CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN_A (LỄ CHÚA KITÔ VUA)

66

CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Ed. 34, 11-12.15-17; 1Cr. 15, 20-26.28; Mt. 25, 31-46

 

Mục lục

1. Vương quyền và phục vụ   (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Làm Vua là làm chứng   (Gm. Giuse Vũ Duy Thống)

3. Vương quốc tình yêu  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

4. Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua   (Lm. Antôn. Giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)

5. Vua tình yêu  (Trầm Thiên Thu)

6. Chúa Giêsu là cùng đích và là Đấng xét xử con người  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

7. Vua vũ trụ mong được xót thương  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB)

8. Quyền lực của đồng tiền  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

9. Đã làm gì và không làm gì cho tha nhân!  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Nước của Đức Giêsu ở chốn nào?  (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

 

 

VƯƠNG QUYỀN VÀ PHỤC VỤ

Ngày 11-2-2013, cả thế giới ngạc nhiên trước thông báo chính thức của Tòa Thánh: Đức Giáo Hoàng Bênêđitô 16 sẽ  từ nhiệm và việc từ nhiệm này sẽ có hiệu lực kể từ ngày 28-2-2013. Mặc dù việc một Giáo Hoàng từ chức là điều đã được tiên liệu trong Giáo Luật (Khoản 332), những người Công giáo khắp năm châu vẫn bàng hoàng trước thông tin này. Một số báo chí chớp lấy cơ hội để tưởng tượng ra một tình trạng bê bối nội bộ… Tuy vậy, những người thiện chí, trong đó có khá nhiều nguyên thủ quốc gia, đánh giá đây là một quyết định anh hùng. Quả thật, quyết định từ nhiệm của Đức Bênêđitô 16 là một quyết định bất ngờ và có tính tiên tri trong bối cảnh số quốc gia trên thế giới đang xảy ra những vụ biểu tình đòi quyền dân chủ, thậm chỉ có những cuộc đảo chính nhằm lật đổ những chế độ độc tài. Người dân tại một số quốc gia cũng lấy Đức Giáo Hoàng để so sánh với nhiều nhà lãnh đạo chính trị tham quyền cố vị, kìm hãm sự phát triển của đất nước mà không đủ can đảm từ chức.

Với việc can đảm từ nhiệm khi thấy sức khỏe không bảo đảm cho một sứ mạng quan trọng, Đức Thánh Cha Bênêđitô cũng muốn khẳng định với thế giới rằng: trong Giáo Hội, quyền lực không phải để thống trị mà để phục vụ. Quả vậy, không riêng gì đối với vị thủ lãnh kế vị thánh Phêrô, mà đối với tất cả những chức vị khác trong Giáo Hội đều nhằm phục vụ Dân Chúa. Tính hiệu quả của công việc và ích lợi của Dân Chúa luôn được đặt ở vị trí ưu tiên. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, sự từ nhiệm này đã khẳng định được giá trị của nó. Người kế nhiệm Đức Bênêđitô 16 là Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đem lại một luồng sinh khí mới cho Giáo Hội. Ngài luôn chủ trương canh tân Giáo Hội, làm cho Giáo Hội thực sự là Giáo Hội phục vụ con người. Một Giáo Hội hiện hữu không phải để thống trị hay duy trì quyền lực, mà vì con người, như Chúa Giêsu đã vì nhân loại mà thực thi sứ mạng cứu độ.

Ngày Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội tôn vinh Đức Giêsu là Vua vũ trụ. Danh xưng “Vua” có thể khiến nhiều người thời nay ngộ nhận. Bởi lẽ đa số những vị vua của xã hội phong kiến gợi lại những hình ảnh không đẹp về đời sống luân lý cũng như trong trách nhiệm của một người “phụ mẫu chi dân”. Phụng vụ Lời Chúa giúp chúng ta hiểu rõ hơn danh xưng “Vua” dành cho Chúa Giêsu. Ngài được ngôn sứ Edêkien giới thiệu như một mục tử ân cần chăm sóc từng con chiên trong đàn chiên của mình. Không một con chiên nào bị quên lãng hay bỏ rơi, dù là những con chiên bệnh tật còm cõi. Người mục tử còn cất công lặn lội đi tìm những con chiên bị lạc. Người mục tử chân chính lấy hạnh phúc của chiên là hạnh phúc của mình. Ông vui niềm vui của đoàn chiên, ưu tư trăn trở khi thấy lợi ích của đàn chiên bị đe dọa.

Ý niệm về một vị mục tử này được Đức Giêsu nhắc lại trong giáo huấn của Người. Người còn khẳng định: “Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết các chiên của tôi và các chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Không chỉ là một mục tử coi sóc, dẫn dắt đoàn chiên, Chúa Giêsu còn đồng hóa mình với những người nghèo khổ bé mọn trong cuộc sống. Thánh sử Mátthêu đã ghi lại bài giáo huấn của Chúa về ngày phán xét cuối cùng. Lúc bấy giờ, chính Chúa Giêsu sẽ là vị Vua và là Thẩm phán tối cao để xét xử nhân loại. Mọi dân mọi nước sẽ được quy tụ về để tham dự cuộc xét xử này. Vị Vua của ngày phán xét sẽ dựa vào thái độ của mỗi người đối với người nghèo mà quyết định tương lai hậu vận của họ. Tác giả Tin Mừng nói đến sự ngạc nhiên của những người có mặt trong phiên tòa, cả những người tốt cũng như người xấu, khi họ thấy Chúa tự đồng hóa mình với những người đói khát, trần trụi, tù đày, đau yếu, cơ nhỡ… Thì ra ai giúp người nghèo là giúp Chúa. Ai bỏ rơi người nghèo là bỏ rơi Chúa. Trong ngày phán xét chung, không thấy vị Vua đề cập tới những chức tước, địa vị đạo đời của chúng ta hoặc những công lao lẫy lừng chúng ta đã làm khi sinh thời, nhưng Người nhấn mạnh đến  cách chúng ta đối xử với anh chị em mình.

Từ khái niệm Vua được tuyên xưng trong phụng vụ hôm nay, chúng ta được mời gọi suy tư về những trách nhiệm khác nhau trong Giáo Hội cũng như xã hội. Một người mang chức vị quan trọng đạo đời không phải để hưởng thụ cá nhân, mà là để phục vụ người khác. Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình để tôn vinh Thiên Chúa và vì hạnh phúc của con người. Như Đức Giêsu đến đến để phục vụ con người, Giáo Hội không được quên sứ mạng quan trọng mà Chúa đã trao phó là phục vụ và đem cho con người mọi thời đại ánh sáng Tin Mừng. Lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ cũng nhắc nhớ chúng ta, mỗi người cũng được mời gọi tham gia vào công cuộc xây dựng Giáo Hội, vì nhờ bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được Chúa ban ba sứ mạng quan trọng: làm ngôn sứ, làm tư tế và làm “vua” để cộng tác phần mình làm cho cộng đoàn Giáo Hội địa phương lớn mạnh.

Người tín hữu sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Họ là công dân của một vương quốc vĩnh cửu. Vương quốc ấy đang hiện diện trên thế gian như “vương quốc của Tình yêu, vương quốc của Sự thật”. Vương quốc ấy sẽ tỏ hiện hoàn toàn khi mọi sự được đặt dưới chân Chúa Giêsu là Vua muôn loài (Bài đọc II). Đó là lý tưởng và đích điểm cuộc sống của chúng ta. Đó cũng là Thiên Đàng, là hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài.

Về mục lục

.

LÀM VUA LÀ LÀM CHỨNG

Không còn nữa hình ảnh của những vì vua oai phong lẫm liệt như trong chế độ quân chủ ngày nào, nhưng thay vào đó là một lớp những nhà vua mới lên ngôi thần tượng, không ngai vàng mà nhiều khi cũng đầy uy lực: vua dầu hoả, vua xe hơi, vua trò chơi, vua bóng đá. Mỗi thời có những kiểu đăng quang riêng, và mỗi lĩnh vực cũng có những nhà vua riêng của mình.

