CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG B
Lời Chúa: 2 Sm 7,1-5, 8b-12,14a,16; Rm 16,25-27; Lc 1,26-38
———
-
Không Có Gì Mà Thiên Chúa Không Làm Được(Lm. Ngọc Dũng, SDB)
- Một trinh nữ đẹp (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Hợp Tình Hợp Lý(Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
-
Xin Chúa Cứ Làm Cho Tôi Như Lời Sứ Thần Nói(Emmanuel Ng. Thanh Hiền, OSB)
-
Xin Vâng. (Lm. Thái Nguyên)
-
Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (Jorathe Nắng Tím)
-
Cùng Mẹ xin vâng (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Đáp lời Xin Vâng (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Hòm bia giao ước (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
-
Trinh Nữ sinh con (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Truyền tin (Lm. Vũ Đình Tường)
-
Xin vâng như trinh nữ Maria để chờ đón Chúa ra đời (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng (Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
-
Thiên Chúa toàn năng (Trầm Thiên Thu)
-
Mẹ Maria là cây cầu của Thiên Chúa và nhân loại (Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
-
Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 4 MV_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Đúc Chúa ở cùng Bà (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Khiêm nhường đón nhận (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Mẹ Maria vinh dự đón tiếp Chúa (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Lời “Xin Vâng” Cứu Độ (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Cuộc hòa đàm lý tưởng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Xin Vâng như Mẹ (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
7. Con bước theo Mẹ (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
8. Xin Vâng (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
9. Khiêm cung phó thác (Lm. Vinh Sơn)
10. Truyền tin cho cả tôi nữa (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
11. Suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Vọng_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
12. Suy niệm Chúa Nhật IV Mùa Vọng_B (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
13. Miệng lưỡi và lời nói (Trầm Thiên Thu)
14. Giải quyết vấn đề Maria (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)
15. Xin Vâng. (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
16. Suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Vọng Năm B (Lm. Anthony Trung Thành)
17. Nhạc khúc yêu thương (Lm. Thiện Duy)
18. Người phụ nữ và con rắn (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
19. Nỗi lòng không của riêng ai (JM. Lam Thy, ĐVD)
20. Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng (Fx. Đỗ Công Minh)
21. Sống lời thưa vâng (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
22. Thiên Chúa bước vào lịch sử nhân loại (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
23. Xin vâng thánh ý (Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng)
24. Tình Chúa muôn ngàn đời (Lm. Giuse Nguyễn văn Nghĩa)
25. Vang vọng lời truyền tin (P.Trần Đình Phan Tiến)
26. Ý Cha, Ý con (Lm. Vũ Đình Tường)
27. Cùng Mẹ đón Chúa đến (Lm. Đan Vinh)
28. Tình thương của Chúa (Lm. Giuse Nguyễn)
29. Thụ tinh Thiên Tạo (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
30. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng_B (Lm. Antôn)
KHÔNG CÓ GÌ MÀ THIÊN CHÚA KHÔNG LÀM ĐƯỢC
Lm. Ngọc Dũng, SDB
Phụng vụ của những ngày trước ngày Giáng Sinh đưa chúng ta về với lời hứa của Thiên Chúa, đó là ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Trong bài đọc 1 hôm nay, Ngôn Sứ Isaia trình bày cho chúng ta nghe về lời hứa mà Đức Chúa dành cho Đavít, Ngài sẽ xây dựng cho ông một nhà trường tồn: “Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Trước mặt Ta, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững, và ngai vàng của ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời” (2 Sm 7:11-12.14a). Trong lời hứa này, Đức Chúa chỉ ra cho Đavít biết rằng nỗi băn khoăn ông muốn xây cho Đức Chúa một ngôi nhà chỉ là ngôi nhà làm bằng bàn tay con người và chóng tàn, còn ngôi nhà Đức Chúa sẽ xây dựng cho ông sẽ trường tồn đến muôn đời. Ngôi nhà Đức Chúa xây dựng cho ông không làm bằng gỗ bá hương hay vàng son nhung gấm, nhưng làm bằng những con người là con cái và miêu duệ của ông qua muôn thế hệ. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về giá trị của con người phải được đặt trên giá trị của vật chất. Vì con người là tâm điểm của lời hứa cứu độ, nên mọi sự khác chỉ có ý nghĩa khi chúng trở thành phương tiện giúp con người đạt đến ơn cứu độ. Bên cạnh điều chúng ta vừa suy gẫm, lời hứa của Đức Chúa cũng nhắc nhở chúng ta về khuynh hướng chú tâm về những điều chúng ta “có thể làm cho Thiên Chúa” [đọc kinh, cầu nguyện, đi lễ, làm việc thiện, bố thí, đóng góp xây dựng nhà thờ, v.v.] mà quên mất những kỳ công Đức Chúa đã thực hiện cho chúng ta và gia đình chúng ta. Những gì chúng ta “làm cho Chúa” chóng tàn, giới hạn và tạm thời, còn những gì Thiên Chúa thực hiện cho chúng ta thì trường tồn, vô hạn và vĩnh cửu.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 trình bày cho các tín hữu biết việc Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang và quyền năng của Ngài qua việc cho muôn dân được nghe Tin Mừng cứu độ: “Tin Mừng đó mạc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa” (Rm 16:25-26). Trong những lời này, Thánh Phaolô cho các tín hữu Rôma biết về mục đích của Tin Mừng khi được mạc khải cho muôn dân, đó là để họ “biết, tin” và nhờ biết và tin mà họ “vâng phục” Thiên Chúa. Nói cách khác, để đón nhận và sống trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng, chúng ta cần phải biết, tin, và vâng phục [hay đem ra thực hành]. Nhìn lại cuộc sống hằng ngày của mình, chúng ta phải chân nhận rằng, nhiều lần chúng ta chỉ thực hiện một hoặc hai hành động trên chứ không hoàn toàn sống sứ điệp Tin Mừng. Chúng ta chỉ biết mà không tin và đem ra thực hành, hoặc chúng ta biết, tin nhưng đức tin của chúng ta là một đức tin chết vì không diễn tả qua hành động bác ái. Người sống trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng được mạc khải nơi Đức Kitô là người nỗ lực mỗi ngày để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.
Sau khi đã chuẩn bị những người “liên quan gián tiếp” với việc đến của Đấng Cứu Thế [như Dacaria, Êlisabét, Gioan Tẩy Giả, và nhất là Giuse], trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng thấy Thiên Chúa mời gọi và chuẩn bị người “liên quan trực tiếp” đến việc sinh ra của ‘Con Đấng Tối Cao.” Chúng ta cùng nhau suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay theo hướng hành trình đức tin như những bài Tin Mừng trong những ngày vừa qua nói về hành trình đức tin của Giuse và Dacaria [hai người nam]. Hành trình hôm nay là hành trình của một người nữ. Trong hành trình này, Mẹ Maria phải đối diện với những ‘điều vô lý’ nhìn từ khía cạnh con người. Mẹ đã đối diện với những ‘điều vô lý’ đó như thế nào? Chúng ta cùng nhau suy gẫm về hành trình đức tin của Mẹ để sống trọn vẹn hành trình đức tin của mình:
Như chúng ta đã trình bày trong bài chia sẻ hôm qua, hành trình đức tin là hành trình đi tìm sự hợp lý trong cái vô lý theo lối suy luận của con người. Bối cảnh của hành trình đức tin của Mẹ Maria là biến cố Êlisabét thụ thai: “Khi ấy, bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1:26-27). Những lời này chỉ ra cho chúng ta những chi tiết cần thiết bao quanh sự kiện truyền tin, đó là sự thụ thai của bà Êlisabét, nơi chốn xảy ra sự kiện, tình trạng của Mẹ và người Mẹ đã thành hôn lúc đó. Điều này ám chỉ rằng Thiên Chúa bước vào trong thế gian, hoặc bước vào cuộc đời của mỗi người chúng ta trong một bối cảnh rất cụ thể và trong tình trạng hiện thời của chúng ta. Nói cách cụ thể hơn, chi khi chúng ta lưu ý đến hoàn cảnh mình đang sống và tình trạng hiện thời của mình, chúng ta mới có thể khám phá ra sự hiện diện kín ẩn đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Cái không hợp lý thứ nhất chính là lời chào của Thiên Thần: “Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà’” (Lc 1:28). Vì lời chào này không hợp lý nên vừa “nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (Lc 1:29). Sự vô lý nằm ở chỗ là lời mời gọi ‘hãy mừng vui lên!’ Làm sao Mẹ có thể vui được khi dân của Mẹ vẫn đang sống dưới sự đô hộ của người Rôma; làm sao Mẹ có thể vui được khi toàn dân đang mong đợi Đấng Cứu Thế đến mà Ngài dường như quá xa vời; làm sao Mẹ có thể vui được khi lời cầu nguyện của Mẹ mỗi ngày cho Đấng Cứu Thế dường như bị rơi vào quên lãng. Nhưng sự ‘vô lý’ của lời chào đã trở nên ‘hợp lý’ khi Thiên Thần khẳng định cho Mẹ rằng niềm vui đó không đến từ bất kỳ điều gì, nhưng đến từ sự kiện là “Đức Chúa ở cùng bà,” Đấng ban cho Mẹ đầy ân sủng. Khi có Thiên Chúa ở cùng và ân sủng của Ngài đổ đầy tâm hồn mình, chúng ta sẽ nhận ra rằng không có điều gì trong cuộc sống này là vô nghĩa. Mọi sự xảy ra đều có một nguyên nhân và chúng ta có thể học được một điều gì đó từ nó. Thật vậy, chỉ có những tâm hồn được Thiên Chúa chiếm lấy mới có thể nhìn mọi sự với ánh mắt đầy yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa.
Sự không hợp lý thứ hai là chính nội dung của bản tin Thiên Thần mang đến: “Sứ thần liền nói: ‘Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1:30-33). Vì không hợp lý nên Mẹ Maria “thưa với sứ thần: ‘Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?’” (Lc 1:24). Sự ‘vô lý’ ở đây quá rõ ràng nhìn về phía con người, làm sao một cô gái ‘không biết đến việc vợ chồng’ mà có thể mang thai. Hay nói đúng hơn là làm sao một cô gái có thể mang thai khi không có sự ‘hợp tác’ của người nam! Để đối diện với sự ‘vô lý’ đó, Thiên Thần đã trấn an Mẹ với lời mời gọi ‘đừng sợ, vì bà đã được đẹp lòng Thiên Chúa.’ Những người sống đẹp lòng Thiên Chúa sẽ không sợ hãi trước những điều phi lý của cuộc sống. Dù có phải đối diện với bóng đen của cuộc sống, họ vẫn luôn kiên trung trong việc tìm kiếm và thực hành ý Chúa.
Cuối cùng, chúng ta thấy tất cả những gì không hợp lý được giải thích và trở nên ‘hợp lý’: “Sứ thần đáp: ‘Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được’” (Lc 1:35-37). Trong những lời này, chúng ta thấy điều làm cho Mẹ Maria nhận ra được ý nghĩa trong mọi sự chính là lời khẳng định của Thiên Thần: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Quả thật, đứng trước sự hợp lý [đứng về phía Thiên Chúa], Mẹ Maria liền “nói với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38). Tiếng “xin vâng” của Mẹ là hoa trái của một hành trình đức tin đi tìm sự ‘hợp lý’ trong những gì là ‘vô lý.’ Hành trình này chỉ được hoàn thành khi Mẹ và chúng ta xác tín rằng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Đứng trước câu khẳng định này, chúng ta có đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa để thưa “xin vâng” như Mẹ Maria khi sự hợp lý và sức lực của con người dường như ngoài khả năng không?
Lm. Jos DĐH.
Cuộc sống luôn phản ánh một sự thật, biết bao người chẳng diện mạo vóc dáng, nhưng khi tiếp xúc thì hết ngạc nhiên này, đến điều thú vị khác, vì họ vừa có tâm vừa có đức. Cũng không ít kẻ đẹp như tiên, giầu sang quý phái, ấy vậy mà lại thiếu sức hút ! Tiền nhân chúng ta thật khéo, khi đặt giá trị đẹp theo tiêu chí: tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Xưa kia, mức độ lộng lẫy hút hồn được diễn tả là “đẹp tựa trong tranh”, hôm nay, nét chuẩn được nói đến là đẹp như người mẫu, đẹp như hàng mẫu. Thực tế cho thấy, không phải nhiều tài lắm sắc gọi là công chúa, là hoàng tử, đâu phải cứ nết na mực thước, là con vua, con tướng. Không biết vì khó tính hay khắt khe, xã hội vẫn cho rằng đẹp người phải đẹp nết, giỏi văn, phải giỏi võ, mới đáng gọi là hoàn hảo.
Hôm nay, trình thuật tin mừng có ly kỳ không: một trinh nữ sinh con, đặc biệt chứ ? Đúng, trinh nữ xinh đẹp thời nào cũng có, chuẩn không cần chỉnh thì ít hơn, nhưng trinh nữ mà sinh con, khó tìm đã vậy, cũng chẳng ai hiểu, nếu suy xét theo lẽ tự nhiên. Trong đối nhân xử thế, bậc làm cha mẹ cũng từng lưu ý con cháu: con đường tốt để đến trái tim một người, chính là hãy nói với họ những lời trân trọng nhất. Sứ thần Chúa mang tin vui đến cho Thiếu nữ, cho toàn dân thiên hạ: “kính chào Maria đầy ơn phúc, …”, trinh nữ sẽ hạ sinh con trai, đặt tên là Giêsu. Từ cuộc đối thoại giữa Sứ thần Chúa và trinh nữ, nhân loại không khó phát hiện ra sự nết na chuẩn mực nơi thiếu nữ mang tên Maria.
Một trinh nữ đẹp không theo quy luật trẻ mãi không già, không gấm vóc lụa là, nhưng phát xuất bởi tình yêu: “này tôi là tôi tớ Chúa, xin cứ thực hiện nơi tôi điều Chúa muốn”. Thực tế nơi cuộc sống, các chuyên gia họ cho thấy kinh nghiệm rất hay về người đẹp: nét đẹp bên ngoài khiến người ta sững sờ khi gặp mặt, nét đẹp bên trong khiến người ta ngơ ngác lúc chia tay. Vâng, một người đẹp, một trinh nữ đẹp, một gia đình đẹp, tất cả, có phải luôn phản ánh về một tình yêu đẹp mà Thiên Chúa ban tặng nhân loại không ? Sứ thần Chúa chào Trinh nữ, Đấng đầy ân sủng, khi giải thích những thắc mắc cho Maria, Sứ thần động viên: “Maria, xin đừng sợ, vì trinh nữ đẹp lòng Thiên Chúa”. Có tâm, có đức, biết yêu, và sống tín thác, nhất định đã làm nên một tình yêu đẹp, một trinh nữ đẹp trường tồn qua các thời đại, không nằm ngoài tiến trình đó.
Người đẹp, tâm tính tốt, chúng ta hôm nay quan niệm thế nào ? Chắc không phải là chuyện hên xui, biết được ý tốt của bậc sinh thành, hiểu được thánh ý Chúa, đâu phải là ngày một ngày hai. Để thành toàn, để được gọi là xinh đẹp, tập luyện, ơn Chúa luôn là điều không thể thiếu. Có phải nếu ta muốn trở thành người hữu ích: đẹp người, đẹp nết, ta phải có quyết tâm biến ước mơ thành hiện thực, và điều đầu tiên ta phải thức tỉnh, không sống trong mê muội, ảo tưởng ! Nếu không có tình yêu, con người sẽ mãi mãi là đứa trẻ ; nếu thiếu sự khiêm tốn, cùng lời thưa vâng trong tín thác, nhân loại sẽ chẳng ai biết Đức Maria, một trinh nữ đẹp. Đồng ý rằng, vinh hoa phú quý, tài giỏi đức độ, là lợi thế, nhưng chúng có thể trở thành nguy cơ khiến người ngã gục, bởi tính kiêu căng tự mãn, nhầm lẫn: đâu là ý Chúa đâu là ý tôi !
Người đẹp, tâm hồn đẹp, cách sống chuẩn, ắt hẳn phải mang đến cho gia đình một hạnh phúc, một xã hội, một đất nước phồn vinh thịnh vượng thật. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài thông ban hạnh phúc, tin mừng thật, do đó tâm hồn đẹp và đúng, mới xứng hợp với gia nghiệp đời đời trong nước Chúa. Sứ thần Chúa sẽ còn đem tin vui tin mừng đến với Đấng “đầy ơn sủng”, chứ không phải “một chút ơn sủng”, không thể mang đến nửa mừng nửa lo cho Maria, cho thế giới. Đức Maira sẽ sống trọn vẹn lời thưa vâng, chứ không nửa lời thưa vâng. Xã hội loài người đã sớm biết định lượng “nét đẹp toàn diện”, chứ không phải đẹp tương đối, đẹp tượng trưng. Trước tình yêu đôi lứa, người ta còn biết chủ trương: người xinh đẹp ở bề ngoài chỉ khiến đàn số ông con trai họ dừng bước ngắm nhìn, người thông minh, có đẹp tâm hồn, chắc chắn sẽ thu hút được nam nhân quân tử kết thân làm bạn đời.
Một người đẹp, một nam thanh nữ tú thông thái, có tố chất anh hùng, một quốc gia đủ năng lượng, tài đức, mới đúng là một đất nước giầu mạnh. Người có ước muốn đạt tới đỉnh cao của hạnh phúc, cũng là người biết hòa hợp giữa “cái biết của mình và cái biết của người”, dù họ không được trang bị nhiều lợi thế, họ vẫn từng bước tới đích điểm hạnh phúc. Một trinh nữ đẹp, chắc sẽ không dừng lại nơi Đức Maria. Người đẹp, người tốt, cũng không nghĩ chỉ thuần túy là những ai sống đời dâng hiến, nhưng sẽ là tất cả những ai biết tín thác vào tình yêu Đức Kitô. Sứ thần Chúa sẽ còn muốn mong cả nhân loại cùng nghe, cùng hiểu: hỡi bạn, “bạn đừng sợ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được”. Amen.
Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc
Trải qua kinh nghiệm mới thấm thía lời dạy quả sâu sắc: khéo mồm miệng đỡ chân tay; khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Tài giỏi, khôn ngoan, chắc gì đã thành công, nếu bạn chưa áp dụng “cái biết” vào cuộc sống cho phù hợp. Xinh đẹp, hiền lành, đơn sơ, liệu có phải là tiêu chí mang lại hạnh phúc không, khi mà người đời vẫn dị ứng bởi câu thành ngữ: hồng nhan bạc phận; thật thà là cha thằng dại ! Tình yêu, niềm vui, hạnh phúc, ba thứ cần thiết luôn theo sát hành hình trần thế của mỗi người, dù hoàn cảnh và điều kiện không giống nhau. Quy luật chung: muốn bắt cá phải thả câu, muốn hạnh phúc phải đầu tư, không còn là ý tưởng mới, không thể tuỳ tiện nói cần cù bù cù cù lần !
Cuộc sống có vui có buồn, xen lẫn khó khăn thuận lợi, dù thời gian và tự do chọn lựa mỗi người mỗi kiểu. Sứ thần mang tin vui đến với trinh nữ Maria không phải tình cờ, Maria biết thân thưa và cởi mở nỗi lòng của mình đúng lúc đúng chỗ, đâu phải do tài giỏi, hoặc Maria đã làm nên công trạng gì hơn người ? Lời chào thăm không ngắn không dài, phảng phất niềm vui tự nhiên và siêu nhiên tạo nên vẻ đẹp của tình yêu nhưng không: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa”. Tình yêu khởi đầu từ niềm tin, tình yêu sẽ đằm thắm hơn khi niềm tin thắng vượt sợ hãi và khổ đau. Niềm vui hạnh phúc là kết quả của tình yêu, không hệ tại hên xui hay tài trí, mà do ta sử dụng khả năng và thích ứng cách hợp lý hợp tình.
Sống thế nào gọi là hợp lý, làm việc nghiêm túc, dấn thân phục vụ ở mức độ nào mới gọi là hợp tình, hẳn nhiều người đã từng nghĩ: tín nhiệm dễ mất khó tìm, một lần bất tín vạn lần không tin. Chuyện vui chuyện buồn, thành quả nhiều ít, niềm vui to hay nhỏ, tuỳ mỗi người, bởi ai cũng biết nên làm việc thiện, xa điều xấu: khuyên ai ăn ở cho lành, kiếp này không gặp để dành kiếp sau. Hiểu đúng, nói đúng, và sống chuẩn, tư duy đó, hoàn toàn phù hợp với mọi thời. Nét đẹp của bức tranh là sự cân đối, hài hoà giữa nội dung và mầu sắc. Tình yêu ngát hương hệ tại sự trưởng thành giữa con tim và khối óc, đủ nhạy bén trước nhu cầu sống đúng, sống đẹp. Biến cố truyền tin thật vĩ đại khi thánh ý Chúa được đón nhận, và Đức Maria biết sống lời thưa vâng.
Hợp tâm hợp tính, hợp lý hợp tình, mới chỉ đẹp về phương diện bên ngoài, thực ra ý chí tự do cùng với sự bình an tâm hồn, sẽ mãi mãi là nét đẹp lời thưa vâng bằng niềm tin: “không có việc gì mà Chúa không làm được”. Tiền nhân có câu: kẻ tầm thường tìm cách giết thời gian, người khôn ngoan tìm cách vận dụng lợi thế của thời gian. Cuộc đối thoại giữa trinh nữ và sứ thần cho thấy, nét đẹp tâm hồn trinh nữ, hết sức quảng đại với lời thưa vâng tín thác. Đức Maria đã nghe, đã hiểu, và luôn sống thánh ý Chúa, như lời sứ thần quả quyết: “không có việc gì mà Chúa không làm được”. Sống cầu nguyện, sống niềm tin, sống lời thưa vâng, sẽ mãi mãi là đẹp, là chuẩn, là phù hợp với tinh thần người môn đệ theo Đức Kitô.
Sống có tình có lý, làm việc có trước có sau, có trên có dưới, biết tín thác vào tình yêu phù hợp với lời thưa vâng là con thảo con hiếu, vì chưng, bình an hạnh phúc không phải là thứ có sẵn, mà ở trong ý chí tự do hành động. Ngày hôm nay, không còn cảnh thụ động ngồi chờ thời, chờ tin vui tin mừng, đổi đời, đổi thay hoàn cảnh sống của mình. Đúng hơn, người ta đang năng nổ cậy nhờ nhiều thế lực, trong đó có cả việc đến nhà thờ, nhà chùa xin trợ giúp. Thực tế ở đời: nhất thân nhì thế, cái gì mua được bằng tiền, cậy nhờ được do quen biết, điều đó chỉ thuộc về giá trị vật chất. Trong khi đó, nét đẹp của tình yêu, của niềm tin, phát xuất từ một tâm hồn sạch trong, một tinh thần tự do, buông bỏ ý riêng để ý Chúa thể hiện.
Lời cầu hay nhất, đầy đủ nhất, khiêm tốn nhất, cũng gọi là “mạo hiểm” nhất mà trinh nữ Maria đã thưa: “này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Sức mạnh của niềm tin và giá trị thật của tình yêu, chuẩn nhất vẫn là cậy nhờ Chúa, lắng nghe và để Chúa dẫn dắt theo chương trình của Chúa. Truyện ngụ ngôn: “toàn thắng”, nói về cuộc đua giữa thỏ và rùa. Hiệp 1 thỏ thắng, rùa thua. Hiệp 2 rùa thắng, thỏ thua, vì sự lơ là của thỏ. Hiệp 3, nhờ biết ngồi lại với nhau, mà cả thỏ và rùa cùng thắng, không có kẻ thua. Nghĩa là thỏ cõng rùa trên đường, lúc qua sông suối, rùa cõng thỏ, nên cả đôi bên dễ dàng tới đích. Trinh nữ Maria đón nhận tin vui, và sống tin vui đó với cả niềm tín thác cậy trông Chúa, thật hợp lý và hợp tình. Xin Mẹ giúp đoàn con của Mẹ cũng biết sống lời thưa vâng bằng tình yêu và sức mạnh của cậy trông như Mẹ.
XIN CHÚA CỨ LÀM CHO TÔI NHƯ LỜI SỨ THẦN NÓI
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần IV Mùa Vọng, năm B này, các nhà phụng vụ muốn cho chúng ta nhận thấy rằng: Chúa Cha đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng ta biết thật Ðức Kitô, đã xuống thế làm người, chúng ta hãy cầu xin Người đổ ơn thánh đầy lòng chúng ta, để nhờ công ơn chịu khổ hình thập giá của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được sống lại hiển vinh.
Lời Tổng Nguyện đã cho chúng ta thấy bóng dáng của thập giá: Mầu Nhiệm Nhập Thể gắn liền với Mầu Nhiệm Thập Giá. Trong bài đọc hai của ngày lễ hôm nay, thánh Phaolô đã cho thấy: Ơn cứu độ là một mầu nhiệm được giữ kín tự ngàn xưa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí, tư tưởng của Người ai dò cho thấu, đường lối của Người ai hiểu cho tường. Mầu Nhiệm Nhập Thể và Mầu Nhiệm Thập Giá là sự ngu dại và điên rồ trước mắt thế gian, nhưng, Thiên Chúa đã chọn cách thế này để cứu độ con người.
Ơn cứu độ là ơn huệ hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa. Chúng ta không thể tự cứu được mình, mà chỉ cộng tác bằng cách mở lòng ra đón nhận ơn cứu độ của Chúa mà thôi. Không phải chúng ta làm, nhưng, là chính Chúa sẽ làm cho chúng ta, như trong bài đọc một, Chúa nói với vua Đavít qua ngôn sứ Samuen: Người mà xây nhà cho Ta ở sao?… Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền… Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững, và ngai vàng của ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời.
Giao ước đã lập ra, muôn đời Chúa nhớ mãi. Một khi Thiên Chúa đã yêu thương và kêu gọi, thì Người không bao giờ đổi ý. Chính vì thế, trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 88, vịnh gia đã xưng tụng: Lạy Chúa, tình thương Chúa đời đời con ca tụng. Qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài.
Ơn cứu độ là một lời mời gọi, cho nên, cần một lời hồi đáp. Đức Maria đã thưa tiếng “xin vâng” để đáp lại lời mời gọi cộng tác vào trong công trình cứu độ của Thiên Chúa, như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay: Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói. “Xin Chúa cứ làm”, chỉ một mình Chúa mới có thể làm được điều diệu kỳ như thế: một trinh nữ, mà lại, sinh được con. Trong bài Tin Mừng, sứ thần đã giải thích cho Đức Maria: vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.
Muốn hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta phải bắt chước Mẹ, thưa tiếng “xin vâng”. Đức Maria đã xin vâng, khi Mẹ kết hiệp với Đức Giêsu, Con của Mẹ trong chương trình cứu độ, biểu lộ từ lúc: Mẹ thụ thai Chúa, cho đến lúc, Chúa chịu chết trên Thập Giá. Mẹ đã xin vâng trong biến cố Truyền Tin như một bước khởi đầu, và chóp đỉnh của lời “xin vâng” được hoàn tất nơi Mầu Nhiệm Thập Giá. Mẹ xin vâng làm Mẹ Thiên Chúa, trong lần truyền tin thứ nhất do sứ thần đưa tin, và Mẹ đã xin vâng làm Mẹ Hội Thánh, Mẹ của toàn thể nhân loại, trong lần truyền tin thứ hai do chính Ngôi Lời Thiên Chúa trăn trối cho Mẹ biết.
Trong Mầu Nhiệm Truyền Tin, Mẹ đã xin vâng khi trao dâng cung lòng trinh trong cho Con Thiên Chúa ngự vào; nơi Mầu Nhiệm Thập Giá, Mẹ đã xin vâng khi đón nhận toàn thể nhân loại vào trong tâm hồn. Trong Vườn Địa Đàng, bên cây Trái Cấm, bà Evà đã đánh mất quyền làm mẹ chúng sinh, khi từ chối thưa “xin vâng” Thiên Chúa; trên đồi Canvê, dưới chân Thánh Giá, Mẹ đón nhận quyền làm Mẹ của toàn thể nhân loại, khi tự nguyện xin vâng thánh ý Chúa.
Bởi vì, luôn sẵn sàng xin vâng Thiên Chúa, cho nên, Mẹ đã hoàn toàn bình tâm trước mọi thử thách. Không gì có thể ràng buộc Mẹ, ngoài một mình Chúa là tự do của đời Mẹ. Vì luôn sẵn sàng xin vâng Thiên Chúa, nên Mẹ hoàn toàn hạnh phúc, và được gọi là Đấng Toàn Phúc. Ước gì chúng ta biết học đòi bắt chước Mẹ, để đáp lời “xin vâng” với Thiên Chúa, mỗi khi, Lời của Người muốn ngỏ với chúng ta, trong từng hoàn cảnh, qua mỗi biến cố cụ thể của cuộc sống này.
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, Hội Thánh cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng quen thuộc: “Sứ Thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Maria”. Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho cô Maria, như một thụ tạo tuyệt vời, độc nhất vô nhị, chỉ vì Ngài muốn cô xứng đáng trở nên người mẹ cưu mang chính Con Một của Ngài. Tuy nhiên, Thiên Chúa không ép buộc, Ngài không đặt Maria trước một sự việc đã rồi. Ngài muốn hỏi ý và chờ cô đáp trả một cách tự do.
Khung cảnh truyền tin không phải nơi lộng lẫy uy nghiêm như trong đền đài vua chúa, nhưng diễn ra nơi một thôn quê nghèo nàn, đơn sơ, giản dị, nhưng Thiên Chúa lại chọn làm khởi điểm lịch sử cứu độ. Sứ Thần đến gặp và cung kính thưa với người nữ ấy rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28).“Ðấng đầy ân sủng” là tên gọi đẹp nhất mà Thiên Chúa đã ban cho cô Maria, để chỉ cô là Ðấng được Thiên Chúa tuyển chọn, được đón nhận ân ban cao quý nhất, là sinh ra Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Thôn nữ Maria sợ sự tôn vinh bất thường ấy, và tự nhủ lời chào ấy có ý nghĩa gì? Đúng là sự tỉnh thức thận trọng của một thục nữ trinh trong, sáng ngời, đầy khiêm nhu và thùy mị. Sứ thần đã nhận ra sự bối rối đó và giải thích thật cặn kẽ, là “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa…bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai,… được gọi là Con Ðấng Tối Cao… Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người…”
Nhưng đối với Maria, “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” hơn cả ngai vàng vua Đavít, vì Maria muốn tận hiến đời mình cho Thiên Chúa, nên từ tốn đáp: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Trong khi Maria bối rối thì thiên sứ cho cô biết chương trình lớn lao của Thiên Chúa. Cô vẫn đồng trinh nhưng nhận được ân sủng và thụ thai siêu nhiên bởi Chúa Thánh Thần, nên Hài nhi sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Thật là một mạc khải to tát cho nhân loại: Thiên Chúa sẽ đi vào đời, ở giữa mọi người, sống như mọi người với tất cả thần tính và nhân tính của Ngài.
Những gì được báo tin vượt quá trí tưởng tượng và khả năng hiểu biết của trinh nữ Maria, nên thiên sứ minh chứng ngay điều lạ lùng đã xảy ra cho Elisabét, người chị họ son sẻ đã già nua mà đã có thai sáu tháng, “vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Nhận ra thánh ý Thiên Chúa, Maria sấp mình thưa:“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Sau tiếng Xin Vâng, Ngôi Lời đã thành thai nhi và lớn lên trong cung lòng trinh nữ Maria. Quả là một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại mà Thiên Chúa đã thực hiện vì yêu thương con người.
Maria nói tiếng Xin Vâng không phải vì thấy rõ con đường Chúa muốn, không phải vì hiểu hết được việc Chúa làm. Có những biến cố sau này mà Mẹ chẳng hiểu chi, chỉ biết ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2, 19). Mẹ Xin Vâng vì tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Là thiếu nữ Sion, lẽ nào Mẹ lại không biết đến câu ca ngợi lòng từ bi Chúa: “Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục, luôn giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa. Tựa chim bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay nhảy, xoè cánh ra đỡ lấy rồi cõng con trên mình.” (Đnl 32, 10). Trong cảm nhận đầy tràn ân sủng Chúa, Mẹ cũng đã xướng lên lời kinh ca ngợi thật tuyệt vời (x. Lc 1, 46-55).
Tiếng Xin Vâng của Đức Maria đã đưa Con Thiên Chúa vào lòng thế giới. Nhờ những tiếng xin vâng của tôi, mà Đức Giêsu có chỗ trong lòng người hôm nay. Muốn vậy, tôi hãy sẵn sàng với Chúa qua mọi nỗi khó khăn và thử thách trong đời, như một cách cưu mang Chúa trong lòng, để Ngài sinh ra cho môi trường tôi đang sống, để Ngài lớn lên trong mọi việc tôi làm, và đem lại ân phúc cho những người tôi phục vụ.
Cầu nguyện
Lạy Mẹ Maria!
Mẹ tuyệt vời khi thưa tiếng “Xin Vâng”,
để Con Thiên Chúa được xuống trần,
mang phận người để cứu độ muôn dân.
Tiếng “xin vâng” của Mẹ đạt tới tột đỉnh,
trong lời “xin vâng” dưới chân thập giá,
khi ôm xác Chúa Giêsu vào lòng,
trong tình yêu mến và hiệp thông.
Lưỡi đòng đâm thâu vào cạnh sườn Chúa,
như đâm thâu vào chính trái tim Mẹ,
Mẹ vẫn xin vâng như thuở nào,
vẫn dâng trào niềm khao khát hiến dâng.
Mẹ diễm phúc vì đã tin điều Chúa hứa,
Mẹ tuyệt vời vì đã theo ý Chúa làm.
Xin đừng để con thể hiện ý mình,
nhưng xin vâng mọi điều theo ý Chúa.
Xin Mẹ giữ gìn con trong vòng tay Mẹ,
để khơi dậy và nuôi dưỡng đức tin,
để nâng đỡ và soi sáng đức cậy,
để khích động và linh hoạt đức ái.
Xin dìu con trên nẻo đường thánh thiện,
biết âm thầm lặng lẽ sống hy sinh,
luôn trung trinh và từ bỏ chính mình,
để dâng hiến trọn một đời cho Chúa.
Cuối cùng, xin đặt con vào trái tim Mẹ,
cho con luôn ôm lấy Mẹ trong trái tim con,
để một ngày kia được trọn niềm mơ ước,
là vui vầy bên Mẹ cõi thiên đường. Amen.
KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC
Jorathe Nắng Tím
Trình thuật về buổi gặp gỡ giữa sứ thần Gabrien và trinh nữ Maria ở Nadarét mà thánh sử Luca đã chi tiết kể lại xem ra đã không đặt trọng tâm vào người nhận sứ điệp “Truyền Tin” là Đức Maria, nhưng đặt trọng tâm vào “Ngôi Lời Thiên Chúa” sắp được thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, và được sinh ra từ cung lòng Đức Trinh Nữ (x. Lc 1,26-38).
Thực vậy, ngay từ lời chào khởi đầu cuộc diện kiến, sứ thần đã giới thiệu Đức Chúa, và khẳng định : “Bà đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28). Tiếp liền sau đó, sứ thần cho Trinh Nữ biết Tên của Con Trẻ mà Trinh Nữ sẽ mang thai và hạ sinh, và Đấng có tên Giêsu ấy chính là Con của Thiên Chúa Tối Cao, Đấng “được Thiên Chúa xức dầu tấn phong và sai đến”, mà toàn dân hằng mong đợi, như Kinh Thánh đã nói về Ngài : “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của người con ấy được bền vững… Đối với người ấy, Ta sẽ là Cha, và đối với Ta, người ấy sẽ là con” (2 S 7,12.14), “Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi bé nhỏ nhất trong các thị tộc Giuđa, nhưng từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa” (Mk 5,1), và chính xác, rõ ràng hơn là “Đức Chúa sẽ ban cho các ngươi một dấu chỉ : Này đây một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen” (Is 7,14).
Nhưng điểm quan trọng hơn mà thánh Luca muốn nhấn mạnh, đó là : qua Đức Giêsu, mầu nhiệm về Thiên Chúa vốn được giữ kín tự ngàn xưa, nay “được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin và vâng phục Thiên Chúa” ( Rm 16,26) hầu được cứu rỗi, bởi Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa và là Ngôi Lời của Thiên Chúa “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14 ), và chỉ người Con Một này, “Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha” mới tỏ được cho chúng ta biết mầu nhiệm về Thiên Chúa, bởi ngoài Ngôi Lời, chưa bao giờ có ai thấy Thiên Chúa (x. Ga 1,18).
Đến lúc này thì sứ thần gặp phải vấn nạn của Trinh Nữ : “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34).
Vấn nạn rất thông minh và nhân bản, vấn nạn rất chân thành và đơn sơ, vấn nạn rất lương thiện và công bằng, vì việc thụ thai mà không “ăn ở” với đàn ông là việc ngoài sức tưởng tượng, việc của thượng giới, việc của trời thần, chứ loài người làm sao thực hiện được. Cũng vì là việc không thể có, và vượt trí khôn nhân loại, mà những người chống lại Giáo Hội mãi mãi dùng sự kiện “Trinh Nữ thụ thai và sinh hạ con trai” làm tiền đề để bôi bác, chể diễu, phỉ báng Kitô giáo, và chụp cho người Kitô hữu cái mũ “mê tín nhảm nhí, phản khoa học, mê muội trước một đức tin huyền hoặc, phi lý, phản tự nhiên”.
Qủa thực, nếu Thiên Chúa không can thiệp thì việc ấy không thể thực hiện ; nếu Chúa Thánh Thần không tác động, thì bào thai không thể thành hình trong cung lòng của Trinh Nữ ; nếu quyền năng Đấng Tối Cao không rợp bóng trên con người, thì không bao giờ có chuyện trinh nữ mà thụ thai và sinh con, vì đi ngược luật tự nhiên của chính Đấng Tối Cao thiết lập trên thụ tạo của Ngài.
Nhưng chính vì luật tự nhiên, quy trình tự nhiên, đòi hỏi tự nhiên, điều kiện tự nhiên trong việc cưu mang và sinh sản con người nằm trong tay Thiên Chúa, do chính Thiên Chúa tạo dựng, nên đối với Thiên Chúa, việc thay đổi luật tự nhiên cũng không khác việc lập nên luật tự nhiên ấy. Nói cách khác, Ngài có toàn quyền làm điều Ngài muốn, toàn năng để thực hiện những việc mà loài người không thể tưởng tượng, chưa hề quan niệm, nhất là Ngài toàn thiện để mọi sự được trở nên tốt đẹp đối với những ai yêu mến Ngài.
Ở đây, dù là việc thụ thai khi chưa hề chung sống với chồng là việc bất khả thể đã gây bối rối cho Đức Maria, nhưng vì là người đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng và yêu mến Thánh Ý Ngài, nên Đức Maria đã không nghi nan, lo sợ nữa, khi được sứ thần Gabrien trấn an : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”, và để lời mình có giá trị thuyết phục, sứ thần đã cho Đức Maria biết : “Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, và sứ thần kết luận : “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,35-37).
“Không có gì là không thể làm được”, khi Thiên Chúa đến với con người, “đến trong con người”, trở thành “người con” của con người, được sinh ra từ cung lòng của một con người.
