Mừng hôm nay, thần ô uế (ma quỷ) biết rõ và công bố danh tính của Đức Giê-su, nhưng tại sao Ngài bắt chúng im lặng? “Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. Mc 1, 24). Đơn giản vì có lẽ chúng biết Ngài, nhưng chúng chẳng bao giờ thờ lạy, phụng sự Ngài, và hơn thế, chúng còn xúi giục, sai khiên, lôi kéo con người chúng ta theo chúng, mà chẳng chịu tuân phục và vâng theo Thiên Chúa. Do đó, Đức Giê-su là Lời, bắt chúng câm nín, và nhờ Lời uy quyền này mà giải thoát người bị ám nói riêng, và cứu rỗi chúng ta nói chung. Cứ mỗi ngày, trong từng giây phút cuộc sống, Lời Chúa và vô vàn lời khác từ xã hội, từ thế giới, từ các lĩnh vực chuyên môn, lời bạn bè, lời mời mọc, lời người ta, v.v…diễn ra cùng một lúc, đòi hỏi chúng ta phải biện phân và phân định đâu là Lời uy quyền, đâu là Lời cứu độ, hầu tránh được lời lẽ mỹ miều dẫn đến hư vô, lời trần thế dối gian, và lời ‘hương thoảng gió bay’ để lại biết bao điều tổn hại, thương đau v.v…Duy chỉ Lời Chúa mới chính trực, công minh, cứu rỗi con người và giải thoát lời con người chúng ta khỏi cạm bẫy mơ hồ, ‘một dạ hai lòng’, đầy gian dối.

Lạy Chúa, xin cho Lời Ngài
Thắm đượm lòng con, lắng tai đón nhận.
Mở rộng tâm trí ân cần
Biện phân, phân định muôn phần chứa chan.
Lời Chúa trao ban bình an
Giữa muôn lời nói tràn lan mỗi ngày.
Lời Chúa nắm chặt đôi tay
Dẫn con về bến lạ thay ân tình. Amen!

Về mục lục

GIÁO HUẤN MỚI

Lm Vũđình Tường

Đức Kitô có thói quen tham dự sinh hoạt ngày cuối tuần nơi hội đường. Hội đường là nơi giải thích về sách Ngũ Kinh. Lãnh đạo hội đường thường mời người tham dự có khả năng, hướng dẫn dân chúng để có tính mới mẻ, sinh động. Đức Kitô được mời giảng giải. Lời giảng của Ngài không chỉ gây xúc động mạnh trong tâm hồn người nghe, mà còn làm thay đổi cách suy nghĩ và ảnh hưỏng tới lối sống của họ. Người ta rất đỗi kinh ngạc. Người ta ca tụng về kiến thức, trí thông hiểu, và sự khôn ngoan, thông thái nơi Ngài.Giáo huấn của Ngài không phải chỉ thuần lập lại những gì các học giả khác đã lí giải, mà chính Ngài đưa ra những giải thích, hướng dẫn mới liên quan trực tiếp đến đời sống dân chúng. Người ta kháo với nhau,
‘Người giảng dậy như kẻ có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’ Mk1,22.
Kinh sư thường dùng truyền thống làm bảo chứng cho việc giảng dạy. Phong tục và truyền thống nào trở thành gánh nặng cho dân đều được Đức Kitô sửa đổi cho hợp với tình yêu Chúa. Đức Kitô dùng chính uy quyền của Ngài để thay đổi, giảng dậy. Giáo huấn của Ngài cởi trói cho dân chúng, làm cho cuộc sống dễ thở hơn, thanh thản hơn. Có lần Ngài đặt thẳng vấn đề với các kinh sư.
‘Ngày Sabbath được làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?’ Mk 3,4.
Theo Đức Kitô thì phong tục, tập quán, luật lệ là cho con người, chứ không phải con người làm nô lệ cho phong tục, tập quán
‘Con Người làm chủ ngày Sabbath Mk 2,28.
Đức Kitô giảng dậy như Đấng có uy quyền. Uy quyền của Ngài đến từ Thiên Chúa bởi chính Ngài là Con Thiên Chúa. Nhớ lại ngày Đức Kitô chịu phép rửa, vừa bước lên bờ, Thánh Thần Chúa, dưới hình chim bồ câu, ngự xuống trên Ngài. Trên trời cao có tiếng phán bảo
‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người’ Mk 1,10.
Như thế uy quyền của Đức Kitô đến từ nơi Ngài, không phải do truyền thống. Uy quyền của Đức Kitô được thánh Gioan Tẩy Giả nhắc đến là uy quyền từ trời cao ban xuống Mk 1,8. Với Uy quyền đó, Đức Kitô loan báo cho toàn dân là Nước Thiên Chúa đến gần anh em; thực ra nước đó đang ở giữa anh em. Bởi nơi đâu Thiên Chúa hiện diện, nước Thiên Chúa hiển trị nơi đó.
Phúc âm thánh Marcô không nhắc đến điều Đức Kitô rao giảng với dân chúng. Từ những điều người ta ca tụng Ngài, chúng ta có thể đoán biết Người dậy dân chúng những điều liên quan đến cuộc sống của họ, những âu lo họ đang mắc phải, những lo lắng họ ngày đêm lo sợ, và những trông đợi họ đang mong chờ. Một nguồn tài liệu khác cũng giúp ta nhận biết điều Đức Kitô rao giảng. Từ môi miệng những kẻ chống đối Đức Kitô, chúng ta cũng đoán biết Đức Kitô rao giảng những gì? Đức Kitô đón chào những kẻ thu thuế và người tội lỗi. Ngài cho họ biết họ cũng là con cái Thiên Chúa. Đức Kitô giải thoát những sợ hãi nơi dân chúng. Ngài chữa bệnh cho kể đau yếu, bệnh tật. Nhiều lần Ngài ngăn cấm không cho ma quỉ lên tiếng nói về nguồn gốc, xuất xứ, Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Bởi là Đấng Thánh nên Ngài không đối thoại với loài tồi tệ, xấu xa, chuyên gây tội. Ngài ra lệnh cho chúng ‘câm miệng’ và chúng phục tùng Ngài. Như thế Ngài có quyền trên ma quỉ.
Giáo Huấn của Đức Kitô và uy quyền Ngài gắn liền, luôn đi chung với nhau. Có lần Ngài nói với kẻ chống đối Ngài là Ngài có quyền tha tội.
‘Để các ông biết, Con Người có quyền tha tội. Đức Kitô bảo người bại liệt: Ta truyền cho con, hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà. Người bại liệt liền đứng dậy, vãc chõng đi về nhà’ Mk 2,11-12.
Dân chúng thích nghe Ngài giảng dậy bởi giáo huấn Ngài mới mẻ. Ngài nói với họ về tình yêu Chúa, lòng Chúa xót thương bao la, quảng đại hơn là án phạt của Thiên Chúa. Nghe Đức Kitô rao giảng, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa đang ở giữa họ và Thiên Chúa là Thiên Chúa của họ. Thiên Chúa chia xẻ những lo âu, lo lắng, sầu khổ của dân Ngài, và Thiên Chúa cùng đồng hành với dân Ngài trong mọi tình huống của cuộc sống. Nghe Đức Kitô rao giảng, dân chúng cảm thấy Nước Thiên Chúa là cho họ, và cho những ai thành tâm đón nhận lời Chúa, và chân thành phục vụ tha nhân vì Danh thiên Chúa.

Về mục lục

NHÂN CHỨNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Thiên Chúa đã chọn Môisê để dẫn dắt dân Chúa ra khỏi Ai-cập. Chúa trao phó cho Môisê quyền giảng dạy và quản trị. Chúa phán: Ta sẽ đặt vào miệng ngươi những lời của Ta, ngươi sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta đã truyền cho ngươi. Môisê được diện kiến Thiên Chúa trong bụi gai cháy mà không bị tàn lụi. Chúa ban cho ông chiếc gậy chăn chiên để làm các sự lạ, biến rẽ biển đỏ và đập đá tuôn trào dòng nước cho dân. Chúa trao cho Môisê quyền hướng dẫn, giảng dạy và thánh hóa. Với sự hiểu biết và sức lực có hạn, Môisê hoàn toàn cậy nhờ vào ơn Chúa giúp. Ông đã thỉnh cầu Thiên Chúa và tuân hành theo ý muốn của Chúa trong mọi hoàn cảnh. Suốt 40 năm Dân Do-thái lưu lạc trong hoang địa, Môisê đã đồng hành với Dân qua mọi thách thức khó khăn và nguy hiểm.
Ngày xưa, Thiên Chúa truyền dạy chúng ta qua các tổ phụ, cha ông và các người đại diện, nay Thiên Chúa sai chính Con Một đến để mạc khải cho chúng ta về chân lý Nước Trời: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài (Dt 1,1-2). Khi nghe Chúa Giêsu rao giảng, người ta đã kinh ngạc về giáo lý của Người vì Người dạy như Đấng có uy quyền. Qua Ngôi Lời, Thiên Chúa đã tác tạo mọi loài. Lời của Chúa có thể sáng tạo và biến đổi từ thể xác đến tâm hồn. Lời Chúa là lời quyền năng linh thiêng. Tất cả Lời Chúa đều là lời hằng sống, ban sinh lực và giáng phúc. Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thực hiện những phép lạ kèm theo. Các phép lạ là dấu chỉ để mọi người nhận biết Chúa là Đấng Thiên Sai.
Khi sai các Tông đồ rao giảng, Chúa Giêsu cũng ban quyền chữa lành cho các ngài. Với danh Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết, các tông đồ đã nhiệt tình đem Tin Mừng đến muôn dân qua việc làm chứng, giảng dạy và làm phép lạ. Thánh Phaolô cũng được ơn chữa lành: Có ông thân sinh ông Púpliô đang liệt giường vì bị sốt và kiết lỵ. Ông Phaolô vào thăm, cầu nguyện, đặt tay trên ông và chữa khỏi (Cv 28,8). Thánh Philipphê thực hiện các dấu lạ: Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philipphê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm (Cv 8,6).
Trong thư gởi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô khuyên răn mọi người hãy sống đẹp lòng Chúa qua những ơn gọi riêng. Vì lợi ích của anh chị em, chớ không phải gài bẫy anh em. Mọi ơn lành Chúa ban đều phải sinh hoa trái trong đời sống đạo. Dọc lịch sử Giáo Hội, bàn tay quan phòng của Chúa luôn hiện diện với con cái loài người. Chúng ta nhìn qua một chút những hồng ân từ trời ban xuống cho nhân loại qua các chứng nhân.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được trao ban cho Ngài. Chúa Giêsu thực hiện tất cả mọi thứ phép lạ qua chính lời nói, ý muốn và quyền năng của Ngài. Chúa có mọi uy quyền sáng tạo, tái tạo và biến đổi trong lời nói và việc làm. Chúa cũng đã ban cho một số vị được những ơn ấy là để giúp củng cố lòng tin của các tín hữu mọi nơi và mọi thời. Các ngài là những vị sống đời chiêm niệm và thần bí kết hợp mật thiết với Chúa và làm sự lạ để sáng danh Chúa.
Các vị thánh không làm phép lạ để khoe khoang, quảng cáo hay đề cao chính mình nhưng các ngài sống trong khiêm nhượng và phó thác. Hữu xạ tự nhiên hương. Thực hiện tất cả các sự lạ là hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban tặng. Hầu hết các vị thánh này có một đời sống khổ hạnh, hy sinh hãm mình và sống chìm ngập trong ân sủng của Chúa. Ngay từ sinh thời, các Ngài đã là mẫu mực gương sáng cho mọi người. Sau khi mãn phần, Giáo Hội đã tôn phong nhân đức của các Ngài để mọi người tôn vinh danh Chúa và cầu khẩn. Sự chân thật và thánh thiện đi vào cuộc sống đời đời.
Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô là đầu và cùng đích. Chúa luôn đồng hành với Giáo Hội qua mọi biến cố thăng trầm. Như Dân xưa đi trong sa mạc, họ đã chịu trăm nghìn thử thách và khổ đau để được thanh luyện. Họ đã trở thành Dân Riêng được Chúa yêu thương và đã chiếm hữu được miền Đất Hứa. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta cũng đang đối diện với muôn vàn chông gai thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Chúng ta hãy trung thành và kiên trì phấn đấu tới giây phút cuối. Triều thiên vinh thắng đang chờ mỗi người chúng ta nơi cuối cuộc hành trình.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin để chúng con ra đi làm nhân chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.

Về mục lục

 

NHIỆM VỤ NGÔN SỨ

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Theo nguyên ngữ, “ngôn” là “lời” và “sứ” là “được sai đi”. Vậy, “ngôn sứ” là người “được sai đi để nói lời” của Chúa. Trong Cựu ước, có những vị ngôn sứ có ảnh hưởng rất lớn trong triều đình nhà vua, hoặc trong đời sống xã hội cũng như tôn giáo của người Do Thái, như Giêrêmia, Isaia hay Egiêkien. Có những vị ngôn sứ “chuyên nghiệp” và cũng có những vị ngôn sứ “nhất thời”. Dù thuộc loại nào, các ngôn sứ đều là những người được sai đi để nói lời của Chúa.
 
Nhiệm vụ chính yếu của các ngôn sứ là chuyển tải sứ điệp Chúa trao phó. Những sứ điệp này, có thể là lời cảnh báo, đe dọa, khiển trách, nhưng cũng là những lời khen ngợi hay an ủi, khích lệ động viên. Ngôn sứ là một nhiệm vụ khó khăn, vì nhiều khi phải tuyên bố những điều đi ngược lại với suy nghĩ của người đương thời. Có những khi vị ngôn sứ bị mua chuộc và “hối lộ” để nói khác đi điều Thiên Chúa sai nói. Cũng có trường hợp bị hành hạ, thậm chí đe dọa giết chết, như trường hợp ngôn sứ Giêrêmia. Dù trong hoàn cảnh nào, ngôn sứ cũng phải trung thành với sứ mạng, nếu không, ông sẽ bị chính Chúa trừng phạt (x. Bài đọc I).
 
Đức Giêsu là vị ngôn sứ vĩ đại nhất. Những lời trăng trối của ông Môisen đã tiên báo về vị ngôn sứ này. “Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người” (Bài đọc I). “Vị ngôn sứ như ngươi” mà Chúa nói qua ông Môisen ở đây chính là Đức Giêsu Kitô. Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Mesia được Chúa Cha sai đến trần gian để truyền đạt thánh ý của Ngài. Người đến trần gian để xua tan bóng tối, tiêu diệt và đẩy lui quyền lực của Satan. Thánh Máccô kể với chúng ta về trường hợp Chúa Giêsu trừ quỷ ngay trong Hội đường của người Do Thái. Thần ô uế đã tuyên xưng: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Bằng một mệnh lệnh, Chúa Giêsu đã bắt nó phải buông tha người bị nó ám. Chắc hẳn lời tuyên xưng của thần ô uế đã làm cho nhiều người tin vào Chúa Giêsu, nhận ra Người là Đấng đến trần gian để xua đuổi thế lực của tối tăm, xây dựng một vương quốc thánh thiện nhằm thánh hóa con người. Trước uy quyền và sự khôn ngoan thông thái của Người, những người có mặt hôm đó tại hội đường, từ tâm trạng sững sờ đến trầm trồ thán phục: “Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh”.
 
Chúa Giêsu cũng có sứ mạng canh tân phụng tự để hướng con người về sự tôn thờ đích thực. Với chi tiết Người trừ thần ô uế trong Hội đường, tác giả muốn nói với chúng ta, ngay trong những không gian thánh thiêng và dành riêng cho việc phụng thờ, vẫn có thể có những thế lực xấu xa, lôi kéo con người đi ngược lại với giới luật của Chúa. Chúa Giêsu cũng dạy: “Không phải những ai nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa! đều được vào Thiên đàng, nhưng là những ai thực hiện ý của Cha tôi”. Sự hiện diện của Thiên Chúa không bị giới hạn bởi đền thờ hay hội đường, tình yêu thương của Chúa không phân biệt sắc tộc hay ngôn ngữ, nhưng ở đâu có tình yêu thương thì ở đó có Đức Chúa Trời. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, lời ca tụng tôn vinh Chúa phải xuất phát từ tấm lòng chân thành và phải đi đôi với thiện chí để nên trọn lành.
 
Tại sao ngày nay không còn những vị ngôn sứ như ngày xưa? Bởi lẽ đã có Đức Giêsu là vị ngôn sứ vĩ đại. Tác giả thư Do Thái đã khẳng định: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Con của Ngài” (Dt 1,1). Giáo huấn của Người  được các tác giả Tin Mừng ghi lại mang nội dung đầy đủ, tóm lược giáo huấn của các ngôn sứ thời Cựu ước và còn hoàn chính hơn. Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha đã diễn tả đầy đủ những gì Ngài cần nói với con người. Đức Giêsu cũng là Lời của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa Cha không cần trung gian nào nữa để chuyển tải sứ điệp của Ngài.
 
Tại sao ngày nay không còn những vị ngôn sứ như ngày xưa?  Bởi nhờ phép Thánh tẩy, mỗi Kitô hữu đều là ngôn sứ. Bí tích Thánh tẩy làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Những ai mang danh Kitô hữu được chia sẻ quyền năng của Người. Quyền năng ấy do Chúa Thánh Thần thông ban. Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa và là Đấng soi sáng phù trợ các tín hữu. Loan báo Đức Giêsu là sứ mạng và vinh dự của mỗi Kitô hữu.
 
Tuy vậy, trước khi nói đến loan truyền Tin Mừng cho người khác, mỗi chúng ta phải cố gắng thanh tẩy chính mình. Trong con người của chúng ta, đang hiện hữu vừa ánh sáng vừa bóng tối, vừa hình ảnh của Thiên Chúa nhưng cũng vừa hình ảnh của Satan. Chính vì thế mà chúng ta phải thanh tẩy bản thân mỗi ngày. Ơn gọi nên thánh không phải là những điều quá sức con người, mà đó là những điều rất bình dị trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã cụ thể hóa đời sống Kitô hữu bằng cách khuyên mỗi người trong gia đình và trong cộng đoàn hãy chuyên tâm thực thi bổn phận của mình đối với Chúa và đối với tha nhân. Người lập gia đình thì chăm lo việc gia đình. Người tu hành thì chăm lo việc Chúa. Những công việc đời thường, nếu được chu toàn với thiện ý và với tâm tình Đức tin, thì cũng góp phần làm cho chúng ta nên hoàn thiện (Bài đọc II).
 
Là Kitô hữu, chúng ta là hiện thân của Đức Kitô giữa trần gian, nhờ đó, được chia sẻ chức vụ ngôn sứ của Người. Xin cho chúng ta biết thực thi sứ vụ quan trọng này, trong đời sống cụ thể, để thánh hóa bản thân và giúp nhiều người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời.

Về mục lục

.

MA QUỶ THỜI ĐẠI MỚI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt 

Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm. 

Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy. 

Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây. 

Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn heo lăn xuống biển chết hết. 

Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”. 

Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn. 

Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng. 

Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới. 

Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng. 

Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy. 

Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội. 

Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người. 

Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ. 

Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng. 

Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.

Về mục lục

.

TIN MỪNG VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có hai vợ chồng kia đã nhiều lần nghi ngờ xét đoán nhau.

Lần này đang lúc tranh cãi hăng say, người chồng bèn đề nghị:

“Này chúng ta đừng cãi nhau nữa, mỗi người hãy lấy giấy bút ra, rồi viết tất cả những lỗi lầm tật xấu của nhau, rồi trao cho nhau”

Người vợ đồng ý liền, người chồng cầm tờ giấy, nhìn vợ rồi cúi xuống viết.

Người vợ thấy chồng viết, cũng hối hả viết và kể lể hết mọi sự xấu xa của chồng, người vợ viết xong xem ra hả dạ.

Sau đó họ trao bản kết tội cho nhau.

Khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt vợ bổng đổi sắc vì xúc động, chị vội vã đòi lại tờ giấy đã đưa cho chồng, và có thái độ làm hòa.

Trong tờ giấy, người chồng chỉ viết một câu duy nhất: “Em à, Anh yêu em, đừng giận anh nữa!”

Có lẽ ai trong chúng ta cũng hiểu sức mạnh của lòng thương xót. Lòng thương xót chữa lành. Lòng thương xót mang lại bình an hạnh phúc. Lòng thương xót gìn giữ ngọn lửa tình yêu cho các gia đình.

Gia đình nếu không có lòng thương xót sẽ gây gỗ, bất hòa, nghi kỵ, hiểu lầm nhau. Gia đình không có lòng thương xót là một hỏa ngục tại thế. Vì sống bên nhau nhưng không hiểu nhau, không đối thoại được với nhau sẽ làm cho đời sống chung ngột ngạt và đau khổ.

Tin mừng Chúa Giê-su loan báo là tin mừng về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho con người. Lòng thương xót của Chúa đã đích thân đi tìm con người. Lòng thương xót ấy chữa lành, xoa dịu nỗi đau cho con người. Lòng thương xót đẩy lùi sự dữ và mang lại bình an cho nhân thế.

Nhìn vào những việc làm của Chúa Giê-su người Do Thái cũng thấy nơi người toát lên lòng thương xót. Lòng thường xót chính là một giáo lý mới mẻ và đầy uy quyền mà người Do Thái ngỡ ngàng cảm phục. Chúa Giê-su không nói về sự công thẩm của Thiên Chúa mà trọng tâm rao giảng của Chúa là về tình thương của Ngài.  Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mô tả không phải là vị thẩm phán, nhưng là người cha giầu tình thương. Một Thiên Chúa không phân biệt giữa dân tộc này hoặc dân tộc nọ. Một Thiên Chúa không quan tâm đến của lễ toàn thiêu cho bằng con người thương yêu đùm bọc nhau. Một Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta trong quan hệ cha-con, chứ không phải là vua-tôi. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng là một Đấng trung tín, từ bi và nhân hậu. Ngài chậm giận và chan chứa tình thương. Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả, sẵn sàng đón nhận tất cả.

Năm nay với chủ đề “gia đình hãy là dấu chỉ Lòng thương xót” cụ thể là đồng hành cùng gia đình trẻ như là tiếng mời gọi các gia đình hãy tham gia vào sứ mạng của Hội thánh, rao truyền một nền văn minh tình thương và sự sống. Bằng tình thương chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi nền văn hoá bạo lực và chết chóc đang lan tràn chung quanh chúng ta. Vợ chồng hãy đối xử từ bi nhân ái với nhau. Cha mẹ hãy sống bao dung với con cái. Người trong xứ đạo hãy sống hòa hợp với nhau. Đây chính là sức mạnh của lòng thương xót mà người Do Thái đã nhìn ra nơi Chúa Giê-su như Đấng có đầy uy quyền. Bởi vì, uy quyền của Ngài đến từ lòng yêu thương, tinh thần phục vụ khiến mọi con tim thán phục, cảm mến.

Ước mong bóng tối sẽ bị đẩy lùi khi mỗi người tín hữu hãy thắp sáng lên tình yêu của Lòng thương xót ngay từ mái ấm gia đình mình. Xin cho các người cha người mẹ đừng lấy quyền mà áp đặt con cái nhưng biết thể hiện uy quyền của mình qua tình thương quan tâm dành cho con cái. Xin cho các đôi vợ chồng không đối xử hơn thua nhau nhưng bằng tình thương phục vụ mà khiêm tốn phục vụ lẫn nhau. Xin cho các đôi vợ chồng biết sống lòng thương xót để mái gia đình ngập tràn niềm vui và hạnh phúc. Amen

Về mục lục

.

NHƯ ĐẤNG UY QUYỀN

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Thông thường, uy quyền theo nghĩa hiểu của trần thế là người có uy lực trong lời nói hay việc làm nhờ vào sức mạnh từ tài chánh hoặc sức mạnh của kẻ trên. Đấng có uy quyền chỉ về Chúa Giêsu thì khác, uy quyền của Người trên sự dữ, những tên ma quỷ quấy rối, là người chữa lành cac thương tích của con người. Có uy quyền trong lời nói vì lời ấy là Lời chân lý và Lời hằng sống.

Chia sẻ đề tài này theo hai hướng: Uy quyền nhờ vào quyền lực và uy quyền toàn diện của Chúa.

Uy Quyền dựa vào quyền lực:

Người ta thường dạy về ba thứ quyền lực, cứng, mềm và thông minh. Ba quyền lực này nếu biết sử dụng cùng nhau và nhuần nhuyễn, họ là những nhà lãnh đạo đại tài. 

Đó là nghệ thuật lãnh đạo. Một nghệ thuật không phục vụ cho phẩm gía con người và thăng tiến toàn diện con người thì quyền lực ấy cũng vô ích.

Không thể chế hay tổ chức nào mà không có quyền lực. Quyền lực có thể làm cho người nắm giữ quyền lực trở nên xấu xa hay được ca tụng tùy theo cách họ dùng quyền lực.

Quyền lực thường được hiểu cần có thế lực về chính trị, kinh tế, quân sự… Những thế lực càng lớn, càng mạnh, thì quyền càng cao. Do hiểu quyền như thế, nên nhiều người hay tổ chức thường chạy theo gia tăng thế lực và gây nên nhiều bất ổn.

Quyền do Thiên Chúa ban.

Quyền cơ bản của mỗi con người là quyền được sống. Trên nguyên tắc cơ bản mỗi người cần tôn trọng quyền sống và phẩm giá của người khác. Chính vì vậy, Chúa mời gọi mọi người tôn trọng và làm cho con người được sống xứng đáng hơn mỗi ngày.

Quyền cá nhân, là một quyền xây dựng trên sống và phẩm giá con người. Mỗi người tự huấn luyện mình và nâng cao học hỏi để trở nên người được tôn trọng trong chức vị và phận vụ. Dù quyền cao, chức trọng hay là một người dân bình thường, đều được mời gọi giữ gìn và gia tăng phẩm cách. Sống với mọi người và sống với chính mình trong công bằng, bác ái, trách nhiệm và yêu thương.

Quyền được giao phó trên người khác, đó là quyền để phục vụ như Chúa dạy: “ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 26).

Những người gặp gỡ Chúa có lý khi nhận định: “”Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh! ” (Mc , 27).

Uy quyền của Chúa khác với mọi quyền uy khác, chính Chúa thực thi uy quyền giải thoát con người khỏi sự dữ, tội lỗi và sự chết. Đó là uy quyền tối thượng, không ai trên trần gian này có thể có. Quyền thống trị sự dữ, buộc sự dữ không làm phương hại đến những người kêu cầu Người cứu giúp. Quyền thống trị trên tội lỗi, khiến những ai sám hối, xin ơn tha tội đều được xót thương và tha thứ. Quyền trên sự chết nên những ai tin vào Người thì được sống.

Các Tông Đồ được mời gọi tham gia vào uy quyền của Chúa, uy quyền đó nhằm phục vụ cộng đoàn. Các ngài đã hiến dâng đời mình bằng hy sinh, bằng máu đổ để gầy dựng một cộng đoàn trong đức tin và đức mến, chúng ta cũng được thừa hưởng đức tin sống đông của các ngài.

Phần mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi tham dự vào vương quyền Chúa Kitô trong phép rửa. Sứ vụ đón nhận: Tư Tế, ngôn sứ và Vương đế. Đó là ba sứ vụ chính yếu để thực hiện đời sống mình trong phục vụ và yêu thương.

Xin Chúa giúp chúng con thi hành theo Thánh ý Chúa trong vương quyền của Chúa. Vương quyền yêu thương và phục vụ Chúa trong mọi người.

Về mục lục

.

LỜI QUYỀN NĂNG CỨU ĐỘ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hoán cải và tin theo Chúa Giêsu vì Nước Trời gần đến là lời mời gọi của Đấng Thiên sai (x. Mc 1, 14-20). Sứ vụ Thiên sai ấy được tiếp tục thi hành với Lời Quyền Năng Cứu Độ, Lời có sức chữa lành những người bị quỉ ám, khiến cho những người mù được sáng, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng ; mọi người đều …thán phục; các thần ô uế phải vâng lệnh Người (x. Mc 1, 21-28).

Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).

Hơn cả luật sĩ

Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người ngồi đấy đều đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Người giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh Thánh. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, là Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Lời của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật (Mc 1, 22). Câu hỏi được đặt ra : Vậy có điều gì mới chăng ? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế : “Chúng vâng lệnh Người “(x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định : “Người là Chân Lý “.

Hơn một Tiên tri

Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môisen được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói : “Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết ” (Đnl 18, 16).

Và đây là những điều Môisen được biết và công bố. Chúa phán : “Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi ” (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết : “chính Ta, Ta sẽ tính số với nó”(Đnl 18, 19)Từ chối Môisen hay một tiên tri là từ chối chính Chúa.

Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.

Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môisen: ” Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền ” (Mc 1,22), Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 24).

Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế

Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.

Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo : “Hãy im đi!” (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta …

Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là ” Đấng thánh của Thiên Chúa ” (Mc 1, 24).

Đấng Thánh của Thiên Chúa 

Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: “Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?” (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, “Điều này có nghĩa là gì? ” (Mc 1, 27).

Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và “bí mật” của Người hé mở : Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng ? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa !(Mc 1, 24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó : “Im đi ! ” (Mc 1, 25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.

Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại ?

Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ” (Kinh Lạy Cha). Amen.

Về mục lục

.

VƯƠNG QUỐC CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  

Chúa Giêsu thiết lập Vương Quốc của Ngài trên trái đất này.Nhưng Vương Quốc của Ngài lại là Vương Quốc Tình Yêu chứ không phải một thế lực quyền uy như con người suy nghĩ, ước muốn. Chúa trao Vương Quốc này cho nhân loại, cho mỗi người Kitô thực hiện.

Tin Mừng của thánh Máccô hôm nay trình bầy về giáo huấn của Chúa Giêsu và  việc Ngài chiến thắng thần dữ. Vâng, thánh Máccô cho hay Chúa Giêsu vào trong Hội Đường Do Thái, Ngài giảng dạy và mọi người đều sửng sốt, kinh ngạc về những lời Ngài giảng dạy, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền chứ không nói rỗng tuếch,đầu môi chóp lưỡi như các Biêt phái, Luật sĩ vv…Chúa Giêsu nhân dịp này, đã xua trừ ma quỷ, đã chữa lành cho một người bị thần ô uế quấy phá, ràng buộc.Ngài đã chiến thắng thần dữ.Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Ngài biểu lộ uy quyền qua việc làm, đời sống và lời giáo huấn, Ngài chạm đến từng nỗi đau của con người, Ngài cảm thông với mọi hoàn cảnh của từng người, đặc biệt Ngài chữa lành, xua trừ ma quỷ. Ngài đến với mọi lớp người, tiếp xúc với những kẻ nhỏ bé, những người thu thuế, những kẻ tội lỗi.Ngài xoa dịu cơn đói khát của những người đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dạy. Ngài thiết lập Vương Quốc Yêu Thương ngay giữa mọi người, ngay giữa thế gian này. Cung cách, thái độ của Ngài, gương sáng của Ngài hoàn toàn nổi bật và khác biệt với những Kinh sư, Biết phái…Những người này chỉ nói mà không làm, chỉ ra luật mà không thực hiện.Chính vì thế, họ chất gánh nặng trên vai những người khác, họ sống giả hình và đầy mâu thuẫn với lời của họ giảng dạy :” Ngôn hành của họ bất nhất “. Chúa Giêsu, Vị Vua nhân từ đến cứu độ nhân loại, giải thoát con người khỏi tội lỗi bằng tình yêu và lòng thương xót của Ngài…Chúa không đến như một Vị Vua trần gian, đầy uy quyền trần thế như nhiều người mong chờ.