Thuật ngữ “Vua” xem ra đã có nhiều biến thể. Phổ cập hơn nhưng cũng mong manh hơn, thời sự hơn và cũng đời thường hơn. Trong bối cảnh đó, lễ Chúa Kitô Vua lại trở về, vừa khép lại năm Phụng Vụ cũ vừa mở sang năm Phụng Vụ mới. Phải chăng đây cũng chỉ là một lễ đăng quang tương tự như các nhà vua trần thế? Hay là một lễ của niềm tin yêu hy vọng vào Chúa Kitô – Đấng làm Vua bằng cách làm chứng, hiến thân đến cùng trong tình yêu để mở ra triều đại cứu độ?

1) Chúa Kitô không làm Vua như những vua trần thế.

Có lẽ khi tự ý cho treo tấm bảng “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái” lên đầu Thập giá, Philatô đã không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể phải chơi khăm những người Do thái, nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều đó lại thật quan trọng trong lợi thế đức tin của người Công giáo, đó là tấm bảng kia trong ý định của Thiên Chúa lại là một tuyên xưng không thể xoá nhoà.

Chúa Kitô không chỉ làm Vua một thời, mà là Vua vĩnh cửu. Dù trong đời sống công khai, có lần Người đã nặng lời quở trách Phêrô khi ông này chỉ muốn thấy nơi Người hình ảnh của một Đấng Messia dễ dãi đồng nghĩa với vị vua phàm trần, và Người cũng đã từng trốn chạy khỏi đám đông cuồng nhiệt khi họ muốn bắt Người làm vua sau phép lạ hoá bánh nhiều. Nhưng, trước mặt Philatô, Người đã công khai tuyên bố mình là Vua, để rồi trên Thập giá, chính lúc tưởng rằng chết đi, Người cho thấy mình còn sống mãi, và chính khi tưởng rằng bị huỷ diệt, Người cho thấy mình vẫn muôn thuở tồn tại. Thời gian là đại lượng dành cho những vị vua trần thế, còn Người vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.

Chúa Kitô không chỉ làm Vua dân Do thái mà là Vua phổ quát. Với cái chết của Người trên Thập giá trong tư cách Đấng Cứu Thế, một dân mới đã được khai sinh không phải giới hạn trong một vùng lãnh thổ địa lý mà đã mang lấy tầm vóc của cả thế giới vũ hoàn. Trong máu của Người, giao ước mới phổ quát đã hình thành vượt trên giao ước cũ vốn giới hạn nơi dân Do thái. Và trong công cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, những gì cũ phải qua đi để nhường chỗ cho một triều đại mới vượt trên tất cả.
Người là Vua phổ quát vì Nước Người chẳng thuộc trật tự trần thế. Người là Vua vũ trụ bởi chính Người là Thủ Lãnh sẽ quy tụ mọi sự về một mối: “Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta”.

Và nếu theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất và thứ hai với hình ảnh của “Đấng đến giữa mây trời” thì vương quyền của Chúa Kitô đã khác xa một trời một vực so với các vương quyền trần thế khác. Vương quyền trần thế dẫu có lan tràn khắp mặt đất cũng vẫn có thể đo lường được, còn vương quyền của Chúa Kitô vì vượt trên tất cả nên cũng vô phương dò thấu. Người là Vua muôn Vua.

Không phải vô tình mà phiên toà lễ Vượt Qua đã đặt Chúa Giêsu đối diện với Philatô, mà chính trong tư thế đối diện cộng với những đối chất qua lại đã làm nổi bật lên cái nghịch lý mầu nhiệm của Giờ Tử Nạn. Vào chính lúc quyền bính thế gian xem ra thắng thế còn quyền bính trời cao dường như hạ bệ, thì Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là Vua. Lời tuyên bố như thế lẽ ra đẩy Philatô vào thế đối thủ, nhưng – Chúa Giêsu đã nhanh chóng khẳng định Nước Người chẳng thuộc trật tự chính trị thế gian, nên Tổng trấn Rôma dầu quyền uy là thế vẫn chỉ là chiếc bóng mờ nhạt đứng đó trong vai trò của một đối chứng hơn là một đối thủ để làm nổi bật lên dung mạo của Chúa Giêsu – Vua muôn Vua. Hơn nữa, bởi Philatô là một người ngoại nên tầm vóc của lời tuyên bố kia đã vượt xa giới hạn đạo giáo để trở thành phổ quát cho cả muôn người. Và hệ luỵ là quyền bính Philatô bởi thuộc về thế gian nên cũng qua đi với thế gian, còn vương quyền Chúa Kitô vẫn tồn tại mãi bởi thuộc về trật tự tâm linh để không gì có thể đặt giới hạn cho Người. Người là Vua vĩnh cửu.

2) Chúa Kitô làm Vua bằng cách làm chứng.

Dẫu vào Giờ Tử Nạn, Chúa Giêsu mới tuyên bố mình là Vua để khởi đầu cho một triều đại mới trong “sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và an bình” (Kinh Tiền Tụng), nhưng thực ra đó chỉ là đỉnh cao của một đời lựa chọn và là điểm đến của một quá trình thực thi sứ mệnh làm chứng cho sự thật: “Tôi sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”. Nếu sự thật là chính Thiên Chúa, là thực tại thần linh, là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình” như một kiểu nói của thánh Gioan hoặc là ơn cứu độ, thì trót cuộc đời của Chúa Giêsu là một công cuộc liên lỉ minh chứng.
Qua Nhập Thể, Người đã mang lấy bộ mặt đớn hèn của cả nhân loại. Qua Tử Nạn, Người đã nhận vào mình thân phận loài người tội lỗi. Qua Thập giá, Người đã sẵn sàng chấp nhận cái chết để cứu độ toàn thế giới. Và đỉnh cao Phục Sinh tôn vinh chỉ có được khi Người đã trải qua nẻo đường Thương Khó đến cùng trong số phận của “Người Tôi Tớ đau khổ”.

Rõ ràng là nơi Đức Kitô, làm Vua có nghĩa là làm chứng và làm chứng không chỉ bằng lời mà bằng chính cuộc đời của Người, trải dài từ Nhập Thể qua Tử Nạn cho đến Phục Sinh. Nói cách khác, làm chứng cho sự thật cũng là sống và chết cho sự thật ấy, và làm chứng cho hiện thân của Thiên Chúa ở giữa thế gian cũng chính là sống và chết để cho hiện thân tình thương được triển nở cách hiện thực sống động và viên thành.
Thảo nào vương quốc và vương quyền của Chúa Kitô thật khác lạ. Chẳng cần đến lực lượng để mà thiết lập, chẳng cần đến vũ lực để mà cai trị, cũng chẳng cần đến quân sự để mà bảo tồn. Như vậy, điều mà mọi vị vua trần thế mong ước là trải dài vương quốc trong không gian và thời gian, thì chỉ duy Chúa Kitô mới thực hiện được, không phải bằng vũ trang mà là bằng một tình thương không mệt mỏi hiến thân làm chứng cho sự thật. Và đó là phương thế duy nhất để thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu.
Trong ý hướng ấy, bài đọc thứ hai là một tiến trình mạch lạc không thể đảo ngược: chỉ khi nào sống trọn vai trò chứng nhân trung thành, Đức Kitô mới nên Trưởng Tử kẻ chết và làm Vua muôn vua.

3) Ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô.

Đức Kitô, Người làm Vua như thế đó. Nên mục đích của Thánh lễ hôm nay đối với mọi kẻ tin là: “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình.
Thực ra thì cử hành lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối năm Phụng Vụ cũng nói lên niềm tin vào vương quyền Chúa Kitô như tinh thần của Thông điệp Quas Primas mà Đức Piô XI đã ban hành ngày 11 tháng 12 năm 1925, nhưng niềm tin vốn là một sự sống, nên chỉ khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.

Không thể nhận mình là dân của Vua Kitô trong khi cuộc sống cá nhân và gia đình lại nghiêng theo lối sống thế tục làm vẩn đục vũ trụ quan Kitô giáo, dần dà xa rời Giáo Hội và có nguy cơ chối bỏ vương quyền Chúa Kitô mà không hay biết.