“Không có gì là không thể làm được”, khi cho cung lòng con người được cưu mang Thiên Chúa, cho thân xác con người được trở thành nhà Thiên Chúa ở, Đền Thờ Thiên Chúa ngự, cho Máu Thịt Thiên Chúa trở nên của ăn, của uống nuôi sống con người.
“Không có gì là không thể làm được”, khi Thiên Chúa không “tàng hình” để cứu chuộc, không “vô hình” để cứu chữa, nhưng làm người hữu hình như mọi người, để chịu đau đớn trên thân xác, chịu đau khổ trong tâm hồn, bị đóng đinh chết và chôn trong mồ như mọi người, để mọi người được làm con Thiên Chúa, chia sẻ thiên tính của Ngài khi được “đồng hình đồng dạng” với Ngài.
“Không có gì là không thể làm được”, khi sống lại vinh quang từ cõi chết, và cho mọi người được “nhìn thấy Đấng Cứu Độ của mình” (x. Ga 20 ; Mt 5,8).
Vâng, vì tin chắc rằng : “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, Trinh Nữ Maria đã đón nhận ơn gọi và sứ vụ “làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa” là mầu nhiệm vượt xa khả năng hiểu biết của loài người ; vì tin “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, Đức Maria, người Kitô hữu tiên khởi đã sẵn sàng trở thành khí cụ trong tay Thiên Chúa để Lời Hứa của Thiên Chúa với Ítraen, dân Ngài trong Cựu Ước được hoàn thành mỹ mãn trong Tân Ước, với Giáo Hội của Đức Giêsu, một Giáo Hội mở ra cho hết mọi người của mọi thời và mọi nơi.
Cùng với Đức Maria, chúng ta ngợi khen Chúa, vì những việc kỳ diệu, mà loài người cho là “không thể làm được” Ngài đã thực hiện, vì xót thương ; tạ ơn Chúa vì biết bao “điềm thiêng, dấu lạ”, mà loài người “không thể tin là có được” đã được Chúa ban phát trong cuộc đời mỗi người, và với Đức Maria, người tín hữu gương mẫu, Kitô hữu tuyệt vời đã tín thác trả lời sứ thần : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38), chúng ta hãy giúp nhau tín thác dấn thân phụng sự Chúa trong mọi người, bằng “loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ, Chúa chúng ta lại đến”.
Bông hồng nhỏ
Thiên Chúa đã luôn ngỏ lời mời gọi con người cộng tác với Người trong rất nhiều công việc. Hôm nay, lắng nghe trình thuật về việc sứ thần Gáprien được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Đức Maria, lòng ta được mở ra trước Lời Chúa. Ta được lắng nghe những lời mời gọi mà Chúa đã dành riêng cho ta, được nhận ra tình thương Chúa dành cho mình, hạnh phúc vì sự quý trọng mà Chúa dành cho ta khi mời gọi ta cộng tác với Người. Chiêm ngắm mẫu gương của Mẹ Maria, ta cảm phục trước thái độ vâng phục trong khiêm hạ của Mẹ, được cùng với Mẹ chia sẻ niềm vui có Chúa ở cùng. Lòng ta cũng âm vang một lời nguyện cầu tha thiết: Xin Chúa cứ làm cho con như điều Chúa muốn (x. Lc 1, 38).
Thánh sử Luca đã thuật lại rằng: “Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.’ ” (Lc 1, 26-28). Mẹ Maria được mời gọi hãy mừng vui lên, mừng vui lên vì Mẹ là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Đó là một tin vui cho Mẹ. Lời xác nhận của sứ thần khiến cho Mẹ bối rối và tự hỏi: lời chào như vậy có nghĩa gì (x. Lc 1,29). Sứ thần Gáprien cho mẹ biết về công trình mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Mẹ. Khi lắng nghe lời mời gọi của Chúa, Mẹ đã đối thoại, bàn hỏi để hiểu rõ thánh ý mà Người muốn dành cho Mẹ, cách mà Người sẽ thực hiện trên Mẹ những gì Người muốn. Mẹ hoàn toàn tự do trong chọn lựa của mình, không hề bị thúc ép, lo lắng hay sợ hãi. Trái lại, lòng khiêm nhường nơi người nữ tì của Chúa luôn chân thành mở ra trước thánh ý Người. Mẹ sẵn sàng đối thoại để được Thiên Chúa ban ơn soi sáng.
Chiêm ngắm thái độ khiêm nhường thẳm sâu của Mẹ, ta tự thấy mình hổ thẹn. Mẹ đã không tự nhận mình là Đấng đầy ân sủng, danh hiệu ấy là do Thiên Chúa dành tặng cho Mẹ. Còn ta, trong cuộc sống thường ngày, ta có thường xuyên bàn hỏi với Chúa về những gì mình sẽ làm không? Ta có hỏi ý kiến của Người để biết đâu là thánh ý mà Người dành cho ta không? Đâu mới là điều đẹp lòng Người? Ta có nhận ra tất cả những gì tốt đẹp nơi ta đều do bởi Chúa hay ta quy về mình hết thảy? Đã có nhiều khi, ta tự quyết tất cả. Sau những chọn lựa sai lầm, ta đã hối hận. Thất bại đã làm ta ngã gục. Trong đau đớn, ta tìm đến với Chúa, có khi là trách móc Chúa hay tự dằn vặt chính mình. Thiên Chúa rất mực yêu thương ta. Người vẫn ngỏ lời mời ta cộng tác với Người trong công trình cứu độ mà Người dành cho chính ta. Dù ta lỗi lầm và bất xứng, Người vẫn dành cho ta một sự trân trọng đáng quý khi ta biết sám hối ăn năn. Đó là món quà luôn luôn mới mẻ và hấp dẫn mà ta cần đón nhận và khám phá.
Thử đặt mình trong vị trí của Mẹ Maria lúc bấy giờ, phần nào ta cũng cảm nhận được những thử thách mà Mẹ đã phải trải qua. Mặc dù lúc ấy, Mẹ Maria đã thành hôn nhưng chưa về chung sống với Thánh Giuse, việc Mẹ nói lời “xin vâng” đồng nghĩa với việc Mẹ sẽ mang thai mà không do người phàm. Theo luật Môsê, phụ nữ “không chồng mà mang thai” thì sẽ bị ném đá. Vị hôn phu của Mẹ sẽ làm gì khi biết Mẹ “phản bội” tình yêu của mình? Mẹ biết rõ những thử thách đang bày ra trước mắt mình nhưng Mẹ vẫn giữ vững một niềm tin và lòng tín thác vào Đấng mà Mẹ hết lòng mến yêu. Đúng như lời Mẹ đã thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38). Tất cả cuộc đời của Mẹ đều được thực hiện trong tình yêu nhiệm mầu của Thiên Chúa. Noi gương Mẹ, ta hãy xin Chúa thực hiện cho ta những gì Người muốn.
Lạy Cha là Thiên Chúa cao cả tốt lành! Cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương con và mời gọi con cộng tác vào công trình cứu độ mà Chúa đã dành cho con. Chiêm ngắm cuộc đời của Đức Maria- Mẹ Thiên Chúa, con thấy lòng mình ngập tràn hạnh phúc, hạnh phúc vì có Mẹ là mẫu gương cho con trên hành trình thực thi thánh ý Chúa. Xin Chúa dạy con biết sống khiêm nhường, cậy trông nơi Chúa và luôn biết thưa “Xin vâng” như Mẹ. Amen.
Anna Cỏ may
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa ở trần gian. Sứ thần đã đến ngỏ lời với Mẹ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28). Nghe lời ấy, Mẹ Maria bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có ý nghĩa gì? Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người vô cùng vô tận” (x. Lc 1,30-33). Quả thật, Mẹ Maria hoàn toàn chưa biết đến việc vợ chồng cũng chưa hay việc Mẹ sẽ thụ thai như thế nào nhưng Mẹ tin vào Thiên Chúa, tin Người sẽ thực hiện nơi Mẹ điều sứ thần đã nói: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên bà” (Lc 1,35a). Từ niềm tin dẫn tới hành động, Mẹ đã đáp lời xin vâng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Lời xin vâng của Mẹ phát xuất từ lòng yêu mến, sự tín thác và lòng tự do đáp trả lời Chúa qua sứ thần. Với lời xin vâng, Mẹ trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa, và lời hứa ban ơn cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện cho dân Người.
Thiên Chúa rất yêu thương con người. Ngài khao khát cho con cái của Ngài được hạnh phúc. Ngài hằng yêu và cần đến chúng ta. Vì vậy, dầu con người lỗi lầm thế nào thì Ngài vẫn tha thứ để con người được sống hạnh phúc với Ngài. Ngài đã nói với con cái rằng: “Chính Ta phù trợ ngươi- sấm ngôn của Đức Chúa. Đấng cứu chuộc ngươi là Đức Thánh của Ítraen” (Is 41,14b). Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có muốn Chúa đến ở lại trong tâm hồn mình và có muốn Ngài làm Đấng bảo trợ cho chúng ta không? Nếu có, bạn hãy đáp lại Ngài bằng lời xin vâng, bằng sự thống hối; hãy cộng tác với Ngài bằng cách chạy đến với Ngài trong Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hòa giải. Đến với Ngài, mọi người sẽ được thỏa mãn mọi nhu cầu một cách tuyệt vời theo sự giàu sang của Ngài trong Đức Kitô Giêsu (x. Pl 4,29). Nếu bạn không muốn Chúa ngự trong tâm hồn thì Chúa cũng phải đứng ở ngoài vì Chúa tôn trọng sự tự do của bạn. Bạn sẽ được lãnh nhận phần thưởng xứng đáng với việc bạn đã chọn lựa.
Hôm qua, Thiên Chúa đã đến với con người bằng việc xuống thế làm người. Hôm nay, Ngài vẫn đến với con người qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Bạn có đang đáp lời xin vâng và chờ đợi Con Thiên Chúa đến với bạn không? Chúa vẫn đang gõ cửa tâm hồn bạn và chờ đợi bạn mở của lòng. Ngài biết bạn cần gì trong giây phút hiện tại. Bởi chính Ngài đã dựng nên bạn (x. Tv 119).
Lạy Chúa! Chúa biết con đang sống thế nào, dầu con có cố gắng thế nào cũng không thể đến với Ngài vì thân xác con nặng nề. Xin ban Thánh Thần dũng lực đến nâng đỡ và đưa con về với Chúa vì chính Ngài là sức mạnh của con. Amen.
Thiên San
Trong thời Cựu Ước, Hòm Bia Giao Ước chính là dấu chỉ cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân. Khi được bốn bề yên ổn, ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, vua Đavid thao thức, băn khoăn khi Hòm Bia Thiên Chúa ở trong lều vải. Ông muốn xây cho Đức Chúa một ngôi nhà. Thiên Chúa thấu suốt tấm lòng của ông. Trong thời Tân Ước, Thiên Chúa chuẩn bị cho Con Một của mình một ngôi nhà, một Hòm Bia Giao Ước mới. Hòm Bia đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Trong kinh Cầu Đức Bà, Đức Maria được ca ngợi là Hòm Bia Thiên Chúa. Quả thực, Mẹ được Thiên Chúa chọn làm mẹ Con Thiên Chúa. Cung lòng Mẹ trở nên mái nhà ấm áp, tinh tuyền cho Con Một ngự vào. Nhưng để trở nên Hòm Bia Thiên Chúa, Mẹ đã phải chấp nhận gạt qua dự định, kế hoạch của riêng mình để thưa vâng với kế hoạch của Thiên Chúa. Có lẽ, lúc đó Mẹ chưa hiểu được sứ mạng cao cả Thiên Chúa trao phó cho mình. Đơn giản, Mẹ thưa vâng vì Mẹ ý thức thân phận nữ tỳ của mình. Một nữ tỳ hèn mọn, được Thiên Chúa đoái thương. Mẹ đã bối rối trước lời chào Sứ thần dành cho mẹ. Điều đó thật dễ hiểu. Mẹ lắng nghe, và thưa vâng. Từ đó, lới hứa từ ngàn xưa được thực hiện. Cũng từ đó, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Đó là tình yêu bao la Thiên Chúa dành cho nhân loại. Một tình yêu lớn lao đến nỗi ban tặng Con Một yêu dấu.
Kinh thánh kể lại, vua David đã từng nhảy mừng trước Hòm Bia Thiên Chúa. Nhà vua nhảy mừng như một đứa trẻ gặp lại mẹ của mình. Khi Đức Maria đến thăm bà Êlisabet, hài nhi Gioan cũng nhảy mừng trong bụng mẹ, và được tràn đầy Thánh Thần (x. Lc 1, 43). Bà Êlisabét cũng vui sướng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 1, 43-44). Đức Maria thật sự là hòm Bia Giao Ước mới khi cưu mang Con Một Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, chúng ta cũng là Hòm Bia Giao Ước. Thực vậy, nếu xét cho kỹ, ta sẽ thấy rõ hơn điều này. Hòm Bia Giao Ước chính là dấu chỉ về sự hiện của Thiên Chúa ở giữa dân. Đức Maria trở nên Hòm Bia Giao Ước khi Mẹ được chọn làm mẹ Con Thiên Chúa. Thiết nghĩ, mỗi khi chúng ta được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng là mỗi lần chúng ta được trở nên Hòm Bia Giao Ước. Đó cũng là đền thờ cho Thiên Chúa ngự vào. Tự sức mình, chúng ta không thể trở nên Hòm Bia cho Chúa ngự vào. Phần chúng ta, để bớt bất xứng, một thái độ khiêm tốn, hoán cải, sửa đổi đời sống và nhất là noi gương Mẹ Maria sẵn sàng thưu vâng với thánh ý Thiên Chúa là điều rất cần thiết.
Trên bàn thờ, cây nến thứ tư được thắp lên, nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: “ngày ấy” đã rất gần. Chúng ta đã và đang chuẩn bị những gì để đón mừng ngày sinh nhật Chúa?. Ngay từ bây giờ, chúng ta cần nhận ra tình thương lớn lao Thiên Chúa dành cho mình để luôn biết cách chuẩn bị tâm hồn làm đền thờ, Hòm Bia cho Chúa ngự vào. Thiên Chúa yêu thích những tâm hồn đơn sơ, ngay thẳng và sẵn sàng thực thi thánh ý của Người. Chúng ta cần tiến thêm một bước nữa. Đó là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những người ta gặp gỡ để trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn biết yêu thương, tôn trọng họ theo như lời Thiên Chúa mời gọi.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Mùa Vọng là mùa mong đợi, chờ đợi ở tương lai. Hy vọng hướng tới điều vui, tốt đẹp, tươi sáng hơn hiện tại. Trong phụng vụ nhắc đến hai điều: chuẩn bị tâm hồn đón mừng Lễ Giáng Sinh và mong đợi Chúa sẽ đến vào ngày quang lâm.
Đức Maria Vô Nhiễm là ngôi sao chiếu sáng trên con đường Mùa Vọng. Mẹ là “dấu hiệu của niềm hy vọng chắc chắn, và là dấu hiệu của sự an ủi“ (LG, số 68). Để đến được với Đức Giêsu, là ánh sáng đích thật, là mặt trời phá tan mọi bóng tối của lịch sử, chúng ta phải cần đến những ánh sáng gần gũi chúng ta hơn, cần đến những con người phản chiếu ánh sáng của Đức Kitô, và như thế, soi chiếu con đường chúng ta đi. Và ai là người có thể chiếu sáng hơn Đức Maria? Ai là người có thể tốt lành hơn Mẹ, là bình minh báo hiệu ngày cứu rỗi, để có thể trở thành ngôi sao hy vọng cho chúng ta? (x. Thông điệp Spe Salvi, số 49).
Mùa Vọng, nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria, người đã chia sẻ niềm hy vọng của dân Ítraen và đã góp phần vào việc thực hiện niềm hy vọng ấy.
Một Trinh Nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô giáo. Trang Tin Mừng hôm nay được đọc trong các Lễ Đức Maria, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Tin Mừng này được công bố muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã sai Sứ thần Gabrien đến Nadarét để truyền tin cho Đức Mẹ.
Sứ thần cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Tước hiệu “Bà đầy ơn phước” xác nhận lòng Đức Mẹ không có chỗ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa.
“Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ” vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông. Mẹ đẹp thánh thiện. Mẹ đẹp cao quý. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Sứ thần Gabrien cũng mời gọi Đức Maria hãy vui lên vì giờ cứu độ của Thiên Chúa đã đến. Sứ thần tiếp: “Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavít tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33). Là một tâm hồn luôn luôn nghiền ngẫm Kinh Thánh, chắc hẳn Đức Maria nhớ lại lời Chúa đã dùng ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavít xưa. Nhưng điều Mẹ không hề bao giờ nghĩ tới là mình có thể có vai trò gì trong việc thực hiện lời tiên tri ấy. Chuyện “không thể được” đầu tiên là làm sao mình có thể sinh con được vì đã quyết “không biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi? Sau khi được sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, Mẹ đã khiêm nhường thưa lại: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Và thế là Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa. “Cuối cùng, sau những thế kỷ dài chờ đợi cho lời hứa được thực hiện, thì với Đức Maria người thiếu nữ Sion cao sang, thời gian đã nên trọn và nhiệm cuộc mới được thiết lập khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại nơi Người để giải thoát con người khỏi tội nhờ các mầu nhiệm của thân xác Con Chúa” (Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 55).
Bài Tin Mừng hôm nay thường gọi dưới tựa đề là ” Sứ Thần truyền tin cho Đức Mẹ”. Nhưng Sứ Thần và Đức Mẹ đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là Đức Giêsu. Trang Tin Mừng này giới thiệu căn tính của Đức Giêsu. Đó là nội dung chính của Truyền Tin. Qua lời của Sứ Thần mà chúng ta biết Giêsu là “Con Đấng Tối Cao”, là “Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”.
Đức Maria sẽ nhận được một sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa. Mẹ sẽ đón lấy quyền năng sáng tạo của Thánh Thần “Thánh Thần sẽ ngự trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà.”. Vì thế Đấng Mẹ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai Gioan Tẩy Giả đòi hỏi một phép lạ, thì việc thụ thai Đức Giêsu đòi hỏi một phép lạ lớn hơn nhiều, đó là Ngài được thụ thai bởi một Trinh Nữ. Đức Giêsu không chỉ là Đấng Mêsia mà dân Do thái hằng mong đợi, Ngài còn là Đấng cao cả, thánh thiện hơn nhiều; Ngài là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa viên mãn chưa từng có.
Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này. Lời thưa “Xin vâng” của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Từ đó Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ. Từ đó vai trò Trung Gian của Mẹ đã khởi đầu. Từ đó, Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28).
Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ trọn đời đồng trinh bởi vì đã được Thánh Thần chiếm ngự cả hồn xác. Thánh Giuse nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi người vợ của mình, nên cũng hiến dâng chính mình để phục vụ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Sống trinh khiết vì Nước Trời là ơn của Thánh Thần chứ không phải do gồng mình mà sống được, vì thế nó là dấu chỉ rằng Nước Trời đang hiện diện, quyền năng của Thiên Chúa đang hành động trong con người và giữa con người. Mầu nhiệm “Trinh nữ sinh con” do Ngôn sứ Isaia loan báo đã thành sự trọn vẹn nơi thân mẫu Chúa Giêsu, nên Giáo hội vẫn tuyên xưng Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ trọn đời đồng trinh.
Đức Mẹ xin vâng ý Chúa.Tuân phục là một nhân đức quan trọng, quý hơn cả lễ vật và có liên quan đức tin: có tin tưởng thì mới vâng lời. Đức Mẹ là người tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa nên cũng tuyệt đối tuân phục Ngài. Đức tuân phục là một trong ba lời khấn của các tu sĩ, nhân đức này phải được dựa trên nền tảng kiên cố là đức khiêm nhường.
Mẹ sống hoàn toàn cho tiếng xin vâng trong sự tín thác, đặt trọn cuộc đời mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Khởi đi từ làng quê Nadarét cho đến đỉnh đồi Gôngôtha, hiệp thông với Con yêu dấu từ thuở ấu thơ đến khi bị treo trên cây thập giá, Mẹ đã diễn tả lời xin vâng ấy theo dọc chiều dài cuộc đời của con mình. Mẹ vui lòng đón nhận mọi biến cố vui-buồn-sướng-khổ theo thánh ý Thiên Chúa. Mẹ trở nên mẫu gương cho tất cả chúng ta tiếp tục thưa xin vâng trong bí tích Thánh tẩy.
Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến. Mẹ cầu bàu cho chúng ta trước tôn nhan Chúa. Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa.
Xin Chúa cho chúng con được trở nên con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng tỏ cho chúng con thánh ý Chúa và hướng dẫn chúng con biết sống đẹp lòng Chúa hàng ngày.Amen.
Lm Vũđình Tường
Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến cùng Đức Trinh Nữ Maria mong thực hiện điều Thiên Chúa hứa xưa. Ngài hứa sẽ giải thoát dân Ngài khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết. Đức Trinh Nữ đón nhận tin đó với tất cả kinh ngạc bởi điều đó nằm ngoài sức tưởng tượng của Đức Trinh Nữ. Vì thế Đức Maria nêu thắc mắc: ‘Việc đó xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng’ c.34′. Đây không phải lời từ chối, hay nghi nan trong việc đón nhận tin từ sứ thần, mà chính là nghi vấn mong sáng tỏ điều liên quan đến đức tin. Sứ thần xác quyết với Đức Mary ‘Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được c.37’. Thiên Chúa có khả năng tạo sự sống, ban sự sống, cầm giữ và bảo vệ sự sống. Đức Maria tiết lộ điều Đức Trinh Nữ giữ kín trong lòng là âm thầm chọn cuộc sống độc thân, nhưng sẽ vui lòng làm bất cứ điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa, và sẵn sàng từ bỏ í riêng đón nhận í Thiên Chúa, và thành tâm thực hiện điều Thiên Chúa tin tưởng phó thác. Đức Maria tin tưởng Thiên Chúa làm những điều kì lạ vượt khỏi phán đoán, hiểu biết của trí óc con người. Ngoài Thiên Chúa ra, nhân loại không thể hiểu việc Chúa thực hiện. Dù không hiểu rõ nhưng Đức Maria chọn sống theo í Chúa. Sứ thần tiến thêm một bước thông báo cho Đức Maria biết, bà con là bà Elizabeth, người mà thiên hạ gọi là son sẻ trong tuổi cao niên, Thiên Chúa xoá tan u sầu đời bà bằng cách ban cho bà một người con.
Sứ thần cho biết Thiên Chúa chọn Đức Maria trở thành mẹ Đấng Cứu thế, nhưng điều quan trọng hơn cả chính là Đấng Cứu Thế được sinh ra. Ngài xuống trần gian, và nước của Ngài không bao giờ tận. Ngài coi sóc dân Ngài bằng tình thương và lòng thương xót. Đấng mà Thánh Gioan Tiền Hô có lần long trọng thông báo ‘ Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần Mk 1,8.
Đức Maria dù không hiểu trọn vẹn điều sứ thần loan báo. Với lòng tin và tâm tình phó thác Đức Maria thưa ‘Xin Vâng’ khi Đức Maria thưa: ‘Vâng, tôi đây là nữ tì của Thiên Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần phán’. c.38. Qua lời xác nhận trên, Đức Maria trở thành mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa. Đức Maria trở thành mẫu mực của lòng tin cho các môn đệ Đức Kitô, và cho toàn thể Giáo Hội trần thế. Đức Maria đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa và qua đó cuộc đời Đức Maria từ đó thay đổi hoàn toàn, và thay đổi muôn đời.
Phong tục cưới hỏi thời đó bắt đầu bằng nghi thức hứa hôn. Trong nghi thức này có việc trao đổi nhẫn cưới và quà tặng, tương tự như phong tục hỏi ngày nay. Người con gái đó đã có chỗ và trong những tháng tiếp theo là việc chuẩn bị cho ngày hôn lễ. Trinh nữ Maria hứa tuân theo điều sứ thần phán mang lại niềm hy vọng lớn lao và tâm tư lo lắng. Niềm hy vọng lớn lao được Đức Trinh Nữ diễn tả qua bài ca Magnificat:
‘Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tì hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới’. Lk 1,47-48.
Lo lắng là một phần của cuộc sống. Người có trách nhiệm luôn lo lắng làm sao hoàn thành sứ mạng trao ban một cách tốt đẹp. Sứ thần biết Đức Trinh Nữ lo lắng về trách nhiệm được trao phó. Sứ thần yên ủi, cổ võ, đừng lo: ‘Mừng vui lên, Đấng đầy ân sủng Chúa, Đức Chúa ở cùng bà c.28’.
Đức Trinh Nữ lo lắng, bối rối bởi làm sao phàm nhân không lo lắng khi biết Đức Chúa cùng chung mái nhà. Với ơn Chúa, Đức Trinh Nữ chắc chắn sẽ hoàn thành trách nhiệm trao ban cách tốt đẹp vì có Chúa ở cùng.
ĐỂ CHỜ ĐÓN CHÚA RA ĐỜI
Lm Trần Bình Trọng
Vào thời mà ngay trước Ðấng cứu thế giáng sinh, thì dân chúng đã chán ngấy phong hoá suy đồi trong xã hội Pa-lét-tin. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự sống đời buông thả. Còn trên bình diện chính trị, thì đất nước của họ bị đế quốc La mã cai trị.
Vì thế mà dân chúng mong đợi Ðấng cứu thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng thời bấy giờ thì họ mong đợi vị cứu tinh đến giải thoát họ khỏi cảnh lầm than, đô hộ, chứ không hẳn là giải thoát họ khỏi tội lỗi. Còn phụ nữ Do thái nói chung thì mong được làm mẹ đấng cứu thế. Riêng trinh nữ Maria lại khác nữ giới thời bấy giờ, không nuôi tham vọng đó, mặc dầu có cơ hội vì đã đính hôn với ông Giuse.
Luật đính hôn của Do thái thời bấy giờ rất là nghiêm túc. Ðã đính hôn có nghĩa là đã cưới hỏi theo pháp lý. Tuy nhiên trinh nữ Maria qua một sự thoả thuận kín đáo với ông Giuse, như một lời khấn, quyết giữ mình đồng trinh. Chẳng thế mà khi sứ thần Gáp-ri-en đến thỉnh nguyện trinh nữ chấp nhận địa vị làm mẹ Ðấng cứu thế, thì trinh nữ tỏ mối quan tâm về lời hứa của mình: Ðiều đó xẩy đến thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng (Lc 1:34). Ðiều đó chứng tỏ trinh nữ yêu quí đức đồng trinh như thế nào! Chỉ khi sứ thần bảo đảm với trinh nữ rằng việc trinh nữ thụ thai là do quyền phép Chúa Thánh linh thì trinh nữ mới chấp nhận địa vị làm mẹ Ðấng cứu thế. Còn việc thánh Giuse từ bỏ Ðức Maria ra đi cách kín đáo, khi nhận ra Bà đang mang thai, cũng chứng tỏ rằng hai Ông Bà không sống với nhau như vợ chồng.
Phúc âm hôm nay ghi lại trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đáp trả lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa. Trinh nữ Maria chấp nhận lời Chúa truyền, qua miệng sứ thần Gáp-ri-en để mang thai, mặc dù không hiểu sự việc xẩy ra như thế nào, vì trinh nữ đã khấn hứa giữ mình đồng trinh. Mặc dù không hiểu, nhưng trinh nữ đã tin tưởng vào quyền phép của Thiên Chúa, để chấp nhận theo thánh ý Chúa: Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Người thực hiện nơi tôi như lời sứ thần nói (Lc 1:38). Bằng việc chấp nhận thánh chỉ của Thiên Chúa, nên Con Một Thiên Chúa, đã được thụ thai cách huyền diệu trong lòng trinh nữ. Giả sử trinh nữ Maria không ưng thuận, thì điều gì sẽ xẩy ra cho nhân loại? Và đời ta sẽ ra sao bây giờ? Ôi, hồng phúc thay lời xin vâng muôn thuở!
Khi vua Ðavít đã ổn định tình thế quân sự, chính trị và xà hội trong nước, mà nhà vua thì được ở nhà gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì lại ở trong lều vải (2 Sm 7:2), nên nhà vua có ý định xây nhà để giữ Hòm Bia Thiên Chúa. Hòm Bia được coi là biểu tượng của giao ước giữa Giavê Thiên Chúa và nhà Ít-ra-en vì Người đã chọn họ làm dân riêng và ban giới luật cho họ. Vì thế Hòm Bia cũng được coi là biểu tượng của sự hiện diện của Giavê. Tuy nhiên Thiên Chúa lại có chương trình khác. Chương trình của Thiên Chúa nhắm tới thời gian mà một người trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Em-ma-nu-en (Is 7:14). Chương trình đó được thực hiện khi trinh nữ Maria chấp nhận thụ thai Ðấng Em-ma-nu-en (Mt 1:23). Vì thế mà trong Kinh cầu Ðức Mẹ, Giáo hội coi trinh nữ Maria chính là Hòm Bia của Thiên Chúa như khi ta kêu cầu: Ðức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa vậy, vì trinh nữ đã cưu mang Ngôi hai Thiên Chúa trong lòng mình. Chương trình của Thiên Chúa đã được ghi lại trong thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn La mã: Theo lệnh của Thiên Chúa, Ðấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin và vâng phục Thiên Chúa ( Rm 16:26).
Thời bấy giờ, trinh nữ Maria cũng nóng lòng mong đợi Ðấng cứu thế đến như dân Do Thái nói chung, như những phụ nữ Do thái riêng. Ðặc biệt, trinh nữ mong đợi Ðấng cứu thế sinh ra từ trong dạ mình. Vậy lòng mong đợi mà người tín hữu cần có là lòng mong đợi của trinh nữ Maria mang thai. Ðàn ông và những người đàn bà không lập gia đình thì không có được kinh nghiệm mang thai. Ðể cho người ta có được ý niệm phần nào về việc mang thai, có một hãng xưởng kia chế tạo một túi bị với chiều kích theo đường cong của bụng mang thai, mà khi đeo vào bụng, thì người ta cũng đi đứng, nằm ngồi tựa hồ như người đàn bà mang thai. Mặc dù không có kinh nghiệm mang thai hay không đeo bị vào bụng, người ta cũng có thể tưởng tượng ra phần nào, trinh nữ Maria nóng lòng chờ đợi Con mình sinh ra như thế nào. Cũng đợi chờ chín tháng mười ngày như những người đàn bà mang thai khác.
Việc trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa, tin tưởng vào lời Chúa, vâng theo thánh ý Chúa và cộng tác với ơn Chúa phải giúp ta làm sao để sửa soạn đón mừng Chúa đến. Việc trinh nữ thụ thai cách kỳ diệu mà không có sự cộng tác của người nam, phải giúp ta nảy sinh ra cảm giác lạ lùng và kính sợ. Không may sống trong thời đại kỹ thuật khoa học, con người đã mất đi cảm giác đó, nghĩa là mất đi cảm giác kính sợ, ngạc nhiên và lạ lùng trước những quyền lực siêu nhiên và cao vời. Ðể bù lại cảm giác mất mát đó, ta cần tiếp xúc với những gì Chúa đã làm trong đời sống cá nhân và trong thế giới loài người.
Như Mẹ Maria, ta cần ghi nhớ và suy niệm (Lc 2:19) những sự việc Chúa đã thực hiện trong đời sống ta. Ðức tin của Ðức Maria vào lời Chúa, phải có sức linh ứng, giúp ta mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và thực thi ý Chúa. Lời Chúa không phải là điều gì thuộc quá khứ, không ăn nhập gì tới nếp sống hiện tại. Lời Chúa là lời hằng sống nên phải có sức biến đổi tâm hồn và tác động đời sống ta, vì Chúa là Ðấng hằng sống và chân thật.
Lời cầu nguyện xin ơn biết mở rộng tâm hồn đón chờ Chúa đến:
Lạy Ngôi hai Thiên Chúa hằng sống.
Ðấng hiện hữu từ muôn thuở.
Chọn nhập thể trong lòng một trinh nữ.
Xin khơi dậy trong con một cảm giác ngạc nhiên lạ lùng.
Một tâm hồn mong mỏi đợi chờ ngày Chúa Giáng sinh.
Xin dạy con dọn cho Chúa một máng cỏ trong tâm hồn.
Kết bằng việc cầu nguyện, sám hối, hi sinh và bác ái.
Ðể sưởi ấm tâm hồn Chúa. Amen.
XIN MẸ DẠY CON HAI TIẾNG XIN VÂNG
Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Trong bài hát “Xin Vâng”, Linh mục nhạc sĩ Mi Trầm viết rằng: “Mẹ ơi! Ðời con dõi bước theo Mẹ, lòng con quyết noi gương Mẹ, xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Mẹ ơi! Ðường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng.
Xin vâng. Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Hôm qua hôm nay và ngày mai. Xin vâng, Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Hôm nay tương lai và suốt đời”. Tại sao chúng ta phải xin Mẹ dạy cho mình hai tiếng xin vâng? Chúng ta cũng thường thưa xin vâng hằng ngày đối với cha, mẹ, thầy cô, với Linh mục và với Chúa với Đức Mẹ mà. Thế thì lời thưa xin vâng của Đức Mẹ thưa với Chúa hôm nay có khác với lời thưa xin vâng của chúng ta không, khác nhau chỗ nào?
Nếu hôm nay Chúa hiện ra và bảo mỗi người trong quí ông bà anh chị em đây rằng: “Này con, con làm kỹ sư nhé!”. Anh chị em liền thưa: “Xin vâng”. Và “Này con, con hãy làm linh mục!” Anh em liền thưa: “Xin vâng.” Rồi, “Này con, con làm bà Soeur nhé!”, Chị em không một chút do dự thưa: “Xin vâng”. Rồi, Chúa cũng bảo: “Này con, con hãy đi đến vùng đang có bệnh dịch hay có chiến tranh xảy ra để chữa trị bao vết thương cho Ta!” Anh chị em do dự trả lời: “Từ từ để con coi nghĩ lại đã!”. Như vậy, rõ ràng hai tiếng “xin vâng” ấy là vâng có điều kiện và nhất là có lợi thuộc về tôi nhiều hơn. Hai tiếng “xin vâng” của Mẹ hôm nay thì khác. Qua hai tiếng ấy, Mẹ đặt mối quan hệ của mình và Thiên Chúa trong mối quan hệ thấp cao: Mẹ chỉ là nữ tỳ, còn Thiên Chúa là Đấng Tối Cao. Vì vậy, Mẹ xin vâng không điều kiện, không mặc cả, không tìm tư lợi cho mình. Cho nên, Mẹ sẵn sàng trao toàn thân để Chúa có thể làm bất cứ điều gì nếu Chúa muốn dù có đau thương Mẹ vẫn một lòng trung tín với Chúa.
Lời thưa của Đức Mẹ: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Một lời xin vâng quyết liệt, đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng này, Mẹ đã gặp không ít khó khăn và đau khổ. Trước hết là trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Rồi trong lúc bụng mang dạ chửa, Đức Mẹ cùng với Thánh Giuse lặn lội gieo neo đi xuống Bêlem để đăng ký hộ khẩu và rồi sinh con trong cảnh nghèo túng của máng cỏ đêm đông. Rồi, Mẹ phải lặn lội đem con trốn sang Ai-cập. Và rồi Mẹ theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa, nhìn Con yêu chết đau đớn. Mẹ đã đứng vững và trầm lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa trong đau khổ. Và như vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình. Từng giây từng phút và trong từng biến cố suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy ngang qua thập giá. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu bằng lời xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất. Như vậy, lời thưa xin vâng của Mẹ đồng thời cũng là hành động dâng hiến, phó thác, tin tưởng và trung tín với Chúa, cho Chúa, vì Chúa và tha nhân không một tính toán, không một vụ lợi và không một lời oán trách khi gặp khó khăn, đau khổ hay thử thách. Cho nên, Thánh Nữ Têrêsa Calcutta nói: “Nếu có gì thuộc về tôi, tôi sẽ có toàn quyền sử dụng nhưng tôi thuộc về Chúa, nên Ngài có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn”.
Lời “xin vâng” của Mẹ Maria vẫn được lặp lại trong đời sống Kitô hữu mỗi ngày. “Xin vâng” với ý thức là hiến toàn thân cho Chúa qua việc sám hối ăn năn tội và sống Lời Chúa, đồng thời hiệp thông với Ngài mọi biến cố trong cuộc sống ngang qua thập giá của Chúa Kitô. Vậy chúng ta học gương Mẹ, thưa xin vâng với Chúa qua việc sám hối, hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức trong Mùa Vọng này để được Chúa Giêsu giáng sinh nơi cung lòng chúng ta.
Vì vậy, hôm nay Mẹ dạy ta hai tiếng xin vâng cũng là dạy hãy can đảm thi hành lời mời gọi của Tin Mừng đó là: “xin vâng” thực thi ý Chúa khi gia đình hạnh thịnh vượng cũng như lúc gian nan khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ để cùng với Chúa ta xây dựng gia đình bình an hạnh phúc và tiếp tục công trình cứu độ của Thiên Chúa. Đặc biệt trong năm đời sống gia đình, nhất là các gia đình trẻ, anh chị em hãy thưa “xin vâng” trước những đòi hỏi của cuộc sống gia đình: hy sinh, tha thứ, từ bỏ những tính hư tật xấu để giữ tâm hồn trong sạch và sống công chính nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc vững bền, hoà thuận và yêu thương nhau như gia đình Đức Mẹ. Là tu sĩ, giáo sĩ hãy thưa “xin vâng” với Chúa trước những bổn phận và trách nhiệm phải cúi xuống để rửa chân cho chị anh em qua việc yêu thương chăm sóc những người tội lỗi, nghèo khổ, bệnh nhân hay người khuyết tật. Cho nên, trong Tông thư gửi tất cả Các người Tận hiến nhân dịp Năm Đời sống thánh hiến, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Tôi yêu cầu tất cả mọi thành phần của Giáo hội: ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc đời. Cả một nhân loại đang chờ đợi: những người đã mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, những trẻ thơ bị bỏ rơi, các bạn trẻ gặp ngõ cụt trước tương lai, những người già lão bệnh tật bị loại trừ, những người giàu của cải nhưng trống rỗng trong lòng, những người đang tìm ý nghĩa cuộc đời, khao khát đời tâm linh… Anh chị em đừng khép lại trong chính mình, đừng để mình bị ngột ngạt với những chuyện lẩm cẩn trong nhà, đừng bị giam hãm trong những vấn đề nội bộ. Những vấn đề này sẽ được giải quyết nếu anh chị em đi ra ngoài để giúp những người khác giải quyết những vấn đề của họ và loan báo Tin mừng. Anh chị em sẽ tìm thấy sự sống khi trao ban sự sống, tìm thấy hy vọng khi trao ban hy vọng, tìm thấy tình thương bằng cách yêu thương” (phần II, số 4).
Lạy Mẹ Maria! Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết noi gương bắt chước Mẹ nói lời “xin vâng” trong suốt cuộc lữ hành trần thế này. Xin Mẹ cho con biết mở lòng và cộng tác với Ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen.
