Các Bài suy niệm Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm A

1057

CHÚA CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG_A

Lời Chúa: Is 7, 10-14; Rm 1,1-7; Mt 1,18-24

———

Mục lục

1. Đừng sợ  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Giấc mơ đẹp  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Emanuel  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Hãy biến ước mơ thành hiện thực (Lm. Tạ Duy Tuyền)

5. Tin Mừng của Thiên Chúa (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

6. Người gọi tôi  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

7. Gốc tích Chúa Giê-su (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

8. Đừng sợ. (Lm. Jos. Hoàng Mạnh Hùng)

9. Suy niệm Chúa Nhật IV MV_A (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Giấc mơ Thánh Giuse (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

11. Hãy để Chúa đến và hiện diện trong cuộc đời (Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

12. Thiên Chúa báo tin cho Giuse  (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

13. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 4 MV_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

14. Điều lạ  (Trầm Thiên Thu)

15. Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

16. Thiên định  (Lm. Vũ Đình Tường)

 

 

 

Mục lục

1. Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Gm. Giusse Vũ Văn Thiên)

2. Điều kiện để đón tiếp Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Mộng báo cho thánh Giuse (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Giấc mộng của người công chính  (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)

5. Ôi thật diễm phúc vì có Thiên Chúa ở cùng (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Truyền tin cho Giuse (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Khổ tâm công chính (Trầm Thiên Thu)

8. Tin mừng vượt trội hơn cả công chính trần gian (Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

9. Chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

10. Truyền tin cho ông Giuse (Lm. Giuse Dương Hữu Tình)

11. Emmanuen: Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Fx. Đỗ Công Minh)

12. Emmanuen, Thiên Chúa ở cùng chúng ta  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

13. Suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Vọng_A  (Lm. Anthony Trung Thành)

14. Phúc thay Chúa ở cùng (AM. Trần Bình An)

15. Gốc tích Đức Giê-su (JM. Lam Thy, ĐVD)

16. Nhận ra ý Chúa (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

17. Ơn Cứu Độ (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

18. Do quyền năng Chúa Thánh Thần  (P. Trần Đình Phan Tiến)

19. Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

20. Đừng ngại … thực thi ý Chúa (Dã Quỳ)

21. Sống công chính đón mừng Đấng Emmanuen  (Lm Đan Vinh)

22. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng_A  (Lm. Antôn)

.

.

ĐỪNG SỢ

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Lễ Giáng Sinh đã đến gần, Phụng vụ mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn, để khi chiêm ngưỡng hang đá máng cỏ, chúng ta nhận ra những nhân vật hiện diện: Đức Trinh nữ Maria, Thánh Giuse và nhất là Chúa Hài Đồng. Sự kiện Sứ thần truyền tin cho Đức Maria trong Tin Mừng Thánh Luca được chú ý nhiều hơn là cuộc truyền tin cho Thánh Giuse, được Thánh Matthêu ghi lại. Trong cuộc truyền tin này, tuy ngắn gọn, tác giả Matthêu cũng giới thiệu về tình trạng của thôn nữ Maria: “trước khi hai ông bà chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”. Tình trạng này cũng được chính Sứ thần giải thích với Giuse, với lời khuyên hãy đón nhận người bạn đời. Sứ thần cũng hướng dẫn việc đặt tên cho Con Trẻ sắp sinh và nói về sứ mạng tương lai của Con Trẻ, là Đấng Cứu độ.

Giữa bối cảnh đầy lo âu và bất an bất ổn của cuộc sống hôm nay, Lời Chúa nói với chúng ta như đã nói với Thánh Giuse: Đừng sợ!

Đừng sợ đón nhận Chúa đến trong cuộc đời!  Biết bao người khước từ Chúa Giêsu, vì họ coi Người chỉ là một vĩ nhân trong lịch sử, hoặc chỉ là một mẫu gương về luân lý đã vang bóng một thời và nay đã lùi vào dĩ vãng. Giữa bao âm thanh hỗn tạp ồn ào của cuộc sống, lời dạy của Chúa dường như ít được đón nhận, vì con người thời nay không đủ can đảm để chấp nhận thập giá. Hãy mở rộng tấm lòng đón Chúa. Đừng nghi ngờ, vì Người là Đấng trung thành. Ai đón nhận Người, sẽ được hạnh phúc và cuộc đời của họ sẽ bớt cô đơn đau khổ.

Đừng sợ khi cất bước theo Chúa. Dù trong cuộc sống xung quanh chúng ta, số đông dân chúng dửng dưng với Người. Thời nào cũng vậy, người ta có khuynh hướng chạy theo đám đông và ưa thích những gì được nhiều người ủng hộ, kể cả những điều không phù hợp với luật Chúa và lương tâm con người, ví dụ như ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính. Trước những trào lưu này, người tin Chúa dường như bị thiệt thòi và trở nên “ngược đời”. Vua A-khát (Bài đọc I) là một người cứng lòng và phạm nhiều tội ác. Ngôn sứ Isaia đã khuyên ông: Nếu vua không tin Chúa thì hãy xin Ngài làm dấu lạ đi. A-khát viện cớ “không dám thử Chúa” để né tránh đối diện với Ngài. Không dừng lại ở đó, ngôn sứ Isaia đã tuyên bố: việc vua thử thách Chúa là vô lễ. Nếu vua không xin, thì Chúa vẫn cho một dấu lạ, đó là người trinh nữ sẽ sinh con và đặt tên là Emmanuel.

Đừng sợ khi phải tuyên xưng đức tin vào Chúa. Ngày nay, vì lợi lộc vật chất hay vì mặc cảm tự ti, nhiều người không dám nhận mình là người tín hữu. Tại một số lãnh vực trong xã hội Việt Nam chúng ta hôm nay, hai chữ “Công giáo” có thể gây nên những hệ lụy và thiệt thòi cho người Kitô hữu. Tuy vậy, thực tế cho thấy, nếu một người chối bỏ danh nghĩa Công giáo vì chức vụ hay lợi lộc trần gian, thì chức vụ hay lợi lộc ấy sẽ không bền và cũng chẳng đem lại cho họ hạnh phúc đích thực.

Đừng sợ khi phải loan báo Tin Mừng cho người khác, mặc dù hoàn cảnh không mấy thuận lợi và mặc dù lời loan báo không được đón nhận. Thánh Phaolô quả quyết rằng, nhờ ơn gọi Kitô hữu, mỗi người đã nhận được đặc ân và chức vụ tông đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu cho danh Chúa được rạng rỡ (Bài đọc II).

Đừng sợ khi phải đón nhận anh chị em và chia sẻ cho họ tinh thần cũng như vật chất, vì Chúa ban cho chúng ta gấp nhiều lần so với điều chúng ta trao tặng rộng rãi và vui lòng cho anh chị em mình. Mỗi khi đón nhận anh chị em là chúng ta đón nhận chính Chúa, Đấng đang hiện diện trong cuộc đời và đồng hóa với những người bé mọn, cô thế cô thân và không nơi nương tựa. Đối với Thánh Giuse, đón nhận người bạn đời mới đính hôn mà đã mang thai tức là chấp nhận biết bao điều đàm tiếu của người đời. Hơn ai hết, ông là người biết rõ thai nhi trong lòng Maria không phải là sản phẩm của mình. Sau cuộc gặp gỡ với Sứ thần, ông đã đón trinh nữ Maria về nhà mình. Ông tin vào lời Chúa và ông tin vào phẩm hạnh của người bạn đời. Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng ngày 16-12-2019 tại nhà nguyện Thánh Matta đã nói: “Hiện nay tồn tại hai thái độ sống của người Kitô hữu “nửa vời”: một là dồn Thiên Chúa vào chân tường khi nói với Ngài: hoặc là Ngài làm điều này cho con, hoặc là con sẽ bỏ nhà thờ. Thái độ thứ hai là phủi tay trước những người anh chị em đang cơ nhỡ bần hàn. Chúng ta hãy xóa bỏ hai thái độ này và dọn chỗ cho Chúa đến”.

Thiên Chúa là Đấng cao cả đã đến trần gian để ở cùng con người! Điều này gây ngỡ ngàng đối với khá nhiều người. Đây không phải là một huyền thoại, nhưng là một sự thật có tính lịch sử. Thiên Chúa, Đấng vô thủy vô chung, đã làm người và ở giữa chúng ta. Nếu ngôn sứ Isaia loan báo Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, thì sau này, chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu tuyên bố trước khi về trời: Thày sẽ ở cùng anh em cho đến tận thế. Lời tuyên bố này như một xác quyết long trọng lời hứa từ ngàn xưa. Sự trường tồn của Giáo Hội chính là bằng chứng cho sự hiện diện đầy quyền năng đó.

Giữa bao nhiêu những bộn bề lo lắng của cuộc sống trần gian, nhiều khi chúng ta quên mất sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Chính vì thế mà chúng ta còn nhìn đời với quan niệm bi quan và còn cố chấp trước những lầm lỗi của người khác. Đức Giêsu đang ở đây giữa chúng ta, không phải chỉ trong Mùa Vọng hay mùa Giáng Sinh mà trong suốt cuộc đời. Ngài hiện diện để lắng nghe ta tâm sự. Người gánh trên đôi vai mình những lo lắng phiền muộn của kiếp sống con người và đặt trên vai họ ách của niềm vui và hy vọng. Người làm như thế bởi Người là Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Về mục lục

.

GIẤC MƠ ĐẸP

Lm. Jos. DĐH.

Đố ai nằm ngủ không mơ, ru con không hát, đò đưa không chèo. (ca dao). Là người trưởng thành có mơ ước đẹp, nuôi dạy con có kết hợp phương pháp truyền thống với khoa học hiện đại, sống và làm việc có chừng mực, kỷ luật, xác xuất thành công nhất định sẽ cao hơn. Đâu là giấc mơ hạnh phúc, bài hát ru nào hiệu quả, con thuyền nào sẽ cập bến an toàn, hẳn nhiều người vẫn tìm kiếm, hoặc bằng kinh nghiệm riêng tư sẽ trả lời cho sự chọn lựa của mình. Trong khi các bậc sinh thành thật lòng chia sẻ: càng học càng phát hiện ra “cái biết” của mình quá mong manh nhỏ bé ; người trẻ lại cho rằng: biết nhiều khổ nhiều.

Nếu hỏi thế nào là giấc mơ đẹp, nhiều người sẽ nói đó là giấc mơ có chức quyền, giầu sang phú quý, gia đình bình an, con cháu vui khoẻ, người người biết thương yêu nhau. Trong kitô giáo, đại đa số chúng ta tin rằng: giấc mơ đẹp chính là giấc mơ gặp Chúa, có Chúa nơi tâm hồn, có Chúa trong cung cách ứng xử của mình. Trình thuật Tin-mừng hôm nay phát đi một thông điệp đẹp và thật kỳ diệu: “này Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn, vì người con bà cưu mang là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần”. Một tin nhắn ý nghĩa là tin nhắn có nội dung đẹp, chất lượng ; một thông điệp hay, là thông điệp được sáng rõ về tính chất sự việc, chất chứa đầy bí mật vượt khỏi tầm mức hiểu biết của con người. Thánh ý Chúa thật cao cả, những chỉ dẫn, những định hướng, vừa sáng vừa tối, Giuse phải quyết định, vì đó là giấc mơ !

Rất nhiều người trong chúng ta vẫn nghe thiên hạ nói: giấc mơ dù đẹp và thật đến đâu cũng chỉ là sự thật trong giấc mơ, ông Giuse đã chứng minh nét đẹp của giấc mơ, đã cho thấy tính nhạy bén về việc ngài gặp Chúa và sống thánh ý Chúa, rất tự do: mến Chúa yêu người. Giuse được biết đến là người công chính, khôn ngoan, và tính mực thước của người thợ mộc, hậu thế còn phải thán phục, bởi chính nhờ lời cầu nguyện thâm sâu mà Giuse hiểu thánh ý Chúa muốn ông làm gì, dù là giấc mơ. “Maria sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân của Người khỏi tội lỗi của họ”. Giấc mơ đẹp, giấc mơ hạnh phúc, hệ tại việc chúng ta hiểu biết và sống niềm tin nơi Chúa cách trọn vẹn thế nào ?

Giấc mơ cuộc đời mỗi người mỗi khác nhau: kẻ muốn được danh phận, người muốn được giầu tiền lắm của, cũng khối kẻ muốn được làm thầy thiên hạ … Giấc mơ nơi Giuse, nơi mỗi chúng ta hôm nay hẳn cũng đang chung một tâm tình, đó là mơ ước hạnh phúc, giấc mơ được sống trọn vẹn ơn gọi và thánh ý Chúa. Theo ý riêng rất hợp lý của mình, Giuse định tâm rút lui, và nhờ giấc mơ đã tháo gỡ mọi vướng mắc, giấc mơ cũng là khởi điểm để ông minh chứng niềm tin thế nào là giấc mơ đẹp mà cả đời ông hằng mong ước. Giá trị của hạnh phúc thật, chỉ có ý nghĩa khi quá khứ, hiện tại, tương lại không tách rời nhau ; thiếu thực hành, giấc mơ chỉ là giấc mơ, mọi lý thuyết trên đời đều mầu xám.

Đời sống của mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay sẽ phong phú biết bao, khi ai ai cũng nhanh nhạy biến giấc mơ của mình thành hiện thực, tiền nhân dạy: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Thiên Chúa qua Giuse bạn trăm năm của Đức Trinh nữ Maria, Ngài  muốn nhắc nhân loại: người khôn ngoan là người biết tìm thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Giuse biến những ưu tư thành lời cầu nguyện, ông sống khiêm tốn để nhìn biết con người thật của mình, Giuse để thánh ý Chúa biến giấc mơ cuộc đời của ngài thành lời nguyện đẹp, xứng hợp với tình yêu Chúa trao ban. Thiên Chúa có thể nói với con người bằng nhiều cách thức khác nhau, nhưng trước hết và trên hết là tự do mỗi chúng ta đang sử dụng như thế nào ?

Giấc mơ hoàn hảo và hạnh phúc thật, không thể mua được bằng tiền, giấc mơ ảo, giấc mơ viển vông, cũng mãi là xa vời, lý thuyết, nếu mỗi người chỉ cậy dựa vào sức mạnh của mình. Giấc mơ đẹp ở đời là công danh sự nghiệp, là gieo trồng, đầu tư kiến thức cho con cháu ; giấc mơ đẹp: Thánh Giuse, Đức Maria để lại cho hậu thế chính là niềm tín thác và lời thưa vâng bằng trọn hành trình đời người. Giấc mơ đẹp sẽ không phải là nghèo hèn, ngồi yên chịu vậy với phận số, giấc mơ đẹp, được Thiên Chúa phác hoạ nơi những tâm hồn biết sống tin yêu, biết để ý Chúa vượt lên ý riêng của mình. Nếu mỗi chúng ta nhận biết thánh ý Chúa như Thánh Cả Giuse, hẳn ở tình thế nào chúng ta cũng đang thực thi sứ mạng làm môn đệ Đức Kitô: hoa thơm trồng cạnh bờ rào, gió nam gió bắc, gió nào cũng thơm. Amen.

Về mục lục

.

EMANUEL

Lm Giuse Hoàng kimToan

Trước mầu nhiệm truyền tin biết về Mẹ Maria chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse biết mình chỉ là con người phàm nhân sao có thể đón nhận một sứ vụ cao trọng, là cha nuôi của Chúa Giê su, nên Ngài muốn rút lui. Sự kiện Giáng Sinh bắt đầu hé lộ về mầu nhiệm Emanuel (Thiên Chúa ở giữa loài người). Vừa là Tin Mừng đồng thời cũng ngỡ ngàng, như Thánh Giuse làm sao hiểu, nhân loại có được diễm phúc như vậy.

Sự khiêm hạ.

Thánh Giuse được  tôn vinh là Đấng công chính. Theo Cựu Ước, người công chính là người nhận biết mình là ai trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Như Môi sê trước bụi gai cháy, cần cởi dép để bước vào mảnh đất thiêng. Như các cố nhân khi được mời gọi đi thi hành sứ vụ tiên tri, luôn đáp lại một điều nhận ra mình chẳng xứng: “Con là ai mà lại đi nói Lời Thiên Chúa cho dân!”. Thánh Giuse chỉ là một thợ mộc bình dân, nghèo nàn, tay chân rạn nứt, làm sao lại có thể trở thành cha nuôi Chúa Giê su, một Thiên Chúa làm người ở giữa nhân loại.

Thánh Giuse thấy mình bị kéo vào mầu nhiệm Thiên Chúa ở giữa loài người thì sợ hãi. Thế nhưng, Thiên Chúa làm người đã hạ mình xuống thế thật thấp như thế, thì còn ai có thể tự hạ hơn Người được nữa. Dù không xứng đáng, Thánh Giuse trên cơ sở pháp lý không thể để Đức Maria trơ trọi một mình khi mang thai hài nhi Giêsu. Mặt khác, lòng kính tôn Thiên Chúa của Thánh Giuse, việc Mẹ Maria thụ thai là quyền năng Thiên Chúa thực hiện để đưa Người Con của Thiên Chúa vào trần thế, không thể do ý muốn con người được, mà từ lời hứa của Thiên Chúa nên hiện thực.

Con ĐaVit

Thiên Chúa chọn lựa Thánh Giuse là cha nuôi, chính Ngài sẽ đặt tên cho con trẻ. Theo luật pháp Do Thái thời đó, việc đặt tên con là quyền của người cha hợp pháp. Như vậy, Chúa Giê su thuộc dòng tộc Đavit, trở nên một Đavit mới. Chính Chúa Giê su sẽ là một vị Vua mới như các đạo sỹ tìm đến thờ phượng. Người là vị cứu tinh cho nhân loại, dẫn đưa nhân loại đến trật tự hòa bình và tình yêu trong vương quốc của Người.

Emanuel

Thiên Chúa ở giữa nhân loại, là một cụm từ chưa bao nguôi đi tìm kiếm Chúa trên trần thế này. Ngày ba đạo sỹ lên đường tìm chỗ hài nhi sinh hạ cũng là chuỗi ngày của những con người khát khao đi tìm kiếm Chúa. Người ở giữa nhân loại, nhưng giữa chốn đông người, giữa một nhân loại ồn ào và huyên náo, giữa một thế trần vẫn tranh giành hơn thua, giữa những con người vẫn thù hận, giết chết, mua bán nô lệ thời mới, làm sao có thể tim gặp được Người.

Như đạo sỹ, cần lên đường, nghĩa là chấp nhận ra khỏi những ồn ào, huyên náo, hận thù, chia rẽ, để lên đường. Ra khỏi bóng tối để thấy ngôi sao dẫn đường. Ra khỏi chính mình để nghe tiếng chỉ dẫn của Chúa mách bảo. Ra khỏi cuộc sống hằng ngày để ở lại với Chúa, gặp gỡ Chúa với lễ vật đời mình.

Thiên Chúa ở giữa nhân loại, một Thiên Chúa đang bước đi cùng với nhân loại, với từng người. Nhưng, gặp được Người đang bước đi cùng hay đang lạc mất Người giữa đời huyên náo, chật chội. Vì là một Thiên Chúa tự hạ, lòng kiêu hãnh sao gặp được Người. Vì là một Thiên Chúa giữa những người nghèo, đau khổ, bị bỏ rơi… làm sao gặp được Người giữa những phồn hoa tráng lệ, giàu sang với những lễ hội.

Trở về với ngỡ ngàng của Thánh Giuse trước mầu nhiệm Emanuel. con người cũng cần trở lại với chính mình là một phàm nhân trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Cũng cần có một lòng nhân từ, thương xót, để yêu thương, để nâng đỡ những con người đau khổ, nghèo khó, vì Chúa cũng đã đến như vậy giữa họ.

Xin Chúa chỉ dạy con đường đi gặp gỡ Chúa!

Về mục lục

.

HÃY BIẾN ƯỚC MƠ THÀNH HIỆN THỰC

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc đời thánh Giuse được nhắc đến trong Kinh Thánh luôn gắn liền với một giấc mơ. Khởi đầu là việc  thánh Giuse, vâng lời thiên thần trong giấc mộng, mà đón Đức Mẹ về nhà làm vợ mình.
Sau khi Chúa Giêsu sinh ra, Thiên Thần Thiên Chúa lại đến báo tin cho Giuse trong giấc mơ: đem Maria và trẻ Giêsu trốn sang Ai cập để tránh bị vua Herode đang tìm bắt sát hại hài nhi. ( Mt 2,13-15).
Và khi vua Herode băng hà, Thiên Thần Thiên Chúa lại lần nữa xuất hiện báo trong giấc mơ cho Giuse đem gia đình từ Ai Cập trở về sống bên quê nhà Nazareth xứ Galile ( Mt 32,19-23).
Qua ba giấc mơ ấy dường như thánh Giuse không hề hoài nghi thắc mắc về tính xác thực của giấc mơ. Ngài làm ngay, làm tức thì như thể nếu không làm ngay sẽ lỡ mất cơ hội giúp người, hay sẽ chậm trễ dẫn đến hệ quả khôn luờng. Thánh Kinh nói rằng trong giấc mơ Thiên Thần Chúa bảo Ông : Giuse hãy chỗi dậy! Ông liền chỗi dậy bắt tay ngay vào việc.
Dân gian thường hay phê bình ai đó sống không thực tiễn: Chỉ mơ màng viển vông! Hay, đó là chuyện hoang đường mơ màng! Thực sự là vậy, nếu chỉ mơ mà không bắt tay vào việc thì nó chỉ là mơ màng viễn vông và hoang đường. Điều này ta thấy nhiều nơi người trẻ, nhiều khi mải mê với giấc mơ, với ý tưởng mới lạ khác lạ, mà quên đứng dậy bắt tay vào việc trong đời sống. Nên nhiều khi sống trong viển vông bỏ lỡ chuyến tầu cơ hội sống thực tế vươn lên.
Thánh Giuse thì luôn nhìn thấy qua giấc mơ một cơ hội để bắt tay làm việc và đó là việc cần làm ngay, làm tức thời để bảo vệ danh dự cho Maria, để cứu hài nhi khỏi hiểm nguy, và để an cư lạc nghiệp cho hạnh phúc gia đình. Nơi thánh Giuse , đó là một con người của những giấc mơ, có thể nhận lấy trách nhiệm, trọng trách lớn lao của mình. Ngài có quá nhiều điều để chúng ta học hỏi trong một thời đại mà người ta chỉ nói nhiều mà không làm, ước mơ lớn mà không thực tiễn nên tất cả chỉ dừng lại ở những khẩu hiệu hô hoán cho to mà không bao giờ mang ra thực hành.
Điển hình là chủ đề mục vụ của Giáo Hội đưa ra có mấy giáo xứ đã thực hiện? Mỗi năm chúng ta được nghe thuyết trình về chủ đề mục vụ rất tâm huyết, rất say sưa nhưng có khi xa rời thực tiễn. Nói rất hay, hoài bão rất lớn nhưng tất cả chỉ nhìn thấy trên các phông chữ quảng cáo nơi các nhà thờ mà không mấy ai đã dấn thân để mang ra thực hành. Tôi đã từng thấy vài giáo xứ có bảng quảng cáo “Giáo xứ X tích cực sống làm sạch môi trường” nhưng ở dưới bảng là bãi cỏ rác ngổn ngang!
Có ai đó đã từng nói rằng: Hãy nghĩ, hãy làm như thể bạn chỉ còn có thể sống được duy nhất 1 ngày cuối cùng. Khi bạn nhìn thấy cái ngày đó, hẳn bạn sẽ không muốn lãng phí một giây phút nào cho những thứ không quan trọng trong đời.
Mùa vọng nhắc nhớ chúng ta là người khôn ngoan thì phải biết biết nắm lấy thời cơ. Thời cơ của người ky-tô hữu là đón nhận Chúa  đến trong cuộc đời của mình và mang Chúa đến cho thế gian. Thánh Giuse đã làm điều đó,  đừng bỏ lỡ những lần thực hiện ước mơ trong đời, cụ thể là đón nhận Chúa như Giuse, như Mẹ Maria và như các mục đồng. Các ngài đã mau mắn thực thi điều mà thiên thần Chúa đã loan tin trong giấc mơ và trong hiện thực.
Nếu chúng ta biết trân trọng giây phút hiện tại thì chúng ta cũng sẽ có thái độ dứt khoát như thánh Giuse mau mắn trỗi dậy và thực hiện ý Chúa đã đến trong giấc mơ. Và mau mắn biến ước mơ thành hiện thực cho dù có phải chịu nhiều mất mát và thua thiệt. Amen

Về mục lục

.

TIN MỪNG CỦA THIÊN CHÚA

Bông hồng nhỏ

Đọc trình thuật truyền tin cho Đức Maria trong Tin Mừng theo thánh sử Luca, ta được lắng nghe một lời “xin vâng” rất đẹp của Mẹ. Hôm nay, ta được nghe thánh sử Mátthêu thuật lại việc truyền tin cho thánh Giuse. Sứ thần truyền tin lúc ngài còn đang an giấc. Có lẽ, vì đang ngủ nên ngài không thể dặt câu hỏi như Đức Maria, để được sứ thần giải đáp những thắc mắc, để được củng cố lòng tin. Thế nhưng, ngài đã có một tiếng thưa “xin vâng” rất âm thầm, rất quyết liệt và cũng rất đẹp.

Khi nhận thấy Maria- người vợ chưa từng chung sống đang mang thai, ngài đã suy tính kế hoạch để bỏ đi. Chắc hẳn, ngài đã phải chiến đấu rất nhiều, đã rất đau khổ. Có hai kế hoạch đều bị đổ vỡ: kế hoạch thứ nhất là giấc mơ xây dựng một gia đình hạnh phúc; kế hoạch thứ hai là dự tính “bỏ bà cách kín đáo” (x. Mt 1,19). Khi nhận thấy người vợ mình yêu thương đã mang thai mà không do bởi mình, giấc mơ xây dựng một gia đình hạnh phúc bị tan thành mây khói. Đau khổ bất ngờ ập xuống. Tận sâu trong lòng, ngài vẫn rất yêu thương Maria, càng yêu thương bao nhiêu thì càng đau khổ bấy nhiêu. Trong đau khổ, ngài có cất tiếng thưa lên cùng Thiên Chúa- Đấng mà ngài hằng tôn kính mến yêu? Chính tình yêu đã giúp ngài đi đến quyết định là sẽ “bỏ vợ cách kín đáo”, không để cho nàng phải chết nhục nhã trong đau đớn như Luật Môsê đã định. Ngài đang toan tính như vậy thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng, giải đáp tất cả những thắc mắc đang bủa vây trong lòng. Sứ thần chỉ cho ngài một con đường để bước đi, con đường theo thánh ý vạch ra là “đừng ngại đón bà Maria vợ ông về” (x. Mt 1, 20). Đây quả là một lời mời gọi đầy thách đố. Làm sao để ta cũng có thể nhận ra và đón nhận “Tin Mừng của Thiên Chúa” với lòng vâng phục đơn sơ nhưng cũng rất quyết liệt như thánh Giuse lúc bấy giờ? Để đón nhận những điều trái ngược với ý muốn của ta và đón nhận nó như là Tin Mừng của Thiên Chúa đòi hỏi ta cần phải có một tâm hồn tự hạ, khiêm nhường trước thánh ý Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần sẽ từng bước giúp ta khám phá ra Tin Mừng của Thiên Chúa và đón nhận mầu nhiệm ấy bằng một con tim luôn luôn mở ra.

Thánh Giuse đã được sứ thần của Chúa truyền tin lúc đang an giấc. Khi vừa thức giấc ngài đã mau mắn làm như sứ thần Chúa dạy (x. Mt 1, 24). Một thái độ vâng phục cách mau mắn, không chút nghi ngờ; bởi đức tin của ngài đã trải qua bao thử thách và trái tim của ngài đã luôn mở ra trước thánh ý Thiên Chúa và luôn sống cho người khác. Một tâm hồn luôn tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa sẽ được Người yêu thương. Chắc chắn, trong suốt hành trình nơi dương thế, để chu toàn sứ mạng Thiên Chúa trao trong trách nhiệm và ân phúc được làm cha nuôi của Chúa Giêsu và làm bạn trăm năm của rất thánh Đức Maria, ngài đã phải trải qua nhiều thăng trầm thử thách. Cũng như Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, thì thánh Giuse- một người hết lòng sống cho thánh ý Thiên Chúa- cũng đã mang một tâm tình như thế (x. Dt 5, 8) bởi có ai yêu mến Thiên Chúa mà không được Người thử thách. Tin Mừng của Thiên Chúa đến với ta trong muôn ngàn nẻo đường khác nhau, con đường nào cũng đòi buộc ta phải sẵn sàng vâng phục trong đức tin, bỏ đi những toan tính của bản thân để hết lòng sống theo thánh ý Chúa. Mọi sự đều có thể đối với những ai có lòng tin và yêu mến Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu là Tin Mừng của Thiên Chúa. Chúa đã đến với con trong rất nhiều biến cố, trên muôn vàn nẻo đường con đi. Xin ban cho con một trái tim biết mở ra trước thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Để con đừng ngại đón nhận Tin Mừng của Chúa, xin Chúa hãy uốn nắn lòng con nên giống trái tim của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI GỌI TÔI

Anna Cỏ May

Thật khó để một người chồng có thể yêu thương và tôn trọng người vợ mới cưới khi nàng đã có thai với người khác. Chỉ khi người đàn ông đó là người thấm nhuần đức tin và chỉ sống theo luật yêu thương của Chúa thì mới thực sự yêu thương và tôn trọng người phụ nữ đó.

 Trước khi về chung sống với Mẹ Maria, Thánh Giuse nhận biết mẹ đã có thai. Vì không muốn tố giác Mẹ nên ngài định tâm bỏ Mẹ cách kín đáo. Ngài đang tính toán như vậy thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ngài: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính người người sẽ cứu dân người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,20-21).

 Thánh Giuse được sứ thần mặc khải cho biết Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, tức là Con Thiên Chúa được sinh ra trong cung lòng đồng trinh của Mẹ Maria do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Đồng thời, ngài được mời gọi tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa khi trở thành cha nuôi của Con Thiên Chúa, là người bảo vệ che chở cho Mẹ và Hài Nhi ở trần gian. Khi biến cố xảy đến với Thánh Giuse, phản ứng đầu tiên của ngài là “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Theo lẽ thường tình, Thánh Giuse có thể tố cáo Mẹ Maria dựa trên luật Dothái. Nhưng ngài không làm, ngài muốn trốn đi để Mẹ tránh khỏi hình phạt nặng dành cho một người phụ nữ đã đính hôn mà lại phạm tội ngoại tình. Về mặt siêu nhiên, việc thánh Giuse trốn đi có thể được hiểu như là việc không dám nhận cho mình một điều lớn lao mà không do công của mình, cũng không phải sở hữu của mình. Biết Giuse là người công chính nên Thiên Chúa đã cho sứ thần báo mộng cho ngài. Việc đặt tên cho Hài Nhi không do chính huyết nhục của mình cũng là lời mời gọi ngài hãy đón nhận sứ mạng làm cha của Hài Nhi trên bình diện pháp lý. Thánh Giuse đã không từ chối, khi thức dậy ngài đã làm như lời sứ Thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.

 Lý do nào khiến Thánh Giuse không thể từ chối lời sứ thần mời gọi? Ngay từ đầu, Thánh Giuse đã có lòng trắc ẩn xót thương và không tức giận Mẹ. Trái lại, ngài tìm cách bảo vệ. Mặt khác, ngài được gọi là người công chính vì ngài đã sống công chính. Mà Thiên Chúa là đấng công chính, nên ngài được Thiên Chúa tuyển chọn và là người thuộc về Thiên Chúa (x.1Ga 3,7,10). Thiên Chúa dùng người công chính để đem ơn cứu độ cho người tội lỗi: “Ta đến để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2, 17).

 Theo lời sứ thần, Chúa Giêsu sẽ là Đấng giải thoát dân Người khỏi tội lỗi của họ. Chúng ta là những người mang thân phận mỏng dòn yếu đuối và tội lỗi. Chúng ta cần Chúa Hài Nhi đến giải thoát ta khỏi đầm lầy lỗi lầm. Vì vậy, chúng ta hãy mở lòng ra để đón Chúa trong đại lễ gần kề này. Đừng chần chừ nữa, Ngài đang gõ cửa tâm hồn chúng ta vì Ngài yêu thương người tội lỗi.

 Lạy Chúa, vì yêu chúng con, Chúa tự trở nên bé nhỏ để ngự vào tâm hồn chúng con, và để chúng con được bồng ẵm trên tay. Xin cho chúng con cũng biết trở nên nhỏ bé và khiêm nhường mà đến với Chúa và anh chị em xung quanh. Để nhờ đó, chúng con được cùng nhau nối kết yêu thương trong Chúa Hài Nhi. Amen.

Về mục lục

.

GỐC TÍCH CHÚA GIÊ-SU

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 7:10-14;  Rm 1:1-7;  Mt 1:18-24)

          Trong ít ngày nữa, chúng ta sẽ mừng Sinh Nhật của Chúa Giê-su.  Nhưng chúng ta không thể mừng sinh nhật của một người mà không biết rõ thân thế của người ấy.  Vậy thân thế của Chúa Giê-su như thế nào?  Các bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đồng loạt trình bày Chúa Giê-su xuất thân từ đâu:  ngôn sứ I-sai-a nhận được mặc khải của Thiên Chúa là “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”;  thánh Phao-lô thì nhìn thân thế của Chúa Giê-su theo hai chiều kích:  là người phàm, Chúa Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít, là Đấng Cứu Độ, Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa;  còn thánh sử Mát-thêu, ngài đã tổng hợp những điều kể trên để trình bày và giải thích về “gốc tích” Chúa Giê-su cặn kẽ hơn.

          Sau khi vua Sa-lô-môn băng hà, nước Ít-ra-en chia làm hai:  vương quốc miền bắc vẫn giữ tên là nước Ít-ra-en và vương quốc miền nam là Giu-đa.  Thời vua A-khát trị vì nước Giu-đa, vương quốc miền bắc đã liên kết với vua A-ram để xuống đánh miền nam và thành thánh Giê-ru-sa-lem.  Thiên Chúa sai ngôn sứ I-sai-a đến gặp vua A-khát để báo cho vua biết Thiên Chúa hứa không để nước Giu-đa bị tiêu diệt, vì Người sẽ luôn ở với Giu-đa.  Chúa còn bảo vua A-khát cứ xin một dấu chỉ để cho thấy lời hứa ấy là chắc chắn.  Vua không dám xin thì Chúa đã cho biết dấu chỉ ấy:  “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”.  Dấu chỉ này nói lên thân thế vị cứu tinh của nước Giu-đa thời ấy.  Tuy nhiên đây cũng là lời hứa ám chỉ Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ sẽ xuống thế làm người.  Chúa Giê-su là con trai của một trinh nữ tức là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, cho nên bên cạnh nguồn gốc Thiên Chúa vì là Con Một, Người còn thực sự có nguồn gốc nhân loại nữa, tức là con Đức Ma-ri-a.  Ngoài ra, Người cũng mang một cái tên của nhân loại:  Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi.  Tên nói lên sứ mệnh của một người.  Với danh hiệu Em-ma-nu-en, Chúa Giê-su thực là Thiên Chúa ở với chúng ta, như thánh sử Gio-an diễn tả: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).

          Ngôn sứ I-sai-a đã nói tiên tri về việc Chúa Giê-su sinh bởi Trinh Nữ Ma-ri-a và sứ mệnh của Người là ở với nhân loại để cứu độ họ.  Còn thánh Phao-lô thì diễn tả gốc tích Chúa Giê-su theo quan điểm thần học qua cách phân biệt Chúa Giê-su vừa là một “người phàm”, con của Đức Ma-ri-a, vừa là Con Thiên Chúa, “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần”.  Là người phàm, Chúa Giê-su “xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” và đang khi sống tại trần gian, Người đã thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, rồi kết thúc sứ mệnh ấy với cuộc Thương khó và sự Phục Sinh.  Tuy nhiên cũng Chúa Giê-su ấy, sau khi từ cõi chết sống lại thì Người “đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng”.  Hoặc nói cách khác theo lời lẽ của kinh Tin kính, Chúa Giê-su vừa là người thật vừa là Thiên Chúa thật.  Chính nhờ gốc tích Thiên Chúa và nhân loại này mà Chúa Giê-su có thể chia sẻ cùng một lúc với chúng ta cả bản tính nhân loại lẫn bản tính Thiên Chúa của Người.

