CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Ed. 34, 11-12.15-17; 1Cr. 15, 20-26.28; Mt. 25, 31-46
——-
-
Vương quyền để phục vụ và yêu thương (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Có Phúc Có Phần(Lm. Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc)
- Đức Vua Và Thần Dân(Thiên San, MTG. Thủ Đức)
-
Suy Niệm Lễ Đức Kitô – Vua Vũ Trụ (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
-
Lãnh nhận phần phúc (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Vua Giêsu (Jorathe Nắng Tím)
-
Phán xét (Lm. Thái Nguyên)
-
Được yêu như Chúa yêu (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
-
Giêsu là Vua (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Vị vua thẩm phán (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Vương quyền và vinh quang (Lm. Vũ Đình Tường)
-
Đấng xét xử (Trầm Thiên Thu)
-
Suy niệm chú giải Lời Chúa-Lễ Chúa Kitô Vua (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Vị thẩm phán nhân từ và công minh (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Vương quốc tình yêu (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Chúa Giêsu là Vua (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Giêsu Vua tình yêu (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Vương quyền tình yêu (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
6. Vị Vua tuyệt vời (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
7. Đổ đầy tình yêu (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
8. Người công dân đầu tiên trong vương quốc Vua Kitô (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
9. Vua mục tử (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
10. Ngày chung thẩm (Lm. Carolo)
11. Vua Giêsu, Vị Thẩm Phán (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
12. Thẩm phán nhân hậu (Trầm Thiên Thu)
13. Suy niệm lễ Chúa Giêsu là Vua (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
14. Vua vũ trụ (Lm. Trần Việt Hùng)
15. Sống tình liên đới (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
16. Cuộc phỏng vấn để vào Thiên đàng (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
17. Vua tình yêu (Lm. JB.Nguyễn Minh Hùng)
18. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi (Fx. Đỗ Công Minh)
19. Nước của Đức Giêsu ở chốn nào? (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển)
20. Suy niệm lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)
21. Phân xử công minh (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
22. Để có cuộc sống mai sau (Phạm Anh, MTG.Thủ Đức)
23. Chỉ có một vua! (Phero Trần Đình Phan Tiến)
24. Cai quản (Lm. Vũ Đình Tường)
25. Vị thẩm phán tối cao (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
26. Ông vua kỳ dị (JM. Lam Thy, ĐVD)
27. Góp phần xây dựng vương quốc tình thương của Vua Giêsu (Lm. Đan Vinh)
28. Chúa Giêsu Vua tình yêu – Vua công chính (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
29. Làm cho chính Chúa (Lm. Giuse Nguyễn)
30. Lễ Chúa Kitô Vua (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
31. Từ DÊ nên CHIÊN (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
VƯƠNG QUYỀN ĐỂ PHỤC VỤ VÀ YÊU THƯƠNG
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong những ngày này, cả thế giới hồi hộp theo dõi cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của hai ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ, một vị thuộc đảng Cộng hoà, một vị thuộc đảng Dân chủ. Cuộc đua càng gay cấn khi có những cáo buộc từ phía đảng Cộng hoà, cho rằng Đảng Dân chủ đã có những gian lận trong việc bầu cử, nhất là từ những lá phiếu gửi qua đường bưu điện. Những phê phán nặng lời đến từ hai phía, làm cho nước Mỹ hỗn loạn. Đã có nhiều cuộc biểu tình và bạo động đến từ những người ủng hộ các ứng viên tổng thống. Chắc chắn nước Mỹ phải có tổng thống trong vài tuần tới. Tuy vậy, những lùm xùm xung quanh việc bầu cử đang làm ảnh hưởng đến hình ảnh của đất nước quyền lực nhất thế giới. Nó cũng cho thấy cơn cám dỗ quyền lực thật ghê gớm và mạnh mẽ. Những hứa hẹn khi tranh cử, những thủ đoạn trong bầu cử, đều cho thấy người ta dùng mọi cách để đạt được quyền lực, mà đó lại là quyền lực nhất thời.
Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội tôn vinh Đức Giêsu Kitô là Vua Vũ trụ. Danh hiệu “Vua” được coi như quy tóm những lời danh xưng mà Giáo Hội đã dành để tôn vinh Ngôi Lời nhập thể trong suốt một năm. Danh hiệu “Vua” dễ gây ngộ nhận, đồng thời có thể là cơ hội để những người thiếu thiện cảm với Kitô giáo suy diễn công kích. Thực sự, khi tôn vinh Đức Giêsu Kitô là “Vua”, truyền thống Giáo Hội khẳng định: Người là Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo. Người cũng là Đấng Cứu chuộc và xoá bỏ tội lỗi trần gian. Người là Đấng khai mở kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của công bình, chân lý và tình yêu. Trong giáo huấn của Chúa Giêsu, Người luôn nhấn mạnh đến những yếu tố này. Cũng như một vị vua thống trị cõi sơn hà, Đức Giêsu là Vua của hoà bình như lời tiên báo của các ngôn sứ trong Cựu ước. Người thiết lập hoà bình giữa các dân tộc, và nhất là hoà bình trong tâm hồn con người. Vương quốc của Người rộng lớn bao la và hiện diện trong trái tim của những ai thành tâm tìm kiếm Chúa và chuyên cần thực thi giáo huấn của Người.
Lời Chúa trong lễ Chúa Kitô Vua diễn tả Người là một vị Vua hoàn toàn khác với quan niệm trần gian. Ngôn sứ Edêkien diễn tả vị vua như một mục tử. Đây là hình ảnh rất quen thuộc trong xã hội Do Thái thời xưa. Vị vua này có đủ các đức tính của một mục tử, luôn ân cần săn sóc đàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Hình ảnh người mục tử trong ngôn sứ Edêkien sẽ được tròn đầy ý nghĩa qua cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Người đã chấp nhận chết để nhân loại được sống. Người rảo khắp xứ Palestina để chữa lành con người tổn thương do tội lỗi và do bệnh tật thể xác cũng như tinh thần gây nên. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá đã quy tụ muôn dân, làm cho nhân loại trở thành gia đình của Thiên Chúa. Người đã phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân ngoại và dân Do Thái, làm cho thế giới này trở thành vương quốc của tình huynh đệ. Thánh Phaolô đã quảng diễn điều này trong thư gửi giáo dân Côrintô (Bài đọc II). Đức Giêsu được tôn vinh là Vua, vì Người đã chấp nhận cái chết để ban cho nhân loại sự sống, như một mục tử hy sinh mạng sống để đàn chiên được bình an. Cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: quyền lực vương đế của Người không phải để thống trị, mà là để phục vụ và yêu thương.
Cũng hoàn toàn khác với quan niệm một vị vua trần gian hay một tổng thống ngoài đời, hình ảnh về vị Vua khiến chúng ta ngỡ ngàng hơn nữa, qua trình thuật của sử gia Matthêu về ngày phán xét chung. Lúc đó, vị Vua xuất hiện như một vị thẩm phán công minh. Người xét xử kẻ dữ và kẻ lành, trả công cho mỗi người theo công việc họ đã làm khi sống trên dương gian. Những người chịu phán xét ngạc nhiên trước lời tuyên bố của vị Thẩm phán: “Tôi bảo thật anh em: những gì anh em làm cho một trong các người bé mọn nhất này của Tôi, là anh em đã làm cho chính Tôi” (Mt 25,40). Thì ra, Đức Giêsu đồng hoá mình với những kẻ bé mọn, cơ nhỡ và bất hạnh trong cuộc đời, để rồi những ai giúp đỡ họ là giúp đỡ Chúa; những ai bỏ rơi họ là bỏ rơi Chúa. Vị Vua của chúng ta là như thế đó. Những ai chuyên tâm làm việc thiện và giúp đỡ anh chị em mình, xứng đáng được hưởng hạnh phúc đời đời.
Ngày hôm nay, vị Vua Giêsu vẫn đang cùng đi với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống, để khích lệ, thêm sức cho chúng ta trên đường đời. Mỗi khi thực thi giáo huấn của Người là chúng ta góp phần làm cho vương quốc tình yêu của Người được triển nở và lan rộng. Lời cầu nguyện “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, cần phải đi đôi với những nỗ lực cố gắng làm cho vương quốc hoà bình mà Đức Giêsu khai mở được thực hiện. Là Kitô hữu cũng là công dân của vương quốc vĩnh cửu. Xin cho chúng ta sống xứng đáng với danh hiệu cao quý này, để đáng được Chúa chúc phúc, hôm nay cũng như vào giờ phán xét cuối cùng.
Lm. Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc
Không cần uyên bác hay nội công thâm hậu, mọi người đều biết đến quy luật: quan nhất thời, dân vạn đại. Không cần xác định bạn là tiểu nhân hay quân tử, chung chung thì ai chẳng khao khát niềm vui hạnh phúc. Dù chưa từng sống thời quân chủ, hay chế độ phong kiến, sử sách vẫn ghi nhận ở đâu cũng có xung đột, đấu tranh giai cấp, chỉ vì con người không bình an, chưa đủ tin yêu trong cư xử. Từ nhu cầu vật chất, chức tước bổng lộc, chi phối nhiều đến cuộc sống, nên cha ông ta có câu: nỗi đau lớn nhất ở đời là con cái muốn báo hiếu, nhưng cha mẹ không còn nữa ! Thực ra, người ta biết nói những lời tốt đẹp, nhưng chỉ khi có hành động, mới đủ tư cách cho thấy mình là ai ! Thành công trong lời nói việc làm, trong thánh ý Chúa, chưa phải là điểm dừng, bởi đó chỉ là động lực giúp ta vững vàng hơn trên hành trình sẽ bước tới.
Cùng sống tâm tình phụng vụ lễ Chúa Kitô Vua, Giáo hội quy chiếu các chi thể về tình yêu thương mà Đức Kitô chiến thắng quy luật sự chết, nhằm khơi dậy tác động ơn thánh nơi các kitô hữu, chu toàn bổn phận trách nhiệm của mình. Một viễn cảnh mới, một tương lai tốt đẹp: Đấng phân xử, Đấng quyền năng, Đấng chiến thắng thế gian xuất hiện trong uy nghi, “khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy các thiên thận hầu cận…”. Đấng phân xử giúp mọi người nhận ra “Vua tình yêu”, Vương quyền sống động bởi các thiên thần và muôn dân thiên hạ, được quy tụ bên ngai toà uy linh. Hình ảnh chiên và dê, bên hữu bên tả phân minh: có phúc, có phần, hoặc vô phúc đối với những phần tử không thực thi đức ái. Lời thân thưa giữa người tốt và kẻ xấu có điểm giống nhau: “lạy Chúa, có bao giờ con thấy Chúa đói mà cho ăn, có bao giờ con thấy Chúa khát mà cho uống …”.
Có phần có phúc, vừa sung sướng vừa bất ngờ trước việc làm của mỗi người, ắt hẳn: có sinh có tử, có gieo có gặt, ở hiền gặp lành, có đạo phải sống đạo. Có tin Đấng đã đến là Vua tình yêu, có khao khát được yêu sống yêu thương, mới thực sự là thần dân của Vương quốc Giêsu. Mang thần phận người, được là kitô hữu, mang phần phúc của các thánh đã đổ máu đào, của tiền nhân, được ơn Chúa, được tình yêu Chúa thôi thúc, đặc biệt là ơn cứu độ. “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ”. Cha ông chúng ta nói: có đức ắt có phúc, có phúc ắt có phần, bởi vì, không phải giầu có hay cao sang tạo ra hạnh phúc, nhưng chính là sự tĩnh lặng nội tâm và hành động được cân nhắc.
Có phúc, có phần, có tình có nghĩa, có sống đức ái, sẽ gặp Đấng giầu lòng nhân ái: tướng giỏi thắng trận không cần lời khen, người xả thân làm việc thiện chẳng hơi đâu mà kiểm đếm thành tích. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau, mỗi kitô hữu đều có cơ hội làm môn đệ Đức Kitô, mỗi nghĩa cử vì người nghèo, đều được Đấng từ trời ghi nhận. “Quả thật, Ta bảo các ngươi: nhưng gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Vua Kitô sẽ không biến dê thành chiên, đang khi còn lữ hành trần thế này, Vua tình yêu có thể biến đổi tâm tính xấu xa tội lỗi, để qua sứ mạng Chúa Cha trao, mọi người thực sự có phúc có phần. Khi trao ban phần thưởng, người giám khảo luôn đòi hỏi các thí sinh phải rõ ràng về thành tích của mình. Khi ban phần gia nghiệp nước trời, Vua tình yêu công khai cho biết: “vì khi Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát,….”.
Có phúc có phần, có tình yêu là có sự sống, có Đức Kitô, sẽ có sức mạnh và tình yêu của Chúa trong các tương quan: “mỗi lần các ngươi làm cho những kẻ bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Vua Kitô đã chiến thế gian, và còn đang hiện diện, đang chết đi cho tội lỗi của mỗi người, và chắc chắn những ai đang cùng với Ngài sống đức ái kitô, sẽ còn thấy nhiều điều kỳ diệu hơn nữa. Người đời cho rằng: tấm lòng bác ái cần thiết hơn cả khôn ngoan, nhưng khi bạn nhận thức được điều này, là bạn bắt đầu khôn ngoan rồi. Cái gì có khởi đầu thì có kết thúc, sống tốt, đầu tư nhiều, sẽ gặt hái thành quả cao. Đấng phải đến sẽ đến để phân tách người lành kẻ xấu, nhưng Vua Kitô vẫn hy vọng từng người chúng ta phải được biến đổi để trở thành chiên ngoan, cùng Vua Kitô xây dựng một cộng toàn yêu thương bền vững.
Có phúc có phần, có niềm tin hy vọng, vẫn mãi chỉ là lời khích lệ cho những ai ý thức bổn phận trách nhiệm của mình phải chu toàn. Vào một buổi trời chiều nhá nhem tối, trời mưa nặng hạt, một thiếu nữ trẻ đẹp xuất hiện trước cửa nhà phật, xin trú mưa, xin một chút cơm lót dạ, rồi sau đó lại xin được nghỉ qua đêm. Sư thầy hết sức bình tĩnh: thưa thí chủ, đã hết mưa, trời phật đã độ trì cho thí chủ hai điều cần kíp, xin thí chủ rời bước cho, kẻo nhà chùa bị tiếng oan ! Dân gian có câu: trời cao có mắt, đất rộng dễ trông, lòng thành khó tránh khỏi điều tiếng. Một cuộc sống có tình yêu, giống như khu vườn nắng mưa thuận hoà, bình an, hương hoa nức lòng. Vua Giêsu, Vua tình yêu, đang hiện diện, và sẽ còn mưa ân phúc cho nhưng ai biết khiêm tốn cậy dựa vào sức mạnh của Ngài, để tất cả đều là chiên ngoan, là môn đệ trung tín của Vua Kitô.
Thiên San
Trong những bộ phim cổ trang của Trung Hoa, chúng ta thường bắt gặp hình ảnh các vị vua cải trang thành dân thường để vi hành. Thường các cuộc vi hành của các vị vua này đều bí mật, chỉ có một số người thân cận mới hay biết. Mục đích chủ yếu của nhà vua là để thăm dò và biết thêm về đời sống của người dân. Có một vị vua không chỉ thực hiện các cuộc vi hành mà còn đến và “cư ngụ” nơi mỗi thần dân của mình. Dường như chẳng ai trong số các thần dân nhận ra sự thật đó (x. Mt 25,31-46). Vị vua ấy chính là Giêsu.
Trải qua dòng lịch sử, Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người cách tiệm tiến. Đức Giêsu chính là mạc khải sau cùng và trọn vẹn nhất của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài chính là món quà tình yêu mà chính Thiên Chúa đã ban cho nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thật vậy, chính Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa đã nhập thể làm người, đến và ở giữa chúng ta, chung chia thân phận con người với ta, ngoại trừ tội lỗi. Qua giá máu châu báu Người đổ ra trên thập giá, Người đã trao ban tình yêu lớn lao, trọn vẹn cho ta, cứu chuộc ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Thế nhưng, sự thật là: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 10-11).
Trước sự phũ phàng, thờ ơ của nhân loại, Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín, chậm giận và giàu tình thương. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình cho ta biết về Người, về một Thiên Chúa của lòng thương xót. Thật khó để có thể nhìn nhận Đức Giêsu là con Thiên Chúa. Khi đón nhận mạc khải này, nhiều người đã vấp ngã, điển hình là giới lãnh đạo Do Thái lúc bấy giờ. Thực vậy, làm sao ta có thể nhìn thấy một Thiên Chúa uy quyền nơi một con người rất cụ thể của Đức Giêsu? Nếu sống vào thời đó, chắc gì chúng ta đã không vấp ngã. Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho người Do Thái thời bấy giờ qua các việc làm cũng như lời nói và đặc biệt là qua cuộc khổ nạn và phục sinh của Người. Tuy nhiên, nhiều người vẫn tỏ ra ngoan cố, không chịu tin.
Còn chúng ta, những người đang sống trong thời đại này thì sao? Chúng ta không có phúc được gặp gỡ, được sống cùng với con người Giêsu như những người khác vào thời của Ngài. Chắc hẳn, chúng ta cũng sẽ gặp khó khăn trong việc đón nhận và sống đức tin của mình vào Đức Giêsu. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Quả thực, Đức Giêsu đã ở lại với chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Người còn hiện diện với chúng ta nơi tất cả mọi người. Nhưng làm thế nào để ta có thể nhận ra sự hiện diện của một Thiên Chúa nơi anh chị em của mình? Thật là một thách đố. Đức Giêsu, Vua tình yêu đã không ngần ngại đến và ở lại trong chúng ta khi trao ban chính Mình và Máu của Ngài nuôi sống chúng ta. Chính khi ta rước Chúa vào lòng, ta được nên một với Người. Nhờ được nên một với Người, chúng ta được nên một với nhau. Nên một với nhau thì cần phải yêu thương, tôn trọng lẫn nhau. Nhưng sự thật là chúng ta đã làm gì cho nhau?
Chúng ta đã đối xử, đã sống và đã làm gì cho nhau? Đó cũng là câu hỏi ta phải trả lời trước nhan Chúa trong ngày sau hết. Chúng ta cần nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi anh chị em của mình để biết sống yêu thương, tôn trọn nhau, tránh làm cho nhau tổn thương. Trong ngày sau hết, Chúa sẽ khen thưởng ta nếu ta biết chia cơm sẻ áo cho người đói rách, thăm kẻ tù đày, cho kẻ khát uống… Còn nếu ta không làm như vậy cho người anh chị em của ta, ta cũng sẽ chuốc lấy án phạt như những kẻ bị nguyền rủa. Bởi chính khi ta làm một việc bé nhỏ cho họ là ta đã làm cho chính Chúa. Ta sẽ ở đâu là tùy thuộc vào thái độ và cách sống của ta đối với tha nhân ngay ở đời này. Hãy học biết yêu thương thật sự như Chúa mời gọi. Đó cũng là mong ước của Vua Giêsu. Đó cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của thần dân trong nước Chúa phải chu toàn.
SUY NIỆM LỄ ĐỨC KITÔ – VUA VŨ TRỤ
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của ngày Lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Thiên Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô, là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho chúng ta biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh, và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng Người.
Bài đọc một của giờ Kinh Sách, được trích từ sách Khải Huyền cho thấy Đức Vua Kitô với vẻ huy hoàng khi Người ngự đến. Tất cả mọi hình ảnh được sử dụng để giúp chúng ta hiểu rằng: Đấng đã chết trên thập giá là Đấng đang sống. Chính Người đã nói: Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời, Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ.
Bài đọc hai của giờ Kinh Sách, được trích từ khảo luận của linh mục Origiênê về cầu nguyện, ngài nói: Ai cầu cho triều đại Thiên Chúa mau đến, thì cũng cầu cho vương quyền của Thiên Chúa nơi mình được tăng triển, đem lại hoa trái và đạt tới tột đỉnh. Vương quyền trên thế gian nay đã thuộc về Chúa chúng ta và Đức Kitô của Người; Người sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời. Do đó, chúng ta phải phụng thờ và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng Đức Vua của chúng ta.
Thiên Chúa muốn quy tụ muôn loài dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô, Người là Con Chiên đã bị giết, nay xứng đáng lãnh nhận: phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang. Người là Vua ngự trị muôn đời, Người tuôn đổ phúc lành, cho dân hưởng bình an, như lời Ca Nhập Lễ và Ca Hiệp Lễ mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ hôm nay.
Qua bài Đáp Ca, với Thánh Vịnh 22, các nhà phụng vụ muốn chúng ta nhìn ngắm Vua Kitô, như một mục tử nhân lành: chăn dắt, và bảo vệ chúng ta. Qua câu Tung Hô Tin Mừng, các nhà phụng vụ muốn chúng ta chúc tụng ngợi khen Vua Kitô của chúng ta: Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít tổ phụ chúng ta.
Trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Êdêkien cho biết: Đức Chúa là Chúa Thượng phán: này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.
Trong bài đọc hai, thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã cho thấy: Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết.
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Kitô chính là Vua Tình Yêu. Người đến xét xử thế gian: Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người, và Người sẽ tách biệt chiên với dê. Vua Tình Yêu xét xử thế gian theo tiêu chuẩn tình yêu: Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han… Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Thiên Chúa là tình yêu, Vương Quốc của Người là Vương Quốc tình yêu, công dân của Người là những ai biết sống yêu thương. Vua Kitô đã rời bỏ trời cao, để đến ở với con người: đến không phải để được hầu hạ, nhưng, để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Do đó, yêu thương phải là căn tính của những ai muốn quy phục Vương Quyền của Vua Kitô; phục vụ phải là kim chỉ nam hành động cho những ai muốn thuộc về Vương Quốc của Vua Kitô. Vua Kitô đã hành động vì yêu thương, thì chúng ta là thần dân của Người, chúng ta cũng phải làm như Người đã làm. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn những việc làm yêu thương và phục vụ của chúng ta trở thành lời ngợi khen chúc tụng, và thành những của lễ phụng thờ dâng lên Đức Vua của chúng ta, thì những việc làm yêu thương và phục vụ đó: cũng phải mang những thương tích tình yêu, của Đức Vua Tình Yêu, Đấng đã yêu thương và thí mạng vì chúng ta, và để rồi, vào ngày phán xét, chúng ta sẽ được nghe từng chính miệng Người: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.
Lm. Jos DĐH.
Phần thưởng cao quý là gì, đối tượng sẽ nhận giải là ai ? Sống lâu trăm tuổi có phải là phúc đức không ? Lộc trời ban phát, đất nước khang an, gia đình trên thuận dưới hoà, phải chăng điều đó nên dừng lại ở mơ ước ? Thực ra, thích được khen thưởng, muốn mong sống trường thọ, được phúc lộc của tổ tiên dòng tộc, không phải là thao thức vô lý. Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có công danh gì với núi sông (Nguyễn Công Trứ). Con người tự nhiên hướng tới thành đạt, vừa có tiếng, vừa có miếng, được “cả chì lẫn chài”, ước muốn như thế cũng chẳng ai vội lên án là sai trái, tội lỗi. Xã hội phát triển, đất nước phồn vinh, từng thành viên gia đình tiếp nối tinh thần ái quốc, cũng là ba điều làm nên giá trị một đời người: chăm chỉ, chân thật, yêu thương.
Phần phúc của người tin theo Thầy Giêsu là gì, các tín hữu kitô sẽ lãnh nhận phần thưởng thế nào ? Tất cả đã có lời giải: “khi Con Người đến trong vinh quang, … Người sẽ phân chia họ ra như mục tử tách chiên ra khỏi dê, chiên thì Người cho ngự bên phải, dê thì Người cho ở bên trái”. Thầy Giêsu đến trong vinh quang, có phải là Đấng Ktiô đã hoàn tất sứ mạng trần thế mà Chúa Cha uỷ thác không ? Những ai tin theo Thầy Giêsu cách triệt để, hiển nhiên họ được gọi là chiên, là môn đệ của Đức Giêsu Kitô Đấng cứu độ, hẳn không ai phản đối ? Sống ở đâu, thế hệ nào, người ta cũng dễ dàng hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: một người làm quan, cả họ được nhờ, hoặc con vua thời lại làm vua.