Phép lạ Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ ra khỏi một người bị thần ô uế nhập trong Hội Đường chứng tỏ quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được điều đó, các Kinh sư, Biệt phái chỉ nhìn người bị quỷ ám mà run sợ, họ không thể xua trừ thần ô uế, họ bất lực và hoàn toàn bị tê liệt, bị bó tay trước sức mạnh của thần dữ…Lời của Chúa là Lời cứu rỗi, Lời có sức mạnh đem lại sự bình an và xua trừ ma quỷ. Còn lời của các Kinh sư chỉ là lời của phàm nhân, lời bất lực, lời không có uy quyền vv…

Chúa trao Nước Thiên Chúa, Nước Tình Yêu cho nhân loại, cho chúng ta để chúng ta và mọi người hoàn tất nó. Nhiệm vụ của chúng ta là phải hoàn thành trách nhiệm xây dựng Nước Yêu Thương ngay giữa thế giới, ngay giữa chúng ta, ngay giữa xã hội, tập thể, cộng đồng chúng ta đang sống…Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa, Nước Yêu Thương bị trì trệ ở thế gian này là do chúng ta chưa biết yêu thương, chưa biết nhận ra tha nhân là Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng đồng hóa mình với người đói, người khát, người rách rưới, nghèo hèn, rách rưới, tù tội vv…Nhận ra Chúa nơi những người khác, nơi tha nhân để yêu thương họ và nhận ra họ là tạo vật xinh đẹp được Chúa dựng nên, đáng được yêu thương như chính chúng ta đã được Chúa yêu thương, tha thứ, chúc lành. Là chúng ta đang hoàn thành Nước Tình Yêu giữa trần thế gian.

 Chúa mời gọi chúng ta hãy biết dùng lời nói yêu thương, dùng những việc làm bác ái của chúng ta để xoa dịu những nỗi khổ đau của tha nhân vì chính tha nhân đã được Chúa dựng nên như chúng ta và cũng đang cần được chúng ta yêu thương như chúng ta đã được Chúa yêu thương.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim rộng mở, một

tấm lòng quảng đại để chúng con luôn biết yêu thương mọi người và trở nên chứng nhân cho Nước Yêu Thương của Chúa.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

  1. Chúa chiến thắng thần dữ bằng cách nào ?
  2. Tại sao Kinh sư và Biệt phái rao giảng, người khác không nghe, không phục ?
  3. Hội Đường là gì ?
  4. Chúa Giêsu muốn ai thực hiện Vương Quốc Tình Yêu của Chúa?
  5. Tại sao lại gọi là thần dữ ?

Về mục lục

.

QUYỀN NĂNG CHÚA

Anna Cỏ May

Trong các buổi thuyết trình hay một chuyên đề nào đó, có lẽ mọi người sẽ có những ấn tượng điều gì hay một ai đó về lời họ nói. Những ấn tưởng ấy có thể để lại cho chúng ta kinh nghiệm trong cuộc sống và bài học nào đó sau buổi thuyết trình.

Ngày xưa, với thành Caphacnaum, dân chúng rất bất ngờ và sững sốt về lời giảng của Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Thánh Máccô, thành Caphacnaum là nơi đầu tiên người đến giảng dạy. Lời giảng của Ngài đầy thuyết phục và xác tín. Ngài giảng dạy như Đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư. Được biết, thuở xưa các kinh sư giảng dạy theo khẩu truyền, không sách vở. Họ nói những gì trong trí nhớ của họ được học, được biết. Còn Chúa Giêsu giảng dạy những lời giải thích hoàn toàn khác, rõ ràng và mới mẻ. Những lời Ngài nói ra là chân lý, đúng sự thật và đi thẳng vào những vấn đề luân lý cùng đạo đức thâm sâu không dựa trên uy quyền của ai mà chính Ngài. Ngài chỉ giảng dạy chứ chưa có ý định làm gì với ma quỷ. Thế nhưng, trong số người nghe, có kẻ bị thần ô uế nhập, la lên trách móc Chúa Giêsu. (x. Mc 1,21-29). Chúng ta thường nói “có tật giật mình”. Có thế, thần ô uế mới la lên. Nó sợ Chúa đến tiêu diệt nó hay để làm chia trí những lời giảng dạy của Ngài, cũng có thể để chế diễu uy quyền Ngài. Thật sự về những điều này thì Tin Mừng không viết rõ. Nhưng điều để chúng ta phải quan tâm và biết đến là ma quỷ rất sợ uy quyền Chúa, sợ ánh sáng chân lý và sự thật. Đồng thời cho chúng ta tin rằng Chúa chỉ phán một lời là mọi sự được tốt đẹp. Ngài đã quát mắng thần ô uế rằng: “Câm đi, hãy xuất khỏi người ngày!”  (Mc 1, 25). Nó liền lay mạnh người bị nạn rồi thét lên một tiếng sau đó mới chịu xuất ra. Phần dân chúng vừa được nghe những lời dạy mới mẻ vừa được chứng kiến những phép lạ nên không khỏi kinh ngạc và bàn tán với nhau. Danh Ngài lan rộng khắp miền Galilê. Có lẽ, chúng ta không đủ tự tin để nói về Chúa. Quả thực những lời chúng ta nói về Chúa đủ thuyết phục và thu hút cũng bởi bởi nhờ Thần Khí nói trong chúng ta. Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ và hằng hướng dẫn chúng ta trên đường rao giảng. Ngài sẽ hoạt động và đổ tràn ơn xuống trên mỗi người. Chúng ta đã biết hành trình rao giảng của Chúa Giêsu luôn gặp những khó khăn, gian khổ thì hành trình của chúng ta sẽ không tránh khỏi những gian khó như Thầy. Chúng ta phải chịu đựng những lời chất vấn và gây khó chịu nơi người đời. Điều quan trọng là chúng ta phải có một đức tin vững mạnh, một ý chí, sự can đảm để vượt qua mọi gian nan trên hành trình theo Chúa.

Cậu bé vừa đi lễ về đã được mẹ giao việc. Bà mẹ vội vã:

 – Con ơi, mau đi mua đồ ăn sáng cho bố.

– Không phải lo đâu mẹ.

– Không lo cái gì. Con lúc nào cũng chậm chạp. Mau đi mua bánh cho bố kẻo trễ.

– Mẹ yên tâm. Một lời Chúa phán liền có mọi sự.

Nói rồi cậu bé liền đi ra cổng.

Lạy Chúa! Giữa dòng đời lắt lẻo, những lời nói của chúng con không đủ thuyết phục để mọi người nhận ra Chúa. Bên cạnh đó, chúng con cũng gặp bao chông gai. Chúng con nguyện xin Chúa tuôn đổ Thần Khí trên chúng con để chúng con vượt qua bao gian nan thử thách để làm chứng cho Chúa. Amen.

Về mục lục

.

QUYỀN NĂNG VÀ TÌNH THƯƠNG

Bông Hồng Nhỏ

Thiên Chúa không bao giờ khép kín từ tâm. Tình thương của Thiên Chúa thật vô biên và các môn đệ đã được cuốn vào tình thương vô biên đó, được mời gọi vượt qua sự mệt mỏi và mọi thứ cản trở để phục vụ, để cho đi, để chia sẻ tình thương. Hôm nay, theo chân thầy Giêsu vào Hội đường, ta được chứng kiến quyền năng và tình thương của Thầy khi Thầy giảng dạy và chữa lành người bị quỷ ám.

Ta hình dung Thầy Giêsu bước vào Hội đường để giảng dạy trong bộ trang phục rất đơn sơ của một anh thợ mộc. Thầy không mặc chiếc áo có tua thật dài, không đeo hộp kinh thật lớn như các kinh sư nhưng lời Thầy giảng dạy thì thật cuốn hút và đầy quyền năng. Nghe Thầy giảng dạy và dùng uy quyền mà trừ quỷ, dân chúng phải sững sờ kinh ngạc và bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh.” (Mc 1, 27). Thầy chính là Ngôi Hai Thiên Chúa do đó giáo lý mà Thầy giảng dạy là mạc khải trọn vẹn nhất. Giáo lý mà các kinh sư giảng dạy là mạc khải mà ông Môsê và các ngôn sứ lãnh nhận từ Thiên Chúa. Qua bao thời và bao thế hệ, giáo lý ấy được các ông giữ cẩn thận và tỉ mỉ nhưng lại hạn hẹp bởi cái nhìn và lối sống của phàm nhân. Thầy Giêsu đã từng trách mắng các kinh sư là “đạo đức giả” là “mồ mả tô vôi” vì các ông không sống theo những gì mình giảng dạy.  (x. Mt 23, 27-32). Khi Thầy cảm thương và chữa lành cho một anh bại tay trong ngày sabat thì các kinh sư và thượng tế phẫn nộ. Trước thái độ chai cứng của họ, Thầy Giêsu đã giận dữ và buồn bực bao nhiêu. (x. Mc 3, 1-6). Trước quyền năng của Thiên Chúa, ta được mời gọi vững tin để can đảm dơ tay ra cho Thầy chữa lành. Nếu như ngày ấy, anh bại tay không đưa tay ra, cứ nghĩ mình không thể thì chắc hẳn anh đã chẳng được lành. ( x. Mc 3, 1-6). Khi ta trở thành bại tay, ta sẽ cảm nhận được thế nào là sự bất lực, thế nào là sự tủi hổ mà anh đang gánh chịu. Đưa tay ra là chấp nhận thử thách, dám liều mình để được quyền năng Chúa chạm tới.

Từ đây, các môn đệ vui mừng vì danh tiếng Thầy đồn ra khắp cả vùng Galilê. Rồi chẳng mấy chốc, các ông cũng được Thầy truyền cho bí kíp để có thể ra đi rao giảng, tiếp nối sứ mạng của Thầy. Ta sẽ thấy những tâm hồn đầy nhiệt huyết theo sát bên Thầy rong ruổi khắp các ngả đường và làng mạc để làm cho yêu thương lan tỏa. Có những ngày miệt mài giúp Thầy chữa lành bệnh nhân, an ủi và khích lệ họ, các ông cũng quên ăn uống. Vậy mà các ông chẳng hề kêu la mà vẫn cùng Thầy tiếp tục nâng đỡ bao người. Rồi khi Chúa Giêsu Phục Sinh về trời, các ông đã mạnh dạn ra đi rao giảng khắp nơi về Đấng đã chịu khổ hình và sống lại từ cõi chết để giải thoát con người khỏi tội lỗi và ban ơn cứu độ. Nói về mình, các ông đã nói về những lầm lỗi mình đã phạm và được Chúa Giêsu tha thứ như thế nào, yêu thương ra sao. Chính các ông là những chứng nhân phục sinh đã sống và chết trong ơn gọi Chúa ban.

Lạy Chúa! Xin cho con hiểu rằng, Chúa luôn yêu thương chính bản thân con. Chúa là Đấng quyền năng luôn ở cùng con. Xin cho con biết khiêm nhường hạ mình xuống để nhận ra quyền năng và tình thương Chúa bày tỏ nơi những người con gặp gỡ mỗi ngày. Amen.

Về mục lục

.

SỨC MẠNH CỦA CHÚA

Đoạn Tin mừng ta vừa nghe, kể lại việc Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng. Mọi người đều thán phục về sức mạnh của Lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh khiến cho ma quỷ phải tâm phục khẩu phục. Anh chị em đã thấy người bị quỷ nhập bao giờ chưa? Tôi đã xem trong các băng đĩa, và thấy kinh hãi lắm. Ma quỷ rất dữ tợn. Có khi chúng hành hạ con người một cách không thương tiếc. Thánh Maccô kể: Hôm đó trong Hội Đường có một người bị quỷ ám. Không ai làm gì được nó, ngay cả các thầy Tư Tế cũng bó tay. Tuy nhiên, chỉ mới thấy bóng dáng của Chúa Giêsu xuất hiện thôi, ma quỷ đã sợ hãi la lên. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng biết rõ Chúa Giêsu là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa, Đấng đến để tiêu diệt chúng. Ma quỷ sợ sự xuất hiện của Chúa Giêsu sẽ làm cho chúng không còn đất sống. Thực vậy! Lời uy quyền của Chúa đã khiến cho ma quỷ sợ hãi. Chúa nói: “Hãy ra khỏi người này”. Nghe tiếng Chúa Giêsu quát, ma quỷ liền lay mạnh người ấy một cái, hét lên một tiếng, rồi xuất ra khỏi người ấy, khiến cho những người chứng kiến phải sửng sốt.

Ngày nay, ma quỷ vẫn là một quyền lực mạnh mẽ trên thế giới. Ma quỷ đang chi phối và lôi kéo rất nhiều người theo chúng. Thậm chí nhiều người còn lập hẳn một đạo để tôn thờ ma quỷ, gọi là đạo thờ Satan. Các tín đồ của đạo Satan quyết tâm phá hại Hội Thánh Chúa, và triệt hạ lòng đạo đức của các Kitô hữu. Hậu quả là tội lỗi lan tràn khắp nơi: ly dị nhiều hơn, phá thai nhiều hơn, ngoại tình nhiều hơn, thanh thiếu niên phạm pháp nhiều hơn. 

Anh chị em đã trông thấy ma quỷ chưa? Có lẽ ta chưa thấy hình thù ma quỷ ra làm sao, nhưng ta chỉ được nghe người này người kia kể lại, hoặc ta chỉ thấy những tấm hình vẽ ma quỉ. Nào là ma quỷ có sừng, có đuôi, mặt mũi nhăn nhở, đen đủi, v.v… Điều đáng sợ là ma quỷ rất khôn khéo. Chúng thường ẩn mặt, ít khi lộ diện, nên nhiều người lầm tưởng là không có ma quỷ. Vì lầm tưởng không có ma quỷ, nên không mấy ai đề phòng chúng. Và khi người ta không đề phòng, thì ma quỷ càng dễ điều khiển con người. Đó là thành công lớn nhất của ma quỷ.

Ta thử nghĩ: Nếu ma quỷ hiện hình xấu xí như các hình vẽ, thì có lẽ ta sẽ dễ nhận ra nó; và nó khó lòng cám dỗ được ta. Nhưng ma quỷ rất ít khi xuất đầu lộ diện. Nó luôn đứng trong bóng tối, và dùng ma lực của chúng để xui khiến người ta phạm tội, giống như ta sử dụng remote để điều khiển màn hình Tivi.

Vậy có cách nào để tiêu diệt ma quỷ không? Liệu ta có thể tưới xăng, đốt ma quỷ được không? Thưa không, vì không có thứ lửa nào có thể đốt cháy được ma quỷ. Ta có thể dùng dao đâm, hay dùng súng bắn cho ma quỷ chết được không? Thưa không, vì ma quỷ không có thể xác. Ta có thể dùng bom nguyên tử để tiêu diệt ma quỷ được không? Cũng không luôn, vì ma quỷ vô hình. Vậy ta phải làm gì để diệt trừ quyền lực của ma quỷ? Thưa, ta chỉ có một phương thế duy nhất để diệt trừ ma quỷ, đó là cậy dựa vào sức mạnh của Chúa. Vì Chúa Giêsu có quyền năng trên ma quỷ; và sứ mạng của Chúa Giêsu khi đến trần gian, là giải thoát con người khỏi mọi sự dữ, trong đó có ma quỷ. 

Ước gì ta luôn cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích, để được tiếp thêm sức mạnh thiêng liêng của Chúa. Đặc biệt mỗi khi bị cám dỗ, hãy sốt sắng nguyện xin với Chúa Giêsu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Nếu ta năng đến với Chúa và cầu xin như thế, thì ma quỷ sẽ không thể làm gì được ta.

Ave Maria.

Về mục lục

.

LỜI CHÚA

Lm. Trần Việt Hùng

Ngôi Lời giáng thế làm người,

Rao truyền chân lý, rạng ngời nhân gian.

Lời Ngài giảng dạy truyền ban,

Cứu nhân độ thế, tỏa lan cõi đời.

Quỉ ma lẩn tránh xa rời,

Tà thần ô uế, biết thời giáng lâm.

Chúa Con quyền phép tự tâm,

Xua trừ ma quỉ, lặng câm thói đời.

Quỉ thần vâng lệnh Chúa Trời,

Tha người trói buộc, cả đời khổ đau.

Uy quyền giải thoát hóa mau,

Một lời Chúa phán, trước sau hiện thành.

Tin mừng tuôn đổ ơn lành,

Hy sinh cứu rỗi, ca danh Chúa Trời.

Hồng ân phúc đức bởi trời,

Nguồn sinh ơn lộc, cho người trần gian.  

Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta. Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa. Lời hằng sống có sức cải đổi tâm hồn và thể xác. Lời Ngài là chân lý và là sức sống cứu độ. Qua Ngôi Lời muôn vật được tạo thành. Mọi người đều kinh ngạc về Lời của Chúa giảng dạy.    

Chúa Giêsu dùng ngôn ngữ của con người để diễn tả mầu nhiệm Nước Trời. Lời của Ngài thật đơn sơ và thâm thúy qua các ẩn dụ, dụ ngôn hay truyện kể. Nó mang sức thánh hóa và biến đổi tâm hồn. Ngài giảng dạy như Đấng có quyền. Ngài không cần lấy lời của người khác làm bằng chứng. Tự Ngài là nhân chứng của sự thật.   

Còn chúng ta thường tìm vinh danh ảo lẫn nhau. Thí dụ: Trong một bài viết hay bài giảng, chúng ta nghĩ rằng chúng ta càng đưa ra được nhiều dẫn chứng từ người khác càng có giá trị. Có khi những dẫn chứng từ những nguồn không chính xác. Đôi khi chúng ta hãnh diện đã trích được lời này hay lời kia từ ngôn ngữ ngoại quốc. Thực vậy, càng có nhiều dẫn chứng, bài viết càng tốt. Nó có những giá trị riêng của nó. Nhưng Lời của Chúa là Lời chân lý và tuyệt đối. Các thứ văn chương đối chiếu, thơ phú, ca dao, ví dụ, kể truyện… chỉ là giúp làm sáng tỏ và áp dụng Lời của Chúa. Nó không thể thay thế.   

Trong bài phúc âm, Chúa đã vào Hội Đường và giảng dạy như Đấng có quyền. Không phải chỉ như Đấng có quyền mà là Đấng có thực quyền. Chúa Giêsu thấu tỏ lòng con người. Ngài biết họ cần gì và muốn gì. Với đầy quyền năng, Ngài xua trừ ma qủy. Ngài phán với ma qủy: “Hãy im đi và xuất ra khỏi hắn”. Ma qủy dữ tợn nhưng phải vâng lời Ngài.    

Chúng ta tôn kính và mến yêu Lời Chúa. Đừng dùng Lời Chúa áp dụng vào chỗ không đâu để làm trò cười cho thiên hạ. Cũng đừng trích dẫn Lời Chúa để biện minh cho những cách thế suy tư mơ hồ hoặc uốn theo sở thích riêng tư. Ma qủy cũng đã dùng cách trích dẫn Lời Chúa để cám dỗ Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chân Lý trong ý ngay lành để thắng ma qủy.   

Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe, yêu mến suy gẫm và áp dụng Lời Chúa trong cuộc sống mỗi ngày. Ước chi Lời Chúa là ánh soi cho con lần bước trong hỏa mù của thế gian.

Về mục lục

.

CHÚA CHỮA NGƯỜI BỊ QUỶ ÁM

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Sau khi thánh Gioan Tẩy Giả bị bắt, Chúa Giêsu trở về Galilê công khai giảng dạy trong Hội đường. Cùng với lời giảng, Chúa thực hiện nhiều phép lạ. Hôm nay, Tin mừng theo thánh Marcô cho biết, phép lạ của Chúa là phép lạ trừ quỷ.

I.  VÌ SAO CHÚA CẤM MA QUỶ TUYÊN XƯNG?

Chúng ta lấy làm lạ: Chúa Giêsu đến trần thế là để mạc khải cho loài người biết Chúa là Con Thiên Chúa. Vậy tại sao khi ma quỷ tuyên xưng: “Tôi biết Ông là ai: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, thì Chúa lại quát: “Hãy câm đi”? Vì sao ma quỷ nói đúng về thân thế của Chúa mà Chúa lại cấm? Có hAi lý do:

Lý do 1:

Đây là thời gian đế quốc Rôma đang chiếm đóng Israel. Sống dưới ách nô lệ của người Rôma, dân chúng khao khát một vị anh hùng dân tộc có thể đứng lên lãnh đạo dân, đấu tranh giành lại độc lập cho quê hương.   

Trong khi đó, Chúa Giêsu vừa bắt đầu rao giảng, dân chúng chưa hiểu Chúa nhiều. Do đó, Chúa chưa muốn mạc khải về mình. Chúa tránh bị dân chúng hiểu lầm “Đấng Thánh của Thiên Chúa” cũng là thủ lãnh làm chánh trị  đảo chánh quân Rôma.

Nếu họ chỉ dừng ở mức độ xem Chúa là vị lãnh đạo như bao nhiêu vị lãnh đạo trần thế, thì việc Chúa đưa họ vào ơn cứu độ, vào tình yêu của Thiên Chúa, sẽ khó khăn.

Lý do 2:

Chúa cấm ma quỷ tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh, vì tự bản chất, ma quỷ là sự dữ, sự xấu, dối trá, đen tối. Nó hoàn toàn đối lập với Đấng Thánh, Đấng là Ánh Sáng, Đấng có quyền trao ban ánh sáng.

Ma quỷ không có tư cách nói về Chúa, không có tư cách tuyên xưng Chúa, càng không có tư cách minh chứng mầu nhiệm Nước Trời. Để rao giảng về Chúa, cần người lành thánh. Ma quỷ không thể là nhân vật đầu tiên nói về Chúa Giêsu trong Tin Mừng. Nó không xứng đáng. Chúng không có sự thật nơi mình. Chúng không có khả năng nói sự thật. Chính Chúa Giêsu từng tuyên bố: “Dối trá là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5, 37).

– Trong bài Tin Mừng, ma quỷ có tên là “thần ô uế”. Nó kiêu ngạo như chính bản chất mà nó vốn có, khi tự cho mình “biết” Chúa Giêsu: “Tôi biết Ông là ai”.

Chỉ có ai thuộc về Thiên Chúa mới “biết” Chúa Giêsu. Thần ô uế không thuộc về Thiên Chúa. Nó nhập vào con người, làm họ bị tha hoá, xa rời Thiên Chúa. Nó phá hoại công trình, chống đối và tách mình khỏi Thiên Chúa. Nó không thể biết Chúa Giêsu, hay không thể biết đầy đủ như chính Chúa là Đấng cần phải biết.

– Chúa cấm ma quỷ nói về Chúa vì nó không thể nói sự thật, không có sự thật để nói. Nó không có phương tiện để nói. Nó phải gây tội ác: Nhập vào con người, biến họ thành dụng cụ và mượn tiếng của họ để nói. Tội ác không thể nói đúng về Đấng Thánh.

II.  ẢNH HƯỞNG CỦA MA QUỶ.

Ma quỷ vẫn lộng hành bằng nhiều hình thức: nhập vào con người, nhẹ nhàng lôi kéo hướng về sự dữ, lèo lái con người thực hiện tội ác, dùng mưu mô phá rối trật tự cuộc sống của con người, của thế giới… Người bị quỷ nhập không nhiều. Nhưng chắc chắn ảnh hưởng của ma quỷ trên con người thì không thể nói hết được.

Ma quỷ thường được mô tả xấu xí, đáng sợ. Nếu thế, chúng ta dễ nhận ra và nó cũng khó cám dỗ ta. Thực tế, ma quỷ không hiện nguyên hình để cám dỗ. Nó ẩn nấp dưới những hình dáng xinh đẹp, hấp dẫn. Nó tấn công bằng thủ đoạn tinh vi, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu từng cá nhân cũng như tập thể, từ đó lôi kéo ta xa Chúa. Thúc giục ta chống đối Thiên Chúa, chống đối hạnh phúc đích thực của con người.

Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Thực ra, ma quỷ có thể ám bằng cách lừa gạt ta chạy theo hạnh phúc giả tạo như: cuốn hút vào tham vọng, dục vọng, oán thù, ích kỷ, hưởng thụ… Ma quỷ ám ta bằng cách làm cho ta tôn sùng tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh…

Loại quỷ ám nào cũng làm mất tự do, mất trong trắng, dễ phạm tội, đi ngược đường lối và giáo lý của Chúa. Nó bắt ta phải nghĩ, phải sống theo một lập trình. Ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen.

Ảnh hưởng của ma quỷ vẫn là sức mạnh lớn. Vì thế, Chúng ta cần đến ơn Thiên Chúa phù hộ, chở che, nâng đỡ. Hãy nhớ:

– Đời sống cầu nguyện luôn là điểm mốc quang trọng nhất để ta thoát khỏi ảnh hưởng của ma quỷ. Hãy luôn cầu nguyện. Hãy cầu nguyện chân thành, khiêm tốn.

– Tín thách đời mình trong tay Chúa. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời mình. Hãy để Chúa hướng dẫn bằng cách không để mình hướng chiều về sự tội.

– Làm việc lành phúc đức, sống tinh thần bác ái, sống khiêm nhường và tránh mọi thứ kiêu ngạo, hống hách, cậy mình hơn người…

– Tránh xa mọi dịp gây tội, mọi cám dỗ, mọi nguy cơ vi phạm lề luật của Chúa…

– Không dẫn mình vào những nơi, những hoàn cảnh có thể đưa tới tội lỗi.

– Siêng năng tham dự thánh lễ, chầu và rước Mình Thánh Chúa, xưng tội, lãnh nhận các bí tích cần thiết khác.

– Siêng năng làm việc lành, thực hành các công tác đạo đức, quảng đại dấn thân vì tha nhân, yêu thương đón nhận mọi người vì họ cùng là Con của Chúa như ta.

– Sống đứng đắn, đoan trang, gìn giữ ngũ quan, không khoe khoang, không ham hố, không chiều theo xác thịt.

– Thường xuyên đọc, suy gẫm và cầu nguyện bằng Lời Chúa. suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa giêsu.

– Kính mến Thánh tâm Chúa, kính mến Thánh giá, Đức Mẹ và các thánh. Hãy luôn ao ước học đòi bắt chước gương thánh thiện của Chúa Giêsu và các thánh.

Về mục lục

.

VỊ TÔN SƯ ĐÍCH THỰC

Lm. GB. Trần Văn Hào

Hầu hết chúng ta đã từng cắp sách đến trường và được các thầy cô dạy bảo. Chúng ta đã được thụ giáo dưới sự chỉ dẫn của các bậc làm thầy, bởi lẽ ‘Nhất tự vi sư, bán tự vi sư’, một chữ hay dù nửa chữ, các ngài cũng là thầy giáo dạy bảo chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã từng nói với các học trò : “Đừng gọi ai dưới đất là thầy, vì anh em chỉ có một ‘Rabbi’, một thầy duy nhất (Mt 23,8)”. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô cũng trình thuật lại việc Chúa Giêsu vào hội đường ở Capharnaum và giảng dạy như một Đấng có uy quyền (Mc 1,22). Cách Đức Giêsu dạy dỗ khác xa với cung cách làm thầy của các rabbi hồi xưa, cũng chẳng giống các vị tiến sỹ đứng trên bục giảng trong các giảng đường đại học ngày hôm nay. Ngài không nổi trội về kiến thức uyên bác hay có những bằng cấp chuyên môn, nhưng trên hết, Đức Giêsu là Đấng ‘Messia’, là Đấng đã đến trần gian để công bố cho chúng ta một Tin Mừng. Tin Mừng đó được hiển thị rõ nét qua các phép lạ Chúa Giêsu thực hiện như được Thánh sử Marcô mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa giảng dạy kèm theo những phép lạ chứng tỏ Ngài là một ‘Đấng có uy quyền’, và đó là dung mạo của vị tôn sư đích thực mà chúng ta cần cung chiêm và học hỏi.

Tư cách làm thầy

Một giáo sư đại học khi dạy các sinh viên về môn Thuyết giảng trước công chúng (Public Speaking) đã nói : “Trong một lớp học, không bao giờ có học sinh dốt, nhưng chỉ có những ông thầy dốt. Dốt, vì ông ta không biết cách truyền đạt những kiến thức để cho sinh viên am hiểu”. Muốn làm thầy, người đó phải được đào tạo chính quy qua trường lớp sư phạm. Cũng vậy, muốn trở thành thầy dạy (magistero) về đức tin, các các anh em linh  mục cũng phải được đào tạo kỹ lưỡng ở chủng viện về các bộ môn thần học hay kinh thánh, nhất là phải có chiều sâu đức tin, bởi vì ‘Không ai có thể cho người khác cái mà mình không có, không ai có thể dạy người khác điều mà mình không biết’.

Chúng ta được mời gọi nhìn vào chân dung Đức Giêsu, vị tôn sư đích thực của chúng ta. Khi đặt mình trong tay Chúa, chúng ta cần nhớ rằng mãi mãi chúng ta vẫn chỉ  là những học trò của Ngài mà thôi, cho dầu chúng ta là Giám mục hay Linh mục, chúng ta có bằng tiến sỹ này hay bằng chuyên môn nọ.

Ngày xưa, Chúa chọn 12 môn sinh để họ kế tục sứ mệnh làm thầy giống như Ngài, tức là đi ‘rao giảng Tin Mừng’ cho người khác. Những anh học trò này chắc chắn không phải là những chuyên viên về Kinh thánh, tức là những  ‘Halakha’ của thời bấy giờ. Một chữ bẻ làm đôi có lẽ nhiều vị cũng không biết. Nhưng điều mà các tông đồ đã học dưới mái trường do Đức Giêsu khai sáng, chính là mầu nhiệm về Thiên Chúa, hiển thị rõ nét nơi Đức Giêsu, vị tôn sư khả kính mà họ được thông dự vào qua cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, sau ngày lễ Ngũ tuần, các ông đã hăng hái đi đến mọi ngõ ngách để giảng giải, để nói về Đức Giêsu cho mọi người, không loại trừ ai. Khán thính giả của các tông đồ ngày xưa gồm đủ mọi thành phần, từ chính quyền đến thường dân, từ những nhà trí thức đến những bác dân quê mộc mạc chất phác. Ngôi trường mà Chúa Giêsu đã thiết lập cũng chẳng giống với ngôi trường nào. Ở đó không có sách vở, không có bàn ghế hay giấy bút. Khi được thụ giáo dưới mái trường này, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp với văn bằng này hay chứng chỉ nọ. Chúng ta phải học, phải nghiền gẫm và phải đeo bám cho đến suốt đời. Đức Giêsu mãi mãi vẫn luôn là vị tôn sư khả kính mà chúng ta cần phải không ngừng học hỏi nơi Ngài.

Sức mạnh của ‘Lời’

Lời nói con người giống như một con dao hai lưỡi. Nó có thể giúp xây dựng hòa khí thân thương song cũng có thể tạo ra những đổ vỡ. Lời Thiên Chúa thì khác. Những gì Thiên Chúa nói luôn mang lại cho con người sự sống. Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường Capharnaum kèm theo phép lạ để diễn bày tính năng cứu độ nơi Ngài. Ngài đã làm phép lạ trừ quỷ cách nhãn tiền khiến đám đông kinh ngạc và bảo nhau : “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền (c. 27)”. Đây là uy quyền của một vị Thiên Chúa, Đấng đem đến cho con người sự chữa lành và ơn tha thứ. Những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện không phải nhằm phô diễn một kỳ tích hay như một màn ảo thuật để đánh lừa thị hiếu của đám đông. Mọi phép lạ Chúa làm đều mang chở một sứ điệp sâu xa, mời gọi con người hãy ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’ (Mc 1,15). Đó là Tin Mừng về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người, giục giã gọi mời chúng ta trở về để đón nhận. Đức Giêsu chính là Đấng Messia mà sách Đệ nhị luật đã tiên báo như chúng ta được nghe trong bài đọc 1 hôm nay. Đây là ‘vị ngôn sứ’ đích thực của Chúa Cha, và vị ngôn sứ đó sẽ nói những điều Thiên Chúa truyền (Dnl 18, 18). Điều mà Đức Giêsu ngỏ trao chính là sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa, mà đỉnh điểm là chính cái chết của Ngài trên Thập Gía.

Tác vụ giảng dạy

Các bài đọc lời Chúa hôm nay được gửi đến mọi người, đặc biệt các anh em linh mục. Chúng ta được mời gọi nhìn vào hình ảnh của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng để biết cách chu toàn tác vụ thánh trong việc công bố và giảng giải Lời Chúa. Trong cuốn ‘Chỉ nam Giảng thuyết (Homiletic Directory) do Thánh bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích ban hành năm 2015, Giáo hội cũng nhắc nhở các anh em linh mục đừng bao giờ biến bài giảng trong Thánh lễ thành một bài chú giải Kinh thánh mang tính khoa bảng, hay chỉ để chia sẻ những những kinh nghiệm cá nhân. Trên hết, tòa giảng phải là nơi để các linh mục dùng Lời Chúa nuôi dưỡng đời sống đức tin của cộng đoàn. Vì thế, Giáo hội cũng khuyên các cha hãy chuẩn bị bài giảng thật kỹ lưỡng qua việc suy niệm và cầu nguyện, nhất là cử hành Lectio Divina, để Lời Chúa chạm đến cõi lòng chúng ta và lay động tâm hồn của chính chúng ta. Có như thế chúng ta mới có thể dùng Lời Chúa như lương thực trường sinh, giúp nuôi dưỡng đức tin cộng đoàn. Không ít giáo dân than phiền về nội dung cũng như cách thức các cha giảng trong Thánh lễ, thậm chí có những giáo dân tỏ ra chán ngán vì có những vị còn lạm dụng cả tòa giảng để chửi bới giáo dân nữa.

Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, vị Tôn sư khả kính đã giảng dạy như một Đấng có uy quyền. Đây không phải là một thứ uy quyền để nạt nộ hay chửi rủa, nhưng là uy quyền của tình yêu và sự chữa lành.

Kết luận

“Đức Kitô bị đóng đinh trên Thập giá là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta” (Đức Cha Lambert de la Motte) . Đó cũng là đối tượng duy nhất mà chúng ta phải luôn cung chiêm và học hỏi. Chúng ta học hỏi nơi Ngài cách sống, cách chữa lành và cách thức Ngài rao giảng. Ngài chính là vị tôn sư duy nhất mà chúng ta cần phải xách cặp đến để xin thụ giáo cho đến suốt đời.

Về mục lục

.

GIẢNG DẠY NHƯ CÓ THẨM QUYỀN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Tác giả Mác-cô giới thiệu sứ vụ của Đức Giê-su tại Ga-li-lê gồm hai phần: giảng dạy và chữa lành. Tuy nhiên đặc biệt là ở chỗ ông không tách hai điều này riêng ra mà đã liên kết chúng lại thành một cách rất tài tình. Chữa lành chính là để lời rao giảng trở nên thuyết phục.

Mác-cô trước hết giới thiệu Đức Giê-su như một nhân vật xuất hiện hầu công bố một sứ điệp trọng đại: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (c.15). Ông không những xác địch công việc chính của Đức Giê-su là công bố sứ điệp, nhưng còn nói thêm Ngài đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. ‘Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’. Tác giả hình như quan tâm tới thái độ dân chúng tiếp nhận sứ điệp nhiều hơn là chính nội dung thuyết phục hay sự phong phú của sứ điệp Tin Mừng được rao giảng.

Rõ ràng là như thế khi Mác-cô lập tức tường thuật các công việc đầy từ tâm Đức Giê-su thực hiện như chữa người bị quỉ nhập, chữa nhạc mẫu ông Si-mon, chiều đến chữa mọi kẻ ốm đau bệnh tật mà cả thành  đem đến cho Người…, hầu như để cho thấy tại sao dân chúng có phản ứng tích cực như vậy trước sứ điệp, hay đúng hơn, với con người công bố sứ điệp đó. So với tác giả các cuốn Tin Mừng khác, tác giả cuốn thứ hai này hầu như không chú trọng tới nội dung sứ điệp nhiều cho lắm. Ông dành nhiều giấy mực hơn cho việc tường thuật các hành động chữa lành và yêu thương Đức Giê-su thực hiện. Và tất cả chỉ để minh chứng cho điều mà ông muốn khảng định ngay từ đầu: ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’.

Thật ra thì dân chúng bình dân thời nào và ở đâu cũng vậy thôi, với trình độ hiểu biết hạn chế họ ‘nghe’ thì ít mà muốn ‘thấy’ nhiều hơn. Đúng hơn, họ là các thính giả có tầm hiểu biết bằng con tim nhiều hơn là bằng trí óc, nhất là trên con đường đi tìm chân lý; trong khi đó các bậc mô phạm hay hiền triết lại có khuynh hướng sử dụng khối óc nhiều hơn con tim. Các hành động chữa lành đầy từ tâm của Đức Giê-su đánh thẳng vào con tim của thính giả bình dân và chinh phục họ; trong khi các thính giả tri thức như các luật sĩ, biệt phái và kinh sư lại chỉ tìm đến để nghe thuyết pháp, để tìm lý luận, rồi sau đó thi nhau đem ra phân tích mổ xẻ, và tìm lỗi bắt bẻ, chính vì vậy mà các tranh luận căng thẳng giữa họ với Đức Giê-su đã không ngừng nổ ra. Đối với dân chúng, sứ điệp của Đức Giê-su quả là một Tin Mừng, vì nó làm cho con tim của họ được an bình no thỏa, trước khi làm trí óc họ được say mê. Trong thẳm sâu cõi lòng, họ hằng khao khát tìm thấy một Đấng Mét-si-a nhân ái, đầy từ tâm và xót thương, gần gũi với nỗi thống khổ yếu hèn của con người hơn. Đó chính là lý do để mà, trong tất cả sự chân thành mộc mạc họ chân nhận cách thẳng thắn và đơn sơ: ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ hơn hẳn các kinh sư và Biệt Phái.

Suy niệm trên đây, tuy đơn giản thật nhưng lại có tầm quan trọng lớn đối với hết thảy mọi người chúng ta, nhất là đối với các linh mục của Đức Ki-tô.

–   Quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, vì là một tu sĩ linh mục, tôi luôn có nguy cơ xa rời sự nhạy cảm thiêng liêng của người bình dân. Không biết từ khi nào suy luận triết thần đã hoàn toàn chiếm lĩnh đầu óc và suy nghĩ của linh mục. Tôi quan tâm tới hiểu biết và lý luận nhiều tới độ không còn thời giờ để lắng nghe khát vọng thầm kín của chính con tim mình cũng như của người bình dân; kết quả là Tin Mừng đối với tôi phải là chân lý hơn là lòng nhân ái. Và quả thực rất ít khi trong đời sống thiêng liêng tôi dành thời giờ và nỗ lực để nhận ra cái ‘thẩm quyền’ này của Tin Mừng phải tác động trên chính tôi trước hết!

–   Quan trọng đối với việc mục vụ: suy niệm trên đưa tôi tới nhận thức sau đây: trước một cộng đoàn phụng vụ, các bải giảng của tôi có được ‘thẩm quyền’ Tin Mừng chỉ khi nào chúng quảng diễn được lòng xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Trong thực tế nó đã bị chi phối quá nhiều bởi các kiến thức thần học – luân lý, hay các dẫn chứng mang tính biện giáo. Ngay khuôn mặt Hội Thánh hoặc nội dung Tin Mừng mà tôi trình bày cũng thường khi còn quá mô phạm và nghiêm khắc. Biết bao giờ dung mạo từ nhân tha thứ của Đức Ki-tô mới được sáng tỏ để các tín hữu có thể chiêm ngắm tỏ tường cách mãn nguyện?

Lạy Chúa, đúng là những kẻ bé mọn nhận biết Chúa rõ ràng hơn các bậc khôn ngoan thông thái. Xin đừng để học vấn và hiểu biết làm cho con, linh mục của Chúa, không nhận ra nổi ‘thẩm quyền’ đích thực của Tin Mừng Chúa. Cũng xin làm cho lời rao giảng của Hội Thánh được nhiều người lắng nghe bằng con tim và qua đó nhận ra Chúa thật gần gũi và xót thương hết thảy mọi người. A-men.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

 “Người giảng dạy như một Ðấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.”(Mc 1,22) 

Trong cuộc sống có một số người được Thiên Chúa ban cho một sự hấp dẫn làm cho những người khác muốn đi theo mình. 

Vua Napoléon xưa là một thí dụ. Có lần ông đã tự hào nói về mình như thế này: “Người ta chỉ cần nhìn ánh sáng nơi mắt của tôi, nghe âm giọng của tôi và chỉ cần nghe một lời từ miệng tôi nói ra thì lập tức ngọn lửa linh thiêng sẽ bùng cháy lên trong lòng họ. Thực sự tôi đã nắm được bí quyết của một năng lực ma thuật có thể lay chuyển được tâm hồn những người khác”

Quả đúng là Napoléon đã chiếm hữu được quyền năng ấy. 

Nhưng rồi cũng chính ông ta đã thích thú thêm vào những lời lẽ đầy tự hào trên câu này: “Đức Kitô cũng đã có được quyền năng ấy nhưng ở một cấp độ vô cùng to lớn hơn” 

Chúng ta không có được cái diễm phúc sống vào thời đại của Chúa Giêsu 

– để được thấy cái nhìn của Chúa 

– để được nghe những âm kỳ diệu từ miệng Chúa nói ra 

– để được nghe thấy những lời rất ngọt nào nhưng đôi khi cũng rất đanh thép của Chúa Giêsu. 

– để được thấy cách Chúa cư xử 

– để được cảm nghiệm thấy một sức lôi cuốn đến lạ lùng của Chúa…một sự lôi cuốn mà những người khác không ai có được. 

Chúng ta không có phúc nhưng có những người khác đã có phúc. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Sau khi được nghe Chúa giảng họ đã có cảm nghĩ như thế này: “Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như những luật sĩ”(Mc 1,27) 

Tại sao thế? 

Vậy lời dạy dỗ của Chúa Giêsu khác với lời dạy dỗ của các luật sĩ. 

Khác ở chỗ nào? Vì Ngài giảng dạy cách có quyền. 

Các luật sĩ không ai có được uy quyền như Chúa. 

Họ không có quyền để tự quyềt định một điều gì cả. Những điều họ dạy, họ nói đều phải “căn cứ theo những lời dạy có sẵn trong luật” . 

Gặp một điều gì không có trong luật hay có nhưng chưa được rõ ràng thì họ phải cậy dựa vào những bậc thầy về luật pháp mà thiên đã coi trọng trong quá khứ tức là những tập tục của tiền nhân để giải quyết. 

Việc cuối cùng mà họ chẳng bao giờ làm được là đưa ra một phán đoán có tính cách cá nhân, độc lập. 

Rõ ràng là họ khác xa với Chúa Giêsu. 

Còn Chúa khi Chúa giảng dạy, Ngài nói như trên Ngài không có một quyền nào khác cao hơn nữa. “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”(Mt 28,18) 

Ngài hoàn toàn độc lập khi phát biểu. 

Ngài không trích dẫn, không dựa vào quyền uy của một chuyên viên nào cả, Ngài nói bằng giọng dứt khoát của chính Thiên Chúa. 

Dân chúng khi nghe những lời giảng dạy như vậy thì chẳng khác nào họ được hưởng một làn gió dịu mát từ Thiên Đàng thổi tới. Những lời lẽ hết sức khẳng định và tích cực của Chúa Giêsu trái ngược hẳn lời trích dẫn của các luật sĩ của người Do thái 

Giọng nói đầy uy quyền với sắc thái cá nhân cứ ngân vang, và chính giọng nói ấy đã bắt người nghe phải qui phục. 

a/ Như vậy chúng ta thấy vì các luật sĩ chỉ là những con người cho nên họ chỉ có thể gây cho người khác sự phấn kích – chỉ có thể ảnh hưởng về tâm lý. 

Còn Chúa thì khác. Ngài là Đấng thánh của Thiên Chúa. Chính ma qủi cũng phải run sợ mà thốt lên: “Hỡi Ông Giêsu Nagiareth, giữa chúng tôi và Ông có chuyện gì – Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Chúng tôi biết Ông là ai rồi – Là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24) cho nên lời dạy của Chúa đầy ắp uy quyền, điều đó cũng không lạ lùng gì. 

b/ Các luật sĩ chỉ là những con người, cho nên họ chỉ có thể 

– hâm nóng nhiệt tình 

– kích động lòng hăng say 

– khơi dậy niềm cảm xúc 

– kích thích trí tưởng tượng 

Họ không thể ban năng lực và sức mạnh riêng của họ cho người khác. 

Nếu thực sự có một sự thay đổi nào nơi những người nghe họ thì sự thay đổi đó không phải là do họ mà là do năng lực và gắng sức của những người nghe. 

+ Còn đối với Chúa thì sao? 

Thật hoàn toàn khác xa

Chúa có thể đặt tinh thần của Ngài vào trong mỗi người

Chúa có thể chia sẻ quyền năng của Ngài cho họ

Chúa có thể bước vào tâm trí người ta để giúp người ta làm được những điều mà tự sức họ họ không thể nào làm được.

Đây là câu chuyện của thánh Grêgôriô Tử Đạo năm 1314:

Nhà Vua cho xiềng xích và giam ngài vào ngục.

Ngài coi như không có chuyện gì xẩy ra.

Nhà Vua cho cột ngài vào bánh xe có mũi nhọn và dao bén rồi cho xoay vòng.

Ngài vẫn hân hoan vui sướng.

Nhà vua truyền ném ngài vạc dầu sôi,

Chúa đã làm phép lạ để cứu ngài.

Thấy nhục hình đều vô hiệu, nhà vua thay đổi chiến thuật….dụ ngọt rồi khuyên nhủ.

Thánh nhân xin được đưa đến đền thờ.

Tưởng là thành công cho nên nhà vua cho triệu tập dân chúng lại, dọn sẵn lễ vật cho Grêgôriô dâng kính các ngẫu thần.

Grêgôriô đến trước tượng thần Appolo và nói: 

– Ngươi có phải là Thiên Chúa để cho chúng tôi dâng lễ vật không? 

– Không! Tôi không phải là Thiên Chúa. 

Grêgôriô làm dấu Thánh giá và tượng thần sụp đổ vỡ ra tan tành từng mảnh trước mặt mọi người. 

Mọi người run sợ. Để khỏi mất mặt với thần dân, nhà vua cho chém đầu thánh nhân.   

Vâng, đúng là như thế. Và đó là cái khác to lớn giữa Chúa và người con người …luật sĩ hay bất cứ một nhà lãnh đạo nào với Chúa Giêsu

C- Phần ta 

Làm sao mà cuộc sống của tôi được trở nên tốt hơn?. 

Trong một thiên khảo luận, Ralp Waldo Emerson có ghi: “Điều cần thiết chính yếu trong cuộc sống của mỗi người chính là tìm được một ai đó có khả năng giúp ta làm được những gì ta muốn làm” 

Và những lời sau đây nữa: có nhiều việc ta muốn làm nhưng 1/2 việc đó là ta muốn làm cho cuộc sống của ta có một ý nghĩa và được sống thực sự hạnh phúc hơn. 

Nhưng thử hỏi: Ai?

Không ai khác ngoài Chúa Giêsu 

Nhưng làm sao để ta có thể có được Ngài? 

Điều duy nhất mà Chúa không thể làm được cho ta đó là Ngài không thể cởi mở tâm hoàn cho ta nếu ta không muốn. 

Nhìn hình ảnh của Ngài ở giữa đám đông quần chúng vây quanh – dọc theo bờ biển – Edward Farrel đã phải thốt lên những lời như thế này: “Người là ai? Trông sáng ngời đến kinh khiếp – đang nhìn chúng tôi bằng đôi mắt mỏi mòn, đôi mắt như tìm kiếm chính linh hồn chúng tôi. Người là ai mà thấy được tư tưởng, đọc được tâm hồn sâu kín của chúng tôi bằng ánh mắt yêu thương, thông suốt…như muốn nói rằng: “Ta chẳng muốn gì ngoài bản thân của con” 

Vâng hãy để Chúa chiếm lĩnh tâm hồn bạn chiếm lĩnh một cách trọn vẹn, bạn sẽ thấy được được những điều kỳ diệu mà Ngài làm cho bạn, đẹp đến tuyệt vời. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN_B.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ ưu việt mà ông Môsê đã tiên báo cho dân tộc Israel ở trong sa mạc:“Từ giữa anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em”.

Trong Tin mừng, thánh sử Marco trình bày Đức Giêsu là một Đấng rất uy quyền trong lời nói cũng như trong hành động: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21).

– Uy quyền trong lời nói, vì lời rao giảng của Đức Giêsu là tin mừng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Lời nói của Ngài rất thực tế và hấp dẫn có thể thay đổi tâm hồn con người, biến cải con người nên thánh thiện đạo đức. Hơn nữa những gì Chúa rao giảng thì Chúa đã thực hành trong cuộc sống chứ không như các kinh sư “nói mà không làm; nói một đàng làm một nẻo”. Điều này đã được dân chúng, các thính giả của Ngài xác nhận; “Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền”.

– Uy quyền trong hành động, lời giảng dạy của Chúa Giêsu kèm theo các phép lạ, cụ thể qua việc Chúa chữa người bị quỷ ám. Hơn nữa chính ma quỷ phải công nhận “Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Trước lời rao giảng và phép lạ trừ quỷ thì “dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người… Ngài dùng uy quyền mà trừ thần ô uế”.

Lời giảng của Đức Giêsu là giáo lý mới mẻ! Sự mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.

Lời giảng của Đức Giêsu là “lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc 1, 27). Chính thái độ vâng phục của ma quỷ trước uy quyền của Chúa Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới, thời đại của Đấng Thiên Sai đã đến.

Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Chúa, đồng thời nhạn ra quyền năng của Chúa bày tỏ trong vũ trụ vạn vật để ca tụng ngợi khen và yêu mến Chúa.

Coutois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm tốn sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.

Tokichi Ishii, một tên sát nhân không gớm tay đã đạt kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Hắn tàn sát đàn ông, phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn bị bắt và bị kết án tử hình.

Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ khuyên nhủ hắn, tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.

Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn cuốn Tân ước với hy vọng mỏng manh hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động… Niềm hy vọng đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc, Lời Chúa thu hút anh khiến anh tiếp tục đọc trình thuật cuộc tử nạn của Chúa Giêsu… Đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”! (Lc 23, 34), anh dừng lại, suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, con tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, là lòng thương xót của Ngài. Điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa”.

Các nhân viên nhà giam dẫn đưa anh đi hành quyết, họ rất ngạc nhiên thấy tử tôi Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không phải một tên sát nhân hung bạo. Ishii, tên tử tội đã được lời Chúa tái sinh. (Trích Lẽ Sống, Radio Veritas)

“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước

Là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105).

Về mục lục

.

UY QUYỀN CHỈ CÓ Ý NGHĨA NHỜ LỐI SỐNG KHIÊM TỐN

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Là người Công Giáo Việt Nam, hẳn đa số ai cũng biết đến Đấng Đáng Kính, Đức Hồng Y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận. Ngài là vị Hồng Y đặc biệt được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mời giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều dịp Mùa Chay năm thánh 2000. Ngoài sự trổi vượt về đời sống đạo đức, ngài còn là một vị giảng thuyết hết sức lôi cuốn đối với rất nhiều thành phần trong Giáo Hội, nhất là giới trẻ. Người ta đã coi ngài như là một người đầy quyền uy trong lời nói và việc làm!

Lý do Đức Hồng Y được người ta ca tụng như vậy, ấy là bởi vì ngài đã luôn sống yêu thương. Ngài sẵn sàng tha thứ cho những người coi ngài là kẻ thù và làm hại mình. Mặt khác, cuộc sống đơn sơ, giản dị, khiêm nhường, ngôn hành như nhất đã làm cho uy tín của ngài ngày càng lan rộng!

Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện Đức Giêsu vào Hội đường Dothái và giảng dạy. Ngài giảng dạy khác hẳn với những Kinh Sư thời bấy giờ, khiến ai nấy trong Hội đường trầm trồ khen ngợi: “Ông này giảng dạy như một Đấng có uy quyền”.

Lý do tại sao Đức Giêsu được người ta khen ngợi như vậy? Đâu là điều làm cho Ngài trở nên Đấng có uy quyền trong lời nói và hành động? Và, chúng ta học được bài học gì qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay?

  1. Ngôn hành bất nhất nơi các Kinh sư

Tin Mừng hôm nay không nói về việc Đức Giêsu giảng gì. Cũng chẳng nói lời giảng của ngài khác với những lời giảng của những nhà thông luật thời bấy giờ ra sao! Tuy nhiên, muốn hiểu được tại sao: thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Đức Giêsu và không ngớt khen ngợi điều mới lạ nơi Giáo lý của Ngài, đồng thời không ngừng tuyên xưng về quyền uy của Đức Giêsu… (x. Mc 1, 22-28), chúng ta cần hiểu về hai cách sống, hai cung cách, hai lối giảng giữa Đức Giêsu và những Kinh sư.

Vào thời bấy giờ, người Dothái luôn coi trọng các Kinh sư, bởi vì họ là những người nắm luật, là thành phần được ngồi trên “ngai tòa Môsê” để giáo huấn. Chính vì lý do đó, nên những người này được dân chúng coi trọng và tin tưởng.

Tuy nhiên, Đức Giêsu lại không chấp nhận những điều họ làm, bởi vì ngôn hành bất nhất. Thế nên, đã nhiều lần, Ngài lên tiếng thẳng thắn nói với dân chúng về điều trái khuấy của những Kinh sư này, Ngài nói: “… những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23, 3). Lần khác, Đức Giêsu đã phân tích sự khập khiễng, mâu thuẫn giữa lời nói và hành động của những Kinh sư, bởi vì: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy […], nào là đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rápbi” (x. Mt 23, 4-7).

Chẳng những thế, chính Đức Giêsu đã chỉ thẳng mặt và vạch trần tội ác của họ khi nói: khốn cho các người, hỡi các Kinh sư giả hình! Các người không muốn vào nhà, nhưng lại khóa cửa không cho ai vào. Nào là sẵn sàng nuốt tài sản của bà góa nghèo. Giả bộ đạo đức…. (x. Mt 23, 13-14). Các ngươi giống như “… mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế, toàn là giả hình và gian ác! (x. Mt 23, 27-28

Như vậy, họ là những người đáng trách và không có uy quyền trong dân, bởi vì tất cả những điều họ làm không xuất phát từ lòng tôn kính Thiên Chúa, mà là muốn được phô trương thanh thế bề ngoài, còn tâm hồn thì rỗng tuếch!

2. Ngôn hành như nhất nơi Đức Giêsu

Ngược lại, nơi Đức Giêsu, khởi đi từ mục đích của Ngài xuống trần gian là để loan báo ơn cứu độ, băng bó những tâm hồn đau thương, an ủi kẻ âu lo, chữa lành bệnh tật, giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhất là dạy dỗ dân chúng và vạch ra cho họ con đường đưa đến hạnh phúc đích thực là Nước Trời. Không những thế, Ngài luôn mang trong mình lòng xót thương của Thiên Chúa, nên đã đứng về phía những người đau khổ, nghèo khó, cô thế cô thân, những người bị áp bức, bóc lột để bênh vực họ….

Vì thế, từng lời Ngài dạy, từng việc Ngài làm đều ăn khớp với nhau và toát lên tấm lòng mục tử đầy nhân hậu, luôn “ngửi thấy” và “mang trong mình mùi chiên” để cứu chuộc nhân loại khổ đau.

Điểm khác biệt này chúng ta còn nhận thấy, đó là nơi các Kinh sư, những điều họ dạy, họ nói đều phải “căn cứ theo những lời dạy có sẵn trong luật”, còn nơi Đức Giêsu, tất cả “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài (x. Mt 28,18) vì Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.

3. Bài học cho chúng ta hôm nay

Ngày nay, rất nhiều người trong chúng ta đang tìm cách tô vẽ lên con người mình cũng như lựa chọn cung cách ứng xử chẳng khác gì các Kinh sư! Biết bao lần chúng ta loay hoay tìm đủ mọi cách để tô đậm chất tố “kinh sư thời hiện đại” ngay trên con người của mình, để thể hiện uy quyền với anh chị em xung quanh.

Thế nhưng, sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học vô cùng quý giá, đó là: uy tín không hẳn đến từ những lời nói hay, ngon ngọt. Lại càng không phải đến từ những người trong đầu chứa đầy kiến thức, và, hoàn toàn không phải đến từ những kẻ giả hình!

Ngược lại, uy tín và uy quyền lại đến từ những người chân thật, đơn sơ, hiền lành, khiêm nhường. Cuộc đời của Đức Giêsu và câu chuyện về Đức Hồng Y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó.

Thật vô cùng ảo tưởng khi củng cố quyền lực bằng những chuyện khua chiêng gõ trống bên ngoài hay bằng tiền bạc hoặc bằng việc củng cố quyền lực qua những thói kêu ngạo giả hình….

Quả thật, uy quyền chỉ có thể thực sự hữu ích cho mình và cho tha nhân khi nó được đặt trong tâm thế của người phục vụ cách vô vị lợi chứ không phải để “ăn trên ngồi trốc” như giới Kinh sư.

Mong sao mỗi người chúng ta khi đã hiểu được sức mạnh, uy quyền của sự khiêm nhường, đơn sơ, ngay thật và thẳng thắn, chúng ta luôn sống điều đã thấy, tin điều đã cảm nghiệm và rập đời sống chúng ta theo mẫu gương của Đức Giêsu, để ngang qua cuộc sống và các mối tương quan hằng ngày nơi mỗi người, uy quyền của Thiên Chúa ngày càng được nhiều tôn nhận và Danh Chúa ngày càng được nhiều người biết đến. Amen.

Về mục lục

.

VÁC ĐỜI

Trầm Thiên Thu

VÌ MẾN TIN CÙNG CHÚA ÔM THẬP GIÁ

BỞI LẦM LỖI TỰ MÌNH VÁC CUỘC ĐỜI

Một định luật bất biến đã được chính Chúa Giêsu minh định: “Ai muốn theo Tôi, phải TỪ BỎ chính mình, VÁC thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Hai động từ với hai hành động trái ngược: Bỏ cái này để lấy cái kia. Nghe chừng rất đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê! Tuy nhiên, theo Chúa là hành động tiên quyết mà mỗi người Kitô giáo phải thực hiện mọi ngày trong suốt cuộc đời mình. Nhưng cái gì cũng có điều kiện nhất định!

Cuộc sống không hề đơn giản, tức là khó và phải nỗ lực không ngừng, nhưng con người không phải cố gắng chiến đấu một mình. Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em, hãy nghe vị ấy” (Ðnl 18:15). Đó là người được sai đi, chấp nhận lời sai đó tức là chấp nhận bước theo Chúa, đi theo thì phải hành động tích cực, không thể thụ động.

Và Ngài còn động viên: “Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta thì chính Ta sẽ hạch tội nó” (Ðnl 18:18-19). Ngài không hề hù dọa, mà đó chính là công lý và công bình. Mỗi người đều có trách nhiệm rao truyền và làm chứng nhân của Thiên Chúa. Trách nhiệm thì phải làm, không làm thì có tội. Thật vậy, chính Ngài đã cảnh báo: “Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói thì ngôn sứ đó phải chết” (Ðnl 18:20).

Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2). Không chỉ vậy, chúng ta còn phải “cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên chúng ta, vì chính Người là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6). Đặc biệt và cấp bách hơn: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa, đừng cứng lòng!” (Tv 95:7-8). Thời điểm là hiện tại, không phải là quá khứ hoặc tương lai. Đó là lời cảnh báo nhưng cũng chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, bởi vì Ngài vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta trở về, cứ hết ngày dài lại qua đêm thâu.

Cuộc sống có nhiều thứ khiến chúng ta lo lắng, thế nên phải biết khéo léo buông hoặc giữ cái gì để giữ cân bằng tâm sinh lý. Một trong nhiều cách đó là tạo “khoảng riêng” để tách mình ra khỏi cuộc đời xô bồ. Chắc chắn “khoảng sa mạc” trong tâm hồn rất cần thiết để có thể lắng nghe Tiếng Chúa. Thánh Phaolô đã nói rõ: “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì” (1 Cr 7:32). Với nguyên nhân và mục đích rất cụ thể: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1 Cr 7:33-34). Đó là hai cách thức khác nhau mà mỗi người có quyền tự do chọn lựa – bỏ cái này để lấy cái khác, chỉ có thể chọn một trong hai.

Khi nghe nói vậy, chắc chắn người đời không thể tin và không thể chấp nhận với tầm nhìn của phàm nhân bình thường, bởi vì những điều đó “không bình thường” chút nào và rất “ngược đời”, phải có tầm nhìn của đức tin mới khả dĩ chấp nhận mà hành động. Thánh Phaolô biết đó là những điều “khó nghe” mà lại rất thật, cho nên ông phân trần: “Tôi nói thế là để mong tìm ÍCH LỢI CHO ANH CHỊ EM, tôi không có ý GÀI BẪY anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em ĐƯỢC GẮN BÓ CÙNG CHÚA mà không bị giằng co” (1 Cr 7:35). Và đó cũng là lời động viên dành cho mỗi chúng ta.

Cuộc sống vốn dĩ nhiêu khê nên luôn có những điều khó chọn lựa. Có lần Chúa Giêsu đã phân tích: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6:45). Lần khác, Ngài lại xác định: “Kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Lc 12:34). Theo nghĩa bình thường, kho tàng là tiền bạc, của cải hoặc vật chất, là những gì mình sở hữu. Cũng chính “kho tàng” đó có thể là chướng ngại vật trên hành trình theo Chúa. Điển hình là thanh niên nọ đến hỏi Chúa Giêsu về cách trở nên hoàn thiện, Chúa Giêsu bảo về bán tài sản và cho người nghèo, anh ta nghe vậy thì buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mt 19:16-22; Mc 10:17-22; Lc 18:18-23).

Quả thật, sức hấp dẫn của vật chất rất mạnh, mạnh đến nỗi người ta gọi đó là ma lực. Người ta gọi thần tiền bạc là “thần tài”. Vật chất là một loại “thần” – thường mang nghĩa không tốt, vì nó có thể khiến người ta mê muội, mù quáng, mất cả nhân tính mà trở thành mưu mô và độc ác. Hàng ngày vẫn có nhiều vụ giết người dã man để cướp của đã xảy ra. Các “thần xấu” đó là các loại thần ô uế làm “biến chất” con người từ ngoài vào trong.

Rất nhiều vụ án dã man đã và đang xảy ra nơi này hoặc nơi kia, thậm chí có những vụ giết người cướp của đã xảy ra ngay trong các mối quan hệ ruột thịt gia đình. Những kẻ thủ ác là những người thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, có kẻ vẫn còn ở độ tuổi thiếu niên, và chuyện xích mích đôi khi chỉ là chuyện nhỏ, đúng như người ta nói “có bé xé ra to” hoặc “có ít xít ra nhiều”. Điều đó cho thấy rằng lòng người ta rất nhỏ mọn và luôn có “lửa” oán thù, chỉ cần chút gió là nó cháy bùng lên ngay. Thật là kinh khủng quá!

Trình thuật Mc 1:21-28 (Lc 4:31-37) đề cập sự đối đầu giữa Thiện và Ác, giữa Chúa Giêsu và thần ô uế. Một hôm nọ, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập, người này “chịu không nổi” nên đã phải la to: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1:24). Mắt phàm nhân chưa nhận ra nhưng “thần ô uế” đã nhận ra Chúa Giêsu là ai. Tuy nhiên, Ngài liền quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (Mc 1:25).

Chắc chắn ma quỷ không hề muốn ra khỏi “lãnh địa” mà nó đang chiếm giữ, thế nhưng nó vẫn phải tuân lệnh Chúa Giêsu. Rõ ràng Chúa Giêsu có quyền trên mọi thứ và mọi loài, cả hữu hình và vô hình. Ma quỷ không muốn quy phục Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa nhưng nó vẫn phải vâng lời, thậm chí nó còn phải trình diện Ngài (G 2:1). Nó có thể làm hại người ta nhưng nó “phải tôn trọng mạng sống” của người khác – cụ thể là trường hợp của ông Gióp (G 2:6).

Ngay sau khi “thần ô uế” xuất ra khỏi người kia, mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1:27-28). Giáo lý mới mẻ và người dạy có uy, lạ lùng lắm, xưa nay chưa hề thấy có ai làm được như vậy. Những người chứng kiến đã nhận xét như vậy thì kể ra cũng lạ thật, nhưng cũng thật đáng khen vì họ có thể mau chóng tiếp thu được cái “mới mẻ” đó. Cuộc sống rất cần tinh thần phục thiện và dễ thích nghi như vậy. Đó cũng là một cách biết bỏ cái không cần thiết để nhận lấy cái cần thiết – đặc biệt là khi “cái cần thiết” đó lại không vừa ý mình.

Điều-cần-thiết-mà-trái-ý-mình chính là “vác thập giá hàng ngày”, điều mà Chúa Giêsu luôn khuyến khích. Ngài có cách động viên cũng chẳng giống ai, rất độc đáo. Thật vậy, C. S. Lewis đã nhận định thế này: “Thiên Chúa thì thầm với chúng ta khi chúng ta vui, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta đau khổ. Đúng là “đầu óc bã đậu” của chúng ta không thể nào hiểu nổi, và cũng chẳng bao giờ hiểu thấu, bởi vì chính Thiên Chúa đã xác định: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:9).