Trầm Thiên Thu
Chính Thiên Chúa đã hiện ra xác định với ông Ápram (sau là Ápraham) và ông Giacóp: “Ta là Thiên Chúa toàn năng.” (St 17:1; St 35:11) Ngài là Thiên Chúa duy nhất, (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 6:4; Đnl 32:39; Kn 12:13; Is 43:10; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 14:41; Hs 13:4; Mc 12:29; Ga 5:44; Ga 17:3; 1 Cr 8:4; 1 Tm 2:5; Gl 3:20) không có bất cứ thần nào khác, và chính Ngài là Đấng cầm quyền sinh tử. (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6-7; Kn 16:13; Tb 13:2; x. Tv 30:4)
Thiên Chúa toàn năng nghĩa là Ngài làm được hết mọi sự, (Kn 11:23) không có gì là không thể làm được. (Lc 1:37) Ngài hiện hữu (Xh 3:14) và tạo dựng mọi sự – hữu hình và vô hình – từ hư vô. Ngài là Đấng Thánh, (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16; Ga 6:69) và Ngài thấu suốt mọi sự. (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 4:17d; Et 5:1a; 2 Mcb 6:30; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20)
Tất nhiên Ngài cũng cấm chúng ta phủ phục trước bất cứ thần nào khác. (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 5:7; Kn 12:13; Is) Chính Ngài nói rõ: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.” (Xh 20:4; Đnl 5:8) Và Ngài xác định: “Ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ.” (Is 43:11)
Quả thật, Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất. Xác định như vậy chưa đủ, còn phải can đảm chứng minh điều đó, không chao đảo trước bất cứ tôn giáo nào khác, nghĩa là phải phân định rạch ròi bởi vì ngày nay nhiều người mạo nhận mình được mặc khải rồi lập giáo phái này, hệ phái nọ, theo kiểu dị giáo hoặc tà thuyết. Việt Nam cũng có, cụ thể như trường hợp chị Thương ở Bảo Lộc (Lâm Đồng, GP Đà Lạt), trong nhóm đó có Lm Truyền đã bị vạ huyền chức.
Lời Thánh Phêrô cảnh báo từ xưa vẫn mang tính thời sự: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8) Đó là khôn ngoan – khôn ngoan thực sự chứ không mơ hồ. Chúa Giêsu xác định: “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.” (Mt 11:19b)
Sự sợ hãi là tình trạng có thể chi phối cuộc sống của chúng ta, cần có người động viên hoặc tự động viên. Người không sợ hãi là người can đảm, không lùi bước trước bất công. Trong cuộc sống, có nhiều khi chúng ta thấy không dễ thể hiện lòng can đảm. Với các sắc thái khác nhau, Kinh Thánh đề cập mệnh lệnh “đừng sợ” 365 lần – cụ thể như St 15:1; St 21:17; St 26:24; St 46:3; Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 43:1; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Is 41:13; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13; Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18 Thánh GH Gioan Phaolô II đã sống đúng theo “châm ngôn” này dù những kẻ xấu đã từ muốn giết ngài.
Trong số những nhân vật nổi tiếng thế giới chống lại sự áp bức, bóc lột, chúng ta thấy họ có điểm chung là lòng can đảm: Bảo vệ chân lý, đấu tranh vì công lý và đòi nhân quyền. Cố NS Anh Bằng cũng đã viết ca khúc “Đừng Sợ Hãi” để động viên dân Việt, nhất là giới trẻ: “Đừng sợ hãi! Hãy vươn lên, tranh đấu cho quê hương Việt Nam, niềm tin bác ái! Đừng sợ hãi! Siết tay nhau, mang trái tim yêu thương Việt Nam vào đời!”
Sự giằng co giữa can đảm và sợ hãi là cuộc chiến nội tâm. Trong mỗi chúng ta cũng luôn có cuộc chiến tâm linh, có can đảm mới đủ sức chiến thắng. Cuộc chiến nào cũng cần sự can đảm. Người can đảm là người dám nói thẳng nói thật vì công ích, không xu nịnh, không bè phái, không luồn cúi,… Muốn can đảm thì không gì hơn là bám vào Thiên Chúa, vì Ngài là Sự Thật. (Ga 14:6) Bám vào Ngài bằng cách tín thác vào Ngài, mà tín thác thì phải tuân phục – vâng theo Thánh Ý Ngài.
Trình thuật 2 Sm 7:1-5, 8-12 cho biết: Khi vua được yên cửa yên nhà và Đức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, vua nói với ngôn sứ Nathan: “Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải.” Ông Nathan thưa với vua: “Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Đức Chúa ở với ngài.” Nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng: “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đavít: Đức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao?”
Và rồi Thiên Chúa giao ước: “Bây giờ ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là Đavít như sau: Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Israel. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ cho dân Ta là Israel một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Israel. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền.” (2 Sm 7:8-12)
Tương tự, tất cả chúng ta cũng được Thiên Chúa thiết lập giao ước bất biến, trước sau như một. Vấn đề là chúng ta có can đảm tuân giữ huấn lệnh của Ngài hay không. Chính Chúa Giêsu đã khuyến cáo chúng ta về việc hoàn thiện, (Mt 5:48) nghĩa là chúng ta phải cố gắng nên thánh. Ngày xưa, chính Thiên Chúa đã nói dứt khoát: “Các ngươi PHẢI nên thánh và PHẢI thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.” (Lv 11:44; Lv 20:7) Quá trình nên thánh cần phải rõ ràng, không thể nửa vời, vì Nước Trời không có loại công dân nhát đảm hoặc yếu bóng vía.
Như để củng cố chúng ta, Thiên Chúa tiếp tục giao ước: “Đối với nó, Ta sẽ là cha; đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi.” (2 Sm 7:14-16) Đó là giao ước yêu thương, giao ước của lòng thương xót vĩnh cửu: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (1 Sb 16:34; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4; Tv 118:29; Tv 136:1-3; Tv 136:26)
Thánh Vịnh gia vui sướng tuyên xưng vì nhận ra tình yêu Thiên Chúa: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài. Vâng con nói: Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.” (Tv 89:2-3) Chính Chúa đã phán từ ngàn xưa: “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đavít, nghĩa bộc Ta, rằng: dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ. là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ!” (Tv 89:4-5) Không chỉ thiết lập giao ước mà Ngài còn thề hứa – nghĩa là chắc chắn ứng nghiệm.
Cũng như Đavít, bất cứ ai tín thác vào Chúa thì sẽ biết cách chứng tỏ đức tin: “Ngài chính là Thân Phụ, là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ!” (Tv 89:27) Sống thật chứ không nói suông, không giả hình, không khoác “chiếc áo sặc sỡ” như nhóm Biệt Phái. Như vậy mới thực sự dũng cảm, và chắc chắn người này sẽ được Thiên Chúa hứa “yêu thương đến muôn thuở và thành tín giữ giao ước.” (Tv 89:29) Thật tuyệt vời!
Cuối Mùa Vọng, ngọn nến Hy Vọng – Đức Cậy – được thắp sáng. Nhờ ngọn nến này mà chúng ta có thể thắp sáng lại ba ngọn nến kia, có thể chúng đã tắt hoặc chỉ còn leo lét. Đó là ba ngọn nến Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu. Sự đợi chờ của chúng ta sắp được thỏa mãn, vì Đấng Emmanuel đang đến rất gần. Thánh Phaolô nói: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa.” (Rm 16:25-26) Theo lẽ thường, có biết thì mới tin, không biết thì khó tin hoặc không tin. Thánh Phaolô xác định: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô. Amen.” (Rm 16:27)
Cuộc truyền tin được tường thuật trong Lc 1:26-38. Trinh Nữ Maria là người nhận tin, được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa. Tuổi U20, và chỉ là một thôn nữ bình thường nơi làng quê nhỏ bé, nhưng Đức Maria luôn nghiêm túc, thẳng thắn, can đảm, trọn niềm tín thác vào Chúa.
Khi người chị họ Êlisabét mang thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến làng Nadarét, miền Galilê, gặp trinh nữ Maria đã đính hôn với chàng Giuse, thuộc hoàng tộc Đavít. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe vậy, trinh nữ Maria rất bối rối vì không hiểu thế là thế nào. Sự khiêm nhu không cho phép thục nữ Maria dám nhận mình là thánh nhân, mà chỉ nhận mình là nữ tỳ của Thiên Chúa mà thôi. Nhưng sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
Điều đó càng lạ lùng hơn đối với một người đã khấn đức khiết tịnh. Vì thế, trinh nữ Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sự thường là thế, nhưng với trinh nữ Maria lại là điều khác thường, là mầu nhiệm, là đặc ân. Trinh nữ Maria khiêm nhu, chẳng nghĩ mình cao trọng gì đâu. Sứ thần giải thích cặn kẽ và chứng minh: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Trinh nữ Maria luôn tin vào quyền năng của Thiên Chúa, không chút nghi ngờ, nay lại được giải thích như vậy thì chẳng còn gì phải âu lo hoặc đắn đo. Trinh nữ Maria OK ngay, và nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Trong lời “xin vâng” của Đức Maria còn bao hàm các nhân đức khác – cả đối thần và đối nhân.
Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta. Nhịp cầu của Ơn Cứu Độ khởi sự, Đức Maria trở nên Đấng hiệp thông trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, trở thành Thân Mẫu của Đấng Cứu Thế. Chính bà Êlidabét là người đầu tiên tuyên bố Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43)
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn đổi mới, trung thực và trọn niềm tín thác. Xin giúp chúng con luôn sẵn sàng và mau mắn đáp lại tiếng Ngài gọi mời cộng tác như Đức Mẹ đã hành động. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
MẸ MARIA LÀ CÂY CẦU CỦA THIÊN CHÚA VÀ NHÂN LOẠI
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Qua các phương tiện truyền thông đây đó, ta thấy nơi các bản làng ở khu vực Tây Bắc Việt Nam, xuất hiện những hình ảnh thật cảm động, đó là những gương cố gắng của các em học sinh nơi đây khi hằng ngày phải lội suối hay đu cáp treo chênh vênh để đến trường học cho được “cái chữ, cái nghĩa”.
Trước thực trạng ấy, có lẽ không gì quý giá đối với các em cho bằng có được một cây cầu nối liền đôi bờ. Tuy nhiên, cây cầu đó phải đảm bảo, vững chắc, nếu không sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng nếu chẳng may bị sập hay bị nước cuốn trôi khi mọi người đang tham gia giao thông!
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội muốn giới thiệu với chúng ta một cây cầu rất vững chắc, đẹp đẽ và an toàn, đó là Mẹ Maria.
Mẹ Maria, cây cầu của Thiên Chúa và của con người
Kể từ lúc Evà phạm tội chống lại Thiên Chúa qua hành vi bứt Trái Cấm để ăn, thì Evà cũng như dòng dõi của Bà đã đi vào ngõ cụt để lãnh hậu quả, đó là đau khổ và chết chóc. Vì thế, giữa con người và Thiên Chúa có một khoảng cách xa vời vợi!
Nhưng, Thiên Chúa là Đấng luôn luôn yêu thương, nên Người đã không bỏ mặc con người ở bên kia của sự chết, nhưng đã tìm mọi cách để đưa con người đến nguồn sự sống.
Tuy nhiên, Người không muốn đơn phương thực hiện ý định này. Vì thế, Người đã tuyển chọn Đức Maria giữa bao người phụ nữ. Khi quyết định chọn Mẹ để cộng tác, Thiên Chúa cũng đã chuẩn bị cho Mẹ những đức tính cần thiết, nhằm giúp Mẹ xứng đáng trong vị trí làm Mẹ Con Thiên Chúa, trở thành cây cầu bắc nhịp cho Đấng Cứu Thế đến với nhân loại trong thân phận con người nơi cung lòng của Mẹ, để Ngài trở nên trung gian duy nhất nối liền giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người.
Sau khi biết ý định của Thiên Chúa muốn mình trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ đã cúi mình đón nhận: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”.
Cây cầu vững chắc nhờ đức khiêm nhường nơi Mẹ
Thật là kỳ lạ đến độ khó hiểu khi Thiên Chúa luôn luôn biểu dương uy quyền ngay trong sự yếu đuối của con người! Chẳng hạn như việc quyết định cứu chuộc nhân loại, Người đã để Con của mình đến trần gian trong thân phận con người với đầy đủ những yếu tố và giới hạn của một phận người!
Rồi khi lựa chọn một người phụ nữ để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa không chọn những cô công chúa, giàu có, sang trọng, uy quyền, mà lại chọn một người nữ thôn quê bình dị với cuộc đời âm thầm gần như tuyệt đối!
Tuy nhiên, khi lựa chọn như thế, Thiên Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng: tự thân con người chẳng là gì nếu không phải do tình thương của Người. Những ơn ban của Thiên Chúa cho con người hoàn toàn nhưng không do lòng thương xót của Người. Phần con người chỉ cần biết đón nhận trong đức tin và lòng mến khi được đức khiêm nhường làm nền tảng, thì Thiên Chúa sẽ thực thi cách nhiệm mầu và phi thường để làm nên những chuyện lớn lao.
Nhìn vào toàn bộ cuộc đời của Mẹ Maria, chúng ta thấy nơi Mẹ luôn luôn tỏa sáng nhân đức khiêm nhường. Mẹ khiêm nhường khi sống ẩn dật trong một gia đình ở làng quê vô danh tiểu tốt. Khiêm nhường trong tâm thế của người nỹ tỳ khi cúi đầu đón nhận lời thiên sứ Gabriel loan báo tin Mẹ mang thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế. Khiêm nhường để thay ý mình bằng ý Chúa. Khiêm nhường để phó thác, cậy trông và trung thành với Con Chí Ái từ làng quê Nazareth đến đồi Canvê cũng như ngay trong căn phòng Tiệc Ly khi cùng cầu nguyện với các môn đệ để xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong Giáo Hội.
Như vậy, Mẹ Maria được ví như một cây cầu vững chắc, bởi vì Mẹ được chính Thiên Chúa là người đứng ra xây dựng. Mẹ là cây cầu đẹp đẽ vì những chất tố nơi Mẹ được Thiên Chúa trực tiếp tuyển lựa. Mẹ là cây cầu an toàn vì Thiên Chúa đã xây dựng bằng chính chất liệu khiêm nhường.
Mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi trở nên những cây cầu
Như Mẹ Maria, Mẹ đã đón nhận ý Thiên Chúa để trở nên cây cầu bắc nhịp cho Ngôi Hai Thiên Chúa đến với nhân loại. Đến lượt chúng ta, mỗi người cũng được mời gọi trở thành những cây cầu nối liền giữa người với người, giữa người với Thiên Chúa.
Ngày nay, số người chưa tin Chúa trên thế giới chiếm đa số. Mặt khác, ngay trong lòng Giáo Hội, nhiều người tin Chúa nhưng tin nửa vời rất nhiều, tin trong giấy tờ, chứ thực ra niềm tin chưa bén rễ sâu để dẫn tới thái độ sống đạo thực thụ.…
Việc nhiều người chưa tin Chúa có nhiều lý do: có thể họ chưa được nghe nói về Chúa; có thể họ đã có một tôn giáo hay tín ngưỡng trước đó; cũng có thể họ là người chủ chương vô thần? Còn những người tin Chúa nhưng tin nửa vời, tin không sâu sắc: có thể do họ đi tìm Chúa với những ý niệm thực dụng; muốn lôi kéo Thiên Chúa phải theo ý mình dù đó là điều trái khuấy…! Khi không được như ý, họ có thể thờ ơ, dửng dưng hoặc có thể đánh đổi niềm tin…!
Trước thực trạng ấy, nhiều khi chúng ta phải đấm ngực ăn năn rằng: sự ù lỳ, đó kỵ hay ích kỷ đã làm cho chúng ta thu mình lại trong những vỏ bọc an toàn của luật lệ, của không gian xứ đạo, hay môi trường an toàn…, để lựa chọn sự an thân, nên không dám vượt ra khỏi trung tâm để đến với những anh chị em bên lề…. Mặt khác, nhiều khi chúng ta có khái niệm chỉ truyền giáo cho những ai cần và tìm đến chúng ta, còn việc đi đến với họ để giới thiệu Chúa cho những người chưa biết thì chỉ là chuyện cưỡi ngựa xem hoa, nếu không muốn nói là không có khái niệm ấy ở trong đầu! Bên cạnh đó, hình ảnh mặt mày cau có, tính tình gắt bẳn, ăn trên ngồi trước, gian dối, hai mặt, khẩu phật tâm xà…, đã làm cho hình ảnh trung thực của Đức Kitô không thể lộ hiện trong cuộc đời và hành vi của chúng ta! Hơn nữa, sự sợ hãi do sức khỏe, chất lượng cuộc sống, khí hậu hay do những kẻ chống đối…, cũng là những rào cản lớn khiến chúng ta chùn chân bước…!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy tiếp nối vai trò của Mẹ Maria, đó là: bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những con người chưa biết Chúa đang sống chung quanh chúng ta.
Những nhịp cầu mà chúng ta cần phải bắc, đó là: bước ra khỏi những gì là đảm bảo để đến với anh chị em mình bằng sự hiện diện sống động qua khuôn mặt dễ thương, lời nói chân tình cũng như cung cách sống đầy vui tươi, thân thiện và xót thương của mình.
Luôn biết noi gương Mẹ Maria để sẵn sàng từ bỏ những ý riêng, định kiến đã có từ lâu, để thay vào đó là thánh ý Chúa. Luôn vững tin vào Chúa như Mẹ để trước những thử thách đau thương do sứ vụ mang lại, chúng ta kiên tâm vì luôn luôn có Chúa đồng hành.
Muốn làm được điều đó, trên hết mọi sự, chúng ta phải có đức khiêm nhường như Mẹ Maria. Có thế, mỗi người mới thực sự xứng đáng trở thành cây đầu đẹp đẽ, bền vững và an toàn cho những ai muốn đi trên nó để gặp được Thiên Chúa là tình yêu.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ để chúng con biết làm vinh danh Chúa khi trở thành những cây cầu dẫn đưa anh chị em chúng con về với Chúa. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 4 MV_B
Lm. I-nha-xi-o Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng cho thấy sự tương ứng giữa Bài Đọc I và bản văn Tin Mừng. Bài Đọc I đưa ra một điều khó hiểu, bản văn Tin Mừng đem đến một câu trả lời.
2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16
Bài Đọc I thuật lại chuyện vua Đa-vít có ý định xây “nhà” cho Thiên Chúa tại thành đô Giê-ru-sa-lem làm nơi đặt Hòm Giao Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Ngôn sứ Na-than khuyên vua hoãn lại kế hoạch này vì chính Thiên Chúa sẽ xây “nhà” cho vua.
Rm 16: 25-27
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải cho muôn dân mầu nhiệm ẩn kín từ ngàn xưa của Ngài, đó là sai phái Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô, đến ở giữa loài người.
Lc 1: 26-38
Tin Mừng tường thuật biến cố Truyền Tin, trong đó “nhà” mà Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ là Hòm Bia thánh, Đền Thờ tuyệt mỹ vô song được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16)
Vào khoảng năm 1220-1200 trước Công Nguyên, dân Do thái vào Đất Hứa, tức xứ Ca-na-an, và sống theo từng chi tộc rải rác khắp xứ dưới thời các Thủ Lãnh. Tuy nhiên, mối đe dọa xâm lăng thường hằng của dân Phi-li-tin đòi hỏi một cơ cấu chính trị và quân sự vững mạnh hơn cơ cấu các “Thủ Lãnh”. Chính vì hoàn cảnh, họ buộc phải quyết định chọn một vị vua trần thế, sau một thời gian dài ngần ngại, bởi vì chỉ có Đức Chúa là Vua duy nhất của dân tộc họ.
1. Vua Đa-vít muốn xây nhà cho Thiên Chúa
Khi đã trở thành vua của toàn thể dân Ít-ra-en, vua Đa-vít lập chiến công này đến chiến công khác, đoạn bắt đầu thôn tính các các cứ điểm của dân Ca-na-an kể cả thành Giê-ru-sa-lem vào năm 1000 trước Công Nguyên. Vua nghĩ đến việc thiết lập thành Giê-ru-sa-lem làm thủ đô. Ông định cư ở đó và truyền dời Hòm Bia thánh về thành đô. Vấn đề được đặt ra là tại sao không xây dựng một nơi xứng đáng và bền vững cho thánh tích đặc biệt này, biểu tượng sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Ngài? Cơ hội thật thuận tiện, thành Giê-ru-sa-lem được chinh phục này không thuộc vào bất cứ một chi tộc nào. Vì thế, việc thiết lập ở đây một nơi phụng tự chung cho toàn dân Ít-ra-en có thể củng cố sự hiệp nhất cả trên bình diện quốc gia lẫn trên bình diện tôn giáo.
2. Câu trả lời của ngôn sứ Na-than
Với tư cách là vị cố vấn của vua, ngôn sứ Na-than không thấy bất kỳ trở ngại nào đối với thiện ý của vua Đa-vít, vị vua đã đem lại vinh quang cho dân tộc, hơn nữa, Thiên Chúa cho thấy Ngài luôn luôn che chở bảo vệ vua. Vì thế, ngôn sứ Na-than trả lời một cách tích cực: “Các điều ngài đang dự tính, xin ngài cứ thực hiện, vì có Chúa ở với ngài”. Ở đây, ông đóng vai trò người tôi trung của vua.
Nhưng khi ngôn sứ Na-than được Thần Khí linh hứng, mọi chuyện hoàn toàn khác. Ông đến yết kiến vua và báo cho vua biết rằng không phải vua Đa-vít xây nhà cho Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa sẽ xây “nhà” cho vua và sẽ làm cho “nhà của vua” được muôn năm bền vững. Đây là kiểu chơi chữ trên một từ hai nghĩa: “nhà” vừa có nghĩa “nơi để ở” vừa có nghĩa “dòng tộc”, tức là “vương triều” đối với vua. Ở đây, ông Na-than thực hiện chức năng ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông không nói với vua ý kiến của riêng mình, nhưng truyền đạt cho vua đúng như Lời Thiên Chúa phán với ông, dù lời ấy đi ngược với ý muốn của vua đi nữa.
Dù đã chuẩn bị vật liệu rồi, vua Đa-vít không tiến hành công việc xây cất. Chính con của vua là vua Sa-lô-môn, sẽ hiện thực giấc mơ của vua cha và sẽ cho xây một đền thờ nguy nga tráng lệ.
3. Tầm quan trọng của sấm ngôn
Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than là một trong những sấm ngôn Cựu Ước quan trọng bậc nhất loan báo Đấng Mê-si-a. Quả thật, các lời hứa dần dần được vén mở. Lời hứa đầu tiên là lời loan báo về mối thù giữa dòng dõi của người nữ và tên cám dỗ (St 3: 15). Tiếp đó, sau trận Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa lập giao ước với ông Nô-ê và các con của ông, trong số họ, ông Sêm là “người được Thiên Chúa chúc phúc” (St 9: 26). Quả thật, chính từ dòng dõi của ông Sêm mà tổ phụ Áp-ra-ham sinh ra. Với vị tổ phụ này, Thiên Chúa đã chọn một dân dành riêng cho Ngài giữa muôn dân tộc khác. Với tổ phụ Gia-cóp, mặc khải ghi nhận một điểm mới, chính từ chi tộc Giu-đa mà vua Mê-si-a sẽ xuất hiện:
“Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa,
gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó,
cho đến khi người làm chủ vương trượng đến,
người mà muôn dân phải vâng phục” (St 49: 10).
Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than xác định rõ hơn: “vị vua này sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít”. Trong nhiều thế kỷ, mọi niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a sẽ được kết tinh ở nơi hậu duệ vua Đa-vít này. Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa hứa ban được phác họa như một vị vua lý tưởng: trong triều đại của Ngài, nền hòa bình và công lý sẽ ngự trị. Chỉ sau khi nền quân chủ không còn nữa, Đấng Mê-si-a sẽ mang lấy những dung mạo khác, đặc biệt là “Người Tôi Trung”.
Chínhở nơi sấm ngôn của ngôn sứ Na-than này mà sứ thần Gáp-ri-en quy chiếu đến khi loan tin cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a: “Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai… Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận”. Cũng chính ở nơi sấm ngôn này mà trong hoạt cảnh truyền tin cho thánh Giu-se, sứ thần quy chiếu đến khi gọi thánh nhân là “con cháu vua Đa-vít” (Mt 1: 20) và yêu cầu thánh nhân đón nhận Đức Ma-ri-a và Con Trẻ để qua ông mà Con Trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít. Và cũng chính ở nơi sấm ngôn ầy mà trong hoạt cảnh Đức Giê-su tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, đám đông dân chúng tung hô Ngài là “Con vua Đa-vít” (Mt 21: 9).
BÀI ĐỌC II (Rm 16: 25-27)
Chính ở Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 mà thánh Phao-lô viết thư gửi tín hữu Rô-ma. Thánh nhân dự tính đến Rô-ma, vì thế, ngài viết thư gửi các tín hữu Rô-ma này để chuẩn bị cho cuộc hành trình sắp tới của ngài. Nhưng những biến cố bất ngờ xảy đến không cho phép thánh nhân thực hiện dự định của mình. Bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào mùa xuân năm 58, đoạn bị chuyển đến giam ở Xê-da-rê, tiếp đó bị áp giải đến Rô-ma. Trong khi bị giam cầm ở Rô-ma, ngài sẽ có dịp tiếp xúc với Giáo Đoàn Rô-ma này mà ngài đã mong ước biết bao.
Thư gửi tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý.
1. Mầu nhiệm được giữ kín từ ngàn xưa
Đoạn trích này là một bài Vinh Tụng ngợi khen Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan thượng trí đã “mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa”, nhưng nay đã được biểu lộ nhờ Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô. Thánh Phao-lô mượn chữ “mầu nhiệm” từ văn chương Do thái, đặc biệt văn chương khải huyền, cũng như Khôn Ngoan. Chữ “mầu nhiệm” này mang dấu ấn kinh nghiệm cá nhân của thánh nhân. Nhờ ơn thần khải trên đường Đa-mát, thánh nhân đã ngộ được ý nghĩa Kinh Thánh. Chương trình của Thiên Chúa qua các sấm ngôn mà trước đó thánh nhân đã không thể nào hiểu được thì nay được sáng tỏ. Cuộc Giáng Trần của Đức Giê-su, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã vén mở mầu nhiệm Thiên Chúa vốn được giữ kín từ ngàn xưa. Trong ánh sáng này, việc đọc lại Kinh Thánh có sức thuyết phục đối với mọi dân nước.
2. Nhờ Đức Giê-su Ki-tô
Bài Vinh Tụng bắt đầu với lời “tôn vinh” và kết thúc với lời “chúc tụng” Thiên Chúa. Chúng ta lưu ý rằng thánh nhân chấm dứt bài thánh thi này với biểu thức “nhờ Đức Giê-su Ki-tô”. Thần học Ki-tô giáo vẫn luôn trung thành với viễn cảnh này. Phụng vụ thường kết thúc các kinh nguyện theo cùng biểu thức này. Sau cùng, bài Vinh Tụng hoàn tất với lời tuyên xưng “A-men” theo cùng cách thức kinh nguyện Do thái.
Như vậy, bản văn này chuẩn bị cho chúng ta hiểu mầu nhiệm Giáng Sinh sâu xa hơn. Dù mầu nhiệm Cứu Độ vẫn còn ẩn kín ở nơi Hài Nhi Máng Cỏ, tuy nhiên chính ở nơi Con Trẻ này mà mầu nhiệm sẽ dần dần được hiển lộ.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38)
Trong sách Tin Mừng Lu-ca, hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” (1: 5-25) và hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Ma-ri-a” (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi. Nhờ hình thức song đối này, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: thời Cựu Ước và thời Tân Ước, với hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: tư tế Da-ca-ri-a tại thành đô Giê-ru-sa-lem và cô thôn nữ Ma-ri-a tại tư gia thuộc làng quê Na-da-rét xa xôi hẻo lánh, nhất là với hai hài nhi của họ: Gioan tiền hô và Đức Giê-su.
1. Khung cảnh truyền tin (1: 26-27)
Với câu mở đầu: “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng” nối kết hai hoạt cảnh truyền tin, chúng ta rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thuộc thành đô của dân Do-thái, để thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả của làng quê Na-da-rét nhỏ bé và khiêm hạ thuộc miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì đôi vợ chồng tư tế tuổi đã cao, biểu tượng những truyền thống Ít-ra-en xưa và trung tín, giờ đây chúng ta gặp cô Ma-ri-a, một thiếu nữ trẻ trung, đính hôn với chàng Giu-se và hướng đến đời sống hôn nhân của mình.
Hoạt cảnh truyền tin với ông Da-ca-ri-a đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính nơi cực thánh này mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tư tế Da-ca-ri-a, nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiện hơn, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài. Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.
2. Lời chào của sứ thần (1: 28)
Sứ thần vào nhà và chào Đức Ma-ri-a: “Hãy vui lên, hỡi bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”.
“Hãy vui lên” là lời mời gọi ngân vang niềm vui mà các ngôn sứ đã loan báo, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a:
“Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò!
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9)
hay:
“Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dội đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi
…
Đức Vua của Ít-ra-en, đang ngự giữa người, chính là Đức Chúa” (Xp 3: 14-15).
Niềm vui thời Mê-si-a này, chính là niềm vui mà “sứ thần Thiên Chúa” sẽ loan báo cho các mục đồng trong hoạt cảnh Giáng Sinh: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân…” (Lc 2: 10). Như vậy, lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời với Đức Ma-ri-a là nhằm hướng lòng Mẹ đến thời Mê-si-a và chuẩn bị cho Mẹ tâm thế sẵn sàng đón nhận sứ điệp gây sửng sốt sau đó.
“Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Ma-ri-a được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa sủng ái không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, Con của Ngài, nhưng những suy tư thần học còn thấy ở đây nhiều đặc sủng mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ: “Ơn vô nhiễm nguyên tội”, nghĩa là Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tổ tông truyền, vì Đức Giê-su nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. “Ơn trọn đời đồng trinh”, nghĩa là Mẹ hoàn toàn trinh khiết trước và sau khi sinh con, vì Con của Mẹ cũng là Con của Thiên Chúa. “Ơn hồn xác lên trời”, nghĩa là sau khi chết, thân xác của Mẹ không bị hư hoại trong nấm mồ, nhưng được lên trời cả hồn lẫn xác, vì không ai có mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ của chúng ta, cho bằng Mẹ trong mối quan hệ của Mẹ với Con.
“Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói trấn an này, thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước, được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12) khi ông ngần ngại đón nhận sứ mạng giải phóng dân Ngài. Một cách tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập đi lập lại lời này cho dân Ngài chọn. Lời này cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút này, Đức Ma-ri-a cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ trong cung lòng thanh khiết của Mẹ.
3. Sứ điệp về Đức Giê-su (1: 29-35)
Sứ điệp sứ thần gửi đến Đức Trinh Nữ Ma-ri-a về Đức Giê-su được ngắt nhịp hai lần bởi hai câu hỏi của Mẹ (1, 29 và 34), nhờ đó sứ thần loan báo chân tính của Đức Giê-su, Con của Mẹ. Về câu hỏi thứ nhất, sứ thần mặc khải nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su, Ngài là Đấng Mê-si-a (Đức Ki-tô) thuộc dòng dõi vua Đa-vít (1: 29-33). Về câu hỏi thứ hai, sứ thần mặc khải nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su, Ngài đích thật là Con Thiên Chúa (1: 34-35).
A. Đức Giê-su là “Đấng Mê-si-a” (1: 29-33)
Cũng như ông Da-ca-ri-a, khi nghe những lời chào ấy, Đức Ma-ri-a bối rối và hỏi xem lời chào ấy có ý nghĩa gì. Vì thế, sứ thần trấn an Mẹ: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Đoạn, sứ thần xác định mặc khải của mình: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.
Tên của Hài Nhi là “Giê-su”, nghĩa là “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”. Ơn cứu độ được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa sẽ được thực hiện qua Con Trẻ của Đức Ma-ri-a. Người sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao”. Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được nhắc đến chỉ ba lần trong Cựu Ước, mỗi lần đều quy chiếu đến vị vua thuộc dòng dõi vua Đa-vít (2Sm 7: 14; Tv 2: 7; Tv 89: 27-28). Vì thế, cũng như bà Ê-li-sa-bét, Đức Ma-ri-a sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, tuy nhiên, con trẻ của Đức Ma-ri-a là Đấng Mê-si-a, Đấng mà ở nơi Ngài lời hứa cho vua Đa-vít được thành tựu. Trong bối cảnh này, tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” không có nghĩa nào khác hơn là một tước hiệu dành cho một hậu duệ của vua Đa-vít, nhưng tước hiệu này chuẩn bị cho mặc khải còn sâu xa hơn tiếp theo sau.
B. Đức Giê-su đích thật là “Con Thiên Chúa” (1: 34-35)
Đức Ma-ri-a thẳng thắn nêu lên vấn nạn: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng?”. Lời thắc mắc này cho thấy Mẹ ý thức rằng Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền tin cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào tính hiệu quả của Lời Chúa, nhưng muốn niềm tin của mình được soi sáng “vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng”. Vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).
Vấn nạn này giúp sứ thần khai triển mặc khải sâu xa hơn: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà, vì thế người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Sứ thần nhắc cho Mẹ nhớ lại vai trò của Thánh Thần theo Kinh Thánh: “Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa ban sự sống”. Vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng, “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” ban sự sống cho vũ trụ còn nguyên sơ (St 1: 2). Qua đó, sứ thần ngầm loan báo một công trình Tạo Dựng mới mà Đức Ma-ri-a được mời gọi dự phần vào.
Để giúp Đức Ma-ri-a có thể hiểu rằng đây là công trình của Thiên Chúa chứ không là công trình của phàm nhân, sứ thần nói thêm: “Quyền năng Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà”. Động từ “phủ bóng” là diễn ngữ Kinh Thánh, như xưa kia trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40: 34). Từ đó, sứ thần khẳng định: “Vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Ở đây, sứ thần xác định rõ hơn mặc khải của mình: “Con Thiên Chúa” không là một tước hiệu được dành cho Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít, nhưng là nguồn gốc thần linh của Hài Nhi, Con Trẻ này đích thật là Con Thiên Chúa.
4. Sứ điệp về Đức Ma-ri-a (1: 36-38)
Đức Ma-ri-a không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự ý đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần kết thúc mặc khải của mình trong cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, ông rất đỗi kinh ngạc vì vợ ông, bà Sa-ra vốn đã hiếm muộn nay tuổi đã cao, có thể sinh cho ông một cậu con trai: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).
Trong hoạt cảnh truyền tin cho ông Da-ca-ri-a trước đó, dù bà Ê-li-sa-bét hiếm muộn và tuổi đã cao, không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng một cách thức như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Trong hoạt cảnh truyền tin cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa vì Đức Giê-su, Con của Mẹ, không đơn giản là Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít, nhưng cũng là Con Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần thực hiện công trình sáng tạo mới nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.
Với diễn ngữ Kinh Thánh “Phủ bóng trên bà”, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là Hòm Bia Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa ngự ở giữa dân Ngài. Nơi cung lòng của Mẹ, Thánh Thần thổi hơi sự sống, sự sống này là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a và lời đáp trả “xin vâng” tròn đầy của Mẹ đối với Thiên Chúa. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện này mà Hài Nhi Giê-su được thụ thai trong cung lòng Mẹ.
Không có gì có thể ngăn cản kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể bị ép buộc được, vì thế đòi hỏi sự ưng thuận từ phía Đức Ma-ri-a. Thiên Chúa trao gửi cho Mẹ Tình Yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “tớ nữ của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu này với tiếng “Xin Vâng” tròn đầy. Vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài cho nhân loại.
Tiếng “xin vâng” của Đức Ma-ria tỏa sáng nhân cách tuyệt vời của Mẹ. Tiếng xin vâng của Mẹ không là khởi điểm, nhưng là kết quả của một cuộc đối thoại chân thành, thẳng thắn của Mẹ. Những gì Mẹ không hiểu, Mẹ hỏi cho ra lẽ cho đến khi chạm đến mầu nhiệm của Thiên Chúa, lúc đó Mẹ cất tiếng xin vâng tràn đầy lòng tin, chan chứa lòng mến và hy vọng.
Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Bài Đọc I nói cho chúng ta biết vua Đa-vít muốn xây một nhà nguy nga tráng lệ để làm chỗ xứng đáng cho Hòm Bia thánh, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, nhưng gặp phải sự từ chối của Thiên Chúa. Việc chối từ này mặc lấy ý nghĩa viên mãn của nó trong hoạt cảnh Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến ở với loài người là cung lòng của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần. Cung lòng của Đức Trinh Nữ là Nhà của Thiên Chúa, là Đền Thờ tuyệt mỹ vô song, là nơi cực thánh mà Con Thiên Chúa nhập thể chọn để sống ở giữa chúng ta.
Thiên Chúa hiện diện giữa Dân Người. Đó là giáo huấn từ thời Cựu ước. Sự hiện diện của Chúa không lệ thuộc vào một không gian và thời gian. Vua Đavít đã suy luận theo kiểu con người, và vì lòng tôn kính dành cho Chúa, ông muốn xây cho Ngài một ngôi nhà. Ông nghĩ thật là bất kính nếu ông ở lầu son gác tía, trong khi Chúa lại ngự nơi lều tạm.
Nếu xây lâu đài là ý định của các bậc quân vương, thì đối với Chúa lại khác. Qua ngôn sứ Nathan, Chúa đã mời gọi vua Đavít nhìn lại lịch sử đã qua, để thấy Chúa luôn hiện diện giữa thăng trầm của đời ông cũng như trong lịch sử dân tộc. Ngài luôn bênh vực và giúp ông chiến thắng trong các cuộc giao tranh, củng cố ngai vàng của ông và tạo cho ông nổi danh giữa thiên hạ. Chúa muốn ông nhận ra sự hiện diện của Ngài suốt bề dày lịch sử, từ thời xa xưa. Ngài không có nhu cầu, không cần một lầu son gác tía. Điều Ngài muốn, đó là hãy trung tín với Ngài mọi nơi mọi lúc. Nếu bền chí đi theo giáo huấn của Ngài, Đavít sẽ được Chúa chúc lành. Ngài sẽ cho ông dòng giống trường tồn. Ngôn sứ Nathan đã diễn tả ân sủng của Chúa qua hình thức “nhà” mà Ngài sẽ xây cho Đavít, để đối lại với “nhà” mà ông muốn xây cho Chúa. “Nhà” mà Chúa sẽ ban cho Đavít là vương quốc vững bền, khôn ngoan lỗi lạc và phú quý giàu sang. Những điều này là bằng chứng cho sự hiện diện và ơn chúc lành của Chúa.
“Đức Chúa ở với ngài!”. Đó là lời khẳng định và là lời chúc phúc của ngôn sứ Nathan với vua Đavít. Đó cũng là lời Sứ thần Gabrien nói với Trinh nữ Maria. Tuy vậy, nếu sự hiện diện của Chúa giữa Dân Ngài từ trước tới nay chỉ thể hiện qua sự quan phòng che chở, thì nay Thiên Chúa lại hiện diện một cách thức hoàn toàn mới mẻ. Sứ thần Gabrien đã giải thích điều đó: “Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Vâng, từ nay Thiên Chúa không còn ở chốn cao xanh xa vời vợi, nhưng Ngài đã cúi xuống ghé thăm và ở lại với loài người. Ngôi Lời linh thiêng đã trở thành con người bằng xương bằng thịt để cư ngụ giữa chúng ta. Sau này, Chúa Giêsu tuyên bố: “Ai thấy Thày là thấy Chúa Cha“. Tác giả thư Do Thái cũng khẳng định: “Người là phản ánh vinh quang, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,3). Như thế, qua Chúa Giêsu, con người được gặp gỡ Thiên Chúa, tâm sự với Ngài. Những ai tin vào Chúa Giêsu sẽ cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa một cách mới mẻ, gần gũi.
