Các bài suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay_ A

1403

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_A

Lời Chúa: 1Sm 16,1b.6-7.10-13a;  Ep 5,8-14;  Ga 9,1-41

——-

Mục lục

  1. Tất Cả Vì Yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2. Mắc Kẹt (Thiên San, MTG. Thủ Đức)
  3. Thầy Là Ánh Sáng Thế Gian (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
  4. Ánh sáng  (Jorathe Nắng Tím)
  5. Chứng mù đáng sợ  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  6. Ánh sáng niềm tin  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
  7. Hãy mở ra  (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)
  8. Con mù lòa, Chúa làm cho sáng (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  9. Ánh sáng đức tin (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  10. Ánh sáng và bóng tối (Lm. Thái Nguyên)
  11. Mù mờ  (Lm Vũ Đình Tường)
  12. Hãy để đôi mắt được thắp sáng  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
  13. Một thứ mù đáng sợ (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
  14. Màu Hồng của chúng ta (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
  15. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 4 Mùa Chay_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
  16. Nhãn quan  (Trầm Thiên Thu)

 

Mục lục

1. Nguồn sáng thật  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Ngọn đèn đức tin  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Ánh sáng từ trái tim (Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt)

4. Mở mắt nhìn đời  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Nhận ra lòng Chúa xót thương  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

6. Hai dạng thức mù lòa (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

7. Phải tôn trọng sự thật (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

8. Mù tâm linh  (Trầm Thiên Thu)

9. Suy niệm Chúa Nhật IV Mùa Chay. Năm A  (Lm. Anthony Thành Trung)

10. Xin cho con đừng thấy! (Lm. Nguyễn Văn Nghĩa)

11. Hai cách nhìn và hai lối sống  (Tu sĩ Jos Vinc. Ngọc Biển, SSP)

12. Bước nhảy của niềm tin  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

13. Ánh sáng  (Lm. Trần Việt Hùng)

14. Mở mắt tâm hồn  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

15. Sáng trí sáng lòng  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

16. Mù mà sáng – Sáng mà mù (JM. Lam Thy, ĐVD)

17. Sáng mắt sáng hồn (AM. Trần Bình An)

18. Làm phúc cũng bị cho là có tội (P. Trần Đình Phan Tiến)

19. Chúa Nhật IV Mùa Chay_A  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

20. Chúa là nguyên nhân của niềm vui (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

21. Mù lòa và mù quáng  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

22. Điều kiện kèm theo  (Lm. Vũ Đình Tường)

23. Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

24. Tối sáng  (Lm. Uyen Nguyen)

25. Đúc Giêsu ánh sáng trần gian (Duyen Nguyen)

26. Chúa vẫn trung thành mãi  (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)

27. Khi Chúa chữa người mù (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

28. Sự sáng của Thiên Chúa và bóng tối của con người (Lm. Giuse Nguyễn)

29. Thầy là ánh sáng thế gian (Lm. Đan Vinh)

30. Chúa Nhật 4 Mùa Chay_A (Lm. Antôn)

TẤT CẢ VÌ YÊU

Tuần 4 mùa chay-A: Ga 9, 1-41

Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Đau khổ, thất bại, cuộc sống mất định hướng, ai chẳng mong được trợ giúp, được tham mưu, vấn kế, với hy vọng sẽ có một kết quả tốt đẹp. Thành đạt, cuộc sống ổn định, có phải người ta vẫn mơ ước sự trợ giúp: để được uy danh, để được nổi tiếng ? Dù là tình đời, tình người, tình máu mủ ruột thịt, hoặc tình đôi lứa, thì mục tiêu hướng tới chính là hạnh phúc. Người xưa có câu: người bạn tốt là người bạn khi ta cần thì họ xuất hiện, trong khi những kẻ khác bỏ đi, sợ phải liên luỵ ! Đồng ý rằng, ai cũng có tự do chọn lựa, được nhắc nhớ nghĩ tốt, nói tốt, trong các tương quan, dù hoàn cảnh sống mỗi người mỗi khác. Giầu nghèo, khôn hay khờ, khoẻ mạnh hoặc ốm yếu, tất cả chỉ tồn tại trong tình yêu, mọi thứ rồi tan biến theo quy luật thời gian. Nghịch cảnh, khổ đau, khiến một số gục ngã, nghịch cảnh cũng tác động số khác kiên cường, phá vỡ kỷ lục thế giới.

Thưa Thầy: mù loà, câm điếc, bại liệt, ngu dốt, là do hậu quả tội lỗi, đó là hình phạt chính đáng, đúng không ? Đức Giêsu quả quyết, không phải thế: “không phải anh ta tội lỗi, cũng không phải cha mẹ anh phạm tội, mà là để công viêc Thiên Chúa tỏ ra nơi người mù từ lúc mới sinh”. Đức Giêsu quan tâm đến sứ mạng yêu thương, trong khi các môn đệ, và số đông chúng ta, luôn bị ám ảnh bởi hình phạt, vì những ưu ái bên ngoài. Lời khuyên của các chuyên gia: hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ lui ra sau bạn. Hãy nhìn những việc làm tốt đẹp của người anh chị em, ta sẽ buông bỏ được những suy nghĩ tiêu cực về người ta không ưa thích. Trước khi mở mắt người mù, Đức Giêsu nói: “bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian”. Trước khi gặp Đức Giêsu, cuộc đời của anh mù chỉ là bóng đêm, khổ đau, ngồi xin ăn, nhưng tâm trí anh không mất niềm hy vọng về một ngày tươi sáng.

Tất cả cơ hội, niềm vui có thể đến với ta bất cứ lúc nào, tất cả đau khổ hạnh phúc, mất và được, sống và chết, tội lỗi hay thánh thiện, đều tuỳ thuộc sự tự do chọn lựa của ta. “Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Đấng đã sai Ta”. Trước khi mở mắt người mù, Đức Giêsu có ý nói tất cả việc làm phải phát xuất từ tình yêu. Bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn có thời gian suy xét về sự thánh thiện, hay sự giới hạn đầy bất xứng của mình. Khoa học phát triển, giới y bác sĩ hôm nay chữa được nhiều bệnh tật hiểm nghèo, nhưng người mù từ khi mới sinh, hẳn chỉ Đức Giêsu mới chữa trị được. Sứ mạng của Đức Giêsu là mở mắt tâm hồn, mở mắt đức tin, hôm nay Ngài còn mở mắt thể lý, mở ra nhiều hy vọng, tất cả vì yêu, chắc chắn không phải vì tiền hay vì danh.

Tất cả là hồng ân, tất cả vì yêu, tất cả vì muốn hạnh phúc cho con người, Đức Giêsu thực hiện quyền năng giữa “thanh thiên bạch nhật”, xoa bùn lên mắt người mù và bảo: “anh hãy đến hồ Silôê mà rửa”. Câu chuyện người mù được khỏi, gây thắc mắc, liên luỵ phiền phức đến nhiều thành phần: “đó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin ở đây sao ?” “Làm thế nào mà anh ta được sáng mắt ?” Khi ở trong tối tăm, anh mù chỉ im lặng trước tình thế phải ngồi xin ăn. Sau khi được sáng: anh nói năng lưu loát, công nhận Đức Giêsu là người tốt, tuyên xưng Đức Giêsu là Ngôn Sứ. Anh ta trả lời hết sức khôn ngoan trước các điều tra viên: “Ông Giêsu có phải là người tội lỗi hay không thì tôi không biết; tôi chỉ biết trước kia tôi mù, và bây giờ ông ấy đã làm cho tôi trông thấy”. Đúng như câu thành ngữ: người thật tâm, thật tình, chưa chắc đã có kết quả tốt hơn ai, nhưng khi thật tình thật tâm, bạn sẽ không bao giờ phải hối tiếc. Người mù được sáng mắt, sáng lòng, anh ta mới thực sự bước những bước đầu cho sứ vụ và ơn ban của người tin theo Đức Giêsu.

Tất cả mọi thứ đều quý ở hai thời điểm: trước khi có được và sau khi mất đi. Tất cả là ơn ban, tất cả là vì yêu, tất cả là những tác động nhằm mở mắt trí lòng anh mù, và mọi người, giúp nhau đi tới hạnh phúc thật ở phía trước. Sau khi mắt sáng, trí lòng thông suốt theo sau, biết bao tranh luận sôi nổi làm đảo lộn mọi giá trị. Người sáng mắt bỗng dưng như tối lại, kẻ tự cho mình thông biết lại đuối lý, anh mù Bartimê cho ta cảm nhận: khi trí lòng sáng, người ta sẽ hiểu tình Chúa và tình người luôn hiện diện trong các tương quan. Không phải chỉ anh mù Bartimê được yêu thương, mà tất cả các luật sĩ biệt phái và chúng ta đều được thương yêu, được có điều kiện để thích nghi với tình hình mới. Hãy lưu tâm đến lý trí tự do mà ta đang có, hành động đúng đẹp sẽ nói lên điều ta cần hiểu.

Chính vì tình yêu, vì được tác động bởi ơn ban, người ta mới đủ lý lẽ để nói: “làm sao một người tội lỗi lại làm được những sự việc thể ấy ?” Tất cả vì yêu: vì không một hành động tử tế nào, dù là nhỏ bé tí teo, lại bị lãng phí. (Aesop). Tất cả vì yêu, người mù loà không thấy đường đi lối lại, nhưng anh ta lại sáng mắt tâm hồn, hết sức nhạy bén, Đức Giêsu nói đi rửa ở hồ Silôê là đi ngay, không cần phải thắc mắc, nghi ngờ… Cha ông chúng ta nói: Chúa thương ai, Chúa gởi thánh giá đến, và bằng hành động yêu thương, ai cũng có cơ hội để bày tỏ niềm tin, để minh chứng chúng ta vừa sáng mắt vừa sáng lòng. Chỉ khi trải nghiệm, chúng ta mới nhìn rõ trắng đen cuộc đời, mới nhận ra sức mạnh và tình yêu của Chúa đang giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin và đức ái. Amen.

Về mục lục

MẮC KẸT

Thiên San, MTG. Thủ Đức

 Ði ngang qua, Ðức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Ðức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Đó là cuộc trò chuyện của Thầy trò sau khi vừa ra khỏi Hội đường. Câu trả lời đã quá rõ. Thế nhưng, những người Pharisêu vẫn bị mắc kẹt trong những gì các ông cho là đúng: Bệnh bởi tội mà ra.

Rảo qua các ngả đường Đức Giêsu đã đi, chúng ta sẽ được nhìn thấy những khuôn mặt rất thân quen: các môn đệ, dân chúng và đặc biệt là nhóm biệt phái, Pharisêu. Đã có rất nhiều người khi nghe Đức Giêsu giảng dạy, họ đã tin vào Người, được Người chữa lành. Ấy thế mà các kinh sư và người Pharisêu vẫn không thể tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Họ nghĩ rằng mình nhìn thấy, mình sạch tội. Họ là những người giữ luật hơn ai hết. Bởi đó, khi Đức Giêsu chữa bệnh vào ngày Sabat, họ cho rằng Người là tội nhân. Mà một tội nhân thì không thể từ Thiên Chúa mà đến. Thực ra, những người Pharisêu và các biệt phái không chỉ bị mắc kẹt trong Lề Luật mà họ vẫn giữ, mà còn bị mắc kẹt trong sự ghen ghét, đố kỵ, không biết mình. Bởi đó, họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô.

Việc anh mù từ thuở mới sinh được nhìn thấy đã gây xôn xao dư luận. Một phiên tòa đã được mở ra. Trước khi phiên tòa mở ra, những kẻ cầm đầu đã ra bản án. Họ quyết định sẽ trục xuất bất cứ ai tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Phải chăng đó là một sự trơ trẽn mà họ vẫn thường làm? Theo dõi cuộc tranh luận, chúng ta có thể thấy được một sự đối lập, một sự chênh vênh trong cuộc xét xử. Những người cầm quyền hỏi tới hỏi lui cùng một vấn đề nhưng lại không thể nhận được câu trả lời thỏa đáng theo cách họ muốn. Người bị điệu ra tra khảo thì một mực quả quyết và làm chứng cho sự thật. Anh bị cho là kẻ tội lỗi ngập đầu từ lúc mới sinh nhưng đã can đảm nói lên sự thật. Anh tin rằng, người đã mở mắt cho anh là người đến từ Thiên Chúa. “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt cho tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” (Ga 9, 30-33). Cuối cùng, anh bị trục xuất khỏi Hội đường.

Khi gặp lại anh mù đã bị trục xuất, Đức Giêsu một lần nữa mời gọi anh tuyên xưng đức tin của mình khi mạc khải cho anh biết chính Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Anh mù đã tin. Anh mù từ thuở mới sinh không chỉ được Đức Giêsu cho sáng mắt thể lý mà còn sáng mắt về tâm hồn, về đức tin. Còn những người Pharisêu, những người biệt phái tự cho mình sáng mắt thì lại trở nên mù tối trong đức tin, bị mắc kẹt trong những khung luật lệ và cách giữ luật mà họ vẫn cho là đúng. Chúa Giêsu đã chỉ cho họ thấy rõ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9, 41).

Mỗi người chúng ta có thể tự hỏi mình rằng: tôi có đang bị mắc kẹt trong đức tin không và điều gì làm tôi bị mắc kẹt? Để đi đến một đức tin được khai sáng như anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải chấp nhận trả giá, chấp nhận làm chứng cho sự thật cả khi biết trước được những rủi ro, những khó khăn, những điều không hay sẽ xảy đến với mình, cả khi biết trước rằng, tôi sẽ bị người khác “trục xuất”. Hơn nữa, muốn không bị mắc kẹt như các kinh sư và người Pharisêu, chúng ta cần học lắng nghe, khiêm tốn, đón nhận người khác; dám vượt qua hàng rào của những thành kiến, ganh ghét, đố kỵ của bản thân để mở lòng ra với Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương và chăm sóc ta.

Về mục lục

THẦY LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN
Ga 9, 1- 41

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, vào dịp lễ Lều của người Do thái, Thầy Giêsu đã chữa lành cho một anh mù từ thuở mới sinh và Thầy đã tự giới thiệu “Ta là ánh sáng thế gian”. Từ khi được Thầy Giêsu chữa lành đôi mắt thể xác, anh mù đã trải qua một hành trình đầy thử thách để đón nhận đức tin, trở thành môn đệ của Thầy Giêsu và bước theo Người. Có thể nói, từ khi anh có liên hệ đến Thầy Giêsu, cuộc đời của anh đã từ đêm đen bước ra ánh sáng: từ chỗ chỉ biết một người tên là Giêsu đến chỗ nhìn nhận Người là vị ngôn sứ, một “người kính sợ Thiên Chúa”, “người được Thiên Chúa sai đến”, và cuối cùng hoàn toàn “tin vào Con Người”. Thầy Giêsu là ánh sáng thế gian, ai đến với Người sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống (x. Ga 8, 12).

Vừa nhìn thấy anh mù đang ngồi ăn xin, các môn đệ liền hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9, 1). Thầy Giêsu đã phủ nhận lối suy nghĩ cho rằng tình trạng bị mù là hậu quả của tội lỗi của ai đó, khi nói: “không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy”. Người sẽ chữa lành cho anh, ban ánh sáng cho đôi mắt thể lý và từng bước để anh đón nhận ánh sáng đức tin. Khi được Thầy Giêsu trộn một chút bùn, xức vào mắt, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa.” Nghe lời Thầy, anh mù đã đi, đã rửa và nhìn thấy. Lúc anh lắng nghe lời Thầy và làm theo, ta không nghe thấy anh mù van xin để được chữa lành theo như kiểu anh muốn, ta không nghe anh đối thoại với Thầy Giêsu để nài ép người chữa anh lành theo cách anh nghĩ là tốt nhất. Ta chỉ thấy anh đã lần mò tìm đến hồ Silôác để rửa. Cho đến khi được sáng mắt, anh vẫn chỉ biết “một người tên là Giêsu” đã chữa lành cho mình. Khi đối diện với những câu hỏi của người khác, anh cho họ biết, chính anh cũng không biết Người ở đâu. Anh được gặp Người trong một cuộc gặp gỡ tình cờ và anh cũng chưa một lần nói chuyện hay nhìn thấy vị đại ân nhân của đời mình. Thầy Giêsu đã chạm đến đôi mắt thể xác của anh và rồi đây Người cũng sẽ chạm đến tâm hồn anh.

Người ta dẫn anh mù đến với những người Pharisêu. Ta không biết anh tên gì, chỉ thấy người ta gọi anh là anh mù, dù bây giờ anh đã sáng mắt. Phải chăng, người ta chỉ nhìn thấy tình trạng mù lòa của anh, chẳng cần biết anh tên gì, vì một kẻ tội lỗi thì không đáng được nhắc đến. Những người Pharisêu thẩm tra anh về việc anh được sáng mắt. Trước những câu hỏi của họ, anh nhìn nhận Đức Giêsu là một vị ngôn sứ. Những câu hỏi không nhằm tìm ra sự thật nhưng chủ ý bắt bẻ người đã chữa lành. Hành động chữa bệnh trong ngày Sabát của Thầy Giêsu đã khiến họ chia rẽ. Người Dothái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Cha mẹ anh khẳng định anh là con của ông bà, bị mù từ thuở mới sinh, còn việc làm sao anh được sáng mắt thì ông bà không biết. Ông bà sợ bị trục xuất khỏi hội đường nên thoái thác, không trả lời. Ngay cả cha mẹ cũng từ chối bênh vực anh vì sợ, điều đó khiến anh phải tự mình bước đi trước áp lực của dư luận, trước mối đe dọa từ giới lãnh đạo tôn giáo. Anh sẽ hành xử thế nào để làm chứng cho sự thật, bất chấp mọi đau khổ mà mình phải trải qua?

Người ta lại gọi anh mù đến và tra hỏi. Sau khi đã can đảm nói lên tiếng nói của sự thật, lên tiếng bênh vực cho Thầy Giêsu trước lời kết án của người Dothái, quả nhiên anh mù bị họ trục xuất khỏi Hội đường, trở thành người bị khai trừ. Bị trục xuất cách nhục nhã và đang bơ vơ không lối đường, một lần nữa anh được Thầy Giêsu tìm gặp. Trong lần gặp đầu tiên, chính Thầy Giêsu đã chủ động đến với anh, chạm đến anh và chữa lành cho anh đôi mắt thể xác. Hành trình đón nhận đức tin của anh được khởi đi từ đây. Từ khi cuộc đời anh liên hệ đến Thầy Giêsu, anh được đón nhận niềm sướng vui hạnh phúc từ hồng ân Thầy ban, và cũng chính vì liên hệ với Thầy, anh gặp phải những rắc rối, nguy hiểm và cuối cùng bị trục xuất khỏi Hội đường vì dám làm chứng cho sự thật. Cho đến lúc này, anh chưa phải là người tin vào Thầy Giêsu, chỉ đến khi Thầy Giêsu chủ động tìm gặp anh, Người đã giúp anh đón nhận đức tin. Anh đã được gặp lại Người, đã biết Người là Đấng nào, để rồi anh đã thưa lên lời tuyên xưng của mình: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. Như thế, đức tin chính là hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người. Chính Thiên Chúa chủ động tìm kiếm con người, đồng hành với họ trong suốt hành trình cuộc đời để làm cho đức tin của họ đạt đến mức trưởng thành. Điều quan trọng là con người phải biết mở lòng ra đón nhận hồng ân đức tin, không thành kiến, không cứng lòng.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn đi bước trước để đến với con, đồng hành và nâng đỡ con trong cuộc đời. Xin Chúa đốt lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa, ban cho con ơn can đảm dám sống và làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời, dù phải trả giá bằng đau khổ và đắng cay. Con tin, Chúa vẫn ở kề bên con và ban tràn Thánh Thần trên con, giúp con biết phải nói gì và làm gì để đẹp lòng Chúa. Xin Chúa cho con biết đến với Chúa để luôn được bước đi trong Ánh sáng của Đấng ban sự sống. Amen.

Về mục lục

ÁNH SÁNG

Jorathe Nắng Tím

Có thể nói : Tin Mừng Gioan là tin mừng Ánh Sáng, vì ngay phần đầu của Tin Mừng, thánh Gioan đã phấn khởi ca tụng Ánh Sáng : “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời … Và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1,1-4).

Ánh sáng ấy được Ngôi Lời đem đến cho nhân loại, cho từng người, như người mù từ lúc mới sinh đã được Đức Giêsu chữa lành để nhìn thấy ánh sáng (x. Ga 9).

Nhìn những người anh em khiếm thị, chúng ta thấy họ vẫn sống, nhưng sự sống của họ luôn bị đe đọa vì không thấy đường, mà đường đi đầy những chướng ngại có thể làm họ té ngã, bị thương và có thể chết, vì đập đầu vào đá, vào tường, rơi xuống hố rãnh, sông rạch, hoặc bước vào lửa đang cháy nóng ; anh em khiếm thị vẫn có thể sống, nhưng sống trong lo lắng vì không thấy những nguy hiểm rình rập quanh mình.

Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người mù từ thuở mới sinh được Tin Mừng Gioan kể lại là một hẹn hò mang tính sinh tử. Trong cuộc hẹn này, Đức Giêsu đã đưa anh mù từ bóng tối của những đe doạ, hiểm nguy đưa đến sự chết vào vùng ánh sáng của sự sống được đảm bảo, bình an.

Trong cuộc hẹn hò sinh tử này, chúng ta thấy cuộc chiến rất gay go giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đức tin của người mù được sáng mắt và những người biệt phái tuy mắt sáng nhưng cứng lòng không đón nhận Đức Giêsu là “Ánh Sáng Muôn Dân” (Ga 8,12).

  1. Cuộc chiến trường kỳ và căng thẳng giữa Ánh Sáng và Bóng Tối :

Vừa rời khỏi Đền Thờ để tránh cơn mưa đá của những nngười Do Thái qúa khích, Đức Giêsu “nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh” (Ga 9,1) thường ngày ngồi ăn xin bên lề đường (x. Ga 9,8), và Ngài chữa anh khỏi đui mù, khi “nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta : “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa. Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được” (Ga 9,6-7).

Chắc chắn anh hạnh phúc, vui mừng lắm, vì lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy ánh sáng, được chiêm ngắm trời đất, thiên nhiên, con người, nhất là được nhìn thấy cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân thuộc. Và cũng có nhiều người đã đến chung niềm vui với anh.

Nhưng bên cạnh những người đang vui với niềm vui được sáng mắt của anh, đã có những người như các ông Pharisêu đã không vui vì anh được chữa lành, đã không hài lòng vì anh được nhìn thấy, đã không bình an khi anh được Đức Giêsu làm phép lạ ban cho ánh sáng. Họ là những người đang bực tức, căm giận, chỉ vì anh được chữa lành, và được sáng mắt. Nhưng chính trong hoàn cảnh này, anh có dịp công khai tuyên xưng đức tin của anh vào Đức Giêsu, người đã cứu chữa anh ra khỏi bóng tối.

Trước nhóm Pharisêu hùng hổ vặn hỏi, và không ngớt đe đọa, anh luôn giữ một lập trường : kể lại chính xác những gì Đức Giêsu đã làm và đã nói với anh : “Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo : ‘Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa’. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9,11). Bị chất vấn : “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh ?” Anh đáp : “Người là một vị Ngôn Sứ !” (Ga 9,17).

Những người Do Thái ghét Đức Giêsu còn mắng nhiếc anh thậm tệ và hạ uy tín của Đức Giêsu khi chụp mũ, lên án Ngài là người tội lỗi, cốt đế anh nghi ngờ, không tin Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa (x. Ga 9,24-33). Họ còn áp đảo tinh thần cha mẹ anh, bằng đe dọa : “trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô” (Ga 9,22).

Sau cùng, vì không chịu nổi tính bất khuất, lòng biết ơn và niềm tin sắt đá của anh, nhóm Pharisêu và những người Do Thái về phe họ đã vô cớ ra án cho anh : “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư ?. Rồi họ trục xuất anh” (Ga 9,34).

Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi : “Anh có tin vào Con Người không ?” Anh đáp : “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” Đức Giêsu trả lời : “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh nói : “Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,35-38).

Qủa thực, anh mù bẩm sinh được Đức Giêsu chữa lành đã trải qua nhiều thử thách gây ra bởi những người Biệt Phái ganh ghét Đức Giêsu, và quyết tâm trừ khử Ngài. Vừa được sáng mắt sau bao nhiêu năm mù lòa, anh tưởng sẽ được bình an, hạnh phúc với mắt sáng như mọi người, nào ngờ cả một thế lực tôn giáo tấn công anh, bắt anh phải phủ nhận phép lạ anh vừa nhận, ép anh phải từ chối hồng ân từ tay người có tên Giêsu, đối thủ số một của những người đang o ép, khống chế, mua chuộc, gài bẫy anh phải nói dối, cũng như ráo riết “mớm cung” để anh phải bóp méo, bức tử “sự thật” bằng không nhận đã được Đức Giêsu “trộn một chút bùn, xức vào mắt, rồi bảo : Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa”, nhất là không được to tiếng công bố với niềm xác tín : “Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9,11).

Anh đã phải chiến đấu cam go trước cám dỗ được yên thân, được cơ chế tôn giáo ủng hộ, được đám đông tuyên dương, để có thể nói thật điều mình nghĩ đúng, nói đúng điều mình nghĩ thật, khi công khai “kể đúng” những gì Đức Giêsu đã “thật sự” làm cho anh, và nhắc lại “đúng” những lời của người chữa lành mắt đã “thực sự” nói với anh. Anh phải chiến đấu vất vả vì lực lượng hùng hậu, và ma mãnh của Bóng Tối đã không chấp nhận Ánh Sáng được trả lại cho anh, vì Bóng Tối muốn mãi mãi thống trị anh, và không muốn anh đón nhận Ánh Sáng như hồng ân.

Những năm tháng mù loà, anh không thể mường tượng thế nào là ánh sáng, vì bóng tối với thời gian đã làm anh quen và không còn thấy xa lạ, khó chịu, bực bội với bóng tối, như người sống nhiều năm trong hang động, hay lâu ngày bị giam cầm dưới hầm tối sẽ lảo đảo, té nhào phút đầu tiếp cận ánh sáng, nên khi có ánh sáng ùa vào cuộc đời, anh cũng phải dũng cảm chiến đấu để Vượt Qua bóng tối, đi vào Ánh Sáng, chứ không ngoan cố ở lì trong bóng tối và không chịu thoát ra.

  1. Kết qủa khác biệt giữa Ánh Sáng và Bóng Tối :

Anh mù được chữa lành đã thấy ánh sáng, và khi đón nhận ánh sáng, anh đã nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã cứu anh khỏi bóng tối mù loà.

Đấng ấy đến để ban ánh sáng cho nhân loại, nhưng không phải tất cả mọi người đều mở lòng đón nhận ánh sáng như anh. Bằng chứng là những người Pharisêu và nhiều người Do Thái có mặt hôm đó đã lên tiếng phủ nhận phép lạ ánh sáng của Đức Giêsu khi Ngài chữa lành anh, mặc dù phép lạ đã xẩy ra tỏ tường, và họ kiểm chứng được tận mắt, tận tay, tại chỗ.

Đó là lý do thánh Gioan Tông đồ đã nhấn mạnh trong phần mở đầu Tin Mừng : “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,9-11). Cũng như chính Đức Giêsu đã khẳng định, trước những ngoan cố, và phủ nhận Ánh Sáng của nhóm Pharisêu và những người Do Thái cứng lòng : “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử : cho người không xem thấy đuợc thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39).

Nhìn vào anh mù được chữa lành, chúng ta thấy anh là người thiện tâm, khi lương thiện đón nhận “hồng ân được sáng mắt” được ban từ tay người có tên Giêsu, mà sau đó anh đã tuyên xưng niềm tin ở Ngài và sấp mình bái lậy (x. Ga 9,38). Chính nhờ mở lòng đón nhận hồng ân ánh sáng, Thiên Chúa đã cho anh được gặp Ngài, nhận ra Ngài và thờ lậy Ngài. Cũng chính vì nhận ra ơn Thiên Chúa ban cho mình, mà anh được bình an, dũng cảm để làm chứng bằng nói lên sự thật Thiên Chúa đã làm cho anh, trước mọi thách đố, cạm bẫy, cám dỗ, thử thách của ác nhân.

Bên cạnh ơn bình an của đức tin, anh còn nhận được hoa trái ngon ngọt của Ánh Sáng là Lương Thiện, Công Chính và Chân Thật như thánh Phaolô đã ân cần nhắc bảo các tín hữu Êphêsô : “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng ; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,8-9).

Ngược lại, khi nhìn vào những người chống lại ánh sáng, tức chống lại Đức Giêsu, như nhóm Pharisêu, chúng ta thấy họ không tin, dù đã thấy tận mắt, đã sờ tận tay ; thấy họ không bình an, nhưng bất an, bất ổn, tâm hồn bấn loạn vì hận thù, ganh ghét, khi tìm đủ cách ngụy tạo, vu khống, thúc giục người này người kia làm chứng gian, nói dối, bóp méo sự thật, như họ đã  điên cuồng làm áp lực trên anh mù và gia đình anh.

Chúng ta cũng thấy ở những người từ chối ánh sáng này con người và thái độ không chút “lương thiện, công chính và chân thật”, qua tư tưởng bất chính, lời nói  xảo quyệt, và việc làm gian ác, khi tìm mọi cách tận diệt niềm tin của anh mù vào Đức Giêsu, và giập tắt ánh sáng anh vừa nhận được như hồng ân vô cùng lớn lao từ Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người.

Vâng, như anh mù được sáng mắt, nhờ bí tích Thanh Tẩy và Thêm Sức, chúng ta được Thiên Chúa cho sáng mắt, được lớn lên và xứng đáng hơn mỗi ngày với ơn huệ làm con cái Ánh Sáng, khi thấy tất cả mọi người, mọi sự chung quanh mình, và nhìn mọi biến cố xẩy ra hằng ngày theo cái nhìn của Thiên Chúa, và dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng ta không ngủ mê trong bóng tối, nhưng trỗi dậy dưới ánh sáng rạng ngời của Đức Giêsu (x. Ep 5,14), Ánh Sáng cứu độ của Thiên Chúa, Ánh Sáng cứu chuộc muôn dân.

Về mục lục

CHỨNG MÙ ĐÁNG SỢ

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Có đôi mắt sáng để thấy là một điều diễm phúc để nhìn thấy bao điều kỳ diệu trong thiên nhiên. Thế nhưng, những người khiếm thị thì sao, họ cũng cảm nghiệm được khung trời bao la, những cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, những con người đáng yêu và những khuôn mặt đau khổ. Không bằng đôi mắt nhưng bằng tâm hồn cảm nghiệm nhạy bén.

Chúa mở đôi mắt cho người mù không chỉ để cho mắt sáng, nhưng chỉ ra điều quan trọng, ánh sáng xua tan bóng tối.

Dù người mù không thấy về thể lý bằng đôi mắt, thế nhưng cũng không kết luận được sự mù tối của tâm hồn và đôi khi sự mù tối về tâm hồn của người sáng mắt còn tệ hại hơn.

Người Việt thường hay nói: “Cho sáng mắt ra!” như ám chỉ đến điều ngu dại của kẻ lầm lì trong sự mờ tối của mình. Không chịu học điều khôn ngoan nơi sách thánh hiền, hoặc chịu khó học nơi người khôn ngoan, những kiến thức cơ bản thường thức. Người lười biếng thường gặp nhiều trắc trở bởi những điều khó lường trước ở tương lai.

Chúa mở cho đôi mắt.

Không chỉ người mù Chúa mở cho đôi mắt để thấy mà ngay những người có đôi mắt sáng cũng cần Chúa mở cho đôi mắt để nhận ra Chúa đang ở với họ. Như người mù thành Giêrikhô ngồi bên vệ đường hành khất, chỉ nghe người ta nói Chúa đi qua, anh Bartimê cũng nhận ra Chúa và kêu lên: “Lạy con vua Đavit xin thương xót con” (Mc 10, 47).  Anh Bartimê tuy mù nhưng nhận ra Chúa, còn những người sáng mắt đang đi bên cạnh Chúa lại không nhận ra Người.

Chúa cũng mở cho đôi mắt đố kỵ, xét đoán, kết tội người khác như những người cho rằng người mù từ bẩm sinh là do tội của cha ông để lại hậu quả. Người Việt cũng thường hay kết luận: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” hoặc “sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Một phần nào đúng thôi, còn tùy thuộc vào đời sau tránh được nhờ kinh nghiệm sống “tích đức phòng thân”. Chúa Giêsu, Người cũng mở mắt cho những người kết án oan sai cho người mù, Chúa là Đấng Messia họ trông mong đang ở giữa họ, như tiên tri Isaia đã loan báo: “Thần khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4, 18 – 19).

Chúa đi tìm kiếm con người, nhưng cũng cần con người nỗ lực đi gặp Chúa. Con người cần nỗ lực đi tìm gặp Chúa vì Chúa như đại dương mênh mông, con người ví như chiếc thuyền nhỏ, càng đi gặp Chúa càng thấy xa, càng thấy mới và đầy hấp dẫn. Chúa là Đấng lôi cuốn như nhiều người nói: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21). Ngay cả các môn đệ những người theo sát Chúa với ba năm, nhiều lần hụt hẫng vì cứ tưởng như mình nghĩ, sẽ được ngồi bên trái, bên phải, trong Nước Chúa. Cứ tưởng Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa, làm sao phải chịu bắt bớ, đánh đập và bị chết, rồi sau ba ngày sống lại. Cứ tưởng Chúa chịu chết là hết, người thì trốn chạy, người thì bỏ về quê tiếp tục nghề cũ… Chúa sống lại và mở mắt cho các môn đệ và ban Chúa Thánh Thần nội tâm hóa tất cả giáo huấn Chúa Giêsu truyền dạy. Mở lòng trí cho các ngài hiểu biết về Thánh Kinh, các lời tiên tri đã viết về Người, và làm sống lại những ký ức về Chúa, thành kinh nghiệm sống động, hoàn toàn hiến thân cho sứ mạng rao truyền Tin Mừng Chúa cho mọi người.

Xin Chúa mở cho chúng con đôi mắt, lòng trí, nhận biết Chúa và biết yêu thương anh chị em mỗi ngày hơn.

Về mục lục

ÁNH SÁNG NIỀM TIN

Bông hồng nhỏ

Ngày nào cũng vậy, anh vẫn ngồi ở đây, tai lắng nghe bao điều từ cuộc sống. Cuộc đời anh là những tháng ngày dài sống trong bóng đêm dày đặc, anh là người mù từ thuở mới sinh. Anh không thể nhìn thấy dù chỉ là một tia sáng nhỏ. Anh vẫn tin mặt trời đang chiếu sáng trên anh, anh cảm nhận được cái nóng gắt của ánh nắng mặt trời đang phả lên da thịt mình. Đôi tai anh nghe rất rõ những gì người ta bàn tán về bản thân mình, về bố mẹ mình. Người ta xem anh là kẻ có tội, là một đứa con của những người tội lỗi. Có lẽ, chẳng bao giờ, anh có thể nghe được những lời yêu thương mà người khác có thể dành cho anh.

Cho đến một ngày, anh đã gặp Người. Đó là Thầy Giêsu. Thầy Giêsu đã đi ngang qua chỗ anh ngồi và Thầy đã dừng lại. Thầy dừng lại bên cuộc đời đầy cay đắng và tủi nhục của anh, Thầy cúi xuống trên nỗi đau của anh và xoa dịu nó. Các môn đệ của Thầy thắc mắc về việc anh bị mù. Phải chăng đó là do chính tội lỗi của anh hay của cha mẹ anh (x. Ga 9, 2). Những lời ấy làm cho anh thêm tê tái, anh thấy đời mình càng thêm tăm tối và anh co mình lại trong tổn thương. Giữa nhịp sống vội vã, người ta vẫn dừng lại bên đời nhau nhưng rồi họ lại vô tình gây cho nhau những tổn thương. Cũng giống như các môn đệ, không ít lần những thắc mắc của chúng ta về những người anh chị em lại trở thành những con dao vô hình đâm nát nỗi đau của họ. Đâu mới là sự nâng đỡ mà chúng ta có thể dành cho họ? Thầy nói rằng: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội” (Ga 9, 3). Lần đầu tiên có một người lạ lên tiếng bênh vực anh. Dù anh không thấy được ánh mắt trìu mến của Thầy đang dừng lại trên anh nhưng đôi tai anh nghe rõ lời Thầy nói. Lời ấy như một dòng nước trong lành chảy vào lòng anh làm vơi đi ưu phiền. Thầy nói với các môn đệ nhiều điều, anh cũng nghe nhưng tâm trí anh đã dừng lại trên lời này: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian (x.Ga 9, 5). Ánh sáng là một điều gì đó quá xa lạ với anh nhưng cũng chính là điều anh hằng khao khát.

Đã từ rất lâu, anh ao ước được nhìn thấy như một người bình thường. Niềm khao khát ấy, anh chỉ giữ riêng trong lòng mình biết. Anh nghe tiếng Thầy nói nhưng không nhìn thấy Thầy. Thế rồi, Thầy đã chạm vào đôi mắt tật nguyền của anh. Thầy xức bùn vào mắt anh. Những đụng chạm này thật ý nghĩa, đó chính là một sự vuốt ve đầy âu yếm mà lần đầu tiên anh nhận được. Theo lời Thầy căn dặn, anh lần mò tìm đến hồ Silôác để rửa. Anh đi trong sự tối tăm của đôi mắt nhưng lòng tràn hy vọng. Hy vọng chính là ánh sáng dẫn anh bước đi. Anh đã rửa và bây giờ anh nhìn thấy. Cuộc đời của anh chưa bao giờ có được một niềm vui lớn lao như thế. Anh xúc động mạnh mẽ. Anh muốn chạy thật nhanh để báo cho cha mẹ biết, muốn hét thật to để nói cho mọi người biết rằng, anh đã nhìn thấy.

Người ta thấy anh, có người nhận ra anh nhưng có người lại ngờ vực, cho rằng đó chỉ là một người giống anh (x. Ga 9, 8-9). Còn anh thì quả quyết: “Chính tôi đây!”. Người ta thắc mắc về việc anh được sáng mắt và anh đã kể lại những gì đã xảy đến cho anh. Những người Do thái không tin lời anh nói nên cứ hỏi đi hỏi lại nhiều lần về sự việc anh đã được mở mắt như thế nào. Anh kiên nhẫn và can đảm nói rõ cho họ biết. Anh can đảm làm chứng về ân huệ mình nhận được từ vị ngôn sứ Giêsu, và cuối cùng, vì sống và làm chứng  cho sự thật, anh bị trục xuất khỏi hội đường. Anh đã lên tiếng bênh vực cho Đấng mang lại ánh sáng cho mình. Anh gặp lại Người không phải như một sự tình cờ nhưng do bởi lòng thương xót của Thiên Chúa. Thầy Giêsu hỏi anh: “Anh có tin vào Con Người không?”, anh muốn biết Đấng ấy là ai và khi biết Đấng ấy chính là Thầy Giêsu mà anh yêu mến thì anh reo lên: “Tôi tin!”, anh sấp mình xuống trước mặt Người. Hành trình đức tin của anh đã đạt đến đích điểm sau khi đã được trải qua muôn vàn thử thách. Chúng ta có mang lấy niềm vui của người được sáng mắt khi được lãnh nhận ánh sáng đức tin và sống cho niềm tin vào Chúa Kitô không?

Lạy Chúa Giêsu! Được nhìn thấy ánh sáng là một ân huệ tuyệt vời mà Chúa ban tặng cho chúng con. Hơn hết, chúng con được sống trong ánh sáng niềm tin vào Chúa. Cuộc đời chúng con vẫn dễ nghiêng chiều theo bóng tối. Có nhiều lúc, chúng con đã tự khiến mình ra mù lòa khi không đi trong ánh sáng của Chúa. Xin Chúa lôi kéo chúng con về nguồn ánh sáng tình yêu của Chúa, để chúng con được reo vui mãi vì biết rằng, chúng con được Chúa yêu thương. Amen.

Về mục lục

HÃY MỞ RA

Anna Cỏ may

Trên truyền hình, chúng ta thấy có những chương trình tư vấn, thảo luận hay bình luận như: “Hỏi xoáy đáp xoay”, “Phụ nữ và cuộc sống”…  Bên cạnh đó cũng có các cuộc thảo luận, đối thoại giữa các quốc gia, giữa các đối tác làm ăn lớn nhỏ. Đó là những chương trình, những cuộc thảo luận đưa đến lợi ích chung. Tuy nhiên, trong cuộc sống, có những cuộc tranh luận không những không mang lại lợi ích mà còn gây ảnh hưởng không tốt cho cộng đồng.

Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Ngài đã nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa”. Vậy, anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được (x. Ga 9,6-7). Mọi người láng giềng và những kẻ biết anh đã bàn luận với nhau khi nhìn thấy anh được chữa lành. Có kẻ cho rằng, đứa nào đó giống anh thôi. Họ hỏi anh: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?”. Anh trả lời: “Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: ‘Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa’. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy” (x. Ga 9,10-11). Họ liền dẫn anh đến với những người Pharisêu. Các người Pharisêu thêm một lần nữa hỏi làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy”. Họ tiếp tục tranh luận với nhau. Có kẻ nói: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ.

Sự tranh luận của người láng giềng và nhóm người Pharisêu điều xuất phát từ dán nhãn cho người khác. Những người láng giềng không đón nhận con người hiện tại của anh mà chỉ nhìn về quá khứ của anh và cho anh là một kẻ tội lỗi không đáng hưởng phúc ấy. Đối với người Pharisêu, nhiều lần họ đã có sự phản cảm về việc Đức Giêsu đã làm và muốn loại trừ Đức Giêsu từ lâu. Khi hay tin việc Đức Giêsu chữa người mù vào ngày Sabát, họ đã tìm cách để có được bằng chứng tố cáo Ngài. Tất cả mọi người đều không đón nhận sự thật là anh mù được Đức Giêsu chữa lành trong ngày Sabát. Từ đó, họ ra sức tranh luận bàn hỏi với anh và với nhau. Còn người thanh niên, sau khi được chữa lành, anh đã nói tất cả mọi sự về việc nhìn thấy và đã nhận được từ Đức Giêsu. Anh nói: “Người là một vị ngôn sứ” (Ga 9, 17) cho dù anh bị trục xuất khỏi hội đường. Nhờ hành động ấy, anh đã được gặp lại Đức Giêsu và được tăng thêm niềm tin vào Đấng ban sự sống.

Nhìn lại chính mình, mỗi người chúng ta đang rơi vào khuynh hướng bình luận người khác theo lối tích cực hay tiêu cực? Mỗi khi bình luận như vậy, chúng ta được lợi ích gì? Thường thường, mỗi người chúng ta dễ đặt người khác trong một cái khung, nhưng đó lại là cái khung quá khứ không mấy tốt đẹp. Bao lâu, chúng ta còn đóng khung người khác là bấy lâu chúng cũng đang đóng khung chính mình. Khi đã bị đóng khung, chúng ta không còn thấy gì nữa, chỉ còn lại là bóng đêm sự dữ. Chỉ khi nào chúng ta phá tan các khung hàng rào từ sự ích kỷ, thay vào đó là tình yêu thì chúng ta mới có thể nhìn thấy ánh sáng, ánh sáng Đức Giêsu.

Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ ngài đã yêu thương chúng con. Xin cho chúng con biết mở lòng và mở đôi mắt để nhìn xuyên qua khung thành mà chúng con đã dựng nên cho anh em mình, nhờ đó chúng con được thấy cái tốt đẹp của nhau, thấy Chúa trong nhau và xích lại gần nhau hơn để tất cả cùng được hưởng sự sống trong ánh sáng của Đức Giêsu suốt cả cuộc đời. Amen.

Về mục lục

CON MÙ LÒA, CHÚA LÀM CHO SÁNG

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Chay được gọi là Chúa Nhật của niềm vui, niềm vui ơn cứu độ đã gần kề. Màu sắc nào nói lên điều đó? Thưa là màu hồng. Ngoài sắc màu của phụng vụ, thì chi tiết nào trong Tin Mừng diễn tả niềm vui nữa? Xin thưa: Ánh sáng. Vâng, ánh sáng diễn tả niềm hân hoan. Chẳng hạn đang đêm cúp điện tối om, bỗng nhiên có điện lại, hẳn ai cũng vui mừng. Chính ánh sáng đã đem lại niềm vui. Cũng vậy, việc Chúa Giêsu mở mắt cho anh mù, đem lại ánh sáng cho anh, đồng nghĩa với việc Người đem lại cho anh niềm vui lớn lao. Không chỉ có một, mà cùng lúc anh có ba niềm vui.

1- Niềm vui được thấy

Từ khi mới sinh tới giờ, vì bị mù bẩm sinh, nghĩa là mù từ khi còn trong lòng mẹ, anh không có ý niệm gì về màu sắc, anh cũng chẳng hình dung được thế nào là đẹp xấu. Thế giới quanh anh chỉ là đêm tối dày đặc. Nay được Chúa làm cho sáng mắt, anh thấy được mọi sự: Thấy bầu trời bao la, thấy biển cả mênh mông, thấy cánh đồng bát ngát, thấy núi rừng trùng điệp, thấy ngàn muôn tinh tú lấp lánh, thấy sóng nước nhấp nhô, thấy hoa đồng cỏ nội xanh đỏ tím vàng… Và nhất là thấy ông bà, cha mẹ, thấy anh chị em ruột thịt, thấy bạn bè và những người thân thích. Hơn nữa, từ trước tới giờ, anh không thể soi gương được. Nay anh có thể nhìn ngắm dung nhan của mình trong gương. Anh có thể hát lên khúc hát: “Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời để nhìn đời và để làm duyên” (Ns. Xuân Hồng). Được thấy như thế làm sao anh không vui được!

2- Niềm vui được tha tội

Người Do Thái xưa thường quan niệm rằng bệnh tật, tai nạn hay thất bại, rủi ro là do tội lỗi gây nên. Con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì thế bị Người giáng phạt. Tội càng to thì bệnh càng nặng. Anh đau khổ không chỉ vì không thấy đường đi, không thấy được gì, nhưng anh còn đau khổ vì bị mọi người coi là sinh ra trong đống tội, tội ngập đầu ngập cổ nên mới bị mù từ trong lòng mẹ (x. Ga 9,34). Mặc cảm tội lỗi như một cái gông đè nặng trên cuộc đời anh, khiến anh không thể đứng thẳng lên với trời và với đời được. Đau buồn chất chồng buồn đau.

Nhưng nay, khi được Chúa Giêsu chữa sáng mắt và được Người xác nhận: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Anh và cả cha mẹ của anh hoàn toàn thoát khỏi mặc cảm tội lụy. Niềm vui của anh lúc này quả là rất lớn. Bước đi của anh nhẹ nhàng thanh thoát. Anh có thể ngẩng cao đầu mà không sợ mọi người xầm xì, chỉ trỏ. Hơn thế nữa, giờ đây anh có thể giới thiệu Chúa Giêsu với hết mọi người rằng Chúa chính là ánh sáng, như lời Người đã nói với các môn đệ: “Bao lâu Thầy còn ở với thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9,5).

3- Niềm vui được cứu độ

Được Đức Giêsu ban ánh sáng, anh mù nhận ra Đức Giêsu không chỉ là một vị ngôn sứ, một vị lương y, một đại ân nhân, mà còn là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ trần gian. Và anh đã tin thờ Người (x. Ga 9,38). Đây chính là niềm vui lớn nhất, niềm vui tràn ngập, niềm vui mà những người Luật Sỹ, Biệt Phái không có được: niềm vui được cứu độ. Tên của anh có thể giờ đây đã được ghi vào sổ hằng sống. Anh được chính thức trở thành công dân Nước Thiên Chúa. Nói cách khác, ngoài quốc tịch Do Thái, giờ đây anh còn được mang thêm một quốc tịch mới, quốc tịch Nước Trời. Còn niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui này?

Khi sinh ra, mặc dù không bị mù về cặp mắt thể lý nhưng chúng ta đã bị tội nguyên tổ làm cho đôi mắt tâm hồn ra u tối. Tuy nhiên, qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được Chúa Giêsu mở mắt tâm hồn, mắt đức tin để nhận biết Chúa qua các công trình sáng tạo của Người; chúng ta được tẩy xoá mọi vết nhơ tội lỗi, được giải thoát khỏi vòng nô lệ của ma quỷ, nhất là được nhận biết Chúa chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ mọi loài.

Tâm tình của chúng ta lúc này phải là tâm tình tạ ơn Chúa vì những hồng ân mà Người đã tặng ban: hồng ân đức tin, hồng ân cứu độ. Đồng thời, chúng ta hãy vui mừng hân hoan vì chúng ta được Chúa yêu thương và cứu chuộc. Đặc biệt chúng ta hãy quyết tâm không để cho những thói hư tật xấu, những tội lỗi riêng làm cho cặp mắt tâm hồn của mình trở nên lu mờ tăm tối.

Xin Chúa giúp chúng ta thực hiện được quyết tâm này. Amen!

Về mục lục

ÁNH SÁNG ĐỨC TIN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trong những ngày này, cả thế giới đang lao đao vì những con virus Corona bé xíu. Số nạn nhân tăng luỹ tiến từng ngày khiến tất cả thế giới ít nhiều đều cảm thấy sợ hãi. Mọi lĩnh vực trong cuộc sống đều bị con virus nhỏ nhoi này làm tổn hại, đến độ có thể phá sản. Ngay cả lĩnh vực tôn giáo cũng không ngoại lệ. Các nhà thờ phải đóng cửa… Không một người vô tư nào có thể không cảnh giác và không thực hiện những biện pháp phòng ngừa để bảo vệ mình và người thân trước nguy cơ bị lây nhiễm.Từ cái ngày mà Covid-19 đi vào đời sống của con người cho tới nay, không biết rõ bao nhiêu người đã tử vong vì nó, bao nhiêu người đã chết ở các bệnh viện, và bao nhiêu người đã qua đời ở bên ngoài kia. Những điều tra và nghi vấn có thể sẽ chấm dứt khi thời gian trôi đi, và sẽ mãi là bí ẩn không lời giải?

  1. Dịch virus Covid-19 có phải là dấu chỉ thời đại ?

Nếu đọc qua những lá thư của Giáo Hội liên quan đến lần đại dịch này, chúng ta dễ dàng nghe được những lời mời gọi nguyện cầu và trở về với Thiên Chúa. Nhất là mùa dịch đang diễn ra trong Mùa Chay, lời gọi ấy lại càng thống thiết hơn. Hẳn nhiên, đó luôn là sứ mạng của Giáo Hội, để giúp con người trung tín vào Thiên Chúa. Trong cảnh dịch lan tràn như hiện nay, Giáo Hội càng nhìn thấy nơi đó một dấu chỉ lớn lao. Vì trong đau khổ và nghịch cảnh, một mặt người tín hữu dễ phớt lờ tiếng nói của Thiên Chúa trong biến cố này; mặt khác, Giáo Hội luôn giúp con người trở về với Thiên Chúa. Hoặc nói như Clive Staples Lewis: “Thiên Chúa thì thầm trong những lúc ta vui, Người thì thầm trong lương tâm ta. Nhưng Người nói lớn mạnh trong những đau khổ của ta. Những đau khổ đó là cái loa tăng âm để làm thức tỉnh một thế giới ngủ mê.” (x. Youcat số 51).

Chắc chắn virus Corona đang ảnh hưởng không chỉ đến tính mạng nhiều người, nó còn tác động đến hầu hết khía cạnh của đời sống. Có người ví đó như cuộc chiến tranh mà toàn thế giới phải chống chọi. Mỗi tín hữu cũng không miễn nhiễm với con virus này. Cứ nhìn thành đô Rôma tráng lệ, đông đúc người hành hương, thì trước virus Corona, mọi chương trình, thánh lễ công cộng đều tạm ngưng. Điều ấy có nghĩa là người ta đang có biện pháp cực mạnh để hy vọng ngăn ngừa được sức công phá của virus.

Trong bầu không khí ấy, dĩ nhiên, Giáo Hội thấy được nỗi đau đớn, hoảng sợ của người dân. Giáo Hội thấy nơi đó một lời mời gọi để con người cần hoán cải, sám hối và ăn năn nhiều hơn. Giáo Hội đang tiếp tục lắng nghe tiếng Chúa trong những biến cố của thế giới, nhất là lần đại dịch này. Phải chăng Thiên Chúa muốn nhắc cho con người về thân phận mỏng dòn, mong manh và phải chết ? Phải chăng con người toàn năng có thể làm được mọi thứ, có thể tiêu diệt được địch thù đang tấn công nhân loại ? Phải chăng virus Covid-19 là hệ quả của những lầm lạc và kiêu ngạo của con người ? Hình như con người chia phe nhóm đấu đá, đến nỗi hậu quả là chết chóc tang thương ? Hoặc là, virus này khiến thế giới bừng tỉnh về một viễn tượng thiên đường do chính con người có thể tạo nên bằng quyền lực, tranh giành và cố chấp ? v.v.

Danh sách câu hỏi trên đây có thể dài vô tận mà mỗi người có thể đặt ra trước con virus này. Đừng quên, Giáo Hội luôn nhớ sứ mạng của mình là chăm chú tìm kiếm, lắng nghe, khám phá tiếng nói, cũng như hoạt động của Thiên Chúa trong dòng lịch sử qua những dấu chỉ thời đại. Sẽ không thừa khi Giáo Hội thống thiết nhắc con cái mình về một dấu chỉ đang diễn ra trước mắt chúng ta. Đó là thời cơ để con người khiêm tốn hơn, nhìn nhận thân phận và vị trí của mình trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa. (x.Dịch virus Covid-19 có phải là dấu chỉ thời đại ? Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J; dongten.net).

Giờ đây, bất lực trước Corona, người ta mới thấy chốn nương tựa duy nhất của mình chỉ có thể là Thiên Chúa. Tất cả mọi tín đồ đều ngước nhìn về Thần Linh của mình, xin ơn khoẻ mạnh, bình an, xin cho các nhà khoa học sớm tìm ra thuốc chữa trị.

  1. Hậu quả do tội của anh ta hay cha mẹ anh ta?

Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, các môn đệ có cuộc tranh luận với Đức Giêsu: Lý do nào dẫn đến nỗi đau của anh mù? Đó là hậu quả do tội của anh ta hay cha mẹ anh ta?

Đức Giêsu bác bỏ quan niệm của những người đương thời và cũng có thể là của một số trong chúng ta: anh ta không phải bị phạt vì đã phạm tội. Đức Giêsu không đưa ra một lời giải thích cho tất cả sự ác trên thế giới. Thay vào đó, Người lại nhắm đến những nhu cầu của người thanh niên đang đứng trước mặt mình. Việc anh mù được chữa lành biểu lộ sự hiện diện năng động của Thiên Chúa trong thế giới này. “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”.

Cha mẹ anh ta và cả những người láng giềng cùng những người Pharisêu đều đã không “nhận ra” công trình của Thiên Chúa được bày tỏ qua việc anh được chữa lành. Họ không trông thấy những điều Thiên Chúa đã thực hiện. Và anh mù cũng không hiểu ngay được rằng điều gì đã xảy ra cho mình. Anh dần biết rõ về Đức Giêsu sau khi bị các nhà cầm quyền liên tục chất vấn, và sau đó cuộc trò chuyện với Đức Giêsu đã cho anh được “sáng mắt”.

Đức Giêsu đã trông thấy và dừng lại trước “người mù từ thuở mới sinh”. Người không những chữa lành cho anh, mà sau đó còn đi tìm kiếm anh, trò chuyện với anh và đưa anh tới đức tin. Khi chữa cho anh mù được sáng mắt, Đức Giêsu đã cho anh bước những bước thật dài trên hành trình đức tin. Nhờ vậy, từ sự yếu kém ở chỗ chỉ coi Đức Giêsu như một con người bình thường, trải qua bao khó khăn thử thách, đức tin của anh đã tiến triển không ngừng và đạt đến mức thập toàn khi xác tín rằng Đức Giêsu là vị ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến, và là Con Người.

  1. Ánh Sáng Đức Tin

Trong thông điệp “Ánh Sáng Đức Tin”, Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành ngày 29.6.2013, có đoạn: “Đức tin như một thính giác và thị giác” gồm ba số 29, 30, 31. Đức tin là một hồng ân siêu nhiên Chúa ban cho con người. Đức tin trở thành ánh sáng hướng dẫn suốt hành trình cuộc đời mỗi người. Người “mù từ thưở mới sinh” đã nghe thấy, rồi cảm thấy Đức Giêsu và đã được Chúa mở mắt để anh ta nhìn thấy và tin vào Người.

“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Đức Giêsu là ánh sáng, Người thi hành sứ vụ trong thế gian bằng lời nói và việc làm của mình. Người mời gọi thính giả và độc giả “làm sự thật” và “đến với ánh sáng”, “đi theo” Người  để “không bước đi trong bóng tối”  và “có ánh sáng của sự sống”. Đức Giêsu đề nghị với đám đông bước đi trong ánh sáng khi ánh sáng còn ở giữa họ. Người mời gọi họ “tin vào ánh sáng” để “trở nên con cái ánh sáng”. Như thế, người tin vào Đức Giêsu thì không ở lại trong bóng tối. Đức Giêsu nói đến những ai “thấy ánh sáng của thế gian này” thì không vấp ngã, còn những ai “ánh sáng không ở trong người ấy” thì vấp ngã (Ga 11,9-10). Nghĩa là “thấy Đức Giêsu” và “có Đức Giêsu ở với mình” thì sẽ vững vàng tiến bước trong ánh sáng của sự sống.

Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin.

Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Ðức Giêsu là một ngôn sứ. Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng. Ðức Giêsu đem lại ánh sáng cho người mù, còn những kẻ vốn nhìn thấy lại trở nên đui mù. Trước sự chống đối của người Pharisêu, Đức Giêsu trả lời: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn”.

Cầu nguyện

“Lạy Chúa là ánh sáng muôn đời… xin rộng ban ân sủng làm cho tâm hồn chúng con được bừng sáng huy hoàng, để chúng con hằng biết suy tưởng những điều đẹp lòng Chúa, và chân thành yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn” (lời nguyện nhập lễ)

Lạy Chúa, xin ban thêm ánh sáng đức tin cho chúng con : “Để trong hoàn cảnh thuận lợi hoặc khó khăn, khỏe mạnh hay dịch bệnh, Giáo Hội, Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi mỗi người chúng con nhạy bén nhận ra dấu chỉ thời đại. Nó đang diễn ra trước mắt chúng con. Ước gì mỗi người chúng con luôn lắng nghe được tiếng nói của Chúa Thánh Thần đang lớn tiếng trong cơn dịch này”.

Lạy Chúa, xin ban thêm ánh sáng đức tin cho chúng con; dể con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt ; để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên, để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen

Về mục lục

ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI

Lm. Thái Nguyên

Suy Niệm:

Qua việc chữa lành người mù, thánh Gioan mở ra cho ta biết Đức Giêsu là ánh sáng thế gian, ánh sáng cứu độ. Tuy nhiên, con đường tiếp nhận ánh sáng đó là một hành trình đức tin, đầy cam go và thử thách, giữa cuộc đời đầy phức tạp và nhiễu nhương do lòng người, đầy những ảnh hưởng của sự dữ do ma quỉ.

Kinh nghiệm thiêng liêng cho chúng ta thấy, nhiều khi mình rất sáng mắt nhưng không sáng lòng; thấy sự việc nhưng mà không thấy sự thật. Lý do có thể là mình bị đóng khung và cứng đọng theo một lối sống bó hẹp, hay một lề thói suy tư chỉ dựa vào luật lệ và đạo đức bên ngoài. Lý do khác nữa là vì tự ái, vì thành kiến, vì quyền hành, danh giá, nhất là vì ghen ghét mà ta muốn suy diễn khác đi.

Đó cũng là tính cách của nhóm Biệt phái trong bài Tin Mừng: họ không muốn coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, vì điều đó đòi họ phải thay đổi suy nghĩ và lối sống đạo, thay đổi bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin theo Ngài. Vì thế, họ chống trả quyết liệt, và còn tự phong cho mình là người hiểu biết và đạo đức.

Vấn đề ở đây không còn là tiếng nói của sự thật, mà là tiếng nói của những kẻ có quyền. Sự kiêu hãnh và quyền hành đã khiến họ khép lại, không chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối. Đây là thứ mù lòa tinh thần, không chấp nhận thực tế về bản thân và tha nhân, tìm cách né tránh sự thật và không muốn nghe ai. Trên phương diện đức tin có khi ta giống như người Biệt phái, từ ánh sáng lại rơi vào bóng tối, không còn khả năng để dẫn lối cho ai.

Anh mù vừa được sáng mắt, đang hớn hở vui mừng thì bao nhiêu thử thách lại ập tới. Người ta nghi ngờ anh, soi mói anh, gây khó khăn và đe dọa đời sống anh, ngay cả cha mẹ anh cũng không dám can dự vì sợ liên lụy. Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo, là những người dạy dỗ, hướng dẫn, và là mẫu gương sống đức tin cho dân Chúa. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi, họ tố cáo Đức Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat, và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường.

Anh ta đau lòng, tủi hổ và cảm thấy cô đơn hoàn toàn, quả là một thử thách ghê ghớm. Để giữ vững niềm tin, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Để sống cho sự thật anh chấp nhận bị loại trừ. Đúng lúc đau đớn nhất, Chúa Giêsu đã xuất hiện để nâng đỡ anh, Ngài đã tỏ mình cho anh. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin.

Hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng không thiếu những gian nan thử thách. Đức tin Chúa ban cho ta giống như viên ngọc quí, nhưng “ngọc bất trác bất thành khí”.

Mùa chay là cơ hội làm sáng lên đức tin, một đức tin có thể còn mù mờ và bị bao phủ bởi nhiều bóng tối: bóng tối của lòng mình, bóng tối của anh chị em mình, bóng tối ngay trong Giáo hội, bóng tối của một xã hội đang bị tha hóa về mọi mặt, nhất là tinh thần đạo đức đang bị xuống cấp trầm trọng. Chúng ta hãy vững tâm và kiên trì, vì Chúa đang đón đợi mỗi người chúng ta trên từng chặng đường và từng biến cố lớn nhỏ, để an ủi, nâng đỡ và làm sáng lên cuộc đời ta.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Đời người là một hành trình vượt qua bóng tối,
để vươn tới ánh sáng chân lý và tình yêu.

Ánh sáng là sự thuần khiết của tâm hồn,
là sự thanh khiết của một tính cách,
là sự tinh khiết của một phẩm hạnh.

Trong ánh sáng nhiệm mầu của Thiên Chúa,
chúng con trở nên ánh sáng cho trần gian,
và đạt tới Ánh Sáng là chính Đức Giêsu.

Ánh sáng Chúa chan hòa khắp chốn,
không chỉ chiếu soi, thanh luyện,
nhưng còn chữa lành, gia tăng sức sống,
và thần hóa tất cả những ai tin vào Ngài.

Thế nhưng thế giới vẫn còn đầy những bóng tối,
bóng tối của sự dữ gieo rắc bao nhiêu là tội lỗi,
bóng tối của gian dối, hận thù, ích kỷ, kiêu căng…
bóng tối của nhập nhằng chẳng biết đâu hư thực.

Bóng tối làm con lo sợ và nao núng,
vì thấy sự ác luôn thao túng hoành hành,
không còn thấy sự hiện diện tốt lành của Chúa,
làm cho bao người cũng héo úa niềm tin.

Cũng như các tông đồ xưa trước bão giông,
thấy Chúa bất động trong cơn biến động,
nhưng đó cũng là một cách Chúa hành động,
tạo nên một chuyển động trong lòng các ông.

Xin cho con cứ an tâm dù ánh sáng không còn,
nhưng còn tay Chúa luôn che chở và nâng đỡ,
ánh sáng ấy chỉ ẩn khuất để lòng thêm khao khát,
để con biết phó thác mà không sợ trước nguy nan.

Xin cho con đừng để thời gian trôi đi trong bóng tối,
mà luôn thắp sáng tình yêu để dẫn lối đưa đường,
không chán chường dù gặp cảnh đau thương,
dù lòng người đã khép lại nhưng lòng con vẫn mở,
để khi gặp Chúa càng hớn hở mừng vui. Amen.

(Trích sách: Lời nguyện của người trẻ, số 47)

Về mục lục

MÙ MỜ

Lm Vũđình Tường

Mù mờ diễn tả hoàn cảnh không nhìn thấy gì hoặc nhìn không rõ, hình ảnh mờ mờ, ảo ảo. Đức Kitô mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh nhìn thấy ánh sáng. Mở mắt sáng cho anh, Đức Kitô cho biết không phải do tội mà là nguyên nào khác gây nên, làm cho em nhỏ bị tật bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Ngài. Chính em hay cha mẹ em phạm tội khiến cho em bị tật mù bẩm sinh? Các môn đệ mắt sáng nhìn thấy điều trước mắt là người mù từ lúc mới sinh; Đức Kitô nhìn thấy điều các môn đệ không nhìn thấy khi Ngài hướng dẫn các ông hiểu thêm hơn về lòng Chúa xót thương nhân loại. Ngài nói với các ông:

Không phải em, cũng không phải cha mẹ em, nhưng qua bệnh tật của em lòng Chúa xót thương được sáng tỏ hơn (c.3).

Khi nói điều đó Đức Kitô còn cho biết công việc của Ngài và công việc của Chúa Cha là một. Ngài là ánh sáng cho trần gian. Qua Ngài tình yêu và ân sủng Chúa đong đầy cho những tâm hồn chân thành đón nhận Ngài. Có rất nhiều giải thích về đau khổ, và giải thích nào xem ra cũng có vẻ thích hợp. Lời giải thích thích hợp thường thích hợp cho hoàn cảnh hiện tại, mà không thích hợp cho hoàn cảnh khác. Nó càng không phải là câu trả lời thích hợp cho mọi đau khổ. Đức Kitô không giải thích đau khổ từ đâu đến. Ngài cho biết đứng trước đau khổ, con người có chọn lựa. Hoặc tự quyết lấy hoặc nương tựa vào lòng Chúa xót thương. Những ai nương tựa vào lòng Chúa xót thương, họ đau khổ trong hy vọng, bởi có ơn Chúa trợ giúp. Những ai tự quyết họ đau khổ trong tuyệt vọng. Chối bỏ đau khổ, đau khổ càng tăng. Cho người mù mắt sáng Đức Kitô làm tròn điều tiên tri Isaiah tiên đoán nhiều năm trước về Ngài

‘Mở mắt cho người mù, giải thoát kẻ bị giam cầm và những ai sống trong bóng tối sẽ nhìn thấy ánh sáng Is 42,7.

Dùng nước miếng trộn đất bùn chữa mắt người mù Đức Kitô nhắc công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Trường hợp này được hiểu Đức Kitô ban cho anh một đời sống mới, tái tạo cuộc sống mới cho người mù. Thiên Chúa tạo dựng Ađam bằng đất. Ađam nhìn thấy Chúa trước khi nghe tiếng Ngài. Người mù Đức Kitô mở mắt sáng lại nghe được lời Đức Kitô trước khi xem thấy Ngài. Để được mắt sáng anh cần nghe theo lời Ngài hướng dẫn. Đi rửa tại hồ Siloam. Hành động đi và rửa tại hồ Siloam diễn tả một hành động trong bí tích Rửa Tội ngày nay Giáo Hội đang thực hiện. Hình ảnh nước cũng nhắc nhở điều Đức Kitô nói với người phụ nữ thành Samarita tại bờ giếng. Ngài là nước hằng sống.

Nhìn thấy sự thật, người mù trở thành nhân chứng cho sự thật, nhân chứng luôn bị cật vấn, nhân chứng cho Đức Kitô thường gặp chống đối, bắt bẻ bởi thế lực tối tăm. Chọn lối sống tối tăm là chọn sống trong bóng tối. Bóng tối luôn sợ ánh sáng và sống trong tối tăm thường nhìn sự vật mờ mờ, ảo ảo. Nhóm lãnh đạo Pharasiêu thẩm vấn người mù. Anh thành tâm đáp Đức Kitô cho anh mắt sáng, còn Ngài từ đâu đến thì anh không rõ. Câu trả lời thành thật và khiêm nhường kia hoàn toàn trái nghịch với thái độ kênh kiệu, ta đây, của nhà lãnh đạo. Họ tự nhận họ nhìn thấy nhưng thực ra họ không nhìn thấy. Họ tự nhận họ biết tất cả nhưng thực ra họ không biết nhiều như họ nghĩ họ biết. Mù mà biết mình mù thì đáng thương. Mờ mà không biết mình mờ thì đáng ngại bởi họ sẽ là nguyên nhân gây đau khổ cho người khác. Lãnh đạo Pharasiêu không nhận biết Đức Kitô là Thiên Chúa bởi tính tự kiêu, tự đại che mờ mắt họ. Họ không mù nhưng mờ. Điều này thể hiện rõ ràng khi họ kết án Đức Kitô là không tuân giữ luật ngày hưu lễ. Chính họ ngồi toà xét xử trong ngày hưu lễ thì sao? Có phạm luật chăng? Bởi mù mờ họ không nhìn thấy điều đó. Nhóm này ép buộc người mù vào phe cánh họ. Anh từ chối nên bị họ điệu đi điều tra, thẩm vấn nhiều lần đến độ anh phát cáu nói các ông muốn tin theo Đức Kitô thì đi theo Ngài, hỏi mãi làm chi. Họ đáp, anh mù vì tội của anh, còn chúng tôi vô tội. Không lôi cuốn được anh họ đuổi anh ra khỏi hội đường, và họ tiến đến áp đảo cha mẹ anh. Bởi không cảm nhận được lòng Chúa xót thương, hai ông bà sợ hãi chỉ dám xác nhận. Nó là con chúng tôi, bị mù từ bẩm sinh, còn làm sao nó mắt sáng thì nó lớn rồi, đi hỏi nó. Hai ông bà nói thế vì sợ bị trục xuất khỏi hội đường. Anh mù hoàn toàn tin tưởng vào Đức Kitô, anh dõng dạc tuyên bố, Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa bởi lòng xót thương Ngài diễn tả điều đó. Đến lúc này nhóm Pharasiêu chia rẽ trong bọn. Người thì hỗ trợ, cổ võ, điều anh mù xác định Đức Kitô đến từ Thiên Chúa; số còn lại kết án Đức Kitô là kẻ tội lỗi vì vi phạm luật ngày hưu lễ. Được sáng mắt, cuộc sống anh mù vẫn không hết khó khăn. Khi còn mù, đi ăn xin, người ta coi thường anh. Giờ mắt sáng, anh trở thành tâm điểm của điều tra, thẩm vấn. Bị điều tra thẩm vấn, anh không sợ bởi đây là cơ hội cho anh nói lên sự thật, nói điều anh thầm nghĩ bấy lâu mà không có ai nghe, không ai để í, nay điều anh nói được mọi người nghe, mọi người để í vì thế anh lớn tiếng nói lên sự thật về Đức Kitô. Dù gặp khó khăn, đau khổ, anh vững tâm làm chứng cho Ngài. Đức Kitô biết anh bị trục xuất khỏi hội đường, Ngài đến gặp anh, hỏi han. Anh xin Ngài cho anh biết Ngài là ai? Đức Kitô cho biết Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Anh mù đón nhận Ngài, tin theo và tôn thờ Con Thiên Chúa hằng sống.

Về mục lục

HÃY ĐỂ ĐÔI MẮT ĐƯỢC THẮP SÁNG

Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng

Người được Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt trong Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay là “người mù từ thuở mới sinh”. Thái độ của anh đối diện với Chúa, với dấu lạ Chúa ban cho anh có nhiều biến đổi:

1. Khởi đầu, khi bị điều tra, anh nói về Chúa quá mơ hồ: “Người có tên là Giêsu trộn một chút bùn và xức vào mắt tôi” (Ga 9, 11). Anh chưa có thể nói thêm bất cứ kinh nghiệm hay cảm nghiệm nào của chính anh về Chúa.

2. Về sau, càng lúc anh càng thấm thía ân huệ mà mình đã nhận được, nhất là khi so sánh thái độ đố kỵ, hung hăng của những người có trách nhiệm khi đối diện với sự thật anh được chữa lành, cõi tâm hồn anh càng lúc càng biến đổi, càng lúc càng nhận ra Chúa. Anh khẳng khái nói về Chúa Giêsu: “Người là một vị ngôn sứ” (Ga 9, 17).

Anh dám phản biện những lời kết án Chúa Giêsu là người tội lỗi: “Ông ấy có phải là người tội lỗi không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được” (Ga 9, 25).

Khi bị tra khảo dồn dập, người từng bị mù còn dám trêu những kẻ đang đe dọa mình: “Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?” (Ga 9, 27).

Càng lúc thái độ của anh càng mạnh mẽ. Anh cho thấy đức tin của mình vào Chúa Giêsu thật lớn, thật can đảm. Anh tuyên bố trước mặt những kẻ nắm quyền hành trong thế gian: “Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 31-33).

Hóa ra trước dấu lạ của Chúa, người mù không chỉ đã được sáng đôi mắt. Anh còn sáng cả tâm hồn, sáng cả một đức tin thật kiên cường.

Còn những kẻ chưa bao giờ mù đôi mắt, những kẻ cứ tưởng mình thật sáng suốt vì nắm giữ truyền thống tôn giáo lại là kẻ đui mù. Nguy hiểm và thật đáng sợ vì đây là sự đui mù về tâm linh, về nhận thức chân lý, về sự sống của đức tin.

1. Hành trình đức tin của người mù được chữa lành là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của từng người. Chúng ta cần trưởng thành mỗi ngày một hơn trong hành trình sống của mình.

Nhất là những lúc đối diện với nguy nan, thử thách, đối diện với những ai tấn công đức tin của mình, chúng ta càng phải mang trong tâm tư một tư thế của người hãnh diện về đức tin, một tư thế của người luôn xác tín: Chỉ một mình đức tin vào Chúa Giêsu mới là tất cả.

2. Cả thái độ ngạo mạn, kiêu căng của những người bị mù tối tâm hồn cũng thành bài học kinh nghiệm cho chúng ta.

Hãy nhìn vào đó để luôn khiêm nhường nhận ra Chúa, thờ lạy Chúa trong bất cứ những điều tốt đẹp nào, nếu nó mang lại giá trị thiêng liêng cho linh hồn.

Hãy loại khỏi trái tim những đố kỵ, thù hằn, ganh tỵ, ganh ghét, để con mắt tâm hồn được sáng mà nhận ra những huyền nhiệm của Thiên Chúa trong cõi đời, và trong từng hoàn cảnh của đời sống.

Hãy sống có tình người để có thể yêu cái đáng yêu của người khác, cảm thông cái khó khăn của người khác, vui mừng với cái tốt mà người khác có được, hạnh phúc trong niềm hạnh phúc của người khác, đau trong cái đau của người khác, khóc hay cười trong tiếng khóc hay nụ cười của người khác…

Dù bất cứ hoàn cảnh nào, hãy để đôi mắt được thắp sáng.

Về mục lục

MỘT THỨ MÙ ĐÁNG SỢ

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 Hoàn cảnh người mù từ lúc mới sinh được Chúa Giê-su chữa lành mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay, khiến người ta liên tưởng đến chứng mù khác đáng sợ hơn nhiều. Đó là chứng mù con mắt lương tri, mà tiêu biểu nhất là “mù-tội”, nghĩa là không thấy được những sai lầm và tội lỗi của mình.

Biểu hiện rõ nét nhất của chứng “mù-tội” là người ta không thấy được tội mình, do đó chẳng hối hận và cũng chẳng hề tự trách mình.

Ông Dale Carnegie, (1888-1955) một nhà văn và nhà thuyết trình danh tiếng người Mỹ, viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, cho rằng: “Tôi phải mất 33 năm trời để khám phá ra sự thật này là cho dù người ta có mắc phải những lầm lỗi nặng nề đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người ta chẳng trách mình gì cả,[1]” như thể mình vô tội.

Ngay cả vua Đa-vít, một vị vua tài ba đức độ của người Do-thái, cũng mắc phải chứng “mù-tội” này.

Vua mê đắm nhan sắc của bà Bát-sê-ba, bà này là vợ của U-ri-a. Vua chiếm đoạt bà, rồi mượn tay quân giặc giết chồng bà là U-ri-a ngoài mặt trận. Sau đó, vua đón bà về cung làm vợ chính thức của mình ( II Sam 11 và 12).

Vua Đavít đã phạm một tội to như núi như thế mà vẫn ung dung như thể mình chẳng phạm tội gì.

Thế nhưng, khi nhà vua nghe ngôn sứ Na-tan cho biết có một ông nhà giàu có nhiều dê cừu, sai tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của một ông lão nghèo bên cạnh để làm tiệc đãi khách, thì vua bừng bừng nổi giận và lên án người đó cách gắt gao.

Chua chát thay, vua Đa-vít thấy rõ tội nhỏ của người ta mà không thấy thứ tội tày trời của mình. Vua lên án tội nhỏ của người khác mà bao che tội ác to lớn của mình.

Người đời như thế đấy, tội mình to như núi, mình không thấy; tội người ta chỉ bằng viên sỏi, thì thấy rõ ràng.

Đúng như lời Chúa nói: Các ngươi thấy rõ “cọng rác trong con mắt của người khác, mà cái xà ngang trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Mt 7,3).

Chứng “mù-tội” vô cùng tai hại

Chứng “mù-tội” gây ra hậu quả tai hại ngàn lần hơn là mù mắt, vì hầu hết những người mù mắt đều tốt lành thánh thiện, chẳng làm gì nên tội, trong khi đó, người “mù-tội” thường gây ra nhiều tội ác. Họ gây nhiều tội ác vì họ không thấy tội lỗi của mình và dù có thấy, họ cũng cho là chuyện nhỏ, chẳng lớn lao gì.

Chứng “mù-tội” rất khó chữa

Sở dĩ khó chữa là vì người ta không nhận ra sai lầm và tội lỗi của chính mình. Không thấy mặt minh dơ thì người ta không cần rửa mặt; không thấy áo quần bẩn thì chẳng cần phải đổi thay; không thấy bản thân mình lầm lỗi thì cần gì phải ăn năn hối cải. Thế là người ta đắm chìm trong tội suốt đời.. Vì thế, đây là một chứng bệnh rất khó chữa.

Như vậy, mù không thấy được tội lỗi và tính xấu của mình là một chứng mù đáng sợ và tai hại khôn lường, vì thế phải lo cứu chữa ngay đừng trì hoãn.

Lạy Chúa Giê-su,

Sứ mạng của Chúa khi đến trần gian là “làm cho người mù được sáng” (Lc 4,18) và Chúa đã thực thi sứ mạng này bằng cách mở mắt cho nhiều người mù từ lúc mới sinh, cũng như khai tâm cho nhiều người để họ nhận biết và sống theo giáo huấn của Chúa.

Xin dủ lòng thương xót, mở mắt tâm hồn, mở mắt lương tri cho chúng con, để chúng con nhận ra những sai lầm, những tội lỗi và những thói hư mà chúng con vấp phạm hằng ngày, đồng thời xin giúp chúng con kiên quyết ăn năn chừa tội hầu xứng đáng là con của Cha trên trời.

Về mục lục

MÀU HỒNG CỦA CHÚNG TA

Lm. Bosco Dương Trung Tín

    “Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhận thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3).

  Khi thấy một người mù tự khi mới sinh, các môn đệ hỏi Chúa, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? (x. Ga 9,2). Thường thì chúng ta cũng vậy, khi thấy người khác bị bệnh này tật kia hoặc bị những thất bại hay khốn khó gì là chúng ta lên tiếng, tại sao anh ta, chị ta lại bị như vậy; có phải vì họ hay cha mẹ họ đã ăn ở thất đức chăng?

   Câu trả lời của Đức Giê-su đã rõ ràng:  “Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhận thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Như thế, chẳng phải họ hay cha mẹ họ ăn ở thất đức, bệnh này tật kia là do con người chúng ta không ăn uống điều độ và không lo cố gắng sống cho tốt thôi. Còn thất bại, khốn khó ai mà chẳng có.

   Có thể nói, việc mù bẩm sinh, tức là không do con người tác động, thì sẽ cho thấy “công trình của Thiên Chúa”; còn những việc do tác động của con người thì sẽ cho thấy “công trình của con người” chúng ta có giới hạn thế nào. Con người không làm chủ được vận mệnh của mình. Con người không làm bá chủ được thế giới. Ngay con vi rút nhỏ xíu thế mà còn chưa tiêu diệt được nữa mà !!!!

    Ví dụ như do nhiễm chất độc màu da cam, những trẻ được sinh ra sẽ bị dị dạng không như trẻ bình thường; hoặc thực tế ngày nay là đại dịch vi rút Co-ro-na đã lan tràn khắp thế giới, gây thương vong và ảnh hưởng rất lớn cho đời sống mọi người. Điều đó cho thấy, con người ngày nay được cho là phát triển tột bậc, chế tác được đủ mọi thứ, thế mà đã không ngăn nổi đại dịch. Như thế cũng cho thấy rõ “công trình của con người” là như thế nào.