Cũng không thể nhận mình ở trong Vương Quốc của Đức Kitô mà hằng ngày một cách nào đó mình vẫn dửng dưng với sự hiện diện của Người trong cuộc sống con người như coi thường nhân phẩm, khinh rẻ người nghèo… càng không thể nhận mình sống trong Vương Quốc Đức Kitô khi mà cuộc sống chung riêng vẫn gây ra những oán thù, ghen ghét, gian tham, bất công, gương xấu, tội lỗi…

Càng không thể nhận mình thuộc về vương quyền của Đức Kitô khi mình chưa thực sự hiến thân một cách nào đó để thể hiện tinh thần chứng nhân. Đức Kitô đã lấy cái chết để làm chứng, Kitô hữu cũng phải đi vào lối sống hy sinh mới có thể trở thành chứng nhân cho đức tin được. Đừng quên, chứng nhân có nghĩa là tử đạo và sống đạo một cách anh hùng cũng chính là chứng nhân.

Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần nỗ lực “làm chứng” sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa. Như thế là tin vào vương quyền Chúa Kitô, là “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình và cũng là cùng với mọi người tích cực hoạt động cho công cuộc truyền giáo nhằm “quy tụ mọi sự trong Chúa Kitô”.

Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Vương Quốc vĩnh cửu của Người.

Lạy Chúa Kitô, cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng con lặp lại niềm tin của mình vào Vương Quyền của Chúa. Xin chúc lành cho những ước nguyện chúng con dâng lên, để khi quyết tâm xa lìa tội lỗi và sống thánh thiện, chúng con được trở nên chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.

Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt. Không có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.

Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.

Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới. Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ thiết lập một vươn quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.

Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất. Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.

Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để làm.

Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1. Dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng cho thấy những sự thật nào?
2. Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không?
3. Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không
?
4. Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT LỄ CHÚA KITÔ VUA

Ông bà anh chị em thân mến.  Tuần này cùng với mọi người trong Hội thánh, chúng ta hân hoan mừng kính lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua.  Và tuần này cũng kết thúc mùa phụng vụ, cho nên Hội thánh muốn chúng ta lắng nghe và suy niệm bài Tin mừng về ngày phán xét chung, ngày Chúa Giê-su Kitô Vua ngự đến trong vinh quang, triệu tập mọi người đến trước mặt để chịu phán xét, công – tội, thưởng – phạt được phân định một cách công minh. Tất cả mọi sự sẽ phô bày hoàn toàn và rõ ràng.  Mọi người sẽ biết và thấy rõ kết quả cũng như hậu quả của những việc mình đã làm khi còn sống trên trần gian này, được chúc phúc vinh quang Nước Trời hay bị chúc dữ giam trong lửa địa ngục.

Thiên Chúa yêu thương chúng ta với một tình yêu nhưng không và vô bờ bến, cũng như rất nhân từ và quảng đại với chúng ta, ban cho chúng ta rất nhiều ơn lành và cơ hội khi chúng ta còn sống, nhưng trong ngày phán xét, Chúa là một vị thẩm phán công minh chính trực và chắc chắn, Chúa cũng sẽ xét xử công bằng với mọi người.

Như chúng ta vừa nghe, ngày phán xét chung có thể gọi là ngày đại hội toàn dân thiên hạ, và chính Thiên Chúa sẽ triệu tập toàn thể nhân loại đến trước mặt Con Người để chịu xét xử.  Chúa Giê-su, Vị thẩm phán, được sánh ví như người mục tử, biết rõ từng con chiên và không lầm lẫn, sẽ tách chiên ra khỏi dê, chiên ở bên hữu còn dê ở bên trái.  Sau khi tách biệt, vị vua nói với những người đứng bên phải:  “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ.” và với những người bên trái, Chúa nói:  “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng.”

Ông bà anh chị em thân mến.  Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn chúng ta chú ý đến 2 điều quan trọng cho đức tin và cho cuộc sống người Ki-tô hữu chúng ta.  Thứ nhất, Chúa Kitô Vua khẳng định với chúng ta Ngài sẽ trở lại, ngồi trên ngai vàng trong ngày phán xét chung.  Ngài sẽ phán xét chúng ta không theo tiêu chuẩn của chúng ta.  Ngài không căn cứ vào những việc to lớn, dị thường chúng ta đã làm, không căn cứ vào số tiền chúng ta có, bao nhiêu cửa hàng chúng ta làm chủ, bao nhiêu nhà, xe hơi, hay vật chất chúng ta sở hữu.  Ngài cũng không căn cứ vào địa vị, danh vọng, hay sự sang trọng chúng ta hiện có.  Ngài sẽ phán xét theo cách chúng ta xử dụng ơn lành như thế nào, cũng như thái độ và cách sống chúng ta đối xử với nhau trong đời sống hằng ngày ra sao, nhất là với những người nghèo khổ, bất hạnh và thấp kém trong xã hội.  Đây là một bài học quan trọng đáng chú ý, vì chúng ta đang sống trong một xã hội giàu có, đề cao chủ nghĩa cá nhân, đời sống riêng tư ích kỷ, và dễ bị lôi cuốn vào sự ham mê của cải vật chất và thú vui, làm cho chúng ta không chú ý đến đời sống đức tin, hờ hững sống lời Chúa, hay chỉ có cuộc sống đức tin bề ngoài.

Điều thứ hai mà Chúa muốn chúng ta lưu ý và cũng là một lời kêu gọi chúng ta cộng tác với Chúa, hợp tác với Chúa, mang đức tin, hy vọng và tình yêu thương trở lại trong con tim của mọi người mọi nơi, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh và đang sống trong cảnh cơ cực.. Trong suốt 2014 năm qua, rất nhiều người trên thế giới đã nhận lời mời cộng tác với Chúa Giê-su, trong sứ mệnh xây dựng và hoàn thành Nước Chúa nơi trần gian, như mẹ Tê-rê-sa Calcuta, ở Ấn độ.  Năm 1950, Đức thánh cha đã cho phép mẹ thành lập dòng nữ tu “Sứ Mệnh Bác Ái” (Missionaries of Charity) để phục vụ những người nghèo khổ và những người mắc những chứng bệnh nan y hiểm nghèo.  Ngày nay, có rất nhiều thanh niên nam nữ trên thế giới tình nguyện, dấn thân theo bước chân phục vụ của mẹ ở nhiều nơi, nhiều quốc gia.  Mẹ Têrêsa, các tu sĩ nam nữ và nhiều người khác là những chứng nhân, đã hợp tác với Chúa Giê-su Vua trong thời đại hôm nay.

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúng ta tin Chúa Giê-su Ki-tô Vua vẫn luôn đón nhận nhiều người đã sống lời Chúa, đã hợp tác với Chúa, và đã trung thành dùng mạng sống làm chứng cho Chúa ở trần gian, vào Vương Quốc Tình Yêu của Ngài trên Nước Trời, trong đó có các thánh tử đạo Việt Nam, cha ông của chúng ta.  Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã can đảm, cương quyết và vui mừng chịu những sự đau đớn thể xác, lấy máu đào và cái chết để minh chứng đức tin mạnh mẽ vào Chúa Giê-su Ki-tô là Vua trên hết các vua.  Các ngài đã không để những lời dụ dỗ vật chất, tiền bạc, danh vọng, hay những lời đe dọa tù đày và cực hình, hay những yếu đuối của thể xác, cản trở lòng tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và Vương Quốc Nước Trời của Chúa.   Thật vậy, “tử đạo” có nghĩa là “làm chứng và làm sáng danh.”  Như vậy, việc cha ông tổ tiên chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng hy sinh, chối bỏ tất cả vinh hoa, phú quí, tiền bạc và vật chất, chịu đau khổ và chết đi, là để làm chứng cho tình yêu và làm sáng danh Chúa Giê-su Ki-tô Vua.

Ông bà anh chị em thân mến. Mừng lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua và các thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay, mời gọi mỗi người chúng ta xét lại cuộc sống đức tin Ki-tô hữu của mình.  Chúng ta hãy tự hỏi: “Đời sống của chúng ta hôm nay có làm vinh danh Chúa không?  Hay vinh danh chính chúng ta?”  Và “Chúng ta có thành tâm lắng nghe lời Chúa, có lòng bác ái và quảng đại, hy sinh và sẵn lòng cộng tác với Chúa trong sứ mệnh mang đức tin, hy vọng và tình yêu Chúa đến cho mọi người, nhất là những người đói khổ, khách lạ, mình trần, đau yếu và tù đày không?”