          May mắn là bên cạnh suy tư thần học cao siêu của thánh Phao-lô về gốc tích Chúa Giê-su, chúng ta lại có đoạn Tin Mừng Mát-thêu thuật lại việc Chúa Giê-su xuất thân như thế nào.  Trước hết thánh sử Mát-thêu muốn giải thích sự kiện Chúa Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít.  Mặc dù Chúa Giê-su là con của Đức Ma-ri-a do quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng theo pháp lý Người vẫn là con cháu vua Đa-vít, vì thánh Giu-se thuộc dòng dõi vua Đa-vít đã thành hôn với Mẹ Ma-ri-a.  Đúng vậy, Chúa Giê-su ra đời trong tình trạng hôn nhân hợp pháp giữa thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a, do đó trên phương diện luật lệ Chúa Giê-su cũng được gọi là con của thánh Giu-se thuộc dòng dõi vua Đa-vít.  Thánh Mát-thêu kể lại “gốc tích” Chúa Giê-su theo phương diện luật pháp, nhưng sứ thần lại cho thánh Giu-se biết tất cả về sứ mệnh của Chúa Giê-su.  Trước hết sứ thần nói đến việc thánh Giu-se “phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”.  Thật là sự trùng hợp kỳ diệu:  trong Cựu Ước, ngôn sứ I-sai-a nói tiên tri việc đặt tên con trẻ là Em-ma-nu-en thì nay trong Tân Ước, thánh Giu-se phải đặt tên con trẻ là Giê-su, nghĩa là Thiên Chúa cứu.  Tuy hai cái tên khác nhau, nhưng cả hai cùng mang một ý nghĩa:  Thiên Chúa ở với dân Người để cứu họ khỏi tội lỗi của họ.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Em-ma-nu-en và Giê-su là những danh hiệu chúng ta cần suy gẫm suốt đời.  Danh hiệu nào cũng biểu lộ một chân lý cao cả, đó là Thiên Chúa đã yêu trần gian đến nỗi ban Con Một, để tất cả những ai tin vào người Con ấy thì sẽ được sống đời đời.  Thánh Phao-lô còn gọi chân lý này là Tin Mừng và ngài vô cùng hãnh diện vì nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, ngài “đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ” để rao giảng Tin Mừng ấy.  Chúng ta đang chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Giáng Sinh, nhưng Chúa Giê-su là Đấng Em-ma-nu-en đang ở giữa chúng ta rồi!  Quan trọng là ta có dọn tâm hồn thành máng cỏ xứng đáng để Chúa sinh ra, ở lại với ta và trở nên lương thực thiêng liêng cho ta, như cỏ chứa trong máng cho chiên bò được sống không?  Thêm nữa, chúng ta được tham gia vào chức vụ tông đồ, vậy ta có rao giảng Chúa cho người khác không?

Về mục lục

.

ĐỪNG SỢ.

Lm. Jos. Hoàng Mạnh Hùng

Tin Mừng có đến bốn cuộc truyền tin của Thiên Chúa nói với loài người, liên quan đến mầu nhiệm Con Thiên Chúa giáng sinh. Ba cuộc truyền tin trong Tin Mừng theo thánh Luca và một trong Tin Mừng theo thánh Mathêu. Cả bốn cuộc truyền tin, thiên thần đều có chung một lời trấn an: “Đừng sợ!”.

Với Tư tế Giacaria: “Giacaria, đừng sợ! Vì lời cầu của ngươi đã được chấp nhận”. Sau đó, thiên thần cho biết ông sẽ có một con trai như lòng mong ước. Người con này sẽ nên cao trọng vì “nó sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1, 5- 20).
– Với Đức Maria: “Maria, đừng sợ! Vì Người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”. Qua lời thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Đức Mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế (Lc 1, 26- 38).

Với các mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại”. Qua lời thiên thần, các mục đồng là những người được Thiên Chúa báo tin mừng giáng sinh trước tiên (Lc 2, 8- 15).

Với thánh Giuse: “Giuse, đừng sợ! Vì thai nơi bà là do Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 18- 24).

Hôm nay Chúa Nhật áp lễ Giáng sinh, Hội Thánh suy niệm cuộc truyền tin cho thánh Giuse. Để rút ra bài học, tôi suy niệm lời mời gọi của thiên thần “Đừng sợ“.

“Đừng sợ“. Đó cũng chính là lệnh truyền mà sau này, khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu thường ngỏ với các môn đệ:

Khi căn dặn các ông làm chứng cho Người, Chúa nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 28). Trong bữa tiệc ly, ngay trước giờ tử nạn của mình, Chúa căn dặn: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 27). Sau khi sống lại, vẫn chỉ nhấn mạnh lòng can đảm, Chúa tiếp tục ban bình an và cất lời trấn an môn đệ: “Đừng sợ! Hãy đi báo tin cho anh em của Thầy” ( Mt 28, 10).

Bởi đời mỗi người như bị nhấn chìm trong nỗi sợ, nên lời “Đừng sợ” của Thiên Chúa cũng đang là lời nhắn gởi bạn và tôi.

Thuở nhỏ: sợ ma, sợ đòn. Lớn hơn: sợ học tập thua sút bạn bè. Vào yêu: sợ bị bội phản. Ngày lập gia đình, cũng là ngày ta sợ mình không tròn trách nhiệm của người sống đời gia đình. Và cả đời ta, nỗi sợ lớn nhất, có lẽ là sợ chết.

“Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Ngay khi làm giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II mở đầu triều đại của mình bằng sứ điệp với những lời như thế.

Trải dài trên 26 năm lãnh đạo, Đức Thánh Cha không ngừng nhắc lại với thế giới: “Đừng sợ!”. Xoay quanh hai tiếng “Đừng sợ”, ngài cho thấy có những nỗi sợ rất nghịch lý. Lẽ ra không được sợ, lẽ ra phải xây dựng nó, thì ta lại sợ.

Bằng chứng là hai sứ điệp Quốc tế Giới trẻ lần thứ 15 (năm 1985) và lần thứ 16 (năm 1986), Đức Thánh Giáo hoàng nhắc tới nỗi sợ nghịch lý này: “Các con đừng sợ trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới” (ngày QTGT lần thứ 15, số 3), và “Các con đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi” (ngày QTGT lần thứ 16, số 6).

Nên thánh mà sợ? Đi con đường của Chúa mà sợ? Đúng lắm! Vì đi trên con đường của Chúa để được nên thánh là khổ nạn, là từ bỏ bản thân, là phải sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, khiêm nhu, hiền từ, vâng lời…

Trong các lần phong thánh mà chính thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thực hiện, phần đông là các vị tử đạo của thời đại. Điều đó càng cho tôi cảm nhận trọn vẹn lời: “Các con đừng sợ nên thánh, đừng sợ đi trên con đường của Chúa”.

Chính Đức Thánh Cha cho thấy ngài vượt lên trên sự sợ hãi, để tông du khắp thế giới làm cho nhiều tâm hồn thay đổi, Lời Chúa được loan báo.

Còn chúng ta, chắc chắn khi nói tới sợ hãi, thì không là sợ ma, sợ học thua sút, sợ mất người yêu, sợ không tròn trách nhiệm gia đình… Nỗi sợ ấy lớn hơn nhiều.

Đó là nỗi sợ trước một thế giới mà giá trị Tin Mừng bị xem nhẹ, vật chất đang lên ngôi, quyền lực đang thắng thế, tự do tình dục đang được ưa chuộng…

Trong khi quyền của trẻ thơ, của thai nhi bị tước mất. Không chỉ những kẻ lạm dụng, mà cả cha mẹ lại là kẻ đầu tiên tước mất quyền sống của con mình.

Một thế giới mà ngòi nổ của khủng bố, chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng. Sự bình an của tôi, của anh chị em, của cả nhân loại luôn bị đe dọa.
Ngay trên quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà ngày xưa Chúa sinh ra, trong một thời gian dài, người ta đang gieo rắc cho nhau rất nhiều bạo lực và chiến tranh…

Trước viễn cảnh của thế giới như thế, người Kitô hữu lại được mời gọi hãy sống các giá trị của Tin Mừng.

Nghĩa là phải ngay thẳng trong một thế giới nhiều gian dối, yêu thương giữa những hận thù, có tinh thần nghèo khó trong một xã hội đề cao tiền của, sống tha thứ giữa những chống đối và bạo lực…

Sống như thế chỉ toàn là thiệt thòi. Bởi đó, ai mà không sợ. Nhưng chính trong lúc chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, một lần nữa, bạn và tôi lại được mời gọi “Đừng sợ”, để có thể sống trong bình an của mầu nhiệm Giáng sinh.

Để có bình an, bạn và tôi hãy đặt hết niềm tin vào Chúa. Tin rằng Chúa sẽ thực hiện chương trình của Người theo ý mà Người muốn. Xin cho Thánh Ý được thể hiện nơi trần gian trong mọi hoàn cảnh của thế giới, của nhân loại, của Hội Thánh, và của mỗi người.

Tôi xin mượn lời thiên thần lặp lại một lần nữa: Bạn và tôi, “Đừng sợ!”.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MV_A

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Lời Thiên Chúa hứa với tổ tiên Ađam và Evà từ ngàn xưa, nay đã được thực hiện. Sự kiện Thiên Chúa nhập thể đã xảy ra trong hoàn cảnh ngoại thường. Một Trinh Nữ đã thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Đây là sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ.

Đối diện với những sự kiện lạ lùng, thường ai cũng sợ hãi. Thiên Chúa luôn luôn trấn an khi sai sứ giả tiếp xúc với con người. Thiên thần luôn nhắc nhở: Đừng sợ! Như khi Thiên Thần xuất hiện với Giacaria trong đền thánh, ngài nói đừng sợ, vì lời cầu của ngươi được chấp nhận. Khi xuất hiện với Trinh Nữ Maria, Thiên sứ cũng ngỏ lời: Đừng sợ, vì cô được đặc sủng của Thiên Chúa. Rồi thiên thần xuất hiện với Giuse, ngài đã khuyên rằng: Đừng sợ, vì Maria thụ thai là bởi phép Chúa Thánh Thần. Sau cùng khi xuất hiện với các mục đồng, Thiên thần cũng loan tin: Đừng sợ, hôm nay Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại.

Trinh nữ Maria và thánh Giuse sống trong sự phó thác hoàn toàn. Các ngài không hiểu được việc Chúa làm. Các ngài tin tưởng sự quan phòng của Chúa và không còn sợ hãi. Từng bước Chúa dẫn đi. Chúng ta biết theo thói thường, khi Maria mang thai cách lạ kỳ, thì thiên hạ sẽ có cái nhìn soi mói và gây sự đàm tiếu trong xóm làng. Còn Giuse, người công chính, đã khổ đau trong sự bối rối và lo âu. Tuy rằng Giuse không nghi ngờ Maria, nhưng vẫn khó chấp nhận sự thật.

Maria sống rất can đảm. Maria không cần biện minh, giải thích hay bào chữa. Maria đã phó mặc hoàn toàn vào chương trình dự liệu của Chúa. Maria đã ghi nhớ tất cả những sự kiện và suy niệm trong lòng. Bởi thế Maria xứng đáng là Mẹ của Con Thiên Chúa.

Mỗi người trong chúng ta nếu rơi vào hoàn cảnh của Maria hay Giuse, có lẽ chúng ta không thể ngồi yên. Chúng ta sẽ tìm mọi cách để làm sáng tỏ sự việc vì không muốn chấp nhận mình bị hiểu lầm. Đôi khi chúng ta muốn bỏ cuộc, vì chúng ta cảm thấy chán nản, khổ đau và uất ức trong lòng. Hãy nhớ lời khuyên: Đừng sợ! sự thật sau cùng sẽ thắng.

Ngước nhìn lên thánh Giuse và Đức Maria, chúng ta học bài học khiêm nhường và phó thác. Chúng ta biết rằng không phải tất cả mọi sự thật chúng ta phải nói, nhưng khi nói, phải nói sự thật. Đức Maria giữ kín mầu nhiệm nhập thể trong cung lòng và thờ phượng Thiên Chúa hiện diện nơi chính mình. Mẹ đã tìm được sự ủi an và bình an đích thực.

Về mục lục

.

GIẤC MƠ THÁNH GIUSE

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Con người được sinh ra và lớn lên, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, giàu sang hay nghèo hèn, nông dân hay trí thức đều có những ước mơ và hoài bảo. Đó là nguồn động lực đưa con người tiến đến thành công trên đường đời. Ước mơ là điểm xuất phát cho sự phát triển của con người, cho một gia đình, cho xã hội và nhân loại. ĐGH Phanxicô mời gọi: “Chúng ta hãy có khả năng mơ ước, bởi vì khi chúng ta mơ ước những gì cao đẹp, những gì tốt lành, chúng ta sẽ tiến gần hơn đến ước mơ của Thiên Chúa, tiến gần hơn đến những gì Thiên Chúa mơ ước nơi mỗi người chúng ta. Các bạn trẻ hãy có khả năng mơ ước, hãy có khả năng mang lấy những khó khăn thách đố gặp phải trong những ước mơ ấy. Nguyện xin cho tất cả chúng ta lòng tin ngày thêm lớn mạnh trong sự âm thầm bé nhỏ” (x.conggiao.info/thanh-giuse-giup-chung-ta-co-kha-nang-uoc-mo-nhung-gi-cao-dep).

Xưa cũng như nay, những điều con người cảm nhận, suy nghĩ từ những giấc mơ có thể làm thay đổi đời sống họ rất nhiều. Trong Kinh Thánh Cựu ước cũng xảy ra tương tự với ông Gia cóp, với ông Giuse (x.St 28, 10-29; St 37, 5-11) và với Thánh Giuse thời Tân ước.

Calderón de la Barca, một văn hào Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ 17 đã viết một vở kịch thời danh về đề tài: “Cuộc đời là một giấc mơ”. Cuộc đời con người trên hết phản ảnh sự ngắn ngủi của giấc mơ. Giấc mơ xảy ra ngoài thời gian. Trong giấc mơ sự vật không tồn tại như trong thực tế. Những hoàn cảnh, cần nhiều ngày hay tuần lễ, xảy ra trong giấc mơ trong vài phút. Đó là một hình ảnh của cuộc đời con người: khi đến tuổi già, người ta nhìn lại và có cảm tưởng rằng mọi sự đều qua đi như một giấc mơ..

Các nhà tâm lý quả quyết rằng tất cả mọi người đều nằm mơ, mặc dầu nhiều người khi tỉnh dậy không biết là mình có mơ lúc ngủ hay không. Đôi lúc chúng ta có những giấc mơ đẹp, nhưng cũng có lúc chúng ta lại gặp những giấc mơ sợ điếng người. Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc các giấc mơ. Nhà phân tâm Freud định nghĩa “những giấc mơ là những bài thơ chúng ta tự ngâm lúc ban đêm để sống thực những ước vọng nằm trong vô thức”. Nhiều người khác lại nghĩ rằng mơ là cách chúng ta ứng xử khi gặp những tình huống ngặt nghèo. Cũng có những người coi giấc mơ như một loại trị liệu tâm lý khi ngủ. Và rồi có cả một kỹ nghệ chuyên giúp cắt nghĩa những giấc mơ, thường là trong việc giúp người có giấc mơ được hiểu sâu xa hơn về mình.

Trong Kinh Thánh, giấc mơ thường được mô tả như dụng cụ mặc khải của Chúa. Qua những giấc mơ, Chúa hướng dẫn một người vào một thời điểm quan trọng việc phải làm hay nơi phải đi.

Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nói về giấc mơ của Thánh Giuse. Khi được tin Maria mang thai, Giuse đã gặp một tình thế khó xử. Ngài là một người chính trực, nhưng nếu Ngài cứ làm theo luật tức là hủy hôn ước với Maria, Ngài sẽ công khai làm Maria hổ thẹn. Vậy Ngài phải làm gì để gìn giữ sự chính trực của mình cũng như danh dự của Maria và hài nhi sẽ được sinh ra? Giuse đã nhận được lời giải đáp qua giấc mơ.
Thật thế, một thiên thần Chúa đã hướng dẫn Giuse kết hôn với Maria và giảng nghĩa về nguồn gốc thần linh và sứ mạng của hài nhi, đồng thời thiên thần cũng bảo đảm với Giuse rằng Chúa hiện diện ngay giữa hoàn cảnh rối rắm đó. Giuse đã làm theo điều Chúa đã chỉ bảo (Mt 1,18-25). Giuse còn nhận được trong giấc mơ ba lời hướng dẫn du hành nữa: thứ nhất, Chúa bảo ngài đưa con trẻ và mẹ ngài trốn qua Ai Cập (Mt 2,13-15), thứ hai, trở lại Israel sau khi vua Hêrôđê chết (Mt 2,19-21), và thứ ba, đi tới Galilê thay vì Juđêa (Mt 2,22-23). Rõ ràng các giấc mơ của Giuse đến từ Thiên Chúa và được thông truyền bởi sứ thần Chúa; chính sự vâng lời của Giuse đã làm các lời tiên báo trong Kinh Thánh thành hiện thực. (x.Giấc Mơ Trong Kinh Thánh; Nữ Tu B. E. Reid, OP, Tạp chí “The Bible Today”).

Sứ thần truyền tin cho Giuse trong giấc mơ. Sứ điệp truyền thông là: Mẹ Maria đã thụ thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo từ 8 thế kỷ: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”. Sứ thần giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của Giuse, khi báo tin, thai nhi nơi người vợ chưa cùng Giuse chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi Ngài cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì. Và Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang. Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa “chọn mặt gởi vàng”, chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai. Ngài cùng với Đức Maria thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan cả vật chất lẫn tinh thần.

Ðể Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Mẹ Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Thánh Giuse. Nơi những tiếng xin vâng ấy, lời hứa của Thiên Chúa dần được ứng nghiệm. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha, những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Nhờ Giuse, Ðức Giêsu đã là người thuộc nhà Ðavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm. Cùng với Giuse, Con Thiên Chúa là Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta cho đến tận thế.

Thiên Chúa đã trao cho thánh Giuse nhiệm vụ là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Ngài đã trung tín chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao.Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho mình chăm nom. Ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ, luôn làm việc vất vả để mưu sinh cho gia đình.

Thánh Giuse đón lấy những mầu nhiệm mà Ngài không hiểu hết. Maria là một mầu nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Thánh Giuse đã để cho các mầu nhiệm vây bọc mình. Cả cuộc đời của Ngài là chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách bình thường, sát bên cạnh mình.

Thánh Giuse xin vâng không phải bằng lời nhưng bằng hành động.Vâng phục bằng việc làm, đó là thái độ sống của Thánh Cả. Trong giấc mơ Thiên thần nói: “Giuse hãy chỗi dậy!”. Ngài liền chỗi dậy bắt tay ngay vào việc.Thánh Giuse là người sống âm thầm làm việc. Với Thánh Giuse, tuy không nói lời nào, nhưng qua hành động cùng cuộc sống, Ngài đã nói đã chỉ hướng về Thiên Chúa cho mọi thế hệ.

Thánh Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.

Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.

Thánh Giuse là mẫu gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác, chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như thánh nhân.

Về mục lục

.

HÃY ĐỂ CHÚA ĐẾN VÀ HIỆN DIỆN TRONG CUỘC ĐỜI

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển

Vì yêu thương nhân loại, nên Thiên Chúa đã trao tặng cho chúng ta chính người Con Yêu Quý duy nhất của mình, để cho những ai tin thì được sống đời đời. Người con ấy có tên là Giêsu. Khi mặc lấy xác phàm, Đức Giêsu đã trở thành Emmanuen, nghĩa là: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Tuy nhiên, khi thực hiện hành động yêu thương đó, Thiên Chúa đã nhờ vào sự công chính của thánh Giuse và lòng trong sạch trọn đời đồng trinh của Mẹ Maira. Nói cách khác, thánh Giuse và Mẹ Maria đã sẵn sàng xin vâng trong sự khiêm tốn để thuộc trọn về Chúa và để Người sử dụng mình như người tôi trung và nữ tỳ, ngõ hầu kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa được hiện thực.

  1. Thánh Giuse và Mẹ Maria, mẫu gương về sự khiêm tốn

Tuy bài Tin Mừng hôm nay chỉ nói đến việc truyền tin cho thánh Giuse, nhưng nếu đọc lại hai cuộc truyền tin cho thánh Giuse và Mẹ Maria cách song song, chúng ta thấy toát lên vẻ đẹp tâm hồn của hai đấng. Vẻ đẹp tuyệt mỹ đến ngưỡng mộ, đó là lòng khiêm nhường.

Nơi thánh Giuse, ngài là một con người âm thầm tuyệt đối. Toàn bộ Kinh Thánh không viết lại một lời nói nào của thánh Giuse. Tuy nhiên, nơi thánh Giuse, ngài luôn là người tuân hành thánh ý Thiên Chúa cách trung thành và trọn vẹn. Vì thế, khi được báo mộng cho biết thai nhi trong lòng Mẹ Maria là do quyền năng Chúa Thánh Thần, thánh Giuse đã hoàn toàn vui vẻ đón nhận Đức Maria về nhà mình để chăm lo.

Nếu không khiêm nhường, thánh Giuse không thể chấp nhận chuyện tầy trời này trong sự yêu mến được.

Còn nơi Mẹ Maria, chúng ta đọc thấy sự phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Mẹ luôn ý thức mình chỉ là nữ tỳ của Đấng Tối Cao. Thế nên, thay vì hãnh diện, kiêu căng vì giữa muôn ngàn phụ nữ, Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, thì ngược lại, trước hồng ân lớn lao đó, Mẹ đã khiêm nhường để cất lên bài ca Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 47-48).

Như vậy, nhờ sự khiêm nhường tuyệt vời của thánh Giuse và Mẹ Maria, mà Thiên Chúa đã đoái thương và tuyển chọn các ngài như những người cộng tác trực tiếp vào công trình cứu chuộc của Mình, để ngang qua đời sống gia đình, Con Thiên Chúa đến giữa trần gian, trở thành Đấng Emmanuen.

Tuy nhniên, muốn có được đức tính khiêm nhường, nơi Mẹ Maria và thánh Giuse không ngừng lắng nghe và mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời.

  1. Thánh Giuse và Mẹ Maria đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa

Nếu nơi Đức Mẹ và thánh Giuse chưa hề có chương trình, kế hoạch cho cuộc đời mình, thì việc các ngài hướng chiều về một hướng đi mới hay kế hoạch mới là chuyện bình thường, không có gì đáng nói. Nhưng đây, nơi các ngài, cả hai đều có kế hoạch riêng liên quan đến cả cuộc đời của mình. Mẹ Maria thì đã khấn giữ mình đồng trinh trọn đời, còn thánh Giuse thì quyết sống âm thầm để phụng sự Thiên Chúa.

Tuy nhiên, cuộc đời và lựa chọn thủa ban đầu của các ngài đã sang trang khi Thiên Chúa muốn các ngài đi theo một hướng khác. Hướng đi của kế hoạch cứu chuộc mà Thiên Chúa đang muốn các ngài là những cộng sự viên tích cực. Khi biết được thánh ý Thiên Chúa, các ngài đã mau mắn đón nhận, sẵn sàng trung thành với ý định của Thiên Chúa.

Vì thế, nơi thánh Giuse, ngài đã vâng lời sứ thần truyền tin, dù trong giấc mơ: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về làm vợ mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20) ; “Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền” (Mt1,25), nên đã đón Mẹ Maria về nhà. Sự vâng phục Thiên Chúa còn được thánh Giuse biểu lộ cách trung thành khi đặt tên cho con trẻ là Giêsu và dẫn Đức Mẹ và Hài Nhi trốn sang Ai cập cũng như từ Ai Cập trở về Nazareth.

Nơi Mẹ Maria cũng vậy. Sau khi được giải thích qua sự thắc mắc của Mẹ về việc mang thai, Mẹ không một chút do dự, phản kháng hay phàn nàn, Mẹ đã hoàn toàn buông theo thánh ý Chúa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.

Như vậy, nhờ tiếng xin vâng của Mẹ Maria, Con Thiên Chúa đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta để trở thành Đấng Emmanuen, thì cũng nhờ sự mau mắn, nhạy bén của thánh Giuse, Con Thiên Chúa từ đây được tháp nhập vào dòng dõi vua Đavít để cứu chuộc những ai sống dưới chế độ lề luật.

  1. Hãy để cho Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời của ta

Hôm nay, chúng ta đã bước sang những ngày cận kề của việc mừng Đại lễ Giáng Sinh, chắc hẳn mỗi người chúng ta cũng đều đặt ra cho mình câu hỏi như: chuẩn bị đến lễ Giáng Sinh, mình phải đón Chúa với tâm tình nào?

Có lẽ không có tâm tình nào tốt đẹp và ý nghĩa cũng như giá trị cho bằng tâm tình của Mẹ Maria và thánh Giuse, đó là thái độ vâng phục và khiêm nhường.

Tuy nhiên, hai đức tính này đang là một thách đố lớn lao cho hết mọi người. Bởi vì trong cuộc sống hiện nay, có nhiều điều làm cho chúng ta khó lòng vâng phục. Có biết bao thứ làm cho chúng ta khả nghi huyền nhiệm, tức là giảm thiêng.

Thật vậy, sự hiểu biết và văn minh của con người càng phát triển thì sự vâng phục đức tin lại càng trở thành thách đố, bởi lẽ chúng ta ít tin vào những chuyện thiêng thánh, vì thế, sự dửng dưng là điều mà nhiều người trong chúng ta đang mắc phải.

Lời Chúa đối với chúng ta có lẽ không còn chỗ đứng quan trọng nhất trong cuộc đời. cũng vậy, Lời Chúa không còn trở thành kim chỉ nam cho cuộc sống. Vì thế, việc yêu mến, nhạy bén và thực thi Lời Chúa có lẽ đã trở nên nguội lạnh đến khô cứng trong tâm hồn nhiều người. Mặt khác, cũng không ít người luôn luôn sợ phải thực thi Lời Chúa, vì nếu thi hành Lời Chúa dạy, thì chính Lời Chúa lại là rào cản cho những kế hoạch bất chính của chúng ta. Với những lý do trên, nên nhiều khi chúng ta mừng lễ Giáng Sinh với những gì là lễ hội thuần túy chứ không phải là chiêm ngưỡng, cảm nghiệm và sống sự điệp yêu thương của Mầu nhiệm Giáng Sinh.

Nguyên nhân sâu xa đó là thiếu sự khiêm nhường thực sự. Nếu Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đã không khiêm nhường, mà ngược lại, các ngài kiêu ngạo, thì chắc chắn Thiên Chúa phải tìm con đường khác để đến với nhân loại. Nhưng các ngài đã khiêm nhường thẳm sâu, sự khiêm nhường của các ngài đã làm cho chương trình cả Thiên Chúa được hiện thực cách tuyệt vời nhất.

Sư điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống sự vâng lời và khiêm nhường, để chúng ta thuộc về Chúa, và để Chúa hiện diện cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Chỉ khi nào mỗi người biết vâng nghe Lời Chúa và sống trong sự khiêm nhường, lúc ấy, chúng ta mới hưởng được trọn vẹn niềm vui Giáng Sinh. Nếu không, lễ Giáng Sinh đến rồi lại đi như một lễ hội, còn tâm hồn chúng ta vẫn trống rỗng, hoang tàn như bãi cát sa mạc hay như những thửa đất khô cằn sỏi đá.

Lạy Đấng Emmanuen, xin ban cho mỗi người chúng con trở nên thửa đất tốt nhờ việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong sự khiêm tốn. Xin Chúa tha thứ lỗi lầm, thiếu xót và thương ngự xuống trong tâm hồn chúng con như xưa Chúa đã đến và hiện diện trong cuộc đời của Mẹ Maria và thánh Giuse cũng như nơi thế giới con người. Amen.

Về mục lục

.

THIÊN SỨ BÁO TIN CHO GIUSE

Học viện giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Ai là nhân vật chính của trình thuật: Chúa Giêsu? Đức Maria? Thánh Giuse? Ai là chủ từ các câu xét về văn phạm? Tại sao nơi câu 18, tác giả lại dùng kiểu nói thụ động (“bà đã chịu thai”)?

2. Bí ẩn của trình thuật: thánh Giuse tỏ ra công chính ở chỗ nào? phải chăng là công chính theo luật? Như vậy thì tại sao ngài hành động cách bí mật? Phải chăng là lòng từ tâm? Vậy thì tại sao ngài định ly dị Đức Maria nếu nghĩ rằng bà vô tội? Muốn trả lời, phải giải quyết bí ẩn khác sau đây: thánh Giuse cho rằng Maria có tội hay vô tội? hay ngài tôn kính bà như hòm bia Thiên Chúa? Có nền tảng văn chương nào cho những lập trường ấy không? hay chỉ có những khó khăn không vượt qua được?

3. Việc hiện ra cho Giuse được tường thuật với thể văn của các cuộc truyền tin, loại biến cố trong đó luôn có vấn đề một dấu chỉ được mặc khải và một sứ mệnh được trao phó: so sánh với St 16,11 ; 17, 19 ; Tl 13, 3- 5 ; Is 7, 14 ; Lc 1, 26- 28. Trong trình thuật Mt, ta có gặp lại những yếu tố của lược đồ chung ấy không?

4. Trong các lần hiện ra của thiên sứ sau đó, Giuse có còn được gọi là “con Đavít ” nữa không? Nơi Mt 1, 1, phải chăng Chúa Giêsu đã không được gọi là Con Đavít? Đối chiếu hai trường hợp.

5. So sánh câu trích dẫn Is 7,14 trong Mt và trong nguyên bản: đâu là chi tiết thay đổi chính? Chi tiết này có ám chỉ điều gì về ý nghĩa của trình thuật không?

6. Phải chăng không có đồng nhất cơ cấu giữa sứ điệp (cc.20- 21), câu trích dẫn sấm ngôn (c. 23) và trình thuật (c.25)? Hãy nhấn mạnh đến những hạn từ được lấy lại trong mỗi phần của ba phần câu chuyện.

7. So sánh viễn tượng của Mt và của Lc trong các trình thuật thời thơ ấu. Lc muốn dạy về việc thụ thai đồng trinh và cho thấy Thiên Chúa làm được mọi sự. Mt có mục đích khác không? (x. 1, 1- 17).

8. Hãy thử tái lập lại cách dịch cc.20- 21: chữ “vì” mở đầu câu nói đến việc thụ thai đồng trinh có ý nghĩa gì?

9. Nên gán cho đoạn văn tiêu đề nào: “Việc thụ thai Chúa Giêsu cách đồng trinh” hay “Giuse đứng trước mầu nhiệm”? Có thể tìm được một tiêu đề hay hơn không? Hãy tra cứu các ấn bản sách Tin Mừng.

10. Có thể so sánh Giuse với Gioan tiền hô theo nghĩa nào? Đâu là vai trò của Giuse trong nhiệm cục cứu rỗi?

CHÚ GIẢI

1. Nếu đem so sánh bản văn này với các câu song song của Luca, ta thấy có một liên hệ nào đó về nội dung:

+ Mt: “Maria, mẹ Người, đã đính hôn với Giuse “.

– Lc: “… một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse … và tên của trinh nữ là Maria …”.

+ Mt: “Chớ sợ lấy Maria, vợ ông, vì thai sinh nơi bà là do tự Thánh Thần “.

– Lc: “Maria, đừng sợ, vì … Thánh Thần sẽ đến trên bà …”.

+ Mt: “Bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu “.

– Lc: “Này đây bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai mà bà sẽ gọi tên là Giêsu”.

Nhưng, trong lúc Lc trình bày việc truyền tin cho Maria, thì Mt lại trình bày việc truyền tin cho Giuse – và vì thế mọi viễn tượng đều thay đổi.

Hơn nữa, do việc Mt 1 -2 không có một đoạn nào song song với Lc 1-2, nên các trình thuật về thời thơ ấu, nơi Mt, có những dị biệt quan trọng sánh với Lc 1- 2 : (a) nơi Mt, Giuse, “con Đavít” (c.20b), kẻ đưa Chúa Giêsu vào dòng dõi Đavít, là khuôn mặt chính yếu chứ không phải Maria (Lc) ; b) Xem ra Giuse và Maria sống tại Bêlem (Mt), vì hình như họ trở về Nadarét là theo một mặc khải đặc biệt nào đó; (c) Trình thuật của Mt chất chứa cả một loạt hành động được truyền làm từ trong giấc mơ, trong lúc Luca không kể lại giấc mộng nào hết; (d) Các chi tiết chính của trình thuật Mt xem ra được chọn lọc phù hợp với một sấm ngôn, như thể để hoàn thành sấm ngôn ấy.

Đặc điểm sau cùng này (đ) cho thấy Mt, khi chọn lựa chất liệu của mình, đã tự giới hạn vào những chi tiết có một nền tảng Kinh Thánh minh nhiên. Mục đích của ông xem ra có tính cách hộ giáo: trình bày Giuse là cha Chúa Giêsu theo pháp luật và như thế thực sự liên kết Người vào dòng dõi Đavít (x. gia phả Chúa Giêsu). Lối trích dẫn Cựu ước dồi dào, và theo cách riêng của Mt, cho phép nghĩ rằng ở đây tác giả tự do khởi thảo bản văn theo quan điểm riêng của mình hơn. Về hình thức văn chương, ông cảm hứng từ một thể văn khá thịnh hành trong Kinh Thánh, thể văn “truyền tin sinh hạ” (x. St 18, 9-15 ; Tl 13, 2- 7 ; 1 Sm 1, 9- 18 ; Is 7, 13- 17 ; Lc 1, 11- 22. 26- 38); những cuộc truyền tin này thường chứa đựng các yếu tố sau đây, được sắp xếp theo một trật tự thay đổi:

– Việc can thiệp của Thiên Chúa, thường được một thiên sứ loan báo (c.20).

– Một lời kêu gọi nhấn mạnh đương sự được thăm viếng với danh nghĩa nào (ở đây là “con Đavít”, c.20).

– Một trở ngại phải vượt qua, thông thường là sự son sẻ của người đàn bà (ở đây, Giuse phải lấy một trinh nữ mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: các.18 và 20).

– Một dấu hiệu được ban như bảo chứng về sự hoàn thành lời truyền tin (ở đây là sự sinh hạ cách lạ lùng).

– Sau cùng là những xác định về danh tính và tương lai của đứa bé (ở đây, tên Giê-su và ý nghĩa của tên ấy, c.21).

2. Liên hệ văn chương giữa 1, 18- 25 và 1, 1- 17 nằm trong thành ngữ to gennêthen “thai sinh” (cái được sinh ra) (c.20c), tiếng nhắc lại động từ “sinh” nằm suốt cả đoạn 1, 1 -17: việc Chúa Giêsu sinh hạ, tuy có vẻ lạ thường, vẫn nằm trong đường hướng các cuộc sinh hạ trước đó . Tiêu đề của đoạn 1, 18- 25: “Chúa Giêsu Kitô sinh ra thế này” (c. 18a) gợi lại tiêu đề ở 1, 1 và củng cố mối tương quan chặt chẽ giữa hai đoạn văn chương một. Về phương diện luận lý, 1 , 18- 25 đưa ra những lời giải thích cho thành ngữ ở 1, 16. Bản gia phả đã mặc khải cho ta biết Chúa Giêsu là ai: là Đấng Thiên sai, con của lời hứa cho Abraham, và phát xuất từ gốc Đavít; bản văn tiếp theo cho thấy Người mang nguồn gốc đó thế nào. Thành ra tiếng “Giêsu Kitô”, kết thúc đoạn văn đầu và khai mở đoạn văn sau, là bản lề của cả hai, nhưng đồng thời là trọng tâm của mỗi một đoạn.

Đôi lúc ta thấy như có một đối nghịch giữa 1, 1- 17 và 1, 18-25: các cuộc sinh hạ trước Chúa Giêsu đều thuần túy tự nhiên, thuộc lãnh vực sinh vật, trong lúc việc sinh hạ của Chúa Giêsu hoàn toàn siêu nhiên. Thế nhưng Mt lại muốn nhấn mạnh hơn đến sự kiện này là: chính Thiên Chúa Tạo hóa và Cứu chuộc đã hành động trong mọi cuộc sinh hạ của lịch sử cứu rỗi và trong việc sinh hạ Chúa Giêsu. Ngược lại, phải tránh xem 1, 18- 25 như là tiếp tục bình thường của 1, 1- 17: không có dấu gì trong bảng gia hệ 1, 1- 17 cho phép nghi ngờ việc Chúa Giêsu xuất hiện một cách lạ lùng như 1, 18- 25 kể lại. Thành ra ở đây cũng như khắp nơi trong Tân ước, ta gặp lại sự đối nghịch giữa hai chi tiết đánh dấu việc Chúa Kitô xuất hiện: Người hoàn toàn liên tục với tất cả các tiền nhân của lịch sử cứu rỗi, lịch sử mà Ngươi hoàn thành; nhưng đàng khác? Hoạt động cứu rỗi của Thiên Chúa trong Người siêu việt hẳn mọi cái đi trước.

3. Chắc chắn 1,18- 25 trước tiên không có mục đích mô tả việc thụ thai Chúa Giêsu cách lạ lùng; việc này chỉ được nhắc sơ qua như một sự kiện mà ai nấy đều biết. Ta cũng có thể bảo, như sẽ chứng minh dưới đây, là tất cả đoạn văn này nhằm trình bày tại sao Giuse phải đem Maria về nhà mình: không phải vì bà được thụ thai đồng trinh, nhưng đúng hơn là: mặc dù bà thụ thai đồng trinh. Theo khía cạnh đó thì mục đích của Mt rõ ràng có tính cách giáo thuyết. Ông chẳng tìm cách tường thuật lại chính giai thoại ấy đâu, vì ông bỏ qua mọi chi tiết thuật sự thông thường như chẳng xác định thời gian, nơi chốn, đặc tính của các nhân vật; trái ngược với Luca, ông không nêu lên danh tánh vị thiên sứ hiện ra. Loại trình thuật sơ sài cô đọng này là đặc điểm của Mt: thật ra đó là một giáo huấn dưới hình thức thuật sự.

