Các bài suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Vọng Năm C

1924

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG_C

Lời Chúa: Mk 5,1-4; Dt 10,5-10; Lc 1,39-45

———

 

Mục lục

1. Loan báo Tin Mừng Giáng sinh (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Chờ đợi trong im lặng (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Loan báo Tin Mừng  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

4. Mẹ Maria và Bà Êlisabét (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Hiện diện bên nhau (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

6. Mở rộng tâm hồn đón Chúa giáng sinh  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Mở cửa mời Chúa bước vào tâm hồn  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

8. Mong đợi trong vui mừng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Vọng_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Maria, người Mẹ của Mùa Vọng  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

11. Thiên Chúa viếng thăm Dân Người  (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

12. Cuộc viếng thăm của Đức Maria  (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

13. Nhân đức  (Trầm Thiên Thu)

14. Tấm lòng lân tuất bao la (JM. Lam Thy, ĐVD)

15. Này tôi là tôi tớ Chúa (Fx. Đỗ Công Minh)

16. Nhận lãnh để trao ban  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

17. Ra khỏi mình (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

18. Đôi chân hồng phúc (Lm. Luy Hồ Trọng Hưng)

19. Cảm nhận  (Lm. Vũ Đình Tường)

20. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 4 Mùa Vọng_C  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

21. Gặp gỡ: Thành sự tại nhân  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

22. Đức Maria, Người mang Chúa đến  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

23. Người thiện tâm (Lm. Giuse Nguyễn)

24. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng_C.  (Lm. Antôn)

Mục lục

1. Lên đường  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Niềm vui trong Thánh Thần (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Sống tình xót thương (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Gỡ bỏ rào cản để bước đến với anh em (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

5. Chia sẻ niềm vui của Tin mừng  (Văn Hào, SDB)

6. Hạnh phúc tín thác  (Trầm Thiên Thu)

7. Niềm vui viếng thăm  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Mẹ Maria – Nhà Thừa Sai đặc biệt!  (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

9. Chân tướng Đức Giêsu Kitô  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

10. Lý do nào để nhảy mừng?  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

11. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng_C  (Lm. Antôn)

12. Người thiện tâm  (Lm. Giuse Trực)

13. Đem Chúa đến cho con người hôm nay (P.Trần Đình Phan Tiến)

14. Thăm viếng chia sẻ thể hiện lòng Chúa thương xót (Lm. Đan Vinh)

15. Được chúc phúc  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

16. Tin để đáp lời xin vâng như Mẹ (Huệ Minh)

 

 .

LOAN BÁO TIN MỪNG GIÁNG SINH

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chúa nhật thứ bốn Mùa Vọng thường được gọi là Chúa nhật của Đức Trinh nữ Maria, bởi vì các bài Tin Mừng trong cả chu kỳ ba năm đều nhắc tới Trinh nữ khiêm hạ thành Nagiarét. Người thôn nữ bình dị ấy đã sẵn sàng nhận lời khi được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ trần gian. Gần đến ngày lễ Giáng sinh, Phụng vụ mời gọi chúng ta hãy chiêm ngưỡng những nét đẹp đến từ nhân đức của Đức Mẹ, đồng thời hãy đón Chúa với tâm tình của Đức Trinh nữ. Vẫn biết rằng Thiên Chúa có thể dùng nhiều phương thế khác để cứu độ con người, nhưng phương thế mà Ngài đã dùng trong lịch sử là sai Con một của Ngài xuống trần gian, mặc lấy thân phận con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Đó là cách biểu hiện tuyệt vời tình thương của Thiên Chúa đối nhân loại. Trong mầu nhiệm Nhập thể và trong công trình Cứu chuộc, có sự cộng tác của một thiếu nữ đơn sơ khiêm nhường. Ngày hôm nay, mỗi chúng ta cũng đang được mời gọi loan báo Tin Mừng Giáng sinh.

Chúng ta hãy cùng với Đức Maria đón Chúa và loan báo Tin Mừng bằng những tâm tình sau:

Trước hết là tâm tình khiêm nhường: Chính Thiên Chúa làm gương cho chúng ta về sự khiêm nhường, qua mầu nhiệm Nhập thể. Thiên Chúa cao sang đã hạ mình làm người trần thế, chấp nhận mọi khó khăn, thậm chí cả những chống đối phản loạn từ phía con người. Mầu nhiệm Giáng sinh dạy chúng ta về sự khiêm nhường của Con Thiên Chúa. Tác giả thư Do Thái quảng diễn tấm gương hạ mình của Đức Giê-su (Bài đọc II). Người đã thưa với Chúa Cha: “Này con đến để thực thi ý Ngài”. Trọn vẹn cuộc đời dương thế, từ khi sinh hạ cho đến khi chịu chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã thể hiện sự vâng lời ấy. Cùng một tâm tình như Đức Giê-su, Đức Maria đã thưa với Sứ thần trong ngày truyền tin: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ thần truyền”. Hai lời thưa này cùng diễn tả sự khiêm tốn, vâng phục và phó thác. Quỳ cầu nguyện nơi hang đá máng cỏ, chúng ta hãy xin cho được sự khiêm nhường như Ngôi Hai Thiên Chúa và như Đức Maria, hiền mẫu của Người. Khi lòng chúng ta đầy những đam mê và kiêu ngạo ích kỷ, chúng ta không còn chỗ để đón Chúa. Chỉ khi nào can đảm dốc hết những hận thù toan tính, lòng chúng ta mới có khả năng đón Chúa đến và ở lại với chúng ta.

Tiếp đến là sự kiên nhẫn trung thành trong khi chờ đợi Chúa: Ngôn sứ Mika đã gửi đến cho dân Do Thái một thông điệp hy vọng. Ông sống và thi hành sứ vụ ngôn sứ vào thế kỷ thứ tám trước Công nguyên. Vào lúc dân chán chường thất vọng, ông đã quả quyết: Hãy hy vọng, vì Thiên Chúa sẽ can thiệp sau thời dân tộc bị bỏ rơi. Belem tuy là một thành nhỏ bé, nhưng đừng vì thế mà mặc cảm tự ti. Hãy tin vào Chúa, vì vị thống lãnh Israen sẽ xuất hiện từ thành trì nhỏ bé này. Cuộc sống của chúng ta có bao nhiêu gian truân thử thách. Kinh nghiệm thực tế đã chứng minh, những ai trung thành với Chúa sẽ được Ngài trợ giúp. Thánh Têrêsa Avila đã viết: “Không có gì làm cho bạn xao xuyến cả. Cũng chẳng có gì làm cho bạn hãi sợ. Mọi sự đều phải qua đi, còn Thiên Chúa thì không bao giờ thay đổi. Sự nhẫn nại chịu đựng đem lại tất cả. Ai có Thiên Chúa, thì không còn thiếu thốn gì. Một mình Thiên Chúa là đủ rồi”. Kiên nhẫn trung thành sẽ giúp chúng ta có sức mạnh để đạt tới hoàn thiện.

Một khi được đón Chúa đến trong đời, mỗi người tín hữu được mời gọi nhiệt thành loan báo Tin Mừng Giáng Sinh: Khi được chia sẻ, niềm vui sẽ nhân rộng và lớn mãi. Sau cuộc gặp gỡ với Sứ thần Gabrien, Thánh sử Luca nói, Đức Maria đã “vội vã lên đường”. Hình ảnh một thôn nữ đang mang thai tất bật vội vã vượt qua chặng đường dài xa xôi miền sơn cước hiểm trở cho thấy Đức Maria đang thao thức loan báo cho mọi người những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa sắp làm cho nhân loại. Đến thăm gia đình bà Elisabet, Đức Maria đã đem đến cho họ niềm vui. Bằng chứng cụ thể là hài nhi Gioan trong lòng mẹ đã nhảy mừng cách kỳ diệu. Đức Maria không dành những ơn phúc đã đón nhận từ Thiên Chúa cho cá nhân mình, nhưng Mẹ đã chia sẻ cho người khác. Ngôi Lời giáng sinh là niềm vui lớn lao cho cả thế giới (x. Lc 2,10). Ngày hôm nay, xung quanh chúng ta, có biết bao người chưa bao giờ được nghe nói về Chúa Giêsu, hoặc giả có nghe nói, nhưng đó là những khái niệm và hình ảnh sai lạc về Đấng Cứu thế. Người tín hữu khi mừng lễ Giáng Sinh được mời gọi lên đường để đem niềm vui Giáng Sinh vào cuộc sống. Con Thiên Chúa đã đến trong trần thế, chính người sẽ đem lại hòa bình cho nhân loại. Loan báo Chúa không chỉ bằng lời, mà còn bằng chính đời sống cụ thể của chúng ta, nhờ đó chứng từ của chúng ta mới mang tính khả tín, có sức thuyết phục mọi người.

Trong những ngày này, chúng ta hãy noi gương Đức Trinh nữ thành Nagiarét, mở rộng tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế. Cùng với Mẹ, chúng lên đường để nói với mọi người đang sống trong thời đại chúng ta rằng: NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI VÀ Ở CÙNG CHÚNG TA.

Về mục lục

.

CHỜ ĐỢI TRONG IM LẶNG

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Dòng chảy cuộc đời luôn đòi chúng ta phải chờ đợi. Chờ đợi trong mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Chờ đợi là điều hiển nhiên trong cuộc sống. Mỗi ngày ta vẫn thấy:

Hàng ngàn người chờ đèn xanh để bước tới. Hàng ngàn người chờ xe buýt để bước lên.  Chờ đợi là sẵn sàng kẻo chậm chân là lỡ nhịp.

Có những cha mẹ chờ đợi trong thời gian dài để cầu mong cho đứa con ngỗ nghịch biết nhìn lại và yêu mến cha mẹ nhiều hơn. Đây là sự chờ đợi đầy hy vọng của tình yêu luôn mong điều kỳ diệu đến cho người mình yêu.

Có những bà vợ chờ đợi chồng quay trở về với gia đình khi chồng đi dưới những ánh đèn màu, những tiếng nhạc xập xình. Dù là phải chờ đợi trong từng phút giây xót xa, giận hờn, ghen tuông. . . Đâylà sự Chờ đợi tin cậy, dù đau xót!

Cócâu chuyện kể rằng: Cô bé 18 tuổi, giống như các thanh niên ngày nay – thích nổi loạn, thích sống ra ngoài sự kiểm soát của cha mẹ.

Thế là cô quyết tâm bỏ nhà đi. nhưng dòng đời đã đẩy đưa cô từ thất bại này đến thất bại khác.Cô bị ruồng bỏ vì nghèo đói. Cô đã phải làm gái đứng đường, đem thân xác, hình hài mình ra làm thứ để mua bán, đổi chác.

Năm tháng cứ thế trôi qua, cô già đi và bị dòng đời đẩy đưa vào tận cùng khốn khó, Có những ngày đói khổ phải tìm tới quán cơm xã hội để kiếm chút lót dạ.

Và một lần đi đến xin cơm xã hội cô nhìn thấy tấm bảng nhỏ ghi ở cửa:“Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”.Cô nhìn tấm hình mẹ đang bế cô ngày nào. Đúng là mẹ đang tìm cô. Đứng trước tấm hình, cô bật khóc.

Cô quyết định đivề nhà dầu phải đi bộ hàng chục cây số. Về đến nhà trời tảng sáng, cô sợ hãi khép nép không biết sẽ phải nói ra sao. Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khoá. Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà.

Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô chạy vội lên buồng ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ yên. Cô đánh thức mẹ dậy:

– Mẹ ơi, con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi!

Không tin vào đôi mắt mình, bà mẹ lau nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau. Cô nói với mẹ:

– Mẹ à, con lo quá. Thấy cửa không khoá, con cứ nghĩ nhà có trộm!

Bà mẹ nhìn con âu yếm:

– Không phải đâu con à! Từ khi con đi, cửa nhà mình chưa bao giờ khoá. Mẹ sợ lúc nào đó con trở về mà mẹ không có ở đây để mở cửa cho con!

Và cô gái lại gục đầu vào lòng mẹ, bật khóc!

Nhìn vào xã hội hiện nay, biết bao gia đình đang rơi vào cảnh đổ vỡ hoang tàn. Phải chăng thiếu vắng những người vợ, những bà mẹ biết kiên nhẫn chờ đợi trong sự im lặng của tình thương và hy vọng.

Phụng vụ hôm nay cho chúng ta nhìn ngắm Mẹ Maria như mẫu gương chờ đợi. Chờ đợi của Mẹ là chờ đợi của hy vọng, của tin tưởng vào tình thương quyền năng của Chúa. Thế nên, Mẹ luôn có thái độ chờ đợi trong im lặng để suy niệm và cầu nguyện tìm ra ý Chúa. Bắt đầu từ sự im lặng nơi máng cỏ Belem , rồi trải qua ba mươi năm âm thầm tại Nazarét, rồi ba năm lặng lẽ theo dõi bước chân truyền giáo của con, và cuối cùng im lặng đau khổ dưới chân thập giá.

Trong năm mục vụ đồng hành với gia đình khó khăn, chúng ta hãy xin Mẹ Maria mang Chúa hài nhi đến trên những ngôi nhà đang  sống trong sự im lặng của thất vọng, của khổ đau đầy nước mắt trong bệnh tật, nghèo đói và tha hương. . . Xin cho họ biết suy niệm và cầu nguyện trong niềm tin tuởng vào Chúa như Mẹ để dầu cuộc đời có đẩy đưa biết bao sóng gió vẫn bình an và tin tưởng vào quyền năng Chúa như Mẹ. Và ước gì niềm vui giáng sinh “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” sẽ mang lại cho cuộc đời chúng ta trọn vẹn niềm vui khi mang Chúa đến cho tha nhân qua đời sống yêu thương và phục vụ nhưMẹ đã mang Chúa đến cho Giacaria năm xưa. Amen

Về mục lục

.

LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Jos. DĐH.

Hạnh phúc có phải là khi ta đầy đủ vật chất tinh thần, hạnh phúc là khi gia đình sống no thoả đức độ yêu thương, hạnh phúc là khi sống mà không còn phải lo nghĩ đến khổ đau, không sợ phải mất mát chia ly ? Những khái niệm hạnh phúc được gợi lên như thế, ít nhiều vẫn đang quy hướng mọi hoạt động của con người trở về với công bằng bác ái và khao khát sống có tình có nghĩa hơn. Tâm điểm của bác ái là phục vụ, là ý thức lời mời gọi mang tình Chúa đến với anh chị em mình, là chia sẻ tình người thiết thực với nhau. Vượt ra ngoài sự riêng tư gia đình, tìm khám phá sự kỳ bí của chữ tình, thực hiện mơ ước: đi một ngày đàng, học một sàng khôn, hoặc làm cuộc thăm viếng người thân, chúng ta đã trải nghiệm, nhưng học hỏi, làm ô-sin, chia sẻ với người chị em 3 tháng, thật là chuyện hiếm.

Rất nhiều người hôm nay vẫn hiểu loan báo tin-mừng là mang Chúa đến cho anh chị em mình, là chia sẻ vật chất, tình thương yêu, xoá đi những rào cản thù hận ích kỷ, làm mới lại tình thân hữu từng bị lãng quên. Từ cuộc viếng thăm người chị họ, Trinh nữ Maria đã mở ra cho hậu thế nhiều suy tư về công cuộc loan báo tin-mừng hôm nay: ơn gọi làm chứng nhân tin-mừng, tính hiệu quả, nhiệt huyết tông đồ, luôn tuỳ thuộc tình yêu giữa người lãnh nhận và người cho đi. Hành trình vội vã ra đi đến miền núi thăm người chị họ của Đức Maria, vẫn còn mãi tính thời sự do lần chia sẻ yêu thương đầm ấm, hoà cùng tác động của thần linh. Người chị họ phát hiện ra niềm vui tin-mừng: “hài nhi nhảy mừng trong lòng ; Đức Maria cảm nhận được Sứ-thần Chúa tác động trên người chị họ: bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”….?

Gặp gỡ người thân, loan báo tin mừng, chia sẻ niềm vui, sẽ mãi còn thích hợp, khi tình người được diễn tả thực tế nhất về hành động bác ái với nhau. Loan báo tin mừng, san sẻ yêu thương, có phải là lúc người ta đang được nâng hồn lên trong vui say, đang sống trong một thế giới đầy tràn hạnh phúc của tương lai không ? Tự tin và mạnh mẽ để làm một cuộc lên đường theo gương Đức Maria, chính là câu trả lời cho anh chị em mình rõ hơn về tác động của tình yêu thương. Lịch sử giáo hội thời nào cũng sống động bởi gương truyền giáo, đem Chúa đến, đem tình thương Chúa đến với anh chị em mình, không phân biệt sang hèn, tội phúc. Nhiệt huyết tông đồ, dù đơn giản hay phức tạp, tất cả đều phản ánh từ tình yêu thương mà các đấng bậc chân thành, sẻ chia.

Để tiếp tục rao giảng và loan báo về niềm vui, hạnh phúc, tiền nhân chúng ta có nói tới quan niệm: được tiền được của, không được, được tình được nghĩa, được tất cả. Dù sao thì loan báo tình yêu thương, chia sẻ những vất vả khổ đau về tinh thần, thể xác, vẫn là căn bản của đạo làm người, đạo làm con Chúa. Để gieo rắc niềm hy vọng, làm giảm bớt những áp lực căng thẳng nơi cuộc sống, tiền nhân chúng ta thường nhắc tới sự xuất hiện của “bụt-thần”, vừa có ý xoa dịu khổ đau, vừa có ý hướng lòng con cháu về sự thiện, điều lành. Vào những ngày này, hình ảnh “ông già Noel” áo đỏ viền trắng, râu dài, đang chuyển tải rất nhiều thông điệp “Giáng Sinh” tới các em thiếu nhi. Công cuộc loan báo tin-mừng giữa hai phụ nữ năm xưa, sẽ còn được tiếp nối thông điệp an vui vì tình người, tình Chúa, được hoà nhập và sẻ chia nơi tự do của chúng ta.

Năm xưa, khi loan báo tin-mừng cho người chị họ, tình Chúa, tình người không dừng lại ở phạm vi riêng tư cá nhân, niềm vui, hạnh phúc được lan toả cho muôn dân, tình yêu được cụ thể, ơn bình an cho người thiện tâm được ứng nghiệm. Sứ mạng loan báo tin-mừng tiếp tục âm vang rộng lớn, tác động đến “hai con trẻ”, niềm vui vỡ oà và hạnh phúc trào dâng, qua tác động của tin yêu hoà với lời chào chúc của Sứ-thần. Nhắc nhớ việc loan báo tin-mừng nơi chúa nhật 4 hôm nay, đang được minh chứng bởi tình yêu, để rồi niềm vui vượt qua giới hạn ở ngôi thánh đường này, đụng chạm đến từng tâm hồn, mọi người sẽ cảm nhận rõ ràng hơn về nét đẹp được toả lan: vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế.

Thời xưa, thời nay, đều có chung một quy luật: tất cả những ai muốn vào nhà đều phải qua cửa ; tất cả mọi người muốn đến với nhau đều phải có đường đi. Gia đình Dacaria là gia đình đầu tiên được thấm nhuần tin-mừng cứu độ, nay gia đình nhân loại, gia đình giáo xứ, đang đi qua tiến trình làm sống động hơn nữa về sứ mạng loan báo tin-mừng. Sống bác ái phục vụ, sẻ chia vật chất, tinh thần cho anh chị em mình, tất cả đều phát xuất từ tình yêu thương, từ sứ mạng loan báo tin-mừng của Thiên Chúa. Mỗi chúng ta ở đây có thể chưa đủ tâm, chưa đủ tài, nhưng tình yêu Chúa vẫn nhiệm mầu chúc lành cho chúng ta: khi đi học gặp được thầy nhiệt tình, khi đi làm gặp được chủ tốt, khi sống sứ vụ loan báo tin-mừng gặp được bạn đồng tâm đồng lòng. Amen.

Về mục lục

.

MẸ MARIA VÀ BÀ ÊLISABÉT

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng bao giờ cũng dành chỗ đặc biệt để nói về Đức Mẹ. Mà chẳng đề cao vai trò của Đức Mẹ sao được khi mẹ Maria đã được Thiên Chúa chọn lựa để làm mẹ Con Thiên Chúa, làm mẹ chính Thiên Chúa và mẹ nhân loại, mẹ Giáo Hội…Mẹ Maria nắm vai trò quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Mẹ Maria là người được chúc phúc hơn mọi người nữ như lời bà Êlisabét ca tụng mẹ.

Vâng, Tin Mừng của Thánh Luca hôm nay cho ta gặp gỡ hai người phụ nữ : Đức Maria và và Êlisabét, cả hai phụ nữ nay đều đang mang thai. Cả hai thai của hai người phụ nữ đều là những phép lạ. Đức Trinh nữ Maria, mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần và bà Êlisabét thụ thai cũng bởi quyền năng của Thiên Chúa vì hai ông bà Giacaria, Êlisabét đã già,và mang tiếng là son sẻ. Mẹ Maria khi nói lời xin vâng làm theo ý Chúa, đã vội vã lên đường đi thăm bà chị họ là Êlisabét.Cuộc gặp gỡ này, tạo điều kiện, cơ hội để Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Êlisabét và Hài Nhi Giêsu nơi cung lòng thanh khiết của Đức Mẹ được gặp nhau trong sự vui mừng, hân hoan và tràn đầy Chúa Thánh Thần. Bà Isave đã nhận ra điều mà mắt thường, sự suy nghĩ thường không bao giờ có thể nhận ra được.Nhưng với ơn Chúa Thánh Thần bà Isave đã nhận ra con trong cung lòng của Mẹ Maria là Đấng Cứu Thế.,

Mẹ Maria đem niềm vui, chia sẻ hạnh phúc với người chị họ Isave, nhưng cũng đem đến cho người chị họ sự phục vụ. Mẹ Maria càng xác tín hơn điều mà Mẹ đã lãnh nhận, bởi vì chính điều kín ẩn nơi cung lòng của Mẹ đã được người chị họ nhận ra. Mẹ đã tin và chị họ của mình cũng đã tin. Do đó, Mẹ cất tiếng ngơi khen Thiên Chúa và ca ngợi Lòng Thương xót của Chúa đối với Mẹ…Mẹ biết mình là người có phúc hơn mọi người nữ vì Thiên Chúa chọn mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tin vào Lời của Chúa cũng như người chị họ đã tin vào Lời của Chúa.

Mẹ đã cưu mang Đấng Mêsia bởi phép Chúa Thánh Thần.Mãi mãi Thiên Chúa gìn giữ Mẹ. Mãi mãi cung lòng của Mẹ là nơi Thiên Chúa ngự trị. Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Thiên Chúa đã chọn một gia đình để sinh ra có Cha, có Mẹ. Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm đức tin. Mẹ đã tin.Nhân loại cũng phải tin như Mẹ.

Bà Êlisabét đã tin vào Lời của Chúa.Mẹ Maria cũng đã tin vào Chúa. Tất cả đều thành sự như lời Thiên Chúa truyền…

Mừng mầu nhiệm Giáng Sinh Nhập Thể, mọi Kitô hữu trên thế giới phải yêu mến gia đình, tôn trọng phụ nữ và tôn trọng thai nhi.Biết bao phụ nữ lầm lỗi đã phá đi biết bao mạng trẻ vô tội.Chúng ta cầu nguyện cho mọi phụ nữ trên thế giới, đặc biệt trong giáo xứ chúng ta biết bảo vệ phẩm giá làm người của mình, đừng biến thân xác mình làm trò chơi cho thiên hạ.Tin mừng Giáng Sinh và Sứ điệp Giáng Sinh là kính trọng thân xác phụ nữ, tôn trọng thai nhi.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn một gia đình có Cha có Mẹ để sinh ra.Xin giúp chúng con biết yêu mến và bảo vệ sự hạnh phúc của gia đình.Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1.Mẹ Maria đi thăm bà chị họ Êlisabét để làm gì ?
2.Bà chị họ đã nói gì với Đức Trinh Nữ Maria ?
3.Mẹ Maria đã chúc tụng Thiên Chúa thế nào ?
4.Sứ điệp của Lễ Giáng Sinh là gì ?
5.Chúa Nhật IV Mùa Vọng thường nói về ai ?

Về mục lục

.

HIỆN DIỆN BÊN NHAU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

Hiện diện bên nhau

Khi đang lâm bệnh ngặt nghèo, thập tử nhất sinh hay đang cơn hấp hối mà có người thân yêu ở kề bên chia sẻ cảm thông thì đó là niềm an ủi lớn lao không gì sánh được.

Khi gặp cô đơn sầu não không kẻ đoái hoài mà có một người bạn chân tình hiện diện bên cạnh thì không gì quý báu hơn.

Trong những trường hợp đó, người ta mới cảm nhận được nhu cầu có người thân sống-với mình hay hiện-diện-bên-cạnh mình cần thiết xiết bao!

Vì thế, Đức Cha Gaillot, một giám mục Pháp, đã nhận định rất xác đáng rằng:

“Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn;

Việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn.”

Như thế, chấp nhận sống-với tha nhân, hiện-diện-bên-cạnh tha nhân thì tốt hơn mọi hình thức trao ban, giúp đỡ khác.

Thiên Chúa sống-với con người 

Thiên Chúa là Người Cha nhân lành rất yêu thương nhân loại nên Ngài muốn sống với, muốn hiện diện bên cạnh nhân loại luôn mãi. Chính vì thế, Thiên Chúa tự xưng mình là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa hằng ở cùng chúng ta (Isaia 7, 14. Mat-thêu 1, 23).

Vì muốn ở cùng nhân loại nên Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách vô tận giữa trời và đất để đến ở với loài người.

Vì muốn ở cùng nhân loại nên Chúa Giê-su đã sống kiếp phàm nhân suốt ba mươi ba năm để chia sẻ vui, buồn, sướng, khổ của phận người.

Vì muốn ở cùng nhân loại nên dù đã sống lại và lên trời vinh hiển, Chúa Giê-su vẫn không rời xa các môn đệ. Ngài nói với họ:

“Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).

“Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại để đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó” (Mt 14,3).

Vì mong muốn ở lại mãi với các môn đệ, nên Chúa Giê-su khấn nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Mt 17,24).

Thế rồi Chúa Giê-su lập nên Bí tích Thánh thể để không những ở với, ở cùng, hiện diện bên cạnh mà còn ở trong chúng ta và nên một với chúng ta.

Mẹ Maria sống-với con người 

Vì biết rằng nhu cầu được thăm viếng, được sống với, được hiện diện bên cạnh là rất cần thiết nên khi hay tin người chị họ cao niên của mình được Chúa đoái thương cho cưu mang quý tử, Đức Maria đã không quản ngại thân gái dặm trường, sẵn sàng băng rừng vượt núi tiến lên miền sơn cước để chúc mừng, để phục vụ và nhất là để sống – với, để hiện diện bên cạnh người chị họ cao niên suốt ba tháng trời (Lc 1, 39. 43. 56).

Về sau nầy, khi tâm hồn các môn đệ hoang mang xao xuyến sau biến cố Chúa Giê-su về trời, Mẹ Maria tiếp tục hiện diện bên các môn đệ, củng cố niềm tin đang chao đảo của các ngài.

Và rồi trong suốt dòng lịch sử Hội thánh, Giáo hội phải nhiều phen trải qua gian lao sóng gió, Mẹ Maria luôn có mặt trong những thời điểm khó khăn đen tối, để hiện diện và đồng hành với đoàn con cái trong lúc gian nan, để ủi an khích lệ họ trong cảnh u sầu như Mẹ đã thực hiện tại La-vang, Fatima, Lộ-đức và nhiều nơi khác.

“Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn.

Việc từ thiện là cần thiết, hiện-diện-bên-cạnh, cần thiết hơn.”

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con luôn noi gương Chúa là Emmanuen, là Đấng luôn ở với loài người để cùng chia sẻ ngọt bùi với bao người chung quanh; xin cho chúng con bắt chước Mẹ Maria là Đấng luôn hiện diện bên con cái mình để che chở ủi an họ trong những lúc gian truân khốn khó; xin giúp chúng con trở nên những Emmanuen khác, để viếng thăm, an ủi, để sống-với, để hiện-diện-bên-cạnh những người đang gặp hoàn cảnh đau thương.

Về mục lục

.

MỞ RỘNG TÂM HỒN ĐÓN CHÚA GIÁNG SINH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sau khi đã ngưng nghỉ nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, nay lễ Giáng sinh đã gần kề, tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, thôi thúc chúng ta phải làm hết sức những gì có thể để hưởng trọn vẹn niềm vui ngày Con Chúa ra đời.

Lời của ngôn sứ Mikha lôi kéo chúng ta hướng nhìn về Belem, châu thành bé nhỏ của nước Giuđê, chứng tá của một biến cố vĩ đại : “Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời” (Mk 5,1). Một ngàn năm trước Chúa Kitô giáng sinh, Bêlem đã là sinh quán của Ðavít đại vương, mà Kinh Thánh trình bày như là tổ tiên của đấng Mêsia. Tin Mừng thánh Luca thuật lại rằng, Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bêlem bởi vì ông Giuse, chồng của bà Maria, “thuộc dòng dõi Ðavít” phải trở về nơi ấy để kiểm tra dân số, và chính vào lúc đó Maria đã hạ sinh Hài Nhi Giêsu (x. Lc 2,1-7).

Hôm nay thánh Luca tiếp tục giới thiệu cho chúng ta hai nhân vật là Đức Maria và người chị họ là Isave như hai mẫu gương tiêu biểu cho người thủ đắc niềm vui vì có Chúa, đồng thời mời gọi chúng ta cần phải có thái độ nội tâm xứng đáng giống hai bà với đức tin năng động, để chiêm ngắm sự kiện nhập thể và giáng sinh của Con Một Chúa.

Isave, với sự khiêm tốn chân thành, “được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?” (Lc 1,41-43). Nhờ tin mà Isave được Chúa Thánh Thần mách bảo cho biết, Maria người em họ mình là mẹ Thiên Chúa của bà. Bà cũng không ngần ngại tuyên xưng niềm vui của đức tin với Đức Maria : “Phúc cho Bà là kẻ đã tin” (Lc 1,45).

Đây là một thái độ đức tin mà chúng ta phải sống trong những ngày này. Noi gương Đức Maria và bà Isave, với một đức tin năng động. Chúng ta phải bày tỏ lòng biết ơn và niềm vui có đức tin của chúng ta. Giống như Đức Maria, chúng ta phải thể hiện bằng việc chúng ta làm. “Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave” (Lc 1,39-40), để chúc mừng và giúp đỡ người chị họ (Lc 1,56).

Thật là hữu ích cho những ngày này, chúng ta suy tư về trình thuật cuộc găp gỡ lịch sử giữa hai bà mẹ đang mang thai là Đức Maria và bà chị họ là Isave. Hai bà mẹ tràn ngập niềm vui. Niềm vui của Đức Maria là niềm vui có Thiên Chúa ở cùng. Niềm vui ấy lan tỏa sang bà Isave. Bà Isave vui với niềm không ai có được là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Chính lời chào của Mẹ Maria, kẻ đã tin, làm cho Isave ngập tràn vui sướng, đến hài nhi cũng nhảy mừng trong lòng bà (x. Lc 1, 39-45).

Quả là một mầu nhiệm tuyệt vời! Gioan chưa sinh ra, ông đã cất lời tiên báo; thậm trí ông còn chưa thể cất tiếng khóc chào đời, ông đã bắt đầu nghe bằng hành động; sống đời rao giảng về Thiên Chúa; chưa thấy ánh áng, ông đã chỉ cho người ta thấy mặt trời; ông còn chưa lọt lòng mẹ đã nhanh nhẹn thi hành sứ mạng tiền hô, đi trước Chúa và loan báo cho mọi người biết: Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội của trần gian (Ga 1, 29).

Có người hỏi : Thưa ông Gioan, hãy nói cho chúng tôi biết, lúc ông còn trong dạ mẹ, làm thế nào để ông thấy được và nghe được? Làm thế nào để ông nhìn thấy mọi sự của Thiên Chúa? Làm thế nào ông có thể nhảy mừng trong dạ mẹ vì vui sướng? Gioan trả lời : đây là mầu nhiệm vĩ đại được hoàn thành, là hành động vượt quá sự hiểu biết của con người. Luật tốt hảo tôi phải đổi mới trong trật tự thiên nhiên vì người phải đổi mới trong trật tự siêu nhiêu. Tôi đã thấy, ngay cả khi tôi chưa sinh ra, vì tôi cám thấy chứa đựng Mặt Trời công chính (Ml 3, 20). Tôi cảm nhận được bằng thính giác, bởi vì đi vào thế giới. Tôi là tiếng kêu trước của Ngôi Lời. Tôi kêu lên, vì tôi thấy Đấng tạo dựng vũ trụ nhận thấy thân phận con người. Tôi nhảy mừng,vì tôi nghĩ rằng Đấng Cứu Chuộc thế gian đã mặc lấy xác phàm. Tôi là Tiền Hô đi trước Người và làm chứng cho Người.

Đức Maria với niềm vui diễm phúc ngập tràn, vì Mẹ đã tin, đức tin của Mẹ hệ tại việc lắng nghe Lời Chúa để phó thác cho Lời của Chúa trong thái độ hoàn toàn sẵn sàng trong tâm trí. Qua lời thưa “Xin vâng” tràn đầy niềm tin, Mẹ ý thức rằng, chính Thiên Chúa yêu cầu và Mẹ hoàn toàn tín thác nơi Chúa và phó thác cho tình yêu Chúa.

Biết bao lần Chúa đi qua cuộc đời chúng ta và bao nhiêu lần Chúa gửi một thiên thần đến với chúng ta : bao nhiêu lần chúng ta không ý thức điều đó, vì chúng ta quá bận rộn và chìm đắm trong những công việc của mình.

Ngày hôm nay, cũng như vào thời Chúa Giêsu, lễ Giáng sinh là lời đáp trả của Thiên Chúa cho nhân loại đang cầu mong hòa bình. Ngôn sứ nói về đấng Mesia như là “Người sẽ đem lại hòa bình cho chúng ta”. Phần chúng ta, chúng ta hãy mở rộng cửa để đón tiếp Người. Chúng ta hãy học hỏi Ðức Maria và thánh Giuse cũng như bà Isave : nhờ đức tin, chúng ta hãy phục vụ kế hoạch Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu biết tường tận kế hoạch ấy, nhưng chúng ta hãy ký thác cho Thiên Chúa là Ðấng khôn ngoan và tốt lành. Tiên vàn chúng ta hãy tìm Nước Chúa, và Chúa Quan phòng sẽ giúp đỡ chúng ta. Chúng ta hãy sửa soạn tâm hồn để có một chỗ xứng đáng, nơi Chúa Giêsu Hài Ðồng cảm thấy mình được đón tiếp với đức tin và tình thương!

Về mục lục

.

MỞ CỬA MỜI CHÚA BƯỚC VÀO TÂM HỒN

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Vào ngày 9/10/2018, ông Kim Jong Un chủ tịch Bắc Hàn đã nhờ tổng thống Nam Hàn gửi lời mời Đức Thánh Cha Phanxicô thăm viếng Bắc Hàn. Ông nói rằng: “Đức Giáo hoàng sẽ được chúng tôi đón tiếp hết sức nồng nhiệt khi đến thăm Bình Nhưỡng”.Tòa Thánh đã đón nhận động thái tích cực này và cho biết: Đức Thánh Cha rất quan tâm đến lời mời của ông Kim Jong Un. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha, hai bên còn phải có nhiều thời gian để chuẩn bị và phía Bắc Hàn phải thể hiện sự chân thành bằng thư mời chính thức gửi cho Tòa Thánh. Thế giới có phần nghi ngờ việc làm này của chủ tịch Kim, không biết là do thật lòng muốn thay đổi đất nước hay chỉ là chiêu trò có tính chính trị, vì ông ta cũng đã nhiều lần thất thường như thế. Dưới thời dòng họ Kim làm chủ tịch, đạo Công Giáo hầu như bị xóa sổ tại Bắc Hàn, các nhà thờ bị phá hủy, các linh mục bị bắt, sách Kinh Thánh bị coi là quốc cấm.

Thưa quý OBACE, hôm nay chúng ta đã bước vào tuần áp lễ Chúa Giáng Sinh, Lời Chúa mời gọi chúng ta phải thật lòng mở rộng cánh cửa tâm hồn để đón mời Chúa bước vào. Chúa vẫn đứng chờ và sẵn sàng để đến thăm tâm hồn chúng ta, chỉ có điều chúng ta có thật lòng muốn mời Ngài vào, hay chỉ là những hình thức chuẩn bị qua loa lấy lệ bên ngoài mà không thực lòng. Vì một khi để cho Chúa bước vào, đòi chúng ta phải thay đổi từ trong suy nghĩ đến đời sống và còn phải có những việc làm thể hiện thiện chí của chúng ta. Lời Chúa hôm nay chỉ ra những mẫu gương và những thái độ phải có để đón tiếp Chúa.