Lạy Thiên Chúa là dũng lực của con, xin ban Thần Khí Chúa để con khả dĩ chân nhận Tiếng Chúa trong chính cuộc đời con, xin giúp con mau mắn bước theo Ngài và can đảm hành động đúng Tôn Ý Ngài trong mọi hoàn cảnh sống. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI GIẢNG DẠY NHƯ MỘT ĐẤNG CÓ UY QUYỀN

Đỗ Công Minh

Lạy Chúa,

Có người nhân xét tin mừng của Chúa gây phiền nhiễu,  Phúc âm của Chúa là một sự quấy rầy. Mới nghe xem ra khó chấp nhận. Đã gọi là Tin mừng, là Phúc âm sao lại có thể như thế ? Nhưng qua đoạn trích bài Tin Mừng thánh Maccô hôm nay, con phần nào hiểu được điều này. Quả thật, theo trình thuật thì tại Các- pha- na- um nhân ngày Sa-bát, Chúa đã vào hội đường giảng dạy. “Thiên hạ sửng sốt về lời gỉang dạy của Người, vì Người giảng dạy như một đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư “. Và chính trong bối cảnh đó, một người bị thần ô uế nhập đã lên tiếng phản đối:“chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”.

Ngày hôm nay, trên thế giới này không ít những người bài bác Giáo lý của Chúa. Nhiều triết gia thuộc nhiều trường phái khác nhau, vô tín hay không, tìm mọi lý lẽ để loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống xã hội. Đã có người khẳng định “Thiên Chúa đã chết “ để được tự do hành động như các thần ô uế. Lũng đoạn thế giới này, lôi kéo con người rời xa Thiên Chúa, từ khước tình yêu của Người với nhân loại, và thậm chí tìm mọi cách phản bác, tiêu diệt Lời Người. Những chuyện như thế đã có từ thời tạo thiên lập địa, khi con người bày tỏ thái độ thách đố, kiêu căng chống lại Thiên Chúa ngay trong vườn địa đàng.

Sống trong một xã hội với biết bao cạm bẫy của ma quỉ: tiền tài , sắc dục, địa vị, quyền lợi, đam mê thế tục khiến con nhiều phen bị chao đảo. Ma quỉ luôn luôn tìm mọi cách để lôi kéo con rời xa tình yêu thương của Thiên Chúa, chúng cho rằng chuyện trần gian không can chi đến chuyện trên trời. Thiên Chúa không thể can thiệp vào cuộc sống con người vì Người tôn trọng tự do, quyết định của mỗi người. Những lý lẽ như thế ám chặt vào bản thân khiến con, khiến con trở nên ô uế, bị thần ác ám chặt.

Quả thật nhiều lúc cũng muốn loại Chúa ra khỏi cuộc đời con. Không dám đối diện với Lời Chúa, bởi qua lời Chúa con phải biết bỏ những thói xấu, những đam mê tội lỗi. Con phải biết sống xả kỷ, không chỉ nghĩ đến mình, gia đình mình, những người mình yêu mến, mà phải mở lòng ra với hết mọi người như Chúa đòi hỏi: Yêu thương tha nhân như chính mình. Những điều đó quả là khó khăn cho con. Con chỉ muốn thong dong làm điều mình thích bất kể điều đó có hợp đạo lý? Con chỉ muốn thỏa mãn ý riêng mình mà bất chấp Lời Chúa mong muốn con nên trọn lành như Cha trên trời.. . Trong khi đó theo Chúa là phải phấn đấu bước vào cửa hẹp, phải biết từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo. Đi theo con đường ấy, cánh cửa ấy mỗi người chúng con sẽ được sự bình an của Chúa, được hạnh phúc ngay từ cuộc sống này.

Xin cho con luôn biết tự hối, biết nhận ra Lời Chúa là lời hằng sống, là ngọn đèn soi cho con bước, để con luôn biết lắng nghe Lời Người, sống Lời Người và đem ra thực hiện Lời trong cuộc sống, vì “Lời giảng dạy thì mới mẻ, người giảng dạy lại có uy quyền “.

Xin Chúa chữa lành bệnh tật Linh hồn con, trục thần ô uế ra khỏi con người yếu đuối của con để con mạnh dạn lớn tiếng tung hô Chúa như những người theo Chúa ngày xưa. AMEN

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU LÀ THẦY DẠY VÀ LÀ ĐẤNG TRỪ QUỶ

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi,

khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.

I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,21-28):

(21) Tại thành Ca-phác-na-um, ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường và giảng dạy. (22) Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.

(23) Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên (24) rằng: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa !” (25) Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (26) Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. (27) Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (28) Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,21-28):

2.1 Đức Giê-su giảng dậy có uy quyền:

Đức Giê-su giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Các kinh sư giảng dậy bằng cách clặp đi lặp lại những lời có sẵn trong sách Luật, không có hồn, không có xác tín, không có đời sống chứng tá đi kèm. Còn Đức Giê-su thì tràn đầy Thần Khí, tràn đầy lòng mến và xác tín cao độ về những lời Người giảng. Vì Người chính là Lời của Thiên Chúa!

2.2 Đức Giê-su trừ quỷ cách hiệu quả:  

Các kinh sư không có khả năng trừ quỷ vì họ thiếu cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Còn Đức Giê-su thì tràn đầy Thấn Khí, tràn đầy sức mạnh của Thiên Chúa, siêng năng ăn chay và cầu nguyện không ngừng. Người là Con Một của Thiên Chúa, luôn kết hiệp mật thiết với Cha!

2.3 Dân chúng hết sức thán phục Đức Giê-su:

”Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.”  Hệ quả ấy là tất yếu. Nhưng Đức Giê-su không lấy đó làm quan trọng. Quan trọng là Thiên Chúa Cha được tôn vinh và nhiều người được cứu độ.

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,21-28):

3.1 Làm thế nào để lời giảng dậy của chúng ta lôi cuốn, đánh động người nghe?

Các linh mục, các giảng viên các Khóa Thánh Kinh, các giáo lý viên, các bậc cha mẹ và các huynh trưởng cần học với Chúa Giê-su để lời giảng dậy của mình lôi cuốn đánh động người nghe. Nếu chỉ là những lời giảng xuông rỗng tuếch, không có hồn, không sức sống, không xác tín và không đời sống chứng tá đi kèm thì không thuyết phục được giáo dân, học viên, con em mình.

3.2 Làm thế nào để chúng ta chiến thắng ma quỷ?

Ma quỷ chỉ sợ những người sống chay tịnh và cầu nguyện vì những người ấy đầy Thần Khí  và sức mạnh của Thiên Chúa. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định trong Phúc âm là chỉ có ăn chay và cầu nguyện, các tông đồ mới cò sức chống trả được Sa-tan.

IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,21-28):

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Thầy dậy và là  Đấng khử trừ ác thần. Chúng con rất cần đến Chúa, vì chúng con u-mê tăm tối và luôn bị cám dỗ bởi Sa-tan, thế gian và xác thịt. Xin Chúa đến giúp chúng con và ở với chúng con đêm ngày.

Cũng xin Chúa ban sức mạnh cho những lời giảng dậy của chúng con để những người nghe chúng con được tác động.

Con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn ngàn đời. Amen.

Về mục lục

.

ĐẤNG THÁNH CỦA THIÊN CHÚA

JM. Lam Thy

Bài đọc I hôm nay (CN IV/TN-B – Đnl 18, 15-20) nói đến vai trò của ông Mô-sê như một Ngôn sứ lớn đã được Chúa gọi để dẫn dắt Dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, đi qua sa mạc gian khổ để trở về quê hương thật của mình là miền đất Chúa đã hứa cho các tổ phụ. Trong cuộc hành trình trở về Đất Hứa, Dân Chúa đã phải trải qua biết bao gian khổ, hy sinh… Trước hết, họ phải từ bỏ nếp sống bình thường ở Ai Cập, phải vượt Biển Đỏ và sau đó vượt qua sa mạc Si-nai mênh mông khô cằn, theo một lộ trình thật dài. Trong cuộc hành trình đó, nhiều lần Dân Chúa chịu đựng không nổi cảnh khổ cực,  đã nổi loạn chống lại ông Mô-sê, và đòi trở lại Ai Cập dù phải sống trong cảnh nô lệ, nhưng còn có đủ ăn. Có lần họ đã định bỏ Chúa để “thờ bò vàng” (Xh 32, 1-5). Tuy nhiên, qua ông Mô-sê, Thiên Chúa vẫn đồng hành với họ, nuôi sống họ bằng man-na, ban cho họ “Mười Giới Răn” để hướng dẫn họ sống xứng đáng những con người “đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa”. Mô-sê đã được ơn Chúa nâng đỡ, kiên trì lãnh đạo Dân Chúa, cuối cùng Dân Chúa đã về tới Quê Hương thật của mình, đó là miền Đất Hứa.

Đến bài Tin Mừng (Mc 1, 21-28), thánh sử Mac-cô trình thuật Đức Giê-su giảng dạy tại hội đường Ca-phac-na-um, khiến cho “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.” (Mc 1, 22). Làm sao dân Do Thái lại nhận ra được Đức Giê-su giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền? Đó là nhờ họ so sánh Người với các kinh sư. Đối với họ, các kinh sư, luật sĩ là những người có “thẩm quyền” giải thích Lề Luật và sách các ngôn sứ. Nhưng trên thực tế, các kinh sư, luật sĩ chỉ là những người “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy…Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi” (Mt 23, 2-7).

Đức Giê-su thì không như vậy, Người thường đến với những người nghèo khó, bệnh tật, tội lỗi và những lời giảng dạy của Người luôn luôn biểu lộ tình yêu bao la của Thiên Chúa. Nơi Người giảng dạy và làm phép lạ thường là những nơi rất dân dã gắn với đới sống bình dân: bên vệ đường, bên giếng nước hay bên sườn núi hoặc trong nhà những bênh nhân khó nghèo, cô quạnh. Nhưng lần này Người đến hội đường Ca-phác-na-um, ở đó có cả những người trí thức (các kinh sư) và tầng lớp bình dân. Tại đây, thêm một khía cạnh nổi bật của Lời Chúa, qua chính nhận xét của khán thính giả, kể cả đối thủ lợi hại là tà thần, ma quỷ: Lời Chúa luôn đầy quyền năng và có sức mạnh siêu phàm (“Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” – Mc 1, 21-24).

Sống ở đời, chắc chắn không ai là không có lúc gặp phải những vấn đề khó khăn nan giải. Đối tượng gây ra những vấn đề đó có thể do người khác, có thể do chính mình tự gây ra, hoặc bị ảnh hưởng bởi môi trường hay bối cảnh lịch sử. Những khó khăn thử thách do con người gây ra với nhau hoặc do thiên nhiên, lịch sử tác động cũng đã có quá nhiều trường hợp bản thân không thể vượt qua, không thể chống đỡ, thậm chí có thể trở thành nạn nhân. Đó là chưa kể không ít những trường hợp do ma quỷ tác động, ngoài tầm tay với của con người, thì chỉ có nước “bó tay.chấm.com”. Trước những vấn đề nan giải ấy, con người phải làm gì?

Câu trả lời chỉ có một: Hãy đến với Thiên Chúa, vì Người là Đấng có uy quyền, Lời Người có dư đầy mãnh lực xua tan bóng tối tội lỗi, đem lại bình an hạnh phúc cho bất kỳ ai biết chạy đến với Người. Bài đọc I hôm nay (Đnl 18, 15-20) là 1 minh hoạ cụ thể. Đó là thời Cựu Ước, còn ngày nay thì sao? Cứ kể với đà tiến hoá của văn minh nhân loại, với khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển vượt bậc, thì nhiều vụ việc, nhiều vấn đề, nhiều nỗi khó khăn trong cuộc sống xem ra không còn là nan giải nữa, con người có thể giải quyết được. Tuy nhiên, một sự thực hiển nhiên là dù con người có tài giỏi đến đâu, khoa học có tiến bộ đến mấy đi nữa, thì vẫn còn biết bao khó khăn, biết bao vấn đề thuộc lãnh vực tâm lý, tâm linh, vẫn mãi mãi là nỗi ám ảnh khôn nguôi của con người, không sao giải quyết nổi. Ngay đến cả những tác động của thiên nhiên cũng hầu như ngày càng khủng khiếp, khiến con người không sao chống đỡ (bão lụt, động đất, thiên tai nhan nhản khắp nơi và ngày càng dữ dội, cứ như sắp tới ngày tận thế vậy!). Đáp án giải quyết những “bótay.chấm.com” ấy của con người thời đại hiện nay vẫn không khác xưa: “Hôm nay nghe tiếng Chúa, anh em đừng cứng lòng!” (Tv 95), mà “Hãy đến với Thiên Chúa”.

Vâng, hãy đến với Người trong cuộc hành trình đức tin tiến về Đất Hứa là Nước Trời. “Đừng cứng lòng”, cũng đừng ngại gian khổ, hy sinh, bởi Chúa vẫn luôn ở cùng và đồng hành với chúng ta (Mt 28, 20). Cũng bởi vì chúng ta đã được chính Đức Giê-su Thiên Chúa dìu dắt vượt qua Biển Đỏ cuộc đời đầy phong ba bão táp bằng Bí tích Thánh Tẩy. Bây giờ là lúc chúng ta phải can đảm chấp nhận mọi gian lao nguy hiểm, mọi thử thách nghiệt ngã, nhất là những “viên đạn bọc đường” đầy hấp dẫn của ma quỷ, để có thể dũng cảm vượt qua được “sa mạc đời”. Vậy thì còn chần chờ gì nữa, mà không đến với Người đã tha thiết kêu mời: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30).

Ôi! Lạy Chúa! ”Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118, 105). Cúi xin Chúa ban đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra uy quyền và sức mạnh của Lời Chúa, xin ban Thần Khí cho con để con đủ sáng suốt vượt qua Biển Đỏ lỗi lầm, và nhất là đủ can đảm vượt qua mọi gian lao thử thách trong sa mạc cuộc đời. Ôi! Lạy Chúa “Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài gọi con trong đêm tối. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời và vâng nghe theo Chúa. Xin cho con biết sẵn sàng thực hành Lời Chúa đã truyền ban…” (“Lắng nghe Lời Chúa” – TCCĐ). Amen.

Về mục lục

.

LỀ LUẬT MỚI LÀ TIN MỪNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

  1. Những bộ luật của Torah

Bài đọc I trích trong sách Đệ nhị luật. Đnl là cuốn cuối trong bộ Ngũ Thư. Năm cuốn sách đầu của bộ Kinh Thánh gọi là Ngũ Thư.

Do thái giáo coi Ngũ Thư là Torah (Luật) vì trong đó gồm tất cả mọi lề luật và định chế chi phối toàn bộ sinh hoạt tôn giáo, phụng tự, đạo đức, xã hội của dân tộc Israel. Nét nổi bật là Luật do chính Chúa truyền qua trung gian Môisen và mọi điều khoản của Luật xuất phát từ những nhận thức tôn giáo của dân. Có thể nói đây là sưu tập và tổng hợp những luật dân sự, hình sự, tôn giáo, tế tự và xã hội được trình bày như hiến chương của Giao ước. Do đó, việc công bố Luật gắn liền với trình thuật các biến cố trong hoang địa, nơi ký kết Giao ước. Luật là cho con người, vì thế cần phải được thích nghi với những điều kiện thay đổi của môi trường và thời đại. Do đó, ta gặp thấy trong bộ luật những yếu tố cổ xưa đan kết với những điều khoản mới phát sinh về sau. Đàng khác, ta còn gặp thấy trong bộ luật những điểm tương tự với luật Lưỡng Hà. Điều ấy là tất nhiên, vì Do Thái sống chung đụng với chư dân; lại nữa một số pháp quy, tục lệ của miền ấy dần biến thành sản nghiệp chung của cả Cận Đông cổ thời. Torah gồm những bộ luật sau đây:

a. Thập điều: Mười Lời được ghi khắc trên bảng đá, làm thành Lề luật căn bản về luân lý và tôn giáo, được coi như điều khoản của Giao ước Sinai. Thập điều được trình bày hai lần (Xh 20,2-17 và Đnl 5,6-18). Chắc chắn hai bản văn đều xuất phát từ một nguồn nguyên thủy mà truyền thống gán cho Môisen.

b. Bộ luật giao ước(truyền thống E): Xh 20,24–23,9. Bộ luật này nằm xen kẻ giữa Thập điều và phần kết của trình thuật giao ước tại Sinai. Luật giao ước đáp ứng hoàn cảnh một xã hội sau thời Môisen, chuyên về canh nông trồng trọt; cho nên quan tâm đến súc vật cày bừa, công việc đồng áng, nghề trồng nho, nhà cửa (giả thiết dân đã định cư). Bộ luật thấm nhuần tinh thần tin vào Giavê, phản ứng lại nền văn minh Canaan.

c. Bộ Luật Đệ Nhị Luật(Đnl 12,1–26,15) làm thành phần chính yếu của sách Đệ Nhị Luật. Bộ luật này lấy lại một phần bộ luật giao ước, nhưng thích nghi với cuộc sống kinh tế và xã hội đã đổi thay. Nét nổi bật trong Luật Đnl là quan tâm bảo vệ người yếu, tuyên xưng uy quyền Thiên Chúa trên đất và trên dân của Người, cổ vũ việc tuân giữ các điều khoản của lề luật.

d. Luật Lêvi. Sách Lêvi được hình thành dứt khoát sau lưu đày, gồm những luật về phụng tự, như của dâng tiến và việc tế lễ (1-7), cấp bậc Tư tế (8), các đại lễ (23), nơi thánh và các vật dụng thánh (25); luật về thức ăn (11), sự trong sạch (13-15), lễ xá tội (Yôm-Kippour) (16); luật về sự Thánh thiện (17-16).

Ngũ Thư vừa là một lịch sử và là luật pháp. Nếu các Thánh Vịnh ca tụng Thiên Chúa và kêu xin Người cứu giúp; các sách Khôn Ngoan nhằm giáo dục cá nhân về tôn giáo và luân lý; các Ngôn Sứ mạnh mẽ tuyên rao lòng thành tín của Chúa và hăng hái vạch trần tội lỗi của Israel … thì Ngũ Thư giới thiệu cho ta một dân tộc, cách thế Thiên Chúa thiết lập dân ấy, bảo vệ và dẫn đưa dân về một định mệnh kỳ diệu. Ý nghĩa của bộ sách này hệ tại mối liên lạc Thiên Chúa nối kết với dân của Người và qua đó với toàn thể nhân loại. Lịch sử mối tương quan ấy được tóm kết trong bốn điểm chính là Lời hứa – Tuyển chọn làm dân riêng – Giao ước – Lề luật. Đây là bốn chủ đề quan trọng được triển khai trong Ngũ Thư và suốt dọc dài Cựu ước. Chính Đức Kitô mới ban cho lịch sử cứu độ ý nghĩa trọn vẹn của nó, như Phaolô trình bày trong Gl 3,15-29. Ngài đến thực hiện các lời hứa của Thiên Chúa, ký kết Giao ước mới với đoàn dân mới là miêu duệ của Abraham trong đức tin. Ngài ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí để dẫn đưa mọi kẻ tin về với Thiên Chúa.

Sách Đệ Nhị Luật là một lược tóm lịch sử tôn giáo của Israel khởi từ Sinai, trong đó điều then chốt là phải trung thành phụng sự Giavê, Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Nội dung của sách sưu tập lại luật Môisen, đồng thời kể lại một số biến cố xảy ra tại Môáp. Trình thuật mang hình thức ba bài diễn từ của Môisen phát biểu vào cuối đời, với dụng ý quả quyết: tư tưởng chủ yếu trong sách là của Môisen. Đệ Nhị Luật được coi như sách kỷ yếu: nhắc lại để nhớ, nhớ để rút bài học. Bài học chủ yếu của tác giả là: nhắc cho Israel quá khứ lịch sử của nó là một chuỗi hồng ân liên tục Chúa ban cho họ cách nhưng không. Nay ở ranh giới Hứa Địa, họ đừng quên mọi thành công xưa đều nhờ Giavê. Từ nhận thức đó, họ chuẩn bị vào Đất Hứa trước hết bằng lòng tin tuyệt đối vào Giavê.

Dân Do thái sắp đi vào đất Canaan, miền đất này nơi nào cũng có tà giáo. Các tôn giáo sơ khai của các dân tộc xung quanh luôn hấp dẫn. Đặc biệt là các thầy bói, bà đồng. Dân chúng mê tín luôn tìm đến với họ để được giao cảm với thần minh, để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học ngày nay coi đó là bịp bợm, người có đức tin chân chính nghĩ đó là những việc do ma quỉ bày đặt ra. Bởi đó, tác giả sách Đnl cảnh giác dân chúng, không được tin vào bói quẻ phù chú, lên đồng lên bóng, chiêm tinh chiêu hồn, phải hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa. Bù lại, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện giữa dân Người một tiên tri như Môisen. Bài sách Đnl còn nói về Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến, Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Đó chính là Chúa Giêsu sẽ khiến người ta kinh ngạc về cách giảng dạy và đầy quyền năng như câu chuyện kể của Phúc âm Chúa nhật hôm nay.

  1. Lề Luật Mới là Tin Mừng

Chúa Giêsu vào hội đường ngày Sabat. Vì là thành phần của dân giao ước nên mọi người trong hội đường đều có quyền đọc và bình giảng một đoạn sách Thánh nào đó. Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy dân chúng. Thánh Maccô không cho biết Chúa đọc đoạn sách nào, cũng không nhắc đến nội dung giảng dạy hôm ấy. Maccô chỉ kể “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Thiên hạ ngạc nhiên trước một kinh sư trẻ tuổi, phong thái giảng dạy như một Đấng có uy quyền khác với các kinh sư luật sĩ. Thiên hạ còn kinh ngạc về giáo lý của Người. Giáo lý vừa đi vào nội tâm, vừa có một nội dung ưu việt hơn những bài học luân lý Cựu ước. Họ sửng sốt kinh ngạc là phải, bởi lẽ Chúa Giêsu không giải thích truyền thống của cha ông nhưng là giáo huấn của Chúa Cha. Người không công bố lề luật nhưng công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người xuất hiện như Đấng mang lấy thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao và là Đấng ban lề luật mới là Tin Mừng và là Thần Khí.

  1. Uy quyền trong hành động và trên tà thần

Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc giảng dạy, Người còn thiết lập Nước Thiên Chúa bằng hành động thực hiện nội dung lời rao giảng. Trong hội đường hôm ấy có một người bị thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu, satan run sợ. Đối diện với Đấng quyền năng, satan sợ hải: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi chăng?”. Nó tuyên xưng “Tôi biết ông là ai. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa bắt nó phải im ngay và Người dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân. Satan bị án phạt đời đời vì tội kiêu căng, tội gieo nọc độc cho Nguyên Tổ trong vườn địa đàng. Thiên Chúa không cho satan có quyền hành gì trên con người, trừ khi con người tự nguyện trở thành nô lệ.

Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và nhiều hiệu năng trong hành động. Người đã giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của sự dữ. Con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của bản năng và của sự ác để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng trong sạch vẹn tuyền đã đẩy lui và tiêu diệt sức mạnh satan.

Ma quỉ là một quyền lực cụ thể đang hoành hành trên thế giới. Người ta có thể gọi tên quyền lực này là Belzebuth, Lucifer, Belial, là con rắn xưa, là tên dối trá, tên cám dỗ… Tất cả đều chỉ thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch Thiên Chúa và đưa con người vào nô lệ.

Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao hình thái nô lệ, biết bao xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người. Điều kinh khủng là người ta không nhận ra mình đang bị nô lệ. Nô lệ cho quyền lực như Hitler, Pônpôt… Nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc rượu chè. Nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, mọi thứ cuồng tín tôn giáo. Nô lệ là thứ tự do giả hiệu mà ma quỷ luôn quảng cáo và muốn mời mọc con người. Ma quỷ thường được vẽ như con vật xấu xí đáng sợ, nếu thế thì con người dễ nhận ra nó và nó khó cám dỗ được. Nhưng thực tế, ma quỉ mang dáng dấp xinh đẹp, hấp dẫn, sang trọng. Nó tấn công bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm rõ yếu điểm từng cá nhân từng tập thể để tấn công và mong hạ gục. Người ta tin vào những ngôi sao số mệnh, cầu cơ, bói toán, lá số tử vi. Tin vào những cái vô tri dẫn đến mê tín dị đoan sẽ làm nô lệ cho ma quỷ. Ngày nay nhiều người không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, đó là thành công lớn của ma quỉ.

Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.

Mỗi ngày, chúng ta vẫn thành tâm nguyện xin: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ. Amen.

Về mục lục

.

TIN VÀO LỜI GIẢNG DẠY CÓ QUYỀN THẾ

Lm Trần Bình Trọng

Có ai bao giờ mở máy truyền thanh hoặc truyền hình, nghe người nọ người kia diễn giảng về vấn đề chính trị hay đạo giáo nào đó mà người nghe chịu không nổi, liền tắt máy ngay, dùng hộp điều khiển tắt mở từ xa nhấn mạnh về hướng máy cho máy tắt liền không?

Ở đây không ai có ý nói về cá nhân diễn giả nào cũng không nói về đạo nào, mà chỉ nói chung vậy thôi. Tại sao lại có chuyện như thế? Lí do không hẳn là người nói có giọng buồn ngủ, trái lại diễn giả có thể có khoa nói hoạt bát, nhưng làm người nghe chán ngấy vì tính cách giả tạo, bốc thơm hoặc ngụy biện.

Tại hội đường Do thái, thầy tư tế hay người đứng đầu hội đường có quyền mời người diễn giảng trong đám cử tọa. Diễn giả được mời thường là người có học cao hiểu rộng và có ảnh hưởng trong cộng đồng. Như vậy thì những người kinh sư đã phải được mời diễn giảng trong hội đường như Phúc âm đề cập đến sự khác biệt giữa cách giảng dậy của Chúa với người kinh sư. Hôm nay Chúa Giêsu cũng được mời diễn giảng trong hội đường Do thái tại Ca-phác-na-um. Phúc âm ghi lại như sau: Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Ðấng có quyền chứ không như các kinh sư (Mc 1:22). Nếu cử tọa trong Phúc âm hôm nay có dịp nghe Chúa tại Ðền thờ Giêrusalem lúc Chúa mới lên mười hai tuổi, thì họ cũng đã phải: Ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu (Lc 2:47). Hoặc nếu họ đã nghe Chúa tại hội đường Nadarét, họ cũng đã phải: Tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người (Lc 4:22). Phúc âm hôm nay còn ghi thêm: Chúa ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh (Mc 1:27).98

Vậy thì các kinh sư diễn giảng như thế nào? Khi diễn giảng, những người kinh sư thường trích dẫn lời giảng dạy của các thầy ráp-bi và rồi đưa ra một quan niệm và lập trường phổ thông của vấn đề. Họ tự nhận họ chỉ giảng dạy dựa trên quyền thế mà Môsê nhận được nơi Thiên Chúa. Họ thường tránh né việc trả lời dứt khoát trước những câu hỏi của dân chúng. Ngay cả các ngôn sứ cũng bắt đầu giảng dạy bằng câu vào đề: Thiên Chúa phán như thế hoặc Thiên Chúa phán thế nọ thế kia. Ðiều đó chứng tỏ các ngôn sứ cũng không dựa trên quyền thế của họ mà nói, nhưng là dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.

Khi Chúa Giêsu đến, Người cắt đứt truyền thống giản dạy kiểu đó. Chúa chứng minh lời Người giảng dạy, không dựa trên quyền thế của ai, nhưng dựa vào quyền năng nội tại của chính Người. Vì thế mà Chúa nói: Anh em đã nghe Luật dạy (người xưa) rằng (Mt 5:21, 27, 31, 33, 38, 43). Còn Thầy bảo anh em biết (Mt 5:22, 28, 32, 34, 39, 44). Khi người ta hỏi Chúa, với dụng ý không phải muốn biết, nhưng để bắt bẻ và gài bẫy Chúa, thì Chúa tỏ ra uy quyền bằng cách trả lời câu hỏi bằng một câu hỏi lại. Chẳng hạn khi Chúa giảng dạy trong Ðền thờ thì các trưởng tế, kinh sư và kỳ lão của dân đến hỏi: Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy (Mc11:28)? Rồi Chúa Giêsu đáp: Tôi cũng hỏi các ông một điều. Các ông trả được, thì tôi sẽ nói cho các ông biết, tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy (Mc 11:29).

Chúa không dựa vào mánh lới hay lời nói khôn khéo của người đời mà vẫn giữ được sự chú ý của người nghe, bởi vì Chúa xác tín về lời Người giảng dạy. Chúa tin điều Người nói và nói những điều Người muốn cho người ta tin. Chúa không cần chứng minh lời Người giảng dạy bằng việc trích dẫn. Chúa trả lời câu hỏi một cách trực tiếp và xác đáng. Chúa sống lời Người giảng dạy và kinh nghiệm những lời Người sống. Và bởi vì Chúa xác tín lời Người giảng dạy, cho nên Chúa không thỏa hiệp. Ðiều đó chứng tỏ những điều gì Chúa nói đều là lời Chúa chứ không phải là ý kiến hay quan niệm của quần chúng.

Từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, người ta thấy Chúa giảng dạy và hành động dựa vào chính quyền thế của Người là Ðấng Cứu thế, là con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Vì thế trước khi về trời Chúa truyền cho các môn đệ: Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thày. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ: nhân danh Cha và Con, và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều, Thày đã truyền dạy các con (Mt 28:18-20).

Lời Chúa trong sách Ðệ Nhị luật hôm nay, bảo Môsê rằng người ngôn sứ thật thì nhân danh Chúa mà nói và phải nói lời Người truyền dậy (Ðnl 18:20). Tuy nhiên vì vô thức nội tại hay áp lực ngoại lai, người rao giảng lời Chúa có thể cắt nghĩa lời Chúa cách sai lạc hoặc bóp méo lời Chúa, khiến cho giáo lí về đạo giáo trở thành lỏng lẻo để mong thu hút tín đồ nhất thời. Do đó chỉ có lời giảng dạy trung thực với đường lối Phúc âm mới có sức lôi kéo người nghe thực sự đến với Chúa và trở về hiệp nhất với nhau và với Giáo hội mà chính Chúa đã thiết lập. Qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, người tín hữu cũng được gọi để sống và làm chứng cho lời Chúa và quyền năng Chúa bằng lời nói và việc làm.

Ðể áp dụng thực hành, hôm nay ta cầu xin cho được biết yêu mến lời Chúa, tin tưởng vào lời Chúa và quyền năng Chúa trên các thần ô uế (Mc 1:27). Nếu muốn được tham phần vào quyền thế của Chúa trong lời giảng dạy, nói cách khác, nếu muốn được người ta chăm chú đọc hay nghe mình trình bầy, người giảng dạy hay viết sách phải trung thực với lời Chúa và đường lối Phúc âm. Hôm nay ta cầu xin cho được ơn biết phân biệt ngôn sứ thật với ngôn sứ giả. Như được mô tả trong Thánh kinh thì ngôn sứ giả thường thỏa hiệp theo quan niệm riêng hay thị hiếu của quần chúng. Do đó lời họ rao giảng thường nhắm chiều theo sở thích của người nghe hầu làm vừa lòng thính giả. Họ có thể làm khoái tai người nghe, nhưng không đánh động được tâm hồn người nghe hay đọc. Còn ngôn sứ thật thì xác tín rằng họ là sứ giả của Thiên Chúa. Họ dám nói lên sự thật dù có làm mất lòng. Nghe theo sứ điệp chân thật có thể làm ta chột dạ, khiến ta phải suy tư nghĩ ngợi. Chính việc suy tư nghĩ ngợi đó mới là khởi điểm cho những quyết định thay đổi tâm hồn và đời sống người nghe.

Lời nguyện xin cho được ơn biết tuân phục lời Chúa và quyền năng Chúa:

Lậy Chúa, ‘lời Chúa là thần khí và là sự sống’.

Hằng ngày có nhiều tiếng nói

trên phim ảnh, báo chí, truyền thanh, truyền hình, mạng tin

bảo con việc gì phải trái, điều gì phải tin hoặc hồ nghi.