Phần phúc người kitô hữu không phải ở trần thế này, quả quyết đó thuộc về những ai sống niềm tin kitô giáo, vẫn tuyên xưng hàng ngày, hàng tuần: lạy Cha chúng con ở trên trời ; tôi tin xác loài người ngày sau sống lại…. Kitô Vua, Đức Kitô Vua vũ trụ, không có gì xa lạ: “Bấy giờ Vua sẽ phán với người bên hữu rằng, hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy nhận lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi ngay từ khi tạo thành vũ trụ …”. Ở trần thế này, cuộc sống hiện tại lúc này, Lời Thầy Giêsu, giáo huấn Đức Giêsu: “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”. Tương lai của người tín hữu, hạnh phúc của những ai sống giới luật yêu thương, chắc chắn không phải là được giầu có vật chất, mà là được ghi nhận vào số đoàn chiên của Vua Giêsu.
Hãy nhận lãnh phần phúc, hãy nhận lấy gia nghiệp đời đời, bao giờ cũng là lời người người thích nghe, muốn nghe, nhất là lời: Vua Giêsu, Vua Tình Yêu, dù ở hiện tại hay tương lai. Để trở thành người tốt: phụ nữ đừng ỷ vào nhan sắc, vì nó sẽ tàn phai theo thời gian, phụ nữ có tâm hồn đẹp, mới đáng gọi là người phụ nữ tuyệt vời. Là Đấng mày râu: đừng ỷ vào tài trí thông minh, vì thành công hạnh phúc, ở đời này, bạn phải để lại cho người thân, cho hậu thế một hình ảnh thật. Là thần dân của Vua Giêsu, bạn không thể sống niềm tin trên môi miệng, không thể chia sẻ tình bác bái với kẻ nghèo hèn xung quanh mình bằng lời nói suông. Ngày quang lâm, Vua Giêsu sẽ ban phần phúc và nhắc lại lời đáng yêu: “những gì các con đã làm cho những kẻ bé mọn nhất của Ta đây, là đã làm cho chính Ta”.
Bạn sẽ nhận lãnh phần phúc thế nào, bạn đã nghe, đã từng có cơ hội để gẫm để suy: gieo gì gặt nấy ; khôn thì trong trí lượng ra, dại thì học lỏm người ta bề ngoài. (tục ngữ). Ước muốn được gặt hái hạnh phúc là đúng rồi: có lý trí tự do hành động khôn ngoan, người anh chị em đau khổ ở xung quanh, ta cư xử và đang sống đức ái thế nào, khi ta vẫn nói mỗi người đều mang hình ảnh của Chúa ! Vua Giêsu, Vua Tình Yêu, Ngài là sự thật: bao lâu tâm tính của ta chưa được biến đổi, chưa thấm nhuần tình yêu Giêsu, không thể là thần dân của Vua Giêsu, không thể nói đến phần phúc phần thưởng làm gì ! Cuộc sống hiện tại người tín hữu được sánh ví như một cuốn sách, mỗi ngày của bạn là một trang sách, có càng nhiều trang sách hay, quyền sách càng ý nghĩa.
Ngôn ngữ người trẻ hôm nay, họ lạc quan cho rằng: phụ nữ đẹp, không cần phải nghiêng nước nghiêng thành, chỉ cần một nam nhân quân tử nghiêng về cô ấy trọn đời là đủ. Vì chưng: lời nói gió bay, hứa càng hay chia tay càng thấm. Ngôn ngữ của Vua Giêsu mãi mãi là Tình Yêu, là sự nhạy bén trước người thật, việc thật, minh chứng bằng việc làm: “cho không, biếu không”. Lãnh nhận phần thưởng, phần phúc, một mơ ước đẹp, Vua Giêsu “đồng hoá” Ngài với kẻ nghèo hèn, tù tội, đói cơm bánh, khát tình thương: “vì xưa Ta đói, các người cho ăn, Ta khát các người cho uống, Ta là khách lạ, các người tiếp rước, …”. Cánh cửa Nước Trời chưa qua chưa biết, nhưng lãnh nhận phần phúc đời đời đã được Chúa Giêsu lưu ý chúng ta bằng lời rõ ràng: “còn người lành sẽ được vào hưởng hạnh phúc ngàn thu”. Amen.
Jorathe Nắng Tím
Trong bối cảnh xã hội, chính trị hiện nay, người ta ngao ngán khi nghe hai chữ “vua chúa”, vì càng ngày “vua chúa” càng chen chúc nhau mọc lên như nấm làm đám dân lành đã khổ nay càng khổ hơn.
Hiện tượng vua một vùng, chúa một cõi, bất kể vùng ấy bé như thôn ấp, chẳng trừ vùng ấy chỉ to bằng khu phố nhỏ đã làm nhiều người dị ứng với hai từ Vua – Chúa. Chính trong tâm trạng ngán ngẩm, sợ hãi cảnh vua chúa xưng hùng xưng bá, tham ô, trấn lột, đàn áp đám dân đen nghèo khổ, thấp cổ bé miệng, mà chúng ta mừng lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ, Vua các tâm hồn.
Một chi tiết mang tính lịch sử đó là lễ Chúa Kitô vua đã được Giáo Hội thiết lập vào năm 1925, thời điểm mà nhiều chế độ vua chúa ở Âu Châu đột nhiên đồng loạt biến mất, cũng là lúc Kitô giáo bị nhiều học thuyết vô thần tấn công dữ dội. Chính trong bối cảnh này lễ Chúa Kitô Vua được cử hành với hình ảnh Đức Kitô Vua là Mục Tử nhân lành, Vua nhân hậu giầu lòng thương xót, Vua khiêm hạ “đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống vì mọi người”, một hình ảnh Vua hoàn toàn khác các vua chúa thế gian chỉ “dùng uy mà thống trị, dùng quyền mà cai quản” (Mt 20,25).
- Vua Giêsu như Mục Tử nhân lành:
Ngôn sứ Êdêkien đã mô tả chân dung Mục Tử nhân lành là Đức Giêsu : “Chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm… Ta sẽ kéo chúng ra mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt… Ta sẽ tập hợp chúng… Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi, và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ítraen. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ítraen. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta… Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm ; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về ; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó ; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh…” (Ed 34,11-16).
Trong Tân Ước, chính Đức Giêsu đã nhận mình là “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
- Vương quyền của Vua Giêsu là lòng thương xót :
Vương quyền của Chúa Giêsu Vua đến từ Thiên Chúa Cha, Đấng giầu lòng thương xót đã ban cho Ngài mọi quyền “cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết”. Ngài đã tiêu diệt sự chết khi sống lại vinh quang, để “mọi người, vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người, nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng đuợc Thiên Chúa cho sống” (1Cr 15,22).
Như thế, vương quyền của Vua Giêsu là để thương xót, cứu chuộc mọi người khỏi án tử đời đời do tội lỗi mang lại. Chính lòng thương xót của Chúa Cha đã phong vương cho Ngài, để Ngài trở nên Vua Cứu Độ nhân hậu, mà nhờ sự chết và phục sinh của Ngài, tất cả những ai phải chết vì một người đã đem tội lỗi vào thế gian sẽ được Ngài cứu sống. Nói cách khác, Đức Giêsu là dung mạo đích thực của Thiên Chúa giầu lòng thương xót và chính Ngài đã thực hiện lòng thương xót ấy trên nhân loại, với vương quyền của Thiên Chúa Cha khi bắt thù địch cuối cùng là sự chết phải quy phục dưới chân Ngài.
Một Đức Vua đã dùng vương quyền để cứu sống con dân bằng hiến mình làm Của Lễ chuộc tội dân hẳn phải là Đức Vua vô cùng nhân hậu và bao la lòng thương xót.
- Đức Giêsu là Vua Tình Yêu:
Quang cảnh ngày phán xét chung trong Tin Mừng Matthêu được bao trùm bởi Công Lý tình thương, khi “Con Người đến trong vinh quang của Người” (Mt 25,31) để xét xử mọi người về tình yêu của họ, về nén bạc yêu thương Thiên Chúa đã trao cho mỗi người.
Đức Vua Giêsu đã không hỏi bất cứ ai về bất cứ sự gì, ngoài những việc làm của tình yêu trong suốt cuộc đời dương thế, những việc làm thường ngày, những đối tượng thường gặp, những con người thường thấy. Không có gì xa lạ, xa xôi, trắc trở, nhưng tất cả đều gần gũi, quen thuộc, kề bên. Chỉ có một điều, một tiêu chuẩn để quyết định đó là việc sử dụng khả năng yêu thương để yêu thương.
Khi nói đến “khả năng yêu thương để yêu thương” là nói đến phục vụ, vì phục vụ là hành động cụ thể, thiết thực của tình yêu, như đôi tay là hành động biểu lộ ý muốn và quyết định chọn lựa của tim óc.
Phục vụ tha nhân, phục vụ người thân, phục vụ nguời bần hàn, cơ nhỡ. Tất cả là mục tiêu của lệnh truyền “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” (Ga 15,12), mà ngày phán xét, mỗi người sẽ phải trả lời về việc thực hiện nghiã vụ yêu thương không thể bỏ qua này.
Cũng chính vì yêu Thương là khả năng Thiên Chúa ban cho hết mọi người, nên ai cũng có thể yêu, người nào cũng có thể phục vụ. Chẳng thế mà những người lành đã ngỡ ngàng, chưng hửng khi Đức Giêsu nói với họ : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đới, ccá ngươi đã cho ăn ; Ta khát ; các ngươi đã cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước ; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc ; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng ; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,34-36). Và tất nhiên, kẻ dữ đứng bên trái cũng giật mình hốt hoảng khi bị luận phạt, vì đã không làm như những người lành.
Thực vậy, cả người lành và kẻ dữ đều ngạc nhiên, sững sờ vì không một ai trong họ đã có thể ngờ : khả năng yêu thương được Thiên Chúa ban, cũng như nén bạc Tình Yêu được trao phó lại quan trọng đến thế!
Là Vua Tình Yêu, Đức Giêsu muốn thần dân của Ngài tiếp tay với Ngài để biến đổi thế giới hận thù, bạo lực thành thế giới yêu thương, an bình. Ngài muốn xây dựng một thế giới mới của Tình Yêu, một thế giới, ở đó mọi người nhận biết nhau là anh em, con cùng một Cha trên trời, một thế giới của lòng thương xót được chính Thiên Chúa giầu lòng xót thương qủan cai, chăm sóc như Mục Tử chăm sóc, quản cai đòan chiên yêu qúy của mình.
- Đức Giêsu là Vua khiêm hạ :
Đức Giêsu đến trong thế gian để làm Vua, như Ngài đã khẳng định trước quan Philatô (x. Mt 27,11), nhưng Vương Quyền của Ngài không như vương quyền của các vua chúa thế gian, vì Ngài làm Vua “không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mang sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Sứ vụ “Đức Vua” của Ngài thật khác “một trời một vực » với việc làm của các vua chúa thời nay : tham lạm, hưởng thụ, lợi dụng chức quyền hà hiếp, bóc lột dân đến tận xương tủy đến vô cảm, vô tâm, vô đạo đức…
Sự khiêm hạ của Vua Giêsu còn đuợc biểu hiện qua cung cách, thái độ bên ngoài như qùy xuống rửa chân cho môn đệ, ngồi trên lưng lừa con bé nhỏ, đơn sơ tiến vào thành thánh giữa rừng người dậy sóng “Hoan hô, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!” (Mc 11,9) như ngôn sứ Dacaria đã tuyên sấm : “Hỡi thuếu nữ Giêrusalem hãy vui sướng reo hò! Vì kià Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dc 9,9) ; và đặc biệt hơn cả là Ngài đã khiêm hạ “tự đồng hoá mình” với những người nghèo đói, đau ốm, tù đầy, tha hương, bị bạc đãi, bỏ rơi, bị khước từ, nguyền rủa, như Ngài đã qủa quyết trước những người lành đã yêu thương, phục vụ anh chị em bất hạnh, kém may mắn của họ : “Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Thời nay, dân được gặp quan huyện, quan xã đã là chuyện hiếm hoi, qúa khó, nói gì đến Vua Chúa xuống với dân. Thế mà Đức Vua “Ngôi Lời” đã khiêm hạ tự nguyện xuống thế làm người, mà còn làm người yếu đuối, nghèo nàn, hèn mọn nhất trong những người hèn mọn, nghèo nàn, yếu đuối…
Xin Đức Giêsu, Vua nhân hậu, Vua khiêm hạ, Vua tình yêu, Vua Lòng Thương Xót ban cho Giáo Hội nhiều mục tử có trái tim của Chúa để dân Chúa ngày càng được “sống và sống dồi dào” như đoàn chiên “chẳng thiếu thốn gì, được nằm nghỉ trong đồng cỏ xanh tươi, bên dòng nước trong lành” (Tv 22,1-2), vì “có lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ suốt cuộc đời, và được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 2,6).
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Đoạn Tin Mừng hôm nay đã thay đổi định hướng sống và trở thành chương trình hành động của người nữ tu Têrêsa Calcutta. Lời Chúa hôm nay cũng chính là Lời Chúa mà mẹ đã từng nghe, từng đọc, từng suy gẫm, nhưng nay mới nhận ra một điều thật mới lạ làm chấn động trái tim mình. Đó là những người nghèo khổ, xấu số, bất hạnh… không chỉ là những người đáng thương cần cứu giúp mà còn là hiện thân của chính Chúa Giêsu đang đau khổ. Mẹ đã “tập nhìn ra chính Chúa Giêsu trong mỗi con người, dù họ có vẻ đáng kinh tởm đến đâu đi nữa”. Từ đó, mẹ đã say mê phục vụ những bệnh nhân tồi tàn, đã cúi xuống bên những người kiệt sức, đã cứu giúp những người tàn tật, đã ôm về những người bị bỏ mặc cho chết bên vệ đường. Mẹ nhận ra phẩm giá cao quý mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Đối với mẹ, lòng thương xót là “muối” khiến cho mỗi việc mẹ làm thêm đậm đà hương vị, và là “ánh sáng” chiếu soi đêm tối của những cuộc đời không còn nước mắt nữa, mà khóc thương cho sự khốn cùng của mình.
Mỗi người khốn cùng cũng là một bí tích, là nơi mà chúng ta có thể thực sự gặp gỡ chính Đức Giêsu. Trong dụ ngôn ngày phán xét, Vua Giêsu đã đồng hoá mình với những người đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu hay tù đày, mà chúng ta vẫn gặp mỗi ngày. Ngài ẩn mình hay đúng hơn Ngài tỏ mình qua những người hèn kém đáng thương nhất.
Hôm nay Vua Giêsu vẫn ngửa tay xin ta giúp các anh chị em bé mọn nhất của Ngài: những người lầm than khốn khổ và bệnh tật nghèo hèn; những người dốt nát và mù chữ; những người đang sống nơi đầu đường xó chợ; những người bị suy sụp tinh thần; những người không nơi nương tựa và đang sống cô đơn buồn tủi; những người góa bụa con côi: những người tự nhốt mình trong tù ngục đam mê; những người trần trụi vì phải sống nhờ thân xác, và bị đẩy ra bên lề xã hội.
Sự tổn thương nặng nề nhất của người nghèo hôm nay là bị tuốt lột nhân phẩm, bị bóc lột nhân cách, bị trấn lột nhân tính, để rồi cuối cùng bị khinh khi chế giễu, bị coi là vô dụng, thừa thãi. Và như vậy, sự ác lớn nhất của con người hôm nay là mất tình yêu, là dửng dưng, vô cảm.
Thế giới ngày càng văn minh tiến bộ, nhưng vẫn còn đầy bất công và tội ác, không chỉ do những kẻ ác gây ra mà còn do người ta im lặng trước sự ác. Martin Luther King đã lên án: “Thế giới đang chìm đắm trong đau khổ, không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà vì sự im lặng của những người tốt”. Hóa ra những người tốt cũng là những kẻ xấu, vì đã đồng lõa hay thỏa hiệp với sự dữ: khi chỉ lo cho bản thân mà không quan tâm đến tha nhân; khi không dám nói lên sự thật; không dám lên tiếng cho những người thấp cổ bé họng, không dám che chở những người thất thế cô thân,v.v…
Có thể nói mỗi người chúng ta đang xây dựng hạnh phúc hay bất hạnh vĩnh cửu cho mình ngày qua ngày. Chúng ta sẽ bị xét xử không phải về những gì đã nghĩ hoặc đã nói, nhưng về những gì đã làm hay không làm cho chính anh em mình. Không phải mọi người đều đã biết Đức Giêsu, nhưng mọi người đều có một nẻo đường để gặp được Ngài, đó là nẻo đường “các việc từ bi thương xót”; là các việc Ngài đã làm, và ai làm như thế cho tha nhân là làm cho chính Ngài.
Bài học của đoạn Tin Mừng hôm nay đã quá rõ: đến cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu; tình yêu đối với tha nhân cũng chính là tình yêu đối với Thiên Chúa. Để những việc ta làm được gọi là “tốt” đối với anh chị em, ta hãy làm mọi việc cho họ như làm cho chính Chúa. Hãy thay đổi định hướng sống và chương trình hành động một cách cụ thể, cho phù hợp với lòng thương xót Chúa trên cuộc đời mình, để góp phần với Chúa Giêsu, Vua vũ trụ, Đấng đang qui tụ những người lành để làm nên một thế giới tình yêu tinh ròng.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Tha nhân cũng chính là bản thân con
trong mọi liên hệ của đời sống,
vì cũng được cứu chuộc bởi giá máu của Ngài.
Con chỉ kiện toàn được bản thân,
trong tình liên đới với tha nhân,
từ những trắc trở và khổ sở buồn rầu,
hay những vui mừng và lo âu của họ;
từ những thất bại đến thành công,
hay những hy vọng và chờ mong của họ;
từ những sa lầy và đau thương tội lỗi,
hay những sám hối và vươn lên của họ.
Lạy Chúa Giêsu!
Vua vũ trụ, cũng là Vua tình yêu muôn thuở,
Cho con trở nên nhịp đập của trái tim Chúa,
biết cùng rung cảm chân tình và sâu lắng
về từng hiện trạng cay đắng của con người
Chúa đã cúi xuống trên cuộc đời con,
cuộc đời tăm tối và hư vô vì tội lỗi,
xin cho con biết cúi xuống thật sâu,
để đỡ nâng những người khốn khổ u sầu,
vì họ cũng chính là Chúa chịu thương đau,
để cho cuộc sống con được đẹp mầu.
Xin cho con một trái tim cảm thấu,
một trái tim nung nấu sống tình yêu,
để con dám hành động thật nhiều,
cho bao người đang lầm than túng thiếu,
góp phần cho cuộc sống bớt tiêu điều,
để ngày Chúa đến vui mừng biết bao nhiêu! Amen.
Bông hồng nhỏ
“Giêsu, Đức Vua Tình Yêu! Xin Ngài soi chiếu đường tình yêu chúng con. Cho từng trái tim cháy lên lửa mến thiết tha. Cho đời sáng tươi cho ân tình ngát hương hoa” (Bài hát: Giêsu Vua Tình Yêu – Ân Phúc).
Lặng nghe lời ca tha thiết, ta thấy lòng bừng cháy một khát khao: được yêu như Chúa yêu.
Những tháng ngày lặng lẽ trong đời, ta cảm nhận thật rõ những phút giây của yêu thương tràn đầy. Chúa yêu ta từ trong những lỗi lầm của ta. Có nhiều lần, ta ngậm ngùi nghe lời than thở của Người: “Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa?” (Mc 9,19). Chỉ có tình yêu mới giúp cho người ta có thể đón nhận được sự khác biệt của người khác. Nó làm cho họ có khả năng chịu đựng được cả những kẻ cứng lòng tin. Chúa Giêsu đã rất yêu ta. Người kiên nhẫn chờ đợi để ta được lớn lên. Thế rồi, một ngày kia, cũng trong giây phút chuyện trò thân thương, Người nói với ta: “Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 18, 20). Lời ấy đi thẳng vào trái tim ta và làm cho nó ấm lên.
Chúa Giêsu là Đức Vua Tình Yêu. Tình yêu Người dành cho ta cao quý dường bao. Ta được Người yêu thương vô điều kiện, tình yêu ta nhận được làm cho ta lớn lên, trở nên giống Đấng đã yêu ta. Nghĩa là, ta cũng hãy yêu thương người khác vô điều kiện như Chúa đã yêu ta vậy. Trong ngày sau hết, ta sẽ trình diện trước Đấng đã yêu ta như thế nào? Ta sẽ là “chiên” hay “dê”? được vào hưởng phúc hay bị đẩy ra chốn tối tăm? Trong ngày phán xét, tất cả mọi người đều phải mang theo lễ phẩm là tình yêu mà mình đã trao ban cho người khác (x. Mt 25, 31-46). Ta có ngờ đâu, khi yêu thương ai là ta yêu thương chính Chúa, ta từ chối ai là từ chối Chúa. Chúa Giêsu đã cho ta biết trước điều ấy, để đang khi còn được sống trên cõi đời này, ta biết thực thi lòng bác ái với mọi người. Muốn yêu người khác, ta phải biết quên mình đi. Quả thật, nhiều lúc, ta đã chỉ biết nghĩ đến mình: khi đang dở dang công việc, thật khó để đến giúp người khác; khi đang rơi vào cảnh túng quấn, thật khó để nghĩ đến người đang nghèo túng hơn ta; … Chỉ khi nhìn thấy Chúa nơi người thân cận, ta mới có thể yêu thương họ. Mỗi ngày, ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần Tình Yêu đến với tâm hồn lạnh lẽo của ta, để Người làm bừng cháy lên trong trái tim ta tình yêu của Chúa, xin Người mở đôi mắt để ta nhìn thấy Chúa nơi người thân cận. Ta nhìn thấy Chúa nơi người khác bằng đôi mắt đức tin.
Lạy Chúa! Xin củng cố đức tin cho con, cho con được hiểu biết Chúa hơn và yêu mến Chúa hơn. Mỗi lần con đến với anh chị em của con, xin cho con luôn nhớ rằng, Chúa đang hiện diện trong họ. Xin cho con nghe được lời mời gọi Chúa dành cho con và can đảm vượt lên chính mình để yêu thương như Chúa muốn. Amen.
Anna Cỏ may
Chúng ta thường đánh giá nhau theo vẻ bề ngoài. Một người ăn mặc lụa là, trang sức long lanh, giàu có, chúng ta coi trọng họ. Chúng ta cũng thường mặc định: một ông vua phải là người có thế có quyền, luôn có người hầu kẻ hạ, mọi người phải kính trọng và phục tùng. Tư tưởng dẫn đến hành động. Những cái nhìn đó làm cho chúng ta rơi vào những hành động, lời nói sai lầm và dễ xét đoán người khác. Có người giàu có thật, nhưng cuộc sống họ giản dị, ăn mặc bình thường. Cũng có những vị vua thường vi hành thăm dân. Và có một vua không chỉ là vi hành mà còn trở nên như thần dân của mình. Đó là vua Giêsu.