Trước hết là thái độ của Đức Maria: Maria, một cô gái làng Nazaret đơn sơ thánh thiện đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm nơi cho Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Thiên Chúa đã sai sứ thần đến hỏi ý kiến của Mẹ. Mặc dù không thể hiểu hết được lời chào và lời giải thích của sứ thần về việc: Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao, vậy mà Đức Maria đã sẵn sàng thưa tiếngxin vâng“Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.Với lời thưa xin vâng này, Đức Maria đã thể hiện một thái độ khiêm nhường thẳm sâu, biến mình nên một dụng cụ trong bàn tay của Thiên Chúa. Mẹ đã sẵn sàng để cho Thiên Chúa sử dụng cung lòng của mình cho Con Thiên Chúa cư ngụ, trước mắt người đời, điều này là vô cùng xấu hổ và có thể bị ném đá đến chết. Mẹ Maria đã hoàn toàn đặt trọn tương lai và cuộc đời cho Thiên Chúa dẫn dắt mà không đòi một điều kiện nào. Mẹ để mình hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và còn quảng đại dâng tặng máu thịt của mình để làm nên máu thịt Con Thiên Chúa trong lòng Mẹ.

Kế đến là thái độ của bà Isave: Cuộc viếng thăm của Đức Maria đến nhà bà Isave khiến bà hết sức bất ngờ. Bà Isave đã đón tiếp người em của mình trong vui mừng và hân hoan hạnh phúc, vì bà nhận ra người con trong dạ cô em mình là chính Thiên Chúa. Vì thế khi vừa gặp Maria, Isave đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa của tôi đến viếng thăm tôi”.Isave đã nhận ra việc Thiên Chúa viếng thăm gia đình bà qua con người của cô em Maria. Nhờ cuộc viếng thăm này, Thiên Chúa đã đổ tràn Thánh Thần xuống trên cả hai bà mẹ để cả hai người cùng cất lên những lời ca đẹp nhất tôn vinh Thiên Chúa. Bà Isave đã hết lời ca tụng Thiên Chúa vì những việc kỳ diệu Chúa đã làm cho người em của mình và cho chính bà. Bà cảm nhận được Gioan, đứa con trong dạ bà cũng nhảy lên vì sung sướng khi được Đấng Cứu Thế viếng thăm. Cuộc viếng thăm này còn là cuộc viếng thăm của hai đứa trẻ, của Đấng Cứu Thế gặp gỡ vị tiền hô của mình. Cuộc gặp này tuy không nói lên lời, nhưng lại là cuộc gặp đem lại ơn cứu độ cho Gioan, ông được tẩy sạch vết nhơ nguyên tội từ khi chưa sinh ra.

Thư Do Thái cho thấy Đấng Cứu Thế đến không phải để kết án, nhưng tha thứ, không phải để hủy diệt nhưng để cứu sống nhân loại. Chúa không đến trong vẻ ngoài của một vị hoàng đế hay hoàng tử, nhưng Ngài đến trong phẩm vị là một thượng tế. Ngài đến trong sự khiêm hạ vâng phục hoàn tòan thánh ý Thiên Chúa. Trong phẩm vị là tư tế, Đấng Cứu Thế đến trong một thân xác người phàm. Ngài thi hành chức vụ tư tế bằng việc hiến dâng cả cuộc đời của mình trong sự vâng phục, làm của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha để cầu xin ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng nhiều cách, nhưng Thiên Chúa lại chọn cách cho Con của Ngài làm người và chịu hiến tế chính mình làm của lễ toàn thiêu và là lễ xá tội cho nhân loại. Mang thân phận con người, Đấng Cứu Thế đã chấp nhận được sinh ra làm con một người phụ nữ, chịu sự giới hạn của thân phận con người. Ađam ngày xưa đã nghe theo ma quỷ, đã kiêu ngạo, muốn mình trở nên ngang hàng với Thiên Chúa, ông đã thất bại và phải chết. Chúa Giêsu ngày nay đã không chọn ý riêng của mình nhưng phó dâng cả con người của mình để phục vụ thánh ý Chúa Cha, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá. Chính cái chết vâng lời trong yêu mến này đã làm nên hy lễ đền tội cho tất cả nhân loại và vũ trụ. Đức Giêu đã khiêm nhường đón nhận thánh ý Chúa Cha, Thiên Chúa đã trả lại cho Ngài vinh quang danh dự và địa vị là vua trời đất, Chúa tể muôn loài. Đức Maria khiêm nhường đón nhận Thiên Chúa vào cuộc đời mình, Chúa đã trả lại cho Mẹ vinh dự lớn lao, trở nên cao trọng hơn tất cả mọi người phụ nữ trên trần gian này. Bà Isave đón tiếp Chúa vào nhà, Chúa đã chúc phúc và ban ơn cứu độ cho gia đình bà. Ngay cả vùng đất Bêlem nhỏ bé hẻo lánh của Giuđa, nhờ đón nhận Đấng Cứu Thế, nó trở nên một vùng đất được chúc phúc và được mọi người biết đến, vì từ nơi đây, Đấng Cứu Thế đã sinh ra, thủ lãnh muôn dân đã xuất hiện và đó là điều Tiên tri Mikha đã nói về đất Bêlem. Như thế Lời Chúa cũng cho thấy rằng, những ai quảng đại mở cửa lòng đón nhận Thiên Chúa, Chúa sẽ không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của người ấy. Thiên Chúa sẽ trả lại cho người ấy và gia đình dư tràn ân phúc và đặc biệt Ngài sẽ ban lại ơn cứu độ cho người ấy và gia đình họ.

Thưa quý OBAEC, đến hôm nay hầu hết các nhà thờ, các hang đá, đèn sao đã được trang hoàng xong. Tuy nhiên, sự chuẩn bị đó cho dù có rực rỡ lung linh đến đâu đi nữa thì cũng chỉ là sự chuẩn bị, trang hoàng bên ngoài. Chúa vẫn chờ đợi để được bước vào, thăm viếng mỗi tâm hồn và mỗi gia đình. Để cuộc thăm viếng này có thể diễn ra tốt đẹp, đòi mỗi người cũng phải bày tỏ thái độ thiện chí, tích cực. Chúa không thể bước vào một tâm hồn khi lòng người đó còn ngổn ngang quá nhiều thứ như tội lỗi, gian dối, bất công hoặc những thói quen xấu. Chúa cũng không thể bước vào gia đình để thăm viếng khi gia đình quá bận rội với công việc đến độ không còn giờ chuyện trò với Chúa qua các giờ kinh, hoặc bận rộn với việc kèn cựa cãi vã, đến độ không nhận ra Chúa vẫn đứng đó chờ chúng ta mời ngài ngồi để tâm sự.

Có thể có nhiều người, nhiều bạn trẻ đã có những kế hoạch để “chơi giáng sinh” bằng những cuộc ăn nhậu thâu đêm, bằng tăng hai, tăng ba buông thả hết ga, nhưng vẫn chưa có một động thái gì để điều chỉnh bản thân, chưa có một hành động nào tích cực để đón Chúa vào tâm hồn. Vì thế sau những đêm vui chơi như thế, chỉ còn đọng lại những nỗi sầu và sự trống rỗng trong tâm hồn. Chỉ khi có Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa bước vào cuộc đời, Chúa sẽ lấp đầy những trống vắng và thiếu thốn, sẽ xóa đi nỗi buồn chán và đem lại niềm vui, bình an và ơn cứu độ, như Chúa đã làm cho Đức Maria, Bà Isave và Gioan Tiền Hô.

Mùa Giáng Sinh đã về, chúng ta chỉ thực sự đón nhận niềm vui của mùa Giáng Sinh khi mỗi người chủ động mở cửa lòng để Chúa bước vào. Chúa vừa là thượng khách và cũng có thể nói Chúa là “người quét dọn, thiết kế”, Chúa sẽ dọn dẹp những lo lắng còn ngổn ngang trong tâm hồn, Chúa sẽ chiếu sáng những góc khuất, sẽ làm sạch những chỗ bụi bặm hôi hám bởi tội lỗi, dục vọng và lười biếng. Ngài sẽ giải gỡ những bất hòa, bất an và làm cho căn nhà tâm hồn chúng ta nên tươi mới và xinh đẹp hơn. Cầu chúc cho mỗi người biết dành những giây phút thinh lặng bình an bên hang đá Chúa để cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa và sự đơn sơ thánh thiện từ hang đá Bêlem lan tỏa và biến đổi chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

MONG ĐỢI TRONG VUI MỪNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thánh Luca kể chuyện hai người phụ nữ diễm phúc đang mang thai gặp gỡ nhau. Bà Êlidabet mang thai, đó là ân huệ Chúa thương ban để bà cất đi nỗi nhục cả đời mình “Chúa đã làm cho tôi như thế đó khi thuận tiện Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25). Thời gian dài đợi chờ rất dài, nay đã thành hiện thực và bà lại bắt đầu một thời gian trông đợi khác. Bà ẩn dật, cầu nguyện, nghỉ ngơi và chuẩn bị. Đức Maria cưu mang Con Thiên Chúa bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Đức Maria xin vâng với lòng tin và đợi chờ trong niềm vui.

Sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria có thai và đã lên đường đi thăm người chị họ. Khi gặp nhau, hai người mẹ thông tin cho nhau biết về ý nghĩa của những phép lạ xảy ra trong cuộc đời mình. Đó là thời gian hai người mẹ mang thai chia sẻ sự mong đợi trong vui mừng. Cả hai đều là nữ tỳ khiêm tốn được Thiên Chúa mời gọi tham gia vào sứ mạng cứu độ của Người. Cả hai cùng hân hoan vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi họ và cả hai cùng cảm nhận niềm hạnh phúc dâng trào vì đã tin.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Êlidabet vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Hài nhi Gioan vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung làm cho cuộc gặp gỡ trở thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Suối nguồn  của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc.

  1. Cuộc viếng thăm lịch sử.

Đây là cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang cũng là giữa hai giao ước cũ và mới.

– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlidabet được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.

– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng Êlidabet nhảy mừng vui sướng.

– Giữa hai giao ước:  Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.

  1. Cuộc viếng thăm tình yêu.

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động thì không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.

Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo khổ, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.

  1. Niềm vui thăm viếng

Khi đến thăm bà Êlidabet, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlidabet vui mừng mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlidabet được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi  Mẹ. Gia đình Bà Êlidabet là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.

Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần.

Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlidabet đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con Yêu Dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.

Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.

Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.

Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.

Đức Maria viếng thăm phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Êlidabet. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của người tín hữu.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG_C

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Chúng ta vừa được thánh Luca tường thuật lại cho chúng ta một câu chuyện thật đẹp, có một không hai trong Lịch sử loài người: Chuyện Đức Maria, mẹ của Thiên Chúa nhập thể làm người đi thăm người chị họ già cả của mình trong lúc bà đang cưu mang một người con của ân điển trong lòng. Phải nói rằng đây là một câu chuyện tuyệt đẹp đặc biệt vì nó mang lại những hiệu quả tuyệt vời cho cả người viếng thăm và người được thăm viếng.

Với người được viếng thăm thì con của bà nhận được hồng ân cao cả là được khỏi tội nguyên tổ ngay từ khi còn ở trong lòng mẹ. Với người đi thăm viếng thì cuộc viếng thăm đã là một cơ hội cho sự ra đời của một bài ca ca tụng tình thương của Thiên Chúa đẹp đến mức độ Giáo Hội đã phải dùng để cầu nguyện hằng ngày cho những giây phút thánh thiêng nhất để kết thúc một ngày sống trên đời. Bài ca đó là bài ca Magnificat- Linh hôn tôi ngợi khen Đức Chúa…

Trong bài ca này, hầu như Đức Maria đã không nài xin gì cùng Thiên Chúa, kể cả những điều chính đáng và cần thiết nhất cho cuộc đời của mình. Chẳng hạn như xin được bình an, khỏe mạnh trong thời mang thai, xin cho mẹ tròn con vuông khi sinh, xin cho thánh Giuse làm ăn khá giả để nuôi gia đình, xin cho mình được thánh thiện đóng tròn vai trò làm Mẹ Thiên Chúa.

Tất cả những điều đó giả sử Đức Maria có xin thì cũng là chính đáng. Tuy nhiên Người đã không xin vì Người hiểu rằng tạ ơn thì tốt hơn là xin ơn. Người chỉ nói lên niềm vui đang dâng lên trong lòng mình, rồi biến niềm vui đó thành lời chúc tụng: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Tâm trí tôi hớn hở reo mừng trong Chúa là Đấng Cứu dộ tôi”. Lời ngợi khen dâng lên tự phát, nhẹ nhàng, hồn nhiên, không cầu kỳ, gò bó, gọt dũa.

Chúng ta tự hỏi: Tại sao đức Maria lại có thể đem hết tâm trí để chúc tụng Thiên Chúa như vậy?

Có hai lý do: Người biết sống phó thác và Người có tâm hồn nhạy cảm.

+ Trước hết Đức Maria biết sống phó thác.

Phó thác là thế nào?

Vào một ngày thu, chim quạ nói chuyện với chim én chưa đầy một tuổi :

– Như tôi thấy, em sắp sửa đi xa phải không? Em đi đâu vậy?

 Én trả lời:

– Ở đây trời sẽ lạnh hơn, em chịu lạnh không được, nên sẽ bay đến một miền ấm áp hơn.

Chim quạ chế nhạo:

– Nhưng em mới sinh ra vài tháng thôi, sao em biết có một miền ấm áp hơn để em không vì chết lạnh ?

Én trả lời:

– Thiên Chúa, Đấng đặt trong lòng em cái mong ước tìm về một nơi ấm áp, sẽ không bao giờ phỉnh gạt em đâu. Em tin vào Đấng đó, nên em sẽ bay đi.

Người sống phó thác là người có một niềm tin tương tự như vậy. Người đó luôn biết rằng có Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Mình được che chở, giữ gìn. Điều quan trọng không phải là cái gì sẽ xảy đến, nhưng là mình có tìm thấy ý Chúa trong những điều Chúa cho xảy đến với mình hay không. Nếu có tìm thì sự dữ cũng có thể trở thành sự lành. Và như vậy thì vẫn có thể an tâm.

Người cũng tin chắc rằng: người càng nghèo khó và bất hạnh thì càng được Thiên Chúa che chở, giữ gìn. Bởi thế Người mới nói: “Người nghèo đói được no đầy ơn phúc. Kẻ giàu sang bị đuổi về tay không”. Và người khiêm tốn nhận mình thuộc hạng nghèo khó, nghĩa là thuộc hạng người có phúc. Vì thế càng phải chúc tụng Thiên Chúa hơn.

+ Tiếp đến Đức Maria còn có tâm hồn nhạy cảm

Nhạy cảm với cái tốt đẹp và những niềm vui là những điều không thế không có trong cuộc sống. Nếu chỉ thấy toàn đau buồn trong cuộc sống thì không thể chúc tụng mà cuộc đời chỉ có thể buồn chán, than vãn.

Đây là những lời rất hay của một bài thơ

Cuộc sống như một cơ may, hãy nắm lấy nó.

Cuộc sống như một nỗi buồn, hãy vuợt qua nó.

Cuộc sống thì rất đẹp, hãy chiêm ngưỡng nó.

Cuộc sống như một lời hứa, hãy cố thực hiện.

Cuộc sống như một giấc mơ, hãy đón nhận nó.

Cuộc sống như một sự bí ẩn, hãy khám phá nó.

Cuộc sống như một thử thách, hãy đáp ứng nó.

Cuộc sống như một sự phiêu lưu, hãy can đảm lên.

Cuộc sống như một trò chơi, hãy chơi với nó.

Cuộc sống như một bài ca, hãy reo hò cùng với nó.

Cuộc sống như một gia tài, hãy giữ gìn nó.

Và cuộc sống thì vô cùng tuyệt vời, đừng bao giờ phá hủy nó.

Cuộc sống như một tình yêu, hãy thưởng thức nó.

Phải là những người biết nhạy cảm lắm mới có thể cảm nghiệm được những giá trị của những niềm vui nỗi buồn của cuộc sống.

Đức mẹ luôn nhạy cảm với các ơn mà Thiên Chúa ban cho mình mỗi ngày. Những ơn này Chúa thường ban một cách thật kín đáo qua một cuộc sống không có gì là hào nhoáng. Ơn của Chúa không bao giờ thiếu, nhưng phải biết nhận ra. Cần có con mắt thật tinh, lòng thật ngay. Mắt tâm hồn Đức Maria luôn thật tinh và lòng Người thật ngay vì thế Người nhận thấy đời mình tràn đầy ơn phúc: “Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả”.

Ngoài những ơn cá nhân Đức Maria còn nhạy cảm với những ơn Thiên Chúa ban cho toàn dân mình suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Ơn Chúa bao trùm tất cả lịch sử Israel, từ Abraham cho đến muôn đời. Đó cũng lại là một lý do để dâng lời chúc tụng.

Chúng ta hãy tập cho mình có được lời cầu kinh chúc tụng Thiên Chúa như Đức Mẹ Maria. Vì chỉ khi nào chúng ta biết cầu nguyện như thế thì lời cầu nguyện của chúng ta mới đẹp lòng Chúa và ơn Chúa sẽ đến với chúng ta.

Phải nhìn nhận rằng cách chúng ta cầu nguyện và cách chúng ta sống gắn liền nhau. Sống cách nào thì sẽ cầu nguyện như vậy. Cách cầu nguyện phản chiếu cách sống của mỗi người. Điều đó có nghĩa là chỉ khi nào chúng ta theo gương Đức Maria trong cách sống của Người thì chúng ta mới có thể theo gương Người trong cách cầu nguyện của Người.

Một linh mục để ý người đàn bà đang ngồi trong nhà thờ trống vắng, hai tay ôm đầu. Một giờ, rồi hai giờ trôi qua và bà ta vẫn ngồi yên ở đấy.

Nghĩ rằng bà đang có chuyện đau khổ trong tâm hồn và ao ước được giúp đỡ, ngài đứng dậy đến bên bà và nói

– Tôi có thể giúp bà được gì không?

Bà nói

– Thưa cha không! Con cám ơn cha. Con đang có tất cả những điều con cần.

Các người láng giềng của nhà thần bí Hồi giáo, Farid, đã thuyết phục ông đến kinh đô ở Delhi để xin hoàng đế Akhar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akhar đang đắm mình cầu nguyện.

Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi:

– Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?

Vua đáp:

– Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.

Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói:

– Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một người ăn xin, không khác gì những hạng người khác!

Mẹ thánh Têrêsa nói cầu nguyện không phải là xin xỏ mà là phó thác. Mẹ Maria đã làm gương cho chúng ta điều đó.

Một nhân chứng đương thời với tổng thống A. Lincoln, kể lại rằng:

– Đêm ấy tôi không ngủ được. Tôi bèn thử dợt lại những gì phải nói trước công chúng sáng hôm sau đó. Đã quá nửa đêm, đúng ra là gần hừng đông. Chợt tôi nghe có tiếng thầm thì trong phòng Tổng Thống ngủ. Cửa phòng hé mở. Theo bản năng. Tôi bước lại gần và thấy một cảnh không thể nào quên được. Tôi thấy Tổng Thống đang quì bên một cuốn Kinh Thánh đang mở. Ánh sáng trong phòng chỉ vừa đủ. Lưng ngài quay về phía tôi nên không thấy tôi vào. Tôi đứng lặng một lúc, quá đỗi bàng hoàng và kinh ngạc. Rồi tôi nghe Tổng Thống cầu nguyện :

– Lạy Chúa, Chúa đã nghe lời cầu khấn của Salômon trong đêm khuya, xin cho được ơn khôn ngoan. Xin Chúa nhậm lời con đây, con không thể dẫn dắt dân tộc này nếu Chúa không ra tay giúp đỡ con. Con là kẻ nghèo hèn và tội lỗi. Lạy Chúa, Chúa đã nhậm lời cầu xin của Salômon, xin hãy nghe lời con nài van mà cứu lấy đất nước này!

Vâng chúng ta hãy cầu nguyện như thế để được Chúa nhậm lời. Amen.

Về mục lục

.

MARIA, NGƯỜI MẸ CỦA MÙA VỌNG

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Nếu chúng ta để ý thì trong mùa Vọng có những mẫu gương tiêu biểu cho việc trông chờ Đấng cứu độ. Chẳng hạn như: Tư tế Giacaria, Gioan tẩy giả, cụ già Simêon, bà tiên tri Anna và cuối cùng là Mẹ Maria, nhưng càng gần đến lễ giáng sinh, thì vai trò của Mẹ Maria nổi bậc trong các bài đọc Thánh kinh. Tại sao vậy!. Thưa, bởi vì Mẹ Maria đóng một vai trò hết sức quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Sách Sáng Thế ngay từ những chương đầu đã kể lại: Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa không bỏ mặc con người trong chốn tội lỗi, để cho ma quỷ thống trị, nhưng liền ngay tức khắc, Ngài hứa ban Đấng cứu độ bằng những lời lẽ như sau: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ…. Người phụ nữ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người” (St 3,15). Người phụ nữ đó chính là Đức trinh nữ Maria.

Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho con người, nhưng để chương trình ấy thành công thì cần có sự tham gia cộng tác của con người. Chương trình đầu tiên của Thiên Chúa đã bị thất bại, do bởi ông bà nguyên tổ nghe lời ma quỷ hơn nghe lời Chúa, đã làm theo ý riêng mình hơn theo ý Chúa.

 Trái lại, Mẹ Maria được Thiên Chúa mời gọi, nhờ cộng tác bằng lòng tin và sự khiêm nhường, nên chương trình cứu độ của Thiên Chúa bắt đầu thực hiện.

Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong thôn làng Nazarét nào có cái chi hay!. Ngày ngày với những công việc rất đỗi bình thường như bao cô thiếu nữ khác. Ví dụ như: Bếp núc, may vá, dọn dẹp nhà cửa… Nhưng chính trong chốn lặng thầm ấy, thì Đức Mẹ được Chúa chọn làm Mẹ Đức Chúa Trời.

Đức Mẹ khiêm nhường trong cách ứng xử. Khi sứ thần Gabriel báo tin “Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu”. Thì Đức Mẹ khiêm tốn đáp lại: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.

Trong biến cố thăm viếng, bà Êlisabét chúc mừng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm”, thì Đức Mẹ đáp lại “Phận nữ tì hèn mọn, được Chúa đoái thương nhìn tới, nếu được ơn này ơn nọ là do hồng ân nhưng không Chúa cho thôi”.

Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống phục vụ. Tin mừng thánh Luca ghi lại, vừa hay tin chị họ Êlisabét mang thai trong lúc tuổi già, Mẹ Maria vội vã lên đường vượt núi băng rừng, bất chấp đường xá xa xôi. Mẹ đến đó chia sẻ niềm vui với chị, đồng thời ở lại phục vụ giúp đỡ chị ba tháng trời, sau đó mới trở về nhà mình.

 Thưa anh chị em,

Cũng trong biến cố thăm viếng này, bà Êlisabét chúc khen Đức Mẹ “Phúc cho Bà, vì Bà đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà đã được thực hiện”.

Thật vậy, làm sao mà tin được, khi muốn giữ mình đồng trinh thuộc trọn về Chúa, mà bây giờ Chúa bảo sẽ mang thai, mà không theo quan hệ vợ chồng – nhưng Mẹ vẫn tin đó là do quyền năng Chúa Thánh Thần, vì không có việc gì mà Chúa không làm được.

Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa giàu có vô cùng, vậy mà giờ đây phải hạ sinh trong hang đá nghèo khó – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Đấng tác thành vũ trụ, đã mặc xác con người.

Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa Đấng cầm quyền sinh tử vạn vật, mà bây giờ phải nhờ đôi tay Đức Mẹ bồng bế trốn sang Aicập. Nhưng Mẹ vẫn tin đó là Thiên Chúa rất đổi khiêm nhường, giầu lòng xót thương.

Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa là cõi nguồn hạnh phúc, mà bây giờ lao nhọc vất vả nơi xưởng mộc, mồ hôi đổi lấy bát cơm – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Thiên Chúa làm người, là Chúa đất trời.

Làm sao mà tin được, một Thiên Chúa đã tự xưng mình: Ta là sự sống lại và là sự sống, mà bây giờ bị con người ngược đãi giết chết trên thập giá – nhưng Mẹ vẫn tin đó là Đấng mang nguồn cứu độ, đã chịu chết cho con người.

 Các nhà thánh mẫu học nói rằng: Ngày xưa, bà Evà đã nghi ngờ tình thương của Chúa, giơ tay hái trái cấm, đánh mất ân sủng, làm cho cửa thiên đàng đóng lại. Thì bây giờ nhờ lòng tin của Mẹ Maria, đã đem lại cho nhân loại ơn giải thoát và cửa thiên đàng được mở ra.

Ngày xưa bà Evà do không vâng phục, nghe theo lời ma quỷ xúi giục, đưa nhân loại đến sự chết. Thì nay, nhờ lời xin vâng của Đức Maria, đã đưa nhân loại đến sự sống.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta không biết khi đi thăm viếng, Mẹ Maria mang theo những gì, nhưng chắc rằng: Đức Mẹ mang Hài Nhi Giêsu đến thăm gia đình ông Giacaria.

Nhờ sự hiện diện của Đức Maria, mà Chúa Thánh Thần đã thánh hoá gia đình này một cách đặc biệt: làm cho ông Giacaria nói được sau hơn 9 tháng bị câm, làm cho bà Êlisabét nhận ra Mẹ Maria không những là em của mình, nhưng còn là Mẹ Thiên Chúa, và Gioan Tẩy giả được sạch tội tổ trước khi chào đời. Như vậy, Đức Mẹ thăm viếng là một hồng ân.

Vậy mỗi khi rước lấy Chúa Giêsu vào lòng, chúng ta noi gương Đức Mẹ là mang Chúa đến cho người khác. Để Chúa ban ơn bình an và phúc lành của Ngài cho những người chúng ta gặp gỡ.

Cuối cùng, ai trong anh chị em ít là một lần trong đời được bạn bè hay những người thân quen mời đi tham dự sinh nhật. Khi đi mừng sinh nhật, chắc chắn chúng ta mang quà đi mừng người ấy.

Năm xưa, khi Chúa giáng sinh ở Belem, các chú mục đồng và ba nhà Đạo sĩ mang quà đến mừng sinh nhật Chúa. Vậy, mừng sinh nhật Chúa, anh chị em có chuẩn bị quà mừng gì cho Chúa chưa?. Và nếu có thì món quà đó là gì?. Chắc chắn Chúa không đòi chúng ta quà mừng như: vàng, nhủ hương và mộc dược, nhưng Ngài thích món quà nơi tấm lòng mỗi người chúng ta thôi.

Cho nên hôm nay Chúa Nhật cuối của mùa Vọng, chúng ta được mời gọi để cùng nhìn lên Mẹ Maria, người Mẹ của mùa Vọng, là mang niềm hi vọng Giêsu đi đến những nơi thiếu vắng tình thương, những người đang cần sự giúp đỡ, những mảnh đời lây lất bên vệ đường, nhờ sự viếng thăm của chúng ta, sẽ đem lại cho họ niềm hi vọng và phúc lành của Chúa trong đêm giáng sinh. Đó là món quà sinh nhật ý nghĩa nhất mà Chúa hài nhi đang mong chờ. Amen.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM DÂN NGƯỜI

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Lịch sử có ý nghĩa, không phải chỉ là một sự lặp lại vô tận của chu kỳ giữa sự sống và sự chết với các mùa màng năm tháng. Lịch sử không phải chỉ là những diễn biến tình cờ mà được đan dệt bằng những cố gắng của con người được Thiên Chúa yêu thương mời gọi dấn thân theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Những bài đọc của Chúa nhật 4 mùa Vọng làm cho chúng ta tiến sát đến sự thực hiện quyết định sau những thời gian chờ đợi lâu dài. Trong lịch sử này, con người đã sa ngã do tội lỗi, trầm luân trong tội và sự chết lại được Thiên Chúa xót thương nâng đỡ và mời gọi đón tiếp sự viếng thăm của Thiên Chúa. Vẫn luôn có những tiên tri để mời gọi dân chúng tin tưởng và trở về với Thiên Chúa là Đấng vẫn yêu thương chờ đợi. Tiên tri Mikhê đã loan báo về Bêlem là nơi Đấng cứu thế sẽ giáng sinh, sẽ được ban tặng cho con người và được sinh hạ bởi một người nữ. Đấng cứu thế chính là Thiên Chúa đến viếng thăm dân người, người sẽ vững vàng chăn dắt dân người trong bình an, trong sức mạnh của Thiên Chúa và dân sẽ trở lại với người.

Bài Tin mừng của Luca bắt đầu tường thuật về người phụ nữ này sẽ sinh hạ con Thiên Chúa nhập thể làm người. Bà là một con người được nâng đỡ bởi sức mạnh Thánh Thần. Xuất thân từ làng nghèo Nazarét thuộc miền Galilê, người phụ nữ bình thường nhưng thực là mạnh mẽ này đã đính hôn với Giuse nhưng chưa sống chung với chồng đã nhận được sự viếng thăm đặc biệt của sứ thần Gabriel, và bà đã được báo tin vui là sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai sẽ là Đấng cứu thế thuộc dòng tộc Đavít. Bà cũng được báo tin là việc thụ thai này là do bởi Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện và Bà đã khiêm tốn và tin tưởng đón nhận lời mời gọi của sứ thần. Đồng thời, bà cũng được báo tin là Êlisabét, người chị họ của bà cũng đã thụ thai nay đã được sáu tháng, người vẫn bị mang tiếng là son sẻ. Được tin người chị họ đã mang thai, Bà Maria không quản ngại đường xa, đã vội vã lên đường đi thăm viếng người chị họ của mình ở tận Giuđêa, con đường dài trên 150 cây số bộ hành. Maria là người hành động bởi sức mạnh Thánh Thần, bà đã lãnh nhận Con Thiên Chúa nhập thể với sức mạnh Thánh Thần, giờ đây bà mang sự hiện diện của Con Thiên Chúa cách cụ thể và chia sẻ niềm vui này cho mọi người. Maria hành động không kiểu cách, bà hành động rất đơn sơ, bà vội vã lên đường đơn độc nhưng có Chúa ở cùng bà và bà đã đến nhà của Êlisabét một cách thân tình và khiêm tốn.

Khi đón nhận sự viếng thăm của Maria, Êlisabét đã cảm nghiệm được niềm vui trong lòng, niềm vui dào dạt thúc đẩy bởi Thánh Thần, bởi vì chính hài nhi đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Nơi hai người nữ này, hình ảnh những người nữ đạo đức khác được Thiên Chúa yêu mến và chuẩn bị. Êlisabét nói lên lời kinh ngạc của Giáo hội đứng trước mầu nhiệm mà Maria đang mang trong mình. Như xưa kia, vinh quang của Thiên Chúa bao phủ đền thờ là nơi chứa đựng hòm bia Thiên Chúa, thì giờ đây vinh quang Thiên Chúa bao phủ trên Đức Maria là người đang mang trong chính mình Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Maria không phải chỉ là mẹ của một con người nhưng là mẹ của Thiên Chúa nhập thể làm người. Niềm vui của Êlisabét là niềm vui cho toàn thể nhân loại được Thiên Chúa thăm viếng. Giờ đây chính Thiên Chúa viếng thăm dân người và ở lại với dân người. Êlisabét cảm nghiệm mình cùng với hài nhi trong lòng được thánh hóa bởi sự hiện diện của Đức Maria, một người nữ sáng ngời bởi lòng tin mạnh mẽ vào lời Thiên Chúa. Niềm vui của Thiên Chúa và niềm vui của con người đã bắt đầu được cảm nghiệm và tuyên xưng. Hài nhi nhảy mừng trong lòng mẹ khi Êlisabét vừa nghe tiếng chào của Maria còn nói lên niềm vui sâu xa dào dạt mà sau này ông sẽ là người công bố cho mọi người phải chuẩn bị để đón Đấng sẽ đến và sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần. Êlisabét được đầy Thánh Thần và bà đã nhạy bén để dự đoán được ý nghĩa của niềm vui diễn ra trong lòng mình: Êlisabét diễn tả niềm vui này là không phải Thiên Chúa đã cho chúng ta một điều gì đó dù là lớn lao, nhưng là cho chúng ta điều mà chúng ta không thể ngờ được là Con Thiên Chúa đến viếng thăm cùng với người mẹ của Người, và Maria là người nữ khiêm tốn và bé nhỏ của nhân loại đã đồng hành cùng với Con Thiên Chúa nhập thể không phải với điều gì khác hơn là lòng tin mạnh mẽ vào lời Chúa: “Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng em được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho em là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện”.

Tin mừng của Luca muốn nói lên ở chặng đường của lịch sử nhân loại với nhiều vấp váp, Thiên Chúa đã thực sự đi vào với sự tràn ngập của sức mạnh Thánh Thần, Maria cùng với hài nhi là Con Thiên Chúa trong lòng, Êlisabét cùng với hài nhi là Gioan tẩy giả, những con người này đã đón nhận được sức mạnh Thánh Thần biến đổi họ và họ nói lên cho chúng ta niềm vui của mình. Đức Maria vội vã lên đường đến với người chị họ của mình bởi vì bà đã được Thánh Thần thúc đẩy đến với chị họ của mình để chia sẻ niềm vui của mình cũng như đón nhận niềm vui của Êlisabét cũng đang mang thai nhờ bởi ơn Chúa. Nơi mọi người, Thánh Thần Thiên Chúa chan hòa và thánh hóa họ. Chúng ta đang lần hồi được tiếp cận sự viếng thăm của Thiên Chúa, một sự viếng thăm thực là kỳ diệu, không phải chỉ là một cuộc viếng thăm theo nghi thức với những lời chúc mừng trang trọng vồn vã nhưng không thực chất, nhưng là cuộc viếng thăm thực sự với việc nhập thể của Con Thiên Chúa nơi Maria. Chiều sâu của mầu nhiệm giáng sinh là đó: con Thiên Chúa đi vào trần gian để đổi mới cuộc đời của chúng ta. Những hy lễ của chúng ta đã trở nên vô hiệu vì thiếu phẩm chất đích thực, giờ đây Con Thiên Chúa sẽ thực hiện một sự đổi mới thực sự, người không dùng những hy lễ, lễ tế hay lễ toàn thiêu hay lễ đền tội, nhưng người hiến dâng chính thân xác của mình để thi hành thánh ý của Chúa Cha, và người mời gọi chúng ta đón nhận sức mạnh Thánh Thần để được đổi mới từ bên trong, để làm cho con người yếu hèn của chúng ta trở nên nơi mà Con Thiên Chúa đến viếng thăm và ở lại để người cũng sẽ thực hiện những việc lạ lùng cho mỗi người như đã thực hiện nơi Đức Maria.

Về mục lục

.

CUỘC VIẾNG THĂM CỦA ĐỨC MARIA

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Chúng ta bắt đầu bước vào tuần lễ thứ 4 của Mùa Vọng, được coi là thời gian chót của Mùa Vọng. Trong các Chúa nhật trước, tiên tri Isaia đã loan báo cho dân chúng về Đấng Thiên sai, tiếp đến thánh Gioan Tẩy giả thúc giục mọi người hãy sám hối để được ơn tha tội trong khi đón chờ , đồng thời mách bảo cho mọi người cách thức dọn đường cho Chúa đến.

Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng này có thể được gọi là Chúa nhật của Đức Mẹ vì bài Tin mừng của ba năm đều nói đến Đức Mẹ. Như vậy, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta nhớ đến vai trò của Đức Mẹ trong việc Chúa Cứu thế giáng sinh. Đặc biệt bài Tin mừng hôm nay nói đến việc Đức Maria đi thăm viếng bà chị họ Elizabeth để vị Tiền hô và Đấng Cứu Thế gặp nhau ngay khi còn trong bụng mẹ.

Trong tâm tình dọn lòng mừng lễ Giáng sinh, chúng ta hãy để ra thời gian vắn để suy niệm về cuộc thăm viếng của Ngài. Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Maria để lại cho chúng ta nhiều bài học để thực hành : Đức Maria là mẫu gương của niềm tin, của bác ái và khiêm nhường. Noi gương sáng ngời của Đức Mẹ, chúng ta hãy tập sống bác ái theo phương châm của thánh Phaolô Tông đồ đã đề ra :”Nên mọi sự cho mọi người” (1Cr 9,19).

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          Bài đọc 1 : Mica 5,2-5.

Tiên tri Mica là người đồng thời với tiên tri Isaia và cũng là thừa kế tinh thần của Isaia. Ôâng loan báo cho biết Đấng Emmanuel (Is 7,14) sẽ sinh ra tại Belem (cũng gọi là Epratha), một thôn làng bé nhỏ và nghèo nàn nhưng đã trở nên quan trọng vì Thiên Chúa đã chọn thôn làng này làm quê hương của Đấng Thiên Sai (Mt 2,6). Ôâng còn cho biết Đấng Emmanuel này rất cao trọng, Ngài sẽ thống lĩnh Israel và đem lại cho Israel sự thống nhất và bình an trong khi dân Israel bị chia rẽ và cơ cực.