Xin dạy con biết lắng nghe và nhận định

hầu có thể phân biệt đâu là sự thật, đâu là hư giả.

Và xin ban ơn để con biết đáp trả và thực thi lời Chúa

hầu được hưởng nhờ sự sống vĩnh cửu. Amen.

Về mục lục

.

MA QUỶ CÒN BIẾT VÂNG LỆNH CHÚA TRUYỀN

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Hôm ấy, Chúa Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngài vào hội đường giảng dạy. Lúc ấy, trong hội đường có người bị ma quỷ ám. Thấy Chúa Giê-su, quỷ biết ngay Ngài là Con Thiên Chúa, nên la lên: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Bấy giờ Chúa Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”

Lập tức Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Mọi người chứng kiến đều hết sức kinh ngạc trước quyền lực của Chúa Giê-su. Ngài không cần dùng roi vọt hay bạo lực để trục xuất ma quỷ. Ngài chỉ cần phán một lời là quỷ phải vâng lời mà xuất ra ngay (Mc 1, 21-28).

Các tác giả Tin mừng cũng thuật lại tại vùng đất Ghê-ra-xa có một người bị quỷ dữ ám hại, khiến anh ta trở nên hung tợn và có sức mạnh phi thường. Dù người ta có khống chế anh ta bằng bao nhiêu gông cùm xiềng xích thì anh ta cũng bứt tung hết.

Khi Chúa Giê-su gặp người bị quỷ ám và biết là có cả một cơ binh quỷ sứ xâm nhập vào anh, hành hạ anh ngày đêm, khiến anh sống ở trong khu vực mồ mả và trên đồi núi, tru tréo liên hồi và lấy đá đập vào mình, Ngài truyền lệnh “Thần ô uế kia! Hãy xuất khỏi người này!” (Mc 5,8). Lập tức, lũ quỷ liền vâng lệnh Ngài mà xuất ra và nhập vào đàn heo. Sau đó, cả đàn heo đông đảo vừa bị lũ quỷ nhập từ trên sườn núi lao xuống biển chết đuối hết (Mc 5,1-15. Luca 8,27-33. Mt 8,28-32).

Khi giáp mặt với những người bị quỷ thâm nhập và ám hại bằng nhiều cách, Chúa Giê-su dùng lời của Ngài truyền cho quỷ phải xuất ra và chúng tức khắc vâng lệnh, không hề chần chừ hay kháng cự.

Thật lạ lùng, ma quỷ là thứ bị người ta khinh dể nhất đời, bị gọi là đồ quỷ, đồ yêu tinh, đồ quỷ sứ… và người ta cũng thường gán cho những kẻ nào xấu xa, đê tiện, tàn ác nhất trên đời này là “đồ quỷ sứ”… thế mà khi nghe lệnh truyền của Chúa Giê-su, ma quỷ ngoan ngoãn vâng lời ngay. Chúa bảo: “Hãy câm đi!”,  chúng liền câm miệng. Chúa bảo “Hãy xuất ra khỏi người này”, chúng liền vâng theo.

Còn loài người thì sao?

Thiên Chúa Cha đã sai Con một của mình là Chúa Giê-su xuống trần gian để trực tiếp dùng lời khôn ngoan dạy cho loài người vâng phục Thiên Chúa, đi theo đường lối Chúa để được cứu rỗi và được sống đời đời.

Thế nhưng khi Chúa Giê-su dùng lời phán bảo con người đừng gian tham, thì người ta tiếp tục gian tham; Chúa bảo đừng trộm cắp, đừng ngoại tình, thì người ta vẫn cứ trộm cướp, cứ ngoại tình; Chúa dạy đừng giận hờn, ghen ghét… thì nhiều người vẫn trơ trơ như đá, chẳng vâng theo lời Chúa dạy.

Khi Chúa truyền cho mọi người: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, nhiều người vẫn im lìm bất động. Khi Chúa truyền “Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha”, nhưng sự giận hờn ghen ghét vẫn chất chứa trong lòng nhiều người. Khi Chúa truyền hãy quan tâm phục vụ nhau như Ngài đã hiến thân mình phục vụ con người, thì nhiều người vẫn dửng dưng vô cảm với anh em đồng loại…

Ma quỷ bị xếp vào hạng xấu xa, tồi tệ nhất mà còn biết vâng lệnh Chúa, lẽ nào loài người vốn được xem là con cái yêu quý của Chúa mà chẳng màng vâng lệnh Chúa truyền sao!

Không lẽ con người còn cứng đầu, chai đá hơn cả quỷ sứ trước lời Chúa dạy hay sao!  

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa cứu rỗi nhân loại bằng lời Chúa. Lời Chúa như hải đăng soi đường trong đêm tối để đưa tàu thuyền vượt biển về bến an toàn. Lời Chúa như kim chỉ nam chỉ lối dẫn đường cho người lạc bước giữa rừng sâu. Chỉ có những ai lắng nghe lời Chúa và mau mắn đem ra thực hành thì mới được hưởng ơn cứu độ.

Từ chối vâng nghe lời Chúa khác nào thuyền trưởng không theo ánh sáng của hải đăng, như người lạc lối giữa rừng sâu không đi theo hướng chỉ của la bàn.

Xin cho chúng đừng gác bỏ lời Chúa ngoài tai kẻo phải khốn khổ muôn đời, nhưng biết mau mắn vâng theo lời Chúa dạy để được sống hạnh phúc đời này và được hưởng hoan lạc muôn đời mai sau.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 4 TN_B

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Bài đọc I và Tin Mừng minh chứng rằng ở nơi con người của Ngài, Đức Giê-su thực hiện một trong những niềm mong đợi của dân Ít-ra-en, đó là một vị Ngôn Sứ tuyệt hảo xuất thân từ họ và ở giữa họ.

Đnl 18: 15-20

Theo sách Đệ Nhị Luật, ông Mô-sê cảnh giác dân Ít-ra-en coi chừng những “ngôn sứ mạo danh”, nhưng đồng thời ông cũng loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban cho dân Ngài một vị ngôn sứ đích thật. Vị Ngôn Sứ này sẽ là “Phát Ngôn Viên của Thiên Chúa” bên cạnh dân Ngài.

1Cr 7: 32-35

Trong đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô này, thánh nhân đề cập đến đời sống hôn nhân và đời sống độc thân.

Mc 1: 21-28

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô giới thiệu Đức Giê-su, Đấng có quyền năng trong lời nói cũng như việc làm, vừa là phát ngôn viên của Thiên Chúa bên cạnh dân Ngài, đồng thời vừa là phát ngôn viên của dân Ngài bên cạnh Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC I (Đnl 18: 15-20)

Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư mà dân Do thái gọi sách “To-ra”, nghĩa là sách “Luật”.

Nhan đề “Đệ Nhị Luật” có nghĩa “luật thứ hai”. Quả thật, sách này được đặt vào trong bối cảnh ông Mô-sê nhắc lại những lời dạy của Đức Chúa cho dân Ít-ra-en như những lời trăn trối sau cùng, bản di chúc của ông, trước khi qua đời. Sách được soạn thảo vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên. Như vậy, việc khai triển Luật được định vị vào trong việc nối dài giáo huấn của ông Mô-sê. Điều này muốn nói rằng có một sự liên tục và trung thành với Luật; uy quyền của Luật luôn luôn được đặt dưới sự bảo lãnh của người khởi xướng. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật phản ảnh bối cảnh dân Ít-ra-en định cư lập nghiệp ở xứ Ca-na-an hơn năm thế kỷ rồi. Vì thế, bầu khí hăng say nhiệt thành thuở ban đầu đã lắng xuống. Tuy nhiên, nhờ độ nhạy bén của những sấm ngôn, tâm tình tôn giáo lại được hâm nóng trở lại.

  1. Định chế ngôn sứ

Đoạn văn này được trích từ một diễn từ dài của ông Mô-sê trong đó ông tiên báo định chế quân chủ và định chế ngôn sứ. Đoạn trích hôm nay nêu lên vấn đề định chế ngôn sứ. Theo văn mạch, trong một đoạn văn trước đó, ông Mô-sê vừa mới căn dặn rằng nếu dân chúng muốn tôn một người lên làm vua, thì người đó không phải là một người ngoại quốc, nhưng phải là một người trong số họ, được Thiên Chúa chọn (Đnl 17: 14-15).

Trong đoạn trích hôm nay, cũng một cách đề phòng như vậy đối với một ngôn sứ. Dân chúng không được đi tìm kiếm một nhân vật ngoại quốc nào khác thực hành ma thuật, bùa chú, bói toán, hay gieo quẻ xem xăm, vân vân. Chính “từ giữa đồng bào của anh em” mà Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện ngôn sứ của Ngài, người ấy sẽ là phát ngôn viên của Ngài bên cạnh dân Ngài: “Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy”.

Đây không phải là một ngôn sứ độc nhất, nhưng là một vị ngôn sứ mà mỗi lần dân chúng cần đến một người trung gian như ông Mô-sê. Vì thế, ông Mô-sê đã tiên báo trào lưu ngôn sứ một cách khái quát, như câu trích sau cùng nói lên cách rõ ràng hơn: “Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết”.

Sau này, khi trào lưu ngôn sứ đã biến mất từ lâu, người ta sẽ đọc lại bản văn này theo một cách khác và người ta sẽ hiểu lời tiên báo này về một vị ngôn sứ vĩ đại vào thời đại Thiên Sai, một Mô-sê mới. Đó là lý do tại sao những người được Giáo Quyền Giê-ru-sa-lem cử đến hỏi ông Gioan: “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” (Ga 1: 21).

  1. Thấy Thiên Chúa mà vẫn sống

Lời tiên báo này đáp lại nguyện ước của dân chúng, vì tại núi Khô-rép trong ngọn lửa sáng rực chỉ một mình ông Mô-sê mới có thể tiến gần đến Thiên Chúa và đàm đạo diện đối diện với Ngài mà không phải chết: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20: 19).

Đây là sự sợ hãi linh thánh rất phổ biến vào thời đó, vì người ta tin rằng không ai thấy thần linh mà có thể sống được. Giữa thần linh và phàm nhân có một khoảng cách vô tận đến mức con người như bị tan biến vào trong cõi hư vô. Vì thế, khi đặt của dâng cúng trên bàn thờ, tín đồ không được nhìn ngoái lại đằng sau kẻo chẳng may nhìn thấy thần linh đến nhận của lễ mà mình phải chết chăng. Có rất nhiều giai thoại cấm nhìn lại đằng sau như bà vợ của ông Lót vì “ngoái lại đằng sau mà hóa thành cột muối” (St 19: 26) hay ngôn sứ Ê-li-a lấy áo choàng che mặt khi gió hiu hiu thổi báo hiệu sự hiện diện của Đức Chúa; vì thế, ông chỉ nghe tiếng chứ không nhìn thấy hình (1V 19: 12-13).

Được đọc trong ánh sáng Tân Ước, bản văn Đệ Nhật Luật này mặc lấy tất cả mọi chiều kích của nó. Đức Giê-su là vị Ngôn Sứ đã được ông Mô-sê tiên báo. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, Phát Ngôn Viên trung thành của Chúa Cha, Đấng Trung Gian tuyệt hảo giữa Thiên Chúa và con người. Ngoài ra, Đức Giê-su chính là Thiên Chúa hữu hình ở giữa loài người mà con người có thể tiến lại gần, chẳng những không phải chết nhưng trái lại được đón nhận “ân này đến ân khác”của Ngài nữa (Ga 1; 16).

BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 32-36)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân ca ngợi đời sống độc thân trổi vượt trên đời sống hôn nhân, vì người sống đời độc thân mới có thể tận tâm tận lực “chuyên lo việc Chúa”. Có hai cách giải thích thái độ của thánh nhân trong việc đề cao đời sống độc thân và giảm nhẹ đời sống hôn nhân.

  1. Kinh nghiệm bản thân

Cách giải thích thứ nhất là chính từ kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Thánh nhân là người lữ hành của Thiên Chúa, ngài rong ruỗi trên khắp mọi nẻo đường, tận tâm tận lực chu toàn “sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Vì thế, trong một đoạn văn trước đó, thánh nhân không ngần ngại viện dẫn đời sống độc thân của mình ra làm gương: “Tôi ước muốn mọi người đều như tôi” (1Cr 7: 7).

  1. Quan niệm văn hóa và xã hội

Cách giải thích thứ hai thuộc quan niệm văn hóa vào thời đó, đặc biệt vị thế của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thánh nhân vừa mới nói một cách tế nhị về đời sống hôn nhân và những bổn phận hỗ tương giữa chồng và vợ, cũng như nhắc nhở họ mối giây ràng buộc bất khả phân ly của hôn nhân. Từ đó suy ra rằng đời sống độc thân giải phóng chúng ta khỏi những mối dây ràng buộc trong đời sống vợ chồng và con cái, vì thế chúng ta được hoàn toàn tự do trong việc “chuyên lo phục vụ Chúa”.

Chuyện vợ chồng giúp nhau thăng tiến đời sống tâm linh trong việc chuyên lo phụng sự Chúa không thể không nẩy sinh trong tâm trí thánh nhân. Tuy nhiên, theo quan niệm văn hóa và xã hội vào thời thánh nhân, chủ nghĩa thượng tôn nam giới tạo nên rào cản cho một sự phát triển về quyền bình đẳng giữa chồng và vợ trong đời sống gia đình Ki-tô giáo. Thật ra, môi trường Cô-rin-tô thấm nhuần văn hóa Hy lạp, vì thế, những người phụ nữ hưởng được một sự tự do khiến thánh nhân kinh ngạc. Chính trong bức thư này, ngài nhắc nhở các người phụ nữ phải trùm khăn che đầu và không được lên tiếng trong các buổi hội họp cộng đồng, vì người nữ phải giữ thái độ im lặng và phục tùng, vân vân. Về quan điểm này, thánh nhân vẫn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm những quan niệm Do thái giáo kém tiến bộ. Tuy nhiên, ngài biết công bố quyền bình đẳng của tất cả con cái Thiên Chúa: “Trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam”(1Cr 11: 11).

TIN MỪNG (Mc 1: 21-28)

Sau khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên và được họ đáp trả một cách quảng đại và mau mắn (Chúa Nhật vừa qua), Đức Giê-su tiếp tục con đường của mình. Ngài đi dọc theo bờ hồ cho đến tận thành Ca-phác-na-um.

  1. Thành Ca-phác-na-um

Thành Ca-phác-na-um hưởng được một vị thế địa lý đặc biệt: giáp ranh giới với ba nước: Sy-ri, Phê-nê-xi, Pa-lét-tin, và có một đại lộ chạy từ Giê-ru-sa-lem đến Đa-mát. Vì thế, thành phố được mệnh danh là “Ngã Tư Quốc Tế”. Chính thành này Đức Giê-su sẽ thiết lập cứ điểm truyền giáo của Ngài, dấu chỉ ngầm hàm chứa chiều kích phổ quát sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong các hội đường như sau này các Tông Đồ và cả thánh Phao-lô cũng sẽ theo gương Ngài.

Hội đường là nơi các tín hữu tụ họp và cầu nguyện. Chỉ ở Giê-ru-sa-lem mới có đền thờ và hàng giáo sĩ, ở đó các tín hữu mới có thể dâng hy lễ lên Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Vào ngày Sa-bát, các tín hữu tụ họp ở hội đường, luôn luôn vào buổi sáng, để cử hành phụng vụ Lời Chúa (các bản văn Luật và các sách ngôn sứ), hát thánh thi chúc tụng, ngâm thánh vịnh và cầu nguyện. Mọi tín hữu, hoặc tự nguyện hay được chỉ định, có thể công bố và diễn giải những bản văn Kinh Thánh. Chính như vậy mà Đức Giê-su được mời công bố và giải thích Kinh Thánh vào một buổi phụng vụ sa-bát ở hội đường Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng.

Thánh Mác-cô tường thuật cho chúng ta hai hoạt cảnh diễn ra trong hội đường Ca-phác-na-um. Một mặt, thánh ký bận tâm phác thảo diện mạo của Đức Giê-su, nêu bật uy quyền đặc biệt mà người ta nhận ra ở nơi Ngài: Đức Giê-su xuất hiện không chỉ với uy quyền của Ngôi Lời Thiên Chúa, chủ tể của Kinh Thánh, nhưng cũng với uy quyền của một con người thanh khiết và hoàn hảo đến nổi không bất kỳ sự thâm hiểm gian ác nào có thể chịu đựng nổi sự hiện diện của Ngài. Mặt khác, ngay từ đầu, thánh Mác-cô cũng nêu bật hai phương cách tiến hành thường hằng mà Đức Giê-su sẽ thực hiện trong suốt sứ vụ của Ngài: giảng dạy và dấu chỉ kèm theo, qua đó người ta nhận ra mầu nhiệm của Ngài: Đấng có uy quyền trong lời nói và việc làm.

  1. Cách thức Đức Giê-su giảng dạy

“Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Các kinh sư thường nhất là những người có bằng cấp học vị, được đào tạo trường lớp về những cách thức giải thích Kinh Thánh một cách tinh tế và uyên bác. Vì thế, những giáo huấn của họ dựa trên những truyền thống của các bậc tôn sư danh tiếng của họ. Riêng Đức Giê-su, Ngài không xuất thân từ bất cứ trường lớp nào và cũng không quy chiếu đến bất kỳ “kinh sư” hay “bậc tôn sư” nào. Ngài giải thích và khai triển Kinh Thánh từ uy quyền của riêng Ngài và loan báo rằng mọi điều Kinh Thánh loan báo đều được ứng nghiệm ở nơi Ngài.

  1. Dấu chỉ kèm theo

Không ai có thể buộc tội Ngài về bất cứ điều gì, đây là một sự mới lạ khiến Xa-tan phải tò mò muốn biết. Rồi, trong hoang địa, nó đã thử hiểu mầu nhiệm của con người này; ở Ca-pha-na-um, nó bày tỏ qua một người bị quỷ ám khốn khổ. Đối mặt với Đức Giê-su, tên hiểm ác phải công khai nói lên sự thật và sự thật khiến nó phải nao lòng chột dạ: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, Đức Giê-su buộc nó phải câm lặng.

Hoạt cảnh Ca-pha-na-um không là duy nhất, nhưng còn xảy ra nhiều lần ở những nơi khác nữa. Chính thánh ký nói với chúng ta: “Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai” (Mc 1: 34).

  1. Mầu nhiệm của Đức Giê-su

Đức Giê-su vẫn còn muốn giữ riêng bí mật về con người Ngài, vì sợ người ta hiểu lầm sứ mạng của Ngài. Thánh Mác-cô nhấn mạnh nhiều lần Đức Giê-su muốn bảo vệ mầu nhiệm của Ngài. Đó là điều mà các nhà chú giải gọi “bí mật Thiên Sai” theo Tin Mừng Mác-cô. Quả thật, trong suốt Tin Mừng này, Đức Giê-su kiên quyết bắt ma quỷ không được vén mở chân tính của Ngài, cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và ngay cả các môn đệ của Ngài không được tuyên xưng phẩm tính Thiên Sai của Ngài.

Thật không khó để hiểu được thái độ này của Đức Giê-su. Đấng Thiên Sai mà dân chúng biết bao mong đợi khác với hình ảnh mà Ngài sắp thể hiện: hình ảnh của một Đấng Thiên Sai “nhân hậu và khiêm hạ tận mức”, hình ảnh của một Người Tôi Trung chịu đau khổ. Mầu nhiệm này chỉ có thể bày tỏ một cách rực rỡ ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.

Về mục lục

.

TÂM PHỤC KHẨU PHỤC

Lm. Jos. DĐH.

Thưởng thức bản nhạc vừa ý, xem cuốn phim hay, được nghe bài thuyết trình áp đặt, một bài viết đặc sắc, đâu còn khó khăn gì đối với thời đại công nghệ hôm nay, khi người ta chỉ cần vài cú “click-chuột”. Để thuyết phục lòng người, xưa hay nay, đều cần đến tính hợp lý: nói có sách, mách có chứng, hoặc xem mặt đặt tên. Trong yêu thương, các đấng bậc vẫn cảnh giác con cháu: “gái tai, trai mắt”, sự thực yêu bằng tai, yêu bằng mắt, hay yêu bằng trái tim nóng bỏng, đều khiếm khuyết, nếu “cái tâm” chưa đủ lý trí và lòng bao dung. Đồng ý rằng điều kiện hoàn cảnh mỗi người mỗi khác, được quý mến được yêu thương không phải là chuyện hên xui, thận trọng quá thì không có bạn, dễ dãi phóng khoáng lại bị coi là vô duyên.

Các nghệ sĩ bằng giọng ca điệu hát, họ thu hút được đám đông, các cầu thủ bằng phong độ trình diễn trên sân cỏ, tên tuổi của họ sớm được giới hâm mộ biết đến. Đức Giêsu không phải là ca sĩ, nhạc sĩ, không phải là cầu thủ đá bóng, người cùng thời lại biết rõ Ngài là con bác thợ mộc. Tại hội đường ở Ca-phac-na-um, người ta hôm đó đi từ ngạc nhiên đến thán phục, người ta được nghe nhìn, rồi tâm phục khẩu phục bởi lời rao giảng và trừ tà của Đức Giêsu. Giáo lý mới ở điểm nào, tại sao Đức Giêsu thuyết phục được người nghe, để lại được ấn tượng tốt cho người có mặt ở hội đường hôm xưa? Câu trả lời là vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, khác với các luật sĩ. Tại “nhà thờ” hôm nay, chúng ta cũng được nghe nhìn, nhưng không ngạc nhiên, không thán phục, là vì bằng mắt thường chúng ta không thấy Đức Giêsu, không thấy phép lạ, hay vì lời Kinh Thánh “quen quá hoá nhàm”?

Một số người vẫn cẩn thận khi nói rằng: đừng tưởng cái gì lóng lánh cũng là vàng, đừng tưởng ai nhìn đàng hoàng cũng là người tử tế. Xã hội thời nào cũng xuất hiện bậc hiền tài đức độ, dư luận cho rằng tài giỏi là do tập luyện, số khác lại cho rằng văn võ song toàn là năng khiếu bẩm sinh, trời cho ai người ấy được. Tại hội đường năm xưa, người ta vui sướng, thích thú, có phải “tướng tá phong độ” của một luật sĩ mới từ nơi xa đến, hay một ông quan đầy kiến thức với nhiều bằng cấp? Mức độ cảm nhận về “tài năng” có thể mỗi người mỗi khác, nhưng cách chung mọi người hôm đó đều bị thuyết phục bởi sự dấn thân, tinh thần phục vụ, lời giảng giải của Đức Giêsu có sức hút rất siêu nhiên.

Theo lý lẽ tự nhiên, kẻ “ăn nên làm ra” từ đôi bàn tay của mình là người chăm chỉ, có tính tự lập, đáng khâm phục. Xuất thân từ con nhà nghèo học giỏi, là người có ý chí, quyết tâm cao, nhưng người thành công phải là người biết mình biết ta, biết làm chủ bản thân. Sứ mạng của mỗi chúng ta hiện tại dù chưa thuyết phục được gia đình, người thân, dù chưa sống mối tương quan tốt nhất để họ tâm phục khẩu phục, ít ra chúng ta vẫn còn cơ hội gặp, nghe Đức Giêsu, Ngài sẽ điều chỉnh và biến đổi ta nên người môn đệ của Ngài. Cha ông chúng ta có câu: gần sông quen tiếng cá, gần núi không lạ tiếng chim. Các môn đệ gần Thầy Giêsu, các ông sớm học được đức yêu thương dạt dào của Thầy ; các tín hữu đến nhà thờ dâng lễ hàng ngày, hàng tuần, cũng sớm được biến đổi nên môn đệ của Đức Giêsu, đó là biết nói đúng, biết cư xử đẹp theo ơn Thánh Thần soi sáng.

Sinh ra làm người, cơ hội để gia đình, người thân tâm phục khẩu phục, để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, đâu phải là xa vời. Vì chưng, thước đo của cuộc đời không phải là dài hay ngắn, mà ở chỗ chúng ta đang sử dụng mức độ hiểu biết của mình như thế nào ? Mang thân phận người, Đức Giêsu đến hội đường cầu nguyện, trong tư cách là ngôn sứ, Ngài giảng giải như Đấng có uy quyền, với sứ mạng Đấng cứu độ, Ngài xua đuổi quỷ thần, giải thoát con người khỏi tội lỗi sự chết. Tâm lý chung, người ta sẽ tâm phục khẩu phục khi được thoả mãn về vật chất về tinh thần, thực tế con người dễ mơ hồ về “cái thích” của mình, để rồi đổ ngã theo thần tượng như xe “tuột dốc không phanh”.

Mỗi người tín hữu chúng ta chỉ có thể sống, và giúp anh chị em mình tâm phục khẩu phục, khi chúng ta cùng Chúa Giêsu kết hiệp cầu nguyện, khi chúng ta biết khiêm tốn để Thánh Thần Chúa tác động, biến đổi, làm mới mọi tương quan với tha nhân. Cuộc đời mỗi người chúng ta có khác gì một dòng sông, dòng sông chảy, nhưng nước thì luôn đổi mới. Ông bà cha mẹ chúng ta không thể tâm phục khẩu phục, khi con cháu chỉ biếu các đấng quà cáp, phong bì, mà gia đình thiếu đức yêu thương, lối xóm thiếu tình người. Tại hội đường hôm xưa, bằng những lời chia sẻ tận tâm, cách dẫn giải sát gần với tình người của Đức Giêsu, đám đông thán phục, quỷ thần thì khiếp sợ, sứ mạng người tông đồ chỉ thế là đủ, là đẹp. Xin tình yêu Giêsu tiếp tục hiện diện, giúp con cái của Ngài nhận ra tiếng nói của Thánh Thần, và bằng việc sống đức tin đức ái, Danh Chúa được sáng mãi cho hôm nay và mai sau. Amen.

Về mục lục

.

HUYỀN DIỆU CUỘC ĐÒI

Lm Vũdình Tường

Ai cũng có kinh nghiệm về cuộc sống. Khi cuộc sống xuôi chảy, vui vẻ, an hoà ta cho là cuộc sống rất dễ nhưng khi phải đối mặt với những khắc nghiệt, đau khổ bệnh tật ta coi cuộc đời là bể khổ. Biển mênh mông, bát ngát ai dò cho hết lòng biển vì thế bể khổ cuộc đời là một mầu nhiệm. Nó nhiệm mầu không giải thích nổi nên người xưa dùng ngụ ngôn răn đời, hoặc dùng huyền thoại giải thích sự việc. Ngày nay con người nhờ vào khoa học cố gắng giải thích í nghĩa cuộc sống. Khoa học bắt đầu bằng giả thuyết làm căn bản nghiên cứu. Câu hỏi tôi là ai? sống trên đời với mục đích gì và sau khi lìa đời sẽ đi đâu là những câu hỏi có quá nhiều câu trả lời và nhóm nào cũng cố gắng biện minh cho câu trả lời của mình là đúng. Dù tin vào Thiên Chúa hay chối bỏ Ngài, tất cả đều có điểm chung đó là tôn trọng thân xác và tổ chức giỗ, ngày kị, tưởng niệm người ta qua đời. Cuộc sống rất mỏng dòn và cuộc sống cũng rất bền vững, đối chọi được với bao thử thách vượt quá sức mình. Khối óc con người đi nhanh hơn điện, có lẽ không thua gì tốc độ ánh sáng. Bằng một cái nháy mắt ta có thể hình dung trong đầu hình ảnh cách ta hàng trăm ngày cây số mà cách đây nhiều năm ta đã nhìn thấy. Bằng một cái búng tay cảm xúc của ta có thể đổi từ buồn vời vợi sang vui cười. Chỉ một chữ cũng làm cho con tim sầu héo, cũng chỉ một chữ làm cho khuôn mặt hớn hở, vui tươi. Tất cả cảm xúc, vui buồn, nóng giận đó đều đến rồi đi. Con người cần niềm vui vĩnh cửu, niềm hoan lạc bền lâu. Điều gì thực sự làm cho con tim có được nguồn vui vĩnh cửu là điều có rất nhiều tranh biện. Tranh biện đưa đến bất đồng, từ bất đồng đưa đến chống đối, đả kích, lập phe, tìm phái tạo thế lực lấn át, đè nén nhau, bao gồm cả hãm hại.

Người ta bất lực sửa chữa những gì đã xảy ra hôm trước nhưng quá khứ lại trở thành nền móng xây đắp tương lai cho những ai thành tâm học hỏi. Để trả lời cho thắc mắc mục đích cuộc đời thì có nhiều í kiến.Một số tin vào khả năng chính mình và hy vọng mọi sự sẽ xảy ra như dự tính. Số khác tin vào sức mạnh huyền diệu từ bên ngoài, đưa đến trăm ngàn loại tôn giáo, đủ các loại thần. Thần từ thiên nhiên cũng lắm và thần tự tưởng tượng ra cũng nhiều. Số khác nữa tin vào Thiên Chúa soi sáng, dẫn đường, chỉ lối đi vào chốn trường sinh. Cả hai nhóm Biệt Phái và Pharasiêu đều cố gắng hướng dẫn dân chúng đi theo đường lối Chúa nhưng càng cố gắng họ càng vấp phải nhiều lầm lỗi. Họ làm cho cuộc sống trở thành gánh nặng cho người tin theo Chúa. Đức Kitô xuất hiện mang đến cho nhân loại luồng gió mới, làn gió mát trong lành, làn gió làm cho tình người nở hoa. Cuộc đời không còn là gánh nặng mà mỗi ngày là một niềm vui, niềm hy vọng. Lời Ngài có sức thánh hoá, làm cho người ta tin theo, cải hoá con tim sỏi đá thành con tim biết yêu thương. Giáo huấn của Ngài áp dụng thực tiễn trong đời sống và làm cho cuộc sống trở nên í nghĩa hơn. Ngài lại ban cho những ân sủng mà thế gian chỉ hứa mà không có khả năng làm điều đó.Chính những điều trên dẫn đến dân chúng nhận ra uy quyền nơi Ngài và đón nhận uy quyền đó với tâm tình tạ ơn, cảm mến.

Con cái đặt trọn niềm tin vào cha mẹ một vì là người mang chúng vào đời, bảo bọc, che chở, chăm nom, giáo dục hai là yêu thương với tất cả tấm lòng. Hiểu như thế để biết được tình Chúa yêu ta như cha mẹ yêu thương con cái. Chúa yêu ta với tất cả tấm lòng, cho đi không đòi báo đáp. Ban phát không tính hơn thiệt. Lỗi lầm Chúa chờ ta ăn năn thống hối. Phản bội Chúa tìm cơ hội thứ tha. Chối bỏ Ngài vẫn giang tay ban phát. Gặp nguy hiểm bàn tay Ngài luôn nâng đỡ. Tình Chúa vô biên và ân sủng Ngài ban là nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN, NĂM B

Lm. Athony Trung Thành

Quỷ dữ hay Satan là loại Thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa phạt trong Hỏa ngục. Nhưng Thiên Chúa vẫn cho chúng hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau trong lịch sử. Chúng thường xuyên cám dỗ con người. Nếu cậy vào sức mình, thì con người không phải là đối thủ của chúng. Ngay từ khi con người mới xuất hiện, Nguyên tổ chúng ta đã thua chúng. Và cứ như thế, theo dòng lịch sử, con người luôn bị Quỹ dữ quấy phá, xúi giục phạm tội để làm nô lệ cho chúng. Cuộc chiến giữa con người và quỷ dữ vẫn còn tiếp tục mãi cho tới Tận thế.

Ngày hôm nay, ít khi chúng ta chứng kiến cảnh Quỷ dữ công khai làm hại con người, nhưng chúng vẫn hiện diện và làm hại con người qua sự dữ, sự ác, sự tội. Chúng dụ dỗ, quyến rũ con người dưới nhiều chiêu thức khác nhau. Ngày 3 tháng 10 năm 2015, khi nói chuyện với các Hiến Binh Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định rằng “Satan là một kẻ dụ dỗ, nó gieo những nguy hiểm tiềm ẩn và dụ dỗ với đầy sự quyến rũ, và sự quyến rũ ma quỷ này khiến anh em tin mọi thứ. Nó biết cách làm thế nào để rao bán thật quyến rũ, nó bán rất chạy, và cuối cùng người ta phải trả giá rất cao !”. Trong các bài giảng của mình, Đức Phanxicô còn đưa ra các chiêu thức cụ thể mà Ngài cho là Quỷ dữ đang hoạt động nơi con người.