Vua Hêrôđê đã không tin Chúa Giêsu là vua, ông chỉ nhìn thấy con người hiện tại của Ngài: chẳng còn gì ngoài sợi dây xích và thân mình tả tơi. Ông cũng không tin Chúa Giêsu là vua, bởi ông nghe các Thượng tế tố cáo Ngài, ông biết hoàn cảnh cùng thân thế của Ngài (x. Mt 27, 11-14). Nhưng Chúa Giêsu thật là vua, không chỉ vua của một nước mà là Vua cả vũ trụ này. Ngài là Con Thiên Chúa- Đấng đã dựng nên vũ trụ này. Chúa Cha đã trao mọi sự cho Chúa Con. Chúa Con luôn sống theo ý Chúa Cha và nên một với Chúa Cha. Ngài là vua vũ trụ, vị vua đã sống kiếp người, mặc lấy những đau khổ và gánh tội cho muôn người. Ngài gánh tội cho đến chết trên thánh giá. Tại Núi Sọ, Chúa Giêsu bị hành hình. Viên đại đội trưởng đang thi hành công việc của mình, ông đã thấy Chúa Giêsu trong giờ phút cuối cùng ấy. Ông đã thốt lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Ông công nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa cũng có nghĩa ông công nhận Chúa Giêsu thật là Vua. Một vị vua đã hy sinh tính mạng mình để đem ơn cứu độ và sự hòa bình cho mọi người. Ngài là Vị Vua luôn xem xét và thực hành mọi việc trong tình yêu thương. Ngài xét xử mọi người không theo kiểu thế gian nhưng dựa vào những việc mọi người đã làm cho nhau. Ngài thấy rõ tâm can của mọi người (x.Tv 139). Những ai sống mến Chúa yêu người, Ngài sẽ cho hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ. Còn những ai không mến Chúa yêu người, họ sẽ phải vào lửa đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Qủy và các sứ thần của nó (x. Mt 25,34-43). Ngài không chỉ là vị vua phán xét ở thế gian mà phán xét cả cuộc sống mai sau.
Hãy đến với vua Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, trong Thánh lễ. Một vị vua đã dùng chính mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng thần dân của mình. Trong ngày lễ Chúa Giêsu-Vua Vũ Trụ, chúng ta hãy cầu xin Ngài tiếp tục yêu thương chúng ta và giúp chúng ta nhận ra và tin Ngài là vị vua của mình để chúng ta biết sống xứng đáng là một người dân, người con của Ngài.
Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ! Ngài là Vị Vua của chúng con. Chúng con nguyện tán dương chúc tụng Thánh danh Ngài đến muôn đời muôn thuở. Xin cho chúng con nhận ra Chúa là Vua của chúng con ngay ở đời này qua những người nghèo, người đau khổ bệnh tật. Nhờ đó, chúng con sẽ được chung hưởng hạnh phúc trên Nước Trời, nơi Chúa đã dọn sẵn cho con. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu, Vua tình yêu.
Bài Tin mừng hôm nay mô tả ngày cánh chung. Khi đó Đức Giêsu xuất hiện như một vị Vua-Thẩm phán. Tất cả mọi người đều tập họp trước nhan Ngài để chịu xét xử. Tiêu chuẩn mà vị Vua-Thẩm phán ấy dựa vào để xét xử là cách sống yêu thương. Ngài cho rằng ai thể hiện tình yêu cụ thể với những người khốn khổ bé mọn tức là thể hiện tình yêu đối với Ngài và sẽ được trọng thưởng. Ngược lai, ai không yêu thương những người khốn khổ bé mọn cũng có nghĩa là không yêu thương Chúa nên bị trừng trị.
Núi Corcovado bên Brazil, có bức tượng Cristo Redentor – Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế Vua cao 30 mét, dang tay đứng trên đỉnh núi hùng vĩ. Núi Tao Phùng, Tượng Chúa Giêsu Vua, cao 32 mét, chiều dài hai cánh tay là 18,4 mét, uy nghi. Chúa Giêsu Vua giang đôi tay ôm trọn nhân loại trong tình thương cứu rỗi.Trái tim của Ngài mở ra để yêu thương mỗi người và mọi người, cánh tay của Ngài mở rộng để vươn đến mọi người. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp của người Mục Tử.
- Vua Giêsu, Mục Tử
Chúa Giêsu là Vua Mục Tử Nhân Lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I). Ngài tuyên bố : “Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”(Ga 10,10); “Ta đến để cho chiên Ta được sống và được sống dồi dào. Chính Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”. Vua Mục Tử thiết lập Vương Quốc Tình Thương. Vị Vua ấy đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ : “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc vương quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương. Vua Giêsu làm Thẩm phán xét xử mỗi người theo tiêu chuẩn của tình thương.
- Vua Giêsu, Thẩm Phán
Để diễn tả vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Matthêu (25,31-46), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gioan (18,33-37), một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng Luca (23,35-43) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai. Vua Giêsu tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Ngài không là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát con người khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của Ngài là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Ngài đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Vương quốc của Chúa Kitô Vua là vương quốc của tình yêu. Muốn vào vương quốc của Ngài, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự.
- 3.Đã làm gì và không làm gì cho tha nhân
Thánh Matthêu tường thuật quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử, mọi người tốt xấu, lành dữ đều có mặt và được xét xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để xét xử là tình yêu mỗi người thực hiện cho tha nhân.
Nội dung cuộc xét xử thật bất ngờ.Đấng Thẩm Phán chỉ xét hỏi người ta về tình thương. Một tình thương cụ thể được chứng tỏ bằng việc làm thiết thực đối với những con người bằng xương bằng thịt “Cho kẻ đói được ăn, cho kẻ được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ bơ vơ…”. Điều bất ngờ hơn nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm những điều ấy cho một kẻ bé nhỏ là các ngươi làm cho chính Ta”. Những người bị xét xử đều nhất loạt thắc mắc: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay là khách lạ đâu?”. Mặc cho người tốt kẽ xấu thắc mắc, lời Chúa dạy thật rõ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới hình thức nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa mình với họ. Vậy thì rõ ràng mọi việc chúng ta làm vì tình thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức.Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, việc làm chứ không phải lời nói hay cái gì khác quyết định chúng ta thuộc chiên hay dê.
Thánh Gioan Kim Khẩu dạy: đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa trong nhà thờ và Chúa ngoài nhà thờ, tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Đức Kitô hiện diện trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong mỗi một con người.
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, đã sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Ngôi Lời Thiên Chúa đã sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị chỉ trích lại trừ, bị hành hạ và chết treo trên Thập giá. Vì thế, Ngài đã kinh qua mọi khổ đau và cái chết trong thân phận con người, Ngài cảm thông với hết thảy mọi người. Chúa bảo rằng, những ai cho người đói khát một ly nước, một chén cơm là họ cho Chúa ăn uống. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo là họ đã cho Ngài mặc áo. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian là họ đã cho Chúa trọ nhà… Điều vĩ đại trong Phúc Âm về ngày Phán xét đó là giá trị những việc nhỏ bé hàng ngày của tình yêu thương. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi.
Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc công dân Nước Thiên Chúa.Tình yêu là “thẻ căn cước”của công dân Nước Trời. Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực và sống động. Việc bác ái là chứng chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc.
Nếu Chúa Giêsu chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng thống Bush: “Show, but don’t tell!”: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!
Trong ngày sau cùng, khi Vua Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá” (Mt 7,24).
Lạy Chúa Giêsu, nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều mà Chúa đề cao: mỗi lần giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác…đó là chúng con làm cho chính Chúa, xin cho chúng con luôn biết thực hành đức ái trong đời sống hàng ngày. Amen.
Lm Vũđình Tường
Ngày lễ mừng kính Đức Kitô Vua, xin được nhấn mạnh hai điểm. Thứ nhất mọi tạo vật trên trời, dưới đất đều run sợ, phủ phục trước vinh quang Chúa; thứ hai Đức Kitô là vua toàn thể vũ trụ.
Trong ngày phán xét, Đức Kitô đến trong vinh quang. Thiên Thần Chúa quy tụ muôn dân, muôn nước trước Con Thiên Chúa. Mọi tạo vật đều run sợ, phủ phục trước vinh quang Con Thiên Chúa để nghe Ngài đưa ra phán quyết sau cùng. Điều này cho biết Đức Kitô là Đấng duy nhất có tiếng nói cuối cùng về cuộc sống trường sinh. Thần dữ là ma quỉ có sức mạnh, ảnh hưởng cám dỗ bao lâu con người còn hơi thở, còn bị chúng cám dỗ, mua chuộc. Chúng tung hoành, tác oai, tác quái khi con người cộng tác với chúng. Khi con người lìa cõi thế không còn khả năng cộng tác với chúng nữa. Chúng câm lặng trong ngày phán xét bởi chính chúng bị Thiên Chúa tuyên án phạt. Sức mạnh của thần chết xem ra có tiếng nói trên thân xác con người. Đây là một hiểu lầm rất lớn do ma quỷ ngụy tạo. Con người sinh ra trên mặt đất, con người sống hay chết, ngày giờ ra đi đều do quyền năng Thiên Chúa. Ngài cho người nào sống bao lâu nơi trần gian đều do Ngài quyết định. Việc ra đi, thời gian giã từ cõi thế của mỗi cá nhân đều nằm trong tay Thiên chúa. Thần chết tự nhận có tiếng nói đó. Thực ra chúng không có. Sau khi linh hồn lìa khỏi xác, giã từ trái đất, Đức Kitô là Đấng duy nhất đưa ra phán quyết thưởng, phạt, công minh về cuộc sống con người. Trước tôn nhan Thiên Chúa, mọi loài thụ tạo đều run sợ. Run sợ vì nhiều lí do. Thứ nhất, đây là đầu và cũng là lần cuối cùng mọi thụ tạo nhìn thấy Vinh quang Con Thiên Chúa. Thứ hai, Vinh Quang Chúa cao sang hùng vĩ vượt qua diễn tả của con người. Tựa như bình nhựa không thể đựng acid, mà phải là bình sành. Nhân loại không thể đón nhận vinh quang Thiên Chúa mà không run sợ, phủ phục bởi nhân loại không được tạo dựng để trực tiếp đón nhận vinh quang Chúa. Kinh nghiệm của các tông đồ trên núi thánh Khi Đức Kitô biến hình. Các ông không nhìn thấy vinh quang Chúa, chỉ nghe tiếng Ngài phán ra trên không trung như tiếng sấm gầm, các ông thấy khuôn mặt Đức Kitô sáng rực và áo Ngài trở nên tuyết trắng. Chính những biến đổi này khiến các ông run sợ, phủ phục, cúi mặt xuống mặt đất Mt 17,2.
Trong ngày phán xét, nhiều linh hồn vừa run sợ, vừa nhảy mừng, hoan ca, vui vẻ, vì ngày vinh quang đang đến để được kết hợp với Đức Kitô, Đấng mà họ một đời chuyên tâm trung thành. Cũng trong ngày đó một số vừa run sợ, vừa vỡ lẽ. Run rẩy, vỡ lẽ bởi giờ đây họ nhận biết tính kiêu căng, tự phụ, tự mãn đã lừa dối họ. Họ tự chọn từ chối sống theo hướng dẫn của Con Thiên Chúa. Họ tự chọn đặt í riêng họ lên trên í Chúa. Chính cái hiểu biết, sự khôn ngoan, thông thái của họ lừa dối, gạt gẫm họ đi đến tình trạng chối bỏ Một Thiên Chúa hiện hữu. Giờ phút này họ mới nhận biết sai lầm thì đã quá trễ. Sợ hãi dồn dập tâm hồn họ như những cơn sóng, cơn sau mạnh hơn cơn trước, áp đảo tâm thần họ, xô lấp tâm can, vùi dập cuộc đời họ. Nơi trần thế có thời họ lập mưa dìm người nọ. Họ tạo gió, đè người này. Họ lập mưu ép người kia. Giờ đây chính họ nhận hậu quả do họ gây nên cho tha nhân, tác oai, tác quái trên đồng loại. Nạn nhân của họ được Đức Kitô đón vào Thiên quốc. Trong giây phút họ biết rõ bạc phận, vô phước đời họ gây nên. Con Thiên Chúa cũng không đáp ứng lời họ khóc than, bởi trước đó họ từng từ chối tiếng khóc than, kêu oan của tha nhân. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta Jn 10. Họ từ chối nghe tiếng gọi Chủ Chiên. Họ chọn cuộc sống hoang dại, vì thế họ bị từ chối vào chung đàn chiên. Họ sống ngoài chuồng chiên và lang thang vào vùng tăm tối.
Đức Kitô an ủi chiên Ngài. Bởi các ngươi đã trung tín rong việc nhỏ Mt 25,12. Sống đời sống cố gắng phục vụ tha nhân, trở thành nhân chứng tình yêu Thiên Chúa. Giờ đây Kitô hữu vào hưởng cuộc sống trường sinh, tràn đầy hạnh phúc, Hãy vào hưởng gia nghiệp Cha Ta đã dành sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên, lập địa c.3. Nơi trần thế Kitô hữu sống cho Thiên Chúa nhiều hơn cho chính họ. Kitô hữu làm cho giáo huấn của Đức Kitô sống động trong đời sống tha nhân. Đức Kitô trao cho Kitô hữu trách nhiệm chăm sóc kẻ ốm đau, nâng đỡ người già cả, an ủi kẻ sầu khổ và thăm viếng kẻ ốm đau. Kitô hữu đã hoàn thành trách nhiệm trao phó. Trách nhiệm mà khi còn tại thế Chính Đức Kitô thực hiện điều đó và Kitô hữu nối tiếp tốt đẹp công việc Ngài khởi sự. Giờ đây Kitô hữu vào hưởng phúc trường sinh, nơi không còn lệ rơi; tang thương bỏ lại trần gian; đau khổ bị tiêu diệt. Thay vào đó là hoà bình vĩnh cửu, tình yêu chan hoà.
Điểm thứ hai. Chúng ta có thể khẳng định Đức Kitô không phải chì là vua cho một thiểu số, cho dân riêng Chúa. Đức Kitô là vua toàn thể vũ trụ. Điều này được xác định bởi Ngài có toàn quyền trên trật tự thiên nhiên. Ngài ra lệnh cho sóng biển êm dịu và chúng vâng phục Ngài Mt 14. Ngài ra lệnh cho gió bão êm lại và chúng liền vâng phục. Đối với bệnh tật và các chứng nan i, bất trị. Ngài lên tiếng là chúng biến mất, bệnh nhân lành như chưa hề mắc bệnh. Người què đi được, câm ca hát, điếc nghe tiếng chim hót đầu ngành, mù thấy mặt trời mọc và kẻ chết sống lại. Ma quỉ trông thấy bóng dáng Ngài chúng than trách sợ bị tiêu diệt Mt 8,29. Ngài phá tan xiềng xích tội lỗi trói buộc con người. Mọi quyền lực, sức mạnh trong vũ trụ đều phủ phục dưới chân Ngài. Vua vũ trụ kêu gọi các môn đệ học từ Ngài để trở nên công chính. Công chính trong lời nói, công chính trong hành động. Công chính bắt nguồn từ lối sống khiêm nhường, phục vụ khiêm nhường bằng các hành động nhỏ mọn, tầm thường. Việc tầm thường đến độ môn đệ không nhận ra, khi họ thực hiện điều đó cho tha nhân chính là thực hiện điều đó cho chính Đức Kitô Mt 11,29. Điều đó thành sự thực bởi chính Đức Kitô đồng hoá Ngài với kẻ hèn mọn, nghèo hèn, kẻ vô gia cư, kẻ xã hội làm ngơ. Cuộc sống trần thế Đức Kitô hiểu rõ điều đó. Ngài bị chối bỏ, bị xua đuổi, thành dân tị nạn, bị đói khát ngay cả trong giờ chết. Những ai tự chọn sống theo í riêng sẽ không thể sống chung với những ai chọn sống theo í Chúa. Chọn sống yêu thương, theo í Chúa sẽ được Chúa yêu thương; chọn sống theo í riêng sẽ sống trong đêm đen.
Trầm Thiên Thu
Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất, và Ngài “có toàn quyền trên muôn loài.” (1 Cr 15:28) Thật vậy, sau khi phục sinh, chính Chúa Giêsu đã hiện ra với 11 môn đệ tại Galilê và xác nhận: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28:18)
Chúa Giêsu được toàn quyền, nghĩa là Ngài cũng là Thẩm Phán xét xử trong ngày chung thẩm. Ngài xét xử đầy lòng thương xót nhưng cũng rất thẳng thắn, công minh. Kinh Thánh cho biết: “Đức Chúa là Đấng xét xử, Người chẳng thiên vị ai.” (Hc 35:12; Đnl 10:17-18; Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9) Kinh Thánh còn cho biết chi tiết với cách nói mạnh mẽ hơn: “Chúa Tể muôn loài không bao giờ vị nể, kẻ quyền cao chức trọng, Người cũng chẳng kiêng dè. Sang hay hèn đều do Người tạo tác, đều được Người chăm sóc hệt như nhau, nhưng kẻ quyền cao sẽ bị tra vấn nghiêm nhặt.” (Kn 6:7-8)
Đó là luật công bằng, như Chúa Giêsu đã xác định: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.” (Lc 12:48) Tuy nhiên, bản chất vốn dĩ là tình yêu nên Thiên Chúa có đặc điểm bất biến: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb 7:3 và 6; Er 3:11; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4 và 29; Tv 136:1-26) Nếu Thiên Chúa chấp tội thì chẳng ai có thể đứng vững trước Tôn Nhan Ngài. (Tv 130:3) Thật vậy, “Ngài không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm.” (Tv 103:10)
Trong xã hội loài người, các lãnh thổ khác nhau chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia, mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, phàm ngôn gọi là nguyên thủ quốc gia – thay đổi tùy thời: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,… Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo Hoàng – người kế vị Thánh Phêrô cai quản Giáo Hội tại thế.
Người ta có câu: “Quan nhất thời, dân vạn đại.” Dĩ nhiên đó là nói về thế gian. Các nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là duy nhất, vĩnh viễn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục.” (Lc 12:5) Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền trong tay: “Ngài KHÔNG có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài.” (Ga 19:11) Rất rõ ràng.
Theo chiết tự chữ Hán, chữ Vương (vua, 王), ba “gạch ngang” tượng trưng cho Thiên, Nhân, Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng” với ý nghĩa “vua là người nối kết trời, đất và con người.” Đúng theo nghĩa đó thì trọng trách nặng nề lắm, nhưng vua trần gian chẳng mấy người như vậy, đôi khi họ còn ngược ngạo, hống hách, làm khổ dân mà thôi. Tương tự, gần gũi chữ Vương (王) là chữ Chủ (主), cũng có nghĩa là Chúa, viết như chữ Vương và có thêm “ngọn lửa” ở trên, với ý nghĩa: Chúa cũng là vua nhưng có đức độ, gần gũi với con người, đốm lửa trên đầu ngài là ánh sáng soi sáng cuộc đời chúng ta, thúc bách chúng ta đi theo ngài, và đó là ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Hán tự thật thâm thúy, đúng là chữ phải có nghĩa.
Đệ Nhất Thiên Vương là Chúa Giêsu, vì Ngài là Vua các vua và Chúa các chúa, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các thần dân. Có điều rất kỳ lạ: Vua chúa trần gian có mọi thứ, còn Chúa Giêsu là Vua Đa Không: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,… Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang.
Tại sao như vậy? Chính Chúa Giêsu minh định với tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36) Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người.” (Ga 5:22, 26-27)
ĐỨC VUA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
Thật khủng khiếp với quyền sinh sát trong tay vua chúa trần gian: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” Vì họ tự nhận là Thiên Tử – Con Trời, hét ra lửa, mửa ra quyền. Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài thản nhiên: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18:37) Là Vua các vua, nhưng Chúa Giêsu luôn động lòng trắc ẩn, chạnh lòng thương xót. Ngài đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài nhắn nhủ: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11:29) Là Thiên Vương nhưng Vua Kitô Giêsu là Vua Thương Xót, luôn nhân hậu, nhân ái và từ tâm.
Chính Đức Chúa là Chúa Thượng đã tuyên phán: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt.” (Ed 34:11-12) Thật vậy, khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài đang ở ngay bên; khi cuộc đời êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc sống như ở trong ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự như thế, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo, vì đức tin còn yếu kém.
Là Đấng tạo dựng nên chúng ta, Thiên Chúa biết rõ chúng ta thế nào, và Ngài đã xác định: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.” (Ed 34:15-17) Ngài không bỏ qua bất cứ ai, người nào càng đau khổ thì càng được Ngài thương xót. Thật vậy, Ngài không phân biệt, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để tìm cho được 1 con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh. (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7) Phàm ngôn không đủ từ ngữ để diễn đạt lòng thương xót mầu nhiệm như vậy.
May thay, hiếm nhưng vẫn có: Các vua chúa trần gian ít có người đích thân vi hành như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa. Ông là vua tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Có đến thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo,” liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!” Ngay cả tỉnh trưởng hoặc quận trưởng cũng vậy, chẳng mấy người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân. Đạo cũng không khác lắm, có bao nhiêu giám mục hoặc linh mục tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có chức nên có quyền, đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” như vậy, có lẽ nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm. Đúng là “sự thật mất lòng” mà.
Quả thật rất ấn tượng với Đức cố Giám mục Jean Cassaigne (1895-1973), gọi thân thương là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân, ngài đã sống đúng khẩu hiệu giám mục của ngài: “Caritas et Amor – Bác Ái và Yêu Thương.”
Cuộc đời luôn có những ngịch lý: Biết nhiều thì khổ nhiều; thấy nhiều thì chán nhiều; nghe nhiều thì nóng máu. Làm ngơ thì người ta nói mình sợ, nói ra thì bị ghét. Thẳng thắn sẽ va chạm, chỉ khổ mình thôi. Thế nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ vào hùa, đồng lõa. Thật may còn có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Thánh Vịnh gia chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Mỗi tín nhân đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy thì hạnh phúc biết bao!
Chắc chắn đức tin phải được tôi luyện trong gian truân thì mới có thể dần dần trở nên tinh ròng, và lúc đó người ta mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.” (Tv 23:4-5) Thánh Vịnh gia chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:6) Thật là hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc đó không thể có nếu cứ sống tà tà. Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13) Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để chúng ta lâm vào ngõ cụt, bởi vì bản chất của Ngài là tình yêu, (1 Ga 4:8 và 16) mà tình yêu thì bất diệt.
Chúa Giêsu là Để Nhất Thiên Vương, nhưng là Đệ Nhất Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, chúng ta không thể sống khác nếu muốn đi theo Ngài.
Ngài là Vua của người sống chứ không là Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen ghét đến nỗi giết Ngài, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, và cai trị cả Tử Thần. (x. 1 Cr 15:25) Thánh Phaolô cho biết chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.” (1 Cr 15:20-24)
Chúa Giêsu đã đau khổ tột cùng nên hoàn toàn hợp lý khi Ngài có toàn quyền: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô.” (1 Cr 15:25-27) Đức Kitô là Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.” (1 Cr 15:28)
Thời quân chủ, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, cái chết đó được coi là trung thành. Có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh, bảo – bửu,…), thậm chí muốn tâu bẩm cũng phải tránh né: “Muôn tâu bệ hạ!” – tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi mà thôi. Ôi, cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu thì không sợ “phạm húy,” cứ thân thưa thẳng thắn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài.”
ĐỨC VUA CÔNG MINH CHÍNH TRỰC
Thiên Chúa “xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người, và xét xử muôn dân theo lẽ công bình.” (Tv 96:13 và Tv 98:9)
Trình thuật Mt 25:31-46 nói về thời điểm Vua Kitô xét xử nhân loại. Về cuộc phán xét chung, Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế: Chiên và Dê. Hình ảnh gần gũi với đời sống. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “bắt mắt,” còn dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “khó nhìn.” Chiên là người lành, dê là kẻ dữ. Rất dễ hiểu.
Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han.” (Mt 25:34-37)
Nghe Vua Kitô nói vậy, họ ngạc nhiên vì họ chưa hề thấy Chúa gặp hoạn nạn mà giúp đỡ, nhưng Chúa Giêsu xác định: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy.” (Mt 25:41) Thật lạ lùng quá chừng!