Đàng khác, phải nhận rằng sự kiện cưu mang đồng trinh Chúa Giêsu chỉ có một địa vị hạn hẹp trong lời rao giảng nguyên thủy của Kitô giáo ở thế kỷ I, bởi vì ngoài Mt 1 và Lc 1 ra, thì Tân ước không nói tới điều đó chỗ nào nữa cả. Ví dụ các bản tóm tắt giáo lý và các bản tuyên tín cổ xưa nhất, cũng như các thư Phaolô và văn phẩm của Gioan đâu có ghi nhận sự kiện này. Bởi vậy nhiều nhà phê bình đã cho rằng trình thuật cưu mang đồng trinh Chúa Giêsu chỉ là một sản phẩm muộn màng của Kitô giáo chịu ảnh hưởng những thần thoại Hy-La bàn về việc sinh hạ có tính cách thần linh của các nhân vật quan trọng. Nhưng nếu so sánh tỉ mỉ các huyền thoại ấy với trình thuật của Mt lẫn Lc, ta sẽ thấy vấn nạn thật là yếu ớt. Từ ngữ và tư tưởng của Mt lẫn Lc cho thấy trình thuật của họ bắt nguồn từ môi trường Cựu ước, một môi trường hoàn toàn xa lạ với đa thần giáo Hy-la.

Mt 1, 18- 25 được chia ra làm 5 phần:

1) Tiêu đề của đoạn văn (c. 18a);

2) Tình cảnh của Giuse và Maria (cc. 18b-19);

3) Chúa dùng vị thiên sứ can thiệp để giải thích tình cảnh và thông ban một mệnh lệnh (cc.20- 21);

4) Tác giả gợi lên những chiều kích của hành động thần linh đó (cc 22- 23);

5) Sau sùng, Giuse thi hành răm rắp mọi điều Chúa đã truyền cho (cc. 24- 25)

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

Qua tiêu đề bản văn (c.18a), Mt muốn ngỏ lời với các tín hữu để xác định hoặc sửa sai quan niệm của họ về việc Chúa Giêsu Kitô sinh ra. Mt không đưa ra một chỉ dẫn nào về Maria và Giuse; ông nói đến các ngài như những người mà độc giả đều biết rõ. Chủ ý của ông chẳng phải là trưng tài liệu song là dạy giáo lý.

Câu 18b gợi ý (song không minh nhiên quả quyết) rằng Giuse đã biết việc thụ thai con trẻ là do Chúa Thánh Thần.

Động từ sunelthein, theo tự nghĩa là “đến với, phối hợp với một người nào đó “, có thể chỉ việc giao hợp hoặc việc sống chung. Văn mạch gần phù hợp với nghĩa đầu hơn. Cô thiếu nữ Do thái, được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi (việc chuyển tiếp này, khai mạc việc sống chung, làm nên lễ hôn phối).

“Do tự Thánh Thần”: giới từ “ek” ở đây nói đến một nguyên nhân lịch sử: do một hành động độc nhất của Thánh Thần. Lc 1, 35 thì loan báo một hoạt động tích cực hơn: Thánh Thần “sẽ đến trên” Đức Maria. Từ ngữ của Mt, vì chỉ ghi nhận sự kiện, nên có vẻ dè dặt hơn. Vả lại, Mt mỗi lần nói đến Thánh Thần, là để công bố hoạt động cao siêu của Thiên Chúa, nhưng không giải nghĩa hoặc phân tích gì thêm (3, 11 ; 4, 1 ; 10, 20 ; 12, 18; 12, 28. 31).

“Giuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà”: sự công chính của Giuse hệ tại chỗ nào? Giai thoại ta đang nghiên cứu đã làm các nhà chú giải bối rối không ít. Phần lớn cho rằng sự công chính đó chính là việc mặc khải cho Giuse biết Maria đã thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, hầu chấm dứt mối băn khoăn nghi ngờ nơi ngài. Nhưng lập trường này đẩy ta vào những vấn đề tâm lý giả tạo và khó giải quyết, những vấn đề hoàn toàn xa lạ với tinh thần của tác giả và độc giả Tin Mừng. Đúng hơn là hình như Giuse băn khoăn không phải về tiết hạnh của bạn mình, song là về mối liên hệ giữa ngài và đứa trẻ, về nhiệm vụ ngài phải gánh vác đối với đứa bé đó. Giuse không công chính theo nghĩa là ngài vâng lời Lề luật vì chả có luật nào buộc phải ly dị vị hôn thê mới bị coi như là ngoại tình cả (Đnl 22,13-21.23-27 chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng). Đàng khác, nếu âm thầm ly dị Maria, thì Giuse lại càng bất tuân Lề luật, vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý khi mang tính cách chính thức công khai (Đệ nhị luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành). (Vẫn biết pháp chế của các tiến sĩ luật có cho phép tổ chức việc ly dị riêng tư trước hai nhân chứng – x.Mishnah, Sotah 1, 5- song hình như pháp chế ấy nằm sau thời Chúa Giêsu; hơn nữa, kiểu ly dị như vậy không thể là điều Giuse nghĩ tới, vì bản văn Mt rõ ràng nói đến một việc ly dị “âm thầm, bí mật” – từ ngừ hy lạp lathra, theo Zorelle, Bauer …, chỉ có ý nghĩa ấy – với lại ly dị mà có hai nhân chứng thì sức mấy giữ được bí mật lâu trong một ngôi làng nhỏ như Nadarét …). Sau cùng, mọi lối giải thích sự công chính của Giuse như là “công chính chiếu luật” sẽ đẩy ta vào chỗ tiến thoái lưỡng nan. Thật vậy nếu theo con mắt của Giuse, Maria phạm tội ngoại tình, thì ta hiểu ngay là ngài đã nghĩ tới chuyện ly dị, song ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến việc ly dị âm thầm, vì bấy giờ việc ly dị sẽ chẳng có hiệu lực pháp lý và lại không thể giữ bí mật được lâu. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, thì ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép và vì, xét như là hôn phu, người có bổn phận bảo vệ vị hôn thê vô tội chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác. Thành ra không thể cắt nghĩa sự công chính của Giuse như là “công chính theo luật” được.

Vấn đề ở đây là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giuse tôn trọng công trình Thiên Chúa nơi Maria và cấm ông không được đoạt lấy công lao của một hành động thần linh: Giuse nghĩ rằng mình không được quyền đem về nhà một kẻ mà Giavê đã dành riêng cho Ngài. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui, và vì tế nhị đối với Thiên Chúa. Ngài cẩn thận không muốn “tiết lộ” mầu nhiệm thần linh nơi Maria (tiếng deigmatisai, theo Origène và Eusèbe, không bao hàm ý nghĩa xấu tố giác? bêu nhục) như tiếng paradeigmatisai; Jouon cũng dịch là tiết lộ, bày tỏ “). Ngài phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Thánh Kinh trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Môisen cởi giày trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm truởc sự xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh, như Elidabét tự hỏi tại sao mình được mẹ Chúa viếng thăm, như viên bách quản trong Tin Mừng, như Phêrô cúi mình tâu: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ tội lỗi “… Như “Abel người công chính”, Giuse đã tỏ mình ra là kẻ hết dạ tôn thờ Thiên Chúa tabel là người “công chính” duy nhất được Mt gọi tên trong Tin Mừng của ông, 23, 36, công chính không phải vì tuân hành Lề luật, vì Lề luật chỉ được công bố với Môisen !).

Lối giải thích này được văn mạch chung của chương 1 Mt xác nhận. Thật vậy, trong đoạn văn đầu tiên, Mt kể lại gia phả của Chúa Giêsu bắt đầu từ Abraham và Đavít, đi ngang qua Giuse. Nhưng chính gia phả ấy lại gặp một vấn đề hóc búa nơi Giuse. Hóc búa là vì Chúa Giêsu chẳng phải là con Giuse theo xác thịt. Thành ra bản văn chúng ta đây có mục đích giải thích làm sao Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi Đavít, mặc dù Người chẳng phải là con Giuse. Và lời giải thích nằm ngay trong việc Giuse thừa nhận Chúa Giêsu trước mặt pháp lý. Do đó ta thấy rõ trình thuật không có mục đích bênh vực việc thụ thai đồng trinh cho bằng là chứng minh làm sao Chúa Giêsu đã trở nên con cháu Đavít và là Đấng Thiên sai dòng dõi Đavít, mặc dầu Người được mang thai đồng trinh, một yếu tố đã gây nên vấn nạn lớn lao. Hai phần của chương đầu Mt như thế làm nên hai vế của cùng một chứng minh vậy.

Một luận cứ xác nhận khác là chính lời của thiên sứ (cc 20-21), nếu được hiểu đúng. Cách dịch hay nhất có lẽ như thế này: “Hỡi Giuse, con Đavít, chớ sợ đem Maria về nhà làm vợ vì quả thật (Hy ngữ : gar ; pháp ngữ : can certes) thai sinh nơi bà là công thành của Thánh Thần, nhưng (Hy ngữ : dé) bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu; vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội lỗi “. Đúng vậy, lối dịch chữ gar ra vì quả thật thường được thấy trong Tân ước (1 Cr 9, 19 ; 2 Tx 2, 20 ; Mt 18, 7 ; 22, 14 ; 24, 6 …). Thành ra qua lời mình, thiên sứ giả thiết là Giuse đã biết Maria mang thai đồng trinh rồi và chính việc thụ thai này đã thúc đẩy ngài rút lui trước sự can thiệp của Thiên Chúa; tuy nhiên thiên sứ ra lệnh cho ông dù sao (“nhưng”) cũng phải chấp nhận đặt tên cho đứa trẻ và đưa nó vào dòng dõi Đavít.

“Giêsu”: tên chỉ định con người và, đặc biệt trong Kinh Thánh, chỉ định chức vụ mà Thiên Chúa đặt định cho trong lịch sử cứu rỗi. Iêsous là phiên âm hy lạp của tiếng hy bá Yehôshua (Xh 24, 1 3) hoặc Yéthua (Nhm 7, 7), “Giavê là sự cứu độ”, một tên riêng khá phổ thông trong Cựu ước và Tân ước.

“Vì (từ ngữ mở đầu câu nói về ơn gọi, cái ơn gọi được diễn tả qua danh tánh mà Thiên Chúa truyền phải đặt cho đứa trẻ) chính Người sẽ cứu (động từ “cứu” cũng tái xuất hiện trong ba Tin Mừng Nhất Lãm: 15- 15- 17 là trong Mt-Mc-Lc, trong khi chỉ mình Lc gán cho Chúa Giêsu tước hiệu “Đấng Cứu Thế” nơi chương 2, 11 và dùng chữ “ơn cứu độ “) dân mình tức Giáo Hội, Israel đích thực; lao, “dân”, là một từ ngữ riêng của Mt (14 lần, trong lúc Mc chỉ dùng hai lần) dùng để chỉ dân Thiên Chúa) khỏi tội lỗi (x.Tv 130, 8 ; ta không được bảo toàn thể Do thái giáo đương thời Tân ước đều mong chờ một Đấng Thiên sai thuần túy có tính cách quốc gia và chính trị; Thánh vịnh Salomon 17 vẫn hy vọng rằng Con Đavít sẽ quy tụ dân Người, thanh tẩy và thánh hóa họ).

“Mọi sự này xảy ra … ” (cc.22-23). Công thức quen thuộc này của Mt không muốn quả quyết rằng giữa các bản văn Cựu ước và thực tai của Tân ước có một cái gì bình đẳng. Mt cho rằng bao giờ cũng vẫn là chính Thiên Chúa điều khiển lịch sử thánh, nhưng các thực tại Tân ước mới là đích điểm và là sự viên mãn của Cựu ước.

“Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai”: Mt trích Is 7,14 (x.2V 16, 5- 9) theo bản 70 với chữ parthenos, “tính nữ”, trong lúc nguyên bản dùng chữ almâ, là tiếng vừa chỉ một thiếu nữ, vừa chỉ một người vợ trẻ. Vì thế, dựa vào Is 7,14, Do thái giáo miền Palestine không mong chờ một Đấng Thiên sai sinh hạ đồng trinh, nhưng dù vậy Đấng Thiên sai cũng sẽ là một người con đầu lòng (Lc 2,7). Trong hoàn cảnh lịch sử của Is 7,14, vị ngôn sứ chỉ loan báo một biến cố sắp gây chưng hửng cho vua Achaz cũng lòng tin.

“Emmanuel”: Mt chẳng cố ý nêu ra một tên mới của Đấng Thiên sai, song chỉ muốn nói lên ý nghĩa của con người và của công cuộc Người thực hiện. Chính Is 7, 14, bản văn ông trích dẫn, và 8, 8 cũng đã không nhấn mạnh đến sự hiện diện đơn thuần của Thiên Chúa, điều mà cả Kinh Thánh đều giả thiết, nhưng đến sự hiện diện tích cực, hằng cứu giúp của Ngài. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu vớt họ. Lời hứa long trọng của Chúa Kitô vinh hiển “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, 28,20) đánh dấu việc thể hiện hoàn toàn lời loan báo trên. Như thế, Tin Mừng Mt mở đầu và kết thúc với ý tưởng này là: Thiên Chúa đã hiện diện tích cực với nhân loại trong con người Chúa Giêsu.

Nơi câu 24- 25, Mt ghi nhận: sau khi được Thiên Chúa báo mộng, Giuse không còn thụ động nữa; ngài “tỉnh giấc” hay “chỗi dậy” tuân hành răm rắp lệnh truyền. Chi tiết các câu 24- 25 tương ứng sít sao với lời dạy của thiên sứ (cc.20-21) và với lời giải thích cùng trích dẫn sấm ngôn (cc.22-23). Như câu 23, câu 25 nhận xét rằng Maria còn đồng trinh lúc hài thi sinh ra; thành ra kiểu nói “ông đã không biết bà cho tới ngày bà sinh con” không phủ nhận cũng chẳng ám chỉ sự đồng trinh sau đó. Vả lại ta nên nhớ mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có ý nghĩa sinh vật học (mặc dầu sự kiện có thật) song là Kitô học, nghĩa là diễn tả đức tin của Giáo Hội vào thần tính và nhân tính của Chúa Giêsu.

KẾT LUẬN

Ở hai đầu của lịch sử Lời hứa, có hai ơn gọi làm âm vang cho nhau và bổ túc nhau: ơn gọi Abraham, cha của Lời hứa, và ơn gọi Giuse, kẻ mà lòng vâng phục mệnh lệnh thần linh đã giúp thực hiện lời Thiên Chúa hứa là cho Đấng Emmanuel tới. Và nhờ được Giuse đưa vào dòng dõi Đavít, kẻ thụ thác Lời hứa, Chúa Kitô từ nay liên hệ trực tiếp với mỗi người con cháu Abraham, đón con cháu đông như sao trên trời chẳng ai đếm nổi (St 15, 5).

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Sự công chính của thánh Giuse không nằm ở chỗ ngài muốn bí mật ly dị Đức Maria. Thật ra nó nằm ở chỗ thánh nhân từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà ngài biết là Con Thiên Chúa. Ngài sợ mang tiếng chiếm đoạt vai trò mà Chúa không ủy thác. Sở dĩ ngài muốn ly dị Đức Maria đó là vì tế nhị, vì vâng theo thánh ý Chúa, Đấng không giao cho ngài sứ mạng gì đối với Đức Maria và Hài nhi cả. Đối với Giuse, Thiên Chúa có mặt trong công chuyện này. Thiên Chúa đã sử dụng vị hôn thê của ngài, và vì thế ngài muốn rút êm để khỏi làm cản trở việc thực hiện một chương trình ngài không hiểu thấu. Nói cho đúng, sự “công chính” của thánh Giuse chính là ý thức của ngài về Thiên Chúa, là sự tôn trọng của ngài đối với mầu nhiệm và thánh ý Thiên Chúa. Người Kitô hữu cũng phải có lòng kính trọng sâu xa như vậy đối với các dự tính của Thiên Chúa về mình, phải có ý thức về sự siêu việt của Thiên Chúa mỗi khi Ngài cho ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài trong đời sống thường ngày: qua niềm vui, qua Thánh Thể, qua thử thách, qua lời kêu van giúp đỡ của tha nhân v.v…

2. Thánh Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu Kitô hằng sống. Chúng ta cũng phải đón nhận Người như thế, vì Chúa đang thực sự sống động trong Giáo Hội; nhờ Giáo Hội mà Người tự thông ban cho ta qua Thánh Kinh và Thánh Thể. Ngày nay, tin vào sự hiện diện sống động của Chúa trong Thánh Kinh và Thánh Thể không khó hơn việc thánh Giuse tin rằng con trẻ mà vị hôn thê của ngày chờ đợi thật là Con Đấng Tối Cao.

3. Thánh Giuse im lặng: Thánh Kinh không ghi lại một lời nào của ngài, một kẻ dù sao vẫn là con cháu Đavít và đã cho Chúa Giêsu được nên con Đavít.

4. Emmanuel: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Giêsu: Thiên-Chúa-cứu. Sở dĩ Thiên Chúa ở với chúng ta, đó là để luôn luôn cứu chúng ta. Sự hiện diện của Người trong đời ta là nguồn bình an và hoan lạc lớn lao nhất. Ngày nay, Chúa Giêsu là Emmanuel đối với chúng ta hơn bao giờ hết, vì sau khi sống lại, người đã hứa ớ với chúng ta cho đến tận thế.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 4 MV_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng xoay quanh cùng một đề tài: Đấng Mê-si-a, “con vua Đa-vít”.

Is 7: 10-16

Bài Đọc I trích dẫn là lời hứa long trọng mà ngôn sứ I-sai-a gửi đến cho vua A-khát, vua vương quốc Giu-đa, trong bối cảnh bi thảm: đất nước bị phân đôi và chịu áp lực tứ phía, vua không có con nối dòng. Thiên Chúa hứa ban cho nhà Đa-vít một dấu lạ: một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên cho con trẻ là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Rm 1: 1-7

Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc nhớ rằng xét như một phàm nhân, Đức Giê-su xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít; nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.

Mt 1: 18-24

Tin Mừng tường thuật “Biến Cố Truyền Tin” cho thánh Giu-se. Sứ thần mặc khải cho thánh nhân nguồn gốc thần linh của người con mà Đức Trinh Nữ Ma-ri-a cưu mang, và xin thánh nhân nhận đứa con này làm nghĩa tử để tháp nhập con trẻ vào dòng dõi vua Đa-vít.

BÀI ĐỌC I (Is 7: 10-16)

Sấm ngôn I-sai-a này là một trong những sấm ngôn vĩ đại về Đấng Mê-si-a: nó vang lên cách long trọng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít!”. Vị ngôn sứ ngỏ lời với vua A-khát, vua vương quốc Giu-đa, vào năm 734 trước Công Nguyên, tại Giê-ru-sa-lem trong hoàn cảnh ngặt nghèo cùng cực.

1-. Bối cảnh

Vào lúc đó, đế quốc Át-sua (thủ đô là Ni-ni-vê) đang bành trướng thế lực: đế quốc này gây sức ép trên cả vương quốc phương Bắc (vương quốc Ít-ra-en, kinh đô là Sa-ma-ri) lẫn vương quốc phương Nam (vương quốc Giu-đa, kinh đô là Giê-ru-sa-lem). Trong vòng ba mươi lăm năm, các đạo quân Át-sua xâm chiếm miền Pa-lét-tin đến sáu lần, tàn phá xứ sở và buộc triều cống nặng nề.

Vua A-khát cai trị vương quốc Giu-đa. Vì sợ hãi, vua tìm cách hòa hoãn với vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe. Trái lại, vua Xy-ri và vua Ít-ra-en liên minh với nhau để chống lại đế quốc Át-sua và muốn vua A-khát gia nhập liên minh vơi họ. Vua A-khát từ chối. Lúc đó, các lực lượng liên minh này mở chiến dịch gây sức ép với vua A-khát và đã tiến quân gần đến Giê-ru-sa-lem. Vua A-khát, bất trung với Thiên Chúa, đã tế lễ và đốt hương trên các nơi cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh (2V 16: 3-4).

Những lần can thiệp của ngôn sứ I-sai-a có thể đặt vào trong hoàn cảnh bi đát này. Vị ngôn sư chỉ đưa ra một huấn lệnh duy nhất: “Hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào chỉ một mình Đức Chúa”.

Bản văn chúng ta đọc mô tả lần can thiệp lần thứ hai của ngôn sứ I-sai-a bên cạnh vua A-khát. Trong lần can thiệp lần thứ nhất, ngôn sứ I-sai-a cố gắng thức tỉnh đức tin đang chao đảo của vua. Chắc chắn vô ích; vị ngôn sứ thử thuyết phục vua cách khác.

2-. Xin một dấu lạ

Ngôn sứ I-sai-a nói với vua: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu lạ dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”, nghĩa là một động đất, sao băng hay sấm chớp…

Vua A-khát trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Nhà vua tìm cớ thoái thác bằng cách viện dẫn Kinh Thánh: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6: 16). Lúc đó, ngôn sứ I-sai-a cất cao giọng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít!”. Và có lẽ trước toàn thể triều thần, vị ngôn sứ long trọng loan báo rằng thậm chí như vậy, Thiên Chúa vẫn cứ ban một dấu lạ và qua dấu lạ này Ngài sẽ cho biết rằng, bất chấp những tội bất trung của vua, Ngài sẽ không bỏ rơi dân Ngài khi ban cho vua một dấu chỉ: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”.

Tên con trẻ này là “Em-ma-nu-en”, có nghĩa: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, chắc chắn xuất xứ từ phụng vụ. Chúng ta gặp thấy tên này như một điệp khúc trong Tv 46. Tên này đối lập với thái độ cứng tin và ngần ngại của vua A-khát. Ngoài ra, nó cô đọng điều cốt yếu của những lời Thiên Chúa hứa trong Giao Ước.

3-. Tính thời sự của sấm ngôn

Sấm ngôn theo bản văn Hy-bá loan báo một thiếu nữ hay một người vợ trẻ chưa sinh con, tức là một trong các người vợ trẻ của vua sẽ sinh hạ một con trai cho vua. Sấm ngôn sẽ sớm được ứng nghiệm. Đối diện với hoàn cảnh bi thảm của Giê-ru-sa-lem, trước những đe dọa đè nặng trên vương quyền nhà Đa-vít: một mặt, thế lực liên minh muốn lật đổ vua; mặt khác, vua không có con thừa tự, vị ngôn sứ long trọng trấn an khi đảm bảo rằng Thiên Chúa vẫn phù trợ. Việc dòng dõi nhà Đa-vít vẫn không bị tuyệt tự là dấu chỉ cho thấy Đức Chúa vẫn bảo vệ che chở. Xem ra dấu lạ được loan báo ở đây là việc sinh hạ con của vua A-khát, tức vua Khít-ki-gia tương lai. Trên dòng dõi nhà Đa-vít, những niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a được kết tinh.

“Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong”: Diễn ngữ “Sữa chua và mật ong” gợi nhớ những ngôn từ diễn tả những ân ban của Đất Hứa: “Xứ sở chảy sữa và mật ong”. Tuy nhiên, theo văn mạch trực tiếp, quang cảnh về xứ sở màu mỡ này nhuốm màu sắc bi quan. Phần tiếp theo của sấm ngôn I-sai-a loan báo lãnh thổ bị quân Át-sua xâm chiếm và trở thành hoang phế: nghề canh tác sẽ bị tàn phá; không còn dầu, rượu lẫn bánh, “toàn xứ sẽ chỉ có gai góc và bụi rậm”. Những ai vẫn còn ở lại trong xứ sẽ chỉ ăn “sữa chua và mật ong” (Is 7: 21-23). Sự thánh thiện của con trẻ sắp chào đời được miêu tả cách thanh đạm: “biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt”.

Cuối cùng, sứ điệp tối hậu của vị ngôn sứ đem lại niềm hy vọng cho triều thần và đặc biệt cho vua A-khát, đó là hai vị vua liên minh chống vương quốc Giu-đa rốt cuộc sẽ thất bại và bị quân Át-sua tiêu diệt trong tương lai không xa. Quả thật, vào năm 732, hai mươi năm sau sấm ngôn này, vương quốc Xy-ri và vương quốc Ít-ra-en bị triệt hạ hoàn toàn: những của cải của họ bị chuyển đến kinh đô Ni-ni-vê, và dân chúng của họ bị dẫn đi lưu đày. Và sau đó không bao lâu, vào năm 721, vương quốc Ít-ra-en bị họa diệt vong.

4-. Chiều kích Mê-si-a của sấm ngôn

Chiều kích Mê-si-a của sấm ngôn này được mặc khải thành hai thời kỳ. Vào thời kỳ thứ nhất, chính ngôn sứ I-sai-a sẽ triển khai sấm ngôn này. Ở chương 9, vị ngôn sứ công bố: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta”. Nhờ sự xuất hiện của con trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít này, ánh sáng huy hoàng sẽ bừng lên chiếu rọi khắp miền Ga-li-lê. Ở chương 11, vị ngôn sứ hết lời ca ngợi những đức tính của con trẻ này, Đấng Mê-si-a vương đế sẽ mang đến cho thế giới sự công minh chính trực và nền hòa bình viên mãn.

Vào thời kỳ thứ hai, “dấu lạ” mà vị ngôn sứ được ơn linh hứng xác định rõ hơn. Vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, bảy mươi nhà thông thái thành A-lê-xan-ri-a họp nhau và dịch bản văn Kinh Thánh bằng tiếng Hy-bá sang Hy-ngữ, vì thế được gọi bản Bảy Mươi. Họ dịch “một thiếu nữ” của bản văn Hy-bá sang “một trinh nữ” của bản văn Hy-ngữ: “Một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”. Theo họ, ngôn sứ I-sai-a đã ban một dấu lạ, ấy vậy nếu một thiếu nữ sinh hạ một con trai thì chẳng có gì là lạ lùng cả, vì thế phải là một trinh nữ thụ thai và sinh hạ một con trai, thì đó mới thật sự là dấu lạ cho thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân tộc mình và của nhân loại.

5-. Dấu lạ

Thiên Chúa thực hiện dấu lạ khi mà những luật tự nhiên không đáp ứng hay không còn đáp ứng nữa, như khi Thiên Chúa cho bà Xa-ra, dù son sẻ và tuổi đã cao, sinh hạ I-xa-ác, hay cho bà Ê-li-sa-bét, chị họ của Đức Ma-ri-a, sinh hạ Gioan Tẩy Giả trong hoàn cảnh như bà Xa-ra. Thiên Chúa sẽ thực hiện dấu lạ còn lạ lùng hơn thế nữa khi cho Đức Ma-ri-a, một trinh nữ thụ thai và sinh hạ một con trai mà không cần đến sự kết hợp phái tính.

Nhưng việc sinh hạ Đấng Em-ma-nu-en có một tầm quan trọng khác nữa. Trong hoàn cảnh sấm ngôn được công bố, sứ điệp được gửi đến cho dân Ít-ra-en thật rõ ràng: bất chấp những bất tín của dân Ngài, Thiên Chúa vẫn ở với họ. Bất chấp tội lỗi của con người, bất chấp tội lỗi của chúng ta, “Thiên Chúa vẫn ở với chúng ta”.

BÀI ĐỌC II (Rm 1: 1-7)

Bài Đọc II trích dẫn phần mở đầu Thư gửi tín hữu Rô-ma. Phần mở đầu này tương ứng với với thể thức thư tính rất quen thuộc vào thời đại này: trước hết tên và thân thế của người gửi, tiếp đó tên và thân thế của người nhận, và cuối cùng lời chào và lời cầu chúc. Tuy nhiên, thánh Phao-lô mở rộng những dữ kiện và Ki-tô hóa chúng.

1-. Tên và thân thế của người gửi

Chúng ta lưu ý đến cách thức thánh Phao-lô tự giới thiệu thân thế của mình: trước hết, thánh nhân tự nhận mình chỉ là “tôi tớ của Đức Giê-su Ki-tô”; thứ nữa, thánh nhân nêu lên đặc tính ơn gọi Tông Đồ của mình: thánh nhân được Thiên Chúa gọi làm Tông Đồ và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa, xa hơn một chút, thánh nhân còn nhấn mạnh: “Nhờ Người (Đức Giê-su Ki-tô) chúng tôi nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ”. Qua cách thức giới thiệu này, thánh nhân nhất quyết xem mình ngang hàng với nhóm Mười Hai. Như họ, thánh nhân đã được Đức Giê-su chọn; như họ, thánh nhân đã được gặp gỡ Đức Ki-tô Phục Sinh và Ngài đã được trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho lương dân. Đây là lý do duy nhất mà thánh nhân có thể viện dẫn để đến Rô-ma, viếng thăm một Giáo Đoàn mà thánh nhân đã không sáng lập.

2-. Tóm tắt đạo lý

Trong lời mở đầu giới thiệu và chào hỏi này, thánh Phao-lô điểm qua những khái niệm Ki-tô giáo và thậm chí rút gọn đạo lý về thân thế của Đức Giê-su. Xét như một phàm nhân, Đức Giê-su xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít; xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Đức Giê-su đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng. Chúng ta lưu ý cách diễn đạt rất tinh tế của thánh Phao-lô ở đây. Thánh nhân không nói: “Con Thiên Chúa được sống lại từ cõi chết”, nhưng với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài đã từ cõi chết sống lại và lấy lại quyền năng ẩn dấu của Ngài ở nơi nhân tính.

3-. Con vua Đa-vít

Vài người hiểu kiểu nói của thánh Phao-lô: “Theo xác thịt, Ngài xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” theo sát từ rằng Đức Ma-ri-a cũng thuộc dòng dõi vua Đa-vít như thánh Giu-se. Cách hiểu này quá thu hẹp ý nghĩa thông thường của từ “xác thịt” theo Kinh Thánh. Trong Cựu Ước, từ xác thịt thường nhất chỉ toàn thể con người, tức là một phàm nhân đối lập với thần linh. Bất chấp vài điểm tương đồng, quan niệm Do thái về sự duy nhất của con người khác với quan niệm nhị nguyên của dân Hy-lạp theo đó có một sự đối lập giữa thân xác hư nát và linh hồn bất tử. Thuyết nhị nguyên này thật ra xa lạ với tư tưởng Do thái.

Vì thế, phải hiểu câu nói này rằng về phương diện phàm nhân, Đức Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Đây là chủ đề ngự trị cả ba bài đọc Chúa Nhật IV Mùa Vọng này. Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, chính xác là Đức Giê-su, ở nơi Ngài mọi lời hứa đều được thành tựu.

4-. Con Thiên Chúa

Thánh Phao-lô không bao giờ sử dụng kiểu nói “được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần” để chỉ tước vị Con Thiên Chúa của Đức Ki-tô như các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Quả thật, thánh Phao-lô không bao giờ ám chỉ đến cuộc thụ thai đồng trinh của Đức Giê-su, cũng như không bao giờ nói về Đức Trinh Nữ, ngoại trừ một lần mà không nêu tên: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4: 4).

Sự thinh lặng này có thể có lý do. Vào thời kỳ thánh Phao-lô viết Thư này, Đức Ma-ri-a có thể vẫn còn sống, vì thế, để bày tỏ lòng tôn kính Mẹ của Chúa Giê-su, thánh nhân kín đáo không nói về Đức Ma-ri-a. Nhất là, thần học của thánh Phao-lô xoay chung quanh trục biến cố Phục Sinh (và nhất thiết là Thập Giá) chứ không là biến cố Nhập Thể. Chính biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đã thiết lập một cuộc sáng tạo mới, một con người mới, một thời kỳ mới. Chính trong ánh sáng của viễn cảnh này mà lời công bố này mặc lấy tầm mức quan trọng của chúng: “Nhưng xét như Đấng từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng”.

5-. Lời cầu chúc

Sau cùng, thánh Phao-lô chào hỏi những người nhận thư. Thánh nhân ngỏ lời với hai nhóm người hình thành nên cộng đồng Ki-tô hữu Rô-ma: trước tiên, những người Ki-tô hữu gốc lương dân, nghĩa là “những người được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô”; tiếp đó, những người Ki-tô hữu gốc Do thái, nghĩa là “những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh”. Và thánh Phao-lô hiệp nhất hai nhóm làm một trong lời cầu chúc sau cùng: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an”“Ân sủng” là lời chào của người Ki-tô hữu gốc lương dân, còn “bình an” là lời chào của người Ki-tô hữu gốc Do thái.

TIN MỪNG (Mt 1: 18-24)

Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta chuyện tích Truyền Tin cho thánh Giu-se về cuộc thụ thai của Đức Giê-su bởi người mẹ đồng trinh là Đức Ma-ri-a. Trong Cựu Ước, văn thể truyền tin tự nó nói lên rằng việc con trẻ được sinh ra không do ý muốn thường tình của cha mẹ, nhưng do sự can thiệp của Thiên Chúa, như chuyện tích truyền tin cho tổ phụ Áp-ra-ham về cuộc sinh hạ I-xa-ác (St 18: 1-15), và cho cha mẹ của ông Sam-son về cuộc sinh hạ ông, một anh hùng của dân tộc (Tl 13: 1-7).

Quả vậy, ngay từ đầu chuyện tích Truyền Tin này, thánh ký ghi nhận cuộc thụ thai lạ lùng của Đức Giê-su: “Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”. Chuyện tích xoay quanh nhân vật chính: phản ứng của thánh Giu-se trước việc thụ thai của Đức Ma-ri-a mà tác nhân không phải là thánh nhân. Câu chuyện này thường nêu lên hai vấn đề: trước hết, Đức Công Chính của thánh Giu-se; thứ đến, Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a.

1-. Đức Công Chính của thánh Giu-se

Về Đức Công Chính của thánh Giu-se, cách giải thích truyền thống nhấn mạnh rằng thánh Giu-se không hề hay biết câu chuyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Vì thế, thánh nhân nghi ngờ đức hạnh vị hôn thê của mình, nhưng vì lòng nhân hậu, thánh nhân không muốn tố giác bà cách công khai, nên định tâm lìa bỏ bà một cách kín đáo. Lối giải thích này bật sáng đức hạnh không chỉ của thánh Giu-se, nhưng còn của Đức Ma-ri-a nữa. Sự im lặng của Đức Ma-ri-a thật đáng thán phục. Đối mặt với một mầu nhiệm không thể nào giải thích theo phương diện con người, Đức Ma-ri-a hoàn toàn tín thác vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh là công việc của Thiên Chúa, thì chắc chắn Thiên Chúa có cách để giải quyết vấn đề. Chắc chắn Thiên Chúa đặt để hai vị thánh này vào một sự thử thách nghiêm trọng. Từ đó rút ra một bài học linh đạo tuyệt vời: chúng ta đừng ngạc nhiên nếu phải chịu trăm chiều thử thách trong cuộc đời. Noi gương thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a, chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa và triệt để trung thành với kế hoạch yêu thương của Người.

Tuy nhiên, cách giải thích truyền thống này gặp phải một vấn nạn nan giải: Đức Công Chính theo Lề Luật đòi buộc thánh Giu-se phải tố cáo vị hôn thê của mình, vì thế thánh Giê-rô-ni-mô đã nhận xét chí lý rằng: “Thánh Giu-se ém nhẹm trọng tội của vợ mình mà cho là công chính ư?”. Vì thế, theo cách giải thích hiện đại, làm thế nào Đức Ma-ri-a có thể giữ kín cho riêng mình mà không cho thánh Giu-se biết, người mà Mẹ tin tưởng gửi gắm cuộc đời cho thánh nhân như một người chồng? Vì thế, thánh Giu-se không một chút nghi ngờ về đức hạnh người bạn đời của mình. Điều làm cho thánh nhân trăn trở chính là trong hoàn cảnh này, phải biết xử sự như thế nào cho phải lẽ. Một đàng, trên bình diện công bình pháp lý, với tư cách là người chồng hợp pháp của Đức Ma-ri-a, thánh nhân có quyền nhận Đức Ma-ri-a là vợ của mình và đứa con mà nàng cưu mang là con của mình. Nhưng mặt khác, trên bình diện công bình tôn giáo, thánh nhân bị đòi buộc phải kính trọng công việc của Thiên Chúa ở nơi Đức Ma-ri-a mà cho đến lúc này thánh nhân không được Thiên Chúa mời gọi dự phần vào.

Lúc đó, thánh nhân quyết định âm thầm rút lui, nhường bước trước kế hoạch của Thiên Chúa, chấp nhận dâng hiến điều đắt giá nhất của cuộc đời mình: tình yêu đối với Đức Ma-ri-a. Chính trong tâm trạng tiến thối lưỡng nan này mà thánh nhân giữ kín ý định cho riêng mình vì không thể nào thổ lộ hay giải bày với người bạn đời của mình. Vì thế, động từ Hy ngữ được dùng trong bản văn này không có ngữ nghĩa tiêu cục “tố cáo” hay “tố giác” như cách giải thích truyền thống đã hiểu, nhưng mang ý nghĩa tích cực: “thổ lộ” hay “giãi bày”“Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính, vì thế không muốn ‘thổ lộ’ (giải bày) ý định của mình cho Đức Ma-ri-a”.