   “Công trình của Thiên Chúa” là công trình cứu độ; là chiếu sáng, đem lại ánh sáng cho con người. Không chỉ là ánh sáng bình thường mà là ánh sáng vĩnh cửu, ánh sáng của Thiên Chúa.

   Do đó, chúng ta hãy bỏ đi những ý nghĩ không chính xác khi nhận xét về người khác. Có khi do người đó thật hay do cha mẹ người đó mà ra, dù vậy chúng ta cũng không nên có những ý nghĩ như vậy. Tại sao? Vì chưa chắc chúng ta đã tốt hơn người khác; coi chừng chúng ta hay con cái chúng ta cũng bị bệnh này tật kia hay bị thất bại, gặp khốn khó thì sao? Hay lúc đó, chúng ta lại lươn lẹo, lấp liếm, lấy lý do này lý do kia để biện hộ.

   Như có người thấy mình được điều xa để làm việc thì nói là mình được “biệt phái” đi, tức là được phái đi cách đặc biệt; còn người khác sau đó cũng được điều đi đến đó thì lại nói là “bị đì”. Thế là thế nào? Đúng là “biệt phái Pha-ri-siêu” không hơn không kém. Những người Biệt phái Pha-ri-siêu thấy Đức Giê-su chữa lành người mù thì cảm thấy không vui, nên tìm cách chất vấn Đức Giê-su, cha mẹ và cả người mù nữa.

    Họ cho rằng Đức Giê-su khi chữa lành người mù đã vi phạm ngày Sa-bát. Vì Đức Giê-su lấy bùn xức vào mắt người mù như thế là giống như “xây nhà” rồi. Còn người mù thì đi rửa mắt. Thành thử cả hai đều vi phạm ngày Sa-bát. Trọng tâm của cuộc tranh luận vẫn là Đức Giê-su. Đức Giê-su là ai?

   Trong nhóm biệt phái, có người nói : Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì đã không giữ ngày Sa-bát. Còn người khác thì nói : Một người tội lỗi sao có thể làm được dấu lạ như vậy (x.Ga 9, 16).

   Người mù thì nói: “Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lời kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì” (x.Ga 9, 31-33).

   Vậy thì ai sáng hơn ai? Chính vì sự kiêu ngạo và vị luật mà những người Pha-ri-siêu đã không nhận ra Đức Giê-su là người của Thiên Chúa; cũng không nhận ra công trình của Thiên Chúa; còn người mù thì lại nhận ra.

  Đức Giê-su nói : “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy và cho người xem thấy lại nên đui mù” (x.Ga 9,39). Nghe vậy, họ lên tiếng : “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao? Đức Giê-su bảo họ : “Nếu các ông đui mù thì các ông chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: Chúng tôi thấy, nên tội của các ông vẫn còn”(x. Ga 9, 40-41).

   Chúng ta có thể diễn dịch lại như sau cho dễ hiểu. Sự xét xử của Đức Giê-su là người tự cho mình sáng là mù và người bị mù là sáng. Nếu ai tự nhận mình là người mù, thì tội sẽ được tha; còn ai tự nhận là sáng, là tốt lành, thánh thiện, thì tội người đó không được tha.

   Thế đấy, thà nhận mình là người yếu đuối, hèn mọn, tội lỗi, bất toàn, bị đui mù đi, còn hơn là cho mình tốt lành, thánh thiện mà mắc thêm tội. Cái tội không biết; cái tội kiêu ngạo; cái tội khinh khi người khác; cái tội cho mình là hay, là giỏi, là sáng, là khôn.

   Qua Lời Chúa hôm nay, Chúa dạy chúng ta hãy nhận biết mình là người yếu đuối, giới hạn, bất toàn; đừng bao giờ cho mình hay, mình giỏi, mình tốt lành, mình thánh thiện hơn người khác.  Điều chúng ta cần làm đó là “những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (x. Ep 5,9).

   Thánh Phao-lô nói : “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (x.Ep 5,8-9). Nói cách khác nếu chúng ta cho mình là SÁNG thì chúng ta phải sống lương thiện, không sống lươn lẹo; phải sống công chính, không sống bất công và bất chính; phải sống chân thật, không sống giả hình, giả trá.

   Vậy, chúng ta hãy noi gương người mù từ lúc mới sinh hôm nay, mà tin vào Đức Giê-su và thực hành điều Đức Giê-su dạy, để cặp mắt tâm hồn chúng ta được chiếu sáng mà thấy rõ công trình cứu độ của Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta, cũng như nơi người khác. Như thế, chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn tha thứ của Chúa và hằng ăn ở như con cái ánh sáng.

  Ánh sáng đó là màu hồng của phụng vụ hôm nay. Và Sống lương thiện, công chính và chân thật là màu hồng của chúng ta.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_A

Lm. Inhaxio Hồ thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay này giúp chúng ta hiểu bí tích Thánh Tẩy, mà các tân tòng chuẩn bị để lãnh nhận vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh.

1Sm 16: 1, 6-7, 10-13

Bài Đọc I thuật lại việc Đa-vít được xức dầu phong vương thay thế vua Sa-un, vị vua tiên khởi của dân Ít-ra-en, vì tội bất trung. Từ đây, vua Đa-vít là người được Chúa chọn, mặc một tính chất thánh thiêng và tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa. Vua Đa-vít là hình ảnh của Đức Ki-tô, Đa-vít của thời đại mới.

Ep 5: 8-14  

Trong Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô khuyên những Ki-tô hữu sống sao cho phù hợp với cách ăn nếp ở của “con cái ánh sáng”.

Ga 9: 1-41

Tin Mừng Gioan tường thuật việc người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Bài trình thuật này thuộc giáo lý bí tích Thánh Tẩy, vì sau khi rửa trong hồ Si-lô-ác, mắt anh mù liền thấy ánh sáng, anh là tiền thân của người lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Trong ánh sáng của đức tin, người Ki-tô hữu thấy và hiểu được những mầu nhiệm mà người khác không thể thấy và hiểu được.

BÀI ĐỌC I (1Sm 16: 1, 6-7, 10-13)

Bản văn này đưa chúng ta trở về những năm tháng đầu tiên của thể chế vương quyền Ít-ra-en (1020-1010 BC). Sau một thời gian dài do dự (không phải Đức Chúa là vua duy nhất của dân Ít-ra-en đó sao?) và vì những hoàn cảnh đòi buộc, dân Ít-ra-en thử nghiệm thể chế quân chủ. Kinh nghiệm đầu tiên này không thuận buồm xuôi gió: vì vua Sa-un bất tuân, Thiên Chúa đã quyết định truất phế vua. Ông Sa-mu-en, người của Đức Chúa, lại nhận sứ mạng đi tìm kiếm một vị vua mới.

  1. Cách thức tuyển chọn lạ lùng của Thiên Chúa

Câu chuyện xảy ra ở Bê-lem. Tình tiết của câu chuyện mặc khải cách đặc biệt cách thức Thiên Chúa chọn lựa những tôi trung ưu ái của Ngài: “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Quả thật, Bê-lem là một vùng quê nhỏ bé không tên tuổi đến nỗi ngôn sứ Mi-kha nói “ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa” (Mk 5: 1); hơn nữa, Đa-vít là con út trong gia đình đông con của ông Gie-sê.

Sự chọn lựa của Thiên Chúa luôn luôn gây kinh ngạc. Để bày tỏ niềm ưu ái đối với những kẻ bé mọn và khiêm hạ, Ngài chọn con út hơn là con cả. Xưa kia, Thiên Chúa đã chọn ông Ghít-on để giải phóng Ít-ra-en khỏi sự áp bức của người Ma-đi-an. Ấy vậy, ông là cậu con trai út trong gia đình thuộc bộ tộc “nhỏ bé nhất ở Mơ-na-se”. Ông Mô-sê cũng được nhìn nhận là “người khiêm tốn nhất trong số con cái loài người”. Lịch sử đã cho chúng ta biết bao ví dụ như thế.

  1. Đa-vít, cậu bé chăn chiên 

Vua Đa-vít xuất thân từ một cậu bé chăn của miền Bê-lêm nhỏ bé nghèo hèn, nơi mà ngàn năm sau đó Đức Giê-su sẽ chào đời. Sự kiện Đấng Mê-si-a giáng sinh ở nơi hẻo lánh này sẽ là một trong những dấu hiệu về Đấng Mê-si-a thuộc “dòng dõi Đa-vít”. Những người chăn chiên Bê-lem sẽ là những người đầu tiên đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su.

  1. Khung cảnh phong vương Đa-vít

Khi đến Bê-lem, ngôn sứ Sa-mu-en hiến tế một con bò cái tơ lên Đức Chúa để “thanh tẩy ông Gie-sê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy lễ” (1Sm 16: 5b). Trước khi ngồi vào bàn, ngôn sứ Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi Đa-vít tới đây”. Vị ngôn sứ đã hiểu rằng chính cậu út Đa-vít là người Thiên Chúa chọn. Chính trong bữa ăn thánh thiêng này mà Đa-vít được xức dầu phong vương.

  1. Tước hiệu “Xức dầu tấn phong”

Xức dầu là nghi thức thánh hiến, thường nhất là nghi thức phong vương. Được “người của Thiên Chúa” xức dầu tấn phong, vị tân vương trở thành một con người thánh thiêng. Dầu tăng sức lực cho thân thể là biểu tượng sức mạnh của Thiên Chúa, thần lực này đến ở với vua: “vua đầy tràn Thần Khí Thiên Chúa”. Tước hiệu: “Đấng được xức dầu” theo tiếng Do thái là “Đấng Mê-si-a” và được dịch sang tiếng Hy lạp là “Đấng Ki-tô” (“Christos”). Như vậy, những lời loan báo về Đấng Cứu Thế trước hết là Đấng Mê-si-a vương đế.

BÀI ĐỌC II (Ep 5: 8-14)

Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Ê-phê-xô từ Rô-ma, trong cảnh lao tù, giữa những năm 61-63. Thư này được gởi đến các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á, chủ yếu là những Kitô hữu gốc lương dân. Bức thư gồm hai phần: trong phần thứ nhất thuộc đạo lý (1: 3-3: 21), thánh Phao-lô giải thích mầu nhiệm cứu độ phổ quát được ban cho dân Do thái cũng như dân ngoại ở nơi Đức Ki-tô. Trong phần thứ hai thuộc luân lý (4: 1-6: 20), thánh nhân khuyên các tín hữu sống theo những giá trị Ki-tô giáo. Đoạn văn hôm nay được trích từ phần thứ hai này.

Thánh nhân vừa mới nêu lên nhiều chủ đề khác nhau và nhiều hình ảnh đa dạng, rất quen thuộc với khoa giáo lý bí tích Thánh Tẩy của Giáo Hội tiên khởi, như là “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát… và phải mặc lấy con người mới, đó là con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa”. Ở đây, thánh nhân tập trung sự chú ý vào chủ đề ánh sáng.

  1. Người Ki-tô hữu là ánh sáng

“Xưa kia anh em đã từng là bóng tối, nhưng bây giờ, nhờ kết hợp với Chúa, anh em lại là ánh sáng”. Ở nơi câu này, bí tích Thánh Tẩy được mặc nhiên đề cập đến. Bí tích Thánh Tẩy được gọi là “ơn thần khải”, người chịu phép Thánh Tẩy là “người được ơn thần khải” và giếng Thánh Tẩy được gọi rất ý nghĩa: “nơi lãnh nhận ơn thần khải”. Ngược lại là bóng tối. Việc đối lập ánh sáng và bóng tối, một chủ đề Kinh Thánh rất xưa và rất phổ biến như gặp thấy trong những bản văn của cộng đoàn Qum-rân, được thánh Phao-lô và đặc biệt thánh Gioan lấy lại.

Qua cặp tương phản ánh sáng và bóng tối này, thánh Phao-lô kêu gọi những Ki-tô hữu gốc lương dân ý thức rằng cuộc sống của họ đã được biến đổi sâu xa biết bao, họ đã trở nên khác biệt biết mấy; vì thế, cuộc sống của họ phải làm chứng điều này: “Hãy vạch trần những công việc của bóng tối”. Chắc chắn câu này phải được hiểu rằng cách ăn nếp ở của người Ki-tô hữu có thể khiến cho những tội nhân thay đổi cách sống, bởi vì ánh sáng chiếu soi vào bóng tối và làm cho bóng tối biến tan: “Tất cả những gì đã bị vạch trần, đều lộ ra ánh sáng; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng” .

  1. Người Ki-tô hữu chỗi dậy từ bóng tối sự chết

Qua bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu “chỗi dậy” từ bóng tối sự chết. Chắc hẳn thánh Phao-lô trích dẫn vài câu từ một bài thánh thi về bí tích Thánh Tẩy của Giáo Hội tiên khởi, và phải là khá phổ biến. Chúng ta gặp thấy bài thánh thi này, khá đầy đủ hơn, trong tác phẩm của Giáo Phụ Cơ-lê-men-tê thành A-lê-xan-ri-a vào cuối thế kỷ thứ hai:

“Hãy tỉnh giấc đi, hỡi người đang ngủ.

Hãy chỗi dậy đi từ những vong nhân.

Và Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi.

Ngài là ánh sáng Phục Sinh,

được sinh ra trước khi sao mai xuất hiện;

Ngài ban sự sống bởi ánh quang rạng ngời của Ngài” (Protriptique 9, 84, 2)

Bài thánh thi này minh chứng hùng hồn đạo lý Thánh Tẩy mà thánh Phao-lô không ngừng nhắc đi nhắc lại: chết cho tội lỗi và tái sinh trong Đức Ki-tô Phục Sinh. Hơn nữa, bài thánh thi đậm đà hương vị Kinh Thánh gợi nhớ vài hình ảnh của các ngôn sứ như:

“Này những kẻ nằm trong bụi đất,

hãy trỗi dậy, hãy reo mừng!

Vì lạy Chúa, sương Người ban là sương ánh sáng,

và đất sẽ cho các âm hồn được hồi sinh” (Is 26: 19)

Hay:

“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của Người đến rồi.

Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.

Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;

còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa,

vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60: 1-2)

Đoạn thư này giúp chúng ta hiểu rõ hơn địa vị Ki-tô hữu của chúng ta. Mỗi ngày chúng ta được mời gọi sống theo những giá trị Ki-tô giáo. Đành rằng ơn cứu độ là công trình của Thiên Chúa, nhưng chỉ trở nên hiệu lực khi nào chúng ta mở rộng lòng mình cho Đấng chúng ta tin.

TIN MỪNG (Ga 9: 1-41)

Bài trình thuật này gợi lên nhiều điểm tương đồng với bài trình thuật về việc Đức Giê-su chữa lành người bại liệt (Ga 5 : 9-11). Quả thật, cả hai bài trình thuật đều ghi nhận rằng Đức Giê-su chỉ xuất hiện vào lúc bắt đầu câu chuyện để thực hiện “dấu lạ” và xác định ý nghĩa của nó (9 : 1-7 và 5: 1-8), và vào lúc kết thúc câu chuyện để long trọng tuyên bố bản án (9 : 35-41 và 5: 14-18)). Giữa thời gian ấy, Đức Giê-su rút lui vào hậu trường để hoàn toàn nhường sân khấu cho một bài trình thuật bóng bẩy, linh hoạt, đầy biến động về những phản ứng khác nhau từ phía những hạng người khác nhau trước dấu lạ của Ngài (9: 8-34 và 5: 9-13). Tuy nhiên, với tính hồn nhiên, cởi mở, thông hiểu và dũng cảm: ăn miếng trả miếng của mình, anh mù đã cho thấy trổi vượt hơn người bại liệt thụ động và kém linh hoạt.

  1. Dẫn nhập (9 : 1-7)

A- Vấn đề tội lỗi

“Vấn đề tội” đóng chức năng đóng khung toàn bộ câu chuyện: ở đầu câu chuyện, chính các môn đệ nêu lên: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (9 : 2) và ở cuối câu chuyện, chính Đức Giê-su nói với các người Pha-ri-sêu: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội của các ông vẫn còn đó” (9 : 41).

Câu hỏi mà các môn đệ nêu lên về quan hệ nhân quả của tội dường như chỉ nhằm tạo cơ hội để Đức Giê-su thực hiện dấu lạ và ban giáo huấn. Tuy nhiên, câu hỏi này nói lên tâm thức của người đương thời. Vào thời đó, người Do thái tin rằng nguyên nhân của những bất hạnh như tai ương hay bệnh tật là án phạt của tội, kể cả tội trước khi sinh ra hay còn trong bào thai. Vì thế, cảnh đời bất hạnh mà người mù từ lúc mới sinh phải chịu là án phạt vì tội của cha mẹ mình. Tuy nhiên, sách Gióp đã nêu lên tại sao người công chính phải chịu đau khổ, nhưng không đưa ra một câu trả lời thỏa đáng nào, ngoài trừ ý định khôn dò của Thiên Chúa. Sau này, sách Tô-bi-a đã bước thêm một bước nữa: thiên sứ đã mặc khải cho ông Tô-bi-a cha, một người công chính thực thi những việc lành phúc đức, rằng Thiên Chúa để cho ông bị cảnh mù lòa là để thứ thách ông (Tb 12: 13).

Đức Giê-su bác bỏ quan niệm nhân quả của tội. Ngài tách biệt rõ ràng điều bất hạnh và án phạt, sự đau khổ và tội. Cảnh đời bất hạnh của anh mù không do tội của anh hay tội của cha mẹ anh, nhưng là cơ hội để Ngài bày tỏ quyền năng của Ngài qua việc cho anh mù được sáng mắt. Từ đó, Đức Giê-su sẽ công bố Ngài là “ánh sáng thế gian”. Như vậy, giả sử trước ở đây, sự mù lòa duy nhất cấu thành tội chính là sự mù lòa của sự cố chấp không chịu tin.

B- Một ngày của Đức Giê-su

Đức Giê-su sánh ví sứ vụ của Ngài với một ngày. Thời điểm đánh dấu việc kết thúc sứ vụ của Ngài được sánh ví với thời điểm “đêm đến”, nghĩa là giờ của bóng tối, giờ của những kẻ chống đối Ngài. Trong khi chờ đợi giờ của bóng tối, Ngài phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Ngài khi trời còn sáng, bởi vì bao lâu Ngài còn ở thế gian, Ngài là ánh sáng thế gian. Để minh chứng Ngài “là ánh sáng thế gian”, Chúa Giê-su sẽ cho người mù từ lúc mới sinh được thấy ánh sáng, cả ánh sáng thể lý lẫn ánh sáng tâm linh (x. Is 42: 6-7).

C- Dấu lạ

Dấu lạ được mô tả chỉ trong hai câu (9: 6-7), bởi vì người kể chuyện chú trọng hơn đến những cuộc tranh luận do dấu lạ gây nên và những hậu quả mà anh mù được sáng mắt phải gánh chịu.

“Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù”. Theo niềm tin dân gian phổ biến vào thời đó, nước miếng có hiệu lực chữa bệnh. Trước đây rồi, Đức Giê-su đã dùng nước miếng của Ngài để chữa lành người câm điếc (Mc 7: 32) và người mù ở Bết-xai-đa (Mc 8: 23). Nhưng ở đây, Đức Giê-su trộn nước miếng với đất thành bùn và xức vào mắt người mù. Phải chăng Đức Giê-su muốn họa lại cử chỉ sáng tạo, qua đó muốn nói rằng Ngài sẽ làm cho người mù thành một con người hoàn toàn mới? Hay đơn giản hơn, phải chăng sự kiện xức bùn vào mắt và đòi hỏi anh mù đến rửa ở hồ Si-lô-ác là một hành vi đức tin, một yếu tố cần thiết để đón nhận dấu lạ? Quả thật, hiệu quả chỉ xuất hiện sau khi người mù đến rửa trong nước hồ Si-lô-ác.

Nước hồ này được xem là thánh thiêng. Vào lễ Lều, vị tư tế phải đến múc nước ở đây để dùng cho các nghi thức thanh tẩy. Nước này bắt nguồn từ suối Gi-bon và được dẫn đến hồ Si-lô-ác qua một lạch ngầm dưới đất (2V 20: 20; 2Sb 32: 30; Hc 48: 17). Ngay cả tên của hồ này cũng mang ý nghĩa biểu tượng: Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai đi”. Dường như thánh Gioan muốn nhắc lại ý nghĩa của tên Si-lô-ác này, vì thánh nhân muốn quy chiếu đến tác giả đích thực của việc chữa lành chính là Đức Giê-su, “Đấng được Chúa Cha sai đi”. Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su thường dùng tước hiệu “Đấng được sai đi” để chỉ về chính mình.

  1. Hai thái độ tương phản: (9: 8-34)

Trong phần này, Đức Giê-su vắng mặt, tuy nhiên Ngài vẫn là tác nhân chính yếu gây nên những phản ứng từ phía những hạng người khác nhau. Việc người mù được sáng mắt sẽ nêu bật hai thái độ tương phản mà sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế gian đòi hỏi con người phải chọn lựa.

A- Thái độ của người mù được sáng mắt

Anh mù được sáng mắt là một con người có lương tri ngay thẳng, vẫn một mực trung thành với sự thật, biết sử dụng lối nói mĩa mai, thậm chí châm biếm, lại còn biết phi bác sự thông thái của những người Pha-ri-sêu: “Chúng tôi biết rằng…” (9: 29) bằng cách viện dẫn nguyên tắc thông thường: “Như mọi người điều biết…” (9 : 31-32; x. Is 1: 15; Tv 66: 18; 109: 7; Cn 15: 29, vân vân) và cuối cùng bày tỏ tấm lòng rộng mở trước ánh sáng khác, ánh sáng đức tin.

Con đường đức tin của người mù là con đường tiệm tiến: từ những lời tra hỏi từ phía những người láng giềng cho đến những lời chất vấn của những người Pha-ri-sêu, chân tính của Đức Giê-su càng lúc càng sáng tỏ hơn ở nơi anh. Khởi đầu, anh bày tỏ một sự hiểu biết mơ hồ về một người đã thi ân giáng phúc cho mình: “một người tên là Giê-su” (9: 11), đoạn, anh bắt đầu nhận ra ở nơi người ấy: “một ngôn sứ” (9: 17) và tiếp đó: “Đấng được Thiên Chúa sai đến” (9: 33). Cuối cùng, khi đối diện với Đức Giê-su, Đấng tự tỏ mình ra cho anh, anh tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Ngài, tôi tin” (9: 38) và thờ lạy Ngài.

B- Thái độ của những người Pha-ri-sêu

Trong khi sự kiện dần dần được chứng thực từ phía những người láng giềng, cha mẹ của người mù được sáng mắt và chính đương sự, thì thái độ của những người Biệt phái càng lún sâu vào những tà ý, cố chấp, từ chối ánh sáng và để lộ mình là những người mù đích thật.

Trong câu chuyện này, hai chi tiết đáng chú ý do hậu cảnh lịch sử của chúng. Trước hết, những người Pha-ri-sêu bất đồng với nhau về vấn đề Đức Giê-su: “Thế là họ đâm ra chia rẽ”. Về sự kiện này, các sách Tin Mừng và sách Công Vụ cung cấp nhiều ví dụ khác nữa: trong số những người Pha-ri-sêu có vài người có tinh thần rộng mở, họ âm thầm gắn bó với Đức Ki-tô. Trong câu chuyện này, chính thành phần cố chấp nhất mực nhắm mắt trước sự thật. Trong con mắt của những con người ngoan cố này, Đức Giê-su đã vi phạm ngày sa-bát, vì vậy là một con người tội lỗi, mà đã là một con người tội lỗi thì không thể nào thực hiện dấu lạ như thế. Vì thế, họ không chỉ từ chối từ dấu lạ và chân tính của Đức Giê-su, nhưng còn buộc người mù phải thú nhận là mình sai lầm vì đã tuyên xưng ông Giê-su này là một ngôn sứ.

Ngoài ra, đối với đọc giả Tin Mừng Gioan, việc anh mù được sáng mắt bị trục xuất ra khỏi hội đường vang dội tính thời sự của cộng đoàn Gioan. Các tông đồ và các môn đệ của thế hệ thứ nhất đã giảng dạy trong các hội đường, nhưng sau đó bị trục xuất khỏi hội đường. Những người Do thái nào tin Đức Giê-su là Đấng Ki-tô cũng bị trục xuất khỏi hội đường và trở thành đối tượng của những quấy nhiễu, hạch sách và bắt bớ. Việc người mù được sáng mắt bị trục xuất ở đây báo trước hoàn cảnh của Giáo Hội sau này.

  1. Phần kết (9 : 35-41)

Đức Giê-su lại xuất hiện và bày tỏ thái độ của Ngài đối với người mù được sáng mắt và đối với những người Pha-ri-sêu cố chấp.

A- Thái độ của Đức Giê-su đối với người mù được sáng mắt

“Sau khi nghe nói họ đã trục xuất anh, Đức Giê-su đến gặp anh”. Đối với những ai chịu đau khổ vì làm chứng cho Ngài, dù không nhận biết Ngài, Ngài sẽ mặc khải chân tính của Ngài, như anh mù được sáng mắt hôm nay. Sau khi đã mở đôi mắt xác thịt của anh để anh thấy ánh sáng, Ngài mở đôi mắt tâm hồn anh để anh khám phá Mặc Khải.

B- Thái độ của Đức Giê-su đối với những người Pha-ri-sêu cố chấp

“Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại đui mù”. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho những ai mở rộng tâm trí sẵn sàng đón nhận ánh sáng của Ngài. Còn những ai tin tưởng vào ánh sáng của riêng mình mà tìm cách ngăn chận những kẻ khác tin vào Ngài, thì những người đó trở nên đui mù.

Đối với những người Pha-ri-sêu, những người chất vấn Ngài phải chăng họ đều đui mù hết cả sao, Chúa Giê-su đưa ra một bài học thâm thúy: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn đó”. Những lời này nêu bật thần học xét xử của Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su không xét xử ai cả, chính mỗi người tự xét xử chính mình, hoặc mở mắt ra mà tin nhận Đức Giê-su hoặc khép mắt lại mà khỏi phải thấy những việc Ngài làm để khỏi tin vào Ngài. Đó chính là tội cố chấp và bản án đã có sẵn ở đây rồi, và ngay bây giờ chứ không phải đợi đến ngày chung thẩm.

Câu chuyện mở ra với lời công bố rằng sự mù lòa thể lý không có tội và đóng lại với lời công bố rằng sự mù lòa tâm linh mới có tội.

Về mục lục

NHÃN QUAN

Trầm Thiên Thu

Con mắt có thể tiết lộ nhiều thứ độc hại, bởi vì “Ai nhìn với con mắt đố kỵ là người xấu, nó ngoảnh mặt đi và khinh dể thiên hạ.” (Hc 14:8) Con mắt cũng là “đường dẫn” nhiều thứ xấu xa: “Có thụ tạo nào tệ hơn con mắt? Gặp chi nó cũng phát khóc vì thèm.” (Hc 31:13) Người ta so sánh: “Mắt láo liên như thằng trộm cắp.” Vì thế, Kinh Thánh khuyên cẩn trọng: “Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là thông hiểu, đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu là bình an.” (Br 3:14) Trong đó có con mắt. Không hề đơn giản!

Với kinh nghiệm sống, tiền nhân đã xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay.” Điều đó chứng tỏ rằng đôi mắt sáng thực sự là điều cần thiết cho cuộc sống đời thường. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên rồi mới bị mù. Người mù bẩm sinh vẫn cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về chiều kích hoặc màu sắc. Người lớn lên mới bị mù chắc chắn cảm thấy khổ sở hơn vì đã trải nghiệm những khái niệm liên quan cuộc sống.

Đau đâu khốn đấy. Có hai con mắt mà một mắt có thị lực yếu, bị đau hoặc bị mờ, thậm chí chỉ là bụi vào mắt, cũng thấy khổ lắm rồi chứ nói chi bị mù hẳn. Hai con mắt mà “khác” một chút thôi cũng đủ biết khổ sở, tình trạng “bốn mắt” cũng chẳng thoải mái gì, khổ suốt, vì cứ phải lệ thuộc vào cái kính. Vướng víu!

Con mắt cũng có khả năng biểu cảm – biết khóc, biết cười, biết giận, biết thương. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nũng nịu, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn. Về tâm linh, cần phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân. Nhiều lắm, nhất là trong tư tưởng và những thiếu sót.

Thật kỳ lạ, con mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, thế nên đôi mắt được coi là “cửa sổ” của tâm hồn. Qua hai “cửa sổ bé nhỏ” này, người ta có thể nhận biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn thực sự quan trọng. Đối với con người, ai yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía” hơn mình. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu. Tự nhiên vậy thôi!

Tình trạng mù lòa đồng nghĩa với tối tăm, trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” không chỉ tồi tệ mà còn nguy hiểm. Thế nên Chúa Giêsu xác định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39) Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Lúc đó, chúng ta hóa thành người “có mắt như mù.” Quá đỗi khủng khiếp. Chết chắc!

Khóc vì buồn, buồn vì tiếc. Nhưng có đáng tiếc hay không? Ngày xưa, Thiên Chúa nói thẳng với Samuel: “Ngươi còn khóc thương Saun cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Israel nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Giesê người Bêlem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua.” (1 Sm 16:1) Thiên Chúa không đề cập con mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc” – liên quan nước mắt.

Chúng ta biết thông tin qua trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 rằng khi họ đến, ông Samuel thấy Êliáp, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!” Thế nhưng Đức Chúa bảo ông Samuel: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.” Cách nghĩ của Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn với loài người, tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác với tầm nhìn của phàm nhân, kể cả tư tưởng – cách xa một trời một vực.

Theo cách nhìn của con người, chúng ta thường quan niệm rằng “quen sợ dạ, lạ sợ áo.” Vì nhìn thấy “con lợn béo” nên cho rằng “lòng nó ngon.” Thiên Chúa lại không có quan niệm niệm như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam nhắc nhở: “Chiếc áo không làm nên thầy tu.” Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém.” Chúng ta thường dựa vào chức vụ hoặc bằng cấp (cả đời và đạo) để xác định “trình độ” của ai đó, nhưng thực sự là “bé cái lầm” mà thôi.

Rồi ông Giesê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Giesê: “Đức Chúa không chọn những người này.” Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi rằng các con ông Giesê có mặt đầy đủ chưa. Ông Giesê nói còn cháu út đang chăn chiên. Ông Samuel liền bảo ông Giesê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Giesê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Samuel: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!” Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Chúa nhập vào Đavít từ ngày đó trở đi.

Đáp ca hôm nay sử dụng cả 6 câu trong Thánh Vịnh 23 [22]. Đây là Thánh Vịnh phổ biến, quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng đề cập lòng tín thác: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-4) Đó là cách sống đức tin – phó thác cho Thiên Chúa định liệu mọi sự.

Kinh nghiệm dù nhiều hay ít cũng cho thấy đúng như vậy. Quả thật, khi có Thiên Chúa đồng hành thì “dầu qua lũng âm u” cũng “chẳng sợ gì nguy khốn,” bởi vì có “côn trượng Ngài bảo vệ” thì hoàn toàn “vững dạ an tâm.” Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:5-6) Có Chúa là có tất cả, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không tăm tối. Chẳng phải lo chi, mà có lo cũng chẳng xong, sợ cũng chẳng được: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”

Rất thực tế, Thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.” (Ep 5:8-9) Có nghĩa là phải cẩn trọng xem “điều gì đẹp lòng Chúa,” chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối,” đặc biệt là “phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng.” (Ep 5:10-11) Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14) Có lẽ ai cũng sợ sự vạch trần hoặc tố giác. Tại sao? Vì đồng lõa với bóng tối – lãnh địa của ma quỷ.

Mặc dù bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nhưng nó mạnh mà yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng sẽ phải lui ngay. Bóng tối dày đặc của cả thế gian cũng không thể che khuất một đốm sáng. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối.”

Chỉ là chuyện đời thường tạm bợ mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn rất nhiều, không thể gặp chăng hay chớ hoặc tùy hứng.

Trình thuật Ga 9:1, 6-9, 13-17, 34-38 cho biết rằng cả Thầy Trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Ngài trả lời: “KHÔNG phải anh ta, cũng CHẲNG phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Ngài được vinh danh.

Ngài nói rõ ràng, nhưng người ta vẫn chẳng “ngộ” ra sự thật, phải chăng vì không quan tâm? Thế nên trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, bị xui xẻo, gặp hạn,…) đều là những người tội lỗi. Có người chỉ “để bụng,” nhưng có người lại dám “phán” rằng “Chúa phạt!” hoặc “Đáng đời!” Ôi, lạy Chúa, nói theo kiểu phim Hong Kong thì đúng là “thiện tai” thật!

Cũng chưa xong, người ta còn có thiên kiến – định kiến, thành kiến. Cùng sự cố như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì người ta nói là do Chúa phạt, nhưng với người “hợp ý mình” thì lại nói rằng đó là Thánh giá Chúa trao. Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.” Nếp nghĩ lệch lạc đó chính là động thái “giết người” mà không cần vũ khí. Thật đáng quan ngại!

Sau khi cho các đệ tử biết lý do, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa.” (Silôác [Siloah] nghĩa là Người Sai Phái. Hồ này ở phía Đông Nam Giêrusalem, cuối thung lũng Tyropeon.) Anh ta liền đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có biệt dược độc đáo ghê đi, phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng, mặc dù chỉ là “nước miếng trộn với bùn.” Hay quá chừng. Mấy lang băm chớ mà học đòi theo, kẻo các pháp sư phải sợ mà chạy có cờ, còn các lương y và bác sĩ danh tiếng phải tâm phục khẩu phục. Thật là tuyệt chiêu!

Người bàn ra, kẻ tán vào, xì xầm bàn tán theo ý kiến riêng, vì trước kia họ thường thấy anh ta ăn xin. Có người chắc chắn là chính hắn, có kẻ thì bảo không phải, kẻ khác lại bảo một người giống hắn. Chín người, mười ý, lắm lý nhiều ý, chẳng ai chịu ai. Thế rồi họ dẫn anh ta đến gặp nhóm Biệt Phái quái đản. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sabát. Nhóm Pharisêu hỏi thêm một lần nữa rằng tại sao anh ta sáng mắt, và chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” Trong nhóm Pharisêu, người thì bảo Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa vì Ngài không giữ ngày sa-bát, kẻ thì bảo rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi? Rồi họ lại hỏi ý kiến của anh ta về người đã chữa mắt. Anh ta nói ngay: “Người là một vị ngôn sứ!” Quá đúng. Nhưng cũng vì vậy mà nhóm Pharisêu phát tức, máu bốc tới chỏm đầu.

Sự thật rõ ràng, vậy mà người Do Thái vẫn không tin trước đây anh bị mù và bây giờ nhìn thấy, họ đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi anh có phải là con của họ hay không, cha mẹ anh xác nhận anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh sáng mắt thì họ không biết tại sao, cha mẹ anh bảo họ cứ hỏi anh ta là chính xác nhất. Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do Thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Thật tồi tệ đối với những kẻ lắm quyền nhiều chức!

Và một lần nữa, chính họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” (Ga 9:24) Nhưng anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt, anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Anh thẳng thắn nói rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Máu tự ái lại bốc lên nên họ không tiếc lời mắng nhiếc, thóa mạ: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến.” Đúng là “kẻ ngu mở miệng là tai họa đến gần.” (Cn 10:14) Y như rằng!

Chó đen giữ mực. Kẻ ngu si không kìm được giận dữ và để lộ điều dại dột. (Cn 12:16; Cn 13:16) Anh ta thấy khó hiểu, vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta đã chẳng làm được gì.” (Ga 9:30-33) Cái “nếu” của anh mù đưa ra thật độc đáo. Thế nhưng họ vẫn cố chấp và đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34) Và rồi họ liền trục xuất anh. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi. Không còn sĩ diện, “ngu si mà cứ tưởng mình ngay chính.” (Cn 12:15)

Chuyện anh ta bị trục xuất, Chúa Giêsu cũng biết, nên khi gặp lại anh, Ngài hỏi anh có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Ngài trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” (Ga 9:37) Vô cùng bất ngờ nhưng anh lại thấy vui mừng và nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin.” (Ga 9:38) Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thong thường thì đa số hơn thiểu số, mặc dù nhiều người ghét Chúa Giêsu mà anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy.” Anh này thật diễm phúc – nhờ có đức tin mạnh mẽ.

Chúa Giêsu biết anh ta thật lòng nên cho biết: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39) Những người Pharisêu đang ở đó và nghe vậy liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ nhen” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu cũng phải lắc đầu, rồi Ngài thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’ nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41) Kẻ chảnh thì thường ngu đột xuất, bây giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn. Chán ngán quá!

Thế nhưng có lẽ chúng ta cũng đã có những lần giống như nhóm Pharisêu, chẳng “thoáng” hơn họ bao nhiêu. Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn,” không chịu “cân nhắc” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên lời nguyền rủa “có mắt như mù” cũng chẳng hề oan ức. Thế thì đáng lo sợ lắm!

Chắc chắn rằng mù lòa thì khổ lắm, khổ đủ thứ. Chỉ mờ mắt một chút đã thấy khổ rồi, càng khổ hơn nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo khi “cửa sổ tâm hồn” không bình thường. Thánh Vịnh gia nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân.” (Tv 91:8) Do đó, luôn phải biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.” (Tv 119:18)

Thời gian trôi qua mau chóng. Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết đã qua nửa Hành Trình Mùa Chay. Mỗi chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm chút nào? Có chữ bớt cận thị, viễn thị hoặc loạn thị chưa? Cận thị vì ảo tưởng mà mạo nhận là mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không thấy “giỏ tội” của mình ngay trước mặt, và loạn thị vì không lo đấm ngực mình mà cứ lo đấm ngực người khác. Mùa Chay không còn dài thời gian, chúng ta cùng tạ ơn Chúa và tiếp tục xin Ngài dìu dắt chúng ta đi hết chặng đường Mùa Chay đúng ý Chúa muốn.

Lạy Thiên Chúa, xin đừng trách mắng con khi thịnh nộ, đừng sửa trị con lúc nổi lôi đình. (Tv 38:2) Xin giúp con biết yêu thương chân thành, nhận ra Ngài nơi tha nhân – những người được tạo nên giống hình ảnh Ngài, đặc biệt là những người đau khổ, nghèo khó, hèn mọn. Xin cho người khác cũng nhận thấy có Ngài thực sự sống động nơi con. Xin nâng đỡ những người khiếm thị và những người chăm sóc họ. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

 

NGUỒN SÁNG THẬT

Tgm Giuse Vũ Văn Thiên

Tin Mừng các Chúa nhật Mùa Chay phụng vụ năm A đều chung một chủ đề là hướng các tín hữu đến bí tích Thanh tẩy, đồng thời diễn tả tiến trình đến với Chúa của các dự tòng. Vì thế, mỗi Chúa nhật đề cập tới một khía cạnh của bí tích này, cũng là mỗi khía cạnh thực tế và quan trọng của đời sống Kitô hữu.
 
Thánh sử Gioan kể lại phép lạ Chúa chữa người mù bẩm sinh được sáng mắt. Phép lạ này được thực hiện trong bối cảnh khá căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do Thái. Những người này phản ứng dữ dội trước lời giảng của Chúa Giêsu. Trước đó, ở chương 8, Chúa Giêsu tuyên bố “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Lúc này, với người mù bẩm sinh cũng như với dân chúng, là lúc Chúa Giêsu chứng minh điều Người đã nói.
 
Với lối hành văn rất tài tình và tinh tế, tác giả Tin Mừng đặt ra sự so sánh giữa mù lòa thể lý với mù lòa tinh thần. Những biệt phái và luật sĩ khước từ giáo huấn của Chúa. Họ giống như những người mù không thể chữa trị. Đó là bệnh mù lòa thiêng liêng. Thành kiến, hận thù nhốt chặt họ trong một quan niệm khắt khe, nên họ không thể nhận ra nơi vị Ngôn sứ thành Nagiarét lời loan báo tình thương. Họ cũng không muốn cho người khác được những điều tốt lành may mắn trong cuộc sống. Sự khắt khe máy móc của họ đến mức khôi hài khiến độc giả bật cười ở chỗ người mù đã được sáng mắt quả quyết mình là người trước đây đã mù mà cũng không được.
 