          Bài đọc 2 : Dt 10,4-10.

Tác giả bức thư gửi cho Do thái mô tả Đấng Messia như một vị Thượng tế , và chức Thượng tế của Ngài trổi vượt chức thượng tế Cựu ước. Ngài đã vâng phục Đức Chúa Cha đến nỗi hy sinh mình trên thập giá. Lễ tế Ngài sẽ dâng lên không phải là lễ toàn thiêu hay là lễ xá tội của Cựu ước, mà là chính thân thể Ngài và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Thánh vịnh 39/40 đã thể hiện sự hy sinh và vâng phục của Đức Giêsu đối với thánh ý của Thiên Chúa.

Lễ tế của Đức Giêsu trong thân phận làm người được dâng trên bàn thờ thập giá không cần phải dâng lên nhiều lần, mà một lần duy nhất có giá trị vĩnh viễn.

          + Bài Tin mừng : Lc 1,39-45.

Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca cho biết hai bà mẹ đang mang thai thăm viếng và chúc tụng nhau. Maria sau khi được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, đã vội vã lên đường viếng thăm người chị họ Elizabeth để cho vị Tiền hô cũng nhận được Thần khí và được xức dầu làm tiên tri.

Luca có ý viết câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang hòm bia về Giêrusalem (2Sm 6), để nói rằng Đức Maria chính là Hòm Bia Tân ước. Như Đavít ngày xưa nhảy múa trước Hòm Bia, nay Gioan nhảy mừng trước Maria, Hòm bia Giao ước mới  đang mang nặng trong mình Đấng Cứu độ. Chính bà Elizabeth, khi gặp Maria, cô em họ đang mang nặng Đức Giêsu đã gọi cô là  “Thân mẫu Chúa tôi” vì Maria đã hoàn toàn tin vào lời Chúa hứa.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

                  Tâm tình cuộc viếng thăm.

I. CUỘC VIẾNG THĂM CỦA ĐỨC MARIA.

  1. Hai chị em gặp nhau.

Theo ý định ngàn đời của Thiên Chúa, Trinh nữ Maria đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.  Và đặc biệt là Trinh nữ thụ thai, sinh con mà vẫn còn đồng trinh vì đây là việc làm đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng; và cũng là một dấu hiệu để Maria tin : bà chị họ Elizabeth của cô đã thụ thai trong lúc tuổi già và đã mang thai được sáu tháng. Vừa nghe tin mừng này Maria liền vội vã lên đường đến thăm và chia vui với chị.

Bà Elizabeth ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi không tránh được mệt nhọc vất vả. Theo lời truyền tụng từ thế kỷ thứ 5, gia đình Giacaria ở triền núi, trong một thành thuộc xứ Giuđa, tên gọi Ain Karim cách Giêrusalem 7 cây số về phía tây. Đường đi từ Nazareth đến Ain Karim phải 3,4 ngày đường.

Hai chị em gặp nhau tay bắt mặt mừng, chúc tụng nhau những lời tốt đẹp, trong khi đó hai thai nhi gặp nhau trong bụng mẹ. Sự hiện diện của thai nhi Giêsu làm cho thai nhi Gioan có phản ứng lạ lùng : Thai nhi trong dạ Elizabeth nhảy mừng lên. Việc nhảy mừng của Gioan trong bụng mẹ là dấu chỉ cho bà Elizabeth nhận ra sự cao cả của thai nhi Giêsu và của Đức Maria. Chính bà Elizabeth đã nhận ra và chúc tụng Đức Maria là Mẹ Đấng Cứu thế:”Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Sau đó, Đức Maria ở lại nhà ông Giacaria độ ba tháng để phục vụ, đoạn trở về nhà mình.

  1. Lý do thúc đẩy cuộc viếng thăm.

Thiên sứ đã củng cố niềm tin cho Maria để Ngài tin vào quyền năng của Thiên Chúa bằng cách cho biết : Bà chị họ Elizabeth đã có thai trong tuổi già được 6 tháng, bởi vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Chắc chắn Maria không hề hồ nghi về quyền năng của Thiên Chúa trong việc sinh con của mình và tin người chị họ mang thai trong tuổi già là tín hiệu của tình yêu Thiên Chúa đối với người chị họ.

Đây là một tin vui, vì thế Maria vội vã lên đường thăm viếng và chia vui với chị. Do đó lý do cuộc thăm viếng của Đức Maria không phải là tò mò hay kiểm tra xem việc thực hư, mà là do tình thương yêu thúc đẩy. Ngài không đến thăm thì bà Elizabeth chẳng trách ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại, chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi vì Ngài rất giầu tình thương. Và cũng vì chính giầu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín trong lòng. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê:”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”(Gc 2,26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ:”Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua” có nghĩa như thế.

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn.  Đức Phật nói:”Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ”, ngài gọi cái khổ ấy là “Aùi biệt ly khổ”. Tục ngữ có câu:”Nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.

  1. Ảnh hưởng hỗ tương của việc thăm viếng.

Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy  là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi nữa. Chúng ta cũng trở nên phong phú, mặc dù chỉ là để xem cách thế người khác đương đầu với những khó khăn, hoặc những tình huống hầu như không thể giải quyết được. Thậm chí khi ở giữa người đau yếu, bạn vẫn có thể tìm thấy một tâm hồn tỏa sáng. Có thể bạn đến thăm người đó, để đem lại cho họ điều gì đó, nhưng rồi bạn lại nhận ra rằng chính mình đang nhận được. Bạn ra về với tâm hồn phấn chấn. Trong mỗi cuộc viếng thăm, có điều gì đó xẩy ra theo mức độ nào đó. Người này được vui mừng khi tiếp nhận, người kia được vui mừng khi cho đi (Flor McCarthy).

Khi thăm viếng, Maria đem đến cho ông bà Giacaria và Elizabeth niễm vui và sự phục vụ, đồng thời chính Ngài lại đón nhận được sự nâng đỡ về tinh thần : Ngài thêm xác tin về lời sứ thần khi thấy bà chị họ hiếm muộn mà giờ đã có thai. Ngài ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm được làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nay đã được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ biết. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà Elizabeth đã động viên Ngài  cất lên lời Ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong Kinh ngợi khen Magnificat.

Bác sĩ Tom Dolly, một người đã hy sinh cả cuộc đời giữa chốn rừng thiêng nước độc bên Lào vào đầu thế ký này, đã nói như sau:”Không có ai nghèo đến độ không có cái gì đó để tặng cho người khác”. Một người ăn xin ư ? Anh ta vẫn có thể cho chúng ta cơ hội để ta thể hiện sự chia sẻ quảng đại đối với anh. Một người tàn tật ốm đau cũng có thể mời gọi chúng ta cơ hội thuận tiện để kiên nhẫn chịu đựng sự xỉ nhục và sẵn sàng tha thứ. Phải, bất cứ ai cũng có thể đem lại cho chúng ta  một cái gì đó. Vấn đề là chúng ta có biết mở rộng lòng để đón nhận quà tặng đó hay không.

II. DƯ ÂM CUỘC VIẾNG THĂM.

  1. Đức Maria, mẫu gương của niềm tin.

Tin Thiên Chúa là ký thác đời mình vào tay Thiên Chúa. Là ưng thuận điều Thiên Chúa muốn. Trước khi thưa “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình của Ngài là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời “Xin Vâng”, Ngài đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Thiên Chúa đảo lộn chương trình sống, và cùng Chúa bước vào cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.

Đức Maria đã đi từ bước phiêu lưu này đến bước phiêu lưu khác. Hình ảnh Đức Maria trong Tân ước xuất hiện vài lần ở những mốc chính trong cuộc đời Đức Giêsu : bình tĩnh đón nhận thụ thai, hạ sinh con trong một hang đá lạnh lẽo, dâng con trong đền thánh, đem con lánh sang Ai cập, dẫn con tới tiệc cưới Cana và có mặt trong chặng đường khổ giá cuối đời của người con tội nhân.  Ở đâu, Đức Maria cũng chứng tỏ một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa.

Chính bà Elizabeth đã chúc tụng Đức Maria:”Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng Chúa đã thực hiện những gì Người đã nói cho em biết”. Không những Đức Maria đã có niềm tin vào Lời Chúa mà còn thể hiện lòng tin đó vào việc vội vã đi viếng thăm bà Elizabeth. Đúng như lời thánh Giacôbê nói:”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.

Truyện : Không thể ngờ được.

Một doanh nhân giầu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người : Ôâng cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung của bích chương loan báo : Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9 g đến 12 giờ đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.

Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 g mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến… Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, C, tr 20).

Lời hứa của doanh nhân trong chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào Lời Chúa hứa nên đã được tràn đầy ơn phúc. Bà Elizabeth đã nói:”Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì người đã nói với em”(Lc 1,45).

  1. Đức Maria, mẫu gương của bác ái.

Maria đã vội vã ra đi lên miền núi” : điều đó nói lên sự nhiệt tình  của Đức Maria trong việc đi thăm viếng, chia vui sẻ buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ đến bốn, năm ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi  gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Ngài.

Dầu Đức Maria có nhiều lý do  để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình : nào là từ nay phải giữ gìn sức khỏe nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, nguy hiểm, phải ít nhất bốn năm ngày mới tới nơi.  Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm, nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý để từ chối.

Những lý do trở ngại ấy không cản bước được Đức Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria phá tan mọi chần chừ, lưỡng lự để vội vã lên đường. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết.

Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn là nghĩ tới mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xẩy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nại ra để từ chối ! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.

  1. Đức Maria, mẫu gương khiêm nhường.

Khác hẳn với những thiếu nữ Do thái, Maria không bao giờ dám mơ tưởng mình là Mẹ Đấng Cứu Thế, vì Ngài thấy rõ thân phận mình chỉ là một nữ tỳ hèn mọn, đã đính hôn với một bác thợ mộc  lao động cực khổ ở một làng quê vô danh. Thế mà :”Phận nữ tỳ hèn mọn đã được Thiên Chúa đoái thương đến”. Sau khi biết đó là ý Thiên Chúa, Đức Maria đã tin và dám xin :”Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời thiên thần nói”. Lời xin vâng thật khiêm tốn, luôn luôn chỉ coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, không dám nhận làm Mẹ Đấng Cao Cả.

Cũng thế, khi Đức Maria vừa được thiên sứ báo tin được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Ngài tự nguyện đi làm tôi tớ cho bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ, Ngài biết Thiên Chúa đã ban cho Ngài địa vị cao cả  hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả phụ nữ Israel, một địa vị mà không một phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Ngài đã tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở, nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.

Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Đức Maria muốn bắt chước việc làm của Con mình sau này : Đức Giêsu yêu thương các môn đệ, tuy là Chúa và là Thầy mà Ngài còn “Đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn cuốn ngang lưng, đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ”(Ga 13,1-3). Nàng không muốn tỏ ra là một nhân vật quan trọng, dầu ngài quan trọng nhất trong tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một thiếu nữ ấy đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ nhận thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng.

Truyện : Khiêm nhường hay danh dự ?

Thầy Đô-đi-kê nổi tiếng thánh thiện nhất trong dòng và hay làm phép lạ. Tin đồn rằng bất cứ điều gì thầy xin đều được Chúa nhận lời.

Một hôm dân làng kéo đến xin thầy cầu nguyện cho trời mưa. Nhưng thay vì trời mưa thì lại nắng hạn lâu hơn nữa.

Một người mẹ đến xin thầy cầu nguyện cho đứa con đang đau được mau lành. Nhưng đứa con đã chết sau đó vài ngày.

Vài người khác đến xin thầy làm phép lạ cho đá thành bánh. Nhưng đá vẫn trơ ra đấy.

Sau những lần thử thách mà không được gì cả, dân làng nổi giận  đuổi thầy ra khỏi phạm vi của làng, cấm không cho thầy trở lại tu viện nữa.

Thầy đành phải đi tìm một hang đá trong sườn núi để ẩn mình, rồi than thở với Chúa :

          – Lạy Chúa, con không hiểu tại sao lại xẩy ra như vậy. Con cầu xin Chúa cho mưa xuống thì Chúa lại làm cho nắng hạn lâu hơn. Con xin cho đứa trẻû mau lành bệnh thì Chúa lại cho nó chết. Con xin Chúa cho dân làng bánh ăn thì Chúa cứ để những viên đá trơ trơ ra đó. Vì thế Chúa xem đây : con bị mọi người xua đuổi, coi con như một kẻ tội lỗi nhất.

          Nói xong, thầy nghe có tiếng từ trời phán :

          – Hỡi con, bởi vì Ta đã cho con điều con cầu xin lúc trước đó rồi.

          Thầy Đi-đô-kê không còn nhớ  thầy đã xin gì trước đó nữa nên mới hỏi lại :

          – Nhưng lạy Chúa, con đã xin Chúa điều gì ?

          Tiếng lạ đáp :

          – Trước đây con đã chẳng cầu xin Ta  cho con được dịp sống khiêm nhường đó sao ?

                   (D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 108-109)

III. BÀI HỌC TỪ CUỘC THĂM VIẾNG.

  1. Nên mọi sự cho mọi người

Trong thư gủi cho tín hữu Corintô, thánh Phaolô tông đồ đã viết:”Tôi đã trở nên mọi sự cho mọi người”(1Cr 9,19). Thánh Tông đồ chỉ có một ước vọng là đi rao giảng Tin mừng cho mọi người, không đòi hỏi đời sống vật chất mặc dầu Ngài có quyền đòi hỏi vì thợ thì đang hưởng lương”.

Ngài là con người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng đã thành nô lệ cho mọi người hầu chinh phục được nhiều người. Ngài sẵn sàng trở nên người Do thái để chinh phục người Do thái. Đối với những người sống theo Lề Luật, Ngài cũng sống theo Lề Luật mặc dù không còn phải sống theo Lề Luật; còn đối với những người sống ngoài Lề Luật, Ngài cũng sống ngoài Lề Luật dù Ngài không sống ngoài luật Thiên Chúa, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật.

Thánh Tông đồ đã quên mình hòa nhập với mọi người để chinh phục mọi người về cho Chúa. Cuộc đời như thế chỉ là phản ảnh, rập khuôn, bắt chước cuộc đời của Đức Giêsu và Đức Maria. Vì con đường mà Chúa xuống thế làm người để truyền dạy cho nhân loại noi theo không khác gì ngoài con đường hiến thân phục vụ Thiên Chúa qua anh em, hy sinh làm tôi tớ cho mọi người vì yêu Chúa. Vậy để có thể nên giống Chúa và bắt chước gương sống của Đức Mẹ, mỗi người chúng ta phải làm gì ? Hãy thực hiện phương châm:”Omnia omnibus factus sum” (x. 1Cr 9,19) : nên mọi sự cho mọi người .

Trước hết “Nên mọi sự” là một nguyên tắc xả thân cao độ khi ta biết biến đời mình và những gì thuộc về mình thành hữu ích cho nhân quần xã hội vì lòng yêu mến Chúa và thương người. Do đó, một khi đã chọn con đường đi theo Đức Kitô thì người môn đệ đúng nghĩa sẽ tự nguyện hiến toàn thân bao gồm sức khỏe, thời giờ, tài năng, của cái cho mưu cầu ích chung, thành như đồ vật cho mọi người xử dụng. Muốn được như thế, tất nhiên chúng ta phải luôn có Chúa trong mình và hoàn toàn lệ thuộc vào thánh ý của Ngài.

Thứ đến là “Cho mọi người” vì khi đã nên mọi sự  mà chỉ giữ lại cho riêng mình hoặc chỉ ban phát kiểu nhỏ giọt thì không thể nên giống Chúa được, mà phải trở nên như một đồ vật cho người ta xài, theo kiểu nói của Cha Antôn Chevrier, trở thành một “Homme mangé” : làm người bị người ta ăn đi, nghĩa là phải hao mòn vì người ta. Cũng thế, một người Kitô hữu thực sự theo đúng gương Thầy mình thì phải đem cuộc sống của mình cho mọi người xử dụng. Đây là một cuộc đầu tư làm ăn sáng suốt nhất và khôn ngoan nhất vì họ chỉ bỏ ra một cuộc sống tạm bợ ở đời này để đổi lấy một cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Hơn nữa vì yêu mến anh em mà sẵn lòng cho đi tất cả sẽ được Chúa thương yêu và thưởng công gấp bội.

Truyện : Bác sĩ Longet.

Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Doley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ôâng tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.

Được hỏi tại sao ông quí mến bệnh nhân như thế ?

Bác sĩ Longet đáp :

– Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.

Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ, bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe ; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm Linh mục và tình nguyện sang phục vụ  những người nghèo ở giáo phận Cần thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời  trước khi tới nơi hằng mong ước (Quê Ngọc, Nên mọi sự cho mọi người, C, tr 12).

  1. Thăm viếng để chia sẻ.

          Chúng ta nhận thấy trong mùa Vọng này có ba nhân vật quan trọng được nhắc tới :

          – Tiên tri Isaia loan báo Đấng Thiên Sai sẽ đến (Chúa nhật I).

          – Gioan Tẩy giả rao giảng sám hối để dọn đường cho Chúa đến (Chúa nhật II).

         – Đức Maria là một nhân vật không thể thiếu được, vì qua Ngài, ơn cứu độ bắt đầu được thực hiện (Chúa nhật IV).

Vì thế, trong suốt Mùa Vọng, chúng ta được nghe đọc những lời loan báo của tiên tri Isaia, được nhận biết cuộc đời và sứ mạng của Gioan Tẩy giả; và hôm nay, bài Tin mừng trình bầy cho chúng ta chân dung Đức Mẹ qua việc Đức Mẹ đi thăm viếng bà Elizabeth.

Bắt chước việc làm của Đức Mẹ, chúng ta phải biết chia sẻ với những người chung quanh. Có biết bao gia đình đòi hỏi chúng ta phải thăm viếng, giúp đỡ. Chúng ta đừng bao giờ giả điếc làm ngơ hay giả mù không thấy để rồi khép kín lòng chúng ta lại trước những người cần chúng ta thăm viếng, an ủi, giúp đỡ. Thiên Chúa rất hài lòng khi thấy chúng ta sống tinh thần liên đới với nhau, biết chia sẻ những hồng ân Ngài ban cho chúng ta để luôn sống trong phương châm “Nên mọi sự cho mọi người”.

Truyện : Đức Giáo hoàng Gioan 23.

Đức Giáo hoàng Gioan 23, lần đầu tiên, một vị Giáo hoàng rời khỏi Rôma, đến thăm giáo chủ Anathagoras của Giáo hội Đông phương. Một Giáo hội đã ly khai khỏi Giáo hội Công giáo từ lâu đời. Cuộc viếng thăm của Đức Giáo hoàng đã biểu lộ tình bạn chí thiết với Đức Giáo chủ và nhìn nhận Giáo hội Đông phương cùng một chi thể với Đức Kitô, hợp nhất trong Chúa Thánh Thần. Từ hai ngàn năm nay, noi gương cuộc viếng thăm của Đức Mẹ và Chúa Giáng sinh, bao nhiêu cuộc viếng thăm hồng phúc như thế đã loan truyền Tin mừng đi khắp năm châu bốn bể .

Lạy Mẹ Maria , chính cuộc sống khĩ khăn đã biến chúng con thành người ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình, đến gia đình mình, mà khơng nghĩ đến tha nhân; ai sống chết thế nào cũng mặc ! Nhiều lúc con cĩ thái độ dửng dưng và thờ ơ trước những nỗi thống khổ của tha nhân. Xin Mẹ dạy con biết noi gương Me : Mở lịng đĩn nhận những kẻ bất hạnh, quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người đĩi khát, luơn nghĩ tốt và làm tốt cho người chung quanh, sẵn sàng tha thứ vơ điều kiện cho những ai xúc phạm đến mình. Xin cho con học theo Mẹ : Mau mắn đem Chúa đến cho tha nhân, giúp mọi người nhận biết và yêu mến Chúa. Xin cho con biết sống thanh sạch và luơn kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu con yêu của Mẹ, để con xứng đáng nhận được ơn cứu độ của Người trong mùa hồng phúc này (Đan Vinh).

Về mục lục

.

NHÂN ĐỨC

Trầm Thiên Thu

Nhân đức là sức mạnh tinh thần phải kiên trì mới có thể thực hiện. Về siêu nhiên, nhân đức là một tập quán tốt do thiện chí theo tiếng thúc gọi trong tâm hồn và thực thi điều Chúa muốn.

Theo Thánh LM TS Thomas Aquino, “nhân đức là một tập quán mà ta có thể tập luyện, nó hoàn hảo hóa con người để người ta thực thi các việc thiện”. Theo giáo lý Công giáo, “nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên định để làm điều thiện, không những giúp ta thực hiện những hành vi tốt mà còn muốn cống hiến hết khả năng của mình cho Chúa, cho tha nhân” (số 1803).

Có hai loại nhân đức: [1] Nhân đức tự nhiên – tập quán do tập luyện để làm theo lẽ phải; [2] Nhân đức siêu nhiên – tài năng Chúa phú vào linh hồn cùng với ơn thánh làm cho người ta có thể thực thi các việc siêu nhiên đáng được ân thưởng vinh phúc đời sau. Nhân đức đối thần gồm ba nhân đức: Tin, Cậy, Mến – có thể tham khảo chương 13, thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô; các nhân đức đối nhân, gọi là nhân đức luân lý cơ bản, có rất nhiều, nhưng chủ yếu gồm bốn nhân đức quan trọng: khôn ngoan, công bình, can đảm, tiết độ (GLCG số 1805).

Mùa Vọng là mùa tập luyện nhân đức bằng cách thi hành việc lành phúc đức, cụ thể là đức ái – nhân đức quan trọng nhất. Mùa Vọng được biểu tượng hóa bằng 4 ngọn nến: Ánh sáng của HY VỌNG, ánh sáng của HÒA BÌNH, ánh sáng của TÌNH YÊU và ánh sáng của NIỀM VUI. Ánh sáng soi đường chúng ta bước qua những ngày u tối. Cả 4 loại ánh sáng đó luôn cần được chiếu soi suốt cuộc đời chúng ta.

Khởi đầu rồi kết thúc, đó là quy trình mọi thứ. Và Mùa Vọng cũng thế, đang dần đến hồi kết thúc. Niềm hy vọng của chúng ta đã lên đỉnh điểm. Khoảng mong chờ gần hết. Chúa Giêsu sắp đến với chúng ta. Điều đó nghĩa là chúng ta được mãn nguyện. Nhưng càng cuối thời gian chờ đợi, đức vâng lời càng phải kiên quyết. Chúng ta đã “quen” với tinh thần tích cực của đời sống Kitô hữu: “Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22 và Tv 50:8-9). Đức vâng lời cần thiết cho mọi người, đặc biệt là những người sống đời tu trì, vì đức vâng lời là một trong ba lời khấn chính – gọi cho “văn hoa” hơn thì là thanh tuân hoặc tuân phục.

Trong các thụ tạo của Thiên Chúa, Đức Maria là thụ tạo đặc biệt nhất và hoàn hảo nhất. Đức Mẹ trở nên người diễm phúc vì đã mau mắn thực hiện đức vâng lời ngay khi được truyền tin: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” (Lc 1:38). Lời “xin vâng” của Đức Mẹ đầy sự can đảm và trọn niềm tín thác.

Thuở xưa, ngôn sứ Mikha đã nhắn nhủ: “Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa” (Mk 5:1). Không chỉ vậy, ông còn cho biết trước nhiều điều khác: “Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ítraen cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ítraen. Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất. Người sẽ chiến thắng Átsua” (Mk 5:2-3). Và có điều đặc biệt nhất: “Chính Người sẽ đem lại HOÀ BÌNH” (Mk 5:4a). Thật tuyệt vời, vì hòa bình là niềm khao khát không chỉ riêng ai.

Chưa bao giờ có được tận hưởng sự hòa bình đích thực nên mơ ước của con người càng mạnh mẽ và cháy bỏng. Chắc chắn cuộc sống không gì hơn là được tận hưởng nền hòa bình đích thực, nhưng muốn có hòa bình đích thực thì công lý phải được tôn trọng đúng mức, mà muốn có công lý thì phải cầu nguyện: “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ Thiên Nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống” (Tv 80:4). Cầu nguyện không chỉ là đối thoại với Thiên Chúa, mà còn là sức mạnh của con người.

Không chỉ cầu nguyện một vài lần, tùy hứng hoặc khi “kẹt”, mà phải cầu nguyện liên lỉ: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh” (Tv 80:15-16). Chân thành và tha thiết cầu nguyện thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ “mủi lòng” mà thương xót: “Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu là con người được Chúa ban sức mạnh” (Tv 80:18). Đồng thời còn phải tự nhủ lòng và đoan hứa chắc chắn: “Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài” (Tv 80:19). Cầu nguyện không phải chỉ van xin, mà còn là tạ ơn và chúc tụng.

Thánh Phaolô cho biết rằng, khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói rõ: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội” (Dt 10:5-6). Điều đó do chính Đức Kitô xác nhận chứ không phải ai khác, thế thì chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa: Chúa KHÔNG CẦN lễ này hay vật nọ, ngay cả lễ toàn thiêu và lễ xá tội Chúa cũng coi như không. Thế mà chúng ta lại thích bày ra nhiều điều kiện và nhiều thứ lễ để làm gì? Chúa chỉ cần LÒNG CHÂN THÀNH và ĐỨC VÂNG LỜI, như Đức Kitô đã thân thưa với Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10:7). Chính điều đó mới quan trọng nhất. Đừng coi trọng cái phụ mà coi thường cái chính, thích bề ngoài hơn tâm linh – vì đó là trái Ý Chúa. Thế nhưng người ta lại thích và thường làm điều trái ngược – ưa chuộng bề ngoài hơn bề trong, rồi viện cớ là “có đầy mới tràn”. Thật đáng quan ngại!

Chính Đức Kitô đã xác định trước tiên: “Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền” (Dt 10:8). Sau đó Ngài mới nói thêm: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10:9). Hai vế cân bằng. Chính Người BÃI BỎ CÁC LỄ TẾ CŨ mà THIẾT LẬP LỄ TẾ MỚI. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, CHỈ MỘT LẦN LÀ ĐỦ. Quan trọng là tuân phục Ý Chúa chứ không theo ý mình, dù Ý Chúa nhiều khi hoàn toàn trái ngược với ý riêng của chúng ta.

Thế nhưng Đức Maria lại khác hẳn, không hề lưỡng lự hoặc đắn đo khi vâng lời mà MAU MẮN VÂNG LỜI, vì thế Đức Mẹ trở nên gương mẫu về đức vâng lời. Không chỉ vậy, Đức Mẹ còn là người vợ và người mẹ tuyệt vời, đồng thời cũng như một nữ tu, dù không mặc áo dòng, và giữ trọn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh khiết, và thanh bần. Vâng, Đức Mẹ đúng là nữ-tu-không-tu-phục.

Ngày ấy, sau khi thụ thai Thánh Tử và biết tin chị Êlidabét cũng đã mang thai một “người con đặc biệt” khi đã lớn tuổi, Đức Maria đã vội vã lên đường, đến miền núi, tại một thành thuộc chi tộc Giuđa, đó là nhà anh chị họ Dacaria và Êlidabét. Đức Maria vào nhà và cất tiếng chào, vừa nghe tiếng dì Maria chào, đứa con trong bụng chị Êlidabét nhảy lên. Được đầy tràn Thánh Thần, chị Êlidabét liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45). Hằng ngày, chúng ta cũng nhiều lần ca tụng Đức Maria: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc…”.

Phúc nhân gặp phúc nhân, người phúc thăm viếng người phúc. Chị Êlidabét đã là người có phúc vì mang thai Thánh Gioan Tẩy Giả, người tiên phong mở đường của Thiên Chúa, dì Maria còn có phúc hơn vì mang thai Thánh Tử Thiên Chúa. Không chỉ vậy, dì Maria còn có đại phúc khác, như chị Êlidabét xác nhận, đó là “tin Chúa sẽ thực hiện điều Người đã hứa”. Có TIN TƯỞNG thì mới VÂNG LỜI. Vâng lời minh chứng đức tin. Thật là lô-gích và kỳ diệu biết bao!

Xét theo chuỗi hệ lụy đó, (có lẽ) chúng ta chưa đủ tin nên chúng ta khó vâng lời, khó vâng lời vì yếu lòng tin. Nếu vậy, rõ ràng đức tin thực sự là điều cần thiết cho tất cả mọi người chúng ta, không ngoại trừ bất kỳ ai, và là nền tảng cho công việc chúng ta làm. Có thể nói rằng biên độ giữa hữu thần và vô thần rất nhỏ hẹp, chỉ nhích qua nhích lại là… khác hẳn. Một chút mà quan trọng và khó khăn, vì người ta có thể hơn thua nhau ở mức độ sống nhân đức, sống bình thường mà lại phi thường. Các thánh là những người đã chứng tỏ điều đó.

Lạy Thiên Chúa chí thánh hằng hữu, trong khi chờ đón Thánh Tử Ngôi Hai giáng sinh, chúng con thao thức nhưng vẫn chưa dứt khoát dọn dẹp đường lòng, xin thêm lòng can đảm cho chúng con, xin cũng ban thêm đức tin và giúp chúng con sẵn sàng “xin vâng” theo Thánh Ý Ngài – nhất là khi chúng con không được như ý muốn. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

TẤM LÒNG LÂN TUẤT BAO LA

JM. Lam Thy

Phụng vụ Giáo Hội ấn định Mùa Vọng có 4 tuần lễ tượng trưng cho 4.000 năm thời Cựu Ước trông đợi Chúa đến lần thứ nhất: Chúa nhật I mùa Vọng “báo tin ngày Chúa đến”; Chúa nhật II “Tiiếng hô trong hoang địa” Gio-an đến dọn đường; Chúa nhật III “niềm vui bừng lên” vì Chúa đã đến gần; còn Chúa nhật IV mùa Vọng hôm nay loan báo Tin Mừng Đức Maria Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm người chị họ Ê-li-za-bet để cùng “chia sẻ niềm vui”, vì bà đã 70 tuổi còn được Thiên Chúa ban hồng ân cho thụ thai (mà thai nhi chính là sứ giả Tiền Hô Gio-an Bao-ti-xi-ta); đồng thời cũng là dịp người chị họ chúc mừng tin vui của Đức Mẹ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 42-43).

Mẹ Ma-ri-a được sứ thần tuyên dương là người có phúc, tức đầy tràn tình yêu Thiên Chúa. Còn bà Ê-li-sa-bét cũng là người có phúc, vì tình yêu Thiên Chúa đã cứu thoát bà khỏi nỗi tủi nhục son sẻ. Giờ đây hai bà mẹ tương lai gặp gỡ nhau, nhìn nhận tình yêu Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống tâm hồn họ, nên đem hết tâm tình cảm tạ Chúa. Mặc dù đóng vai trò rất quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Chúa, nhưng hai người luôn khiêm nhường và dành tất cả công trạng cho ân sủng Chúa hoạt động nơi mình. Gương mẫu chia sẻ tình yêu Thiên Chúa của hai người được biểu lộ qua cuộc gặp gỡ đặc biệt, có thể dạy chúng ta cách chuẩn bị đón Chúa và nhất là đem Chúa đến với anh em.

Trong Mùa Vọng có 3 nhân vật nổi bật luôn được nhắc đến: Đó là ngôn sứ I-sai-a loan báo Đấng Cứu Độ sẽ đến; nhân vật thứ hai (cũng được ngôn-sứ I-sai-a báo trước) mang danh hiệu “Tiếng hô trong hoang địa” là thánh Gio-an Tẩy Giả đến dọn đường đón mừng Đấng Thiên Sai. Nhân vật thứ ba – Đức Trinh nữ Maria – là nhân vật quan trọng nhất, vì qua Mẹ và nhờ Mẹ, Đấng Thiên Sai đã đến để thực hiện công trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người. Mặc dù mỗi nhân vật ở một cương vị, đóng một vai trò khác nhau, nhưng đều chung một mục đích loan báo, dọn đường đón vị Cứu Tinh của nhân loại. Nói cách khác, cả 3 nhân vật đó tuy có những phương cách hoạt động khác nhau, nhưng đều cùng chung một sứ vụ là loan báo, dọn đường sửa lối đón mừng nhân vật trọng tâm: Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ giáng trần.

Có thể Mẹ Maria tới thăm gia đình ông Da-ca-ri-a là để chia sẻ một niềm vui trong gia tộc, đồng thời cùng với người chị họ chúc tụng Thiên Chúa, vì cả 2 chị em đều được ân thưởng đặc sủng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, lý do chính Đức Mẹ tới viếng thăm người chị họ chỉ có thể là vì Tình Yêu. Chính là vì tình yêu, vì lòng lân tuất, Mẹ đã lên đường tới thăm gia đình người chị họ neo đơn, cả hai ông bà đã già yếu, rất cần sự giúp đỡ trong những tháng cuối cùng của thai kỳ và cả khi sinh nở. Mẹ đã ở lại với người chị họ tới 3 tháng cũng là vì thế. Như vậy, có thể nói Đức Mẹ đã ra đi thi hành sứ vụ truyền giáo là đem niềm vui đến cho tha nhân. Mẹ đã đem Đấng Cứu Thế đến cho bà Ê-li-da-bet, kể cả người con mà bà đang cưu mang trong lòng là Gio-an Tiền Hô. Vì thế, khi thấy Đức Mẹ thì Gio-an Tiền Hô đã vui mừng nhảy lên trong lòng bà mẹ (Lc 1, 44).

Điểm đáng lưu ý trong chuyện này là trước những lời chân tình và khiêm tốn của bà Ê-li-da-bét, Đức Mẹ không nói gì ngoài những lời ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa trong bài ca Magnificat. Mẹ cảm tạ Chúa không chỉ cho riêng mình, nhưng cho hết thảy nhân loại. Những lời chân tình của bà Ê-li-sa-bét xuất phát từ một tâm hồn thực sự khiêm tốn, nhìn nhận những gì Thiên Chúa làm cho bà và đứa con trong bụng qua cuộc viếng thăm của cô em họ Maria. Cả hai bà đều thâm cảm được tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa dành cho mình và cho nhân loại. Cả hai đều bày tỏ lòng khiêm nhường tin tưởng vào công trình cứu độ của Thiên Chúa giải thoát loài người khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết đời đời. Mẹ Maria đã thay mặt cho toàn thể nhân loại, cất lời ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa bắt đầu thực hiện kế hoạch lấy tình yêu làm vũ khí “dẹp tan phường lòng trí kiêu căng, hạ bệ những ai quyền thế, nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, kẻ đói nghèo được  ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Bài ca “Ngợi Khen” – Magnificat – Lc 1, 51-53).

Nói đến tình yêu là nói đến 3 nhân đức cốt tuỷ của người Ki-tô hữu: Tin + Cậy + Mến. Có Yêu thì mới Tin và càng Tin thì càng Yêu gấp bội. Chỉ đến khi dốc một lòng Tin Yêu thì mới dám Cậy nhờ trợ giúp. Một tấm gương sáng chói cho lập luận này chính là thánh Phao-lô Tông đồ dân ngoại: Kể từ khi trở về nẻo chính đường ngay, sau biến cố Đa-mát, thánh nhân đã rút ra được những kinh nghịêm quý báu về Tình Yêu trong quá trinh rao giảng Tin Mừng, mở mang Hội Thánh Chúa. Ngài khẳng định: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13, 13). Ngài còn xác quyết: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1Cr 13, 3). Quả thật muốn “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” thì phải “yêu người thân cận như chính mình”. Chỉ có hết dạ “yêu người” mới chứng tỏ là thực lòng “mến Chúa”. Đó là quy luật tất yếu. Tuy nhiên, ngay từ trước khi Thánh Phao-lô đưa ra lập luận chắc chắn như vậy, thì Đức Maria đã thể hiện một cách rất sinh động: Đầu tiên là chia sẻ niềm vui với ngưới chị họ và sau đó là chia sẻ niềm vui cho toàn thể nhân loại trong suốt cuộc đời của Mẹ và cho mãi đến thiên thu vạn đại.