Quả thật, để xua tan những nghi ngại của thánh nhân, sứ thần tái khẳng định những gì mà thánh nhân đã biết, đó là thai nhi mà Đức Ma-ri-a cưu mang là công việc của Chúa Thánh Thần, đồng thời mời gọi thánh nhân tham dự vào công việc này trong vai trò là người chồng của Đức Ma-ri-a và là người cha hợp pháp của thai nhi qua việc thánh nhân đặt tên cho con trẻ, nhờ đó con trẻ được sáp nhập hợp pháp vào hoàng tộc Đa-vít, có như thế, sấm ngôn của ngôn sứ Na-than về Đấng Mê-si-a (2Sm 7: 12) được ứng nghiệm. Vì thế, bản văn đòi buộc phải đọc là “Này ông Giu-se, hậu duệ Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì quả thật (“gar”) thai nhi mà bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh thần. Vì thế bà sẽ sinh con trai, còn ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì quả thật (“gar”) chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” .

Như vậy, Đức Công Chính của thánh Giu-se không dính dáng gì đến việc tuân giữ Lề Luật, (phải nói là việc tuân giữ Lề Luật quá nghiêm nhặt sẽ dẫn đến việc giết chết Đức Ma-ri-a và thai nhi Giê-su), nhưng thành tâm thiện chí lắng nghe để khám phá ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố đời thường của mình và mau mắn tìm cách đáp trả một cách tích cực: “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”. J. Escriva ca ngợi Đức Công Chính của thánh Giu-se như sau: “Thánh Giu-se là một thường nhân mà Thiên Chúa tin tưởng để thực hiện những điều vĩ đại. Thánh nhân đã làm đúng như Đức Chúa muốn thánh nhân làm, trong từng mỗi một biến cố hình thành nên cuộc đời của thánh nhân. Đó là tại sao Kinh Thánh ca ngợi thánh Giu-se là ‘người công chính’” (Bl. J. Escriva, Christ is passing by, 40).

2-. Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a

Cả hai cách giải thích, truyền thống hay hiện đại, đều nêu bật chủ đích của thánh Mát-thêu: nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su trong việc thụ thai đồng trinh. Điều này được khẳng định qua việc trích dẫn sấm ngôn I-sai-a: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Nhưng Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a được đặt thành vấn đề ở câu cuối cùng: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai”. Anh em Tin Lành thường hiểu liên từ Hy-lạp “cho đến khi” theo nghĩa liên từ tiếng Anh: “until” hay tiếng Pháp “jusqu’a ce que”, theo cách hiểu này Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a chỉ giới hạn trước và trong khi sinh con. Tuy nhiên, liên từ Hy-lạp này không khẳng định cũng không bác bỏ việc đồng trinh vẫn tiếp tục sau khi sinh con.

Phải nói rằng qua việc sử dụng liên từ Hy-lạp này, thánh ký không quan tâm đến điều gì đã xảy ra sau đó, nhưng chỉ đơn giản lưu ý điều gì xảy ra cho đến lúc đó, tức là, việc Đức Ma-ri-a thụ thai Đức Giê-su không do bởi tác nhân nam giới, nhưng hoàn toàn do bởi sự can thiệp duy nhất của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy cũng liên từ này ở Ga 9: 18, ở đó những người Pha-ri-sêu được nói cho biết họ đã không tin vào việc anh mù từ lúc mới sinh được chữa lành một cách diệu kỳ cho đến khi họ gọi cha mẹ của anh. Tuy nhiên, sau đó, họ cũng không tin. Sự bỏ ngỏ này được lấp đầy bởi truyền thống Giáo Phụ và Huấn Quyền như lời dạy của Công Đồng La-tê-ra-nô: “Nếu bất cứ ai không tuyên xưng theo các thánh Giáo Phụ rằng theo ý nghĩa đích thật Đức Thánh Nữ Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh  là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì vào thời sau cùng, không với yếu tố nam nhân nhưng bởi Chúa Thánh Thần, Mẹ đích thật cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã sinh ra bởi Chúa Cha từ muôn thuở, và Mẹ sinh hạ Ngài mà không có bất kỳ tổn hại nào đối với Đức Đồng Trinh của Mẹ, vẫn không bị xâm phạm ngay cả sau khi sinh hạ Ngài; thì kẻ ấy sẽ bị vạ tuyệt thông” (can. 3).

3-. Trọng tâm của câu chuyện Tin Mừng

Trọng tâm của câu chuyện Tin Mừng này là nhằm mạc khải nguồn gốc đích thật của Đức Giê-su được gói trọn ở nơi danh xưng “Em-ma-nu-en”, Đức Giê-su không đơn giản là một con người được tuyển chọn, nhưng là Thiên Chúa làm người để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.

Hằng năm, theo tiến trình Phụng Vụ, trước ngày đại lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cử hành một tuần lễ thường được gọi “Bát Nhật Giáng Sinh” kể từ ngày 17 đến ngày 24 để mời gọi các tín hữu suy gẫm các biến cố và các nhân vật có liên quan trực tiếp đến Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Như mọi năm, vào ngày 17 và ngày 18, bắt đầu Bát Nhật Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi suy gẫm nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su qua gia phả của Ngài và nguồn gốc thần linh của Ngài qua chuyện tích Truyền Tin cho thánh Giu-se, được đặt ngay từ đầu sách Tin Mừng Mát-thêu, ngỏ hầu khi chiêm ngắm con trẻ trong máng cỏ, chúng ta cũng có tâm tình như các mục đồng xưa: “Các mục đồng ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2: 20).

Về mục lục

.

ĐIỀU LẠ

Trầm Thiên Thu

Đời Nhân Thế Tím Hoa Mong Đức Chúa

Kiếp Tội Nhân Xanh Lá Vọng Ngôi Hai

Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Người ta vẫn nói vậy. Bởi vì sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, con cháu cũng chịu chung số phận. Nhưng Thiên Chúa hứa sẽ giải thoát nhân loại theo kế hoạch cứu độ của Ngài. Từ đó, loài người không ngừng mong chờ Đấng Thiên Sai – Đấng Cứu Độ. Cả Cựu Ước và Tân Ước (Is 7:14 và Mt 1:23) đều nói tới Đấng đó với tước hiệu đặc biệt: Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đấng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể làm người, chính Ngài sẽ giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của ma quỷ.

Xưa nay không có ai cao trọng bằng Thiên Chúa, mà cũng chẳng có ai bình dân và thân thiện như Ngài, đến nỗi Ngài đích thân vi hành và vui thích ở giữa nhưng con người hèn mọn là chúng ta – EMMANUEL (chữ Emmanuel cũng được viết là Immanuel). Theo ngữ nghĩa, người ta cho rằng chữ Noël (Pháp ngữ) được giản lược từ chữ Emmanuel – dạng cổ là Naël, và chữ này lại có gốc từ Latin là nātālis (diēs) – nghĩa là “(ngày) sinh”. Chữ phải có nghĩa, chữ nghĩa luôn liên quan cuộc sống. Sự liên kết thật là kỳ diệu.

TỪ SỰ LẠ…

Thời Cựu Ước, Kinh Thánh cho biết rằng chính Đức Chúa phán với vua A-khát: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.” (Is 7:11) Ngài cho phép, nhưng vua A-khát không dám. Ông nói: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.” (Is 7:12) Thiên Chúa cho phép ông cứ xin một “dấu lạ” nhưng ông không xin, vì ông biết rõ và tin thật Ngài là Đấng toàn năng, biến không thành có, biến hư vô thành thế giới hữu hình.

Thật tuyệt vời với đức tin của vua A-khát. Đó là cái phúc của ông. Đức tin rất quan trọng và cần thiết, thế nhưng thường thì người ta chỉ tin khi nào mắt thấy tỏ tường, đồng thời cũng thích “chạy đua” tìm kiếm những “dấu lạ” hoặc “sự lạ”, thỏa tính hiếu kỳ rồi thôi, thế mà đôi khi lại mạo nhận là mình có đức tin mạnh mẽ. Có lẽ đa số phàm nhân là thế. Ngày xưa, ngôn sứ Isaia đã phải lên tiếng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.” (Is 7:13-14) Mặc dù loài người quấy rầy và cứng lòng, nhưng Thiên Chúa không chấp, Ngài vẫn hứa và giữ trọn lời hứa đó.

Thiên Chúa Ngôi Hai chính là Đấng Emmanuel ấy, là Đức Giêsu Kitô, cũng là Đấng “làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư” và Ngài tạo “nền trái đất dựng trên biển cả, đặt vững vàng trên làn nước mênh mông.” (Tv 24:1-2) Đấng Emmanuel là Đấng Thánh, cao cả và vĩ đại, thế thì “ai được lên núi Chúa và được ở trong đền thánh của Ngài?” (Tv 24:3) Một câu hỏi xem chừng khá “hóc búa”. Và đó cũng là cách nhắc nhở chúng ta xem lại cách sống của mình.

Mọi thứ đều kỳ diệu về Đấng Emmanuel, Thiên Chúa uy linh cao cả, nhưng Ngài không thích dùng “quyền” mà “hành” người khác như những phàm nhân có chức có quyền, tự cho mình có “thế” hơn người khác. Ngày nay có nhiều dạng “ngu–chảnh” lắm. Ngược lại, Chúa Giêsu lại khiêm hạ và hòa nhã với mọi người, dù người nào đó ô uế vết tội xấu xa. Theo Thánh Vịnh gia, những người được lên núi Chúa và ở trong đền thánh của Ngài là những người “tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối”, và rồi họ “sẽ được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.” (Tv 24:4-5) Thánh Vịnh gia gọi họ là “dòng dõi những kẻ kiếm tìm Ngài, tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.” (Tv 24:6) Dẫu là bùn đất cũng hóa thành vàng ròng và kim cương, bởi vì “những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh.” (Is 40:31)

Nhận ra ý Chúa và biết mình là ai, Thánh Phaolô cho biết: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa.” (Rm 1:1) Và ông giải thích rõ ràng: “Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng. Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giêsu Kitô.” (Rm 1:2-6) Ôi, chúng ta thật diễm phúc!

Thật vậy, không hạnh phúc sao được, bởi vì dù là tội nhân khốn nạn mà vẫn được Thiên Chúa kêu gọi để thuộc về Ngài, muốn chúng ta hoàn toàn nên giống Ngài: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Kỳ diệu lắm, chúng ta thực sự là các thánh, thánh-nhân-lữ-hành, cùng sống trong một Hội Thánh, hiệp thông với các thánh-nhân-vinh-hiển (các thánh trên trời) và các thánh-nhân-đau-khổ (các linh hồn thánh nơi luyện hình). Trong tinh thần thánh đức đó, Thánh Phaolô cầu chúc mọi người: “Kính gửi tất cả anh em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.” (Rm 1:7) Hạnh phúc gia tăng, điều đó củng cố đức tin để chúng ta kiên trì chờ đợi trong khoảng Mùa Vọng – chờ mong Chúa Giêsu giáng sinh và quang lâm.

…TỚI MẦU NHIỆM

Kinh Thánh cho biết: “Sự tuyệt hảo của Thiên Chúa cao hơn các tầng trời, sâu thẳm hơn âm phủ, trải dài hơn cõi đất, rộng hơn cả biển sâu.” (G 11:8-9) Mãi mãi phàm nhân không thể hiểu được. Thiên Chúa vô hạn, nhưng loài người và mọi thứ hữu hạn.

Thời gian không dài ra mà ngắn dần. Và Lễ Giáng Sinh đã kề cận, Giáo Hội muốn chúng ta biết rõ “gốc tích” của Đức Giêsu Kitô qua trình thuật Mt 1:18-24, liên quan “dấu lạ” mà ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ xa xưa. Thánh sử Mát-thêu cho biết: Cô Maria, mẹ Người, đã thành hôn với Chú Giuse, nhưng trước khi hai người về chung sống, Cô đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Quả thật, đó là điều rất lạ, những người không có niềm tin thì không thể nào tin được. Chắc chắn như thế.

Điều lạ này tiếp điều lạ khác. Cứ theo sự thường thì lời Sứ Thần không khác gì là “tiếng sét ngang tai”, là “chuyện tày trời”. Chắc rằng nếu nghe người ta xì xầm chuyện Cô Maria có thai thì Chú Giuse buồn lắm. Tiến thoái lưỡng nan. Khó xử lắm. Bỏ thì thương mà vương thì tội. Vả lại, cả hai Cô Chú còn trẻ, cùng khấn giữ đồng trinh, vậy mà sao lại có “chuyện động trời” như thế? Đúng là “căng” thật. Nhức óc, đau tim, rối lòng, ăn không ngon và ngủ chẳng yên. Rối quá!

Vốn dĩ đã ít nói rồi, nay Chú Giuse càng trầm mặc hơn, bởi vì là người công chính và cũng không muốn tố giác Cô Maria, thế nên Chú Giuse định tâm âm thầm lặng lẽ bỏ đi xa, có lẽ đó là thượng sách. Tuy nhiên, người tính không bằng trời tính. Kế hoạch của Thiên Chúa rất mầu nhiệm, loài người không thể hiểu nổi.

Y như rằng, trong khi Chú Giuse đang phân vân toan tính như vậy, Chúa sai Sứ Thần hiện đến báo mộng ngay: “Này Chú Giuse, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón Cô Maria vợ Chú về, vì người con Cô cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Cô sẽ sinh con trai và Chú phải đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1:20-21) Chắc hẳn Chú Giuse thở phào nhẹ nhõm vì ẩn số được giải đáp rõ ràng, chính xác, không còn nghi ngờ nữa. Thế thì thực thi thôi!

Mọi sự đều được ứng nghiệm đúng mọi chi tiết, đúng từng dấu chấm, dấu phẩy. Tất cả sự kiện này đã xảy ra đúng như lời Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia từ ngàn xưa: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt 1:23) Sau khi tỉnh giấc, Chú Giuse mau mắn làm đúng lời sứ thần nói, vô tư và vui vẻ đón vợ về nhà. Chắc chắn không tránh khỏi lời dị nghị, người nói ra, kẻ nói vào, nhưng tất cả chẳng nghĩa lý gì, chỉ cần tập trung một điều duy nhất: Thi hành Thánh Ý Chúa.

Lạy Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi điều và quan phòng mọi sự, xin soi sáng cho chúng con nhận biết Thánh ý Ngài trong mọi biến cố cuộc đời, để chúng con vui nhận và mau mắn thi hành trọn vẹn. Xin Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse cầu thay nguyện giúp để chúng con có thể sẵn sàng và âm thầm hành động như các ngài trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Chúng ta đang tiến gần tới lễ Giáng Sinh với việc cử hành Chúa Nhật IV Mùa Vọng. Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta chủ đề “Đấng Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Chủ đề này như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả ba bài đọc. Chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa của danh hiệu Emmanuen.

1- Emmanuen, hơn cả một tên gọi

Đối với văn hóa Do Thái, tên gọi không chỉ đơn thuần là một từ ngữ, nhưng nó diễn tả một thực tại. Khi một người được đặt tên thì tên gọi đó đại diện cho người đó. Tên gọi nói lên căn tính và sứ vụ của họ. Họ hành xử theo tên gọi của mình. Vậy, tên gọi Emmanuen có nghĩa là gì?

Trong bài đọc I, tiên tri Isaia giới thiệu với chúng ta nhân vật vua Akhát. Vị vua này đang ở trong thời kỳ mà triều đại ông đang gặp thử thách gian truân. Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa báo cho vua biết rằng: Ta sẽ ở đây với ngươi; Ta sẽ bảo vệ ngươi. Ngươi không cần phải ký kết các giao ước với bất kỳ ông vua nào trên trái đất để bảo vệ dân và triều đại ngươi. Ngươi hãy tin tưởng vào Ta và hãy xin một dấu chỉ. Ta là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu chỉ dưới đáy âm phủ hoặc ở trên trời cao xanh (x. Is 7,10-14). Nghĩa là ngươi có thể xin một dấu chỉ lớn lao nhất, vĩ đại nhất làm bảo chứng rằng Ta sẽ ở với ngươi và bảo vệ ngươi.

Chúng ta hãy nhìn vào điều này: Thiên Chúa sẵn sàng ban tặng một dấu chỉ làm bảo chứng cho vua Akhát. Nhưng Akhát đã từ chối sứ điệp của Thiên Chúa với những lời xem ra rất đạo đức: Tôi không muốn làm phiền lòng Thiên Chúa. Tôi không muốn thử thách Thiên Chúa. Tôi không muốn ép Chúa phải làm cho tôi điều này điều kia.

Cách thức của ông từ chối là rất đúng, nhưng ở bên trong, ẩn chứa sự cứng lòng của vua Akhát. Bởi vì, ông thích ký kết các giao ước với vua trần thế hơn là sự hiện diện quan phòng của Thiên Chúa.

Nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc. Chúng ta hãy lắng nghe điều gì đó rất ý nghĩa đã xảy ra ở đây. Thiên Chúa đã đi bước trước, ngay cả khi Akhát từ chối không xin một dấu lạ nào. Thiên Chúa nói rằng: Ta sẽ ban cho ngươi một dấu chỉ. Dấu nào vậy?

“Này đây, người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7,14). Một con trai sẽ được sinh ra như lời đã hứa; tên con trẻ này có nghĩa là Thiên Chúa ở với dân Người và bảo vệ dân bằng sự hiện diện của mình.

Như thế, ý nghĩa của vị Thiên Chúa hiện diện, ở bên cạnh để sẵn sàng đáp cứu được thể hiện nơi Đấng Emmanuen. Sự hiện diện này được ban cho chúng ta như là một món quà, mặc dầu bị từ chối, Thiên Chúa vẫn luôn đi bước trước: Ta sẽ ở với ngươi vì Ta là Đấng Emmanuen. Nhưng Đấng Emmanuen là ai?

2- Đức Giêsu là Emmanuen

Thánh Phaolô trong bài đọc II nói rằng: Đó là Đức Giêsu Kitô và theo thánh Phaolô, trung tâm điểm của Tin Mừng chính là Đức Giêsu, là con người Chúa Giêsu, chứ không phải là những khái niệm, những ý tưởng, hay những lý tưởng, nhưng là con người Giêsu, Người xuất thân từ dòng dõi vua Đavít. Như thế, Người thực sự là con của Đavít, đến từ dòng dõi vua, Người thực sự là một con người, nhưng cũng theo Phaolô, con người nhân bản này, Chúa Giêsu Kitô có nguồn gốc rất rõ ràng từ dòng dõi vua Đavít, thực sự là Con Thiên Chúa. Điều này được mạc khải nhờ Chúa Thánh Thần sau khi Người phục sinh. Như thế, Người không phải là một người con bình thường, cũng không phải là một hậu duệ bình thường của Đavít, nhưng Người thực sự là Con Thiên Chúa, Người được Thiên Chúa sai đến giữa chúng ta. Người là Tin Mừng về ơn cứu độ. Người là Tin Mừng về sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính vì thế, thánh Phaolô được Thiên Chúa tuyển chọn làm Tông Đồ để loan báo Tin Mừng này.

Nhưng ở đây có sự liên hệ đến Đấng Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Điều này có tạo nên sự khác biệt không?

Thưa rằng: Có, theo thánh Phaolô, để Chúa Giêsu ở với chúng ta, Thiên Chúa ở với chúng ta. Chúng ta phải ở với Chúa Giêsu. Phaolô rao giảng Chúa Giêsu để chúng ta có thể thuộc về Người theo cách thức mà Chúa Giêsu ở với chúng ta.

Vậy chúng ta đáp trả thế nào đối với Đấng Emmanuen? Nếu Người ở với tôi và khi đó tôi có muốn ở với Người không? Như thế, tên Người không chỉ là tên gọi, mà là một lời mời gọi: Chúa ở với bạn và bạn cũng sẽ ở với Chúa.

3- Một dự phóng làm đảo lộn

Trong bài Tin Mừng, chúng ta có một trình thuật về sự sinh hạ của Chúa Giêsu, Đấng Emmanuen. Vâng, đó là một câu chuyện rất bình thường. Nhưng tôi muốn tập trung vào điểm này.

Chúng ta nói Đấng Emmanuen – Thiên Chúa ở với chúng ta, nhưng trong kinh nghiệm của Đức Maria và thánh Giuse, Đấng Emmanuen đến trong cuộc đời các ngài như là sự quấy rầy làm đảo lộn toàn bộ đời sống bình thường. Không ai trong chúng ta mong muốn dự phóng đời mình bị đảo lộn. Chúng ta không muốn một sự trở ngại nào cả; chúng ta muốn có một sự hoàn thành thật êm ái cho những dự phóng của mình.

Nhưng Đức Maria như chúng ta biết chuyện xảy ra, trong chương trình này của Chúa, Mẹ phải chấp nhận bị xem là phản bội với Giuse, sẽ phải bị hiểu lầm… nhưng có điều gì đó kỳ diệu xảy ra ở đây phải không?

Chúa Thánh Thần đến can thiệp, nhờ đó, thánh Giuse quay trở về và sẵn sàng đón nhận Đức Maria là vợ của mình. Ông nhận ra rằng Maria đã có thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Thật là một sự can thiệp kỳ diệu! Vì là một người Do Thái trung thành, Giuse muốn tuân theo lề luật và phải từ bỏ Maria. Là một người công chính, ông muốn rút lui trong âm thầm, không muốn công khai tố cáo và kết án bà Maria theo lề luật, bởi khi làm như thế Maria phải chết. Những dự định của ông đã sẵn sàng: tôi sẽ bỏ bà, tôi sẽ li dị bà. Một lần nữa, Thiên Chúa đến can thiệp nhờ một thiên sứ trong giấc mơ: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20).

Như thế, Thiên Chúa đã đi bước trước. Thiên Chúa đã ra tay hành động nơi Giuse, để ông không chỉ là chồng của bà Maria, nhưng còn là cha của người con này, ông sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Và người con Giêsu này là sự thành toàn, sự viên mãn của lời ngôn sứ Isaia về Đấng Emmanuen – Thiên Chúa ở với chúng ta. Ở đây, chúng ta có sự viên mãn của sự hiểu biết về ý nghĩa danh xưng Emmanuen – Thiên Chúa ở với chúng ta như là Đấng đến cứu độ chúng ta. “Thiên Chúa ở với chúng ta” không phải như một sự hiện diện tĩnh lặng, khô khan. Nhưng Thiên Chúa hiện diện với chúng ta như là tình yêu, là ơn cứu độ, như là một Ai đó gần gũi để hướng dẫn chúng ta tới những điều tốt lành và để bảo vệ chúng ta từ cánh tay yêu dấu Người.

Như thế, chúng ta đừng quá thất vọng khi gặp phải sự đảo lộn trong cuộc sống của mình. Bạn hãy biết rằng lúc đó Chúa đang muốn đồng hành với bạn và muốn cứu độ bạn. Có thể Thiên Chúa đang hỏi bạn: Ta ở với con nhưng con có ở với Ta không? Đó là câu hỏi mà trong Giáng Sinh năm nay bạn hãy tự trả lời với Chúa. Amen!

Về mục lục

.

THIÊN ĐỊNH

Lm Vũđình Tường

Đức Kitô sinh ra không phải là sự kiện lịch sử hay biến cố bình thường, mà chính là đặc sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại. Đức Kitô sinh ra nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Khi loài người phạm tội bất tuân, Thiên Chúa không để mặc nhân loại chìm đắm trong nô lệ tội lỗi, nhưng hứa ban Đấng Cứu Thế. Chính Thiên Chúa là Đấng đưa ra chương trình cứu độ nhân loại. Nhân loại trông chờ ngày đó đến. Tiên tri Isaiah nhiều lần loan báo Đấng Cứu Thế đến, và nhân loại phải chờ đến tám thế kỉ sau, Đấng Cứu Thế mới sinh ra. Bởi nhân loại bất tuân Thiên Chúa, nên Đức Kitô xuống thế làm người, và Ngài vâng lời Thiên Chúa cho đến chết trên thập tự. Đức Kitô, một thành viên của xã hội nhân loại, Ngài vâng lời Chúa Cha cách tuyệt hảo, đền thay tội bất tuân của toàn thể nhân loại. Chính Đức Kitô nhiều lần xác quyết điều đó:

Ta đến không phải làm theo í Ta, nhưng theo í của Đấng đã sai ta’ Gn 4,34; 5,30; 6,38.

Đức Kitô sanh tại Bethlehem nhưng được nhận biết là Đức Kitô thành Nazareth, nơi sinh của hai ông bà Juse và Maria. Ngài chọn cách viếng thăm dân Ngài cách âm thầm, đơn giản, bình dị ngoài sức trông chờ của mọi người. Đơn sơ, nghèo hèn đến độ nhân loại không tin, Ngài là Con Thiên Chúa sinh xuống trần gian. Ngài làm điều đó với mục đích tỏ cho nhân loại biết, Đấng Cao Cả chọn cuộc sống nghèo hèn, hèn mọn để đến với dân Người. Cha mẹ nhân loại của Ngài là ông Juse và bà Maria, cả hai là dân quê. Cuộc sống nghèo, đạm bạc, tấm lòng hết mực khiêm nhường, đời sống đạo hạnh, công chính, trọn đời phó thác vào Thiên Chúa. Cả hai cùng chọn chương trình riêng cho mình, nhưng khi sứ thần đến viếng thăm, cả hai đều từ bỏ chương trình riêng của mình, đón nhận í Chúa, và cả hai trung thành với lời đoan hứa cho đến trọn đời. Cô thôn nữ Maria nguyện sống cuộc sống độc thân, nhưng rồi theo í Chúa, cô chấp nhận làm mẹ Đấng Cứu Thế. Phần ông Juse khi biết trinh nữ Maria có thai trước khi hai người về chung sống, ông dự tính âm thầm ra đi. Có lẽ điều này cô Maria không hề biết. Thời buổi đó sau ngày ‘đặt trầu’ đám cưới là bước kế tiếp, bước cuối. Đầu xuôi, đuôi lọt. Dù chưa cưới nhưng nếu huỷ bỏ hôn ước được hiểu là li dị, và cần phải ra trước pháp luật để điều đó thành sự. Luật lệ Do Thái lúc đó coi việc có thai trước khi cưới là một trọng tội, tội ngoại tình, và tội này bị xử chết bằng cách ném đá. Để tránh cho cô Maria bị tử hình, ông Juse âm thầm trốn đi. Với Juse là kín đáo, là âm thầm, chỉ mình ông hay, chỉ mình ông biết, chỉ mình ông quyết định. Điều thầm kín đó lại tỏ tường với Thánh Thần Thiên Chúa và Ngài đã soi sáng, hướng dẫn ông giải quyết sự việc cách ổn thoả. Thánh thần còn cho biết thêm ngay cả việc đặt tên cho đứa trẻ cũng đã được Thiên Chúa định trước, vì thế em bé sinh ra sẽ được gọi là Đấng Cứu Độ dân Chúa- (Mat 1,21) và đó là sứ mạng trọn đời của Chúa Cứu Thế. Chính lúc ông Juse quyết định chia tay, sứ thần Chúa đến nói với ông là, thai nhi trong cung lòng trinh nữ không phải do loài người, mà chính là do Thánh Thần Chúa xếp đặt. Ông Juse nhận cô Maria về lo lắng, bảo trợ. Về phương diện nhân loại thì rõ ràng hai ông bà Juse và Maria, đóng vai trò chính trong việc sinh Đức Kitô. Về phương diện tâm linh, chính hai ông bà nhận biết cách tỏ tường bàn tay Thiên Chúa hoạt động tích cực trong đời sống hai người. Thánh Thần Chúa hiện diện trong mọi hoàn cảnh, trong cuộc sống của hai người, từ khởi đầu cho đến khi hoàn thành sứ mạng, và còn tiếp tục hiện diện cho đến ngày hai ông bà về hưởng Nhan Thánh Chúa.

Việc Augustus ra lệnh cho dân chúng về nơi sinh để làm sổ kiểm tra toàn dân, đây là lần kiểm tra đầu tiên trong lịch sử; sự việc này cũng không phải do ngẫu nhiên, hay trùng hợp. Sự việc đó không nằm ngoài í định của Thiên Chúa. Đức Kitô sinh ra nơi chốn không người, ngụ í nói cho nhân loại biết cuộc sống trần gian chỉ là chốn tạm bợ. Ngài sinh nơi ngoài đồng hoang, không nhà cửa, ngụ í nói quê hương thật của chúng ta là quê trời, nơi có Thiên Chúa ngự trị. Đức Kitô sinh ra giữa đám nghèo hèn, bị xã hội chối từ, bỏ rơi, ngụ í nói cho chúng ta biết Thiên Chúa không xua đuổi một ai, dù họ ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ngài đến với họ, hy vọng họ mở tấm lòng đón Ngài. Mục đồng lội tuyết đi đến cùng Đức Kitô, ngụ í cho biết bất cứ ai thành tâm tìm kiếm Ngài chắc chắn sẽ tìm gặp. Ba vị từ phương đông đi tìm gặp Ngài, ngụ í cho biết dù xa cách ngàn trùng, dù không biết đường, không thuộc lối nhưng thành tâm ra đi tìm Ngài, họ sẽ được chỉ đường.

Chúa Cứu Thế sinh ra làm tròn điều Chúa hứa xưa, thoả mãn lòng mong đợi của những tâm hồn thành tâm trông chờ. Ngài đến ban sự sống và sự sống trường sinh cho nhân loại.

Về mục lục

.

 

EMMANUEN – THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Thiên Chúa ở cùng con người ! Điều này gây ngỡ ngàng đối với khá nhiều người. Đây không phải là một huyền thoại, nhưng là một sự thật có tính lịch sử. Thiên Chúa, Đấng vô thủy vô chung, đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài là Đấng vô hình đã trở nên hữu hình, Đấng cao sang đã trở nên gần gũi với con người.
 
Niềm tin vào sự hiện diện của Chúa giữa một dân tộc và Ngài đã chọn dân đó làm “dân riêng” là một nét độc đáo của Do Thái giáo. Điều này làm cho tôn giáo của người Do Thái khác biệt với tôn giáo của các vùng xung quanh. Trong Cựu ước, sự hiện diện của Thiên Chúa được biểu lộ trong Lề Luật ban bố qua Ông Môisen trên núi Sinai, được gọi là “Luật Giao Ước”. Qua Lề Luật mà mỗi người Do Thái đạo đức tuân giữ, Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời của họ. Sự hiện diện của Thiên Chúa còn được thể hiện cách cụ thể qua Hòm Bia thánh. Trong Hòm bia, có cây gậy nở hoa của Ông Aaron, một chút Manna và hai bia đá do chính tay Thiên Chúa ghi khắc Lề Luật. Hòm bia tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Dân của Ngài, được trân trọng lưu giữ và luôn đồng hành với dân du mục.

Tình thương bao la như trời biển của Thiên Chúa không dừng lại ở sự hiện diện thiêng liêng vô hình hoặc qua biểu tượng vật chất. Thiên Chúa đã sai Con của Ngài xuống trần gian. Một Thiên Chúa làm người để chung chia thân phận con người. Đây không phải một câu chuyện cổ tích mà là một sự kiện lịch sử, được các sử gia đạo đời ghi lại. Thiên Chúa không chỉ “Từ trời cao nhìn xuống, Chúa thấy hết mọi người. Từ thiên cung Chúa ngự, Chúa dõi theo người thế” (Tv 33,14), mà còn cúi mình xuống để ở với loài người, giống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Ngôn sứ Isaia đã gọi sự kiện một trinh nữ mang thai là “một dấu”. Qua dấu chỉ này, con người “đọc” được lòng thương xót Chúa và sự quan phòng của Ngài đối với loài người. Vào thời ngôn sứ Isaia, nhiều người Do Thái bị cám dỗ bỏ Chúa. Ngay cả vua Akhát là người đứng đầu một quốc gia cũng đi con đường lệch lạc, không còn trung tín với lề luật và truyền thống của cha ông. Qua việc loan báo Đấng Emmanuen sẽ sinh hạ, ngôn sứ Isaia muốn nhắc cho vua như một lời cảnh tỉnh rằng Thiên Chúa đang hiện diện và những gì vua đang làm sẽ không thể lừa dối được Ngài.

Lời ngôn sứ Isaia tiên báo về Đấng Emmanuen trong Tin Mừng Thánh Mátthêu cho thấy niềm xác tín của cộng đoàn tín hữu tiên khởi vào con người và sứ mạng của Đức Giêsu nơi trần gian. Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Lời sứ thần trấn an Ông Giuse cũng là lời đã nói với Trinh nữ Maria để mạc khải về sứ vụ của Đấng Cứu thế. Người sẽ được mang thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần để cứu dân khỏi tội và để dẫn đưa nhân loại lầm lạc về với Thiên Chúa.

Qua bài Tin Mừng của Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng này, những nhân vật trực tiếp được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể đã được xác định rõ ràng: đó là Thánh Giuse và Đức Maria. Các ngài là những tín hữu đơn sơ khiêm tốn. Chính sự khiêm tốn là lý do Thiên Chúa chọn lựa các ngài. Đức Maria và Thánh Giuse đã để Thiên Chúa hoạt động trong cuộc đời mình với lòng phó thác và tin tưởng tuyệt đối. Thánh Phaolô nói với chúng ta: nhìn dưới khía cạnh người phàm, thì Đức Giêsu thuộc dòng dõi Đavít, nhưng nhìn dưới khía cạnh đức tin, nhất là qua biến cố phục sinh, thì Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng (Bài đọc II). Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa và con người gặp gỡ mật thiết đến nỗi trở nên một. Người vừa là Thiên Chúa quyền năng, vừa là con người trần thế. Người mang trong mình bản tính thiên linh đồng thời với bản tính nhân loại. Người là một chiếc cầu nối để liên kết hai bờ của một khoảng trống mênh mông do con người kiêu ngạo đã khoét sâu ở khởi đầu của lịch sử. Người là chiếc thang để các thiên thân “lên lên xuống xuống” mang muôn ơn phúc thiêng liêng cho người trần gian. Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà con người của mọi thời đại trở thành “những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh”.

Giữa bao nhiêu những bộn bề lo lắng của cuộc sống trần gian, nhiều khi chúng ta quên mất sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Chính vì thế mà chúng ta còn nhìn đời với quan niệm bi quan và còn cố chấp trước những lầm lỗi của người khác. Đức Giêsu đang ở đây giữa chúng ta, không phải chỉ trong Mùa Vọng hay mùa Giáng Sinh mà trong suốt cuộc đời. Ngài hiện diện để lắng nghe ta tâm sự. Người gánh trên đôi vai mình những lo lắng phiền muộn của kiếp sống con người và đặt trên vai họ ách của niềm vui và hy vọng. Người làm như thế bởi Người là Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Về mục lục

.

ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế?

Thánh sử Matthêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.

Nhờ đâu mà thánh Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.

1) Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa.

Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.

Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

2) Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa.

Các Ngài có chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.

Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn.

Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn. Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.

Đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.

Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Ngày càng có nhiều người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ Giáng Sinh đã bị thương mại hóa. Bạn sẽ chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù hợp với tinh thần của Chúa?

2) Sống khiêm nhường và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ không?

3) Bạn nghĩ gì về việc Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một người, làm con trong một gia đình?

Về mục lục

.

MỘNG BÁO CHO THÁNH GIUSE

L.m Giuse Hoàng Kim Toan

Không ai mà không có những giấc mơ trong khi ngủ. Những giấc mơ đôi khi tỉnh dậy ngỡ như vẫn nhớ câu chuyện giấc mơ và không lý giải được. Đôi khi trong đời sống ý thức lại thấy như đã gặp dâu đó trong giấc mơ. Khó lý giải được hết những giấc mơ mộng mị của con người. Thế nhưng, Thánh Giuse hầu như nghe Thiên Chúa bảo trong giấc mơ và ngài lại mau mắn thực thi.

Thường người ta nói về những thực tại ảo vọng bằng cách diễn ta giữa thực và mơ. Đâu là sự thực, tổng hợp tư tưởng của Carl Jung, Roland Cahen viết: “Chiêm mộng là biểu hiện của cái hoạt động tinh thần, nó sống trong ta, nó suy nghĩ, cảm xúc, trải nghiệm, tư biện ở ngoài lề những hoạt động ban ngày của chúng ta. Ở tất cả cấp độ, từ cấp sinh vật nhất đến cấp tinh thần nhất của con người, mà chúng không biết đến. Biểu thị dòng tâm thức ngấm ngầm và những dữ liệu của một chương trình sống được ghi ở nơi sâu nhất của con người. Chiêm mộng thể hiện những khát vọng sâu kín của cá thể và vì thế nó là nguồn thông tin vô cùng quý giá về mọi phương diện đối với chúng ta” (Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng, trang 164).

Như vậy xét theo giấc mộng của Thánh Giuse, chúng ta có thể thấy vấn đề của Thánh Giuse lo âu thật sự về sự việc Đức Maria thụ thai. Thai nhi là do đâu? Câu hỏi luôn bận tâm suy nghĩ của Thánh Giuse.

Tìm ra cách giải quyết vấn đề mới nảy sinh này, Thánh Giuse hướng về Thiên Chúa để tìm câu trả lời. Chắc chắn là như thế, bởi vì trinh thuật Phúc Âm cho biết: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Theo phong tục người Do Thái, khi đính hôn thì đã là vợ chồng trước mặt pháp luật. Họ không chung sống với nhau trước khi rước dâu, nhưng nếu như trong thời gian này, họ có con thì vẫn hợp pháp.