Đó là khi con người không dám tuyên xưng Đức Kitô. Ngài nói: “Khi một người không tuyên xưng Đức Kitô, người đó sẽ tuyên xưng sự trần tục của ma quỷ.”

Đó là khi con người rơi vào tình trạng bi quan trong cuộc sống. Ngài nói: “Chúng ta đừng bao giờ để mình rơi vào tình trạng bi quan, hay cay đắng là những điều ma quỷ đưa đến cho chúng ta hàng ngày.”

Đó là khi con người ghen tương, tham vọng, chia rẽ hay tham lam. Ngài nói: “Ma quỷ có hai vũ khí rất mạnh để tiêu diệt Giáo hội: đó là chia rẽ và tiền bạc… ma quỷ gieo trong lòng người sự ghen tương, tham vọng, và các ý tưởng chia rẽ hay tham lam. Nó gieo vào lòng người một cuộc chiến bẩn thỉu, gây ra chia rẽ như chủ nghĩa khủng bố.”

Đó là khi con người ngồi lê đôi mách, nói xấu nói hành nhau. Ngài nói: “Ẩn sau những lời đồn thổi là sự đố kị và ganh ghét. Những câu chuyện ngồi lê đôi mách này chia rẽ cộng đoàn, phá hủy cộng đoàn. Buôn chuyện là một vũ khí rất hiệu quả của ma quỷ.”

Ngoài ra, Đức Phanxicô còn cho biết: “Ma quỷ đang tấn công dữ dội vào các gia đình, là nơi ma quỷ không muốn tình yêu được thể hiện và chúng đang tìm cách để phá hủy tình yêu…”. Ngài còn cho biết thêm: “Ma quỷ không bao giờ chịu đứng im nhìn sự thánh thiêng và tốt lành của Giáo hội hay của mỗi chúng ta mà không cố tìm cách phá hủy sự tốt lành đó.”

Vậy, trước các hoạt động Quỷ dữ đang tấn công con người, chúng ta phải làm gì để đối phó với chúng ? Đức Phanxicô dạy chúng ta là đừng bao giờ đối thoại với chúng mà hãy dùng Lời Chúa để đối phó với chúng. Ngài nói: “Hãy xem cách Đức Giêsu đáp trả lại [những cám dỗ]: Người không đôi co với Satan, như Eva trong vườn Địa đàng. Đức Giêsu biết rất rõ rằng con người không thể dùng miệng lưỡi đôi co lại với Satan vì hắn rất xảo quyệt. Vì vậy, thay vì tranh luận với hắn như Eva xưa, Chúa Giêsu đã chọn cách vững chắc là dùng Lời Chúa để đáp lại ma quỷ với uy quyền của Lời Người. Chúng ta hãy ý thức điều này mỗi khi chúng ta bị cám dỗ …: Đừng đối thoại với Satan, nhưng hãy dùng Lời của Chúa để bảo vệ chúng ta. Và Lời Người sẽ cứu thoát chúng ta.” (Nguồn Lời giảng của Đức Phanxicô sưu tầm trên Internet).

Chúng ta nhớ lại biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc (x. Lc 4,1-13): khi Satan dùng danh, lợi, thú để cám dỗ Ngài, Ngài đã dùng Lời Chúa để chiến đấu với nó và lần đầu tiên, Satan đã thất bại thảm hại. Đức Giêsu đã chiến thắng lẫy lừng. Bởi Ngài không chiến đấu do sức lực của con người nhưng chiến đấu do sức mạnh của Thần linh đến từ Lời của Thiên Chúa. Từ đó, Satan luôn luôn bị Đức Giêsu khuất phục. Tin mừng Thánh Marcô hôm nay cho chúng ta biết (x. Mc 1,23-28): Khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường thì có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa.” Đức Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu trừ quỷ. Đọc Tin mừng cho chúng ta thấy nhiều lần nhiều nơi, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Ngài để trừ quỷ (x. 1,34.39; 3,11-12). Chẳng hạn, Ngài cho cả một đạo quân Quỷ dữ nhập vào đàn heo và cả đàn heo lăn xuống biển mà chết (x. Mc 5,1-20); Ngài chữa người bị quỷ ám mắc chứng bệnh động kinh (x. 9,14-29). Không những Ngài trực tiếp trừ quỷ mà Ngài còn gián tiếp giúp con người thoát khỏi ách thống trị của chúng như chữa lành bệnh tật, tha thứ tội lỗi : Ngài cho kẻ mù được thấy, kẻ câm nói được, kẻ điếc được nghe, kẻ què đi được, người mắc bệnh phong được khỏi; Ngài tha tội cho kẻ bất toại, người phụ nữ ngoại tình, những người thu thuế và các cô gái điếm…giúp họ thoát khỏi sự kìm kẹp của Quỷ dữ để họ được gia nhập với cộng đoàn. Vì theo quan niệm của người Do thái thì bệnh tật, tội lỗi là do Quỷ dữ gây ra.

Như vậy, Đức Giêsu có quyền trên Quỷ dữ, Ngài luôn chiến thắng chúng. Vì vậy, chúng ta muốn chiến thắng Quỷ dữ thì cần phải nhờ ơn Chúa giúp. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc ăn chay và cầu nguyện. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc đọc, suy gẫm và sống Lời của Ngài, vì “Lời của Ngài có uy quyền”. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc từ bỏ ý riêng để tuân phục ý Chúa. Tuân phục thánh ý Chúa bằng cách chu toàn bổn phận đấng bậc mình, sống gắn bó với Chúa như lời Thánh Phaolô căn dặn trong bài đọc II hôm nay: “Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình.” (1Cr 7, 32-34).

Lạy Chúa, Quỷ dữ luôn tấn công chúng con với nhiều chiêu thức khác nhau. Tự sức chúng con không thể thắng được chúng. Vì vậy, xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống khăng khít với Chúa để nhờ đó chúng con mới có thể thắng được mọi cơn cám dỗ của Quỷ dữ. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU – ĐẤNG QUYỀN NĂNG

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Trong những tuần vừa qua, các bài đọc Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại. Ngài đã đến để khai mở Nước Trời, kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng. Chúa nhật hôm nay, Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta: Đức Giêsu chính là một vị Thiên Chúa quyền năng. Quyền năng của Ngài khiến cho mọi tà thần, ma quỷ phải khiếp sợ.  

Quyền năng của Đức Giêsu hoàn toàn khác với quyền lực của thế gian. Thế gian dùng quyền lực để thống trị, uy hiếp người khác và bảo vệ cho địa vị của mình. Còn quyền năng của Đức Giêsu là uy quyền của một vị Thiên Chúa, Đấng tạo thành và làm chủ mọi loài mọi vật trên vũ trụ này. Ngài dùng quyền năng để xua trừ ma quỷ và tội lỗi, đem lại niềm vui, giải thoát và hạnh phúc cho nhân loại.

Trong ký ức của người Do Thái, ông Mose vừa là một thủ lĩnh tài ba, vừa là một vị đại ngôn sứ uy thế trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Mose được coi như một vị anh hùng thay mặt Chúa, đứng ra để lãnh đạo dân thực hiện cuộc xuất hành khỏi Ai Cập. Biến cố xuất hành đã thay đổi hoàn toàn số phận của dân Israel. Từ một dân nô lệ, Israel trở thành dân tự do, từ một dân du mục, trở thành những người được định cư tại miền đất hứa. Không những thế, trong suốt bốn mươi năm vượt sa mạc, Mose còn được coi như là nhà tổ chức và người lập luật cho dân tộc này. Bộ luật của Mose (Ngũ Kinh) vẫn còn ảnh hưởng trên dân Do Thái cho đến ngày hôm nay.

Bài đọc một cho thấy, lúc Mose đang được tôn trọng như một ngôn sứ vĩ đại, ông đã tiên báo rằng: Thiên Chúa hứa, từ giữa anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Anh em hãy nghe lời vị ấy. Vị ngôn sứ này sẽ trở thành trung gian nói lời của Thiên Chúa cho dân và chính Ngài sẽ là hình ảnh của Thiên Chúa giữa muôn dân: Ta sẽ đặt lời ta trong miệng người ấy, Vị đó sẽ nói với các ngươi những gì ta truyền cho các ngươi. Vì thế, kẻ nào không nghe lời ta truyền qua miệng của vị đó, kẻ ấy sẽ phải chết. Lời tiên báo của Mose đã được các tác giả Tin Mừng thấy ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Vì thế, Tin Mừng hôm nay muốn giới thiệu cho chúng ta, Đức Giêsu chính là một Mose mới, là một vị ngôn sứ quyền năng đã được Mose cũ tiên báo. 

Ngay những ngày đầu tiên xuất hiện công khai rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa tại vùng Caphanaum, Đức Giêsu đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều người. Họ tin Ngài như là một ngôn sứ và còn hơn hẳn các ngôn sứ trước đây, kể cả Gioan Tiên Hô, Đức Giêsu đã giảng dạy với uy quyền của một vị Thiên Chúa, khiến cho dân chúng kinh ngạc.

Dân thành Caphanaum không chỉ kinh ngạc về lời và cách thức giảng dạy của Chúa Giêsu, mà các việc làm của Ngài còn khiến dân chúng kinh ngạc hơn. Lúc đó, trong hội đường, có một người bị thần ô uế ám. Khi thấy Đức Giêsu, thần ô uế la lên: Hỡi ông Giêsu Nazareth, chúng tôi có can chi đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chi tiết này cho thấy, nếu như trước đây, nhân loại bị ràng buộc dưới quyền lực thống trị của ma quỷ và các thần xấu, hôm nay, với sự xuất hiện của Đức Giêsu, ma quỷ phải khiếp sợ, thế lực của nó bị đẩy lui và bị tiêu diệt. Chính ma quỷ đã phải thú nhận điều đó, sự xấu đã phải đầu hàng trước sự thánh thiện, thần ô uế phải trốn chạy trước: Đấng Thánh của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã không dung tha cho ma quỷ, không thỏa thuận, thỏa hiệp với thế lực sự xấu, Ngài đã quát mắng và ra lệnh cho chúng: Câm miệng, và xuất khỏi người này. Bằng một mệnh lệnh đầy uy quyền của một vị Thiên Chúa, đã khiến cho ma quỷ và tà thần buộc phải câm miệng và xuất ra. Thần ô uế dằn vặn người bị nó ám, thét lên và xuất ra khỏi người bị ám. Việc làm này của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng: Nước Trời và quyền năng của Thiên Chúa đã thực sự lan tỏa trên mặt đất, giải thoát và đem đến cho con người sự tự do. Những ai tin vào Đức Giêsu là Đấng quyền năng, thì sẽ được quyền năng của Ngài bảo vệ. Với sự xuất hiện của Đức Giêsu, nhân loại và vũ trụ này sẽ được giải thóat khỏi sự sợ hãi, ràng buộc, nô lệ của ma quỷ và các thế lực bóng tối và được tự do, sống trong ánh sáng.

Tin Mừng Marcô đã ghi nhận phản ứng của dân chúng khi chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu thực hiện. Dân chúng sững sờ, ngạc nhiên, họ đặt ra nhiều câu hỏi để tìm hiểu về con người và việc làm của Chúa Giêsu. Họ suy nghĩ về ý nghĩa và lời giảng của Ngài. Họ nhận định: Lời giảng của Ngài thì mới mẻ; người giảng thì có uy quyền. Dân chúng đã đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi hết sức quan trọng: Ngài là ai mà lại ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh? 

Mặc dù tác giả Tin Mừng đã không ghi nhận câu trả lời của dân thành Caphanaum, nhưng lại cho thấy niềm tin của họ, đó là, những người này đã tin và loan truyền danh tiếng của Ngài cho khắp vùng Galilea. Phải chăng khi không ghi lại câu trả lời của những người dân thành Caphanaum, tác giả Tin Mừng muốn mỗi chúng ta ngày nay tự tìm câu trả lời cho riêng mình: Đức Giêsu là ai đối với tôi ?

Ngày nay chúng nhận biết Chúa Giêsu, từng chứng kiến bao việc lạ lùng Ngài đã thực hiện cho mình và gia đình, nhưng nhiều người vẫn không thán phục và không đặt trọn niềm tin nơi Ngài. Nhờ Bí Tich Rửa tội, chúng ta trở nên công dân Nước Trời, nhưng nhiều người vẫn không suy phục quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Họ không chạy đến cầu xin Người mỗi khi bị thử thách, bị tội lỗi vây bủa, giam hãm, mà lại tìm kiếm, cậy dựa vào thế lực của ma quỷ, tối tăm như: xem thày- bà, bói- toán. Nhiều người đã không tin Thiên Chúa quyền năng luôn làm mọi điều tốt đẹp, luôn bảo vệ và gìn giữ chúng ta, nên đã thực hành tin kiêng, mê tín, theo kiểu dân ngoại, coi ngày coi giờ, kiêng mồ, kiêng mả. 

Nhiều người đã để gia đình mình trống rỗng, không có Chúa, không có việc đạo đức, không có giờ kinh sớm tối,  trở thành chỗ cho ma quỷ và các sự xấu xâm nhập. Ma quỷ không thể làm điều tốt, chúng chỉ có thể đem đến sự bất hòa bất thuận, chúng gieo sự hồ nghi vào trong gia đình. Ma quỷ và sự lười biếng là thủ phạm gây ra cãi vã, rạn nứt; sự lười biếng dẫn đến say sưa, nhàn cư vi bất thiện, khiến nhiều gia đình đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ, bất hòa. 

Để khôi phục lại sự tin tưởng lẫn nhau và sự êm ấm trong gia đình, đòi các thành viên, từ cha mẹ đến con cái, phải suy phục, tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa. Mỗi người phải không ngừng khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời và gia đình, đặt Chúa Giêsu vào vị trí trung tâm của đời sống cá nhân và gia đình. Thiên Chúa sẽ không thể hiên quyền năng khi chúng ta từ chối không tin Ngài. Vì thế muốn Thiên Chúa làm chủ và xua đuổi sự dữ, sự xấu ra khỏi gia đình và cuộc sống, mỗi người cần khiêm tốn và hoàn toàn đặt trọn niềm tin nới Chúa; để cho Ngài hướng dẫn và vâng theo sự hướng dẫn của Ngài. Siêng năng dâng lễ và rước Chúa vào tâm hồn là cách tốt nhất để mời Chúa về gia đình. Giờ kinh tối là cách để cho Lời Chúa uốn nắn điều khiển gia đình. Khi chuyên chăm như thế, Thiên Chúa sẽ thực hiện quyền năng của Ngài và những điều kỳ diệu trong gia đình.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức rằng, chúng ta cũng được “chia sẻ vào quyền năng” của Thiên Chúa để đem lại hạnh phúc cho người khác. Vì thế, xin cho chúng ta biết sống tâm tình suy phục, biết ơn Thiên Chúa và dùng khả năng Chúa ban để phục vụ anh em đồng loại, đem lại cuộc sống hạnh phúc cho người chung quanh. Amen.

Về mục lục

.

CHỈ PHỤNG SỰ MỘT MÌNH CHÚA

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 1,21-28.

(21) Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. (22) Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. (23) Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên (24) rằng: “Ông Giê-su Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. (25) Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (26) Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. (27) Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!”. (28) Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.

  1. Ý CHÍNH:

Đức Giêsu chính là vị Ngôn Sứ ưu việt đã được Mô-sê tiên báo sẽ đến. Tin mừng Mác-cô hôm nay trình bày Đức Giê-su khởi đầu sứ mạng Thiên Sai vào một ngày Sa-bát tại một hội đường thành Ca-phác-na-um miền Ga-li-lê. Lời giảng dạy và quyền uy của Đức Giê-su khiến mọi người thán phục

  1. CHÚ THÍCH:

C 21-21: +Thành Ca-phác-na-um: Là một thành nằm về phía Tây Bắc của biển hồ Ga-li-lê. Đức Giê-su chọn thành này làm trung tâm truyền giảng Tin Mừng. Tại thành này, Người đã làm nhiều phép lạ như: trừ quỉ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh (x. Mc 5,25-34), cho kẻ chết sống lại (x. Mc 5,21-43)… Người cũng có lần quở trách thành này vì đã cứng lòng tin (x. Mt 11,23-24). + Hội đường: Là một ngôi nhà hình vuông gồm có ba gian, được xây hướng về Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nơi gian giữa có đặt một tủ đựng Sách Thánh, và một cái giá dành cho chủ sự. Hội đường là nơi người Do Thái trong làng hội họp để nghe giảng Kinh Thánh và cầu nguyện. Chúa Giê-su thường được mời giảng tại các hội đường khắp nước Do thái.

C 23-24: +Một người bị thần ô uế ám: Đây là một người bị quỉ nhập vào. Ma quỉ hay Xa-tan có nhiều nghĩa: “kẻ hủy diệt”, “kẻ gian ác”, “người cáo tội” (Tv 109,6)… Ở đây ma quỉ được gọi là “thần ô uế” để đối lập với Đức Giê-su là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”.

C 25-27: +“Câm đi, hãy xuất khỏi người này”: Việc Đức Giê-su ra lệnh và ma quỷ đã phải im tiếng xuất ra khỏi người bị nó ám, chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người trên ma quỷ.

  1. CÂU HỎI: 1- Ma quỉ có thực hay chỉ là tưởng tượng của những người mê tín dị đoan? Kinh Thánh nói gì về sự hiện hữu của ma quỉ và các hoạt động của chúng? Đức Giê-su và Giáo Hội sơ khai có thái độ thế nào đối với ma quỉ? 2- Khi thấy một người có biểu hiện bất thường về tâm thần, ta có nên vội kết luận họ bị quỉ ám và tìm cách trừ tà hay không? Ai có quyền cử hành nghi lễ trừ tà? 3- Để có thể trục xuất ma quỉ ra khỏi người bị nó ám thì người trừ quỉ cần có những điều kiện nào? 4- Ngày nay, ngoài việc trừ ma quỉ, giải thoát những người đang bị đàn áp khống chế, Giáo Hội còn có sứ mạng gì liên quan đến ma quỉ?

ĐÁP:

  1. +Ngày nay, nhiều người không tin có ma quỉ. Họ thường giải thích các hiện tượng siêu nhiên do ma quỉ làm nơi con người thuần túy chỉ là những triệu chứng của bệnh thần kinh. Đang khi Kinh Thánh lại luôn khẳng định về sự hiện hữu của ma quỉ..

+Trong Kinh Thánh, ma quỉ được gọi là “Con Mãng Xà”, “Xa-tan” hay “Thần ô uế” (x. Kh 20,2 ; Mc 1,23). Chúng vốn là thiên thần trên trời, nhưng do phản nghịch với Thiên Chúa nên đã bị phạt xuống hỏa ngục (x. Gd 1,6 ; Kh 20,7-10); Chúng được Thiên Chúa cho phép thử thách đức tin của người ta như trường hợp ông Gióp (x. G 1,6-2,7); Chúng cám dỗ người ta phạm tội như cám dỗ bà E-và (x. St 2,24), cám dỗ Đức Giê-su (x. Lc 4,2); Chúng ám hại người ta như đã giết 7 người chồng của bà Xa-ra (x. Tb 3,8 ; 6,14); Chúng trói buộc người ta bằng cách làm cho họ bị bệnh tật (x. Lc 13,16)…

+Sứ mạng của Đức Giê-su là tiêu diệt ma quỉ (x. Mc 1,24). Người không nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ (x. Mc 3,22-26), nhưng nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Mt 12,22tt). Kết quả là ma quỉ phải chịu khuất phục (x. Ga 14,30). Người cũng ban cho các Tông đồ được quyền trừ quỉ (x. Mc 6,7). Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Người là lúc ma quỉ bị tống ra ngoài và bị xét xử (x. Ga 12,31; 16,11).

+Đến thời Giáo Hội Sơ Khai, Phi-líp-phê đã nhờ Thánh Thần mà trừ quỉ (x. Cv 8,7); Phao-lô cũng có khả năng trừ quỉ (x. Cv 19,11-12). Ngày nay ma quỉ vẫn đang hoành hành bằng cách nhập vào những người yếu đức tin (x. Mt 13,43-45); Chúng hành hạ người ta như sàng gạo vậy (x. Lc 22,31). Chúng giống như sư tử luôn rình mồi cắn xé người ta (x. 1 Pr 5,8). Hội Thánh vững tin sẽ toàn thắng ma quỉ khi đến ngày tận thế. Bấy giờ ma quỉ cùng những kẻ đi theo chúng sẽ bị giam phạt trong hoả ngục đời đời (x. Mt 25,41; Lc 10,18).

  1. +Không nên vội xác định bệnh nhân đã bị quỉ ám, nhưng trước tiên cần đem đến bác sĩ thần kinh hay bác sĩ phân tâm học để được khám và điều trị bằng thuốc men hay các phương pháp tâm lý tự nhiên. Nếu bệnh không thuyên giảm và có những bằng chứng do ma quỉ làm thực sự, thì phải nhờ Cha Sở hay Linh Mục đặc trách trừ quỉ điều tra xem xét. Các vị này sẽ tiến hành việc trừ quỉ dưới sự chỉ đạo của Đấng Bản Quyền Giáo phận.

+Theo kết quả điều tra thì phần lớn các trường hợp nạn nhân tưởng là bị quỉ ám, thư ếm hay bùa ngải… Thực ra chỉ là hiện tượng suy nhược thần kinh hoặc do ảo giác tưởng tượng mà thôi. Riêng các hiện tượng lạ như bàn ghế tự nhiên xê dịch, giường nằm của bệnh nhân có ai đó dựng lên, hoặc bệnh nhân tự nhiên được nâng cao lên khỏi giường, hoặc có những tiếng gõ bàn hay tiếng nói mỗi khi thày ngải tra hỏi bệnh nhân… có thể do ma quỉ gây ra, mà cũng có thể chỉ là ảo thuật do các thầy pháp hay thầy phù thủy thực hiện, nhằm đánh lừa để người ta tin theo.

+Trong trường hợp chắc chắn các hiện tượng trên do ma quỉ nhập vào và khống chế làm hại một người nào đó, thì Đấng Bản Quyền sẽ chỉ định các linh mục chuyên viên đủ kinh nghiệm chính thức cử hành nghi lễ trừ quỉ.

  1. +Nếu bệnh nhân thực sự bị quỉ ám, thì các chuyên gia chỉ trừ được ma quỉ nếu có đức tin vững mạnh và ý chí kiên quyết (x. Mt 17,20). Phải ăn chay và cầu nguyện trong suốt thời gian trừ quỉ (x. Mt 4,5) ; Phải kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su để nhờ quyền năng của Người mà trừ quỉ (x. Ga 15,5). Họ cũng phải nhờ Thần Khí của Chúa Giê-su (x. Mt 12,28) và nhân danh Người mà trừ quỉ (Mc 9,38). Cuối cùng họ còn phải là người từng trải và có kinh nghiệm để có thể đối phó hữu hiệu với ma quỉ và tránh bị chúng làm hại (x. Cv 19,11-19).
  2. +Hiện nay, ngoài việc trừ quỉ, Hội Thánh còn có sứ mạng chống lại những sự dữ thuộc về ma quỉ như: ma thuật, đồng bóng và mê tín dị đoan (x. Cv 13,9-11). Bài trừ tận gốc các tệ nạn xã hội như: Sì-ke ma túy, mãi dâm, rượu chè, cờ bạc, sách báo phim ảnh khiêu dâm bạo lực (x. Mt 19,16-18); Hội Thánh cũng phải hòa giải các tranh chấp, đấu tranh chống lại bất công bóc lột. Cuối cùng Hội Thánh còn phải cộng tác với chính quyền và các tổ chức nhân đạo bài trừ các thứ giặc như: nghèo đói, dốt nát và mê tín (x. 1 Cr 10,20).

+Ngoài ra, Hội Thánh cũng khuyên các tín hữu phải phòng tránh sự khôn ngoan giả dối của thế gian và ma quỉ (x. Gc 4.14-15), đề phòng các tiên tri giả là tay sai của ma quỉ gửi các thư nặc danh, các tin nhắn mạo danh “Sứ điệp từ trời” để đả kích Đức Thánh Cha, truyền bá một thứ giáo lý sai lạc ngược lại giáo lý tông truyền của Hội Thánh (x. Tm 4,1 ; Kh 16,14).

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1,27).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CHRISTOPHER- NGƯỜI BỒNG ẴM CHÚA KI-TÔ

Kho truyện các thánh có ghi lại câu chuyện về một người mang Đức Ki-tô như sau:

Có một chàng thanh niên có sức mạnh phi thường nhưng không ai biết tên thật của chàng. Anh này có tâm nguyện đi tìm một người quyền lực nhất để phụng sự. Đầu tiên anh nghĩ không ai quyền lực hơn viên tướng cướp trong vùng anh đang ở nên đến gia nhập vào băng cướp và anh được phân công làm hộ vệ cho viên tướng cướp. Nhưng mỗi lần băng cướp sắp có vụ làm ăn, anh ta lại thấy viên tướng cướp phải đến nhờ thầy phù thuỷ làm phép cho vụ làm ăn thành công. Thế là anh thanh niên liền bỏ viên tướng cướp để xin theo hầu thầy phù thuỷ. Một hôm, khi theo thầy phù thủy đi hành nghề, anh thấy thầy đang đi trên đường gặp một cây Thánh giá bên vệ đường liền sợ hãi không dám đi tiếp mà vòng lại đi đường khác. Thế là anh chàng lực sĩ liền bỏ thầy phù thuỷ quay trở lại đứng bên cây Thánh giá để mong được gặp chủ nhân cây Thánh giá. Anh ta cứ đứng đó chờ mấy ngày liền mà vẫn không thấy chủ nhân cây Thánh giá xuất hiện. Nơi đó gần một khúc sông cạn và có nhiều người đã phải mạo hiểm lội bì bõm qua sông để sang bờ bên kia. Một hôm, một chú bé đến nhờ anh lực sĩ cõng qua sông và anh đã lập tức giúp cõng em trên vai lội qua sông. Có điều khi mới được một đoạn ngắn, anh lực sĩ tự nhiên cảm thấy chú bé trở nên quá nặng, liền hỏi lý do và được chú bé trả lời: “Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay nên làm sao không nặng cho được”. Cậu bé còn cho biết mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá mà chàng lực sĩ đang muốn gặp mặt. Thế là chàng lực sĩ liền xin đi theo vị Chúa Ki-tô Chủ Tể của trái đất này. Chúa Ki-tô dạy anh: “Nếu muốn phụng sự Ta, con hãy dựng một căn lều và luôn ở cạnh cây Thánh giá, để nếu có ai muốn qua sông thì con sẽ cõng họ qua”. Chàng lực sĩ liền làm theo lệnh Chúa truyền. Từ ngày đó, dân chúng trong vùng đã gọi chàng bằng cái tên thân thương là KÍT-TÔ-PHƠ (Christopher), nghĩa là “Người mang vác Chúa Ki-tô”.

2) PHIM “NGƯỜI TRỪ QUỈ”:

Vào năm 1970, cuốn phim “Người trừ quỉ” (Exorcist) được trình chiếu thì lập tức đã phá kỷ lục số vé bán ra. Chuyện phim kể lại một câu chuyện có thật về một thiếu niên 14 tuổi ở vùng Mao-Rai-mơ (Mt. Raimer), thuộc bang Me-ri-len (Maryland) của Hoa Kỳ vào năm 1949. Về sau, tờ “Tuần Tin Tức” (Newsweek) đã tường thuật câu chuyện này như sau: “Theo người cha kể lại thì cậu thiếu niên này thích ở một mình trên gác xép và chơi cầu cơ. Qua trò cầu cơ, cậu ta thường nói chuyện lâu giờ với một người có tên là “Ông Đại Úy”. Lúc đầu người cha cho rằng cầu cơ chỉ là một trò giải trí vô hại. Nhưng về sau, khi thấy con trai có những biểu hiện bất thường, thì cha mẹ cậu bé bắt đầu lo lắng. Nhất là một hôm ông bố nhìn thấy ghế bàn và chiếc giường cậu con đang nằm tự nhiên bị di chuyển trên sàn nhà giống như có bàn tay vô hình nào đó kéo đi. Rồi ban đêm cậu bé bị mất ngủ và hay nói lầu bầu điều gì đó với cái giọng khàn đặc của một gã đàn ông trung niên. Sau đó buộc lòng ông bố phải đưa con đến bệnh viện của trường Gioóc-dơ-tao (Georgetown), một trường đại học danh tiếng. Tại đây bác sĩ điều trị phát hiện ra cậu bé biết nói thành thạo tiếng La-tinh, một thứ cổ ngữ rất khó học mà cậu ta chưa từng biết đến trước đó. Cuối cùng sau một thời gian nằm điều trị vô hiệu, cha mẹ cậu đành đem con về nhà và nhờ hai vị linh mục dòng Tên có lòng đạo đức thánh thiện đến nhà cử hành nghi lễ trừ quỉ.

Cuộc chiến đấu giành linh hồn của cậu bé đã xảy ra rất căng thẳng và quyết liệt, kéo dài suốt 2 tuần lễ. Cuối cùng ma quỉ cũng chịu khuất phục và xuất ra khỏi nạn nhân. Nhưng đồng thời vị linh mục chủ lễ cũng đã gục xuống chết tại chỗ do chứng nhồi máu cơ tim. Hiện nay cậu bé trên vẫn còn sống tại thủ đô Wo-sinh-tơn (Washington). Một trong hai linh mục từng tham gia vào việc trừ quỉ đã thề là không bàn luận gì thêm về công việc nguy hiểm này. Tuy nhiên ông cũng cho biết là chính nhờ tham gia vào việc trừ quỉ mà bản thân ông đã thêm đức tin để luôn trông cậy vào quyền năng và tình thương của Chúa.

3) SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA LỜI CHÚA:

Tokichi Ishii, một tên sát nhân không gớm tay đã đạt kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Hắn tàn sát đàn ông, phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn bị bắt và bị kết án tử hình.

Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ khuyên nhủ hắn, tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.

Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn cuốn Tân ước với hy vọng mỏng manh hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động… Niềm hy vọng đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc, Lời Chúa thu hút anh khiến anh tiếp tục đọc trình thuật cuộc tử nạn của Chúa Giêsu… Đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”! (Lc 23, 34), anh dừng lại, suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, con tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, là lòng thương xót của Ngài. Điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa”.

Các nhân viên nhà giam dẫn đưa anh đi hành quyết, họ rất ngạc nhiên thấy tử tôi Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không phải một tên sát nhân hung bạo. Ishii, tên tử tội đã được lời Chúa tái sinh.

(Trích Lẽ Sống, Radio Veritas)

4) SỰ KHÔN LANH VÀ HIỂM ĐỘC CỦA MA QUỶ:

Một tu sĩ kia rất có lòng đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Sa-tan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Sa-tan, tu sĩ tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ liền nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ông là một điều tốt. Ông thấy không, ai làm việc lành đều là người tốt cả. Vậy tôi cũng là một người tốt”. Tu sĩ đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta?“ Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngày nào ông ngủ quên không đọc kinh sáng, thì khi thức dậy ông sẽ cảm thấy hối hận, khiêm tốn và quyết tâm sống đạo đức hơn. Còn ngày nào ông thức dậy sớm đọc kinh sáng, thì ông sẽ nghĩ mình đạo đức và không quyết tâm làm các việc lành khác”. Nói xong nó biến mất.

Câu chuyện trên cho thấy ma quỷ thật khôn lanh quỷ quyệt khi cám dỗ loài người chúng ta.

  1. SUY NIỆM:

Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng quyền năng trong lời nói và việc làm

1) QUYỀN NĂNG TRONG LỜI NÓI:

Đức Giê-su đã rao giảng Lời Chúa trong hội đường Ca-phác-na-um khiến người nghe phải kinh ngạc, vì : “Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ” (Mc 1,22).

Vì Người là chính Lời Thiên Chúa nhập thể làm người và được Chúa Cha sai đến làm Đấng Thiên Sai, nên Người chỉ nói Lời Thiên Chúa cho loài người chứ không bị lệ thuộc vào thế giá của các ngôn sứ đi trước, kể cả ông Mô-sê. Đức Giê-su đã biểu lộ uy quyền khi thay đổi các tập tục trong Luật Mô-sê: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình thì phải bị đưa ra tòa…” (Mt 5,21-22).