Nếu những người có hai con mắt tinh tường và lại còn học rộng tài cao hay ưa lý luận hạch sách, nay dưới ngòi bút của Thánh Sử, bị coi như những người mù, thì trái lại, người mù bẩm sinh từ trước tới nay không trông thấy gì xem ra lại rất sáng suốt và tinh tường. Những câu lý luận của người trước đây đã mù, xem ra “ngớ ngẩn” mà lại rất có lý, làm đối phương phải cụt hứng: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”. Qua trình thuật của Thánh sử Gioan, quan niệm “mù-sáng” đưa chúng ta tới một lối giải thích mới: người sáng là người biết nhận ra những điều kỳ diệu xung quanh mình do Chúa thực hiện, và biết đón nhận nó với trái tim chân thành. Người mù là người mặc dù có đôi mắt sáng, nhưng cố chấp trong những thành kiến khắt khe và trái tim vô cảm. 
 
Người mù bẩm sinh được chữa lành đã can đảm nhận ra Đấng đã làm ơn cho mình và tuyên xưng Đức tin vào Đấng ấy, xem ra anh phải cô độc và chơi vơi trong cuộc chiến để xác định niềm tin, vì chính cha mẹ ruột của anh cũng tránh né trước lời hạch sách của những người đang hùng hổ gây chuyện. Chính vào lúc anh bị những người tự coi là “sáng” đuổi ra ngoài, thì Chúa Giêsu đến gặp anh và Người tỏ cho anh biết Người là ai. Những cố gắng hy sinh của Mùa Chay, nếu được thực hiện cách nghiêm túc như Giáo Hội mong muốn, sẽ giúp cho chúng ta gặp Chúa. Ngài vẫn ở đó, khi con người sẵn sàng can đảm buông hết mọi ràng buộc níu kéo, thì sẽ được gặp Chúa.
 
Cái nhìn của Đức tin sẽ giúp ta nhận ra những gì là chân thực. Việc ông Samuen chọn người làm vua kế vị Saun đã chứng minh điều đó. Con người thì nhìn xem bề ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn. Nhìn bề ngoài, Đavít không có tướng mạo làm vua, nhưng Chúa đã chọn ông vì Chúa thấy nơi ông một người có tâm hồn quảng đại.
 
Bí tích Thanh Tẩy cho chúng ta được trở thành con cái ánh sáng. Mùa Chay là thời điểm tái khám phá ra ánh sáng thiêng liêng ấy. Những bon chen bận rộn của cuộc sống hằng ngày có nguy cơ làm cho chúng ta bị chìm vào bóng tối thế gian. Đức Giêsu đã đến để kéo chúng ta ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để đưa đến ánh sáng kỳ diệu của ân sủng.
 
Tuy thế, chỉ nguyên tước hiệu người được thanh tẩy không đủ cho chúng ta có con mắt sáng. Đó còn là những nỗ lực cố gắng dần dần trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ cuộc sống trần gian là cuộc giành giật không ngừng giữa bóng đêm và ánh sáng. Có những lúc bóng đêm lại được tô vẽ bằng những ngôn từ mỹ miều choáng ngợp dễ làm cho người ta bị lừa. Vì thế, Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật” (Bài đọc II).
 
Đức Giêsu là nguồn sáng của đời tôi. Tôi có để ánh sáng của Người chiếu soi những góc khuất của cuộc đời tôi không? Tôi có nhận mình là còn mù tối để mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa không? Lạy Chúa Giêsu là “Ánh sáng bởi Ánh sáng”, xin chiếu soi tâm hồn con. Amen.

“Hãy nhìn về phía ánh mặt trời, các bóng tối sẽ khuất sau lưng bạn” (Whitman- Thi sĩ người Mỹ).

Về mục lục

.

NGỌN ĐÈN ĐỨC TIN

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.

Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?

2) Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?

3) Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?

4) Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG TỪ TRÁI TIM

Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt

Chúa Giêsu chữa một người mù từ khi mới sinh và cho biết Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian.

  1. Một cụ già trong một làng quê một hôm đặt câu hỏi cho các thanh niên: “Làm sao biết được trời còn tối hay đã sáng?” Một người trả lời:

– Khi ở tận chân trời có con trâu với con bò mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.

– Chưa đúng hẳn!

Một người khác:

– Khi ở mãi chân trời có cây dừa với cây chuối mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.

– Chưa đúng hẳn!

– Vậy cụ dạy thế nào ạ?

– Khi có một người đến với chúng ta, bất kể tuổi tác, màu da, tiếng nói, tôn giáo, học vấn, tính tình, quá khứ… mà chúng ta nhận ra đó là một người anh em, thì trời đã sáng; nếu không thì trời còn tối.

  1. Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên xin các quan tìm cho một người biết nói đùa. Người ta dẫn đến cho ông một thiền sư.

Nhật hoàng:

– Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe.

– Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo.

– Ta thấy nhà ngươi giống y hệt một con lợn!

– Tâu bệ hạ, còn hạ thần thì thấy bệ hạ giống y hệt Đức Phật!

– Tại sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?

– Tâu bệ hạ, dễ hiểu lắm ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn vào đâu cũng thấy Đức Phật; còn ai có tâm của lợn thì nhìn vào đâu cũng thấy lợn!

  1. Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trái tim của Chúa, để con nhận thấy mọi người đều là anh em, và nhận thấy mọi anh em đều là hiện thân của Chúa.

Về mục lục

.

MỞ MẮT NHÌN ĐỜI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có một mẩu đối thoại như sau:
Ông A: Có một tín hiệu đáng mừng, cho thấy sự suy giảm đạo đức đã chững lại, cái tốt đang được thổi bùng lên.
Ông B: Khi cuộc sống no đủ, người ta sẽ không tham tiền của người khác nữa.
Ông A: – Giàu có thì nói làm gì. Có một người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Hoài ở tỉnh Nghệ An nhặt được 10 triệu đồng ở ven đường. Cô ấy đã tìm đến khổ chủ trả lại dù bản thân rất nghèo, lại bị khuyết tật nặng.
Ông B:- Chắc khi nhặt được có người trông thấy nên mới đem trả chứ gì?
Ông A- Không hề, trên đường đi nhận tiền mai táng cho bố, cô này nhìn thấy bọc tiền trong đám cỏ, trên đường vắng tanh không một bóng người.
Ông B- Cô này bị tàn tật chắc cũng chẳng ăn uống được mấy nên số tiền đó không cần thiết lắm cho cuộc sống, giữ lại trong nhà, trộm cướp biết được đến ‘hỏi thăm’ thì khốn, trả cho yên chuyện.
Ông A:- Ai chẳng cần tiền, cô ấy có thể không ăn uống được nhiều nhưng tiền thuốc men là hết sức cần thiết. Một người luôn bị ốm đau, bệnh tật mà vượt qua được sức cám dỗ của đồng tiền như cô Hoài là rất đáng quý, thật đáng trân trọng. Bác không nên nghi ngờ người có lòng tốt như vậy.
Ông A:- Sở dĩ dạo này tôi mất niềm tin vào con người bởi đến đâu cũng gặp nhan nhản những kẻ giàu nứt đố đổ vách rồi mà vẫn tìm cách cấu véo, bòn rút của người nghèo. Những người như cô Hoài là hiếm hoi lắm, tôi tỏ ra nghi ngờ là để thử lòng bác thôi. 

Đôi khi vì những gì diễn ra hằng ngày khiến chúng ta có cái nhìn sai lệch về thế giới chung quanh. Chúng ta thường đổ đồng mọi sự theo nhãn quan của mình. Nhất là vì lòng ích kỷ mà chúng ta nhìn người bằng ánh mắt xét nét, đa nghi. Cho dù họ làm việc tốt, họ làm việc thiện cũng bị chúng ta nhìn với ánh mắt nghi ngờ và kết án.

Nhất là giữa một thế giới gian ác, lắm thị phi khiến chúng ta luôn nhìn đời bắng ánh mắt bi quan. Chúng ta thường nhìn vấn đề trong cái nhìn tiêu cực hơn là tích cực. Giả dụ bây giờ được hỏi máy bay Malaysia mất tích ngày 08.03 vừa qua do nguyên do gì? Có lẽ đa phần sẽ trả lời là do khủng bố. Bởi thế giới ngày nay người ta quá quen với những hình ảnh khủng bố, máu đổ, chém giết, bom đạn.

Có một lần, một người nói với tôi họ mất một con gà và họ nghi ngờ người hàng xóm lấy trộm. Tôi hỏi rằng: Có bằng chứng không? Tại sao chị không nghi ngờ là con gà của mình nó bị con chồn bắt mất hay mèo hoang ăn mất. Vì nơi nhà chị là giữa đồng hoang . . .? Đừng kết án vội kẻo sai lầm tội nghiệp cho họ.

Đây cũng là cái nhìn cố hữu của những người biệt phái. Họ nhìn để bắt bẻ, để xem có đúng luật hay không? Thế nên, thường là họ tìm cách quy kết tội vào một con người. Những người biệt phái có lẽ cũng đã quá quen nhìn mọi sự trong cái nhìn bi quan nên họ không thể nhận ra cái tốt nơi tha nhân. Họ chỉ muốn phân tích theo chiều hướng tiêu cực hơn là tích cực.

Chúa Giê-su là Đấng có thể mang lại ánh sáng cho người mù. Ánh sáng của tâm hồn và thể xác. Mù kiểu nào cũng đáng thương, cũng tội nghiệp. Mù kiểu nào nhìn sự việc cũng khiếm khuyết, cũng không trọn vẹn, cũng sai lầm. Nhất là những người mù về tình người sẽ làm cho họ nhìn đời, nhìn người bằng ánh mắt ghen tương, giận hờn . . .

Thế nên, hãy để cho Chúa chữa trị con mắt của chúng ta. Hãy để cho Chúa mang lại ánh sáng cho cặp mắt chúng ta nhìn đời, nhìn người trong cái nhìn của yêu thương, của hy vọng. Một cái nhìn cuộc đời thật đơn giản, thật đáng yêu.

Đây cũng là cái nhìn mà Xuân Diệu đã từng nói:   

Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non 
Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo 
Hãy để cho bà nói má thơm của cháu 
Hãy nghe tuổi trẻ ca ngợi tình yêu

Khi nhìn đời bắng ánh mắt lạc quan sẽ giúp ta nhìn người trong cái nhìn thân thiện, nhìn cuộc đời mới đáng yêu làm sao! Nhìn người đi trước trong cái nhìn kính trọng, nhìn người đi sau trong cái nhìn trân trọng. Và hơn nữa, muốn nhìn đời cho đúng phải biết chỗ đứng của mình mới có cái nhìn chính xác về cuộc đời.

Đôi mắt xanh non cha xin của con 
Người đi trước xin của người sắp tới 
Biết chỗ đứng để nhìn cho thật mới 
Cuộc sống xanh non mãi mãi tươi giòn….

Xin Chúa Giê-su là ánh sáng trần gian soi sáng tâm trí để chúng ta biết nhìn đời thật đáng yêu, nhìn người bên cạnh thật đáng trân trọng. Xin đừng vì ích kỷ, mù quáng mà sống thiếu tình thân với tha nhân. Amen.

Về mục lục

.

NHẬN RA LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG

 Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Đứng trước thân phận đáng thương của một người bị mù lòa từ thuở mới lọt lòng mẹ, hay trước bất cứ một kiếp phận hẩm hưu nào, ta tự nhiển đặt dấu hỏi: ‘tại sao?’ Tìm hiểu nguyên nhân sự việc là một đòi hỏi hợp lý của bất kỳ đầu óc suy luận nào; và trong công việc đó, định luật ‘nhân – quả’ thường được áp dụng cách triệt để. “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đối với những ai đã quá quen với lối suy nghĩ nhân quả quen thuộc đó thì câu trả lời của Đức Giê-su càng gây kinh ngạc đến sửng sốt: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Đó quả là một lối nhìn, một suy luận thật khác lạ, ra ngoài (đúng hơn: vượt lên trên) mọi qui luật nhân quả, một điều mà lý trí tự nhiên khó chấp nhận…; tuy nhiên đó lại là lối nhìn và hiểu biết rất mới mẻ của này của học thuyết Tin Mừng, vì nó chứa đựng bên trong một sức mạnh giải phóng đến kỳ lạ: phải chăng đây chính là thứ lô-gích hoàn toàn mới mà Đức Giê-su đang muốn giới thiệu cho nhân loại? Không may, mỗi khi có một tia sáng mới lóe lên trong đêm tối âm u, thì thoạt đầu ánh sáng chói lọi của nó cũng là cho nhiều con mắt phải xốn xang. Ánh sáng Tin Mừng cũng như thế, thoạt nghe nó có vẻ điên rồ và phi lý quá!

Theo khảng định của Đức Giê-su thì ‘nhận ra công trình của Thiên Chúa’ mới chính là nguyên nhân (hay mục đích) của bao nhiêu sự kiện tang thương, tiêu cực đang xảy ra trên trần gian (động đất đó đây, sóng thần tàn phá hay siêu bão hayan… chỉ là mộ vài vụ điển hình); một khảng định như thế thoat tiên nghe có vẻ như: hoàn toàn phi lý, không ai chấp nhận được. Ta vẫn quen chia sẻ lối suy nghĩ phổ biến: ‘công trình của Thiên Chúa’ phải là điều gì hùng vĩ, hoàn hảo và tốt lành lắm; còn những bất toàn, tang thương không thể là công trình của Người. Nguyên nhân của các sự kiện đó nằm ở đâu đó… tội lỗi chẳng hạn, sự xấu xa của con người, tác động của thần dữ ma quỉ; cùng lắm Thiên Chúa cũng chỉ ‘cho phép’ xảy ra vì một lý do nào đó, để thử thách, răn đe… Cách duy nhất để ta giải thích được câu nói của Đức Giê-su chính là, mọi sự đều là ‘công trình của Thiên Chúa’, là chính là lòng nhân ái xót thương mà Ngài đang ra công mạc khải và thực hiện. Bằng chứng mạnh nhất cho lập luận này chính là toàn bộ cuộc sống, và nhất là cái chết Thập Giá tang thương của Giê-su Na-da-rét.

Trong trường hợp cụ thể hôm nay liên quan tới người mù từ thuở mới sinh, thì chính nhờ vào việc được chữa lành, mà anh và nhiều người khác nữa, nhận biết Đức Giê-su đến từ Thiên Chúa nhân lành; “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì”. Anh mù đã nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa đối với mình qua con người được sai đến là Đức Giê-su; và một khi đã nhận biết “chính đấng đang nói với anh đây” là vị đó, anh tin vào Người: “Thưa Ngài, tôi tin” và bái lạy Người. Đối với anh, vấn nạn: tại sao mình bị mù cũng như, tại sao mình được chữa khỏi có lẽ không quan trọng lắm, điều quan trọng hơn chính là: nhận biết rằng mình được Thiên Chúa xót thương. Anh tin vào tình thương đó qua việc ông Giê-su đã chữa anh lành, cho dầu lúc đầu anh chưa biết ông ta là ai. Niềm tin này đã giúp anh vượt qua lý luận ‘nhân – quả’ để nhìn ra ‘công trình của Thiên Chúa’ là lòng nhân ái của Người, trong khi đó những người Pha-ri-sêu thông thái lại đã không vượt qua nổi cái lô-gích hẹp hòi: “mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu… chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến”. Họ luẩn quẩn trong lối suy nghĩ nhân quả nên không thể tìm ra lời giải đáp thỏa đáng, và như thế họ sẽ tiếp tục mãi tình trạng đui mù của mình là không thể nhận ra ‘công trình của lòng Chúa xót thương’: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!

Như vậy niềm tin Ki-tô hữu phải giúp tôi vượt lên trên lối suy nghĩ ‘nhân-quả’ bình thường, để nhận ra công trình yêu thương mà Thiên Chúa từ nhân đang thực hiện qua mọi biến cố  buồn vui đang liên tiếp xảy đến cho tôi và cho nhân loại. Nhìn lên Đức Giê-su chết treo trên Thập Giá, tôi không được luẩn quẩn mãi trong cái suy luận phức tạp ‘tại sao?’, nhưng với con mắt đức tin tôi phải nhận ra ngay, đó chính là ‘công trình yêu thương’ mà Thiên Chúa đang liên tục thực hiện. Cũng với niềm tin này, tôi dám nhìn thẳng vào mọi biến cố hàng ngày đang xảy ra cho tôi và quanh tôi, nhất là khi chúng mười mươi rõ ràng là tiêu cực, là tang thương, là vô lý tới độ không thể nào giải thích nổi theo luật nhân quả…, để qua và nhờ chúng, tôi nhận ra bằng chứng không thể chối cãi về sự hiện diện đầy nhân ái của Thiên Chúa là Cha.

Như Phao-lô, Ki-tô hữu chúng ta sẽ luôn sống trong hy vọng và tín thác, giữa muôn vàn sóng gió và đổ vỡ của cuộc sống; đừng ‘để bất cứ điều gì làm bạn ra xao xuyến’ ‘nada te turbe!’, lời của thánh Tê-rê-xa Avila, vì: “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su, dầu là….” (Rm 8:39).

Lạy Chúa, xin hãy ban cho con ơn được nhìn thấy trong mọi biến cố cuộc đời, nhất là khi đau khổ và tội lỗi ngập tràn,‘công trình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa’ đang được tỏ hiện. Xin cho con cặp mắt sáng như thánh Âu-tinh, để nhận ra: ngay cả các tội mình đã từng phạm trong quá khứ đều là những ‘tội hồng phúc!’, vì qua đó, con càng có thể vững vàng hơn đặt trọn niềm tin vào Giê-su Thập Giá, biểu hiện trọn vẹn nhất của tình yêu nhân ái của một Chúa Cha không bao giờ xua đuổi ruồng bỏ con, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. A-men.

Về mục lục

.

HAI DẠNG THỨC MÙ LÒA

Lm Văn Hào

Thánh sử Gioan đã dành trọn chương 9 trong sách Tin mừng của Ngài để thuật lại câu chuyện Chúa chữa anh mù bên hồ Si-lô-ác và một lần nữa, từ từ vén mở cho chúng ta chiêm ngắm chân dung cứu thế của Đức Giêsu. Ngài chính là ‘Ánh sáng trần gian’ (c.5). Thánh Gioan viết lại giai thoại này với mục đích duy nhất như đã nói trong phần kết của cuốn sách : ‘Những điều đã được chép ở đây để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Ngài (Ga 20,31)’. Đích nhắm ấy cũng được thể hiện rõ nét trong trình thuật hôm nay.

Hai sự mù lòa: Mù về thể lý và mù trong tâm hồn

Người thanh niên trong câu chuyện bị mù từ bẩm sinh. Nỗi khát khao duy nhất nơi anh ta là muốn được nhìn thấy. Thế giới của ánh sáng và cảnh vật chung quanh đã hoàn toàn khép lại. Nếu chúng ta có dịp đến thăm những người khiếm thị tại các mái ấm, chúng ta sẽ cảm thấu niềm khát khao nơi những con người bất hạnh này mãnh liệt như thế nào. Họ muốn tiếp cận với thế giới bên ngoài nhưng không thể. Chàng thanh niên bên hồ Si-lô-ác năm xưa cũng thế. Vào thời Chúa Giêsu, số phận của họ còn nghiệt ngã hơn nhiều. Xã hội lúc đó vẫn kết án và ‘đóng đinh’ người mù với những thành kiến xấu, vì nghĩ rằng anh bị Thiên Chúa trừng phạt do tội chính anh ta gây nên, hoặc do tội tiền nhân để lại. Ngay cả các môn đệ cũng nghĩ như thế (c.2). Do vậy vào thời Chúa Giêsu, dường như những người mù bị xã hội cô lập hoàn toàn. Họ sống cũng giống như những kẻ đã chết rồi. Nhưng may mắn, chàng thanh niên mù đã gặp được Đức Giêsu và Ngài đã chữa lành cho anh ta.

Nhưng, ngoài sự mù lòa thể lý còn có sự mù lòa tâm linh nghiêm trọng hơn rất nhiều. Đây là căn bệnh từ trong tâm hồn mà chính Đức Giêsu đề cập tới trong bài Tin mừng hôm nay, nhắm thẳng vào những người Pharisêu. Chúa nói : “Tôi đến thế gian để xét xử, cho người mù được xem thấy và kẻ xem thấy lại trở nên mù” (c.34). Khi nghe thế, những người Pharisêu tức tối và hỏi ngược lại : “Thế ra chúng tôi cũng đui mù cả hay sao?” (c.40). Chúa Giêsu đã vạch trần sự cố chấp và kiêu ngạo nơi họ, và Ngài xem đó là một tội ác (c.14). Đây chính là sự mù lòa nghiêm trọng phát xuất từ tâm hồn chai cứng của những người biệt phái năm xưa, và cũng có thể ẩn tàng nơi chính tâm hồn của mỗi người chúng ta ngày hôm nay.

Tiến trình chữa lành

Nếu chúng ta chỉ đọc qua bản văn một cách sơ sài mà không thấu triệt ý nghĩa thần học được thánh Gioan trình bày, chúng ta sẽ xem việc Chúa chữa anh mù là một công việc phản khoa học. “Ngài nhổ nước miếng xuống đất, trộn vào bùn và xức vào mắt người mù (c.6).” Có lẽ không ít người cảm thấy khó chịu và khó chấp nhận động thái xem ra mất vệ sinh đến thế. Nếu chỉ nghĩ đơn thuần như vậy, thì quả thật, đầu óc chúng ta cũng quá tối tăm và thiển cận. Đây chỉ là những hành vi mang tính biểu tượng nhằm khải thị những chân lý sâu xa hơn nhiều. Vả lại, thánh Gioan đã viết sách Tin mừng cách nay cả 20 thế kỷ, theo văn phong và não trạng y khoa lúc bấy giờ. Theo cách diễn tả của Gioan, Chúa chẳng khác gì một lang băm nhà quê. Song, điều mà thánh Gioan muốn trình bày chính là nêu bật dung mạo cứu thế của Đức Giêsu, là ‘Thầy thuốc’ vĩ đại và toàn hảo nhất. Ngài đến trần gian để giải cứu chúng ta thoát khỏi bóng đêm và sự mù lòa trong tội lỗi. Chúa trộn nước miếng xuống đất, nhào thành bùn như để nhắc nhở về thân phận của mỗi người chúng ta, vốn phát xuất từ bụi đất và sẽ trở về với đất bụi. Mọi người đều được sinh ra trong tội lỗi, và chúng ta đừng bao giờ nhìn người khác bằng cặp mắt Pharisêu, vẫn hay kết án tha nhân, còn mình thì không. Trong tiến trình chữa lành anh mù, giai đoạn cuối cùng Chúa nói với anh ta, là hãy đến hồ Si-lô-ác để rửa. Không phải vô tình mà thánh Gioan đã chú thích ngay sau đó hạn từ ‘Si-lô-ác’, tiếng Aram nghĩa là ‘Người được sai phái tới’ (c.7). Người được sai phái ở đây chính là Chúa Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian để thực hiện ơn cứu độ. Trong máu của Người, mọi bùn đất tội lỗi chúng ta đều được rửa sạch, và nhờ thế chúng ta mới có thể ‘thấy’ được nguồn sáng cứu độ.

Con đường dẫn đến đức tin

Sau khi được sáng mắt, anh mù đã gặp lại Chúa Giêsu và Ngài hỏi anh ta : “Anh có tin vào Con Người không? Kết thúc tiến trình chữa lành, anh ta sấp mình phủ phục trước mặt Chúa và tuyên xưng : “Thưa thầy tôi tin”. Lộ trình đức tin của anh mù rất giản đơn. Trước hết, anh ta ý thức về sự khốn cùng nơi mình và khao khát vươn lên. Thứ đến, anh đến gặp Chúa Giêsu và Ngài ban tặng anh một thang thuốc quý, đó là ‘lấy bùn bôi vào mắt’ của anh. Song thực ra, thang thuốc vô giá anh có được chính là việc anh gặp được Chúa Giêsu và được Ngài sờ chạm đến. Cuối cùng anh đến hồ Si-lô-ác để rửa và thấy được. Thực ra anh mù đã được rửa trong ‘Đấng được sai tới’ và đã ‘thấy’, đã bắt đầu đi vào hành trình đức tin. Đây cũng là những giai đoạn thông thường trong lộ trình của chúng ta trên con đường tìm kiếm Chúa. Giai đoạn nào cũng quan trọng. Nhưng điều cần thiết trước tiên, là chúng ta cần phải nhận ra sự khốn cùng nơi thân phận tội lỗi của mình để biết chạy đến với Chúa và tiếp cận Ngài. Khi đã được sáng mắt, tức là đã ‘thấy’, chúng ta hãy sống theo lời khuyên của thánh Phaolô, được đọc lại trong bài đọc 2 hôm nay : “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, ‘anh em là ánh sáng’. Trở nên ánh sáng để soi dẫn người khác là bản chất ơn gọi Kitô hữu nơi chúng ta.

Kết luận

Tại Lộ Đức ngay cổng vào có 1 bức tượng người mù khá ấn tượng. Chủ nhân là 1 doanh nhân Công giáo giàu có nhưng đã mất đức tin từ lâu. Ông ta không còn đến nhà thờ nữa, cũng chẳng còn tin vào Chúa một chút nào. Ông không muốn đi hành hương, nhưng vì nể vợ, nhất là thương đứa con gái tật nguyền, ông đã chấp nhận đi cùng với gia đình đến Lộ Đức. Đứa bé đã sốt sắng cầu nguyện với Đức Mẹ để xin ơn chữa lành, không phải cho em nhưng cho chính ông bố của em. Chúa đã chấp nhận và ông đã khôi phục lại được đức tin vốn bị đánh mất từ lâu. Ông cho tạc bức tượng người mù để ám chỉ về chính ông, một con người mù lòa trong đức tin nay được sáng mắt nhờ sự can thiệp của Đức Maria.

Có bao giờ chúng ta nhận ra sự mù lòa nơi chính mình hay chưa, hay chúng ta vẫn tưởng rằng mình sáng mắt như những người Pharisêu trong bài Tin mừng hôm nay ? Chúng ta hãy học lấy thái độ khiêm tốn của anh mù bên hồ Si-lô-ác, năng đến với Chúa để được Chúa yêu thương và chữa lành.

Về mục lục

.

PHẢI TÔN TRỌNG SỰ THẬT

Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

Ca dao Việt Nam có câu:

“Thương nhau nước đục cũng trong,

Ghét nhau nước chảy giữa dòng cũng dơ!”.

            Tại sao nước đục mà lại trong? Và nước chảy giữa dòng mà lại dơ? Thưa vì con người đôi khi có cái nhìn lệch lạc, nhìn sai, nhìn không đúng. VÌ nhìn không đúng, nên sự thật đôi khi bị bóp méo. Cũng do tình cảm con người mà ra, hễ: “Yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu”.

  1. Trường hợp Chúa Giêsu trong Phúc âm hôm nay. Ngài làm phép lạ chữa anh mù từ lúc mới sinh. Sự thật đã rõ như ban ngày, ai ai cũng biết. Thế mà bọn luật sĩ và biệt phái vì ghét Chúa Giêsu, nên cố tình che giấu sự thật.
  2. Dân chúng ai cũng biết rõ, nên bảo nhau: “Người mù này vẫn ăn xin ở cửa đền thờ, nay nhờ ông Giêsu, người thành Nazareth chữa khỏi”. Sợ sự thật lan nhanh như vết dầu loang, nên bọn biệt phái vội bưng bít: Không đâu, các anh nhìn lộn đấy, một người giống như anh ta chứ không phải anh ta.
  3. Người mù thấy có sự xuyên tạc, nên anh lên tiếng: “Chính tôi được ông Giêsu chữa lành chứ con ai?”. Bọn biệt phái vặn lại: “Nhưng sao ngươi được khỏi?” Anh đáp: “Người ấy đã sức nước miếng trên mắt tôi. Sau đó, mắt tôi được sáng”. Bọn biệt phái cả vú lấp miệng em: “Tội mày sờ sờ ra thế, đã kh6ong biết thân, lại còn đặt chuyện”. (Người Do Thái quan niệm bệnh là hình phạt của Thiên Chúa). Nhưng sự thật vẫn là sự thật.
  4. Sau đó, họ dùng cha mẹ anh để gây áp lực. Họ hỏi hai ông bà: “Anh này con ông bà, và bị mù từ lúc mới sinh?” Ông bà đáp: “Thưa phải”. Bọn biệt phái hỏi: “Tại sao anh được sáng mắt?” Vì khi ấy đã có lệnh trục xuất bất cứ ai nhận Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế. Phần vì tránh đôi co, phần vì sợ liên lụy, hai ông bà đáp: “Điều đó chúng tôi không biết, chỉ biết nó bị mù từ lúc mới sinh. Còn nay, tại sao nó được sáng mắt, chúng tôi không biết. Nó lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”.
  5. Họ lại xoay đến anh mù: “Anh nghĩ thế nào về ông Giêsu? Anh tin ông ấy là Đấng Cứu Thế à? Đấng Cứu Thế đâu có chữa bệnh trong ngày Sa bát?”. Anh mù đáp: “Điều đó tôi không biết. Chỉ biết tôi bị mù từ lúc mới sinh, nay nhờ ông Giêsu chữa tôi được sáng mắt”. Bọn biệt phái tức bực đuổi anh ra khỏi đền thờ,…Họ dùng lý kẻ mạnh. Còn anh mù can đảm dám nói lên sự thật, dù sự thật mất lòng, dù sự thật phải trả giá.

            Ở bài đọc II, thánh Phaolô viết cho tín hữu Êphêsô rằng: “Hoa trái của sự sáng ở tại sự tốt lành, sự công chính, sự chân thật. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng”. (Eph 5, 8-14).

            Thưa anh em.

            – Sự thật không ở kẻ mạnh.

            – Sự thật cũng không ở kẻ to mồm, to miệng. Nên trước khi hành động phải suy nghĩ, cân nhắc cẩn thận. Xét kỹ xem đâu là đúng đâu là sai.

            – Đừng a-dua theo kẻ dữ làm bậy. Đừng hú theo tiếng hú của con chó sói. Trái lại, hãy đi trên con đường công chnính. Ngay nay có kẻ nói: “Bạn theo đạo, vừa mất giờ, mất sức lại giảm sức lao động”. Nếu con người là cái máy, thì nhận xét trên mới đúng. Đằng này, con người không là cái máy, mà là con vật biết suy nghĩ, là nhân linh ư vạn vật, là con cái Chúa,… Thì việc sống đạo, giữa đạo phải là một bổn phận của một loài thụ tạo đối với Đấng Hóa Công.

            – Hơn nữa, người Công giáo hiểu hơn ai hết: “Theo Chúa, gắn bó với Chúa sẽ được gấp trăm ở đời này và được hạnh phúc đời sau”.

            – Đạo là con đường dẫn con người tới hạnh phúc. Nên kẻ sống đạo tốt, cũng là người công dân tốt. Tin thần là đèn soi thân xác. Tin thần có sáng suốt thì đời sống con người mới thành công.

            Xin Chúa soi sáng cho con nhìn biết sự thật, nhất là sự thật về Chúa Kitô, Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài là Đấng cứu độ con. Xin giúp con đừng vì a-dua hay sợ kẻ khác mà không đi vào con đường ánh sáng.

            Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống”. (Ga 8,12).

Về mục lục

.

MÙ TÂM LINH

Trầm Thiên Thu

Khiếm thị không chỉ gây “bất tiện” mà còn có thể liên quan các bệnh khác như chậm phát triển tinh thần, rối loạn tự kỷ, bại não, suy giảm thích giác, và động kinh. Theo WHO, khiếm thị được định nghĩa là khi thị lực của một người dưới mức 20/500 hoặc thị trường nhỏ hơn 10 độ. Định nghĩa này được đưa ra năm 1972, và vẫn còn được thảo luận xem nó có nên được thay đổi một chút hay không.

Chỉ bị bụi vô mắt hoặc đau mắt thôi cũng đã thấy khổ rồi, chứ nói chi tới khiếm thị, lòa, thông manh hoặc mù lòa. Thảo nào tiền nhân đã xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm. Một người mắt sáng bình thường nhưng vẫn có những “điểm mù” đặc trưng nào đó.

Có hai con mắt, mờ một mắt, kém hoặc hư một mắt, thị lực yếu cũng là khổ lắm rồi, huống chi bị mù hẳn. Hai con mắt “khác” một chút như bị đau cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” là khổ suốt – dù có thêm “hai con mắt” nữa. Kính mắt vừa tốn kém vừa vướng víu, phiền phức vì phải lệ thuộc nó!

Thật lạ lùng là mắt cũng biết khóc, biết cười, chứ không đơn giản chỉ để nhìn. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẽo, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn, nhờ biết khóc mà mắt thêm đẹp. Có điều đặc biệt là phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân!

Nước mắt là loại đặc ngữ mà trái tim không thể diễn tả. Mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, như người ta ví von: “Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Qua hai “cửa sổ” này, người ta có thể biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn quan trọng lắm đấy. Đôi khi không cần mở cửa ra vào nhưng lại rất cần mở cửa sổ. Người yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía”. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu thôi!

Cảnh mù lòa đồng nghĩa với tối tăm, tất nhiên trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nên Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Chắc hẳn lúc đó chúng ta hóa thành người “có mắt như mù”. Khủng khiếp và đáng sợ quá!

Trong cuộc sống có nhiều hình thức mù, nhiều mức độ mù, và cũng đa dạng về “điểm mù”. Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Sa-mu-en: “Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua” (1 Sm 16:1). Chúa không nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc”.

Trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông Sa-mu-en thấy Ê-li-áp nên nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!”. Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác.

Còn phàm nhân chúng ta ưa “trông mặt mà bắt hình dong”, cứ tưởng “con lợn béo” thì chắc chắn “lòng nó ngon”. Nhưng Thiên Chúa lại không như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam chí lý: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Nhưng mấy khi chúng ta thóat được “điểm mù” này? Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém”. Đó cũng là dạng tâm lý yếu kém.

Sau đó, ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Đức Chúa không chọn những người này”. Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Gie-sê nói còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên. Ông Sa-mu-en liền bảo ông Gie-sê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!”. Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Và rồi Thần Khí Chúa liền nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi. Đặc điểm của Đa-vít: tóc hung và đẹp trai (1 Sm 17:42).

Phụng vụ Chúa Nhật Hồng (Chúa Nhật Mừng – Laetare Sundae) sử dụng trọn Thánh Vịnh 23 (gồm 6 câu). Đây là Thánh Vịnh phổ biến nên rất quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng, tiền định và che chở, đồng thời cũng có ý đề cập niềm tín thác vào Ngài: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-4).

Thật vậy, khi có Chúa đồng hành thì chúng ta hoàn toàn an tâm và vui sống, “dầu qua lũng âm u” thì cũng “chẳng sợ gì nguy khốn”, bởi vì chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ”. Tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:5-6). Vâng, có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững dạ, bởi vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không hề có chút bóng mờ hoặc tối tăm.

Nói về bóng tối tâm linh, Thánh Phaolô phân tích: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5:8-9). Ông nhắc nhở chúng ta phải cẩn trọng cân nhắc xem “điều gì đẹp lòng Chúa”, chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5:10-11). Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14).

Bóng tối đối nghịch với ánh sáng. Bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nó mạnh mà lại yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng bị đẩy lùi ngay. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.

Cuộc sống đời thường và tâm linh cũng tương tự. Chuyện đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn nhiều lắm!

Một hôm, Thầy trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9:3-5). Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Thiên Chúa được vinh danh.

Tuy nhiên, đáng lẽ chúng ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn không mấy quan tâm. Do đó, trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, gặp điều xui xẻo,…) là những người tội lỗi, xấu xa hoặc độc ác. Có người chỉ “để bụng”, nhưng có người lại dám phán một câu “xanh rờn” rằng: “Chúa phạt!”. Ôi, lạy Chúa tôi! Nói theo phim bộ Hong Kong thì phải nói: “Thiện tai!”.

Không chỉ vậy, chúng ta còn có thiên kiến (định kiến). Cũng một sự việc như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì chúng ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!”. Nhưng với người “hợp ý mình” thì chúng ta lại nói: “Thánh giá Chúa trao”. Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Chính định kiến đó là cách chúng ta “giết” người mà không cần gươm giáo!

Đừng quên Thiên Chúa đã nghiêm khắc cảnh báo: “Đừng tưởng mình là công chính trước mặt Đức Chúa, cũng đừng ra vẻ khôn ngoan bên cạnh đức vua. Đừng cười nhạo ai đang cay đắng trong lòng, vì có Đấng vừa hạ xuống vừa cất nhắc lên” (Hc 7:5 và 11). Mọi sự đã có Thiên Chúa quan phòng và tiền định, đừng cầm đèn chạy trước ô-tô, trứng đừng đòi khôn hơn vịt, vì đó KHÔNG là việc của chúng ta!

Trả lời các đệ tử xong, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai phái”). Anh ta đến rửa ở hồ ngay lập tức, và trên đường về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có “biệt dược” độc đáo ghê đi, hiệu quả liền. Mà phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng ngữ nghĩa. Đó là “nước miếng trộn với bùn”. Hay dữ nghen! Mấy lang băm chớ mà học đòi theo Thầy Giêsu kẻo bệnh nhân hóa tệ hơn, còn các pháp sư thấy vậy thì phải sợ mà chạy có cờ, các lương y và bác sĩ danh tiếng cũng phải tâm phục khẩu phục!

Trước đó, dân chúng hằng ngày thấy anh ta ăn xin mới xì xầm bàn tán, kẻ thì bảo là chính hắn, kẻ thì bảo không phải, kẻ lại bảo ai đó giống hắn thôi. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những người Pha-ri-sêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sa-bát. Ấy thế, người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9:15). Sự thật là sự thật, không thể nói khác được.

Còn trong nhóm Pha-ri-sêu, có người thì nói rằng Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, vì Ngài không giữ ngày sa-bát, có kẻ thì lập luận rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi vậy kìa? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngay: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17). Rất thẳng thắn, rất rạch ròi. Sự thật là thế mà!

Những người Do-thái không tin trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, họ đã gọi cha mẹ của anh ta đến. Họ hỏi anh ta có phải là con không. Cha mẹ của anh ta XÁC NHẬN anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh ta sáng mắt, chuyện này thì họ không biết tại sao, cha mẹ của anh ta bảo họ cứ hỏi chính anh ta là rõ ràng nhất. Cha mẹ của anh ta nói thế vì sợ người Do-thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Có lẽ chúng ta cũng đã nhiều lần hèn nhát vì SỢ như cha mẹ của anh mù này. Chẳng oan ức chi mô!

Và rồi một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi” (Ga 9:24). Trước nói khác, sau nói khác. Đúng là “lưỡi rắn” của bọn Biệt Phái. Nhưng anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Rồi anh thẳng thắn đặt vấn đề rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”. Thật là phiền toái với loại người lắm chuyện và giả hình như bọn Biệt Phái!

Nghe họ nói vậy, anh ta vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:30-33). Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34). Và rồi họ liền trục xuất anh ta. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi!

Chính Đức Giêsu cũng biết họ đã trục xuất anh ta. Khi gặp lại, Ngài hỏi anh ta có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây” (Ga 9:37). Thật bất ngờ, nhưng anh thấy rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 9:38). Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”. Mấy ai dám hành động như anh ta? Quả thật, anh ta rất can đảm, đáng để chúng ta noi gương lắm.

Biết anh thật lòng, vì Chúa Giêsu “đi guốc trong bụng mọi người” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6), Ngài nói với anh ta: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Những người Pha-ri-sêu đang ở đó và nghe vậy thì giật thót mình và liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”. Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ mọn” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu cũng mắc cười và lắc đầu, nhưng vẫn thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’, nên TỘI CÁC ÔNG VẪN CÒN!” (Ga 9:41). Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn!

Thế còn chúng ta? Liệu đã có những lần chúng ta y như người Pha-ri-sêu vậy? Chắc chẳng hơn họ đâu! Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn”, không chịu “cân nhắc” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta “có mắt như mù”. Thật đáng sợ biết bao!

Như chúng ta đã biết, mù lòa thì chắc chắn khổ, nhưng chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ lắm, và cũng khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt không bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân” (Tv 91:8). Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (Tv 119:18).

Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết rằng chúng ta đã đi được nửa Hành Trình Mùa Chay. Con-mắt-đức-tin của chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, còn cận thị, viễn thị hoặc loạn thị nhiều hay ít? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không nhìn rõ tội mình, và loạn thị vì cứ “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, và lỗi tại người khác một phần”. Đã qua nửa hành trình Mùa Chay, chúng ta cùng tạ ơn Chúa, đồng thời tiếp tục cầu xin Ngài dìu dắt chúng ta vác thập-giá-của-mình cho hết chặng Đời-Chay theo đúng Thánh Ý của Ngài.

Thiết tưởng cũng cần đề cập câu nói của Mahatma Gandhi: “Tôi yêu mến Chúa Kitô nhưng tôi ghét các Kitô hữu, vì họ KHÔNG GIỐNG Đức Kitô. Nếu họ giống Đức Kitô thì dân Ấn chúng tôi trở lại Công giáo cả rồi”. Thật là “nhức nhối” quá, vì chúng ta còn nhiều ảo tưởng lắm – tức là chứng mù trầm kha!