Để khởi đầu sứ mệnh này, chúng ta phải thực hiện một cuộc biến đổi đời sống cá nhân tại gia đình, trong cộng đoàn và tại chỗ làm, để chúng ta dần dần trở nên đồng hình, đồng dạng với Chúa Ki-tô và phản ảnh giáo huấn của Ngài.  Xin Chúa Giêsu Kitô Vua giúp chúng ta biết mở tâm hồn đón nhận lời Chúa hôm nay, giúp chúng ta nhận biết và tin rằng đến ngày Chúa phán xét, chỉ có hai con đường thưởng và phạt, chúc phúc và hình phạt, không có con đường thứ ba, để chúng ta tin và quyết tâm thực hành lời Chúa là ánh đèn soi cho cuộc hành trình đức tin của chúng ta nơi trần gian về Nước Trời.

Về mục lục

.

VUA TÌNH YÊU

Xã hội trần gian được phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ quốc gia. Tùy thời mà người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,… Các nước cộng sản gọi vị đó là Chủ Tịch Nước. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo hoàng.

Quan nhất thời, dân vạn đại. Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12:5). Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền trong tay: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11).

Trong Hán tự, chữ 王 [wáng] là vương (vua). Ba “gạch ngang” tượng trưng cho Thiên – Nhân – Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng”, ý nói “vua là người nối kết trời, đất và con người”. Hán tự thâm thúy quá!

Vua trần gian còn như vậy, huống chi Vua Kitô. Vâng, Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, Vua các vua và Chúa các chúa, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các thần dân. Thật lạ, vì Ngài là Vua-đa-không, hoàn toàn trái ngược với các vua chúa trần gian: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,… Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Tại sao vậy? Chính Chúa Giêsu đã xác định với Tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36). Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người” (Ga 5:22, 26-27).

VUA NHÂN LÀNH

Vua chúa trần gian là Thiên Tử, là Con Trời, hét ra lửa, có quyền sinh sát trong tay: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Khủng khiếp quá! Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Vua Giêsu luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót, đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài đưa ra lời khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậukhiêm nhường” (Mt 11:29). Là Thiên Vương nhưng Vua Kitô Giêsu lại là Vua Nhân Lành, là Mục Tử Nhân Hậu, là Người Cha từ tâm, là Quan Tòa nhân ái.

Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt” (Ed 34:11-12). Khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài đang ở bên chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo!

Thiên Chúa đã nói rất rạch ròi: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê” (Ed 34:15-17). Ngài không “bỏ qua” bất cứ ai, người nào càng bất hạnh càng được Ngài thương xót nhiều. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm cho được MỘT con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7).

Trong số các vua chúa trần gian, có mấy người đích thân vi hành để biết dân tình ra sao? Mấy ai được như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa? Ông là vị vua thật tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo”, liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!”.

Ở cấp thấp hơn cũng chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao nhiêu người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh mục, trong số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có chức nên có quyền, đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” tương tự như vậy, chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm!

Thật ấn tượng với Đức cố Giám mục Jean Cassaigne (1895-1973), gọi thân thương là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân!

Biết nhiều, khổ nhiều; thấy nhiều, chán nhiều, nghe nhiều, “nóng gáy” nhiều. Làm ngơ thì người ta nói mình “sợ”, nói ra thì người ta “không ưa”. Thẳng thắn sẽ “va chạm”, chỉ khổ mình, nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa” lắm. May mà có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3). Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!

Đức tin phải được tôi luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường thì mới có thể dần dần trở nên “tinh ròng”, và lúc đó chúng ta mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (Tv 23:4-5). Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:6). Hạnh phúc quá! Nhưng hạnh phúc đó không thể cứ sống tà tà mà có được. Vâng, Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản chất của Ngài là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), mà tình yêu là bất tử.

VUA HẰNG SINH

Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Đệ Nhất Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, làm sao chúng ta có thể sống khác?

Chúa Giêsu là Vua của người sống chứ không là Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen ghét “tới bến” và đã giết Ngài chết thê thảm, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần (x. 1 Cr 15:25), và trở thành Vua Hằng Sinh. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:20-24).

Chúa Giêsu đã đau khổ tột cùng nên Ngài có toàn quyền. Thánh Phaolô cho biết: “Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1 Cr 15:25-27). Đức Kitô là chính Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28).

Thời quân chủ, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, không muốn cũng phải tuân lệnh. Cái chết đó được coi là trung thành. Có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh,…), thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua: “Muôn tâu bệ hạ” – tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi mà thôi. Ui da! Cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu, không sợ “phạm húy”, cứ thưa thẳng: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài”.

Chúa Giêsu là Vua nhưng Ngài không hề được tiền hô hậu ủng, không hề xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt nhanh hơn trở bàn tay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15). Lạy Chúa tôi! Chúng ta cũng chẳng hơn gì đâu!

Suốt những năm hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người cùng đinh nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như lời Ngài nói: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn làm nhiều hơn nói. Ngài không chỉ là Vua Nhân Lành, Vua Hằng Sinh, Vua Tình Yêu, Vua Lòng Thương Xót, mà Ngài còn là Vua Công Bình. Vô cùng may mắn khi chúng ta là thần dân của Vị Vua này!

VUA CÔNG BÌNH

Phụng vụ lễ Chúa Kitô Vua năm A dùng trình thuật Mt 25:31-46 nói về ngày Chúa quang lâm xét xử nhân loại. Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế, dễ hiểu và gần gũi: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là người lành, dê là kẻ dữ.

Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37).

Họ ngạc nhiên họ chưa một lần thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, là khách lạ mà tiếp rước, trần truồng mà cho mặc, đau yếu hoặc ngồi tù mà thăm viếng giúp đợ. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).

Rồi Đức Vua nói với những người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).

Họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:46). Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).

Ngài không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên”. Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại”, thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách. Cứng lòng hay tự mãn?

Nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay”.

Lòng thương xót cũng chính là tình yêu thương, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1), Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối, đợi chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta quá cố chấp mà thôi! Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền lợi, không mấy ai nói đến bổn phận”. Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Vậy là chúng ta không công bằng với Chúa đấy!

Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn chúng con trong Cung Đường Tình Yêu cao cả và tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngài là Đấng Cứu Độ hằng sinh, đồng hiển trị cùng Thiên Chúa Chúa, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU LÀ CÙNG ĐÍCH VÀ ĐẤNG XÉT XỬ CON NGƯỜI

Thưa quý OBACE, hàng năm, Giáo Hội dành ngày Chúa nhật cuối cùng của Năm phụng vụ để mừng lễ Chúa Giêsu là Vua vũ trụ. Đặt lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ vào những ngày cuối năm này, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng : Chúa Giêsu là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ. Ngài làm chủ cả không gian và thời gian. Ngài nắm giữ vương quyền trên hết mọi vật, mọi loài. Phần con người, sẽ đến ngày phải ra trình diện trước mặt Chúa để chịu sự xét xử và thưởng phạt tùy theo chọn lựa sống của mình.

Niềm tin vào sự thưởng phạt công bằng ở đời sau là niềm tin chung của rất nhiều dân tộc. Niềm tin ấy đậm nét nơi người Việt Nam khi tin rằng : Ông Trời có mắt, Trời thưởng và Trời phạt. Chính vì thế, đa số người Việt Nam vẫn cố gắng ăn ngay ở lành, để đức cho con cháu. Người ta kể có một đại gia ở tỉnh nọ, trước đây, ông có một cuộc sống không mấy tốt đẹp. Một lần, có một người nhìn vào ông và nói : Nếu ông không lo làm việc thiện để bù lại nghiệp chướng, thì khi ông chết sẽ không có cái hòm để chôn. Lời nói ấy khiến cho vị đại gia giật mình và từ đó đến nay, ngoài việc kinh doanh, ông còn dành phần lớn thời giờ và tiền của để làm từ thiện, tích đức cho mình và cho con cháu.

Người Kitô hữu đặt niềm tin vào Chúa Giêsu và tôn vinh Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng và điều khiển vũ trụ muôn loài. Ngài là vị Vua công minh, Ngài sẽ xử và thưởng phạt mỗi nguời tùy theo việc họ đã làm. Tuy nhiên, Chúa Giêsu là vua nhưng không phải là một bạo vương, mà Ngài luôn thể hiện mình là một vị Vua Mục Tử.