Chúa Giêsu đã đến trần gian. Thiên Chúa hiện diện giữa nhân loại. Đó là một trong những nội dung quan trọng của sứ điệp Giáng Sinh. Từ nay, chấm dứt những nghi lễ của Cựu ước, vì Chúa Giêsu là Thượng Tế vĩnh cửu. Người đã hiến dâng chính mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho con người. Thánh Phaolô diễn giải điều này, để khẳng định, những ai tin vào Chúa Giêsu, thì không phải tuân thủ những ràng buộc của luật tế tự Cựu ước (Bài đọc II).
Nếu trong ngày truyền tin, Sứ thần đã chào kính Đức Maria: “Đức Chúa ở cùng Bà”, thì hôm nay, chúng ta cũng chào nhau trong phụng vụ: “Chúa ở cùng anh chị em”. Vâng, Chúa đang ở cùng chúng ta. Hãy xác tín vào sự hiện diện của Ngài. Hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài ban ơn trợ lực cho chúng ta trên bước đường đời. Thế giới hôm nay đang vắng bóng tình thương. Thay vào đó là sự hận thù ghen ghét và bạo lực giết chóc. Cùng với Đức Trinh nữ Maria, chúng ta hãy khiêm tốn thưa với Chúa lời xin vâng, qua đó chúng ta đón nhận và cộng tác với Ngài, để “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Amen.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.
Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?
2) Từ bỏ ý riêng có dễ không?
3) Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?
4) Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?
.
MẸ MARIA VINH DỰ ĐÓN TIẾP CHÚA
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Đây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã dành cho loài thụ tạo chúng ta. Là niềm vui cho những ai biết mở lòng đón nhận Ngài. Là hạnh phúc cho những ai thành tâm thiện chí tìm kiếm Ngài.
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm. Một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh là người đầu tiên đón Chúa đến viếng thăm. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không đánh mất cơ hội có thể nói ngàn năm có một. Lời thưa xin vâng lúc này là lời thưa đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa này đã vẽ lên một trang sử mới trong cuộc đời cô và lịch sử của nhân lọai cũng bước sang một trang sử mới. Thời đại công nguyên đã bắt đầu. Thời đại hồng ân mà Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Nhưng đáng tiếc là ngày Thiên Chúa đến trần gian lần thứ nhất nhiều người đã đánh mất cơ hội triều bái người. Nơi máng cỏ Belem năm xưa chỉ có Thánh Giuse, Đức Maria và các mục đồng. Những người trí thức và các thầy Lê-vi vẫn loay hoay với mớ kiến thức giáo lý của mình. Vẫn cố gắng dùng trí khôn con người để hiểu chương trình Thiên Chúa. Nhưng đường lối của Thiên Chúa vượt xa trí hiểu con người nên họ đã không thể nhận ra Con Thiên Chúa lại sinh ra trong cảnh cơ hàn.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời tới từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Ngài. Hãy quảng đại để chấp nhận Ngài. Hãy dấn thân và phục vụ Ngài nơi những anh em bất hạnh lầm than.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là “sinh vô gia cư, chết vô địa táng”. Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà còn ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giê-su là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, trước lễ Thiên Chúa Giáng Sinh, tác giả Tin Mừng Luca đưa chúng ta về với biến cố truyền tin diễn ra nơi khung cảnh miền quê Nagiarét. Khởi đầu câu chuyện vĩ đại đã tồn tại trong lịch sử loài người bằng câu : “Khi ấy …”. “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1 , 26-27 ). Đây không phải là câu chuyện do con người tạo ra trong trí tưởng tượng, nhưng là câu chuyện được thêu dệt bởi chính Thiên Chúa và sự cộng tác của con người xảy ra trong không gian và thời gian, đã hoàn tất cách đây 2017 năm. Bằng cung kể bình dân, dễ tiếp cận, Luca giới thiệu cho chúng ta một số nhân vật theo thời gian, không gian và chủ đề, dẫn chúng ta đến đỉnh cao của câu chuyện là điểm : “Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai […] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người […] và triều đại Người sẽ vô tận ” (Lc 1, 31-33). Với lời loan báo trên cho chúng ta biết Noel đã gần kề.
Đức Maria, người thôn nữ khiêm hạ miền Nagiarét nghe những lời trên của Sứ Thần Gabriel đã không khỏi kinh ngạc. Maria còn đồng trinh mà nay Thiên Chúa lại muốn Maria làm mẹ, nên hỏi : “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam!” (Lc 1,34). Trong sự đơn sơ, Maria không hoài nghi quyền năng của Thiên Chúa nhưng muốn hiểu ý định của Chúa hơn, hầu sống trọn ý Chúa. Băn khoăn của Maria được Sứ Thần giải thích, việc giữ mình khiết trinh với việc mang thai Đấng Cứu Thế không có gì là mâu thuẫn, lý do : “Không có việc gì mà Chúa không làm được”. Hiểu được ý Chúa, Maria đã mở lòng mình ra, sẵn sàng cộng tác vào công trình của Thiên Chúa và cất tiếng “xin vâng”. Lập tức “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Thiên Chúa trông chờ tiếng “xin vâng” từ nơi Đức Maria để thực hiện công trình của Chúa. Tiếng “xin vâng” bao hàm cả tình mẫu tử lẫn sự đồng trinh. Mẹ vừa muốn vinh quang Thiên Chúa hiện thực nơi mình vừa muốn Người Con sẽ sinh ra hoàn toàn là quà tặng ân sủng.
Câu chuyện bình dân ấy thực tế nhất đối với Thiên Chúa và nhân loại chúng ta. Chân phước Phao lô VI viết năm 1974 rằng : “Đức Maria là câu trả lời mà Thiên Chúa ban trong mầu nhiệm nhập thể làm người; đó cũng là câu hỏi mà con người tự đặt ra về Thiên Chúa và về chính mình”.
Khi thưa “xin vâng”, lời thưa của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Thánh Bernarđô kêu lên : “Ôi lạy Mẹ, Mẹ là đấng cứu chuộc chúng con. Vì khi Mẹ thưa xin vâng, lập tức chúng con được giải thoát. Toàn thể địa cầu trông đợi lời xin vâng của Mẹ. Lời ấy sinh ra Ngôi Lời Hằng Hữu. Thiên Chúa muốn nghe Mẹ tự do trả lời, Mẹ “đầy ân sủng”, khi Mẹ thưa : “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền !” (Lc 1, 38). Từ ấy Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ, hôm nay vai trò Trung Gian của Mẹ khởi đầu. Kể từ đó Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28). Lời “xin vâng” của Mẹ là lời cứu độ.
Thánh Augustinô viết: “Ngài đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn” (x. Bài giảng 69, 3, 4). Thật là cơ hội để chúng ta nhìn vào Nagiaret hầu cảm nhận được sự hiện diện của một trinh nữ mà muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48).
Hôm nay chúng ta không thể quên khuôn mặt đặc biệt của thánh Giuse, vì cả Mẹ Maria và thánh Giuse đều đã sống một cách thật mãnh liệt duy nhất thời gian chờ đợi và chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh với niềm vui thiêng thánh.
Thánh sử Luca trình bày Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria như là vị hôn thê của “một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít” (Lc 1,27). Nhờ và qua thánh nhân, Trẻ Giêsu được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là “Con của Vua Ðavít”.
Thánh Giuse là mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19); trong sự hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, thánh Giuse tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa. Vì thế, trong những ngày trước lễ Giáng Sinh, thật là thích hợp hơn bao giờ hết, để thiết lập một cuộc đối thoại thiêng liêng với Thánh Giuse, với Mẹ Maria, xin các ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm cao cả Ðức Tin này. Nhờ lời “xin vâng ” của Mẹ lúc Truyền Tin, cánh cửa ơn cứu rỗi đã mở ra cho nhân loại.
Xin Mẹ giúp chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thưa “xin vâng ” với Chúa như Mẹ để chúng ta được cứu. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, Hội Thánh cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng quen thuộc: “Sứ Thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Maria”.
Thiên Chúa muốn Con của Ngài xuống thế làm người, để cứu độ nhân loại. Ngài đã muốn người Con ấy là con người giữa nhân loại. Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Con của Ngài một người mẹ trần thế. Người mẹ ấy là Đức Maria, người làng Nadarét, vùng Galilê, nước Paléttin.
Cô Maria là người được Thiên Chúa tuyển chọn giữa muôn vàn phụ nữ trên địa cầu. Ngài chọn Cô chẳng phải vì Cô thánh thiện hơn người khác. Ngài chọn Cô từ khi Cô còn trong lòng mẹ. Ngài tuôn đổ trên Cô tràn trề ân sủng: “Hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Cô” (Lc 1,28). Được tràn trề ân sủng là được Thiên Chúa mến thương, được đẹp lòng Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho Cô Maria. Ngài đã tạo dựng Cô như một thụ tạo tuyệt vời, độc nhất vô nhị, chỉ vì Ngài muốn Cô xứng đáng trở nên người mẹ cưu mang chính Con Một của Ngài. Maria là một kiệt tác của Thiên Chúa, dù bề ngoài Cô chỉ là một thôn nữ của một ngôi làng nhỏ bé vô danh.Thiên Chúa không ép buộc Cô Maria làm mẹ của Con Một Ngài, dù Ngài đã chuẩn bị cho Cô một cách đặc biệt để đón nhận trọng trách cao cả đó. Ngài tôn trọng tự do của Cô, tự do mà chính Ngài đã ban cho Cô trong tư cách là người. Ngài không đặt Cô trước một sự đã rồi. Ngài muốn hỏi ý Cô, và chờ Cô ngỏ lời ưng thuận.
Thiên Chúa sai Sứ thần đến nhà Maria. Câu chuyện Lời Chúa hôm nay là Truyền tin, một Tin mừng muôn thuở. Tin mừng này đã được thực hiện qua một cuộc hòa đàm chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Cuộc hòa đàm diễn ra giữa hai nhân vật, đại diện Thiên Chúa và loài người. Đại diện Thiên Chúa là Sứ Thần Gabriel, đại diện loài người là trinh nữ Maria.
Khung cảnh cuộc hòa đàm, không phải trong cung điện vua chúa, lầu các sang trọng. Nơi đó, trong căn nhà thanh bạch nghèo nàn thuộc vùng sâu thôn dã vô danh Nadarét. Khung cảnh thật giản dị, quê mùa, thô sơ, nhưng Thiên Chúa đã chọn làm khởi điểm lịch sử cứu độ vĩ đại.
Maria dù là nữ tỳ nhưng Sứ Thần đến mở đầu cuộc hòa đàm, không phải với thái độ ông chủ truyền lệnh. Ở đây, Sứ Thần hết sức khiêm cung, kính cẩn, lễ phép với lời chào : “Kính mừng Đấng đầy ân phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Thật khác xa lời cậu thanh niên chào cô thanh nữ. Tử tế lắm, cậu chỉ nói : Chào cô, chào em.
Sứ thần rất trân trọng thôn nữ Maria : vừa chúc tụng kính phục con người thánh thiện khả ái, vừa tôn vinh chức vụ cao sang của Bà được Thiên Chúa ở cùng.
Thôn nữ Maria sợ sự tôn vinh bất thường ấy, và tự nhủ lời chào ấy có ý nghĩa gì ? Quả là sự tỉnh thức thận trọng của một thục nữ trinh trong, sáng ngời, đầy khiêm nhu và thùy mị.
Sứ thần đã nhận ra ý từ đó và giải thích thật rõ ràng cặn kẽ, trong suốt : “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, Bà rất đẹp lòng Thiên Chúa, Thiên Chúa ban cho Bà sinh con, đặt tên là Giêsu, Người là Con Đấng tối cao, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít …”.
Nhưng, đối với Maria, “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” hơn cả ngai vàng vua Đavít, vì Maria đã tận hiến suốt đời đồng trinh cho Thiên Chúa, nên Maria từ tốn đáp lễ : Làm sao có chuyện ấy được, thưa Ngài, vì tôi đã khấn trọn đời đồng trinh.
Sứ thần liền minh giải : “Việc đó rất chí thánh, do Chúa Thánh Thần với quyền phép Đấng Tối Cao, sẽ soi bóng trên Bà, nên Hài nhi khi Bà sinh ra là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa ..”
Nhận ra đó là thánh ý Thiên Chúa, Maria đã sấp mình tôn thờ Thiên Chúa : “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hết lòng vâng theo thánh ý Chúa như lời sứ thần truyền dạy”.
Sứ thần đã thành công trong sứ mạng vô cùng trọng đại. Maria đã hoàn toàn làm đẹp lòng Thiên Chúa, trọn vẹn hiến dâng đồng trinh với chức vụ thiên mẫu lạ lùng.
Đây thật là một cuộc hòa đàm gương mẫu cho muôn đời. Gương mẫu vì cuộc hòa đàm đã diễn ra đúng tinh thần đối thoại và hòa giải.
Đối thoại cần thiết phải có ba tính chất đặc biệt :
– Thứ nhất, hai bên thật khiêm tốn, tôn trọng lẫn nhau.
– Thứ hai, hai bên thưa đáp trình bày ý tứ của mình rất trong sáng, rất đơn sơ và chân thành, mình nghĩ thế nào, lập trường làm sao, cần những điều gì mới đưa đến thành công.
– Thứ ba, hai bên đã nhận ra những ân huệ vì ích chung, thánh thiện mà Thiên Chúa muốn thực hiện.
Đây cũng là một cuộc hòa giải hoàn hảo :
– Vì đã giải quyết được những nỗi khó khăn phức tạp, loài người không thể gỡ mối tơ vò, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới giải quyết được vấn đề : vừa đồng trinh, vừa sinh con, con Bà vừa là người, vừa là Thiên Chúa.
– Vì đã giải quyết được chương trình cứu độ nhân loại mà Thiên Chúa đã bao lần hòa giải thất bại với bao nhiêu nhân vật từ Ađam Evà cho đến nay. Nay Thiên Chúa mới thực hiện được chương trình thương yêu của Người nơi Đức Trinh nữ Maria.
Thiên Chúa đã giao ước với Ađam Evà, nhưng Nguyễn tổ đã trở mặt theo con rắn satan. Thiên Chúa đã giao ước với Noe, nhưng con cháu đã xây tháp Babel kiêu căng. Thiên Chúa đã giao ước chọn lựa Abraham làm tổ phụ dân Người, nhưng con cái Giacob hằn thù chia rẽ, bán Giuse làm nô lệ cho con buôn Ai cập. Thiên Chúa đã giao ước với Môisen đưa dân về quê cha đất tổ để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng dân Israel đã chiều theo lối sống thờ thần Babylon. Giờ đây, Thiên Chúa chỉ còn cách duy nhất là ký kết với Đức Maria, một đầy tớ trung tín và khôn ngoan, luôn luôn làm theo ý chủ mình là Thiên Chúa, một tôi tớ dâng hiến trọn vẹn toàn diện đời mình từ trong bào thai cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã toàn quyền sử dụng Maria theo thánh ý Người. Và Con Thiên Chúa đã xuống cung lòng Maria để ở cùng loài người cho đến tận thế.
Bài Tin Mừng hôm nay thường gọi dưới tựa đề là ” Sứ Thần truyền tin cho Đức Mẹ”. Nhưng Sứ Thần và Đức Mẹ đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là Đức Giêsu. Trang Tin Mừng này giới thiệu căn tính của Đức Giêsu. Đó là nội dung chính của Truyền Tin. Qua lời của Sứ Thần mà chúng ta biết Giêsu là “Con Đấng Tối Cao”, là “Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”.
Đức Maria sẽ nhận được một sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa. Mẹ sẽ đón lấy quyền năng sáng tạo của Thánh Thần “Thánh Thần sẽ ngự trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà.”. Vì thế Đấng Mẹ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai Gioan Tẩy Giả đòi hỏi một phép lạ, thì việc thụ thai Đức Giêsu đòi hỏi một phép lạ lớn hơn nhiều, đó là Ngài được thụ thai bởi một Trinh Nữ. Đức Giêsu không chỉ là Đấng Mêsia mà dân Do thái hằng mong đợi, Ngài còn là Đấng cao cả, thánh thiện hơn nhiều; Ngài là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa viên mãn chưa từng có.
Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này. Lời thưa “Xin vâng” của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Từ đó Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ. Từ đó vai trò Trung Gian của Mẹ đã khởi đầu. Từ đó, Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28).
Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến. Mẹ cầu bàu cho chúng ta trước tôn nhan Chúa. Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa.
Xin Chúa cho chúng con được trở nên con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng tỏ cho chúng con thánh ý Chúa và hướng dẫn chúng con biết sống đẹp lòng Chúa hàng ngày.Amen.
.
Anna Cỏ May
Mẹ Maria là Mẹ diễm phúc. Người chị họ đã khen Mẹ là người thật có phúc hơn mọi người phụ nữ và Mẹ đã cất cao bài ca Manificat. Bởi Mẹ đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa nhập thể. Việc ấy được ghi lại qua biến cố sứ thần Gabriel truyền tin.
Khi Sứ thần đến gặp và báo cho Mẹ, ngay lúc ấy sứ thần cũng chờ mong quyết định của Mẹ. Mẹ đã sợ hãi và bối rối trước sự xuất hiện đột ngột của sứ thần và cả những gì Mẹ được nghe sứ thần nói. Sứ thần đã trấn an Mẹ “Thưa bà Maria xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu” (Lc 1, 30-31). Có thể nói, tương lai cả nhân loại đang nằm trên đôi môi của Mẹ. Thiên Chúa cũng đang chờ đợi câu trả lời của Mẹ. Chính tình yêu Thiên Chúa và kinh nghiệm về Thiên Chúa nơi Mẹ thật thẳm sâu đã thúc đẩy Mẹ ưng thuận. Mẹ đã chọn thực thi thánh ý Thiên Chúa bởi Mẹ vẫn hằng đặt trọn niềm tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa. Mẹ đáp: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38). Mầu nhiệm Nhập thể đã được hoàn tất. Bấy giờ, Mẹ được tràn đầy ân sủng Thiên Chúa và hân hoan thực hiện điều Thiên Chúa muốn mỗi ngày.
Qua mầu nhiệm Nhập thể, ta học được điều gì nơi Mẹ? Bài học đầu tiên là Con Thiên Chúa nhập thể nơi một người phụ nữ miền Galilê. Chúng ta được chiêm ngắm quyền năng tuyệt đỉnh của Thiên Chúa cùng với đức tin mạnh mẽ của Đức Mẹ trước lời mời gọi cao cả. Nơi Mẹ, ta học được sự mau mắn xin vâng. Lời xin vâng của Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa được khởi đầu tốt đẹp. Nhờ lời “xin vâng” của Mẹ mà Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của nhân loại. Cũng nhờ lời ấy mà nhân loại được ơn cứu độ. Lời xin vâng ấy không dễ dàng để thực hiện bởi nó đòi hỏi ta phải từ bỏ ý riêng để thuận theo ý Thiên Chúa. Và chính Mẹ đã thực hiện trọn vẹn lời mời gọi ấy trong sự từ bỏ mình hằng ngày. Lời “xin vâng” của Mẹ không chỉ thưa lên một lần trong biến cố Truyền tin, nhưng được nối dài suốt cả cuộc đời Mẹ.
Nắng xế chiều. Những âm thanh rộn ràng cất lên khắp đường phố. Đó là những ca khúc giáng sinh vui tươi nhắc nhớ mỗi người: Giáng sinh đã về. Chỉ còn chút thời gian nữa thôi, hãy mở lòng cảm nhận lời mời gọi của Thiên Chúa và mau mắn nói lời xin vâng như Mẹ.
Lạy Chúa! Chúa không ngừng mời gọi chúng con mở lòng mình ra. Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe, nhận biết tiếng Chúa và mau mắn đáp trả lời Chúa mỗi ngày. Nhờ đó, chúng con được hưởng niềm vui trọn vẹn trong ngày Chúa giáng sinh gần kề. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
“Ðông qua mau trúc xinh nghiêng nghiêng đợi chờ. Xuân mới về hồn con say ngát ý thơ. Hoa xinh tươi thắm hương trong làn gió mới. Tiến dâng Mẹ Nữ Vương mùa xuân yêu thương.” (Nữ Vương mùa xuân- Lm. Vũ Mộng Thơ).
Lời ca thật hay! Ta thả hồn theo tiếng nhạc rộn ràng, trải lòng mình để trò chuyện với Mẹ Maria. Mẹ vẫn đứng đó, tay bồng Chúa Hài Nhi như cung kính nâng niu và gìn giữ một sự gì rất đỗi thánh thiêng. Mắt Mẹ mở to nhìn vào sâu thẳm tâm hồn mình. Tâm hồn Mẹ đã được cưu mang con Thiên Chúa và Mẹ đã sinh Người trong cảnh khốn cùng nhất của những người nghèo khó. Tâm hồn Mẹ chẳng vướng nhơ tội lỗi và Mẹ đã được Thiên Chúa gìn giữ cách đặc biệt. Mỗi lần ta bị cám dỗ mời mọc, ta đã thưa lên cùng Mẹ lời thân thưa của một đứa con nhỏ luôn mong được nép thân bên Mẹ hiền. “Mẹ ơi! Xin cho con được nép mình vào tấm áo đồng trinh của Mẹ.” Ta đã học được lời ấy từ chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu.
Ta đang đọc lại lời “Xin vâng” thật tuyệt vời của Mẹ trong biến cố Truyền tin. Trước lời chào rất đỗi lạ lùng của sứ thần Gabriel, trinh nữ Maria đã bối rối và sợ hãi. “Thưa bà Maria xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. (Lc 1, 30-31). “Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa” lời ấy cứ vang vọng trong tâm hồn ta và chất vấn ta: Có bao giờ tôi được đẹp lòng Thiên Chúa chưa? Mẹ đã rất khiêm tốn nhận mình chỉ là nữ tì hèn mọn được Chúa thương nhìn tới. Đức Chúa ở cùng Mẹ. Giờ đây, Mẹ sẽ quyết định thế nào trước một chương trình mà Thiên Chúa dành cho Mẹ quá cao cả và vĩ đại đây? Mẹ có quyền từ chối vì Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng tự do của con người. Mẹ đã để cho tình yêu Chúa chiếm hữu. Một khi Mẹ thưa tiếng “xin vâng” thì cũng có nghĩa là Mẹ đã dám từ bỏ chương trình riêng của bản thân để hiến thân cho Thiên Chúa trong công trình xiết bao kỳ diệu của Ngài. Quả thật, chính Mẹ đã từ bỏ bản thân cho Thiên Chúa. Mẹ sẵn sàng với tất cả những gì Thiên Chúa muốn nơi Mẹ. Từ nơi Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ nhập thể làm người, sẽ cất tiếng nói giữa những con người của thời đại, dạy cho họ biết sống theo thánh ý Thiên Chúa để có được hạnh phúc Nước Trời.
Cuộc sống của ta không phải lúc nào cũng êm đềm trôi trong những giấc mơ đẹp. Giữa những thử thách, gian truân, đâu là lời xin vâng của ta thưa lên cùng Thiên Chúa, Đấng mà ta vẫn ngợi ca là Tình yêu? “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 38). Ta nghe trong lòng lời xin vâng rất đẹp của Mẹ và tự hỏi lời thưa “xin vâng” ấy có còn được Mẹ thưa lên cùng Chúa nữa không?
Nhìn ngắm mẫu gương của Mẹ, ta có thể tìm thấy một sự cảm thấu và được an ủi. Suốt một đời, Mẹ đã trải qua những biến cố mà dường như đi ngược lại với những gì mà sứ thần Gabriel đã báo. Làm sao hiểu được một Đấng Cứu Thế phải hạ sinh trong một hang lừa hôi hám giữa trời đông giá lạnh nếu Mẹ là người không có một niềm tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Làm sao hiểu được sự gian truân vất vả mà Mẹ cùng Thánh Giuse đã trải qua, đang đêm ôm con trốn ngọn giáo của vua Hêrôđê? Ta cũng từng gặp những sự khó khăn và chúng chi phối cuộc sống của ta. Ta nghĩ mình thật đáng thương, thật khổ sở và ta đã than trách Chúa tại sao không thương ta. Còn Mẹ và Thánh Giuse có than trách Thiên Chúa hay không? Từng biến cố đến trong đời, Mẹ đã chìm đắm trong suy ngắm mầu nhiệu tình thương của Thiên Chúa. Mẹ đã trung kiên bước theo Chúa Giêsu đến cùng lên tận đỉnh đồi hiến tế. Mẹ đã không ngần ngại nhận mình là mẹ của tử tội Giêsu. Theo gương Mẹ, ta cũng hãy dâng ý riêng và chương trình của bản thân cho Thiên Chúa để sống cho chính Thiên Chúa. Từng ngày, hãy dâng những thăng trầm dâu bể, những thử thách đến trong đời ta cho Thiên Chúa. Giữa những thách đố của cuộc sống mà thực tế diễn ra nghiệt ngã, không như ta mong đợi, ta hãy nhìn về Mẹ và xin ơn trợ giúp. Mẹ đã được Thiên Chúa cho chiến thắng sự dữ, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ sẽ phù trợ cho ta trước mặt Chúa. Nhờ Mẹ, ta hãy mau mắn đến với Giêsu con Mẹ để từng ngày học biết thánh ý Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa và sẵn lòng thực thi thánh ý Thiên Chúa với một niền tín thác.
Lạy Chúa! Con đang mong ngóng cho đến ngày lễ Giáng Sinh để mừng Chúa ra đời, để chờ đón những cuộc găp gỡ với những người con thương mến. Xin Chúa dạy con biết bước theo Mẹ, thưa xin vâng như Mẹ dù cuộc đời không như ý muốn. Xin Chúa dạy con khiêm nhường nhìn nhận thân phận đầy tớ mọn hèn của mình và biết ca ngợi tình yêu Chúa suốt mọi ngày đời con. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Chúa Nhật IV Mùa Vọng luôn dành riêng để nói về Đức Mẹ. Thật vậy, thánh Bênađô đã diễn tả một câu để đời :” Nói về Mẹ không bao giờ cho đủ “ ( De Maria numquam satis ! ). Mẹ Maria nắm một vai trò rất quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Bởi vì, Thiên Chúa không dùng một đường lối nào khác ngoài con đường bình thường mà nhân loại vẫn đi. Thiên Chúa đã chọn, đã tuyển lựa một người nữ Do Thái để người nữ tử Sion này trở nên Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Ngôi Hai nhập thể làm người.Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ, nên Ngài đã ban cho Mẹ những đặc ân cao cả mà không một ai có được những ân huệ ấy. Giáo Hội dành nói về Mẹ trong Chúa Nhật IV Mùa vọng là để trình bầy đường lối tuyệt vời của Thiên Chúa…
Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại quả thực cao sâu, huyền diệu.Thiên Chúa đã chọn một người nữ Do Thái tên là Maria. Ngài đã dọn cung lòng Đức Trinh Nữ Maria hoàn toàn trinh khiết, vẹn toàn để chuẩn bị cho Con Một của Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người. Thiên Chúa đã dùng sứ thần Gabrien để truyền tin cho Đức Mẹ :” Và này nơi lòng dạ, người sẽ thụ thai, và sinh con trai, và người sẽ gọi tên Ngài là Giêsu…” ( Lc 1, 31 ). Maria rất đỗi ngạc nhiên, nhưng sứ thần đã trấn tĩnh Mẹ bằng những lời đầy yêu thương và an ủi :” Maria, đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa “ ( Lc 1, 30 ). Bởi vì :” Mẹ đầy ơn phúc “ ( Lc 1, 28 ). Sứ thần đã nói lên sự can thiệp đặc biệt này :” Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ “ ( Lc 1, 35 ). Chính vì thế, việc sinh con này là do hoàn toàn Thiên Chúa, chứ loài người, xác thịt không tham dự vào.
Sứ thần của Thiên Chúa đã kết thúc việc truyền tin cho Đức Mẹ với một xác tín mạnh mẽ, đầy quyền năng:” Vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được “ ( Lc 1, 38 ). Maria dù chưa hiểu rõ ý định của Thiên Chúa, nhưng Mẹ đã hoàn toàn tin tưởng, cậy trông, phó thác, vâng phục Ngài, Mẹ Maria liền thưa :” Xin vâng, xin hãy thành sự như lời sứ thần nói “ ( Lc 1, 38 ). Mẹ Maria đã đem lại cho thế giới niềm hy vọng và bình an. Chính việc xin vâng của Mẹ đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.
Vâng, với quyền năng của Đấng Tối Cao, thế giới đã sống trong hạnh phúc, niềm vui và hy vọng được ơn cứu rỗi.
Mẹ Maria đã thưa xin vâng với tất cả niềm tin, trách nhiệm, do đó, Mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa để Con Một Thiên Chúa được làm người ở giữa muôn người. Qua lời thưa xin vâng, Mẹ là mẫu gương lý tưởng cho mọi người biết khiêm nhượng, phó thác, cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa.
Chúa đã nhập thể nơi cung lòng trinh khiết của Đức Maria ngay từ giây phút Mẹ thưa lời xin vâng, và Chúa vẫn còn tiếp tục đến với mỗi tín hữu qua thái độ sẵn sàng đón tiếp của mình.
Chúng ta đã sống Mùa vọng làm sao, chúng ta có sẵn sàng đón tiếp Chúa qua lời xin vâng thực thi ý Chúa của chúng ta không ?
Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã nói lời “ xin vâng “ với tất cả trách nhiệm, với tất cả niềm tin của mình.Xin cho chúng con luôn sẵn sàng mở lòng tiếp đón Chúa qua lời xin vâng làm theo ý Chúa của chúng con. Amen.
Gợi ý để chia sẻ :
1. Ai đã truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria ?
2. Trước lời mời gọi của sứ thần Gabrien, Mẹ đã đáp trả thế nào ?
3. Sứ thần đã chào Mẹ làm sao ?
4. Mỗi Kitô hữu phải có thái độ nào để đón chờ Chúa đến ?
.
Lm. Vinh Sơn
Một sự kiện có một không hai tại lễ trao giải điện ảnh Oscar năm 2012 diễn ra hôm 26 tháng 2 đó là sự có mặt của một minh tinh màn bạc rất đặc biệt, một nữ tu chiêm niệm 73 tuổi dòng kín Bénédictines, Mẹ Dolores. Hiện nay, Mẹ là bề trên của đan viện Regina Laudis ở Bethlehem, thuộc tiểu bang Connecticut.
Từng là ngôi sao trẻ mới nổi lên vào đầu thập niên 60, Mẹ Dolores được công chúng biết đến với cái tên diễn viên điện ảnh Dolores Hart. Nữ nghệ sĩ đầy tài năng này từng vào vai diễn của mình với nam tài tử nổi tiếng thời bấy giờ Elvis Presley trong các phim « Loving you» (1957), King Creole (1958). Ngoài ra, Dolores Hart còn đóng những vai chính trong nhiều phim với các nam diễn viên nổi tiếng khác như George Hamilton, Robert Wagner, Stephen Boyd, Montgomery Clift v.v…
Mẹ Dolores đến với làng điện ảnh Hollywood lần này để giới thiệu bộ phim tài liệu “Thiên Chúa quan trọng hơn là Elvis”, một bộ phim được ban tổ chức đề cử cho giải Oscar 2012. Phim tài liệu không chỉ đề cập đến sự nghiệp điện ảnh lừng danh của Mẹ, mà còn phục vụ cho việc Phúc Âm Hoá, giới thiệu linh đạo dòng Biển Đức cũng như đời sống thường nhật của các nữ tu chiêm niệm.
Sinh năm 1938 tại Chicago, thuộc tiểu bang Illinois với tên trong giấy khai sinh Dolores Hicks, Dolores Hart là con gái của diễn viên Bert Hicks (1920-1965), và là cháu gái của nghệ sĩ Mario Lanza (1921-1959). Cứ theo suy đoán logic bình thường, Dolores Hicks sẽ chọn trong tương lai cho mình nghề diễn viên để kế tục truyền thống của các bậc cha chú. «Khi lớn lên, tôi đã không có ý định trở thành nữ tu. Tôi muốn là một nghệ sĩ. Nếu như có ai nói với tôi rằng một ngày nào đó tôi sẽ là một tu sĩ, thì tôi hoàn toàn không tin vào điều này. May mắn ấy chỉ chiếm một trên phần một triệu mà thôi », Mẹ Dolores tâm sự.
Trở thành nữ tu chiêm niệm dòng Biển Đức vào năm 1963, là Bề Trên đan viện Regina Laudis kể từ tháng 11 năm 2004, Mẹ Dolores chia sẻ về ơn gọi của mình : « Tôi đã đấu tranh suốt cả cuộc đời để đáp trả tiếng gọi của Đức Kitô. Nhờ vậy, tôi có thể hiểu ra tại sao nhiều người lại có những hoài nghi, bởi vì ai mà có thể hiểu nổi Thiên Chúa ? Chẳng phải tôi ! Ở cấp độ này, các bạn bước vào mối liên hệ với mầu nhiệm »…. (trích bản tin của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng).
Maria không xin khiêm tốn, nhưng Maria đáp trả lại với tâm tình khiêm tốn bằng Lời Xin Vâng với tất cả niềm tin tín thác, trước đề nghị của Sứ Thần mời Maria cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa.
Trinh nữ Maria đã đính hôn cùng chàng trai Giuse và hai người cùng quyết tâm sống trinh khiết tận hiến cho Thiên Chúa, hòa chung với niềm mong đợi của toàn dân: khao khát và hằng trông đợi Đấng Cứu Thế. Trong niềm khát vọng đó, tại Nagiaret hẻo lánh, Maria đón một vị khách lạ, chính là Sứ thần Gabriel đến với lời chào: “Mừng vui lên!, hỡi Trinh nữ”. Lời chào như thể được liên kết với biến cố Đấng Cứu Thế ngự đến như lời các ngôn sứ đã vang lên : “ Thiếu nữ Sion hãy reo vui lên khi ngắm nhìn Đấng cứu độ mình đang tiến đến gần ” (x. Xp.3, 14; Ge 2,21; Dcr 2,14. 9,9 ; Is 54,1). Maria là người đầu tiên được loan báo niềm vui vĩ đại này cho nên được đầy ơn phúc. Sau đó niềm vui sẽ được loan báo cho toàn dân.
Lời chào và sự loan báo của Sứ thần làm Maria bối rối vì không hiểu hết sự việc hơn nữa mình là một thôn nữ thấp kém sao lại được hồng ân cao cả.
Sứ thần Gabriel nói tiếp : “ Thiên Chúa ở cùng Trinh nữ ”, lời tiên báo của Ngôn sứ về hồng ân vĩ đại cho con người: Thiên Chúa ở với dân Người như ngôn sứ Isaia nói về tên Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta -(x. Is 7,14), Thiên Chúa ở cùng nhân lọai nhưng trước hết với và qua Đức Maria: Đấng được Đức Chúa ở cùng, cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế.
Maria thắc mắc làm sao việc sinh con có thể thực hiện được, vì Trinh nữ đã khấn hứa trọn đời trinh khiết. Sứ Thần Giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô”. Sứ thần nhấn mạnh vai trò của Thánh Thần theo Kinh Thánh: Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa ban sự sống vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng: “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) ban sự sống cho vũ trụ lúc còn nguyên sơ. Giờ đây Thánh Thần – Hơi Thở sáng tạo – từ lúc khởi đầu vũ trụ, sẽ làm lại cuộc sáng tạo mới trong lòng Đức Maria: sự thụ thai và sinh con Thiên Chúa mà vẫn còn đồng trinh.
Vì thế, Sứ Thần quả quyết: “ quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà và vì thế người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”, diễn ngữ “phủ bóng” dùng ở Kinh Thánh: trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,34) và lan đến với dân Chúa. Giờ đây phủ bóng trên Maria, Cô Trinh Nữ trở nên Nhà Tạm cho Đấng Cứu Thế. Thánh Luca sử dụng diễn ngữ “phủ bóng” để mô tả biến cố Biến Hình: “Bỗng có một đám mây phủ bóng…và từ đám mây có tiếng nói rằng: Đây là Con Ta…” (Lc 9,34). Chính vì quyền năng và hồng ân của Thiên Chúa, Maria được vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa bao phủ, và Thánh Thần thổi hơi sự sống vào trong cung lòng Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa, nên sứ thần khẳng định: “Vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”.
Sứ Thần khẳng định : “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18,14). Như xa xưa Thiên Chúa đã khẳng định với tổ phụ Ápraham, khi ông rất đỗi kinh ngạc vì vợ ông, bà lão Sara, có thể sinh cho ông một cậu con trai (St 11,30). Cũng một cách thức như vậy đối với bà cụ Rêbêca (St 25,21), bà Raken đã cao niên (St 29,31) và mẹ của ông Samson cũng đã già (Tl 13,2). Sứ Thần nói đến một dấu lạ mà chính Maria cũng được biết trong dòng tộc: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được…
Dù bối rối, chưa hiểu và biết rõ hết sự việc Maria khiêm tốn đặt toàn bộ cuộc đời của mình trong Thánh Ý của Thiên Chúa qua việc đáp trả với Sứ Thần: « Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền »
Maria hoàn toàn sẵn sàng thi hành ý muốn của Chúa, như một tôi tớ khiêm cung, thưa vâng trong tin tưởng, yêu mến và phó thác. Trước công trình cứu độ của Thiên Chúa đang diễn ra, trong khung cảnh truyền tin, Giacaria được loan báo về cuộc chào đời và nhiệm vụ Tiền hô của con ông là Gioan, Giacaria đã ngờ vực, hoài nghi… Đức Maria khi được loan báo về cuộc chào đời và định mệnh của con ngài là Đấng Messia mang tên Giêsu, đã trả lời một cách xác tín.
Thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta. Nhưng Ngài không cứu độ ta, nếu ta không cộng tác”.
Trong công cuộc cứu độ trần gian, Maria đã cộng tác bằng cả cuộc đời khiêm cung tín thác vào thánh ý. Maria dù không biết rõ ý muốn Thiên Chúa sẽ xảy ra như thế nào, và cuộc đời của Maria cũng gặp những gian nan: lưu lạc sang Ai Cập, lạc con và chứng kiến con phải chết trên thập tự, Maria vẫn luôn “Xin Vâng” hoàn toàn tận hiến đời mình để thực hiện thánh ý Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi vào chương trình cứu độ chung của nhân loại và cho chính chúng ta khi sẵn sàng phó thác cho đường lối Chúa Quan phòng. Khi đứng trước các ngõ ngách của cuộc đời, trước mọi thử thách và chúng ta không hiểu hết được tại sao ta phải đối diện, như Maria chúng ta khiêm tốn:
Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi!