Tương tự, Đức Vua nói với những người ở bên trái những điều như đã nói với những người bên phải, chỉ khác chữ KHÔNG. (Mt 25:42-44) Và họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị KHÔNG làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã KHÔNG làm cho chính Tôi vậy.” (Mt 25:46) Hết lý lẽ để biện minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời, (Mt 25:14-30) và thực hành đức ái. (Mt 25:31-46)
Đức Vua không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hay “bà nọ” để được ưu tiên. Có lẽ chúng ta nghe nhiều và nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa vui tính, thích đùa dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại,” thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không loại trừ. Người ta cứng lòng, tự mãn, hay giả mù sa mưa?
Thực sự không hề dễ để có thể nhận ra Chúa nơi người khác, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay.”
Yêu thương là xót thương, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng, (Ga 13:1) Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ chúng ta sám hối, đợi chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là qua Bí tích Hòa giải và Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta cố chấp mà thôi. Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền lợi, không mấy ai nói đến bổn phận.” Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Như vậy thì chúng ta không công bằng với Chúa, cũng có nghĩa là chúng ta bất công với Ngài.
Chúa Giêsu là Vua các vua nhưng không được tiền hô hậu ủng, không xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp lễ Quá Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt mau hơn trở bàn tay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá.” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15) Quả thật, chúng ta cũng chẳng hơn gì dân xưa.
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng, suốt ba năm hoạt động công khai, hằng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người nghèo khổ nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của mọi người. Là Vua với đầy quyền lực trong tay, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như đã nói: “Ai làm lớn phải phục vụ.” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45) Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn làm nhiều hơn nói. Thật diễm phúc khi chúng ta là thần dân của Vua Kitô Giêsu!
Lạy Đức Vua Kitô Giêsu, xin tỏ cho con thấy tình thương của Ngài và ban ơn cứu độ cho con. (Tv 85:8) Xin Ngài nhớ đến con bởi lòng thương dân Ngài, xin ngự đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ. (Tv 106:4) Xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu, vì chính Ngài làm chủ muôn dân. (Tv 82:8) Xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn con trong Chân Lý và Tình Yêu cao cả. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, hằng sinh, đồng hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-LỄ CHÚA KITÔ VUA
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ “Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ” đã được Đức Pi-ô XI thiết định vào năm 1925 để khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng của Chúa Giê-su trên mọi người, mọi gia đình và mọi xã hội nhân loại. Trong bức Thông Điệp của mình “Quas primas” vào ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Pi-ô XI đặc biệt tố cáo chủ nghĩa thế tục làm phương hại tận căn vương quyền của Đức Ki-tô.
Trước đây, Lễ Chúa Ki-tô Vua đã được ấn định vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng mười. Từ cuộc canh tân phụng vụ, Lễ này kết thúc năm phụng vụ, vì nó được trình bày như đỉnh cao của tất cả mầu nhiệm Đức Kitô.
Ed 34: 11-12, 15-17
Bài Đọc I, trích sách Ê-dê-ki-en, là dụ ngôn người mục tử nhân lành, trong đó ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Đấng Mê-si-a mà muôn dân mong đợi không chỉ là vua, nhưng còn là mục tử nhân lành chăn dắt dân Ngài.
1Cr 15: 20-26, 28
Bài Đọc II, trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh Phao-lô gợi lên vương quyền của Chúa Ki-tô. Thiên Chúa đã quy phục mọi sự cho Ngài. Vào ngày chung cuộc, Chúa Con sẽ hoàn lại cho Cha Ngài thế giới mà Ngài đã vĩnh viễn tiêu diệt quyền lực của Sự Ác và Tử Thần.
Mt 25: 31-46
Tin Mừng trình bày Ngày Chung Thẩm, vào ngày đó Đức Vua vinh hiển mở cửa Nước Trời cho tất cả những ai đã yêu mến Ngài qua việc yêu thương anh chị em bất hạnh của họ, những người mà Đức Vua tình yêu tự đồng hoá mình với họ.
BÀI ĐỌC I (Ed 34: 11-12; 15-17)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào thời kỳ bi thảm nhất của lịch sử Ít-ra-en: những cuộc xâm lăng của đế quốc Ba-by-lon vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Sau khi vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 tCn, ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc đoàn người ưu tú đầu tiên bị dẫn đi lưu đày tại Ba-by-lon.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tiên báo một tai họa còn lớn lao hơn. Tai họa này bất ngờ xảy đến mười một năm sau đó. Quân đội Ba-by-lon triệt hạ kinh thành Giê-ru-sa-lem và phá hủy Đền Thờ (588-587). Cuộc xuất chinh thứ nhất của quân đội Ba-by-lon là trừng phạt trong khi cuộc xuất chinh thứ hai chấm dứt vương quốc Giu-đa.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cực lực tố cáo hạnh kiểm của các vua Ít-ra-en là bất tài, vị kỷ, bất công: họ là những mục tử gian ác đã dẫn dân của mình đến chỗ phải ly tán khắp nơi. Danh xưng “mục tử” được dùng để gọi vua rất phổ biến ở Đông Phương, thuộc ngôn ngữ triều đình.
Khi tai họa bất ngờ giáng xuống trên dân tộc mình, ngôn sứ Ê-dê-ki-en từ ngôn sứ loan báo tai họa biến thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng: Sẽ đến ngày Đức Chúa đích thân cầm lấy vận mệnh của dân Ngài, Ngài sẽ là vị Mục Tử đích thật.
- Sứ điệp hy vọng
Trước hết, sấm ngôn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en được ứng nghiệm ngay tức thời. Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ, Đền Thờ bị tàn phá, đám đông dân cư bị đi lưu đày. Đó là một thời kỳ thử thách, một thời kỳ “mây mù tăm tối” (hình ảnh truyền thống để gợi lên sự trừng phạt của Thiên Chúa): mỗi lần kinh thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm, mỗi lần một đoàn dân cư bị lưu đày sang Ba-by-lon. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm lần thứ hai, thành thánh bị san thành bình địa, một số lượng dân cư Giê-ru-sa-lem và Giu-đê trốn chạy sang Ai-cập: đàn chiên bị tản mác khắp nơi.
Ngôn sứ hứa Thiên Chúa sẽ can thiệp. Chính Ngài sẽ đích thân chăn dắt đàn chiên của mình: “Chúng có tản mác đến tận đâu vào một ngày mây mù tăm tối, thì Ta cũng sẽ cứu chúng ra”. Đó là lời hứa hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem và quy tụ lại ở quê cha đất tổ. Đức Chúa sẽ đích thân băng bó tất cả những ai bị thương tích, bồi bổ những ai bệnh hoạn trong cơn thử thách, Ngài “sẽ dựa vào công lý mà săn sóc”. Ngài sẽ trừng trị những mục tử gian ác, những kẻ cậy quyền dựa thế chà đạp những kẻ nghèo hèn thấp cổ bé miệng.
Sứ điệp chứa chan hy vọng gởi đến cho những kẻ sống kiếp lưu đày và những nạn nhân xấu số của những cuộc xâm lăng, nhưng cũng tiên báo một sự thay đổi sẽ xảy đến trong lịch sử Ít-ra-en: sau cuộc hồi hương trở về, vương quyền sẽ không còn được khôi phục lại nữa. Chỉ một mình Đức Chúa sẽ lãnh đạo dân Ngài.
- Tôn giáo tình yêu
Qua dụ ngôn người mục tử nhân lành, ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi sứ điệp còn quan trọng hơn. Những mối liên hệ giữa Thiên Chúa và tín hữu của Ngài được trình bày như những mối liên hệ đầm ấm thân tình; những hình ảnh chất chứa biết bao âu yếm, sôi nổi, sống động như một điệp khúc: “Con nào mất, Ta sẽ lo tìm kiếm; con nào lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh hoạn, Ta sẽ bồi bổ; con nào béo khỏe, Ta sẽ giữ gìn”.
Ở nơi dụ ngôn người mục tử nhân lành ẩn chứa một tôn giáo tình yêu. Đức Chúa, Đấng trừng phạt dân Ngài, nhưng không quên họ và yêu thương họ, là một Thiên Chúa chí công vô tư: Ngài biết “phân xử giữa chiên và chiên, giữa dê và cừu”. Đây là hình ảnh mà thánh Mát-thêu lấy lại trong Tin Mừng về Ngày Chung Thẩm: chính trên những tiêu chuẩn tình yêu này mà vị Vua Mục Tử tuyên án.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 20-26, 28)
Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô, được thánh Phao-lô loan báo Tin Mừng, đa số là người gốc Hy-lạp, ngay cả những người không phải gốc Hy lạp cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Việc kẻ chết sống lại đặt ra cho họ một vấn nạn. Tại sao thân xác vốn ngăn trở linh hồn lại được thăng hoa cách viên mãn, vốn ngục tù giam hãm linh hồn lại được sống lại?
Đối với tư tưởng Do thái quan niệm con người như toàn thể, việc kẻ chết sống lại được cắm rễ trong một niềm tin truyền thống từ nhiều thế kỷ. Thánh nhân dành phần kết của bức thư để trả lời cho những biện bác mà cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô nêu lên.
- Một sự liên đới giữa sự phục sinh của Đức Giê-su và sự phục sinh của chúng ta
“Đức Giê-su đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu”. Chúng ta đều phải chết vì thân phận tội lỗi của chúng ta, liên đới với sự chết và tội lỗi ở nơi A-đam, nhưng được sống lại nhờ liên đới với Đức Ki-tô, Ngài là Đầu của toàn thể nhân loại được tái sinh, Trưởng Tử của đoàn người đông đúc được sống lại. Theo Ngài và nơi Ngài toàn thể con người của chúng ta được cứu.
- Vương quyền của Đức Giê-su
Lúc đó, thánh nhân triển khai tư tưởng của mình trong một thị kiến vĩ đại về ngày chung cuộc. Sau khi đã tiêu diệt dứt khoát mọi thế lực Ác Thần và cuối cùng là Tử Thần, Chúa Con sẽ trao lại cho Chúa Cha vương quyền mà Ngài đã được trao ban. Như vậy mọi sự đều hoàn tất. Sứ mạng của Chúa Con được chu toàn. Lúc đó, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
TIN MỪNG (Mt 25: 31-46)
Năm phụng vụ hoàn tất trên thị kiến vĩ đại mà truyền thống Ki-tô giáo gọi “Ngày Chung Thẩm”. Thị kiến này đóng lại bài diễn từ cánh chung, trong đó Đức Giê-su gợi lên những viễn cảnh nối tiếp nhau về ngày cùng tận của thế giới và ơn cứu độ của mỗi người.
- Con Người
Bức tranh được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: Con Người ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho Người “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Đn 7: 13-14).
Ngai vinh hiển, sự hiện diện của các thiên thần vào ngày chung thẩm, là những nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ và các tác giả khải huyền. Nhưng hoạt cảnh được soi sáng chủ yếu bởi thuật ngữ “Con Người” được đặt ở đầu. Tước vị “Con Người” theo nguyên ngữ: “con của loài người”. Đây là diễn ngữ Kinh Thánh được gặp thấy trong sách Ê-dê-ki-en, đồng nghĩa với “một phàm nhân”: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây” (Ed 2: 1). Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” là một nhân vật có nguồn gốc thiên giới, nhưng không kém phàm nhân.
Như vậy, Đức Vua, được gọi “Con Người”, giáng trần để xét xử trần gian nhắc nhớ, trước tiên Ngài cùng chia sẻ nhân tính của chúng ta. Nét đặc trưng này ngự trị toàn bộ hoạt cảnh: Vua -Thẩm Phán muốn liên đới với anh em đồng loại của mình, đặc biệt những kẻ nghèo khổ thua thiệt và bênh vực họ, đến độ Ngài tự đồng hoá mình với họ.
Cựu Ước thường hằng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía những kẻ thấp cổ bé miệng bị áp bức thua thiệt. Chính Ngài đích thân đảm nhận việc báo oán cho họ. Trong Xuất Hành, Thiên Chúa một cách nào đó tự đồng hoá mình với những người khốn khổ, bị áp bức (Xh 2: 23-25). Sách Gióp mô tả những nguyên do Thiên Chúa trừng phạt nhân danh công lý theo những từ ngữ loan báo Tin Mừng:
“Anh đòi anh em nộp của cầm mà chẳng có lý do,
lại còn lột cả áo che thân của họ.
Kẻ mệt nhoài, anh chẳng cho nước uống,
người đói lả, anh từ chối bánh ăn.
Anh trao đất đai cho kẻ có quyền hành,
và cho người thần thế được định cư.
Các quả phụ, anh đuổi về tay trắng,
các cô nhi, anh bắt phải bó tay.
Vì thế, cạm bẫy bủa vây anh tứ phía
làm cho anh bất chợt phải sợ hãi kinh hoàng” (G 22: 6-11).
- Mến Chúa và yêu người
Nét tiêu biểu của Ki-tô giáo đó là “Mến Chúa và yêu người là một”. Nhưng ai có thể công bố “mến Chúa và yêu người là một”, nếu không là Đấng hiệp nhất ở nơi Ngài Thiên Chúa và nhân loại chúng ta?
Trong hoạt cảnh Ngày Chung Thẩm, việc chọn lựa giữa những người công chính và quân vô đạo được thực hiện trên tiêu chuẩn tình yêu, minh họa hùng hồn nhất nét tiêu biểu của Ki-tô giáo: “Mỗi lần các ngươi làm hay không làm như thế cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm hay không làm cho chính Ta vậy”.
- Bối cảnh lịch sử
Được đặt vào trong bối cảnh lịch sử của nó, đoạn Tin Mừng này đã có thể có âm vang ngay tức thời. Đức Giê-su đã từng gọi các môn đệ Ngài là những “kẻ bé nhỏ” (Mt 10: 42) hay “anh em Thầy” (Ga 20: 17). Vào lúc thánh Mát-thêu ghi lại đoạn văn này, những người Kitô hữu đang phải sống trong cảnh bị bách hại, chịu những gian truân tứ phía, bị tù đày. Đức Giê-su dự phần vào những nỗi truân chuyên của họ. Không phải chính trên đường Đa-mát Đức Giê-su đã nói với Phao-lô, kẻ bách hại các tín hữu của Ngài: “Tại sao ngươi bách hại Ta?” (Cv 9: 4) sao? Chắc chắn đoạn Tin Mừng hôm nay đã đem đến một niềm an ủi lớn lao biết là ngần nào cho những người Ki-tô hữu đang sống trong cảnh bách hại và cho những ai giúp đỡ họ hay gia đình của họ. Tuy nhiên, bản văn có một tầm mức hoàn vũ hơn nhiều.
- Tầm mức hoàn vũ
“Các dân thiên hạ sẽ tụ họp trước mặt Người”. Vị Vua-Thẩm Phán ngỏ lời với hết mọi người. Đức Giê-su đã lật đổ những viễn cảnh của sách Lê-vi, theo đó yêu người thân cận chỉ giới hạn ở nơi đồng bào của mình, để công bố chiều kích “tứ hải giai huynh đệ” của Luật Đức Ái. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái khẳng định rằng Đức Giê-su đã trở nên anh em của tất cả mọi người: “Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa… Thật vậy, Đấng thánh hóa là Đức Giê-su, và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em…” (Dt 2: 9-17). Hơn nữa, chính Đức Giê-su đã công bố: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 50).
Đức Giê-su nối kết diễn từ “Cánh Chung” với diễn từ “Các Mối Phúc Thật”, đồng thời đem đến một khía cạnh mới mẽ. Ngài mở rộng sự tuyển chọn của Thiên Chúa ở bên kia Ki-tô giáo nói riêng. Tất cả những ai thực hành Đức Ái huynh đệ sẽ được định vị trong tinh thần của Đức Ki-tô: họ sẽ nhận được gia sản và dự phần vào những lời chúc phúc của Chúa Cha.
Đây là ân ban trực tiếp của mầu nhiệm Nhập Thể. Cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời không là một giai đoạn tạm thời: Thiên Chúa tháp nhập vĩnh viễn vào nhân loại, và qua nhân loại, Ngài cho chúng ta được tháp nhập vào Ngài.
VỊ THẨM PHÁN NHÂN TỪ VÀ CÔNG MINH
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Quyền lực là một cám dỗ có ma lực ghê gớm đối với con người ở mọi thời đại, vì nó đem cho người ta nhiều bổng lộc, giúp họ vinh thân phì gia. Trong xã hội Việt Nam của chúng ta, những tham vọng quyền lực đã và đang làm nghèo đất nước và gây bức xúc cho người dân. Nhiều người tìm cách đút lót hối lộ để được vào guồng máy lãnh đạo của nhà nước, thậm chí vào Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của một quốc gia (Thông tin trên một số trang mạng điện tử, trong đó có BBC, cho thấy bà Châu Thị Thu Nga khai đã đút lót 30 tỷ để được làm đại biểu Quốc hội). Trong bối cảnh này, tôn vinh Đức Giêsu với tước hiệu “Vua” dễ làm cho người đương thời hiểu sai về sứ vụ của Người. Chính Chúa đã nói với quan Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Đức Giêsu là Vua vũ trụ, nhưng là vị Vua đến để phục vụ con người và đem cho họ sự sống, niềm vui và hạnh phúc. Là Thiên Chúa quyền năng, Đức Giêsu cũng là vị thẩm phán nhân từ và công minh. Người sẽ xét xử nhân loại về hành vi và đời sống của họ, vào lúc tận cùng của thời gian.
Vị thẩm phán này không chỉ xuất hiện vào thời tận thế, nhưng Người luôn đồng hành với con người trong hành trình dương thế. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên để diễn tả sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với Dân riêng Ngài đã chọn. Những chi tiết được nêu giúp chúng ta liên tưởng đến hình ảnh của một người mẹ, luôn hiểu thấu tình trạng của mỗi người con trong những đứa con của mình. Chúa Giêsu đến trần gian đã thực hiện những gì Cựu ước đã loan báo. Người tuyên bố, Người là Mục tử nhân lành. Người chăm sóc các tội nhân, chữa lành những người bệnh, giúp những người bị gạt ra bên lề trở lại hòa nhập cuộc sống xã hội. Không một con chiên nào bị quên lãng hay bỏ rơi, dù là những con chiên bệnh tật còm cõi. Người mục tử còn cất công lặn lội đi tìm những con chiên bị lạc. Ông vui niềm vui của đoàn chiên, ưu tư trăn trở khi thấy lợi ích của đàn chiên bị đe dọa. Chúa Giêsu đã thể hiện vương quyền của người không phải để thống trị, nhưng để yêu thương và phục vụ con người. Chúa cũng khẳng định: Người không đến trần gian để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình để cứu rỗi con người. Trọn vẹn cuộc sống và nhất là cái chết của Chúa trên thập giá đã chứng minh điều đó. Chúa chấp nhận sự chết để cho con người được sống. Người chấp nhận đau khổ để con người được hạnh phúc. Đó là vương quyền đích thực của Người. Vương quyền này, hoàn toàn khác với vương quyền thế gian.
Một cách đặc biệt, vương quyền của Đức Giêsu thể hiện qua cuộc phán xét cuối cùng, hay còn gọi là phán xét chung. Đó là ngày tận thế, khi vũ trụ này sẽ qua đi, nhường chỗ cho trời mới đất mới. Lúc đó, hậu vận tương lai của mỗi người cũng được quyết định. Chính Chúa Giêsu đã diễn tả cuộc phán xét chung, với những chi tiết cụ thể và dễ hiểu. Hình ảnh cuộc phán xét chung cũng là câu trả lời cho biết bao vấn nạn được đặt ra về sự công bằng, về đời sống thánh hiện hoặc gian ác, về sự sống bên kia sự chết. Vị Vua của ngày phán xét chung là vị thẩm phán nhân từ nhưng cũng rất công minh. Người sẽ dựa vào thái độ của mỗi người đối với người nghèo mà quyết định tương lai hậu vận của họ. Tác giả Tin Mừng nói đến sự ngạc nhiên của những người có mặt trong phiên tòa, cả những người tốt cũng như người xấu, khi họ thấy Chúa tự đồng hóa mình với những người đói khát, trần trụi, tù đày, đau yếu, cơ nhỡ… Thì ra ai giúp người nghèo là giúp Chúa. Ai bỏ rơi người nghèo là bỏ rơi Chúa. Trong ngày phán xét chung, không thấy vị Vua đề cập tới những chức tước, địa vị đạo đời của chúng ta hoặc những công lao lẫy lừng chúng ta đã làm khi sinh thời, nhưng Người nhấn mạnh đến cách chúng ta đối xử với anh chị em mình.
Người tín hữu sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Họ là công dân của một vương quốc vĩnh cửu. Vương quốc ấy đang hiện diện trên thế gian như “vương quốc của Tình yêu, vương quốc của Sự thật”. Vương quốc ấy sẽ tỏ hiện hoàn toàn khi mọi sự được đặt dưới chân Chúa Giêsu là Vua muôn loài (Bài đọc II).
Là người tín hữu, chúng ta thuộc về đàn chiên của Chúa. Đây là một trong những hình ảnh thường được dùng để diễn tả Giáo Hội. Tuy vậy, so sánh nào cũng khập khiễng. Hình ảnh “con chiên” dễ gây hiểu lầm, vừa coi giáo dân như những người mù quáng mê muội phục quyền, vừa tạo cho người tín hữu lối sống thụ động, thiếu cộng tác tích cực trong việc xây dựng và điều hành cộng đoàn. Ơn gọi Kitô hữu trao trách nhiệm cho chúng ta cộng tác phần mình làm cho vương quyền của Đức Kitô lan tỏa trên thế gian này.
Sống trên đời, đừng quên sẽ có ngày phải đứng trước tòa phán xét. Hình ảnh phán xét sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn, để không phải hổ thẹn, và nhất là không bị kết án trầm luân trước vị Thẩm phán nhân từ và công minh là Chúa Giêsu, Đấng Cứu độ chúng ta.
.
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.
Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt. Không có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.
Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.
Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới. Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ thiết lập một vươn quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.
Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất. Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.
Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để làm.
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng cho thấy những sự thật nào?
2- Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không?
3- Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không?
4- Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Tước hiệu Chúa Kitô là Vua được được thánh Gioan diễn tả khi Chúa Giêsu xác nhận danh tánh Ngài trước mặt Philatô khi Ông này cứ gạn hỏi Chúa :” Vậy Ông là Vua sao ? “ ( Ga 19, 37 ). Đức Giêsu đáp :” Chính Ngài nói rằng tôi là Vua.Tôi đã sinh ra và đến thế gian vì điều này : đó là để làm chứng cho sự thật.Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi “ ( Ga 19. 37 ). Hôm nay, mừng lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ, chúng ta chiêm ngưỡng Vị Vua Trời Đất đã sống hiền lành và khiêm nhượng. Vị Vua khiêm nhu đã cưỡi lừa đi vào Giêrusalem để chịu chết theo ý Thiên Chúa Cha.
Philatô thực tế đã nghe nói về Chúa Giêsu rất nhiều.Ông cảm phục Chúa vì nghe thiên hạ, dân chúng nói về những điều kỳ diệu, tính hiền lành, khiêm nhường của Ngài, do đó, Ông rất ngạc nhiên khi người ta vu cáo Chúa, tuy nhiên vì hèn yếu, vì danh vọng, vì sợ mất ngôi, Ông đã không dám can thiệp, tha cho Chúa dù Ông được Ngài xác định :” Nước của Chúa không thuộc thế gian này “ và chức vị Vua của Chúa cũng chỉ là chức vị thiêng liêng, thuộc thiên giới chứ không thuộc hạ giới. Vua là Vua thiêng liêng. Philatô đã dựa vào những lời tố cáo của dân cho rằng Chúa tự xưng là Vua theo nghĩa chính trị. Và chỉ có nghĩa này, dân chúng và Philatô mới có thể bắt giữ Chúa Giêsu, kết án Chúa Giêsu mà thôi. Mặc dầu Chúa Giêsu đã hai lần quả quyết “ Nước tôi không thuộc thế gian này “ và Ngài còn nhấn mạnh :” Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái “ ( Ga 18, 36 ). Khi nói lên điều đó, Chúa Giêsu muốn cho Philatô hiểu :” Quan tổng trấn đừng sợ “. Chúa không dành giật chức vị của ai vì Chúa đến để “ Phục vụ chứ không phải được phục vụ, được hầu hạ “.