Bài Tin Mừng hôm nay đã nêu bật những bài học quý giá cho hành trình thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi Ki-tô hữu: Thứ nhất: Mẹ đã “yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực” nên Mẹ mới tin tưởng dâng mình trong đền thờ năm 16 tuổi, và vì thế Mẹ càng yêu Chúa gấp bội và tin tưởng tuyệt đối vào lòng Thuơng xót của Chúa bằng hành động “xin vâng” theo Thánh ý Chúa trong mọi tình huống. Thứ hai: Vì tình bác ái, Mẹ rất quan tâm đến hoàn cảnh bà Ê-li-za-bét rất cần sự thăm hỏi động viên, giúp đỡ. Thứ ba: Dù là chỗ họ hàng, mà chì là họ hàng xa, không bó buộc phải thăm nom, giúp đỡ; nhưng Mẹ đã nhận trách nhiệm ấy cho mình (Tình bác ái không phân biệt họ hàng xa hay gần, có họ hàng với nhau hay không). Thứ tư: Mẹ đã không quản ngại đường xá xa xôi, núi non trắc trở, vì “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách nùi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Đường đi có thể khó khăn nguy hiểm, nhưng nếu  lòng người đã quyết thực thi tình bác ái, thì hiểm trở tới đâu cũng không quản ngại. Thứ năm: Mẹ đã kiên tâm ở lại giúp đỡ người chị suốt 3 tháng ròng. Đó là đức mến được thể hiện bằng hành động cụ thể nhất. Cũng như “Đức tin không có hành động là đức tin chết”, đức mến mà chỉ ở nơi đầu môi chót lưỡi thì cũng chẳng hơn gì. Vì thế, nên giúp đỡ chia sẻ một cách cụ thể mới thực sự là những “chứng tá bác ái”. Thứ sáu: Mẹ đã đem Đấng Cứu Độ đến cho cả 2 mẹ con bà Ê-li-za-bet (người Mẹ thì vui mừng thốt lên “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” còn người con thì nhảy lên mừng rỡ trong lòng mẹ – Lc 1, 43-44). Rõ ràng Đức Mẹ đã đem Tin Mừng đến cho tha nhân. Há chẳng phải đó là nhà truyền giáo đầu tiên của Giáo Hội thời Tân Ước đó sao?

Qua mẫu gương tuyệt hảo của Đức Mẹ, Giáo Hội mời gọi mọi tín hữu hãy trở về với tinh thần đích thực của mầu nhiệm Giáng Sinh. Tinh thần ấy là khiêm nhường, cảm tạ và tín thác vào sức mạnh Tình yêu Thiên Chúa, để từ đó sẵn sàng lên đường tới viếng thăm tất cả mọi người, nhất là những người mà Đức Vua Tình Yêu – trong ngày chung thẩm – đã nhận là chính Người (“Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” – Mt 25, 35). Quả thật, “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài” (Thánh Au-gus-ti-nô). Đức Mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ bằng tất cả con người và cuộc sống của minh. Học theo gương Mẹ, người Ki-tô hữu hãy cộng tác với Thiên Chúa bằng cách đem chính bản thân mình phục vụ mọi người. Hãy quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh; sẵn sàng hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của mình, để năng đến thăm viếng, gặp gỡ, chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ.

Ôi! “Lạy Chúa! Xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được mến yêu. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời…” (“Kinh Hoà Bình” – TCCĐ). Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Ðức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV mùa Vọng).

Về mục lục

.

NÀY TÔI LÀ TÔI TỚ CHÚA

 Đỗ Công Minh

Lạy Chúa,

Chỉ vỏn vẹn một ngày nữa thôi, ngày 23/12, Mùa Vọng sẽ qua đi, Mùa Giáng sinh lại đến. Chúa nhật thứ tư Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng con chiêm ngắm Đức Maria trong biến cố Truyền tin, để biết Đức Maria đã mở lòng đón Chúa đến với nhân loại như thế nào? Mẹ Maria đã sống cuộc đời của một thiếu nữ đơn sơ, thánh thiện trong một gia đình thuộc vùng quê yên bình, cùng với mọi người tại làng Na Gia rét bé nhỏ, nhưng Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa chúc phúc.

Tất cả cuộc đời Mẹ Maria gói gọn bằng hai từ XIN VÂNG. Kể từ lúc Sứ Thần Chúa truyền tin, do trí hiểu biết của con người giới hạn khiến Mẹ phải bối rối thốt lên: “ Việc ấy xảy ra thế nào được “. Thế nhưng khi được biết ý định của Thiên Chúa, mẹ đã cúi đầu :”Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói “. Chính từ lời Xin Vâng ấy mà “Hoa quả đầu mùa là Đức Kytô đoạn  đến những kẻ thuộc về Người “ nên Mẹ được Giáo hội tôn phong là đấng hiệp công cứu chuộc loài người chúng con. Chính Mẹ là Đấng đã đem Chúa đến với nhân loại.

Ngày hôm nay, người người đã, đang nô nức dọn nhà cửa, trang hoàng phố xá, cửa hàng, siêu thị, tiệm ăn để mừng lễ. Các nhà thờ, nhà nguyện, xóm đạo chúng con cũng chăng đèn điện, đủ màu sắc nhập nhòe trên những cây thông sặc sỡ, nhiều hang đá được tái hiện thật lôi cuốn người xem thể hiện niềm vui ngày Chúa Giáng trần. Chúng con vui thật, vì Mùa lễ hội của cả thế giới này. Rồi đến đêm Giáng sinh sẽ là một đêm huy hoàng tráng lệ với những âm thanh rộn ràng của những bài ca, tiếng nhạc. Sau giờ lễ sẽ là những bữa tiệc liên hoan với những thức ăn ngon, những ly rượu nồng, tất cả là muốn thể hiện niềm vui Emanuelle, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Đối chiếu bài Tin Mừng, chúng con có dịp suy gẫm về gương phó thác, xin vâng, mở rộng lòng đón Chúa đến với nhân loại của Đức Maria, con đang tự hỏi  mình có dọn lòng cho đủ để đón Chúa vào linh hồn con như Mẹ Maria sẵn sàng cho Chúa ngự đến? Con có sống tín thác vào Chúa như Mẹ đã sống? Con có để cho ý Chúa được thể hiện nơi con hay ý muốn của con đã thay cho ý Chúa?

Lạy Chúa,

Xin cho con biết tiếp bước theo con đường của Mẹ Maria. Là  người con Mẹ, chúng con muốn sống đời Hiệp Sống – Xin Vâng – Phục Vụ. Đó là mong muốn hiệp nhất với nhau, với mọi người, để cùng nhau sống theo Thánh ý Thiên Chúa, phục vụ mọi người đang sống cùng, sống với chúng con, ngay trong gia đình, trong khu xóm, xứ đạo, nơi làm việc, chỗ buôn bán, giữa chợ đời. Và rộng ra là với mọi giới đồng bào trên quê hương Việt Nam này .

Xin cho mỗi lần mừng lễ Chúa Giáng Sinh, chúng con biết noi gương Mẹ nhiều hơn nữa. Biết chu toàn bổn phận từng người trong gia đình, từng tín hữu trong Hội Thánh; biết sống trung thành với Thiên Chúa, phục vụ tha nhân, hầu mai ngày cũng được cùng Mẹ hưởng vinh phúc trên quê trời .AMEN .

Về mục lục

.

NHẬN LÃNH ĐỂ TRAO BAN

Bông Hồng Nhỏ

  • Cháu cưng của bà dậy rồi à. Để bà pha nước tắm cho cháu nào.

Nghe bà ngoại âu yếm gọi cháu cưng, chị mỉm cười hạnh phúc. Sinh con đầu lòng với bao bỡ ngỡ và vụng về, nhưng có mẹ ở bên, chị an tâm rất nhiều. Vì thương con thương cháu, bà ngoại lặn lội đường xa đến với con với cháu. Bà không chỉ thăm viếng nhưng đã ở lại phục vụ với cả tình yêu.

Cũng có một cuộc thăm viếng tràn đầy tình yêu, niềm vui và hạnh phúc, đó là cuộc viếng thăm bà Êlisabet của Đức mẹ Maria.

Nghe sứ thần Gaprien báo tin vui, Đức Maria vội vã lên đường. Mẹ vượt dặm đường xa hiểm trở để đến với chị mình. Dường như trong từng bước chân vội vã của Mẹ có sự vui mừng, phấn khởi. Mẹ là người được Thiên Chúa thương và Mẹ cũng nhận thấy tình thương Thiên Chúa dành cho chị họ Êlisabet khi Chúa đã cất nỗi khổ nhục của chị qua việc ban tặng cho chị một đứa con. Mẹ không lên đường một mình nhưng đã lên đường với Chúa vì chính Chúa đang ngự trong cung lòng Mẹ, và Mẹ cũng đem Chúa đến cho chị họ. Khi có thai, Bà Êlisabet đã ẩn mình năm tháng, bà luôn tự nhủ: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi người thương cất nỗi khổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (x.Lc 1,24-25). Và giờ đây, tâm hồn bà được đầy Thánh Thần khi vừa nghe tiếng chào của Đức Maria, tiếng ấy cũng khiến cho cả hài nhi trong bụng bà Êlisabet nhảy lên vui sướng (x. Lc 1,41-44). Đã bao giờ ta tự hỏi, vì sao ta được Chúa viếng thăm và ta nhận ra cuộc viếng thăm của Chúa ngang qua người anh chị em  mình? Chúa mời gọi ta mang Chúa đến cho người khác, đồng thời Chúa cũng đích thân đến với ta để đem hạnh phúc cho ta như có lời của một ai đó đã nói: “Khi có một ai đó đến viếng thăm ta, dù họ chỉ là một người hành khất thì chính khi ta tiếp đón họ là tiếp đón chính Chúa”.

Bà Êlisabet đã nói cùng Đức Maria lời này: “ Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Thiên Chúa là Đấng trung tín và ai tin vào lời của Chúa thì thật là người có phúc, vì chính Chúa sẽ thực hiện mọi điều Thiên Chúa hứa ban. Đức Mẹ đã hoàn toàn xin vâng trước thánh ý Thiên Chúa. Còn ta, ta có tin rằng chính Chúa sẽ thực hiện cho ta những điều tốt đẹp nhất không? Nếu ta tin vào Chúa thì ta là người có phúc. Chính thánh Phaolô tông đồ cũng xác tín điều này: “ Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người” (x.Rm 8,28a). Thiên Chúa đã ban tặng cho ta một trái tim để yêu thương. Hãy yêu mến Thiên Chúa để Người dạy ta yêu mến anh chị em mình. Để yêu mến anh chị em mình đòi hỏi ta phải có lòng thực khiêm tốn. Vì nếu không có sự khiêm tốn, ta không biết phải yêu thế nào cho phải. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, nhưng đã chủ động viếng thăm chị và ở lại phục vụ chị bằng cả tình yêu. Mẹ có lòng khiêm nhường thẳm sâu, vì thế, đức ái nơi Mẹ là phản ánh một tâm hồn mến yêu Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa chính là món quà quý giá nhất mà con được nhận lãnh và muốn trao ban cho người khác. Xin cho con biết dùng giây phút hiện tại để đón Chúa ngự đến trong tâm hồn và cùng Chúa viếng thăm anh chị em.“ Xin cho con luôn biết hiến thân mà không mong chờ, phần thưởng nào hơn là được biết con đang thi hành ý Chúa” ( Kinh Quảng đại hiến dâng). Amen.

Về mục lục

.

RA KHỎI MÌNH

Anna Cỏ May

Cận kề mừng Chúa Giêsu Giáng Sinh, bầu khí về đêm rực lên những ánh đèn nhấp nháy. Người người cùng đi thăm viếng những hang đá Belem trong những kiểu dáng tuyệt vời. Thật là ấm áp và tràn đầy niềm vui, nhưng niềm vui nào cho bằng niềm vui Chúa ngự đến trong tâm hồn.

Vậy làm sao để được Chúa ngự đến ?

Mẹ Maria, Mẹ tuyệt hảo. Mẹ khiêm tốn đáp lời xin vâng trước lời sứ thần truyền tin. Qua lời xin vâng, Mẹ được tràn đầy Thánh Thần. Mẹ hân hoan vội vã lên đường đến với chị họ mình là bà Êlisabét (người phụ nữ mang tiếng là son sẻ). Khi vừa đến nhà ông Dacaria, Mẹ liền chào bà Êlisabet trong niềm vui hớn hở chân thật. Lời chào ấy đã khiến đứa con trong bụng bà Êlisabét nhảy mừng lên (x.Lc 1,41). Lời chào của Mẹ mang tâm tình thân thương, chia sẻ và tràn đầy tình yêu khiến tâm hồn bà Êlisabet cũng hân hoan và bà cất tiếng lời tán dương: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Qua sự thăm viếng của Mẹ, Bà Êlisabet nhận ra hồng ân được Thiên Chúa viếng thăm: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa đến với tôi thế này” (Lc 1,43).

Mẹ Maria đã đem Thần Khí, niềm vui đến cho gia đình ông Dacaria và niềm vui ấy được lan rộng đến cho mọi người.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết ra khỏi lòng mình mà chạy đến với Chúa, chạy đến với người anh em của mình để cùng với Mẹ hưởng trọn niềm vui ân sủng của Chúa Hài Nhi. Amen.

Về mục lục

.

ĐÔI CHÂN HỒNG PHÚC

Lm. Luy Hồ Trọng Hưng

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ.

Trong thần thoại Hy Lạp, Asin được coi là một chiến binh vĩ đại nhất của quân Hy Lạp trong cuộc chiến thành Troia. Ông là kết quả của một cuộc tình giữa người anh hùng trần thế, Pêlê và nữ thần biển Thêtix. Vì là người con hỗn hợp giữa một bên là phàm trần và một bên là thần thánh nên mẹ của chàng suốt đời chỉ chăm lo cho con được trở thành bất tử để sánh vai với các vị thần khác. Bởi lẽ, trong sáu lần sinh con trước, Thêtix đều đem tôi vào trong ngọn lửa của thần Prômêtê. Nhưng cả sáu đứa con đó đều không thể sống được dưới sức nóng của ngọn lửa.

Vì thế, đến người con thứ bảy là Asin, nữ thần Thêtix không đem tôi vào lửa nữa mà đem tôi vào nước của dòng sông âm phủ Xtích. Lần này thì nữ thần đã thành công. Nhưng tiếc thay khi tôi con vào nước sông âm phủ Xtích, bà đã quên không tôi chỗ gót chân của Asin là nơi tay bà cầm lấy con mình để nhúng vào nước. Vì thế Asin vẫn có thể chết, nghĩa là không thể bất tử vì chỗ gót chân của anh.

Do đó, ngày nay, thành ngữ “Gót chân Asin” người ta thường dùng chỉ để nơi hiểm yếu, nhược điểm của một con người, tổ chức hay một lực lượng nào đó. Đánh trúng, nhằm trúng “Gót chân Asin” có nghĩa là đánh trúng huyệt, nhằm trúng huyệt để hạ gục địch thủ của mình.

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, câu chuyện thần thoại “Gót chân Asin” gợi nhắc chúng ta nhìn lại chuyến thăm viếng của Đức Trinh Nữ Maria đến nhà Bà Êlizabeth mà Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay nói đến, để qua đó mời gọi từng người cùng chiêm ngắm đôi chân, đôi gót hồng của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Rất Thánh của chúng ta.

Chúng ta thấy, trong câu chuyện “Gót chân Asin”, dù là một nữ thần và được coi là bất tử, nhưng Thêtix không thể mang lại sự bất tử ấy cho chính người con máu mủ của mình. Điều này cho chúng ta thấy rằng những gì thuộc về con người hay những gì mà con người tôn vinh lên làm thần thánh cũng không thể nào giải quyết cho chúng ta về vấn nạn về sự sống đời đời. Vì thế, điều này càng làm cho chúng ta xác tín hơn về quyền năng của Thiên Chúa. Chỉ có Chúa mới là Đấng làm cho con người được sống đời đời: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”(Lc 1, 37)

Quay trở lại với đôi chân, đôi gót hồng của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta cũng được nhắc lại lời nguyền xưa giữa Thiên Chúa và con rắn: một bên là Thiên Chúa đại diện cho sự sống đời đời, một bên là con rắn đại diện cho tội lỗi, cho sự tối tăm và là sự chết: Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người nữ ấy sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân người (x. St 3,15). Thế nhưng, qua các đặc ân mà Mẹ Maria đã lãnh nhận từ Thiên Chúa có thể quả quyết cho chúng ta một điều: Mẹ đã được chiến thắng sự chết. Điều này cho thấy gót chân của Mẹ sẽ không còn là điểm yếu nữa; và đôi chân, đôi gót hồng của một cô gái liễu yếu đào tơ Maria sẽ thay bằng một đôi chân, đôi gót của sự sống; và là đôi chân, đôi gót của hồng phúc. Có thể nói, tất cả những gì Mẹ có đều xuất phát từ chính lời “Xin Vâng” một cách khiêm nhường tự hạ từ chính cõi lòng của Mẹ. Để rồi Mẹ đã được chính Sự Sống của Thiên Chúa bao trùm: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1, 35). Và cũng chính lời “Xin Vâng” đó, Mẹ đã được diễm phúc ôm lấy Ngôi Lời của Thiên Chúa nơi cung lòng của mình, và để cho chính Ngôi Lời, là “ánh sáng bởi ánh sáng” (Kinh Tin Kính), là ngọn lửa, và là dòng nước đích thực tôi luyện Mẹ: “hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28). Như thế, Mẹ đã được Thiên Chúa đổi lấy sự chết của nhân loại nơi Mẹ để nhường chỗ cho sự sống thần linh vĩnh cữu của Ngài bằng chính nhờ lòng tin của Mẹ. Vì thế, chúng ta hãy tạ ơn Chúa và ngợi khen Mẹ như bà Êlizabéth đã làm: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này.”

Cộng đoàn thân mến, Mẹ đại diện cho nhân loại được diễm phúc đón nhận sự sống đời đời từ Thiên Chúa nhờ vào lòng tin, vì thế sự chết sẽ mãi mãi không thể cắn được gót chân Ngài. Do đó, sứ điệp lời Chúa hôm nay một cách nào đó như một lời thức tỉnh cuối cùng cho chúng ta để chúng ta thêm phần xác tín hơn trong Mầu Nhiệm Nhập Thể mà chúng ta sắp mừng kính trong đêm Giáng Sinh tới đây. Và hơn thế nữa, Thiên Chúa cũng muốn mời gọi chúng ta hãy xác tín thật mạnh mẽ vào Hài Nhi Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa thực sự. Chính sự hiện diện của Ngài nơi cung lòng của những ai đón nhận và ghi nhớ Lời của Ngài qua việc lắng nghe và đón rước Chúa thường xuyên thì sẽ có đôi gót, đôi chân chiến thắng sự dữ như Mẹ.

Hôm nay, hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria ra đi trên đôi chân đôi gót hồng phúc của mình để mang ơn cứu độ, mang sự sống vĩnh cửu đến chia sẻ niềm vui ấy với người chị họ của Mẹ là Bà Êlizabéth. Điều đó cũng muốn nhắc nhở chúng ra rằng: chúng ta sẽ có đôi chân hay đôi gót hồng phúc như Mẹ khi chúng ta có đức tin hoà lẫn với những hy sinh. Chính đức tin sẽ giúp chúng ta đạt đến quê trời vĩnh cữu. Còn những hy sinh sẽ giúp mỗi người tôi luyện chính đôi chân của mình trên những bước đường gian khó của dòng đời, là những gian nan thử thách của thế gian, ma quỷ và xác thịt. Đó cũng chính là sự tôi luyện của sự ra đi, ra đi để đón nhận, ra đi của cảm thông và ra đi để sẻ chia hòng đạt đến đức ái toàn hảo như lòng Chúa ước mong.

Nơi Giáo hội, sự hiện diện của Lời Chúa cùng với các Bí tích, cách riêng là Bí tích Giải tội chính là nơi Thiên Chúa đặt để lò tôi luyện của Ngài dành cho những ai khao khát chạy đến, hạ mình như Mẹ đáp lại lời “Xin vâng” để được diện kiến Thiên Chúa trên cõi vĩnh phúc.

Thiên Chúa đã đến mà người nhà của Ngài không hay biết; Thiên Chúa đã gõ cửa mà người nhà cũng chẳng nghe! (x. Ga 1, 10-11) Có thể chúng ta đang mê ngủ trong vòng xoáy của cuộc đời, hay trong căn phòng đóng kín của cõi lòng nên chúng ta không thể nghe được tiếng Chúa để rồi lời “Xin vâng” không thể toát lên nơi môi miêng chúng ta.

Vì thế, xin Mẹ hãy chỉ cho chúng ta nhận ra tiếng Chúa và cùng đi với chúng ta hòng giúp mỗi người được tôi luyện để được đôi chân của đức ai; đôi chân đạt đến sự sống đời đời – đôi chân hồng phúc như Mẹ. Amen.

Về mục lục

.

CẢM NHẬN

Lm Vũdình Tường

Cảm tình dành cho nhau trong lần gặp gỡ đầu tiên hoàn toàn độc lập khỏi lí trí. Hầu hết mọi quyết định đến từ lí trí Dường như lí trí giúp ta làm quyết định nhưng một phần nào trong quyết định đó cũng bị tình cảm lúc đầu ngấm ngầm chi phối. Cảm nhận lần đầu tiên gặp gỡ là một thực tế, nó đóng vai trò quan trọng trong giao tế hàng ngày. Ai cũng biết nó tồn tại, hiện diện trong ta nhưng rất khó chứng minh. Cá nhân người đó biết mình cảm nhận người khác, sự việc ra sao. Nếu phải giải thích tại sao lại cảm nhận sự việc như thế thì dường như không có câu trả lời chính xác. Các nhà thần bí học trong thinh lặng của cuộc sống chiêm niệm cũng đi tìm và lắng nghe cảm nhận những điều về tâm linh và họ sống theo cảm nhận tâm linh đó. Không dễ gì hiểu được điều cảm nhận tâm linh của họ, vì thế cần có người giải thích bằng ngôn ngữ hàng ngày giúp ta tạm nắm bắt điều họ cảm nghiệm.

Về phương diện tâm linh, người nào cũng có kinh nghiệm nghe tiếng nội tâm. Tiếng đó khi thì khuyên nhủ hoặc ta nên làm; nó nhắc nhở ta nên tránh điều gì kia; ngày đêm nó dằn vặt ta khi làm điều nọ; kèm theo đó là sợ hãi và tìm cách trốn người này, né người nọ. Người đặt niềm tin vào Đức Kitô cho đó là tiếng nói của Thánh Thần Chúa hướng dẫn và khi ta hành động theo hướng dẫn đó con tim ta cảm thấy thoải mái, thảnh thơi.

Phúc Âm tuần này cho biết bà Elizabeth cảm nhận được tiếng nói Thánh Thần trong tâm tư bà. Nhờ thế bà Elizabeth nhận biết cuộc viếng thăm của người họ hàng bà Maria là cuộc viếng thăm đặc biệt và thánh thiện. Chúng ta biết được cảm nhận đó khi bà Elizabeth vui mừng đón tiếp bà Maria. Niềm vui dạt dào , tràn ngập tâm hồn bà, vui đến mức bà lớn tiếng ngợi ca
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ… Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi, đến với tôi thế này? Lk 42-45

Bà Elizabeth lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa bởi sâu trong tâm tư bà cho biết Mẹ của Thiên Chúa viếng thăm. Chúng ta biết điều này bởi chính bà Elizabeth nói ra và tất nhiên không ai có khả năng kiểm nhận điều bà lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa. Cuộc viếng thăm của bà Maria giúp chúng ta học biết nhiều điều mới lạ về tình yêu Chúa.

Thứ nhất, Chúa là Đấng duy nhất ban cho ta niềm vui dạt dào xuất phát từ tâm hồn. Niềm vui đến từ ngoài không bền vững. Những ai thành tâm sống theo tiếng nói của Thánh Thần Chúa, tâm tự họ tràn ngập niềm vui. Bà Elizabeth nhận biết điều đó bởi bà luôn sống trong tâm tình tạ ơn.

Thứ hai, nguồn vui Chúa ban không phải dành riêng cho cá nhân ta hưởng mà niềm vui đó cần đuợc chia sẻ cho người khác cùng hưởng. Niềm vui chia sẻ không mất đi, không nhỏ đi nhưng trái lại chia sẻ, cho đi chính là gieo nguồn vui vào lòng đất tốt, giúp cho nguồn vui đó tăng trưởng, cao lớn lên, kết quả vĩ đại hơn. Cả hai bà Maria và Elizabeth đều chia sẻ niềm vui của mình cho người khác. Hai bà mang lời Chúa trong cõi lòng mình, trong tâm mình và còn làm cho lời Chúa sống động trong cuộc sống.

Thứ ba, ân sủng Chúa trao ban cho cá nhân, chính cá nhân đó nhận biết, xác nhận và chia sẻ, người nghe có thể vui lây, có thể từ chối tin; người nghe không bao giờ cảm nhận rõ như người nhận ơn Chúa ban.

Thứ tư, khi có ơn Chúa trong ta, cuộc sống ta trở nên vui tươi. Chính niềm tin dạt dào giúp ta nhận ra Chúa ở trong ta và chính Thiên Chúa hoạt động trong đời ta. Bà Elizabeth và bà Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế làm chứng về sự thật đó. Không phải chỉ mình bà mà thai nhi trong lòng bà cũng nhảy mừng. Không có niềm tin chúng ta cho đây là chuyện lạ, chuyện hoang tưởng. Với niềm tin chúng ta biết Thiên Chúa có cách làm việc riêng của Ngài và đôi khi cách đó không theo, nhưng vượt qua luật tự nhiên.

Thứ năm, bà Elizabeth còn cho biết một việc rất quan trọng đó là việc Thiên Chúa thực hiện điều Ngài đã hứa. Có thể hiểu đây là hai lời hứa. Lời hứa thứ nhất là sẽ ban cho nhận loại Đấng Cứu Thế và nay điều đó được thực hiện. Lời hứa thứ hai là cho bà sinh con và điều đó nay cũng được thực hiện.

Bà Maria và Elizabeth lắng nghe tiếng nói nội tâm và nhận ra í Chúa. Học từ hai bà, chúng ta cũng học lắng nghe tiếng nói nội tâm để nhận ra í Chúa hướng dẫn cuộc sống ta.

Chúc Mừng Giáng Sinh an bình; tâm hồn yên vui.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG_C

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Thiên Chúa thực hiện những ý định cao cả của Người dựa trên những con người phận nhỏ, yếu hèn và khiêm hạ. Đó là giáo huấn của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng này.

Mk 5: 1- 4a

Ngôn sứ Mi-kha loan báo rằng chính ở nơi thị trấn nhỏ bé của miền Giu-đê, ở đó một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa sinh sống, mà Đấng Mê-si-a một ngày kia sẽ xuất hiện. Con trẻ này sẽ thống lãnh Ít-ra-en và quyền lực của Ngài sẽ trải rộng cho đến tận cõi đất.

Dt 10: 5-10

Ngay từ khi nhập cuộc vào kiếp sống phàm nhân, Đức Giê-su sống khiêm hạ và vâng phục ý muốn của Thiên Chúa, Cha Ngài. Ngài hằng sống trong tư thế dâng hiến bản thân mình thành hy lễ để kế hoạch của Cha Ngài được thành tựu.

Lc 1: 39- 45

Tin Mừng Lu-ca tường thuật cuộc gặp gỡ của Đức Ma-ri-a với người chị họ mình là bà Ê-li-sa-bét, sau biến cố Truyền Tin. Chính ở nơi người thiếu nữ phận nhỏ và khiêm hạ của làng Na-da-rét này mà bà Ê-li-sa-bét nhận ra ý định cao cả của Thiên Chúa và niềm vui Thiên Sai khiến con trẻ, Gioan Tẩy Giả, nhảy lên vui sướng trong dạ  mẹ.

BÀI ĐỌC I (Mk 5: 1-4a)

Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha này là một trong những bản văn vĩ đại loan báo Đấng Mê-si-a. Sấm ngôn này đã được trích dẫn hai lần trong các sách Tin Mừng: một lần trong Tin Mừng Mát-thêu, trong đó các kinh sư trưng dẫn sấm ngôn này cho vua Hê-rô-đê để báo cho các nhà Chiêm Tinh biết “Bê-lem” là nơi Vua dân Do thái vừa mới sinh ra (Mt 2: 6); và một lần khác trong Tin Mừng Gioan, khi đám đông dân chúng tranh luận với nhau về nguồn gốc của Đức Giê-su, có kẻ lại nói rằng Ngài không thể là Đấng Thiên Sai bởi vì theo sấm ngôn Đấng Thiên Sai phải “xuất thân từ Bê-lem” (Ga 7: 42).

  1. Thân thế và sự nghiệp

Ngôn sứ Mi-kha thi hành sứ vụ của mình trong vương quốc Giu-đa suốt hậu bán thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, đồng thời với ngôn sứ I-sai-a. Nhưng trong khi ngôn sứ I-sai-a thuộc gia đình quý tộc ở Giê-ru-sa-lem, thì ngôn sứ Mi-kha xuất thân từ hàng dân giả miền Nam, phía tây Khê-ron.

Như các ngôn sứ thuộc thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên: A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, ngôn sứ Mi-kha tố cáo những bất công xã hội, nạn áp bức những người nghèo, tệ nạn tham ô hối lộ của các quan án, các tư tế, các thủ lãnh, vân vân, những hành vi này tạo nên một đoạn tuyệt với Giao Ước và dẫn đến những án phạt của Thiên Chúa. Có lẽ ngôn sứ Mi-kha định nghĩa rõ nét nhất những yêu sách của Giao Ước: “Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào Đức Chúa đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn” (Mk 6: 8). Ngôn sứ Mi-kha báo trước cho Sa-ma-ri cũng như cho Giê-ru-sa-lem những bất hạnh kinh khiếp, nhưng ông cũng hé mở những viễn cảnh chứa chan hy vọng, như bản văn hôm nay làm chứng.

Tác phẩm của ngôn sứ Mi-kha đã chịu nhiều sửa đổi và vài đoạn thêm vào cuối thời lưu đày hay hậu lưu đày, tức cuối thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Bản văn hôm nay được trích từ chương 5 là một trong những bản văn nêu lên nhiều vấn đề. Tuy nhiên, cũng vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên này, ngôn sứ I-sai-a vang lên cùng một sứ điệp tương tự: ở giữa lòng những biến cố bi thảm (những đột nhập của quân đội Át-sua, cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem, sự tàn phá Sa-ma-ri, vân vân), các ngôn sứ nối tiếp nhau khơi lên niềm hy vọng khi nhắc lại những lời hứa gắn liền với nhà Đa-vít. Đó là điểm chung giữa các sấm ngôn của họ.

  1. Bê-lem Ép-ra-tha

Hai địa danh Bê-lem và Ép-ra-tha được liên kết với nhau ngay từ những bản văn cổ xưa nhất, ví dụ: “Bà Ra-khen qua đời và được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem” (St 35: 9). Thị trấn Bê-lem nhỏ bé là nơi một thị tộc bé nhỏ, những người Ép-ra-tha, từ miền Nam đến định cư lập nghiệp; sau đó, họ đã được sáp nhập vào bộ tộc Giu-đa. Tuy nhiên, “Ép-ra-tha” theo tiếng Do thái có nghĩa “sự màu mỡ”. Ngôn sứ Mi-kha xem ra chơi chữ: Bê-lem là vùng đất màu mỡ vì nó sẽ sinh ra Đấng Thiên Sai.

  1. Một sự tương phản

Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha được xây dựng trên một sự tương phản: sự tương phản của một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, giữa viễn cảnh về một con trẻ chào đời và uy danh cũng như quyền lực của con trẻ này có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en, quy tụ dân chúng bị phân tán và trải rộng quyền lực của mình cho đến tận cùng cõi đất.

Câu này được dịch sát nghĩa theo nguyên bản bằng tiếng Do thái như sau: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi quá nhỏ bé đến nổi không thể là một trong các thị tộc Giu-đa”. Từ “thị tộc” theo tiếng Do thái có nghĩa “ngàn”, vì nhóm người chỉ có thể hình thành nên một thị tộc nếu có thể cung cấp một ngàn chiến binh. Vì thế, Bê-lem nhỏ bé đến nổi nó không thể cung cấp một ngàn chiến binh. Chúng ta cũng gặp thấy một cách đối lập giữa sự nhỏ bé và sự vĩ đại như thế ở sấm ngôn I-sai-a đệ tam: “Người nhỏ nhất sẽ có ngàn con cháu, kẻ hèn nhất thành một dân hùng cường” (Is 60: 22).

  1. Bê-lem, thành vua Đa-vít, thành Đấng Thiên Sai

“Từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en”: Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha đem đến một sự xác định mới. Nếu lời sấm của ngôn sứ Na-than khẳng định muôn năm bền vững của vương triều Đa-vít: “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7: 16), và sấm ngôn I-sai-a đệ nhất công bố rằng dòng dõi vua Đa-vít sẽ được đảm bảo nhờ một con trẻ chào đời, được gọi là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7: 14), thì ngôn sứ Mi-kha xác định Bê-lem là sinh quán của Đấng Thiên Sai. Xưa kia, khi còn niên thiếu, Đa-vít đã chăn dắt đàn chiên trên cánh đồng Bê-lem; Đấng Mê-si-a sẽ là một Đa-vít mới và sẽ là vị mục tử đích thật của dân Ngài.

“Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa”: Có lẽ đây là lối nói phóng dụ về gia tộc của vua Đa-vít, có nguồn gốc lâu đời (sách Sử Biên quyển thứ nhất cho gia phả của vua Đa-vít lên đến tổ phụ Gia-cóp). Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng sấm ngôn này loan báo cuộc sống tiền hữu của Đấng Thiên Sai.

  1. Thời thử thách và thời hy vọng

Trước khi Đấng Thiên Sai giáng sinh ở Bê-lem, Ít-ra-en sẽ phải trải qua một thời gian đầy thử thách cam go, thời “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en”. Trước đó, ngôn sứ đã khai triển những tiên báo kinh khiếp liên quan đến vương quốc miền Bắc cũng như vương quốc miền Nam. Nhưng những trừng phạt không bao giờ là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa: “Cho đến thời một phụ nữ sinh con”. Con trẻ kỳ diệu sinh ra từ một người nữ này sẽ cai trị Ít-ra-en và thế giới. Bản văn không nói một chút gì về cha của con trẻ này.

Toàn thể đoạn văn nhắc nhớ lời sấm của ngôn sứ I-sai-a được công bố hai mươi năm trước đó: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en. Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong cho tới khi biết bỏ cái xấu mà chọ cái tốt. Vì trước khi con trẻ biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt, thì đất đai…đã bị bỏ hoang. Thiên Chúa sẽ đem lại cho ngài, cho dân ngài, cho thân phụ ngài những ngày như chưa từng có, kể từ khi Ép-ra-im tách khỏi Giu-đa” (Is 7: 14-17)

  1. Quy tụ những người tản mác khắp nơi

“Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en”: Chúng ta nhận ra ở đây nỗi bận lòng quy tụ những người Do thái bị tản mắc khắp nơi, nỗi ám ảnh xuất hiện nhất là vào thời lưu đày Ba-by-lon cũng như vào thời hậu lưu đày. Có nhiều lý do xác đáng để nghĩ rằng đoạn văn này được thêm vào sau này.

  1. Vị Mục Tử của Ít-ra-en

Đấng Thiên Sai sẽ lãnh nhận từ chính Thiên Chúa sứ mạng chăn dắt Ít-ra-en: “Ngài sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Ngài mà đứng lên chăn dắt họ”. Bản văn tiên báo hay nhắc nhớ một đoạn văn nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en về “vị mục tử nhân lành” (Ed 34: 23). Việc gợi lên quyền năng hoàn vũ và nền hòa bình viên mãn của Đấng Thiên Sai tương lai mang đậm nét I-sai-a (Is 9: 5), nhưng cũng có thể mang dấu ấn Mi-kha, trừ phi đây là một bản văn được hiệu đính lại.

Từ phận nhỏ đến địa vị vĩ đại, rõ ràng đây là bài học mà bản văn Tin Mừng hôm nay đưa ra: Đức Ma-ri-a, một thiếu nữ khiêm hạ làng Na-da-rét được người chị họ của mình, bà Ê-li-sa-bét, hoan hỉ chào đón như “Thân Mẫu Chúa tôi”.

BÀI ĐỌC II (Dt 10: 5-10)

Lễ Giáng Sinh sắp đến gần, Phụng Vụ Lời Chúa dâng hiến cho chúng ta suy niệm một bản văn trình bày một cách thống thiết mục đích biến cố Nhập Thể; Đức Ki-tô đảm nhận một thân thể nhằm dâng hiến thân mình thành hiến lễ và biến cuộc Tử Nạn của mình thành hy lễ để thánh hóa con người.

Chúng ta không biết lai lịch tác giả thư gửi tín hữu Do thái (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô); bản văn của ông gần với văn phong bài giảng hơn là thư tín; ông ngỏ lời với các Ki-tô hữu gốc Do thái, họ đã biết và đã thực hành phụng tự Mô-sê và xem ra luyến nhớ sự uy nghi trang trọng của nền phụng tự này. Tác giả chứng minh cho họ chức tư tế của Đức Giê-su còn cao vời hơn chức tư tế Cựu Ước và hy lễ của Đức Ki tô thì độc nhất, vô giá và có hiệu quả khôn sánh so với các hy lễ của Luật Cũ.

  1. Phụng Tự tinh thần

Để giải thích bản chất rất đặc biệt và đặc thù của hy lễ Đức Ki-tô, tác giả dựa trên thánh vịnh 40, thánh vịnh mang chiều kích Thiên Sai. Thánh vịnh này diễn tả tâm tình của một người công chính. Từ cuộc sống đạo hạnh của mình, ông hiểu rằng vâng phục thánh ý Thiên Chúa và sẵn sàng dâng hiến thân mình thì cao vời hơn bất cứ hy lễ nào.