Ðường cao vọng, chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu;
hồn con, con vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
(Tv 131, 1 – 2)
Với sự tín thác khiêm cung, chúng ta được Thiên Chúa chiếm hữu hoàn toàn trong vĩnh cửu. Chúng ta phó thác toàn thân cho ý muốn của Thiên Chúa với thái độ sẵn sang:
“Con xin đến để thực thi Ý Chúa” (Dt 10,7).
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Rất hợp lý Chúa Nhật 04 mùa vọng trình bày cảnh truyền tin cho Đức Ma-ri-a, một biến cố cụ thể và thiết thực nhất trong việc thể hiện mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thế nhưng khi Giáo Hội mời gọi tôi chiêm ngắm biến cố đó, có phải chỉ vì muốn kể cho tôi biết về các sự kiện liên quan tới việc Hài Nhi sắp sinh ra để giúp tôi thêm hiểu biết dọn mình mừng lễ Giáng Sinh? Nếu đúng là như thế thì khi chiêm ngắm quang cảnh này, tôi vẫn chỉ là người ngoài cuộc bàng quang, có chăng là chờ đợi để được hưởng một vài kết quả may mắn nào đó mà sự kiện này có thể mang đến cho mình?
“Trong mầu nhiệm Nhập thể Thiên Chúa làm người,” tác giả Brisson đã tóm lược như thế này khi nói về linh đạo của Thánh Phan-xi-cô Sa-lê, “không phải chỉ một ‘Chúa – Người’ duy nhất có thể kết hiệp với Thiên Chúa. Trong kế hoạch thần linh, không phải Thiên Chúa chỉ kết hợp với một người để biến người đó thành ‘Chúa – Người’, nhưng Ngài còn muốn nhập thể được ứng dụng cho hết thảy mọi người. Qua nhập thể Thiên Chúa muốn đi vào trong tương quan với hết thảy nhân loại. Ngài muốn nhập thể trong mọi người, đương nhiên không phải dưới dạng hai bản tính nên một (hypostatic), nhưng không kém phần hữu hiệu và biến đổi trong tất cả những ai sẵn sàng và chuẩn bị đón nhận… Nhập Thể trên thực tế lan rộng tới mọi phần tử của Nhiệm Thể Đức Ki-tô tức là Hội Thánh.” (Louis Brisson, Cor ad Cor, trg. 143).
Nếu quả đúng là như thế thì biến cố truyền tin khởi đầu mầu nhiệm nhập thể cũng phải là biến cố dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta; chính tôi cũng được truyền tin! Có thể tạm hiểu điều này như sau: Sứ thần [đức tin] đến với tôi, một kẻ thấp hèn, và chào: “Mừng vui lên, hỡi [người] đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng [bạn]”. Tôi sẽ tự hỏi, mình mà được ‘đầy ân sủng’ sao? Chắc đi rồi, vì ân sủng chính là lòng nhân ái xót thương Thiên Chúa hằng đổ tràn trên tôi. Hội Thánh cho biết ân sủng nhân ái này được ban nhưng không (gratis), nghĩa là không do bất cứ công nghiệp nào của tôi. Hơn thế nữa Phao-lô còn muốn tôi hiểu rằng: nơi đâu càng tội lỗi thì ân sủng Chúa càng dư tràn (xin xem Thư Rô-ma chương 5 đặc biệt câu 20). Gia-kêu, đứa con hoang đàng, Ma-đa-lê-na… là một số trường hợp điển hình và tiêu biểu. Mỗi khi nhận ra mình tội lỗi, tôi tạo ra cho Chúa dịp thi thố lòng thương xót thứ tha; lúc đó Thánh Linh hầu như cũng nói với tôi: “Đừng sợ, vì [bạn] đẹp lòng Thiên Chúa… bạn đã làm cho hài nhi Giê-su được sinh hạ nơi mình, vì Hài Nhị giáng trần vốn chỉ với mục đích làm cho mọi người nhận biết tình thương cứu độ của Thiên Chúa”. Đối với Ma-ri-a trong tư cách một phụ nữ Do Thái, thì sứ thần loan báo: Hài Nhi sắp hạ sinh sẽ “được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”, nhưng đối với một Ki-tô hữu như tôi, hệt như Ma-ri-a tin yêu trong suy niệm Tin Mừng nơi thẳm sâu cõi lòng, tôi cũng sẽ được loan báo cho biết: Hài Nhi giáng trần chính là ‘Thiên Chúa, Đấng cứu độ…hằng đoái thương nhìn đến phận hèn… đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót… và lòng thương xót đó dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời’ (Lc 1:46-55). Có lẽ trong thâm tâm nhiều lúc tôi cũng đã thốt lên: “Việc ấy xảy ra cách nào… vì con thật không đáng được thương xót thứ tha”. Nhưng tôi nhận được lời đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bạn, và quyền năng Đấng tha thứ sẽ rợp bóng trên bạn, vì thế Đấng Thánh bạn mang nơi mình sẽ được gọi là Con Thiên Chúa cứu độ.” Phúc Âm chỉ cho tôi thấy người phụ nữ ngoại tình, tên cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giê-su đã được tha thứ như thế nào, và lúc đó đức tin cũng sẽ chấn an tôi “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được… không có tội nào mà không tha thứ được.” Và lúc đó tôi cũng chỉ có thể khiêm tốn cùng với Ma-ri-a đáp lại: “Vâng, con đây chỉ là người tội lỗi thấp hèn, Xin Chúa cứ làm cho con như lời hứa của Tin Mừng cứu độ!”
Giáng sinh đã gần lắm rồi! Nếu không thật sự coi việc truyền tin của đức Ma-ri-a đang được lặp lại với mình mỗi dịp Sinh Nhật, có lẽ hệt như những năm trước, tôi sẽ lại chỉ lo dọn mừng lễ thật to, thật long trọng, nhưng vẫn chỉ như một khách bàng quang cử hành lễ hội; nội dung Giáng sinh vẫn ở xa tít tắp đâu đâu. Truyền tin là cho tôi, và Giáng sinh cũng là cho tôi, vì tôi trong tình trạng hiện sinh của mình cần phải như thế!
Lạy Mẹ Maria, trong bài ca ‘Magnificat’, chính Mẹ đã nội tâm hóa biến cố truyền tin theo suy nghĩ sâu lắng của cõi lòng. Mẹ đã thấu hiểu cưu mang Đấng Cứu Thế chỉ là một phần của điều quan trọng hơn nhiều, đó là nhận biết Chúa hằng thương xót. Xin giúp con hiểu được cuộc truyền tin của con, và cùng với Mẹ, ca ngợi lòng thương xót Chúa trong mùa Giáng Sinh này. A-men!
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG_B
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Tin mừng Chúa nhật 4 mùa Vọng qua hoạt cảnh truyền tin cho Đức Maria mạc khải việc thụ thai lạ lùng của Hài Nhi Giêsu, Đấng Cứu Thế nói lên sứ mạng cao cả của Hài Nhi: Con Thiên Chúa làm người đến để thi hành Thánh ý Thiên Chúa: Cứu độ nhân loại.
Qua lời xin vâng của Đức Maria, lời hứa ban Đấng Cứu Thế được thực hiện. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa được khởi sự trong lịch sử nhân loại: “Một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Lời xin vâng với thái độ khiêm tốn và tin tưởng. Đức Maria đã đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa kêu mời để cộng tác vào việc cứu nhân độ thế của Thiên Chúa.
Trong sứ điệp ngày Quốc tế giới trẻ thứ 18 năm 2012, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo đã nói với giới trẻ rằng, trong biến cố truyền tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưới chân thập giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà” (Ga 19, 26).
“Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể; Mẹ đã trở thành mẹ của loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, con Mẹ”.
Hài Nhi Giêsu mà Đức Maria đang cưu mang chính là Thiên Chúa và là người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Con Thiên Chúa làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Các tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa. Đức Giêsu thuộc dòng dõi David, chính là vị vua đa làm cho triều đại David vững bền mãi mãi. Thiên sứ Grrabiel đã nói cho Đức Maria biết về tương lai của Hài Nhi Giêsu:
“Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavid tổ phụ Ngài, và triều đại Ngài sẽ vô tận”.
Qua bài Tin mừng về biến cố Truyền tin được đặt vào Chúa nhật 4 mùa Vọng, ngay sát với lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Giáo hội muốn dọnu lòng chúng ta hướng về Hài Nhi sắp sinh ra được kỷ niệm trong đêm Giáng Sinh là Chúa Cứu Thế, con Thiên Chúa mà nhân loại đang mong đợi.
Để dọn lòng đón Chúa Cứu Thế, Giáo hội kêu gọi chúng ta noi gương Đức maria luôn thưa với Chúa tiếng xin vâng. Chính khi Đức Mẹ nói lời “xin vâng” thì một sức sống đã bùng lên, một ánh sáng đã bùng soi nhân loại. Thiên Chúa đã bắt đầu để cứu con người. Lời xin vâng của Mẹ chính là cửa ngõ dẫn vào ơn cứu độ: Mẹ xin vâng là Mẹ đón nhận công việc mở cửa cho ơn cứu độ tuôn tràn trên nhân loại.
Có lẽ nhiều người dân Hoa Kỳ vẫn chưa quên hình ảnh Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ôm hôn anh Tony Belade sau khi anh vừa đánh guitar vừa hát cho ngài nghe nhân dịp viếng thăm thành phố Los Angeles năm 1987. Hình ảnh này được ghi nhớ không phải nó nhắc đến sự gặp gỡ giữa một vị Giáo hoàng với một ca sĩ tài ba, nhưng là vì nó đã phơi bày sâu sắc sức sống tràn đầy nơi con người Tony.
Tony Belade chào đời không có hai bàn tay. Anh đã tập dùng các ngón chân trong tất cả mọi công việc thường nhật, cho đến việc học đánh đàn guitar. Ngạc nhiên với khả năng lạ lùng này, nhiều người đã hỏi Tony:
– Bí quyết nào giúp anh chấp nhận sự bất hạnh để sống bình thường và còn sử dụng đàn guitar tuyệt diệu như thế?
– Tôi đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa xin nhận lấy con và dùng con theo thánh ý Chúa. Tôi tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Ngài đã nhận lời tôi”.
Khi vui buồn, thành công hay thất bại, chúng ta luôn nói với Chúa: “Con xin vâng theo ý Chúa” như Đức Maria, như Tony.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG_B
Lm Giuse Đinh Tất Quý
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.(Lc 1,38)
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bài Tin mừng đẹp nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Thánh Luca đã tế nhị giới thiệu cho chúng ta một nhân vật hết sức quan trọng trong việc Chúa Cứu Thế sinh ra làm con người: Nhân vật ấy chính là Đức Maria, mẹ của chúng ta.
A. 1. Dưới con mắt của Luca thì Đức Maria là “Thiếu nữ Sion” (Câu “mừng vui lên” chính là âm hưởng lời nói với thiếu nữ Sion từ ngàn xưa)
Nào thiếu nữ Xion, hãy vui mừng hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò!
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi :
Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng,
khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa con vẫn còn theo mẹ. (Dcr 9,9)
Như vậy ngày xưa qua miệng ngôn sứ, Thiên Chúa hứa sẽ đến ở nhà “thiếu nữ Sion” (tức là dân Chúa) thì hôm nay Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Mẹ.
- Đức Mẹ đã đón nhận Lời hứa ấy như thế nào?
Chúng ta hãy dừng lại một chút để so sánh việc Đức Maria và ông Dacaria khi đứng trước một một tin vui xem hai người đã phản ứng như thế nào.
* Khi được báo tin sẽ có con, cả Dacaria và Đức Maria đều thắc mắc hỏi lại. Nhưng câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi. Việc hoài nghi không tin này này đã được chính thiên sứ xác nhận “Bởi vì ông không tin” (câu 20)
Còn câu hỏi của Đức Maria là câu hỏi để xin soi sáng thêm (“việc ấy xảy đến thế nào được bời vì tôi không biết đến người nam?”),
* Kết quả, ông Dacaria vì không tin nên bị phạt. Còn Đức Maria đã tin và mau mắn vâng lời cho nên kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện ngay.
3. Như vậy chúng ta có thể nói: Nếu Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước đã được bắt đầu với hành vi đức tin của Abraham thì Lịch sử cứu độ thời Tân Ước cũng được bắt đầu với hành vi đức tin của Đức Mẹ. Nếu Abraham đã được gọi là “cha của những kẻ tin” thì Đức Maria cũng phải được gọi là “mẹ của những kẻ tin”. Và như thế chúng ta có thể suy ra: Lịch sử cứu độ của mỗi người cũng phải bắt đầu bằng hành vi đức tin của chính người đó.
“Sứ thần nói với cô Maria : Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Cô Maria thưa với sứ thần : “Này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,31.38). Một sự đáp trả quá đẹp. Đức Maria đã xin vâng và nhờ tiếng xin vâng đó mà Thiên Chúa đã thực hiện được kế hoạch Cứu độ của Người.
B. 1. Chúng ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa lại phải hạ mình đến như vậy? Chẳng lẽ Người phải đợi sự ưng thuận của một tạo vật rồi mới thực hiện chương trình của mình?
Câu trả lời không khó lắm. Đọc lại toàn bộ Kinh thánh chúng ta thấy mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự cộng tác của con người. Để thành lập một dân, Chúa đã gọi Abraham để ông cộng tác với Người. Để cứu dân mình khỏi ách thống trị AiCập, Chúa đã gọi Moise và chúng ta thấy Moise đã làm cho Chúa những gì, và để Đấng Cứu Thế được nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria cộng tác. Và Đức Maria đã cộng tác bằng cách ngoan ngoãn để cho Chúa hành động trong mình và qua mình.
- “Xin cứ làm cho tôi…”.
Phải nói đây là một sự thuận phục trọn vẹn.
Đức Maria đã trả lời bằng hai tiếng thật vắn gọn “xin vâng”: Trả lời như thế có nghĩa là: Chúa bảo gì tôi cũng làm theo cả. Chúng ta tự hỏi việc trả lời như thế có liều lĩnh lắm không. Ai trong chúng ta cũng biết việc tuân hành thánh ý Thiên Chúa không phải là việc dễ dàng. Hãy nhìn vào hoàn cảnh của Đức Maria chúng ta sẽ thấy điều đó.
Chúng ta xưng tụng Đức Maria là người có phúc. Điều đó đúng.
Đức Maria được báo cho biết rằng nàng sẽ sinh một con trai do hành động siêu phàm của Chúa Thánh Thần. Việc đó chỉ có một mình Maria biết. Bà con lối xóm, bạn bè quen thuộc chẳng ai biết được sự việc đó. Cắt nghĩa làm sao? Mà dù có cắt nghĩa đi nữa thì ai tin. Xưa nay đã có bao giờ có như vậy đâu? Maria cũng chỉ là một người bình thường như những người khác, thậm chí còn nghèo khổ hơn những người khác…đâu có đặc biệt gì mà Thiên Chúa lại quá ưu ái như vậy! Vâng làm sao cắt nghĩa được đây? Vì thế, đối với những người bà con quen biết chắc chắn họ sẽ cho rằng Maria đã phạm tội. Đó là một vết nhơ ô nhục trên suốt cuộc đời của một người con gái chưa về nhà chồng mà đã có con.
Rồi còn một khó khăn nữa cũng không kém phần nhức nhối đó là làm sao cắt nghĩa cho Giuse hiểu đây! Giuse, hôn phu của nàng, làm sao chịu đựng nổi sự hổ nhục này?
Giuse đã tính bó trốn. Đó là con đường dễ chịu nhất. Rất may là Thiên Chúa đã can thiệp.
Giả như Đức Maria là một thiếu nữ chỉ muốn an phận thì khi được sứ thần ngỏ ý có lẽ Mẹ đã thưa: “Tôi không muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế, tôi chỉ muốn được sống cuộc đời bình thường với sự tôn trọng của người xung quanh và tình thương yêu mà người tôi định lấy. Tôi chỉ muốn sống như các phụ nữ khác. Xin Chúa hãy đem vinh hạnh ấy cho một thiếu nữ Ítraen khác.” Nhưng thay vì câu nói ấy, chúng ta lại được đọc thấy trong Tin mừng một lời hết sức cảm động đầy tinh thần vâng phục và hi sinh: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Vâng đó là những gì đẹp nhất mà chúng ta được nghe.
Nói tới đây tôi chợt nhớ tới câu chuyện của Trương Lương trong Tam Quốc Chí. Ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Làm sao mà Trương Lương được mến mộ như vậy. Thưa vì ngay từ thưở nhỏ Trương Lương đã có những đức tính rất dễ thương. Hôm đó, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông chợt thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say quá nên làm rơi một chiếc dép xuống sông. Tỉnh dậy thấy cậu bé Trương Lương ở đó, ông sai bảo: “Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta”.
Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép rồi kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ già cầm lấy, không một lời cám ơn. Rồi cụ loay hoay xỏ mãi mà không vào. Chiếc dép lại một lần nữa rớt xuống bờ sông. Cụ lại quát bảo Trương Lương: “Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta”. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: “Thằng bé này dạy được đây”. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Hoàn cảnh thời Đức Mẹ sống cũng tương tự như thế. Thời đó, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Kính thưa anh chị em. Chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Làm sao ơn Chúa có thể đến với chúng ta. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
.
Trầm Thiên Thu
Cái miệng liên quan cái lưỡi, nên thường nói là “miệng lưỡi”, và miệng lưỡi liên quan lời nói. Xem chừng rất ư bình thường mà lại rất khác thường, vì lời nói có thể là Phúc hay Họa của chúng ta. Chúa Giêsu nói: “Nhờ LỜI NÓI của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại LỜI NÓI của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12:37). Thật đáng sợ, thế nên không thể khinh suất lời nói. Thảo nào tiền nhân đã căn dặn: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”.
Thế là “khoảng mong chờ” đã ở vào giai đoạn cuối, Mùa Vọng đang dần dần khép lại. Vậy là nỗi khao khát của chúng ta sắp được mãn nguyện, nhưng không vì thế mà lơ là bổn phận. Trong thời khắc cuối cùng của mùa Vọng, Giáo hội nhắc nhở chúng ta về “miệng lưỡi”, tức là về ngôn ngữ khi chúng ta sử dụng. Publius Syrus (thế kỷ I trước công nguyên) tâm sự: “Tôi thường hối tiếc vì những gì mình nói, chứ không bao giờ hối tiếc vì sự im lặng của mình”.
Có câu chuyện xưa kể rằng chủ nhân sai gia nhân ra chợ mua món gì ngon nhất, gia nhân đi và mua về “cái lưỡi”. Hôm sau ông lại sai gia nhân ra chợ mua món gì dở nhất, gia nhân đi và lại mua về “cái lưỡi”. Chủ nhân “mắt chữ O và miệng chữ A”, gia nhân điềm nhiên giải thích: “TỐT hay XẤU cũng do CÁI LƯỠI mà ra”. Quả thật, “lưỡi không xương nhiều điều lắt léo”, tiền nhân thật chí lý!
Có miệng phải có lưỡi mới nói được, lưỡi ngắn cũng khó nói – nói ngọng. Như vậy, người ta nói được nhờ cái lưỡi, nhưng nói gì mới là vấn đề. Có người dùng cái lưỡi để nói những “lời hay, ý đẹp”, khuyến khích, khuyên bảo, cầu nguyện, hòa giải,… Nhưng có người lại dùng cái lưỡi để chỉ trích, gây chia rẽ, phỉ báng, nguyền rủa, trách móc, chê bôi, chửi rủa,… Đúng lá tốt hay xấu cũng từ cái lưỡi, và chính cái lưỡi tạo nên nhiều rắc rối, do đó mà ca dao Việt Nam có câu nhắc nhở:
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Kinh Thánh nhiều lần đề cập cái lưỡi. Sách Huấn ca khuyên: “Hãy nghe dạy bảo về lời ăn tiếng nói, vì ai tuân giữ, không bị bắt lỗi bao giờ. Chính do môi miệng mà tội nhân bị bắt bẻ, cũng do đó, đứa lăng mạ và kẻ tự cao phải vấp phạm” (Hc 23:7-8), và dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi trụy lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23:5-6).
Khôn hay dại cũng bởi cái lưỡi. Người khôn dùng cái lưỡi theo cách khác, người dại dùng cái lưỡi theo cách khác. Người khôn ít nói, vì sao? Ca dao cho biết:
Chim khôn chưa bắt đã bay
Người khôn chưa nói đã cay lòng rồi
Cái lưỡi liên quan dư luận, do đó dư luận cũng có thể tốt hoặc xấu, thường thì xấu nhiều hơn, người ta có xu hướng “đổ dầu vào lửa”, cho nên đôi khi phải can đảm “đạp dư luận” mà sống. Cứ nghe và xét mình, đừng vội tin và đừng hoảng sợ. Miệng lưỡi thế gian thế đấy, gọi là “chuyện thế gian”. Ca dao nói:
Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Tay đâu mà bụm miệng người thế gian
Kinh Thánh khuyên chúng ta dùng miệng lưỡi vào việc tốt lành, và hứa điều này: “Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời”. Ca ngợi thì phải dùng miệng, nghĩa là cũng liên quan “cái lưỡi”. Chúng ta không chỉ dùng miệng lưỡi để ăn uống, giúp duy trì sự sống, và để đối thoại với nhau hàng ngày, chúng ta còn phải dùng miệng lưỡi để xưng tụng Thiên Chúa: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” (Tv 88:2). Vâng, “tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời” (Tv 88:3). Giao ước đó đã được thề hứa với thánh vương Đavít, và sẽ bền vững đến ngàn đời, qua muôn thế hệ” (x. Tv 88:4-5).
Nói điều tốt là điều cần thiết. Không chỉ vậy, chúng ta còn phải dùng cái lưỡi để nói về Chúa, rao truyền Ơn Cứu Độ, quảng bá Lời Chúa, làm vinh danh Thiên Chúa (x. Rm 16:25-27). Nhưng nói về Chúa và nói với Chúa là điều cần thiết hơn, rất quan trọng đối với Kitô hữu chúng ta. Trách nhiệm của chúng ta là phải khôn khéo dùng miệng lưỡi. Có những điều không nên nói hoặc không được nói, nhưng có những điều phải nói, không nói không được, không nói là có lỗi. Miệng lưỡi và lời nói thật quan trọng, cần phải khôn ngoan để có thể sử dụng đúng.
Quả thật, lời nói không hề đơn giản để có thể biết cách dùng miệng lưỡi, hãy học cách sử dụng lời nói với Đức Maria: “Xin vâng”. Trình thuật Lc 1:26-38 kể rằng khi sứ thần Gáprien tuân lệnh Thiên Chúa đến truyền tin: “Mừng vui lên, hỡi người đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe vậy, thôn nữ Maria đã bối rối và chẳng hiểu “ất giáp” gì ráo trọi. Sứ thần trấn an: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu”. Đức Maria càng rối hơn, vừa hoảng hốt vừa e thẹn nói: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”.
Nhưng khi nghe sứ thần giải thích đó là quyền năng Chúa Thánh Thần và chứng minh người chị họ Êlisabét, bị mang tiếng là hiếm hoi, già rồi mà cũng đang cưu mang một nam nhi được sáu tháng, đặc biệt hơn khi nghe sứ thần nói rằng đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được, thôn nữ Maria vô cùng an tâm, lòng tràn đầy phấn khởi và tin tưởng nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Và thế là “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta – Emmanuel”.
Thật hạnh phúc khi chúng ta có Đức Mẹ là gương mẫu hoàn hảo. Đức Mẹ là thôn nữ nhưng kiều diễm, nét đẹp dịu dàng ấy hẳn khiến bao chàng trai “lé mắt”. Dù là mỹ nhân nhưng thùy mị, đoan trang, sống giản dị, luôn khiêm nhường, đặc biệt là tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhờ lời “xin vâng” của Đức Mẹ, nhẹ nhàng mà quyết liệt, chúng ta mới có niềm hy vọng nhận lãnh Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa trao ban. Đức Mẹ đã sử dụng miệng lưỡi thật khôn khéo. Xin cảm ơn Đức Mẹ!
Trong cuộc sống đời thường, chúng ta thấy có những người trở thành vĩ nhân nhờ khéo léo sử dụng miệng lưỡi, họ đã khôn ngoan dùng miệng lưỡi để nói vì nền hòa bình thế giới. Họ là ai? Đó là một Mohandas Gandhi (Ấn giáo), một Martin Luther King (Tin Lành), một Mẹ Têrêsa Calcutta (Công giáo) và một Đức Đạt Lai Lạt Ma (Karmapa Lama, Phật giáo).
Hôm nay, trong thời khắc cuối cùng của Mùa Vọng, xin mượn lời của Homer W. Grimes để tâm sự với Chúa: “Làm sao con có thể cho Ngài ít hơn những gì con có khi Ngài đã cho con tất cả? Con có thể dâng tặng cho Ngài những gì, thưa Thầy, Đấng đã ban tất cả cho con, Đấng đã từ bỏ ngai vàng trên trời để chịu chết trên đồi Can-vê? Con có thể dâng tặng cho Ngài những gì, thưa Thầy, Đấng đã ban tất cả cho con, không chỉ một phần hay một nửa trái tim con? Con sẽ dâng tặng Ngài tất cả!”.
Lời nói là tấm gương phản chiếu tâm hồn, bên trong thế nào thì bộc lộ ra ngoài như vậy. Một người cằn nhằn đủ thứ, chắc chắn người đó bất an. Tại sao? Bởi vì họ không bằng lòng người khác, luôn dò xét, thế nên tỏ ra khó chịu với những gì người khác thể hiện. Một người cứ mở miệng ra là chửi thề, và họ viện cớ là “quen miệng”, nhưng không phải vậy, chắc chắn lòng họ ẩn chứa nhiều rác rưởi của cuộc đời. Một người luôn nói lời an ủi, giải hòa, xin lỗi, cảm ơn,… chắc chắn tâm hồn họ có sự bình an của Thiên Chúa.
Người ta nói: “Cái miệng hại cái thân”. Đúng như thế thật! Miệng lưỡi cũng liên quan “cái tôi” – thói kiêu căng, tự phụ. Thánh Giacôbê nói: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1:26). Lưỡi là Lời, Lưỡi là Lửa. Ôi, lưỡi lạ lùng mà nguy hiểm quá!
Lạy Thiên Chúa quan phòng và tiền định, xin dạy con biết sử dụng miệng lưỡi theo Thánh Ý Ngài, xin dạy con cầu nguyện, biết cẩn thận từng lời ăn tiếng nói, khi nào nên nói và khi nào nên im lặng. Nhân loại luôn ngưỡng vọng Ngôi Hai giáng trần, khao khát Ơn Cứu Độ, xin tuôn tràn Mưa Giêsu gội mát mảnh đất tâm hồn khô cằn của nhân loại. Xin giúp mọi người can đảm bạt đồi, xẻ núi, lấp sông, để tạo nên con đường thẳng tắp và phẳng phiu cho Vương Nhi Giêsu ngự đến và ở với nhân loại. Xin ân thương tha thứ mọi tội lỗi, xin tha thứ cả những lúc con không tích cực làm điều tốt. Con cầu xin nhân danh Vương Nhi Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Khi viết bài suy niệm Tin Mừng tuần này tư nhiên tôi nghĩ tới phim The Sound of Music. Câu chuyện nói về chị Maria là một dự tu vì ham chơi ca hát nên quên cả việc kinh kệ. Vì mồ côi, mẹ bề trên không muốn cho về đời nên đã gửi gia dình một đại úy góa vợ, có nhiều con để nhờ coi sóc. Vì có tài ca hát, đám trẻ rất yêu mến Maria nên công việc thành công… Chuyện xẩy ra ở Salzburg thuộc nước Áo.
Sau này người ta đã lấy câu chuyện có thực này để làm thành phim kịch. Sản phẩm xuất hiên đầu tiên ở Anh Quốc do Andrew Lloyd Weber đạo diễn đã được thế giới hưởng ứng nồng nhiệt.
Mấy năm trước đây đoàn Ca kịch Rodgers và Hammerstein đã diễn lại kịch bản này tại hí trường Jacksonville, Florida. Cả thành phố như sống lại với The Sound of Music xa xưa. Ban kich đã trình diễn tuyệt vời những ca khúc vang bóng huy hoàng một thời ấy. Quí độc giả đọc đến đây chắc sẽ nhớ lại cuốn phim vui nhộn này. Người viết muốn dùng cách giải quyết của nhà dòng cho Maria don Strapp để suy niệm vấn đề của Mẹ Maria khi Mẹ thưa “Xin Vâng” với sứ thần Gabriel, dù Maria von Strapp không thể nào so sánh được với Maria thành Nazareth.
VẤN ĐỀ CỦA MARIA VON STRAPP
Một trong những ca khúc đáng nhớ nhất trong phim The Soud of Music là bản MARIA, còn gọi là ”Làm sao để giải quyết vấn đề Maria?” Bản nhạc được trình diễn bởi các sơ Berthe, Sophia, Margaretta và Mẹ bề trên của dòng Biển Đức Nonnberg ở Salzburg bên Áo. Các sơ đã có dịp vui chơi ca hát cùng Maria một cách hồn nhiên khiến cuộc sống tu viện đang yên tĩnh, âm thầm trở thành sống động, vui tươi, tràn ngập tiếng hát tiếng đàn. Người ta nói Oscar Hammerstein II viết lời ca cho bải hát này là do cảm hứng khi nhìn những ống cuốn tóc vẫn còn dính trên đầu Maria với chiếc khăn che phủ ở ngoài!
Những người cao niên Áo đã gọi Maria là Gottesmutter, nghìa là Mẹ Thiên Chúa! Dân Bắc Mỹ khi tới Salzburg thì lại nói Maria là Maria Augusta Kutschen , sau này đổi là Maria von Strapp, là một cô giáo trường dòng sau thế chiến I. Những dữ kiện có thực này đã được diễn lại trong phim The Sound of Music.
Vì Maria mà nhà dòng nổi danh khắp thế giới các sơ cũng không ngờ. Được hỏi về kết quả của phim The Sound of Music, Mẹ bề trên trả lời: Cả nhà dòng lẫn Maria von Strap chuyên trèo tường trốn ra ngoài vui chơi ca hát chẳng ai nhận được bằng khen. Một sơ già thì mỉm cười hóm hỉnh nói: “Das ist nur Hollywood” Đó là chuyện Hollywood!.
VẤN ĐỀ MARIA THÀNH NAZARETH
Trong bài phúc âm hôm nay Thiên Thần truyền tin cho Maria không phải là Maria von Strap mà là Maria thành Nazareth, sợi dây nối kết giữa nhân tính và Thiên Chúa, nhân vật chính trong câu chuyện Giáng Sinh. Maria là môn đệ tuyệt vời đã đưa chúng ta tới sự toàn thiện và nhân tính của Thiên Chúa. Maria đã chấp nhận và chào đón lời Chúa một cách trọn vẹn, đầy dủ ý nghĩa nhất, không cần biết kết quả câu chuyện sẽ thế nào. Maria đã chẳng hiểu gì về lời đáp “Xin Vâng” trong suốt cuộc đời của chúa Giesu, nhưng Maria tin tưởng, luôn luôn ghi nhớ câu trả lời của mình với sứ thần và “giữ chặt” từng chữ trong tâm khảm,“nghiền ngẫm”,“suy tư”trong lòng (Lc 2:19). Đến khi ở trên đồi Calvary, Maria mới cảm nghiệm được hoàn toàn trách nhiệm của mình về tiếng “Xin Vâng”. Qua kinh thánh, chúng ta biết mẹ là một người nữ có đức tin mạnh mẽ khủng khiếp lại đầy lòng trắc ẩn, luôn luôn để ý đến mọi nhu cầu của con người.
Maria von Trapp theo viên đại úy và gia đình nhỏ bé của ông vượt qua núi Alpes để thoát khỏi một chế độ ma quái ác độc đã chối bỏ Thiên Chúa và dân Chúa chọn. Họ đã đến được Hoa Kỳ bằng an và sống hạnh phúc ở Vermont. Tài âm nhạc của họ vẫn còn sống và đã từng làm hứng khởi dân Bắc Mỹ đặc biệt dân Jacksonvlle, Florida. Đường đi lên của họ vẫn còn sống động vì tài thiên phú ca hát và âm nhạc.
“Vấn đề” của Maria thành Nazareth đã khởi đầu khi Maria đón tiếp một người khách lạ từ trời đến tên là Gabriel. Người trinh nữ này đã bối rối khi nghe tin mình sẽ mang thai con trai là đáng Cứu Thế và là Con Đấng Tối Cao.
-“Việc ấy xẩy ra làm sao được –Maria hỏi thiên thần– vì tôi còn đồng trinh, không hề biết đến việc vợ chồng” (Lc 1:34).
-Thiên thần trả lời: “Thánh Thần sẽ ngự trên bà, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ tràn ngập bà, do đó con trẻ sinh ra sẽ là Thánh và gọi là Con Thiên Chúa.”(Lc 1:35).
– “Này tôi là tôi tớ Chúa -Maria trả lời Thiên Thần- tôi xin vâng lời thiên thần truyền.”
Thiên thần rời Maria và âm nhạc trổi lên; Magnificat anima mea Dominum. Bài hát lặp đi lặp lại nhiều lần tràn ngập không gian, vang vọng khắp thế giới qua mọi thời đại cho đến ngày nay.
Sứ điệp mà Maria nhận đã được loan đi vượt qua khỏi thị trấn Nazareth nhỏ bé âm thầm và giải đất chật hẹp Israel và Palestine ở Trung Đông. Tiếng “Xin Vâng” của Maria đã ảnh hưởng toàn thể thế giới và thay đổi cà lịch sử loài người.
VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC GIẢI QUYẾT: XIN VÂNG
Maria thành Nazareth đã chấp nhận “vấn đề” của mình và giải quyết với sự vâng phục, trung thành, tin tưởng, hy vọng trong thầm lặng. Lúc đầu ở Nazareth, mẹ không thể tưởng tượng ra được cái thảm cảnh kinh hoàng của đứa con đang nằm trong bụng mình. Chỉ khi đi lên đồi cao Calvary những năm sau này, Maria mới cảm nghiệm thực sự và đầy đủ trách nhiệm của mình đối với hai tiếng “Xin Vâng” .
Maria von Trapp không có bảng vàng ghi tại nhà dòng định mệnh Nonnberg ở Salzburg, nhưng Maria có một bảng nhỏ ghi nhớ cuộc đời mẹ Maria thành Nazareth đã làm thay đổi các cuộc gặp gở ở tỉnh nhà của Maria. Tại trung tâm thị trấn Nazareth hiện nay ở Galilee có một vương cung thánh đường Truyền Tin, được xây trên nơi mà người ta tin là cái động là nơi mẹ Maria đã sống. Mấy hàng chữ nhỏ ghi trên bàn thờ ở trong động giống như một căn phòng ghi nhớ nơi mẹ Maria đã tiếp nhận sứ điệp do thiên thần Gabriel truyền “Mẹ sẽ sinh một con trai và đặt tên là Giesu” (Lc 1;3). Tiếng Latin ghi là Verbum caro hic factum est có nghĩa Đây là Lời trở thành máu thịt.
Những chữ khắc trong động / phòng truyền tin thì rất xâu, không thể phai mờ được. Những lời Latin Verbum caro hic factum est nay không thấy trên bảng nằm trong động Nativity ở Bethlehem, cũng không thấy khắc trên tường bên ngoài đền thờ đã bị phá hủy hay nơi các văn phòng du lịch của nhà nước ở Jerusalem. Nhưng đã được gắn sâu vào bàn thờ bên trong thánh đường Truyền Tin rất đồ sộ. “Đây là lời đã trở nên máu thịt” Đây là nơi mà lịch sử đã thay đổi vì câu nói “Xin Vâng” của Mẹ Maria.
ĐÔI LỜI SUY NIỆM
Những lời như vậy có thể áp dụng cho cuộc sống, gia đình, cộng đồng , giáo xứ, giáo hội của chúng ta không? Chúng ta có lắng nghe, suy ngẫm và sống Lời Chúa mỗi ngày không? Chúng ta có biến những Lời Chúa thành hành động không? Chúng ta có trung thành, hy vọng, thương yêu và sẵn sàng tha thứ không?
Câu nói: “Lời đã trở thành máu thịt” quả đã gây sức mạnh trên những người Kito hữu!
Giọng hát, lời ca của Maria thành Salzburg có tuyệt diệu đấy nhưng chóng qua, còn âm nhạc lời ca Mangificat của Maria thành Nazareth còn tuyệt vời hơn nhiều. Khác với ca hát của Maria von Strapp, bài ca MANGIFICAT/NGƠI KHEN CHÚA đã vượt quá tất cả mọi sự, vượt cả không gian lẫn thời gian, thay đổi cả lịch sử loài người, cuộc đời của mỗi người chúng ta, của cả nhân loại lúc đó, bây giờ và mãi mãi.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Cao siêu huyền nhiệm Nước Trời,
Ngàn năm dọn lối, Ngôi Lời hạ thân.
Ga-briel loan báo nhân trần,
Kính chào Trinh Nữ, tinh vân rạng ngời.
Thánh Thần Thiên Chúa cao vời,
Quyền năng phủ bóng, gọi mời hiến dâng.
Ma-ry phủ phục xin vâng,
Phận hèn tôi tớ, hồn nâng phụng thờ.
Khiêm nhu cung kính vô bờ,
Thành tâm dâng hiến, nương nhờ thánh ân.
Giê-su thánh tử chí nhân,
Thụ thai lòng mẹ, xác thân mọn hèn.
Cung lòng trinh khiết ngợi khen,
Con Vua Chí Ái, muối men giữa đời.
Dọn đường đón Chúa xuống đời,
Cải tâm tu thiện, nghe lời Phúc Âm.
Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể là mầu nhiệm Tình Yêu. Tình yêu giao kết giữa Thiên Chúa và loài người. Khi thời gian đã mãn, Thiên thần của Chúa được sai đến báo tin mừng về Đấng Cứu Thế. Thiên thần thân hành đến nhà Maria và chào rằng: Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ. Trinh nữ có phúc hơn mọi người nữ. Hạnh phúc và cao qúy thay người phụ nữ được Thiên Chúa ghé mắt đoái nhìn.
Thoạt đầu, Maria rất sửng sốt khi nghe lời thiên thần chào bái và truyền tin. Maria vừa ngỡ ngàng vừa bối rối nhưng rất mau mắn thưa lời xin vâng. Lời xin vâng của Maria là một ân huệ cho loài người. Lời xin vâng khởi đầu một khúc quanh lịch sử của ơn cứu độ. Những lời loan báo cả ngàn năm về trước nay đã thành hiện thực. Một dân tộc được tuyển chọn, nay đã mở lòng đón nhận Đấng Cứu Thế. Chương trình cứu độ đã thực sự khởi đầu nơi cung lòng Đức trinh nữ Maria.
Trinh Nữ Maria đã cưu mang Con Thiên Chúa, Đấng là trung gian cả vạn vật. Ơn nghĩa của Thiên Chúa ở cùng Maria. Maria thật diễm phúc đã thốt lên rằng: ‘Này tôi là tôi tớ Chúa’. Được chọn làm mẹ của Con Thiên Chúa nhưng mẹ luôn nhận thân phận là tôi tớ. Maria đã sống những ngày tràn đầy ơn sủng.