Lạy Thiên Chúa là Bác Sĩ Toàn Năng, xin mở mắt-đức-tin cho con, xin tăng thị-lực-tâm-linh cho con, xin giúp con nhìn thấy chính Chúa trong mọi người – nhất là nơi những người nghèo khổ, nơi những người hèn mọn, và xin cho bất kỳ ai gặp con cũng có thể nhận thấy Ngài sống động nơi con. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Chúng ta vừa nghe Thánh sử Gioan tường thuật lại phép lạ Đức Giêsu chữa người mù từ khi mới sinh. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu thái độ của các nhân vật trong câu chuyện này.

1. Thái độ của Đức Giêsu:

Đức Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót. Trong ba năm cuộc đời công khai, Ngài đã làm rất nhiều phép lạ để chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền. Có những phép lạ xảy ra do sự thỉnh cầu của con người. Nhưng cũng có những phép lạ xảy ra do chính Ngài chủ động đến với con người như phép lạ chữa cho người mù hôm nay. Câu chuyện phép lạ bắt đầu bằng sự thắc mắc của các môn đệ: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?” (Ga 9,2). Và Đức Giêsu cho biết: “Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh.” (Ga 9,3). Giải thích xong thắc mắc của các môn đệ, Đức Giêsu bắt đầu hành động để chữa lành cho anh mù. Tin mừng kể: “Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: ‘Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa.’ Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.” (Ga 9,6-7).

Như vậy, phép lạ đã xảy ra, anh mù đã sáng mắt. Nếu câu chuyện kết thúc ở đây thì đã khá hoàn hảo. Nhưng lòng thương xót của Đức Giêsu còn muốn đi xa hơn. Đó chỉ là phép lạ chữa lành con mắt phần xác. Đức Giêsu còn tiếp tục đồng hành với người mù, giúp người mù sáng cả con mắt đức tin. Như vậy, Đức Giêsu đã thực hiện nơi người mù hai phép lạ cùng một thời điểm: Phép lạ sáng con mắt thể lý và phép lạ sáng con mắt đức tin.

2. Thái độ của người mù:

Bệnh mù lòa có thể do bẩm sinh, có thể do tai nạn hay một nguyên nhân nào đó. Người bị mù thì không thấy ánh sáng, không được nhìn ngắm cảnh đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của người thân, không thấy đường đi, không thấy công việc để làm, giảm thiểu hạnh phúc của cuộc đời…Nên họ bị thiệt thòi về nhiều mặt. Ước mong lớn nhất của người mù là được sáng đôi mắt.

Người mù trong câu chuyện Tin mừng hôm nay đã mù từ thuở mới sinh. Chắc chắn anh ta ngày đêm mong muốn được sáng đôi mắt. Lòng mong muốn đó được đáp ứng khi anh gặp được Đức Giêsu. Hay nói đúng hơn là được Đức Giêsu gặp anh. Qua câu chuyện cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đi bước trước để đến với anh. Ngài hành động và mời gọi anh làm theo ý của Ngài. Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt anh và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa”. Đó là một lời mời gọi của đức tin. Tin mừng cho biết: “Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.”

“Ra đi và rửa rồi trở lại.” Đây là thái độ của sự vâng phục trong niềm tin. Nhờ thế mà anh được sáng con mắt. Sau đó, anh đã công khai làm chứng về Đức Giêsu: “Ngài là một tiên tri”(x. Ga 9,17); “Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã lấy bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy;”(Ga 9,25).

Khi những người biệt phái cho rằng Đức Giêsu “không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat,” thậm chí họ kết án “Đức Giêsu là một kẻ tội lỗi” thì người mù còn khẳng định rằng: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” (Ga 9,25). Rồi anh tiếp tục làm chứng: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy” (Ga 9,31). Lời khẳng định đó đưa đến kết luận: Đức Giêsu là “người bởi Thiên Chúa mà đến” (Ga 9,33).

Đức tin của người mù còn thể hiện một cách mạnh mẽ ngay cả khi anh bị cha mẹ bỏ rơi. Sau này gặp lại Đức Giêsu, anh còn xác tín rằng: “‘Thưa Ngài, tôi tin.’ Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,38).

Tấm gương của người mù đáng cho mỗi người chúng ta học tập: Một đức tin vững mạnh, một đức tin can đảm trước những nghịch cảnh của cuộc sống.

3. Thái độ của những người Biệt phái:

Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù, những người Biệt phái đã mở một cuộc điều tra nhằm lên án Đức Giêsu, phủ nhận phép lạ Ngài vừa làm. Đây là một thái độ kiêu căng, thể hiện một sự ghen tương không muốn chấp nhận sự thật, không nhìn thấy quyền năng của Thiên Chúa đang thể hiện trước mắt họ. Thậm chí, vì cái nhìn mù quáng nên họ còn muốn kết án Đức Giêsu là người tội lỗi. Họ ghét Đức Giêsu nên họ ghét luôn cả những người có liên hệ, cụ thể là họ ghét luôn cả người mù. Người mù đã trở thành nạn nhân của họ (x. Ga 9,34). Vì thế, họ tìm cách gây áp lực và làm khó dễ cho anh ta. Họ sáng con mắt phần xác nhưng lại mù quáng con mắt thiêng liêng. Mặc dầu vậy, họ còn tự hào là mình rằng “chúng tôi thấy.” Chính vì thế, lời quả quyết của Đức Giêsu thể hiện đúng bản chất của họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy,’ nên tội các ông vẫn còn đó” (Ga 9,41)

Trong cuộc sống hôm nay cũng có nhiều người giống như những người biệt phái này. Họ không làm việc lành, trái lại có ai đó làm việc lành thì họ lại ngăn cản hoặc tìm cách bóp méo sự thật, thậm chí còn bỏ vạ, cáo gian, kết án người vô tội.

4. Thái độ của cha mẹ người mù:

Trước sự rắc rối mà chính con mình gặp phải đáng lý ra hai ông bà phải đứng ra bệnh vực cho con. Đằng này, hai ông bà lại lẫn trốn trách nhiệm không dám nói lên sự thật mà còn đùn đẩy cho con: “Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”(Ga 9,23). Chính Tin mừng đã cho chúng ta biết lý do vì sao cha mẹ anh ta lại nói như thế: “Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Ðấng Kitô.”(Ga 9,22). Đây là một thái độ cầu an nên thiếu trách nhiệm với con mình.

Trong cuộc sống hôm nay, cũng có rất nhiều người sống thiếu trách nhiệm không chỉ đối với con cái mà còn đối với Giáo Hội và xã hội. Nhiều người cha người mẹ không dám nhận con cái mình vì sợ phải nuôi nấng chăm nom, vì thế chúng ta hiểu tại sao có nhiều người cha người mẹ đành bỏ rơi con cái, thậm chị giết hại con cái ngày từ trong lòng mẹ. Nhiều người con cái không dám nhận cha mẹ mình vì cha mẹ nghèo đói, bệnh tật. Nhiều người không dám đứng lên bênh vực cho công lý và sự thật vì sợ liên lụy đến mình và gia đình mình, sợ ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo.

Vì thế, cảnh bất công, người công chính bị trù dập, việc tốt việc lành bị bóp méo vẫn còn nhan nhãn trong xã hội chúng ta đang sống.

5. Thái độ sống của chúng ta hôm nay?

Suy niệm về thái độ của Đức Giêsu, của người mù, của những người biệt phái và của cha mẹ anh mù, chúng ta thử đối chiếu với thái độ sống của chúng ta như thế nào?

Có khi nào chúng ta sẵn sàng đến để giúp đỡ những người xấu số như Đức Giêsu đã giúp đỡ cho người mù không? Chúng ta có bênh vực cho những người gặp rắc rối trong đức tin như Đức Giêsu bênh vực cho người mù không?

Có khi nào chúng ta can đảm bênh vực cho Chúa, cho Giáo Hội và cho niềm tin của mình giữa thử thách gian nan như người mù không?

Có khi nào chúng ta kiêu ngạo, ghen tuông nên tìm cách từ chối sự thật, thậm chí còn bỏ vạ cho người tốt không?

Có khi nào chúng ta sợ liên lụy đến mình, gia đình mình hay thiệt thòi về của cải vật chất…nên thiếu trách nhiệm với những người thân yêu của chúng ta như cha mẹ của người mù không?

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì chúng con không bị mù con mắt thể lý. Nhưng xét mình lại có lẽ nhiều lúc chúng con vẫn bị mù về con mắt tinh thần. Xin Chúa giúp chúng con biết làm theo lời Chúa dạy để chúng con được luôn sáng con mắt đức tin, con mắt tinh thần. Amen.

Về mục lục

.

XIN CHO CON ĐỪNG THẤY!

Lm Nguyễn Văn Nghĩa

 “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39). Lời khẳng định của Chúa Giêsu xem ra khó nghe thậm chí thật khó hiểu nếu không ở trong ngữ cảnh lúc bấy giờ. Cùng với anh mù từ thưở mới sinh, chúng ta chân thành tin nhận “Người là ánh sáng thế gian” (Ga 9,5). Dưới cái nhìn đức tin này chúng ta có thể hiểu phần nào lời tuyên bố của Đấng Cứu Độ.

1.  Người làm cho kẻ tự cho mình là thấy, là sáng, là am hiểu, trở nên đui mù, nghĩa là nhận ra sự lệch lạc, sai lầm của mình:

Xem quả thì biết cây. Không ai hái được trái nho nơi bụi gai. “Trong nhóm Pharisiêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabbat”, kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi thì làm sao có thể làm đựơc những dấu lạ như vậy?”. Thế là họ đâm ra chia rẽ. Một dấu lạ vượt quá khả năng bình thường của con người là làm cho kẻ mù từ thưở mới sinh được trông thấy. Đúng là một dấu lạ tốt đẹp. Một hành vi tự nó là tốt đẹp được thực hiện trong một hoàn cảnh trái với quy định của luật lệ thì có còn là tốt đẹp chăng? Nếu luật lệ ấy thuộc hàng thiên luật (như luật tự nhiên, luật mạc khải) thì nói chung là không còn là tốt đẹp vì “mục đích không thể biện minh cho phương tiện”. Tuy nhiên nếu luật đó thuộc hàng nhân luật (như luật quốc gia, luật Hội Thánh…), thì các việc tốt đẹp cao cả như việc cứu sống người hay mở mắt người mù thì luôn ở trên các quy định của nhân luật. Chúa Kitô không chỉ một lần như trong câu chuyện hôm nay mà đã nhiều lần vạch trần sự sai lầm của một số người biệt phái, luật sĩ khi họ tuyệt đối hoá nhân luật như luật Lễ nghỉ hay các tập tục tiền nhân mà xem nhẹ và bỏ qua lề luật của Thiên Chúa như đức công bình và đạo yêu thương, lòng từ bi và tình thương xót.

Chước cám dỗ muốn tuyệt đối hoá các chỉ thị, các quy định hay luật lệ của mình, dù chỉ là phàm nhân, vẫn còn đó dưới mọi hình thức. Tình trạng “phép vua thua lệ làng hay đạo trời còn dưới ý con người” vẫn đang tồn tại cách này cách khác ngoài xã hội và có khi cả trong các tập thể tôn giáo. Xin cho ánh sáng Đấng Cứu độ chiếu soi sự u minh của những người tự cho mình là sáng nhưng thực ra đang ở trong mê lầm. “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn” (Ga 9,41).

2.  Người làm cho người không xem thấy được thấy: Con người thường xem xét dựa vào cái bên ngoài, còn Thiên Chúa thì thấy tận cõi sâu tâm hồn con người. Chính vì thế, để có một cái nhìn quân bình và toàn diện, cần phải biết nhìn theo cách nhìn của Thiên Chúa. Đức Kitô, cuộc đời, những lời giảng dạy và các hoạt động của Người chính là cách thế giúp ta nhìn nhận cuộc đời, con người, các sự vật, hiện tượng cách đúng đắn và chuẩn mực.

Chúa Kitô không chỉ dùng quyền năng làm cho anh mù từ thưở mới sinh được thấy ánh sáng tự nhiên, Người còn khai mở con mắt đức tin của anh khiến anh can đảm nhìn nhận và tuyên xưng Người là một vị Ngôn sứ cho dù phải bị trục xuất ra khỏi Hội đường. Các môn đệ vốn mù tối lầm lạc khi cho rằng anh mù từ thưở mới sinh là do tội của anh ta hoặc do tội của cha mẹ anh ta. Chúa Kitô đã mở mắt cho các ngài để các ngài nhận ra rằng có nhiều sự dữ là do tội lỗi con người gây ra nhưng cũng có nhiều sự dữ xảy ra mà chẳng do bởi lỗi của người này hay người kia. “Đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể được ” (Mt 19,26). Qua các sự dữ, Thiên Chúa có thể làm nổi rõ quyền năng và tình yêu của Người.

3.  Là ánh sáng thế gian, Chúa Kitô thúc bách ta phải thấy cả những điều ta không muốn thấy. Quả thật, rất nhiều khi ta bị cám dỗ “được không nhìn thấy” để khỏi phải vất vả, khỏi phải hy sinh hay khỏi phải dấn thân, chia sẻ… Mở cửa ra, nhìn thấy người tàn tật, thế là được mời gọi chia sẻ. Một đôi lần thì có thể được, nhưng một ngày mà đến ba bốn lần nhìn thấy thì sao đây? Thấy chuyện bất công là được mời gọi săn tay áo để tạo lập sự công bằng… Không nguyên chỉ vất vả mà còn biết bao điều phiền toái có thể ập đến. Lắm khi chưa được mạ thì má đã sưng hoặc cảnh ai thổi lữa người đó bỏng môi là điều dường như khó tránh.

Lạy Chúa xin cho con đừng thấy. Một lời cầu xin để mình được an phận. Ánh sáng đã đến thế gian. Chúa Kitô đã đến thế gian, Người làm cho kẻ mù được thấy và bắt kẻ không thích nhìn thấy cũng phải thấy, ngoại trừ chính họ tự ý bịt mắt không muốn nhìn. Không cứu sống là đang giết chết. Không làm điều lành là đã làm điều dữ (x.Mc 3,1-5). Phải làm ngay hôm nay những gì ta thấy phải làm theo khả năng và hoàn cảnh của mình.

Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm…Một lời cầu xin thật chính đáng và phải đạo mà Kitô hữu thường xuyên đọc. Thế nhưng khi Chúa cho ta thấy, cho ta biết việc phải làm thì sao đây? Có khi nào ta bị cám dỗ “ước gì đừng thấy, ước gì đừng biết” chăng?

Về mục lục

.

HAI CÁCH NHÌN VÀ HAI LỖI SỐNG

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Ở đời, khi nói về nỗi khổ thể lý của người bị mù lòa, người ta vẫn thường nói: “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”; còn đối với các nhà thi sĩ thì con mắt là một cái gì đó rất thơ mộng! Nó luôn gợi hứng cho những ai yêu mến thơ văn có thể nảy sinh sáng tác… Vì thế, có câu: “Mắt em là một dòng sông, thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” (Lưu trọng Lư); hay đối với những nhà nhân tướng học thì: “Con mắt là phản ảnh của tâm hồn”; hoặc với các nhà khoa học thì: “Con mắt được coi như một chiếc máy chụp rất nhỏ nhưng rất tinh vi và phức tạp, chưa có một máy kỹ thuật số nào sánh kịp[…]. Con mắt thâu 80% số vốn kiến thức mà con người hấp thụ được…”.  

Như vậy, con mắt quả là quan trọng, nên người ta rất sợ bị mù. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, cái mù lòa về mặt thể lý không đáng sợ cho bằng cái mù tâm linh.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa người mù từ lúc mới sinh. Nhưng điều đặc biệt là nhờ con mắt đức tin của anh mù sáng, nên con mắt thể lý cũng nhờ đó mà được trông thấy. Ngược lại với nhiều người đương thời với anh. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì có rất nhiều người hiện nay sáng mắt về thể lý, nhưng lại mù lòa về tâm hồn.

Qua câu chuyện Đức Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh, đã nảy sinh hai cách nhìn, hai lối hiểu khác nhau giữa Thiên Chúa, mà cụ thể là nơi Đức Giêsu và những người sống cùng thời với Ngài.

  1. Hai cách nhìn và hai lối sống

Điều trước tiên, chúng ta cần nhận thấy là Thiên Chúa nhìn con người, sự vật hoàn toàn khác lối suy hiểu của con người. Nếu con người nhìn bề ngoài, thì Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm can. Chuyện người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp tuần trước là một chứng minh cụ thể! (x. Ga 4,5-42). Nếu các Pharisêu và phần đông người Dothái giữ luật chỉ vì giữ luật mà sẵn sàng trở nên vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của anh em đồng lại, thì Đức Giêsu đã vượt lên trên luật để giải phóng con người, hầu đem lại cho con người được hạnh phúc, tự do đích thực, và dẫn đưa người ta vào trong đường lối nhân hậu, bao dung của Thiên Chúa. Vì thế: “… tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta”(Is 55, 8).  

Trước mặt những người Pharisêu và người Dothái cũng như theo lỗi suy diễn của họ thì: Thiên Chúa, hay người của Thiên Chúa phải là Đấng tốt lành, thánh thiện, trung thành với Lề Luật và không bao giờ có thể gần gũi với những người tội lỗi… (x. Ga 9,16). Thật ra, nói như vậy thì không sai, nhưng chưa đủ, bởi vì nếu tách tình thương của Thiên Chúa ra khỏi xã hội, cuộc sống, cụ thể là những nơi, những người cần được cứu độ thì mâu thuẫn nội tại với Người, bởi vì: “Thiên Chúa là tình yêu”.

Tuy nhiên, thái độ của Đức Giêsu thì khác hẳn. Khi chữa cho anh mù được sáng đúng ngày cấm kị của người Dothái theo luật Môsê, Đức Giêsu đã khẳng định về sứ vụ Thiên Sai của mình, Ngài nói: “Chúng ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu, Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9,4-5). Và, Ngài cũng ngầm cho mọi người biết rằng Ngài đến từ Thiên Chúa, nên làm chủ luôn ngày Sabát và mặc cho nó một ý nghĩa đúng đắn khi nói: “Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát” (Mc 2,27-28). Vì thế, nếu đã là phương tiện, thì nó chỉ đóng vai trò là phục vụ, nên không thể không cứu người, hoặc làm việc tốt chỉ vì vụ luật.

  1. Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay như ngọn đèn soi rọi vào tận tâm hồn chúng ta để lộ ra sự ích kỷ, nghi kỵ và kiêu ngạo. Điều này được thể hiện rõ khi chúng ta không thể bỏ qua những sai sót cho anh chị em chúng ta, dẫu vẫn biết rằng, nhiều khi chính chúng ta tội lỗi hơn họ, nhưng chỉ vì chúng ta khôn khéo, lèo lái cách tinh vi mà người đời không biết, nên chúng ta vẫn “bình chân như vại” mà sẵn sàng lên án người khác. Vì thế, vẫn còn đó những chuyện đau lòng như:

Nếu ai đó một thời vướng vào cái tội gọi là “đầu trộm đuôi cướp” thì cả đời không thể thoát ra khỏi những ánh mắt coi thường, khinh khi, dẫu giờ này con người đó tốt lành, hoàn lương! Hay một cô gái nào đó chỉ vì trót dại, và cũng có thể vì hoàn cảnh bị ép buộc phải làm gái điếm… thì mặc cho cô ta đã hối hận, quay đầu trở về và hướng thiện, thì cũng không bao giờ tránh được sự dè bửu, chê bai và cả đời không bao giờ rửa hết nỗi nhục bán thân. Hoặc như một bạn trẻ nào đó, thời thanh niên, vì thiếu suy nghĩ, ham chơi, nên sa ngã vào con đường nghiện ngập, hút trích… những người này, dưới con mắt của chúng ta, họ là đồ bỏ, mà ngay cả những người có lòng giúp đỡ họ cũng bị khinh thường theo!

Chỉ đưa ra chừng ấy thôi thì cũng đủ cho chúng ta thấy là đã biết bao lần ta bỏ lỡ cơ hội như Chúa, đã bao lần ta đánh mất vai trò đồng hành, nâng đỡ và tỏa gương sáng cho anh chị em chúng ta để dìu họ bước lên. Không những thế, nhiều khi chúng ta lại cho rằng nếu tạo điều kiện thuận lợi cho họ, thì chẳng khác gì “vẽ đường cho voi chạy”; hay như một cơ hội để họ lợi dụng lòng tốt, rồi “ngựa quen đường cũ”, nên đôi lần chúng ta đã thẳng tay vùi dập, làm cho cuộc đời của họ bi đát hơn và không thể ngẩng đầu để tiến về phía trước với hy vọng thay đổi cuộc đời!

Thực ra, lối suy nghĩ trên có cơ sở hay nhiều người đã quá kinh nghiệm nên mới có những nhận định như thế! Tuy nhiên, nếu chúng ta thinh lặng và hồi tâm đôi chút, thì có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ khi thấy cuộc đời của mình cũng nhem nhuốc hay còn tệ hơn như thế nữa! Nhưng điều nguy hiểm hơn cả, đó là chúng ta đã tước mất quyền phán xét của Thiên Chúa, và trở thành một vị thẩm phán mù lòa, ác đức, không giống Đức Giêsu. Lời của thánh Phaolô khuyên các tín hữu Rôma đáng để cho chúng ta suy nghĩ: “Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình” (Rm 2,1).

Hình ảnh của Đức Giêsu, vị mục tử nhân từ, Đấng giàu lòng thương xót không hề có một thái độ như thế. Ngài sẵn sàng tháp nhập vào dòng người đến xin Gioan làm phép rửa thống hối, mặc dù Ngài vô tội. Con Thiên Chúa đã sẵn sàng trở nên một con người khiêm tốn, liên đới để cứu độ những người tội lỗi. Tinh thần ấy đã được Ngài sống và giảng dạy: “…giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,10); Và sứ mạng của Ngài là đến để cứu chữa những người tội lỗi, ốm đau, bệnh tật, vì người khỏe mạnh thì không cần đến thầy thuốc. Như vậy, những người thấp cổ bé họng, tội lỗi và bị loại ra bên lề lại là đối tượng số một của sứ vụ Thiên Sai nơi Đức Giêsu.

Nếu chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu đúng nghĩa, thì chúng ta cũng phải coi những người anh em đó là đối tượng trọng yếu của Tin Mừng và sứ vụ nơi chúng ta.

Mong sao, mỗi người chúng ta hãy để cho Lời Chúa như ánh mặt trời chiếu rọi vào tận thâm sâu tâm hồn của mình, để con mắt đức tin của chúng ta sáng lên như anh mù khi xưa, hầu tránh đi tình trạng sáng con mắt thể lý, nhưng lại mù con mắt tâm linh. Amen.

Về mục lục

.

BƯỚC NHẢY CỦA NIỀM TIN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương:

Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời.
Để nhìn đời và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen.
Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn.
Là bài thơ hay nhất.
Là lời ca không dứt.
Là tuyệt tác của thiên nhiên.

Đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.

Thi sĩ Lưu trọng Lư viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:

“Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” .

Trong bài viết “Đôi mắt”, Linh mục Nguyễn Tầm Thường suy niệm về đôi mắt mù lòa của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đến chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới, đó là mắt đức tin. Xin được mượn tư tưởng của ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: “Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh”.

Đôi mắt là cửa sổ và là cửa chính của tâm hồn cũng như của thân xác. Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu, sách Sáng Thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng.” (St 3,4 -7). (x.Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 -71)

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

– Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.

– Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

– Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam, Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù lòa chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.

Chúa Kitô đã đến trần gian chữa lành sự mù lòa ấy, hàn gắn lại vết thương thuở sa ngã của Nguyên Tổ.

Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù lòa của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt đức tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu của người mù tăng dần theo với thử thách.

Thánh Gioan kể có bốn cuộc thử thách.

– Thử thách lần thứ nhất (Ga 9,8-12), những người láng giềng và những người trước kia thường thấy anh ta ăn xin chất vấn: “hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”. Người mù xác nhận: “Tôi đi, tôi rửa, tôi nhìn thấy”. Anh không biết Chúa là ai: “Ông ấy ở đâu, tôi không biết”. Anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”.

– Thử thách lần thứ hai (Ga 9,12-17), những chất vấn của giới Pharisiêu và lời nhạo báng: “một ngưởi tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?”. Trước sức ép của họ, anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng “Ngài thật là vị tiên tri”.

– Thử thách lần thứ ba (Ga 9,18-23), họ gọi cha mẹ của anh ta đến để làm chứng, nhưng hai người sợ hãi nên nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Anh mù trực tiếp trả lời về nguồn ánh sáng đã đón nhận.

– Thử thách lần thứ tư (Ga 9,24-34), người Pharisiêu dùng đến Lề Luật. Người mù không cần biết đến Luật. Anh ta dựa vào cảm nghiệm cá nhân đã gặp Đức Kitô. Cuộc tra vấn của giới chức tôn giáo khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”.

Khi bị trục xuất ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu gặp lại anh và mạc khải cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, anh liền tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy, tôi tin” (Ga 9,37). Niềm tin của người mù tăng triển qua ba giai đoạn. Từ không biết ông ấy ở đâu cho đến ông ấy là một tiên tri, rồi sấp mình thờ lạy Ngài. Sự tiến triển niềm tin qua những lần thử thách. Càng gặp thử thách niềm tin càng sáng lên. Thử thách càng cao đức tin càng mạnh. Người mù trung thành với cảm nghiệm của mình. Đức tin lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.

Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào Lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh : “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: ”Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?”, anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin”. Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù lòa của nhân loại, với một điều kiện: Tin vào Ngài.

Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù lòa tâm hồn. Người mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9,1 -10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7,36 -50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23,32 – 43)…

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô.

“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Ðức Giêsu là một ngôn sứ. Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.
Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG

Lm. Trần Việt Hùng

Người mù từ thuở mới sinh,

Không nhìn chẳng thấy, bình minh rạng ngời.

Chẳng do lỗi phạm cuộc đời,

Vì danh Thiên Chúa, cao vời biết bao.

Ta là sự sáng trên cao,

Soi lòng mở mắt, truyền rao chữa lành.

Xoa bùn trên mắt rửa nhanh,

Ra đi được thấy, nhân danh Chúa Trời.

Láng giềng hàng xóm gọi mời,

Đức tin cứu chữa, mọi người trần gian.

Các người Biệt phái hỏi han,

Do ai mở mắt, lạm bàn xét suy.

Luật ngày Sa-bát là chi?

Tại sao lỗi phạm, sinh nghi làm phiền.

Điều tra kết án trước tiên,

Chối từ phép lạ, ơn thiêng từ trời.

Anh mù làm chứng giữa đời,

Chính Ngài công chính, cao vời chí nhân.

Bao người mắt sáng thế trần,

Mù lòa tội lỗi, tâm thân thấp hèn. 

Chúng ta nhìn thấy được mọi sự chung quanh là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ qua cặp mắt sáng, chúng ta thấy sự hùng vĩ núi đồi, sông biển, sự cao siêu của vũ trụ, sự tuyệt vời của muôn vật và vẻ đẹp của thiên nhiên. Có được đôi mắt sáng là một hồng phúc Chúa ban. Đôi mắt là cửa sổ để chúng ta tiếp cận với thế giới bên ngoài.

Bài phúc âm nói về việc Chúa chữa người mù. Mù lòa thật khổ sở. Họ lần mò trong đêm tối. Không nhìn thấy chi cả.  Họ bị thiệt thòi và mất mát quá nhiều. Chúa Giêsu đã chữa anh ta được sáng mắt. Sáng mắt cả thể xác lẫn tinh thần. Anh ta đã nhìn thấy rõ ràng minh bạch hơn cả những thầy Biệt Phái và Luật Sĩ. Anh ta nhìn thấy và tin vào Chúa là Đấng Cứu Thế. Nhìn thấy sự tốt lành và quyền năng nơi Chúa.

Có nhiều thứ đêm tối chúng ta đang bước đi. Có thứ đêm tối của u mê, ánh sáng văn minh có đó, sách vở có đó, nhưng chúng ta lại mù chữ không hiểu. Có thứ đêm tối của đức tin. Chúng ta thấy đó có các tôn giáo, các sự kiện lạ lùng xảy ra hàng ngày, sự hiện hữu của Thiên Chúa trong vũ trụ, nhưng chúng ta không thấy và không tin. Tin là thái độ của phó thác và dấn thân.

Chúng ta có mắt sáng, nhưng có lúc chúng ta như mù hoặc giả mù. Chúng ta muốn nhắm mắt làm ngơ trước những khổ đau của người khác.  Có nhiều hình thức mù lòa trong tâm hồn như ích kỷ, vô tâm, vô cảm và thiên kiến. Những thứ mù lòa này sẽ vây hãm cuộc đời chúng ta trong đêm tối.

Câu chuyện một gia đình công giáo nửa vời. Ba là người công giáo, mẹ là đạo thờ ông bà. Ba dần dần nguội lạnh thờ ơ. Cháu có ông nội bị mù. Thấy vậy, cháu đến đưa ông đi lễ mỗi tuần. Cháu không muốn đi nhà thờ, nhưng chỉ để giúp dắt ông đi thôi. Một ngày kia, dịp lễ Giáng sinh, như có lời mời gọi huyền nhiệm vang vọng trong tâm hồn. Cháu cố đi nhanh tới nhà thờ với cặp mắt thấm lệ. Cháu nói: Nội ơi, nay cháu thực sự tìm thấy Chúa. Chính nội đã dắt cháu đến với Chúa.

Chúa chính là ánh sáng đến trong trần gian. Chúa đã mở mắt người mù. Xin Chúa mở mắt tâm hồn của chúng ta để chúng ta được nhìn thấy công trình cứu độ của Chúa. Nhìn thấy những nhu cầu của anh em chung quanh. Xin cho con mắt linh hồn chúng ta luôn trong sáng để nhìn biết Chúa qua những người lầm than, nghèo khổ, bệnh tật, tù đầy, bất toại và mù lòa.

Về mục lục

.

MỞ MẮT TÂM HỒN

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Đôi mắt của con người thường được nói là cửa sổ tâm hồn. Qua đôi mắt, Chúa Giêsu nói đến: Ánh sáng và bóng tối – Thể lý và tâm hồn – Bí tích Thánh Tẩy.

Ở một góc độ nhỏ hẹp, chỉ xin chia sẻ về ý nghĩa việc Chúa Giêsu mở mắt tâm hồn để sống cuộc đời hạnh phúc.

Đôi mắt nói lên nhiều điều trong cuộc sống, bởi vì theo nhãn quan của mỗi người theo từng thời điểm, buồn hay vui, tích cực hay tiêu cực, thương yêu hay thù oán… Nhiều sự pha lẫn giữa bóng tối và sự sáng, nhiều khi bước đi trong ánh sáng mà tâm hồn vẫn tăm tối và đôi khi tâm hồn tươi sáng mà đang tiến bước đi giữa bóng tối của sự dữ đe dọa.

Mắt sáng nhưng tâm hồn tăm tối.

Câu chuyện Tin Mừng theo Thánh Gioan, trình thuật Chúa Giêsu chữa người mù từ mới sinh. Với những người thượng tế, kinh sư, cùng biệt phái, họ là những người hiểu biết Thánh Kinh, các lời tiên tri, nhưng họ lại bước đi trong đời sống tranh chấp, giận hờn, oán ghét, tỵ hiềm, ích kỷ…

Với một tâm hồn đen tối, nhìn sự gì cũng đen tối và lúc nào cũng tự hào mình đang sáng. Thông thường, những người như thế hay tìm cớ chế giễu, tìm những lỗi lầm trong đời tư của người khác, hoặc tìm cớ gây cho người khác những đau khổ và cũng không tránh khỏi họ đang là người đau khổ, bất hạnh hơn ai hết.

Mắt sáng biểu lộ một tri thức sáng suốt. Mở rộng tâm hồ bằng trí tuệ, đó là đôi mắt sáng Chúa muốn mở ra cho Thượng tế, kinh sư và biệt phái. Họ đọc mà không hiểu, họ nắm giữ các lề luật mà không thực hành.

Mở trí cho người mù có một tiến trình rõ rệt. Ban đầu anh chỉ biết một người tên là Giêsu – tiếp đến anh nhận ra là một tiên tri và sau cùng anh nhận biết đầy đủ Chúa Giêsu lá Con Người đang ở giữa nhân loại.

Tiếp cận với Lời Chúa không đơn giản như chỉ nhìn theo sự hiểu biết mặt chữ theo cách thượng tế, kinh sư. Hiểu biết là sống với Chúa, được Chúa đụng chạm vào tâm hồn, chữa lành những tâm thức mờ tối, để có tấm lòng trong và nhìn bằng con mắt sạch.

Mắt sáng biểu lộ tấm lòng thanh tịnh. Một đôi mắt nhìn cái gì cũng thấy tham – sân – si, biểu lộ cho thấy một tấm lòng còn nhiều dục vọng lôi kéo. Những vẩn đục của tâm hồn không thể làm cho đôi mắt sáng. Giữa anh mù và thượng tế, kinh sư, biệt phái, có hai lối đi ngược nhau: Người mù dần dần nhận ra Chúa, còn biệt phái, kinh sư dần dần đi vào sự mù lòa về Chúa.

Trong cuộc sống của con người cũng có thể đi theo chiều ngược lại như thượng tế, kinh sư và biệt phái. Thích đứng lì trong sự tối tăm của mình như Chúa nói để những việc làm trong tối tăm không bị đưa ra ánh sáng: “ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. “ (Ga 3, 20)

Khi không có lòng thanh tịnh thì không thể có đôi mắt sáng, cho nên Chúa Giêsu chữa người mù bẩm sinh, cũng muốn cho người mù trở thành nhân chứng “một tấm lòng thanh mới có được đôi mắt sáng”.

Đôi mắt hòa hợp, yêu thương. Sự kiện Chúa mở mắt cho người mù, cũng ẩn giấu một câu chuyện chia rẽ giữa những người Do Thái giáo và Kitô giáo vào những năm 90 (SCN), Thượng tế, kinh sư, biệt phái trục xuất người mù ra khỏi hội đường (Ga 9, 34 – 35). Lòng ganh tỵ không phải với người mù mà với Chúa Giêsu đã khiến thượng tế, kinh sư mang lòng hận thù, chỉ muốn giết chết Chúa.

Lòng ghen ghét, đố kỵ, đỉnh điểm của nó là muốn giết chết người khác qua nhân phẩm, danh dự và thủ tiêu. Gièm pha, nói xấu, vu oan,… Những tật xấu đó chỉ rõ tâm hồn còn chìm trong tối tăm. Sự kiện tối tăm của họ nguy hiểm cho chính họ chứ không ai khác, dù họ có kéo bè, kéo lũ ủng hộ lương tâm đen tối sai trái của họ, họ vẫn không thể che giấu được dưới ánh sáng, như người ta thường nói: “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”.

Sự xấu bao giờ cũng là sự xấu, nếu không được chữa lành. Chúa Giêsu không những chỉ chữa cho người mù mà Chúa cũng muốn chữa lành cho những người đang sáng mắt mà đi trong tăm tối nữa. Rửa tấm lòng để có một trái tim rộng mở, biết yêu thương, biết sống hòa hợp, bồi đắp đức ái trọn vẹn. 

Lạy Chúa, xin cho chúng con được đôi mắt trong sáng, một trí hiểu biết và yêu mến Chúa thật sự, cho chúng con nhận ra Chúa qua người anh chị em chúng con là hạnh phúc thật sự. Xin cho những nhà lãnh đạo có đôi mắt sáng, tấm lòng thanh, một trái tim yêu thương phục vụ mọi người như họ được ủy nhiệm giao phó.

Về mục lục

.

SÁNG TRÍ SÁNG LÒNG

Lm. Jos. DĐH.

Tiền nhân chúng ta rất thực tế trong giáo dục con cháu, với biết bao lời hay ý đẹp: việc người thì sáng, việc mình thì quáng ; việc nhà thì nhếch nhác, việc chú bác thì siêng năng. Cha mẹ có quan tâm, nghĩ đến gia đình là nghĩ tới xã hội hiện tại và tương lai, con cháu vâng nghe cha mẹ trước là ấm áp cho bản thân, sau là góp phần làm rạng rỡ dòng tộc, đất nước hùng mạnh. Người khiếm khuyết tật nguyền thời nào cũng có, cha mẹ anh hùng con cháu hảo hán, kẻ tốt bụng, người quảng đại nghĩa hiệp, chẳng phải ít trên trần đời này, nhưng xem ra đau khổ, bất công, quanh ta lúc nào cũng báo động !

Sứ mạng yêu thương của Đức Giêsu hôm xưa quả là “đơn độc”, khi nhìn thấy người mù bên vệ đường, sự tối tăm cản trở trước hết ập đến Ngài là các học trò: “y mù là do tội của y hay do cha mẹ y” ? Bóng tối kế tiếp mà trình thuật cho thấy đó là láng giềng, họ là những tấm lòng nghĩa hiệp đã từng làm phúc bố thí cho kẻ mù lòa. Rồi “đêm đen” dày đặc hơn là các luật sĩ biệt phái, họ vừa buông lời thóa mạ, vừa cố phủ một mầu đen vây hãm Đấng mở mắt kẻ mù. Sáng và tối, bình minh công chính và đêm đen tội lỗi, luôn đối nghịch nhau, trong khi Đức Giêsu kiên nhẫn minh chứng bằng hành động, Ngài là tình yêu, là ánh sáng, là Đấng cứu độ trần gian.

Khoảng tối cuộc đời và ánh sáng soi lối đi, sẽ đưa ta tới chọn lựa, một là kiên vững tiến bước hai là ngã gục, vì nhân loại chỉ quen với thứ ánh sáng tự nhiên. Đức Giêsu dành cho anh mù một cơ hội, anh ta đã không bỏ lỡ, không thắc mắc nghi ngờ, đi tới hồ Si-lô-e rửa như được chỉ dạy, mắt anh ta liền trông thấy rõ. Không dừng lại ở việc nhìn, thấy, Đấng ban phát ánh sáng tin yêu, Chúa còn cho anh ta cơ hội để được mở mắt tâm hồn, và mong anh có mãi thứ ánh sáng đức tin. Không có lửa làm sao có khói, không quý hiếm, không giá trị, đâu ai phải tìm kiếm, hy vọng, trân trọng giữ gìn, minh chứng tình yêu về “món quà” mà mình đã nhận được.

Xưa nay xã hội luôn chú ý, tin dùng người sáng trí, sáng dạ, và né tránh càng xa càng tốt những kẻ bụng dạ tiểu nhân, tâm xà khẩu phật. Cha ông chúng ta còn nhắc nhớ con cháu: thật thà ma vật không chết. Phụng vụ Lời Chúa không có ý ca tụng một anh mù, nhưng có ý nói đến hồng ân Chúa Giêsu ban tặng. Ơn ban sẽ phát huy hiệu quả hơn, sau khi được sáng mắt, anh ta biết bênh vực về hành động yêu thương của Chúa Giêsu. Cho dù anh phải gặp khó khăn, bị tra hỏi, bị trục xuất khỏi hội đường, anh ta vẫn vui vì còn tình Chúa, còn ánh sáng tin yêu trong cuộc đời của anh.

Kinh nghiệm ở đời, đi trong đêm tối là đi trong bóng đêm sự chết, đầy nguy hiểm, vì vậy mà sách có câu: dù bạn không trộm cắp, nhưng không thể ngăn cản được chó sủa khi đi trong đêm tối. Trong hành trình thiêng liêng, chính ánh sáng Đức Kitô mới xóa tan được bóng đêm sự chết, tâm hồn mù lòa không thể xem thấy, không thể đón nhận được ơn Thiên Chúa cứu độ. Nếu kẻ mù lòa tâm trí không nhìn thấy Đức Giêsu là ánh sáng thế gian, là Đấng cứu độ, thì là vì tội lỗi, vì họ từ chối tiếng nói sâu thẳm từ bên trong, chứ không phải do Đức Kitô chưa phản chiếu ánh sáng đức tin nơi họ.