Một viễn cảnh như vậy không hoàn toàn đơn độc lẽ loi trong Cựu Ước. Chúng ta gặp thấy viễn cảnh này trên môi miệng của các ngôn sứ (x. Is 1: 11-16), các ngài công bố rằng các hy lễ sẽ là vô ích nếu thiếu tấm lòng; điều này cũng được khẳng định trong các Thánh Vịnh, hai sách Sa-mu-en (x. 1Sm 15: 22), và các tác phẩm Minh Triết (x. Hc 34: 19 và 35: 2-3). Vị thế hàng đầu của phụng tự tinh thần này là một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cái cốt lõi mặc khải Kinh Thánh và chuẩn bị cho sứ điệp Tin Mừng.

  1. Ơn gọi của Đức Ki-tô

Chính ở nơi Người Công Chính này mà tác giả thư gửi các tín hữu Do thái tái khẳng định tư thế sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn bản thân mình của Đức Ki-tô, ngay từ giây phút đầu tiên của biến cố Nhập Thể: “Ngay khi vào trần gian…”. Đồng thời tác giả cũng muốn nói đến cuộc sống tiền hữu của Đức Ki tô.

“Chúa không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể”: Thánh vịnh được trích dẫn ở đây nhấn mạnh tính chất hiến lễ tự thân qua những lời: “Chúa đã tạo cho con một thân thể”. Tác giả thư gửi các tín hữu Do thái đã đọc thấy ở đây lời tiên báo về biến cố Nhập Thể. Thân thể của Đấng Thiên Sai đã được Chúa Cha yêu thương chuẩn bị nhằm hướng đến một hiến lễ cao vời.

Với những thuật ngữ: “Hy lễ và hiến lễ”, tác giả tập hợp hai loại lễ tế vĩ đại, đổ máu và không đổ máu. Đoạn, ông thêm vào đây lễ toàn thiêu theo đó thân thể tế vật hoàn toàn bị hỏa tế, và lễ xá tội theo đó máu tế vật hoàn toàn được hiến dâng. Tất cả những lễ tế này được Lề Luật quy định nhưng không được Thiên Chúa ưa thích. Bản văn để cho hiểu rằng chính vì tính chất duy luật của chúng. Đức Ki-tô bãi bỏ phụng tự duy hình thức và đề cao hiến lễ tinh thần.

  1. Cái chết thành hiến lễ

“Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”: Đối với Đức Ki-tô không cốt tuân giữ những huấn lệnh mà ông Mô-sê truyền, nhưng chấp nhận quyết định của Thiên Chúa, đó là dẫn dắt nhân loại đến ơn cứu độ qua con đường đau khổ và tử nạn của Ngài.

Thư gửi tín hữu Do thái là một trong những bản văn Tân Ước giải thích rõ nhất tại sao cuộc tử nạn của Đức Ki tô có thể được xem như một hy lễ. Xét trên thực tại hữu hình, cuộc tử nạn của Đức Ki-tô không là một hy lễ, nhưng do kết quả của một sự xét xử sai lầm, hay, chính xác hơn, do sự thù hận quá độ; không có bàn thờ, không người dâng hiến, không sự thanh tẩy, không tế vật. Nhưng xét trên thực tại vô hình, cái chết này có giá trị của một hy lễ vì đây là hiến lễ tự nguyện, tự ý và tự thân, vì thế nó có một hiệu quả tinh thần: vả lại đã có một thân thể bị giết chết và máu đã hoàn toàn đổ ra.

Tuy nhiên, có một hy tế chỉ vì có tội lỗi của con người. Đây là bằng chứng bi thảm. Suốt bức thư của mình, tác giả chứng mình rằng con người hưởng được hy tế của Đức Ki-tô, dưới ba khía cạnh liên tục: thanh tẩy, thánh hóa, và hiệp nhất với Thiên Chúa. Như vậy trong lời “Xin vâng” của mầu nhiệm Nhập Thể hàm chứa rồi lời xin vâng của cuộc Khổ Nạn: “Xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22: 42).

TIN MỪNG (Lc 1: 39-45)

Trong sách Tin Mừng Lu-ca, chuyện tích Viếng Thăm tiếp liền sau chuyện tích Truyền Tin, như vậy, lời chào của sứ thần tiếp liền theo sau lời chào của bà Ê-li-sa-bét. Rất sớm các Ki-tô hữu đã liên kết hai lời chào này. Chúng ta gặp thấy chúng trong những bản văn thuộc thế kỷ thứ năm: “Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”. Đây sẽ là khởi điểm của kinh Kính Mừng.

  1. Đức Ma-ri-a vội vã lên đường

Lý do đầu tiên của việc “Đức Ma-ri-a vội vã lên đường” có thể nhằm kiểm chứng những lời sứ thần đã nói cho Mẹ biết rằng chị họ của Mẹ, tuy đã già rồi mà cũng đã được cưu mang một người con trai. Đây là một “dấu lạ” đã được ban cho Mẹ để nâng đỡ mặc khải làm xáo động cuộc đời của Mẹ và cho Mẹ hiểu rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể. Nhưng đây không là lý do chính yếu. Đức Ma-ri-a đã tin rồi; Mẹ đã không một mảy may nghi ngờ gì về sứ điệp của thiên sứ; sự vội vã của Mẹ là diễn tả niềm vui của Mẹ; Mẹ muốn đi chúc mừng người chị họ của Mẹ và chia vui với chị vì được làm mẹ như một thiên ân trong khi bà chị này không còn một chút hy vọng gì. Chắc chắn Đức Ma-ri-a cũng muốn giúp đỡ bà chị họ của mình “nay đã có thai được sáu tháng”. Quả thật, thánh ký viết ở cuối chuyện tích của mình: “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng”, nghĩa là cho đến khi con trẻ chào đời.

  1. Niềm vui thời Thiên Sai

Đức Ma-ri-a “vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét”. Vì là vai em nên Đức Ma-ri-a là người đầu tiên chào hỏi bà chị họ mình. Nhưng đột nhiên vai trò của hai chị em bị đảo ngược. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, bà Ê-li-sa-bét phát hiện bí mật của người em họ mình và thốt lên lời “Chúc Tụng”: “Em được chúc phúc hơn mọi người nữ!”. Đây là cách thức người Do thái diễn tả tuyệt đối mà chúng ta gặp thấy nhiều lần trong Cựu Ước (Tl 5: 24; Gđt 15: 10): Đức Ma-ri-a là người nữ tuyệt vời nhất bởi vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.

“Người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Danh hiệu “Chúa tôi” thường được dành riêng cho Đức Chúa, tuy nhiên cũng được gán cho Đấng Thiên Sai trong vài bản văn ngôn sứ. Chắc hẳn bà Ê-li-sa-bét không nghi ngờ gì về thần tính của Đấng Thiên Sai; nhưng chính xác hơn, các Ki-tô hữu tiên khởi sẽ dùng danh hiệu này cho Đức Ki-tô để tuyên xưng thần tính của Ngài. Danh xưng “Thân Mẫu Chúa tôi” chắc chắn là nền tảng cho tước hiệu đầu tiên mà Giáo Hội sau này dùng để tôn vinh Đức Ma-ri-a, “Theotokos”, Mẹ Thiên Chúa, cũng như hình thành nên phần thứ hai của kinh Kính Mừng: “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…”.

“Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đây là mối phúc đầu tiên của Tân Ước. Ân phúc này liên quan đến lòng tin của Đức Ma-ri-a đã được thể hiện ở nơi biến cố Truyền Tin qua tiếng xin vâng tròn đầy của Mẹ (Lc 1: 38).

Thánh Lu-ca quy tụ vào trong lời chúc tụng của bà Ê-li-sa-bét (1: 42-45) hai ân phúc của Đức Ma-ri-a: phúc được làm Mẹ Đấng Cứu Thế và phúc vì đã tin vào mọi lời Chúa phán. Chính hai ân phúc này mà thánh ký chủ ý tách rời ra ở 11: 27-28, ở đó một người phụ nữ giữa đám đông ca ngợi người mẹ của Đức Giê-su: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm” và Đức Giê-su đáp trả: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Ở nơi Đức Ma-ri-a hai ân phúc này trở thành một: ngay khi tin rằng mọi lời Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện, Đức Ma-ri-a trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế. Rõ ràng đức tin của Mẹ là điều kiện tất yếu nhất cho mọi lời Chúa phán được thực hiện.

  1. Bài ca “Ngợi Khen”(Mangificat)

Tất cả lời chào của bà Ê-li-sa-bét tràn đầy niềm vui thời Mê-si-a. Đức Ma-ri-a được công bố là có phúc; niềm hạnh phúc ở với bà Ê-li-sa-bét, đứa con trong bụng bà đã nhảy lên vui sướng. Sứ thần cũng đã nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng” và Đức Trinh Nữ xướng lên bài ca “Ngợi Khen” của mình. Đây là bài thánh ca thứ nhất trong bốn bài thánh ca trong Tin Mừng Thời Thơ Ấu theo thánh Lu-ca. Bài thánh ca này, mô phỏng bài thánh ca của bà An-na (1Sm 2: 1-10), gồm có ba phần:

– Phần thứ nhất (1: 46-50): Đức Ma-ri-a ngợi khen Thiên Chúa vì đã đoái thương ban cho Mẹ được làm Mẹ Đấng Mê-si-a, dù Mẹ chỉ là phận nữ tì hèn mọn, chẳng có công trạng gì.

– Phần thứ hai (1: 51-53): một sự đảo ngược cảnh sống và bậc thang giá trị vào thời Thiên Sai giữa những người thấp hèn, bị áp bức chà đạp và những kẻ quyền thế kiêu căng, tự cao tự đại.

– Phần kết (1: 54-55): Đức Ma-ri-a cảm tạ Thiên Chúa vì Người vẫn hằng trung tín với những gì Người đã hứa.

Thánh Lu-ca là thánh ký gợi lên rõ nét nhất niềm vui cứu độ được đem đến cho loài người qua biến cố Đấng Thiên Sai ngự đến. Ngoài ra, chuyện tích Viếng Thăm của thánh ký đem đến một lời chứng quý giá về tâm tình cảm tạ tri ân của người Ki-tô hữu tiên khởi đối với đức tính cao vời khôn sánh của “Thân Mẫu Chúa chúng ta”.

Về mục lục

.

GẶP GỠ: THÀNH SỰ TẠI NHÂN

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Gặp gỡ là cùng có mặt tại một không gian, là sự giáp mặt, tiếp xúc giữa những người thân quen hay cùng có một mối liên hệ nào đó. Vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng C này Giáo Hội khi dọn cho chúng ta bàn tiệc Lời Chúa, đặc biệt qua bài Tin Mừng, muốn giới thiệu hai cuộc gặp gỡ. Một là giữa hai chị em Isave và Maria và hai là giữa Thai Nhi Giêsu với bà Isave và Thai nhi Gioan Tẩy giả. Đã nói đến sự gặp gỡ thì hàm ý có những hiệu quả tốt đẹp phát sinh. Qua cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ cũng như hai thai nhi trên, hiệu quả tốt đẹp đã xảy ra. Bà Isave đầy ân sủng Thánh Thần, xác nhận sự diễm phúc của cô em Maria cũng như nói lên hồng ân mà trẻ bé Gioan Baotixita trong dạ của bà đang hưởng nhận. Chúng ta đừng quên cuộc gặp gỡ ấy cũng đem niềm vui cho cả nhà Giacaria, vì nay đã có người góp sức cho việc hạ sinh trẻ Gioan. Điều này được hé lộ khi Tin mừng tường thuật rằng Maria ở lại với gia đình Giacaria – Isave độ ba tháng mới trở về nhà mình (x. Lc 1,56).

“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng”. Câu đối của người xưa nhấn mạnh đến cái duyên, tức là phần số đã được trời sắp đặt, chuẩn bị, an bài từ trước, như là nguyên nhân chính làm nên sự gặp gỡ hay không gặp gỡ. Theo viễn kiến này, thì người ta cũng có thể nói như người xưa: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” hoặc như tác giả Thánh Vịnh: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126,1). Thế nhưng dưới cái nhìn của mạc khải thời Tân Ước, thì phải chăng chúng ta cũng có thể nói ngược lại: Mưu sự tại thiên. Thành sự tại nhân.

Mưu sự tại thiên: Thiên Chúa đã yêu thương, chọn gọi loài người từ ngàn xưa để ban cho con người hạnh phúc vĩnh cửu là thông phần sự sống với Người trong Con Một của Người là Đức Kitô. Thánh Phaolô đã trình bày ý định nhệm mầu này bằng bản thánh ca: “ …Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta trước khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người…(Ep 1,3-14).

Thánh ý của Thiên Chúa là ban cho thế gian chính Con Một dấu yêu, trong một thân xác cụ thể, làm dấu chỉ và làm phương thế cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã nói: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7).

Khi ban Người Con Một vào trần gian, Thiên Chúa muốn mạc khải cho biết nguồn gốc đích thực của mọi loài, cách riêng loài người chúng ta chính là Người, vị Thiên Chúa duy nhất đầy quyền năng đáng tôn thờ và cũng là người Cha đầy lòng thương xót đáng mến yêu trên hết mọi sự, đồng thời qua đó, mạc khải cho chúng ta biết mình là anh chị em với nhau, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ…(x.Mt 5,9; 43-48). Nói một cách không sợ sai lầm rằng chúng ta đã biết một trong những nội hàm của “mưu sự tại thiên” : Đó là Thiên Chúa muốn mọi người gặp gỡ Người để được hạnh phúc và gặp gỡ nhau để sống tình huynh đệ.

Thành sự tại nhân: Chúng ta vốn quen với câu nói của thánh giáo phụ Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Thánh giáo phụ vừa nói lên quyền năng cao cả của Thiên Chúa, vừa nói lên đường lối của Người, Đấng là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Thiên Chúa đã thương ban cho loài người, hình ảnh của Người, có lý trí và ý chí tự do. Đây là hệ lụy tất yêu của tình yêu. Tình yêu đòi hỏi có sự ý thức và tự nguyện. Có thể dễ bị hiểu lầm là kiêu ngạo khi đề cao vai trò của nhân loại. Thế nhưng đó là một cách thế hành động của Thiên Chúa. Dù rằng đầy quyền năng và không có sự gì là không thể, nhưng Thiên Chúa lại muốn có sự tự do cộng tác của con người trong việc thi ân, cứu độ con người.

Để chuẩn bị một dân tuyển lựa, Thiên Chúa không bắt ép, nhưng mời gọi Abraham, một người chăn nuôi súc vật đã khá cao niên lên đường (x.St 12,1-5). Để cho Ngôi Lời Nhập thể cứu đời, Thiên Chúa không ra chỉ thị mà lại ngỏ ý, đề nghị Maria, một thiếu nữ thôn dã cộng tác (x.Lc 1,26-38). Khi công khai rao giảng tin mừng Chúa Giêsu thường lặp đi lặp lại câu nói: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe!” (Mt 11,15).

Điều gì cần có nơi phía loài người để thánh ý Thiên Chúa được thành sự? Chúng ta có thể nhận ra đó là lòng thành và sự khiêm nhu trong một tâm hồn đầy lửa mến, khát khao sự thiện. Để cho thánh ý Thiên Chúa được thành hiện thực, nghĩa là có sự gặp gỡ thực sự giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau, thì phía con người không thể thiếu:

-Một sự hướng thiện trong tình mến: Biết bao cuộc họp mặt giữa người với người, giữa vị đại diện quốc gia này với quốc gia kia mà vẫn chưa trở thành sự gặp gỡ, nghĩa là chưa mang lại kết quả. Trong nhiều lý do rất có thể có lý do là một trong hai phía chưa thực sự có tình yêu thương nhau hoặc chưa thực sự hướng thiện, nghĩa là tìm kiếm điều tốt trong chân lý.

-Một tấm lòng thành đầy sự khiêm nhu: Khi sinh thời, cách riêng trong quảng đời rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã tiếp xúc rất nhiều người nhưng vẫn có đó không ít người chưa gặp gỡ Người mà trong số đó có nhiều người biệt phái, luật sĩ. Lý do chính yếu mà tin mừng tường thuật, đó là vì họ thiếu lòng thành và sự khiêm hạ. Họ là những người có tai mà không nghe, đúng hơn là không thèm nghe; có mắt mà không thấy, đúng hơn là không muốn thấy. Làm sao có sự gặp gỡ khi một phía cố tình bịt tai, che mắt?

Trở lại với hai bà mẹ đang mang thai, một trẻ, một già là Đức Maria và bà Isave. Tình yêu của của hai bà mẹ dành cho Thiên Chúa, cho con người thì đã quá rõ. Một người tuy như là bất hạnh trước người đời vì son sẻ mà vẫn kiên trung trong sự công chính trước mặt Thiên Chúa và không ai chê trách được điều gì (x.Lc 1,6), một người thì tràn trề ân sủng (x.Lc 1,28), và cả hai đều đầy ơn Thánh Thần (x.Lc 1,35; 41). Lòng thành và sự khiêm hạ của Maria đã rõ nét qua lời thưa xin vâng và lời ca Magnificat “ Chúa đã đoái thương phận hèn tớ nữ…”( x. Lc 1,48 ). Bà Isave đã nhìn nhận tất cả là ơn Chúa “khi Người đã thương cất nỗi hổ nhục bà phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25).

Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách để gặp gỡ con người, đồng thời giúp con người gặp gỡ nhau. Thế nhưng trong vấn đề này, chúng ta có thể nói rằng “mưu sự tại thiên mà thành sự tại nhân” vậy.

Về mục lục

.

ĐỨC MARIA: NGƯỜI MANG CHÚA ĐẾN

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Với Chúa Nhật IV Mùa Vọng, chúng ta đang tiến gần với biến cố Con Chúa giáng trần. Không khí giáng sinh đã bắt đầu lan tỏa khắp mọi nơi trong các xứ đạo, từ miền quê đến thành thị. Mọi người đang náo nức chuẩn bị trang trí hang đá, cây thông, đèn điện… để mừng Chúa giáng sinh. Tuy nhiên, việc chuẩn bị giáng sinh không được dừng lại ở những hình thức bên ngoài hay “trần tục hóa” lễ Giáng Sinh với việc tiêu xài thái quá, tiệc tùng, quà cáp… nhưng phải hướng về trọng tâm của Lễ Giáng Sinh là tôn thờ Con Thiên Chúa làm người. Để giúp mừng lễ Giáng Sinh ý nghĩa, Lời Chúa hôm nay tường thuật câu chuyện Đức Maria viếng thăm bà Êlisabét.

1- Đức Maria, người mang Chúa đến cho nhân loại

Thánh Luca cho biết sau biến cố Truyền Tin, Đức Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi, tới một thành thuộc chị tộc Giuđa, để thăm viếng bà Êlisabét. Đức Maria vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần (x. Lc 1,39-44). Một sự kiện xảy ra rất âm thầm và bình thường nhưng lại chứa đựng những điều vĩ đại ẩn dấu mà Thiên Chúa thực hiện qua hai nhân vật phụ nữ này. Đây là cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ và giữa hai người con. Cuộc gặp gỡ giữa giao ước cũ và giao ước mới.

Quả thế, hai người phụ nữ đang mang thai hai người con. Bà Êlisabét là biểu tượng cho dân Israel, dân riêng đang chờ Đấng Mêsia, còn Đức Maria là biểu tượng của dân Israel mới, người cưu mang Đấng Cứu Thế. Bà Êlisabét sinh hạ Gioan Tẩy Giả, còn Đức Maria sinh hạ Chúa Kitô. Người con của bà Êlisabét sẽ là người dọn đường cho Đấng Mêsia, còn Người Con của Đức Maria sẽ thực hiện những lời hứa. Vì thế, trong cuộc gặp gỡ này hai người mẹ tràn đầy niềm vui và hai người con cũng tràn đầy niềm vui. Bởi vì, họ đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần.

Qua cuộc viếng thăm này, chúng ta nhìn thấy Đức Maria chính là “nhà tạm di động và sống động” của Con Thiên Chúa. Việc Mẹ viếng thăm và mang Chúa đến cho gia đình ông Dacaria, nghĩa là Mẹ mang Chúa đến cho gia đình nhân loại. Đức Maria là người có Chúa Kitô và mang Chúa đến cho người khác. Mẹ là “nhà truyền giáo” đầu tiên trong lịch sử Kitô giáo.

2- Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa

Nói về Chúa Kitô mà không nói về Đức Maria, thì sẽ không biết rõ nguồn gốc nhân loại của Chúa Kitô. Cũng vậy, nói về Đức Maria mà không nói về Chúa Kitô thì sẽ không nhận ra nguồn gốc và sự cao trọng của Đức Maria. Biết rõ về Đức Maria sẽ giúp chúng ta biết rõ về Chúa Kitô hơn và ngược lại.

Quả vậy, khi đón tiếp Đức Maria, bà Êlisabét nhận ra rằng lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Maria và bà ca ngợi Đức Mẹ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,42-43).

Thành ngữ “Em được chúc phúc giữa mọi người phụ nữ” được dùng trong Cựu Ước thuộc thời Gioel (Tl 5,24) và sách Giuđitha (Gđt 13,18), để nói về hai người phụ nữ chiến binh đã cố gắng giải cứu Israel khỏi tay quân thù ngoại bang. Nhưng bây giờ, những lời này được áp dụng cho Đức Maria, một trinh nữ sẽ sinh Đấng Cứu Độ cho thế giới.

Như thế, việc Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ vì niềm vui (x. Lc 1,44) làm chúng ta nhớ lại việc Đavít nhảy mừng trước cửa Hòm Bia Giao Ước tiến vào Giêrusalem (x. 1 V 15,29). Hòm Bia có để Lề Luật (Torah), Mana và cái gậy của Aaron (x. Dt 9,4). Gioan nhảy mừng trước Đức Maria, Hòm Bia giao ước mới.

Mẹ là người phụ nữ được chúc phúc bởi vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm người cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Độ. Mẹ Maria là người tinh tuyền, thánh thiện, toàn mỹ và toàn thánh, xứng đáng là “nhà tạm thánh thiện” cho Con Thiên Chúa ngự. Nhờ Thánh Thần thúc đẩy, bà Êlisabét nhận ra Đức Maria là “Thân Mẫu Chúa tôi đến viếng thăm,” bởi vì Mẹ đang cưu mang trong lòng Con Đức Chúa Trời, và Mẹ sẽ sinh cho thế giới “nguồn ơn cứu độ.” Đây cũng là nền tảng cho niềm tin của Giáo Hội tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa – Theotokos, một tước vị cao cả, mà Giáo Hội định tín tại Công Đồng Êphêsô (431). Bởi đó, qua dòng lịch sử, Giáo Hội đã dành cho Đức Maria một sự biệt kính sau Ba Ngôi Thiên Chúa trong phụng vụ Kitô giáo.

3- Chứng nhân nền văn hóa gặp gỡ

Cuối cùng, cảnh thăm viếng này cũng diễn tả vẽ đẹp của lòng hiếu khách và nền văn hóa gặp gỡ: Đây có sự đón tiếp lẫn nhau, lắng nghe nhau, dành chỗ cho nhau, chia sẻ với nhau niềm vui có Chúa, cũng như phục vụ lẫn nhau.
Sống trong một xã hội con người ngày hôm nay đang trở nên xa lạ với nhau, bởi vì con người đang sống cách vô cảm, loại trừ và thù địch với nhau. Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi đó là hiện tượng “vô cảm toàn cầu hóa” trong đời sống chúng ta. Mỗi người Kitô hữu được mời gọi xây dựng nếp sống, văn hóa gặp gỡ và thăm viếng nhau. Bởi vì điều quan trọng trong cuộc sống không phải chúng ta có cái gì mà là chúng ta có Ai (hoặc ai) đó để sống với.

Khi có Chúa Kitô, Đức Maria đã vội vã tới thăm bà Êlisabét (Lc 1,39), chúng ta cũng hãy vội vã lên đường để mang Chúa đến cho người khác. Bắt chước Đức Maria, chúng ta hãy thăm viếng những người nghèo khổ, người bệnh tật, kẻ tù đày, người già và trẻ em cô đơn.

Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức rằng chính Chúa là Người đến viếng thăm chúng con trước. Xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa đến. Đặc biệt, xin cho chúng con biết noi gương Đức Trinh Nữ Maria mang Chúa đến cho những người xung quang bằng chính cuộc sống yêu thương và phục vụ. Amen!

Về mục lục

.

NGƯỜI THIỆN TÂM

Lm. Giuse Nguyễn

Thánh Phaolô đã xác quyết: “Tôi biết tôi tin vào ai”. Niềm tin đó dựa trên nền tảng căn bản là “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi ban Con Một của mình, để ai tin vào Ngài sẽ được cứu độ”. Tình yêu đó được biểu lộ ra bên ngoài chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được thể hiện bằng hành động cụ thể, đúng đắn thì không phải là tình yêu đích thực. Tương tự như lời của thánh Giacôbê: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”. Chỉ còn hơn một ngày nữa chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm tình yêu, mầu nhiệm giáng thế. Phụng vụ lời Chúa ngày giới thiệu cho chúng ta về nhân vật chính của mầu nhiệm này là Đức Giêsu Kitô. Tình yêu của Ngài được thể hiện cụ thể ngay khi nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: Mk 5, 1-4a

Tiên tri Mikha cho chúng ta biết một số nét về Đấng cứu thế. Ngài không xuất hiện ở Giêrusalem hay một thành phố lớn, mà ở một thị trấn nhỏ bé, khiêm nhường là Bêlem. Mặc dù một nơi quê mùa như vậy nhưng Đấng Cứu Thế lại có sứ mạng thống lãnh Israel. Chính Ngài sẽ đem đến hòa bình cho muôn dân. Nhờ sự xuất hiện của Ngài mà người ta được “vinh dự lây”, “vinh dự ké”, chứ không còn mặc cảm vì xứ sở quê mùa của mình nữa.

  1. Bài Đọc II: Dt 10, 5-10

Tác giả thư Do Thái thì hình dung Đấng cứu thế đó là một vị Thượng Tế, và chức Thượng Tế của Ngài trổi vượt hơn chức Thượng Tế trong cựu ước nhờ những việc sau đây: Lễ tế Ngài dâng không phải là chiên, bò để xá tội như trong cựu ước, mà là chính thân thể Ngài và việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Lễ tế ấy không cần dâng lên nhiều lần, mà chỉ dâng một lần là đủ.

  1. Tin Mừng: Lc 1, 39-45

Thánh Luca cố ý viết câu chuyện Đức Maria đi viếng bà Isave giống với câu chuyện Đavit mang Hòm Bia về Giêrusalem trong cựu ước, để muốn nói lên rằng Đức Maria là Hòm Bia của Tân ước. Trong cựu ước, Hòm Bia trên đường tiến về Giêrusalem đã ghé ngang nhà ông Ôbed 3 tháng. Còn hôm nay, Đức Maria cũng từ Nagiaret theo hướng Giêrusalem, ghé ngang nhà bà Isave 3 tháng. Đavit đã kêu lên rằng: “Làm sao Hòm Bia của Chúa ghé nhà tôi được?”. Isave cũng kêu lên rằng: “Làm sao mà Mẹ Chúa lại đến thăm tôi?”. Nhờ Hòm Bia ghé thăm mà ông Ôbed mà cả nhà của ông được Thiên Chúa chúc phúc. Đức Maria ghé thăm bà Isave làm cho bà và cả gia đình bà (kể cả hài nhi trong bụng) cũng được chúc phúc. Qua đó chúng ta thấy “Đức Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người”. Thiên Chúa đã hành động một cách cụ thể qua Đức Maria để đem đến tình thương cho nhân loại. Vì vậy chúng ta hãy hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.

Phúc lành của Thiên chúa làm cho Đức Trinh Nữ Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Phúc lành đó làm cho bà Isave hân hoan vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Phúc lành đó lan tỏa cả đến hài nhi trong bụng bà Isave cũng phải nhảy mừng. Nguồn gốc của những niềm vui ấy chính là sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế.

II. DẤU HIỆU TÂM HỒN THIỆN TÂM

Tuy nhiên, niềm vui ấy chỉ đến với những ai có “tâm hồn thiện tâm”, những ai đã tích cực dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

  1. Tâm hồn khiêm nhường:

Thiện tâm trước hết ở sự khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận của mình hèn yếu, nhỏ bé, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tự sức mình không thể làm gì được, mà tất cả những gì mình có đều do lòng thương xót của Chúa. Vì thế khi nhận được tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã nhìn nhận mình chỉ là nữ tì của Chúa. Bà Isave mặc dù vai vế lớn hơn Đức Maria nhưng đã tự hỏi: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi thế này?”. Và Đức Maria cũng đáp lại bằng một bài ca khiêm nhường, Magnificat.

Đức nguyên giáo hoàng Bênêđictô XVI đã từng nhắc nhở các Kitô hữu : “trở lại lịch sử đức tin của chúng ta được đánh dấu bằng mầu nhiệm đan xen giữa sự thánh thiện và tội lỗi”. Nghĩa là nhìn nhận một thực tại nơi bản thân con người là điệp khúc thánh thiện và tội lỗi đan xen với nhau và cột trụ của thực tại đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó con người không kiêu ngạo khi thánh thiện và không chán nản khi tội lỗi vì có Chúa sẽ phán xét và thương xót họ. Thái độ khiêm nhường đó dẫn chúng ta đến việc hoán cải mỗi ngày để trở nên tốt đẹp hơn. Kết quả bên ngoài là việc chúng ta thường xuyên đến với tòa giải tội, còn kết quả bên trong là chúng ta được đổi mới.

  1. Tâm hồn Bác ái

Dấu chỉ thứ hai là việc bác ái. Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có Thiên Chúa thì lửa yêu mến của Ngài khơi dậy nơi đó. Khi Thánh Thần rợp bóng trên Đức Maria, đồng thời với việc mang thai Đấng Cứu Thế, Mẹ cũng được đầy tràn lòng bác ái, đã nghĩ ngay đến bà chị họ của mình. Mẹ đã đi thăm bà chị họ để chia sẻ hai điều. Thứ nhất là giúp đỡ bà chị của mình mang thai trong lúc tuổi già ; nhưng quan trọng nhất là đến để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ mà chỉ hai người đàn bà này hiểu nhau mà thôi. Chắc chắn không thể có người thứ ba hiểu được niềm vui của họ.

Một trong những việc làm trong Năm Gia Đình 2019, “đồng hành cùng những gia đình gặp khó khăn” là một tấm lòng bác ái bằng nhiều hình thức khác nhau dành cho những gia đình đó. Tất cả những điều đó là sự thúc bách của niềm vui ơn cứu độ, muốn san sẻ mọi thứ với mọi người bằng mọi hình thức.

  1. Phục vụ

Lòng bác ái, sự khiêm nhường được kết tinh ở cao điểm là việc phục vụ. Đức Maria không nghĩ đến việc mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, mà đã lặn lội đường xá xa xôi cách trở để viếng thăm và giúp đỡ bà chị họ của mình. Việc phục vụ chỉ có kết quả khi người ta biết khiêm nhường và có một lòng bác ái thực sự. Cha mẹ đã quên mình và vì yêu thương nên đã làm mọi cách để lo lắng cho con cái. Mọi thành phần trong Giáo xứ đã quên mình và vì yêu mến Giáo hội nên đã cộng tác với nhau để dọn lễ Giáng Sinh… và sẽ còn những việc phục vụ khác khi người ta biết yêu thương và quên mình thực sự.

Tóm lại, phụng vụ lời Chúa của Chúa Nhật cuối cùng trong Mùa Vọng giới thiệu cho chúng ta rõ hơn về Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế đó xuất hiện sẽ đem đến niềm vui và hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên Đấng Cứu Thế đó chỉ ở nơi những tâm hồn thiện tâm, tức là những người khiêm nhường, bác ái và phục vụ theo gương của Đức Trinh Nữ Maria. Xin Chúa qua lời cầu bầu của Mẹ cho chúng ta học được guơng khiêm nhường, bác ái và phục vụ như Mẹ, để chúng ta cũng được niềm vui ơn cứu độ trong ngày Chúa Giáng Sinh sắp tới và trong suốt cuộc đời chúng ta.      

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG_C.

Lm. Antôn

Hôm nay là Chúa nhật thứ tư, Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng.  Chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa là chúng ta hân hoan đón mừng hồng ân lớn lao và một niềm vui đích thực vào trong tâm hồn. Niềm vui và hồng ân đó chính là mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người đem bình an và ơn cứu độ đến cho nhân loại. Phải nói là việc đón mừng hồng ân và niềm vui cao quí này tùy thuộc một phần lớn vào sự quyết định quan trọng của một người nữ vô danh, đơn sơ, đạo đức và khiêm nhường đã xảy ra cách đây hơn 2018 năm.  Người nữ ấy chính là Đức Maria, người đã cưu mang lời hứa và kế hoạch cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.  Chính trong khung cảnh ấy mà hôm nay chúng ta được mời gọi, trước hết, chú trọng vào đời sống của Đức Maria, và thứ hai, chiêm ngưỡng dung nhan Đức Maria như là một mẫu gương khiêm nhường, vâng phục đón nhận Lời Chúa, và sốt sắng tham gia vào kế hoạch của Chúa qua hai Mầu nhiệm Truyền tin và Thăm viếng trong kinh Mân côi.

Tin mừng thánh Luca hôm nay diễn tả mầu nhiệm Thăm viếng. Mấy ngày trước, khi đọc bài Tin mừng này, tôi đã tự hỏi: “Tại sao thánh Lu-ca lại kể cho chúng ta nghe câu truyện này?”  Hy vọng những điều tôi chia sẻ sẽ giúp mọi người hiểu biết Đức Maria và Chúa Giê-su hơn.  Chúng ta biết lúc đi thăm viếng bà Ê-li-za-bét, Đức Maria đang mang một niềm vui lớn lao và hồng ân cao quí trong tâm hồn.  Để đón nhận tin vui mừng và hồng ân trọng đại ấy và trong lúc đang cầu nguyện, trong mầu nhiệm Truyền tin, thiên thần Gabriel hiện đến hỏi Đức Maria có đồng ý trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế hay không?  Đức Maria đã trả lời bằng hai tiếng “Xin Vâng.”  Chúng ta tin một cách chắc chắn Đức Maria không bao giờ thưa “không” với Thiên Chúa điều gì.  Lúc đó thiên thần báo cho Đức Maria biết người chị họ, là bà Ê-li-za-bét, đã lớn tuổi nhưng đã có thai và nay đã được sáu tháng.  Sau đó, Tin mừng cho chúng ta biết Đức Maria đã vội vã lên đường để đi thăm giúp người chị họ.

Khi cầu nguyện bằng Kinh Mân côi, tôi thường suy niệm tự hỏi: “Tại sao Đức Maria, ngay sau khi được truyền tin, lại vội vã lên đường đi thăm, đi giúp người chị họ?” Ngày nay sự kiện nào xảy ra làm cho chúng ta vội vã lên đường?  Lúc đó, Đức Maria có thể tự nghĩ là mình cũng đang mang thai, cho nên phải giữ gìn sức khỏe, không cần phải vội vã lên đường đi thăm ai. Chúng ta hãy thử nghĩ một người đàn bà mang thai có bao giờ đi thăm ai không? Hiếm lắm! Hay Đức Maria lúc đó cũng có thể tự cao vì đang mang thai một người con sẽ được gọi là Đấng Tối Cao, sẽ nên cao trọng và kế vị triều đại của vua Đa vít. Hay tự coi mình là quan trọng không phải giúp đỡ người chị họ tuổi đã già.  Nhưng chúng ta thấy Đức Maria đã không nghĩ như vậy. Không có thái độ như thế. Vì yêu thương và quảng đại, Đức Maria đã vội vã lên đường đi thăm và giúp đỡ bà E-li-za-bét.  Nhưng tôi nghĩ rằng còn có một lý do quan trọng khác khiến Đức Maria vội vã lên đường, đó là, trong khi truyền tin, thiên thần còn báo cho Đức Maria biết: bà E-li-za-bét có thai là trong kế hoạch của Thiên Chúa, chứ không phải mang thai một cách bất đắc dĩ hay ngoài ý định.  Thiên thần cho Đức Maria biết: “Không có gì mà Thiên Chúa không làm được.”  Do đó, sự kiện Đức Maria vội vã lên đường là dấu chỉ sự sốt sắng vâng lời để cùng tham dự vào kế hoạch của Thiên Chúa, trở thành một mẫu gương của người môn đệ trung thành. Vì thế khi vào nhà bà E-li-za-bet đã thưa với Đức Maria: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện.”  Đây là lần thứ hai bà Ê-li-za-bet nói Đức Maria được chúc phúc.  Lần thứ nhất khi vào nhà gặp mặt, bà Ê-li-za-bét đã ca tụng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc!” Và để đáp trả, Đức Maria đã thốt lên cảm tạ ngợi khen Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa.”