Theo thánh Gioan:” Nước Thiên Chúa không thuộc thế gian mà thuộc thiên giới. Nước của Chúa hoàn toàn thiêng liêng, không thuộc xác thịt mà thuộc thần khí. Chính vì thế. Chúa Giêsu xác định, quả quyết rằng Ngài không có gì đối kháng với đế quốc Roma. “ Của Cêsarê trả cho Cêsarê. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa “. Vương quyền của Thiên Chúa hoàn toàn linh thiêng. Chúa Giêsu không bao giờ lấn quyền, hay có ý chiếm quyền của Philatô hay các Vị lãnh đạo thế trần lúc đó ! Vương quốc của Chúa Giêsu đã được Ngài thiết lập ngay trên thập giá :” Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta “ ( Ga 12, 32 ). Chính trên thập giá, Ngài mới tỏ rõ uy quyền của Ngài là Vua. Chúa Giêsu là Vua hiền từ, khiêm nhượng, Vị Vua từ khước vinh quang trần thế, Vua hy sinh, tự hiến ( Philip 2, 1tt…).
Philatô biết rõ sự thật :” Chúa hoàn toàn vô tội “, nhưng Ông vẫn truyền đưa Chúa Giêsu đi và đánh đòn Người “ ( Ga 19, 1 ). Philatô cũng đã cho viết dòng chữ đóng trên thập giá :” Giêsu Nazarét, Vua dân Do Thái “ ( Ga 19, 19 ).
Ca nhập lễ lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ viết :” Con chiên đã bị giết.Nay xứng đáng lãnh nhận thần tính và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang. Kính dâng Người vinh dự và quyền năng đến muôn thuở muôn đời “ (Kh 5,12; 1, 6 ).
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ.Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi ken chúc tụng ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ ).
Đức Thánh Cha Pio XI đã thiết lập lễ mừng kính Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ hằng năm.
Gợi ý để chia sẻ :
1. Tại sao Philatô lại gạn hỏi :” Chúa Giêsu có phải là Vua không?”.
2. Tước hiệu Vua của Chúa Giêsu có nghĩa gì ?
3. Tại sao Philatô lại hỏi sự thật là gì ?
4. Vương quốc của Chúa Giêsu ở đâu ?
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Người là Vua Tình Yêu và là Chúa chúng ta. Vua của Vương Quốc Yêu Thương và An Bình. Hôm nay, Vị Vua ấy nói với chúng ta về cuộc phán xét tình yêu. Khi sử dụng ẩn dụ chiên – dê, Người cho chúng ta thấy rằng đây sẽ là cuộc phán xét về tình yêu.
Chỉ có tình yêu là điều đáng kể, nên thánh Ignatiô Loyola chiêm niệm để đạt được tình yêu, và ngài khuyên chúng ta cần phải đặt tình yêu vào trong lời nói và việc làm của mỗi người. Tin Mừng chỉ rõ, mỗi việc bác ái chúng ta làm, là làm cho chính Chúa: ” Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với” (Mt 25,34-36). Hơn nữa, “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40).
Cuộc phán xét tình yêu, đưa chúng ta trở về với thực tại chân đặt trên đất, đầu ngẩng lên nghe Chúa Kitô phán xét. Vương triều của Chúa Kitô rất khác với chuyên quyền trần thế, bởi tình yêu là tiếng nói cuối cùng còn tồn tại.
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ý nghĩa của vương quốc hay quyền lực là để phục vụ người khác. Người khẳng định rằng Người là Chúa, là Thầy (Ga 13,13), và là Vua (Ga18,37), nhưng Người đã thi hành chức năng Thầy của mình bằng cách rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,4 ), và trao ban mạng sống mình. Chúa là Vua cai trị bằng sự khiêm nhường nằm trong (máng cỏ!) và bước lên ngai vàng là Cây Thập Giá.
Trên Thánh Giá có một bảng chữ viết rằng : “Giêsu Nagiarét, Vua dân Do Thái” (Ga 19,19), cái bên ngoài khẳng định mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu cai trị trên cây Thánh Giá và phán xét chúng ta bằng tình yêu, như thánh Gioan Thánh Giá đã nói: “Anh chị em sẽ bị xét xử về tình Yêu“.
Câu hỏi được đặt ra : Vua Tình Yêu phán xét thế nào ? Khi Chúa Giêsu giáng lâm, tất cả mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt để Người xét xử. Tiêu chuẩn là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chính người tuyên án: “Mỗi lần các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho chính Ta” (Mt 25, 40.45). Vì thế, cái gì sẽ xảy ra cho những kẻ không những không cho kẻ đói ăn, mà còn cướp lương thực khỏi họ; không những không tiếp rước khách lạ, mà còn là nguyên nhân làm cho người khác trở nên khách lạ.
Chúng ta không thể chiếm lấy gia nghiệp nước trời đã chuẩn bị từ tạo tiên lập địa cho những ai phục vụ trong yêu thương. Chỉ người sống yêu thương mới có chỗ trong triều đại sự sống và chân lý, ân sủng và thánh thiện, công chính, yêu thương và an bình.
Ai trong chúng ta cũng muốn vào Vương Quốc ấy. Lời cầu nguyện Ca hiệp lễ kết thúc bằng lời cầu xin: “cho hết mọi loài thọ sinh (…) biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng“.
Để được vào, chúng ta phải phấn đấu. Nếu Đức Kitô Vua đã chiến đấu cho đến chết, thì các thần dân cũng phải chiến đấu. Vì thể chế xã hội loài người không muốn Đức Kitô cai trị trên họ nên họ chiến đấu chống lại Đức Kitô.
Nếu chúng ta là thần dân của Đức Kitô, chúng ta phải cầm vũ khí tốt để chiến đấu, vũ khí ấy là: tình yêu, chuyên cần cầu nguyện, siêng năng lãnh nhận các bí tích, sự chúc lành của Thiên Chúa chỉ cho chúng ta trước cuộc chiến đấu, biết chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa và của Đức Kitô trên mọi sức mạnh của sự dữ.
Chúng ta chỉ còn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Vua Kitô, sống trung thành với Người như những tôi tớ, can trường trong đức tinh, nhiệt thành trong đức mến, để một ngày kia, chúng ta có thể nghe Vua Kitô nói với chúng ta rằng : “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Mt 25, 34).
Chắc một điều là Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2Tim 4,8), thì Người sẽ là Ðấng Cứu độ và là vinh quang. Còn khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa trong ngày sau hết.
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, là Vua trên hết các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ. Xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn với cả tình yêu, nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, xin dâng Chúa quyền lực, vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Tình yêu quan trọng hơn bao giờ hết khi được trao vương quyền. Tình yêu đủ lớn, đủ mạnh, mới thấy được những điều cần thiết để kiến tạo cho những người được trao cho dưới quyền và cho một lãnh thổ an sinh, an vui, hạnh phúc. Rất khó có một tình yêu đủ lớn như vậy, nếu thiếu ý thức điều Chúa Giêsu nói với Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài.” (Ga 19, 11)
Một trái tim hiểu biết và yêu thương
Trong buổi tiếp kiến chung, Đức Giáo Hoàng Phan xi cô nói: “Khi con người không cảm thấy mình được yêu thương, thì họ có nguy cơ bị sa lầy vào “sự nô lệ gớm ghê” là tin rằng tình yêu chỉ dựa trên sắc diện bề ngoài hay khả năng xứng đáng. Hãy thử tưởng tượng xem trong một thế giới có tất cả mọi người đều nài xin cho có những lý do để thu hút sự chú ý của người khác, và không một ai muốn yêu một người khác cách nhưng không. Dường như đây là một thế giới của nhân lọai, nhưng thực ra đây là hỏa ngục.”.
Được hiểu biết và được yêu thương là nhu cầu của mọi người, đặc biệt những người chẳng được ai quan tâm. Để yêu thương đủ đã là một điều khó, vì yêu thương luôn quy về cái tôi của mình.
Tình yêu là tự đóng đinh.
Chúa Giêsu là mẫu gương cho tình yêu tự đóng đinh. Thánh Phaolô nói về tình yêu đó là một tình yêu tự hạ: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2, 6 – 7). Khiêm nhường là bài học cần luyện tập luôn, đó là một đức tính dẫn đường đến khôn ngoan, Wanter Scott viết: “Cái đầu tỉnh táo, trái tim trung thực, tinh thần khiêm nhường là ba người dẫn đường tốt nhất qua thời gian và cõi vĩnh hằng”.
Tình yêu chia sẻ
Hành vi tình yêu trao đi vì nhận biết mình là người “đến để phục vụ chứ không để được phục vụ” (Mt 20, 28). Con người sống với, sống cho và sống vì người khác. Khi đến trong trần gian này, mọi người đã thụ hưởng biết bao điều tốt đẹp do những người đi trước cống hiến. Chúa dạy: “Nhận nhưng không hãy trao đi nhưng không” (Mt 10, 8).
Tình yêu mời gọi sống thanh bần, (Ngày thế giới người nghèo)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi, một đời sống trở nên cho mọi người: “Chúng ta đừng quên rằng, đối với các môn đệ của Đức Ki-tô, thanh bần trước tiên là một ơn gọi theo Đức Giê-su nghèo. Đó là việc bước theo ngài và cùng với ngài, một hành trình dẫn đến hạnh phúc Nước Trời (x. Mt 5,3; Lc 6,20). Thanh bần có nghĩa là một con tim khiêm tốn biết đón nhận thân phận thụ tạo, giới hạn và tội lỗi của mình, để vượt thắng cám dỗ, một thứ cám dỗ cho rằng mình toàn năng và bất tử. Thanh bần là thái độ của tâm hồn ngăn cản ta nghĩ đến tiền bạc, con đường công danh sự nghiệp sang trọng như mục đích cuộc sống và là điều kiện để đạt được hạnh phúc. Đúng hơn chính thanh bần tạo ra những điều kiện để tự do, lãnh nhận trách nhiệm bản thân và xã hội, mặc dù mình có những giới hạn, tín thác vào sự gần gũi của Thiên Chúa và được ơn thánh của Chúa nâng đỡ. Hiểu theo nghĩa đó, thanh bần là thước đo giúp đánh giá và sử dụng đúng đắn những của cải vật chất và sống các liên hệ và tình cảm mà không ích kỷ và chiếm hữu (x. GLCG, các số 25-45).” (Thông điệp ngày thế giới người nghèo, số 5)
Vương quyền thiếu vắng tình yêu hướng về xây dượng công bình, bác ái, yêu thương là vương quyền của bạo lực, của sự dữ. Cần có tình yêu đích thực để thực thi vương quyền vì quyền được trao là để phục vụ và hiến dâng mạng sống như lời mời gọi của Chúa.
.
Anna Cỏ may
Mấy ai trong chúng ta thích làm người thấp bé bởi ai cũng muốn mình được người khác tôn trọng cả. Vì thế, hầu hết chúng ta đều có tham vọng được làm lớn.
Trong một lớp học, cô giáo hỏi học trò:
– Ước mơ của con là gì?
– Dạ, thưa cô, con muốn làm phi công. Con muốn làm bác sĩ. Con sẽ làm chú công an. Con sẽ làm ông vua.
Các học sinh thi nhau trả lời.
-Sao con lại thích làm ông vua?
Thưa cô, làm vua con sẽ có nhiều người hầu, có người bảo vệ, được ăn uống thỏa thích ạ. Con sẽ không bị ai ăn hiếp. Con muốn làm gì thì làm ạ.
Quả đúng như em học sinh nói. Ngày hôm nay, một ông vua chỉ có quyền hành trong một đất nước mà thôi. Có một vị vua luôn được thần dân ca tụng, ngợi khen, cảm tạ mỗi ngày, đó là Đức Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ. Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng dựng nên muôn loài. Ngài là vua nhưng luôn sống trong sự vâng phục Chúa Cha. Ngài từ bỏ ngai vàng, quyền bính xuống sống cùng nhân loại, Ngài mang lấy những gánh nặng và đau khổ của nhân loại, Ngài xoa dịu những đau khổ để mang tình yêu và niềm vui đến cho nhân loại. Danh hiệu vua dân Do Thái của Ngài được mọi người biết đến nhờ ba nhà đạo sĩ Phương Đông. Họ đã tìm đến Vua Hêrôđê và hỏi: “Đức Vua dân Do thái mới sinh hiện đang ở đâu” (Mt 2,2). Từ đó, tiếng Người được lan rộng. Qủa thực, một con người ngay trước mặt họ là người nghèo khổ, sinh ra trong một gia đình thất thế, thì làm sao dân chúng tin được đó là vua, dù Ngài đã làm nhiều phép lạ. Nhưng đều quan trọng là từ nơi nơi Ngài, mọi người đã tìm được hạnh phúc và tình yêu. Bởi vị Vua này chỉ hằng mong cho dân Người được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Ngài là Vua nhưng lại không ở trong lâu đài nguy nga; không mặc lụa là gấm vóc; không dùng quyền uy để ra lệnh. Trái lại, Ngài là vua của sự nghèo hèn và khiêm hạ. Ngoài Ngài ra, không có vị vua nào tuyệt vời hơn cả.
Vua thế gian ngày ngày ngồi trong cung, nghe những lời cáo kiện của muôn dân. Còn Vua Giêsu đi khắp đó đây, để hòa nhập vào cuộc sống của mỗi người. Người phán xét thật công minh, chân thật dựa vào công đức của mỗi người. Ngài cũng không thiên vị một ai, vì tất cả mỗi người là con cái của Ngài. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tách biệt chúng ta như đàn chiên và dê. Mọi người cũng sẽ bất ngờ về điều ngài nói (Mt 25,34 -36). Người sẽ làm những việc mà vua thế gian không làm được. Thánh Raymonđo Pênhapho đã nói với một tu sĩ khi nhà vua cấm mọi tàu thuyền không được phép chở ngài rằng: “Một vua trần thế cản đường, thì vua trên trời sẽ mở lối chúng ta đi”. Với niềm tin ấy, ngài đã cởi áo ngoài trải ra trên mặt biển, cắm cây gậy làm cột và cuốn một góc làm buồm mà đi. Thế là ngài đã cập bến an toàn. Cũng chính phép lạ ấy đã cải hóa được nhà vua trở lại với lương tâm. Vâng, Đức Giêsu, Ngài là vua vừa nghiêm khắc nhưng tràn đầy tình thương xót và luôn làm phép lạ cho những ai tin vào Ngài. Chúng ta hãy vui lên vì chúng ta có một Đức Vua tuyệt vời và luôn tuyệt vời.
Hoan hô Vua Kitô. Chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con hưởng vinh quang, niềm vui của Ngài. Xin Chúa hãy tiếp tục cho chúng con không ngừng làm công tử, công chúa và hiền thê của Ngài. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Xế chiều, cơn mưa bất ngờ chợt đến đùa nghịch với hàng cây bên đường. Dòng người cũng hối hả chạy xe thật nhanh để trở về nhà. Cây cối hồ hởi đón những hạt mưa mát rượi nhưng con người lại đang cố che thật kín để tránh mưa. Bên vỉa hè, có bà cụ quẩy gánh hàng rong đang vội vã bước thật nhanh cho hàng kẻo ướt. Đang vội vã nhưng vừa trông thấy một người ăn xin đang nép mình thu lu trong mái hiên của một quán nhỏ đã đóng cửa, bà ghé vào lấy từ trong gánh hàng của mình một bọc bánh nhỏ trao cho người ăn xin.
– Cám ơn bà!
– Ơn nghĩa gì. Có chút, bà ăn cho đỡ đói. Tôi nghèo nên cũng chỉ có bấy nhiêu thôi.
Hai người đàn bà cùng khổ nhìn nhau nở nụ cười hạnh phúc.
Trong cảnh khốn cùng, người ta thương nhau, chia sẻ cho nhau những gì mình có. Có lẽ, từ trong cái khổ của mình, phần nào người ta cũng hiểu được cái khổ của người khác?
Hôm nay, Thầy Giêsu cũng đề cao giá trị về lòng nhân ái của mỗi người đối với tha nhân. Trong ngày cánh chung, Thiên Chúa sẽ xét xử mỗi người không theo việc lạ họ đã làm nhưng theo lòng nhân ái họ đã dành cho tha nhân. Có những lần ta quan tâm tới người bên cạnh và thật sự ta đã nhận được niềm vui. Họ đã biết ơn ta, ta cũng muốn tiếp tục giúp đỡ họ. Nhìn thấy một em bé phải vất vả mưa sinh trong khi những bạn cùng trang lứa được tung tăng đến trường, ta cũng chạnh lòng. Ta mua cho em một tờ vé số. Có lần, ta đã bỏ tiền cho người hành khất bên vệ đường. Ta đã dìu một bà cụ qua đường. Nhiều lắm những lần ta đã giúp đỡ những người bên cạnh ta nhưng nhiều khi ta đâu ý thức rằng, họ là hình ảnh của Chúa. Ta đã giúp đỡ họ bởi con tim ta được thúc đẩy và lòng nhân ái trong ta không cho phép ta từ chối giúp đỡ họ.
Thế nhưng, cuộc sống vốn dĩ rất phức tạp. Chính trong bản thân ta cũng luôn có những sự giằng co giữa việc giúp đỡ người khác hay mặc kệ họ. Đã không ít lần ta phớt lờ, không giúp đỡ họ. Ta quá bận rộn với chính những nỗi bận tâm riêng. Làm sao có thời gian cho họ? Những khó khăn của họ có ảnh hưởng gì đến ta đâu. Ta cũng khổ quá rồi mà chẳng có ai quan tâm ta cả. Nghĩ đến bản thân, ta cũng đáng thương lắm chứ. Quả là niềm vui nhận được khi giúp đỡ một người cho ta một kinh nghiệm đáng quý nhưng đâu là động lực giúp ta tiếp tục nâng đỡ những người bên cạnh ta? Chỉ vì ích kỷ, ta đã không tra tay giúp đỡ họ khi có thể. Ta không ý thức rằng, chính họ là anh em của ta, họ là hình ảnh của Chúa. Chỉ khi nhận ra rằng, giúp đỡ họ cũng là làm cho chính Chúa thì ta mới đủ tình yêu để thực hiện những điều vượt quá giới hạn của con tim ta. Cũng chỉ vì ta không ở trong hoàn cảnh của họ, ta không hiểu được những gì họ phải trải qua, những khó khăn họ phải đối mặt. Nhiều khi ta đã khuyên răn họ nhiều điều vì muốn tốt cho họ nhưng lại chẳng giúp họ những gì họ thật sự cần thiết. Ta không lưu tâm đến họ nên không biết các nhu cầu của họ. Thật tội nghiệp, ta đã đẩy mình vào một ngõ cụt và chẳng thể ngờ, một ngày kia ta sẽ phải trả lẽ về những gì đã làm.
Vừa lên đến cầu thang, ta bắt gặp một người đang khiêng đồ nặng, ta cũng mệt quá rồi nên đi vội lên phòng. Nào ngờ, vừa mở cửa thì ta nghe có tiếng động dưới chân cầu thang. Chỉ vì ta không nhạy bén giúp người ấy một tay mà họ bị té. Nhìn xuống, ta thấy có người đang giúp nên lại thôi. Đêm về, nằm trên giường, mệt mỏi lắm nhưng ta chẳng thể nào chợp mắt được. Lời cứ vang vọng trong ta, chất vấn ta: “Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 45). Ta ước gì có thể trở lại ngay lúc ấy để giúp họ. Lòng ta hối hận. Ta tạ ơn Chúa đã cho ta có cơ hội để nhìn lại. Ta quyết tâm ngày mai sẽ mang lại niềm vui cho một người nào đó mà ta gặp. Ta sẽ ghé thăm người bạn lúc chiều bị té.
Có người bảo rằng: “Tôi tạo phúc thì tôi hưởng, ông ấy tạo nghiệp thì ông ấy khổ. Thế thôi.” Mới nghe qua, ta thấy cũng đúng nhưng ngẫm kỹ lại ta thấy có điều gì đó không ổn. Cái phúc và cái họa mà mỗi người tạo ra đều có thể ảnh hưởng đến người khác. Mỗi người là một cá thể độc lập nhưng lại chẳng hề đơn độc một mình. Bởi, tình liên đới đòi hỏi con người sống có trách nhiệm với nhau. Giống như lúc chiều, nếu ta nhanh chóng phụ người ấy một tay thì có thể họ đâu bị té. Khi ta giúp đỡ một người là ta mang lại niềm vui cho họ, ta quan tâm đến họ và tôn trọng họ. Dù là một người nghèo, họ cũng có những điều đáng quý trọng mà ta phải học hỏi.
Chúa Giêsu là Vua, một vị vua của Tình yêu. người đã bày tỏ vương quyền của mình bằng tình yêu dâng hiến, một vị vua khiêm nhường phục vụ, tự khiêm tự hạ. Ngài là mẫu gương cho muôn người trong muôn thế hệ. Là thần dân của Ngài, ta cũng phải sống tinh thần yêu thương tha nhân bằng một trái tim tự hiến, một tâm hồn biết khiêm nhường phục vụ. Vì đây là khả năng Chúa ban, nên ta hãy nài xin Chúa cho ta sống được tinh thần ấy.
Lạy Chúa! Chúa đã dạy con rằng, những người bên cạnh con, họ là anh em của con, hơn hết họ là hình ảnh của Chúa. Chúa vẫn mời gọi con yêu thương họ. Chúa biết rằng, khả năng yêu thương của con có giới hạn. Xin Chúa mỗi ngày đổ đầy tình yêu trong trái tim con để con có thể yêu cả những người mà con không ưa. Lạy Chúa, xin cho con luôn ý thức rằng, mỗi lần con làm một điều tốt lành cho những người bên cạnh là con đang làm cho chính Chúa, để đến ngày ra trước tòa Chúa, con cũng được chung phần hạnh phúc với Chúa. Amen.
.
TRONG VƯƠNG QUỐC VUA KITÔ
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Vua Vũ Trụ đã từng mong được người ta thương xót…
Khi đọc đoạn Tin Mừng về ‘cuộc phán xét chung’, ấn tượng đầu tiên mà tôi có là: đi đạo chẳng có ích gì, bởi vì khi ‘tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê’ thì Vua Vũ Trụ đâu có áp dụng tiêu chuẩn tôn giáo nào đâu; vì thế đi đạo hay không cũng như nhau thôi. Cũng vậy khi Người phán: ‘hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn’ thì đâu chỉ dành cho những người đã được rửa tội, những người năng lãnh nhận các phép bí tích! Tiêu chuẩn Người áp dụng có vẻ quá đời thường, quá nhân bản…, phần nào có vẻ quá thực dụng chủ nghĩa nữa là khác, đến độ cả anh chị em không Ki-tô hữu (non-Christians) cũng dễ dàng đạt được; đó là sống yêu thương, sống từ nhân với hết mọi người. Các Phật Tử chẳng hạn có lẽ còn thực thi ‘từ bi xả hỉ’ hơn cả người Công giáo, các đồng chí đồng đội ngoài chiến trường còn đùm bọc nhau keo sơn hơn cả các tu sĩ trong một cộng đoàn. Nếu đã như thế thì, làm Ki-tô hữu được Phúc Âm dạy bảo, được các Bí Tích đỡ nâng, được các luật lệ, luân lý chở che… thực tế sẽ mang lại lợi ích gì cho tôi trong ngày Đức Vua đến xét xử trần gian?