Sự công chính của Thánh Giuse hệ tại ở việc đặt mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Thai nhi bởi đâu? Ngài không đi tra vấn Đức Maria, hoặc cũng không đi dò la hay đặt nghi vấn với người thân tín. Giữ gìn cho người yêu của mình trước vấn đề liên quan đến phẩm giá là điều quan trọng.

Luôn tôn trọng sự chọn lựa của Đức Maria, tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, hẳn Thánh Giuse đã đi vào thinh lặng cầu nguyện lâu ngày hoặc lâu giờ để tìm Thánh ý Thiên Chúa. Các nhà khoa học hiện đại khi phân tích giấc mộng cho thấy: “Chiêm mộng thể hiện những khát vọng sâu kín của cá thể và vì thế nó là nguồn thông tin vô cùng quý giá về mọi phương diện đối với chúng ta” như trên đã trích, phù hợp với cách xử lý vấn đề gai góc Thánh Giuse gặp phải.

Chúng ta xủ sự vấn đề nan giải ấy đôi khi theo suy diễn của chúng ta, hoặc theo những cách suy diễn của những người chung quanh, đôi khi gây đau khổ cho người mình yêu, hoặc làm mất phẩm giá chủa người mình thương mến. Cách xử sự của Thánh Giuse cho chúng ta một cách thức trọn hảo để giải quyết vấn đề khó khăn. Tìm hiểu theo ý muốn của Thiên Chúa, để tâm nghe tiếng nói của người, chứ không theo cách suy diễn của con người.

Tin vào Thiên Chúa có cách giải thích của Người. Thiên Chúa chỉ cho chúng ta biết cách để hiểu được khó khăn và thấy ra hướng giải quyết. Giấc mộng, Thánh Giuse sẽ gặp nhiều lần qua cách này Thiên Chúa dùng để chỉ bảo: Mộng báo con trẻ bị sát hại, để đưa con tránh qua Ai Cập. Từ Ai Cập trở về. Đừng về Giuđê, mà lánh về Nazareth. Thánh Giuse thực sự là người sống tuân hành theo Thánh ý Chúa trong mọi sự, từ mọi suy nghĩ đến việc làm.

Nguồn gốc của giấc mộng Thánh Giuse được báo thuộc về nhóm sức mạnh của Thiên Chúa chỉ bảo. Hiệu quả của một đời sống luôn quy hướng về Thiên Chúa, sẵn sàng nghe tiếng Chúa xác thực qua chiêm mộng, không hoài nghi, không tranh cãi, không đặt điều kiện. Thánh Giuse mạnh mẽ trong đời sống là nhờ Thiên Chúa ở cùng, như lời thiên sứ báo mộng cho biết về thai nhi là Đấng Emmanuel, “Đấng Thiên chúa ở cùng chúng ta”. Thai nhi bởi phép Chúa Thánh Thần.

Từ khía cạnh của mộng báo nơi Thánh Giuse, cho chúng ta thấy cách sống chọn lựa của chúng ta cần theo gương Thánh Giuse. Giải quyết mọi vấn đề của con người, chúng ta hãy tìm theo cách giải quyết của Thiên Chúa và tập theo cách sống: “Dù thức dù ngủ chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa” (1 Thes 5, 10). Nghe tiếng Chúa bảo qua nhiều cách nếu chúng ta đã tập nghe theo tiếng Chúa thường xuyên.

Về mục lục

.

GIẤC MỘNG CỦA NGƯỜI CÔNG CHÍNH

Lm Giacobe Tạ Chúc 

Sống trong cuộc đời thiếu gì những hoàn cảnh éo le, đôi khi làm cho chúng ta không biết phải giải quyết thế nào, cho hợp tình hợp lý. Đứng trước những thực tại mà có khi người trong cuộc, bị đẩy vào con đường tưởng như không lối thoát. Thánh Giuse, trước khi về chung sống với Đức Trinh Nữ Maria, thì lại rơi vào cảnh huống dở khóc, dở cười, Maria đã mang thai. 

Làm sao lý giải được, dẫu cho đó là việc sắp đặt của thánh ý Thiên Chúa, qua quyền năng của Chúa Thánh Thần, nhưng cứ đặt vào hoàn cảnh của Ông Giuse, thì liệu chúng ta có dễ dàng đón nhận bao miệng tiếng thị phi, và có đủ tỉnh táo mà dằn lòng lại, vì nghĩ rằng, người bạn đời đã chơi khăm mình không. Kinh Thánh luôn đặt để cho Giuse một danh xưng là: người công chính. Công chính tức là người kính sợ Thiên Chúa, và luôn thực thi những điều Người truyền dạy. Khác hẳn mọi suy nghĩ, cũng như tính toán của con người. Giuse đã có những quyết định của một con người khiêm nhu, và tôn trọng sự thánh thiện của người bạn đời. Có lẻ nên: “Đào vi thượng sách”, cho dù ý định này cũng không phải là tích cực, nhưng thà như vậy, rút êm và cứ để lại mọi chuyện của Thiên Chúa, thì chắc Ngài cũng sẽ lo liệu. Nhưng không phải vậy, vì: “ Áo mặc đâu qua khỏi đầu”, trong lúc toan tính như thế, thì Sứ thần Chúa, hiện đến báo mộng cùng ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón nhận bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 20). Thoạt nghe có vẻ đơn giản quá, việc đại sự mà Thiên Chúa giải quyết một cách chóng vánh thế ư? Thánh Giuse đang định tâm bỏ đi, vì ông không muốn lên án bạn mình, cũng như không muốn chịu cảnh: “Ách giữa đàng lại quàng vào cổ”. Hẳn không như vậy, những người như Thánh Giuse, chắc phải có một nhạy bén rất tinh tế, của tiếng nói xuất phát tận đáy lòng, và nhất là có thể biện phân được đâu là tiếng nói đến từ Thiên Chúa. Việc báo mộng cho Giuse không phải  xảy ra một lần này, mà sau này, cũng chính sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho Thánh Giuse, đang đêm chỗi dậy, đem Hài Nhi và mẹ người trốn sang Ai-cập (Mt 2, 13-15). Từ đó có thể thấy được, mối tâm giao giữa Giuse và Thiên Chúa, mật thiết là dường nào, đến nỗi trong những hoàn cảnh có tính chất quyết định, thì Giuse đã rất tỉnh táo, và khôn ngoan để dìu dắt gia đình mình, đi theo đúng với ý định của Thiên Chúa. Đừng lầm tưởng với những giấc mơ của trần gian: mơ nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh, công thành danh toại. Giấc mơ bé bỏng của những người công chính, như Thánh Giuse, là sao cho thánh ý Chúa được thực hiện. Và công trình cứu độ của Đấng Thiên sai, không bị trở ngại, hay chậm trễ, để Đấng là Emmanuel mau ngự đến với con người. 

Cánh cửa của mùa Vọng dần khép lại, và cửa mở lối dẫn đến hang đá Bê-lem cũng đã sáng lên, những con người chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ngày giáng lâm cũng đã được các Thánh ký, những người ghi chép Tn mừng,  giới thiệu hầu như gần hết. Thánh Giuse và Mẹ Maria như là một hành trình của niềm trông đợi, nơi dân Do Thái, được cô đọng lại trong biến cố lớn lao của một đêm Giáng sinh tràn đầy thánh ân.

Về mục lục

.

ÔI THẬT DIỄM PHÚC VÌ CÓ THIÊN CHÚA Ở CÙNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Trái đất này đang nóng dần lên, các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm  -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến -60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ mấy ngày.

Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh bất thường và thay đổi đột ngột một cách bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm trong chưa đầy 100 năm, khoảng thời gian ngắn nhất trong lịch sử.

Hôm 2/5, các nhà khoa học sử dụng kính thiên văn TRAPPIST tại Chile để theo dõi và phát hiện ra ba hành tinh có kích thước giống Trái Đất quay quanh một ngôi sao lùn ở khoảng cách thích hợp, tạo điều kiện cho sự sống phát triển với hy vọng con người có thể sống được ở đó.

Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.

Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất là Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ… Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.

Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như “Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 4 người con của bà có mặt tại viện (trong số tất cả 8 người con) tranh cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết (Vnexpress,Thứ ba, 27/8/2013). Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay khó sống và khó yêu quá.

Trái đất và con người đang như thế, nhưng  Đức Giêsu con Thiên Chúa đã đến sống cùng chúng ta, như  Isaia loan báo : “Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi“. Những lời trên đây được lặp lại trong các ngày này, đặc biệt Chúa nhật thứ IV, để khẳng định rằng Trái đất vẫn rất đáng yêu và con người vẫn còn đáng mến. Thiên Chúa đến vì mến địa cầu, Thiên Chúa thương vì tình thương vấn vương khi tạo dựng.

Toàn bộ phụng vụ xoay quanh lời ngôn sứ : “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta“. (Is 7,14 ; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa : “Sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai…” ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin Mừng : Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai …” Mt 1,23). Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.

Thiên Chúa đến ở cùng chúng ta, vì Ngài vẫn còn tin tưởng chúng ta!… Ngài đến để sống với con người, Ngài chọn cư ngụ trên trái đất để ở lại với con người, để sống tại nơi con người vẫn sống trong niềm vui hay nỗi buồn. Vì thế, Trái đất không còn là ‘thung lũng đầy nước mắt’ nữa mà là nơi Thiên Chúa đến cắm lều, gặp gỡ con người, là nơi Thiên Chúa liên đới với con người.

Thiên Chúa xuống thế làm người vì chúng ta, tất cả chúng ta đều cảm thấy mình được yêu thương và được đón nhận; chúng ta khám phá mình có phẩm vị quý giá và duy nhất trước nhan Ðấng Tạo Hoá.

Ðấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi sinh ra trong cảnh khó nghèo tại Bêlem, Chúa Giêsu đã muốn trở thành bạn đồng hành với mỗi người chúng ta. Trên mặt đất này, kể từ khi Người muốn “dựng lều” để cư ngụ, thì không còn ai là kẻ xa lạ nữa. Thật vậy, tất cả chúng ta là những khách lữ hành sống tạm qua trên trần gian này, chính Chúa Giêsu là Ðấng làm cho chúng ta có cảm nghiệm dường như mình đang sống tại nhà mình, trên mặt đất này, nơi được thánh hoá do bởi sự hiện diện của Chúa. Và Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biến trái đất này trở thành căn nhà đón tiếp tất cả mọi người.

Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta“. (Is 7,14 ; Mt 1,23). Các Giáo Phụ đã giải thích. Con Thiên Chúa đã trở nên nhỏ bé, đến độ vào được trong máng cỏ. Ngài trở nên trẻ thơ để dạy chúng ta yêu thương những trẻ thơ và những kẻ yếu đuối. Bằng cách thế như vậy, Ngài dạy chúng ta tôn trọng trẻ thơ, những em đang đau khổ và bị lạm dụng trên thế giới, những em đã được sinh ra cũng như những trẻ không được sinh ra. Ngài dạy chúng ta nhìn đến những trẻ bị đưa vào trong thế giới của bạo lực, như làm lính, phải đi ăn xin, phải khổ vì nghèo vì đói, những trẻ em không được hưởng chút tình thương. Chính Thiên Chúa, Ðấng đã trở nên trẻ thơ, mời gọi chúng ta dấn thân, ngõ hầu sức mạnh của tình yêu Chúa chăm sóc cho tất cả các trẻ em này; để phẩm giá của các em được tôn trọng.

Nhưng khi Thiên Chúa chia sẻ thân phận con người của chúng ta, Ngài không hiện diện giữa nhân loại ở một nơi an nhàn lý tưởng, nhưng ở trong thế giới thực này, với bao điều tốt đẹp và xấu xa, với những chia rẽ, sự dữ, nghèo đói, lạm dụng quyền lực và chiến tranh. Ngài chọn tham gia vào lịch sử của chúng ta như lịch sử ấy vốn thế, với tất cả gánh nặng của những giới hạn và bi kịch của nó…. Ngài là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta… trong mọi nỗi khổ đau của lịch sử. Chúa Giêsu được sinh ra là minh chứng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía con người, một lần và mãi mãi, để cứu chúng ta và nâng chúng ta lên khỏi bụi bặm của khổ đau, của khó khăn và tội lỗi chúng ta”.

Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa ở cùng, ấy là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền… Chúa Giêsu được sinh ra mang đến cho chúng ta tin vui rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và yêu thương mọi người và từng người trong chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

TRUYỀN TIN CHO GIUSE

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ. Tin mừng Matthêu kể câu chuyện truyền tin cho Giuse.

Bà Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”… Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” (Mt 1,18 – 21.24).

Sứ thần Chúa đến báo tin cho Giuse biết, thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình.Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.

Tin mừng giới thiệu về những đóng góp của Thánh Giuse vào công trình Nhập Thể. Với sự quảng đại, Thánh Giuse đã bỏ dự định của mình để thi hành chương trình của Thiên Chúa. Đó là cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Vua Đavit. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ thời Cựu Ước. Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu, nhận Ngài  là con mình theo pháp lý. Từ nay Giuse bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu. Isaia loan báo: “Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7,14). Lời ngôn sứ có một tầm quan trọng trong nhiệm cục cứu rỗi. Lời đó khẳng định “chính Thiên Chúa” sẽ ban cho Đavid một người thuộc dòng dõi, như là “dấu chứng” lòng trung tín của Người. Lời hứa này đã thực hiện với sự sinh ra Chúa Giêsu bởi Đức Trinh nữ Maria. Giuse đựơc vinh dự tham gia vào nhiệm cục cứu rỗi đó.

Đức Giêsu Kitô là Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người là Đấng Cứu Độ, Đấng đến giải thoát và ban bình an cho dân Chúa. Nhưng qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Thiên Chúa đã gây một cú sốc quá lớn cho Thánh Giuse. Khi biết Maria bỗng dưng có thai, Giuse đau khổ, âm thầm mang lấy nổi đau riêng mình. Là người công chính nên Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì thế mà ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.

  1. Mẫu gương đức tin, công chính và cầu nguyện.

Thánh Giuse, con người đức tin, công chính và cầu nguyện. Đức tin liên kết với sự công chính và sự cầu nguyện, đó là thái độ xứng hợp để gặp “Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Tự thâm sâu, tình yêu của Giuse vẫn trổi vượt. Giuse không hề quay lại bản thân mình để cảm thấy bị lừa dối xúc phạm, nhưng chỉ hướng về Maria để tiếp tục tin rằng vị hôn thê của mình vẫn thật sự trong sạch vẹn tuyền. Không hề tra hỏi Maria một lời nào, Giuse chỉ im lặng ôm lấy phiền muộn, một cõi riêng tư.

Vì yêu Maria nên Giuse không muốn làm hại bạn mình. Ngài đã chọn con đường rút lui trong âm thầm, một giải pháp thua thiệt cho bản thân vì sẽ mang tiếng là “sở khanh”. Một quyết định can đảm nói lên tình yêu và tấm lòng quảng đại của Ngài. Giuse đúng thật là người công chính. Nơi Thánh Giuse, “sự công chính nội tâm” trùng với “tình yêu”. Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và đựơc hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được thuận lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.

Giuse là một người mở lòng đón nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết “người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần“, theo lời ngôn sứ phán xưa: “Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai“, và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.

Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.

  1. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.

Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).

Thánh ý Chúa, được sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận Maria mang thai do Chúa Thánh Thần và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kinh kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh (Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse được biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng, cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ {mầu nhiệm}, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x.Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).

Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai, và Ngài đã cùng bạn mình là Đức Maria, thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan, cả về vật chất lẫn tinh thần.

Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.

Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi !” Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” (Mt 2, 13 – 14) .

Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen.” (Mt 2, 19 – 21)

Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét.” (Mt 2, 22 – 23).

Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.

Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời.

Hãy “học trường” Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác.

Về mục lục

.

KHỔ TÂM CÔNG CHÍNH

Trm Thiên Thu

“Này đây trinh n s mang thai, h sinh mt con trai, và người ta s gi tên Người là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa--cùng-chúng-ta (Mt 1:21). Đó là lời thiên sứ báo mộng cho Người-Công-Chính Giuse biết về việc Vị Hôn Thê Maria mang thai, nhưng đó lại là nỗi khổ tâm của Chàng Giuse công chính.

Cuộc sống có nhiều dạng khổ, nhưng có lẽ khổ tâm là thứ khổ khiến người ta dằn vặt và ray rứt dữ dội nhất. Người ngay lành mới khổ tâm, dù sai lầm của họ không do cố ý, còn người xấu bụng chẳng khổ tâm chi.

Giuse và Maria mới đính hôn. Nghe tin Chị Êlidabét mang thai, Cô Maria đi thăm. Khoảng ba tháng sau, khi Cô Maria trở về, Chàng Giuse vui mừng gặp lại, và sau đó là nỗi khổ tâm khi nghe tiếng sét đánh ngang tai: Vị Hôn Thê Maria có thai. Tiến thoái lưỡng nan, thật khó xử, nhưng Chàng Giuse công chính nhất quyết không muốn làm phiền bất cứ ai!

Trình thuật Is 7:10-14 cho biết rằng Đức Chúa cho phép vua A-khát được quyền “làm phiền” Ngài, nhưng ông không dám. Rồi một lần nữa, Đức Chúa lại động viên ông: “Ngươi C XIN Đc Chúa là Thiên Chúa ca ngươi ban cho ngươi mt du dưới đáy âm ph hoc trên chn cao xanh. Điều này cho thấy vua A-khát phải là người đẹp lòng Thiên Chúa lắm nên mới được ưu tiên như vậy. Tuy nhiên, ông vẫn không dám, và ông trả lời: “Con s không xin, con không dám th thách Đc Chúa”. Vua A-khát được phép mà vẫn không dám.

Còn chúng ta? Có thể cách “đòi hỏi” của chúng ta ngày nay tinh vi hơn nên khó có thể nhận biết, nhưng chúng ta vẫn thử thách Chúa ngay trong lời cầu nguyện, thế mà chúng ta vẫn cho đó không là thử thách: Xin cho con được cái này, điều nọ, xin như ý,… Không được như ý mình thì sao đây? Thật là nguy hiểm khi “xin được như ý”.

Dân chúng ngày xưa và ngày nay đâu có “chênh lệch” nhau nhiều về tính thực dụng, mỗi thời mỗi kiểu. Thấy dân chúng thực dụng nên ông Isaia đã phải chạnh lòng và lên tiếng kêu gọi: “Nghe đây, hi nhà Đa-vít! Các ngươi LÀM PHIN thiên h chưa đ sao, mà còn MUN LÀM PHIN c Thiên Chúa ca tôi na? Vì vy, chính Chúa Thượng s ban cho các ngươi mt du: Này đây người thiếu n mang thai, sinh h con trai, và đt tên là Emmanuel.

Nếu đọc câu tiếp theo, chúng ta biết thêm một điều thú vị về loại thực phẩm mà Con Trẻ sử dụng khi mặc xác phàm. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Con tr s ăn SA CHUA và MT ONG cho ti khi biết b cái xu mà chn cái tt (Is 7:15). Điều này cho thấy rằng, về nhân tính, Con-Chúa-làm-người vẫn phải theo một quy trình phát triển mà Thiên Chúa đã quy định, cũng ăn uống để tăng trưởng thể lý và phát triển dần dần như một phàm nhân, cũng biểu hiện đủ thất tình (Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục), cũng mắc bệnh vì ảnh hưởng thời tiết, môi trường, thực phẩm,…

Đấng Emmanuel sinh ra là một Trẻ Thơ, sinh ra để cứu nhân loại. Là Con Trẻ nhưng lại chính là “Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, Người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:5).

Đấng Emmanuel là Thiên Chúa Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Đấng mà Thánh Gioan đã xác định: “Nh Ngôi Li, vn vt được to thành, và không có Người thì chng có gì được to thành” (Ga 1:3). Trước đó vài ngàn năm, tác giả Thánh Vịnh cũng đã minh định: “Chúa làm ch trái đt cùng muôn vt muôn loài, làm ch hoàn cu vi toàn th dân cư. Nn trái đt, Người dng trên bin c, đt vng vàng trên làn nước mênh mông (Tv 24:1-2). Chắc chắn là như thế, lịch sử và khoa học, đặc biệt là khảo cổ học, càng ngày càng phát hiện những bằng chứng cho thấy Thiên Chúa mà chúng ta đang tôn thờ là Thiên Chúa đích thực và duy nhất.

Thiên Chúa là ĐẤNG THÁNH (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16). Thần dân của Ngài phải nên thánh, thế nên Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Hãy nên hoàn thin như Cha anh em trên tri là Đng hoàn thin (Mt 5:48). Vì có nên thánh mới có thể và mới dám đến gần Ngài. Thật vậy, các linh hồn đang ở Luyện Hình để thanh tẩy trước khi diện kiến Thiên Chúa, không thanh luyện mà cho phép nhìn Thiên Chúa thì các linh hồn cũng KHÔNG DÁM. Thật vậy, khi nghe Thiên Chúa gọi, ông Môsê đã phải che mặt vì thấy mình bất xứng: “Ông Môsê che mt đi vì s nhìn phi Thiên Chúa (Xh 3:6).

Tác giả Thánh Vịnh đã đặt vấn đề và trả lời: “Ai được lên núi Chúa? Ai được trong đn thánh ca Người? Đó là k tay sch lòng thanh, chng mê theo ngu tượng, không th gian th di. Người y s được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cu đ thưởng công xng đáng. Đây chính là dòng dõi nhng k kiếm tìm Người, tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp (Tv 24:3-6). Nên thánh không chỉ là lời khuyến cáo mà còn là mệnh lệnh mạnh mẽ của Thiên Chúa: “Các ngươi PHẢI NÊN THÁNH và PHẢI THÁNH THIỆN” (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:7).

Như đã nói, “nên thánh là điều khó”, nhưng không phải là không làm được. Ỷ vào sức mình thì “chết chắc”, vì thế mà phải khiêm nhường và cậy vào ơn Chúa. Thánh Phaolô đã từng hung hãn và dữ tợn triệt bất cứ ai nhận mình là môn đệ của Đức Kitô, nhưng rồi ông đã phải “bó toàn thân” trước uy quyền của Thiên Chúa. Từ đó, ông biến đổi thành một con-người-mới hoàn toàn: “Tôi là Phaolô, tôi t ca Đc Giêsu Kitô; tôi được gi làm Tông Đ, và dành riêng đ loan báo Tin Mng ca Thiên Chúa. Tin Mng y, xưa Người đã dùng các ngôn s ca Người mà ha trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mng v Con ca Người là Đc Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (Rm 1:1-3).

Thánh Phaolô giải thích: “Nhưng xét như Đng đã t cõi chết sng li nh Thánh Thn, Người đã được đt làm Con Thiên Chúa vi tt c quyn năng. Nh Người, chúng tôi đã nhn được đc ân và chc v Tông Đ, làm cho hết thy các dân ngoi vâng phc Tin Mng hu danh Người được rng r. Trong s đó, có c anh em, là nhng người đã được kêu gi đ thuc v Đc Giêsu Kitô” (Rm 1:4-6). Người thuộc về Thiên Chúa thì không thể không hoàn thiện để nên thánh. Rất lô-gích. Hoàn toàn hợp lý.

Cuối cùng, Thánh Phaolô nói rõ rằng chúng ta là “những người ĐƯỢC Thiên Chúa yêu thương, ĐƯỢC kêu gọi LÀM DÂN THÁNH”, và ông cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sng và bình an (Rm 1:7). Rất rõ ràng. Thế thì không có lý do gì chúng ta lại từ chối sống thánh thiện để nên thánh, và tất nhiên chúng ta phải nhiều điều phiền toái, rất khổ tâm trên con đường hoán cải để được công chính hóa.

Đức Thánh Giuse là người được tôn vinh là “Đấng Công Chính”, nhưng chính ngài đã chịu giằng co rất nhiều, khổ tâm lắm, nhất là khi nghe tin Đức Maria mang thai. Để biện minh, Thiên Chúa đã sai sứ thần đến truyền tin cho Chàng Giuse (Mt 1:18-24; Lc 2:1-7).

Chàng Giuse là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ Vị Hôn Thê để ra đi âm thầm, lặng lẽ và kín đáo. Chàng Giuse đang toan tính như vậy thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng rạch ròi: “Này Chú Giuse, con cháu Đa-vít, đng ngi đón Cô Maria v, vì người con Cô cưu mang là do quyn năng Chúa Thánh Thn. Cô s sinh con trai và Chú phi đt tên cho con tr là Giêsu, vì chính Người s cu dân Người khi ti li ca h. Thiên Chúa toàn năng, biến không thành có, “chẳng có là không thể đối với Thiên Chúa” (Lc 1:37).

Và tất nhiên là Chú Giuse đã tin, chấp nhận tất cả, và vui vẻ làm theo lời sứ thần truyền dạy. Thánh sử Mátthêu cho biết: “Tt c s vic này đã xy ra là đ ng nghim li xưa kia Chúa phán qua ming ngôn s: Này đây, Trinh N s th thai và sinh h mt con trai, người ta s gi tên con tr là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa--cùng-chúng-ta.

Tất cả đều là Thánh ý của Thiên Chúa. Và giờ đây, chúng ta lại một lần nữa chuẩn bị hân hoan kỷ niệm ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, ở giữa chúng ta, cùng chia sẻ mọi vui buồn sướng khổ của kiếp phàm nhân. Kiếp người là kiếp khổ, nhưng có Con Chúa đồng hành thì mọi thứ sẽ xuôi chèo, mát mái. Khổ tâm này rồi sẽ biến thành niềm hoan lạc vô tận. Càng chịu đựng nỗi khổ lớn thì niềm hạnh phúc càng tràn ngập.

Hôm nay một ngọn-nến-tím nữa được thắp sáng, vậy là cả ba ngọn-nến-tím đã được thắp sáng cùng với một ngọn-nến-hồng. Thời gian mừng lễ Chúa Giáng Sinh đã gần, nhưng hãy luôn nhớ chờ mong Ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu – lần quyết định vận mệnh của chúng ta. Thiết tưởng rằng thời điểm này cũng cần suy nghĩ về lời giới thiệu của Thánh Gioan tông đồ nói về Thánh Gioan Tẩy Giả: “Ông đến đ làm chng, và làm chng v ánh sáng, đ mi người nh ông mà tin. Ông không phi là ánh sáng, nhưng ông đến đ làm chng v ánh sáng. Ngôi Li là ánh sáng tht, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mi người (Ga 1:7-9).

Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin và chu phép ra s được cu đ; còn ai không tin s b kết án (Mc 16:16). Viên cai ngục đã hỏi cách được cứu độ, ông Phaolô đã xác định: “Hãy tin vào Chúa Giêsu thì ông và c nhà s được cu đ (Cv 16:31). Hãy tái xác tín và luôn tha thiết cầu nguyện: “Ly Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!. Nhờ tin mà người ta được công chính hóa và được giải án tuyên công – nghĩa là được lãnh nhận Ơn Cứu Độ. Đó là mục đích cuối cùng của chúng ta!

Hãy nghiêm túc thề hứa với Thiên Chúa: “Con s không xin, con không dám th thách Đc Chúa (Is 7:12). Cứ vững lòng tín thác, chắc chắn Ngài sẽ thực hiện công lý: “Người s m rng quyn bính và lp nn hòa bình vô tn (Is 9:6). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót (Ep 2:4) và không đành chợp mắt ngủ quên (Tv 121:4), Ngài sẽ sớm bù đắp cho Nỗi-Khổ-Tâm-Công-Chính của đám dân oan, các thần dân trung tín với Ngài.

Ly Đng Công Lý và Chân Lý, xin giúp con dám thng thn nói s tht, noi gương Con Ngài đến đ bo v Chân Lý, dù con biết vì thế mà con b ghét. Xin Ngài giúp con biết đón nhn mi đau kh ca kiếp người như tng phm vô giá Ngài trao, đ qua đó, con có th làm vinh danh Ngài và cu ri nhiu linh hn theo ý Ngài.

L
y Đng-b-t-khước-ngay-ti-nhà-mình (Ga 1:11), xin giúp con gp được Ngài qua tha nhân. Con không dám xin Ngài làm phép l, nhưng xin Ngài thêm cho con ba đc đi thn: Tin, Cy, Mến mi nơi và mi lúc, đ con có th sng l theo đúng Tôn Ý Ngài.


L
y Đng Emmanuel, xin luôn bên con, Ngài là Đng hng sinh và hin tr cùng vi Thiên Chúa Cha, hip nht vi Chúa Thánh Thn, đến muôn đi. Amen.

Về mục lục

.

TIN MỪNG VƯỢT TRỘI HƠN CẢ CÔNG CHÍNH TRẦN GIAN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty  

Giáng Sinh đã gần kề! và đương nhiên Lời Chúa muốn tường thuật cho chúng ta về các sự kiện, các nhân vật có liên quan trực tiếp tới biến cố trọng đại của lịch sử cứu độ: Giu-se và Ma-ri-a là những nhân vật rất đáng cho chúng ta chiêm ngưỡng và học hỏi, chính vì các cuộc chiến đấu nội tâm mà các ngài đã từng phải giáp mặt trước các đòi hỏi của Tin Mừng.

Trường hợp Ma-ri-a: được tường thuật cách chi tiết trong biến cố truyền tin, đã được Phúc Âm Lu-ca ghi lại khá tỉ mỉ (Lc 1:26-38), còn tác giả Mát-thêu thì vắn gọn hơn: cô Ma-ri-a – một trinh nữ chưa về chung sống với chồng là Giu-se, đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Đoạn sách tiên tri I-sai-a được trích dẫn chỉ muốn xác định việc con trẻ sẽ hạ sinh là ‘Em-ma-nu-en – Thiên Chúa ở cùng chúng ta’, có nghĩa là thật sự Người có nguồn gốc từ Thiên Chúa. Ngay cả đoạn gia phả cũng hầu như có chủ đích cho thấy đấng Ki-tô không phải là con ruột của Giu-se, mà chỉ mong minh chứng Người thực sự thuộc giòng tộc nhà Đa-vít: “…Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của Ma-ri-a, bà là mẹ đức Giê-su cũng gọi là đấng Ki-tô” (Mt 1:16). Cuộc chiến đấu nội tâm của Ma-ri-a, trước khi chưa chung sống với chồng mà đã có con, cũng thật khốc liệt. Hôm nay đoạn Tin Mừng Mát-thêu mời chúng ta tập trung vào trường hợp của Giu-se – nhân vật nam chủ chốt; người sẽ phản ứng ra sao trước biến cố kỳ dị này, chiếu theo các qui định ngặt nghèo của truyền thống và luật pháp Do Thái?

Trường hợp Giu-se: trong cách suy nghĩ thông thường của một người đàn ông Do Thái mẫu mực thời đó, ông dễ dàng chấp nhận việc có con cái nối giòng, theo thói tục được mọi người thời bấy giờ nhìn nhận. Giu-se được gán cho hạn từ ‘người công chính’ (lưu ý: thuộc từ ‘công chính’ được Mát-thêu áp dụng duy nhất một lần trong trường hợp này) chỉ vì luôn hành sử theo đúng luật pháp Mô-sê cách đường đường chính chính. Ông không muốn, mà cũng không thể chấp nhận bất kỳ lối sống nào không phải là công minh chính đại tuân thủ luật Mô-sê. Dầu có kính nể Ma-ri-a tới mấy, nhưng việc vợ ông đã thành hôn nhưng chưa về nhà chồng chung sống, mà đã mang thai là không thể chấp nhận được.  Luật pháp đã tiên liệu cho các ông chồng rơi vào hoàn cảnh này: hoặc tố giác hoặc đơn giản bỏ phế cuộc hôn nhân…, rồi để mặc cho xã hội hành xử theo đúng qui định đối với trường hợp ngoại tình. Tuy nhiên lời sứ thần Chúa đòi ông phải hành xử như một người cha thực thụ: “đón Ma-ri-a vợ ông về nhà.., ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su”…; nói cách khác, đòi ông không còn ‘công chính’ theo đòi hỏi của luật pháp nữa. Đó quả là một đòi hỏi quá lớn đối với một người Do Thái ‘công chính’ như Giu-se. Ông phải quyết định: giữa một bên là chương trình cứu độ của Thiên Chúa đang được khai mở ‘vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ’, và bên kia là sự công chính theo luật pháp của bản thân ông. Và Giu-se ‘khi tỉnh giấc, đã làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà’, tức là ông đã chấp nhận cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa, hơn là theo đuổi sự công chính của xã hội quanh mình.

Trường hợp Ma-ri-a cũng tương tự như thế, khi cô lên tiếng: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Như vậy đối với cả hai: Tin Mừng cứu độ hẳn phải trổi vượt xa sự công chính của luật pháp.

Đúng thế! Thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và biểu lộ được lòng thương xót từ nhân của Người là nhiệm vụ hàng đầu và nội dung lớn nhất của Tin Mừng. Sống công chính theo luật pháp thì mọi người đều phải làm, mỗi thời có một cách sống công chính chiếu theo nền luân lý xã hội chuyển dịch theo thời gian, nơi chốn, văn hóa và truyền thống tuy có giá trị thật đấy, nhưng đứng trước Tin Mừng cứu độ, nó không còn giữ địa vị độc tôn – mục tiêu tối thượng được nữa. Thật vậy: công chính Do Thái đã có từ thời Cựu Ước, tương tự như thế, ‘công chính’ dưới dạng này hay dạng khác cũng đã tồn tại trong tất cả các xã hội và tôn giáo nhân loại. Tin Mừng Hài Nhi Giê-su đem đến trần gian không phải là một thứ công chính luân lý cao đẹp, hoàn hảo hơn các nền công chính khác. Căn cứ vào thái độ của Đức Giê-su khi cư xử với người nữ Sa-ma-ri chung chạ tới sáu đời chồng, với Gia-kêu cầm đầu nhóm thu thuế bất chính, với Mác-đa-la người phụ nữ đàng điếm khét tiếng trong thành, với tên gian phi tử tội cùng bị đóng đinh… thì Tin Mừng cứu độ được loan báo không hề bị ràng buộc bởi các điều kiện luân lý hay công chính theo luật pháp.

Đúng là Mùa Vọng kêu mời ta sám hối, nhưng không phải là thứ sám hối nhằm vun đắp cho ta một cuộc sống luân lý cao đẹp, lành mạnh hơn…, nhưng trước hết là để ta đón nhận cách trọn vẹn hơn Tin Mừng cứu độ. Mùa Vọng là thời gian tôi lắng nghe và đón nhận Thầy Giê-su, không phải vì học thuyết luân lý tuyệt hảo của Người, nhưng vì Người chính là hiện thân của một Thiên Chúa từ nhân. Kỷ nguyên mà Người khai mở không nhất thiết phải là kỷ nguyên của một xã hội hoàn hảo, trong đó mọi người đều phải trở nên đạo đức thánh thiện; mà tiên quyết phải là kỷ nguyên của lòng thương xót thứ tha, trong đó tội lỗi tuy vẫn tồn tại, nhưng tội nhân thống hối cảm thấy mình được hoàn toàn chấp nhận và yêu thương vô điều kiện.

Là một linh mục, hơn bất cứ ai khác, tôi càng cần xác tín điều này hơn ai hết, để việc mục vụ và loan báo Tin Mừng của tôi đạt được chiều kích mới và đánh đúng trọng tâm!

Lạy thánh Giu-se đấng công chính, xin hãy dạy con đón Hài Nhi Giê-su cách xứng đáng. Xin cho con thấu hiểu rằng: khi sinh ra, Hài Nhi này đã không cần tới giầu sang trần thế cũng như danh giá xã hội; điều duy nhất Người mong đợi là thực hiện cho bằng được chương trình cứu độ từ nhân của Chúa Cha. Xin Thánh Cả dạy cho con biết: xưa chính ngài cũng đã từng phải hy sinh danh thơm tiếng tốt của mình như thế nào để có thể âm thầm cộng tác vào kế hoạch cứu độ, thì nay trong đời sống và công việc mục vụ của mình, con cũng phải  thực hiện cho bằng được cùng một ưu tiên cao đẹp đó. A-men.

Về mục lục

.

CHUẨN BỊ TÂM HỒN ĐÓN CHÚA ĐẾN

Lm. GB. Trần Văn Hào

Chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến.

Gần ngày lễ Giáng sinh, người ta thường viết những cánh thiệp để gửi trao cho nhau những điều tốt đẹp nhất. Chúng ta chúc nhau một mùa Giáng sinh vui tươi và an bình. Chúa đi vào trần gian đem niềm vui và bình an đến cho con người. Nhưng để hưởng nhận niềm vui sâu xa ấy, chúng ta cần dọn tâm hồnthật kỹ lưỡng. Các bài đọc lời Chúa hôm nay gợi mở những tâm tình suy niệm và cầu nguyện để giúp chúng ta dọn lòng cách xứng hợp.

Dọn tâm hồn với tác động của Thần Khí.

Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã cắt nghĩa : “Hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an”(Rm 8,6). Muốn hưởng nhận bình an đích thực mà Chúa Giêsu đem đến, chúng ta phải trải lòng mình ra để cho Thần Khí tác động. Trong ngày Chúa giáng sinh, các thiên thần ca hát : “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Sự bình an chúng ta trao chúc cho nhau trong mùa Giáng sinh không phải làsự bình an được đánh đổi bằng bom đạn hayđược mua bán bằng tiền bạc. Sự an bình nội tâm chỉ có được bằng ân sủng, qua tác động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy chiêm ngắmhình ảnhcủa Đức Maria để học hỏi thái độ nội tâm này. Để đón Chúa đến ẩn cư trong cung lòng mình, Mẹ đã trải rộng tâm hồnchoChúa Thánh Thần hướng dẫn. ‘Bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần’ (Mt 1,18b). Qua tác động của Thần khí, Mẹ đã tìm kiếm và hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa. Mẹ đã cảm nghiệm niềm vui và sự bình an cách sâu xa, nên đã thốt lên : “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, Đấng Cứu chuộc tôi”. Vì vậy chìa khóa căn bản để hưởng nhận niềm vui khi Chúa đến viếng thăm, chính là việc chúng ta biết mở toang cánh cửa tâm hồn để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

Học nơi thái độ nội tâm của thánh Giuse.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Matthêu đã nêu cao mẫu gương của Thánh Giuse như một ‘Người Công chính’. Theo quan niệm cựu ước, người công chính là người luôn chu toàn luật Chúa một cách nghiêm túc. Người Biệt phái khi lên đền thờ cầu nguyện, đã tự mãn cho mình là người ‘công chính’ và khoe khoang thành tích đạo đức của mình : ‘Con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cho Chúa một phần mười hoa lợi, con không trộm cắp, không bất chính, không ngoại tình…’Song, sự công chính mà Chúa Giêsu khai mở không phải dựa trên những thành tích đạo đức giả tạo và rỗng tuếch bề ngoài, nhưng phải đi vào nội tâm một cách sâu xa. Thánh Giuse là người đầu tiên đã trở nên gương mẫu cho chúng ta về quy chuẩn này. Thoạt đầu Giuse toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo vì không muốn tố giác một phụ nữ không chồng mà mang thai. Phụ nữ ấy sẽ bị ném đá theo luật Moisen. Thánh Guise không muốn làm hại Đức Maria, nhưng đã hành xử ‘cách công chính’ theo toan tính tự nhiên. Nhưng cuối cùng, Thiên Chúa đã hướng dẫn và Thánh Guise đã hoàn toàn quy thuận theo đường lốiNgài.

Thái độ nội tâm của Thánh Guise là gương mẫu để chúng ta bắt chước và học hỏi. Ngài ít nói, không phải vì trầm cảm hayvì ít giao tế xã hội. Thánh Giuse thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa. Giữa đêm khuya tĩnh lặng, Thánh Guise đã nghe được tiếng Chúa nói qua Thần Sứ. Và khi tỉnh dậy, Thánh nhân đã làm như lời thần sứ dạy bảo và đón vợ về nhà (c 24).Chỉ trong thinh lặng nội tâm, chúng ta mới có thể nghe điềuThiên Chúa ngỏ trao. Giuse đã làm như thế và Giáo hội muốn chúng ta nhìn vào thái độ nội tâm này để bắt chước trong những ngày đón chờ Chúa đến.

Học hỏi thái độ khiêm hạ của Đức Maria.

Trong bài đọc 1, ngôn sứ Isaia đã báo trước hình ảnh của Đức Maria : ‘Này người trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Emmanuel’. Việc 1 trinh nữ mang thai và sinh con là điều mà đầu óc suy lý con người không thể hiểu được, bởi vì con người dù khôn ngoan đến mấy cùng không thể đi vào thế giới của huyền nhiệm nếu không được Thần khí khai sáng. Đức Maria là người đầu tiên đã cảm nghiệm được nghịch lýấy và Mẹ đã hoàn toàn trải lòng mình ra để Thánh Thần hướng dẫn. Chính Đức Maria đã trải nghiệm mầu nhiệm vĩ đại này một cách sâu xa. Ngài cảm thấu điều mà sứ thần Gabriel đã nói : “Không có gì mà Thiên Chúa không thể làm được”.

Khi con người kiêu ngạo, chỉ biết khép kín trongkhông gian chật chội nơi đầu óc mình, họ sẽ không thể lĩnh hội được những mầu nhiệm cao sâu. Ngược lại, chỉ với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn như Đức Maria, chúng ta mới có thể đi vào thế giới của huyền nhiệm để cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ. Chúng ta hãy học lấy thái độ khiêm tốn của Đức Maria để thưa lên với Chúa : “Xin cứ thực hiện nơi tôi những gì Chúa muốn”. Lời thưa ‘Fiat’ của Đức Maria luôn là chuẩn mẫu để chúng ta thăng tiến trong cuộc lữ hành đức tin, đặc biệt trong những ngày chuẩn bị lễ Chúa Giáng sinh sắp tới.

Kết luận.

Chúng ta đang sống trong một xã hội quá ồn ào và náo động. Ồn ào không phải do những âm thanh ầm ỹ trên các sân khấu, trong các buổi lễ hội, hay bởi những tiếng còi xe nhức nhối ngoài đường phố. Sự ồn ào ở ngay trong chính nội tâm của mỗi người. Đó là những tiếng động ầm ĩ của tiền bạc, của những tiếng gầm rúdo thù hận, chém giết, của những tiếng la thét cay cú bởi ghen tương hay oán giận. Chúng ta hãy học lấy gương mẫu của Thánh Giuse và Đức Maria với thái độ khiêm tốn nội tâm để có thể hưởng nhận niềm vui và sự bình an Đức Giêsu mang đến trong đêm Ngài Giáng sinh.

Về mục lục

.

TRUYỀN TIN CHO ÔNG GIUSE

Lm. Giuse Dương Hữu Tình

Chúng ta đã bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Ở Chúa nhật này, Giáo hội mong muốn chúng ta thực sự chuẩn bị tâm hồn xứng đáng cho Đại Lễ Giáng Sinh sắp tới. Bởi thế, Giáo hội đưa ra tấm gương rất tiêu biểu như là khuôn mẫu cho một tâm hồn được chuẩn bị sẵn cho Con Thiên Chúa giáng trần. Khác Chúa nhật năm B và C, Giáo hội đưa ra khuôn mẫu là Mẹ Maria. Chúa nhật IV Mùa Vọng năm A này, Giáo hội muốn chúng ta hướng lòng về một khuôn mặt đặc biệt khác, đó là Thánh Giuse với biến cố được gọi là “Truyền tin cho ông Giuse”.

Vẻn vẹn chỉ 8 câu Phúc Âm ngắn gọn mà đã toát lên gần như trọn vẹn khuôn mặt mẫu mực và rất đáng yêu của Thánh Giuse. Chuyện bắt đầu từ việc Mẹ Maria mang thai mà Thánh Giuse không hay biết gì về nguồn gốc. Thánh Giuse thấy thế thế định bỏ Mẹ Maria, nhưng Ngài được giải thích qua giấc mộng. Thế là Thánh Giuse không bỏ Đức Mẹ nữa mà đón Mẹ về nhà mình. Chuyện chỉ có thế thôi nhưng qua sự kiện này, nhân đức của Thánh Giuse được dịp tỏa sáng. Tỏa sáng như thế nào? Thánh sử Matthêu đã trả lời cho chúng ta khi ngài nói về Thánh Giuse một cách rất ngắn gọn: “Ông Giuse, chồng bà, là người công chính”. Nếu không phải là một người công chính, thì sự việc đã xảy ra khác nhiều. Nếu không phải là người công chính thì không ai có thể biết số phận con trẻ trong lòng Mẹ Maria sẽ ra sao? nếu không phải là người công chính thì chương trình cứu độ của Thiên Chúa làm sao có thể tiếp tục một cách tốt đẹp?

Thánh Giuse là người công chính, nên đã định tâm bỏ Đức Mẹ. Ông định bỏ Đức Mẹ ít là vì hai lý do này: trước hết vì là người chồng, nên ngài hiểu vợ mình: “Ông Giuse, chồng bà”. Thánh Giuse hiểu Đức Maria hơn ai hết, nên ngài tin Đức Mẹ. Ngài biết thai nhi trong lòng mẹ do một quyền năng siêu nhiên nào đấy can thiệp và dường như càng lúc ngài càng cảm thấy Quyền năng ấy choáng ngập vợ mình, dành riêng vợ mình cho một sứ mạng lớn lao khác. Là một người đạo đức, công chính, ông lặng lẽ rút lui.

Lý do thứ hai: chính vì là một người công chính, Thánh Giuse sớm nhận ra đâu là dấu vết của Thiên Chúa và đâu là dấu vết của tà thần. Đó là tâm trạng chung của những tâm hồn đạo đức thánh thiện. Càng đạo đức bao nhiêu thì càng dễ phân biệt đâu là thánh đâu là tà, càng công chính bao nhiêu thì càng bén nhậy trước thánh ý Thiên Chúa bấy nhiêu. Vì thế, Thánh Giuse sớm nhận ra bàn tay vô hình của Thiên Chúa đang can thiệp vợ mình. Phản ứng của ông cũng giống tâm trạng của những người công chính trong Cựu Ước, đó là rút lui. Ông sợ không dám tiết lộ với ai, cũng không dám nhận một người như thế làm vợ, ông âm thầm bỏ đi.

Chính lúc đó, Thiên Chúa can thiệp. Ngài cho Thánh Giuse hiểu rằng Ngài muốn dùng cả bản thân Thánh Giuse cho chương trình vĩ đại của Ngài.

Thánh Giuse quả là một con người vĩ đại. Ngài sớm nhận ra ngay chương trình của Chúa, ông “làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”.

Thiên Chúa luôn có sẵn chương trình của Ngài và chương trình nào cũng vì yêu và làm đẹp cho con người. Đáng tiếc ngày nay người công chính ít quá, nên công trình của Chúa bị hỏng nhiều.

Lạy Chúa, xin soi cho con biết ý Chúa trong cuộc đời con và xin cho con đủ sức để mau mắn thi hành.

Về mục lục

.

EMMANUEN: THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

        Fx. Đỗ Công Minh   

Lạy Chúa, 

           Chúng con đang bước vào những ngày cuối của mùa Vọng, chỉ còn không đầy một tuần nữa thôi cả thế giới này hân hoan mừng ngày Chúa Giáng trần. Mùa Vọng không chỉ là thời gian chờ đợi mừng Sinh nhật Chúa, mà  còn chính là cơ hội cho con sống trong hy vọng, chờ đợi ngày Chúa lại đến . 

           Có nhiều cách mong đợi, như mong người thân từ phương xa lâu ngày không gặp, nay sắp trở về. Mong một món quà được thông báo đang được gửi tới. Mong như thế là mong cho thời gian qua mau, mong trong trạng thái vui mừng, bồn chồn, nôn nao. Nhưng cũng có mong đợi trong tâm trạng không hề muốn sự việc xảy ra, như mong cho kết quả của một cuộc xét nghiệm đừng xảy ra như lo lắng trước đó. Mong cho thần chết đừng vội đến với người thân đang lâm bệnh . . . 

        Với mỗi người chúng con, sống trong mùa Vọng, cũng đang mong đợi, thái độ của con đang trong tình trạng nào. Vui mừng chờ đón hay lo lắng băn khoăn ? 

         Bài Tin mừng Chúa nhật thứ IV mùa vọng cho con thấy Thánh cả Giuse, một con người trần gian như chúng con đây đã được Thiên Chúa tuyển chọn. Là một người Công chính, khi nghe tin người bạn mới đính hôn của mình mang thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, đã định tâm rời bỏ người bạn đời một cách âm thầm, kín đáo. Một thái độ rất “ con người “. Cũng như  đức MARIA, khi được loan báo ý định Chúa sẽ đến trong cuộc đời, đã nêu thắc mắc, lo lắng của bản thân với sứ giả của Thiên Chúa: ” Việc ấy xảy ra thế nào được “. Cả hai Đấng đều là mẫu gương sống mùa Vọng : Tỉnh thức và tin tưởng. 

         Khi Thiên sứ truyền tin vui trong giấc mơ :” Này ông Giuse con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần  bà sẽ sinh  con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ “, Thánh Giuse cũng đang trong tâm trạng hoang mang, lo lắng . Với Đức Maria, sau khi được Sứ Thần truyền tin, Mẹ đã thưa : “Xin Thiên Chúa thực hiện nơi tôi điều Ngài muốn”. Còn Thánh Giuse , Thánh Matthêu thuật lại : “Khi tỉnh giấc ,Ông Giuse làm như Sứ Thần Chúa dạy “, cho thấy cả hai Đấng đều đáp trả lời mời gọi với lời thưa “XIN VÂNG. Đức Maria sau  ngày được truyền tin đã “ vội vã lên miền núi” thăm chị họ là bà Isave và ở lại đó giúp đỡ bà”. Còn Thánh Giuse “ đón vợ về nhà mình “  cho thấy hai Đấng đã thể hiện niềm vui “Có Chúa ở cùng “bằng hành động cụ thể. Các Ngài đã chuẩn bị dọn lòng để cưu mang Đấng Cứu Thế và đem Chúa đến với người khác. 

          Lạy Chúa, 

         Xin giúp con biết dọn lòng đón Chúa đến trong cuộc sống mỗi ngày, biết sẵn sàng giới thiệu Chúa với đồng bào con, những người đang cùng sống với con trên đất nước này, bằng đời sống chứng tá cụ thể của mình. Rồi đến lúc nào đó Chúa sẽ đến gọi con, xin cho con luôn biết thưa lên: “Xin vâng, Lạy Chúa, này con đây “. Với hành trang là tấm lòng trung tín theo Chúa, bác ái với anh em sẽ là những hy sinh bé nhỏ từng ngày gom lại như những lễ vật dâng Chúa. Sống cuộc sống trong tin yêu và hy vọng. Sống phó thác và xin vâng, đó chính là đích thực sống Mùa Vọng hôm nay . 

          EM-MA-NU-EN: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. AMEN

Về mục lục

.

EMMANUEN, THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Việc đặt tên cho đứa con là việc quan trọng đối với các đôi vợ chồng. Khi có con sắp chào đời, hai vợ chồng bàn bạc với nhau để chọn cho con mình một cái tên thật ý nghĩa, thật đẹp, thật hay.

Qua việc đặt tên, cha mẹ gửi gắm ước vọng của mình vào đó. Tỷ như khi đặt tên cho con là Phúc, Đức, Tài, Lộc… cha mẹ cầu mong cho con mình sau nầy đạt được những điều tốt đẹp y như tên gọi của các em.

Danh hiệu của Thiên Chúa làm người

Trích đoạn Tin mừng trong Chúa nhật nầy đề cập đến tên gọi mà Thiên Chúa Cha đã chọn cho Ngôi Hai Thiên Chúa khi Ngài đầu thai trong lòng Mẹ Maria. Tên gọi nầy đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo từ hơn bảy trăm năm trước: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”  (Mt 18,23).

Đây là một tên gọi thật ý nghĩa; tên gọi nầy nói lên ước vọng của Thiên Chúa muốn ở mãi với loài người khắp mọi nơi, suốt mọi thời cho đến tận cùng thời gian.

Liên quan đến ý tưởng nầy, Đức cha Gaillot có nhận định rất chí lý. Ngài viết:

“Sống rộng lượng là tốt, nhưng sống-với thì tốt hơn; công việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh thì cần thiết hơn.”

Đúng thế, dù chúng ta có rộng lượng với người nghèo khổ bao nhiêu cũng không bằng đến sống-với họ, chia sẻ buồn vui cay đắng với họ. Dù chúng ta có làm bao nhiêu việc từ thiện để giúp cho người đau khổ cũng không bằng đến hiện-diện-bêncạnh họ trong những lúc đau thương.

Thiên Chúa mong muốn ở với loài người

Vì yêu thương loài người quá đỗi nên Thiên Chúa muốn sống-với con người, muốn hiện-diện-bên-cạnh con người mọi lúc mọi nơi. Danh hiệu Em-ma-mu-en gói trọn ước vọng của Thiên Chúa muốn ở mãi với loài người.

Ước vọng nầy cũng được Chúa Giê-su khẳng định lại khi Ngài sắp từ giã các môn đệ:

“Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.”  (Mt 28, 20)

Tâm tình này cũng đã được Chúa Giê-su bày tỏ qua lời cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con…” (Ga 17,24).

Thiên Chúa ở với loài người cách nào?

Để thực hiện ước muốn ở với loài người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất để chấp nhận sinh ra làm người, chia sẻ thân phận đau thương của kiếp người để ở với mọi người.

Ngay cả khi Chúa Giê-su được vinh thăng trên các tầng trời, chấm dứt sự hiện diện hữu hình trên mặt đất, thì Ngài vẫn tiếp tục hiện diện cách thiêng liêng trong tâm hồn của các tín hữu và trong Hội thánh.

Chúa Giê-su tiếp tục hiện diện với chúng ta qua Lời của Ngài: chính Ngài ngỏ lời với ta khi Giáo Hội công bố Lời Chúa.

Chúa Giê-su tiếp tục ở với chúng ta khi chúng ta họp nhau nhân danh Ngài như Ngài từng nói: “Khi có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở giữa những người đó” (Mt 18,20).

Chúa Giê-su cùng với Chúa Cha và Thánh Thần thường xuyên cư ngụ trong lòng những kẻ yêu mến và tuân giữ Lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy ” (Gioan 14, 23).

Thế nhưng bấy nhiêu cũng chưa thoả lòng yêu thương nên Chúa Giê-su còn lập nên bí tích Thánh thể, hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu để cho chúng ta được rước Chúa vào lòng, để chúng ta được trở nên đồng huyết nhục với Chúa, được sống trong Chúa và Chúa sống trong chúng ta.

Nguyện vọng tha thiết nhất của Thiên Chúa là ở với loài người mọi ngày cho đến tận thế. Và điều đau lòng nhất của Thiên Chúa là bị nhân loại từ khước như thánh Gioan nhận định trong Tin mừng thứ tư : “Ngài ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Ngài mà có, nhưng lại không nhận biết Ngài. Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Gioan 1, 10-11).

Lạy Chúa Giê-su,

Để thể hiện ước vọng muốn sống với chúng con, hiện diện bên cạnh chúng con, mỗi ngày Chúa đều đến với chúng con qua nhiều hạng người mà chúng con gặp gỡ.

Tiếc thay, chúng con thường lãng quên những người đó là hiện thân của Chúa nên đã có thái độ lạnh lùng, xa cách. Xin cho chúng con biết mở rộng trái tim để đón tiếp mọi người và dành cho họ một chỗ đứng quan trọng trong lòng chúng con, vì khi tiếp đón họ là chúng con đang tiếp rước Chúa.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG_A

Lm. Anthony Trung Thành

“Ở-cùng-chúng-ta” là tên gọi đặc biệt của Thiên Chúa. Đó là lời tiên báo của tiên tri Isaia sống trước Đức Giêsu 700 năm, ông khẳng định rằng: “Này đây một Trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” (x. Is 7,14). 

Thật vậy, từ khi dựng nên con người, Thiên Chúa luôn tìm mọi cách để ở với con người. Ngài ở với con người qua công trình sáng tạo (x. St 1,1-31). Ngài lấy bùn đất và thổi sinh khí để dựng nên con người (x. St 2,7). Ngài lấy xương sườn ông Adong để dựng nên bà Evà (x. St 2,18-25). Khi con người sa ngã phạm tội, chính Ngài có mặt ở đó và hứa ban Đấng Cứu Thế. Ngài phán với con rắn rằng:“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (x. St 3,15). Trong lúc chờ đợi thực hiện lời hứa đó, Thiên Chúa đã ở với con người bằng cách: “Ngài đã tuyển chọn Abraham, và Ngài đã ký kết một giao ước giữa Ngài với ông và dòng dõi của ông, Ngài đã làm cho họ trở thành dân của Ngài và ban cho họ Luật của Ngài qua tay Môsê. Nhờ các tiên tri, Ngài đã chuẩn bị dân Ngài đón nhận ơn cứu độ dành cho toàn thể nhân loại.” (GLHTCG số 72). 

Và, “khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.”(Gl 4,4-5). Theo chương trình đã định trước, Tin mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về biến cố truyền tin cho ông Giuse (x. Mt 1, 18-24). Qua  biến cố này, Thánh sử Mathêu xác nhận cho chúng ta thấy về gốc tích của Đức Giêsu và về vai trò của Thánh Giuse. Đức Giêsu sinh bởi bà Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse được chọn làm Cha nuôi của Đức Giêsu. Như vậy, Đức Giêsu chính là Thiên Chúa thực sự ở với loài Người. Ngài mang trong mình dòng máu nhân loại và ở với loài người bằng xương bằng thịt trong suốt thời gian ba mươi ba năm: Ba mươi năm sống đời ẩn dật; ba năm đời sống công khai. Trong ba năm đó, Ngài đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi, Ngài gặp gỡ tiếp xúc với mọi hạng người. Đặc biệt, Ngài quan tâm giúp đỡ những người nghèo khó, ốm đau, bệnh tật. Nhờ Ngài mà “người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó.” (x. Mt 11,5). 

Trước khi về trời, Ngài còn tuyên bố: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” (x. Mt 28,20). Ngài ở lại với chúng ta qua Giáo hội, nơi Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục là những người đại diện cho Ngài ở trần gian này; Ngài ở lại với chúng ta qua Lời của Ngài như chính Ngài đã nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14,23); Ngài ở lại với chúng ta qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56); Ngài ở lại với chúng ta nơi những người nghèo, những người bé mọn (x. Mt 25, 31-46) và trong chính tâm hồn của mỗi chúng ta, vì thân xác của chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (I Cor 3, 16). 

Như vậy, vì tình thương nên Thiên Chúa đã tìm mọi cách để ở với loài người. Thánh Phaolô trong bài đọc II, đã cảm nhận sâu sắc ơn gọi làm Tông đồ của Ngài là nhờ Đức Giêsu, Ngài nói: “Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ.”(x. Rm 1,5). Qua đó, Ngài cho biết: “Cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô.”(x. Rm 1,6). Vì thuộc về Đức Giêsu Kitô nên Ngài ước mong cho mọi người chúng ta được nên thánh (x. Rm 1,7). Phần chúng ta, có bao giờ chúng ta cảm nhận được hạnh phúc có “Chúa – ở – cùng” chúng ta hay không? Có bao giờ chúng ta cảm nhận được ơn gọi làm Kitô hữu của chúng ta là nhờ Đức Giêsu hay không? Khi chúng ta cảm nhận được điều đó, chúng ta mới có thể chu toàn ơn gọi làm người kitô hữu, làm tông đồ của Chúa và ơn gọi nên thánh như Thánh Phaolô. 

Thiên Chúa ở với loài người không những để chia sẻ, ban ơn, nâng đỡ loài người mà còn là mẫu gương tuyệt vời cho mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống gia đình, để vợ chồng, cha mẹ con cái có thể chu toàn bổn phận làm người kitô hữu, làm tông đồ và nên thánh, thiết tưởng mỗi thành viên trong gia đình cần cố gắng ở với nhau, hiện diện cùng nhau trong mọi sinh hoạt của cuộc sống. 

Nhưng, trong thời buổi kinh tế thị trường, vợ chồng, cha mẹ, con cái hiện diện bên cạnh nhau thường xuyên là một điều hết sức khó khăn. Lý do có lẽ vì công ăn việc làm, vì việc học hành. Tôi đã thấy đa số các gia đình, nhất là ở thành phố: vợ đi làm ca ngày, chồng đi làm ca đêm, con cái đi học xa nhà…Đó là chưa nói tới các trường hợp vợ hoặc chồng phải đi xuất khẩu lao động, cả hai người phải xa nhau lâu năm lâu tháng. Vì thế, ít khi các thành viên trong gia đình gặp nhau một cách đầy đủ. Chính vì xa nhau qúa lâu, vợ chồng thiếu thốn tình cảm, gặp nhiều cám dỗ, nên có rất nhiều cặp vợ chồng bị đỗ vỡ. 

Vì vậy, cần phải tạo điều kiện để các thành viên trong gia đình hiện diện bên cạnh nhau, để cầu nguyện với nhau, chia sẻ, nâng đỡ với nhau khi vui khi buồn, nhất là các thành viên giúp nhau vượt qua những khó khăn đau khổ trong cuộc sống. Điều này, chúng ta học nơi gia đình Thánh Gia. Sau khi nghe Thiên thần báo mộng, Thánh Giuse đã mau mắn rước Đức Mẹ về nhà mình, và từ đó các Ngài hiện diện cùng nhau trong những vui buồn sướng khổ của cuộc sống: Khi Đức Mẹ sinh Đức Giêsu nơi hang đá; khi dâng Đức Giêsu vào đền thánh; khi đưa Hài Nhi trốn sang Ai cập; khi đưa Hài Nhi trở về quê quán; khi đi lên Giêrusalem để dự lễ; khi Trẻ Giêsu bị lạc mất, hai ông bà cố gắng đi tìm. Cuối cùng, hai ông bà cũng tìm thấy Hài Nhi đang đàm đạo với các bậc vĩ vọng ở trong Đền Thờ. Đức cha Gaillot nhận định rất chí lý rằng: “Sống rộng lượng là tốt, nhưng ‘sống với’ tốt hơn; công việc từ thiện là cần thiết, nhưng ‘hiện diện bên cạnh’ cần thiết hơn.” 

Để các thành viên có thể “hiện diện bên cạnh” nhau, xin đề nghị các thành viên trong gia đình cần thực hiện bốn cùng: cùng ăn cơm chung, cùng cầu nguyện chung, cùng làm việc chung, cùng nhau giải trí. Nếu không thể thực hiện được trọn vẹn bốn cùng trên đây thì hãy cố gắng tạo điều kiện để thỉnh thoảng gặp gỡ nhau, cầu nguyện và giải trí cùng nhau. 

Lạy Đấng Emmanuel, xin tiếp tục hiện diện và đồng hành với chúng con để chia sẻ, quan tâm  và giúp đỡ chúng con trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống. Amen.

Về mục lục

.

PHÚC THAY CHÚA Ở CÙNG

AM. Trần Bình An

Ngôi nhà thờ đương đầu rất giỏi và gió chỉ làm bung một mảng tường nhỏ mới vá sau bàn thờ chính. Bất tiện quá! Lễ Giáng Sinh gần kề làm sao bít kịp cái lỗ hổng đó? Không khéo nó lại lôi cuốn sự chú ý của người dự lễ hơn là cái hang đá. Cha xứ nảy ra sáng kiến đi ra cửa hàng tạp hóa của một hội đoàn giới trẻ. Người bán hàng đưa ra một bức thảm dệt tay kim tuyến, lấp lánh chen với ngà, chung quanh viền ren Bỉ. Chiếc thảm này trước kia được phủ trên một cái bàn trong cung điện cao sang, nhưng ở cái xó vùng sâu xa này, có ai thưởng thức được cái nghệ thuật quí giá đó? Vì thế giá rẻ mạt. Ừ, sao lại không mua bức thảm này che vào cái lổ hổng đó? Ngài mua liền. 

Ý kiến thế mà hay: Bức thảm làm nhà thờ nổi bật lên! Sáng sớm ngày áp lễ, cha xứ đến nhà thờ, ở chỗ chờ xe bus, ngài gặp một bà đang đứng đợi xe trong gió lạnh, ngài bảo: 

– Bà vào nhà thờ ngồi cho đỡ lạnh, còn 45 phút nữa xe mới qua đây. 

Bà ta vào nhà thờ quì gối đọc kinh, mắt bà bỗng mở to ra, bà chạy lên gần ngắm nhìn, sờ sờ tấm thảm và thốt lên: 

– Thưa cha, bức thảm này đúng là của chúng con. Chồng con mua nó ở thủ đô nước Bỉ. Cha coi, đây chính là ký hiệu của chúng con. 

Bà kể cho cha nghe tấm thảm kịch của gia đình. Vợ chồng bà sống tại nước Áo, khi quốc xã Đức tràn tới, họ bỏ chạy. Họ định trốn sang Thụy Sỹ, là phụ nữ, bà quá cảnh dễ dàng, còn chồng bà bị bắt lại, bà cho rằng ông đã chết trong trại tập trung rồi. Cha xứ ngỏ ý muốn trao lại tấm thảm nhưng bà từ chối:

– Thưa cha bức thảm để ở đây tốt hơn trong túp lều của con. Con vui lòng chịu đựng cảnh khốn quẫn. Con đi xin việc coi sóc nhà cửa, nhưng người ta từ chối vì lý do con đã già! 

Thánh lễ đêm Giáng Sinh, mọi người dự lễ đều ngắm nhìn gian cung thánh được trang trí lộng lẫy, những ánh nến càng tôn vẻ lấp lánh của bức thảm. Lễ xong một ông đến xin gặp cha xứ, ông là chủ một hiệu kim hoàn. Ông nói: 

– Thưa cha, thực là lạ quá! Bức thảm này đúng là của chúng con trước kia. Khi chúng con sống ở Viên, thủ đô Áo Quốc, cứ mỗi lần mời Đức Cha đến dùng bữa, nhà con lại đem tấm thảm này ra trải bàn. Cha xứ kể lại cho ông sự việc xảy ra sáng nay. Ông hồi hộp xin cha: 

– Cha có thể tả cho con vóc dáng của bà ấy được không? Có lẽ nào lại chính là nàng? Không lẽ nàng còn sống?

Ông xin cha hướng dẫn để theo dõi vết tích người đàn bà nghèo khổ đó. Quả đúng là bà vợ của ông ta. Chiều ngày lễ Giáng Sinh hai vợ chồng được đoàn tụ sau bao năm dài xa cách. Một phép lạ của Tình Yêu Con Thiên Chúa. (Internet)

Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đem đến nhân loại tình yêu, giao hoà và bình an sáng ngời trong đêm đen chia rẽ, hãi hùng, hận thù. Tin Mừng Chúa nhật 4 Mùa Vọng hôm nay trình thuật sứ thần truyền tin cho Giuse rằng, Mẹ Maria đã thụ thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, như ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ 8 thế kỷ:“Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.”( Is 7, 14)

Tình yêu

“Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4, 16) Thánh Giuse từng phân vân, lúng túng, nghĩ ngợi, trước sự kiện Mẹ Maria mang thai, đã kiên quyết vượt lên chính mình, khi nghe sứ thần báo mộng. Một cách diễn tả sự bén nhạy thấu hiểu Thánh Ý Chúa qua các dấu chỉ. Đấng Emmanuel đã ban tràn đầy cho Giuse tình yêu dâng hiến, lòng khoan dung và hy sinh, để ngài sẵn sàng chấp nhận sứ vụ cao cả, làm cha nuôi nhiều chông gai, đau khổ.   

Chỉ có Tình Yêu thật sự mới có thể mạnh mẽ hậu thuẫn cho Giuse quyết định, dấn thân phục vụ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ có Tình Yêu mới có thể hoá giải Luật lệ, cũng như xung đột ý riêng với Thánh Ý, để Giuse hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa và kiên trì hoàn hành. Chỉ có Tình Yêu mới giúp Giuse thấu hiểu kỳ công của Thiên Chúa, cũng như dẫn dắt đến niềm tin vững mạnh.

Giao hoà  

“Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” Qua lời sứ thần truyền tin, Đấng Emmanuel đến xua tan nghi ngờ, xoá sạch  ngộ nhận, kết hiệp thánh cả Giuse với Mẹ Maria, trở thành Thánh Gia Thất ấm áp, yên vui, hạnh phúc, gương mẫu, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.” (Is 11, 1)   

Trời đất giao hoà. Đấng Emmanuel nhập thể, bày tỏ Tình Yêu vĩ đại, gánh lấy tội lỗi nhân loại, san phẳng, lấp hố sâu tội lỗi ngăn cách, hầu giao hoà Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau, vốn thường mâu thuẫn, mê muội, đắm chìm trong bùn nhơ dục vọng. Người tìm kiếm từng con chiên lạc trở về với đàn.

Bình an 

“Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình.” Đấng Emmanuel an ủi, khích lệ Giuse an tâm, vâng theo Thánh Ý, tích cực dấn thân, cộng tác và phục vụ công trình cứu độ, cũng như làm rạng danh Thiên Chúa Tình Yêu. 

Liên tiếp bốn lần, sứ thần đều trấn an mọi người “đừng sợ.” Với Thầy Tư Tế: “Giacaria, đừng sợ! Vì Thiên Chúa đã nhậm lời ông cầu xin.” (Lc 1, 13) Với Mẹ: “Maria, đừng sợ! Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.” (Lc 1, 30).  Với mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại.” (Lc 2, 10) Và hôm nay với Giuse: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng sợ nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” (Mt 1, 20) 

Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đã giao hoà trời đất, và con người, đem bình an đến nhân loại, như thiên thần hân hoan đàn hát vang lừng bên hang đá Bê lem: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2, 14) Còn niềm vui nào cao sang, tuyệt vời, vĩ đại, hơn mầu nhiệm Đấng Chúa Ở Cùng giáng trần. 

 “Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Chúa là Cha, ở bên con, với tất cả quyền năng và tình yêu. Cha năn nỉ, Cha khuyên bảo, mời gọi, trách móc, tha thứ và luôn luôn yêu thương.” (Đường Hy Vọng, số 234) 

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Chúa Ở Cùng, xin giải thoát chúng con khỏi chốn ngục tù tăm tối tội lỗi, khỏi cám dỗ thế gian phù vân, để chúng con được sống trong Tình Yêu viên mãn, hiệp nhất và bình an. 

Kính xin Mẹ dẫn dắt chúng con theo Mẹ, cầu bầu chúng con năng ăn năn, sám hối, đổi mới, trở về Gia Đình Thánh, tràn đầy hạnh phúc cùng Chúa, với Chúa và trong Chúa. Amen.

Về mục lục

.

GỐC TÍCH ĐỨC GIÊ-SU

JM. Lam Thy ĐVD.

Đa phần các tín hữu thời Giáo hội sơ khai không quan tâm nhiều lắm đến cuộc đời thơ ấu của Ðức Ki-tô. Họ tin Người đã sống lại sau khi chết, việc này làm chứng Người là Con Thiên Chúa được Chúa Cha gửi tới. Do đó, phải nghe Lời Người, giữ lệnh Người và chờ đợi ngày Người trở lại. Thánh sử Mat-thêu, khi viết sách Tin Mừng, cũng chỉ quan tâm trình bày những điều ấy. Tuy nhiên, vì  Ðức Ki-tô được sinh ra bởi một người trinh nữ phàm trần, nên phải có chứng tích về nguồn gốc để minh chứng “Ðức Ki-tô là Thiên Chúa thật và là con người thật” (Giáo lý HTCG, số 470). 

Dựa theo những kiến thức thu thập được và nhất là chứng tích hiện thực nhãn tiền do được Đức Ki-tô thu nhận làm môn đệ, Thánh Mat-thêu đã có được kết quả cụ thể. Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/MV-A – Mt 1, 19-24) là một minh họa: Ông Giu-se, thuộc dòng dõi vua Ða-vít đã đính hôn với Maria là một Trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn và sai sứ thần truyền tin Mẹ được diễm phúc đón nhận hồng ân cưu mang Con Thiên Chúa làm người. Giu-se thắc mắc, Thiên sứ hiện ra báo tin cho ngài biết người con mà Đức Maria cưu mang chính là Ðấng-Thiên-Sai–mặc-xác-phàm – Người là Thiên Chúa thật và là người thật (xc Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội “Gaudium et Spes”, số 22 – Giáo lý HTCG, số 470). Vậy thì Đức Ki-tô phải có 2 gốc tích: 1- Nguồn gốc Thiên Chúa (Con Đức Chúa Cha, thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần); 2- Nguồn gốc trần gian (dòng dõi vua Đa-vít – thậm chí Giáo hội còn xưng tụng là con vua Đa-vít: “Đức Ki-tô là Con và cũng là Chúa của vua Đa-vít” – Mt 22, 41-46; Mc 10, 48; 12, 35-37; Lc 20, 41-44). 

Cũng có một thắc mắc cần được giải gỡ: Như vậy, phải chăng thánh sử Mat-thêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế? Thánh sử Mat-thêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày hai gốc tích khác nhau của Chúa Giê-su, thánh sử có một dụng ý thần học: Chúa Giê-su là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần; nhưng Chúa Giê-su cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận; nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giu-se đưa Chúa Giê-su ra công khai khi nhận Người vào dòng tộc Đa-vít. Qua trung gian của thánh Giu-se, Chúa Giê-su đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ cụ thể. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người chính là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. 

Nhờ đâu mà Thánh Giu-se và Ðức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Ðấng Cứu Thế? Về Đức Maria thì khỏi cần bàn cãi, vì Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn từ trước vô cùng. Tuy nhiên, khi sứ thần truyền tin cho Đức Maria thì “Nghe lời ấy, bà rất bối rối” và “Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” Cuối cùng, vì lòng tín phục Thiên Chúa cách tuyệt đối, “bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 29-38). Và với hai tiếng “xin vâng”, Mẹ đã hoàn thành xuất sắc sứ vụ cao trọng vô song đó. 