Ngoài những sự kiện về Đức Maria, chúng ta thấy Tin mừng thánh Lu-ca còn cho chúng ta biết những điều lạ lùng về Chúa Giê-su. Trong mầu nhiệm Truyền tin, chúng ta biết Chúa Giê-su được thụ thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Bây giờ Chúa Giê-su mang Chúa Thánh Thần đến cho người khác. Bài Tin mừng cho chúng ta biết bà Ê-li-za-bét được đầy Chúa Thánh Thần và người con trong lòng bà cũng nhảy mừng qua cuộc thăm viếng của  Đức Maria và Chúa Giê-su. Chúa Giê-su xuống trần cũng đem Chúa Thánh Thần đến cho nhân loại chúng ta.

Ngoài ra còn có một sự kiện rất quan trọng về Chúa Giê-su được diễn tả trong câu hỏi của bà Ê-li-za-bét mà chúng ta cần chú ý, đó là: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?” Có nghĩa là cuộc thăm viếng của Đức Maria đã đem sự hiện diện của Chúa, sự an bình, vui mừng và hồng ân của Chúa, đến cho gia đình của bà Ê-li-za-bét.

Qua sự cầu nguyện, Đức Maria đã được Chúa ban tin vui mừng, và qua hai tiếng “Xin Vâng”,  Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng Đức Mẹ.  Đây chính là giây phút nhiệm mầu giao hòa giữa đất và trời, giữa Thiên Chúa với loài người, và hồng ân ơn cứu độ được ban xuống cho nhân loại. Nhờ Đức Maria mà Thiên Chúa đã đi vào lịch sử nhân loại một cách hiện hữu, đã trở nên Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta.” Lòng bác ái, thương yêu và sốt sắng trung thành với thánh ý Chúa đã thúc đẩy Đức Maria mau mắn lên đường, vượt qua những khó khăn, nguy hiểm đến thăm viếng và giúp đỡ người chị họ. Câu ca dao tục ngữ Việt Nam: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sống” thật chí lý! Nếu chúng ta có lòng bác ái, yêu thương, quảng đại, cũng như trung thành muốn thực hành Lời Chúa, và muốn chia sẻ ơn Chúa với người khác thúc đẩy, thì không có gì ngăn cản được, và chắc chắn Chúa sẽ ban sức mạnh.

Xin Đức Maria cầu bầu giúp chúng ta là những người con của Mẹ, vượt qua được những khó khăn hiểm trở trong cuộc sống, biết noi gương Mẹ, lắng nghe lời Chúa, và như Mẹ, biết thưa với Chúa hai tiếng “Xin Vâng”, sống theo thánh ý Chúa, sống bác ái và quảng đại với một niềm vui mừng, xác tín vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.  Để chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, hôm nay chúng ta cùng với bà Ê-li-za-bét tự hỏi và suy niệm: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?”

Về mục lục

.

 

 

LÊN ĐƯỜNG

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên 

Đối với người tín hữu, mỗi ngày sống là một cuộc lên đường đầy hứng khởi. Lên đường để theo Chúa và để đến với tha nhân. Người không lên đường sẽ luôn sống khép kín, giống như nước ao tù, thiếu sinh khí và không có niềm vui.

Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về cuộc lên đường của Đức Trinh nữ Maria. Liền sau khi được Sứ thần đến truyền tin, Mẹ đã nhiệt thành, vội vã lên đường đến thăm gia đình người chị họ là bà Elisabeth. Trước đó, Sứ thần Gabrien cho Đức Mẹ biết bà Elisabeth đã mang thai được sáu tháng. Đức Mẹ đi thăm người chị họ không phải để kiểm chứng xem lời Sứ thần có thật hay không, nhưng Mẹ đi thăm để loan báo cho mọi người biết Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu cho dân tộc Israen và cho thế giới. Mẹ cũng lên đường để chăm sóc bà Elisabeth trong những ngày chuẩn bị sinh con. Hình ảnh Đức Mẹ lên đường là mẫu mực cho các nhà truyền giáo và những ai thực thi bác ái.

“Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Bà Elisabeth đã thốt lên như vậy, vì bà thấy nơi người em họ của mình sự xác tín trọn vẹn. Chính tin vào Lời Chúa mà Đức Maria can đảm bước vào cuộc phiêu lưu, chấp nhận cộng tác với Chúa trong công trình nhập thể. Mẹ biết rằng việc cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa đi liền với biết bao hy sinh và đau khổ. Mẹ đã chấp nhận cuộc phiêu lưu ấy, không phải để tìm danh dự cá nhân, nhưng để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện, mang lại phần rỗi cho con người.
 
Cuộc gặp gỡ của hai người phụ nữ, cũng là cuộc gặp gỡ của hai thai nhi còn trong lòng mẹ. Niềm vui mừng của hai người mẹ, cũng là niềm hân hoan của hai người con. Nếu bà Elisabeth vui mừng vì được gặp Trinh nữ Maria, thì hài nhi Gioan Tẩy giả trong lòng bà hân hoan vì được gặp Đấng Cứu thể. Trước khi Đức Maria tâm sự những điều định nói, thì bà Elisabeth đã biết hết những điều kỳ diệu Chúa đã làm. Vì thế, Đức Maria đã vui mừng ca lên bài ca tạ ơn Magnificat. Mẹ vô cùng sung sướng hân hoan, như một vũ nữ tưng bừng tôn vinh Chúa với cả thân xác và tâm hồn.
 
Lên đường là chấp nhận rời bỏ những tiện nghi để chấp nhận mọi thiếu thốn, phiền toái. Lên đường còn là đến với người khác để sẻ chia với họ niềm vui nỗi buồn. Chúa Giêsu  đã vâng lời Chúa Cha và “lên đường” để đến trong thế gian. Người đến để thực thi ý Chúa Cha là canh tân vũ trụ và thiết lập mối tương quan mới giữa Thiên Chúa và con người. Người là Thiên Chúa cao sang đã mặc lấy thân phận loài người, sống như mọi người trần thế, chỉ ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa vĩnh cửu đã bước vào thời gian. Đấng vô hạn đã trở nên hữu hạn vì hạnh phúc của con người. Đấng mạnh mẽ quyền năng đã trở nên một trẻ thơ nơi hang đá máng cỏ. Lễ Giáng Sinh nhắc cho chúng ta sự dấn thân hy sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang hiến thân vì con người qua Bí tích Thánh Thể. Người vẫn hiện diện cách huyền nhiệm trong Giáo Hội, nơi các thừa tác viên và nơi mỗi tâm hồn tín hữu. Người đang mời gọi chúng ta, hãy noi gương Người mà tiếp tục lên đường loan báo ơn Cứu độ.
 
Mầu nhiệm Giáng Sinh là niềm vui cần được chia sẻ. Đây là niềm vui cho toàn thế giới. Người tín hữu khi mừng lễ Giáng Sinh được mời gọi lên đường để đem niềm vui  Giáng Sinh vào cuộc sống. Con Thiên Chúa đã đến trong trần thế, chính người sẽ đem lại hòa bình cho nhân loại. Đấng Cứu độ sẽ phát xuất từ Bêlem Epratha và từ đó trải rộng vương quyền tình yêu của Người khắp nơi trên trần thế (Bài đọc I). Người hiện diện giữa đời để chia sẻ phận người với chúng ta. Từ nay, trên con đường chúng ta bước đi mỗi ngày, có Chúa chia sẻ vui buồn và nâng đỡ, nhờ đó mà chúng ta tìm thấy hy vọng trong những lúc gian nan, tìm thấy sức mạnh trong những khi yếu đuối.
 
Chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy noi gương Đức Trinh nữ thành Nagiarét, mở rộng tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế. Cùng với Mẹ, chúng lên đường để nói với mọi người đang sống trong thời đại chúng ta rằng: NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI VÀ Ở CÙNG CHÚNG TA.

Về mục lục

.

NIỀM VUI TRONG THÁNH THẦN

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.

Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường.

Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Elizabeth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Maria đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.

Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái.

Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy, Ngài đã rợp bóng trên Đức Maria và lập tức Đức Maria được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Maria không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Maria vội vã lên đường ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra cho cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Maria đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.

Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình.

Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Maria còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yếu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Đức Giêsu và can đảm đứng dưới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.

Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ.

Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Maria không quản thân phận là Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Elizabeth. Đức Maria cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.

Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Thánh Gioan Baotixita còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo cho Giáo Hội và Nước Thiên Chúa.

Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, ta hãy noi gương Đức Maria, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Maria dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
  2. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth tràn đầy niềm vui?
  3. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?

Về mục lục

.

SỐNG TÌNH XÓT THƯƠNG

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Một lần ngồi chờ xe bên lề đường. Chợt nhìn thấy một bà cụ mù lòa ăn xin đi đến. Tôi nghe rõ nỗi cô đơn của tiếng gậy khua lóc cóc của sáng sớm tinh sương. Tôi nghe rõ sự mệt nhọc của tiếng hát ê a khi bà cụ mù lòa ăn xin đi ngang. Động lòng trắc ẩn tôi đặt tờ giấy bạc vào bàn tay run rẩy của bà, lòng tôi nhẹ bớt đi nỗi cảm thông thương mến. Nhưng điều lạ thường là tôi vẫn cứ nghe hoài tiếng gậy khua lóc cóc… như đòi hỏi tôi điều khó khăn hơn lòng thương hại bình thường, là phải sống nhiệt tình hơn, quảng đại hơn…

Xem ra cho người đói ăn chưa đủ mà con phải dấn thân để xóa đi cái đói, cái nghèo nơi tha nhân. Xem ra an ủi người thất vọng chưa đủ mà còn phải giúp họ đứng lên tự tin xây dựng lại cuộc đời. Xem ra nói lời yêu thương chưa đủ mà còn phải sống công bằng, bác ái, sẻ chia với nhau.

Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu con người biết động lòng trắc ẩn với nhau. Cuộc đời sẽ không còn người thất vọng bị bỏ rơi, bị loại ra khỏi xã hội nếu con người biết bao bọc và chia sẻ cho nhau. Đáng tiếc, cuộc sống quá tất bật bởi cơm áo gạo tiền khiến con người dễ lãng quên nhau, đôi khi cố tình bỏ rơi nhau. Cuộc đời vẫn còn đó tiếng khóc của tủi hờn cô đơn vì thiếu sự quan tâm nâng đỡ của anh em.

Thiên Chúa luôn động lòng trắc ẩn với con người. Lòng trắc ẩn đã thôi thúc Ngài tìm muôn ngàn cách để thể hiện tình yêu với con người. Lòng trắc ẩn của Chúa thể hiện qua cái nhìn xót xa khi Adam – Eva phạm tội. Lòng trắc ẩn ấy đã khiến Ngài hứa ban Đấng cứu độ để chuộc lại lỗi lầm của Adam. Lòng trắc ẩn ấy được tỏ bày một cách trọn vẹn khi Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng chúng ta. Chính Con Thiên Chúa khi làm người đã sống hết mình vì con người. Ngài đã tận hiến chính mình để cho nhân loại được sống dồi dào ơn phúc.

Ky-tô giáo là đạo yêu thương. Tình yêu thương không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu ấy luôn đòi hỏi phải làm điều gì đó cho tha nhân. Thấy anh em đói thì đâu cần chờ van xin! Thấy anh em té thì đâu cần chờ van nài! Thấy cảnh cùng khổ thì đâu có thể đứng nhìn một cách thương hại mà phải làm điều gì đó xoa dịu nỗi đau cho anh em.

Điều này Mẹ Maria đã sống và làm gương cho chúng ta. Mẹ đã vất vả vượt dặm đường xa để đến phục vụ chị họ mang thai trong lúc tuổi già. Mẹ còn lưu lại đó suốt 3 tháng âm thầm phục vụ. Mẹ đã sống tin mừng một cách cụ thể qua lòng thương xót với anh em. Chính lòng thương xót ấy mà Mẹ còn nài xin Chúa làm phép lạ hóa nước thành rượu cho tiệc cưới Cana trọn vẹn niềm vui.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vội vã lên đường đến giúp bà Êlidabét trong những ngày bà mang thai và chuẩn bị sinh nở. Xin giúp con mở rộng vòng tay và tấm lòng cho những người đang cần con giúp đỡ. Xin giúp con đừng bàng quan đứng nhìn sự khổ đau của tha nhân mà luôn hăng hái dấn thân để làm sáng danh Chúa qua việc phục vụ của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

GỠ BỎ RÀO CẢN ĐỂ BƯỚC ĐẾN VỚI ANH EM

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Vào cuối tháng 11/2015 vừa qua, Đức Thánh Cha đã có một chuyến công du thăm viếng ba quốc gia Châu Phi : Kenya, Uganda và Cộng hòa Trung Phi. Đây là một chuyến đi đầy khó khăn nguy hiểm, vì các quốc gia này thường được biết đến là những quốc gia nghèo đói nhất trên thế giới, nội chiến triền miên, nhất là sự đe doạ của các nhóm Hồi Giáo quá khích muốn nhắm vào chuyến công du này. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha đã không hề sợ hãi hoặc lo lắng cho tính mạng để đến các quốc gia này chỉ mấy ngày sau những cuộc khủng bố đẫm máu. Trong ngày Chúa Nhật 29/11, Đức Thánh Cha đã mở cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa tại nhà thờ chính toà Bangui của Trung Phi. Với hành động có tính biểu trưng này, Đức Thánh Cha kêu gọi mọi thành phần của quốc gia này hãy cùng nhau xây dựng bình an, hy vọng cho đất nước, cùng bước đến với nhau để bắt tay tha thứ, hoà giải với nhau. Ngài quả quyết rằng, Chúa Giêsu vì chạnh thương, Ngài đã chạm đến người bại liệt, cho anh đứng dậy, thì chúng ta cũng cần phải dùng tình yêu và lòng xót thương để giúp anh em mình đứng dậy khỏi sự bại liệt của thể xác và tinh thần, đứng dậy khỏi sự nghèo đói và thù hận để bước đi trên con đường yêu thương và phục vụ.

Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha như thổi một luồng sinh khí mới vào các quốc gia này, đem đến cho họ niềm vui và hy vọng, sức mạnh và niềm tin để họ cùng nhau khôi phục lại cuộc sống và đất nước, mở ra cho họ một tương lai hy vọng. Làn gió mới Đức Thánh Cha đem đến cho những quốc gia châu phi, phần nào cũng phản ánh làn gió mới tiên tri Mikha nói về Giêsrusalem trong ngày Chúa viếng thăm họ.

Mikha đã tiên báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế sẽ làm thay da đổi thịt cho Giêrusalem, Ngài sẽ cất đi mọi tủi hổ, nhục nhằn để ban lại cho Giêrusalem vinh quang và danh dự : Phần ngươi, hỡi Belem Ephata, ngươi nhỏ bé nhất trong chi tộc Duda, nhưng từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel. Với lời tiên báo này, vị tiên tri đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện. Hơn thế nữa, tiên tri Mikha còn nói rõ cách thức Đấng Cứu Thế xuất hiện : Ngài sẽ là con của một người phụ nữ. Điều này vượt quá mọi khả năng suy đoán và tưởng tượng của con người. Ngài chính là Đấng sẽ quy tụ Israel tản mác trở về, Ngài sẽ dùng quyền năng của Thiên Chúa mà chăn dắt Israel. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì chính Người sẽ đem lại hoà bình cho nhân loại.

Lời của tiên tri Mikha khắc hoạ lên một tương lai tươi sáng, đầy hy vọng cho Israel trong lúc họ đang rơi vào cảnh cùng cực ; đồng thời cũng cho thấy một Thiên Chúa xót thương dân Người. Ngài đã bước đến với con người không phải như những ông vua quyền thế, nhưng được sinh ra bởi một người phụ nữ như bất cứ một con người nào. Thư Do Thái nói rõ cho thấy, Đấng ấy chính là Đức Giêsu-Kitô. Khi bước vào trần gian, Ngài đã chọn con đường vâng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa Cha : Cha đã không ưa thích hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân xác. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa : Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thự thi ý Ngài. Ý của Thiên Chúa là nói cho mọi người biết Thiên Chúa là Cha và họ được Thiên Chúa yêu thương.

Thiên Chúa đã không ngại ngần bước đến với con người, không khinh chê con người yếu đuối, tội lỗi, Ngài đã mang lấy thân xác của con người ; không dửng dưng với con người, Ngài đã nhập cuộc với con người, cùng chung chia số phận của con người. Trong biến cố này, Đức Maria là người đã sẵn sàng gỡ bỏ mọi rào cản ngăn cách để cho Con Thiên Chúa bước vào cuộc đời Mẹ và bước vào thế giới qua cung lòng của Mẹ. Con Thiên Chúa đã đón nhận sự nuôi dưỡng, chăm sóc từ dòng máu và dòng sữa của Mẹ.

Đón nhận Thiên Chúa vào cung lòng của mình, Mẹ Maria đón nhận tình yêu thương, niềm vui và hạnh phúc của Thiên Chúa. Mẹ đã vượt qua sự mệt mỏi của một người phụ nữ lần đầu mang thai, để nhanh chóng lên đường đem Chúa đến cho gia đình Giacaria và Elizabét. Cuộc viếng thăm này không chỉ là cuộc viếng thăm của hai người phụ nữ, nhưng còn là cuộc viếng thăm của Thiên Chúa đến với dân Người. Cuộc viếng thăm này đã làm cho gia đình bà Elizabet ngập tràn niềm vui, tiếng cười và hạnh phúc.

Bà Elizabet hết sức bất ngờ trước cuộc viếng thăm, bà đã kêu lên : Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm, còn Gioan trong lòng bà thì nhảy lên sung sướng vì được gặp Đấng Cứu Thế. Bà Elizabet được đầy Chúa Thánh Thần để nhận ra sự cao trọng mà Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria và gọi người em của mình là Mẹ Thiên Chúa. Sứ điệp Đức Maria đem đến cho gia đình Giacaria chính là lòng tin và tâm tình tạ ơn về lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính bà Elizabet đã nói lên điều đó : Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Chúa đã nói với em và cả hai người cùng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Tình yêu ấy không phải là những lời lẽ suông, mà là hành động cụ thể. Thiên Chúa không đứng xa để nhìn con người, nhưng Ngài đã bước đến để cùng chia sẻ thân phận con người, để yêu thương và nâng con người chỗi dậy. Ngài gỡ bỏ tất cả những rào cản của các nghi lễ xưa để thiết lập nên một tương quan mới giữa con người với Thiên Chúa, qua cái chết của Ngài, chúng ta được nhận làm con Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã đi bước trước để đến với nhân loại, Ngài chấp nhật tất cả rủi ro và đau khổ của con người chỉ vì yêu thương và muốn thể hiện lòng xót thương của Ngài dành cho con người, thì chúng ta là những người được yêu thương, cần phải có những thái độ đáp trả tích cực. Hôm nay, Ngài cũng vẫn đang đến với mỗi người qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời của Chúa, qua Giáo Hội và Ngài đang chờ đợi sự đáp trả của chúng ta.

Hãy mạnh dạn gỡ bỏ những rào cản, những nghi ngại còn lại trong tâm hồn mỗi người. Những rào cản đó có thể là những thói quen xấu lâu ngày, là cái tôi quá lớn khiến cho con đường dành cho Chúa bị chật hẹp lại. Rào cản đó còn có thể là những nghi ngờ về lòng thương xót của Thiên Chúa, không dám phó thác cuộc đời của mình và gia đình mình cho Chúa. Rào cản còn là sự lười biếng, ù lỳ, khiến chúng ta phản ứng chậm chạp trước lời mời gọi, nhắc bảo của Thiên Chúa.

Cần phải gỡ bỏ các rào cản trong gia đình để cho Thiên Chúa bước vào. Thiên Chúa rất tế nhị, Ngài không thể bước vào nhà mỗi người, nếu chúng ta không mở cửa, không đón Ngài vào. Bởi vì nhiều người đã để cho gia đình mình lỉnh kỉnh, chật chội bởi sự khác biệt, bởi xung khắc, nóng nảy, chửi bới. Nhiều người khác đã lấy lý do bận rộn với công việc, với cuộc sống để từ chối Thiên Chúa, không đến với Chúa và cũng không muốn Chúa bước vào gia đình, sợ Chúa chạm đến các vấn đề của gia đình.

Chúng ta sẽ không thể tìm được niềm vui, sự bằng an cho tâm hồn và gia đình khi không có Chúa. Vì thế, muốn cho gia đình ngập tràn niềm vui và tiếng cười, muốn cho tâm hồn thanh thản và bình an, hãy mạnh dạn, thường xuyên đến với Chúa nơi Bí tích Giải Tội, vì chính nơi toà giải tội, chúng ta sẽ cảm nhận một cách sâu xa lòng thương xót của Thiên Chúa. Ở nơi đây, chúng ta sẽ được Chúa ôm vào lòng, được an ủi vỗ về và được chữa lành những vết thương tâm hồn của chúng ta. Đừng ngại ngần, cũng đường bao giờ hồ nghi lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa.

Để cho niềm vui được trọn vẹn, chúng ta còn cần phải gỡ bỏ những giới hạn, những rào cản, để mỗi người có thể bước đến với anh chị em, đặc biệt là những người nghèo, để đem niềm vui và lòng thương xót đến với họ. Trong cuộc sống có những nơi, có những gia đình và có những người chúng ta nghi kỵ, ngại ngùng không muốn bước đến. Có những người đã bị chúng ta đã xoá tên họ trong bộ nhớ, loại họ ra khỏi sự quan tâm và tình thương của mình, coi họ như không hiện hữu trên trần gian này. Hãy can đảm, chủ động bước đến với những người ấy, hãy đưa tay ra để gỡ bỏ những vướng mắc, để làm hoà, để nối lại tình yêu thương đối với họ.

Xin Chúa giúp mỗi người biết để cho Chúa giúp chúng ta gỡ bỏ vướng mắc trong cuộc sống, phá những rào cản của nghi kỵ để chúng ta có được một tâm hồn vui tươi và bình an đón Chúa đến trong dịp đại lễ Giáng Sinh sắp tới ; đồng thời, xin Chúa giúp chúng ta noi gương Đức Maria mau mắn lên đường, chủ động bước đến với anh chị em để đem lòng thương xót của Chúa đến cho họ. Amen.

Về mục lục

.

CHIA SẺ NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG

Văn Hào, SDB

Gần ngày lễ Giáng sinh người ta thường viết những cánh thiệp để gửi trao cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta chúc nhau một mùa Giáng sinh vui tươi và an lành. Lễ Chúa Giáng sinh là ngày lễ của hoan vui và niềm vui đó cần được chia sẻ. Hình ảnh Đức Maria đến thăm bà chị họ Elizabeth mà Giáo hội gợi lên trong phụng vụ hôm nay phác họa cho chúng ta khuôn mẫu này. Mẹ đã được Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng và nếm cảm niềm vui sâu xa khi thuộc trọn về Chúa. Sau đó Mẹ lại ‘hối hả lên đường’ để chia sẻ niềm vui ấy với bà chị họ. Niềm vui nơi những tâm hồn được Chúa chiếm ngự cần được sẻ chia.

Niềm vui của Tin mừng – Gaudium Evangelii

Đức Giêsu đi vào trần gian, là niềm vui Tin mừng lớn nhất được trao ban cho nhân loại. Mẹ là người đầu tiên đã nếm trải niềm vui đó. Vì vậy, vừa khi gặp mặt người thân, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi”. Niềm vui sâu tận Mẹ đã trải nghiệm phát xuất từ một tâm hồn để cho Thánh Thần tác động và sống theo sự chỉ dẫn của Thần Khí. Nói cách khác, sau lời thưa xin vâng, Mẹ đã thoát vượt mọi sợ hãi, hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa và đắc thủ được niềm vui của Tin mừng cách trọn vẹn khi mang chở Đấng Cứu thế trong cung lòng mình. Vì thế Giáo hội chọn đoạn thư Do thái trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) để quảng diễn ý tưởng này. Tác giả thư Do Thái nói về sự vâng phục của Đức Giêsu khi đi vào trần gian, và đó là nguyên mẫu cho thái độ khiêm tốn của Đức Maria, cũng như sự tuân phục nơi chúng ta. “Bấy giờ con thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 6). Đức Giêsu đã đến trần gian để công bố cho chúng ta Tin mừng của ơn cứu độ và Ngài cũng chính là Tin mừng được hiến ban cho nhân loại.

Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta về tâm điểm của Tin mừng, đó là rao giảng về niềm vui khi được Thiên Chúa thương xót ( x. số 34 – 36 ). Có lẽ Đức Thánh Cha cũng muốn mời gọi chúng ta học nơi thái độ nội tâm của Mẹ, bởi vì Đức Maria là người đầu tiên nếm cảm niềm vui của lòng thương xót này: “ Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài”. Mẹ đã sở đắc được niềm vui của Tin mừng là chính Đức Giêsu. Chìa khóa để có được niềm vui ấy là Mẹ đã biết khiêm tốn trải lòng mình ra để Thánh Thần phủ ngập và hoàn toàn quy thuận theo đường lối của Thiên Chúa.

Càng khiêm tốn, con người càng đạt đến sự toàn hảo. Kiêu căng, tự mãn sẽ nảy sinh ghen ghét và đố kỵ. Cha Thomas Merton đã định nghĩa: “ Hỏa ngục là nơi tập trung sự ghen ghét”. Nơi đó dành cho Luxiphe và bè lũ của nó vì nó đã kiêu căng chống lại Thiên Chúa. Ngược lại, Thiên Đàng đã bắt đầu khai mở nơi tâm hồn Đức Maria vì Mẹ đã hoàn toàn khiêm tốn ẩn náu dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa và nếm cảm lòng thương xót của Ngài.

Chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng

Niềm vui chân thật như một dòng chảy bất tận. Nó không thể bị quây kín và nhốt chặt lại. Niềm vui cần phải được chia sẻ và trao ban. Điều đó chúng ta thấy thật rõ nét nơi Đức Maria. Chúng ta đừng hời hợt xem việc Đức Maria đến thăm bà Elizabeth chỉ như một nghĩa cử thông thường theo tình cảm huyết nhục tự nhiên. Trước hết và trên hết, Mẹ đem Chúa Giêsu là căn nguyên niềm vui đến chung chia với mọi người. Thánh Luca không phải vô tình đã mở đầu trình thuật bằng câu: “Đức Maria hối hả, vội vã lên miền sơn cước”. Mẹ vội vã và háo hức muốn sẻ chia niềm vui ngập tràn nơi tâm hồn mình. Đó cũng là một hình ảnh tuyệt hảo để chúng ta suy nghiệm và thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng trong cuộc sống hôm nay. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu phải cảm thấu một cách sâu xa niềm vui như thế và Ngài cũng nhắc nhở Hội thánh phải ‘đi ra’ để làm lan tỏa niềm vui này (số 46-49). Ngài viết “ Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bấu víu vào sự an toàn của mình”. Cũng vậy Đức Maria đã can đảm và liều lĩnh ‘đi ra ngoài’, tiến lên miền núi để đến với người chị họ. Mẹ không ngại bị bầm dập vì đường xa cách trở, vì đồi núi cheo leo. Mẹ còn hối hả vội vã, như thể sợ tuột mất niềm vui muốn được sẻ chia. Những từ ngữ trong trình thuật của Thánh Luca mà chúng ta nghe hôm nay đều mang chở một tính cấp thiết và khẩn trương, vì việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng là một sứ mệnh khẩn thiết mà chúng ta phải thực thi mỗi ngày, theo gương Đức Maria.

Những ai sống ơn gọi thánh hiến, đều biết rằng thánh hiến và tông đồ luôn gắn kết chặt chẽ với nhau. Những ai thánh hiến trọn vẹn cho Chúa, tất sẽ làm bùng cháy ngọn lửa tông đồ nơi tâm hồn mình. Thánh hiến càng sâu xa, ngọn lửa tông đồ càng mạnh mẽ. Việc tông đồ không có nghĩa là phải giảng thật hay, phải phát động nhiều công việc từ thiện, phải khéo léo tổ chức những sinh hoạt xã hội đa dạng. Tất cả sẽ trở nên vô nghĩa nếu những công việc đó không xuất phát từ lòng mến, từ tâm hồn được thánh hiến và thuộc trọn về Chúa. Chúng ta nhớ lại lời dạy của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết “ Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và các thiên thần mà không có lòng mến, thì tôi cũng chỉ như thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, biết những điều bí mật và mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non mà không có đức mến, thì cũng chẳng là gì. Giả như tôi đem hết tài sản của tôi để bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có lòng mến, thì chẳng ích lợi gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3). Phải gắn kết mật thiết với Chúa chúng ta mới có thể thực hành việc tông đồ, vì Thiên Chúa chính là tình yêu, là ‘Đức Mến’ tuyệt đối để chúng ta quy hướng về.

Chúng ta hãy học nơi Đức Maria. Mẹ không ồn ào náo động, không tổ chức những cuộc lễ hoành tráng với cờ xí, kèn trống tưng bừng. Mẹ không mở lớp dạy giáo lý cách rầm rộ, không sinh hoạt trong các đoàn thể, cũng chẳng bao giờ đi làm công tác từ thiện để xóa đói giảm nghèo, bởi vì Mẹ chỉ là một cô thôn nữ bình dị, đơn sơ, cũng chẳng học thức hay tài cán cao sang. Nhưng Mẹ hoàn toàn để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Một việc làm xem ra rất bình thường Mẹ đã thực hiện mà không ai biết đến, là đi thăm người chị họ nơi miền núi cao, không kèn không trống và hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Nhưng chính Đức Maria đã trở thành nguyên mẫu cho chúng ta trong việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng đến cho mọi người.

Kết luận

Chân phước Philip Rinaldi đã nói: “ Thiên Chúa luôn khởi đầu những công trình vĩ đại từ những con người bé nhỏ và ngang qua những công việc rất khiêm hạ”. Điều đó rất đúng khi chúng ta chiêm ngắm dung mạo của Đức Maria được mô tả trong phụng vụ hôm nay. Một nhà tu đức đã nói: “ Chắp tay lại thì rất tốt, nhưng ngửa tay ra vẫn tốt hơn”. Mẹ Maria đã chắp tay lại để thưa lời xin vâng, và ngày hôm nay, Mẹ tiếp tục mở tay ra để đem niềm vui của Tin mừng đến cho người khác. Đó là hình mẫu cho chúng ta trong những ngày gần sát lễ Giáng sinh để chúng ta học nơi Ngài cách thái mừng đại lễ thật sốt sắng và ý nghĩa.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC TIN THÁC

Trầm Thiên Thu

Ngôn ngữ nào cũng có dạng chủ động và thụ động. Về thể thụ động, Việt ngữ rất độc đáo vì có thể diễn tả hai dạng – tích cực hoặc tiêu cực. Điều gì tốt thì nói là “được”, điều gì xấu thì nói là “bị”. Ví dụ: được thưởng hoặc bị phạt, được khen hoặc bị chê,… chứ không ai nói ngược lại (bị thưởng, bị khen; được phạt, được chê). Ngoại ngữ không thể diễn tả rõ nét “thụ động” như Việt ngữ.

Trong đời thường, ai biết tindám tin là người can đảm, không ảo tưởng, đặc biệt là vấn đề đức tin. Đó là một dạng hạnh phúc mà người đời khó hiểu hoặc không thể hiểu nổi, thậm chí còn bị coi là ngu xuẩn. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng nhẹ dạ cả tin vào bất cứ phàm nhân nào mà hãy vững tin vào Ngài: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”.

Đức tin trừu tượng mà cụ thể: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Thánh Don Bosco nói rằng “chính đức tin hoàn thành tất cả mọi sự”. Vâng, đức tin rất quan trọng. Thánh tiến sĩ Thomas Aquino lý luận: “Công hiệu của năng lực cầu nguyện đến từ đức ái, nhưng năng lực để cầu nguyện cho được hiệu quả là do đức tin và đức cậy”. Còn Thánh tiến sĩ Teresa Avila kết luận: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra”.

Ngày xưa, phát ngôn viên Mi-kha đã tin tưởng công bố lời của Thiên Chúa: “Hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa. Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en” (Mk 5:1-2). Thiên tài và nhân tài có thể xuất thân từ một nơi không vị vọng, bình thường. Đừng tưởng nhân tài là con nhà giàu, con cha cháu ông, hoặc ở nơi đô hội. Không, thậm chí còn ngược lại. Xưa nay đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Tài năng có thể lóe lên bất cứ lúc nào hoặc bất cứ nơi nào. Hiển nhiên nhất là từ Bê-lem, nơi có thể coi là “khỉ ho, cò gáy”, vậy mà lại là nơi xuất hiện Đấng Cứu Thế.

Đấng đó là người như thế nào? Ngôn sứ Mi-kha cho biết: “Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất” (Mk 5:3-5). Vô cùng kỳ diệu, quá đỗi lạ lùng!

Danh Ngài vượt trên mọi danh hiệu, đến nỗi khi nghe đến Tôn Danh Ngài, mọi loài đều nể phục, ngay cả ma quỷ cũng phải khiếp run. Những người tin vào Tôn Danh Ngài thì chân thành cầu nguyện: “Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en, Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giuse như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe! Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá, xin giãi sáng hiển linh cho dòng dõi Ép-ra-im, Ben-gia-min và Mơ-na-se được thấy. Xin khơi dậy uy dũng của Ngài, đến cùng chúng con và thương cứu độ” (Tv 80:2-3). Ngài đã đến, đang đến, và sẽ đến, đến để giao hòa đất với trời, đến để cứu nhân độ thế.

Không chỉ trong Mùa Vọng, mà suốt cả cuộc đời này, chúng ta luôn ngưỡng vọng và khẩn khoản nài xin Ngài ghé mắt thương xót – đặc biệt là trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này (từ 8-12-2015 tới 20-11-2016): “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh” (Tv 80:15-16).

Xin sẽ được, tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở (Mt 7:7; Lc 11:9), Chúa Giêsu đã hứa chắc như vậy. Vấn đề còn lại là chúng ta phải kiên trì mà tin tưởng khẩn cầu, đồng thời phải quyết tâm thành tín với Thiên Chúa: “Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu là con người được Chúa ban sức mạnh. Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài” (Tv 80:18-19).

Thiên Chúa là Thánh Phụ giàu lòng thương xót, thích tha thứ chứ không muốn trừng phạt. Nếu bị phạt là tại người đó cố chấp mà thôi. Lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của cả thế gian này kia mà, thế thì chẳng có tôi gì mà Ngài không tha, điều kiện đơn giản là “chân thành sám hối”. Chỉ cần một lời van xin là Ngài tha tất tần tật. Bằng chứng là trên Đồi Can-vê, ngay trong cơn hấp hối, Chúa Giêsu đã tha thứ mọi tội lỗi cho gã Dismas – một tướng cướp “khét tiếng” nhưng chợt hóa “tốt lành” (Lc 23:43). Cả đời anh ta cướp bóc, coi trời bằng vung, cuối cùng gã Dismas “cướp” được cả Lòng Chúa Thương Xót và “cướp” luôn cả Nước Trời. Anh ta thực sự khôn ngoan vì biết tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót. Tình Chúa bao la, vô biên và kỳ diệu là thế đấy. Nếu Thiên Chúa chấp tội, không một phàm nhân nào được cứu độ. Vì thế, đừng bao giờ mất niềm tin vào Lòng Chúa Thương Xót!

Thánh Phaolô phân tích: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:5-7). Thiên Chúa có mọi sự, Ngài không cần gì cả, Ngài chỉ muốn chúng ta “xin vâng” trong mọi sự – vui hoặc buồn, sướng hoặc khổ, vừa ý hoặc trái ý – để “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thế thôi!

Thánh Phaolô giải thích chi tiết: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũthiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10).

Chúa Giêsu luôn thể hiện phong cách “khác người”, luôn sống “ngược đời”, nhưng luôn rạch ròi: Tỉnh Táo, Thật Thà, Thẳng Thắn. Người ta không đủ hiểu Ngài nên đôi khi bị “sốc”, khó chấp nhận. Các tư tế, kinh sư, thông luật, nhóm Sa-đốc và Pha-ri-sêu đều là những hạng người như vậy. Còn chúng ta thì sao? Khó nói hay không dám trả lời?

Trình thuật Lc 1:39-45 ngắn gọn, nhấn mạnh đến lòng tin của Đức Maria. Điều đó cho chúng ta biết chắc rằng lòng tin (tín thác) là niềm hạnh phúc lớn lao và cần thiết. Thật vậy, Chúa Giêsu đã có lần xác định với Tông Đồ Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).

Thánh sử Luca cho biết: Hồi ấy, sau khi được Sứ Thần Gáp-ri-en truyền tin và báo tin người chị cũng vừa thụ thai cách lạ lùng, Cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Cô vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Cô Em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã TIN rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).

Đức Maria mau mắn trong mọi trường hợp và thể hiện rõ nét qua trạng từ “vội vã”. Đức Maria NGHE Thiên Sứ nói và TIN ngay, và rồi ĐI ngay. Không đắn đo, không tính toán, dù đường sá xa xôi, thời đó khó đi chứ không như ngày nay. Đức Maria đi thăm Người Chị không chỉ để chia vui mà chính là để giúp đỡ Người Chị, vì cùng là phận nữ nhi, Đức Maria biết các thai phụ gặp nhiều khó khăn, cực nhọc đủ thứ, rất cần người khác giúp đỡ trong thai kỳ, nhất là những ngày cuối thai kỳ.