Ấn tượng tiếp theo là Đức Vua này quá chủ quan! Người xét xử không căn cứ theo một bộ luật nào mà Người đã ban hành, trong đó có cả luật ‘mến Chúa yêu người’ vẫn thường được coi là quan trọng hơn hết. Luật pháp phải khách quan, nhất là khi xét xử, để cứ theo đó mà áp dụng công bằng cho mọi người. Đàng này tiêu chuẩn Đức Vua dùng để xét xử lại chỉ qui hướng trực tiếp về cá nhân Người mà thôi: “vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đến hỏi han”. Khi đặt các lời trên vào miệng Quan Án, hình như Đức Giê-su muốn cho thấy: chính Đức Vua vinh quang từ lâu vẫn hằng chờ mong để được mọi người thương xót và gia ân. Như vậy, được chúc phúc hay bị nguyền rủa đều dựa trên một tiêu chuẩn chung nhất, đó là lòng nhân ái mà mỗi người có trong tương quan thuận hay nghịch với một Đức Vua hằng xót thương tha thứ, đồng thời chính Người cũng đang chờ đợi để được mọi người thương xót.
Nếu chập hai yếu tố trên lại với nhau, tôi mới thoáng phát hiện ra nét độc đáo và siêu việt của ơn gọi Ki-tô hữu, ơn gọi mà tôi đã được diễm phúc tiếp nhận! Nhiều người không phải là Ki-tô hữu, chưa hề biết gì về Đức Vua hằng thương xót và hay tha thứ, nhưng vô hình chung lại thường xuyên đi vào tương quan thuận với ‘vị Vua dấu mặt’ đang chờ đợi được xót thương: “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hay ngồi tù…?” Đức Giê-su cho thấy rõ, như thế là đã quá đủ để tạo một tương quan thuận với Thiên Chúa tình yêu và khao khát tình yêu; “Ta bảo thật: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Lúc này, tôi thành thực chúc mừng các anh chị em chưa được biết Chúa, vì thật may mắn cho anh chị em biết mấy! Nhưng, nếu anh chị chỉ mới giữ có một vế (làm mà không biết) mà đã được như thế, thì huống hồ chi Ki-tô hữu chúng tôi, nếu giữ được cả hai vế (làm và biết) thì thật còn may mắn biết bao; Ki-tô hữu chúng tôi mới là những người duy nhất trên trần gian này được diễm phúc có được cả hai vế ‘biết và làm’ để tiến vào tương quan cá vị sâu đậm nhất với Đức Vua xót thương và chờ đợi được thương xót. Nhờ đức tin, mà ngay từ ngày lãnh phép rửa tội, chúng tôi đã nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân ái và yêu thương; rồi trong suốt quá trình sống đời Ki-tô hữu, nhất là khi lãnh nhận các Bí Tích, đặc biệt bí tích Hòa Giải, chúng tôi đã có không biết bao nhiêu là dịp để cảm nghiệm được lòng từ ái của Đức Vua; Lời của Vua hằng thôi thúc chúng tôi diễn đạt tương quan với Người bằng đời sống bác ái, yêu thương và phục vụ. Tiêu chuẩn sống của chúng tôi không còn là một điều luật khách quan ‘kính Chúa yêu người’, mà đã trở thành một tương quan nhân vị mới, cho dầu theo cách nói quen thuộc của người Do Thái, Đức Giê-su gọi đó là ‘Điều răn mới’, “là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Do đó không một ai trong chúng tôi sẽ còn dám lên tiếng: “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói…” vì chúng tôi đã có muôn ngàn dịp để nhận ra và cảm nghiệm Đức Vua yêu thương, cũng như chúng tôi thừa biết rằng: Đức Vua chúng tôi tôn thờ lại rất khao khát được hồi ân, được chúng tôi đáp lại bằng mến thương, đặc biệt qua các hành động nhân hậu đối với các người anh em. Do đó khi gặp lại Đức Vua quang lâm, các Ki-tô hữu chúng tôi sẽ phải là những người trước hết “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21:28), vì chúng tôi biết chắc rằng: mình đứng bên phải trong số các kẻ “được Cha Ta chúc phúc”.
Lạy Đức Vua Vũ Trụ, Vua tình yêu và xót thương, cảm tạ Đức Vua đã cho con cơ hội tuyệt vời để nhận biết con được Người thương xót, đồng thời Người cũng khao khát được con thương xót lại. Chớ gì chương trình sống Ki-tô của con chỉ đơn giản là nhận biết mình được xót thương để rồi cố gắng đáp trả bằng thương xót tha nhân. Xin cho mọi người, không phân biệt lương giáo, biết cùng nhau ban phát lòng xót thương Chúa hằng khao khát, nhờ chính các Ki-tô hữu chúng con nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, và nhắc nhở cho mọi người rằng: có một Đức Vua yêu mến và xót thương hết thảy mọi người, đang chờ nhận được lòng thương xót. A-men
.
Lm. Văn Hào
“Ngài sẽ ngồi trên ngai vinh hiển, như một mục tử” (Mt 25,31-32).
Những công trình nghệ thuật và văn chương cổ điển, như những bức họa của Michelangelo tại đền thờ Sixtine hay của họa sĩ Dante, rất cuốn hút người xem với những cảnh vẽ về ngày phán xét sau cùng. Sự pha trộn những nét tương phản được diễn tả rất sống động, như sự đối kháng giữa thiên thần và quỷ dữ, giữa lửa và mây, giữa những con người vui sướng vì được cứu thoát và những kẻ bị chúc dữ đầy khiếp sợ. Các bức họa muốn diễn bày ý tưởng, là trong ngày chung thẩm, người tốt lành sẽ được ân thưởng, và kẻ gian ác sẽ bị luận phạt. Các họa sĩ cũng mô tả chân dung của Đấng phán xử như một vị Vua uy lực, đấng sẽ ra phán quuyết tối hậu về số phận của mọi người, người tốt cũng như kẻ xấu. Những hình ảnh này chắc chắn làm an tâm những ai đang cố gắng sống ngay lành, tuy còn phải nỗ lực hoàn thiện, đồng thời cũng gợi nhắc những ai làm điều xấu phải cố gắng hoán cải để nên hoàn thiện hơn.
Hình ảnh một vị Vua thần thánh đầy uy quyền, công bố những phán quyết để xử phạt, hoàn toàn đối nghịch với hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương qua dáng dấp một vị mục tử nhân lành, mà bài đọc thứ nhất cũng như Thánh vịnh đáp ca hôm nay gợi tả. Dung mạo của Đấng Chăn Chiên nhân hậu luôn chăm sóc đoàn chiên, đi tìm kiếm các con chiên lạc, thu gom chúng về đàn để không bị tản mát, chữa trị những con bị đau yếu , dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi đầy ắp thức ăn bổ dưỡng, cho chúng thư thái nghỉ ngơi và được no khát nơi dòng suối trong – hoàn toàn đối nghịch với một Đấng uy quyền ngồi trên tòa cao ngất ngưởng để xét xử và ra những phán quyết nhằm nghiêm phạt. Trong Tin mừng Matthêu, nhiều lần Đức Giêsu đã nói với các môn đệ hãy bắt chước Ngài, sao chép lại tình yêu mục tử giống như Ngài. Ngài chạnh lòng thương cảm trước đám đông như bầy chiên lang thang không người chăn dắt (Mt 9,36). Ngài sai các môn đệ đi “tìm các con chiên lạc nhà Israel (10,6). Ngài cũng khuyến mời các học trò hãy thực hành giống như Ngài, một người chăn chiên liều lĩnh, đã bỏ lại 99 con trên đồng vắng để đi kiếm tìm con chiên lạc mất (18, 10-14).
Trong trình thuật Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu dung hòa cả hai chiều kích xem ra có vẻ đối nghịch này, để khải thị chủ đề về cánh chung. Một đàng, là vào giờ phút chung thẩm sau hết, sự chọn lựa cuộc sống nơi mỗi người chúng ta mang tính chất quyết định và không thể thay đổi. Đàng khác, Đức Giêsu, đấng ngồi trên ngai phán xử lại là một Người Chăn Chiên giàu lòng nhân hậu. Đức Giêsu vừa là một Vị Vua uy quyền, ngự trên ngai tòa cao sang, nắm trong tay toàn quyền sinh sát trên tất cả sinh linh, đồng thời, Ngài cũng là một mục tử hiền lành, rất mực bao dung và đầy lòng thương xót. Hình ảnh sống động nhất nơi dụ ngôn không phải là dung mạo một ông vua với vinh quang chói sáng theo quan điểm trần gian, nhưng là một Đức Vua cao cả được đồng hóa với khuôn mặt của những con người cùng khổ đang đói, đang khát, đang lang thang nơi đầu đường xó chợ, đang rét mướt trần trụi không manh áo che thân, đang quằn quại bi thương trong bệnh hoạn hay đang bị giam giữ chốn lao tù. Những con người khốn khổ này được đồng hóa với chính Đức Giêsu. Điệp khúc đó được lập đi lập lại bốn lần trong câu truyện dụ ngôn, như muốn làm vang lên những tiếng thét gào ai oán của những người khốn khổ nhất. Họ giống như những con chiên thương tích và ốm yếu trong đàn đang cần được chăm sóc. Những học trò của Đức Giêsu khi thực hành giáo huấn này, biết bày tỏ lòng thương cảm đến các cận nhân chung quanh, chính là họ đang hiển thị dung mạo yêu thương của Đức Giêsu – Vua Mục Tử, một cách rõ nét nhất.
Trong Tin Mừng Gioan, quyền uy của Đấng chăn chiên hiện lộ trong việc kết hợp thân tình giữa chủ chăn và đoàn chiên (10,14), khi người mục tử biết từng con chiên(10,3), và người chăn chiên hy sinh ngay cả mạng sống mình cho đoàn chiên (10,11). Đây là uy quyền được diễn bày bằng tình yêu, một thứ uy quyền được sẻ chia, được trao ban để đi vào lòng người, chứ không phải là một thứ uy lực đứng ngạo nghễ trên cao, chỉ để công bố những phán quyết trừng phạt cách nghiêm khắc.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cảnh báo chúng ta. Đương nhiên, chúng ta không khiếp sợ trước một vị vua oai phong nghiêm trị các thần dân khi chúng ta sao lãng bổn phận do lơ là hay yếu đuối. Nhưng những ai vẫn ngoan cố đóng khép lòng mình lại, chối từ lòng thương xót của Đấng Chăn Chiên nhân hậu, chính họ đã tự chuốc lấy án phạt cho chính mình.
Mỗi người chúng ta có tự do để chọn lựa số phận muôn đời. Sự định đoạt đó tùy vào thái độ chúng ta hôm nay có biết đón nhận hay khước từ tình yêu của Vị Chăn Chiên nhân hậu, đấng luôn yêu thương và muốn cứu độ chúng ta.
.
Lm Carolo
- Vấn đề của câu 32: “Hết mọi dân”
Ít ra có hai lối giải thích câu này:
1/ Đây là tất cả mọi dân trên thế giới (Trilling, Feuillet, Jeremias, J.Broer…).
2/ Đây chỉ là những dân tộc nào đã được loan báo Tin Mừng và đã thành Kitô hữu. (J.R. Michaels, A.Descamps…).
Lối giải thích 1 hợp lý hơn, vì thuật ngữ ta ethuê mà Mt quen dùng có nghĩa là tất cả mọi dân tộc. Chẳng hạn hãy xem Mt 4,15 6,32 24,9-14 28,19. Các Tin Mừng nhất lãm khác cũng dùng thuật ngữ này với ý nghĩa đó, xem Mc 13,10; Lc 24,27…
Có phải những dân ấy đã được loan báo Tin Mừng hết chăng? Một số nhà chú giải nghĩ như vậy, vì họ đưa vào Mt 24,14 “Tin Mừng Nước Chúa sẽ được loan báo khắp thế gian… rồi khi ấy mới là ngày cung tận”. Légasse dựa vào câu trên nên cho rằng tới ngày chung thẩm thì tất cả mọi dân tộc đã được loan báo Tin Mừng. tuy nhiên Mt không có ý nói thế, Mt chỉ có ý nói rằng Tin Mừng được loan báo khắp nơi thôi. Do đó dù cho tất cả mọi dân đều đã được loan báo Tin mừng, nhưng không nhất thiết từng người được nghe Tin Mừng. Vì thế có thể là tới ngày chung thẩm, dân tộc nào cũng có những người đã nghe Tin Mừng và cũng còn nhiều người chưa nghe.
- Vấn đề của câu 40: Những kẻ bé mọn
1- Nhiều nhà chú giải cho rằng “Những kẻ bé mọn” là các môn đệ của Đức Kitô, hay rỏ hơn nữa, đí là “những môn đệ có sứ mạng rao giảng Tin Mừng”; Họ nghĩ như xậy vì những lý do sau:
a/ Trong Tin Mừng Mt mỗi lần nói tới “Những kẻ bé mọn” thì đều có nghĩa là các môn đệ
b/ Mt (không giống như Lc) không mấy quan tâm đến những người nghèo nàn khổ sở, do đó không nên hiểu thuật ngữ trên ám chỉ giới nghèo khổ.
c/ Giả sử thuật ngữ “hết mọi dân” có nghĩa là những dân đã được nghe Tin Mừngm thì phải hiểu “những kẻ bé mọn” là những môn đệ rao giảng Tin Mừng ấy
d/ Trong Mt 10,42, Đức Giêsu xem sự đón tiếp dành cho các môn đệ cũng là dành cho chính Ngài.
2- Nhưng nhiều nhà chú giải khác muốn hiểu “những kẻ bé mọn” là nói chung về tất cả những người lâm cảnh nghèo khổ. Họ trả lời cho những lập luận của nhóm một ở trên như sau:
a) Đành rằng Mt thường dùng thuật ngữ này đẻ chỉ các môn đệ. Nhưng tất cả đền trong những huấn từ Đức Giêsu nói trực tiếp với các môn đệ.
b) Hẳn nhiên là Mt không quan tâm như Lc đối với những người nghèo khổ. Nhưng như thế không có nghĩa là Mt hoàn toàn bỏ quên họ đến nỗi không có lần nào nói tới họ. Ngoài ra cần nhớ rằng Lc viết cho lương dân nên phải nhấn mạnh tới những việc phục vụ người nghèo khổ, cìn Mt viết cho người do thái vốn đã được chỉ dạy giúp đỡ người nghèo khổ rồi, không cần lập lại nhiều. (Hãy xem những giáo huấn của các ngôn sứ).
c) Về lạp luận (c) trước tiên phải chứng minh thuật ngữ “hết mọi dân” là những dân đã nghe Tin Mừng, rồi sau đó mới suy ra “những kẻ bé mọn” là các môn đệ được. Mà như đã trình bày ở phần I, ta kông thể hiểu “hết mọi dân” chỉ là những dân được nghe Tin Mừng.
d) Trong Mt 10,42 Đức Giêsu có đồng hóa “những kẻ bé mọn” với các môn đệ Ngài, nhưng cũng có thêm “trong tư cách họ là môn đệ”. Cũng thế trong Mt 18,5 Ngài nói đến việc tiếp rước “những kẻ bé mọn” “vì Danh Thầy”. Còn trong dụ ngôn ngày chung thẩm, không có thêm những chữ như trên.
Ngoài ra còn vấn nạn này nữa: Nếu Đức Kitô đang phán xét các dân về thái độ họ tiếp rước các môn đệ, tại sao Ngài chỉ dựa vào tiêu chuẩn vật chất, mà lại không theo các tiêu chuẩn khác hợp lý hơn, chẳng hạn có lắng nghe Lời Giảng hay không, có đức tin không, có nhận Phép Rửa không?
Thêm một vấn nạn nữa: Nếu xem “những kẻ bé mọn” là tất cả mọi người khốn khổ, bất kỳ họ có là môn đệ Đức Giêsu hay không thì cuộc phán xét của Đức Giêsu mới hợp lý. Tất cả những ai (môn đệ Đức Giêsu hay không) nếu gặp một người khốn khổ (môn đệ hay không) mà rat ay cứu giúp thì sẽ được thưởng, còn ngược lại thì sẽ bị phạt. Có như vậy mới là chung thẩm, nghĩ là cuộc phán xét tất cả mọi người.
- Các chi tiết khác
c 32 – “Tách chiên ra khỏi dê”: ở Palestina các mục tử dẫn một đoàn trong đó có chiên và dê lẫn lộn nhau. Đến tối họ mới tách riêng ra. Lý do là chiên thì quý hơn, tách riêng để coi chừng cẩn thận hơn; hơn nữa, chiên có nhiều lông nên để riêng, dê ít lông phải để riêng ở chỗ ấm áp hơn.
c 37 – Không phải những người lành đã quên những sự giúp đỡ đối với kẻ khốn khổ mà thực là họ không biết rằng kẻ khốn khổ là hiện thân của Đức Giêsu Kitô. Ý nghĩa trọn vẹn của việc lành họ làm chỉ được hiện rõ vào giờ cuối cùng, Tư tưởng này phù hợp với quan điểm chung của Mt (Mt 6,4: “Còn ngươi, Đấng thấu suốt cõi thầm kín sẽ trả công cho ngươi”).
40-45 – hãy chú ý động từ làm được xử dụng 4 lần. Đức Giêsu nói bằng tiếng Aram. Động từ “abad” vừa có nghĩa là làm, vừa có nghĩa phục vụ (faire – servir)
c 46 – Trong văn chương khải huyền do thái, hình phạt được dành cho những dân ngoại, những kẻ thù của Israel. Cón ở đây hình phạt khủng khiếp được dành cho những người không thể hiện lòng bác ái yêu thương. Đây cũng phù hợp với quan niệm chung của Mt (xem các chương 24-25).
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa Nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu, Vua tình yêu.
1. Ngọn núi Corcovado và núi Tao Phùng
Dịp Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Rio Brazil, tôi đi hành hương lên ngọn núi Corcovado cao 704m, kính viếng bức tượng Cristo Redentor – Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế Vua dang tay đứng trên đỉnh núi cao.
Có loại xe lửa nhỏ khoảng 30 chỗ ngồi đưa du khách lên núi theo đường ray. Cũng có một đường xe hơi chạy lên núi theo hình xoắn ốc, đây cũng là đường bộ cho những ai thích leo núi.Năm 1985, Francisco Passos và Tegesra Suris xây dựng tuyến đường sắt thông đến núi Corcovado.
Lên đến trạm cuối, chúng tôi đi thang máy lên chỉ cách đỉnh núi khoảng 100m và tiếp tục đi bộ khoảng 120 bậc thang là đến chân tượng Chúa.
Từ đỉnh cao phóng tầm mắt nhìn thành phố Rio de Janeiro tuyệt đẹp. Tôi dành nhiều thời giờ để ngắm trời mây cảnh vật và chụp hình lưu niệm; đặc biệt chiêm ngắm tượng Chúa Cứu Thế là một trong 7 kỳ quan mới của thế giới. Bức tương màu trắng thiên nhiên hướng nhìn về phía ngọn núi Zuckerhut – Sugarload.
Bức tượng Chúa Giêsu Vua là một đài kỷ niệm trên đỉnh ngọn núi Corcovado ở phía Nam thành phố. Bức tượng được dự định xây dựng để kỷ niệm 100 năm độc lập của nước Brazil do Kỹ sư kiến thiết Heitor da Silva Costa người Brazil phác họa vẽ mẫu. Bức tượng được khởi công thi hành năm 1922, nhưng gặp trở ngại vấn đề tài chánh nên việc thi hành kéo dài suốt 10 năm. Sau khi Tổng giáo phận Rio de Janeiro, Tòa Thánh Vatican và nước Pháp cùng trợ giúp cho dự án, công trình được hoàn thành, và khánh thành ngày 12.10.1931.
Bức tượng Chúa Giêsu cao 30 mét, chân đế cao 8 mét, đủ chỗ chứa cho 150 người vào trú ẩn trong tượng. Hai cánh tay Chúa Giêsu dang ra rộng 28 mét. Bức tượng nặng 1.145 tấn. Đầu và hai tay Chúa Giêsu do nhà điêu khắc người Pháp Paul Landowski làm ở Paris. Bức tượng làm bằng vật liệu bêtông cốt sắt theo từng phần ráp nối lại, và được kết bên ngoài bằng những viên đá dát theo kiểu Mosaic.
Năm 2006 dịp mừng kỷ niệm bức tượng được 75 năm, Giáo Hội đã chính thức nâng nơi đây thành nơi hành hương kính viếng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế.
Đứng nơi ngọn núi Corcovado, tôi nhớ đến Tượng Kitô Vua (Tao Phùng) ở Vũng tàu. Với chiều dài 500m đi lên khoảng 1.000 bậc thang. Tượng được xây dựng 1974, do điêu khắc gia Văn Nhân và 50 thợ lành nghề thực hiện. Tượng có chiều cao 32 mét, chiều dài hai cánh tay là 18,4 mét; được đặt trên bệ khối chạm hình Tiệc ly. Bên trong tượng là cầu thang xoắn ốc gồm 133 bậc, chạy từ bệ lên cổ tượng. Trong lòng tượng có thể chứa 100 người cùng một lúc. So với tượng Kitô Vua ở Rio de Janeiro ở Brazil thì tượng ở Vũng Tàu cao hơn 2 mét.Tượng Chúa ở Brazil đứng trên đỉnh núi Corcovado cao hơn 704 mét so với mực nước biển, còn tượng Chúa ở Vũng Tàu đứng trên độ cao hơn 170 mét của núi Nhỏ. Bệ tượng ở Brazil cao 8 mét, còn bệ tượng ở Vũng Tàu chỉ cao 4 mét.
Núi Corcovado hay núi Tao Phùng, nơi Chúa Giêsu Vua giang đôi tay ôm trọn nhân loại trong tình thương cứu rỗi.Trái tim của Ngài mở ra để yêu thương mỗi người và mọi người, cánh tay của Ngài mở rộng để vươn đến mọi người. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp của người Mục Tử.
Chúa Giêsu là Vua Mục Tử Nhân Lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I). Ngài tuyên bố : “Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”(Ga 10,10); “Ta đến để cho chiên Ta được sống và được sống dồi dào. Chính Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”. Vua Mục Tử thiết lập Vương Quốc Tình Thương. Vị Vua ấy đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ : “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc vương quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương. Vua Giêsu làm Thẩm phán xét xử mỗi người theo tiêu chuẩn của tình thương.
2. Vua Giêsu, vị Thẩm phán
Để diễn tả vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Matthêu (25,31-46), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gioan (18,33-37), một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng Luca (23,35-43) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai. Vua Giêsu tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Ngài không là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát con người khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của Ngài là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Ngài đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Vương quốc của Chúa Kitô Vua là vương quốc của tình yêu. Muốn vào vương quốc của Ngài, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự.
3. Đã làm gì và không làm gì cho tha nhân
Thánh Matthêu tường thuật quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử, mọi người tốt xấu, lành dữ đều có mặt và được xét xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để xét xử là tình yêu mỗi người thực hiện cho tha nhân.
Nội dung cuộc xét xử thật bất ngờ.Đấng Thẩm Phán chỉ xét hỏi người ta về tình thương. Một tình thương cụ thể được chứng tỏ bằng việc làm thiết thực đối với những con người bằng xương bằng thịt “Cho kẻ đói được ăn, cho kẻ được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ bơ vơ…”. Điều bất ngờ hơn nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm những điều ấy cho một kẻ bé nhỏ là các ngươi làm cho chính Ta”. Những người bị xét xử đều nhất loạt thắc mắc: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay là khách lạ đâu?”. Mặc cho người tốt kẽ xấu thắc mắc, lời Chúa dạy thật rõ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới hình thức nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa mình với họ. Vậy thì rõ ràng mọi việc chúng ta làm vì tình thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức.Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, việc làm chứ không phải lời nói hay cái gì khác quyết định chúng ta thuộc chiên hay dê.