Maria không quản ngại đường xá xa xôi vất vả và không ngại sự nghi kỵ của người thân. Maria đã sớm mang Chúa đến cho moi người trên đường đi thăm viếng và phục vụ. Maria lên đường trong niềm vui hoan lạc. Vì Maria có Chúa ở cùng. Từ lời Xin Vâng cao cả ấy, niềm vui và thánh giá của ơn cứu độ đã từng bước đi vào cuộc đời của Maria.
Đức Maria đã khiêm nhường chấp nhận thánh ý của Chúa. Mẹ sống niềm vui ơn cứu độ trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Maria đã trở nên nguồn ủi an và cậy trông cho những ai cần niềm hy vọng. Trong khi mong chờ Chúa đến, mỗi người hãy phó thác cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Có Chúa chúng ta sẽ tìm thấy nguồn an vui và sự bình an trong cuộc đời.
Lạy Chúa, ngày mừng lễ Chúa Giáng Sinh sắp tới, xin cho chúng con biết dọn tâm hồn thanh sạch và ấm êm để xứng đáng đón Chúa viếng thăm. Xin tình yêu của Chúa sưởi ấm tâm hồn chúng con.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM B
Lm. Anthony Trung Thành
Thánh Augustinô đã khẳng định: Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta”.
Thật vậy, để thực hiện chương trình cứu độ, suốt dọc theo chiều dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn luôn mời gọi sự cộng tác của con người: Ngài mời gọi sự cộng tác của các tổ phụ; Ngài mời gọi sự cộng tác của các thủ lĩnh; Ngài mời gọi sự cộng tác của các ngôn sứ…Ngài mời gọi sự cộng tác chung của cả dân tộc Do Thái; Ngài mời gọi sự cộng tác riêng của từng người…Đặc biệt, để thực hiện lời hứa ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại, Ngài đã sai sứ thần đến để mời gọi sự cộng tác của một Trinh nữ tại làng quê Nazarét. Trinh Nữ ấy tên là Maria. Cuộc đối thoại giữa Sứ thần và Trinh nữ được Thánh Luca tường thuật lại trong đoạn Tin mừng hôm nay (x. Lc 1, 26-38).
Cuộc đối thoại bắt đầu bằng lời chào của sứ thần Gabriel: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”(Lc 1, 28). Đây là một lời chào đặc biệt, bởi vì sứ thần đã không chào bằng tên thật của Maria, nhưng bằng một tên mới đó là tên: “Đấng đầy ân sủng”. Sứ thần còn thêm rằng:“Đức Chúa ở cùng bà”. Chính vì lời chào đặc biệt nầy mà Trinh Nữ cảm thấy “bối rối”. Hiểu được sự bối rối của Trinh nữ, sứ thần giải thích rằng: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” (Lc 1,30-33). Trinh nữ hiểu rõ lời giải thích của sứ thần, nhưng vì Trinh nữ đã khấn giữ mình đồng trinh, Ngài quý trọng đức Đồng trinh hơn chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Vì thế, Trinh nữ mới hỏi sứ thần rằng: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1,34). Thắc mắc của Trinh nữ cũng là thắc mắc của nhiều người qua mọi thời đại. Nhưng thắc mắc đó đã được Sứ thần giải thích một cách rõ ràng rằng: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1,35-37). Như vậy, việc Đức Mẹ thụ thai và sinh con là việc của Chúa Thánh Thần chứ không phải việc của con người. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không làm được. Cho nên, Đức Mẹ sinh con mà vẫn đồng trinh. Khi hiểu được lời giải thích của sứ thần, Đức Maria đã sẵn sàng thưa xin vâng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,38).
Cuộc đối thoại giữa Sứ thần và Trinh nữ chấp dứt. Sứ thần đã làm tròn sứ mạng Truyền Tin của mình. Khi thưa “xin vâng”, Đức Maria đã chấp nhận cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại. Biến cố này hết sức quan trọng vì làm thay đổi cuộc đời của Đức Maria và làm cho lịch sử cứu độ bước sang một trang sử mới. Đối với Đức Maria, từ một thiếu nữ bình thường đã trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Đi liền với thiên chức làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa còn ban cho Mẹ ơn Vô Nhiễm thai, ơn đồng trinh trọn đời và được đưa lên trời cả hồn lẫn xác. Đối với lịch sử cứu độ: tiếng thưa “Xin vâng” của Đức Maria làm cho lời hứa của Thiên Chúa ngày xưa được ứng nghiệm, Đấng Cứu Thế đã thực sự xuống thế làm người.
Nhưng tiếng “xin vâng” của Đức Maria không chỉ thể hiện qua lời nói trong chốc lát mà phải “trả giá” cả cuộc đời của Mẹ. Thật vậy, từ khi thưa tiếng “Xin vâng”, Đức Maria bắt đầu bước vào hành trình hy sinh đau khổ: mang thai, bị Giuse hiểu nhầm, sinh con trong hang đá nghèo hèn, đưa con trốn sang Aicập, lạc mất con trong đền thánh, thấy con vác thập giá, chứng kiến con bị đóng đinh, chết trên thập giá và bị người ta tháo đinh để táng trong hang đá…Những đau khổ đó là những lời thưa xin vâng của Mẹ trong cuộc sống. Những đau khổ đó cũng là sự cộng tác của Mẹ với Chúa Giêsu trong việc cứu độ nhân loại. Cho nên, Đức Maria còn được gọi là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc.
Để nuôi dưỡng Đức Giêsu và bảo vệ Đức Maria, Thiên Chúa còn mời gọi sự cộng tác của Thánh Giuse. Cho nên, Thánh Giuse trở thành bạn thanh sạch của Đức Maria và Cha nuôi của Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai, Ngài mời gọi sự cộng tác với Ngài bằng việc tuyển chọn và huấn luyện một số người mà chúng ta gọi là Tông đồ. Ngoài các tông đồ còn có các môn đệ và một số phụ nữ khác…Trước khi về trời, Ngài đã thiết lập Giáo hội để Giáo hội tiếp tục thi hành sứ vụ Cứu thế của Ngài. Trong Giáo hội có đầy đủ mọi thành phần: Giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân. Tất cả được mời gọi cộng tác với nhau và cộng tác vơi Chúa để cứu độ thế giới mãi cho đến tận thế.
Với chúng ta ngày hôm nay thì sao? Tùy vào khả năng và địa vị, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài.
Thứ nhất, là người kitô hữu, mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Thiên Chúa trong việc chu toàn bổn phận khi lãnh nhận bí tích Rửa tội là “từ bỏ ma quỷ và tuyên xưng đức tin”. Từ bỏ ma quỷ là từ bỏ cuộc sống trái với luật Chúa và luật Hội thánh. Tuyên xưng đức tin không chỉ trên môi miệng mà cần phải thể hiện bằng chính cuộc sống của mình. Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gcb 2,17).
Thứ hai, là thành viên của gia đình, chúng ta cộng tác với Thiên Chúa bằng cách chu toàn bổn phận làm chồng làm vợ, làm cha làm mẹ và làm con cái. Tất cả các thành viên trong gia đình đều được mời gọi nên thánh. Người làm chồng, làm cha có thể noi gương Thánh Giuse. Người làm vợ, làm mẹ có thể noi gương Đức Maria. Người làm con có thể noi gương Đức Giêsu. Nhìn vào lịch sử Giáo hội còn biết bao gia đình đáng cho chúng ta noi gương và học tập. Chúng ta có thể noi gương đời sống thánh thiện của gia đình ông Louis Martin và bà Zélie Guérin, thân mẫu của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Hai ông bà có chín người con. Bốn người chết trong thời thơ ấu, trong khi năm cô con gái còn lại lần lượt vào Dòng Kín và Dòng Thăm Viếng. Cả Louis và Zélie được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI phong chân phước ngày 19 tháng 10 năm 2008, và được Đức Thánh Cha Phanxicô phong hiển thánh vào ngày 18 tháng 10 năm 2015.
Thứ ba, là người con của giáo xứ, mỗi người chúng ta được mời gọi dùng khả năng của mình để xây dựng, bảo vệ và phát triển giáo xứ: Có những người được mời gọi làm thành viên của Hội đồng Mục vụ Giáo xứ; có những người được mời gọi làm thành viên của các ban đoàn; có những người được mời gọi làm thành viên trong các Hội đoàn hay một tổ chức khác; cũng có những người chỉ làm một giáo dân bình thường nhưng luôn hoàn thành các nhiệm vụ được giao…Tùy khả năng và hoàn cảnh, tất cả được mời gọi để xây dựng, bảo vệ và phát triển giáo xứ.
Ngoài ra, nếu những ai giữ những chức vụ khác trong đạo ngoài đời đều được mời gọi cộng tác với nhau và cộng tác với ơn Chúa để chu toàn nhiệm vụ của mình để làm sáng danh Chúa. Khi chúng ta thực hiện tốt bổn phận người kitô hữu và bổn phận của đấng bậc mình là chúng ta đang cộng tác với Chúa để cứu độ chúng ta và cứu độ thế giới.
Lạy Chúa, nhờ tiếng xin vâng của Mẹ, nhân loại được đón nhận Đấng Cứu Thế. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, xin cho mọi người chúng con luôn biết thưa xin vâng trong cuộc sống đức tin để Chúa cũng đến với chúng con và qua chúng con Chúa đến với mọi người. Amen.
.
Lm. Thiện Duy
Linh mục nhạc sĩ Thái Nguyên có một bài hát làm cho tôi cứ khắc khoải mỗi khi nghe ca sĩ Khắc Dũng hát hoặc chính bản thân tôi thầm thỉ những lúc hoang mang, đó là bài “nhạc khúc yêu thương”. Bài hát này có đoạn: “Trong yêu thương Ngài dìu dắt con đi, cánh tay Ngài che chở nâng đỡ. Tình yêu Chúa đã có từ thuở nào, trong trời rộng và trong mỗi ước vọng. Con say sưa đi tìm Ngài trong ánh sáng niềm tin, và hôm nay trong cuộc trần này như mọi ngày say tình yêu Ngài”.
Khi đọc các bài đọc lời Chúa của Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hôm nay, tâm hồn tôi lại dâng trào một cảm xúc khi thấy được tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Còn tình yêu của con người lắm lúc cũng rất hăng say để đáp trả, cũng có khi nặng nề lê bước vì chán chường, vì tội lỗi của chính bản thân hoặc sự cản trở của người khác… Nhưng tất cả đều dệt kết thành nhạc khúc yêu thương cho mỗicuộc đời chúng ta.
- Bài Đọc I: 2 Sm7,1-5.8b-12.14a.16
Nhạc khúc yêu thương đó được chính được Thiên Chúa viết lên trong cuộc đời vua Đavit khi ông đã dẹp tan mọi quân thù, vương quyền của ông đã vững vàng, và có thể gọi đạt đến thời hoàng kim của triều đại ông. Ông nghĩ đến việc xây cho Thiên Chúa một ngôi đền lộng lẫy, để một phần nào đó gọi là “trả ơn” Ngài. Ông đem ý định này trình bày với tiên tri Nathan. Sau khi thỉnh ý Thiên Chúa, Nathan nói cho ông biết ý định của ông là tốt đẹp. Nhưng Thiên Chúa cũng cảnh báo cho ông biết rằng coi chừng ông bị lầm tưởng là ông đang làm cho Thiên Chúa điều này điều nọ, trong khi chính Thiên Chúa mới là người làm cho ông những việc trọng đại. Ngài nhắc lại thân phận của ông chỉ là một đứa bé chăn chiên ngoài đồng, hiền lành, nhút nhát, dưới con mắt người đời chỉ để làm lính kiểng… Nhưng Thiên Chúa lại muốn chọn ông để đánh tan mọi suy nghĩ của con người. Bởi vì ý hướng tốt lành của ông là muốn xây nhà vật chất cho Thiên Chúa, nên Thiên Chúa hứa sẽ xây cho ông một ngôi “nhà” vững bền muôn đời, chính là vương triều Đavit, mà Đấng Cứu Thế sẽ xuất thân từ dòng dõi đó.
- Tin Mừng: Lc 1, 26-38
Nhạc khúc yêu thương đó được Thiên Chúa dệt kết với cô thiếu nữ ở làng quê Nazaret tên là Maria. Khác với vua Đavit, cô gái này không hề có một chương trình nào cho Thiên Chúa, không muốn làm cho Ngài bất cứ điều gì, vì cô ý thức mình chỉ là một thôn nữ quê mùa và không có điều kiện để mở rộng tầm hiểu biết của mình, chỉ âm thầm sống theo phong tục tập quán của xã hội và luật lệ của tôn giáo thời bấy giờ. Tuy nhiên cô lại trở thành đối tượng được Thiên Chúa yêu thương chọn gọi cách đặc biệt và trao cho sứ mạng càng đặc biệt hơn: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”. Điều đặc biệt không phải vì cô thụ thai một cách lạ lùng, mà vì người con mà cô cưu mang: “sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Vì vậy nhạc khúc yêu thương nơi cuộc đời Đức Maria là một tác phẩm nghệ thuật bởi ý tưởng của Thiên Chúa và tiếng Xin Vâng của Mẹ chính là những nốt nhạc để Thiên Chúa hoàn thành bài hát.
II. NHẠC KHÚC YÊU THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA
- Ý định sáng tác của Thiên Chúa
Thiên Chúa luôn luôn có những ý định và chương trình tốt lành dành cho nhân loại và cách riêng là mỗi người chúng ta. Điều này giống như một nhạc sĩ luôn ôm ấp ý tưởng cho đứa con tinh thần của mình. Ý định này đã có từ thuở tạo thiên lập địa khi Ba Ngôi Thiên Chúa như bàn tính với nhau: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”. Nghĩa là ngay từ đầu ý định của Thiên Chúa là muốn con người được hạnh phúc trọn vẹn.
Tuy nhiên ý tưởng tốt lành của Thiên Chúa vẫn bị những thế lực thù địch quấy phá, mà cụ thể là ma quỷ. Mục đích của nó là để Thiên Chúa không thể hoàn thành được chương trình của Ngài. Một lần nữa chúng ta lại thấy quyền năng và sự trung thành của Thiên Chúa. Khi kế hoạch này thất bại, Ngài lại bày ra kế hoạch khác, nhưng luôn luôn trung thành với ý tưởng là để con người được hạnh phúc trọn vẹn.
- Những nốt nhạc của con người.
Như vậy để cho tác phẩm của Thiên Chúa được hoàn thành, mỗi người cần phải trở thành những nốt nhạc được gắn theo những cung bậc trầm bổng hoàn toàn theo ý của tác giả. Nghĩa là chúng ta phải để Thiên Chúa hành động bằng tự do tự nguyện của mình giống như Đức Maria.
Tuy nhiên trong quá trình sáng tác, nốt nhạc là chính con người bị trục trặc, giống như Đavit cũng có lúc lầm lỗi, hay biết bao những ngôn sứ, thậm chí là những vị thánh. Thiên Chúa không bao giờ chịu thua. Những lúc đó Ngài lại tiếp tục thay đổi để hoàn thành tác phẩm của Ngài, nhưng trong bài hát có thêm những dấu hóa. Đến lúc hoàn thành, có khi những dấu hóa đó lại làm cho bài hát thêm hay, thêm hấp dẫn.
III. NHẠC KHÚC YÊU THƯƠNG CỦA CON NGƯỜI.
Thiên Chúa đang sáng tác trên cuộc đời của mỗi chúng ta một nhạc khúc yêu thương. Nếu giống như Đức Maria nói tiếng xin vâng dứt khoát, trọn vẹn thì bài hát cuộc đời chúng ta quá tuyệt vời, nó là một tác phẩm kinh điển, làm mẫu mực cho mọi tác phẩm. Tuy nhiên Thiên Chúa lại rất tốn công để chỉnh sửa vì cuộc đời chúng ta có quá nhiều dấu hóa, thăng trầm lộn xộn, đảo nghịch lung tung… Nhưng Ngài không bao giờ bỏ cuộc, Ngài vẫn luôn trung thành với ý tưởng là một nhạc khúc yêu thương dành cho con người.
- Với Thiên Chúa
Để có thể dệt nên nhạc khúc yêu thương với Thiên Chúa, con người phải có sự gắn kết với Ngài mới có thể đồng cảm với Ngài.
Không phải một sớm một chiều mà Thiên Chúa có thể dệt nên nhạc khúc yêu thương nơi cuộc đời của vua Đavit và Mẹ Maria đâu, mà đó là cả một cả một quá trình các ngài sống gắn bó với Chúa, ý thức sự hiện diện của Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Vua Đavit từ khi còn là một đứa bé chăn chiên ngoài đồng, đến khi được Chúa chọn, rồi được đưa vào cung trở thành chiến binh của vua Saul, bạn thân của Gionathan, con trai nhà vua, rồi lên làm vua, lập được những chiến công hiển hách, kể cả những lúc tội lỗi vì đam mê dục vọng nổi lên… Càng ngày, càng ngày ông càng tiến sâu vào tình yêu của Thiên Chúa vì ông tha thiết sống gắn bó với Chúa.
Mẹ Maria thì ngay từ nhỏ đã được dâng mình trong đền thờ để phục vụ Chúa. Rồi biến cố truyền tin xảy ra, Thiên Chúa muốn chọn Mẹ làm Mẹ Thiên Chúa. Chắc chắn Mẹ phải rất nhạy cảm với Thiên Chúa thì Mẹ mới có thể nhận ra tiếng Chúa trong biến cố này. Tất cả những cách sống đó, nói một cách ngắn gọn chính làđời sống cầu nguyện. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã biết sống đời cầu nguyện với Chúa trong mọi biến cố chưa? Đã sống gắn bó, thân tình với Ngài để Ngài có thể tự do bước vào cuộc đời chúng ta chưa?
- Với những người xung quanh
Ngoài việc Thiên Chúa tạo nên tác phẩm là chính cuộc đời chúng ta, Ngài còn trao cho chúng ta bản quyền để tự do sáng tác, miễn sao đúng với ý Tác Giả là nhạc khúc yêu thương.
Để có thể dệt nên nhạc khúc yêu thương với những người xung quanh chúng ta cần có sự tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Sự tôn trọng để chấp nhận những khác biệt nơi người khác; sự khác biệt nhiều khi khiến chúng ta không thể chấp nhận được. Sự tin tưởng để tạo điều kiện cho người khác cùng sống, cùng làm việc; sự tin tưởng này nhiều khi chấp nhận cả những điều sai trái nơi họ.
Thiên Chúa tôn trọng chúng ta qua việc dựng nên mỗi người khác nhau từ vóc dáng cho đến tính tình và tính cách. Ngài không dựng nên con người theo kiểu nhân bản ra để ai cũng giống nhau hoàn toàn nhằm tiện thể cho Ngài giáo dục, hướng dẫn… Thiên Chúa tin tưởng con người qua việc trao cho mỗi người sứ mạng, trong sứ mạng của mình, nhiều khi con người rất sai lầm, nhưng Ngài chấp nhận để sửa lại từ từ.
Những xung đột trong gia đình, trong tập thể là do người ta sống theo lối gia trưởng, theo lối quyền hành để bắt người khác theo khuôn mẫu của mình và không chấp nhận giới hạn của người khác; nghĩa là không tôn trọng và tin tưởng nhau.
Trong ngày cuối cùng của Mùa Vọng này, xin cho mỗi người chúng ta sống thân tình với Chúa qua việc cầu nguyện để Ngài có thể dệt nên nhạc khúc yêu thương với mỗi chúng ta. Xin cho chúng ta sống thân tình với anh chị em qua việc tôn trọng, tin tưởng nhau để có thể dệt nên nhạc khúc yêu thương dành cho nhau và cho cuộc đời.
Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết chiêm ngắm thánh vương Đavit để biết rằng con dù mình có tài giỏi đến mức nào thì vẫn có giới hạn để con có thể thông cảm cho anh chị em con. Xin cho chúng con biết chiêm ngắm Mẹ Maria để biết rằng Thiên Chúa luôn mời gọi con người cộng tác với Ngài, từ đó con biết tạo điều kiện cho người khác được cộng tác với chúng con. Nhưng trong tất cả, xin cho chúng con nhận ra nhạc khúc yêu thương mà Chúa đang dệt kết với chúng con, để xin thắp sáng lên trong con ngọn lửa yêu.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Đọc lại sách Sáng Thế, sau khi tổ tiên loài người nghe lời dụ ngọt của con rắn, đã ăn trái cấm, đã mất nghĩa với Thiên Chúa. bị đuổi ra khỏi vườn đia đàng, Thiên Chúa đã lên án con rắn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống nó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn gót nó.” ( St 3: 15) Tổng cọng từ tổ phụ Ápraham đến Đức Kitô là là bốn mươi hai đời.Người nữ nào sẽ đạp đầu con rắn đây?
Trong gia phả Đức Giêsu Kitô, thánh Matthêu có kể tên năm người phụ nữ: Bà Tama giả làm gái điếm, đã ăn ở với Giuđa và sinh được 2 người con; bà Rakháp, vợ ông Xanmon, từng là gái điếm ở Giêricô; bà Rút lấy ông Bôát, cuộc hôn nhân lúc đầu là một quan hệ bất hợp pháp; bà Bát Seva, vợ ông Urigia, ngoại tình với vua Đavít. Sau cùng là bà Maria, vợ ông Giuse là Mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Ki tô.Phải chăng thánh Matthêu liệt kê 4 phụ nữ kia để làm nổi bật hình ảnh bà Maria mẹ Đức Giêsu! ! Bà Maria đã trở nên Mẹ Đức Giêsu như thế nào?
Không ai trong chúng ta có quyền hay có thể chọn cho mình một người mẹ. Nhưng đối với Thiên Chúa là Đấng quyền năng thì việc lại khác. Con Thiên Chúa được sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Thiên Chúa không chọn một người mẹ nào đó một cách độc đoán tùy ý Ngài, nhưng sự lựa còn ấy còn phụ thuộc vào phẩm chất đạo đức và tùy thuộc vào sự tự do ưng thuận hay không. Người phụ nữ được tuyển chọn ấy là Trinh Nữ Maria, một thiếu nữ vô danh tiểu tốt ở miền Galilê, gọi là Nadarét.
Thiên Chúa đã sai sứ thần Gáprien đến báo tin Trinh Nữ Maria. Vừa vào nhà, lời đầu tiên thiên sứ nói là lời chúc mừng và ngợi khen Trinh Nữ là Đấng đầy ơn sủng, được Đức Chúa ở cùng, đẹp lòng Thiên Chúa. Tin quan trọng mà thiên sứ báo tin cho Trinh Nữ là nàng sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu.Người sẽ nên cao cả , và sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao…”
Nghe thế, Trinh Nữ đã thưa lại với thiên sứ: “ Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Khác với thái độ của Giacaria là bán tín bán nghi vào quyền năng của Thiên Chúa, Trinh Nữ Maria đã tin lời thiên sứ, nhưng nàng chỉ muốn biết việc thụ thai và sinh con bằng cách nào.Sau khi nghe thiên sứ giải thích, Trinh Nữ đã mau mắn đáp lời : “ Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Trinh Nữ Maria đã đi từ ngỡ ngàng , thắc mắc đến ưng thuận xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Nàng đã tự nhận mình là nữ tỳ của Chúa. Điều đó chứng minh Trinh nữ là một người khiêm tốn, tuân phục thánh ý của Chúa, dấn thân vì ý muốn của Ngài. Tin chị họ, tuy già, nhưng đã có thai được sáu tháng, đã làm cho lòng tin của Trinh Nữ mạnh mẽ hơn.Bài ca Magnificat đã nói lên lòng tin tưởng và phó thác trong tay Thiên Chúa, chúc tụng ngợi khen, khiêm tốn tuân phục thánh ý của Ngài.
Khiêm nhường trong cuộc sống, vâng phục thánh ý Chúa, phó thác trong tay Chúa, dấn thân chấp nhận tất cả vì tin yêu Thiên Chúa. Đó là những phẩm chất đạo đức cần có;và như thế, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế đã ra đời từ cung lòng Mẹ Maria hơn hai ngàn năm trước. Nếu không có sự ưng thuận vâng phục của Mẹ Maria, chúng ta sẽ không có Đấng Cứu Độ.
Hai nhân vật nổi bật trong Mùa Vọng, đó là thánh Gioan Tẩy giả và Trinh Nữ Maria. Thánh Gioan dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Trinh nữ Maria là người đón nhận Con Thiên Chúa trong cung lòng mình.Và còn một nhân vật nữa sống trong âm thầm, kín đáo, nhưng cũng không kém phần quan trọng để xác định Đấng Tối Cao thuộc dòng dõi vua Đavít trong gia đình Nadarét, đó là thánh Giuse.
Noi gương Mẹ Maria, chúng ta cũng phải biết sống khiêm nhưòng nhận mình là người yếu hèn tội lỗi trong tinh thần tin yêu phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, gạt bỏ ý riêng để tuân theo thánh ý của Ngài.
.
JM. Lam Thy
Mầu nhiệm Giáng Sinh chính là mầu nhiệm Con-Thiên-Chúa-làm-người. Vì Ðức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần, nhưng Ðức Giê-su cũng là người nên cần phải được sinh ra bởi một con người bằng xương bằng thịt. Điều đó nói lên chân lý: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Ðức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận vai trò cộng tác ấy. Tuy nhiên, quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Ðức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Mãi đến khi được báo mộng về mầu nhiệm Nhập Thể, thánh Giu-se mới chính thức đưa Ðức Giê-su ra công khai khi nhận Ngườii vào dòng tộc Ða-vít. Qua trung gian của Thánh Giu-se, Ðức Giê-su đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ cụ thể. Tên tuổi của Ðức Giê-su được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình ấy.
Nhờ đâu mà Thánh Giu-se và Ðức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Ðấng Cứu Thế? Về Đức Maria thì khỏi cần bàn cãi, vì Mẹ đã được Thiên Chúa tiền định từ trước vô cùng. Tuy nhiên, khi sứ thần truyền tin cho Đức Maria thì: “Nghe lời ấy, bà rất bối rối… Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” Cuối cùng, vì lòng tín phục Thiên Chúa cách tuyệt đối, “bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 29-38). Và với hai tiếng “xin vâng”, Mẹ đã hoàn thành xuất sắc sứ vụ cao trọng vô song đó.
Riêng Thánh Giu-se, theo như bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/MV-A – Mt 1, 18-24), thì: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.” (Mt 1, 19). Tại sao vậy? Cũng đã có nhiều bài chia sẻ phân tích tâm trạng của Thánh Giu-se. Sở dĩ thánh nhân – nói theo kiểu ngôn ngữ thời đại – đành ôm hận âm thầm bỏ đi, một phần lỗi là tại Đức Maria. Đúng ra, Đức Mẹ khi được Thiên sứ báo tin thụ thai Con Đức Chúa Trời qua phép Thánh Linh, thì Mẹ phải tìm cách báo tin cho người bạn đời của mình mới phải lẽ. Cũng chỉ vì giữ kín như một sự lừa dối, nên mới khiến Giu-se ôm hận, và nếu như thói thường người đời, thì chắc chắn sẽ có phản ứng mạnh, ít ra là tố giác trước công luận. Còn phần Đức Mẹ, đặt giả thử bị Thánh Giu-se tố giác, thì – theo luật Do Thái thời đó – chắc chắn sẽ bị ném đá cho tới chết.
Phiền trách Đức Mẹ theo kiểu suy nghĩ của thời đại hiện nay như vậy thì kể ra cũng quá lạm, nếu không muốn nói là kiến thức hạn chế, là đem “tư tưởng của loài người” bất toàn ra suy luận việc làm của Thiên Chúa. Thánh Giu-se và Đức Mẹ mới chỉ đính hôn, là vợ chồng trên danh nghĩa nhưng chưa sống chung, như vậy thì việc gặp gỡ riêng khó thực hiện được, ngoại trừ những cuộc hội ngộ công cộng trong gia đình hay trong cộng đoàn. Không gặp riêng nhau thì làm sao báo tin? Vả lại, việc Đức Mẹ thụ thai hoàn toàn do thánh ý Thiên Chúa, Đức Mẹ chỉ vâng phục, như vậy thì Mẹ tin rằng Thiên Chúa cũng sẽ báo tin cho Thánh Giu-se biết như Người đã sai Thiên sứ báo tin cho Mẹ. Chắc chắn Đức Mẹ đã tin tưởng như vậy, bởi cũng nhờ niềm tin vững mạnh ấy nên Mẹ mới “xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Còn Thánh Giu-se – vì là người công chính – nên chỉ chọn giải pháp âm thầm bỏ đi là thượng sách. Tuy nhiên, cuối cùng thì con người công chính ấy cũng không âm thầm bỏ đi, nhờ nỗi lòng thắp sáng một niềm tin và niềm tin ấy đã giải toả mọi thắc mắc, âu lo giày vò tâm trí thánh nhân. Đúng như suy nghĩ của Đức Mẹ, Thánh Giu-se đã được Thiên sứ báo mộng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1, 20-21). Không những sứ thần chỉ báo cho Thánh Giu-se biết Đức Mẹ thụ thai bởi phép Thánh Linh, mà còn cho biết tường tận bào thai Đức Mẹ cưu mang là một “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”; Người Con mà Đức Mẹ cưu mang chính là Đức Giê-su Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, “vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1, 21).
Rõ ràng nỗi lòng của Thánh Giu-se cũng chẳng khác nỗi lòng của Đức Mẹ. Bối rối và lo âu cũng là lẽ thường tình, nhưng cuối cùng thì niềm tin vào Thiên Chúa đã trấn an tất cả, “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1, 37). Nỗi lòng của Đức Mẹ và Thánh Giu-se chính là “nỗi lòng không của riêng ai”. Đứng trước những hiện tượng siêu phàm thì tâm trạng chung của phàm nhân đương nhiên là hoài nghi, lo âu, sợ hãi. Duy chỉ có điều, anh có tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa hay không? Anh có tin Thiên Chúa là Đấng toàn năng hằng hữu hay không? Nếu anh tin, anh cứ việc hoài nghi, lo âu, sợ hãi, nhưng đừng quên cầu ngujyện, và Thiên Chúa sẽ cứu rỗi anh, sẽ giải thoát anh. Cũng bởi vì một “Em-ma-nu-en” tên là Giê-su đã đến, đang đến và sẽ đến cùng chúng ta. Vâng, “Trong đức tin, món quà của Thiên Chúa, một nhân đức siêu nhiên được Ngài truyền cho chúng ta, chúng ta nhận ra rằng một Tình Yêu cả thể đã được ban cho chúng ta, một Lời nhân lành đã được nói với chúng ta, và khi chúng ta chào đón Lời này, là Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể, Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta, soi sáng con đường đi đến tương lai và làm lớn lên trong chúng ta đôi cánh hy vọng để nó đồng hành với chúng ta.” (Thông điệp “Ánh Sáng Đức Tin – Lumen Fidei”, số 7).
Giáo hội luôn mời gọi chúng ta tỉnh thức, dọn đường đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh. Đức Mẹ và Thánh Cả Giu-se đã làm như vậy bằng hai tiếng “xin vâng”. Còn chúng ta thì sao? Xin hãy khắc ghi lời dạy của Thánh Au-gus-ti-nô: “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận”. Hãy mở tâm hồn ra và giãi bày hết mọi nỗi lòng với Chúa bằng một đức tin vững mạnh, và dù cho có băn khoăn bối rối, lo lắng sợ hãi tới đâu chăng nữa, cũng xin hãy nhìn lên mẫu gương tuyệt hảo của Đức Mẹ và Thánh cả Giu-se, mà thưa với Chúa bằng hai tiếng “xin vâng”, cũng bởi vì “Nước Chúa đã đến gần” (Mt 3, 2).
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Ðức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật IV Mùa Vọng).
.
MỪNG VUI LÊN HỠI ĐẤNG ĐẦY ÂN SỦNG
Fx Đỗ Công Minh
Lạy Chúa,
Chúng con đang bước vào những ngày cuối của mùa Vọng, chỉ còn không đầy một tuần nữa thôi cả thế giới này hân hoan mừng ngày Chúa Giáng trần. Mùa Vọng không chỉ là thời gian chờ đợi mừng ngày Sinh nhật Chúa mà chính là cơ hội cho con sống trong sự chờ đợi ngày Chúa lại đến.
Có nhiều cách mong đợi, như mong người thân từ phương xa lâu ngày không gặp, nay sắp trở về. Mong một món quà được thông báo đang được gửi tới.Mong như thế là mong cho thời gian qua mau, mong trong trạng thái vui mừng, bồn chồn, nôn nao. Nhưng cũng có mong đợi trong tâm trạng không hề muốn sự việc xảy ra như mong cho kết quả của một cuộc xét nghiệm đừng xảy ra như lo lắng trước đó. Mong cho thần chết đừng vội đến với người thân đang lâm bệnh . . .
Với mỗi người chúng con, sống trong mùa Vọng, cũng đang mong đợi, thái độ của con đang trong tình trạng nào. Vui mừng chờ đón hay lo lắng băn khoăn ? Chúa sẽ đến với nhân loại lần thứ hai để hoàn tất chương trình cứu độ, con tin như vậy. Còn lúc nào, giờ nào thì ngoài Thiên Chúa Cha, con người không ai biết. Cách riêng với từng người, Chúa sẽ đến. Không ai có thể phủ nhận điều ấy. Chính vì thế con cần phải có một cách sống thể hiện sự chờ đợi ngày Chúa sẽ đến với con.
Bài Tin mừng Chúa nhật thứ IV mùa vọng cho con thấy đức MARIA, một con người trần gian, khi được loan báo ý định Chúa sẽ đến trong cuộc đời. Mẹ Maria, một con người như mọi người chúng con, một mẫu gương sống mùa Vọng.Khi Thiên sứ truyền tin vui :”Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên con trẻ là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và được gọi là con Đấng tối cao “. Mẹ đã thưa : “Xin Thiên Chúa thực hiện nơi tôi điều Ngài muốn”, cho thấy sự đáp trả lời mời gọi. Không những thế, sau khi được tràn đầy ân sủng, Mẹ đã lên đường đến miền núi viếng thăm, giúp đỡ người chị họ là Isave, có thai được 6 tháng, để loan báo Tin mừng mình vừa nhận được và thể hiện niềm vui “Có Chúa ở cùng “bằng hànhđộng cụ thể. Mẹ đã sống suốt thời gian chờ đợi “Việc đó xảy ra “ trong niềm vui và lòng mến. Mẹ đã chuẩn bị dọn lòng để cưu mang Đấng cứu thế và đem Chúa đến với người khác. Xin Mẹ cũng giúp con biết dọn lòng đón Chúa Giêsu đến trong cuộc sống mỗi ngày, biết sẵn sàng giới thiệu Chúa với đồng bào con, nhữngngười đang cùng sống với con trên đất nước này, bằng đời sống chứng tá của mình.
Lạy Chúa,
Rồi đến lúc nào đó Chúa sẽ đến gọi con, xin cho con luôn biết thưa lên: “Xin vâng, Lạy Chúa, này con đây “. Với hành trang là tấm lòng trung tín theo Chúa, bác ái với anh em, là những hy sinh bé nhỏ từng ngày gom lại như những lễvật dâng Chúa như: Vàng, nhũ hương và mộc dược. Sống cuộc sống trong tin yêu và hy vọng. Sống phó thác và xin vâng, đó chính là đích thực sống Mùa Vọng hôm nay. AMEN
.
Lm. DĐH
Nói lời phải giữ lấy lời, đừng như ong bướm đậu rồi lại bay, câu ca dao quen thuộc người đời thường dùng để nhắc nhau về chữ tín, nhắc nhau về một cam kết hết sức thiêng liêng. Trong tương quan xã hội, người xưa rất nhạy cảm khi nói: ở chọn nơi, chơi chọn bạn, kinh nghiệm cuộc sống có thật giả, có tốt xấu, nên cần phải cân nhắc, chọn lựa, dù khát vọng thành người, thành danh, ai cũng có. Xét về mặt tự nhiên, cha mẹ cho con cháu tài sản vật chất, cho tình thương, là điều bình thường, nhưng con cháu có biết sử dụng số vốn quý ấy để có kiến thức, để nên người hữu ích, tuỳ thuộc trái tim và khối óc có hiểu, có sống ân tình đó không ?
Thiên Chúa yêu thương, ban điều kiện cho tiền nhân, Ngài còn ban ơn riêng cho từng cá nhân, hầu ai cũng thấy ơn gọi làm công dân nước trời là vô cùng cao quý, khi mỗi người sống thuận, sống hoà, sống ân phúc được trao ban. Trình thuật truyền tin hôm nay cho thấy Thiên Chúa thấu biết tâm hồn Trinh nữ Maria, vì tôn trọng sự tự do, Ngài sai Sứ thần tới ngỏ lời xem Trinh nữ có đồng ý làm Mẹ Đấng cứu thế không ? Đức Maria không gật đầu bừa bãi, không trả lời lấp lửng vô tội vạ. Trinh nữ hoảng hốt về lời chào “đầy ơn phúc”, từ thắc mắc không biết đến chuyện vợ chồng, rồi sau khi được soi sáng, được giải thích về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, Đức Maria đã mạnh dạn nói lời thưa vâng.
Người đời cho rằng: nửa sự thật vẫn chỉ là nửa sự thật, nói lời yêu thương, ai cũng nói được, nói lời thưa vâng, sống lời thưa vâng, sẽ là một bước dài trên hành trình tin yêu, và thực hành yêu thương. Lý lẽ mà con người rất thường hay đề cập đến khi thực thi “cái duyên phận” của mình là có thực mới vực được đạo, cân nhắc và chọn lựa phương thế hữu hiệu, người ta lại nghĩ rằng, chắc ăn không bằng ăn chắc. Sống đạo làm người, hay sống đức ái, không thể dừng lại trên phạm vi lý thuyết, sống lời thưa vâng, hay sống thánh ý Chúa, không thể lý sự bằng sức mạnh của vật chất, nhưng còn hệ tại bởi sức mạnh của tình yêu, của hy sinh tín thác. Vòng nguyệt quế không thể đến được với cuộc chinh phục đỉnh Olimpia, nếu như thí sinh chỉ đơn độc một mình, thiếu sự trợ giúp của các thầy cô. Hào quang không thể toả sáng dù người theo Chúa có tài giỏi đức độ, nếu đằng sau chưa thấm nhuần đau khổ thập giá của Đức Kitô.
Bài hát “Duyên phận” của nhạc sĩ Thái Thịnh rất được ưa thích trong mấy năm gần đây, dù tác phẩm được viết từ năm 2007. Duyên là do người định, phân là do trời tạo, người ta cho rằng có duyên với nhau, nhưng có sống bên nhau cả đời được hay không là do họ quyết định, chứ không hề do trời phật bắt phải như thế. Trinh nữ Maria được Sứ thần mang tin vui tới, đó mới là khởi đầu của cơ duyên của ơn gọi làm Mẹ Đấng cứu thế. Lời ngỏ của Sứ thần có được Đức Maria đón nhận, có được Đức Maria biến duyên thành phận hay biến phận thành duyên, theo thánh ý Chúa là tuỳ vào sự chọn lựa Đức Maria đã sống lời thưa vâng như thế nào. Vẫn biết rằng duyên phận hiểu theo nghĩa tự nhiên hay siêu nhiên, đều phải có “sắc mầu tình yêu” chất chứa trong đó.