Người cố ý chữa bệnh trong ngày Sa-bát, và khi bị hạch hỏi Người đã trả lời như sau: “Ngày Sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát; Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sa-bát” (Mc 2,27).

2) QUYỀN NĂNG TRONG HÀNH ĐỘNG:

Đúc Giê-su thể hiện là Đấng Thiên Sai đầy uy quyền như sau:

– Làm chủ các định luật thiên nhiên: Biến nước lã trở thành rượu nho trong bữa tiệc cưới thành Ca-na; Nhân 5 chiếc bánh và 2 con cá ra nhiều cho môn đệ phân phát cho 5 ngàn người được ăn no trong hoang địa; Đi trên mặt nước mà đến với thuyền các môn đệ; Dẹp yên sóng gió giữa biển hồ; Giúp các môn đệ bắt được mẻ cá lạ lùng…

– Chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền: Người cũng dùng lời quyền năng để chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân như: Cho người mù được sáng mắt; Kẻ câm nói đươc, người điếc được nghe, người què đi được, người phong cùi được sạch…

– Phục sinh kẻ chết: Người còn truyền cho một bé gái mới chết đang nằm trên giường được trỗi dậy; Cho một thanh niên mới chết tại cửa thành Na-im đang được người thân mang đi chôn; Cho anh La-da-rô đã chết được chôn trong mồ 4 ngày được sống lại và ra khỏi mồ; Và chính Người đã từ cõi chết trỗi dậy vào ngày thứ ba đúng như Người đã tiên báo.

3) QUYỀN NĂNG TRÊN MA QUỶ:

Gặp Đức Giê-su, ma quỷ đã nói ra sứ vụ cứu thế của Người như sau: “Ông Giê-su Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24). Đức Giê-su đã lên tiếng quát nạt ma quỷ: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc 1,25-26). Chính thái độ sợ hãi và vâng phục Đức Giê-su của ma quỷ cho thấy quyền năng của Người như lời đám đông dân chúng đã nói: “Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mt 1,27b).

4) PHỤNG SỰ MỘT MÌNH CHÚA:

– Ngày nay noi gương Tông đồ Phê-rô, chúng ta hãy đặt trọn niềm tin vào Chúa Giê-su: Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống, nhiều môn đệ không chấp nhận về bí tích Thánh Thể và đã bỏ đi không muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su nữa, chỉ còn Nhóm Mười Hai là vẫn còn ở lại với Người. Đức Giê-su đã không rút lại ý định lập bí tích Thánh Thể và đòi các ông phải xác định: tin hay không tin, bỏ đi hay ở lại qua câu hỏi: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Ông Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai đáp lại rằng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).

– Để trung thành tin theo Chúa Giê-su, cần năng học sống Lời Chúa: Mỗi lần hiệp sống Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá thêm sự mới mẻ của Lời Chúa, và nhận ra quyền năng của Chúa thể hiện trong thiên nhiên và qua các dấu chỉ của thời đại như lời thánh vịnh: “Lời Chúa là đèn soi cho con bước. Là ánh sáng chỉ đường cho con đi” (Tv.118,105). Nhờ năng tham dự các buổi Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần tại nhà Sinh Hoạt Mục Vụ hay trong Giờ Kinh Tối Gia Đình hằng ngày… chúng ta hy vọng sẽ từng bước trở thành “muối men”, hòa lẫn vào thúng bột xã hội để làm cho cả xã hội đều dậy lên men tình yêu của Chúa. “Ánh sáng” của các việc lành chúng ta làm sẽ giúp anh em lương dân nhận biết và ca ngợi Chúa Cha trên trời.

– Chúng ta cũng cần phải ý thức sứ mạng của mình là cộng tác với những người thiện chí để đẩy lùi các tệ nạn xã hội ra khỏi môi trường sống: Hiện nay ma quỉ vẫn luôn tìm cách phá hoại công trình cứu độ của Chúa Giê-su là Hội thánh. Chúng ta cần hợp tác xây dựng một môi trường sống an toàn sạch đẹp và văn minh hơn. Cần quan tâm an ủi những người đang gặp hoàn cảnh khó khăn, bằng việc giúp họ vững tin vào lòng Chúa thương xót và giúp họ vượt qua các tai nạn với hết khả năng của mình.

  1. THẢO LUẬN:

1) Kinh nghiệm của các người tham gia trừ quỷ cho biết: những người bị ma quỉ ám là những kẻ đã có lòng tin vào quyền năng của chúng và có quan hệ mật thiết với chúng như: đến xem các buổi lên đồng, chơi trò cầu cơ, đi coi bói toán… Bạn đã bao giờ tò mò chơi thử những trò nguy hại đó chưa?

2) Bạn cần làm gì để thêm đức tin hầu tránh bị ma quỉ xâm nhập và khống chế, bắt bạn trở thành tay sai của chúng?

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU là “Đấng Thánh và là Con Thiên Chúa”. Chúa đến để tiêu diệt ma quỉ và thiết lập một Triều Đại Mới Của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa đã bắt ma quỉ phải câm miệng và xuất ra khỏi người bị chúng trói buộc. Xin cho chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa, và xin Chúa giúp chúng con chiến thắng ma quỉ, tội lỗi và các thói hư. Xin cho chúng con sẵn sàng cộng tác với Chúa và những người thiện chí đẩy lùi các cám dỗ của ma quỷ là phim ảnh xấu, ma túy, cờ bạc, rượu chè… ra khỏi gia đình và môi trường chúng con đang sống hầu cho  Nước Chúa mau hiển trị.  

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin dạy cho con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết tận lực mà không chờ một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã làm theo thánh ý Chúa. Amen. (Thánh I-mha-xi-ô).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU – MÔSÊ MỚI

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Dân Do thái xưa được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương và chăn dắt. Để đi về đất hứa, họ đã phải trải qua một thời gian dài 40 năm trong sa mạc. Thiên Chúa đã dùng các tiên tri để nhắc nhở cho dân biết sống theo lề luật và thánh ý Thiên Chúa. Môsê là vị tiên tri đã lãnh đạo dân Do thái từ đất Ai cập để đi đến đất hứa. Ông vừa là nhà lập pháp và cũng là nhà hành pháp. Trước khi vào đất hứa, ông thấy mình sắp lìa trần nên đã cố gắng an ủi, nhắc nhủ dân những lời cuối cùng để họ thi hành khi vào đất hứa. Đàng khác, ông nói cho họ rằng, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị tiên tri tài danh để ở với dân Ngài, và nói cho họ những lời và mệnh lệnh của Thiên Chúa. Vị tiên tri này cũng sẽ rất mạnh mẽ như Môsê trong lời nói và hành động. Đấng Tiên tri tuyệt hảo đó sẽ là Đấng Kitô, như thư Do thái viết: “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này,Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”.

Thưa anh chị em, Tiên tri là người được Thiên Chúa tuyển chọn để loan báo Lời Chúa cho mọi người, nhắc nhở mọi người biết sống theo lề luật và thánh ý Thiên Chúa, hướng dẫn dân chúng sống giao ước với Thiên Chúa. Chúa Giêsu khi đến trần gian, trong ba năm đời công khai đã rao giảng lời Thiên Chúa. Lời giảng của Người đã được các thính giả đánh giá cao: “Người gảng dạy như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ”. Quả thật, Đấng Kitô là một vị Đại Tiên Tri mà Môsê nhân danh Thiên Chúa loan báo cho dân Israel, Chúa Giêsu thật sự là Đấng Messia, nhân danh Thiên Chúa mà đến nói những lời của Thiên Chúa. Do đó, cần tuyệt đối nghe Lời Người. Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, là Đấng cứu độ trần gian, mang một uy quyền của Thiên Chúa, nên khi Người giảng dạy, ai nấy đều kinh ngạc về giáo lý của Người. Ngay chính ma quỷ cũng biết Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa và kêu Danh Thánh Người: “Hỡi ông Giêsu Nazarét, phải chăng ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Quả thật đúng như vậy, Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa đầy quyền năng, Người đến để kết thúc quyền lực của ác thần và ma quỉ trên con người. Vì thế, bằng một lời truyền đầy uy quyền: “hãy im đi và ra khỏi người này!”. Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Người đã truyền cho ma quỷ ra khỏi người bệnh một cách dứt khoát mạnh mẽ, khiến cho dân chúng chứng kiến đều phải kinh ngạc và tự hỏi: “Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Có câu chuyện kể rằng, có một ông nông dân rất giàu nhưng cũng lại rất keo kiệt. Thế rồi ông hối hận và muốn làm lại cuộc đời. Ngày kia một người hàng xóm bị cháy nhà, đến gõ cửa và xin ăn. Ông định cho người ấy một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp ma quỷ nói thầm bên tai ông: Cho cái đùi bé bé thôi nhé. Ông chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của mình và đã lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỷ nhạo cười ông: Mày khùng quá. Thế nhưng ông đã nói lớn: Nếu mày không câm miệng lại, thì ta sẽ cho ông ta cả con heo ngay bây giờ.

Vâng, từ câu chuyện trên chúng ta thấy thời buổi cũng có ma quỷ. Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên khi sai các Tông đồ đi rao giảng, Chúa Giêsu vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Ước chi hôm nay chúng ta nghe tiếng Chúa chiến đấu chống lại ma quỷ bởi những sự dữ, sự ác để làm cho thế giới này bớt đi hận thù, chia rẽ và thay vào đó là một thế giới biết quý trọng sự sống, biết yêu thương và phục vụ nhau trong bình an của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

SỨ MẠNG LÀM NGƯỜI

 Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Tôi chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt để anh chị em gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co”. (2Cor 7,35)

  Điều mà thánh Phao-lô muốn nói là,Ngài khuyên những người chưa kết hôn hãy ở vậy thì tốt hơn. Vì “Thời gian chẳng còn bao lâu”(x.1Cor7,29) và “Bộ mặt thế giới này đang biến đi”(x.1Cor 7,31). Vậy còn người đã kết hôn thì sao ? Rõ ràng lời khuyên đó của thánh Phao-lô chỉ dành cho thời đó mà thôi. Còn thời đại bây giờ của chúng ta thì khác và đề nghị của thánh Phao-lô cho chúng ta là “Gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co”.

  Thực tế bây giờ dù là Linh Mục; Tu sĩ hay giáo dân sống và hoạt động trong thế giới có nhiều giằng co.

  Đối với Linh mục và Tu sĩ thì có sự giằng co giữa Chúa và việc Chúa; giữa việc Chúa và việc đời; giữa yêu Chúa và yêu người; giữa Chúa và đời.

    Đối với giáo dân thì có sự giằng co giữa Chúa và đời; việc Chúa việc đời; Chúa và tiền; tình và hiếu,…..

  Sở dĩ có những dự giằng co đó là vì ta theo Chúa, ta tin Chúa, nhưng mà…..Cái “Nhưng mà” này làm cho ta bị giằng co đây. Giằng co đây là vì ta muốn được cả hai mà không được, phải chọn một trong hai.

   Thánh Phao-lô nói: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa, họ tìm cách làm đẹp lòng Chúa”(x.”Cor7,32a). Áp dụng câu này vào đời sống các Linh Mục, ta thấy không chắc là như thế. Có nhiều Linh Mục, lo lắng việc đời, lo làm đẹp lòng người đời chứ không lo việc Chúa, không lo làm đẹp lòng Chúa.

Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc chọn về Người cả xác lẫn hồn”(x.2Cor 7, 34a). Áp dụng câu này vào đời sống các Tu Sĩ, ta thấy không hẳn là như vậy. Các Tu Sĩ ngày nay, cũng phải lo bao nhiêu việc, nhiều khi lo việc Chúa mà quên cả Chúa; lo làm việc chuyên môn. Lo làm việc có tiền để sống, để tu mà không chăm lo đến đời sống thiêng liêng.

Người có vợ thì lo lắng việc đời, họ tìm cách làm đẹp lòng vợ”(x.2Cor 7,32b). Người ta nói là “Nhất vợ nhì Trời” đó mà. Nếu được như vậy thì phúc cho người vợ đó quá. Dầu vậy, những người chồng, người cha đó không chỉ có lo việc đời để bao đảm hạnh phúc gia đình, mà họ còn tham gia vào công việc của Chúa nữa. Có khi lo việc bác ái quá, quên cả chăm sóc và dạy dỗ con cái.

Người có chồng thì lo lắng việc đời, họ lo làm đẹp lòng chồng”(x.2Cor 7, 34b). Nếu được như vậy thì phúc cho ông chồng đó quá. Thế nhưng, người vợ, người mẹ đó không chỉ lo lắng việc gia đình mà còn cộng tác vào công việc của Giáo Xứ, của Xã Hội. Có khi lo việc Giáo Xứ, lo việc Xã Hội quá lại bỏ bê công việc của gia đình.

  Như thế ta thấy, dù sống đời thánh hiến hay đời hôn nhân và gia đình, chúng ta bị giằng co. Làm sao chúng ta gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co đây ? Theo tôi, một trong những cách đó là ta không nên tách rời những công việc đó, mà gom lại thành một; Trừ TÌNH và HIẾU ra.

  Tình và hiếu không thể gom chung làm một được, vì như thế sẽ rất khó giải quyết. Thứ nhất tình và hiếu không cùng phạm trù. Nên không thể so sánh. Ta không thể so sánh giữa cha mẹ với vợ hay chồng được. Cha mẹ là cha mẹ, vợ chồng là vợ chồng.

  Thứ hai, ta không sống đời ở kiếp với cha mẹ mà sẽ nên một với vợ, với chồng của mình và sống đời ở kiếp với nhau. Cha mẹ ta một ngày nào đó cũng sẽ đi trước ta thôi.

  Bởi đó tình là tình và hiếu là hiếu. Đối với cha mẹ, ta phải có lòng hiếu thảo; đối với vợ chồng ta phải có nghĩa, có tình. Không có bên nào được ưu tiên. Không vì tình mà bỏ bê cha mẹ; cũng không vì hiếu mà dứt nghĩa đoạn tình. Làm sao cho tốt đẹp cả hai là OK.

  Thánh Phao-lô có nói: “Bất cứ làm việc gì, anh em hãy tận tâm làm cho Chúa chứ không phải cho người đời. Đức Ki-tô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người”(x.Cl 23,23-24). Đây chính là chìa khóa giúp chúng ta gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co đây.

  Đức Ki-tô hay Thiên Chúa là Chủ, là Chúa của Vũ trụ và Thế giới; là Chúa của Giáo Hội và Xã Hội và đương nhiên làm Chúa cả lịch sử của con người luôn. Vậy là con cái Chúa ta phải phụng sự Chúa và làm cho Chúa. Điều ta cần nhớ:

Thứ nhất là:“Bất cứ làm việc gì, ta hãy tận tâm làm cho Chúa chứ không phải cho người đời”.

  Nghĩa là ta là con cái Chúa, ta là đầy tớ của Chúa nên ta chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa mà thôi. Tức là dù ta có chăm sóc con cái; có làm việc ở ngoài đồng hay trong công ty; có dạy học, có chữa bệnh; có bán hàng; có cầu nguyện; có dâng lễ; có làm việc bác ái,….đi nữa thì ta phải nhớ ta làm cho Chúa. Bởi vì làm cho Chúa nên ta phải tận tâm, tận lực mà làm; phải lo chu toàn cách tốt đẹp và hoàn hảo.

  Có như thế thì ranh giới của những giằng co không còn; không còn ranh giới cho việc Chúa và việc đời; không còn ranh giới cho yêu Chúa và yêu người; không còn ranh giới cho Xã Hội và Giáo Hội; không còn ranh giới cho con người và Thiên Chúa nữa. Vì Con người ở trong Thiên Chúa và Giáo Hội ở trong Xã Hội và mọi sự đều ở trong Thiên Chúa.

  Thứ hai là ta sắp xếp công việc cho hợp lý, giờ nào việc đó. Sẽ ưu tiên cho những việc thuộc ơn gọi của mình.Vì mỗi người đều có một ơn gọi riêng và có cách thế riêng để chu toàn các bổn phận của mình.

  Trên hết và trước hết của ta vẫn là Chúa, không có gì phải bàn cãi về vấn đề này.

  Sau là ưu tiên cho những việc thuộc ơn gọi của mình. Ưu tiên cho đời sống hôn nhân là người vợ, người chồng: ưu tiên cho người sống đời gia đình là con cái và nghề nghiệp. Ưu tiên cho người sống đời thánh hiến là đọc kinh, cầu nguyện;đời sống thiêng liêng.

  Sau những ưu tiên là những việc khác. Ưu tiên không phải là phải làm trước mà là dành cho những việc đósự quan tâm đặc biệt và không thể không làm, dù việc đó ở một thời điểm nào đó trong ngày. Lý do đơn giản là các việc đó ta không làm thì không ai làm thay cho ta được. Đó là ơn gọi của ta mà.

  Ví dụ, ta làm cha, làm mẹ, ta mà không lo cho con cái ta thì ai sẽ lo thay cho ta đây ? Ta mà không lo làm việc để kiếm tiền nuôi gia đình thì tiền đâu mà ta xài đây. Ta đừng lấy lý do ta phải vào Hội đoàn này, phải vào Hội đoàn kia hay phải bận công tác xã hội mà không còn giờ để chăm sóc con cái và gia đình; không còn giờ để đi làm nữa; không còn giờ dành cho nhau nữa. Không ai chấp nhận“lý sự cùn” này.

  Ta là Linh Mục; là Tu Sĩ mà ta không lo đọc kinh, không lo cầu nguyện, suy gẫm thì ai sẽ làm thay cho ta đây? Ta đừng lấy lý do là phải làm việc bác ái, phải lo giúp người này, người kia mà không lo cho đời sống thiêng liêng của mình. “Phải làm việc này mà không được bỏ việc kia”. Nghĩa là phải làm việc bác ái; phải lo giúp người này người kia, nhưng không được bỏ việc đọc kinh, việc cầu nguyện, việc suy gẫm; hay chỉ làm qua loa.

Thế mới hay, “LÀ NGƯỜI thì dễ nhưng LÀM NGƯỜI không dễ chút nào”. Khi được sinh ra, ta LÀ NGƯỜI, ta có hình hài của một con người. Và từ khi đó cho tới lúc nhắm mắt xuôi tay, ta phải LÀM NGƯỜI, ta phải hoàn thiện con người của ta. Ta phải làm việc này mà không được bỏ việc kia; ta phải biết đâu là việc chính, đâu là việc phụ; đâu là việc ưu tiên và ta phải biết đâu là ơn gọi của ta.

Chỉ có việc phục vụ mới làm cho ơn gọi của ta nên cao quí và hoàn thiện con người của ta. Ta phụng sự Chúa và phục vụ con người. Ta phụng sự Chúa qua cuộc sống gia đình; ta phụng sự Chúa qua cuộc đời thánh hiến. Ta chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa mà thôi. Có được như thế, ta mới gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co. Trái lại sẽ giúp ta thăng tiến, an vui, hạnh phúc và hoàn thành sứ mạng LÀM NGƯỜI của mình.

Về mục lục

.

HUẤN LUYỆN VIÊN TÀI BA

Lm. Giuse Nguyễn

Như Giáo hội đã hướng dẫn: “Mùa thường niên không có cử hành một khía cạnh nào đặc biệt về mầu nhiệm Chúa Kitô” (AC43), nhưng cùng bước với Ngài trong cuộc sống đời thường như một cuộc hành trình lên Giêrusalem để thực thi ý Cha. Trong cuộc hành trình đó, Kitô cũng giống như Thầy mình, gặp rất nhiều những khó khăn thử thách, những cám dỗ để chúng ta bỏ cuộc… Nhưng những ai bền đỗ, chiến đấu đến cùng, thì sẽ chiến thắng, bởi vì chúng ta không đi, không chiến đấu một mình, mà có Đức Kitô cùng đi, cùng chiến đấu với chúng ta .

Trong bài đọc thứ nhất 2 Đnl 18, 15-20, khi sắp từ giã cõi đời này, Môsê đã cho biết: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em, anh em hãy nghe vị ấy.”

Trong đoạn Tin Mừng Mc 1, 21-28 , thánh Maccô giới thiệu nhân vật chính của Tin Mừng, Người đã được Chúa Cha tuyên bố là “Con yêu dấu”, đã được ông Môsê tiên báo là một ngôn sứ quyền năng. Quyền năng trong lời nói khi Ngài vào hội đường giảng dạy khiến mọi người phải nể phục, “vì Người giảng dạy như Đấng có uy quyền chứ không như các kinh sư”. Quyền năng trong việc làm khi Ngài chỉ cần phán một lời, thì thần ô uế liền xuất khỏi người nó ám hại. Từ đó cho chúng ta một sự thật: Đức Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài như một huấn luyện viên tài ba mà Thiên Chúa đã gởi đến cho nhân loại. Tuy nhiên, cũng cho chúng ta biết có một thế lực thù địch luôn âm mưu chống đối lại Thiên Chúa và tìm cách hãm hại con cái của Ngài, đó là ma quỷ.

Giáo lý dạy cho chúng ta biết ma quỷ vốn là thiên thần, nhưng vì phản nghịch cùng Thiên Chúa nên đã mất đi hạnh phúc lớn lao mà Ngài đã ban tặng. Vì vậy nó không muốn bất cứ ai có được hạnh phúc đó. Nó đã từng xin phép Thiên Chúa để thử thách ông Gióp, và Thiên Chúa đã cho phép với điều kiện không được đụng đến mạng sống của ông ta. Trong Tin Mừng đã kể lại nhiều lần Đức Giêsu trừ quỷ, có khi là cả một bầy quỷ như lần Ngài cho chúng  nhập vào đàn heo và lao xuống biển chết hết. Hay như bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dùng quyền năng để bắt quỷ phải xuất khỏi người bị nó ám. Chính Đức Giêsu cũng đã từng bị ma quỷ cám dỗ trong sa mạc…

Như vậy chúng ta tin có ma quỷ, nhưng không phải là những hình ảnh đáng sợ như răng nanh, lưỡi đỏ, đít đen, có sừng, hay ở một xác người xanh chành, lạnh cóng. Vậy làm sao chúng ta biết được ma quỷ? Thưa chúng ta biết ma quỷ là nhờ hành động của nó. Hành động của ma quỷ luôn luôn là chống đối lại Thiên Chúa và lôi kéo con người ra khỏi hạnh phúc mà nó đã đánh mất vì tội bất phục tùng. Vì vậy mọi hình thức chống lại Thiên Chúa, mọi hình thức lôi kéo con người ra khỏi Chúa, dù đó là những hành động tốt đẹp đi chăng nữa thì vẫn là những hành động của ma quỷ.

Hình thức dễ nhận ra nhất chính là những hành động xấu xa tội lỗi, một lối sống bất chấp lề luật của Thiên Chúa. Mới đầu người ta còn áy náy về những hành động xấu của mình, dần dà người ta không còn sợ hãi khi làm những điều xấu nữa. Đó mới là điều nguy hiểm, vì người ta đã để cho sự xấu ăn rễ sâu trong lòng của mình, và rồi họ thuộc trọn về ma quỷ. Lúc đó, ma quỷ không cần phải hành động nữa, mà nó chỉ còn điều khiển con người làm tay sai, làm nô lệ cho nó.

Hình thức thứ hai của việc làm tay sai cho ma quỷ tinh vi hơn nhiều, bởi vì người ta cứ nghĩ làm những điều xấu mới là tay sai cho ma quỷ, nhưng không ai có thể ngờ làm điều tốt cũng là tay sai cho ma quỷ. Ma quỷ trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đi nghe Đức Giêsu giảng, cũng tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, nó chỉ xuất đầu lộ diện khi đứng trước quyền năng của Đức Giêsu mà thôi. Như vậy, đâu phải hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu Kitô, đâu phải ai có bề ngoài đạo đức thánh thiện thì đều là con cái của Ngài, đều thuộc về phe Thiên Chúa cả đâu. Nhiều khi đó là những hình thức của ma quỷ để trấn an người thuộc về nó.

Có một người đạo đức thánh thiện, sáng nào cũng đi lễ. Một hôm ông ta ngủ quên, ma quỷ đến gọi ông dậy để đi lễ. Khi biết người gọi mình là ma quỷ, ông liền thắc mắc: “Tại sao mi lại gọi ta đi lễ?” Ma quỷ trả lời: “Ông không cần thắc mắc tại sao, ông chỉ cần biết ông là một người đạo đức thánh thiện vì đi lễ mỗi ngày thôi”. Ông này làm mạnh hơn: “Nhân danh Thiên Chúa, ta truyền cho người nói tại sao ngươi lại làm như vậy?” Lúc này ma quỷ không thể lặng thinh được nên phải nói: “Sở dĩ ta gọi ông dậy đi lễ, vì ngày nào ông đi lễ, ông tự hào vì mình tốt lành, thánh thiện, ông không lo sửa đổi cuộc sống của mình. Ngược lại, ngày nào ông không đi lễ, ông thấy mình còn sai sót nên lo sửa đổi”. Lúc đó ông già mới nhận ra sự tốt lành của mình từ trước đến giờ là do ma quỷ thúc giục, là vì mình muốn chứng tỏ cho người khác mình tốt lành chứ không phải những hành động tốt đẹp của ông xuất phát từ lòng yêu mến Chúa. Đôi khi những việc tốt là để che đậy những việc xấu xa tệ hại của mình.

Đó là sự huấn luyện tài ba của ma quỷ, nó có những chiến thuật rất tinh vi để chống lại Thiên Chúa. Tuy nhiên những ai làm theo sự hướng dẫn của ma quỷ có khi thắng được ở vòng ngoài, nhưng chắc chắn sẽ thua trong trận chung kết.  

Nhận thấy được hành động của ma quỷ tinh vi như vậy, không phải để chúng ta sợ hãi, nhưng để chúng ta tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa hơn. Ma quỷ càng hành động, thì chúng ta càng thấy được giá trị của hạnh phúc nước trời lớn lao biết là chừng nào. Nếu Nước Trời là giả tạo hoặc giá trị của nó như cục vàng vậy thôi thì chắc chắn ma quỷ không cần phải khổ cực để ganh tị và lôi kéo con người ra khỏi Nước Trời vậy đâu. Chúng ta cám ơn ma quỷ vì nhờ nó mà chúng ta biết được Nước Trời là rất quý giá. Đồng thời cũng phải đề phòng để mình không thuộc về phe của ma quỷ khi đồng lõa với nó để làm những chuyện xấu xa; hoặc phải cảnh giác khi làm những hành động tốt với mục đích xấu.

Cả đất nước Việt Nam đang nhắc đến vị huấn luyện tài ba người Hàn Quốc đã đưa bóng đá Việt Nam sang một trang sử mới. Nhìn về đời sống đức tin, chúng ta cũng có Đức Giêsu là một huấn luyện viên trên cả tuyệt vời, vì Ngài không chỉ có chiến thuật do trí khôn nhân loại hướng dẫn, mà còn có kinh nghiệm vì chính Ngài đã từng chiến đấu với ma quỷ, nhưng trên hết Ngài có quyền năng khiến ma quỷ phải khuất phục.

Ông Park Hang Seo, đã chia sẻ một trong những bí quyết để ông có thể dẫn dắt đội tuyển bóng đá Việt Nam thành công là: “Hằng ngày tôi vẫn cầu nguyện để đội bóng tiến bộ hơn”. Đó là điều mà Đức Giêsu đã từng chỉ dạy cho các môn đệ của mình: “Giống quỷ ấy chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi” (Mc 9, 29). Đó chính là chiến thuật của Đức Giêsu, vị huấn luyện viên cho đường lối tâm linh của chúng ta. Cầu nguyện qua việc tham dự Thánh lễ và siêng năng lãnh nhận các Bí tích; cầu nguyện qua việc đọc kinh hôm trong gia đình; cầu nguyện qua các việc đạo đức bình dân; cầu nguyện qua việc sám hối chân thành…

Chúng ta mừng chiến thắng, mừng vinh quang của đội tuyển Việt Nam, đồng thời tung hô vị huấn luyện viên tài ba người Hàn Quốc. Chiến thắng đó được đánh đổi bằng biết bao mồ hôi nước mắt, nhưng quan trọng nhất là tất cả đều tuân theo sự đường lối của vị huấn luyện viên. Chúng ta có nghĩ đến chiến thắng trong đời sống đức tin của mình không? Muốn như vậy phải tuân theo chiến thuật của Đức Giêsu, vì chỉ có sức mạnh của Ngài mới có thể đối đầu với ma quỷ.

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

Về mục lục

.

LỜI NGÔN SỨ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 “Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết” (Đnl 18,16). Thấy dân chúng kêu ca có lý, Thiên Chúa hứa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ và Người sẽ đặt lời của Người vào miệng ngôn sứ. Như thế, sứ ngôn là người nói thay cho Thiên Chúa, nói nhân danh Thiên Chúa, nói đúng Thánh ý Thiên Chúa. Sự tồn vong của ngôn sứ hệ tại ở sứ mệnh cao cả và lắm cũng gian truân này. Theo nhãn quan Cựu Ước thì ngôn sứ nào to gan nhân danh Thiên Chúa mà nói lời Người đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết (x.Đnl 18, 20).

Tuy nhiên làm sao để biện phân đâu là ngôn sứ thật và đâu là ngôn sứ giả? Làm thế nào để nhận biết một ngôn sứ thật nhưng không nói lời Thiên Chúa truyền mà chỉ nói lời của mình hay lời của các thần giả trá xui khiến? Một Đại Ngôn sứ, một ngôn sứ trên mọi ngôn sứ đã xuất hiện chính là Đức Kitô. Bài trích Tin mừng thánh Maccô mà Hội Thánh giới thiệu trong thánh Lễ Chúa Nhật IV TN B gợi mở cho chúng ta hai tiêu chí để thẩm định sự chính danh, chính ngôn, chính phận của một ngôn sứ.

Lời có uy quyền: Dân chúng kinh ngạc vì Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các kinh sư. Lời nói của một đấng có uy quyền thì thuyết phục người nghe và làm cho người nghe biết nghe theo. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu có uy quyền không chỉ vì nội hàm của chúng mà trên hết vì Người là Ngôi Lời, đồng thời chính Người là người tiên phong sống và thực hiện những gì Người giảng dạy.

Các Kinh sư cũng giảng dạy nhưng họ lại không sống điều mình giảng dạy khiến Chúa Giêsu đã từng nói với dân chúng rằng: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm và hãy giữ, nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất trên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,2-4). Đức chân phước giáo Hoàng Phaolô VI đã từng nói: ngày nay người ta không thích nghe (nghe theo) những nhà giảng thuyết mà lại nghe theo những chứng nhân. Sở dĩ người ta nghe theo các nhà giảng thuyết vì họ đã là những chứng nhân, tức là đã thực hiện những gì mình giảng dạy.

Lời có sức khử trừ sự dữ và thông ban sự sống: Dân chúng sững sờ nói với nhau: “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, Người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!”(Mc 1,27). Thần ô uế bị trục xuất thì người bị quỷ ám được chữa lành. Lời của ngôn sứ thật là lời phát xuất từ Thiên Chúa. Xưa Thiên Chúa đã phán với Giêrêmia: “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng” (Gr 1,9-10).

Cả hai hiệu quả là diệt trừ sự xấu, sự dữ và trao ban sự sống luôn cùng đi sánh đôi. Nếu chỉ tuyên phán những lời hứa tốt đẹp hay ngược lại chỉ nói những lời quở trách phê phán mà thôi thì rất có thể là do thần dữ xúi khiến. “Đức Chúa các đạo binh phán như sau: “Đừng nghe lời các ngôn sứ (giả hiệu) tuyên sấm, chúng phỉnh phờ các ngươi; điều chúng nói chỉ là thị kiến do tưởng tượng, chứ không phải do miệng Đức Chúa phán ra. Chúng dám nói với những kẻ khinh miệt Ta: “Đức Chúa phán: anh em sẽ được bình an!” Và với những kẻ lòng chai dạ đá: “Tai hoạ chẳng bao giờ ập xuống anh em” (Gr 22,16-17). Vì tuyên bố những lời dối trá phỉnh phờ dân nên ngôn sứ giả Khanangia đã phải bị trừng phạt nhãn tiền (x.Gr 28,1-17).