Thánh Gioan Kim Khẩu dạy: đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa trong nhà thờ và Chúa ngoài nhà thờ, tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Đức Kitô hiện diện trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong mỗi một con người.
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, đã sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Ngôi Lời Thiên Chúa đã sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị chỉ trích lại trừ, bị hành hạ và chết treo trên Thập giá. Vì thế, Ngài đã kinh qua mọi khổ đau và cái chết trong thân phận con người, Ngài cảm thông với hết thảy mọi người. Chúa bảo rằng, những ai cho người đói khát một ly nước, một chén cơm là họ cho Chúa ăn uống. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo là họ đã cho Ngài mặc áo. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian là họ đã cho Chúa trọ nhà… Điều vĩ đại trong Phúc Âm về ngày Phán xét đó là giá trị những việc nhỏ bé hàng ngày của tình yêu thương. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi.
Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc công dân Nước Thiên Chúa.Tình yêu là “thẻ căn cước”của công dân Nước Trời. Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực và sống động. Việc bác ái là chứng chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc.
Nếu Chúa Giêsu chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng thống Bush: “Show, but don’t tell!”: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!
Trong ngày sau cùng, khi Vua Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá”. (Mt 7,24).
Lạy Chúa Giêsu, nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều mà Chúa đề cao: mỗi lần giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác…đó là chúng con làm cho chính Chúa, xin cho chúng con luôn biết thực hành đức ái trong đời sống hàng ngày. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Thẩm phán là người có quyền xét xử tại một phiên tòa, cũng gọi là quan tòa. Tại một số quốc gia, quyền hạn của thẩm phán được chia sẻ với bồi thẩm đoàn hoặc hội thẩm. Tòa án cũng có nhiều cấp khác nhau, cao nhất là tòa án tối cao.
Thiên Chúa Cha không xét xử ai, mà Ngài trao mọi quyền xét xử cho Thiên Chúa Con (x. Ga 5:22). Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã từng minh định với các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Chúa Giêsu là Vua của các vua, là Chúa của các chúa, nhưng Ngài không là Vua như người ta tưởng, bởi vì chính Ngài đã xác định với ông Philatô rằng Vương Quốc của Ngài không thuộc về thế gian này (x. Ga 18:36), tức là thuộc về Cõi Trời, nơi mà phàm nhân không hề biết, không phải như cung trăng hoặc một nơi xa lạ nào đó mà thiên văn học đã phát hiện.
Như chúng ta biết, xã hội trần gian được phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia. Trong mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ quốc gia. Tùy thời mà người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,… Các nước cộng sản gọi vị đó là Chủ Tịch. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo Hoàng.
Người ta có câu: “Quan nhất thời, dân vạn đại”. Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12:5; x. Mt 10:28). Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền trong tay: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11). Quyền xét xử của Philatô chỉ trong thời điểm đó, có quyền vì còn chức, tạm thời thôi.
Xét về từ ngữ và ý nghĩa, trong Hán tự có chữ 王 [wáng], nghĩa là vương (vua). Về chiết tự, ba “gạch ngang” tượng trưng cho Thiên – Nhân – Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng”, ý nói “vua là người nối kết trời, đất và con người”. Ý nghĩa thật thâm sâu, và với ý nghĩa này thì vua phải là người cao thượng, thế nhưng người ta thường lạm quyền thái quá. Chỉ là vua trần gian mà còn là “mối liên kết” như vậy thì huống chi Chúa Giêsu Kitô, Thiên Vương của vũ trụ.
Gần gũi với chữ 王 (vương) là chữ 主 [Zhǔ], nghĩa là “Chủ” hoặc “Chúa”, viết giống như chữ Vương nhưng có thêm “ngọn lửa” ở trên: Chúa cũng là vua nhưng có đức độ, gần gũi với con người, đốm lửa trên đầu Ngài là ánh sáng soi sáng cuộc đời chúng ta, thúc bách chúng ta đi theo Ngài, và đó là ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Hán tự là chữ tượng hình mà hàm súc thâm thúy quá!
Vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các thần dân. Thật là quá đỗi lạ lùng, Ngài là Vua của các vua và là Chúa của các chúa nhưng lại hoàn toàn trái ngược với các vua chúa trần gian, vì Ngài là Vua-đa-không: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,… Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Tại sao vậy? Câu trả lời được chính Chúa Giêsu xác định với Tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36). Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người” (Ga 5:22, 26-27).
NHÂN HẬU và KHIÊM NHƯỜNG
Vua chúa trần gian tự nhận là Thiên Tử, là Con Trời, hét ra lửa, và có trọn quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Khủng khiếp quá! Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài thản nhiên trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Vua Giêsu luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót, đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài đưa ra lời khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Là Thiên Vương và cũng là Thẩm Phán Tối Thượng nhưng Chúa Giêsu lại vô cùng hiền lành, nhân hậu, từ tâm. Ngài là Quan Tòa khiêm nhường và nhân ái.
Quả thật, chính Đức Chúa là Chúa Thượng đã tuyên phán: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt” (Ed 34:11-12). Ngay khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài vẫn đang hiện diện ở bên chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê” (Ed 34:15-17). Chắc chắn Ngài không “bỏ qua” bất cứ ai, đặc biệt là người nào càng bất hạnh thì càng được Ngài thương xót và chăm sóc nhiều hơn. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm kiếm cho được MỘT con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7).
Tìm kiếm trong số các vua chúa trần gian, nếu không là “hàng hiếm” thì cũng chẳng thấy nhiều người vì dân, vì nước, đích thân vi hành để biết dân tình ra sao. Mấy ai được như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa? Ông là vị vua thật tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo”, liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!”. Quan trên, quan dưới vô vàn – Ít quan thật tốt, nhiều quan tham tàn! Tuy ít nhưng có những người đáng nể phục là cố TT G.B. Ngô Đình Diệm, và một số tổng thống của Hoa Kỳ, đó là sự thật mang tính lịch sử, không thể chối cãi.
Cấp nào cũng đa dạng. Ở cấp thấp hơn cũng chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao nhiêu người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh mục, trong số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có thực sự tìm chiên lạc, chiên yếu, chiên bệnh, hay chỉ thân với chiên béo? Có chức nên có quyền, họ đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” tương tự như vậy, chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm!
Phải chân nhận rằng thực sự ấn tượng với Đức cố GM Jean Cassaigne (1895-1973), người ta thường thân thương gọi ngài là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục của GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân!
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! Cuộc sống thật nhiêu khê, biết nhiều thì khổ nhiều, thấy nhiều thì chán nhiều, nghe nhiều thì “nóng gáy” nhiều: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn; càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau” (Gv 1:18). Làm ngơ thì người ta nói mình “sợ”, nói ra thì người ta “không ưa”. Thẳng thắn sẽ “va chạm”, chỉ khổ mình, nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa” lắm. May mà có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Thánh Vịnh gia chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3). Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!
Cái gì cũng cần khổ luyện. Đức tin cũng vậy, phải được tôi luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường thì mới có thể dần dần trở nên “tinh ròng”, và lúc đó chúng ta mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (Tv 23:4-5). Thánh Vịnh gia chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:6). Hạnh phúc quá! Nhưng hạnh phúc đó không thể cứ sống tà tà mà có được. Vâng, Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản chất của Ngài là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), mà tình yêu là bất tử.
HẰNG HỮU và HẰNG SINH
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là Vua, là Đệ Nhất Thiên Vương, nhưng không phải là Phú Vương mà là Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, làm sao chúng ta có thể sống khác Ngài?
Và có điều đặc biệt: Chúa Giêsu LÀ Vua của người sống chứ KHÔNG LÀ Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen ghét “tới bến” và đã giết Ngài chết thê thảm, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần (x. 1 Cr 15:25), và trở thành Vua Hằng Sinh. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:20-24).
Chúa Giêsu là Vua Hằng Hữu và Hằng Sinh, nhưng Ngài đã chịu đau khổ tột cùng, thế nên Ngài có toàn quyền. Hoàn toàn hợp lý. Thánh Phaolô cho biết: “Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1 Cr 15:25-27). Đức Kitô là chính Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28).
Vào thời quân chủ ngày xưa, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, không muốn cũng phải tuân lệnh, bất tuân là bất trung. Chính cái chết minh chứng lòng thành của tôi trung. Đã từng có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Còn nữa, người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh,…), thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua, mà chỉ được tâu “cái bệ rồng” của vua ngồi mà thôi: “Muôn tâu bệ hạ”. Ui da! Cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu, không sợ “phạm húy”, Ngài cho phép chúng ta cứ thân thưa thẳng thắn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài!”.
Chúa Giêsu là Vua nhưng Ngài không hề được tiền hô hậu ủng, không hề xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt nhanh hơn trở bàn tay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15). Lạy Chúa tôi! Chúng ta cũng chẳng hơn gì đâu!
Ròng rã suốt những năm tháng hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người cùng đinh nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như lời Ngài dạy người khác làm: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn LÀM NHIỀU HƠN NÓI. Ngài không chỉ là Vua Nhân Lành, Vua Hằng Sinh, Vua Tình Yêu, Vua Thương Xót, mà Ngài còn là Vua Nhân Ái và Công Bình. Vô cùng may mắn khi chúng ta là thần dân của Vị Vua này. Deo gratias – Tạ ơn Thiên Chúa!
NHÂN ÁI và CÔNG BÌNH
Nhân ái và công bình là nền tảng vững chắc của cuộc sống. Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mt 25:31-46, cho biết về cuộc tái lâm và cách xét xử của Chúa Giêsu – Thiên Vương Chí Thánh và Thẩm Phán Tối Thượng. Chúa Giêsu đã sử dụng hình ảnh thực tế, gần gũi đời thường và dễ hiểu: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là hình ảnh của Người Lành, dê là hình ảnh của Kẻ Dữ. Hai hình ảnh đối nghịch nhau!
Tuyệt đối vâng lời Chúa Cha, Chúa Giêsu đã bằng lòng chịu chết để cứu độ nhân loại, vì thế Ngài cũng có toàn quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực và đầy tình xót thương. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai, Ngài được các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37). Hạnh phúc thay cho những ai được Ngài cười và nói như vậy!
Khi nghe Ngài nói vậy, họ ngạc nhiên vì họ chưa một lần thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, là khách lạ mà tiếp rước, trần truồng mà cho mặc, đau yếu hoặc ngồi tù mà thăm viếng giúp đợ. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).
Rồi Đức Vua nói với những người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).
Họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:46). Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).
Ngài không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên”. Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại”, thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách. Cứng lòng hay tự mãn?
Nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay”. Một cách nhận định chứa đầy niềm tin Kitô giáo.
Lòng thương xót cũng chính là tình yêu thương, chính Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1), Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối, đợi chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta quá cố chấp mà thôi! Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến QUYỀN LỢI, không mấy ai nói đến BỔN PHẬN”. Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Mâu thuẫn. Vậy là chúng ta không công bằng với Chúa đấy!
Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn con trong Cung Đường Tình Yêu cao cả và tuyệt đối của Thiên Chúa. Lạy Thẩm Phán nhân hậu, xin dủ lòng thương xót con – kẻ tội lỗi khốn nạn. Con tín thác vào Ngài, Đấng Cứu Độ hằng sinh, đồng hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Tin mừng Chúa nhật lễ Đức Giêsu Kitô vua vũ trụ trình bày ngày Chúa quang lâm, Người đến trong vinh quang để phán xét nhân loại. Khi ấy, Người sẽ thi hành quyền bính như một vị vua: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người và Người sẽ phân chia họ ra”. Người Do Thái quan niệm ngai uy linh chỉ dành cho Thuên Chúa để xác nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa và Ngài là vua tình thương. Ngày sau hết, Đức Giêsu chỉ xét xử chúng ta về giới luật yêu thương, bởi đạo Ngài thiết lập là đạo tình thương, đạo bác ái:
“Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn. Hãy yêu thương anh em như chính mình” (Mt 22, 37.39).
“Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25, 45).
Trong viễn cảnh ngày tận thế, ngày mà Đức Giêsu sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Tin mừng Matthêu đề cập tới vương quyền của Chúa Giêsu: Ngài là vua không như những vua chúa trần gian cai trị dân bằng sức mạnh của vũ khí, quyền lực, kinh tế, tiền bạc… Đức Giêsu cai trị bằng tình yêu, hy sinh và phục vụ. Đức Giêsu là vua tình thương: “Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hy sinh mạng sống làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mt 20, 28). Vương quốc của Người gồm những người nghèo khó, cùng cực, đói khát, bị bỏ rơi, bị tù đày… Những ai săn sóc, phục vụ, giúp đỡ, an ủi những người bé nhỏ nghèo khổ thì thuộc về vương quốc của Đức Giêsu, là công dân của Nước Trời:
“Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta”
Như thế, Đưc Giêsu đã đồng hóa tình Chúa và tình người. Yêu Chúa là yêu người; yêu người là thước đo lòng mến của chúng ta đối với Thiên Chúa. Trong hoạt cảnh ngày phán xét, thánh Matthêu muốn trình bày việc người mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên là những người lành được hưởng hạnh phúc quê trời. Dê là những người bất lương sẽ bị luận phạt. Điều làm cho chúng ta vô cùng ngạc nhiên: Đã có những người không nhận ra điều này, là họ đang phục vụ Đức Kitô khi họ cho những người đói khát ăn uống, cho kẻ trần truồng mặc, đón tiếp khách lỡ đương, thăm viếng người đau yếu, tù đày… Cũng có nhiều người đã không nhận ra rằng, họ đã thực sự chểnh mảng không phục vụ Đức Giêsu Kitô, khi họ làm ngơ, vô cảm trước những nhu cầu của những người nghèo khổ (GLCG 2443). Chính khi chúng ta làm phước giúp đỡ những người nghèo khổ là làm cho chính Chúa. Chính khi chúng ta từ chối không giúp đỡ anh em là chúng ta đã từ chối không làm cho Chúa. Tất cả người lành, kẻ dữ đều ngạc nhiên nói: “Lạy Chúa, chúng con có bao giờ thấy Chúa đói khát, đau yếu hay ở tù…, mà chẳng giúp Chúa đâu…!”.
Tin mừng nói rất rõ người được cứu và người không được cứu, chiên và dê sẽ bị phân chia bởi tiêu chuẩn căn bản là tình thương, bác ái, chứ không dựa vào danh giá, chức vụ, địa vị trong xã hội. Những hoạt động từ thiện, những việc phục vụ tha nhân trong tình yêu sẽ có giá trị vĩnh cửu và đạt được hạnh phúc Nước Trời. Ngược lại, vô cảm, hờ hững trước những khổ đau của anh em là từ chối Thiên Chúa, phản bội Ngài… sẽ bị luận phạt.
Trong thế giới văn minh hôm nay với nền kinh tế thị trường, nền đạo đức đang xuống cấp trầm trọng trong gia đình, học đường và xã hội, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi mọi người xây dựng một nền văn minh tình thương, chống lại nền văn minh sự chết qua việc phục vụ tha nhân, công bằng, thực thi công lý, sống lương thiện.
Đứng trước nhu cầu của thế giới hôm nay với 80% dân số toàn cầu là thành phần nghèo. Theo báo cáo của Hội nghị Quốc tế về các trẻ em nghèo trên thế giới. Mỗi năm, có 14 triệu trẻ em chết oan uổng vì đói ăn, suy dinh dưỡng, thiếu sự chăm sóc về thuốc men. Hiện nay, một số nước ở Châu Phi đang chịu cảnh đói và thiếu lương thực (ở Somali…). Trong khi đó, thế giới dư thừa thực phẩm. Con người hôm nay sơ cứng, lãnh đạm, hờ hững trước những khổ đau của anh em mình.
Giáo hội luôn khẳng định vai trò của mình là tiếp nối sứ mạng cứu độ của Đức Kitô, luôn dứt khoát chọn lựa đứng về phía người nghèo, những kẻ bị bỏ rơi. Giáo hội không ngừng lên tiếng, kêu gọi, đấu tranh chống lại sự nghèo đói, bất công xã hội dưới mọi hình thức để động viên mọi người thực hiện một nền văn minh tình thương.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Con Người ngự đến vinh quang,
Thiên Thần hầu cận, cao sang tầng trời.
Muôn dân tập họp bên Người,
Phân chia phán xét, cuộc đời trần gian.
Chiên dê tách biệt trước nhan,
Chiên nằm bên hữu, Chúa ban phúc lành.
Cha Ta chúc phúc lòng thành,
Nước Trời gia nghiệp, thưởng dành các ngươi.
Vì xưa đói khát ở đời,
Cho ăn đãi uống, một thời vị tha.
Ta là khách lạ phương xa,
Rộng lòng tiếp đón, vào nhà trú chân.
Yếu đau bệnh họan cơ bần,
Viếng thăm chăm sóc, ân cần lo toan.
Tình thương đức ái khôn ngoan,
Chính Ta bé mọn, hân hoan đón chào.
Dê nằm bên trái tự cao,
Không thương, chẳng giúp, tự hào chủ quan.
Không thăm, thiếu viếng đa đoan,
Sống đời ích kỷ, bất toàn trí tâm.
Chúa Giêsu Kitô là Vua Vũ Trụ, Vua các Vua. Ngài ngự cao siêu trên mọi tầng trời, nhưng lại rất gần gũi với con người trần thế. Ngài là Chúa muôn loài trên tầng cao thẳm, nhưng lại hạ thế làm người. Một Thiên Chúa vừa cao cả vừa gần gũi. Chúa uy quyền để chúng ta kính bái tôn thờ và gần gũi để chúng ta gặp gỡ, tâm sự và hiệp thông.
Chúa Kitô là Vua không phải như các vị vua trần thế. Chúa không cần có giang sơn tổ quốc, quân quyền và không ngai vàng cùng kẻ hầu người hạ. Chúa là Vua của tâm hồn, Vua tình yêu. Ai biết yêu là thuộc về con dân của Nước Chúa. Nước của Chúa không có biên cương lãnh thổ, nhưng là nước trong tâm hồn con người.
Chúa ở gần chúng ta đến nỗi chúng ta không nhận ra Ngài. Ngài hiện diên không đâu xa, mà nơi chính anh chị em chung quanh chúng ta. Ngài ẩn thân qua những người nghèo khổ, kẻ mồ côi góa bụa, người đói khát, kẻ tù đầy, người bệnh họan, kẻ tật nguyền, cô đơn và nơi những người không có nơi nương tựa. Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài?
Thật dễ và cũng thật khó để nhận diện ra Chúa Kitô. Ngài hiện diện trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, nhưng chúng ta đã rất nhiều lần ngoảnh mặt làm ngơ. Một câu chào hỏi cũng không. Một bát nước lạnh cũng từ chối. Một miếng bánh vụn không muốn chia xẻ. Một chiếc áo hay chiếc quần cũ cũng không muốn cho đi. Đôi khi chúng ta còn nhìn anh em bất hạnh với con mắt khinh thị, nghi ngờ và chối từ. Chúng ta sợ dơ dáy bẩn thỉu, sợ bị quấy rầy và còn sợ nhiều thứ khác… Chúng ta không muốn chia xẻ tình yêu với họ.
Chính Vua Vũ Trụ lại ở bên những người bị ruồng rẫy bỏ rơi đó. Chúa mang thân phận nghèo đói của kẻ ăn xin. Chúa muốn chúng ta đón tiếp các anh em cùng khốn như là đón tiếp chính Chúa. Phần thưởng Chúa dành cho những ai biết chia sẻ tình yêu với họ. Chúng ta không phải đi đâu xa để tìm gặp Chúa. Chúa là Vua ngay trong lòng và ngay bên cạnh chúng ta. Hãy mở mắt tâm hồn để nhận diện ra Chúa.
Lạy Chúa, Chúa là Vua của lòng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ tình nhân ái với những người cùng khốn đang hiện diện chung quanh chúng con. Chúng con biết rằng khi chúng con đón tiếp họ, là chúng con đang đón tiếp chính Chúa.
.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Tình cờ gặp lại người quen, tôi hỏi: bạn có hay về thăm cha mẹ không? Người ấy nói: chẳng có thời gian để về! Nhiều khi muốn về nhưng lại chẳng có điều kiện nên cũng đành nhớ nhung từ xa!
Có lẽ trong cuộc đời vì tất bật mưu sinh với miếng cơm manh áo, với danh vọng quyền lực mà ta đã lãng quên người thân. Đôi khi giật mình vì mải miết làm ăn mà ta đã bỏ rơi gia đình, bạn bè và người thân.
Xã hội hôm nay là xã hội của công việc, khiến ai cũng bận rộn, ai cũng tất bật ngược xuôi nên dường như chẳng còn thời giờ ngó đến nhau, thăm nom nhau và cũng chẳng mấy ai quan tâm giúp đỡ nhau. Hàng xóm láng giềng nhiều nơi chẳng biết tên nhau. Cùng chung cư cũng xa cách nhau. Con cái chẳng mấy khi về thăm cha mẹ. Anh em có còn mấy ai đùm bọc và giúp đỡ nhau?
Xã hội hôm nay tình liên đới đã mai một. Cuộc sống chia sẻ ngọt bùi với nhau đang đi vào cổ tích. Giả sử có một phiên tòa xét xử vì tội sống thiếu tình liên đới có lẽ người người sẽ bị phạt, nhà nhà sẽ bị vạ như câu chuyện ngày xưa đã kể.
Chuyện kể rằng: Vào giữa thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ, tại một nơi nghèo nhất trong thành phố New York, có diễn ra vụ xét xử một phụ nữ ăn trộm bánh mì vì đói.
Quan tòa hỏi: “Bị cáo, có đúng là bà đã ăn trộm bánh mì không?”.
Người phụ nữ cúi đầu và lúng túng trả lời: “Đúng vậy! Thưa quan tòa, tôi thực sự đã ăn trộm bánh mì!”.
Quan tòa lại hỏi: “Động cơ ăn trộm bánh mì của bà là gì? Có phải vì đói khát không?”
“Đúng ạ!” Người phụ nữ ngẩng đầu lên, đôi mắt nhìn vị thẩm phán và nói: “Đúng là tôi đói. Con rể đã bỏ rơi gia đình, con gái tôi thì bị bệnh, còn 2 đứa cháu nhỏ đang chết đói. Chúng đã mấy ngày hôm nay không được ăn rồi. Tôi không thể trơ mắt nhìn chúng chết đói được, chúng vẫn còn quá nhỏ!”.
Vị thẩm phán thở dài, nhìn về phía người phụ nữ và nói: “Bị cáo, tôi phải làm việc theo lẽ công bằng, chấp hành theo pháp luật. Bà phải nộp phạt 10 đô la”.
Sau đó ông nói lớn: “Đây là 10 đô la mà tôi sẽ trả cho án phạt này. Ngoài ra tôi phạt mỗi người trong phòng xét xử này 50 cent, đó là số tiền phạt cho sự thờ ơ của chúng ta khi ở cùng khu phố mà lại để cho một người phụ nữ phải đi ăn trộm bánh mì về nuôi cháu.
Ngày hôm sau, tờ báo thành phố New York đưa tin đã có 47,5 đô la được gửi đến cho người phụ nữ khốn khó kia.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải sống tình liên đới với tha nhân, không chỉ vì có chung một Cha trên trời nên “tứ hải giai huynh đệ”, mà còn vì con người là “hình ảnh Thiên Chúa”. Chính Chúa đã tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Chúa mời gọi chúng ta: ai tiếp rước họ là tiếp rước chính Chúa. Ai giúp đỡ họ là giúp đỡ chính Chúa. Ngược lại, Chúa cũng sẽ luận phạt vì chúng ta đã từng khước từ thi ân cho những con người cùng khổ đó.