Được sinh ra và lớn lên trong tiện nghi vật chất đầy đủ, được sống trong hoàn cảnh thuận lợi: tài sắc vẹn toàn, hẳn thời nào cũng có những người may mắn như vậy. Tuy nhiên những cá nhân xinh đẹp, tài đức, có mang lại hạnh phúc cho gia đình, xã hội hay không, đó là điều đáng nói hơn cả. Thiếu nữ hay trinh nữ xinh đẹp thời nào cũng tìm được, thiếu nữ vừa đẹp người vừa đẹp nết có thể ít hơn một chút, Trinh nữ mà Sứ thần hôm nay ngỏ lời “kính chào Maria đầy ơn phúc”, quả là quý hiếm. Nhưng trên hết, Thiên Chúa cần một Trinh nữ biết mạnh dạn nói lời thưa vâng và biết sống lời thưa vâng để thánh ý Chúa được nên trọn vẹn, đó là nét đẹp của tình yêu mà nhân loại được Chúa ban tặng.
Ngày hôm nay, Sứ thần Thiên Chúa còn mang tin vui đến cho gia đình nhân loại, gia đình xã hội, hay một số cá nhân đức độ nữa không ? Câu trả lời của mỗi người nhất định là có, nhưng dù là tin vui, là bình an hạnh phúc, hay chỉ là thao thức chút ít trong lòng, tất cả đều phải khởi đi từ việc sống đức yêu thương. Nếu mỗi người có nét duyên dáng khác nhau, có phận số chẳng giống nhau, thì tất cả đều có chung ước muốn thành người tốt, thành người cha tài đức, thành người mẹ xinh đẹp toàn diện, hoặc thành công dân của nước trời hôm nay và mai sau. Ngày hôm nay, ai cũng nghĩ là phải an cư mới lạc nghiệp, ai cũng tin rằng Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, có thể Chúa không sai Sứ thần hỏi chúng ta có đồng ý làm Mẹ Đấng cứu thế, nhưng Ngài vẫn mời gọi chúng ta hãy tiếp tục sống lời thưa vâng như Đức Maria. Amen.
.
THIÊN CHÚA BƯỚC VÀO LỊCH SỬ NHÂN LOẠI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có những con người xuất hiện trên cuộc đời đã để lại những dấu ấn trong sự tiến bộ của nhân loại, cũng có những người gieo sự chết chóc cho nhân loại. Khi nhắc đến Hitler, hoặc thủ lĩnh Polpot, người ta nghĩ ngay đến những tên tội phạm chiến tranh gây ra sự hủy diệt cho hàng triệu người Do Thái và người Campuchia. Có những con người được nhắc đến với sự khinh miệt vì đường lối và cách cai trị của họ đã gây ra đau khổ chết chóc cho hàng triệu người trên thế giới. Trái lại, các nhà khoa học chân chính được nhắc đến với sự kính trọng, vì họ đã dành cả cuộc đời phục vụ và đánh dấu cho sự thăng tiến của nhân loại hoặc để cứu nhân loại khỏi những căn bệnh nguy hiểm như nhà khoa học Newton, Archimet, bác sĩ Paster, Hansen…Những con người này đuợc coi là những người đặt dấu nhấn trong sự phát triển chung của nhân loại.
Bước vào Chúa nhật IV mùa Vọng, Lời Chúa cho chúng ta thấy một sự kiện vô cùng lớn lao, đó là việc Thiên Chúa bước vào lịch sử của thế giới và đã làm biến đổi hoàn toàn thế giới, Ngài mang tên là Giêsu. Việc Thiên Chúa xuống thế làm người không đơn thuần chỉ là việc Thiên Chúa, Đấng vô hạn vô biên, bước vào thế giới hữu hạn, hữu hình; cũng không chỉ là việc năm sinh của Ngài được chọn làm cột mốc đầu tiên cho niên lịch của thế giới, nhưng Ngài đã thực sự đem đến mục đích và ý nghĩa mới cho cuộc sống con người và vũ trụ. Nếu như trước đây, nhân loại phải sống trong sự tối tăm, lạc đường, thì Chúa Giêsu là Ánh sáng, là người dẫn đường cho nhân loại đi đến cùng đích cuộc đời là hạnh phúc Nước Trời. Nếu như trước đây, con người như đoàn nô lệ chỉ biết cắm mặt xuống đất và làm lao dịch cho ma quỷ và tội lỗi, thì nhờ Chúa Giêsu, con người có quyền tự hào ngước mắt lên trời để gọi Thiên Chúa là cha và được giải thoát khỏi sự kìm kẹp của ma quỷ và sự chết.
Sách Samuel cho thấy, nếu như trước đây, Thiên Chúa như một vị thần ở xa con người chỉ để nhận mùi hương khói, thì giờ đây, Thiên Chúa bước đến với con người, ở giữa con người. Hơn thế nữa, Thiên Chúa còn hứa sẽ lập nên một triều đại mới, một dòng dõi mới, thay thế cho dòng dõi cũ đã buông mình theo sự xấu. Câu chuyên bài đọc một kể lại: Khi đó, vua Đavít đang được Chúa cho hưởng bình yên tứ bề, quốc gia thịnh vượng hùng mạnh, vua Đavít đã dự định sẽ xây cho Thiên Chúa một ngôi nhà xứng đáng bằng gỗ bá hương. Thiên Chúa đã không cần ngôi nhà bằng gỗ, đá quý, vì từ trước đến nay, Ngài vẫn đồng hành và bảo vệ dân bằng quyền năng và tình thương. Thiên Chúa đón nhận thiện chí và lòng tốt của Đavít, nhưng Ngài hứa sẽ xây cho Đavít một triều đại, một dòng dõi sẽ trường tồn mãi mãi. Quan trọng hơn, Thiên Chúa hứa sẽ đặt một người kế vị Đavít, Ngài sẽ làm cho vương quyền của người này được vững bền mãi mãi. Thiên Chúa còn quả quyết: Ta sẽ là cha và người kế vị sẽ là con.
Lời hứa năm xưa với vua Đavít đã được Thiên Chúa thực hiên khi cho sứ thần đến truyền tin cho trinh nữ Maria. Tác giả Tin Mừng rất cẩn thận để chỉ cho thấy: Sứ thần Gabriel được sai đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Một câu giới thiệu ngắn gọn, nhưng Tin Mừng đã muốn chuyển tải nhiều ý nghĩa.
Mặc dù sứ thần được sai đến với một trinh nữ đã đính hôn, nhưng Giuse lại là nhân vật được nhắc tên trước hết với một vai trò quan trọng là: Ông thuộc dòng dõi vua Đavít và đã đính hôn với Maria. Nhấn mạnh đến việc Giuse đã đính hôn với Maria để cho thấy cuộc hôn nhân này đã là hợp pháp và chính thức theo luật. Tác giả giới thiệu ông Giuse thuộc dòng dõi vua Đavit, vì đứa trẻ sinh ra chắc chắn sẽ phải mang họ của cha. Vì thế, cho dù cuộc đầu thai của Đấng Cứu thế trong lòng Đức Maria xảy ra trước khi hai ông bà về chung sống với nhau, thì người con sinh ra vẫn được coi như con chính thức và hợp pháp của Giuse. Giuse sẽ thực hiện quyền làm cha bằng việc đặt tên cho con trẻ và trao cho con trẻ thế giá dòng tộc Đavít của ông. Khi viết câu giới thiệu này, Tin Mừng muốn cho thấy lời Chúa hứa năm xưa với vua Đavít nay đã ứng nghiệm, con trẻ Giêsu sẽ thiết lấp nên một triều đại bền vững đến muôn đời.
Trong biến cố này, Đức Maria đã để cho Thiên Chúa bước vào cuộc đời của Mẹ, biến đổi hoàn toàn suy nghĩ, hành động và cả cuộc đời Mẹ. Qua lời Xin Vâng của Đức Maria, Thiên Chúa đã biến đổi hoàn toàn thế giới. Đức Maria, dù có một ý muốn rất tốt lành là sống cuộc đời trinh khiết, nhưng Thiên Chúa đã muốn mẹ đính hôn với Giuse, để qua cuộc đính hôn này, Thiên Chúa trao gửi Con của Ngài vào cung lòng của Mẹ. Đức Maria hết sức ngỡ ngàng trước lời chào cung kính long trọng của sứ thần: Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn phúc. Sứ thần đã giải thích: Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ phụ Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của người sẽ vô cùng vô tận.
Lời giải thích vắn gọn này đã khái quát cả một chương trình lớn lao của Thiên Chúa, đồng thời nói lên sứ mạng vô cùng quan trọng của Hài Nhi. Thiên Chúa đã chính thức bước vào lịch sử nhân loại, Ngài không vào thế gian bằng một con đường nào khác, nhưng bằng việc đầu thai trong lòng một trinh nữ, trở nên một con người như biết bao người. Chúa đến để sống và chia sẻ thân phận con người với nhân loại, chung chia nỗi vui buồn, đồng lao cộng khổ với nhân loại để cứu chộc nhân loại. Danh xưng Giêsu có nghĩa là Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu cứu nhân loại khỏi xiềng xích của ma quỷ tội lỗi và sự chết bằng chính cái chết của Ngài. Ngài đã sống lại để trao ban cho nhân loại sự sống mới của Thiên Chúa, gia tăng sức mạnh để con người chống trả lại ma quỷ và các cám dỗ. Kể từ đây, ma quỷ và sự chết không còn là kẻ thống trị nữa mà nó trở thành kẻ thất bại. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã dành lại quyền thủ lãnh và điều khiển vũ trụ vạn vật trở về với đúng quỹ đạo mà Thiên chúa muốn từ thuở ban đầu, để con người và vạn vật có thể đạt tới mục đích chung cuộc là hạnh phúc và sự tốt đẹp viên mãn.
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài đang thực sự thấm sâu vào thế giới và tâm hồn con người, đang từng ngày biến đổi vũ trụ và con người. Cho đến nay, nhờ Chúa Giêsu, thế giới mang trên mình một bộ mặt mới, một nếp sống mới nhân bản hơn, tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, ma quỷ, kẻ bại trận năm xưa đã không muốn nhìn thấy con người hạnh phúc, vì thế, nó đang tìm mọi cách gieo sự bất hạnh cho con người, tìm cách tách con người và vũ trụ ra khỏi tầm ảnh hưởng của Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. Ma quỷ còn tìm nhiều cách khác để làm lạc hướng con người, khiến cho nhiều người bị lỡ nhịp, trật bước và rơi vào con đường của nó. Nó xúi giục con người tìm cách chống lại nhau và chống lại Thiên Chúa, hòng tìm cách ngăn cản vương quyền tình yêu của Thiên Chúa lan tỏa trên con người và vũ trụ.
Ma quỷ cũng tìm cách tấn công các gia đình bằng cách gieo rắc sự bất tín bất trung, khơi lên sự nghi ngờ và thói ích kỷ. Ma quỷ tìm cách ru ngủ các gia đình trong sự lười biếng và công việc để họ dần dần xa lìa Thiên Chúa. Mỗi người, mỗi gia đình đều có kế hoạch riêng tốt đẹp, nhưng có thể đó chưa phải là ý muốn của Thiên Chúa, hãy noi gương Đức Maria, dám bỏ qua một bên kế hoạch cá nhân, để thuận theo kế hoạch của Thiên Chúa muốn cho gia đình mình. Hãy sẵn sàng để cho Thiên Chúa hướng dẫn và can thiệp vào cuộc sống của mình và hết lòng khiêm nhường thuận theo ý Chúa, Chúa sẽ làm cho mọi sự nên tốt đẹp. Dù lúc vui hoặc buồn, dù khi thành công hay thất bại, đau yếu hay mạnh khỏe, hãy noi gương Đức Maria thưa tiếng Xin Vâng trong mọi hoàn cảnh. Chắc chắn Chúa luôn muốn và làm điều tốt cho con người, cho dù Chúa không đáp ứng ngay ước mong của chúng ta để giải gỡ khó khăn, thì Chúa cũng ban sức mạnh để chúng ta có thể vượt qua các khó khăn trong cuộc sống và giúp ta lớn lên trong sự tín thác.
Thiên Chúa đã bước vào lịch sử và biến đổi thế giới, xin Chúa cũng bước vào cuộc đời ta mỗi ngày qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời Chúa và biến đổi ta mỗi ngày nên thánh thiện và tốt đẹp hơn. Amen.
.
Lm GB Nguyễn Minh Hùng
Duy nhất chỉ có Tin Mừng theo thánh Luca tường thuật câu chuyện Truyền tin cho Đức Mẹ. Với tường thuật duy nhất này của Kinh Thánh, Thiên Chúa chứng nhận Người tôn trọng con người, tôn trọng chính loài thụ tạo do tay Người dựng nên.
Cụ thể, sự tôn trọng mà Thiên Chúa thực hiện trong ngày truyền tin là sự tôn trọng đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho Đức Maria, khi thiên thần Gabriel thông báo: “Này đây bà sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao…”.
Để quyết định thời điểm cứu độ mà chính mình hoạch định, Thiên Chúa muốn Đức Mẹ tự nguyện “Xin Vâng”. Thiên Chúa làm được mọi sự, nhưng có một sự thật của ơn cứu độ mà Người không muốn áp đặt ý mình, một khi chưa dò hỏi ý kiến kẻ mà Người quyết định tuyển chọn để kẻ ấy trở thành “người trong cuộc” với mình.
I. Đức Mẹ XIN VÂNG THÁNH Ý.
Thật quý báu, Đức Maria đã thốt lên lời “Xin Vâng”. Trọn cả câu mà Đức Mẹ thưa với thiên thần là: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Đức Maria, Đấng mà cả một đời luôn thực thi thánh ý Chúa, luôn muốn làm đẹp lòng Chúa, luôn trung thành với lẽ sống đức tin của mình, thì nay đã thốt lên lời “Xin Vâng”. Xin Vâng trọn vẹn, Xin Vâng nhanh chóng, Xin Vâng không miễn cưỡng.
Đúng hơn, cả một đời, Đức Mẹ đã hiến mình cho Chúa, thì nay, trong lời thưa “Xin Vâng”, không chỉ thực sự hiến dâng mình như đã từng hiến dâng, mà còn cho thấy thói quen thực hành thánh ý Thiên Chúa là một thói quen thường xuyên, như đã trở thành nếp sống, nếp nghĩ, trở thành thức ăn dinh dưỡng qua từng phút giây của đời sống mà Đức Mẹ được Chúa ban.
Còn Thiên Chúa, Đấng thấu suốt sự ngoan ngùy của tớ nữ mà mình yêu quý, đã đón nhận lễ phẩm không chỉ là lời mà còn là ĐỜI xin vâng của Đức Mẹ cách nhanh chóng, không cần đợi chờ gì thêm, không cần bất cứ một trình tự nào nữa.
Trong khi Đức Mẹ, với hai tiếng “xin Vâng” chỉ thốt lên một lần trong ngày nhận lãnh lời truyền tin, đã thúc đẩy Đức Mẹ trọn một đời hướng về Chúa Giêsu, con của lòng mình, không hề ngơi nghỉ, không một chút ngại ngần.
Đức Mẹ hướng về Chúa từ khi Chúa còn là bào thai cho đến khi Chúa được sinh hạ trong hang đá Bêlem nghèo hèn.
Đức Mẹ hướng về Chúa qua tất cả những sự lạ thường từ lời chào dịu kỳ của chị Isave, cuộc viếng thăm của các mục đồng, các đạo sĩ, cũng như lời tung hô ca hát của các thiên thần trong đêm Chúa Giêsu giáng sinh.
Đức Mẹ hướng về Chúa để suy gẫm mầu nhiệm của Chúa, dẫu chưa thể hiểu gì trong đêm ôm con bôn ba ra hải ngoại chạy trốn dã tâm của con người…
Mặc dù chỉ dừng lại ở mầu nhiệm Giáng Sinh để nhìn ngắm Đức Mẹ trong tương quan với thánh ý Thiên Chúa, chắc chắn, mọi người đều tin rằng, không phải chỉ trong mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh, mà trong suốt hành trình dương thế của mình, Đức Mẹ luôn luôn đặt thánh ý Thiên Chúa làm trung tâm của mọi vấn đề, mọi ngỏ nghách, mọi hoàn cảnh, mọi tương quan sống…
Bởi đó, Đức Mẹ đã hiến dâng trọn đời để sống lời thưa “Xin Vâng”.
II. THÁNH Ý CHÚA VỚI ĐỜI NGƯỜI TÍN HỮU.
1. Gẫm suy lời Xin Vâng và chiêm ngắm đời Xin Vâng can trường của Đức Mẹ, với ý thức, tự do và trách nhiệm, mỗi chúng ta hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa đã không ngần ngại, nhưng luôn tin tưởng nơi con người. Qua Đức Mẹ, Thiên Chúa cho thấy, Người không chê chối con người, nhưng cần đến họ, Người cho họ hạnh phúc được làm thành phần của lịch sử cứu độ.
Biết mình được Thiên Chúa tin tưởng, chúng ta hãy phó mình cho Thiên Chúa, để Người tùy nghi sử dụng chúng ta. Như Đức Mẹ, chúng ta đáp lại bằng việc xin vâng mọi nơi, mọi lúc trong cuộc đời mình.
2. Đức Mẹ hạnh phúc để Chúa làm chủ và thực hiện thánh ý Người trên cuộc đời Đức Mẹ. Cũng vậy, ta hãy yên tâm sống trong sự quan phòng của Chúa. Hãy nương tựa vào tình yêu của Chúa, vì tình yêu ấy chưa từng để cho bất cứ ai phải trở thành kẻ ngoại cuộc.
Những khi gặp điều may đến với cá nhân, gia đình hay xã hội, như xác thân khỏe mạnh, công ăn việc làm ổn định, gia đình hạnh phúc, những ngày trôi qua bình an…, chúng ta biết trân quý ơn Chúa mà ra sức thực hành đời sống thánh đức, đáp lại ơn Chúa bằng nỗ lực phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em bằng mọi cách thức tốt lành mà tình yêu đòi hỏi.
Những khi phải đối mặt cùng gian nan thử thách, như lâm cảnh bị phản bội, tai nạn, bệnh tật…, là khi phải kiên vững để xin vâng thánh ý Chúa bằng niềm trông cậy, bằng sự tín thác và ngã vào vòng tay của Chúa sâu hơn, mạnh hơn bất cứ lúc nào qua lời cầu nguyện, qua việc dâng lên Chúa mọi đau khổ mà mình đang gặp phải.
Trong sự vâng phục thánh ý Chúa theo gương Đức Maria, chúng ta còn được ủi an vô cùng nhờ kết nối với Đức Mẹ, nhờ Đức Mẹ mà hiệp thông cùng đau khổ xưa của Chúa Giêsu. Chắc chắn, Đức Mẹ sẽ dẫn ta đến gặp Chúa Giêsu, để cùng với Chúa, chúng ta mạnh mẽ, kiên vững mà trải qua và vượt thắng mọi chiều kích của thập giá.
3. Sau cùng, chúng ta hãy cám ơn Đức Mẹ, Đấng đã biến đời mình thành bài học Xin Vâng cho chúng ta học đòi bắt chước. Xin Đức Mẹ cho ta được nối bước của Đức Mẹ mà tiến về cùng Chúa, càng lúc càng dứt khoát hơn, cậy trông hơn.
Trên đường trọn lành của ta có Đức Mẹ cùng đồng hành, đó là điều quý giá vô cùng. Hãy để Đức Mẹ hướng dẫn ta đi tìm và thực hành thánh ý Chúa. Đức Mẹ là sự khôn ngoan mà ta cần chọn lựa. Đức Mẹ là sự trợ thủ đắc lực, Đức Mẹ là sự tín nhiệm không suy giảm mà ta được Chúa thương ban.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời. Qua bao nhiêu thời tình Chúa chẳng vơi…” . Bước vào tuần cuối của mùa Vọng, Hội thánh dẫn đoàn tín hữu dần đến đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa, mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa, thì nay được biểu lộ (x.Rm 16,25-26): Ta sẽ yêu thương con người đến muôn đời và lòng thành tín của Ta được thiết lập trên cõi trời cao.
Sự thành tín là một đặc tính tất yếu của tình yêu đích thực: Trong bất cứ kiểu loại tình yêu nào dù là tình phu thê, tình mẫu tử, phụ tử, tình huynh đệ, tình quê hương, tình đồng chí, đồng bào…tất thảy đều đòi hỏi sự tín thành, thủy chung. Tình yêu có thể xuất hiện dưới nhiều sắc độ đậm nhạt khác nhau, nhưng không thể chấp nhận sự đứt gánh nửa chừng hoặc thay lòng đổi dạ kiểu đổi trắng thay đen.
Dòng lịch sử ơn cứu độ mạc khải cách rõ nét tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8). Dù cho con người có phản bội nhưng Thiên Chúa mãi luôn tín trung vì Người không thể chối chính Người (x.2Tm 2,12-13). Theo mạc khải thời Cựu Ước thì có khi, có thời, Thiên Chúa dìm ta xuống đáy vực sâu hoặc để ta long đong phận khổ, nhưng Người lại kéo ta lên, ủi an, vỗ về như mẹ hiền âu yếm con thơ. Sau khi sửa trị chúng ta vì tội lỗi chúng ta, Người lại bồi hồi thổn thức, và Người lại tỏ lòng xót thương (x.Gr 31,16-20). Nhưng đến thời Tân ước thì Chúa Kitô đã minh nhiên khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một…(x.Ga 3,16…).
Lời hứa ban ơn cứu độ từ khi tổ tiên loài người phản bội đã dần thành hiện thực theo dòng thời gian. Lịch sử ơn cứu độ đã khai mở và khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời Người đã hứa tự ngàn xưa là sai chính Con Một vào trần gian, thực thi công trình cứu độ. Hứa ban cho Đavít một triều đại vĩnh tồn thì Thiên Chúa đã giữ lời. Một chồi non từ nhà Đavít đã mọc lên và “Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 33).
Thiên Chúa không hề bỏ ta: một nền tảng căn bản của niềm cậy trông. Trong phận người, đặc biệt khi đã trưởng thành thì hầu như ai cũng đã từng trải qua ít nhiều thăng trầm của của cuộc sống. Có thể nói quãng thời gian an bình, hạnh phúc thật quá ngắn so với dòng đời gian truân, vất vả. Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hiện thực này: đời người mạnh giỏi lắm là bảy, tám mươi năm mà toàn là gian lao, khốn khổ (x.Tv 90,10). Sự gian truân, vất vả của cuộc đời chắc chắn có góp phần rèn luyện nhân cách con người, đồng thời giúp con người thăng tiến và đạt đến thành công. Tuy nhiên, nó cũng có thể làm cho nhiều người chán nản, buông xuôi. Nhiều sự ở đời này vẫn thường mang tính lưỡng diện.
Dưới nhãn quan đức tin, khi ta ở trong tình trạng khó khăn, thất bại, khi ta lâm vào những nghịch cảnh, nhất là khi ta ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi thì chước cám dỗ ngã lòng, thất vọng luôn có đó. “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại làm… Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? (Rm 7,19-24).
Thiên Chúa luôn tín trung với lời Người đã hứa. Người không bao giờ bỏ chúng ta. Có được xác tín này thì niềm cậy trông sẽ có đất đâm chồi nẩy lộc. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,5-6).
Không một ai là không có thể được cứu thoát: Với loài người thì rất nhiều trường hợp dường như là không thể, nhưng với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể (x.Lc 1,37 ; Mt 19,26). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi (x.1Tm 2,3-4 ). Dù chỉ một con đi thất lạc, Thiên Chúa cũng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc đàn . Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi phú ban Con Một, thì còn gì mà Người đã không làm cho chúng ta, cho từng người chúng ta?
Mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương nhưng không phải tất cả đều nhận được tình yêu của Người. Khi con người cố tình từ chối tình yêu của Thiên Chúa hoặc khi con người ngã lòng thất vọng, không còn tin vào tình yêu của Thiên Chúa thì Người đành chấp nhận chịu cảnh “bất lực”. Tình yêu giả thiết sự tự do đáp trả, cho dù là bé nhỏ hay chỉ là mặc nhiên. Nhà của Đavit, tức vương quyền của ông được Thiên Chúa hứa cho trường tồn là nhờ ông đã có tấm lòng muốn xây cho Thiên Chúa một “cái nhà”. Để thực thi công trình cứu độ cho loài người, Thiên Chúa cũng đã chờ đợi sự đáp trả của một cô thôn nữ làng quê Nagiarét. Chúa Kitô khi sinh thời đã khẳng định chân lý này: Mọi thứ tội đều có thể được tha, ngoại trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 13,32).
Xin trích ghi ca từ của một bản thánh ca được gợi hứng bởi tâm tình của thánh Tông đồ dân ngoại: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan, hững hờ. Vì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương. Một ngày nào mà ta chối Ngài, thì Ngài phải đành lòng chối ta. Cho dù ta bất tín, dù ta phản bội, thì Chúa vẫn cứ trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình”( x.2Tm 2,12-13). Tuy nhiên không phải vì ỉ lại vào lòng tín trung của Thiên Chúa mà chúng ta trì hoãn sự hoán cải. Tình Chúa thì muôn ngàn đời, nhưng cuộc đời chúng ta thì có hạn, nhất là chúng ta không biết cái hạn ấy kết thúc vào giờ nào, lúc nào. Đừng chần chờ, đừng lần lữa, hãy đáp trả tình Chúa yêu ngay hôm nay, lúc này!
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, chắc chắn rằng Đoan Lời Chúa hôm nay ( Lc 1, 26 -38) là một Đoạn Tin Mừng quá quen thuộc, nhưng là Đoạn Tin Mừng “vang vọng” nhất, bởi vì, dù là không phải Đoạn khởi đầu, nhưng, nếu thiếu đi Đoan Tin Mừng nầy, thì dường như thiếu đi” hương vị” chính của “ món ăn”. Tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, vì “điểm “ mấu chốt của “công cuộc “ Cứu Chuộc nằm ở đây, nằm chính nơi “vị trí” vô tiền khoáng hậu.
Ai đọc Đoạn ( Lc 1, 26 -38), đều biết rằng đây là Đoạn Tin Mừng “ Truyền Tin”, “Thiên Chúa sai sứ thần truyền tin cho Đức Bà Maria, và Đức Bà chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần.”
Vâng, không có Lời nào trong Thánh Kinh được luôn “ vang vọng” như Đoạn Tin Mừng hôm nay, nếu nói khác đi, Thánh Kinh là cuốn sách “ vang vọng” Lời của Thiên Chúa, thì Đoạn Tin Mừng hôm nay là Đoạn“ VANG VỌNG “ nhất. bởi vì, Có ba “lần “ vang vọng:
- Thứ nhất : Lời Truyền Tin của Thiên Sứ
- Thứ hai : Lời truyền tin của Thiên sứ cho Đức Maria biết người chị họ Isave đã mang thai trong tuổi cao niên.
- Thứ ba : Lời thưa “ xin vâng” của Đức Maria. Một lời “ vang vọng” của nhân loại.
Như vậy, khi nghe những Lời nầy, tâm trạng của người đón nhận như thế nào? Có phải chăng là “ vui mừng “ khôn xiết ? Bởi vì : “ Chúa đã làm cho tôi những điều cao cả, Danh Ngài thật chí thánh, chí tôn”. Vâng, Tâm tình của Đức Trinh Nữ Maria là như thế , bởi vì cùng lúc cả hai “Tin Vui” được Loan báo và Mẹ đã đón nhận, thì Lời ấy “vang vọng” như thế nào !
Vâng, Thiên Chúa đổ đầy hồng ân trên một người nữ tỳ hèn mọn, hồng ân ấy là hồng ân “ CỨU ĐỘ” , có nghĩa là hồng phúc cho cả vũ trụ nhân loại từ đời nầy qua đời khác. Có giá trị muôn nghìn lần “kho báu vật” trần thế. Bởi vì, từ đây “ƠN CỨU ĐỘ “ phát sinh và ban tràn ân phúc trên dương gian. Vâng, một ân phúc vô giá, một ân phúc mà từ Trời cao Thiên Chúa đã mở ra một “ LÒNG XÓT THƯƠNG “, một Lòng Xót Thương đích thực, đó là “ ƠN CỨU ĐỘ “.
Vâng, chúng ta biết được giá trị của Ơn Cứu Độ như thế nào , thì chúng ta mới biết được Lòng Xót Thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Bởi vì, Thiên Chúa không “ mắc nợ” ai cả, mà Thiên Chúa phải trao ban một “món quà” vô giá cho nhân loại , đó là : “ Con Một Tối Cao”, có nghĩa là Thiên Chúa “tự hạ” một Ngôi Vi Thiên Chúa, “ Từ trời xuống thế” là một mầu nhiệm cao cả không gì sánh bằng, mà chúng ta gọi là “khôn sánh”.
Vâng, Tin Tức Truyền Tin là một hồng ân Đức Tin và sự đáp trả của Đức Mẹ là sự thể hiện một “lòng tin “ tuyệt đối của thụ tạo đối với Đấng Toàn Năng. Từ đó, chúng ta thấy, không gì lớn hơn Thiên Chúa trao ban chính mình. Và , Lời Truyền Tin là Lời luôn “ vang vọng” xuyên suốt thời đại, không gian và vũ trụ con người. Lời mà, quỷ thần khiếp sợ, bởi vì, nhờ Lời nầy và tiếng thưa “ xin vâng” của Đức Maria mà “ƠN NHẬP THỂ” đã hình thành và trở nên Mầu Nhiệm Cứu Độ nhân thế.
Từ đó, chúng ta hiểu được mầu nhiệm “ Trọn Đời Đồng Trinh” nơi Đức Maria là như vậy. Bởi vì, những điều xảy ra với Mẹ là một Mầu Nhiệm. Rõ ràng , như Lời sứ thần nói : “ Không việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.
Việc “ Truyền Tin “ cho Đức Maria là Mầu Nhiệm Truyền Tin, mở đầu mầu nhiệm cứu độ, đồng thời, Mẹ cũng “đảm nhận” việc biết được tin bà chi họ mình, đang trong nỗi cô đơn, son sẻ, buồn tủi, nhưng , được Thiên Chúa xót thương ban cho một “ Niềm Vui” trong đại là được “ làm mẹ”, được sinh con , mà là người con “dọn đường” cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta sống được trong tâm trạng của thời Cựu Ứơc, chúng ta mới hiểu được “nỗi vui mừng” trên của “ sự kiện Truyền Tin”, một nỗi vui mừng khôn tả của hai người mẹ được “ kêu mời” cộng tác vào ƠN CỨU ĐỘ, mà ngôn sứ Isaia đã loan báo từ hơn hai ngàn năm trước cho dân tộc mình và cho nhân loại sau nầy.
Như vậy, “ Tiếng thưa Fiat” của Đức Maria, không chỉ là tiếng thưa bình thường, mà là một Lời thưa “ VANG VỌNG” đất trời, và muôn thế hệ, bởi vì, “ Từ đây đến muôn đời sẽ khen tôi là người diễm phúc”.
Theo đó, đêm Giáng Sinh cực thánh, là Đêm mà mọi tạo vật sững sờ, im lặng lắng nghe Lời sứ thần loan báo : “ VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN CÁC TẦNG TRỜI , BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO LOÀI NGƯỜI CHÚA THƯƠNG”.
Vâng, Lời vang vọng trên được liên kết, được bắt nguồn từ Lời Truyền Tin cho Đức Trinh Nữ Maria và Lời “đáp rả” hồng phúc của Mẹ vậy, là “Tiếng thưa xin vâng”.
Lạy Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Cha đã ưu ái ban cho nhân loại Ơn Cứu Độ, đến giờ đã định, Cha đã kêu mời một Trinh Nữ đón nhận “ Ơn Hồng Phúc “ trọng đại ấy, là làm Mẹ Đấng Cứu Thế,. Xin thương ban cho mọi loài thọ sinh biết đáp đền muôn một, hầu mở lòng đón nhận Hài Nhi Giêsu là món quà cao cả từ nơi Cha là Lòng Xót Thương và Ơn Cứu Độ./. Amen
.
Lm Vũđình Tường
Chiều theo í mình là điều dễ, ai cũng muốn sống và làm việc chiều theo í riêng mình. Chiều theo í người khác là chịu theo sự hướng dẫn của người khác để đi vào lãnh địa xa lạ, nơi đó khi nguy hiểm, rủi ro, bất trắc xảy đến, vượt quá tầm kiểm soát của ta. Thực tế trong cuộc sống dù chiều theo í ta hay í người khác đều có rủi ro, bất trắc và đều vượt quá tầm kiểm soát. Theo í riêng đôi khi ta có quyền quyết định tiến thêm hay rút lui vào lãnh địa an toàn. Thực ra không phải ai cũng đủ can đảm rút lui về lãnh địa an toàn, mà thường là cố gắng, vượt sức đến mức kiệt quệ cả tinh thần lẫn vật chất. Cứ xem gương những tay cờ bạc thì biết họ luôn thua trắng tay nhưng vẫn chưa chịu đầu hàng mà tìm cách gỡ gạc mặc dù gỡ gạc trong cầu may. Gỡ trong cầu may thì may ít, rủi nhiều.
Phụng vụ trong những ngày gần đây nhắc nhớ tới hai trường hợp xin vâng của hai mẹ con như một nhắc nhở cho chúng ta biết cuộc sống trần gian cần chọn lựa khôn ngoan, chọn sống theo í Chúa là lựa chọn khôn ngoan bởi khi gặp khó khăn có Chúa cùng đồng hành, ban ân sủng, sức mạnh giúp ta vượt qua khó khăn. Làm theo í riêng khi khó khăn không ai giúp đỡ, không nơi nương tựa.
Để sống theo í Chúa thì í cá nhân cần loại bỏ để cho í Chúa đuợc thể hiện trong cuộc sống và điều này có thể thực hiện được. Trường hợp thứ nhất là trường hợp Đức Trinh Nữ Maria đã từ bỏ í riêng để sống theo í Chúa khi thưa hai tiếng xin vâng Lk 1, 38 cùng sứ thần Chúa. Dù đã hỏi sứ thần nhưng bà vẫn không hiểu rõ những gì sẻ xảy đến trong đời. Trường hợp thứ hai là chính con bà là Đức Kitô suốt cuộc sống trần thế luôn tuyên bố là Ngài đến trần gian không phải để làm theo í riêng mà làm theo í của Chúa Cha, Đấng sai Ngài đến trần gian Jn 6,38. Dù thế trên thập giá Ngài đã lớn tiếng than: Lậy Cha, sao Cha bỏ con.Mt 27, 46
Câu ‘Lậy Cha, sao Cha bỏ Con’ không phải là Đức Kitô từ chối vâng phục Chúa Cha, hoặc chối bỏ Chúa Cha mà chính là xác tín có Thiên Chúa hằng sống. Vị đó là Cha của Ngài. Lậy Cha, sao Cha bỏ Con cho biết đau khổ phần xác đôi khi làm cho con người chỉ thấy đau khổ mà không thấy Thiên Chúa ở cùng. Thực ra Thiên Chúa luôn cùng đồng hành nhưng đau khổ đã làm cho tâm trí ta trở nên chú trọng nhiều đến đớn đau phần xác nhiều hơn là cảm nghiệm Thiên Chúa cùng đồng hành với ta trong an vui, cũng như trong đau khổ, phiền não.
Í Thiên Chúa được thể hiện rõ ràng qua con người và con người nhiều khi đối xử với nhau thiếu công bằng, thiếu thành thật và ngay cả ảnh huởng, lung lạc bởi phe nhóm vì thế có những quyết định vừa thiếu sáng suốt vừa chủ quan mang lại đau khổ, bất bình cho người thuộc quyền. Hành xử như thế là í tưởng làm theo í Chúa, thực hành í phe nhóm.
Sinh ra trong thế giới này là một đặc ân bởi thứ nhất đây là cơ hội cho chúng ta thực hiện í Chúa nơi trần gian và thứ đến là thưởng thức điều thiện hảo, tốt lành của vũ trụ do Chúa tạo dựng. Thực hiện í Chúa bằng cách sống công bằng, yêu thương, tha thứ và bác ái với tha nhân. Khi thực hành điều đó chắc chắn không phù hợp với í kiến cá nhân, phe nhóm chủ trương độc quyền lãnh đạo, lãnh đạo và mọi người phải phục tùng vì thế làm theo í Chúa luôngặp phải chống đối cách này, cách khác. Thực hiện í Chúa qua hành động bác ái, yêu thương, sống chung với đồng loại, khóc khi bạn gặp tang thương và nâng rượu mừng khi họ gặp may mắn.
Mùa Giáng Sinh, mùa Hồng Phúc, Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Chúc quí vị và gia đình mùa Giáng Sinh tràn đầy hồng ân và nhiều ơn lành trong năm mới.
.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 1,26-38.
(c 26) Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, (c 27) gặp một Trinh Nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít, Trinh Nữ ấy tên là Ma-ri-a. (c 28) Sứ thần vào nhà Trinh Nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. (c 29) Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. (c 30) Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. (c 31) Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su. (c 32) Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. (c 33) Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
(c 34) Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !” (c 35) Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà. Vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. (c 36) Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. (c 37) Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
(c 38) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
- Ý CHÍNH:
Câu chuyện truyền tin của sứ thần Ga-bri-el cho đức trinh nữ Ma-ri-a biểu lộ tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ loài người. Thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái độ mà các tín hữu cần có để chuẩn bị đón Chúa đến ban ơn cứu độ.
- CHÚ THÍCH:
– (c 26) + Gáp-ri-en: là một trong bảy Tổng Lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu Ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (Đn 8,16).
– (c 27) + Trinh nữ: Từ này không xác định về đức trinh khiết của Đức Ma-ri-a, vì trinh nữ đơn giản chỉ là một cô gái chưa lấy chồng. Sự thanh khiết của Đức Ma-ri-a được khẳng định qua lời thưa với sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Sở dĩ trinh nữ Ma-ri-a được chọn cho thấy lời tuyên sấm của I-sai-a về một trinh nữ thụ thai và sinh con trai là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đã được ứng nghiệm nơi Đức Ma-ri-a (x. Is 7,14 ; Mt 1,23). + Đã đính hôn: Từ khi đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này được kể là con chính thức của hai người. Tuy nhiên, theo phong tục trong xã hội Do Thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi họ đàng trai tổ chức lễ cưới đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18). + Thuộc nhà Đa-vít: Chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế vì theo sấm ngôn của I-sai-a thì Đấng Cứu Thế phát xuất từ gốc Giê-sê là cha của vua Đa-vít (x. Is 11,1) và nơi sinh của Người là Bê-lem, quê hương của Đa-vít (x. Mk 5,1). + Ma-ri-a: hay Mi-ry-am, là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Ma-ri-a Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su (x. Cv 1,14).
– (c 28) + “Mừng vui lên”: Đây không phải là cách chào giữa những người dân bình thường, nhưng là lời chào đặc biệt chỉ dành cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9). + “Đầy ân sủng”: Tước hiệu dành riêng cho Đức Ma-ri-a, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội và luôn có Chúa ở cùng.
– (c 29) + “Bà bối rối và tự hỏi”: Khác với thái độ “bối rối sợ hãi” của Da-ca-ri-a (x. Lc 1,12), ở đây Ma-ri-a chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩa của lời Chúa vừa mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
– (c 31) + Giê-su: nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11).