Hài Nhi Gioan “gặp” Thánh Nhi Giêsu qua bụng mẹ mà vẫn không thể trì hoãn niềm hạnh phúc, thế nên Hài Nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Chị Êlisabét, mẹ của Cậu Bé Gioan, cũng không thể không bày tỏ niềm hạnh phúc ngay khi vừa gặp mặt Cô Em, vì Cô Em vừa trở nên Mẹ của Thiên Chúa. Hạnh phúc vô cùng lớn lao!

Chị Êlisabét thật diễm phúc vì được làm Mẹ của “người mở đường” cho Đấng Cứu Thế, và được coi là “người cao trọng hơn mọi người đã lọt lòng mẹ” (Mt 11:11; Lc 7:28). Nhưng Cô Em Maria còn diễm phúc hơn vì được làm Mẹ của Thiên Vương Kitô, Đấng đem bình an và công lý đến cho nhân loại. Đức Maria diễm phúc vì có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, nhờ tín thác tuyệt đối mà Đức Maria mau mắn và sẵn sàng xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa quan phòng và tiền định.

Lạy Thiên Chúa, thật hạnh phúc và vui mừng biết bao vì Đấng Thiên Sai sắp sửa đến giải thoát nhân loại khỏi ách tội lỗi, khỏi vòng kim cô của ma quỷ, đồng thời chia sẻ thân phận con người với chúng con, dạy chúng con cách thực thi lòng thương xót và biết đường lên Trời. Xin giúp chúng con biết thương xót như Chúa Cha nhân từ, dám sống “khác người” và chia sẻ mọi sự với tha nhân. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa giúp chúng con biết tuân phục và tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM VUI VIẾNG THĂM

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng cho chúng ta chân dung của hai người phụ nữ diễm phúc: Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế và Êlidabet, mẹ Gioan Tiền Hô.

Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ chứa chan niềm vui. Bà Êlidabet vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương; Mẹ nhìn thấy ơn cứu độ mà cả dân tộc của Mẹ mong chờ, niềm vui được tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, niềm vui có Đức Giêsu ở cùng; Để có được niềm vui này, Mẹ đã có một niềm tin tuyệt đối vào lời hứa ơn cứu độ của Thiên Chúa đối với dân tộc Mẹ. Thánh Gioan Baotixita vui mừng “hoan ca” trong lòng mẹ.

Những niềm vui ấy hoà chung làm thành một lễ hội hân hoan tạ ơn Thiên Chúa. Những niềm vui ấy là do ơn Chúa Thánh Thần ban tặng.

Suy niệm về cuộc gặp gỡ kỳ diệu của hai bà mẹ cho chúng ta những bài học bổ ích.

Đức Maria đi thăm người chị họ Êlidabet. Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Mẹ yêu thương nên vẫn lên đường viếng thăm vì yêu thương. Chính tình thương đã thúc đẩy bước chân Mẹ. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo từ xa xưa.

  1. Cuộc viếng thăm lịch sử.

Đây là cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang cũng là giữa hai giao ước cũ và mới.
– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Êlidabet được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.

– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng Êlidabet nhảy mừng vui sướng.

– Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.

  1. Cuộc viếng thăm tình yêu.

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động thì không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.

Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo khổ, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.

  1. Niềm vui thăm viếng

Khi đến thăm bà Êlidabet, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlidabet vui mừng mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlidabet được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Êlidabet là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.

Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần.

Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Êlidabet đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con Yêu Dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn 2000 năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.

Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.

Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.

Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.

Đức Maria viếng thăm phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Êlidabet. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của người tín hữu.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.

Về mục lục

.

MẸ MARIA – NHÀ THỪA SAI ĐẶC BIỆT

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong những ngày này, niềm vui chuẩn bị mừng đại lễ Giáng Sinh đang tràn ngập trên thế giới. Niềm vui ấy vượt ra khỏi không gian và thời gian. Vượt lên trên những khoảng cách tôn giáo, tín ngưỡng, giai cấp, thành thị hay thôn quê.

Nhiều người cũng không ngừng trao tặng cho nhau những quà tặng, cánh thiệp, để biểu lộ niềm vui!

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tường thuật việc Đức Maria lên đường thăm viếng bà Êlisabeth. Đây là một cuộc thăm viếng mang tính sứ vụ: Đức Maria tràn ngập niềm vui, bởi vì ngay tại cung lòng của Mẹ, một Đấng Cứu Độ mà toàn dân mong chờ đang ở đó.

Niềm vui ấy dẫn Mẹ đến thái độ tôn thờ, yêu mến. Tuy  nhiên, không thể chỉ giữ lại niềm vui ấy cho riêng mình, nhưng Mẹ đã ra đi và đem niềm vui đó chia sẻ cho người khác.

Khi lên đường đến thăm chị họ của mình là bà Elizabeth, Mẹ không chỉ đến chia sẻ niềm vui bằng lời nói xã giao, mà bằng chính nội dung Tin Mừng, đó là mang Chúa Giêsu đến cho chị của mình.

Để thực hiện được điều đó, Mẹ đã chấp nhận gian khổ, hy sinh, băng rừng vượt núi, đến thăm bà chị họ của mình: “Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabeth”; Mẹ đã ra đi, chấp nhận gian khổ vì tình yêu, vì tinh thần phục vụ, vì thế, Mẹ sẵn lòng: “Ở lại với bà Êlisabeth độ ba tháng” để phục vụ người chị đã cao niên. Đây quả là một hình ảnh đẹp của người thừa sai. Mẹ xứng đáng được gọi là người có phúc! (x. Lc 1, 43).

Hình ảnh Đức Maria viếng thăm bà Elizabeth còn diễn tả thật rõ nét hình ảnh Hòm Bia Thiên Chúa trong Cựu Ước.

Nếu xưa kia, Hòm Bia Thiên Chúa ngự lại 3 tháng tại nhà ông Ôveđ Êđom, thì giờ đây, ngay tại cung lòng Mẹ Maria, Mẹ cũng đang mang trong mình Hòm Bia Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, và Mẹ cũng lưu lại 3 tháng tại nhà bà Elizabeth.

Nếu xưa kia, khi Hòm Bia Thiên Chúa lưu lại tại nhà ông Ôveđ Êđom và đã ban cho gia đình ông nhiều ơn phúc, thì giờ đây, Mẹ Maria cũng mang tin vui và bình an của Chúa đến cho gia đình ông Dacaria rất nhiều. Việc trẻ Gioan nhảy mừng nơi cung lòng bà Elizabeth đã chứng minh điều đó. Trong tâm hồn Mẹ có Chúa, và Mẹ đã không muốn giữ Chúa lại cho riêng mình. Mẹ đã chia sẻ niềm vui ấy với người khác. Chấp nhận gian khổ, hy sinh vì tinh thần phục vụ.

Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria: khi đã có Chúa trong tâm hồn, thì hãy mau mắn lên đường đem Chúa đến cho người khác. Hãy loan báo Tin Mừng, mang tin bình an, tin hy vọng, tin hạnh phúc đến với mọi người, dẫu có gặp những trở ngại chông gai.

Mong thay, trong những ngày cận kề đón mừng Ngôi Hai Giáng Sinh, chúng ta hãy gạt bỏ những rào cản như: hận thù, chia rẽ, kiêu ngạo, ghét ghen, dối gian, bất an, hầu cho tâm hồn được thanh thoát, thánh thiện và trong sạch để xứng đáng đón Chúa ngự đến. Đồng thời, noi gương Mẹ Maria, khi tâm hồn đã có Chúa, chúng ta sẵn sàng vượt qua mọi gian khó hiểm nguy và lên đường đem Chúa đến cho người khác.

Khi ta làm được như thế, Chúa Hài Nhi sẽ lớn lên trong tâm hồn chúng ta qua những cử chỉ yêu thương và phục vụ hằng ngày.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con sắp rước Chúa ngự vào trong tâm hồn chúng con qua Bí tích Thánh Thể, xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng được Chúa ngự đến như xưa Chúa đã ngự xuống trong cung lòng Mẹ Maria. Xin cho chúng con luôn biết mang Chúa đến cho người khác và sẵn sàng hy sinh phục vụ vì hạnh phúc của tha nhân, hầu cho mọi người cảm nhận được niềm vui, bình an và hạnh phúc khi có Chúa ở cùng và sống với họ. Lạy Đấng “Emmanuel”, xin ngự đến. Amen.

Về mục lục

.

CHÂN TƯỚNG ĐỨC GIÊSU KITÔ

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Sách tiên tri Mikha nhắc đến Bêlem vì nơi đây sẽ sinh Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc người có từ nguyên thủy tự muôn đời. Tin Mừng Luca cho thấy bà Isave khi được Đức Maria đến thăm đã thốt lên: “bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm”. Những lời trên liệu có thể áp dụng cho Đức Giêsu, và có giúp người ta hiểu Đức Giêsu là ai không?

  1. Đức Giêsu là Giêsu Nazarét, con ông Giuse, con bà Maria

Với những người ở Bêlem, thánh Giuse và Đức Maria là những người bình thường như bao người nhà quê nghèo khác. Chính vì thế, họ không đối xử với Đức Maria và thánh Giuse một cách đặc biệt: hai ngài đã phải ra chuồng chiên cừu trú ngụ qua đêm. Đức Giêsu đã được sinh ra trong chuồng chiên cừu. Với họ, chả có gì đặc biệt khi cặp vợ chồng nghèo Giuse Maria trở về quê và không có chỗ trú ngụ.

Không biết đêm hôm ấy, đêm Đức Giêsu được sinh ra, trời có sáng hơn mọi đêm không? Có ai trằn trọc mất ngủ vì một lý do “không biết” nào không? Hay tất cả vẫn cứ bình thường, vẫn là một ngày như mọi ngày? Biến cố Đức Giêsu được giáng sinh, có lẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với Đức Maria và thánh Giuse, và sau đó đối với một số mục đồng đã tin lời sứ thần; còn với tất cả những người khác, có lẽ tất cả đã như thường.

Khi Đức Giêsu đi rao giảng, và đã làm được một số điều đặc biệt, người ta cũng vẫn xác nhận Ngài là “Giêsu con bà Maria” (Mc.6, 3), “Giêsu con ông Giuse” (Lc.4, 22). Các người bị thần ô uế ám thì gọi Ngài bằng “Giêsu Nazarét” (Lc.4, 34). Với các tông đồ và những chị phụ nữ hôm biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, Ngài cũng chỉ là một người công chính bị nạn! Với những biệt phái tư tế kinh sư, Ngài cũng chỉ là một đối thủ cần loại trừ, và họ đã thành công ở biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá. Với những người không là Kitô hữu hiện nay, có lẽ Đức Giêsu cũng chỉ là con người đặc biệt hơn một người bình thường chút xíu; nhưng cũng chỉ là vậy, Ngài cũng chỉ là một người như bao người khác.

    2. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể

“Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi tới viếng thăm!” (Lc.1, 43). Từ ngữ “thân mẫu Chúa tôi”, theo bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh, khác với từ ngữ “Mẹ Thiên Chúa” như trong sách bài đọc dịch. “Anh em gọi Thầy là Thầy là Chúa là đúng rồi… vậy nếu Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 13-14). Từ ngữ “Chúa” ở đây có thể chỉ đơn thuần được hiểu như một người làm chủ, người đứng đầu (Thiên Chủ, Thiên Chúa).

Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha; nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” (Nicea năm 325); và nhờ đó hiểu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Ephêsô năm 431). Đi với khẳng định này công đồng Nicea đã kết án “hạ phục thuyết” của Arius chủ trương rằng Đức Giêsu thấp kém hơn Thiên Chúa.

Kitô hữu hiểu Đức Giêsu là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, nhưng vẫn tin “chỉ có một Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Cái khác nhau là ba ngôi vị. Kitô hữu cố gắng tránh hiểu ba ngôi như là ba Thiên Chúa. Nơi con người, ba người (ngôi vị) khác nhau nhưng vẫn cùng một bản tính người; còn nơi Thiên Chúa, ba ngôi không phải là ba Thiên Chúa nhưng chỉ là một Thiên Chúa.

     3. Đức Giêsu là ai?

“Người ta bảo Con Người là ai?… Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt.16, 13) Thánh Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Cả với câu này, người ta vẫn giải thích chữ Đức Kitô theo nghĩa rất bình thường: Môsê, Đavít, Kyrô … cũng đều là đức Kitô cả. “Con Thiên Chúa” cũng có thể được hiểu theo nghĩa rất bình thường: các thiên thần, các người công chính,… cũng có thể được gọi là con Thiên Chúa. Chỉ với câu này, người ta không buộc phải hiểu Đức Giêsu là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Khi người ta hiểu Đức Giêsu nhận mình là Con đồng bản tính với Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, thì Ngài phải chết vì đó là tội vô cùng lớn: phạm thượng: là người mà cho mình là Thiên Chúa (Ga.10, 33).

Nhờ những đối kháng dẫn Đức Giêsu tới cái chết, người ta mới hiểu rằng Đức Giêsu ý thức mình là Thiên Chúa, và người ta cũng hiểu Ngài khẳng định như vậy, nên người ta có đủ lý do để kết án Ngài mà không cần phải “cáo gian” nữa! “Máu nó sẽ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25); nếu không ý thức rõ tội của Đức Giêsu, thì người Do Thái không dám nói những lời như thế.  “Chúng tôi có luật, mà chiếu theo luật thì nó phải chết, vì nó là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19, 7). Từ ngữ “Con Thiên Chúa” ở đây phải được hiểu là Con “đồng bản tính” vì nếu không, đâu có đủ lý do để kết án tử hình Đức Giêsu. Nếu một người công chính được gọi là con Thiên Chúa, thì tội của Đức Giêsu đâu có là gì mà phải kết án tử hình Ngài.

Đức Giêsu là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa, Đấng “ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62). Người Do Thái kết án tử hình Đức Giêsu thật là chính đáng, vì Đức Giêsu đã nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa. Nhờ lời của Đức Giêsu, và nhờ án tử hình được công nghị Do Thái tuyên cho Đức Giêsu, giúp Kitô hữu thấy rõ chân tướng của Đức Giêsu. Ngài là Thiên Chúa, là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài đúng là Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Khẳng định của các công đồng Nicea và Êphêsô đã phản ánh đúng đắn niềm tin của Kitô hữu sơ khai, cũng như phản ánh đúng ý thức của Đức Giêsu về chính Ngài.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Sứ điệp Đức Giêsu mang lại cho thế gian trong ngày lễ Giáng Sinh là gì?
  2. Có sự liên hệ nào đó giữa sự bình an trong tâm hồn con người, sự an bình của xã hội và nền hòa bình trên thế giới không?
  3. Chỉ dựa vào Kinh Thánh, bạn có thể “chứng minh” Đức Giêsu là Thiên Chúa không?

Về mục lục

.

LÝ DO NÀO ĐỂ NHẢY MỪNG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Ai cũng biết lễ Giáng Sinh là lễ của vui tươi, của rạng rỡ! Đã từ lâu, nhất là trong xã hội phương tây, Giáng Sinh là lễ hội của các lễ hội; nếu nói theo cách người Việt thì là Tết của các ngày tết. Chẳng thế mà ngay cả trong những xã hội vô thần không thiết gì tới việc Thiên Chúa giáng trần, thế mà người ta vẫn cứ trang hoàng mua sắm và ăn mừng. Chắc chắn là chúng ta sẽ, cùng với toàn thể nhân loại hòa mình vào niềm vui chung đó với mọi người, điều đó là thật dễ hiểu, tuy nhiên với tư cách là Ki-tô hữu, chúng ta thuộc số ít những người hiểu biết tường tận nguồn gốc và lý do của niềm vui đó. Nguồn vui có xuất xứ từ việc: một Hài Nhi nhỏ bé, một con người cụ thể đã giáng trần. Và khi Hài Nhi – Con Người đó tới thì đã đem lại niềm vui cho toàn thể nhân loại, và làm cho mọi người đều nhảy mừng. Nhưng ‘biết’ thế thôi thì chưa đủ! Câu hỏi được đặt ra là, có thật tôi và bạn, sau khi ‘biết’ Hài Nhi đến viếng thăm mình, chúng ta có thực sự muốn nhảy mừng như Gio-an ngay từ trong dạ mẹ hay không? “bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy mừng lên”.

Bên Mongolia dân chúng theo một thứ tôn giáo tự nhiên của nhóm người du mục Trung Á gọi là đạo Shaman. Trong tôn giáo đó, tương tự như Cựu Ước, thầy Sha-man đóng vai ngôn sứ sẽ chỉ cho dân biết các nơi thần thánh ngự trị, và sẽ dạy cho dân biết cách làm cho các ngài nguôi cơn thịnh nộ, không ra tay vật chết hay làm hại được mình. Mỗi khi tới gần nơi các ngài ngự – thường là một tảng đá hay một gốc cây cổ thụ nào đó, mọi người đều phải kính cẩn đi quanh ba vòng theo hướng tay phải. Cũng như nhiều tôn giáo cổ xưa khác, Sha-man quả thực là tôn giáo của sợ hãi; chính vì thế mà khi dạy giáo lý cho các sinh viên Mongolia, tôi đã cố gắng trình bày đạo Công giáo như một tôn giáo của tình thương, tôn giáo đem lại vui mừng và hy vọng. Tưởng là một công việc dễ dàng, nhưng càng dạy, tôi càng nghiệm thấy vẫn còn phảng phất đâu đó, ngay trong ‘Tin Mừng’ mà tôi đang rao giảng, một nỗi sợ hãi bàng bạc (đôi khi được biện minh bằng từ ‘kính sợ Thiên Chúa’ chăng?). Chính lúc đó tôi mới nhận ra: yếu tính thực sự của Tin Mừng phải là vui mừng trọn vẹn. Tin Mừng không chấp nhận đội trời chung với sợ hãi dưới bất cứ hình thức nào! bao lâu còn vấn vương sợ hãi, dầu là nhỏ nhất, bấy lâu vẫn chưa thực sự hiện diện Tin Mừng chân chính. Từ cửa miệng Đức Giêsu không biết bao nhiêu lần đã liên tục vang lên điệp khúc: “Đừng sợ!” để trấn an các môn đệ là gì?

Nhưng làm sao mà không sợ cho được: nếu đã phạm tội thì tôi phải sợ hình phạt hỏa ngục chứ…, nếu không hãi sợ thì người ta sẽ phạm tội bừa phứa mất thôi! Đúng vậy: sợ hãi dựa trên thưởng phạt xem ra là yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi nền luân lý và đạo đức xã hội, vì nhân quả là định luật căn bản tuyệt đối của trời đất và con người. Đã có nhân thì phải có quả, có thưởng thì phải có phạt, như vậy mới công bằng, mới giúp làm lành lánh dữ chứ!

Như thế Hài Nhi mà Maria mang trong dạ chắc phải có một khả năng gì đặc biệt lắm: khả năng làm cho con người nhảy mừng và chấm dứt mọi sợ hãi, khả năng đạp đổ định luật nhân quả cho tới lúc đó vẫn thống trị tuyệt đối trên toàn thể nhân loại. Sau này khi lên đường rao giảng ‘học thuyết’ của mình, Giêsu – tên của Hài Nhi đó, sẽ gọi khả năng đó là ‘Tin Mừng’ – Tin Mừng cứu độ; Tin Mừng này hệ tại ở việc tin và chấp nhận vô điều kiện tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót từ ái của Chúa, được thể hiện qua Thập Giá Đức Ki-tô Giêsu, sẽ trở thành định luật mới vĩ đại, đối kháng trực diện với luật nhân quả ngàn đời; “Ai tin vào Người Con ấy thì không bị kết án… và không bị luận phạt…” (Ga 3,18). Kể từ khi xuất hiện Hài Nhi, nhân loại sẽ được chia thành hai phe: một bên là những người tiếp tục sống dưới luật nhân quả, chấp nhận thưởng phạt như một định luật bất di bất dịch, kèm theo mối sợ hãi ‘tích cực?’ có khả năng thúc đẩy họ làm lành lánh dữ, còn bên kia là những ai tin và chấp nhận lòng từ nhân và tha thứ nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà Hài Nhi Giêsu đã khai mở. Phe thứ hai này sẽ sống không như đầy tớ trong sợ hãi, nhưng trong tinh thần nghĩa tử của con cái, tuy vẫn biết bản thân mình còn đầy bất toàn và tội lỗi (xem Gl 4:7). Gio-an Tiền Hô đã là một trong các nhân vật đầu tiên được ghi danh vào nhóm thứ hai này, và vì thế ông đã nhảy mừng ngay từ lúc khởi đầu kiếp sống làm người của mình. Tương tự như thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Ki-tô hữu chúng ta cũng đã ghi tên mình vào nhóm hai này, để vui mừng đón nhận tình yêu tha thứ, là Tin Mừng không vương chút sợ hãi; dưới lối nhìn này, truyền giáo sẽ được hiểu như một cuộc chinh phục phe nhân loại còn nằm trong sợ hãi của luật nhân quả, để đưa họ tới hưởng niềm ‘vui mừng và hy vọng’ của Tin Mừng cứu rỗi.

Vậy tôi hãy nhảy mừng trong ngày Hai Nhi giáng thế, vì đó là ngày cứu độ, ngày giải phòng trọn vẹn của chính tôi và của toàn nhân loại!

Lạy Mẹ Maria hớn hở mừng vui, xin hãy mang Hài Nhi đến viếng thăm con và làm cho con cũng được nhảy mừng. Xin cất khỏi lòng con mọi nỗi sợ hãi, như Mẹ đã từng diễn đạt: “tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, đấng cứu độ tôi; phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…; đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót…” và xin Mẹ làm cho con trở thành một nhà truyền giáo, tức là kẻ loan truyền cho mọi người niềm vui vì biết rằng: mình được Thiên Chúa cứu độ. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Có một câu chuyện giả tưởng có tên là “Hoàng Tử Bé Nhỏ, The Little Prince” đã làm nhiều người lớn cũng như trẻ em say mê và thích thú như phim Star War, xin được tạm dịch là “Chiến Tranh Hành Tinh” đang được trình chiếu tại các rạp hát mấy ngày hôm nay. Hoàng tử nhỏ bé là một người sống ở một hành tinh xa lạ. Một hôm cậu cảm thấy mình đang hiện diện trên trái đất, và tự nhiên, cậu cảm thấy lạc lõng và bơ vơ. Một động vật cư ngụ trên trái đất đã giúp cậu rất nhiều là một con cáo. Sau đó hai bên đã tạo nên một tình bạn thân thiết. Trước thời điểm hoàng tử nhỏ bé và con cáo phải từ biệt chia tay, con cáo năn nỉ xin hoàng tử cùng hẹn một giờ nhất định cho những cuộc gặp gỡ tương lai. Và hai bên cùng đồng ý vào 4 giờ chiều của một ngày nhất định. Khi hoàng tử nhỏ bé hỏi con cáo tại sao muốn hẹn một giờ nhất định, con cáo trả lời rằng nếu biết trước được sẽ gặp lúc 4 giờ thì sẽ bắt đầu vui mừng vào lúc 3 giờ trước đó.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúa nhật Thứ Tư mùa Vọng mang một tâm tình như vậy, là thời điểm chúng ta cảm thấy vui mừng vì còn mấy ngày nữa chúng ta sẽ mừng ngày giáng sinh của Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Hai Thiên Chúa, đã sinh xuống trần cách đây hơn 2 ngàn năm, tại một ngôi làng nhỏ bé, có tên là Be Lem, như lời ngôn sứ Mi-ca đã tiên đoán trong bài đọc 1 hôm nay.

Chúng ta hân hoan trong khi sửa soạn cho sự xuất hiện, sự hiện diện của Chúa Giê-su, “Hoàng Tử Hòa Bình.” Và tâm hồn của mọi người chúng ta tràn đầy niềm vui mừng hân hoan, và niềm vui mừng hân hoan này cũng giống như niềm vui mừng hân hoan trong trái tim của Gioan Tẩy giả trong bài Tin mừng hôm nay.

Niềm vui mừng hân hoan này đã khiến cho Gioan nhảy lên trong lòng bà E-li-za-bét khi Đức Maria xuất hiện ở ngưỡng cửa. Và điều làm cho Gioan Tẩy giả nhảy mừng phát xuất từ một sự hiện diện có sức thu hút mãnh liệt. Và sức mạnh thu hút của sự hiện diện này đã làm cho từng tế bào trong thân thể của Gioan phải dâng lên. Và đôi khi sự hiện diện này cũng tạo chúng ta những cảm nghiệm hiếm có này trong đời sống. Đó chính là khi chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của chính Chúa Giê-su, đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta có thể phân biệt được sự khác biệt giữa có hiện diện và vắng mặt của Chúa Giê-su trong đời sống, như bóng tối với ánh sáng, như bất an với hy vọng, như sầu khổ và vui mừng. Chúng ta có thể hình dung ra sự hiện diện của Chúa Giê-su trong ngày giáng sinh thứ nhất đã biến đổi thế giới, đang sống trong bóng tối tội lỗi, nhìn thấy ánh sáng của Thiên Chúa, và từ một nơi sầu khổ đến một nơi đầy tràn niềm vui mừng và hy vọng. Và chúng ta cũng có thể hình dung và tin rằng khi Chúa hiện đến và hiện diện lần thứ hai trong ngày tận thế, những người tin và sống lời Người dạy sẽ vui mừng và vinh quang đến thế nào.

Ông bà anh chị em thân mến. /Tất cả chúng ta được kêu gọi chuẩn bị và sửa soạn tâm hồn trong mùa Vọng này cho hai sự hiện diện của Chúa Giê-su, thứ nhất ngày Chúa giáng sinh lần thứ nhất, và thứ hai, ngày Chúa lại đến trong ngày tận thế. Và sự mong đợi của hai ngày trọng đại này làm cho tâm hồn chúng ta hân hoan vui mừng, và chúng ta được kêu mời suy niệm và cảm nghiệm với Đức Maria mầu nhiệm lạ lùng Thiên Chúa giáng trần đến với nhân loại, lần thứ nhất, và học và biết noi gương Mẹ để chúng ta chuẩn bị săn sàng.

Bài Tin mừng trước đó cho chúng ta biết, sứ thần Ga-pri-el đến báo tin cho Đức Maria là người diễm phúc, vì đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa, và để bảo đảm cho lời truyền tin này, sứ thần đã đưa ra một bằng chứng về quyền năng của Thiên Chúa qua sự việc bà Ê-li-za-bét thụ thai. / Đức Maria đã đặt tất cả niềm tin của mình vào lời Chúa và thưa với sứ thần hai tiếng “xin vâng” theo thánh ý Chúa. / Khi sứ thần cho biết như thế, thì ít ngày sau, Đức Mẹ đã vội vã lên đường đi thăm bà Ê-li-za-bét, và ở lại giúp đỡ trong ba tháng.

Ông bà anh chị em thân mến. Động lực nào đã thúc đẩy Đức Maria vội vã lên đường, vượt qua con đường xa sôi, khó khăn, hiểm trở, để đi thăm bà Ê-li-za-bét? Chúng ta có thể đưa ra 2 lý do chính sau đây. Lý do thứ nhất, Đức Maria đi để chia sẻ niềm vui, và đem chính Đấng Cứu Thế đến cho bà chị họ và cho Gio-an tiền hô lúc đó đang trong bụng mẹ. / Vì thế, khi Đức Maria vào nhà thì bà Ê-li-za-bét và cả thai nhi Gio-an, chỉ còn 3 tháng nữa sẽ được sinh ra, đều nhảy mừng.  Động lực thứ hai đã khiến cho Đức Maria vội vã lên đường để đi thăm viếng bà Ê-li-za-bét, là Mẹ muốn thể hiện lòng bác ái, yêu thương của mình. Thật vậy, lòng yêu thương bác ái đã thúc đẩy Mẹ lên đường, vượt qua con đường gồ ghề và hiểm trở. Vì vậy, khi vào nhà và sau lời chào của Đức Maria, bà Ê-li-za-bét đã cảm nhận được sự hiện diện của Thánh Thần Chúa và cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?” Và bà đã nói với Đức Maria: “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện.” Chúng ta biết chữ “Phúc” trong câu trên, theo Kinh thánh, bao hàm 2 ý nghĩa: thứ nhất vui mừng và thứ hai hạnh phúc vì có Chúa hiện diện trong tâm hồn. Mẹ Maria có sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, nên cuộc sống của Mẹ chiếu tỏa tình yêu thương, bác ái và quảng đại đến những người chung quanh.

Trong một thời gian ngắn nữa, chúng ta sẽ mừng sinh nhật của Đấng cứu thế, Con của Mẹ. Chúng ta cầu xin, luôn cảm nhận được sự vui mừng qua mầu nhiệm giáng trần của Con Mẹ mang đến, và tin chắc rằng qua Con của Mẹ, Thiên Chúa đang hiện diện, ở giữa chúng ta và luôn yêu thương chúng ta, để chúng ta biết noi gương của Mẹ có lòng yêu thương, bác ái và quảng đại, chia sẻ ơn lành của Chúa với mọi người, và luôn ý thức biết xử dụng ơn Chúa ban để làm sáng danh Chúa.

Về mục lục

.

NGƯỜI THIỆN TÂM

Lm. Giuse Trực

Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm tình yêu của Chúa Cha qua khuôn mặt của Đức Giêsu Kitô. Tình yêu đó được biểu lộ bằng những hành động cụ thể của Ngài. Một tình yêu giữ kín, không được thể hiện bằng những hành động cụ thể, đúng đắn thì không phải là tình yêu đích thực. Chỉ còn vài ngày nữa chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm tình yêu, mầu nhiệm giáng thế. Phụng vụ lời Chúa ngày hôm nay giới thiệu cho chúng ta nhân vật chính của mầu nhiệm này, là Đức Giêsu Kitô. Sự xuất hiện của Ngài đã đem đến “bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: Mk 5, 1-4a

Đấng cứu thế mà tiên tri Mikha rao giảng không xuất hiện ở Giêrusalem hay một thành phố lớn, mà ở một thị trấn nhỏ bé, quê mùa là Bêlem. Mặc dù ở một nơi như vậy, nhưng “Ngài có sứ mạng thống lãnh Israel”, đem lại hòa bình cho họ. Nhờ sự xuất hiện của Ngài mà người ta được “vinh dự lây”, “vinh dự ké”, chứ không còn mặc cảm vì xứ sở quê mùa của mình nữa.

  1. Bài Đọc II: Dt 10, 5-10

Chân dung Đấng Messia được tác giả thư Do Thái phác họa là một vị Thượng Tế. Vị Thượng Tế này trổi vượt hơn các Thượng Tế trong cựu ước nhờ biết thực thi thánh ý Chúa Cha; dâng hy lễ là chính bản thân Ngài chứ không phải xúc vật như các thượng tế khác dâng; và lễ tế ấy không cần dâng nhiều lần, mà chỉ dâng một lần là đủ.

  1. Tin Mừng: Lc 1, 39-45

Phúc lành của Thiên Chúa được đem đến ngay khi Đấng Cứu Thế nhập thể làm người trong lòng Đức Maria.  Phúc lành đó làm cho Mẹ vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương: “Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng”. Phúc lành đó làm cho bà Isave hân hoan đến kinh ngạc: “Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”. Phúc lành làm cho cả hài nhi Gioan cũng phải nhảy mừng ngay khi còn trong bụng bà Isave. Nguồn gốc của những niềm vui ấy xuất phát từ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.

II. DẤU HIỆU TÂM HỒN THIỆN TÂM

Năm Thánh Lòng Thương Xót đã mở ra, Tình yêu đã giáng thế, và mỗi người chúng ta đang sốt sắng chuẩn bị để sống lại mầu nhiệm cao cả đó. Phúc lành của Thiên Chúa sẵn sàng tuôn đổ và tuôn đổ một cách dồi dào. Điều quan trọng là làm sao để đón nhận phúc lành đó. Trong đêm giáng sinh, chúng ta nghe thiên thần loan báo: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Những con người thiện tâm là những con người sẽ đón nhận được phúc lành của Chúa như bài Tin Mừng hôm nay đã giới thiệu cho chúng ta. Vậy đâu là những nét nổi bật của một tâm hồn thiện tâm?

  1. Khiêm nhường:

Thứ nhất là sự khiêm nhường. Khiêm nhường là nhìn nhận sự thật nơi bản thân mình. Khiêm nhường để biết mình hèn mọn, nhỏ bé trước mặt Chúa. Khiêm nhường vì biết tự sức mình không thể làm gì được, mà tất cả những gì mình có đều do lòng thương xót của Chúa. Vì thế khi nhận được tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã nói với sứ thần: “Này tôi là nữ tì của Chúa”, nên đương nhiên “tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.

Bà Isave cũng là một con người khiêm nhường. Đức Maria chỉ là em, là một tín hữu, là một cô gái mười mấy đôi mươi; trong khi bà là chị, là vợ của ông thượng tế, “mang thai trong lúc tuổi già” , nhưng bà lại vui mừng quá sức khi thấy Maria đến thăm mình, bà tự hỏi “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi thế này?”. Cả hai chị em cùng nhau dâng lên Thiên Chúa bài ca chúc tụng Magnificat, vì họ thấy mình được Thiên Chúa xót thương.

Để chuẩn bị Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô không ngừng mời gọi chúng ta nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình trước mặt Chúa. Ngài chia sẻ kinh nghiệm của chính bản thân Ngài đi xưng tội mỗi 2, 3 tuần một lần, vì Ngài cảm nhận sức mạnh của Thiên Chúa nơi Bí tích Giải tội.

Chỉ những tâm hồn khiêm nhường mới có thể đón nhận tin vui cứu độ qua mầu nhiệm Nhập thể, và nhất là mới có thể sống tốt Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Khiêm nhường để nhìn nhận những sai lỗi của mình. Khiêm nhường để đến với Bí tích Giải tội. Khiêm nhường để sẵn sàng tha thứ cho anh chị em mình. Khiêm nhường để cộng tác với người khác…

  1. Bác ái

Dấu chỉ thứ hai của tâm hồn thiện tâm là việc bác ái. Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có Thiên Chúa thì lửa yêu mến của Ngài khơi dậy nơi đó. Khi Thánh Thần rợp bóng trên Đức Maria, đồng thời với việc mang thai Đấng Cứu Thế, Mẹ cũng được đầy tràn lòng bác ái, đã nghĩ ngay đến bà chị họ của mình. Mẹ đã đi thăm bà chị họ để chia sẻ hai điều. Thứ nhất là giúp đỡ bà mang thai trong lúc tuổi già. Nhưng quan trọng nhất là đến để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ mà chỉ hai người đàn bà này hiểu nhau mà thôi. Chắc chắn không thể có người thứ ba hiểu được niềm vui của họ.

Một trong những điểm nổi bật của Kitô giáo là noi gương Thầy Chí Thánh để thực thi tình bác ái. Một trong những nét làm cho con người nên vĩ đại là họ biết cho đi những gì mình có, mà người vĩ đại nhất là Đức Giêsu Kitô, cho đi chính mạng sống của Ngài.

Năm Toàn Xá cứ 50 năm một lần trong truyền thống Cựu ước là thời gian trả tự do cho tất cả: đất đai, ruộng nương, nô lệ, người mắc nợ…

Đến thời của Chúa Giêsu, Năm Hồng Ân mà tiên tri Isaia loan báo được thực hiện nơi chính bản thân Ngài: “Loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xác cho kẻ bị giam cầm, phóng thích cho những tu nhân”.

Đức Thánh Cha Phanxicô thiết lập Năm Thánh Lòng Thương Xót cũng không ngoài mục đích để Giáo hội biết thực thi Lòng Thương Xót. Hình ảnh Đức Giêsu cõng trên vai một người đang quằn quại phải là hình ảnh luôn thôi thúc chúng ta biết sống bác ái với mọi người.

  1. Phục vụ

Lòng bác ái, sự khiêm nhường được kết tinh ở cao điểm ở thái độ phục vụ. Đức Maria không nghĩ đến việc mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, mà lặn lội đường xá xa xôi, hiểm trở để viếng thăm và giúp đỡ bà chị họ của mình.

Mùa Vọng năm nay chúng tôi rất vui vì có nhiều người đã cộng tác tích cực với Họ đạo để trang trí, làm hang đá, tập văn nghệ; đã có những người mời gọi, cộng tác với nhau để “sửa lại con đường cho nhau đi”, nhưng cũng là để đón Chúa đến với những tâm hồn thiện tâm.

Tóm lại, phụng vụ lời Chúa  hôm nay giới thiệu cho chúng ta rõ hơn về dung mạo của Lòng Thương Xót là Đức Giêsu Kitô. Ngài xuất hiện sẽ đem đến niềm vui và hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên Ngài chỉ ở nơi những tâm hồn thiện tâm, tức là những người khiêm nhường, bác ái và phục vụ theo gương của Đức Trinh Nữ Maria.

Xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria cho chúng con trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, biết đem đến niềm vui và hạnh phúc cho người khác qua thái độ khiêm nhường, bác ái và phục vụ như Mẹ, để chúng con cũng được niềm vui ơn cứu độ trong ngày Chúa Giáng Sinh sắp tới và trong suốt cuộc đời chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ĐEM CHÚA ĐẾN CHO CON NGƯỜI HÔM NAY

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, Chủ đề Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, IV Mùa Vọng ( C ) cho chúng ta suy gẫm về một nhân vật thật quen thuộc, thật gần gũi, thật tôn kính, thật mến yêu, thật trìu mến,thật biết ơn. Vâng, đó là Đức Maria, là Đức Mẹ của chúng ta, là Mẫu Thân của Đấng Cứu Thế, là Mẹ của Chúa Giêsu, và là Mẹ Thiên Chúa. Như vậy, Tin Mừng IV Mùa Vọng hôm nay dành trọn một hình ảnh về Đức Maria, tuy nhiên thực ra có bốn nhân vật

Vâng , thưa quý vị, Đoạn Lời Chúa hôm nay (Lc 1, 39 -45) là đoạn Lời Chúa được dùng trong Mầu Nhiệm thứ hai Mùa Vui : Đức Bà đi viếng Bà thánh Isave. Ta hãy xin cho được lòng yêu người.

Vâng, như vậy là quá rõ “ lòng yêu người”, hay gọi là bác ái, có nghĩa là gì ? Thưa, điều ấy có nghĩa là :” Đem Chúa cho người khác”.

Vâng, căn cứ vào Lời Tin Mừng thì hôm nay Đức Mẹ đem Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đến cho người khác.  Như vậy, “Đem Chúa Giêsu đến cho tha nhân” chính là một hành động “ yêu người”, chứ không phải là bất cứ hành động gì khác. Nếu, chúng ta nói là : “yêu người”, mà không đem được Chúa Giêsu cho người khác, thì không thể gọi là “yêu người”.

Theo đó, hành động “đem Chúa đến với tha nhân”, thì gọi là “Truyền giáo”. Vì vậy, bản chất của Giáo Hội là ”Truyền giáo”, vậy ai là người truyền giáo đầu tiên, há chẳng phải là Đức Mẹ sao ?

Vâng, cử chỉ Truyền giáo của Đức Mẹ như thế nào? Thái độ “yêu người “ của Mẹ ra sao ?

Tin Mừng thuật lại rằng: “ Ngày ấy Trinh Nữ Maria vội vã lên đường đến một miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa, vào nhà ông Giacaria, và chào bà Ê-li-sa-bet …

Vâng, thái độ của Đức Mẹ là “quên mình” để nghĩ đến người khác. Tại sao vậy ? Thưa, sau khi Đức Mẹ nhận được “ơn truyền tin “, có nghĩa là: Đức Mẹ được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Thần Khí Thiên Chúa đã thôi thúc Mẹ, trong khi Đấng Cứu Thế đang ngự trong cung lòng thánh khiết vẹn tuyền của Mẹ, thì việc Mẹ vội vã lên đường chia sẻ “ tin vui” với người chị họ, khi Mẹ nhận được “sứ vụ Truyền Tin“. Đồng thời, Mẹ cũng nhận được “Tin Mừng” của người chị họ Elisabet, mang thai được sáu tháng, người mà bị mang tiếng “son sẻ”. Son sẻ đối với người phụ nữ Dothai đã lập gia đình thời đó là một sự “ tủi nhục” rất lớn. Vâng, Thiên Chúa đã cất sự tủi nhục nơi bà Isave là một “ tin mừng” lớn dành cho bà và những người thân, trong đó có Đức Maria.

Vì thế, cử chỉ vội vã của Mẹ đã biểu lộ tình tương thân, tương ái ,“yêu người” nơi Mẹ. Không phải chỉ đối với thân nhân, mà còn tha nhân nữa. Vì , Đức Maria vốn sẵn mang trong tâm hồn một nền tảng đạo đức tự nhiên, như một đặc ân tự nhiên nơi Mẹ. Nay Mẹ được tràn đầy Chúa Thánh Thần và vừa được Đấng Cứu Thế ngự vào lòng Mẹ, thì ân sủng ấy lớn lên bội phần. Vì vậy, động cơ thôi thúc Mẹ đến thăm người chị họ của Mẹ là một động thái tổng hợp vừa siêu nhiên lẫn tự nhiên nơi Mẹ. Tất cả những động thái đó biểu hiện ra bên ngoài, tức vừa siêu nhiên vừa tự nhiên, mà người đối diện đã nhận ra được. Đến độ  Bà Elisabet phải thốt lên : “ Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế nầy?”( c 43) Và: “ Vì nầy đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (c 44)

Vâng, nếu một sự thăm viếng hoàn toàn tự nhiên, thì không thể có hiện tương nầy, chính bà Elisabet cũng phải thừa nhận điều ấy. Vâng, chúng ta thấy rõ điểm mầu nhiệm ở đây vượt khỏi ranh giới tự nhiên, điều mà phàm nhân vẫn gọi là “ phép lạ”. Vâng, một phép lạ nơi Đức Maria, nhưng phép lạ ấy không phải tự nơi Đức Mẹ thực hiện, mà “ lòng tin “ của Mẹ đã tỏ lộ điều ấy , hya nói cách khác đó là “ hệ quả” của lòng tin. Điều nầy do ơn Thánh tác động nơi thánh nữ Elisabet nên bà nói tiếp: “ Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”( c 45)

Vâng, sự xác quyết của bà Elisabet là do Linh Tác nơi Đức Maria, chính là Thần Khí Thiên Chúa đang hoạt động nơi một “ lòng tin “ tuyệt đối nơi Đức Mẹ.

Như vậy, Đức Mẹ đem Chúa Cứu Thế đến với tha nhân là trọng trách và sứ vụ Thiên Sai của Đức Mẹ. Vâng, phàm nhân thì yếu đuối, nhưng Thánh Ân thì cao vời, có thể làm được mọi sự.

Vâng, đoạn Lời Chúa hôm nay thật kỳ diệu thay, vì Đức Maria ngay từ giây phút Mẹ nhận Lời sứ thần “Truyền tin”, thì giây phút ấy, Mẹ đã được khỏi tội tổ tông, hưởng nhận ơn Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Như vậy, Mẹ mang một sứ mạng “truyền giáo” trong một trạng thái hoàn toàn trong trắng vẹn tuyền, hoàn tòan không tỳ vết kể cả nguyên tội. Vì Đấng cứu thế đang ngự trong cung lòng Mẹ, một Thánh Ân tuyệt đối, như vậy, Mẹ là đấng thánh và đang cưu mang Đấng Cực Thánh , ” ngàn trùng Chí Thánh” nữa. Mặc nhiên nơi Mẹ ngay giấy phút ấy, có thể nói mà không sợ sai rằng: “ Mẹ không còn là phàm nhân thuần túy nữa, mà là Thánh Mẫu Thiên Chúa trong phần nhân tính”. Vì, phần nhân tính nơi Mẹ đã ảnh hưởng phần Thiên Tính của Chúa Giêsu Con Mẹ. Theo đó, sự nhảy mừng của Gioan Tiền Hô nơi cung lòng thánh nữ Isave là điều tất yếu, bởi Gioan Tiền Hô một lúc được đón chào hai Vị ngàn trùng Cưc Thánh, chính là Chúa Giêsu – Kitô và Đức Maria.

Hai nhân vật là hai mẹ con của Gioan Tiền Hô và bà Elisabet chỉ được phúc thừa hưởng nơi Đức Maria và Chúa Giêsu, vì hai vị vẫn là phàm nhân. Nhưng, cũng có thể hiểu :” Gioan Tiền Hô  cũng được khỏi tội tổ tông trong bào thai, vì hành động nhảy mừng trong cung lòng bà Elisabet.” Cũng có thể hiểu là ông được khỏi tội tổ tông nên vui sướng.

Như vậy, Đức Mẹ là nhà truyền giáo đầu tiên mang ơn “ cứu rỗi ” đến cho tha nhân, cụ thể là Gioan Tiền Hô và gia đình của ngài. Mặc nhiên , “ ơn cứu rỗi ” ở đây chính là Chúa Giêsu. Như vậy, chủ đề Lời Chúa hôm nay ( Lc 1, 39- 45) cũng có thể nói là “ Một cuộc hạnh ngộ”

Lạy Chúa là Cha toàn năng, Cha đã hoạch định kế hoạch nhiệm mầu là cứu rỗi nhân loại, nhưng khởi sự công trình cứu chuộc, Cha đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria một ơn vô giá là làm Mẹ Đấng Cứu Chuộc, hầu cộng tác vào công trình cứu độ nhân loại của Con Cha, để mưu ích cho nhân loại và sáng Danh Cha./. Amen.

Về mục lục

.

THĂM VIẾNG CHIA SẺ THỂ HIỆN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Lm. Đan Vinh

I HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 1,39-45

(39) Hồi ấy, Bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. (40) Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét. (41) Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc”. (43) Bởi đâu tôi được Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.

  1. Ý CHÍNH:

Sau khi được sứ thần cho biết bà chị họ là Êlisabét đã có thai, Đức Maria đã vội vã lên đường thăm viếng. Cuộc viếng thăm của Maria vừa đem lại niềm vui cho gia đình Dacaria, vừa nói lên đức bác ái cụ thể của Đức Maria đối với bà chị họ, khi bà sắp tới ngày sinh con. Cuộc gặp gỡ cũng đem lại ơn cứu độ của Đấng Mêsia cho thai nhi Gioan, thể hiện qua sự kiện nhảy mừng trong lòng mẹ. Nhờ được Thánh Thần soi sáng, bà Êlisabét đã nhận ra cô em Maria chính là Mẹ của Đấng Thiên Sai và bà đã ca tụng Maria diễm phúc vì đã tin vào Lời Chúa.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 39-40: + Đức Maria vội vã lên đường : Sự vội vã của Đức Maria nhằm diễn tả lòng yêu mến, muốn đi thăm viếng để chúc mừng bà chị họ và cũng chia vui với chị ơn được làm mẹ như một ơn Chúa ban đang khi bà không còn chút hy vọng có con. Ngòai ra, Mẹ còn muốn giúp đỡ bà chị họ “nay đã có thai được sáu tháng” qua việc “ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng”. Ở lại để giúp đỡ bà cho đến khi đứa con chào đời. + Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét: Người Do thái có nhiều cách chào: Thần dân chào vua chúa thì xuống ngựa và đến sấp mình trước mặt nhà vua (x. 1 Sm 20,41; 25,23); Nếu hai bên là thân thuộc nghĩa thiết hay có quan hệ thầy trò thì sẽ chào hỏi bằng cách ôm hôn nhau (x. 1 V 19,20; Lc 22,47). Lời chào thông thường là “Shalom”, nghĩa là chúc “Bình an ở với anh” hay “Giavê ở cùng anh” (x.Ga 20,19). Trong Tin Mừng hôm nay sứ thần Gáprien đã chào Đức Maria: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” (Lc 1,28). Do việc chào hỏi dài dòng mất nhiều thời gian, nên Đức Giêsu đã chỉ thị môn đệ đừng chào hỏi ai dọc đường khi đi làm công tác truyền giáo (x. Lc 10,4).

– C 41-42: + Đứa con trong bụng nhảy lên: Có lẽ thai nhi Gioan chỉ co đạp liên hồi trong bụng khiến bà Êlisabét tưởng như em đang nhảy mừng hân hoan khi gặp thai nhi Mêsia (x. Lc 1,14), giống như vua Đa-vít nhảy mừng trước Hòm Bia Giao ước (x 2 Sm 6,14). + Và Bà được đầy Thánh Thần: Nhờ được ơn Thánh Thần soi sáng, bà Êlisabét đã nhận biết bào thai cô em họ đang cưu mang chính là Đấng Thiên Sai. + Em được chúc phúc: Bà Êlisabét ca tụng Đức Maria là người có phúc hơn mọi phụ nữ, vì đã cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người.

– C 43-45): + Thân mẫu Chúa tôi: Trong Thánh kinh, danh hiệu “Chúa tôi” thường dành riêng cho Đức Chúa, tuy nhiên cũng có lần danh hiệu này được gán cho Đấng Thiên Sai. Danh xưng “Thân Mẫu Chúa tôi” về sau trở thành nền tảng để Hội Thánh tôn vinh Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa“ (Theotokos), và hình thành phần thứ hai của Kinh Kính Mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…”. Về danh xưng này, khi hiện ra với các mục đồng ở Belem vào ngày Chúa Giáng Sinh, sứ thần đã nói như sau: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,11). Trong Tin mừng Luca, danh xưng Đức Chúa của Đức Giêsu được nói đến 40 lần. + Em thật có phúc vì đã tin: Tin Mừng Luca đã quy tụ hai ơn phúc của Đức Maria vào trong lời chúc tụng của bà Êlisabét: một là phúc được “làm Mẹ Đấng Cứu Thế” và hai là phúc “đã tin những lời Chúa phán” (x Lc 1,42-45). Về sau trong lúc Đức Giêsu giảng đạo, một phụ nữ cũng ca ngợi thân mẫu của Ngừơi: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm” và Đức Giêsu liền bổ túc thêm: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Nơi Đức Maria hai phúc này liên kết thành một: ngay khi tin mọi lời Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện, Đức Maria lập tức trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế. Có thể khi nói câu này, bà Êlisabét đã liên tưởng đến sự nghi ngờ cứng tin của ông Giacaria chồng bà trước đó (Lc 1,20.45).

  1. CÂU HỎI:

1) Người Do thái có mấy cách chào và thường chào hỏi nhau thế nào?

2) Thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng bà Êlisabét vào lúc nào, nhảy mừng ra sao và để làm gì?

3) Lý do nào làm cho bà Êlisabét nhận biết Đức Maria là Mẹ Đấng Kitô Đức Chúa ? 

4) Bà Êlisabét ca tụng Đức Maria có phúc vì lý do gì?

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CHIA SẺ TÌNH THƯƠNG CÁCH CỤ THỂ TRONG MÙA GIÁNG SINH:

Một hôm vào buổi chiều áp lễ Giáng Sinh, một sinh viên trẻ cùng đi với vị giáo sư đến thăm các trẻ em bất hạnh trong viện mồ côi ngòai thành. Vị giáo sư này thường được các sinh viên gọi thân mật bằng tên “người bạn của sinh viên” vì sự thân thiện và tốt bụng của ông. Trên đường đi, thầy trò đi ngang qua một nông trại, thấy một đôi giày cũ nằm bên vệ đường gần cổng một nông trại. Có lẽ đây là đôi giày của một bác nông dân nghèo làm việc tại đây. Anh sinh viên liền nói với vị giáo sư: “Bây giờ sắp đến giờ tan sở. Em sẽ giấu đôi giày của ông ta vào chỗ khuất rồi thày trò chúng ta sẽ núp quan sát xem thái độ của ông ta thế nào khi bị mất đôi giày. Chắc là sẽ vui lắm đây”. Vị giáo sư liền khuyên can: “Này anh bạn trẻ. Chúng ta đừng bao giờ cười vui trên nỗi đau của người khác. Trái lại, theo thầy nghĩ: em được Chúa cho có dư tiền bạc. Chắc em sẽ tìm thấy một niềm vui lớn lao hơn nhiều qua việc chia sẻ với người nghèo này đấy. Vậy em hãy đặt vào đôi giày của ông ta hai đồng tiền và chờ xem phản ứng của ông ta khi bất ngờ nhận được món quà Giáng Sinh”. Anh sinh viên làm theo lời dạy, rồi cả hai cùng đến núp sau gốc cây gần đó.

Chẳng mấy chốc đã thấy một người từ trong nông trại đi chân không đến nơi để giày. Ông ta xỏ chân vào một chiếc giày và phát hiện ra vật lạ. Ông dùng tay moi ra một đồng tiền năm đô-la. Với vẻ ngạc nhiên, ông chăm chú nhìn đồng tiền rồi lật qua lật lại như không tin vào mắt mình. Rồi ông nhìn chung quanh tìm xem ai đã làm điều này nhưng không thấy. Ông bỏ đồng tiền vào túi áo, và tiếp tục xỏ chân kia vào chiếc giày còn lại. Vẻ ngạc nhiên của ông tăng thêm gấp đôi khi phát hiện đồng tiền thứ hai bên trong chiếc giày kia. Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, ông liền quì gối ngước mặt lên trời dâng một lời nguyện tạ ơn Thiên Chúa. Ông cám ơn bàn tay vô hình hào phóng nào đó đã mang lại món quà thiết thực ngay trước lễ Giáng Sinh, cứu gia đình ông qua cơn túng quẫn: vợ đang bị đau phải nằm liệt giường mấy ngày nay và ba đứa con nhỏ dại bụng đói đang chờ bố đi làm mang tiền về nhà.

Anh sinh viên lặng người đi vì xúc động. Hai dòng lệ tự nhiên chảy xuống hai bên má khiến anh vội đưa tay gạt đi. Vị giáo sư liền lên tiếng nói: “Bây giờ em có thấy vui hơn nhiều nếu như em mang ông ta ra làm trò cười hay không?” Chàng thanh niên trả lời: “Đúng. Cám ơn giáo sư. Giáo sư đã dạy cho em một bài học mà có lẽ em sẽ không bao giờ quên được. Bây giờ em mới hiểu ý nghĩa thực sự câu nói của Chúa Giêsu mà hồi nhỏ em đã học qua nhưng chưa hiểu: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35).

2) NHỮNG AI CẦN ĐƯỢC THĂM VIẾNG ? :

Một hôm Mẹ Têrêsa Canquýtta đi thăm một bệnh viện dành cho những người cao tuổi giàu có ở nước Anh mới được xây dựng. Bệnh viện có nhiều phòng ốc khang trang sạch đẹp, được trang bị bằng nhiều loại máy hiện đại, tương xứng với số tiền viện phí to lớn mà người nhà các bệnh nhân phải trả. Thái độ và cung cách phục vụ của các y bác sĩ và nhân viên phục vụ nói chung đều nhã nhặn lịch sự, nhưng mẹ thấy có điều kỳ lạ và đã lên tiếng hỏi vị bác sĩ hướng dẫn đoàn khách tham quan như sau:

– Thưa bác sĩ, tại sao tôi thấy khi đoàn mình đi ngang qua các phòng bệnh, thì đều thấy mọi bệnh nhân đang nằm trong phòng đều quay mặt ra ngoài nhìn vậy?

Viên bác sĩ trả lời:

– Dạ thưa dì, là do các bệnh nhân trong bệnh viện này đều thuộc lớp người giàu có. Họ được con cái đưa vào nằm ở đây để nhờ chúng tôi chăm sóc sức khỏe. Họ không thiếu đồ ăn thức uống và thuốc men chữa bệnh. Nhưng cái họ thiếu nhất là tình thân ruột thịt. Họ luôn mong con cháu hay người thân đến thăm viếng, nhưng hầu như rất ít có người đến thăm, trừ khi đã chết.

Hội Thánh luôn khuyến khích các tín hữu đi thăm những người già cả neo đơn, bệnh tật, các tù nhân, người nghèo khó và tất cả những ai cần được sự trợ giúp, để an ủi động viên họ. Còn mỗi tín hữu chúng ta sẽ làm gì để thăm viếng tha nhân trong những ngày Mùa Giáng Sinh Năm Thánh kính Lòng Chúa Thương Xót này ?

  1. THẢO LUẬN: Bạn sẽ tặng món quà gì cụ thể cho người thân trong gia đình, nhân viên cộng tác với mình và những người nghèo khó bất hạnh trong mùa Giáng Sinh Năm nay.
  2. SUY NIỆM: BÀI HỌC TỪ CUỘC THĂM VIẾNG CỦA ĐỨC MARIA:

Tin Mừng thuật lại cuộc viếng thăm của Đức Maria cho chúng ta nhiều bài học giúp chúng ta sống tinh thần chia sẻ của Mùa Vọng để chuẩn bị đón mừng Chúa Cứu Thế đến trong ngày Giáng Sinh, và trong Năm Thánh kính Lòng Chúa Thương Xót này như sau:

1) Thăm viếng là một hành động chia sẻ tình thương:

– Tình yêu thực sự trong tâm hồn đòi phải được biểu lộ ra ngoài bằng hành động: Đức Maria đã thể hiện đức bác ái cụ thể bằng việc đi bước trước đến thăm bà chị họ Êlisabét khi vừa hay tin bà có thai trong lúc tuổi già và cái thai đến nay đã được sáu tháng.

– Trong Năm Thánh này, mỗi người chúng ta cũng cần hành động bác ái cụ thể: đi thăm chia sẻ vật chất cho các bệnh nhân đau liệt tại tư gia, thăm viếng tặng quà các cụ già neo đơn tại tư gia hay viện dưỡng lão, thăm hàng xóm người lương trong khu xóm, thăm các đôi vợ chồng bất hoà có nguy cơ ly hôn hay đang trong tình trạng rối… để chia sẻ và đáp ứng phần nào nhu cầu.

2) Hãy quảng đại cho đi và biết khiêm nhường nhận lãnh:

– Bác sĩ Tom Dolly, người đã hy sinh cả cuộc đời đến ở giữa chốn rừng thiêng nước độc bên Lào vào đầu thế kỷ này, đã phát biểu rằng: “Không ai nghèo đến độ không có một thứ gì đó để trao tặng tha nhân”. Thực vậy, một người ăn xin ư? Anh ta vẫn có thể cho chúng ta cơ hội để thể hiện sự chia sẻ quảng đại của chúng ta đối với anh. Một người tàn tật ốm đau cũng có thể mời gọi chúng ta bày tỏ cảm thông và nâng đỡ. Một kẻ thù cũng có thể cho chúng ta cơ hội thực tập nhẫn nhịn chịu đựng sự xỉ nhục và thể hiện lòng bao dung để tha thứ vô điều kiện… Phải, bất cứ ai cũng có thể đem lại cho chúng ta một điều gì đó. Vấn đề là chúng ta có nhận ra chân lý này và có sẵn sàng mở lòng đón nhận những món quà quý giá đó hay không.

– Có nhiều người do tự ái cao và thói sĩ diện hão nên chỉ muốn ban phát cho đi mà không muốn nhận lại. Tuy nhiên, chúng ta hãy ý thức rằng: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Chỉ khi chấp nhận nguyên tắcmứng xử: “quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh” thì quan hệ đôi bên mới được bình đẳng và tình cảm hai người mới được bền lâu. Sự nhận lại ở đây không nhất thiết phải là quà tặng hay tiền bạc tương xứng như trong quan hệ bạn bè thân quen, mà có thể là tình cảm chân thành, lời nói biết ơn như trong quan hệ gia đình hay hai bạn trẻ đang yêu…

3) Thăm viếng là thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng:

– Sau khi nghe sứ thần cho biết tin vui của bà chị Êlisabét, Đức Maria đã vội vã lên đường để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho gia đình bà. Ngôn sứ Isaia cũng đã tuyên sấm về cuộc hành trình thăm viếng này của Đức Maria như sau: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an; Người loan tin hạnh phúc công bố ơn cứu độ” (Is 52,7a).

– Khi đi thăm viếng bà chị họ, Đức Maria đã “đi bước trước” đến với bà, không đòi bà phải mời như ngày nay người ta thường nói: “Ăn có mời, làm có khiến !”. Đối với Đức Maria: Chính tình thương đã thôi thúc vội vã lên đường đi thăm Mẹ khi vừa nghe sứ thần cho biết tin vui của bà. Qua đó cho thấy Mẹ đã thực hiện đức ái qua thái độ cảm thông chia sẻ như lời dạy của thánh Phaolô: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Sự thăm viếng của Mẹ đã lập tức mang lại hiệu quả: thai nhi Gioan đã giãy đạp trong dạ mẹ vì được khỏi tội tổ tông truyền, như bà Êlisabét đã thốt lên ca tụng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc… Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 2,42-44).

4) Thăm viếng chia sẻ là phương cách truyền giáo hữu hiệu hôm nay:

– Mùa Giáng Sinh trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này, mỗi người chúng ta hãy dành ra một số tiền để chia sẻ các trẻ em bụi đời, các người già cả neo đơn, các bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị, các người mù què câm điếc bất hạnh… noi gương Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi thương xót như lời Thánh vịnh: “Chúa là Đấng Từ Bi và Nhân Hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương” (Tv 103,8).

– Chính hành động thăm viếng chia sẻ cụ thể và phục vụ “Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi” nơi những người bệnh tật nghèo hèn, sẽ giúp họ dễ dàng nhận biết và tôn vinh “Thiên Chúa là Tình Thương” (1 Ga 4,8), và nhận được niềm vui ơn cứu độ của Chúa như lời Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊSU. Xin giữ gìn nơi con trái tim của trẻ thơ, tinh tuyền và trong ngần như dòng suối. Xin ban cho con trái tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền do tha nhân đem lại. Một trái tim hào hiệp dám dấn thân và dễ cảm thông với tha nhân. Một trái tim trung thành và quảng đại, không quên ơn và tránh báo oán. Xin ban cho con trái tim hiền hậu và khiêm tốn: Dấn thân yêu thương mà không mong được đáp trả, luôn quên mình để Chúa được lớn lên trong anh em như thánh Gioan Tẩy Giả đã nói với các môn đồ: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).

LẠY CHÚA. Trong những ngày này, xin cho con biết mở rộng lòng để chia sẻ trao tặng cho tha nhân những món quà vật chất cũng như tinh thần. Xin cho con biết nghĩ tới những bệnh nhân liệt giường lâu ngày không tiền thuốc thang chữa trị, chia sẻ những món quà cho những cụ già không người thân thích trong các trại dưỡng lão, những trẻ em lang thang sống tạm bợ dưới  những cầu đường vì không có một mái ấm để đi về… Xin cho chúng con biết chia sẻ tình thương và niềm vui ơn cứu độ của Chúa Giáng Sinh đến cho họ.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Về mục lục

.

ĐƯỢC CHÚC PHÚC

Lm. Jos. DĐH

Đạo làm người đã khơi gợi lên trong cha ông chúng ta những vần điệu thật thi vị : khôn ngoan nhờ phúc ông bà, làm nên phải nhớ tổ tiên phụng thờ. Kinh nghiệm ở đời cũng nhắc nhớ : bán họ hàng xa, mua láng giềng gần; hoặc bằng những lời khuyến khích : mở rộng tâm ra đời thanh thản, an vui tự tại đời thong dong. Cũng có quan niệm cho rằng : phúc đức tại mẫu, con cái tốt hay không, hệ tại nơi người mẹ giáo dục dạy dỗ, vì tầm ảnh hưởng của người mẹ vô cùng quan trọng.

Khuynh hướng tự nhiên, người ta thường thần thánh hóa những ai tài giỏi : được người được cả nết; hoặc đã ác ảm với kẻ nào thì kẻ ấy thật đáng sợ : ghét ai ghét cả tông ti họ hàng. Rõ ràng Đức Maria thăm viếng người chị họ là hành động bác ái, không ai phủ nhận nghĩa cử đó. Còn lý do tại sao người chị họ “được đầy Chúa Thánh Thần, khi kêu lớn tiếng rằng : Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc…..”? Đúng, Maria được tuyển chọn, được chúc phúc, được cộng tác với chương trình của Thiên Chúa trong sứ mạng làm mẹ Chúa Giêsu, nhưng Maria vẫn là thụ tạo, được nhờ công ơn cứu chuộc của Đức Kitô.

Khi đọc đoạn Tin mừng hôm nay, ai cũng hiểu Maria và Isave đều được chúc phúc, vị trí hai người mẹ ấy đã làm nên “hồng phúc” cho người Do-thái, cho chúng ta cùng biết mình được tuyển chọn, được ban phúc. Vì được phúc của Thiên Chúa nên hai người mẹ luôn trở nên bé nhỏ, cần được soi dẫn, cần biết làm gì để ơn phúc tiếp tục ở mãi nơi “hai người con” và cộng đồng nhân loại. Vì phúc đức làm mẹ không phải để “khoe khoang” nhưng là chia sẻ, được phúc không phải để giữ cho riêng mình, mà cuộc viếng thăm giữa hai người mẹ là mở rộng tình Chúa yêu thương.

Cho đi niềm vui vật chất hay tinh thần là khởi đầu, là căn bản mà đạo làm người chúng ta hằng nghĩ tới; người quảng đại là người biết khơi nguồn cho “dòng chảy” như câu thành ngữ : có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa. “Tin mừng” được chia sẻ giữa hai người mẹ, không dừng lại ở việc bác ái tình người, mà “ân phúc” nơi hai người mẹ đã hiệp thông thành lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Được chúc phúc và biết chia sẻ hồng phúc, chính là qui luật tình yêu nhận lãnh và tình yêu cho đi, dòng tộc giữa người được chúc phúc luôn trổ sinh hoa trái “tri ân, cảm tạ”.

Các thánh hiền đã để lại nhiều cảm nghiệm hết sức cụ thể thân thương : cánh cửa khó khăn nhất để mở ra là cánh cửa tâm hồn, con đường khó khăn nhất để lưu thông là lòng dạ con người, cây cầu khó khăn nhất để qua là cây cầu kết nối trái tim. Cuộc thăm viếng gặp gỡ nơi hai người phụ nữ năm xưa, không phải là “thủ tục” tình chị em, đúng hơn là lần đầu tiên niềm vui “Tin-mừng” Chúa được thông chia. Khi cánh cửa ơn phúc được mở ra, tình yêu Chúa sẽ “trào tràn” đến mọi tâm hồn đang thao thức niềm vui ơn giải thoát.

Tâm hồn được chúc phúc, gia đình được chúc phúc, hay dân tộc được hạnh phúc, nhất định không phải là tưởng tượng mơ hồ, mà ngay từ cuộc viếng thăm giữa hai người phụ nữ, nhân loại sẽ thấy đó là “Đại Phúc” vì có Chúa hiện diện. Được tiền được vàng, không bằng chỉ đàng đi buôn, đó là cầu thành ngữ mà nhiều người tâm đắc trong phát triển kinh tế gia đình. Hôm nay đây, thông qua hai người mẹ, Thiên Chúa gởi đến sứ điệp : con người ai cũng “được chúc phúc”, đó là hạnh phúc có sẵn từ đời đời, là triều đại những tâm hồn ngập tràn tình yêu Chúa.

Có hai thứ khó giấu nhất trên đời đó là kẻ đang yêu và người nghèo đói, hai chị em phụ nữ trong Tin-mừng hôm nay sẽ mãi là hình ảnh người mẹ đang yêu, thông chia niềm vui và hy vọng có Chúa cho chúng ta. Câu tục ngữ : con có khóc, mẹ mới cho con bú, có thể được hiểu cách ý nghĩa hơn, đó là khi ta trẻ dại, chưa có kinh nghiệm nên cứ khóc, cứ kêu gào lên. Thiên Chúa đi vào lịch sử loài người, Ngài chính là Bậc Cha Mẹ, dù quan tâm yêu thương đến từng cá nhân, nhưng mỗi người con phải nhận ra mình được yêu thương, được chúc phúc.

Càng đi sâu vào cuộc sống, người ta sẽ rõ hơn, hạnh phúc chính là niềm vui mà người khác mang lại cho mình. Maria đem niềm vui có Chúa đến cho người chị họ Isave. Bà chị họ chia sẻ niềm vui từ đứa trẻ nhảy mừng trong lòng khi nghe lời chào của Maria. Bài ca cám tạ của Đức Maria sẽ còn vội vã mãi, bao lâu người Kitô hữu chúng ta chưa mau chóng lên đường thực hiện nghĩa vụ yêu thương. Người anh chị em chúng ta sẽ còn nhiều khổ đau, cô đơn, nếu như chúng ta không làm cuộc thăm viếng, chia sẻ như Đức Maria. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp tục hoạt động, nâng đỡ, soi sáng, nhằm ý thức chúng ta ai cũng là người “được chúc phúc”, ngay từ khi ta có mặt trên cõi đời này. Amen.

Về mục lục

.

TIN ĐỂ ĐÁP LỜI XIN VÂNG NHƯ MẸ

Huệ Minh

Với ai thì không biết, nhưng với cái anh chàng trong bài hát “Điệu lý qua cầu thì như thế này :

Bằng lòng đi em về với quê anh

Một cù lao xanh một dòng sông xanh

Môt vườn cây xanh hoa trái đơm hương

Thuyền ai qua sông dòng hò mênh mông.

Bằng lòng đi em anh đón qua cầu

Mùa mưa cầu tre dẩu khó đưa dâu

Bằng lòng theo anh dưới mái tranh nghèo

Về đây người quê chỉ có tấm lòng

Có chiếc xuồng ba lá để yêu em

Ôi đóa hoa tím trôi líu riu

Dòng sông nước chảy líu riu

Anh thấy em nhỏ xíu, nhỏ xíu nên anh thương ơ…ơ…

Ôi những đêm ngăm sông nhớ em buồn muốn khóc

Mình anh ca điệu lý qua cầu.

Ôi đoá hoa …..anh thương ơ…ơ…

Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc

Mình anh ca điệu lý qua cầu.

Tình yêu của cái anh chàng này cũng như cái nhìn của người yêu anh chàng này có cái gì đó khang khác. Khác không chỉ ở thời của anh nhưng đặc biệt khác ở thời nay.

Người ta đi yêu ai đó thì người ta muốn giàu và có cái giàu nhưng với anh thì anh chỉ có mái tranh nghèo với tình yêu bằng cả tâm lòng. Và, người yêu của anh chỉ nhỏ xíu bên cạnh cái dòng sông nước chảy liu riu thôi.

Cái nhìn của anh, quan niệm của anh khác nhiều người.

Thiên Chúa cũng vậy, cái nhìn, quan niệm của Thiên Chúa hay nói đúng hơn là tư tưởng của Thiên Chúa khác tư tưởng của loài người.

“Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi”(Is 55,8).  Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt  bởi cách hàng động của Chúa không ? Những hành động đó không đúng với tính toán và dự liệu của chúng ta, và có khi đi ngược lại các dự tính của chúng ta.

Trang sách Mika vừa bộc bạch cho ta : “Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người, sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an”. 

Thật vậy, trải qua dòng lịch sử, Ngài đã thực hiện đúng như thế.

Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy, Đavít chỉ là một trẻ nhỏ đi chăn chiên tại Bêlem, thế nhưng Chúa đã chọn và đặt Đavít lên làm vua, chiến thắng được đạo quân hùng mạnh của Goliat và dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim.

Trường hợp của tiên tri Giêrêmia cũng vậy. Lúc bấy giờ ông mới chỉ là một em nhỏ còn nói cà lăm, thế nhưng Chúa đã chọn ông làm tiên tri để chuyển đạt thánh ý của Ngài cho toàn dân Do Thái.

Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như thế để làm những việc trọng đại.

Thiên Chúa đã hành động như vậy.

Trước mặt người đời thì Đức Maria và bà Isave là hai người không có hy vọng sinh con. Đức Maria thì khấn giữ mình đồng trinh. Còn bà Isave thì vừa son sẻ, lại vừa cao niên.

Quan niệm dân Do Thái cũng giống như quan niệm của người Việt Nam ngày xưa, coi sự kiện đông con nhiều cháu là một phúc lành do trời trao ban vì thế trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: đa tử đa tôn đa phú quý, đông con nhiều cháu và giàu sang. Bởi đó son sẻ và đồng trinh sẽ bị người đời cười chê, vì phải chăng đó là dấu bị Chúa chúc dữ? Phải chăng đó là dấu chỉ tương đường với sự chết bởi vì nếu chết là hết sống, thì son sẻ và đồng trinh là hết chuyển thông dòng sự sống.

Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như thế để làm những việc trọng đại. Đức Maria thì được chọn làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Cứu Thế. Còn bà Elisabeth thì được chọn làm mẹ Gioan, vị tiền hô dọn đường và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho muôn người.

Đức Maria, đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.

Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.

Tin là để cho chương trình cứu độ của Chúa đảo lộn chương trình sống của chúng ta.

Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.

Trước khi thưa lời: “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình riêng của Mẹ, và qua lời “Xin Vâng”, Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Chúa đảo lộn chương trình sống, và cùng Chúa bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.

Đức Maria được chúc phúc, bởi vì không những Mẹ đã tin, mà còn hành động theo lòng tin của mình nữa.

Mẹ Maria chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ thầm lặng ẩn dật, cưu mang Giêsu, hoa trái cứu độ rồi dâng hiến Ngài cho chúng ta. Ánh sáng không cần lời nói, sự sống hơi thở của con tim chính là sứ điệp. Khi lòng càng trống rỗng bao nhiêu thì con người càng gây nhiều tiếng động tình yêu. Kitô hữu là người cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng nhưng có thể mang Chúa Kitô phong phú và hữu hiệu như Mẹ Maria, khi ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ và yêu thích con đường kiểu sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ khiêm hạ.

Phần chúng ta, đứng trước Lời của Thiên Chúa, ta khiêm tốn và tin như Mẹ để đón Lời của Chúa vào trong đời của ta hay không ? Câu trả lời, Thiên Chúa để dành cho mỗi người chúng ta.

Về mục lục

.