Riêng Thánh Giu-se, theo như bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/MV-A – Mt 1, 18-24), thì: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.” (Mt 1, 19). Tại sao vậy? Cũng đã có nhiều bài chia sẻ phân tích tâm trạng của Thánh Giu-se. Sở dĩ thánh nhân – nói theo kiểu ngôn ngữ thời đại – đành ôm hận âm thầm bỏ đi, một phần lỗi là tại Đức Maria. Đúng ra, Đức Mẹ khi được Thiên sứ báo tin thụ thai Con Đức Chúa Trời qua phép Thánh Linh, thì Mẹ phải tìm cách báo tin cho người bạn đời của mình mới phải lẽ. Cũng chỉ vì giữ kín như một sự lừa dối, nên mới khiến Giu-se ôm hận, và nếu như thói thường người đời, thì chắc chắn sẽ có phản ứng mạnh, ít ra là tố giác trước công luận. Còn phần Đức Mẹ, đặt giả thử bị Thánh Giu-se tố giác, thì – theo luật Do-thái thời đó – chắc chắn sẽ bị ném đá cho tới chết. 

Phiền trách Đức Mẹ theo kiểu suy nghĩ của thời đại hiện nay như vậy thì kể ra cũng quá lạm, nếu không muốn nói là kiến thức hạn chế, là đem “tư tưởng của loài người” bất toàn ra suy luận việc làm của Thiên Chúa. Thánh Giu-se và Đức Mẹ mới chỉ đính hôn, là vợ chồng trên danh nghĩa nhưng chưa sống chung, như vậy thì việc gặp gỡ riêng khó thực hiện được, ngoại trừ những cuộc hội ngộ công cộng trong gia đình hay trong cộng đoàn. Không gặp riêng nhau thì làm sao báo tin? Vả lại, việc Đức Mẹ thụ thai hoàn toàn do thánh ý Thiên Chúa, Đức Mẹ chỉ vâng phục, như vậy thì Mẹ tin rằng Thiên Chúa cũng sẽ báo tin cho Thánh Giu-se biết như Người đã sai Thiên sứ báo tin cho Mẹ. Chắc chắn Đức Mẹ đã tin tưởng như vậy, bởi cũng nhờ niềm tin vững mạnh ấy nên Mẹ mới “xin vâng như lời sứ thần truyền”. 

Còn Thánh Giu-se – vì là người công chính – nên chỉ chọn giải pháp âm thầm bỏ đi là thượng sách. Tuy nhiên, cuối cùng thì con người công chính ấy cũng không âm thầm bỏ đi, nhờ nỗi lòng thắp sáng một niềm tin và niềm tin ấy đã giải toả mọi thắc mắc, âu lo giày vò tâm trí thánh nhân. Đúng như suy nghĩ của Đức Mẹ, Thánh Giu-se đã được Thiên sứ báo mộng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1, 20-21). Không những sứ thần chỉ báo cho Thánh Giu-se biết Đức Mẹ thụ thai bởi phép Thánh Linh, mà còn cho biết tường tận bào thai Đức Mẹ cưu mang là một “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”; Người Con mà Đức Mẹ cưu mang chính là Đức Giê-su Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, “vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1, 21).  

Rõ ràng nỗi lòng của Thánh Giu-se cũng chẳng khác nỗi lòng của Đức Mẹ. Bối rối và lo âu cũng là lẽ thường tình, nhưng cuối cùng thì niềm tin vào Thiên Chúa đã trấn an tất cả, “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1, 37). Nỗi lòng của Đức Mẹ và Thánh Giu-se chính là “nỗi lòng không của riêng ai”. Đứng trước những hiện tượng siêu phàm thì tâm trạng chung của phàm nhân đương nhiên là hoài nghi, lo âu, sợ hãi. Duy chỉ có điều, anh có tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa hay không? Anh có tin Thiên Chúa là Đấng toàn năng hằng hữu hay không? Nếu anh tin, anh cứ việc hoài nghi, lo âu, sợ hãi, nhưng đừng quên cầu ngujyện; và Thiên Chúa sẽ mạc khải cho anh hiểu để cứu rỗi anh, giải thoát anh. Cũng bởi vì một “Em-ma-nu-en” tên là Giê-su đã đến, đang đến và sẽ đến cùng chúng ta. Vâng, “Trong đức tin, món quà của Thiên Chúa, một nhân đức siêu nhiên được Ngài truyền cho chúng ta, chúng ta nhận ra rằng một Tình Yêu cả thể đã được ban cho chúng ta, một Lời nhân lành đã được nói với chúng ta, và khi chúng ta chào đón Lời này, là Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể, Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta, soi sáng con đường đi đến tương lai và làm lớn lên trong chúng ta đôi cánh hy vọng để nó đồng hành với chúng ta.” (Thông điệp Ánh Sáng Đức Tin “Lumen Fidei”, số 7). 

Giáo Hội luôn mời gọi chúng ta tỉnh thức, dọn đường đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh. Đức Mẹ và Thánh Cả Giu-se đã làm như vậy bằng hai tiếng “xin vâng”. Còn chúng ta thì sao? Xin hãy khắc ghi lời dạy của Thánh Au-gus-ti-nô: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Người”. Đồng thời, hãy mở tâm hồn ra và giãi bày hết mọi nỗi lòng với Chúa bằng một đức tin vững mạnh, và dù cho có băn khoăn bối rối, lo lắng sợ hãi tới đâu chăng nữa, cũng xin hãy nhìn lên mẫu gương tuyệt hảo của Đức Mẹ và Thánh cả Giu-se, mà thưa với Chúa bằng hai tiếng “xin vâng”, vì này, “Nước Chúa đã đến gần”. Alleluia! 

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Ðức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người. Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật IV Mùa Vọng).

Về mục lục

.

NHẬN RA Ý CHÚA

Lm. Jos. DĐH.

Con người vốn nhanh nhạy, giầu cảm tính: gặp hình ảnh trái tim, họ đã hiểu đó là biểu tượng của tình yêu. Nhìn đứa trẻ cùng với tư cách của nó, họ sẽ đoán biết đó là con cái của ai, kèm theo câu tục ngữ: con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh. Trong tình yêu đôi lứa, ngoài lời nói việc làm, họ còn bày tỏ tâm tư tình cảm với nhau bằng ánh mắt, nụ cười, sự thinh lặng, gọi là ngôn ngữ không lời. Nhận ra dấu hiệu của tình yêu qua trái tim, trái táo, biết được tông ti họ hàng của đứa bé qua diện mạo, hiểu nhau bằng ngôn ngữ không lời, ít nhiều cũng là một khám phá đáng tự hào.

Đoán biết được ý tưởng của bạn trăm năm, chắc chắn 100% về lý lẽ của mình đủ sức thuyết phục người khác, nhiều người chúng ta đây đã thành công mỹ mãn. Trong lãnh vực siêu nhiên, chàng trai Giuse và thiếu nữ Maria năm xưa, các ngài hiểu nhau là bạn tốt, là người công chính, nhưng để bày tỏ, để chia sẻ cho nhau về thánh ý của Thiên Chúa thật không đơn giản ! Từ sự bế tắc, giới hạn, nơi một tâm hồn thành khẩn, khiêm tốn, nói lên Giuse rất cần đến sự hỗ trợ nhằm lấp đầy khoảng trống hữu hạn của ông. Cũng từ tình yêu thương và kế hoạch của cứu độ, Thiên Thần Chúa đã gỡ rối cho ông Giuse nhận ra thánh ý Ngài, dù đó là lời giải thích trong giấc mơ.

Trong ca dao có câu: không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian sự thường. Tuy nội dung và ý nghĩa của từ ngoan, khôn ngoan, luôn được xã hội lưu ý về cách ứng xử của con người, nhưng câu ca dao còn cho thấy tiến trình bình thường và không bình thương của việc sinh con. Tận cùng mơ ước nơi con người là đạt tới đỉnh vinh quang hạnh phúc, hiện tại có vui có buồn là thước đo cho bước đường mỗi người đang dùng mưu, dùng sức, hoặc tín thác vào Đấng bậc trợ giúp ta. Thiếu nữ Maria có khôn ngoan trong việc đón nhận thánh ý Chúa, ông Giuse có khôn ngoan dẹp đi ý riêng của mình mà đón nhận Maria theo lời chỉ dạy của giấc mơ, đều tùy thuộc vào sự tự do nơi các ngài.

Ở đời có đầu tư chất sám, có chăm chỉ làm ăn, nhưng nếu quên đi mục đích sống chữ tình chữ nghĩa, thì giầu có địa vị cũng hoài công vô ích mà thôi. Người Kitô hữu chúng ta hôm nay được thông thái, lại có hoàn cảnh xã hội thuận tiện về mọi mặt, nhưng chẳng hề biết rút kinh nghiệm của người xưa, không nhận ra được ý Chúa, thì có gì mà đáng tự hào ? Giá trị của một con người không hệ tại những gì ta đang có, mà tùy thuộc ở điều ta làm được khi không có gì cả. Tài sản cao quý mà Giáo hội nhìn nhận nơi Thánh Giuse và Đức Maria, không phải chỉ là lời thưa vâng, nhưng còn là do các ngài biết sống thánh ý Chúa.

Cuộc sống của mỗi chúng ta tín thác vào tình yêu Chúa hôm nay, tất cả đều có một nét hao hao giống nhau, không thể không có đêm đen của khổ đau, không thể thiếu cậy trông, dù việc nhận biết thánh ý Chúa có khác nhau. Để hình thành đất nước Việt Nam, cha ông chúng ta phải đánh Tây đuổi Tầu, dẹp Đế quốc, cùng biết bao năm tháng nội chiến…, đúng như kinh nghiệm các ngài để lại: muốn được thì phải mất. Trong đời sống đức tin, Thánh Giuse nhận biết ý Chúa qua giấc mơ, nhưng Giuse còn phải thực thi sứ mạng bao bọc chở che xứng hợp với chương trình được thánh kinh loan báo: này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai…

Sách có câu: giấc mơ bạn mơ một mình chỉ là giấc mơ, giấc mơ bạn mơ cùng người khác mới hiện thực. Thánh Giuse cho nhân loại biết ông đã biến giấc mơ của ông thành hiện thực, Giuse đã cùng với Maria thi hành thánh ý Chúa, mời gọi muôn thế hệ cùng xác tín Hài Nhi Giêsu chính là Đấng Em-ma-nu-el. Dù giầu nghèo, ở nông thôn hay thành thị, mỗi người đều có thể biến giấc mơ của mình được như ý, vì có Đấng Em-ma-nu-el trợ giúp chúng ta hoàn thiện mơ ước. Đấng Em-ma-nu-el đã nói bằng ngôn ngữ yêu thương với Giuse và Maria, Ngài sẽ còn nói với từng người trong chúng ta: hạnh phúc thay những ai dám mơ và sẵn sàng trả giá để biến giấc mơ trở thành hiện thực.

Cuộc đời mỗi người chúng ta có thể là 90, là 60 năm, dài hay ngắn ta nào biết, nhưng chắc là không qua mau như 4 tuần mùa vọng dù ta đang chuẩn bị để giấc mơ hạnh phúc của mình nên hoàn hảo. Thiên Chúa không trực tiếp nói với Giuse về sứ mạng cao quý của ông, nhưng qua giấc mơ, Giuse hiểu và biết thực thi thánh ý Chúa cách trọn vẹn. Thiên Chúa tôn trọng tự do nơi chàng trai Giuse, nơi thiếu nữ Maria, Ngài cũng tôn trọng tự do và lời thưa vâng của từng người trong chúng ta. Tấm thiệp giáng sinh mà chúng ta đón nhận và trao gởi những ngày này sẽ ý nghĩa hơn, khi ta đặt tình yêu thật vào trong đó. Hiểu và sống thánh ý Chúa sẽ không bao giờ là lý thuyết, trừu tượng, khi chúng ta biết và sống đức ái với nhau bằng tình Chúa và tình người. Amen.

Về mục lục

.

ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Đốt lên cây nến thứ tư của Vòng Hoa, chúng ta sắp kết thúc 4 tuần Mùa Vọng. Theo truyền thống lâu đời từ Bắc Âu, trong khí lạnh của mùa Đông, người ta đã đốt lên những cây nến trên những cành cây xanh uốn vòng. Khung vòng tròn và cành cây xanh là biểu tượng của sự sống tiếp diễn. Người ta đã đốt nến trong những đêm tối nhất trong năm, khi mọi người trông chờ những ngày dài hơn của mùa Xuân sẽ xuất hiện. Theo truyền thống, trên Vòng Hoa Mùa Vọng bao gồm có 4 cây nến. Ba cây nến mầu tím và một cây màu hồng. Bốn cây nến của Vòng Hoa biểu tượng ánh sáng dần dần được dọi chiếu vào thế gian. Ba cây nến mầu tím là biểu tượng của hy vọng, bình an và tình yêu. Ba cây nến tím này được đốt vào các Chúa Nhật thứ nhất, thứ nhì và thứ bốn của Mùa Vọng. Cây nến mầu hồng biểu trưng sự vui mừng được đốt vào Chúa Nhật thứ ba. Đôi khi có cây nến thứ năm mầu trắng được đặt ở giữa Vòng Hoa. Cây nến trắng này được đốt lên vào Lễ Giáng Sinh. Mầu trắng biểu trưng sự tinh trắng như các thiên thần và ngày sinh nhật của Chúa Giêsu. Giáo Hội Công Giáo thường dùng các mầu đặc biệt theo từng mùa, như Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Quanh Năm, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh để tôn vinh danh Chúa Giêsu.

Tiên tri Isaia đã xuất hiện rao giảng tại Giêrusalem khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên. Trong sự mong đời mịt mù giữa bao thử thách, Isaia đã loan báo một tin vui cho dòng dõi Dân Do-thái: Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7, 14). Đọc lịch sử ơn Cứu Độ, chúng ta nhận biết Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu chuộc qua cả ngàn năm. Một diễn tiến rất chậm rãi qua biết bao nhiêu thế hệ và trải qua nhiều biến cố. Thiên Chúa đã sai tiên tri loan tin mừng cứu độ qua một nhóm nhỏ trung tín còn sót lại. Biết rằng xưa kia, người ta không có in ấn sách vở, truyền thanh, truyền hình hay một phương tiện kỹ thuật văn minh nào để phổ biến. Các sứ điệp chỉ được truyền miệng và ghi chép vào các cuốn sách (papyrus) lưu giữ qua nhiều đời.

Dấu chỉ: Một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai là một sứ điệp cao trọng. Sứ điệp này đã từ từ khai mở về ý nghĩa mầu nhiệm Con Chúa giáng trần. Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa với tổ tiên loài người sau khi đã phạm lỗi. Thiên Chúa phán với con rắn là ma quỉ: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi và mi sẽ cắn gót nó (Stk 3, 15). Chúng ta là hậu sinh được học biết nhiều về qúa trình lịch sử bốn, năm ngàn năm. Đã có biết bao dòng dõi và thế hệ con người liên đới trong công cuộc cứu rỗi này, đặc biệt là Dân Do-thái, dân được tuyển chọn. Dân sống giữa một thế giới đa dân tộc từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, từ khắp các vùng văn hóa. Đọc lịch sử tôn giáo, chúng ta nhận biết có rất nhiều các tôn giáo cổ đã xuất hiện từ rất sớm trong thời kỳ này như các đạo Hindu, Balamôn, Do-thái Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và vô số đạo thờ các Thần ngoại. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 4, 200 tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.

Trong cuộc lữ hành của người Do-thái, họ đã va chạm với rất nhiều nhóm người với truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau. Sứ điệp loan báo về Đấng Cứu Thế cũng dễ bị lu mờ qua thời gian năm tháng. Chỉ có một dòng dõi rất nhỏ đã cưu mang sứ mệnh đón chờ con Chúa giáng trần. Thánh Matthêô đã ghi lại gia phả Đức Kitô, con cháu của Đavít và con cháu tổ phụ Abraham. Matthêo tóm gọn lich sử: từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là mười bốn đời; từ vua Đavít dến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời và từ thời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời (Mt 1, 17). Chúng ta suy tư về sứ điệp tin mừng đã được thực hiện nơi dòng dõi Dân tộc đã được Thiên Chúa tuyển chọn.

Trong thơ gởi cho tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô đã viết: Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người (Rm 1, 2). Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa thực hiện ý định nhiệm mầu của Người để cứu độ trần gian. Đây là biến cố nhiệm mầu duy nhất xảy ra trong thời gian và không gian. Sự linh thiêng kết hợp giữa thần thánh và con người. Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ: Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần (Mt 1, 18). Sự kiện cao siêu nhiệm mầu vượt trên mọi trí hiểu của loài người. Cho dù đã được các tiên tri loan báo, được các thế hệ truyền rao chuẩn bị cả ngàn năm nhưng cho tới ngày hôm nay, nhiều người vẫn chưa thể chấp nhận sự kiện lạ lùng này. Họ không thể tin và chấp nhận Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần làm người như chúng ta.

 Nhiều người không tin vào Đấng Cứu Thế giáng trần nhưng họ vui mừng vì dịp Giáng Sinh sắp đến. Cứ mùa Giáng Sinh về, chúng ta thấy phố xá rộn rã, thiệp chúc mừng trao đổi, chuẩn bị qùa cáp, ánh sáng nhấp nháy mọi nơi và chăng hoa kết đèn mọi góc phố. Cho dù con người có niềm tin hay không, đều mừng vui và hớn hở. Ít ra đây cũng là một tin vui cho mọi người trần thế. Một cơ hội tốt để mọi người giao lưu trao đổi tâm tình. Chúa Giêsu vẫn âm thầm đi vào lòng người qua nhiều cách thế. Có biết bao nhiêu nhà hảo tâm chia sẻ món qùa nho nhỏ cho những người kém may mắn. Ánh sáng của niềm hy vọng chiếu tỏa cùng khắp khiến lòng người nao nức mừng vui. Một điều rất lạ là ai cũng muốn sự bình an, giải thoát và được hưởng nhờ ơn cứu độ nhưng lại không muốn chấp nhận Đấng ban ơn cứu độ.

Chúa Giáng Sinh mang lại niềm vui lớn cho nhân loại vì Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta. Thánh Matthêo diễn tả: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1, 22-23). Chúa sẽ đến với từng tâm hồn. Chúng ta có can đảm mở rộng tâm hồn đón Chúa hay không? Chúa có thể sẽ đến với chúng ta qua hình dáng của một trẻ thơ bọc trong khăn hay một trẻ mồ côi đầu đường xó chợ và không nơi nương tựa. Chúa sẽ đến như một người vô gia cư không có nơi gối đầu hoặc một người bị đánh dầm bập tả tơi ngoài phố chợ. Vì khi đón nhận một người cùng khổ là chúng ta đang đón nhận chính Chúa trong đời sống của chúng ta.

Suy tới đây, dừng lại đôi phút để suy nghĩ và cầu nguyện xem chúng ta đang chọn thái độ nào. Đôi khi chúng ta chỉ mong muốn có một lễ Giáng Sinh hoành tráng bên ngoài, một hang đá tuyệt đẹp và một món qùa đáng giá. Chúng ta tìm mua tượng Chúa Hài Nhi thật dễ thương đặt nằm trong máng cỏ với các mục đồng và súc vật bao quanh. Nếu chúng ta chỉ chú ý chuẩn bị những hình thức tổ chức trang trí bên ngoài mà không dọn tâm hồn thật sự để đón Chúa, thì chúng ta cũng đâu khác gì những người ngoại không tin vào Chúa. 

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mở rộng trái tim yêu thương để đón Chúa. Xin Chúa ở lại với chúng con và ban ơn cứu độ. Xin tẩy sạch tâm hồn chúng con khỏi những sự hoen ố, ích kỷ, tham lam và thơ ơ nguội lạnh. Xin Chúa sưởi ấm tâm hồn với ngọn lửa yêu thương để chúng con biết chia sẻ cuộc sống với tha nhân.

Về mục lục

.

DO QUYỀN NĂNG CHÚA THÁNH THẦN

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, Đại Lễ Mừng Chúa Giáng Sinh sắp đến, niềm hân hoan đón chờ Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, cho chúng ta một tuần Mùa Vọng cuối cùng, đó là thứ IV Mùa Vọng. Mùa Vọng có 4 tuần lễ. Con số 4 trong Thánh Kinh có ý nghĩa chỉ cho nhân loại, có nghĩa là phàm nhân. Như vậy, không phải “vô lý ” mà Mùa Vọng có 4 tuần lễ, có nghĩa là thời gian Mùa Vọng cho biết để chuẩn bị đón Mừng Mầu Nhiệm Nhập Thể làm Người của Đấng Cứu Thế, qua thời gian là 04 tuần lễ.

Theo đó, chúng ta thấy thật có ý nghĩa biết bao, vì con số cũng có ý nghĩa của nó, vậy , 04 tuần lễ Mùa Vọng là thời gian tượng trưng mầu nhiệm làm Người của Chúa Giêsu. Đấng đã hóa thành Người để “CỨU” phàm nhân tội lỗi.

Hôm nay Tin Mừng thuật lại Mầu Nhiệm Truyền Tin cho thánh Giuse, (Mt 1, 18 -24), một sự kiện thật lạ đối với phàm nhân, nhưng, vô cùng cao siêu đối với kế hoạch bởi Thiên Chúa. Vì không do ý định hay kế hoạch của phàm nhân, mà hoàn toàn do bởi ý định của Thiên Chúa. Đó là : “ DO QUYỀN NĂNG CHÚA THÁNH THẦN “.

Vâng , thưa quý vị, “Phàm nhân là gì mà Chúa phải viếng thăm…”, từ đấy suy ra, Mầu Nhiệm Nhập Thể làm Người của Chúa Giêsu thật là cao cả. Bởi vì, sự tạo thành nhân loại đã là một tình thương cao cả khôn sánh, vì ngòai Đấng Tạo Thành là Thiên Chúa ra, thì ai có thể làm được điều ấy. Nhà cầm quyền nào, lãnh tụ nào, thể lực nào, có thể “ban” cho chúng ta một thân xác và một linh hồn. Khi, quỷ dữ “cướp” linh hồn chúng ta đi, thì Thiên Chúa “cứu chuộc” chúng ta còn lạ lùng hơn nữa. Bởi vì, Thiên Chúa không bỏ mặc con người dưới quyền sự “ác” đó là cái chết. Chết là án phạt to lớn và kinh khủng nhất của kiếp nhân sinh.

Vâng, đó là lý do Thiên Chúa Ngôi Hai đã “từ Trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần “.

Như vậy, Chúa Thánh Thần là Thần Linh của sự sống, theo đó, Ngài sẽ tiêu diệt thần chết là satan và bè lũ của nó. Hầu trả lại sự sống nguyên tuyền cho nhân thế . Sự sống Thần Linh phải được “ mang lấy ” chương trình cứu độ bởi một Mầu Nhiệm Hữu Hình của Chúa Giêsu, vì nhân loại phải có thân xác hữu hình.

Vâng, đó là lý do Chúa Giêsu đã Giáng sinh làm Người và ở giữa con người. Nhưng, Mầu Nhiệm Giáng Sinh , hữu nhiên phải có một “ gia đình ”, phải có một “ trật tự ” hữu hình, phải có “ gốc tích”.

Theo đó, Tin Mừng thuật lại, thánh Giuse thuộc chi họ vua Đa-vít, là người công chính đã thành hôn với một người phụ nữ, là Đức Trinh Nữ Maria, “ Nhưng, trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã “có thai “ do quyền năng Chuá Thánh Thần ” ( c 18b ).

Vâng, thưa quý vị, điều nầy rõ ràng, thánh Giuse được thiên thần truyền tin sau khi Đức Mẹ nhận Truyền Tin. Như vậy, “ Thánh Thai GIÊSU “ đang ngự trong cung lòng của Đức Mẹ. Thánh Giuse, là người công chính, ngài nhận ra “mầu nhiệm “ và ngài âm thầm “rút lui”. Từ đó, đoan Tin Mừng hôm nay có hai phần chính:

  • Một là : Chúa Thánh Thần
  • Hai là : Thánh Giuse

Vâng, thánh Giuse là người công chính, có nghĩa là : tốt lành, tâm trạng ngài cũng ngỡ ngàng, hoang mang, nhưng “ tốt bụng” . Không cư xử” lỗ mãng” như thói thường, mà âm thầm suy tư rồi đưa ra “ giải pháp” là rút lui, tức là từ bỏ cách kín đáo. Điều nầy cũng là một “sáng kiến “ để bảo vệ Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Thai Giêsu. Nhưng, Thánh Ý Thiên Chúa, hay kế hoạch cứu độ của Ngôi Hai, phải cần có thánh Giuse, một “ dưỡng phụ”. Thì sứ thần hiện ra trong giấc mộng và bảo: “Này , ông Giuse là con cháu vua Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.” ( c 20 b).

Vâng, chúng ta thấy sự công chính “ bẩm sinh” nơi thánh Cả Giuse là sự vâng lời thiên sứ truyền tin ( báo mộng). thánh Giuse không một sự phản ứng, không một thái độ “bức xúc” , dù là nhỏ thôi. Sự công chính “ bẩm sinh “ nơi thánh Giusecùng với tác động ơn Chúa Thánh Thần, sự hiện diện của Thánh Thai GIÊSU trong cung lòng Đức Mẹ tỏa sáng ra những điều “kỳ diệu” và lập tức “truyền “sang nơi “người công chính” là thánh Giuse “sự công chính bởi Thiên Chúa”. Đồng thời, khi thánh Giuse “tiếp nhận “ lời sứ thần, lập tức, Chúa Thánh Thần truyền sang “ân sủng “siêu nhiên trên thánh Giuse. Theo đó, “sự công chính tự nhiên” và “sự công chính siêu nhiên” ( là quyền năng Chúa Thánh Thần) làm cho “con người thánh Giuse” trở nên “ CÔNG CHÍNH ” tuyệt hảo.

Như vậy, công trình CỨU ĐỘ của Thiên Chúa là “DO BỞI QUYỀN NĂNG CHÚA THÁNH THẦN ”, Đấng tác sinh trực tiếp và điều kiển từ khởi sự cho đến hoàn tất là ngày Đức Giêsu- Kitô giao lại toàn thể vũ trụ cho Thiên Chúa Cha. Theo đó, Ba Ngôi Thiên chúa luôn hiện diện từ khi sáng tạo vũ trụ, cứu độ loài người sa ngã, và đồng hành cùng dân được tuyển chọn cho đến ngày sau cùng. Theo đó, công trình Sinh xuống làm Người, tức Mầu Nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Chúa Giêsu là do Quyền Năng Chúa Thánh Thần. Vì vậy, chúng ta nhớ lại co` lần Chúa Giêsu nói: “ Tội phạm đến Con Người thì được tha, còn tội phạm đến Thánh Thần thì không được tha”. Diều ấy, có nghĩa là : ai phủ nhận công trình cứu độ bởi Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm chịu khổ hình, chịu mai táng, sống lại vinh hiển của Đức Giêsu- Kitô, thì tội ấy không được tha.

Tương tự như vậy, Bài đọc II hôm nay, ( Rm 1, 1 – 7) thánh Phaolo cho chúng ta biết “… Đấng từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng “ ( c 4)

Bài đọc thứ I, (Is 7, 10 -14), Thiên Chúa phán qua Tiên Tri A-Cát : “Vì lẽ đó chính Chúa sẽ ban cho các người một điềm. Đây một Trinh Nữ sẽ mang thai rồi sinh Con trai, đặt tên là EM-MA-NOEN.” (C 14)

Cùng điều ấy, Tin Mừng hôm nay ( Mt 1, 18 -24), minh chứng như vậy, “ Này đây, một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” ( c 24) .

Vâng , và rồi như vậy, mọi sự “do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần “.

Vâng, lạy Chúa Giêsu , Đấng đã đến sẽ đến để “CỨU” thế gian bởi sự giải thoát của Thiên Chúa. Vì thế, mọi sự đều do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Vì, khi Người “chịu” thi hành Mầu Nhiệm Cứu Chuộc nhân loại, là khi Người từ bỏ mọi vinh quang và quyền năng, để chu toàn mầu nhiệm Thập Gía cho đến khi hoàn tất. Xin cho những ai bước theo Người, cũng biết từ bỏ mọi vinh quang giả tạo của thế gian, hầu để cho Quyền Năng Chúa Thánh Thần tác động, để trở nên môn đệ đích thực của Người.người hằng sống và hiển trị muôn đời./. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI TA SẼ GỌI TÊN CON TRẺ LÀ EMMANUEL

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đây thật là niềm mơ ước bất tận của con người nếu có niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng là căn nguyên và là cùng đích của mọi vật, mọi loài. Trong cuộc sống, nhất là trong cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, không biết bao lần ta chúc nhau đuợc Thiên Chúa ở cùng: “Chúa ở cùng anh chị em – Và ở cùng cha”. Xin được chia sẻ đôi nét về sự biểu hiện của tình trạng được có Thiên Chúa ở cùng và một vài điều kiện để được Thiên Chúa ở cùng.

I. Sự biểu hiện của tình trạng có Chúa ở cùng: “Kính chào bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28).

Dựa trên lời chào chúc của sứ thần Gabriel với Mẹ Maria ta có thể chắc chắn rằng Mẹ chính là người được Chúa ở cùng. Tình trạng có Chúa ở cùng này được trình bày như là tình trạng “đầy ân sủng”. Một tâm hồn đầy ân sủng Chúa là tâm hồn được “rợp bóng” Thánh Thần, là Tình Yêu bản vị giữa Chúa Cha và Chúa Con, một Tình yêu hoàn toàn “hướng tha”. Chính vì thế người đầy ân sủng là người luôn lấy lợi ích của tha nhân làm mục đích của lẽ sống, của mọi hành vi của mình.

Tương tự một số nam nhân thời bấy giờ, chẳng hạn nhóm “tu trì” ở Qumrân, khi tự nguyện sống đời khiết tịnh, Mẹ Maria đã tự nguyện hiến dâng đời mình, tự nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân để góp phần cầu mong Đấng Thiên Sai mau đến. Sự cao cả của tấm lòng vị tha của Mẹ hiện rõ qua việc Mẹ tự nguyện chọn lấy tình cảnh như bị Thiên Chúa chúc dữ trước mặt người đời. Người Do Thái xưa và thời bấy giờ vẫn xem những phụ nữ không sinh con là đồ bị chúc dữ. Đã đính hôn với thánh Giuse, nghĩa là vẫn lập gia đình, thế mà Mẹ tự nguyện sẽ không có con thì quả là một quyết định anh dũng trong tình yêu vị tha. Không sinh con trong đời độc thân tự hiến đã là một hành vi cao cả, còn lập gia đình mà quyết định sẽ không có con thì có thể nói rằng đó là trường hợp ngoại thường. Căn cứ vào quy định của Giáo Luật về hôn nhân Công giáo thì đây là trường hợp kết hôn không thành sự vì loại bỏ một trong hai mục đích của hôn nhân.

Khi Sứ Thần truyền tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh một con trai thì tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ bày tỏ rõ nét tâm hồn tràn đầy tình yêu vị tha cách hoàn hảo. Các nhà chú giải Thánh Kinh cho ta hay nội hàm của hai từ xin vâng không phải là thái độ thụ động mà ngược lại đó chính là tâm tình tích cực trong hân hoan của thiếu nữ Sion. Vì tha nhân, vì hạnh phúc của nhân loại, Mẹ Maria đã chọn con đường Thiên Chúa vạch ra. Rất có thể bị Giuse hiểu lầm, rất có thể chuốc lấy nhuốc nhơ cho danh giá giá của mình và số phận Mẹ có thể bị kết liễu dưới những viên đá vô tâm cạn tình theo luật pháp thời bấy giờ. Mẹ hân hoan đón nhận tất cả chỉ vì hạnh phúc của đồng loại. Đúng là một trái tim tràn đầy ân sủng Chúa.

II. Một vài điều kiện để có Chúa ở cùng:

  1. “Đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình…người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel  (Mt 1,20-23).

Đón nhận nhau là một trong những nghĩa cử yêu thương. Đã yêu thì không chỉ đón nhận những gì dễ yêu, những gì đáng thương hay thích hợp với mình mà còn đón nhận cả những gì khó yêu, những điều mình chẳng muốn. “Thương cả đuờng đi” thì mới là thương yêu thật sự. Đón nhận cả những gì mà lòng mình không mong và nhiều khi chưa hiểu rõ thì mới là tình yêu không tính toán, không tham vọng cách ích kỷ.

Dù chỉ được Sứ Thần tỏ bày qua một giấc mơ thế mà Giuse đã mau mắn “tiếp nhận bạn mình”. Động thái tiếp nhận nhau như là bạn hữu đòi hỏi ta từ bỏ mình và tự hủy mình một cách nào đó. Khi đón nhận các môn đồ thành bạn hữu của mình Đức Kitô đã từ bỏ tước vị là Thầy, đã tự hủy thân phận là Chúa của mình (x.Ga 13). Khi đón nhận Maria và Con trẻ trong dạ về nhà, Giuse đã tự nguyện từ bỏ vị thế làm cha của Ngài. Nét cao cả của Giuse còn thể hiện qua việc Ngài đón nhận cả sự hiểu lầm của họ hàng, dòng tộc, xóm giềng khi họ nghĩ rằng Ngài chính cha ruột của con trẻ.

Việc thánh Giuse đón nhận Maria về nhà làm bạn cũng chính là việc Ngài đón nhận chương trình của Thiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chương trình ngoài dự kiến, ngoài ý định của Ngài. Tin Mừng tường thuật “khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Sứ Thần truyền” (Mt 1,24). Sự mau mắn, không đắn đo này nói lên thái độ tin tưởng trong an bình của chính Ngài. Đón nhận tha nhân với toàn bộ hiện trạng tha nhân đang có, đang là trong sự tin tưởng và an bình đó là một trong những điều kiện tuyệt hảo để được Thiên Chúa ở cùng.

  1. “Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu” (Mt 1,21).

Theo Thánh kinh, việc đặt tên có ý nghĩa rất quan trọng. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Vì thế người đặt tên là người có trách vụ hướng dẫn và đào tạo. Khi dẫn các con vật đến với Ađam để Ađam đặt tên cho chúng, Thiên Chúa đã trao phó trách nhiệm cai quản, huớng dẫn muôn loài cho con người (x.St 2,19). Khi đặt tên cho Abram thành Abraham, Thiên Chúa đã huấn luyện một người bán du mục cao niên, son sẻ đang chăn nuôi súc vật trong tư thế tìm sự bảo đảm, an toàn, trở thành một người cha của đoàn lũ con cái đông đúc trong niềm tin phó thác (x.St 17,5). Khi đặt tên cho Giacop thành Israel, Thiên Chúa cũng đã huấn luyện một người láu cá “hất cẳng anh” thành một người đã “gặp gỡ, chiến đấu với Thiên Chúa” và dĩ nhiên sau đó tuân phục Thiên Chúa (x.St 32,23-30).

Thánh Giuse đã dùng gương sáng, lời nói, hành vi của mình để dạy dỗ, hướng dẫn con trẻ thành một Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Quả thật các áng văn Tin Mừng minh chứng cho ta thấy nhân cách và lối hành xử của Chúa Giêsu mang đượm dấu ấn của thánh Giuse. “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng vậy” (x.Ga 5,17). “Lương thực của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta trên trời” (x.Ga 4,34). “Ta không làm điều gì mà không nhìn việc Cha Ta  làm” (x.Ga 5,19). Các thái độ, hành vi, cung cách ứng xử của Đấng Cứu Thế chắc hẳn có sự góp phần không nhỏ của thánh Giuse, đặc biệt trong thời thơ ấu và ẩn dật của Người.

Có Emmanuel, có Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là hạnh phúc đích thật. Dù rằng ở trần gian này hạnh phúc ấy chưa vĩnh viễn nhưng nó có thể là đích thực một đôi lúc nào đó. Và những thời điểm có được hạnh phúc này chính là bảo chứng cho hạnh phúc hoàn hảo vĩnh viễn mai sau. Hạnh phúc ấy chính là tình trạng khi ta hết lòng vì lợi ích của tha nhân trong sự quên mình. Để có được điều này tiên vàn hãy biết tiếp nhận nhau với toàn vẹn con người của nhau, cả nhưng ưu điểm lẫn những hạn chế, cả những sự tốt lành lẫn những điều tồi tệ. Và đồng thời cần nỗ lực giáo dục dệt xây cho đời những Giêsu. Trước tòa án phong thánh cho Cha Gioan Maria Vianey, một cụ già đã thề trên Thánh Kinh rằng: “Con đã nhìn thấy Thiên Chúa nơi một con người”. Mong sao không phải đợi đến những dịp phong thánh mà ngay trong cuộc sống thường nhật người ta, bà con tín hữu lẫn anh em lương dân hay khác đạo có thể thốt lên rằng: “Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta”.

Về mục lục

.

ĐỪNG NGẠI … THỰC THI Ý CHÚA

Dã Quỳ

Tám ngày trước Đại Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm chân dung của Thánh Giuse và Mẹ Maria. Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, vai trò của Thánh Giuse và Mẹ Maria rất quan trọng. Chính nhờ lòng vâng phục của Thánh Giuse và Mẹ, mà Đấng Emmanuel đã nhập thể, nhập thế và hiện hữu trong một dòng tộc giữa trần thế để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa trong sứ mạng cứu độ nhân loại.

Vai trò của Mẹ Maria thật lớn lao. Mẹ luôn hiện diện trong những tường thuật của Tin Mừng mà chúng ta sẽ đọc cho tới ngày Noel “Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người…” Những lời kể về Mẹ thật giản dị nhưng lại mang nặng chiều sâu nhân loại và mầu nhiệm. Chúng ta chiêm nghiệm hình ảnh của Mẹ Maria, một thôn nữ đang ở độ tuổi mười lăm đôi mươi.  