Bài đọc một, Thiên Chúa đã nói qua Ezekiel : Chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta, như mục tử kiểm điểm đàn chiên trong ngày chúng bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên Ta như vậy. Chính Ta sẽ quy tụ chúng, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Những lời này cho thấy, chính Thiên Chúa là Đấng trực tiếp chăm sóc và dẫn dắt dân Người. Chính Người hiện diện giữa dân trong những ngày tai ương khốn khó để làm điểm tựa và là sức mạnh cho dân, cùng chia sẻ những lo lắng của dân Người. Tiếp theo những lời này, Thiên Chúa còn khẳng định : Con nào bị lạc mất, Ta sẽ đưa về ; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó ; con nào bệnh tật, Ta sẽ chữa lành. Như thế, vị vua mục tử là Đấng thấu hiểu và cảm thông với từng hoàn cảnh của con người, như mục tử chăm sóc và cảm thông với từng con chiên của mình. Người mục tử yêu thương, chăm sóc đàn chiên thế nào thì Thiên Chúa cũng yêu thương và chăm sóc dân Người còn hơn như thế.

Đức Giêsu chính là Vua Mục Tử mà tiên tri Ezekiel đã nói tới. Tin Mừng hôm nay còn cho thấy, Chúa Giêsu vừa là Mục Tử, vừa là thẩm phán nghiêm minh. Vào ngày phán xét, Ngài sẽ đến trong vinh quang quyền lực của Đấng xét xử. Ngài sẽ tập hợp mọi người, mọi dân nước để xét xử mỗi người tùy theo công trạng của họ. Ngày đó sẽ không còn là ngày của bao dung chờ đợi, mà là ngày của sự công thẳng. Ngài sẽ tách biệt người lành ra khỏi kẻ xấu như người mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì cho đứng bên phải, còn dê thì ở bên trái. Kẻ lành sẽ được vào hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, còn kẻ dữ sẽ bị loại ra ngoài.

Ngài sẽ xét xử mỗi người về những việc gì ? Thiên Chúa không tra hỏi, không đặt vấn đề về bất cứ việc nào khác, mà Ngài chỉ thưởng phạt mỗi người tùy theo những việc tốt lành, yêu thương mà họ đã làm hay không làm cho anh em. Những người đứng bên phải được mời vào chung hưởng gia nghiệp và hạnh phúc của Thiên Chúa, chỉ vì : Xưa Ta đói, các người cho ăn ; Ta khát, các ngươi đã cho uống ; Ta rách rưới mình trần, các ngươi cho Ta mặc ; khi Ta bị tù đày, các ngươi đã viếng thăm. Có một điều đáng lưu ý là khi những người này được ban thưởng, chính họ cũng không biết mình được ban thưởng về lý do gì. Vì thế, khi nghe Chúa nói, họ ngỡ ngàng : Thưa Chúa, có bao giờ chúng tôi thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, ốm đau hay mình trần mà chúng tôi giúp đỡ ? Câu trả lời cho thấy, Thiên Chúa ghi nhận tất cả những việc nhỏ bé nhất, đơn giản nhất mà họ đã làm cho những người xung quanh. Những việc ấy đều được kể như đã làm cho chính Chúa : Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy.

Cũng thế, những người bên trái cũng ngỡ ngàng không hiểu vì sao mình bị loại ra ngoài. Nhà Vua cũng đã trả lời cho họ cùng một lý do với những người bên phải, chỉ khác là họ đã từ chối Thiên Chúa khi họ đã không làm gì cho những người anh em bé mọn chung quanh. Cả hai lần trả lời với những người bên phải và bên trái, còn cho thấy việc làm phúc, quan tâm thăm viếng anh em là những việc phải được thực hiện một cách liên tục đến độ phải trở thành việc bình thường trong cuộc sống của mỗi người. Những việc bình thường nhỏ bé đến mức người thực hiện cũng không nhớ được, nhưng Thiên Chúa thì không quên, Ngài kể tất cả những việc nhỏ bé đó là làm cho chính Ngài.

Bài đọc hai, Thánh Phaolô cho thấy, Thiên Chúa Cha đã trao cho Chúa Giêsu vương quyền, vì Người đã yêu mến và vâng phục hoàn toàn, đã trở nên là của lễ đẹp lòng Chúa Cha. Qua cuộc tử nạn và phục sinh, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Đức Giêsu, đặt Ngài là Chủ tể mọi loài trên trời dưới đất. Chúa Giêsu sẽ thi hành vương quyền của Ngài trên toàn thể vũ trụ. Ngài sẽ quy tụ muôn vật muôn loài dưới quyền bính của Ngài, và sau cùng, chính Ngài sẽ làm cho mọi vật mọi loài cùng quy phục Thiên Chúa Cha là Đấng toàn năng.

Thưa quý OBACE, lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ nhắc cho chúng ta nhớ rằng, vũ trụ này không phải là vĩnh viễn mà sẽ có ngày kết thúc và mỗi người sẽ phải chịu sự phán xét của Chúa. Mọi vật mọi loài sẽ phải quy phục dưới vương quyền của Chúa Kitô, và chính Chúa Kitô sẽ là cùng đích của mọi vật mọi loài.

Tuyên xưng Chúa Giêsu là cùng đích và là Đấng cầm quyền xét xử là một niềm tin hết sức quan trọng. Vì chỉ khi chúng ta nhận Chúa Kitô là cùng đích, thì chúng ta mới có thể đi đến đích. Trái lại, nếu chúng ta đặt việc kinh doanh buôn bán, tiền bạc của cải làm cùng đích, thì chắc chắn chúng ta không thể đạt tới đích là Chúa Giêsu Kitô được. Cũng vậy, chỉ khi tôn vinh Chúa Kitô là vua cầm quyền xét xử thì chúng ta mới biết phải đặt Chúa làm chủ cuộc đời và biết phải sống và hành xử như thế nào cho phù hợp với đòi hỏi của Chúa Kitô. Trái lại, nếu chúng ta đặt những thứ khác như tiền tài, danh vọng làm chủ cuộc đời, chúng ta sẽ biến nó thành thần linh của mình.

Vì thế, Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua, là dịp để mỗi người, mỗi gia đình xác định lại mục đích cuộc đời của mình và của gia đình mình. Nếu chúng ta lấy Chúa Giêsu Kitô là mục đích của gia đình, của bản thân, Chúa sẽ giúp mỗi thành viên biết đặt Chúa làm trung tâm của cuộc sống, biết để cho Chúa điều khiển và chi phối công việc của từng thành viên, chi phối lời ăn tiếng nói của mỗi người. Đồng thời, Chúa sẽ giúp chúng ta biết sống và chuẩn bị cho ngày ra trình diện trước mặt Chúa. Chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Chúa về trách nhiệm làm cha mẹ, làm con cái. Chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Chúa khi chúa hỏi chúng ta đã sống với nhau hết mình và đã thương yêu nhau hết tình hay chưa ?

Ra trình diện Vua Giêsu, Chúa sẽ không hỏi chúng ta có bao nhiêu tài sản, bao nhiêu ngôi nhà. Chúa cũng không hỏi chúng ta có bằng cấp hay địa vị nào trong xã hội, nhưng Chúa sẽ hỏi chúng ta về sự quan tâm, về lòng yêu thương trắc ẩn chúng ta dành cho anh em. Vì thế, đừng bỏ qua bất cứ cơ hội nào có thể chia sẻ, có thể thông cảm và giúp đỡ anh em, vì Thiên Chúa sẽ kể những việc làm nhỏ bé thường ngày chúng ta làm cho anh em là làm cho chính Chúa.