Sứ mạng ngôn sứ của mọi Kitô hữu: Từ khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mọi Kitô hữu đều đã được thông phần vào ba chức vụ của Chúa Kitô là ngôn sứ, tư tế và vương giả. Đường lối của Thiên Chúa thì trước sau như một. Xưa nhiều lần, nhiều cách Người đã nói với tổ tiên cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, đến thời viên mãn Người đã nói với loài người chúng ta cách trọn vẹn qua chính Người Con Một làm người là Chúa Giêsu Kitô (x.Dt 1,1-2). Và mãi cho đến ngày tận thế, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục nói với loài người qua những con người. Nhân loại này, thế gian này vẫn mãi cần đến sứ ngôn để nhận biết thánh ý Thiên Chúa. Con người, đặc biệt các Kitô hữu được mời gọi làm ngôn sứ của Thiên Chúa để nhân danh Thiên Chúa, nói lời của Người.

Sứ mạng ngôn sứ thật cao cả và cũng thật lắm gian truân, nguy hiểm. Sự hiểm nguy, gian truân không chỉ đến do người đời bách hại mà còn có thể do bởi chính các ngôn sứ, vì lý do nào đó, đã không nói lời của Thiên Chúa mà chỉ nói lời của mình, thậm chí con nói lời do thần dữ xui khiến. Để tránh những tai hoạ này, không gì hơn, Kitô hữu chúng ta, cách riêng những người chuyên lo việc giảng dạy hãy xét xem mình đã thực hiện ra sao điều mình giảng dạy, hãy xét xem những lời mình giảng dạy có sức thuyết phục như thế nào và đồng thời hãy xét xem các lời tuyên dạy của mình có đủ đầy hai phương diện đó là vừa xua trừ sự xấu, sự dữ và vừa làm phát sinh tình yêu, phát sinh sự sống như thế nào?

Về mục lục

.

HÃY TIN THEO ĐỨC GIÊSU

Lm. Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Ngày xưa, Thiên Chúa đã dùng các tổ phụ và các tiên tri để tuyên sấm lời Chúa, nhắc nhở cho dân Do thái biết thi hành những nhiệm vụ của họ. Nhưng thời sau cùng, Thiên Chúa không dùng các ngài nữa mà dùng chính Con của Ngài mà dạy dỗ. Đó là Đức Giêsu Kitô. Ngài là một Tiên tri tuyệt hảo của Thiên Chúa mà Maisen đã loan báo như trong bài đọc 1 hôm nay.

Ngài trực tiếp đến dạy dỗ loài người như một Đấng uy quyền chứ không như các luật sĩ chỉ nhắc lại những lời dạy của người xưa, không thêm không bớt một chữ. Đức Giêsu đến dạy một giáo lý mới mẻ cùng với phép lạ như trừ quỉ, làm cho dân chúng hết sức kinh ngạc. Ngài dạy giáo lý riêng của Ngài, có khi loại bỏ, có khi sửa chữa, có khi hoàn chỉnh những lời dạy của người xưa, khi Ngài nói: ”Còn Ta, Ta dạy rằng…”.

Chúng ta đã được biết Ngài qua đức tin, đã được học biết giáo lý của Ngài nên chúng ta phải quyết tâm theo Ngài vì chỉ mới Ngài mới có lời ban sự sống đời đời. Chính Ngài là thủ lãnh của đời ta, là thần tượng của sự chọn lựa của chúng ta, nên chúng ta phải quyết tâm tin theo Ngài và phụng sự Ngài cách triệt để trong mỗi hoàn cảnh sống của mỗi người.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1Đnl 18:15-20.

Để đi về đất hứa, dân Do thái đã phải trải qua một thời gian dài 40 năm trong sa mạc. Trước khi vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa mà Chúa đã hứa với cha ông họ, ông Maisen thấy mình không được vào đất hứa và thấy mình đã gần đất xa trời, ông yên ủi dân chúng, khuyên họ đừng buồn tiếc về việc ông ra đi. Đàng khác, ông nói tiên tri cho họ rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Tiên tri tài danh nhất trong lịch sử, không những không kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ. Đấng Tiên tri tuyệt hảo đó sẽ là Đấng Kitô, Đấng Trung gian toàn hảo vì Ngài vừa là Con Thiên Chúa và vừa là con loài người.

+ Bài đọc 21Cr 7:32-35.

Thánh Phaolô bày tỏ quan niệm riêng của Ngài về vấn đề hôn nhân và độc thân. Ngài giải thích lý do tại sao ngài thích bậc độc thân hơn vì nó cho phép người ta chuyên lo “việc Chúa” trong lúc ngày tận thế đã gần kề và nhân loại không cần sinh sôi nữa. Trong hoàn cảnh như thế, tốt hơn hết là gắn bó “trọn vẹn” với Chúa.

Một lần nữa, chúng ta thấy vị Tông đồ phán đoán mọi sự vào một sự tuyệt đối duy nhất. Và ngài cũng không hề hạ giá hôn nhân: khi nói đến hôn nhân, ngài cũng sẽ qui chiếu nó về tình yêu của Chúa (x. Ep 5:21-33).

+ Bài Tin mừngMc 1:21-28. Trong đoạn này, thánh Marcô cho thấy Đức Giêsu Kitô là một Tiên tri ngoại hạng mà Maisen đã tiên báo. Ngài là một Tiên tri có uy quyền trong lời nói và hành động.

Uy quyền trong lời nói: Trong khi những luật sĩ kèn cựa bàn cãi không dứt về những đoạn văn của Kinh thánh, thì Đức Giêsu khẳng định: Ngài không lặp lại học thuyết của người khác, mà trình bầy học thuyết của Ngài, ví dụ Ngài nói:”Còn Ta, Ta dạy rằng…”.

Uy quyền trong hành động: Ngài chỉ cần nói một lời thì quỉ ô uế phải xuất khỏi người bị nó nhập, đến nỗi khán thính giả phải thốt lên:”Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế”.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

 Tin theo Đấng có uy quyền.

I. ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG RẤT UY QUYỀN.

Ngay sau khi tới Capharnaum, ngày hưu lễ tiếp theo đó, Đức Giêsu không để mất thì giờ, Ngài hoạt động liền. Hồi bấy giờ xứ Palestine có nhiều hội đường. Những thành phố nhỏ cũng có.

  1. Cách tổ chức hội đường.

Hội đường khác với Đền thờ. Hội đường thì có nhiều, còn đền thờ thì chỉ có một ở Giêrusalem. Một buổi họp lại ở hội đường chỉ gồm 3 việc: cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải lời ấy. Không có cử nhạc, hát xướng, cũng không có dâng của lễ. Có thể nói: Đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ chỉ bảo.

Luật pháp qui định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do thái, thì phải có một hội đường. Do đó, bất kỳ nơi nào một nhóm người Do thái định cư thì có một hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi thuận tiện cho người ấy trình bầy. Đức Giêsu cũng biết lợi dụng tập tục này để giới thiệu giáo thuyết của mình.

  1. Sinh hoạt trong hội đường.

Việc phụng vụ trong hội đường chia làm hai phần: phần đầu là phần phụng vụ thực sự. Trong phần này, người ta hát các bài chúc tụng Chúa. Phần thứ hai là phần giáo huấn, người ta đọc sách Luật hoặc các tiên tri. Đọc rồi, ông hội trưởng hoặc chính ông mời vị nào có tiếng, cắt nghĩa đoạn văn đó.

Khi mọi người họp lại trong hội đường và buổi họp bắt đầu thì ông trưởng hội đường có nhiệm vụ chỉ định người có trách nhiệm giảng giải, trình bầy kinh điển hay một thông điệp mới. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Đức Giêsu có thể lợi dụng dịp thuận tiện này để trình bầy thông điệp mới mẻ của mình.

Khi Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lẫn bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một sự mạc khải mới mẻ. Ngài không dạy như các luật sĩ là các chuyên viên về luật pháp. Các luật sĩ này là ai? Theo người Do thái, điều thiêng liêng nhất trên đời là Luật pháp và kinh Torak. Trái tim của luật pháp là Mười điều răn, nhưng người Do thái hiểu luật pháp là 5 quyển đầu của Cựu ước mà ta gọi là Ngũ kinh (Pantateuch). Theo người Do thái, luật pháp ấy đến hoàn toàn từ Thiên Chúa. Họ tin rằng luật pháp vốn được Thiên Chúa trực tiếp trao cho Maisen, nó hoàn toàn thánh khiết và có tính cách ràng buộc tuyệt đối.

  1. Đức Giêsu giảng dạy tại hội đường.

Ngày hưu lễ hôm đó, Đức Giêsu được mời chú giải đoạn văn vừa đọc, có lẽ cũng là đoạn văn Ngài đã chú giải ở Nazareth, thánh Luca kể lại (Lc 4:16-22). Ngài đã làm kinh ngạc mọi thính giả.

Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền. Thính giả mỗi ngày một đông, gồm đủ thành phần. Nhưng ai nấy đều nhận định rằng: Ngài không dạy như các luật sĩ. Các ông này thường nại đến thế giá những người xưa. Lý tưởng các ông là trao lại nguyên vẹn giáo lý họ đã lãnh nhận, không thêm mà cũng không bớt. Trái lại, về mọi vấn đề, Đức Giêsu có sẵn mọi cái để giải quyết. Ngài cũng chẳng ngần ngại dạy những điều đi ngược với người xưa, hoặc sửa lại cho hoàn hảo. “Đã nói cho người xưa rằng…Phần Ta, Ta bảo các ngươi”(Mt 5:21t).

Nói tóm lại, các luật sĩ là tiếng nói của tập truyền, còn Đức Giêsu là tiếng nói riêng của Ngài. Ngài có cả quyền chuẩn y hoặc khước từ hoặc sửa sai tập truyền nữa. Lẽ dĩ nhiên kẻ cho mình cái quyền này, trong thời gian mà các luật sĩ và biệt phái dành cho mình độc quyền thiêng liêng, thì tất nhiên là con người hành động “như có uy quyền”.

  1. Đức Giêsu chữa người bị quỉ nhập.

Đức Giêsu tỏ ra có uy quyền trong lãnh vực giáo thuyết, Ngài còn tỏ ra có uy quyền trên lãnh vực hành động và biểu lộ quyền năng ấy bằng phép lạ chữa khỏi người bị thần ô uế ám để chứng minh giáo lý Ngài dạy.

Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại:”Trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”? Thần ô uế đây là ma quỉ: chữ “ô uế” trong Tân ước gắn liền với chữ “quỉ” tới 23 lần. Ma quỉ tỏ ra khổ cực và khiếp đảm khi gặp Đức Giêsu và Ngài đến để tiêu diệt quyền lực của ma quỉ, giải thoát nhân loại khỏi quyền lực ấy. Chính vì vậy, mà ma quỉ kêu lên như thầm xin với Ngài để mặc chúng. Quỉ đang tuyên xưng danh Ngài thì Ngài quát mắng nó:”Câm đi, và ra khỏi người này”. Nó liền vật ngã người đó xuống, thét lên một tiếng rồi xuất ra.

Những khán thính giả đã được nghe và chứng kiến về giáo lý và việc trừ quỉ của Đức Giêsu đều kinh ngạc vì họ nhận ra một cái gì mới mẻ nơi Đức Giêsu. Cái mới mẻ đó dẫn được họ tin nhận Chúa là Đấng Cứu thế. Chính vì cái mới mẻ đó mà danh tiếng của Đức Giêsu được lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.

Đức Giêsu đã thực sự trừ quỉ trước mặt mọi khán thính giả. Thiết tưởng cũng cần phải phân biệt ma và quỉ. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một mà người Việt nam chúng ta thường gọi chung với nhau là “ma quỉ”.

 Ma, theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe doạ hoặc liên hệ gì đó với người sống. Còn quỉ là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đầy xuống hoả ngục. Như vậy, ma có không? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ… thì không có. Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xẩy ra trong một số trường hợp rất họa hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Thiên Chúa, để đương sự nhắn nhủ một điều gì đó với người sống, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài tích truyện. Còn quỉ thì sao? Phải công nhận là có, vì Kinh thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Đức Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ (Phạm văn Phượng, Chia sẻ TM Chúa nhật B, tr 52).

II. THEO ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CÓ UY QUYỀN.

  1. Hai vương quốc, hai thủ lãnh.

Trong hội đường hôm nay, khi trông thấy Đức Giêsu đầy uy quyền, ma quỉ đã phải thốt lên:”Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng thánh của Thiên Chúa”! Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: ”Câm đi, hãy xuất khỏi người này”. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu có quyền trên ma quỉ, và vương quốc Đức Giêsu thiết lập trên trần gian này cũng trổi vượt trên vương quốc của ma quỉ.

Trong cuốn “Linh thao” của thánh Ignace de Loyola, thánh nhân có hướng dẫn suy niệm về hai cờ hiệu (étandard): cờ hiệu của Đức Kitô, vị chỉ huy tối cao và Chúa chúng ta; cờ hiệu của Lucifer kẻ tử thù của bản tính loài người chúng ta. Đức Kitô kêu gọi và muốn cho mọi người ở dưới bóng cờ Ngài; và ngược lại, Lucifer (cũng gọi và muốn cho mọi người) ở dưới cờ của nó. Như vậy là có cuộc chiến khốc liệt giữa vương quốc của Đức Kitô và của ma quỉ.

Việc Đức Giêsu trừ quỉ nói lên rằng vương quốc của Satan từng kìm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ từ khi Adong phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho vương quốc của Thiên Chúa.

Điều này gợi lên cho chúng ta một vấn nạn: Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm trước, thế thì tại sao đến ngày hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng? Hoặc nói cách khác: Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao vương quốc Satan vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay?

Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xẩy đến chỉ trong một lúc, mà là một chuyển động liên tục suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất . Đó là lý do tại sao trong lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn cầu khẩn:”Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh ví vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Đức Giêsu trồng cây ấy, tức vương quốc, vào trong đất, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ chúng ta là chăm sóc làm sao cho vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo ý định Thiên Chúa (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 191).

  1. Theo Đức Giêsu là thủ lãnh.

Giới trẻ ngày nay thích tìm những thần tượng để suy tôn, để bắt chước. Thần tượng của họ chỉ là những diễn viên, minh tinh màn bạc, cầu thủ bóng đá, ca sĩ nhạc trẻ hoặc một nhà chính trị lừng danh. Nhưng những thần tượng đó chỉ nhất thời và cũng không đủ tiêu chuẩn để hướng dẫn đời họ, chỉ có một thần tượng tuyệt hảo là Đức Giêsu, có đủ mọi tiêu chuẩn để hướng dẫn cuộc sống của chúng ta một cách bảo đảm.

– Đức Giêsu là thủ lãnh trên đường đời của ta. Một thủ lãnh lôi cuốn bằng đời sống gương mẫu. Tin mừng hôm nay kể ma quỉ khen Đức Giêsu qua miệng của đứa nó ám vào: Tôi biết ông là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa. Khen là Đấng thánh của Thiên Chúa thì chẳng còn cách nói nào khác hơn để ca tụng. Đời sống Chúa còn hoàn toàn hơn lời Ngài dạy. Thánh kinh nói: ”Chúa bắt đầu làm rồi mới dạy”(Tđcv 1:1).

– Một thủ lãnh dạy một chủ thuyết đưa tới đời sống ấy. Tin Mừng hôm nay nói:”Người ta kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như luật sĩ”(Mc 1,22).

– Một thủ lãnh cho sức mạnh để thực hiện đầy đủ đời sống ấy. Tin Mừng kể Chúa làm phép đuổi quỉ. Việc ấy chứng tỏ Ngài có quyền năng của Thiên Chúa.

Truyện: Theo anh là thủ lãnh.

Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân. Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình.

Ông nói: Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ… Em ở lại hay theo anh? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em định đoạt.

Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói: Theo anh là thủ lãnh của em.

Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:

– Em có bỏ không?

Lời thưa đầy hăng hái rằng:

– Em đã chẳng hứa với anh sao?

Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.

  1. Phục vụ cho thủ lãnh của mình

Sau khi đã tìm ra Đức Giêsu là thủ lãnh của đời ta, chắc chắn chúng ta phải tin theo Ngài, làm môn đệ của Ngài cũng như giới thiệu Ngài cho những người khác. Chúng ta theo gương các Tông đồ mà phục vụ Chúa Giêsu và phục vụ cho Nước Ngài lan rộng khắp nơi. Thánh Ignace đã dạy chúng ta cầu nguyện để có tinh thần đó:

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con biết quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết tận lực mà không chờ phần thưởng nào khác, ngoài sự nhận biết là con đã làm theo thánh ý Chúa thôi”. Amen.

Thánh nữ Têrêsa Hài đồng yêu Chúa rất nồng nàn, thánh nữ chỉ biết yêu trong việc phụng sự Chúa. Không gì làm cho thánh nữ buồn sầu, tất cả những gian lao thử thách chỉ làm cho ngài thêm yêu Chúa. Những ý tưởng ấy được thánh nữ gói ghém trong câu thơ sau đây:

Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi,

Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng.

Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong

Gai càng dài, lời ca càng thánh thót.

Truyện: Phụng sự cho ai?

Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, ta thấy cũng có một câu truyện dụ ngôn về một chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.

Truyện kể rằng: Có một người khổng lồ sống tại vùng đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ. Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lẫn sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy. Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá.

Tình cờ anh nghe có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sống gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cậu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:

– Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai. Cậu bé mỉm cười đáp:

– Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên trời và đất. Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.

Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy  sang. Chàng khổng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christopher, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.

Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christopher, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN, NĂM B

Lm. Antôn

Một câu truyện dụ ngôn được kể lại sau đây.  Một nông dân nghèo, chất phác và hiền lành sau khi qua đời được vào thiên đàng và được thiên thần dẫn đi tham quan.  Khi đi ngang qua một khu vực khang trang ông nhìn thấy những bàn dài trên đó có những vật rất kỳ lạ.  Ông hỏi thiên thần:  “Cái gì thế? Có phải để nấu xúp không?”  Thiên thần đáp lại:  “Không. Đó là những cái tai.  Những cái tai này là của những người khi sống ở dưới trần gian nghe được những điều tốt, điều hay nhưng tâm hồn họ chai đá, cứng cỏi họ không thực hành, không sống. Nên khi chết, tai họ vào thiên đàng, nhưng linh hồn và các phần khác của cơ thể thì không.

Đi được một vòng thì ông lại thấy những kệ khác có những vật kỳ quái. Ông hỏi thiên thần: “Cái gì thế? Có phải để nấu xúp không?” Thiên thần trả lời:   “Không.  Đó là những bộ óc. Chúng là của những người sống ở đời, nghĩ những điều tốt, điều hay nhưng chính họ không sống điều đó, mà sống ích kỷ, tự cao và kiêu căng. Nên khi chết, óc họ vào thiên đàng, nhưng linh hồn và các phần khác của cơ thể thì không.

Ông bà anh chị em thân mến. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại cho chúng ta biết sau khi được nghe Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng khâm phục và nghĩ rằng Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ. Tin mừng không cho chúng ta biết hôm đó Chúa Giê-su đã giảng gì, nhưng có lẽ Chúa dạy mọi người phải tôn thờ Thiên Chúa là Đấng tạo dựng con người, và ban cho con người nhiều ơn lành hồn xác, vì thế phải có lòng bác ái, hy sinh và quảng đại.  Chúng ta chỉ biết rõ cách giảng của Chúa thì khác hẳn với các luật sĩ.  Các luật sĩ giải thích Kinh thánh với thẩm quyền, Chúa Giê-su thì giải thích Kinh thánh và giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa.  Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị thần ô uế ám. Với những lời có quyền năng, Chúa ra lệnh: “Hãy im đi và ra khỏi người này!”  Thần ô uế chẳng muốn ra khỏi nơi nó đã ở.  Nó chỉ ra khỏi người đó sau khi đã vật ngả người ấy và thét lên.  Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có toàn quyền trên quỷ dữ. 

Chúa Giêsu đến trần gian để khai mở Nước Trời như Ngài tuyên bố: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” Chúa đã chiến thắng sự dữ và giải phóng con người khỏi nô lệ tội lỗi và sự dữ.  Nhưng cuộc chiến với quỉ dữ còn kéo dài cho đến tận thế, và chúng ta phải cộng tác với Ngài để Nước Chúa mau thành tựu và danh Chúa được cả sáng.

Kinh thánh và đức tin dạy chúng ta có ma quỉ và ma quỉ luôn hoạt động khắp nơi trên trần gian, không phải chỉ có ở thời xưa mà cả thời nay, không phải chỉ ở Do thái mà còn ở khắp nơi trên thế giới, cũng không chỉ ở ngoài xã hội, mà nó còn ẩn nấp trong chính tâm hồn con người. Ma quỉ cố gắng len lỏi vào gia đình để cám dỗ làm cho hôn nhân vợ chồng mất hạnh phúc và tan nát.  Ma quỉ còn tìm cách len lỏi vào cộng đoàn dùng mưu cách gây hận thù, ghen ghét, bất hòa và chia rẽ.  Ma quỉ len lỏi khắp nơi dùng mọi mưu chước, nhất là dùng những thủ đoạn thường làm con người thích, vui và thoải mái, cũng như những lời quyến dũ ngon ngọt để cám dỗ người ta trở nên kiêu căng, gian dối.  Nếu ma quỉ dùng những thủ đoạn làm cho chúng ta sợ hãi, đau khổ, buồn phiền và khó chịu thì làm sao có thể cám dỗ chúng ta được!  Ma quỉ cám dỗ người ta tham lam, nghiện ngập rượu chè, cờ bạc, và mọi thứ tội lỗi, tính mê nết xấu khác, để khích động con người sống ích kỷ, lười biếng.

Để chiến thắng ma quỉ, chúng ta phải làm gì?  Thưa, trước hết chúng ta phải luôn luôn ý thức: ma quỉ là loài khôn ngoan, quỉ quyệt và quyền năng hơn loài người, ẩn nấp dưới mọi hình thức, trà trộn vào mọi nơi mọi chỗ, khi thì rất xấu xa, lúc lại có vẻ rất tốt lành, đạo đức, hy sinh, lợi dụng hết mọi dịp thuận tiện và dùng mọi mưu chước.  Thứ hai, để chống trả lại chúng ta phải sống khiêm nhường, hy sinh và quảng đại; phải năng lãnh nhận các Bí Tích, nhất là 2 Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải.  Chúng ta phải xa tránh những lời dụ dỗ hay dịp đưa đến tội lỗi, để sống trong ơn nghĩa Chúa, phải luôn tin cậy, phó thác và hết tình yêu mến Mẹ Maria.   Trên hết, chúng ta phải chân thành lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội.

Lời Chúa có sức mạnh hoán cải lòng người như đã hoán cải thánh Au-gút-ti-nô trụy lạc và lầm lẫn quay trở về với Chúa.  Lời Chúa đã biến đổi Phanxicô Xavi ê đang là một giáo sứ tài giỏi đầy danh vọng tại một trường đại học nổi tiếng, đã từ bỏ danh vọng để hiến thân làm linh mục và đi truyền giáo mở mang Nước Chúa.  Lời Chúa có sức mạnh dẹp tan bão tố, chữa được những bệnh tật, trừ được quỉ, làm được những việc mà loài người không thể tượng tượng nổi như hóa 5 chiếc bánh và 2 con cá ra nhiều để cho đám đông dân chúng ăn no nê.  Lời Chúa có sứ phục sinh như em bé 12 tuổi con một ông trưởng hội trường, hay con trai của bà góa tại Na-im, đặc biệt là Laza-rô đã chết được 4 ngày. Lời Chúa mang lại bình, ơn sủng, hy vọng và nhất là hạnh phúc Nước Trời.

Ngày nay Chúa còn chia sẻ quyền năng của Ngài cho những người tin Chúa. Chúng ta là những Ki-tô hữu tin vào Chúa, nhưng chúng ta có nhận ra uy quyền và ơn sủng của lời Chúa và chân thành sống những điều Chúa dạy chúng ta không?   Hay chỉ nghe suông?   Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra quyền năng của lời Chúa và có niềm xác tín rằng ai biết đón nhận, tin và sống Lời Chúa sẽ thoát khỏi sự xiềng xích cám dỗ của ma quỉ, và được sống trong ân sủng tình yêu Chúa. Xin Chúa ban ơn cho chúng ta để chúng ta thành tâm sống lời Chúa dạy, mỗi ngày chúng ta sống tốt lành hơn, bác ái hơn, quảng đại hơn, biết canh tân đời sống mỗi ngày, để những lời nói và việc làm của chúng ta phản ảnh tình yêu của Chúa và làm sáng danh Người.

Về mục lục

.

LỜI CHÂN LÝ

P. Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa được loan báo từ ngàn xưa để đem ơn Cứu Độ đến cho nhân loại. Ơn Cứu Độ trược hết là “Lời rao giảng”, tức là Tin Mừng Cứu Độ, có nghĩa là “LỜI HẰNG SỐNG” , chúng ta thừơng nghe nói : “Lời hằng sống trong Tân Ứơc” là như vậy. Vì, “Lời “có sức sống, mang lại sự sống là như vậy, Tức là “LỜI” phát sinh ra ơn Cứu Độ, trước khi hoan tất Mầu Nhiệm Cứu Độ trên Thập Giá bởi một cuộc Khổ Hình.

Như vậy, chúng ta biết “Lời” của Thiên Chúa là Đức Giêsu – Kitô được tỏ hiện tại thế gian, nhằm ứng nghiệm Lời Thánh Kinh xưa,  “Lời Chúa “ ngày xưa được phán dạy qua các ngôn sứ, gọi là “ Cựu Ứoc” là Giao Ứơc xưa, như vậy, khi Thiên Chúa muốn phán dạy điều gì cho dân chúng thì phải qua một vị ngôn sứ, gọi là tiên tri. Theo đó, nhiệm vụ ngôn sứ là phải nói “Lời Chúa”, có nghĩa là “ nhiệm vụ phát ngôn nhân”, hay “ nhiệm vụ tiên tri”.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay (Đnl 18 , 15 -20) cho chúng ta thấy “ Nhiệm vụ tiên tri”, như chúng ta biết Sách Đệ Nhị Luật  là cuốn sách Thiên Chúa Truyền dạy lề luật của Ngài cho dân chúng qua Moi-sê. Nhưng, ý nghĩa trong Đoạn sách hôm nay là muốn nhắc đến “hình bóng” một Vị ngôn sứ bằng chính ;” Lời” của Thiên Chúa, nên chi , Đức Giêsu –  Kitô, Vị Mục Tử tối Cao được sai đến , vì vậy, Người được gọi là “Ngôi Lời “ của Thiên Chúa.

Hôm nay đây, Chúa Nhật thứ IV Thường niên 2018, một lần nữa nhắc nhớ cho chúng ta về một  Vị “Ngôi Lời “ đã làm Người và ở giữa nhân loại, hầu để giảng dạy Lời  của Thiên Chúa, đó là Đức Giêsu – Kitô.

Như vậy , Lời Thiên Chúa từ Cựu Ứớc đến Tân Ứơc, minh chứng  một “ chân lý” duy nhất , đó là sự sống hằng hữu từ Thiên Chúa, đó là Lời Chúa  mang lại sự sống , sự bình an, sự hoan lạc tâm can cho nhan thế.

Tai sao lời giảng dạy của Chúa Giêsu có sức thuyết phục người nghe , kể cả ma quỷ?

  • Một là : Lời Chân lý
  • Hai là : Lời đem lại sự sống hằng hữu
  • Ba là : Lời đem lại sự bình an, hoan lạc tâm can.

Vâng, như chúng ta biết, lời nói là ngôn ngữ được diễn đạt bằng ý, Ý tốt , thì lời hay, người ta thường nói lời hay , ý đẹp. Ngôn ngữ là tiếng nói được dệt bằng tư tường đúng, muốn có tư tưởng đúng, chúng ta phải biết suy tư đúng. Làm thế nào để suy tư đúng, nếu như không có sự hướng dẫn từ “tiền nhân”.  Vậy, “tiền nhân” trước tiên là ai ? Há chẳng phải là Thiên Chúa, như có lần Chúa Giêsu nói : “ Lời Thầy nói  là Thần Khí và là Sự Sống “. Vâng, đó là chân lý, chân lý từ thưở đời đời. Bởi vì, thẩm quyền giảng dạy của các kinh sư không có tác dụng đối với thế lực tà thần, nhưng , đối với Lời giảng dạy của Chúa Giêsu thì có sức xua đuổi tà thần. Chúng ta thấy, điểm nầy minh chứng “Lời chân lý”, vì thế lực tà thần , chính là một thế lực tăm tối siêu nhiên, chứ không phải tự nhiên, vì vậy , lời giảng dạy không thuộc chân lý của các kinh sư không có “ thẩm quyền “ đối với thế lực tà thần, vì vậy  không thể xua trừ tà thần được.

Khi Chúa Giêsu  nói, thế lực nơi Người phát ra, bởi vì là “LỜI CHÂN THẬT “ tức chân lý, như vậy, quỷ phát thốt lên và lui ra. Như vậy, “ Lời chân lý” chính là được thế lực tăm tối  làm chứng. Như vậy, cái xấu đối khi cũng có lợi cho cái tốt, vì không có bóng đêm, thì làm sao ánh sáng ban ngày phát ra sự hữu dụng của nó mà người ta nhận ra được. theo đó, có lần Chúa Giêsu nói về dụ ngôn “cỏ lùng và lúa tốt” trong ruộng.

Cỏ lùng là thế lực  không tốt, nhưng , nhờ đó phản ánh về cái tốt của lúa. Lúa là một minh chứng về điều tốt. Nhưng, nếu một mình lúa, thì làm sao nhận ra điều xấu bởi cỏ lùng.

Thiên Chúa không dựng nên điều xấu, điều ác, nhưng tà thần phản nghịch tạo dựng, từ đó phản ánh tình thương , tức ánh sáng từ Thiên Chúa. Tâm hồn con người là mảnh ruộng cho cả hai “lúa tốt và cỏ lùng” ngự trị. Công sức của con người là biết đẩy lùi cỏ lùng, nhờ Lời Chúa là ánh sáng đẩy lùi bóng tối, nhưng, nếu ai tiếp tay với bóng tối, tức tạo điều kiện cho cỏ lùng mọc lên, thì người ấy sẽ bị nhổ bỏ như cỏ lùng vào ngày sau hết.

Trở lại ý nghĩa Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy, Lời chân thật, thì đem lại sự sống hằng hữu, bởi vì Lời nói tốt thì sinh hoa kết trái, lời nói độc địa thì đem lại tai họa, tức sự dữ. Sự dối trá tất không mang lại sự sống, sự sống từ Thiên Chúa qua Lời của Người, chứ không thể qua bất cứ phương tiện nào khác. Như chúng ta biết sự sống nới Thiên Chúa là vĩnh hằng, vì vậy, Lời phát xuất từ Thiên Chúa mặc nhiên đem lại sự sống vô biên, mà thế lực tà thần không thể tiêu diệt được.

Khi chúng ta sống theo Lời Chúa, chúng ta có chân lý, Chúng ta sẽ được bình an và hoan lạc ngay tại thế gian, vì Lời Chúa  là sự sống vĩnh hằng, mặc nhiên thế gian chỉ là tạm bợ, vô nghĩa, khi tin như vậy, cuộc sống trần gian của chúng ta sẽ bình an và hoan lạc.

Theo đó, Bài đọc II hôm nay, ( 1Cr 7, 32 -35), thánh Phao-lô diễn giải rất chí lý, tiếp theo , cũng vậy câu 36 -38, thánh nhân diễn giải thật chí lý đối với ai sống đời giáo dân hoặc tu sĩ. Thánh nhân thay mặt Chúa Giêsu diễn đạt diều mà nhiều người thắc mắc hỏi Chúa về đời sống độc thân và hôn thân, thật tuyệt vời. Nếu ai thêu dệt sai sự thật, thì đừng bao giờ nghe họ, hãy giở Lời Chúa ra mà xem, theo đó, Lời Chúa sẽ đem lại bình an, hoan lạc, và cuối cùng sẽ đem lại sự sống vĩnh hằng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian mang Lời Chân Lý, hầu soi chiếu thế gian, đến độ thế lực tà thần phải lui gót. Xin cho mọi người bước theo Chúa cũng biết dùng Lời Chân Lý mà xua đuổi tà thần, còn nếu ai dùng lời của tà thần, mặc nhiên nghe theo nó dẫn đến sự chết đời đời. Amen

Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con .

Về mục lục

.