Trong đời sống tự nhiên, nhờ mắt sáng, nhờ chút chuyên môn, người ta phân định được bức tranh xinh đẹp, nhờ tai thính, người ta cảm nhận được thế nào là nhạc phẩm hay, nhờ cảm xúc nhiều, họ sẽ diễn tả ca khúc thật có hồn… Để gặp gỡ và nhận ra Đức Kitô, mắt sáng tai thông, địa vị chức tước, giầu nghèo, cảm xúc nhiều hay ít, chưa thể lấy gì bảo đảm cho ơn gọi làm thần dân của Ngài. Trước hết mắt tâm hồn phải sáng, tâm trí ngay thẳng, có tinh thần đơn sơ khiêm tốn, nhất định Đức Kitô sẽ dẫn dắt chúng ta đến tận cùng của hạnh phúc. Đức Giêsu giầu tình yêu thương và quyền năng, Ngài chữa lành người mù từ khi mới sinh, mở mắt tâm hồn cho anh ta, và sẽ còn mở mắt đức tin cho những ai biết sám hối tin tưởng nơi Ngài.

Xưa nay người ta thường quen nhau trong ánh sáng và yêu nhau trong đêm tối, Đức Giêsu thì nhìn thấy rõ từng tâm hồn mỗi người, khi ta còn đi trong bóng đêm tội lỗi, Ngài sẽ tiếp tục yêu thương tha thứ, nếu ta mạnh dạn để Ngài sửa chữa tâm hồn. Tất cả chúng ta có sáng trí sáng lòng hay không, hay chỉ lờ mờ như người nặng tai, mắt kém, Chúa vẫn tôn trọng tự do, vẫn để ta có cơ hội khao khát được yêu thương, được nhận biết quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta đã từng nghe nói: biết thì thưa thớt, không biết thì dựa cột mà nghe,  nhưng sẽ xấu hổ hơn, nếu ta lầm tưởng nghĩ rằng, mắt sáng tinh thông thì tâm hồn cũng sáng. Chúa Giêsu thấu hiểu mù lòa, bệnh tật, nghèo túng, tội lỗi, đều gọi là khổ đau, đang ở trong bóng sự chết. Chúa Giêsu sẽ giải thoát, và phép lạ tình yêu thương chỉ có ý nghĩa khi mỗi người biết khiêm tốn, để Chúa cùng đồng hành dẫn đưa tới bến bờ hạnh phúc. Amen.

Về mục lục

.

MÙ MÀ SÁNG – SÁNG MÀ MÙ

JM. Lam Thy ĐVD.

Sống trong cảnh mù loà là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một đứa trẻ ngay từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể nào hình dung ra được hình dáng, màu sắc! Ở đời, khi nói về nỗi khổ thể lý của người bị mù lòa, người ta vẫn thường nói: “giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”. Đó là nói về mặt thể xác, ngoài ra, về tinh thần, con mắt còn được gọi là “cửa sổ của linh hồn”, là “ngọn đèn của thân thể” (“Đèn của thân thể là con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt anh xấu, thì thân anh cũng tối. Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối. Nếu toàn thân anh sáng, không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi anh.” – Lc 11, 34-36).  

Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/MC-A – Ga 9, 1-41) trình thuật về phép lạ Đức Giê-su chữa cho một người bị mù từ lúc mới sinh. Có một chi tiết rất đàng suy gẫm là theo quan niệm của người Do-thái đối với những kẻ tật nguyền bẩm sinh (đui mù, què quặt, nói chung là những khuyết tật từ trong lòng mẹ, khi sinh ra đã phải gánh chịu) đều là những kẻ có tội phải chịu những hình phạt khủng khiếp đó. Vì thế, các môn đệ mới hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9, 2). Tuy nhiên, để cảnh tỉnh các môn đệ khỏi bị ảnh hưởng bởi giáo lý sai lầm ấy, đồng thời nhận chân được sự thật nơi Người Thầy của mình, nên Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga 9, 3).

Nội dung phép lạ lần này được thánh Gio-an tường thuật rất tỉ mỉ. Ngoài anh mù thể hiện lòng tin vào Người đã chữa lành cho mình, còn một số đông người Pha-ri-sêu không tin nên cứ tra vấn, vặn hỏi bệnh nhân (kể cả cha mẹ anh ta nữa) đủ điều, và cuối cùng trục xuất anh ra khỏi hội đường. Nghe tin ấy, Đức Giê-su gặp lại anh mù, đặt câu hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” để xác định niềm tin của anh. Anh mù đã sấp mình xuống tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin.” Còn đám người Pha-ri-sêu khi nghe Đức Ki-tô khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Mc 8, 39), liền ngớ người ra và hỏi lại: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”, khiến Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!” – Ga 9, 41).

Đức Ki-tô trả lời như thế thì cũng chẳng khác nào nói: Anh mù vì tin mà được sáng mắt, nhưng nhóm người Pha-ri-sêu mắt vẫn sáng, nhưng không tin, nên cũng chẳng khác kẻ đui mù. “Có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc” (tục ngữ VN), “Thấy mà không thấy – không thấy mà thấy”, đó là một nghịch lý trong cuộc sống, nhưng lại là “chuyện thường ngày ở huyện”. Nhân tình thế thái là vậy đó! Người không hiểu rõ, không thấy rõ mà vô tình làm những điều trái thường nghịch lý sẽ không cấu thành tội (như vô tình làm chết người sẽ được coi là “ngộ sát”, chẳng hạn); còn kẻ đã biết, đã thấy rõ mà vẫn làm như không thấy, cố tinh vi phạm thì bị kết án là điều tất nhiên (vd: cố tình giết người sẽ bị kết àn là “cố sát”). Câu trả lời của Đức Giê-su một lần nữa minh định điều luật trong Giao ước Si-nai: “Giết người không có mưu tính trước thì được tha, nhưng cố tình thì sẽ bị giết chết.” (Xh 21, 12-25).

Điển hình như trường hợp thánh Phao-lô với biến cố Đa-mát: Khi còn sáng mắt, nhưng vì nhiễm phải giáo lý sai lầm của nhóm luật sĩ, kinh sư Pha-ri-sêu, nên Sao-lô cũng chẳng khác chi người mù. Đến khi bị ánh sáng chói loà làm mù mắt ở Đa-mát thì lại là lúc được sáng mắt sáng lòng và trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất Phao-lô (Cv 9, 1-19). “Mù mà sáng, sáng mà mù” là thế! Kể ra cũng thú vị, những người sáng mắt lúc nào cũng huênh hoang: “chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.” (Ga 9, 28-29), đã khiến cho người mù cũng phải ngạc nhiên: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” (Ga 9, 30-33).

Những người từng đứng trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy, thì lại không biết một tí gì về Con Người đã được ông Mô-sê (nhờ được Thiên Chúa mạc khải) tiên báo. Trong khi đó, một anh mù từ lúc mới sinh (chắc chắn không được học hành và giả thử có được học thì cũng chẳng tới đâu) lại biết về Thiên Chúa còn hơn cả đám người sáng mắt, khiến họ phát khùng (“Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” – Ga 9, 34). Chẳng cần lý luận đanh thép, lý thuyết sâu xa, mà chỉ căn cứ vào thực tế (anh được chữa khỏi bệnh mù), mà anh mù đã khiến đám Pha-ri-sêu lâm vào thế… bí, và đành giở chiêu quyền lực: trục xuất anh khỏi hội đường! Thế đấy! Như vậy thì ai sáng, ai mù thực sự đây?

Chung quy thì cũng chỉ vì vấn đề cốt tuỷ: đức tin. Anh mù được chữa lành bởi anh tin vào Con Người; mà cũng không phải chỉ riêng anh, tất cả những người bệnh hoạn, tật nguyền đến với Đức Ki-tô đều được chữa lành vì “Đức tin của anh em đã chữa lành anh em”. Còn đám người Pha-ri-sêu thì mù vẫn hoàn mù, bởi họ không tin vào Con Nguời, mà chỉ tin vào những giáo lý sai lầm như thánh Phao-lô trước khi biến cố Đa-mát xảy ra. Phép lạ chữa lành người mù bẩm sinh là dấu hiệu chứng tỏ rằng, cùng với thị giác, Chúa Ki-tô cũng muốn mở cái nhìn nội tâm, để đức tin của người tín hữu ngày càng sâu xa hơn và có thể nhận thấy nơi Người là Đấng Cứu Độ duy nhất. Chính Người soi sáng mọi tối tăm trong cuộc sống và làm cho con người sống ”như người con của ánh sáng”.

Nói đi nói lại không gì bằng mượn chính ngay lời người mắc bệnh mù nội tâm và được chữa lành, để minh hoạ: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5, 8-14). Ước được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

SÁNG MẮT SÁNG HỒN

AM. Trần Bình An

Minh chứng rõ ràng nhất cho việc cuồng tín của phần lớn người dân Việt trong xã hội hiện nay ấy là bói toán, lên đồng cốt, trở thành một nghề ăn khách, đặc biệt ở các thành phố lớn. Dẫu ở các tỉnh xa xôi, hẻo lánh nào, nếu có “giác quan thứ 6” là lập tức những người có khả năng hiếm có này tìm đường tìm nẻo về thành phố “lập kế sinh nhai” bằng nghề bói toán. Như bà H ở Hoàng Hoa Thám, chưa đến 45 tuổi, ở tận Quảng Ngãi ra Hà Nội hành nghề, mà nay đã trở thành “tên tuổi” không thể thiếu trong giới những người đoán vận hạn. Lúc đầu, chỉ là thử ra Hà Nội xem có trụ lại được ở đất Hà thành không, vài tuần bà lại ra Hà Nội một lần để “xem” cho những khách đã “đặt lịch”. Sau thấy lịch ngày càng dày lên, đến nỗi bà phải “làm việc” từ sáng sớm đến đêm, hơn cả người đi làm hành chính. Thế là bà ở lại luôn Hà Nội và biến Hà Nội thành nhà, Quảng Ngãi chỉ là nơi ở tạm. Tất nhiên, để ở lại Hà Nội, bà không thể thuê như trước đây mà bà mua một căn hộ để ổn định. Và điều đáng nói là tất cả số tiền chuẩn bị cho cuộc sống ổn định này đều “xuất xứ” từ nghề bói toán của bà. Chưa nói đến căn biệt thự của bà ở Quảng Ngãi được xây dựng cũng từ số tiền này mà ra.

Lịch “làm việc” của bà: bắt đầu từ 8 giờ sáng cho đến khi bà thấy mệt, không thể “nói” nữa mới thôi, cuối tuần không nghỉ, thậm chí ai mời đến tận nhà để xem cho kỹ, bà cũng đến, chẳng quản ngại đường sá xa xôi. Người viết đã từng chứng kiến, hôm nào ít bà cũng phải xem cho khoảng chục khách, hôm nào nhiều thì “cháy” lịch, phải gạt sang hôm khác. Và lượng người đến xem bói của bà lúc nào cũng vậy, đều… như vắt chanh, làm cho thu nhập của bà cũng vì thế mà dư giả vì trung bình 200 nghìn đồng/người. Cũng cần phải nói thêm đấy là tự họ đặt tiền chứ bà không yêu cầu. Và bà kể, có những người một tuần đến xem của bà 3-4 lần liên tiếp do “nhà có chuyện”. 

Một chuyện nữa minh chứng cho việc cuồng tín của người dân Việt hiện nay ấy là đốt vàng mã. Theo số liệu thống kê, mỗi năm tiền mua vàng mã người dân Hà Nội lên đến 400 tỉ đồng. Còn trên toàn quốc chắc phải tính đến đơn vị cân đong khoảng 50 nghìn tấn tiền vàng mã dựa trên quan niệm “trần sao âm vậy” hay “tốt lễ dễ kêu”. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Lâm Biền cho rằng, đây là hành động “buôn thần bán thánh”, “phỉ báng thánh thần” của người dân hiện nay và điều đó cho thấy sự cuồng tín đã đến mức không thể nào kể xiết. (Lại bài chuyện cuồng tín, Phật giáo Việt Nam) 

Cuồng tín là tình trạng mù lòa tâm linh, không nhìn thấy đâu là sự thật, đâu là chân lý, vì bị thói háo danh, háo lợi, chức tước che mắt, ám ảnh chi phối. Nên dễ mê muội nghe theo những lời xảo trá vừa lòng. Không chỉ người Biệt phái xưa cuồng tín, mà nay tất cả những ai choáng ngợp và đam mê phù hoa thế gian, đều không có khả năng nhận ra ánh sáng thế gian. “Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian.” Tin Mừng hôm nay, tường thuật Đức Giêsu làm phép lạ chữa người mù bẩm sinh, không những được sáng mắt mà còn được sáng lòng. 

Đức tin hành động 

“Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa.”Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.”Anh mù mau mắn vâng lời Đức Giêsu phán bảo, được sáng mắt ngay. Niềm tin của anh được minh chứng, thể hiện bằng hành động cụ thể. “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.”(Gc 2, 17) 

Hơn nữa, niềm tin còn được củng cố, chứng minh bằng việc sống theo Lời Chúa, nhất là tuân giữ các giới răn của Chúa. “Nếu ai giữ các giới răn của Thiên Chúa thì đó là dấu chỉ chúng ta đã nhận biết Thiên Chúa. Ai nói rằng mình biết Chúa mà không giữ các điều răn của Chúa đó là kẻ nói dối, và chân lý không có trong kẻ ấy.”(1Ga 2, 3-4) 

Đức tin chiến đấu  

Mặc dầu đức tin của anh mù được sáng còn non nớt, anh đã chịu gian nan thử thách, khi buộc phải chiến đấu với những người Biệt phái, đang ra sức chống đối, xúc phạm, tẩy chay Đức Giêsu. Anh hùng hồn bác bỏ luận điệu xuyên tạc về Người. “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời.” 

Anh mù chẳng phải cậy sức mình chiến đấu, chính Đức Giêsu đã ban cho anh dồi dào ơn can đảm, soi sáng, mở lòng trí, tăng sức mạnh, cũng như ứng xử bén nhạy, thông minh, để phản công hữu hiệu.“Thật vậy, khí giới chúng tôi dùng để chiến đấu không phải là thứ khí giới thuộc xác thịt, nhưng là những khí giới, nhờ Thiên Chúa, có sức đánh đổ các đồn luỹ.” (1Cr 10, 4)  

Cuộc chiến cam go, dai đẳng, khốc liệt nhất luôn là chiến đấu với chính bản thân.“Ðiều tôi làm ra, tôi không biết; vì điều tôi muốn, tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính điều tôi ghét.” (Rm 7, 15) Nhưng nếu đặt hoàn toàn niềm tin, niềm cậy trông, niềm mến vào Chúa thì chắc chắn không bao giờ thua cuộc. “Anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ.” (Ep 6, 10-11) 

Đức tin làm chứng 

Dựa vào lỗi luật ngày Sabat, người Biệt phái lên án Đức Giêsu, nhưng anh mù mạnh bạo phản biện lại vụ luật mù quáng. “Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.” 

Dù bị người Biệt phái khai trừ ra khỏi cộng đoàn, vì anh mù vẫn trung kiên làm chứng cho Đức Giêsu. Ban đầu Người là “một Tiên Tri,” sau này, anh công khai nhận là Thiên Chúa.”Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh.”Anh ta liền nói: “Lạy Ngài, tôi tin”, và anh ta sấp mình thờ lạy Người.” 

“Con phải can đảm để sống đức tin hàng ngày, bằng các thánh tử đạo can đảm để giữ đức tin.”(Đường Hy Vọng, số 287)  

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm sức mạnh cho đức tin yếu ớt của chúng con, để chúng con can đảm đi theo Chúa, mặc bao gian khó, thử thách, đau khổ sẽ dành cho tín hữu Kitô chúng con. 

Kính xin Mẹ Maria nhân ái, xin luôn an ủi, che chở, dắt dìu chúng con dũng cảm, kiên trì chịu đựng bao thách đố trên hành trình về quê Trời. Amen.

Về mục lục

.

LÀM PHÚC CŨNG BỊ CHO LÀ CÓ TỘI

P. Trần Đình Phan Tiến

Kính thưa quý vị, thưa các bạn, Đoan Tin Mừng hôm nay, thật là một đoạn Tin Mừng đầy “lý lẽ”. Bởi vì có thành phần chính : Một là Chúa Giêsu, hai là : người mù, ba là : những người biệt phái.

Chúng ta thấy, Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, đến trần gian , để gánh lấy tội lỗi nhân loại, Người đến để thực thi sứ mạng cứu chuộc, là một Ngôi Vị Thiên Chúa đến để giải thoát , để ban ơn bình an cho nhân thế, như Isaia đã nói từ mấy ngàn năm trước: “ Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Ngài sai tôi đem Tin Mừng đến cho người nghèo khó, công bố cho tù nhận được tha, cho người mù được sáng mắt, kẻ câm được nói, kẻ què được đi, người chết sống lại.” ( Lc 4, 18 -19).

Vâng, thành phần thứ hai là những đối tượng “bất hạnh” được giải thoát, để ứng nghiệm Lời Thánh Kinh.

Thành phần thứ ba là thành phần “chống đối “ lại “việc làm” của Chúa Giêsu. Những người “am hiểu” Kinh Thánh, nhưng không nhận ra “ánh sáng” bởi Kinh Thánh.

Như vậy, chúng ta thấy, thành phần thứ nhất là Chúa Giêsu đã tự mặc khải chính mình : “ Thầy là ánh sáng thế gian “ ( c 5). Như vậy, hai thành phần kia một bị mù thể lý, một bị mù tâm linh.

Người bị mù thể lý, bị người ta cho là do tội lỗi  của người ấy, hoặc hậu quả do cha mẹ người ấy, nhưng Chúa Giêsu xác định cả hai đều không phải. Nhưng, để cho quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. như vậy, rõ ràng việc mù thể lý vào chính thời điểm của Chúa Giêsu, chính là đối tượng được mời gọi cộng tác , hầu ơn cứu độ được thể hiện.

Vậy, đối tượng bị mù thể lý, khao khát được nhìn thấy ánh sáng, và rồi người ấy được gặp “Ánh Sáng Giêsu ”. Như vậy, thành phần thứ nhất và thành phần thứ hai gặp nhau, trở thành một “hữu lý”, đó là một bên trao ban ánh sáng và một bên nhận lấy ánh sáng. Ánh sáng là chân lý, vậy sự mù thể lý, nhưng tình thần người ấy không mù, vì người ấy nhận ra ánh sáng chân lý, đó là “ sự thật” người ấy được khỏi mù. Mặc nhiên, Người chữa cho anh ta sáng mắt , theo anh ta, Người ấy phải là một Người “ thánh thiện”, tốt lành. Vì, không kẻ gian ác nào được Thiên Chúa nhậm lời để làm nên điều cao cả.

Theo đó,” triết lý” của người mù thật sáng suốt. như vậy, anh ta chỉ mù thể lý, nhưng tâm linh sáng suốt.

Còn thành phần thứ ba, thành phần cố chấp phi lý, nơi những người nầy, dựa vào sứ sáng mắt thể lý, để bắt bẻ Chúa Giêsu, Người có quyền năng chữa lành sự mù lòa. Họ đọc Kinh Thánh, nhưng họ không nhận ra “ánh sáng” Kinh Thánh tỏ hiện nơi Chúa Giêsu. Mắt họ sáng, nhưng tâm trí mù lòa, bởi vì , họ tự cao, họ cho rằng Chúa Giêsu là “kẻ tội lỗi”, bởi vì, Người không tuân giữ ngày sabat. Họ viện cớ như vậy, vì họ không làm được như Chúa Giêsu, họ không thần phục Chúa Giêsu, không nhận ra Người có” quyền “ trên ngày sabat, vì Người là Chủ ngày sabat. Điều nầy thể hiện nơi Chúa Giêsu là hợp lý, chứ không phải vô lý. Vì, Con Người làm chủ ngày sabat. Luật dành cho con người chứ không phải con người vì luật. Lề luật chính là tình yêu, chứ không phải là “gông cùm”. Lề luật chỉ là “gông cùm” khi và chỉ khi đối với kẻ bất lương, được ngăn chặn để tránh làm hại người lành.

Khi thành phần thứ ba lên tiếng là họ tìm cách “bắt lỗi” Chúa Giêsu, “vạch lá tìm sâu”. Nhưng, chúng ta thấy sự mâu thuẫn giữa chính suy nghĩ của họ, tức khắc nảy sinh sự đối đáp giữa người mù” được sáng mắt” với những người pharisieu như : “ Chúng ta biết : Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi: còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.” ( c 31)

Như vậy, người mù “sáng mắt” không những mắt thể lý, mà còn “mắt tâm linh “ nữa, vì anh ta đã “lên lớp” cho những người “bậc thầy” về Kinh Thánh.

Như vậy, mù thể lý không đáng sợ bằng mù tâm linh, mù tâm linh là không tin vào Chúa Giêsu , là ánh sáng của Thiên Chúa. Cuối cùng thành phần thứ hai vẫn ngoan cố , bảo thủ cho rằng họ “không mù”. Vì vậy, Chúa Giêsu đã quở trách họ. “ Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng, giờ đây các ông nói rằng : ‘ Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!” ( c 41).

Bài đọc II hôm nay ( Ep 5, 8 -14), thánh Phaolo diễn giải cho chúng ta thấy “… nếu chúng ta ở trong Chúa, thì chúng ta là con cái ánh sáng, mặc nhiên, chúng ta phải làm việc, hành động theo ánh sáng …”

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở mắt người mù,  cho chúng ta thấy, ý nghĩa người là Đấng Thiên Sai, đồng thời cử chỉ mở mắt người mù, cũng cho thấy dấu chỉ thiên sai của người được gọi, qua cử chỉ của Chúa. Được mời gọi sai đi là một hành động làm chứng cho Tin Mừng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã mở mắt cho người mù không những là con mắt thể lý, mà còn là con mắt đức tin. Xin Chúa thương ban cho những ai được đón nhận “ánh sáng “ đức tin biết truyền bá ánh sáng ấy cho tha nhân. Hầu cho ngày càng có nhiều người được sáng con mắt tâm linh, để được nhìn thấy ánh sáng chân lý là chính Chúa./. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY_A

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Nhìn lại quá trình làm thay đổi cuộc sống của người mù, chúng ta thấy có nhiều điều rất thú vị.

1- Lúc đầu, anh chẳng có một ý niệm gì về Chúa. Khi được hỏi về người đã chữa cho anh, anh trả lời một cách rất mù mờ: “Người mà người ta gọi là Giêsu”. “Người mà người ta gọi là Giêsu”(Ga 9,11). Đó là tất cả nhũng gì anh có thể nói về Chúa lúc ban đầu. Ngoài ra Người ở đâu, anh không biết. Ngài là người như thế nào anh cũng chẳng hay.

2- Thế nhưng sau khi anh được sáng mắt, từ trong cõi lòng anh đã dần dần nhận ra Chúa.

Khi anh được người ta tra vấn về nguyên do anh được sáng mắt, trong lúc người ta tìm cách để kết án Chúa thì anh lại dõng dạc tuyên bố: “Ngài là một tiên tri”(Ga 9,17).

Rất thẳng thắn và cũng rất chân thành. Không có gì là úp mở cả.

Rồi khi người ta dùng áp lực để dọa cha mẹ anh và tiếp sau đe dọa cả anh thì lúc ấy chúng ta thấy anh trở nên can đảm lạ thường. Dường như anh không còn biết sợ là gì nữa. Thái độ của anh khác hẳn với thái độ của cha mẹ anh. Anh thẳng thắn dõng dạc tuyên bố trước mặt mọi người “Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lờì những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì”(Ga 9,31-33)

Vâng anh đã được mở mắt. Anh đã được thấy sự thật và anh đã dám gắn bó với sự thật đó và cho dù anh có phải trả một giá rất đắt anh cũng sẵn lòng. Chúng ta không thể hiểu hết những gì anh phải hứng chịu khi người ta dùng một biện pháp trục xuất anh ra khỏi hội đường để trừng phạt anh.

Trước kia anh mù, cuộc sống của anh đã khổ. Bây giờ anh được sáng mất, tưởng như cuộc sống sẽ thuận lợi hơn…ai dè bây giờ cha mẹ anh không dám bênh vực, xã hội chẳng giúp anh được gì.  Chỉ còn một chút hy vọng vào cộng đoàn tôn giáo thì người ta lại trục anh, đưa anh trở lại với cuộc sống còn cô đơn và bất hạnh hơn trước.

Trước đây anh mù nhưng thỉnh thoảng còn có người thi ân bố thí. Có gần anh người ta cũng không phải sợ

Bây giờ khi anh bị trục xuất ra khỏi hội đường, anh sẽ phải tự cách ly với tất cả mọi người. Không ai dám tiếp xúc với anh, không ai dám giao thiệp với anh, không ai dám gần gũi với anh…thật là kinh khủng.

  1. Thế nhưng thật may, giữa lúc cả loài người từ bỏ anh thì Chúa lại mở rộng đôi tay đón nhận. Dường như Chúa đã biết trước tất cả, cho nên ngay sau khi anh vừa buồn tủi cô đơn bước chân ra khỏi Hội dường thì Chúa đã chờ sẵn.

Băng một Tình yêu rất đặc biệt và bằng một cái nhìn rất trìu mến Chúa hỏi anh:

– Anh có tin vào Con Người không?(Ga 9,36)

Anh thưa lại:

– Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?(Ga 9,36)

Chúa chậm rãi nói cho anh biết:

– Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.(Ga 9,37)

Bằng cả một tấm lòng trìu mến, biết ơn và bằng một giọng nói đầy xúc cảm anh thưa lại với Chúa: ” Lạy Ngài, tôi tin”(Ga 9,38)

Và anh sấp mình xuống trước mặt Chúa.

Phúc âm không nói nhưng tôi chắc là Chúa đã cúi xuống để ôm trọn cả con người anh trong vòng tay yêu thương của Ngài. 

Chỉ một ít phút trước đó anh tưởng anh mất tất cả bây giờ anh cảm thấy anh đã có lại tất cả. Chỉ một ít ít phút trước đó anh tưởng suốt đời anh sẽ phải cô đơn nhưng bây giờ anh thấy cuộc đời anh có hạnh phúc. 

Cả loài người bỏ anh, nhưng Chúa đón nhận anh.

Cả loài người muốn xa cách anh, nhưng Chúa lại muốn gần gũi anh. 

Cả loài người muốn từ khước anh, nhưng Chúa Chúa lại đón nhận anh . 

Cả loài ngươi tưởng rằng anh sẽ bơ vơ lạc lõng khi anh bị trục xuất ra khỏi hội dường thì giờ đây anh lại được bước vào một xã hội mới không phải là của loài người nhưng là của Thiên Chúa trong đó mọi người được liên kết với nhau trong một niềm tin và được sống với nhau bằng chính Tình yêu Thiên Chúa đã yêu thương con người. 

Trong Cuốn “Lẽ Sống” có một câu truyện rất hay. Câu chuyện thế này: Có hai người lái buôn rất giầu có. Hai người lại là bạn thân với nhau. Một hôm hai người nảy ra một ý định là phải đi tìm cho bằng được điều quí giá nhất trên đời. Sau đó thì mỗi người đi một ngả và thề sẽ gặp lại nhau sau khi đã đạt được mục đích.

Người thứ nhất lặn lội khắp mọi nơi để đi tìm một viên ngọc mà người ta gọi là quí nhất trên đời. Ông không ngần ngại lội suối băng rừng, bất chấp mọi hiểm nguy trên con đường để đi tìm và cuối cùng thì ông đã tìm thấy. Ông vui mừng trở về và chờ đợi người bạn của ông. 

Nhiều năm trôi qua mà người bạn của ông vẫn vô âm biệt tín. Nhưng sau thì ông khám phá ra rằng sở dĩ người bạn của mình chưa về là vì ông ta không đi tìm vàng bạc mà là đi tìm Thiên Chúa. Sau bao nhiêu năm trời tìm thầy thọ giáo, nghiên cứu Thánh hiền, cặm cụi với sách vở vậy mà ông vẫn chưa tìm thấy Thiên Chúa. 

Thế rồi một hôm kia ông đến ngồi thẫn thờ ở bên một giòng sông. Nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con. Tội nghiệp cho con vị mẹ. Nó cứ phải lận đận vất vả với những con vịt con. Mấy con vịt con cứ thích tách rời khỏi mẹ để đi tìm thức ăn riêng. 

Vịt mẹ sợ vịt con lạc đàn nguy hiểm cho nên cứ phải đi thu con trở về đàn. Nhưng thu được con này thì lại mất con khác. Dầu vậy vịt mẹ vẫn kiên tâm, không hề tỏ ra một dấu gì là mệt mỏi, gắt gỏng hay giận dữ. Nhìn cái cảnh vịt mẹ cứ mải mê đi tìm vịt con như thế, người đó như tìm ra được câu trả lời cho cuộc tìm kiếm của mình. Ông vội vàng đứng dậy và lên đường trở về nhà. 

Vừa giáp mặt là người bạn về trước đã hỏi ngay: “Cho tôi xem thử điều quí giá nhất mà anh đã tìm thấy coi. Tôi nghĩ nó phải là một cái gì tuyệt diệu lắm bởi chưa bao giờ tôi thấy anh có nét mặt mãn nguyện, vui tươi rạng rỡ như hôm nay.” 

Con người trở về với hai bàn tay trắng nhưng tâm hồn lại ngập tràn niềm vui rả lời: 

“Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng thì tôi lại khám phá ra rằng chính Ngài là Đấng đi tìm tôi”

Vâng Chúa vẫn đi tìm. Ngài mải mê tìm kiếm chúng ta. Ngài đã đến tìm người phụ nữ ở giếng Giacob và đưa bà trở về. Ngài đã đích thân tìm đến người mù trong bài Tin mừng hôm nay để đưa anh về với cội nguồn ánh áng. Ngài vẫn tiếp tục đi tìm. Chúng ta hãy để cho Ngài dìu dắt hướng dẫn cuộc đời của chúng ta. Hãy can đảm đi theo sự chỉ dẫn của Ngài chúng ta sẽ tìm thấy ánh sáng. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NIỀM VUI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay quen gọi là Chúa nhật của Niệm Vui (Lætare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới, để chuẩn bị tâm hồn tốt hơn hầu cảm nghiệm được niềm vui sâu xa của Lễ Phục Sinh đã gần kề.

Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem ! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành ! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan.” (Ca nhập lễ)  Hay lời của Thánh vịnh gia : Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…… “. Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay Thánh. Làm sao không thể không vui không mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ, ” Cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng… được Thành Ðô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang…đón nhận dồi dào ơn an ủi …” (Is 66,10-11).

Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng ?

Lời Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A : ” Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin. Nhờ phép rửa mang lại đời sống mới, Người giải thoát những kẻ sinh ra đã mắc tội truyền, và nâng lên hàng nghĩa tử của Chúa… ” (Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A). Đoạn Tin Mừng thánh Gioan hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể khi Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ khi mới sinh. Câu Chúa Giêsu hỏi người mù là đỉnh cao của trình thuật : “Ngươi có tin nơi Con Thiên Chúa không?” (Ga 9,35) Như một “người” giữa bao nhiêu người khác, anh người mù này mới đầu gặp Chúa Giêsu, khác mọi người là anh coi Chúa Giêsu là “một ngôn sứ”, Chúa mở mắt anh ra, từ ánh sáng của đôi mắt đến ánh sáng của đức tin, anh tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa”, và trả lời câu hỏi Chúa đặt ra cho anh : “Lạy Thầy, tôi tin!” (Ga 9,38). Như thế là đã rõ, Chúa Giêsu chữa người mù khỏi mù, anh thấy ánh sáng và anh tin vào Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu là nguyên nhân của niềm vui lớn cho người mù từ khi mới sinh này, vì Chúa đã cho anh thấy được cảnh vật không chỉ về thể lý mà còn cả tinh thần nữa. Cũng như cả và nhân loại sau khi nguyên tổ phạm tội phải bước đi trong u tối, nay Chúa Giêsu đến, tự giới thiệu mình là Ánh Sáng thế gian dẫn đưa nhân loại khỏi bóng tối của tội lỗi, phục hồi phẩm giá địa vị làm con Thiên Chúa.

Người mù đã tin và đã nhận được ánh sáng của Chúa Kitô. Trái lại, những người Pharisêu thì tưởng rằng mình sáng, nên họ vẫn bị mù vì sự cứng lòng và tội lỗi của họ. Đúng vậy, “Người Do Thái không tin là trước đây anh bị mù mà bây giờ nhìn thấy được. Đó là lý do tại sao họ gọi cha mẹ anh ta đến” (x. Ga 9,18).

Chúa Giêsu là sự sáng thế gian

Ngài từ trời xuống thế, để cho phàm nhân được thấy Ngài và qua Ngài họ thấy Chúa Cha; chỉ có người mù mới không thể nhìn thấy Chúa. Ngài đã mở mắt người mù, để người mù thấy được Chúa Cha ở nơi Ngài. Ngài giới thiệu : ” Ta là sự sáng thế gian” (Ga 9, 5) ; ” Là ánh sáng  thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9) Ngài chữa lành sự mù quáng của con mắt đức tin nơi những người không thấy để mà tin.

Ađam được Thiên Chúa sáng tạo với con mắt tinh tường, nhưng sau khi giao tiếp với con rắn xong, ông trở nên mù quáng (x. St 3, 1-7). Anh mù bẩm sinh vẫn ngồi… mà không xin bất kỳ một loại thuốc mỡ nào để chữa mắt mình … anh chỉ hết mù khi anh tin (x. Ga 9,1-41). Chúa Giêsu, Vị thầy thuốc cao tay đã nhìn thấy những đau khổ của người mù ngồi đó và xin làm phúc, bằng quyền năng Thiên Chúa, Ngài đã làm phép lạ cho người mù được thấy.

Ađam được Thiên Chúa dựng tạo dựng bằng đất sét, bùn ướt : ” Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người” ( St 2, 7), nay chất liệu ấy được Chúa Giêsu dùng để chữa lành đôi mắt. Ngài đã phục hồi thị giác cho người mù từ khi mới sinh bằng nước bọt nhổ ra trộn vào đất, anh người mù nói : ” Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt ” (Ga 9,1-11). Ngài là quả là Ánh Sáng chiếu sáng thế gian và cho con người được nhìn thấy ánh sáng.

Chúng ta là con cái ánh sáng

Từ ánh sáng đến đức tin hay từ đức tin đến ánh sáng tỏa sáng trên khuôn mặt của người mù giúp chúng ta hiểu rằng, ngày chúng ta chịu phép rửa tội, ánh sáng của Chúa Kitô cũng chiếu tỏa  trên chúng ta, chữa chúng ta khỏi sự mù quáng tội lỗi, làm cho chúng ta trở thành con cái ánh sáng. Đó là điều Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta : ” Bây giờ anh em là ánh sáng trong Chúa” (Eph 5, 8). Thế nên, nhờ phép rửa trong Chúa Kitô, trước kia chúng ta là những người ở trong bóng tối, nay trở thành ánh sáng. Kể từ ngày hôm đó chúng ta là con người mới hoàn toàn.

Nhờ phép rửa tội, người kitô hữu trở thành ” con của sự sáng ” (Eph 5, 8) hay nói cách khác, trở thành ” con cái Thiên Chúa ” (1 Ga 3,1). Người con đích thực của Thiên Chúa là Chúa Kitô đã chiếu tỏa rạng ngời ánh sáng Chúa Cha, để bất cứ ai được tái sinh trong Ngài, có thể thông truyền ánh sáng đức tin ấy cho người khác, tức là sinh ” hoa trái của sự sáng ” (Eph 5, 9). Vì vậy, trong Mùa Chay này, chúng ta hãy để ánh sáng ấy chiếu tỏa trên chúng ta để qua chúng ta mọi người có thể tìm thấy Thiên Chúa là Ánh Sáng đích thực.

Chúa Giêsu là ‘Ánh sáng thế gian‘ (Ga 8,12). Trong nghi thức Rửa tội, việc trao nến sáng và thắp sáng từ cây nến Phục Sinh tượng trưng Chúa Kitô Phục sinh, là dấu hiệu giúp chúng ta hiểu rõ những gì xảy ra trong Bí tích này. Khi chúng ta để cho mình được mầu nhiệm Chúa Kitô soi sáng, chúng ta sẽ cảm nghiệm niềm vui được giải thoát khỏi tất cả những gì đe dọa sự viên mãn của cuộc sống ấy.

Lễ Phục Sinh đã gần kề, chúng ta hãy vui lên và khơi dậy nơi mình hồng ân đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội, ngọn lửa ấy nhiều khi có nguy cơ bị dập tắt. Chúng ta hãy nuôi dưỡng ngọn lửa đó bằng kinh nguyện và lòng bác ái đối với tha nhân.

Xin Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của mỗi người chúng ta dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Kitô, là Ánh Sáng thật và là Ðấng Cứu Thế. Amen.

Về mục lục

.

MÙ LÒA VÀ MÙ QUÁNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Xuyên qua Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai loại mù: mù loà của đôi mắt thể xác và mù quáng của tâm hồn, của đầu óc.

Người mù bẩm sinh trong Tin mừng hôm nay tuy bị mù đôi mắt thể xác nhưng anh ta lại sáng suốt hơn những người Pha-ri-sêu tự cho mình tinh thông.

Trong khi đó, những người Pha-ri-sêu tự hào là người khôn ngoan thông sáng, nhưng họ đang bị mù quáng mà chẳng hay. Họ bị thành kiến che chắn trí khôn nên họ không nhận ra Đức Giê-su là Đấng cứu độ, vì thế họ đã không được đón nhận ơn cứu độ do Ngài tặng ban.

Những người mù loà vốn rất hiền hòa. Chưa từng nghe nói người mù gây ra tội ác hay phạm pháp bất cứ ở đâu. Họ xứng đáng được mọi người tôn trọng và yêu mến.

Còn người mù quáng là những người thường gây ra lỗi lầm và tội ác nên họ thường bị người đời lên án, khinh chê.

Có nhiều hình thức mù quáng gây ra hậu quả rất tai hại:

Mù quáng vì tham lam

Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, vì tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, đã dàn dựng một vụ án quy kết Na-vốt tội nguyền rủa Thiên Chúa và nguyền rủa đức vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven ra mù quáng đến độ đang tâm giết hại một ông lão nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (Sách Các Vua I, chương 21)

Mù quáng vì ghen tị

Sách Sa-mu-en ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đa-vít, nhưng khi Đa-vít chặt đầu tên tướng giặc khổng lồ Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Ít-ra-en và quay trở về trong chiến thắng, “thì phụ nữ từ hết mọi thành của Ít-ra-en kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ vui đùa ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đa-vít hàng vạn”. Khi nghe lời đó, vua Sa-un uất lên vì ghen tị. Lòng ghen tị làm cho vua đâm ra mù quáng, đổi lòng yêu thương ra thù ghét và truy lùng Đa-vít khắp nơi quyết giết cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 18)

Mùa quáng vì dục tình

Về sau, khi vua Sa-un qua đời, Đa-vít được lên làm vua. Đa-vít lại đâm ra mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm cho vua mù quáng đến độ lập mưu giết chồng bà là Uria để chính thức cưới bà nầy làm vợ. (Samuen II, chương 11)

Nói tóm lại, tâm trí con người rất dễ trở nên mù quáng do tình dục, do lòng tham lam, kiêu căng, ghen tị… khiến người ta lún sâu vào vũng bùn tội ác lúc nào không hay.

Chứng mù quáng nầy tai hại gấp ngàn lần mù loà đôi mắt thể xác.

Tai hại do mù quáng phát sinh

Tai hại thứ nhất là người mù quáng không tự biết tình trạng mù quáng của mình, nên không cảm thấy cần được cứu chữa. Thế là họ cứ mù quáng cho đến mãn đời; mà vì mù quáng suốt đời nên cũng thường mắc phải lầm lỗi suốt đời.

Tai hại thứ hai là cho dù có nhận biết mình mù quáng đi nữa, người ta cũng không cho đó là điều nghiêm trọng, nên không thấy cần được cứu chữa.

Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù quáng, vì không tự biết mình mù, nên không ước ao thoát khỏi tình trạng mù quáng hết sức tai hại của mình.

Xét chung, ai trong chúng ta cũng lâm vào tình trạng mù quáng về một phương diện nào đó, vào một lúc nào đó trong đời. Vậy chúng ta hãy nguyện xin Chúa Giê-su soi sáng để chúng ta nhận thức rằng mù quáng vô cùng tai hại và sớm tìm cách cứu chữa mình khỏi chứng bệnh rất nguy hại nầy.

Lạy Chúa Giê-su là ánh sáng cho trần gian,

xin chiếu dọi ánh sáng Chúa vào tâm trí chúng con, cứu chúng con khỏi bị mù quáng do dục vọng gây nên, để chúng con khỏi gây ra tội lỗi, khỏi hư mất đời đời nhưng được cứu độ và được sống, sống có nhân cách cao đẹp ở đời nầy và sống viên mãn trong thế giới hồng phúc mai sau.

Về mục lục

.