Ngày nay, nhiều người, nhiều bạn trẻ đã để cho những thần tượng, những đam mê, dục vọng hoặc lối sống buông thả thống trị mình. Nhiều người khác đã để cho rượu chè, nhậu nhẹt, bài bạc làm vua, làm chủ cuộc đời mình. Hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, hãy đón Vua Giêsu vào tâm hồn qua việc xưng tội rước lễ và chầu Chúa mỗi ngày để xin vua Giêsu xua trừ khỏi chúng ta khỏi ma quỷ, dục vọng và những sự dữ, sự xấu trong tâm hồn. Xin Ngài luôn mãi hiện diện làm chủ và dẫn dắt cuộc đời chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

VUA VŨ TRỤ MONG ĐƯỢC XÓT THƯƠNG

Ấn tượng trước hết tôi có khi đọc đoạn Tin Mừng về ‘cuộc phán xét chung’ là theo đạo chẳng có ích gì, bởi vì khi ‘tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê’, thì Vua Vũ Trụ đến trong vinh quang sẽ đâu có áp dụng tiêu chuẩn tôn giáo, có đạo hay không. ‘Những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn’ cũng đâu chỉ dành cho những người đã rửa tội, năng chịu các bí tích. Tiêu chuẩn Người áp dụng xem ra quá đời thường, quá nhân bản, và có phần nào quá thực dụng chủ nghĩa nữa là khác, đến độ cả các không Ki-tô hữu cũng dễ dàng đạt được: sống bác ái, từ nhân với hết mọi người. Các Phật tử chẳng hạn có lẽ còn thực thi ‘từ bi xả hỉ’ hơn cả người Công giáo, các đồng chí đồng đội ngoài chiến trường còn đùm bọc nhau keo sơn hơn cả các tu sĩ trong cộng đoàn. Nếu thế thì trở thành Ki-tô hữu, với tất cả các lời dạy bảo của Phúc Âm, đỡ nâng của Bí Tích, luật lệ luân lý sẽ ích lợi gì cho tôi trong cuộc xét xử của Đức Vua?

Ấn tượng tiếp theo là Đức Vua này quá chủ quan. Người xét xử không căn cứ theo một bộ luật khách quan được ban hành, trong đó có cả luật ‘mến Chúa yêu người’ vẫn thường được coi là quan trọng hơn hết. Luật pháp phải khách quan, nhất là khi xét xử, để cứ theo đó mà áp dụng công bằng cho mọi người. Đàng này tiêu chuẩn Đức Vua dùng để xét xử  lại qui hướng trực tiếp về cá nhân Ngài: “vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đến hỏi han”. Khi đặt các lời trên vào miệng Quan Án, hình như đức Giê-su muốn cho thấy chính Đức Vua vinh quang từ lâu vẫn hằng chờ mong để mình được mọi người xót thương và gia ân. Như vậy được chúc phúc hay bị nguyền rủa đều dựa trên một tiêu chuẩn chung là lòng nhân ái mà mỗi người có trong tương quan thuận hay nghịch với một Đức Vua hằng xót thương tha thứ và chờ đợi được thương xót lại.

Chập hai điều này lại với nhau, tôi mới thoáng phát hiện ra nét độc đáo và siêu việt của ơn gọi Ki-tô hữu mà mình được diễm phúc tiếp nhận. Nhiều người không phải là Ki-tô hữu, chưa hề biết gì về Đức Vua hằng thương xót và tha thứ, nhưng vô hình chung lại thường xuyên đi vào tương quan thuận với ‘Đấng dấu mặt’ hằng chờ đợi được xót thương “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hay ngồi tù…?” để mà cho ăn, cho uống, đón tiếp, cho mặc, thăm viếng hỏi han… Đức Giê-su cho thấy rõ, thế là đã quá đủ để tạo một tương quan thuận với Thiên Chúa tình yêu và chỉ đòi hỏi tình yêu. “Ta bảo thật: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Tôi chúc mừng các anh em chưa biết Chúa! Thế nhưng, nếu chỉ mới giữ có một vế thôi mà đã thế, huống hồ chi giữ được cả hai. Và Ki-tô hữu là người duy nhất trên trần gian có khả năng được cả hai vế để tiến vào tương quan cá vị sâu đậm nhất. Nhờ đức tin mà ngay từ ngày lãnh phép rửa tội họ đã nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân ái và yêu thương. Trong suốt quá trình sống đời Ki-tô hữu, nhất là khi lãnh nhận các Bí Tích, họ có không biết bao nhiêu dịp để cảm nghiệm được lòng từ ái của Đức Vua. Lời Chúa hằng thôi thúc họ diễn đạt tương quan với Người bằng đời sống bác ái, yêu thương và phục vụ. Tiêu chuẩn sống của họ không còn phải là một điều luật khách quan ‘kính Chúa yêu người’, mà là một tương quan nhân vị mới, cho dầu theo cách nói quen thuộc của người Do Thái đức Giê-su gọi đó là ‘Điều răn mới’, “là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Do đó không một Ki-tô hữu nào sẽ còn dám nói “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói…”. Họ có muôn ngàn dịp để nhận ra và cảm nghiệm Đức Vua yêu thương họ, và họ cũng thừa biết rằng Đức Vua đó khao khát được họ yêu mến và xót thương lại, qua hành động nhân hậu đối với các người anh em. Và khi gặp lại Đức Vua quang lâm, mọi Ki-tô hữu đều “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21,28) vì biết chắc rằng mình sẽ đứng bên phải trong số các kẻ “được Cha Ta chúc phúc”.

Lạy Đức Vua Vũ Trụ, Vua tình yêu và xót thương, cảm tạ Chúa đã cho con cơ hội tuyệt vời để nhận biết con được Người xót thương và Người cũng khao khát được con thương xót lại. Chớ gì chương trình sống Ki-tô của con chỉ đơn giản là được xót thương để rồi đáp trả. Xin cho mọi người, không phân biệt lương giáo, biết cùng nhau ban phát lòng xót thương Chúa hằng khao khát, nhờ các Ki-tô hữu như con nhận thức ngày càng sâu sắc hơn: có một Đức Vua yêu mến và xót thương mọi người. Amen 

Về mục lục

.

QUYỀN LỰC CỦA ĐÔNG TIỀN

Có một chú rể trước khi tập sự cho hôn lễ, đã bí mật gặp vị mục sư và đưa ra lời đề nghị.

– Tôi sẽ đổi 100 đô la lấy việc bỏ các từ ‘yêu thương, tôn trọng, vâng lời và chung thủy với cô ấy mãi mãi’ trong lời thề kết hôn.

Vị mục sư đồng ý và nhận lấy 100 đô la với vẻ hài lòng.

Hôm sau, vào buổi lễ chính thức, vị mục sư nhìn thẳng vào mắt chàng trai, mỉm cười nhẹ nhàng và chậm rãi nói:

– Chàng trai, bạn có hứa sẽ luôn sẵn sàng phủ phục mình trước mặt cô gái đứng trước mặt đây, vâng theo mỗi mệnh lệnh của cô ấy, mang đồ ăn sáng đến bên giường cô ấy vào mỗi buổi sáng trong suốt cuộc đời của bạn. Đồng thời thề trước mặt Chúa sẽ không bao giờ thèm nhìn bất kỳ người phụ nữ nào khác cho đến khi cả hai không còn trên cõi đời này nữa không?

Chú rể nuốt nước bọt và nhìn xung quanh, đáp lại bằng một giọng rất nhỏ nhẹ:

– Vâng.

Sau nghi thức, chàng trai ngay lập tức bám chặt lấy vị mục sư và rít lên:

– Tôi nghĩ chúng ta đã có một thỏa thuận?

Lúc này, vị mục sư mới đặt lại vào tay chú rể tờ tiền cũ và thì thầm:

– Cô ấy đã đưa cho tôi 200 USD cơ!

Chưa bao giờ chúng ta thấy quyền lực của đồng tiền lên ngôi như ngày hôm nay. Có tiền thì có chức. Có chức thì có tất cả. Có tiền có thể sai khiến. Sai khiến người khác làm cả những chuyện bất chính hay phi đạo đức. Có tiền có thể bẻ cong công lý. Đồng tiền có thể giúp người có tội trở thành không!

Có lẽ vì đồng tiền có một sức mạnh như thế nên người người đi kiếm tiền. Kiếm tiền bằng mọi cách. Kiếm tiền bằng mọi thủ đoạn miễn sao có tiền! Thực tế, ai đã vào đời, bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh đua với người đời mà không một lần cảm nghiệm cái mãnh lực của đồng tiền? Đồng tiền nối liền với khúc ruột của con người, nó cũng chính là cái nguyên do đưa đến buồn vui sướng khổ của nhân loại? Cũng chính đồng tiền đã đưa đẩy con người tới thành công hay thất bại, được thiên hạ nể vì, nhân nhượng hay khinh khi coi thường! Vì thế tiền bạc đã biến thành một thứ quyền lực vô song, có ảnh hưởng trong cuộc sống con người. Thế sự thăng trầm, con người thay lòng đổi dạ, xã hội đảo điên, luân thường đạo lý bị xáo trộn, tất cả cũng vì ảnh hưởng của đồng tiền.