– (c 32) + Con Đấng Tối Cao: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các ông vua dòng tộc Đa-vít. Qua câu này, sứ thần ám chỉ Đức Giê-su là vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ cai trị Ít-ra-en, và triều đại của Người sẽ vững bền mãi mãi.
– (c 34) + “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không ‘biết’ đến người nam!”: “Biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Câu thắc mắc của Ma-ri-a không chứng minh việc Ma-ri-a đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh như có người lầm tưởng. Qua câu này, Ma-ri-a chỉ thắc mắc làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay lúc này được, khi mà Ma-ri-a mới chỉ thành hôn làm vợ ông Giu-se về mặt luật pháp, và chưa được Giu-se tổ chức lễ cưới để rước dâu về nhà.
– (c 35) + Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà…”: Sứ thần giải thích cho Ma-ri-a hiểu việc thụ thai của Ma-ri-a xảy ra do quyền năng Thánh Thần, để ứng nghiệm lời tuyên sấm của I-sai-a: Đấng Cứu Thế sẽ do một gái đồng trinh thụ thai và sinh ra (x. Is 7,14). + rợp bóng: hay tỏa bóng. Đây là Kiểu nói nhắc lại sự kiện đã từng xảy ra trong thời gian con cháu Gia-cóp vượt qua sa mạc để về miền Đất Hứa: Đức Chúa luôn hiện diện giữa dân Người bằng cách cho cột mây “rợp bóng” che phủ Nhà Tạm và Lều Hội Ngộ (x. Xh 40,34-38). Ngoài ra, “rợp bóng” cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa, giống như chim phượng hoàng sải cánh bao phủ và che chở Ít-ra-en là con dân của Người (x. Tv 17,8).
+ “Đấng Thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa, được hiến “thánh” dành riêng cho Thiên Chúa để thi hành sứ mạng cứu thế.
– (c 36) + Kìa bà Ê-li-sa-bét…: Sứ thần chứng minh quyền năng của Thiên Chúa qua việc bà chị họ Ê-li-sa-bét, tuy đã cao tuổi và bị hiếm hoi, nhưng đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân thụ thai con trai và tới nay đã được sáu tháng.
– (c 38) +“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: Khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Ma-ri-a biểu lộ đức khiêm nhường và lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa. + “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”: Ma-ri-a đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thực vậy, ngay sau lời thưa “Xin Vâng”, Thánh Thần đã tác động làm cho Ma-ri-a thụ thai, mà không cần tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy trở thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con”, “Ngôi Hai” hay “Ngôi Lời” của Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính: vừa có tính Thiên Chúa vừa có tính người phàm.
HỎI: Thắc mắc của Đức Ma-ri-a và của ông Da-ca-ri-a (x. Lc 1,18) có giống nhau hay không?:
ĐÁP: Cả hai cùng đưa ra thắc mắc, nhưng trong hai tâm trạng khác nhau: Thắc mắc của Da-ca-ri-a biểu lộ tâm trạng hoài nghi về quyền năng của Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt phải cấm khẩu không thể nói được. Sự cấm khẩu này là dấu chỉ bà Ê-li-sa-bét chắc chắn sẽ có thai khác thường (x. Lc 1,20). Còn lời thắc mắc của Đức Ma-ri-a biểu lộ tâm trạng tin tưởng: Ma-ri-a muốn tìm biết thánh ý Chúa để xin vâng. Do đó, Mẹ đã được sứ thần ca tụng là Đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và được bà Ê-li-sa-bét khen ngợi là “diễm phúc, vì đã tin lời Chúa phán sẽ được thực hiện” (x. Lc 1,45).
- CÂU HỎI: 1) Thánh Kinh cho biết có mấy Tổng lãnh thiên thần? Các Tổng lãnh thiên thần được nêu đích danh là những ai? Ý nghĩa của các tên gọi của các vị ấy là gì? 2) Tại sao Thiên Chúa lại chọn Ma-ri-a đang là một “Trinh nữ” làm mẹ Đấng Cứu Thế? 3) Lúc thưa “Xin vâng” để thụ thai Đấng Cứu Thế do quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã kết hôn với thánh Giu-se chưa? 4) Câu thắc mắc của Đức Ma-ri-a khác với thắc mắc của ông Gia-ca-ri-a ra sao? 5) Sứ thần muốn nói gì qua câu: ”Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên bà”?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
- LỜI CHÚA: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
- CÂU CHUYỆN:
1) ĐẾN VỚI CHÚA GIÊ-SU NHỜ MẸ MA-RI-A (AD JESUM PER MARIAM):
Vào một buổi chiều đông lạnh giá, PHUN-TƠN (FULTON OURSLER), một tín hữu bị mất đức tin đã bỏ nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp quá nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Khi đi ngang qua đại lộ Nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình nào đó cuốn hút ông đi vào nhà thờ và đẩy ông đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một lát im lặng, tự nhiên Phun-tơn đã thốt ra một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a, có thể chỉ một lát nữa thôi là con sẽ lại đổi ý để tiếp tục bài bác chế diễu các việc đạo đức con đang làm và quay trở lại con đường vô tín. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang gặp nhiều khó khăn nan giải. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giê-su ban thêm đức tin cho con”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều lạ lùng kỳ diệu xảy ra nơi bản thân, biến ông trở thành một con người mới: Ông đã có lại đức tin ! Từ đây, ông luôn sống kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng cho Chúa Giê-su bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái. Chính nhờ Mẹ mà ông đã đến được với Chúa Giê-su và tin vào Người.
2) THỰC HÀNH YÊU THƯƠNG CỤ THỂ ĐỂ TRỞ NÊN CON CÁI CỦA THIÊN CHÚA:
Vào một buổi tối mùa đông lạnh lẽo trước lễ Giáng Sinh, một bé trai khoảng sáu bảy tuổi đang đứng phía ngoài cửa sổ của một cửa hàng quần áo. Cậu bé không có giày nên phải mang đôi dép cùn, còn quần áo của cậu đã bị cũ rách.
Một phụ nữ trẻ đi ngang qua trông thấy cậu bé và đọc được nỗi khao khát trong đôi mắt xanh của cậu. Chị liền đến bên nắm lấy tay cậu bé dắt vào trong cửa hàng, bỏ tiền ra mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm rồi nói: “Bây giờ cháu có thể về nhà rồi và chúc cháu một lễ Giáng Sinh vui vẻ hạnh phúc”.
Cậu bé chăm chú nhìn người phụ nữ trẻ và hỏi: “Cô có phải là Chúa không?”.
Người phụ nữ nhìn cậu bé mỉm cười trả lời: “Không đâu cháu à. Cô chỉ là một trong số những đứa con của Chúa thôi”.
Quả thực, mỗi người chúng ta đều là con của Thiên Chúa, là môn đệ của Chúa Giê-su. Chúng ta phải làm gì để người đời nhận ra chúng ta là con Thiên Chúa, là môn đệ thực sự của Chúa Giê-su giống như người phụ nữ trẻ trong câu chuyện trên ?
3) KHIÊM NHƯỜNG PHỤC VỤ: ĐIỀU KIỆN ĐỂ THÀNH CÔNG TRONG MỌI VIỆC:
Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới đang nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông liền ra lệnh: « Này thằng bé kia, mau xuống nước nhặt chiếc dép lên cho ta ». Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép rồi kính cẩn trao lại cho cụ già. Cụ cầm lấy, không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi mà không được, rồi cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: « Thằng bé, xuống nước nhặt dép lên cho ta ». Trương Lương vẫn vui vẻ làm giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão tự nhủ: « Thằng bé này dạy được đây ». Thì ra ông lão là một vị cao nhân lỗi lạc đã nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương sau này trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi phần nhờ cơ may, nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường sẵn sàng phục vụ tha nhân của ông. Đức Ma-ri-a cũng nhờ đức khiêm nhường thể hiện qua lời thưa « Xin vâng » với sứ thần truyền tin, nên Ngài đã được phúc trở thành mẹ của Đấng Cứu Thế.
- THẢO LUẬN: 1) Noi gương Thánh Mẫu Ma-ri-a xưa, mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để luôn thưa “Xin Vâng” theo thánh ý Thiên Chúa, dù gặp phải nhiều tai nạn, rủi ro, thất bại hay những điều trái ý cực lòng? 2) Bạn nên làm gì để động viên người khác thưa xin vâng thánh ý Chúa khi gặp những điều rủi ro trái ý như: thi rớt đại học, có người thân mới qua đời, gặp tai nạn giao thông phải nằm điều trị trong bệnh viện, làm ăn thua lỗ thất bại…?
- SUY NIỆM: LẮNG NGHE LỜI CHÚA VÀ XIN VÂNG Ý CHÚA NOI GƯƠNG MẸ MA-RI-A:
Hôm nay là Chúa Nhật 4 Mùa Vọng, Hội Thánh chọn Tin Mừng Lu-ca (Lc 1,26-38) về việc sứ thần đến truyền tin cho Đức Ma-ri-a, qua đó trình bày cho chúng ta về tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người. Thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái độ mà các tín hữu chúng ta cần thực hiện để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giê-su đến ban ơn cứu độ cho chúng ta.
1) CẢM TẠ HỒNG ÂN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA:
– Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành dã thuật lại: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,34). Nhà Tạm là nơi dân Do-thái đặt Hòm Bia Giao Ước, trong hòm chứa hai phiến đá khắc ghi mười giới răn đã được Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en qua ông Mô-sê trên núi Xi-nai xưa. Hòm bia Giao Ước là hình ảnh của Đức Ma-ri-a của thời Tân Ước.
– Trong biến cố truyền tin, sứ thần Gáp-ri-en đã hiện đến chào kính Đức Ma-ri-a là đấng đầy ân sủng luôn được Thiên Chúa ở cùng. Rồi sứ thần báo tin vui Ma-ri-a đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Hài nhi Cứu thế Giê-su. Khi Ma-ri-a thắc mắc làm sao mình có thai được khi « không biết đến việc vợ chồng ». Bấy giờ sứ thần đã mặc khải cho Ma-ri-a về mầu nhiệm trinh thai: cô sẽ được thụ thai do quyền năng Thánh Thần, hầu ứng nghiệm sấm ngôn của I-sai-a: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7,14).
– Câu chuyện sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a cho thấy tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người. Trong những ngày này chúng ta hãy năng dâng những lời nguyện tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Đấng “Em-ma-nu-en” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23), để chúng ta có thể gặp gỡ, tâm sự và đón nhận được hồng ân cứu độ do Người đến ban cho chúng ta.
2) KHIÊM NHƯỜNG XIN VÂNG Ý CHÚA:
Điểm nổi bật của Mẹ Ma-ri-a mà Hội Thánh muốn các tín hữu suy niệm và học tập trong mùa Vọng này là thái độ khiêm nhường thể hiện qua sự phó thác và xin vâng thánh ý Thiên Chúa như sau :
– Khiêm nhường : Trái với thái độ kiêu ngạo không vâng lời của E-và kết hợp với A-đam xưa trong vườn địa đàng, Đức Ma-ri-a là E-và Mới thời Tân Ước đã cộng tác với A-đam Mới là Chúa Giê-su để lắng nghe Lời Chúa, khiêm tốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa và thưa “Xin Vâng”. Ngay sau lời thưa này, Chúa Thánh Thần đã tác động làm cho Ma-ri-a thụ thai, như lời kinh truyền tin: “Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng tôi”. Từ đây, Đức Ma-ri-a hằng ghi nhớ các biến cố xảy ra và “suy đi nghĩ lại trong lòng” (x. Lc 2,19). Mẹ đã cùng Thai Nhi đi thăm viếng gia đình Gia-ca-ri-a và làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ là bà Ê-li-sa-bét (Lc 1,41). Sau này Mẹ còn “xin vâng” khi đứng dưới chân thánh giá dâng Con yêu là Chúa Giê-su lên cho Chúa Cha để đền tội thay cho loài người chúng ta.
– Phó thác: Qua biến cố truyền tin, chúng ta cũng noi gương Mẹ để cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng. Ngày nay việc giúp những người không tin nhận biết tin thờ Thiên Chúa, chừa cải các thói hư nơi bản thân và góp phần xóa bỏ các tệ nạn xã hội như xì-ke ma-túy, cờ bạc đĩ điếm, lừa đảo cướp giật… không dễ thực hiện. Nhưng thực ra lại không khó chút nào trước Thiên Chúa, vì: “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt kết quả, chúng ta cần noi gương Mẹ Ma-ri-a năng thưa chuyện với Chúa Giê-su và thực hành lời Người dạy, như trong tiệc cưới Ca-na Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn: “Họ hết rượu rồi” và đã dạy các người giúp việc đám cưới phải vâng lời Chúa Giê-su: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,3-5).
– Tất cả đều là hồng ân: Khi gặp sự may lành, chúng ta dễ dàng cúi đầu cảm tạ hồng ân Chúa ban. Nhưng ngay cả những lúc gặp cơn gian nan thử thách, chúng ta cũng vẫn phải cảm tạ và thưa “Xin Vâng”, vì biết rằng: mọi sự Chúa để xảy ra đều hữu ích cho phần rỗi chúng ta. Vì Chúa có thể « rút từ sự dữ ra sự lành », Chúa không bao giờ triệt đường sống của chúng ta như có người đã nói: “Chúa đóng cửa chính, nhưng lại mở cửa sổ” và lời thánh Phao-lô: “Tất cả đều là hồng ân” (x. 1 Cr 15,10).
- LỜI CẦU:
– Lạy Chúa, chỉ còn ít ngày nữa là tới đại lễ Giáng Sinh. Chung quanh chúng con, người người đang tấp nập mua sắm và trang hoàng nhà cửa để chuẩn bị mừng ngày Đại lễ. Nhưng có lẽ điều Chúa muốn chúng con làm lúc này là chuẩn bị tâm hồn của chúng con, để chúng con trở thành một hang đá thanh sạch và đầy tràn ánh sáng của Chúa, xứng đáng đón rước Chúa đến thăm vào Đêm Giáng Sinh. Xin Chúa giúp chúng con thật lòng ăn năn sám hối tội lỗi, quyết tâm khiêm nhường phục vụ tha nhân.
– Nhất là cho chúng con biết chia sẻ tình thương cho những người nghèo khổ như: Các cụ già cô đơn không nơi nương tựa, các người khiếm thị và khuyết tật, các trẻ mồ côi lang thang đầu đường xó chợ để kiếm sống, và hết những bệnh nhân bị yếu đau liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị… Nhờ đó chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến ngự trong lòng chúng con trong lễ Giáng Sinh và ban hồng ân cứu độ cho chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Càng gần đến lễ Giáng Sinh, Giáo Hội càng muốn cho chúng ta thấy rõ hơn về tình yêu của Chúa, một tình yêu được biến thành hành động cụ thể là cho Ngôi Hai xuống thế làm người, ở giữa con người để cứu độ con người.
Phụng vụ Lời Chúa trong tuần lễ đặc biệt của mùa vọng sẽ lần lượt giới thiệu cho chúng ta những con người đã đáp trả lại tình yêu thương của Thiên Chúa để cộng tác vào công trình cứu độ của Ngài. Có thể kể đến đó chính là Gioan tẩy giả, tư tế Giacaria, bà Isave, thánh cả Giuse, đặc biệt nhất chính là gương mặt của Đức Maria. Phụng vụ lời Chúa hôm nay còn giới thiệu cho chúng ta một gương được coi là tổ phụ của Đấng Cứu Thế, vì nhờ ông mà Đức Giêsu còn được mang danh hiệu là “Con vua Đavit”, đó chính là vị vua đẹp lòng Chúa nhất, vua Đavit.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: 2Sm 7, 1-5.8b-12.14a.16
Sau khi đã đánh bại mọi quân thù và đã yên vị trong hoàng cung. Điều đầu tiên mà vua Đavit nghĩ tới đó là xây cho Chúa một ngôi nhà, vì từ trước đến giờ dân chúng chỉ đến với Chúa qua hòm bia giao ước được đặt trong một cái kiệu, dân đi đâu thì khiêng theo đến đấy. Nhưng Chúa nói: “Ngươi mà xây nhà cho Ta à!? Chính Ta mới là người xây cho ngươi một ngôi nhà vĩnh cửu, là cho dòng dõi ngươi xuất hiện một người kế vị với vương quyền vững bền mãi mãi”. Tương quan giữa Thiên Chúa và vua Đavit là một tương quan thắm thiết tình nghĩa cha con.
- Bài Đọc II: Rm 16, 25-27
Bài đọc 2 là những suy niệm của thánh Phaolô về mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, mầu nhiệm này được dấu kín từ thuở đời đời, nhưng nay được tỏ hiện nhờ lời các tiên tri loan báo. Như lời của thánh Phaolô nói: “mầu nhiệm này được tỏ hiện là để muôn dân tin và vâng phục Thiên Chúa”.
- Tin Mừng: Lc 1, 26-38
Bài Tin Mừng là trình thuật về biến cố thiên thần truyền tin cho Đức Maria. Biến cố này thể hiện tình yêu thương cao cả của Thiên Chúa dành cho con người, mà đại diện là Đức Maria. Thiên Chúa muốn Đức Maria cộng tác vào công trình cứu độ của Ngài qua việc cưu mang Đấng Cứu Thế. Ngược lại để có thể đón nhận biến cố này đòi hỏi con người cũng phải có một tình yêu thương để đáp trả lại, chứ không thể nào một tình yêu đơn phương có thể đơm hoa kết trái.
Phụng vụ lời Chúa muốn giới thiệu cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, cụ thể nơi vua Đavit và Mẹ Maria. Về phần mình, vua Đavit và Mẹ Maria đã đón nhận tình yêu đó và đáp trả bằng những cách thế khác nhau. Đavit như một đứa bé muốn đền đáp công ơn cha mẹ mình. Mẹ Maria như một tì nữ, phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa muốn làm gì thì làm.
II. ĐÁP TRẢ TÌNH YÊU
Bắt chước vua Đavit và Mẹ Maria, chúng ta cũng phải đáp trả lại tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng làm sao để chúng ta đáp trả lại tình yêu của Ngài?
- Vua Đavit và Mẹ Maria, tấm gương cầu nguyện
Không phải một sớm một chiều mà vua Đavit và Mẹ Maria cảm nhận được tình yêu của Chúa để đáp trả lại, mà đó là cả một đời sống gắn bó với Chúa, ý thức sự hiện diện của Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Vua Đavit từ khi còn là một đứa bé chăn chiên ngoài đồng, đến khi được Chúa chọn, rồi được đưa vào cung trở thành chiến binh của vua Saul, bạn thân của Gionathan, con trai nhà vua, rồi lên làm vua, lập được những chiến công hiển hách, kể cả những lúc tội lỗi vì giết vị tướng giỏi của mình để đoạt vợ của ông ta… Càng ngày, càng ngày ông càng tiến sâu vào tình yêu của Thiên Chúa vì ông tha thiết sống gắn bó với Thiên Chúa.
Mẹ Maria thì ngay từ nhỏ đã được dâng mình trong đền thờ để phục vụ Chúa. Rồi biến cố truyền tin xảy ra, Thiên Chúa muốn chọn Mẹ làm Mẹ Thiên Chúa. Chắc chắn Mẹ phải rất nhạy cảm với Thiên Chúa thì Mẹ mới có thể nhận ra tiếng Chúa trong biến cố này. Chúng ta tưởng tượng mình đang cầu nguyện, bỗng nhiên có một người lạ xuất hiện, nói là người của Thiên Chúa, kêu mình làm một chuyện động trời là đẻ mướn cho người ta, thì thử hỏi mình có chịu không? Chắc không chịu đâu! Qua đó chúng ta thấy được Mẹ Maria đã phải sống gắn bó, tha thiết với Chúa lắm mới có thể nghe được tiếng Chúa. Tất cả những cách sống đó, nói một cách ngắn gọn chính là thái độ cầu nguyện.
- Chúng ta cầu nguyện.
Có lần tôi thấy anh thanh niên mặc chiếc áo thun, có in 4 câu thơ: “Tôi ghét nhất thứ tình vội vã, mới gặp nhau mà đã gọi là yêu. Tình vội vã là thứ tình giả dối, là thứ tình chót lưỡi đầu môi”. Nếu đem áp dụng vào đời sống cầu nguyện của chúng ta thì quá hay! Không thể nào một sớm một chiều mà chúng ta nói là chúng ta yêu Chúa, mà đòi hỏi mình phải có một đời sống gắn bó, kết hiệp mật thiết với Chúa qua từng ngày giờ, năm tháng của cuộc đời mình. Muốn như vậy thì trước hết chúng ta phải tập bước vào đời sống cầu nguyện.
Mà cầu nguyện là gì? Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để gặp gỡ Chúa. Cầu nguyện không phải chỉ là những thời gian thinh lặng ở một nơi thanh vắng, dù điều đó rất cần thiết, nhưng cầu nguyện còn ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, miễn là chúng ta hướng về Chúa. Cầu nguyện không phải chỉ là suy niệm lời Chúa, dù điều đó là đúng đắn, nhưng cầu nguyện còn là nói với Chúa tất cả những tâm tư tình cảm, vui buồn của mình, cầu nguyện còn là biết thán phục trước những cảnh đẹp của thiên nhiên, một bông hoa chớm nở, một tiếng hót chim non… Lúc làm việc cũng cầu nguyện được, lúc đi đường cũng cầu nguyện được, lúc đi chơi cũng cầu nguyện được, lúc học hành cũng cầu nguyện được… Như vậy, không có lý do gì để chúng ta không thể cầu nguyện, ngoài chuyện lười biếng và không muốn sống gắn bó với Chúa.
Vì vậy, với phụng vụ lời Chúa hôm nay, tôi đề nghị tất cả chúng ta, nhất là các bạn trẻ hãy nhìn lại việc cầu nguyện của mình để chúng ta thực hiện hầu có thể bước vào con đường sống gắn bó với Chúa. Trước hết là việc đọc kinh hôm kinh mai. Có người nói buổi tối đi làm về mệt quá không còn giờ đọc kinh hôm, nhưng lúc đó đâu cần chúng ta đọc kinh dài dòng lê thê, ít ra là làm dấu thánh giá trước khi ngủ cũng được vậy. Kế đến là việc đọc kinh trước và sau các bữa ăn. Có người nói làm việc này mắc cỡ muốn chết. Tại sao lại mắc cỡ khi mình làm một việc tốt? Tại sao khi mình làm một chuyện xấu không biết mắc cỡ, mà đọc kinh trước và sau khi ăn cơm lại mắc cỡ? Thêm nữa, trong những ngày thường, nếu không bận công chuyện thì chúng ta tranh thủ thời gian đến nhà thờ để tham dự thánh lễ…
Tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy tình yêu thương của Chúa qua việc ban Con Một của Ngài cho nhân loại, đồng thời mời gọi chúng ta cũng hãy biết đáp trả lại tình yêu thương đó. Không phải một sớm một chiều mà chúng ta có thể đáp trả lại, nhưng đòi hỏi chúng ta phải biết sống gắn bó, kết hợp mật thiết với Chúa trước hết qua đời sống cầu nguyện. Ước mong rằng trong những ngày cuối cùng của mùa vọng năm nay, chúng ta biết nỗ lực nhiều hơn nữa để sống tha thiết gắn bó với Chúa, qua đó những người lương dân sẽ nhận biết chúng ta là con cái của Chúa. Lúc đó chúng ta đang trở thành ánh sao để đến với muôn dân.
.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, Mầu Nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, đêt họ tin mà vâng phục Thiên Chúa”(Rm 16,26).
Mầu nhiệm được thông báo đó là Mầu nhiệm gì ? Đó là mầu nhiệm TIN MỪNG. Theo thánh Phao-lô, “Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa, nhưng nay được biểu lộ”(x.Rm16,25). Nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Mầu nhiệm đó là mầu nhiệm “Thiên Chúa làm người”.
Khi A-đam và E-và phạm tội trái lệnh Chúa mà ăn trái cấm, Thiên Chúa đã hứa sẽ ban Đấng Cứu Độ khi nói: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà; giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy. Dòng giống đó sẽ đạp nát đầu mi và mi sẽ cắn vào gót nó”(x. St 3,15). Đó là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Kế hoạch này được giữ kín và được các Tổ Phụ âm thầm chờ đợi và các Ngôn Sứ loan báo cách bí nhiệm. Và đến thời Đức Ma-ri-a, kế hoạch đó đã bắt đầu được tỏ lộ, khi Sứ Thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Ma-ri-a : “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”(x.Lc 1,31-33). “Dòng giống” đó chính là Đức Giê-su và người “đàn bà” đó chính là Đức Ma-ri-a.
Thai Nhi Giê-su đó không do con người mà do Thánh Thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên Bà. Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”(x.Lc1,35). Con Người đó vừa là con người vừa là con Thiên Chúa. Là con người, vì được Đức Ma-ri-a cưu mang; là con Thiên Chúa, vì bởi Thánh Thần.
Thế nhưng việc đó có thể làm được chăng ? Chính Đức Ma-ri-a đã nói: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng”(x.Lc1,34). Quả thực, đối với con người thì không thể được. Trên đời này, có ai một mình mà sinh được con bao giờ. Một mình người nữ, một mình người nam hay cặp đồng tính nam hoặc nữ đều không thể sinh con được. Phải có người nam kết hợp với người nữ mới có thể sinh con được. Dù có thụ tinh nhận tạo đi nữa thì cũng phải có tinh trùng của người nam kết hợp với trứng của người nữ.
Dù vậy, điều đó không thể không đối với Thiên Chúa, vì “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”(x.Lc1,37). Một ví dụ cụ thể nơi bà Ê-li-sa-bét, một người mang tiếng là son sẻ và hơn nữa đã cao niên, việc mang thai là không thể. Thế nhưng, bà cũng đã mang thai được sáu tháng rồi đó. Điều đó rành rành không thể chối cãi.
Thế đấy, cứ cho là điều ngoại lệ đi. Mà điều ngoại lệ này chỉ có Thiên Chúa làm được mà thôi. Nói cách khác, phải có bàn tay của Thiên Chúa, mới có những điều kỳ diệu xảy ra. Thế thì, một người Trinh Nữ thụ thai, chẳng có gì là khó đối với Thiên Chúa. Con người còn làm thụ tinh nhân tạo được, thì tại sao Thiên Chúa lại không thể thụ tinh Thiên Tạo được?
Việc thụ tinh nhân tạo là do con người. Con người lấy tinh trùng của người nam, cho kết hợp với trứng noãn của người nữ, tạo thành một mấm sống, một con người ngay từ lúc thụ thai. Điều đó đã là một sự kỳ diệu mà con người không thể hiểu được. Tại sao một cái trứng và một con tinh trùng kết hợp với nhau, lại tạo ra một mầm sống, để rồi phát triển thành một con người.
Việc thụ tinh nhân tạo thành công, có nghĩa là con người làm được việc đó và người ta cảm thấy con người sao giỏi quá, khoa học kỹ thuật phát triển cao quá, thật là khâm phục sự khôn ngoan và thông minh của con người. Thế nhưng đó chỉ là một việc rất ư là bình thường đối với Thiên Chúa. Việc sinh sản của động vật và thực vật tràn ngập khắp mặt đất. Loài nào theo giống đó, cứ đến ngày, đến tháng là sinh sôi nảy nở.
Nói riêng việc thụ tinh nhân tạo của con người, thì người ta cũng phải canh tới canh lui, làm bao nhiêu lần mới được. Rồi đâu phải làm được mà thành công 100% ngay đâu. Có ca làm mãi cũng đâu có thành công. Nói tóm là con người làm được việc thụ tinh nhân tạo nhưng không làm được nhiều, vì khá tốn kém; không thành công lắm, vì quá khó khăn. Còn trong tự nhiên việc thụ thai thì quá đơn giản và quá dễ dàng.
Có thể nói việc thụ thai của Đức Ma-ri-a là việc Thụ Thai Thiên Tạo, nghĩa là việc thụ thai đó do Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa thì chẳng có khó khăn gì, cũng đơn giản và dễ dàng như trong tự nhiên vậy. Một lời Chúa phán : “Này bà sẽ thụ thại” và một lời xin vâng của Đức Ma-ri-a: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như Lời Sứ Thần truyền”, thì Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng của Đức Ma-ri-a và đã làm người.
Việc Truyền Tin đó khởi đầu cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Đó không phải là chuyện cổ tích, cũng không là câu chuyện hoang đường nào đó, khi người đàn bà dẫm chân lên một dấu chân lạ hay ăn thứ lá nào đó để rồi bà có thai. Có thể nói Đức Ma-ri-a là người đầu tiên nhận lãnh ơn cứu độ của Thiên Chúa qua việc chấp nhận và cưu mang Ngôi Lời của Thiên Chúa. Việc chấp nhận này không dễ, đầy thử thách và cam go.
Việc Đức Ma-ri-a mang thai trước khi về chung sống với Giu-se là một thử thách. Có thể Ma-ri-a sẽ bị Giu-se lìa bỏ cách kín đáo. Hoặc có thể bị ném đá theo luật Mô-sê. Thế nhưng một lần nữa Thiên Chúa lại can thiệp và Giu-se đã đón Ma-ri-a về nhà mình. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Ma-ri-a khỏi bị ném đá.
Ai muốn được cứu độ thì cũng phải noi gương Đức Ma-ri-a mà vâng phục Thiên Chúa, nghe Lời Thiên Chúa và chấp nhận kế hoạch cứu độ của Ngài. Việc nghe và thực hành Lời Chúa cũng không dễ dàng chút nào, cũng khó khăn và cam go lắm. Thế nhưng Lời Chúa sẽ giải thoát chúng ta. Nhờ Lời Chúa mà ta có bình an giữa bao những sóng gió và khó khăn của cuộc đời. Dù ta nghèo hay bệnh tật, ta vẫn có sự bình an của Chúa. Không chỉ có thế mà theo lời Chúa hứa, Chúa còn xây cho ta một ngôi nhà ở trên thiên quốc nữa cơ.
Mỗi khi ta sống Lời Chúa là mỗi lần Thiên Chúa ra tay can thiệp trong cuộc sống của ta. Chúa sẽ cứu độ chúng ta không phải là cất hết mọi khó khăn, chữa lành hết các bệnh tật mà là ta có được sự bình an trong những hoàn cảnh đó, để rồi ta vượt qua tất cả. Đó mới là việt kỳ diệu chứ. Sống mà chẳng có khó khăn, chẳng có bệnh tật gì thì cũng bình thường thôi, đâu có ai nói tới. Gia đình giàu có cho con ăn học và đỗ đạt, chuyện đó quá ư bình thường. Còn gia đình nghèo mà lo được cho con cái ăn học và thành tài mới đáng ca ngợi.
Lại nữa, “nghèo mà hiếu học” mới được người ta thương và giúp đỡ, chứ đã nghèo mà lại lười thì đâu có ai thương đâu có ai giúp cho đâu. Cũng vậy, “nghèo mà sống Lời Chúa”, bệnh tật mà tin tưởng vào Chúa mới được Chúa thương và cứu độ. Nghèo mà nên thiện, bệnh tật mà nên thánh mới đáng được ca ngợi và phong thánh chứ.
Vậy ta hãy noi gương Đức Ma-ri-a mà tin tưởng và vâng phục Thiên Chúa qua việc đón nhận và thực hành Lời Chúa. Ta sẽ được cứu độ, được bình an vui sống ở đời này và ngày sau được vào NHÀ CHA trên trời. Đó gọi là việc Thụ Tinh Thiên Tạo, tức là việc Chúa làm và việc ta chấp nhận.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa nhật thứ tư mùa Vọng, Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm vai trò quan trọng của Đức Maria trong lịch sử ơn cứu độ, đặc biệt trong mầu nhiệm Giáng sinh, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Câu chuyện được thánh Luca kể trong bài Tin Mừng hôm nay có phần giống như chuyện cổ tích về Cô Bé Lọ Lem. Cô Bé Lọ Lem Cinderella nghèo nàn xấu xí bỗng dưng trở thành nàng công chúa cực kỳ xinh đẹp chỉ bằng một cái phất nhẹ chiếc đũa thần của một Bà tiên. Chúng ta biết Maria là một thôn nữ rất đơn sơ, và nghèo khó, nhưng hiền lành và đạo đức, sinh sống ở làng Nadarét vô danh rất ít người biết đến. Lý lịch của Maria đơn giản chỉ có thế, không như Giuse dù sao cũng còn được ghi kèm là “thuộc dòng dõi Đavít.” Nhưng sau khi được báo tin và qua hai tiếng “Xin Vâng” cuộc đời của Maria thay đổi hẳn. Maria “sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.” Thật vậy, cô thôn nữ đơn sơ, nghèo nàn Maria sẽ trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ Thiên Chúa. Bởi vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được.
Có một câu chuyện dụ ngôn được kể như sau. Một nông dân trồng một bụi tre nơi góc vườn. Ông chịu khó chăm sóc vì vậy thân tre mỗi ngày mỗi cao lớn và thẳng tắp. Ngày kia, người nông dân đến nói với cây tre cao nhất: “Này bạn, ta cần bạn.” Cây tre nói: “Thưa ông, tôi sẵn sàng, ông cứ sử dụng tôi theo ý ông.” – Được, ta sẽ cắt và xẻ anh ra làm đôi. Nghe thế, cây tre phản đối: – Xẻ tôi? Tại Sao vậy? Trong vườn có cây nào thẳng, đẹp hơn tôi đâu? Xin ông đừng.. Ông dùng tôi thế nào cũng được, nhưng xin đừng xẻ tôi ra.” – Nếu không xẻ anh ra thì anh vô dụng, không được việc gì.” Một làn gió nhẹ thổi qua, cây tre cúi đầu thở dài: “Thưa ông, nếu chỉ còn cách đó, thì xin ông cứ làm theo ý ông.” Người nông dân nói tiếp: “Sau đó Ta sẽ tước bỏ hết các cành của ngươi.” – Ông tước cành tôi? Như vậy còn gì là vẻ đẹp của tôi? Lạy Chúa, xin ông thương đừng làm thế!” – Nếu không tước cành, anh chả được việc gì.” Gió thổi mạnh hơn. Cây tre quằn quại trong gió và nắng. Rồi nó mạnh dạn thưa: “Thưa ông, xin ông chặt tôi đi.” Ông chủ nói: “Bạn thân mến, thực ra thì ta buộc lòng phải làm bạn đau, phải tước cành, khoét đốt bạn, nếu không, ta không thể dùng bạn.” Cây tre cúi rạp xuống đất nói: “Thưa ông, xin ông cứ việc chặt và xử dụng tôi theo ý ông.” Người nông dân chặt tre, tước cành, xẻ đôi và làm thành cái máng chuyển nước từ dòng suối vào cánh đồng. Và sau đó, người nông dân có một vụ mùa bội thu.
Chúng ta thấy Đức Maria cũng đã trở thành cái máng chuyển tình yêu và ơn cứu độ cho nhân loại. Mẹ đã xác tín và phó thác cuộc sống vào tình yêu và Lời Chúa, vì vậy Đức Maria đã dám từ bỏ ý riêng mình, vui mừng xin vâng theo thánh ý Chúa, để Ngôi Hai Thiên Chúa được nhập thể, hiện diện và cứu độ nhân loại. Nếu mỗi người chúng ta cũng biết noi gương Mẹ xác tín vào Lời Chúa, từ bỏ ý riêng mình, để Chúa chặt đi những thói hư tật xấu, và sử dụng, thì Chúa sẽ hiện diện và, qua chúng ta, ơn Chúa sẽ được chuyển đến những người sống chung quanh chúng ta.
Chúng ta thấy khi Đức Maria thưa với sứ thần Chúa hai tiếng “Xin Vâng” Mẹ cũng chưa hiểu rõ con đường Chúa muốn, nhưng Mẹ đã đặt trọn niềm tin, để Chúa làm chủ và sử dụng cuộc đời Mẹ đem tình yêu, bình và ơn cứu độ đến cho nhân loại. Mẹ không buồn rầu, sầu khổ hay hối tiếc, nhưng vui mừng sống thánh ý Chúa suốt cuộc đời.
Nhìn vào gương Mẹ Maria, chúng ta có dám thưa hai tiếng xin vâng với Chúa ngay trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời không? Chúng ta hãy tự hỏi chúng ta có xác tín vào Lời Chúa sống bác ái, quảng đại và vui mừng để Chúa sử dụng những ơn lành Chúa ban cho chúng ta không? Chúng ta có khiêm nhường từ bỏ ý riêng và can đảm sống thánh ý Chúa để người khác nhận có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống chúng ta không?
Có câu chuyện về một nữ sinh viên mới ra trường đại học và tình nguyện giúp cho một trung tâm xã hội tại thành phố New York. Mục đích của trung tâm là cung cấp chỗ ở tạm thời cho những thanh thiếu niên nam nữ trốn gia đình làm nghề mãi dâm. Mỗi đêm vào lúc 10 giờ, cô sinh viên và một số người tình nguyện, lái chiếc xe van chở bánh mì và nước chốc-cô-lết nóng đến những con đường có những thanh thiếu niên đứng đón khách. Cô chỉ làm một công việc đơn giản này mà thôi. Nhưng qua công việc khiêm nhường này, cô hy vọng những thanh thiếu niên biết còn có những người lo lắng và cảm thông hoàn cảnh của họ. Sau một năm trong công việc tình nguyện, cô đã tâm sự rằng lúc đầu cô không hiểu lý do tại sao Thiên Chúa lại để cho những thanh thiếu niên nam nữ phải sa vào tình trạng đau khổ này. Thế nhưng sau đó, cô đã hiểu rõ ra được ý nghĩa vai trò của Đức Maria trong mầu nhiệm Giáng sinh mà chúng ta sắp cử hành. Đó là Thiên Chúa sẽ không xuống trần gian nữa để bày tỏ cho chúng ta biết tình yêu thương bao la và sự quan tâm đặc biệt của Ngài. Thiên Chúa làm việc qua chúng ta như Người đã sử dụng Đức Maria để đem Ngôi Hai Thiên Chúa đến trần gian. Vì vậy, chúng ta phải noi gương Đức Maria, trở thành khí cụ để cho Chúa xử dụng, trở thành cái máng để Chúa mang tình yêu và hy vọng đến cho người khác. Thiên Chúa đã xuống trần và làm công việc này hơn 2 ngàn 17 năm trước đây qua hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Maria. Ngày nay, chúng ta cũng phải “Xin Vâng” để Thiên Chúa tác động và hiện diện trong thế giới, xã hội, trong cộng đoàn và trong gia đình chúng ta.
Mục đích và sứ vụ của người Kitô hữu chúng ta là, qua ơn Chúa, trở thành cái máng, cái cầu hay con đường chuyển vận ơn sủng tình yêu, bình an, tha thứ và hạnh phúc của Thiên Chúa đến cho người khác như Đức Maria đã làm. Và đây chính là công việc của cây tre, của cô sinh viên đã thực hiện. Cô là một con sông chuyển đưa hy vọng, tình yêu của Thiên Chúa đến những thanh thiếu niên nam nữ đang cần đến tình yêu, lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Cô đang làm công việc mà chính Đức Maria đã làm trong mầu nhiệm Truyền Tin mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay.
Xin Chúa biến đổi tâm hồn và cuộc đời chúng ta, biết noi gương Đức Maria thưa với Chúa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền.”
.