ĐIỀU KIỆN KÈM THEO

Lm Vũđình Tường

Mù loà thể lí

Cuộc sống luôn có những điều kiện kèm theo, ngay cả khi nhìn ngắm mắt ta cũng bị điều kiện hoá. Chính những điều kiện hoá này là nguyên nhân gây nên những cái nhìn khác nhau. Bởi nhìn khác nhau dẫn đến phán đoán khác nhau. Phán đoán khác nhau đưa đến hành động khác nhau. Điều kiện ảnh hưởng đến nhìn ngắm bên ngoài cũng lắm mà điều kiện bên trong cũng nhiều. Bên ngoài ảnh hưởng đến cách nhìn như tuổi tác, di truyền. Chính vì thế mà trong câu chuyện Đức Kitô mở mắt sáng cho người mù từ lúc mới sinh đưa ra những quan điểm khác nhau. Đại chúng cho là người mù là người từng ăn mày trong xóm nay được sáng mắt; số khác lại cho là một người nào đó giống anh ta mà không phải chính anh ta. Trong khi anh ta xác nhận là chính anh trước đây mù nay được sáng mắt.

Mù loà về lương tâm

Về phương diện lương tâm, tâm trí ta bị ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán và chủ thuyết hay quan điểm chính trị. Những điều kiện này ảnh hưởng lớn tới cách suy luận, phán đoán của cá nhân. Kinh Thánh ghi nhận rõ ràng là những người Pharisiêu bị ảnh hưởng bởi phong tục của họ khi họ phê phán Đức Kitô là người tội lỗi vì đã phạm vào luật cấm làm việc ngày lễ nghỉ. Họ suy luận, phán đoán và tin chắc họ đúng. Số khác cãi lại không chú trọng vào ngày lễ nghỉ nhưng chú trọng vào thành quả tốt lành của người mù mắt sáng khi họ đáp. Nếu là người tội lỗi thì không thể làm điều kì lạ, mở mắt người mù từ lúc mới sinh. Lối giải thích này không được nhóm lãnh đạo chấp nhận.

Cha mẹ của người mù bị ảnh hưởng của điều kiện xã hội. Hai ông bà sợ bị phán xét và cấm đoán của tập đoàn lãnh đạo nên họ đành cay đắng nói dối lương tâm mình. Hai ông bà chối không biết vì sao con họ được mắt sáng. Thay vì vui mừng, họ lo sợ đáp với những người thẩm vấn họ. Chúng tôi xác nhận, nó là con chúng tôi, nó bị mù từ lúc nó mới sanh. Còn làm sao nó sáng mắt, ai chữa cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, quí vị hỏi nó thì tốt hơn. Kinh thánh thuật rõ. Hai ông bà nói thế vì sợ tập đoàn lãnh đạo hành hạ. Họ không thể kêu oan và có kêu rất có thể không được giải đáp thoả đáng còn bị tư thù hãm hại.

Mù loà về đức tin

Ánh sáng tâm linh đòi hỏi chúng ta phải vượt qua được các điều kiện về cả thể lí lẫn phong tục tập quán. Ánh sáng tâm linh được sách Samuel diễn tả rất rõ khi Samuel đuợc chỉ định đi xức dầu tấn phong vương quyền cho David, trở thành vua tương lai của Israel. Samuel gặp tất cả các con của Jesse. Ông vẫn chưa thấy yên tâm và tiếp tục hỏi cho đến khi gặp David đang chăn chiên ngoài đồng và ông xức dầu cho David bởi tâm ông được Thánh Thần hướng dẫn làm việc đó. Cái nhìn tâm linh đòi buộc chúng ta nhìn bằng con tim với tấm lòng yêu mến. Đừng để khối óc ảnh hưởng, phong tục, tập quán kiềm chế, ngoại hình lung lạc khi quyết định nhưng phán đoán sự việc dựa vào tình yêu và lòng mến để nhận định sự việc. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Êphêsô cho biết chúng ta cần ánh sáng Đức Kitô soi đuờng, dẫn lối trong cuộc sống. Cần có ánh sáng Đức Kitô khi nhận định và phán đoán. Để làm được điều này cần dứt khoát loại bỏ bóng tối, đón nhận ánh sáng Đức Kitô với tất cả tấm lòng chân thành. Tin thờ các tà thần là dấu chỉ mù loà về đức tin; tôn thờ cá nhân, nhân vật lịch sử là mù loà về đức tin. Không chịu tìm hiểu về Kinh Thánh dẫn đến hậu quả mù mờ về đức tin Kitô giáo; biếng nhác lãnh nhận các bí tích sẽ biếng nhác việc phụng thờ Thiên Chúa và nguôi ngoai về đức tin. Chính vì lười biếng trong việc học hỏi về Kinh Thánh mà người ta coi bệnh tật là hình phạt do tội gây ra. Cây cối có tội gì, con vật có tội chi. Chúng cũng già nua, cũng ốm đau, bệnh tật. Như thế bệnh tật, già nua là một phần của tất cả các sinh vật.

Mở mắt người mù Đức Kitô giúp chúng ta nhận biết mù đức tin nguy hiểm hơn mù thể lí bởi mù đức tin dẫn đến con đường chết, con đường tối tăm ngàn thu. Nhờ lòng tin người mù nhìn nhận biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trong khi người mắt sáng lại không nhìn nhận biết Đức Kitô. Bước đầu tiên để nhận ánh sáng đức tin là lòng khiêm nhường. Thiếu khiêm nhường không thể tiến bước trên đường tin theo Đức Kitô.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU LÀ NGUỒN ÁNH SÁNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Ánh sáng là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho con người và vũ trụ. Không có ánh sáng, trái đất này sẽ chìm ngập trong tối tăm và băng giá, các sinh vật không thể phát triển được. Ánh sáng giúp cho con người có thể nhìn rõ đường đi và nhận ra mọi vật. Ngoài ánh sáng theo nghĩa vật lý, con người còn cần những ánh sáng khác như ánh sáng của trí tuệ và khoa học giúp con người có thể hiểu biết cách đúng đắn hơn. Nhưng con người còn cần một thứ ánh sáng đặc biệt hơn đó là ánh sáng đức tin, ánh sáng này giúp con người nhìn thấu mọi vật, mọi biến cố, nhất là giúp con người nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời và trong vũ trụ.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa các cách nhìn: Cái nhìn của Thiên Chúa khác với cái nhìn của con người. Con người thường nhìn nhau và đánh giá nhau qua dáng vẻ bên ngoài: xem mặt mà bắt hình dong. Họ đánh giá nhau theo cảm tính, theo quần áo hoặc theo những ấn tượng chủ quan. Nhưng Thiên Chúa nhìn theo cách khác, Ngài nhìn thấu con người, Ngài không đánh giá con người theo dáng vẻ hay vóc dáng, nhưng nhìn thấy những tâm hồn đơn sơ, chính trực.
Lúc bấy giờ, Chúa sai tiên tri Samuel đến nhà ông Giêsê để xức xầu cho một trong các con trai của ông này lên làm vua Israel. Đến nơi, Isaia toan chọn những đứa con có vóc dáng to cao, tướng mạo oai phong, nhưng Thiên Chúa nói với Samuel: Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó. Thiên Chúa không chọn những người đó, nhưng lại chọn một người nhỏ bé, rốt kém trong các con của Giêsê, đó là cậu trai út có tên là Davit. Cậu này là trai út trong nhà, hầu như không được mọi người quan tâm. Khi cậu bé đi chăn chiên ngoài đồng trở về, vừa trông thấy cậu, Chúa phán với Samuel: Đứng dậy, xức dầu tấn phong cho nó. Chính nó là người ta chọn. Samuel đã xức dầu cho cậu bé trước sự ngạc nhiên của mọi người, trong khi cậu bé vẫn chưa hiều điều gì đang xảy ra.
Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy một thứ ánh sáng khác, đó là ánh sáng đức tin. Ánh sáng này không tùy thuộc vào mặt trời, cũng không tùy thuộc sự nhắm mắt hay mở mắt thể xác, nhưng hoàn toàn tùy thuộc vào con mắt của tâm hồn. Có những người mắt tuy mở, nhưng vẫn không nhìn thấy, trái lại, nhờ ánh sáng đức tin, có người tuy mù lòa, nhưng con mắt đức tin lại được sáng. Câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù từ khi mới sinh hôm nay cho thấy, có những người được mở mắt để đón nhận ánh sáng đức tin, còn có những người tuy mở mắt nhưng vẫn mù loa tăm tối.
Chúa Giêsu và các môn đệ gặp một người mù từ khi mới sinh đang ngồi ăn xin bên đường. Cái nhìn của các môn đệ và cũng là của người Do Thái cho rằng: Anh mù này như một kẻ tôi lỗi, đáng trách hơn là đáng thương. Các môn đệ hỏi Chúa Giêsu: Anh này bị mù do lỗi của anh hay lỗi của cha mẹ anh? Cái nhìn của Chúa Giêsu hoàn toàn khác, Ngài nhìn thấy nơi anh là một con người đáng thương, cần sự cứu giúp. Ngài trả lời các môn đệ: Không phải do anh, cũng không phải do cha mẹ anh, anh ta bị mù lòa là để thiên hạ được nhìn thấy công trình của Thiên Chúa muốn thể hiện nơi anh.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho mắt anh mù được thấy và cũng là để mở mắt cho những người chứng kiến phép lạ. Trước hết, Ngài xức bùn vào mắt anh mù và sai anh đi rửa tại hồ Silôê. Anh đã tin vào lời của Thầy Giêsu, đã rửa và được sáng mắt. Anh tin Ngài trước hết là một Đấng quyền năng và tin nhận Ngài là Ngôn sứ, tức là Đấng các tổ phụ các tiên tri đã loan báo. Lần đầu tiên bị tra hỏi Ai chữa mắt cho anh? Anh trả lời: Ngài đã thoa bùn vào mắt tôi và đã sai tôi đi rửa và tôi đã thấy. Lần thứ hai bị tra hỏi: Anh nghĩ gì về người đó? Anh đã trả lời: Người là một vị Ngôn sứ. Lần thứ ba bị tra vấn, anh đã tuyên xưng cách rõ ràng hơn về Chúa Giêsu: Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không chịu nghe. .. Xưa nay chưa có ai mở mắt người mù từ khi mới sinh nếu người ấy không phải bởi Thiên Chúa mà đến. Khi gặp lại anh Chúa Giêsu đã hỏi anh: Anh có tin vào Con Người không? Anh đã công khai tuyên xưng: Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Chúa Giêsu.
Anh mù trong câu chuyện đã được mở mắt thể lý, để nhìn thấy ánh sáng và thấy mọi người, anh còn được mở mắt đức tin để nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng cứu thế. Ngược lại, những ngươi biệt phái tuy mắt vẫn mở, nhưng phải sống trong sự tăm tối mù lòa không nhận biết Chúa Giêsu bởi vì họ cứng lòng tin. Anh mù được sáng bởi vì anh đã để cho Chúa Giêsu đụng chạm đến trái tim và tâm hồn của anh, còn những người biệt phái đã kiêu căng đóng cửa lòng, khiến họ không đón nhận được ánh sáng đức tin.
Tâm hồn của những người biệt phái đã chứa đầy bóng tối của sự kiêu căng, cố chấp, khinh bỉ kẻ khác, khiến cho ánh sáng đức tin không thể đi xuyên qua được. Chúa Giêsu đã nói với họ: Tôi đến thế gian này chính là để xét xử, cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại trở nên đui mù; những kẻ cố chấp, nhất định từ chối ánh sáng của Thiên Chúa sẽ phải chịu trách nhiệm về chọn lựa của mình. Chúa Giêsu đã nói với người biệt phái: Nếu các ông bị mù thì các ông không có tội nhưng các ông nói: Chúng tôi thấy, nên tội các ông nặng hơn.
Thế giới ngày nay bị xen lẫn giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng của sự thật, công lý dường như bị bóng tối của sự ác gian dối và bất công vây bủa; ánh sáng của đức tin dường như bị che khuất bởi vật chất và các lối sống hưởng thụ. Có nhiều người muốn tránh né ánh sáng sự thật, bởi vì họ sống và làm việc trong gian dối; nhiều người sống trong u mê nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ đức tin  và Giáo Hội. Nhiều người khác bị bao phủ bởi bóng tối của các luận điệu tuyên truyên xuyên tạc, các quan điểm vô thần, lối sống tự do, khiến họ đi lạc trong bóng tối tội lỗi. Mỗi chúng ta có bổn phận phải trở nên chứng nhân của sự sáng, bằng cách sống và thực hành theo chân lý, sống thật, nói thật, và hành động theo sự thật. Chúng ta còn cần phải đào sâu và học hỏi về giáo lý, để đức tin của mỗi người ngày càng tinh ròng và vững mạnh hơn và có thể tỏa sáng đến người chung quanh.
Nhiều người tuy chưa hẳn sống trong bóng tối, nhưng sống trong bóng mờ, khiến cho đời sống và hành động của họ trở nên mờ ám, thiếu sức sống. Đời sống gia đình của họ bị bóng tối của bất hạnh, cãi vã giận dỗi bao trùm, khiến cho gia đình trở nên tối tăm ngột ngạt. Các cha mẹ cần mạnh dạn khai sáng lại đời sống đức tin và các thực hành đạo đức trong gia đình, như việc tham dự thành lễ, các giờ kinh tối, các bữa ăn chung cần được tái lập, để có thể xua đi những bóng mờ bóng tối trong gia đình.
Khi lãnh Bí tích Rửa tội, chúng ta được giải thoát khỏi bóng tối của ma quỷ và tội lỗi, đã trở nên con cái của ánh sáng. Chúng ta không thể để mình rơi trở lại bóng tối, làm nô lệ cho bóng tối, nhưng xin cho chúng ta biết mở toang cánh cửa tâm hồn, để cho ánh sáng tin Mừng và tình thương của Chúa Giêsu chiếu tỏa. Xin Ngài giúp chúng ta biết sống và hành động như giữa ban ngày, xin Ngài loại bỏ khỏi ta những ngóc ngách tối tăm, nhưng hành động mờ ám, để ta sống đúng tư cách là con cái ánh sáng. Amen.

Về mục lục

.

TỐI SÁNG

Lm Uyen Nguyen

Tối sáng thuờng được áp dụng chỉ thời gian, ngày và đêm. Tối sáng cũng được nói về tinh thần, về trí năng của một ai đó, tối trí, sáng trí. Tối sáng còn được áp dụng chỉ về thị giác, một trong năm giác quan con người. Người có hai mắt hoặc thấy hoặc không thấy gì. Mắt thấy gọi là mắt sáng, mắt không thấy gọi là mắt tối vì bị mù. Người mù luôn sống trong tăm tối.

CN 4 MC A hôm nay cho con người dấu chỉ mang lại niềm hân hoan tràn hy vọng: ĐGS là ánh sáng và là sự sống dựa vào phép lạ Người chữa mắt người mù từ bình sinh. Người mù được chữa lành mắt thể lý được thấy ánh sáng, cũng ám chỉ đến việc chữa lành đôi mắt tâm hồn: mắt đức tin để nhìn thấy đâu là nguồn sáng, sự sống!

Câu chuyện chữa mắt người mù thật đơn giản, nhưng đã kéo theo bao hệ lụy xem ra rất phiền toái khi mắt kẻ mù được sáng, được nhìn thấy.

ĐGS nhìn thấy người mù trên con đường Người đi qua. Các môn đệ hỏi Người về nguyên nhân mà một người sinh ra có đôi mắt bị mù: ‘Bởi tội y hay cha mẹ y? Người cho các ông biết: ‘Chuyện đó xảy ra là để việc của TC được tỏ hiện nơi anh’ (c.3b).

Câu chuyện chữa mắt người mù, Gioan ghi lại giản dị qua vài cử chỉ: Người nhổ nước miếng trên đất hòa thành bùn và đắp lên mắt anh, sai anh đi đến hồ Silôê rửa (Silôê có nghĩa: người được sai). Anh đi rửa và mắt anh được sáng. Câu chuyện chữa mắt người mù vừa là một phép lạ sự thật lại mang đầy tính biểu tượng như những gì mà ĐGS trả lời sau câu hỏi của các môn đệ.

Ra đi rửa mắt, mắt anh sáng, anh quay trở lại, ĐGS đã rời khỏi nơi ấy, nên anh không thể biết Người là ai!

Mọi người, trong số những người thân, bạn bè, nhìn thấy anh, việc sáng mắt của anh làm cho bao người ngạc nhiên. Họ bàn luận, chia rẽ nhau về chính danh con người anh, về cơ sự cũng như ‘ai là người’ làm cho mắt anh được sáng?

Một người được lành bệnh, sự thường, trong tình người, sẻ có được sự chia sẻ trong vui mừng cảm thông đầy yêu thương, đáng lẽ phải là chuyện như thế, đàng này không ai làm như vậy, mà người ta lôi anh đến gặp những người Pharisêu. Những người này tra hỏi anh. Ở đây, với anh, vì lòng đầy ấp vui mừng, nên đã bất chấp mọi hiểm nguy vì nghi kỵ hiềm thù của người Do Thái, anh tuyên nhận thẳng thừng, trước mọi câu hỏi dò xét, dựa vào niềm tin của chính mình:  ‘Người là một vị ngôn sứ(c.17).

Cha mẹ anh cũng bị người Do Thái mời đến tra hỏi. Thái độ của họ giờ đây tỏ ra dè chừng, tránh né những gì liên lụy đến từ đứa con của mình được sáng mắt vì họ sợ người Do Thái với lệnh: ‘Trục xuất những ai tuyên xưng ĐGS là Đấng Kitô’ (c.22), Gioan ám chỉ một lệnh đồng nghĩa với vạ dứt phép thông công ở thời đầu của GH sơ khai.

Cuối cùng, sau những phiền lụy vì được sáng mắt và vì lời tuyên xưng đức tin, anh bị trục xuất ra khỏi hội đường. ĐGS am hiểu, quay lại gặp anh. Người muốn để anh được nhìn thấy Người, Đấng là Ánh Sáng, và là sự sống. Gặp nhau, Người hỏi anh: ‘Anh có tin vào Con Người không’? (c.35). Anh thưa: ‘Thưa Ngài, tôi tin(c.38).

Đức ‘tin’ của anh vào ĐGS là nguyên nhân gây bao phiền toái. Điều đó, rất phù hợp với những gì như ĐGS đã báo trước: ‘Phần anh em, anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và hội đường vì Thầy…để làm chứng cho họ được biết’ (Mc.13,19). Cùng  một nội dung, Matthêu cũng ghi nhận: ‘Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết’ (Mt.10,18).

Nhìn chung phép lạ chữa người mù từ bình sinh là một dấu lạ lớn, nhưng vẫn không làm nao núng xoay hướng người Pharisêu. Họ vẫn cứ khư khư không tin mà còn căm thù ĐGS hơn nữa. Không sao sửa đổi họ được, Người tỏ uy quyền một thẩm phán xét xử họ. Người nói: ‘Tôi đến thế gian này chính là để xét xử cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui ‘ (c.39). Nghe điều này Người Pharisêu càng căm phẫn vì ĐGS đã liệt họ vào những kẻ tội lỗi. Tội của họ là những người có mắt mà ra đui vì không thấy những điều rất thiết thực chạm đến đáy mắt và trí khôn quan sát, đánh giá và hiểu biết để chính mình đón nhận.  

Trong cõi nhân gian, không thiếu những người đã thuộc về hạng Pharisêu từ bao dời theo kiểu thức ‘quan sát cứ quan sát, phán đoán cứ phán đoán, đón nhận thì không’ đến nỗi chưa một lần hay biết hoăc mình đúng hoặc mình sai để mau lẹ đổi hướng. Họ vẫn cứ tự tại tâm đắc về hành vi và đường lối ứng xử của mình khiến cho bao người lâm vào hệ lụy cùng khốn vì họ. Con mắt trí khôn họ mù, mà nếu có sáng chỉ để biết và nhìn thấy mối hiềm thù ghen ghét nặng ký trong họ đang dần tăng trọng nhằm triệt hạ bất kỳ ai là đối thủ mà tự họ cho là kẻ phá luật ngày sabbat, hay gieo rắc những ý tưởng rao giảng mới lạ khác họ.

Tâm ý ĐGS, vì là Đấng nhân lành, muốn giao hòa mọi người lại với TC, trở về trong sự thật đầy tinh thần và chân lý để sống nhân cách, phẩm giá, cùng đích làm người, trở nên những người con thiện hảo của tạo hóa dựng nên, được mời gọi sống hoàn thiện theo niềm tin vào Con TC làm người để cùng hưởng Nước Trời, Thiên giới hạnh phúc đã được hứa ban.

Với kitô hữu hôm nay, Người mù sáng mắt nên dấu chỉ của ơn TC ban. Người mù được sáng là bằng chứng cho một niềm tin bất khuất về ĐGS Con TC làm người. Người là ánh sáng của trần gian, là sự sống của mọi người, ơn ban cao vời, TC ban Con Một của Ngài vì yêu thương, để lôi kéo mọi người xây dựng và cũng cố  niềm tin vào Người, nguồn mạch lấp đầy mọi khát vọng nơi mỗi con người là HẠNH PHÚC.

Lạy Chúa Cha từ ái, lạy Chúa Thánh Thần nguồn ánh sáng thật, xin cho con đủ can đảm để có thể mạnh dạn nói và nói thay cho nhiều người không dám nói: CON TIN, một đức tin bất khuất vào Con duy nhất của Ngài đã được CTT luôn đồng hành và hướng dẫn.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU ÁNH SÁNG TRẦN GIAN

Duyen Nguyen

Sống trong cảnh mù loà là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một con người từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể thể nào hình dung ra được!

Ðức Giêsu đã chữa một người mù từ lúc mới sinh, một người lớn lên trong bóng đêm dầy đặc. Ngài cho anh được thấy ánh mặt trời lần đầu tiên, thấy khuôn mặt của những người thân thuộc. Nhưng quan trọng hơn, anh đã thấy và tin vào Ðức Giêsu, Ðấng là Ánh Sáng của thế gian

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào đời sống tâm linh, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về đời sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác và tin tưởng.

Tin là một thái độ dấn thân. Anh đi ra hồ Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Tin không thể không hành động, dấn thân và lên đường theo cách của Chúa muốn.

Tin là một hành trình đầy thử thách và gian khổ. Như chàng thanh niên, đã bước vào một hành trình đức tin đầy cam go. Lúc đầu, Ðức Giêsu chỉ là một người mà anh không rõ. Sau đó, anh dám khẳng định trước mặt mọi người. Ngài là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến. Cuối cùng, anh đã sấp mình để bày tỏ lòng tin vào Ngài. Ðức tin của anh lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.

Anh đành chấp nhận một hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã phạm luật ngày Sabat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường.

Bị khai trừ khỏi hội đường, là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất, đối với người Do Thái. Anh mù đã bị gia đình từ bỏ, giờ đây lại bị xã hội loại trừ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Và đây cũng là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua. Sự lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Anh chấp nhận mất tất cả chỉ để trung thành với niềm tin của mình.

Niềm tin lớn dần với thử thách. Thử thách càng cam go, đức tin càng mạnh mẽ. Ban đầu, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó, trong muôn ngàn người trên đời, anh nói với mọi người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Rồi sau những câu hỏi của đám đông những người xung quanh, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhìn nhận rằng: “Ngài thật là vị ngôn sứ”. Sau những sự tra hỏi nhiều lần của giới chức tôn giáo, lại khiến anh thêm xác tín hơn và khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của chúng ta. Anh đã phải chiến đấu với những bóng tối dày đặc bao phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì, chiến đấu và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập niềm vui.

Đâu là bóng tối đang phủ kín đời sống, tôi khiến chưa thoát ra được, để đến với Chúa, đến với tha nhân? Phải chăng vì tôi chưa chấp nhận để cho Chúa bôi nước miếng và đất bùn lên đôi mắt tâm hồn của tôi … hay tôi ngại cách chữa trị dơ bẩn của Chúa, ngại phải đi rửa… bao lâu tôi còn ngại, tôi chưa chấp nhận… thì bấy lâu tôi còn bị mù.

Phải chăng, chỉ vì một lỗi lầm, một yếu điểm nho nhỏ mà tôi được nhắc nhở, được vén mở nhưng vì tự ái, tôi cho là bị xúc phạm hơn là khiêm tốn chấp nhận ra đi để rửa sạch,để sửa đổi, theo ý Chúa muốn.

Phải chăng tôi cũng là người Pha-ri-siêu chỉ biết rình mò, bắt lỗi, phê bình và kết án người khác theo cái nhìn thiện cẩn và ích kỷ của tôi, qua lớp vỏ của người trung thành với luật. Rồi ở mãi trong cách giữ luật và sống luật theo ý riêng tôi.

Biết bao điều trong cuộc sống, Chúa mong muốn tôi nhìn và thấy như: cần giúp đỡ một ai đó, hy sinh một chút thời gian, chấp nhận một sự thật để được chút sửa dạy, một chút thua thiệt trong phục vụ nhưng biết bao lần tôi tránh né. Vì sợ liên lụy, sợ bị coi thường, sợ xấu hổ… Nên tôi cứ sống trong vòng luẩn quẩn của bóng tối lén lút, ích kỷ, ý riêng…nhất là trong cảm xúc của ấu trĩ nhất thời. Tôi không có được bình an nội tâm.

Vì thế, để mắt tâm hồn tôi được nhìn thấy Chúa và bao công trình của Ngài,  tôi phải có đời sống cầu nguyện, sám hối, hoà giải, chia sẻ, cảm thông và yêu thương với mọi người . Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn chúng ta đi trọn hành trình đức tin để đến gặp Đấng là ánh sáng đích thực, ánh sáng vĩnh cửu.

Lạy Chúa Giêsu nguồn ánh sáng,

Như người mù trong Tin Mừng,

biết mình mù lòa nên Chúa chữa trị để được sáng mắt.

Xin cho con được nhìn thấy ánh sáng chói chang của Chúa,

Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,

ánh sáng phá tan bóng tối trong con

và đòi buộc con phải hoán cải.

Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối

chỉ vì chút tự ái cỏn con.

Xin cho con khiêm tốn

để đón nhận những tia sáng nhỏ

mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.

Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý

để Chân lý cho con được tự do. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA VẪN TRUNG THÀNH MÃI

 Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh

 Không sợ Thiên Chúa chối bỏ, chỉ sợ con người bưng tai bịt mắt để khỏi nhận ra Thiên Chúa. Đó là tâm tình của tôi khi suy niệm câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người bị mù mắt từ khi mới sinh.

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa vẫn chỉ một đường lối, đó là trung thành ngỏ lời với con người. Chúa sử dụng mọi cách thức, mọi hoàn cảnh, mọi chiều kích để thế giới này, vũ trụ này nói chung và nơi cuộc đời của từng người nói riêng, ghi đậm dấu ấn lòng thương xót của Chúa.

Thiên Chúa luôn tìm cách để gần gũi, để nên một với con người. Vì thế, Người không ngừng yêu thương tỏ mình cho con nguời. Chính Chúa Kitô là bằng chứng lớn lao cho tình yêu ấy.

Về phía con người, lẽ ra phải khát khao, phải vui mừng đón nhận, và đón nhận bằng tất cả niềm hạnh phúc của một thụ tạo được Đấng Tạo Hóa cúi xuống đoái thương, thì ngược lại, họ lại phản bội, lại ghanh ghét, chối từ, lắm lúc muốn thay quyền Thiên Chúa…

Càng là những người nắm quyền hành, mang bộ mặt đạo đức bao nhiêu, có khi lại là kẻ kiêu ngạo, chống đồi Thiên Chúa nhiều bấy nhiêu.

Ngày Chúa Giêsu giáng sinh, qua thiên thần, Chúa tỏ mình cho các mục đồng. Những người bị coi là thấp bé này đã mở lòng đón nhận mạc khải của Chúa.

Còn với các đạo sĩ, những người ngoại giáo, chỉ bằng một ánh sao lạ trên bầu trời phương Đông, Chúa đã ngỏ lời với họ. Các đạo sĩ chân thành đón nhận mạc khải.

Bởi vậy, những tâm hồn đơn hèn, khiêm nhu của các mục đồng, của các đạo sĩ đã hạnh phúc nhiều vì là những người đầu tiên đón nhận Tin mừng Giáng sinh.

Cũng là một cách tỏ mình, còn thế giá hơn sự tỏ mình bằng một ánh sao cho ba nhà đạo sĩ, đó là việc hoàng triều Hêrôđê và cả thành thánh Giêrusalem được các đạo sĩ đến với mình, mang theo Tin mừng Giáng sinh để ngỏ lời với Hêrôđê và cả Giêrusalem.

Gọi là cách tỏ mình “thế giá”, bởi một ánh sao, dù có lạ, có sáng đến đâu, trước sau vẫn chỉ là một ánh sao. Trong khi để ngỏ lời với Hêrôđê và Giêrusalem, thì không phải chỉ là ánh sao, nhưng là những con người.

Thiên Chúa đã dùng chính bản thân những nhà đạo sĩ để mời gọi cả hoàng triều Hêrôđê.

Thiên Chúa vẫn trung thành và mãi mãi trung thành, dù con người có khép lòng mình lại, khép rất chặt, Thiên Chúa vẫn yêu thương mời gọi, vẫn kiên nhẫn đợi chờ, vẫn tha thiết lấp đầy khát vọng của họ bằng chính sự hiến thân của mình, trao ban chính mình làm gia nghiệp đời đời của họ.

Đáng tiếc cho Hêrôđê và tất cả những người thuộc về ông! Bởi tất cả đã không có một chút mảy may nào muốn mở lòng để nhận ra Thiên Chúa đang ngỏ với mình. Chua chát làm sao, bởi Hêrôđê và quần thần của ông không phải là những người ngoại giáo, không phải là những người ở xa, hẻo lánh, tận trời Đông nào như các đạo sĩ, nhưng ở rất gần nơi Thiên Chúa làm người vừa giáng sinh.

Họ cũng không phải là những người nghèo dốt nát như các mục đồng, nhưng có đầy đủ mọi phương tiện: nguồn Kinh Thánh nắm trong tay; những nhà thông luật và hiểu biết Thánh Kinh luôn luôn vây quanh để sẵn sàng giải thích Thánh Kinh; phương tiện vật chất có dư thừa…, lại trở nên những tâm hồn chết lạnh vì thiếu vắng Thiên Chúa.

Hóa ra cái giàu của hoàng triều Hêrôđê lại chính là cái nghèo, nghèo không thể tưởng, ngèo đến mức trần trụi, đáng thương. Họ chỉ có mỗi bản thân của mình. Ích kỷ đến thế làm sao có thể gặp Thiên Chúa, Đấng chỉ có yêu và xả thân vì yêu.

Ích kỷ đến thế, vì thế cũng độc ác không vừa. Hêrôđê đóng chặt cửa lòng trước tin vui Chúa Cứu Thế giáng trần đã vậy, ông còn sợ Người tranh giành chiếc ngai của ông, đến nỗi thẳng tay thanh trừng sự sống của Người.

Không có Thiên Chúa trong lòng, không có bất cứ điều gì người ta không dám làm, dù tàn nhẫn đến đâu. Bởi vậy, dù không thể giết chết Thiên Chúa làm người, Hêrôđê cũng đã giết chết vô vàn trẻ sơ sinh Dothái.

Cũng vậy, câu chuyện Chúa chữa mắt người mù từ khi mới sinh, thánh Gioan cho thấy điệp khúc của việc bưng tai, bịt mắt trước tình yêu, quyền năng của Thiên Chúa vẫn lặp lại.

Thay vì nhận ra Thiên Chúa nơi dấu lạ sáng mắt của anh mù, người biệt phái lại cho đó là hành vi của tội lỗi. Họ nói về Chúa Giêsu: “Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi”, và nói về anh mù được chữa lành: “Mày sinh ra trong tội”.

Còn chính bản thân họ thì sao? Khi khẳng định người khác tội lỗi, người Dothái đã cố tình để lộ một khẳng định về chính họ: họ là kẻ trong sạch, là người thuộc về Thiên Chúa. Chính miệng họ nói lên điều đó: “Chúng ta là môn đệ của Môisen. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến”.

Nhưng ngay chính lời khẳng định mình là “môn đệ của Môisen”, là kẻ thuộc về Thiên Chúa, cho thấy chính họ mới là những kẻ đui mù trầm trọng: không thể biết Chúa Giêsu!

Đúng là nghịch lý. Nghịch lý đến mức mâu thuẫn lớn lao. Bởi người “tội lỗi” lại có thể làm nên những điều kỳ diệu quá tốt đẹp mà từ xưa chưa một ai làm nổi: mở mắt người mù từ khi chưa biết nói, biết cười. Còn “người sinh ra trong tội” lại thừa hưởng những điều kỳ diệu ấy cũng lớn lao không kém.

Trong khi đó, những kẻ “vô tội” lại không bao giờ có thể chữa lành cho ai, càng không thể làm nổi một dấu lạ, dù là dấu lạ nhỏ nhất.

Đó mới thực sự mỉa mai đầy đau xót. Nỗi đau xót ấy mới chính là bài học vô giá dạy ta ý thức mình, ý thức thân phận mong manh của một con người đầy giới hạn, để ngay từ bây giờ, sẽ luôn luôn đón nhận anh chị em bằng tất cả tình yêu thương, sự chia sẻ và cảm thông.

Hóa ra người mù lại sáng, còn kẻ sáng lại mù. Anh mù được chữa lành có đôi mắt tâm hồn sáng đến lạ thường. Đôi mắt ấy chính là đức tin mà anh đã đón nhận từ Chúa Giêsu. Đôi mắt đức tin của người mù đã giúp anh nhìn thấu đáo về người chữa lành cho mình: “Đó là một tiên tri”. Và khi đối diện với Chúa Giêsu, anh đã tuyên xưng: “Lạy Thầy, tôi tin”.

Trong khi khẳnh định về Chúa như thế, anh cũng đã vạch trần cái đui mù của người biệt phái: “Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó ở đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. 

Lời của anh mù được chữa lành đơn sơ quá, nhưng đẹp quá, hay quá, lý luận của anh chắc chắn quá. Giá mà những người biệt phái mềm lòng một chút, chỉ cần một chút thôi, đã có thể gặp gỡ Chúa Giêsu và đón nhận Người.

Nhưng nơi anh mù, đâu chỉ có những lời đầy can đảm. Đứng trước quyền lực của tôn giáo, của xã hội, chính đôi mắt đức tin đã cho anh lòng kiên trung không một chút sợ sệt.

Anh khẳng khái lên tiếng dứt khoát, mạnh mẽ dẫu biết mình có thể gặp nguy hiểm, cuộc sống có thể mất bình an. Chẳng hạn anh đã nói: “Nếu đó là người tội lỗi, tôi không biết, tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”; “Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng”…

Chúa đâu có hẹp hòi, chỉ có lòng người hẹp hòi mà thôi. Chúa đâu có đòi hỏi điều gì cao xa, hay vượt quá sức mình.

Chúa đâu có chối bỏ ai, chỉ có con người mới chối bỏ Chúa. Chúa luôn luôn dung thứ và tha thứ, chỉ có ta mới là kẻ vô tâm trước tình yêu của Chúa.

Chúa luôn luôn mời gọi và ngỏ lời với ta, chỉ có ta khép chặt lòng mình, để khỏi đón nhận mạc khải của Người. Chúa vẫn là Thiên Chúa trung thành, chỉ có ta là không ngừng phản bội.

Sau cùng, chúng ta hãy mượn lời thánh Augustinô, để cùng thánh nhân nguyện xin Chúa ban cho mình thoát khỏi tình trạng mù lòa của tâm hồn, để có thể nhận ra Chúa nơi chính mình và nơi anh chị em:

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương và chỉ nghĩ đến Chúa.

Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời.

Về mục lục

.

KHI CHÚA CHỮA NGƯỜI MÙ

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Khi nói về những trường hợp mù, Tin Mừng nhất lãm luôn ghi nhận lời van xin của chính nạn nhân: “Lạy con vua Đavit, xin thương xót chúng tôi!”. Chẳng hạn:

  1. Tin Mừng theo thánh Mátthêu:

–  Khi Ðức Kitô ra khỏi đó thì có hai người mù theo Ngài mà kêu rằng: “Lạy Con vua Ðavít, thương xót chúng tôi!” (Mt. 9:27).

Có hai người mù ngồi ở vệ đàng; nghe biết Ðức Kitô đi ngang qua, thì họ kêu rằng: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt. 10:29-30).

  1. Tin Mừng theo thánh Marcô:

Con của Timê là Bartimê, một người mù ăn xin, ngồi ở vệ đàng.  Nghe biết là Ðức Giêsu Nazarét, thì hắn lên tiếng kêu rằng: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mc. 10:46-47).

  1. Tin Mừng theo thánh Luca:

Có người mù nọ đang ngồi ăn xin ở vệ đàng.  Nghe có đông người đi ngang qua, hắn dò hỏi cho biết chuyện gì thế. Người ta cho hắn biết là có Giêsu Nazareth ngang qua.  Và hắn la lên rằng: “Lạy con vua Ðavit, xin thương xót chúng tôi!” (Lc. 18:35-38).

Riêng Chúa nhật thứ IV mùa Chay năm A này, Tin Mừng theo thánh Gioan, người mù không hề lên tiếng xin điều gì, Chúa Giêsu tự tay chữa lành cho anh.

Ngay trước khi chữa lành, Chúa cho biết: Anh ta bị mù là cơ hội “để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Chính vì thế, “chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, THẦY LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN”.

Như vậy, khác với các thánh sử nhất lãm, đối với thánh Gioan, người mù không cần phải van xin, nhưng đây là nhiệm vụ của Chúa Giêsu:

  1. Chúa Giêsu phải chứng tỏ và mạc khải quyền năng của Thiên Chúa. Khác các tác giả nhất lãm (chữa lành là chứng minh ơn tha thứ), thánh Gioan nhấn mạnh đến việc bày tỏ quyền năng vinh quang của Chúa.

Trường hợp anh mù, vì được chữa khỏi tật nguyền mà không ai có thể chữa được, quyền năng của Thiên Chúa đã được biểu lộ. Từ nay, bất cứ ai nhìn thấy anh, hay nghe nói đến anh, họ biết rằng, anh đã được sức mạnh siêu phàm chạm đến cuộc đời mình.

  1. Qua tật nguyền mà anh được cứu chữa, Thiên Chúa cũng ân cần mạc khải tình thương của Người dành cho nhân loại. Bằng sự cứu chữa nơi một vài trường hợp trên thân xác, Thiên Chúa muốn nói rằng, Người quan tâm đến tâm hồn con người. Người muốn cứu độ họ. Thiên Chúa muốn chữa lành linh hồn họ.

Chữa lành bên ngoài là để nhấn mạnh đến ơn tha tội. Bởi bị tật nguyền nơi thân xác đã là bất hạnh. Nhưng tật nguyền trong linh hồn mới thật bất hạnh đời đời. Việc chữa lành trên thân xác, có cũng được, không có không sao. Nhưng nếu linh hồn mà không được chữa lành, không được Chúa đoái thương, con người sẽ đánh mất ơn vĩnh cửu trong Thiên Chúa.

  1. Đàng khác, nếu không được chữa lành nơi thân xác, ta chấp nhận đau khổ. Đó chính là thập giá đời ta.

Chúa Giêsu từng mời gọi hãy vác thập giá của bản thân mà theo Người. Bởi thế, đau khổ vẫn là điều cần thiết để ta kết hợp với Chúa Giêsu mà cứu độ mình, cùng đền thay tội lỗi cho muôn người.

Thập giá đời ta sẽ phát sinh ơn cứu độ cho mình, cho mọi người, chỉ khi ta vui nhận trong tinh thần tín thác vào Thiên Chúa, và hiến dâng như của lễ toàn thiêu, hiến tế đời mình trong Chúa Giêsu.

Vì thế, những ai được chữa lành là điều đáng vui mừng, nhưng nếu không được chữa lành, thì bệnh tật nơi thân xác vẫn là điều quý giá. Giá trị và vinh quang của sự chiến thắng nằm ở chỗ, dù phải mang thánh giá đời mình, ta vẫn kiên trung tín thác và yêu mến Chúa.

  1. Nói rằng, trong nhiều trường hợp (chẳng hạn trường hợp của người mù), bất hạnh của con người là để chứng tỏ vinh quang Thiên Chúa, không có nghĩa là, Thiên Chúa muốn cho một số người bị khuyết tật để qua họ Người bày tỏ chính mình.

Đúng hơn, ta phải hiểu rằng, tất cả bệnh tật, sự đau khổ, những yếu tố bất toàn của thiên nhiên… tất cả đếu có thể ập xuống trên con người. Đau khổ vẫn luôn hiện diện trong cõi nhân sinh. Dù muốn, dù không, mọi người đều có thể lâm vào đau khổ. Nó là người bạn không ai muốn, nhưng vẫn tự tìm đến ta.