Đồng tiền thực sự có một sức mạnh và quyền lực nhất định trong cuộc sống. Nó mang đến hạnh phúc cho con người nếu con người tạo ra nó từ sự chính nghĩa, nhưng nó cũng có thể làm sa ngã hoặc huỷ hoại một nhân cách khi ai đó tôn sùng nó hơn tất cả mọi điều khác trong cuộc đời. Cái giá phải trả cho sự mù quáng trước “Quyền lực của đồng tiền” là đánh mất bản thân, tình thân, tình yêu – những điều mà đồng tiền không bao giờ có thể “mua” lại được.

Hôm nay lễ Chúa Kitô, Giáo hội nhắc nhở chúng ta còn có một giá trị quý hơn tiền, hơn danh lợi thú là có được Đức Kitô ngự trị. Đồng tiền sẽ không mua được Nước Trời. Đức Kitô thì hứa ban cho chúng ta sự sống đời đời. Đồng tiền không mang lại bình an cho con người, nhưng Đức Kitô là niềm hoan lạc nếu chúng ta để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc đời. Đồng tiền khiến chúng ta sống ích kỷ, hưởng thụ. Đức Kitô biến chúng ta thành những con người có ích cho tha nhân với thái độ phục vụ quảng đại và vô vị lợi.

Đồng tiền là nguyên nhân gây nên những chia rẽ, tranh chấp, hận thù. Đức Kitô là nguyên lý cho sự hiệp nhất bình an. Chiếm được đồng tiền thì con người bo bo giữ lấy trong ích kỷ, xa lánh mọi người. Chiếm được Đức Kitô thì con người sẽ chia sẻ đến cho muôn người. Thế nê, có Đức Kitô trong cuộc đời là có bình an, có hạnh phúc, có niềm vui. Vắng Đức Kitô sẽ chỉ còn những tranh chấp, xa lánh và đố kỵ lẫn nhau.

Ước gì chúng ta luôn tìm kiếm Đức Kitô và dành cho Ngài vị trí số 1 trong cuộc đời. Ước gì loài người chúng ta hãy hãnh diện là loài làm chủ đồng tiền chứ không phải là nô lệ của đồng tiền. Có chăng là biết quy phục một mình Đức Kitô mà thôi.

Xin Chúa giúp chúng ta biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng ta luôn can đảm chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những hào nhoáng của danh lợi thú mau qua. Amen.

Về mục lục

.

ĐàLÀM GÌ VÀ KHÔNG LÀM GÌ CHO THA NHÂN!

Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu, Vua tình yêu.

1. Ngọn núi Corcovado và núi Tao Phùng

Dịp Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Rio Brazil, tôi đi hành hương lên ngọn núi Corcovado cao 704m, kính viếng bức tượng Cristo Redentor – Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế Vua dang tay đứng trên đỉnh núi cao.

Có loại xe lửa nhỏ khoảng 30 chỗ ngồi đưa du khách lên núi theo đường ray. Cũng có một đường xe hơi chạy lên núi theo hình xoắn ốc, đây cũng là đường bộ cho những ai thích leo núi. Năm 1985, Francisco Passos và Tegesra Suris xây dựng tuyến đường sắt thông đến núi Corcovado.

Lên đến trạm cuối, chúng tôi đi thang máy lên chỉ cách đỉnh núi khoảng 100m và tiếp tục đi bộ khoảng 120 bậc thang là đến chân tượng Chúa.

Từ đỉnh cao phóng tầm mắt nhìn thành phố Rio de Janeiro tuyệt đẹp. Tôi dành nhiều thời giờ để ngắm trời mây cảnh vật và chụp hình lưu niệm; đặc biệt chiêm ngắm tượng Chúa Cứu Thế là một trong 7 kỳ quan mới của thế giới. Bức tương màu trắng thiên nhiên hướng nhìn về phía ngọn núi Zuckerhut – Sugarload.

Bức tượng Chúa Giêsu Vua là một đài kỷ niệm trên đỉnh ngọn núi Corcovado ở phía Nam thành phố. Bức tượng được dự định xây dựng để kỷ niệm 100 năm độc lập của nước Brazil do Kỹ sư kiến thiết Heitor da Silva Costa người Brazil phác họa vẽ mẫu. Bức tượng được khởi công thi hành năm 1922, nhưng gặp trở ngại vấn đề tài chánh. Nên việc thi hành kéo dài hằng 10 năm. Sau khi Tổng giáo phận Rio de Janeiro, Tòa Thánh Vatican và nước Pháp cùng trợ giúp cho dự án, công trình được hoàn thành, và khánh thành ngày 12.10.1931.

Bức tượng Chúa Giêsu cao 30 mét, chân đế cao 8 mét, đủ chỗ chứa cho 150 người vào trú ẩn trong tượng. Hai cánh tay Chúa Giêsu dang ra rộng 28 mét. Bức tượng nặng 1.145 tấn. Đầu và hai tay Chúa Giêsu do nhà điêu khắc người Pháp Paul Landowski làm ở Paris. Bức tượng làm bằng vật liệu bêtông cốt sắt theo từng phần ráp nối lại, và được kết bên ngoài bằng những viên đá dát theo kiểu Mosaic.

Năm 2006 dịp mừng kỷ niệm bức tượng được 75 năm, Giáo Hội đã chính thức nâng nơi đây thành nơi hành hương kính viếng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế.

Đứng nơi ngọn núi Corcovado, tôi nhớ đến Tượng Kitô Vua (Tao Phùng) ở Vũng tàu. Với chiều dài 500m đi lên khoảng 1.000 bậc thang. Tượng được xây dựng 1974, do điêu khắc gia Văn Nhân và 50 thợ lành nghề thực hiện. Tượng có chiều cao 32 mét, chiều dài hai cánh tay là 18,4 mét; được đặt trên bệ khối chạm hình Tiệc ly. Bên trong tượng là cầu thang xoắn ốc gồm 133 bậc, chạy từ bệ lên cổ tượng. Trong lòng tượng có thể chứa 100 người cùng một lúc. So với tượng Kitô Vua ở Rio de JaneiroBrazil thì tượng ở Vũng Tàu cao hơn 2 mét. Tượng Chúa ở Brazil đứng trên đỉnh núi Corcovado cao hơn 704 mét so với mực nước biển, còn tượng Chúa ở Vũng Tàu đứng trên độ cao hơn 170 mét của núi Nhỏ. Bệ tượng ở Brazil cao 8 mét, còn bệ tượng ở Vũng Tàu chỉ cao 4 mét.

Núi Corcovado hay núi Tao Phùng, nơi Chúa Giêsu Vua giang đôi tay ôm trọn nhân loại trong tình thương cứu rỗi.Trái tim của Ngài mở ra để yêu thương mỗi người và mọi người, cánh tay của Ngài mở rộng để vươn đến mọi người.

2. Vua Giêsu, vị Thẩm phán

Để diễn tả vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Matthêu (25,31-46), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gioan (18,33-37), một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng Luca (23,35-43) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai. Vua Giêsu tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Ngài không là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát con người khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của Ngài là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Ngài đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.

Vương quốc của Chúa Kitô Vua là vương quốc của tình yêu. Muốn vào vương quốc của Ngài, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự.

3. Đã làm gì và không làm gì cho tha nhân

Thánh Matthêu tường thuật quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử, mọi người tốt xấu, lành dữ đều có mặt và được phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để xét xử là tình yêu mỗi người thực hiện cho tha nhân.

Nội dung cuộc xét xử thật bất ngờ. Đấng Thẩm Phán chỉ xét hỏi người ta về tình thương. Một tình thương cụ thể được chứng tỏ bằng việc làm thiết thực đối với những con người bằng xương bằng thịt “Cho kẻ đói được ăn, cho kẻ được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ bơ vơ…”. Điều bất ngờ hơn nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm những điều ấy cho một kẻ bé nhỏ là các ngươi làm cho chính Ta”. Những người bị xét xử đều nhất loạt thắc mắc: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay là khách lạ đâu?”. Mặc cho người tốt kẽ xấu thắc mắc, lời Chúa dạy thật rõ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới hình thức nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa mình với họ. Vậy thì rõ ràng mọi việc chúng ta làm vì tình thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức.Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, việc làm chứ không phải lời nói hay cái gì khác quyết định chúng ta thuộc chiên hay dê.