Mẹ Maria theo tập tục của Phương Đông thời ấy, đính hôn và thành hôn với một người nam “Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse.” Với kinh nghiệm của nhiều người, chắc hẳn chúng ta biết trong thời gian sau khi đính hôn, người ta rất hạnh phúc để chờ đợi ngày được ở bên nhau. Thế nhưng, với Mẹ Maria, một biến cố mầu nhiệm khác đã diễn ra trong cuộc hôn nhân của Mẹ “Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.” Người con Mẹ đang cưu mang là do quyền năng Thiên Chúa thực hiện sau lời xin vâng và niềm xác tín của Mẹ vào chương trình của Ngài. Con trẻ này không là một trẻ thơ như bao đứa trẻ khác. Người là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Người sẽ được gọi là “con người và Thiên Chúa“. Nhưng làm sao Giuse, hôn phu của Mẹ hiểu được và đón nhận?

Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể. Thiên Chúa đã quan phòng chuẩn bị cho Ngôi Hai một người cha trần thế. Người cha ấy chắc chắn cũng được đầy tràn ân sủng “Ông Giuse, chồng bà là người công chính.” Vì công chính nên khi gặp điều trái ý, đối diện với những biến cố khó khăn hay sai phạm của người, Giuse chỉ âm thầm suy nghĩ và tìm cách cư xử tốt nhất cho người khác, nhất là người mà mình yêu thương “không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.” Làm sao có thể hiểu được ý Chúa nhiệm mầu? Làm thế nào để thực hiện được chương trình của Thiên Chúa,  nếu không lắng nghe và mở lòng vâng phục tín thác?

Có thể nói giấc mộng và lời báo mộng của Thiên Thần Chúa cho Thánh Giuse được gọi là  một biến cố “Truyền Tin“, một loan báo về cuộc sinh hạ của Chúa Giêsu Kitô- Đấng Cứu Độ “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại …Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Lời sứ thần mà Giuse lắng nghe đã thay đổi mọi suy nghĩ và quyết định của ngài. Giờ đây thực thi ý Chúa và cộng tác với chương trình cứu độ của Chúa là chọn lựa hàng đầu của thánh Giuse. Từ đây, ngài đã đón nhận Đấng Cứu Thế và Mẹ Người bằng hành động cụ thể và cuộc sống hy sinh tận tụy trong suốt cuộc đời.

Tạ ơn Thiên Chúa về lời hứa kỳ diệu Ngài đã thực hiện ” Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Một Đấng Cứu Độ mặc lấy xác phàm để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa. Một Giao Ước mới với nhân loại được thực thi “Emmanuel-Thiên Chúa ở cùng chúng ta“. Thật hạnh phúc cho chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương khi sai Ngôi Hai Thiên Chúa đến ở cùng và cứu độ chúng ta. Vậy chúng ta có ước muốn Thiên Chúa ở cùng và sẵn lòng đón Người không? Mẹ Maria và Thánh Giuse đã là mẫu gương cho chúng ta về việc rộng mở tâm lòng và cuộc đời để Chúa đến, ở cùng và cứu độ.

Ta hãy chiêm ngắm sự dâng hiến trọn vẹn cuộc đời và chương trình riêng của Mẹ Maria để xin vâng và cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cung lòng Mẹ đã trở nên đền thờ cho Chúa ngự. Mẹ đã cưu mang, dưỡng nuôi Con Thiên Chúa trong chính lòng dạ mình và Mẹ được gọi là “Thân Mẫu Chúa Giêsu“. Chúng ta cũng hãy học nơi Thánh Giuse sự khéo léo tế nhị khi đối xử với anh chị em và lòng vâng phục tín thác vào thánh ý Thiên Chúa qua mọi biến cố, qua tiếng nói lương tâm chân chính và trong sáng. Sự công chính đã giúp ngài có khả năng tham dự vào mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng dấn thân cộng tác thực thi chương trình của Chúa dẫu cho khó khăn vất vả.

Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta, từng Kitô hữu hay những đôi bạn trẻ sắp, đang và đã bước vào đời hôn nhân. Hôm nay, mỗi chúng ta cũng có một trách nhiệm:  lắng nghe, thực thi thánh ý Chúa, làm cho Chúa sinh ra trong tâm lòng mình, trong anh chị em và nhất là để Chúa ở cùng, lớn lên và cứu độ chúng ta. Ước gì trong thời gian cuối của Mùa Vọng này, chúng ta biết noi gương Mẹ Maria và Thánh Giuse, biết hăng hái thưa xin vâng và sẵn sàng chọn lựa theo ý Chúa để dâng trọn cuộc đời thực hiện những phương cách cứu độ trong thế giới hôm nay qua đời sống yêu thương, công bằng, bác ái, sẻ chia cụ thể. Có như thế, cuộc đời chúng ta mới thực sự có Thiên Chúa ở cùng và chính chúng ta là cánh tay nối dài của Chúa vươn đến anh chị em.

Lạy Đấng Emmanuel, xin đến và ở cùng chúng con. Xin dạy chúng con biết mở rộng tấm lòng chờ đón Chúa  và dấn thân thực thi thánh ý Chúa. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG CÔNG CHÍNH ĐÓN MỪNG ĐẤNG EMMANUEN

Lm Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 1,18-24.

(18) Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a Mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. (19) Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. (20) Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. (21) Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. (22) Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: (23) “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. (24) Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (25) Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay đề cao đức công chính của thánh Giu-se, biểu lộ qua cách xử lý trước việc thụ thai lạ lùng của Đức Ma-ri-a.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 18-19: + Bà Ma-ri-a Mẹ Người: Ma-ri-a là tên của Đức Ma-ri-a, là Mẹ sinh ra Đức Giê-su. + Đã thành hôn với ông Giu-se: Theo phong tục Do thái, nghi lễ đính hôn cử hành trước lễ rước dâu cả năm trời. Thường thì hai người không chung sống trước lễ rước dâu. Nhưng nếu có con trong thời gian này thì vẫn được công nhận là con chính thức. Ở đây cho thấy hai ông bà Giu-se Ma-ri-a đã là vợ chồng hợp pháp nhờ lễ đính hôn. + Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần: Việc thụ thai của Đức Ma-ri-a không phải do thánh Giu-se. Trước mặt người đời, Đức Giê-su được nhìn nhận là con bác thợ mộc Giu-se, dù thực sự Giu-se chỉ là cha nuôi (x Lc 3,23). + Giu-se là người công chính: Công chính là sự tuân giữ Lề Luật Chúa cách trọn hảo, và đối xử công minh ngay chính với tha nhân. Sự công chính của Giu-se ở đây không phải là công chính về Lề Luật, vì khi quyết định bỏ Ma-ri-a, Giu-se không làm theo Luật dạy là làm tờ chứng thư ly dị và trao cho vợ (x. Đnl 24,1-4). Do đó sự công chính của Giu-se hệ tại điểm này: Một là Giu-se đã tôn trọng việc Thiên Chúa thực hiện nơi Ma-ri-a. Hai là Giu-se không dám cưới một người đã được Thiên Chúa chọn để dành riêng làm việc của Ngài. Ba là Giu-se không dám nhận làm cha một hài nhi Thần Linh khi chưa nhận được chỉ thị từ nơi Thiên Chúa. + Không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo: Giu-se bị lâm vào một hoàn cảnh nan giải: Một đàng không thể nghi ngờ người bạn mà ông biết là rất trong sạch. Đàng khác vì là người công chính, Giu-se không dám dành cho mình người phụ nữ mà Thiên Chúa đã chọn. Ông phải làm thế nào để vừa bảo toàn được danh dự cho Ma-ri-a, vừa giữ được sự công chính ? Cuối cùng ông quyết định âm thầm bỏ Ma-ri-a để con trẻ sinh ra vẫn có cha, mà ông cũng giữ được sự công minh chính trực trước mặt Thiên Chúa.

– C 20-21: + Ông đang toan tính như vậy: Giu-se chưa kịp thi hành ý định thì Thiên Chúa đã sai thiên thần đến trấn an và trao sứ mệnh cho ông. + Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít: Giu-se được trao sứ mệnh làm cha để con trẻ Giê-su được thuộc về dòng dõi Đa-vít, hầu ứng nghiệm lời sứ thần: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người” (x. Lc 1,32), và lời tuyên sấm của các ngôn sứ về dòng dõi Đấng Thiên Sai (x. Is 9,6; 2 Sm 12,16). + Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần: Sứ thần đánh tan sự e ngại của Giu-se bằng cách ra lệnh cho ông mau tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a về làm vợ mình vì việc thụ thai là do quyền năng của Thiên Chúa. + Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Đặt tên cho con trẻ là thừa nhận mình là cha của con về pháp luật. Tên Giê-su hay Giô-suê, Giê-su-a có nghĩa là “Gia-vê Đấng cứu độ”. Đây cũng là tên riêng của nhiều người khác trong thời Cựu Ước (x. Xh 24,13; Nkm 7,7). + Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ: Sứ mệnh của Con trẻ là cứu dân khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và sự chết (x. Tv 130,8), khác với quan niệm cứu thế mang tính trần tục mà dân Do thái đang mong đợi.

– C 22-23: + Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai: Đây là lời tuyên sấm của I-sai-a (x. Is 7,14) nói lên tính siêu phàm của Đấng Thiên Sai. Người do một bà mẹ đồng trinh sinh ra. + Em-ma-nu-en: nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tên gọi này bao hàm sứ mệnh của Đấng Thiên Sai: Nhờ Đức Giê-su mà Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu độ họ. Tin mừng Mát-thêu cũng kết thúc bằng lời hứa của Đức Giê-su: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

– C 24-25: Sau khi được sứ thần báo mộng, Giu-se không còn ngần ngại. Ông lập tức tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a về nhà làm vợ như lệnh sứ thần truyền. + Ông không ăn ở với bà: Sở dĩ ông Giu-se đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mà lại không ăn ở với bà như vợ chồng, vì ông tôn trọng lời khấn trọn đời đồng trinh của Ma-ri-a khi “Xin Vâng” để đáp lại lời Chúa mời gọi làm Mẹ của Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,31.38). + Cho đến khi bà sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Giu-se đã vâng lời sứ thần để đặt tên cho con trẻ là Giê-su.

  1. CÂU HỎI:

Một số người Tin Lành đã dựa vào chữ “cho đến khi” này để khẳng định: Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi sinh Hài Nhi Giê-su như lời ngôn sứ I-sai-a. rồi sau khi sinh, bà lại sống đời làm vợ của ông Giu-se theo đúng nghĩa vợ chồng, nghĩa là có ăn ở với nhau và đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác như Tin Mừng Mát-thêu ghi lại (x. Mt 13,55). Ngoài ra, Tin Mừng Lu-ca cũng có câu: “Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7).

*GIẢI ĐÁP:

– Chữ “Cho đến khi” trong câu này không có nghĩa là Giu-se đã không ăn ở với Ma-ri-a cho đến khi bà sinh con, rồi sau đó ăn ở như vợ chồng sau khi bà sinh con. Vì khi viết câu này, tác giả Mát-thêu chỉ muốn nhấn mạnh tới sự kiện Giu-se đã không can thiệp gì vào việc Ma-ri-a sinh con, đúng như lời sấm của I-sai-a về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai (x. Is 7,14). Mát-thêu không lưu tâm tới việc hai ông bà có ăn ở với nhau như vợ chồng hay không sau khi bà sinh con, vì câu Tin Mừng chỉ viết: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (c. 25).

– Về chữ “con trai đầu lòng” (Lc 2,7), Lu-ca chỉ nhắc lại khoản luật trong Xuất hành (x. Xh 13,2.12.15) sắp được áp dụng cho Đức Giê-su (x. Lc 2,23). Con trai đầu lòng ở đây chỉ có nghĩa là “đứa con thứ nhất, đứa con sinh ra đầu tiên” (primo genitus) chứ không ám chỉ còn có các con khác sẽ sinh ra sau đó.

– Tin Mừng Mát-thêu cũng trưng dẫn lời của một thính giả thông báo rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy” (Mt 12,47). Câu này tượng tự câu nhận định của dân làng Na-da-rét về Đức Giê-su: “Anh em của ông không là các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Si-mon và Giu-đa sao ? Và chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” (Mt 13,55-56; Mc 6,3). Đây là những anh em bà con của Đức Giê-su mà thôi. Nếu thực Đức Giê-su có nhiều anh chị em ruột khác thì người ta đã phải nói: Kìa có Mẹ và các em trai… Các em gái của Thầy” thay vì chỉ nói anh em hay chị em của ông như câu trên. – Cuối cùng sách Công Vụ Tông Đồ cũng viết: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với các anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14). Anh em đây chỉ là bà con họ nội về phía thánh Giu-se.

– Bằng chứng cho thấy Đức Giê-su là con trai duy nhất của Đức Ma-ri-a là trước khi chết, Đức Giê-su đã trối Mẹ Ma-ri-a để làm mẹ của Gio-an và trối Gio-an để làm con của Mẹ. Và “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27). Nếu có anh chị em khác nữa thì Đức Giê-su chắc đã không làm như vậy và môn đệ Gio-an cũng không thể rước Đức Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy Giê-su được.

 

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Ông Giu-se chồng bà là người công chính (Mt 1,19)… Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy (Mt 1,24).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) MỘT HÀNH ĐỘNG KHIÊM TỐN VÀ TRUNG THỰC

Khi vụ OÁT-TƠ GHẾT (Water Gate) xảy ra, thì Tổng Thống NÍCH-SƠN (Nixon) vốn được dân chúng Hoa Kỳ tín nhiệm và đánh giá cao, đang ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng vì muốn thắng cử mà Ních-sơn đã biết nhưng làm ngơ cho các thuộc hạ tổ chức nghe lén điện thoại của đảng đối lập. Bây giờ bị họ phát hiện và ghép vào tội nghe lén, một hành động vi phạm pháp luật Hoa Kỳ. Ông mất ăn mất ngủ trong nhiều ngày để tìm lối thoát trong danh dự. Thế rồi một ngày nọ, sau khi làm việc ở văn phòng tại Tòa Bạch Ốc về nhà, Ních-sơn ngồi một mình khá lâu trong phòng riêng. Bỗng ông nhìn thấy cuốn Thánh Kinh đang nằm trên bàn làm việc. Ông liền cầm lấy mở ra và đọc được câu lời Chúa như sau: “Sự thật sẽ giải thoát các ngươi”. Về sau ông cho biết: Chính lời đó đã nhắc nhở ông phải trung thực trong hành động. Thế là ông mau chóng quyết định dứt khoát. Mấy ngày sau đó, người ta thấy ông xuất hiện trên truyền hình phát sóng đi toàn nước Mỹ chính thức nhận lỗi, và xin tha thứ. Ông cũng chính thức xin từ chức Tổng Thống, một chức vụ đầy quyền lực và vinh quang mà nhiều chính khách luôn mơ ước. Đây là một hành động được đánh giá là can đảm và có một không hai trong lịch sử Hoa Kỳ. Chính nhờ sự can đảm trung thực và khiêm tốn nhận lỗi đó mà dân chúng đã thông cảm và kính phục ông như trước.

2) GƯƠNG KHIÊM TỐN CẦN KIỆM CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ:

Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ là người châu Mỹ Latin đầu tiên và cũng là một tu sĩ dòng Tên đầu tiên được bầu vào vị trí lãnh đạo Giáo hội Công giáo.

Tờ báo New York Times (Mỹ) đã nhận định việc bầu chọn Hồng y GIOOC-DƠ MA-RI-Ô BEC-GÔ-GLI-Ô, 76 tuối, làm giáo hoàng thứ 266 thể hiện quyết tâm mang tính lịch sử của Hội Đồng Hồng Y là cải tạo Giáo hội Công giáo trước nhiều áp lực hiện tại. Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ được kỳ vọng sẽ mang lại sự cởi mở mạnh mẽ hơn cho Giáo hội Công giáo.

Ngài được sinh ra trong một gia đình nhập cư gốc Ý tại thủ đô BUENOS AIRES (Argentina), nổi tiếng là một người khiêm nhường, luôn lên tiếng bênh vực người nghèo và có một cuộc sống cần kiệm khiêm tốn.

Vị Tân Giáo hoàng đã bay đến thủ đô RÔ-MA nước Ý để tham dự Mật nghị Hồng y bằng vé máy bay hạng du lịch rẻ tiền. Sau đó ngài cũng đã kêu gọi người dân ÁC-HEN-TI-NA hãy chia sẻ số tiền vé máy bay cho người nghèo, thay vì phải bay đến Rô-ma để chúc mừng ngài. Tờ New York Times đã dẫn lời linh mục FÊ-ĐÊ-RI-CÔ LOM-BÁC-ĐI, phát ngôn viên của Vatican, cho biết Giáo hoàng PHAN-XI-CÔ đã có một hành động khiêm tốn là lập tức gọi điện cho vị Giáo hoàng tiền nhiệm BÊ-NÊ-ĐÍCH-TÔ ngay sau khi vừa được Mật nghị bầu chọn làm Giáo Hoàng.

Một phát ngôn viên khác của Vatican, linh mục THOMAS ROSICA, cũng thuật lại về cuộc gặp gỡ với các bạn trẻ trong Ngày Giới Trẻ Thế giới (World Youth Day) ở CANADA cách đây 10 năm. Khi đó, Đức Giáo Hoàng đang là Tổng giám mục BUENOS AIRES cho biết: ngài đã bán ngôi biệt thự dành riêng cho Tổng giám mục để ra sống ở một căn hộ giản dị bên ngoài Tòa Tổng giám mục. Ngài cũng tự nấu ăn và thường đi lại bằng xe buýt, thay vì đi xe hơi công vụ.

Khi Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ mới được bầu chọn, Tổng thống Mỹ BA-RACK O-BA-MA là một trong những nhà lãnh đạo thế giới đầu tiên đã gửi lời chúc mừng ngài. Từ Nhà Trắng, ông  đã phát biều về vị Tân Giáo Hoàng như sau: “Với tư cách là nhà vô địch của người nghèo và những người yếu đuối, Đức Giáo Hoàng đã truyền bá thông điệp của lòng yêu thương và sự cảm thông cho thế giới hôm nay”.

3) HỘI THÁNH PHẢI TRỞ THÀNH EM-MA-NU-EN, CHAN HÒA GIỮA MỌI NGƯỜI:

Có một cuốn phim do đạo diễn đã sáng tác ra mang ý nghĩa rất phù hợp với mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta như sau:

Một Đức Giáo hoàng kia không thích lễ nghi rườm rà trong Tòa Thánh Vatican nên đã cải trang trốn lính canh ra khỏi điện Va-ti-can và đi lạc đến một ngôi làng hẻo lánh nghèo khó cách xa thành phố, do bị bệnh dịch hoành hành nên ngôi làng bị cách ly với bên ngoài. Trong làng gần nhà thờ có một cái giếng ngầm cung cấp nước cho dân làng bằng cái cối xay gió. Nhưng bấy giờ cối xay gió đang bị hư và không ai biết sửa đành bỏ không. Cuộc sống của dân làng rất khổ cực khiến giáo dân chỉ lo chữa bệnh và kiếm ăn nên không ai đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật như trước, nên nhà thờ bị bỏ hoang tiêu điều. Rồi chính Linh mục chính xứ bị thất nghiệp nên bỏ nhà thờ đi ra ngoài làm nghề chăn cừu cho một nhà giàu. Trước hoàn cảnh đó, Đức Giáo hoàng đã đã dấn thân khôi phục: kêu gọi dân làng làm vệ sinh môi trường cho khu nhà thờ bằng việc hốt rác, đi tiếp xúc với những trẻ em bụi đời, và động viên nhiều người hợp tác sửa lại cối xay gió kéo nước ngầm cho dân làng. Sau một thời gian làm việc vất vả với rất nhiều khó khăn trở ngại. Cuối cùng cối xay gió đã được sửa chữa và hoạt động bơm nước lại. Cho tới lúc đó dân làng mới biết Ngài chính là Giáo hoàng bị mất tích và được người ta đến đón về Tòa Thánh.

Cuốn phim kết thúc với cảnh Đức Giáo hoàng chủ tọa một Thánh lễ có rất đông người tham dự, trong đó có dân chúng của cái làng nghèo khổ kia và cả vị Linh mục chính xứ nữa đã quay về nhà thờ ở với đoàn chiên là giáo dân của mình.

Bài học đạo diễn muốn nới qua cuốn phim là: Nếu Hội thánh chỉ sinh hoạt trong các lễ nghi ở nhà thờ thì sẽ dần dần xa lìa dân chúng và quần chúng cũng xa lìa Hội thánh. Nhưng nếu Hội thánh biết quan tâm ở cùng dân chúng để dấn thân phục vụ các nhu cầu thiết thực của họ, thì quân chúng cũng sẽ đến liên kết quanh Hội thánh. Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng sinh làm người, trở thành EM-MA-NU-EN nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thì Hội thánh cũng phải ở cùng các tín hữu và mỗi tín hữu cũng sẽ là EM-MA-NU-EN đối với lương dân.

4) PHỤC VỤ CHÚA HIỆN THÂN NƠI NHỮNG NGƯỜI NGHÈO HÈN:

Vào một buổi sáng mùa đông, một bác thợ giầy kia đã thức dậy rất sớm. Bác ta mau dọn dẹp chỗ làm việc sạch sẽ ngăn nắp rồi đến ngồi vào ghế tại phòng khách chờ đợi vị khách quí sắp đến thăm. Vị khách đó không ai khác hơn chính là Chúa Giê-su. Vì đêm vừa qua, trong giấc mơ, bác đã được Người hiện ra báo chính Người sẽ đến thăm bác trong ngày hôm nay.

Bác thợ giầy ngồi trong phòng khách chờ đợi Chúa đến trong tâm trạng rất háo hức vui mừng. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, bác liền nghe thấy tiếng gõ cửa. Lòng hồi hộp sung sướng, bác vội ra mở cửa, tưởng sẽ được gặp Chúa. Nhưng kẻ đang đứng trước mặt không phải là Chúa Giê-su mà là người đi phát thư mọi khi.

         Chính tiết trời mùa Đông lạnh giá đã làm cho mặt mũi tay chân của người phát thư bị sưng đỏ. Bác thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện phải bị rét run đứng ngòai cửa, nên mời ông ta vào nhà, rồi bác đi pha một bình trà nóng bưng ra mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm và uống nước trà nóng, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.

          Bác thợ giầy lại vào phòng khách ngồi chờ Chúa đến. Nhìn qua khung kính, bác thợ giầy thấy một bé gái đang khóc ngay trước cửa nhà. Bác ra mở cửa hỏi thì được biết trên đường đi chợ về nhà, em đã lạc mất mẹ và do tuyết rơi trắng xóa đường đi nên em không tìm ra lối trở về nhà. Người thợ giầy liền lấy giấy bút viết vài chữ thật to dán ngoài cánh cửa để báo cho vị khách quý Giê-su biết mình có việc gấp phải vắng nhà một lát.

          Nhưng đi tìm đường để dẫn em bé kia về nhà trong cảnh đường trắng xóa không dễ chút nào, hai ông cháu nhiều lần bị lạc đường, nên mãi đến chiều bác mới tìm ra nhà của em nhỏ, và khi quay lại nhà mình thì trời đã tối mịt.

          Về đến nhà, bác thấy có một người đang ngồi trước nhà đợi bác, nhưng không phải là Chúa, mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không biết phải trị bệnh thế nào cho con. Nghe thế, bác thợ giầy lại hối hả đến nhà bà và giúp bà đưa con đến bệnh viện săn sóc.. Mãi đến nửa đêm khi về lại nhà thì vì quá mệt nên bác đã vội nằm lăn ra giường ngủ luôn không kịp thay quần áo ăn bữa tối. Rồi trong giấc mơ, bác thợ giầy nghe thấy tiếng Chúa nói thầm bên tai: ”Hôm nay Ta cảm ơn con đã cho ta uống ly trà nóng. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta bị lạc về tới nhà. Cám ơn con đã săn sóc ủi an Ta khi bị đau ốm. Cám ơn con đã đón tiếp Ta suốt cả ngày hôm nay quên cả ăn uống”. Qua đó bác thợ giày đã hiểu ra rằng: Giúp đỡ phục vụ người nghèo là đã phục vụ chính Chúa Giê-su.

  1. SUY NIỆM:

Chúa Nhật thứ Bốn Mùa Vọng hôm nay trình bày cho chúng ta biết phải chuẩn bị tâm hồn thế nào để đón Chúa đến qua gương vâng phục và sống công chính như thánh Giu-se, và giúp chúng ta sống mầu nhiệm Em-ma-nu-en của Chúa Giê-su như thế nào:

1) GIU-SE, ĐẤNG CÔNG CHÍNH CỦA THIÊN CHÚA:

Công chính theo nghĩa Thánh Kinh là luôn tuân giữ Lề Luật của Chúa và cư xử với tha nhân trong tinh thần công bình và ngay chính:    

+ Giu-se luôn cư xử theo đức công bình: Ông không hề nghi ngờ Ma-ri-a đã phạm tội ngoại tình, vì hoàn toàn tin tưởng vào sự trong sáng của Ma-ri-a, nên đã “không tố cáo bà”.

+ Giu-se cũng là một người ngay chính: Sự ngay chính biểu lộ qua việc ông không cưới Ma-ri-a về nhà, không dám nhận thai nhi là con của mình và tính âm thầm bỏ đi, khi chưa hiểu thánh ý của Thiên Chúa.

2) GIU-SE, ĐẦY TỚ TRUNG TÍN LẮNG NGHE VÀ VÂNG PHỤC THIÊN CHÚA:

 + Tin Mừng Mát-thêu đề cập đến việc sứ thần đến truyền tin cho ông Giu-se trong giấc mộng. Sứ thần đã đánh tan sự bối rối của Giu-se khi cho ông biết nguồn gốc thần linh của Thai Nhi trong lòng Ma-ri-a.

  + Sứ thần còn lệnh cho Giu-se phải làm ba việc để cộng tác vào chương trình cứu độ: Một là “đón Ma-ri-a về nhà” làm vợ để Ma-ri-a khỏi bị mang tiếng oan. Hai là tôn trọng lời khấn trọn đời của Ma-ri-a bằng việc “không ăn ở với bà”. Ba là “đặt tên con trẻ là Giê-su” để thừa nhận trẻ Giê-su là con mình, hầu tránh cho Đức Giê-su khỏi bị tiếng xấu khi thi hành sứ mệnh, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Khi Đức Giê-su khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giu-se”  (Lc 3,23).

  + Ngoài ra, Giu-se cũng bêu gương tuân giữ Luật Chúa: Dâng con đầu lòng vào Đền thờ sau khi trẻ Giê-su sinh ra được bốn mươi ngày, rồi chuộc lại bằng một cặp chim gáy hay bồ câu con theo Luật dạy. Hằng năm, Giu-se đều đưa Đức Ma-ri-a và trẻ Giê-su hành hương về Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Đặc biệt năm trẻ Giê-su mười hai tuổi, đã xảy ra biến cố trẻ Giê-su bị lạc trong Đền thờ x. Lc 2,41-52).

Thánh Giuse chính là mẫu gương đạo đức Mùa Vọng cho các tín hữu chúng ta. Mỗi người chúng ta hãy học với Thánh Giuse để luôn lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nếu chúng ta biết vâng phục và hoàn toàn tin cậy phó thác trong tay Chúa quan phòng noi gương Giu-se, chúng ta cũng sẽ được nên công chính giống như ngài.

3) PHẢI TRỞ NÊN EM-MA-NU-EN : THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA:

Thiên Chúa đã đến ở với loài người qua việc tạo dựng vũ trụ vạn vật “vì và cho » loài người. Ngài còn luôn quan phòng để mọi tạo vật được tồn tại và tiến hóa theo thánh ý Ngài. Ngài còn hiện diện với loài người qua Lời Chúa trong Thánh Kinh, để dạy dỗ loài người nhận biết tin thờ và vâng theo thánh ý của Ngài. Nhất là Ngài còn sai Con Một xuống trần gian nhập thể làm người, trở thành Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, để ban ơn cứu độ cho chúng ta.

Trong những ngày chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, mỗi người chúng ta cần nhận ra Đức Giê-su- là Đấng “Em-ma-nu-en”, đang ở với chúng ta qua mọi người chung quanh, nhất là nhận ra Chúa đang hiện thân qua những người nghèo hèn, đau khổ, tật bệnh và bị bỏ rơi… để khiêm tốn phục vụ họ như phục vụ chính Chúa, là điều kiện để nhận ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế.

  1. THẢO LUẬN: Trong những ngày Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để trở thành một người công chính noi gương thánh Giu-se ? Bạn sẽ ứng xử thế nào đối với những người nghèo hèn là hiện thân của Chúa Giê-su là Đấng EM-MA-NU-EN ?
  2. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết hy sinh quên mình để lo công việc của Chúa như thánh Giu-se hôm nay. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng làm theo ý Chúa như ngài. Ước gì mỗi ngày con tập bỏ đi một sở thích không cần thiết, bỏ qua một lời nói đụng chạm đến tha nhân. Ước gì chúng con nhìn thấy Chúa đang ở trong những người đau khổ nghèo hèn chung quanh để ân cần phục vụ họ, hầu sau này chúng con đáng được Chúa đón về quê trời hưởng hạnh phúc muôn đời.

– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết sống khiêm nhường, luôn tin cậy phó thác vào Chúa Quan Phòng như Đức Ma-ri-a xưa. Trong những giờ phút đen tối của cuộc đời, khi chúng con bị người thân hiểu lầm, bị người chung quanh nói xấu xa lánh mà không thể tự mình giải oan, xin giúp chúng con luôn bình tĩnh cậy trông phó thác trong tay Chúa quan phòng như Mẹ khi xưa. Chúng con tin rằng Chúa sẽ kịp thời giải oan và còn “biến sự dữ ra sự lành” để giúp chúng con được hưởng hồng ân cứu độ của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Có một người tâm sự với tôi về cuộc đời đau khổ buồn sầu vì hôn nhân gia đình tan nát, vợ chồng ly dị cho dù đã sống với nhau có mấy đứa con.  Con cái bây giờ hư hỏng.  Tôi hỏi lý do gì làm cho gia đình lâm vào hoàn cảnh này?  Chị thưa rằng: “Thưa cha về đời sống vật chất, chúng con rất thành công, có 3 tiệm và một nhà hàng,  nhưng đời sống đạo và đức tin thì rất lạnh nhạt.  Ít khi chúng con cầu nguyện với nhau, bỏ lễ thường xuyên.  Có đi nhà thờ thì chỉ mong cha làm lễ cho mau để về mở tiệm. Chúng con chỉ chú ý đến công việc, bỏ bê gia đình và con cái.  Chúng con sống với nhau nhưng không biết và hiểu nhau.”  Tôi hỏi chị: “Trước khi kết hôn có tìm hiểu và được hướng dẫn không?”  Chị thưa rằng:  “Không.  Rất tiếc chúng con không được sửa soạn và không được hướng dẫn gì về đời sống hôn nhân, vì lúc ấy chúng con quen nhau và muốn linh mục quản xứ phải làm đám cưới cho mau chóng.  Cha xứ có đề nghị nên có thời giờ tìm hiểu nhau, nhưng chúng con không nghe, bực tức đổ cho cha là khó khăn, nhiều chuyện và không hiểu chúng con.  Chúng con nói chúng con đã yêu nhau rồi và cứ đòi cha phải cử hành hôn nhân càng sớm càng tốt.  Sau đó vì thấy chúng con khăng khăng một mực muốn làm đám cưới ngay, nên cha cũng đành phải theo ý chúng con. Lúc ấy gia đình và chính chúng con cho cha là rất tốt, dễ thương, dễ dàng làm theo sự đòi hỏi của chúng con.  Bây giờ đang phải đối diện và sống trong hoàn cảnh quá phũ phàng và đau khổ này và nghĩ lại mới tỉnh ngộ.  Bây giờ con mới hiểu. Nhưng bây giờ có ăn năn tiếc nuối thì cũng đã muộn rồi. Gia đình tan nát, con cái hư hỏng.”

Ông bà anh chị em thân mến. Đó là thảm cảnh của nhiều gia đình ngày nay, nhất là trong xã hội chỉ chú trọng tới tiền bạc và vật chất, chú trọng tới chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hưởng thụ và tự do quá trớn này.  Do đó là những Ki-tô hữu và là những gia đình Công giáo, chúng ta phải biết học những nhân đức, biết noi gương đời sống vợ chồng của thánh Giuse và Mẹ Maria để giữ gìn yêu thương, hạnh phúc và hòa thuận.  Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết khi trinh nữ Maria đã đính hôn với Giuse nhưng chưa chung sống với nhau thì Maria có thai.  Giuse biết rõ bào thai kia không phải là của mình, và lúc đó Giuse chưa được biết về mầu nhiệm Thiên Chúa thực hiện nơi vị hôn thê của mình.  Điều này đặt thánh Giuse vào một hoàn cảnh hết sức khó xử.  Ngài không thể nhận bào thai kia là của mình vì biết chắc chắn là không phải do mình. Nhưng ngài cũng không có đủ bằng chứng để tố cáo và buộc tội Maria. Chúng ta biết là vào thời gian đó nếu người phụ nữ bị tố cáo phạm tội ngoại tình thì sẽ bị xử tử ném đá.

Vậy phải xử trí thế nào đây?  Nếu vào trường hợp đó ông bà anh chị em sẽ xử trí ra sao?  Giuse quyết định ly hôn và bỏ Maria một cách kín đáo.  Như vậy giải quyết được mọi thắc mắc lo âu của mình và không làm tổn thương danh dự của Maria, và nhất là không để Maria bị người ta tố cáo và ném đá.  Nhưng như vậy thì chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa không thực hiện được cho nên Thiên Chúa đã can thiệp. Trong khi Giuse còn đang bối rối và suy tính những điều như trên thì Thiên Chúa sai Thiên Thần đến báo tin cho ngài biết: Maria có thai là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, và con trẻ do Maria sinh ra sẽ được ông đặt tên là Giêsu, có nghĩa là Đấng cứu dân khỏi tội, và được gọi là Emmanuen, có nghĩa là Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta.

Qua bài Tin mừng, chúng ta nhận thấy Maria và Giuse đã sống nhân đức tín thác vào Chúa, vào nhau và vào chính mình. Thứ nhất về phần Maria, Mẹ xác tín vào Chúa thể hiện những điều Ngài hứa. Là một thiếu nữ có những mơ ước riêng cho mình và cho gia đình, nhưng Maria bỏ những ý định riêng, vâng theo thánh ý Chúa.  Là một trinh nữ, Maria đã đặt trọn niềm tin vào quyền năng của Chúa, được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, mọi sự sẽ xảy ra như lời Chúa hứa.  Thứ hai về phần Giuse, trong lúc bối rối ngài không biết phải xử trí ra sao, nhưng đã chú tâm lắng nghe và xác tín Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, không phải do chính người nào.  Vì lòng xác tín, Giuse đã tiếp nhận Maria vào nhà mình làm vợ với tâm hồn vui mừng và bằng an.

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúng ta thấy rằng điều khó khăn nhất và cũng là một sự đòi hỏi quan trọng trong đời sống vợ chồng trong xã hội hiện nay là sự xác tín vào Chúa, vào nhau và vào khả năng của mình. Thứ nhất chúng ta thấy Đức Maria và thánh Giuse xác tín vào thánh ý và quyền năng của Chúa cho cuộc sống cá nhân và cho gia đình. Thứ hai, vợ chồng phải thành tin vào nhau như Đức Maria và thánh Giuse.  Maria vững tin vào thánh Giuse sẽ nhận mình làm vợ, tuy không hiểu thấu những sự việc xảy đến cho mình.  Cũng vậy, Giuse tin Maria luôn luôn trung thành với mình.  Trong đời sống hôn nhân, vợ chồng cũng phải trung thành và xác tín vào sự trung thành này của người vợ hay chồng, như lời hứa đã trao cho nhau trong ngày kết hôn.  Xác tín vào nhau rất quan trọng và cần thiết để đối diện với nhiều khó khăn và vượt qua nghịch cảnh, thử thách. Cuối cùng và khó khăn nhất là vợ chồng phải tin vào khả năng của chính mình, tin vào ơn sủng của Chúa hiện hữu trong con người của mình để giải quyết cũng như vượt qua những thử thách.

Ông bà anh chị em thân mến. Đức Maria và thánh Giuse đã can đảm sống những niềm xác tín này trong cuộc sống cá nhân và vợ chồng.  Hai ngài tin vào thánh ý Chúa cho mình và cho gia đình, và qua các ngài mà Đấng Cứu Thế đã được sinh ra cho chúng ta. Tôi tin rằng muốn có hạnh phúc, yêu thương và hòa thuận, vợ chồng cũng phải noi gương các ngài, sống niềm xác tín như các ngài.  Xin Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của Đức Maria và thánh Giuse, giúp các gia đình, nhất là các gia đình vợ chồng đang trong hoàn cảnh khó khăn, biết noi gương các ngài, luôn trung thành với nhau, trọn niềm xác tín vào Chúa và với nhau, để thoát khỏi những âu lo, khó khăn và thử thách, cùng nhau chung xây một gia đình yêu thương, hạnh phúc và hòa thuận.

Về mục lục

.