Nhưng khi đau khổ đã xảy ra, Thiên Chúa có thể sử dụng chúng để mang lại nhiều ích lợi thiêng liêng khác. Chẳng hạn, Thiên Chúa sử dụng cuộc khổ nạn thương đau của Chúa Giêsu để mang lại ơn cứu độ cho trần thế.

Thiên Chúa vẫn không ngừng rút ra những điều tốt lành từ trong những thương đau, những bế tắc, thậm chí những tội ác… Vì thế, nếu biết chân thành suy niệm, ta có thể nhận ra ngay trong những thử thách của đời mình, có bàn tay Thiên Chúa. Không ít lần, ta kinh nghiệm rằng, giữa những khổ đau, ta nhận được qua nhiều sự đỡ nâng, sự ủi an hoặc nhiều những thuận lợi khác…

  1. Chữa lành người mù, Chúa khẳng định: “THẦY LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN”. Như vậy, qua việc mở đôi mắt cho người mù được thấy ánh sáng, Chúa Giêsu không nhắm việc chữa lành trên thân xác cho bằng nhắm đến sự cứu độ đời đời mà Người ban cho ta. Chỉ trong Chúa Kitô, chỉ có cách duy nhất là thông hiệp với Chúa Kitô, ta mới được tiến đến cùng ánh sáng là chính Người mà thôi.

Lời này được tuyên bố ngay giữa bối cảnh mà sự thù ghét Chúa trong lòng hàng ngũ lãnh đạo Dothái đang dâng cao. Bởi suốt cả chương 8, Tin Mừng theo thánh Gioan cho thấy, sự tranh luận ngày càng gay gắt giữa Chúa Giêsu và người Dothái.

Dù đang bị vây hãm bởi bóng đen dày đặc của lòng người, của tội lỗi thế gian, Chúa vẫn là Ánh Sáng. Chúa vẫn là Ánh Sáng duy nhất tỏa chiếu cho tất cả những ai chấp nhận để Chúa dẫn lối thoát ly khỏi mê lầm, tội lỗi.

Tình yêu và sự cứu độ của Chúa vẫn là những thực tại mà mỗi con người cần đến, không thể thay thế, không thể khác được. Chỉ có Chúa Giêsu Kitô, ánh sáng của chúng ta, Đấng đưa ta về sự sáng của tình yêu và ơn cứu độ.

Chúa nhật thứ IV mùa Chay, nghĩa là thời gian càng lúc càng gần những ngày cao điểm của mầu nhiệm Vượt Qua. Bạn và tôi hãy bắt chước người năm xưa, vững tin vào Chúa để được tình yêu và ân sủng của Người đưa lối ta đi về sự sáng vĩnh cửu.

Một khi bắt gặp Chúa, Đấng giải thoát mình khỏi cảnh mù tối, người mù bất chấp mọi sợ hãi, vẫn hiên ngang khẳng định lòng tin của mình vào Chúa Giêsu: “Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa, ông ấy đã chẳng làm được gì”.

Chúng ta là Kitô hữu, những người luôn xác tín Chúa Giêsu là Đấng cứu độ mình. Hãy như người mù, chúng ta cần chứng tỏ đức tin của mình mọi nơi, mọi, mọi hoàn cảnh, bất chấp những điều ấy có thể đe dọa sự an nguy của bản thân nơi cuộc đời này.

Về mục lục

.

SỰ SÁNG CỦA THIÊN CHÚA VÀ BÓNG TỐI CỦA CON NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn

Sắp xếp của phụng vụ cho chúng ta có một cái nhìn nhất quán trong Mùa Chay. Chúa Nhật thứ I và thứ II luôn luôn là những cơn cám dỗ của Đức Giêsu và việc Người biến hình trên núi. Từ Chúa Nhật thứ III, mỗi năm A, B, C có một chủ đề khác nhau. Chúa Nhật Thứ III năm A với chủ đề Đức Giêsu là nguồn sống. Chúa Nhật Thứ IV hôm nay, phụng vụ lời Chúa mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu là Ánh Sáng.

Với Ánh Sáng, chúng ta có được niềm vui. Điều đó Giáo hội muốn trình bày qua việc cho phép chủ tế mặc lễ phục màu hồng trong Thánh lễ hôm nay. Quả thật, bóng tối tượng trưng cho sự u buồn, thất vọng, tội lỗi và sự chết, nó được gói gọn trong đêm đen cô tịch; còn ánh sáng chính là vui mừng, hy vọng, thánh thiện và sự sống, nó được mở ra trong ánh nắng hồng rực rỡ.

I.  PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: 1Sm 16, 1b.6-7.10-13a

Saul được Chúa chọn làm vua dân Do Thái đầu tiên, nhưng vì ông sống, nhìn và giải quyết vấn đề theo cái nhìn trần tục, theo ý của riêng ông nên Thiên Chúa đã bỏ ông và quyết định chọ một trong tám người con ông Giesê lên thay thế. Vì Chúa không chỉ định rõ ràng nên Samuel lại chọn lựa theo kiểu cách của người đời, nhìn vóc dáng cao to… nhưng Thiên Chúa đã nói với ông: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó… người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1Sm16, 7). Cuối cùng Đức Chúa đã chọn đứa con trai út, người mà chính Giesê, cha ruột của cậu cũng không có ý định cho cậu xuất hiện, có lẽ vì vóc dáng bé nhỏ và tính khí nghệ sĩ của cậu chăng?

  1. Tin Mừng: Ga 9, 1-41

Trong Tin Mừng, cũng rất nhiều lần Đức Giêsu làm dấu lạ, và hơn một lần Ngài chữa cho người mù được sáng mắt, nhưng chưa có trường hợp nào Đức Giêsu làm dấu lạ lại phức tạp như trường hợp này.

Phức tạp từ chính các môn đệ khi họ nói lên suy nghĩ chung của người Do Thái: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9, 2). Đức Giêsu nói chẳng phải tại ai, nhưng là dịp để người ta “nhìn thấy công trình của Thiên Chúa nơi anh”.

Phức tạp từ chính cách chữa lành của Đức Giêsu: “Nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn, và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta đến hồ Silôac mà rửa, anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được” (Ga 9, 6-7). Đây là ý nghĩa tượng trưng, nhưng mục đích chính của Đức Giêsu là muốn anh ta “đến hồ Silôac” (có nghĩa là người được sai phái). Đức Giêsu muốn mặc khải Ngài chính là Đấng được sai phái đến để mở mắt cho người mù.

Phức tạp từ những người láng giềng vì người ta không thể ngờ một người mù mà nay lại thấy đường, nên người ta bàn tán xôn xao. Cuối cùng họ quyết định dẫn anh ta đến với những người  Pharisêu, là những bậc thầy trong dân đế xin được hướng dẫn. Tại đây cuộc tranh luận về quyền năng của Đức Giêsu xảy ra. Họ không nhìn đến khả năng mở mắt cho người mù, mà họ chỉ nhìn thấy việc Đức Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabat, nên họ đã kết án Ngài là một con người tội lỗi. Những người sáng mắt, những người hướng dẫn đời sống đức tin cho dân chúng thì lại nhìn Đấng được Chúa Cha sai đến là một con người tội lỗi. Còn anh mù từ thuở mới sinh thì đã nhận ra người mở mắt cho mình là một vị ngôn sứ, và cuối cùng là CON NGƯỜI, và anh đã “sấp mình xuống trước mặt Người”.

Đức Giêsu đã đem đến ánh sáng cho người mù, chẳng những là ánh sáng vật chất, mà nhất là ánh sáng đức tin để anh nhận ra Ngài là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến; trong khi nhiều người vẫn còn sống trong mù tối, nghĩa là họ chưa nhận ra Đức Giêsu là Đấng được sai đến để giải thoát con người khỏi bóng đêm.

II.  SỰ SÁNG CỦA THIÊN CHÚA

Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn mỹ, nhưng một trong những mặc khải về quyền năng và nét đẹp của Thiên Chúa chính là sự sáng. Sự sáng đó được thể hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đã đến thế gian và chiếu soi mọi người”(Ga 1, 9). Trong năm gia đình này, với lời Chúa hôm nay chúng ta khám phá sự sáng đó chính là:

  1. Nhìn với cái nhìn linh thánh

Chính Samuel là người của Thiên Chúa, mà còn bị chi phối bởi cái nhìn giới hạn của con người. Ông ta được Chúa sai đi chọn người để làm vua và ông đã chọn theo cái nhìn tự nhiên, một con người với dáng vóc cao to và vẻ oai nghiêm bề ngoài. Còn Thiên Chúa lại có một cái nhìn hoàn toàn khác, Ngài đã chọn Đavit, một cậu bé có vóc dáng bé nhỏ, không oai nghiêm nhưng rất rất lóc chóc, lanh lẹ…

Khi người ta dẫn anh mù đã được Đức Giêsu chữa cho sáng mắt đến với những người Pharisêu, họ đã kết án Ngài là kẻ tội lỗi vì đã vi phạm luật ngày sabat. Một số người thì nói rằng người tội lỗi không thể nào làm được dấu lạ như vậy… Rõ ràng đó là cái nhìn vội vàng của con người. Còn người đã được chữa sáng mắt thì nói: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu ông ta không phải người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 32-33). Chính nhờ cái nhìn linh thánh đó mà sau khi đã được chữa cho sáng mắt, anh còn nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: “Thưa Ngài, tôi tin!”

  1. Đối xử bằng tình yêu thương

Sự sáng nổi bật nhất nơi Đức Giêsu chính là tình yêu thương. Có thể nói chính tình yêu đã làm cho cuộc đời của Đức Giêsu bừng sáng. Nơi đâu Ngài hiện diện, ở đó có tình yêu thương, và tình yêu thương đó lan tỏa, xua tan mọi bóng đêm của của tội lỗi, của chiến tranh, của giết chóc, của hận thù, của ghen ghét… Trớ trêu thay, chính Ngài lại là nạn nhân của tất cả những điều đó. Nhưng sau tất cả những điều đó, Ngài đã chiến thắng khải hoàn, để cho chúng ta nhận ra được chính Ngài đã phá tan đêm tối bằng ánh sáng yêu thương.

III.  BÓNG ĐÊM CỦA CON NGƯỜI

  1. Cái nhìn phàm tục

Tất cả mọi trục trặc trong cuộc sống, cách riêng trong gia đình đều do con người không có cái nhìn linh thánh, họ chỉ nhìn với cái nhìn phàm tục.

Có những người làm ăn bất chính, biết những điều sai mà vẫn cứ làm. Khi được người khác nhắc nhở, họ đã thách thức: “Đố ai làm cho họ nghèo được!”. Đó là một lời thách thức của những người có một cái nhìn hoàn toàn trần tục, và là một lời dại dột nhất của con người. Người ta nói “không ai giàu 3 họ, không ai khó 3 đời”. Dĩ nhiên đôi khi cũng có, nhưng câu thành ngữ này gởi đến cho chúng ta một thông điệp: Giàu nghèo không phải là một giá trị bền vững, nó dễ thay đổi lắm. Vì vậy những ai nghĩ rằng không bao giờ mình nghèo, thì đó là kẻ đang chống lại quy luật của tự nhiên. Hơn thế nữa, nhiều bằng chứng hiển nhiên trước mắt chúng ta, có người bị trộm, bị hỏa hoản, bị lường gạt… mất hết tất cả. Hoặc có những người lo thu gom tích trữ rồi tự hào về tài sản của mình, bỗng nhiên Chúa để cho mắc phải một căn bệnh nan y, thế là tiền bạc cũng hết, mà bệnh tật cũng không chữa khỏi. Và nhất là có tích trữ rồi đến lúc chết cũng không mang theo được gì.

Trong gia đình, có những thành viên chỉ biết sống theo những giá trị phàm tục như là chỉ biết kiếm tiền mà không lo sống đạo; chỉ biết thỏa mãn những đam mê riêng tư của mình mà không biết lo cho gia đình. Họ không nghĩ đến vận mệnh của cuộc đời mình rồi sẽ ra sao? Ngày mình chết, mình sẽ mang theo được gì nếu cứ mãi mê với cuộc sống trần gian?

Đó là bóng đêm rõ ràng nhất nơi những con người không biết nhìn với cái nhìn linh thánh, dám thách thức cả Thiên Chúa, hoặc chỉ lo sống theo kiểu cách của thế gian.

  1. Thiếu vắng tình yêu thương

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Hơn bao giờ hết, nhân loại đang thiếu vắng tình yêu thương”. Bằng chứng là chiến tranh, chủ nghĩa khủng bố, nhiều người nghèo không có điều kiện sinh sống, nhiều trẻ em không được hưởng quyền lợi của mình. Thêm vào đó là tình trạng tội ác gia tăng, đạo đức xuống cấp nhất là nơi giới trẻ khi họ quá tự do trong chuyện giới tính và xử lý hậu quả của tự do đó bằng việc phá thai…

Tất cả những tình trạng xấu trong xã hội hôm nay xuất phát từ việc thiếu vắng tình yêu thương, chỉ nghĩ đến ích lợi của bản thân mình mà không biết nghĩ đến người khác. Trách nhiệm đó trước hết là của những nhà lãnh đạo quốc gia, khi họ dùng quyền hành của mình để trục lợi cho bản thân mà không quan tâm gì đến vận mệnh của đất nước cũng như đời sống của người dân.

Trách nhiệm đó còn là của từng thành viên trong gia đình khi họ chỉ biết sống cho mình mà không biết nghĩ đến những người xung quanh.

Chính vì vậy nơi nào thiếu vắng tình yêu thương thì sẽ tạo nên bóng đêm ở nơi đó: trong tâm hồn, trong gia đình, trong đoàn thể, trong họ đạo, ngoài xã hội, quốc gia và cả thế giới.

Đức Giêsu đã đến thế gian này để phá tan bóng tối bằng chính ánh sáng của sự linh thánh và tình yêu thương. Những ai biết quan tâm đến giá trị linh thánh và có tình yêu thương chân thành nơi con tim của mình thì sẽ không còn mù tối và hơn thế nữa còn góp phần để đem đến ánh sáng cho trần gian.

Gia đình của chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu và cha mẹ ngài là Louis và Zelie Martin là một minh chứng cho những người biết quý trọng những giá trị linh thánh và sống tình yêu thương trong gia đình của họ. Họ là ánh sáng cho năm gia đình này.

Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp cũng biết quý trọng những giá trị linh thánh bằng việc tin tưởng và phục vụ Chúa, hướng dẫn giáo dân sống đạo; và sống hết tình với đoàn chiên Tắc Sậy, nên cha Cha đã sẵn sàng chết cho đoàn chiên của mình.

Một số gia đình vẫn còn giữ việc đọc kinh hôm chung; nhắc nhở nhau đi lễ ngày Chúa Nhật, thậm chí là ngày thường; nhắc con cái học giáo lý bằng mọi giá; tham dự những việc đạo đức trong họ đạo như việc lần chuỗi, đi đàng thánh giá, Chầu Thánh Thể; tích cực tiếp giúp những công tác trong họ đạo bằng khả năng của họ… Họ là đã được Đức Giêsu làm cho sáng mắt đức tin và họ trở thành ánh sáng trong môi trường họ đang sống.

Tuy nhiên vẫn còn nhiều người, nhiều gia đình nhìn và sống với cái nhìn phàm tục, thách thức Thiên Chúa và không biết yêu thương. Họ không nghĩ đến ngày mình chết, đến ơn cứu độ mà Đức Giêsu đã đem đến cho họ. Chúng ta cầu nguyện thật nhiều cho những người đó.

“Lạy Chúa, xin cho con được thấy!” Amen.

Về mục lục

.

THẦY LÁ ÁNH SÁNG THẾ GIAN

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 9,1-41

(1) Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (2) Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù. Anh ta hay cha mẹ anh ta ?” (3) Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. (4) Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng. Đêm đến, không ai có thể làm việc được. (5) Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. (6) Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù. (7) Rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là: Người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. (8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao ?” (9) Có người nói: “Chính hắn đó !” Kẻ khác lại rằng: “Không phải đâu ! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi”. Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi đây !” (10) Người ta liền hỏi anh: “Vậy làm sao mắt anh lại mở ra được như thế ? ”. (11) Anh ta trả lời: “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đền hồ Si-lô-ác mà rửa”. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được”. (12) Họ hỏi anh: “Ông ấy ở đâu ?” Anh ta đáp: “Tôi không biết”. (13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. (14) Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày Sa-bát. (15) Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy”. (16) Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; Kẻ thì bảo “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy ?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. (17) Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh ?” Anh đáp: “Người là một vị Ngôn sứ !”. (18) Người Do thái không tin là trước đây anh bị mù nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. (19) Họ hỏi: “Anh này có phải là con ông bà không ? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được ?”.  (20) Cha mẹ anh đáp: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. (21) Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó. Nó đã khôn lớn rồi, tự nó, nó nói về mình được”. (22) Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do thái. Thật vậy, người Do thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. (23) Vì thế, cha mẹ anh mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. (24) Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi”. (25) Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: Trước đây tôi bị mù, mà nay tôi nhìn thấy được !” (26) Họ mới nói với anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh ? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào ?” (27) Anh trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa ? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng ?” (28) Họ liền mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy. Còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. (29) Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê. Nhưng chúng ta không biết ông ấy bởi đâu mà đến”. (30) Anh đáp: ”Kể cũng lạ thật ! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi ! (31) Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. (32) Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. (33) Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì”. (34) Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư ? ” Rồi họ trục xuất anh. (35) Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không ?”. (36) Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” (37) Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. (38) Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. (39) Đức Giê-su nói:”Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !”. (40) Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao ?” (41) Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy, nên tội các ông vẫn còn !”.

  1. Ý CHÍNH:

Câu chuyện Đức Giê-su chữa cho người mù từ khi mới sinh cho thấy: Đức Giê-su chính là Ánh Sáng Thế Gian, và chỉ những ai có lòng khiêm hạ mới đón nhận được ánh sáng ấy. Trong cuộc đối thoại, anh mù đã từng bước hiểu biết về Người: Từ “một người tên là Giê-su” (11) đến “một vị Ngôn sứ !” (17), rồi “Người bởi Thiên Chúa mà đến” (33). Cuối cùng là “Con Người” (35), là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai, thì anh mù đã tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin” và sấp mình trước mặt Người (37). Quả thật, chỉ những ai thực tâm muốn tìm Chúa mới gặp được Người.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 1-5: + Ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù: Cựu Ước thường cho rằng: tai nạn, bệnh tật và đau khổ là hình phạt do tội lỗi của tội nhân (x. St 3,3) hay tội của cha ông người ấy (x. Xh 20,5). Chính Đức Giê-su có lần cũng chia sẻ tư tưởng ấy: “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” (Ga 5,14). + Là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh: Ở đây Đức Giê-su còn coi bệnh tật như một tai họa mà con người phải chịu đựng, như một quyền lực của Sa-tan đang đè trên con người mà Đức Giê-su đến nhằm giải thoát cho họ (x. Lc 13,16).

– C 6-9: + Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù: Theo các nhà chú giải Kinh Thánh: Đức Giê-su làm như vậy để thử thách đức tin của người mù. + Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa: Si-lô-ác có nghĩa là “Được sai đến”. Như nước hồ của “Người được sai phái” đã cho người mù từ thuở mới sinh nhìn thấy thế nào, thì “Đấng Được Sai” cũng ban ánh sáng cho những ai đang ngồi trong bóng tối tội lỗi và sự chết như vậy.

– C 35-41: +Anh có tin vào Con Người không? : Sau khi mở con mắt thể xác để anh mù được nhìn thấy, Đức Giê-su cũng muốn mở mắt đức tin cho anh. Vì thế Người đặt câu hỏi để khơi dậy niềm tin như Người đã từng làm đối với người phụ nữ Sa-ma-ri (x. Ga 4,26). + Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: Xét xử không phải là lên án (x. Ga 3,17), nhưng là như ánh sáng chiếu soi để tỏ cho thấy những điều thầm kín trong lòng người ta (x. Ga 3,19-21). + Cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù: Câu này tương tự lời cầu nguyện của Đức Giê-su với Chúa Cha: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (x. Mt 11,25). Chỉ những ai khiêm tốn và thành tâm đón nhận đức tin mới được nhìn thấy ơn cứu độ.

  1. CÂU HỎI:

1) Đối với các tín hữu, bệnh tật có phải do tội lỗi gây ra không ? 2) Việc Đức Giê-su lấy bùn thoa vào mắt người mù để chữa bệnh mang ý nghĩa thế nào ? 3) Tại sao Đức Giê-su lại ra lệnh cho anh mù đến rửa mắt tại hồ Si-lô-ác ? 4) Tại sao Đức Giê-su lại nói: “Cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù” ?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !” (Ga 9,39).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) ĐÂU LÀ LÚC TRỜI SẮP SÁNG ?

Một vị ẩn sĩ hỏi các đồ đệ rằng: “Đâu là lúc đêm sắp tàn và ngày sắp đến ?” Nhiều câu trả lời của các học trò được nêu ra: Kẻ thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau. Người khác cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt được một con bò với một con trâu… Đáp án đúng nhất mà vị ẩn sĩ muốn dạy các đồ đệ như sau: “Đó là khi ta nhìn người khác và nhận ra họ là anh em của ta”. (Anthony de Mello).

2) NHÌN NGOẠI VẬT THEO LĂNG KÍNH BẢN THÂN:

Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên yêu cầu các quan tìm kiếm một người biết nói đùa. Người ta đã dẫn đến cho vua một thiền sư.

Nhật hoàng nói: “Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe và sẽ không bị hài tội về lời nói đùa”. Thiền sư nói: “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo”. Nhà vua nói: “Ta thấy nhà ngươi giống y như một con lợn!” Thiền sư đáp: “Còn hạ thần thì nhìn thấy bệ hạ giống y như Đức Phật!” – Nhà vua liền thắc mắc: “Tại sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?”- “Tâu bệ hạ, dễ hiểu thôi ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn đâu cũng thấy Đức Phật; Còn ai có tâm của lợn thì nhìn đâu cũng thấy lợn!”

3) ĐỪNG SOI MÓI KHÍCH BÁC THA NHÂN:

Có một đôi vợ chồng kia rủ nhau đi xem một cửa hàng nổi tiếng chuyên trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước vào đến cửa, bà vợ liền nhìn vào bên trong cửa hàng và nêu nhận xét nhằm chê bai cửa hàng: “Tranh thêu gì đâu mà xấu tệ! Như mặt người đàn bà trong bức tranh kia chẳng giống ai!”. Ông chồng vội liền bịt miệng vợ và nói: “Đó không phải là tranh thêu đâu, mà là tấm gương soi đó. Hình người phụ nữ bà thấy kia chính là hình của bà phản chiếu trong tấm gương đó ! Tốt nhất là bà hãy giữ im lặng dùm chứ đừng lên tiếng phê phán cách hồ đồ!”. Bà vợ cảm thấy xấu hổ nên đã vội bỏ về ngay sau đó.

Câu chuyện trên cho thấy thói xấu của nhiều người trong chúng ta: Tuy sáng mắt nhưng lại có tâm hồn mù tối. Nhiều khi chúng ta phê phán người khác mà không ngờ đã tự lộ ra chân tướng không tốt của mình, như người ta thường nói: “Chân mình những lấm bê bê. Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.

4) VIỆC NGƯỜI THÌ SÁNG, VIỆC MÌNH THÌ QUÁNG:

Có một học giả rất thông thái nhưng lại mắc bệnh đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một ông bạn thân. Dù đang ngồi trên lưng lừa, nhưng ông vẫn tranh thủ đọc sách thánh hiền và buông lỏng dây cương. Con lừa sau khi đi được một đoạn đường đã theo đường cũ quay trở lại ngôi nhà của ông. Thấy lừa dừng lại, ông học giả tưởng đã đến nhà bạn, liền xuống lừa và đi chung quanh quan sát một vòng ngôi nhà. Ông nói lời phê bình cốt để bạn ông trong nhà nghe được: “Ông bạn già của ta sao lại cẩu thả như thế này: Ngôi nhà đã bị xuống cấp gần sập đến nơi mà chẳng chịu lo sửa sang gì cả!”. Vợ ông ở trong nhà nghe vậy liền bước ra và nói: “Ông nhận xét thật chính xác. Nhưng đây là nhà của ông đó !”.

Trong cuộc sống, nhiều người thường có nhận định sáng suốt về chuyện của người khác, nhưng lại mù mờ về những chuyện của chính mình như người ta thường nói: “Việc người thì sáng, mà việc mình thì quáng”. (Theo Ernst Wilhelm Nusselein).

5) NĂM ANH MÙ ĐI XEM VOI:

Ngày xưa ở Ấn độ, có một ông vua muốn bày trò tiêu khiển, liền cho quân lính đi kiếm năm người bị mù từ lúc mới sinh đưa về triều đình làm trò tiêu khiển cho triều thần. Vua truyền đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù rằng: “Các ngươi chưa hề biết voi là gì thì hôm nay trẫm sẽ cho các ngươi biết. Các ngươi hãy lại gần sờ vào voi rồi nói cho trẫm và quần thần biết voi có hình thù ra sao. Ai tả con voi đúng nhất sẽ được trọng thưởng”.

Anh mù thứ nhất sờ đúng cái chân của voi liền tâu: “Tâu bệ hạ! Con voi có hình thù giống như cột nhà!” Anh thứ hai sờ đúng cái tai voi vội cãi: “Không đúng. Voi giống như một cái quạt lớn”. Anh thứ ba sờ trúng cái vòi lại nói: “Voi giống như một khúc cây ngoằn ngoèo!”  Anh thứ tư sờ trúng bụng voi cãi lại: “Voi giống một tảng đá lớn, tròn tròn!” Tới lượt anh thứ năm sờ trúng đuôi con voi thì cho cả bốn người kia đều sai và tâu vua: «Voi chỉ như một cái chổi cùn!”

Anh nào cũng quyết liệt bảo vệ ý kiến của mình là đúng, và bác bỏ ý kiến của các người kia. Bn đầu họ còn nói nhỏ, về sau to tiếng và còn xông vào đánh nhau chí chóe, đang khi nhà vua và triều thần ai cũng cười cho sự mù quáng đáng thương của cả bọn.

Mỗi người mù nói trên chỉ biết được một phần sự thật mà tưởng rằng mình am tường tất cả và đánh giá những ai không suy nghĩ giống như mình đều sai lạc. Giả như họ biết khiêm tốn nhìn nhận kiến thức hạn hẹp của mình và biết bổ sung bằng ý kiến kẻ khác thì hay biết mấy.

  1. SUY NIỆM:

1) Ai cũng cần có ánh sáng soi đường:

Vào một đêm nọ, có một người mù đến thăm một người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy anh bạn mù không mang theo lồng đèn trên tay, chủ nhà liền lấy ra chiếc lồng đèn của mình trao cho anh mù. Nhưng anh mù từ chối và nói: “Đối với người mù như tôi thì ban ngày cũng như ban đêm, ánh sáng có khác gì bóng tối. Cho nên tôi sẽ không cầm theo chiếc lồng đèn vì đó là làm một điều vô ích!

Bấy giờ chủ nhà mới giải thích: « Tôi biết anh không cần đến chiếc lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không có nó trên tay thì người khác sẽ không nhìn thấy anh và có thể họ sẽ đụng chạm vào người anh đấy! » Anh mù nghe bạn nói có lý nên đã nhận chiếc lồng đèn ra về.

Đi được một đoạn đường, bất ngờ anh mù bị một người đi ngược chiều tông vào suýt bị té. Anh ta liền tức giận la mắng: « Bộ anh bị đui hả? Không thấy tôi đang cầm chiếc lồng đèn trên tay sao? » Người kia liền trả lời rằng: “Đúng là anh đang cầm một chiếc lồng đèn đấy. Nhưng ngọn lửa bên trong cây đèn đã tắt rồi. nên tôi không nhìn thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!”

Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được rằng: Để đi trong bóng đêm ai cũng cần phải có ánh sáng. Ánh sáng giúp người ta thấy đường đi, thấy người khác và tránh được các trở lực trên đường. Người mù đi trong đêm tối, tưởng như không cần ánh sáng soi đường, nhưng anh vẫn cần có cây đèn cháy sáng, để người khác khỏi đụng phải anh.

2) Có hai loại mù: Mù mắt thể xác và mù tối tâm hồn:

Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng hôm nay tuy bị mù đôi mắt thể xác nhưng lại sáng lòng hơn những người Pharisêu tự hào khôn ngoan thông thái. Người Pha-ri-sêu bị thành kiến che mờ tâm trí nên không nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ và đã tự loại mình ra khỏi Nước Trời do Người thiết lập.

Có nhiều bệnh mù quáng tâm hồn như sau:

– Mù quáng do lòng tham không đáy:

Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, có lòng tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, nên đã dàn dựng một vụ án để tội Na-vốt đã nguyền rủa Thiên Chúa và nhà vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven trở thành mù quáng phạm tội giết hại người nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (1 V Ch 21)

Mù quáng do thói ganh tị:

Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và khải hoàn trong vinh quang. Bấy giờ các phụ nữ ca hát múa nhảy với tiếng reo mừng não bạt và ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đavít giết hàng vạn”. Nghe lời đó, vua Sa-un tức giận vì anh tị. Chính do lòng ganh tị đã làm cho vua trở thành mù quáng, đổi lòng yêu thương hóa ra thù ghét và truy lùng Đavít quyết giết cho bằng được người anh hùng Đa-vít nầy. (1 Sm, Ch 18).

Mù quáng do dục tình lấn lướt:

Sau khi Đavít lên làm vua thay Sa-un, ông bị mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm cho vua bị mù quáng dẫn đến chỗ phạm tội giết chồng đoạt vợ (2 Sm, Ch 11).

Tóm lại, do tình dục, do lòng tham, thói kiêu căng ganh tị… mà người ta có thể trở nên mù tối phạm phải những tội ác không ngờ. Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù quáng tâm hồn do không ý thức mình đang bị mù, nên không quyết tâm thoát khỏi tình trạng mù quáng và cuối cùng bị loại ra khỏi nước trời như các đầu mục dân Do thái xưa.

3) Hành trình đức tin của người mù trong Tin Mừng:

Niềm tin của người mù vào Đức Giê-su tăng dần theo sự thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh: Thoạt tiên, anh chỉ coi Chúa Giêsu là một người nào đó khi nói: “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đền hồ Si-lô-ác mà rửa”. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được” (Ga 9,11). Rồi khi nghe đám đông bàn tán, và bị người Pharisêu tra hỏi, anh đã nói lên suy nghĩ của mình: “Người là một vị Ngôn sứ !” (Ga 9,17). Rồi trước sự phê phán của các đầu mục, anh đã can đảm bênh vực việc làm của Đức Giê-su: “Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9,33). Cuối cùng sau khi gặp gỡ Đức Giê-su và được mạc khải Người chính là Con Người, là Đấng Thiên Sai (x. Ga 9,35-37), thì anh mù đã tuyên xưng đức tin: “Thưa Ngài, tôi tin”, và đã thể hiện niềm tin bằng việc sấp mình xuống trước mặt Người (Ga 9,38).

4) Sống tinh thần Mùa Chay thế nào?:

– Theo Đức Giê-su thì mù không phải là một cái tội. Cố tình bịt tai nhắm mắt do sự cứng lòng tin như các đầu mục Do thái mới là tội. Nhiều khi chúng ta cũng có thái độ giống như các người này khi tự bịt tai nhắm mắt, cố tình không nhìn nhận những khuyết điểm lỗi lầm của mình. Mùa Chay là mùa sám hối canh tân. Muốn biết mình ra sao, chúng ta cần có thời gian tĩnh tâm để hồi tâm sám hối và quyết tâm canh tân đời sống.

– Ngoài ra, trong bất cứ việc gì, chúng ta cần ý thức mình chỉ nhìn thấy một phần sự thật, nên phải khiêm tốn tìm hiểu và học hỏi nơi tha nhân. Điều ta biết chỉ là phần nổi nhỏ bé của tảng băng. Còn những điều ta chưa biết thì to lớn và chìm sâu dưới mặt nước. Do đó, thay vì cãi nhau khi có quan điểm và cái nhìn khác nhau, chúng ta hãy khiêm tốn chấp nhận ý kiến của người khác để đạt tới chân lý.

– Cuối cùng, ta cần lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, tiếp thu phê bình của người khác để nhận ra con người thật của mình, vì “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng!”, và “biết mình biết người, trăm trận trăm thắng !”. Khi nhận ra con người thật của mình, chúng ta sẽ canh tân đổi mới để ngày một nên hoàn thiện theo thánh ý Thiên Chúa.

  1. THẢO LUẬN:

Trong Mùa Chay này, Bạn sẽ làm gì để nhận ra con người thực của mình và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày càng nên hoàn thiện giống như Đức Giê-su hơn ?

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU: hiện nay còn biết bao người đang mù chữ, mù kiến thức, mù giáo lý… Nhất là đang bịt tai nhắm mắt như người Pha-ri-sêu xưa. Trong Mùa Chay này, xin cho chúng con biết dành thì giờ tham dự những cuộc tĩnh tâm để duyệt xét lại con người của mình. Xin cho chúng con ngày một hiểu biết Chúa để yêu mến Chúa, biết rõ con để không dám tự mãn và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày một nên hoàn thiện giống Chúa nhiều hơn.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.   Chúng ta biết cặp mắt là một chi thể rất quan trọng và cần thiết trong thân thể con người.  Cặp mắt giúp chúng ta nhìn thấy và phân biệt những sự vật chung quanh, cũng như có thể tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Ngoài cặp mắt thể xác, chúng ta còn có cặp mắt tinh thần giúp chúng ta nhận ra chân lý, sự thật và những giá trị tốt lành và thánh thiện.

Những bài Kinh thánh tuần thứ tư mùa chay này giúp chúng ta hiểu được sự khác biệt và hiệu quả của cặp mắt sáng tinh thần. Bài đọc 1 cho chúng ta biết lúc đó dân Do thái muốn tìm cho mình một vị vua để lãnh đạo. Vị vua đầu tiên được họ chọn là Sau-lê, nhưng vị vua này lãnh đạo theo ý riêng của mình hơn là ý Chúa, nên Chúa bỏ ông và thay thế bằng một vị vua khác.  Do dó, Chúa truyền cho ông Samuel đến nhà ông Giêsê để xức dầu tấn phong một người con của Giêsê làm vua.  Ông Giêsê lúc đó có 8 người con trai, và theo quan niệm, phong tục và qua diện mạo bề ngoài, Samuel có ý định xức dầu cho Eliab, nhưng Chúa không đồng ý và bảo: “Đừng nhìn xem diện mạo.  Ta không xem xét theo kiểu con người, vì chưng con người nhìn xem diện mạo bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn.”  Sau đó Samuel đã được Chúa soi sáng xức dầu tấn phong Đa-vít, người con út đang chăn chiên ngoài đồng trở về.  Như vậy bài Kinh thánh này dạy chúng ta rằng muốn có một quyết định chính đáng, hay một đời sống đức tin trong ơn sủng của Chúa, và để có thể nhìn thấy thánh ý Chúa, hay mục đích, sứ mệnh và những giá trị cho cuộc sống, cho linh hồn, thì chúng ta phải có cặp mắt sáng tinh thần, được hướng dẫn bằng ánh sáng Lời Chúa.  

Bài Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa một người mù bẩm sinh. Chúng ta có thể nhận ra lòng ao ước của anh là được nhìn thấy khuôn mặt của những người thân quen, nhìn thấy những cảnh vật chung quanh, hay có cuộc sống bình thường như mọi người. Anh mù thường ngồi ăn xin ở cổng thành, nhưng hôm nay, nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, anh không xin cơm ăn hay tiền bạc, nhưng kêu xin Chúa cứu chữa cho anh được sáng mắt.  Và như chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã thương chữa lành cặp mắt thể xác để anh có thể nhìn thấy cảnh vật như mọi người.  Nhưng cao quí hơn, Chúa cũng đã mở cặp mắt tâm linh để anh nhận biết, tin, tôn thờ và làm chứng cho Chúa.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta cảm tạ Chúa đã cho chúng ta cặp mắt sáng thể xác để nhìn thấy mọi vật và mọi sự chung quanh.  Thế nhưng chúng ta còn là những người được Chúa thương yêu ban cho cặp mắt sáng tinh thần hay cặp mắt đức tin, để chúng ta có thể phân biệt và nhận ra những gì là tốt, phải, thật, nhất là nhận ra những gì quạn trọng và cần thiết cho đời sống đức tin để làm những gì đẹp lòng Chúa. Chúng ta không bị mù thể xác, thực tế thì đúng như vậy!  Nhưng chúng ta ý thức vì con người chúng ta yếu đuối, giới hạn và luôn bị lôi cuốn bởi những cám dỗ, cho nên có thể có những điểm tối trong cuộc sống. Có những điểm tối như những sự ghen ghét, ích kỷ, hay không công bằng, ngay thẳng và thành thật, làm cho người ta mù không thấy những nhu cầu của tha nhân hay không thấy những giá trị lợi ích chung.  Ngoài ra, nếu chúng ta thành thực xét mình thì nhiều khi chúng ta mù lòa không nhìn thấy những điểm xấu, những lỗi lầm, khuyết điểm và giới hạn của mình, nhưng lại tìm tòi những lầm lẫn của người khác, nhiều khi để phê bình, chỉ trích hay nói xấu, và không thấy những việc mình đã làm đau lòng người khác.

Câu chuyện sau đây nói lên được sự kiện mù lòa này. Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa.  Bà vợ nhìn chung quanh một hồi lâu, sau đó nhìn vào một bức tranh và nói với chồng: “Tranh gì đâu mà xấu vậy. Thêu người đàn bà chẳng giống ai!”  Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: “Không phải bức tranh đâu.  Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua tấm gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!” Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúng ta nhận thấy sự mù lòa tinh thần đưa con người đến tình trạng lầm lạc, sống trong tội lỗi và có thái độ cố chấp. Chúng ta biết sống trong tội lỗi là sống trong bóng tối sự chết và không có ơn sủng của Chúa. Cho nên muốn ra khỏi tình trạng mù lòa tinh thần, trước hết chúng ta phải tìm hiểu con đường đi tới ánh sáng của người mù hôm nay, và con đường này có nhiều giai đoạn hay nhiều bước.  Bước thứ nhất là “Chúa Giê-su nhìn thấy.”  Như Chúa nhìn thấy người mù, Chúa nhìn thấy rõ bên trong và bên ngoài con người của chúng ta. Chúa nhìn thấy rõ những điểm tối, sự mù lòa của chúng ta. Bước thứ hai “Chúa Giê-su thoa vào mắt người mù.” Chúng ta biết sự tiếp xúc giữa Chúa với bệnh nhân phải được coi là thần dược.  Vì vậy, chúng ta phải đến với Chúa trong Bí tích Hòa giải, là thần dược chữa lành sự mù lòa của chúng ta.  Bước thứ 3 “Ngài bảo: Hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ê.”  Có nghĩa là Chúa sai chúng ta đi đến một nơi đã có sẵn từ lâu, đó là Bí tích Hòa giải, nhưng nơi này chỉ thần dược có năng lực cứu chữa, nếu chúng ta can đảm thi hành ý Chúa.  Bước thứ 5 “Tôi đã nhìn thấy” và “Ngài là một ngôn sứ.”  Có nghĩa là liền sau khi chúng ta nhận được hồng ân, chúng ta phải “đền tội” đó là trở thành những nhân chứng cho Chúa dù phải trả giá, dù phải hy sinh hay bị thiệt thòi.  Và bước thứ 6 “Chúa Giê-su đến gặp anh.”  Chúng ta thấy đến đây,  Chúa Giê-su ban cho anh mù một ơn sủng còn cao quí hơn mắt sáng thể xác, đó là mắt sáng đức tin và anh đã tuyên xưng: “Lạy Chúa, con tin.”  Cũng vậy, qua thần dược ân sủng chữa lành sự mù lòa, chúng ta mới có thể nhìn rõ ra những ân sủng và sự hiện diện của Chúa trong đời sống, và dùng chính đời sống của mình mà tôn thờ Chúa.

Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra tình trạng tăm tối của mình để chúng ta can đảm và thành tâm đến với Chúa Giêsu trong Bí tích Hòa giải để lãnh nhận thần dược tình yêu tha thứ của Chúa. Vào chiều Chúa nhật trong tuần tĩnh tâm, sẽ có nghi thức thống hối và xưng tội.  Xin mời mọi người đến tham dự.  Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô khuyên bảo chúng ta hãy từ bỏ nếp sống cũ là sống trong giả dối, lầm lạc, mù quáng và tội lỗi để được làm con cái của ánh sáng.  

Về mục lục

.