Thánh Gioan Kim Khẩu dạy: đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa trong nhà thờ và Chúa ngoài nhà thờ, tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau.Đức Kitô hiện diện trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong mỗi một con người.

Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, đã sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Ngôi Lời Thiên Chúa đã sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị chỉ trích lại trừ, bị hành hạ và chết treo trên Thập giá. Vì thế, Ngài đã kinh qua mọi khổ đau và cái chết trong thân phận con người, Ngài cảm thông với hết thảy mọi người. Chúa bảo rằng, những ai cho người đói khát một ly nước, một chén cơm là họ cho Chúa ăn uống. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo là họ đã cho Ngài mặc áo. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian là họ đã cho Chúa trọ nhà… Điều vĩ đại trong Phúc Âm về ngày Phán xét đó là giá trị những việc nhỏ bé hàng ngày của tình yêu thương.Mọi sự sẽ qua đi, nhưng yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi.

Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc công dân Nước Thiên Chúa.Tình yêu là “thẻ căn cước”của công dân Nước Trời. Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực và sống động. Việc bác ái là chứng chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc.

Nếu Chúa Giêsu chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng thống Bush: “Show, but don’t tell!”: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!

Trong ngày sau cùng, khi Vua Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?

Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá”. (Mt 7,24).

Về mục lục

.

NƯỚC CỦA ĐỨC GIÊSU Ở CHỐN NÀO?

Ngày nay trên thế giới, rất ít nước còn chế độ quân chủ, vì thế, chỉ còn đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Ấy vậy mà đạo Công Giáo hằng năm lại mừng lễ Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ! Tại sao vậy? Và, Đức Giêsu làm Vua như thế nào? Chúng ta có thuộc về dân trong đất nước của Ngài không?

1. Vị Vua Lạ Lùng

Mỗi khi mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về Đức Giêsu như là điểm quy chiếu, như cái tâm trong vòng tròn; như cùng đích của con người. Bởi vì Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa. Ngài là khởi đầu và cùng đích, là Anpha và Ômêga. Là Chủ Vũ Trụ; là Vua các vua, Chúa các chúa. Ngài làm Vua trong sự toàn thiện, hoàn mỹ.

Tuy nhiên, khi nói đến Đức Giêsu là Vua, chúng ta thấy Ngài là một vị Vua không như các vua chúa trần gian! Ngài là Vua, nhưng là một vị lạ lùng!

Lạ lùng lúc sinh ra trong cảnh nghèo nàn. Rong ruổi bôn ba khắp ngả đường. Đến nỗi:“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20). Không thành quách, cung điện ngọc ngà.

Khi tổ chức vương triều thì lại không binh lính, cũng chẳng có kẻ hầu người hạ, lại càng không dùng vũ khí, sử dụng quyền lực, binh đao.

Ngược lại, cung điện lại được đặt trong lòng mỗi con dân. Thành quách là sự liên đới. Lãnh đạo bằng tình yêu và tha thứ. Luôn phục vụ người khác thay vì được người khác phục vụ mình.

Nhưng có lẽ điều làm cho người ta chú ý nhất đến vị vua hy hữu có một không hai này chính là: khi được mọi người tôn vinh làm vua thì không muốn, nên tìm cách trốn tránh. Đến khi mọi người thù ghét, bôi nhọ, bêu dếu, chẳng ai bênh vực, đỡ nâng và không ai muốn trao Vương Quốc cho mình thì lại khẳng khái tuyên bố mình là Vua và đến thế gian này chỉ vì một mục đích là làm chứng cho sự thật (x. Ga 18, 36).

Tuy nhiên, ngược đời ở chỗ: Nước của Vị Vua ấy lại “không bao giờ cùng” “vô biên cương”, “không ranh giới” “không thuộc thế gian này”.

Trong nước ấy, chỉ có sự thật, công lý, bình an và tình yêu ngự trị. Thần dân là tất cả những ai thuộc về đặc tính trên (x. Ga 18, 36).

Tất cả những điều lạ lùng đó, Đức Giêsu muốn mặc khải cho chúng ta biết: Ngài là Vua sự thật; đồng thời, Ngài mời gọi chúng ta đứng về phía sự thật để được gia nhập đoàn dân của những người yêu mến công lý.

2. Vua Sự Thật

Sự thật mà Đức Giêsu mang đến và mời gọi là gì? Thưa, đó là: mặc khải cho nhân loại biết sự thật, một sự thật được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, Ngài đã chấp nhận đánh đổi ngay cả mạng sống của mình để biểu hiện tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.

Thật vậy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Khi Ngài đến, Ngài đã yêu thương họ đến cùng và chấp nhận đánh đổi chính cái chết trên thập giá để làm chứng cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi, nghèo khó, bị áp bức, bóc lột… Vì tình yêu không giới hạn và vô biên, nên Đức Giêsu đã gọi những người đó là bạn hữu và chấp nhận chết cho bạn hữu của mình được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,7-10; 15, 9-15). Quả thật: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13)

Sự thật ấy nhằm diễn tả đặc tính của tình yêu trong một Vương Quốc khác chứ không phải nơi trần gian.

Điều này đã được Đức Giêsu đã nói trước quan toàn quyền Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18, 36).

Vì thế, vinh hoa, phú quý, sung túc, sang giàu, quyền lực và ngay cả sự sống trần gian này chẳng đáng gì đối với sự sống vĩnh cửu trong Nước của Chúa.

Và, như một sự tất yếu, muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Trong thời đại hôm nay, việc sống chứng nhân cho sự thật không phải là chuyện dễ! Lại càng khó hơn nữa khi trong một xã hội tình yêu luôn bị đánh cắp, nghi ngờ và bị lợi dụng!

Bởi vì:người ngay thẳng, trung thực thì thường thua thiệt, và bị coi là ngu dốt, còn kẻ gian dối lại được coi là khôn ngoan… Sống man trá mà thành công thì thì được tưởng thưởng, còn vì sự thật mà bị thất bại thì bị khiển trách…

Đứng trước một xã hội như thế, hẳn sống đời chứng nhân cho Chúa quả là khó! Tuy nhiên, dù khó, chúng ta vẫn phải thi hành vì đây là hành vi mang tính quyết định thuộc về hay khước từ… Khi sống như thế, ấy là lúc chúng ta chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho sự thật và tình yêu của Thiên Chúa trong bối cảnh hiện nay.

Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trở thành thần dân của Đức Giêsu và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, đồng thời được mời gọi sống đặc tính của Nước ấy trong cuộc sống đời thường của mình. Vì thế, hẳn chúng ta phải mặc lấy Ngài và những tâm tình của Ngài như: từ bi, nhân hậu, hiền lành, nhẫn nại, bao dung, chết đi cho tính xác thịt, ý riêng và ra khỏi chính mình, từ bỏ tính kiêu ngạo, hóng hách để cúi xuống rửa chân cho cả kẻ thù. Sẵn sàng yêu thương, làm phúc cho kẻ đói ăn, khát uống. Nâng đỡ những người thấp cổ bé họng, chân yếu tay mềm, nhân phẩm bị trà đạp…

Quyết tâm đứng lên để bảo vệ những người không có tiếng nói… Chấp nhận vì sự thật mà bị bách hại, vu khống đủ điều xấu xa.

Nếu thế gian chống đối lại sự thật, vì sự thật làm cho họ thua thiệt, thì chúng ta, không bao giờ được thỏa hiệp với bất công dù dưới bất kỳ hình thức hay nhãn giới nào…

Khi làm chứng cho Đức Giêsu trong sự thật như thế, hẳn chúng ta sẽ không thể thoát được số phận phải chết như Thầy của mình, tuy nhiên: “… can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Thật thế, chỉ trong sự thật, chúng ta mới được vào Nước Trời và được Đức Giêsu tuyên bố nhận chúng ta trước mặt Chúa Cha và Triều Thần Thiên Quốc: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta” (Mt 25, 34-37).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Vua Vũ Trụ, xin cho con được yêu mến và ham thích đường lối sự thật và tình yêu của Chúa, đồng thời biết chia cơm sẻ bánh cho người nghèo khổ.

Ước gì khi làm những điều đó trong lòng mến, chúng con sẽ được vào Vương Quốc của tình yêu và sự thật để được sống đời đời. Amen.

 Về mục lục