Thực vậy, trong ngày phán xét, Chúa không hỏi về bằng cấp của chúng ta cao hay thấp. Chúa không xét duyệt chúng ta dựa trên địa vị trần thế. Chúa phán xét theo tinh thần bác ái mà chúng ta đã dành cho tha nhân. Công hay tội tuỳ thuộc vào lòng bác ái chúng ta có hay không trong những lời nói và việc làm của mình? Chúa đã từng chê trách thái độ vô cảm của những biệt phái, và của những thầy tư tế khi để mặc người bị nạn trên đường đến Giê-ri-cô. Chúa cũng từng dùng dụ ngôn để răn dạy thái độ dửng dưng trước bất hạnh của đồng loại qua dụ ngôn “người phú hộ và Lagiaro”. Chúa cũng sẽ luận tội nếu chúng ta cũng thiếu trách nhiệm và sống thiếu tình liên đới qua đời sống yêu thương và phục vụ tha nhân.
Chúa Giê-su là Vua, nhưng Ngài đã cúi mình phục vụ tha nhân. Ngài tự hoà nhập với con người. Ngài đồng hành với con người. Ngài chia sẻ phận người nổi trôi với con người. Ngài đã đến để phục vụ và hiến mạng sống vì hạnh phúc tha nhân. Ngài còn mời gọi chúng ta “ai muốn làm lớn hãy cúi mình phục vụ anh em”.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống cao đẹp cho dẫu có thiệt thòi vì đi ngược lại với lối sống của thế gian. Xin cho chúng ta luôn can đảm làm chứng cho tình yêu bất diệt của Chúa là dám “thí mạng sống mình vì người mình yêu” và biết yêu thương tha nhân như chính mình. Amen
.
CUỘC PHỎNG VẤN ĐỂ VÀO THIÊN ĐÀNG
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Có người xem nước Mỹ như thiên đàng hạ giới và mong sao có thể đặt chân đến miền đất mơ ước này.
Ai muốn đạt nguyện vọng này thì phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ nộp lên Tòa lãnh sự Mỹ và điều quan trọng nhất là liệu làm sao khi đến giờ phỏng vấn xin visa nhập cảnh, phải đối đáp cho hợp tình hợp lý để được nhân viên phỏng vấn của toà lãnh sự đồng ý cấp visa.
Đây là giờ phút quyết định và rất quan trọng. Vì thế, người xin phỏng vấn phải chuẩn bị những thứ cần thiết cho giờ phút quan trọng này và họ thường tìm hiểu trước xem nhân viên phỏng vấn của toà lãnh sự sẽ hỏi những câu gì để chuẩn bị câu trả lời cho thỏa đáng, hầu được cấp visa.
Mai đây mỗi người chúng ta cũng đều phải trải qua một cuộc phỏng vấn quan trọng hơn nhiều, không phải là phỏng vấn xin visa vào Mỹ mà là phỏng vấn để có visa vào thiên đàng, để được định cư vĩnh viễn trên thiên quốc.
Muốn có visa vào thiên đàng, chúng ta cũng phải qua một cuộc phỏng vấn mà nhân viên phỏng vấn là Chúa Giê-su.
Ai cũng muốn biết trước Chúa Giê-su sẽ hỏi mình câu gì, để chuẩn bị trả lời cho xác đáng, để được định cư trên cõi hạnh phúc đến muôn thuở muôn đời.
Chúa Giê-su là một người phỏng vấn đặc biệt có một không hai trên đời nầy. Ngài muốn cho tất cả những ai đi phỏng vấn đều được trúng tuyển nên Ngài cho biết những câu mà Ngài sẽ hỏi họ.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su truyền cho thư ký của Ngài là Mát-thêu viết ra những câu mà Ngài sẽ hỏi các ứng viên xin định cư trên nước Trời và thông báo rộng rãi cho mọi người khắp nơi được biết để chuẩn bị.
Mời cộng đoàn phụng vụ theo dõi kịch bản sau đây để biết nội dung các câu hỏi của Chúa Giê-su.
Hôm ấy, anh Mít và Xoài theo lịch hẹn, ra trình diện Chúa Giê-su để được phỏng vấn xin visa vào thiên đàng.
Thiên thần xướng tên: Mời Lu-ca Trần Văn Mít. Mít rất tự tin, hô lên: Có mặt, rồi đến trình diện Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su hỏi câu thứ nhất:
“Muốn được lên thiên đàng thì người ta phải làm gì?”
Mít mừng thầm vì gặp câu hỏi dễ, anh mau mắn trả: “Thưa, phải mến Chúa, yêu người.”
Chúa mỉm cười: “Chính xác!”
Chúa hỏi tiếp: “Lòng mến Chúa phải được thể hiện cách cụ thể trong sinh hoạt đời thường ra sao?”
Mít trả lời ngay: “Thưa, lòng mến Chúa phải được thể hiện cụ thể bằng việc yêu thương phục vụ những người chung quanh, đặc biệt là những người bất hạnh đang cần giúp đỡ.”
Chúa Giê-su vui sướng vỗ đùi: “Tuyệt vời! Chính xác!”
Chúa lại hỏi câu thứ ba: “Vậy thì khi thấy người đói khát, con có cho họ ăn uống không?” Đến đây, Mít cúi đầu xấu hổ và ngập ngừng đáp: “Thưa không.”
Bấy giờ khuôn mặt Chúa Giê su trở nên đăm chiêu trầm mặc. Ngài buồn bã lắc đầu.
Rồi Chúa hỏi: “Khi thấy người đau ốm… con có thăm viếng, giúp đỡ họ không?”
Mít run run đáp: “Lạy Chúa, con chưa hề giúp đỡ ai.”
Bấy giờ bỗng nhiên Chúa Giê-su đùng đùng nổi giận, Ngài xua tay đuổi Mít đi và quát: “’Hỡi quân bị nguyền rủa kia, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng” (Mt 25,41).
Sau đó, thiên thần lại xướng tên: Mời Phê-rô Nguyễn Văn Xoài. Xoài đáp: “Có mặt” rồi tiến đến trước vị giám khảo uy nghi.
Chúa hỏi câu thứ nhất: “Con có thăm viếng, chăm sóc người đau khổ, bệnh tật không?”
Xoài vui vẻ, đáp: “Thưa có.”
Lúc nầy, nét mặt Chúa trở nên tươi tắn hơn, nụ cười của Ngài rạng rỡ hơn, Ngài gật gù vui vẻ đáp lại: “Tốt, tốt lắm! Con ngoan của Ta.”
Chúa tiếp: “Con có quan tâm, giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh không?”
Xoài tỏ ra vui mừng và đáp: “Thưa có.”
Bấy giờ Chúa Giê-su đứng lên, rời khỏi ngai toà, bước xuống ôm choàng lấy Xoài và lớn tiếng chúc mừng:
“Nào hãy đến, con là người được Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho con từ khi tạo dựng vũ trụ” (Mt 25, 34), rồi Ngài ra lệnh cho ca đoàn thiên thần đàn hát tưng bừng, rước Xoài vào chính điện, trình diện với Thiên Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, với Mẹ Maria, với thánh cả Giu-se và toàn thể các thánh. Tất cả vỗ tay chào đón Xoài như một chiến sĩ thắng trận trở về.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa dạy chúng con biết muốn được lên thiên đàng hưởng phúc đời đời thì phải mến Chúa, yêu người và thể hiện lòng yêu mến Chúa qua việc chăm lo phục vụ cho những người bất hạnh chung quanh.
Nguyện xin Chúa cho chúng con luôn ghi nhớ lời Chúa dạy và đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày, nhờ đó, mai đây chúng con được Chúa đón vào quê trời hưởng phúc vinh quang.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Năm phụng vụ khởi đầu bằng mầu nhiệm nhập thể, và kết thúc bằng việc tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô. Qua đó, Hội Thánh dạy: Chúa Kitô không xa cách ta. Người có một cuộc đời chẳng khác ta. Chính trong cuộc đời ấy, Người làm Vua toàn cõi vũ trụ. Chính nhờ đi qua cuộc đời ấy, Người nắm giữ quyền bính đời đời.
Chúng ta cũng được sinh ra trong cuộc đời. Như Chúa Kitô, nhờ khởi đi từ cuộc đời, ta sẽ về cùng Thiên Chúa. Hãy sống như Chúa Kitô, để cùng Người ta hiển trị trong Nhà Cha của mình.
I. NHẮC LẠI VƯƠNG QUYỀN CỦA VUA KITÔ.
Mặc dù lễ Chúa Kitô là Vua mới được Đức Thánh Cha Piô XI thiết lập năm 1925, nhằm hiến dâng thế giới và nền hòa bình của nhân loại cho Chúa Kitô. Nhưng vương quyền của Người đã được Hội Thánh tuyên xưng từ xa xưa.
Chẳng hạn, Trên ngọn một cây tháp dựng từ năm 1586 do hoàng đế Caligula, giữa quảng trường thánh Phêrô – Vatican, có khắc ba lời tuyên xưng: Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng; Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị; Christus imperat: Chúa Kitô thống lãnh.
Vì thế, khi lập lễ tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô, Hội Thánh nhắc lại niềm xác tín của mình:
– Muôn đời, chỉ một mình Chúa Kitô là Vua toàn cõi vũ trụ. Người là Đức Vua toàn thắng. Người đã, đang và sẽ còn tiếp tục hiển trị và thống lãnh trên trời, dưới đất. “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy” (Ga 28, 18).
– Muôn đời, Chúa Kitô vượt trên thời gian. Chính vì thế, Chúa Kitô là Chủ thời gian. Mọi chiều kích lịch sử điều đặt dưới quyền thống lãnh của Người. Chỉ một mình Người nhận lãnh thánh ý Thiên Chúa để nắm quyền kết thúc thời gian: Thiên Chúa “đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1, 10).
– Muôn đời Chúa Kitô là Vua vĩnh cửu, Vua tình yêu. Trong thánh ý Thiên Chúa, một mình Chúa Kitô là Chủ thế giới nhân sinh. Như vậy, Người là Chủ của nhân loại, Chủ của lịch sử nhân loại, Chủ của vận mạng cả nhân loại. Bởi Thiên Chúa “đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai” (Ep 1, 21).
– Muôn đời Chúa Kitô là Chủ từng con người. Người nắm giữ mọi phán quyết trên cuộc đời ta. Người cũng sẽ phán quyết cách công bình, thẳng thắn trong ngày ta trình diện trước tòa án của Người:
Nếu ta sống lành thánh thì Chúa phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa” (Mt 25, 34).
Nếu ta đứng ngoài nghĩa cử yêu thương thì Chúa phán: “Quân bị nguyền rủ kia, đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25, 41).
II. ĐỂ VÀO SỰ SỐNG CHÚA BAN:
Bài Tin Mừng cho thấy quang cảnh xử án của Đức Vua dành cho chúng ta. Thật bất ngờ, nội dung cuộc xử án chỉ xoay quanh tình thương: “Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta… Những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”.
Vậy để được tham dự vào sự sống Chúa ban, mỗi người hãy sống lòng yêu thương qua từ nghĩa cử, từng hành động, từng tương quan, từng suy nghĩ, từng biểu hiện những nghĩ ấy của mình.
Làm cách nào để có thể sống tình yêu thương như Chúa dạy? Có rất nhiều tấm gương dạy ta sống yêu thương theo gương Chúa Giêsu. Cuộc đời và lối sống của thánh Gioan Maria Vianney là một trong những bằng chứng giúp ta học tập mà thực thi tình yêu thương với anh chị em xung quanh mình.
Người ta kể, trong lúc giáo phận Belley, nơi ngài đã từng cống hiến đời linh mục của mình, tiến hành điều tra các nhân đức để lập hồ sơ xin phong thánh cho cha Gioan Maria Vianney, bỗng có một cụ già nghèo, quê mùa đến làm chứng:
“Hôm ấy, trời đã tối, tôi thấy cha Vianney đi giúp tuần đại phúc ở một xứ xa về; giữa đường vắng chỉ có tôi với ngài; vừa gặp tôi, ngài vui vẻ lên tiếng:
– Chào ông, ông có khỏe không? Công việc làm ăn ra sao?
– Con chào cha. Con cám ơn Chúa. Con vẫn khỏe. Nhưng… Chẳng giấu gì cha, con túng thiếu quá, mất liên tiếp ba vụ mùa liền!
– Tội nghiệp! Tôi thương ông và các cháu lắm! Chúng nó rất ngoan.
Vừa nói ngài vừa xỏ tay vào túi áo, lục soát khắp cùng mà cũng chẳng có được một xu. Nhìn trước nhìn sau, ngài ghé vào tai tôi bảo nhỏ:
– Ông chịu khó đợi cha một chút!
Tôi vâng lời đứng đợi. Ngài rón rén đi ra sau một lùm cây… Mấy phút sau ngài trở lại, trao tận tay tôi một vật và nói:
– Cha không còn gì cả. Ông vui lòng lấy cái quần của cha đây đem bán mà mua bánh mì cho các cháu. Ông thông cảm, bữa sau có chút gì cha sẽ giúp cho thêm. Thôi chào ông nhé!
Nói xong, cha Gioan nhanh chân bước đi. Tôi vẫn chưa kịp cám ơn ngài vì quá xúc động nghẹn ngào…”.
Là tín hữu Kitô, chúng ta đừng chỉ nói yêu thương, nhưng hãy sống lòng yêu thương mọi nơi mọi lúc. Mỗi người hãy là chứng nhân của tình yêu. Mỗi người hãy làm điểm nối kết để nhân rộng lòng yêu thương ngày một lớn, mạnh mẽ trên khắp mọi nơi mà mình hiện diện.
Hãy nhớ: Sống tình yêu, sẽ được Chúa xét xử bằng tình yêu.
.
AI ĐỨNG VỀ SỰ THẬT THÌ NGHE TIẾNG TÔI
Fx Đỗ Công Minh
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta được chứng kiến phiên tòa xử Đức Giêsu Kitô mà vị xét xử là quan Tổng trấn PhilaTô. Cuộc thẩm vấn công khai với lời tra hỏi đầu tiên :”Ông có phải là Vua dân Do Thái không?”. Kể ra PhilaTô cũng là người chấp hành nghiêm việc xử án, tức là có hỏi và để phạm nhân trả lời, thậm chí vặn lại. Nghe Đức Giêsu hỏi lại, ông không tỏ phản ứng bực tức của kẻ có quyền :” Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi “. Ông vẫn đường đường đối đáp tiếp với Chúa Giêsu : ” chính dân của ông và các Thượng tế đã nộp ông cho tôi, Ông đã làm gì ?” Khi thấy Người nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này “. PhilaTô lúc này đã lộ nguyên hình vị quan tay sai, ông đã đặt một câu hỏi mang tính bức cung để mong Đức Giêsu xác nhận điều người Do Thái tố giác : ” Vậy ông là vua sao ? “.
PhilaTô nghe đến “ Nước của Chúa Giêsu “ dù là không thuộc về thế gian này, nhưng vì e sợ những người đứng đầu một tổ chức chống lại hòang đế, tức là chống lại ông, nên cũng buộc phải vu cho Chúa tội dám nhận là Vua. Đức Kitô không phủ nhận điều đó, nhưng Người khéo léo : ” Chính Ngài nói rằng tôi là Vua. Nhưng tôi sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này,(là )làm chứng cho sư thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi “. Đến đây thì đã rõ, dù Philatô có chạy theo những tố giác của người Do Thái nhưng hẳn là ông cũng ngộ ra được một điều: Ông Giêsu không phải như những vị vua trần thế. Ông vua mà lại không có binh lính dưới quyền, không có vũ khí bảo vệ. Ông vua không có lãnh địa, dinh cơ, không ngai vàng cung điện. Ông vua mà nước không thuộc chốn này chỉ có thể là Vua. . . ảo.
Quả thật, Đức Giêsu, vị Vua của những lời răn dạy. Vua tình yêu, Vua của sự thật, Vua của công lý. Ai chấp nhận đứng về sự thật thì theo Người. Người đã không xưng mình là Vua nhưng chính những con người đơn sơ, bé nhỏ, nghèo hèn, yếu đuối, tội lỗi nhận mình là thần dân của vương quốc nước trời tôn vinh Người . Đường lối cai trị của Người là hiền lành, khiêm nhường. Người đến với con dân nuớc Người không để được hầu hạ, mà chính là hầu hạ mọi người, để con người được nâng lên địa vị như Người, là con Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Đã có một thời chúng con ngộ nhận Chúa là Vua thống trị thế giới này về mặt quyền bính trần gian, nên có lúc những người con Chúa đòi mọi người chưa tin vào Chúa phải khuất phục, khiếp đảm. Chính trong thâm tâm, chúng con cũng từng nghĩ Chúa phải là vua trên các vị vua trần thế, nên đã khiến những người con của Chúa tự cho là hơn người khác, tài giỏi hơn, thánh thiện hơn, đạo đức hơn và có quyền coi khinh, coi rẻ anh em mình. Hiểu như thế là không nhận ra được Giêsu , vị Vua của tình yêu thương, vị Vua của lòng thương xót . Vị Vua dám lấy chính thân mình chết thay cho con người. Vị Vua từ bỏ địa vị là Thiên Chúa để trở thành một con người, hầu cứu con người thóat mọi tội lỗi, khổ đau, bất hòa, chia rẽ, tranh giành, xảo quyệt để tiến đến sự bình an, đạt đến công lý, yêu thương và sự thật.
Xin cho con luôn biết tôn nhận Chúa là Vua của tâm hồn con, gia đình con. Hầu từ bản thân, gia đình con sẽ tràn ngập tình yêu thương, tiến đến xây dựng khu xóm, địa phương, đất nước và cả thế giới này dần dần thành một vương quốc của Tình yêu thương cho đến khi Chúa đến . AMEN
.
NƯỚC CỦA ĐỨC GIÊSU Ở CHỐN NÀO?
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Ngày nay trên thế giới, rất ít nước còn chế độ quân chủ, vì thế, chỉ còn đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Ấy vậy mà đạo Công Giáo hằng năm lại mừng lễ Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ! Tại sao vậy? Và, Đức Giêsu làm Vua như thế nào? Chúng ta có thuộc về dân trong đất nước của Ngài không?
- Vị Vua Lạ Lùng
Mỗi khi mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về Đức Giêsu như là điểm quy chiếu, như cái tâm trong vòng tròn; như cùng đích của con người. Bởi vì Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa. Ngài là khởi đầu và cùng đích, là Anpha và Ômêga. Là Chủ Vũ Trụ; là Vua các vua, Chúa các chúa. Ngài làm Vua trong sự toàn thiện, hoàn mỹ.
Tuy nhiên, khi nói đến Đức Giêsu là Vua, chúng ta thấy Ngài là một vị Vua không như các vua chúa trần gian! Ngài là Vua, nhưng là một vị lạ lùng!
Lạ lùng lúc sinh ra trong cảnh nghèo nàn. Rong ruổi bôn ba khắp ngả đường. Đến nỗi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20). Không thành quách, cung điện ngọc ngà.
Khi tổ chức vương triều thì lại không binh lính, cũng chẳng có kẻ hầu người hạ, lại càng không dùng vũ khí, sử dụng quyền lực, binh đao.
Ngược lại, cung điện lại được đặt trong lòng mỗi con dân. Thành quách là sự liên đới. Lãnh đạo bằng tình yêu và tha thứ. Luôn phục vụ người khác thay vì được người khác phục vụ mình.
Nhưng có lẽ điều làm cho người ta chú ý nhất đến Vị Vua hy hữu có một không hai này chính là: khi được mọi người tôn vinh làm vua thì không muốn, nên tìm cách trốn tránh. Đến khi mọi người thù ghét, bôi nhọ, bêu dếu, chẳng ai bênh vực, đỡ nâng và không ai muốn trao Vương Quốc cho mình thì lại khẳng khái tuyên bố mình là Vua và đến thế gian này chỉ vì một mục đích là làm chứng cho sự thật (x. Ga 18, 36).
Tuy nhiên, ngược đời ở chỗ: Nước của Vị Vua ấy lại “không bao giờ cùng” “vô biên cương”, “không ranh giới” và “không thuộc thế gian này”.
Trong nước ấy, chỉ có sự thật, công lý, bình an và tình yêu ngự trị. Thần dân là tất cả những ai thuộc về đặc tính trên (x. Ga 18, 36).
Tất cả những điều lạ lùng đó, Đức Giêsu muốn mặc khải cho chúng ta biết: Ngài là Vua sự thật; đồng thời, Ngài mời gọi chúng ta đứng về phía sự thật để được gia nhập đoàn dân của những người yêu mến công lý.
- Vua Sự Thật
Sự thật mà Đức Giêsu mang đến và mời gọi là gì? Thưa, đó là: mặc khải cho nhân loại biết sự thật, một sự thật được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, Ngài đã chấp nhận đánh đổi ngay cả mạng sống của mình để biểu hiện tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Thật vậy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Khi Ngài đến, Ngài đã yêu thương họ đến cùng và chấp nhận đánh đổi chính cái chết trên thập giá để làm chứng cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi, nghèo khó, bị áp bức, bóc lột… Vì tình yêu không giới hạn và vô biên, nên Đức Giêsu đã gọi những người đó là bạn hữu và chấp nhận chết cho bạn hữu của mình được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,7-10; 15, 9-15). Quả thật: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13)
Sự thật ấy nhằm diễn tả đặc tính của tình yêu trong một Vương Quốc khác chứ không phải nơi trần gian.
Điều này đã được Đức Giêsu nói trước quan toàn quyền Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18, 36).
Vì thế, vinh hoa, phú quý, sung túc, sang giàu, quyền lực và ngay cả sự sống trần gian này chẳng đáng gì đối với sự sống vĩnh cửu trong Nước của Chúa.
Và, như một sự tất yếu, muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
- Sống sứ điệp Lời Chúa
Trong thời đại hôm nay, việc sống chứng nhân cho sự thật không phải là chuyện dễ! Lại càng khó hơn nữa khi trong một xã hội tình yêu luôn bị đánh cắp, nghi ngờ và bị lợi dụng!
Bởi vì: người ngay thẳng, trung thực thì thường thua thiệt, và bị coi là ngu dốt, còn kẻ gian dối lại được coi là khôn ngoan… Sống man trá mà thành công thì được tưởng thưởng, còn vì sự thật mà bị thất bại thì bị khiển trách…
Đứng trước một xã hội như thế, hẳn sống đời chứng nhân cho Chúa quả là khó! Tuy nhiên, dù khó, chúng ta vẫn phải thi hành vì đây là hành vi mang tính quyết định thuộc về hay khước từ… Khi sống vì chân lý, ấy là lúc chúng ta chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho sự thật và tình yêu của Thiên Chúa trong bối cảnh hiện nay.
Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trở thành thần dân của Đức Giêsu và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, đồng thời được mời gọi sống đặc tính của Nước ấy trong cuộc sống đời thường của mình. Vì thế, hẳn chúng ta phải mặc lấy Ngài và những tâm tình của Ngài như: từ bi, nhân hậu, hiền lành, nhẫn nại, bao dung, chết đi cho tính xác thịt, ý riêng và ra khỏi chính mình, từ bỏ tính kiêu ngạo, hóng hách để cúi xuống rửa chân cho cả kẻ thù. Sẵn sàng yêu thương, làm phúc cho kẻ đói ăn, khát uống. Nâng đỡ những người thấp cổ bé họng, chân yếu tay mềm, nhân phẩm bị trà đạp…
Quyết tâm đứng lên để bảo vệ những người không có tiếng nói… Chấp nhận vì sự thật mà bị bách hại, vu khống đủ điều xấu xa.
Nếu thế gian chống đối lại sự thật, vì sự thật làm cho họ thua thiệt, thì chúng ta, không bao giờ được thỏa hiệp với bất công dù dưới bất kỳ hình thức hay nhãn giới nào…
Khi làm chứng cho Đức Giêsu trong sự thật như thế, hẳn chúng ta sẽ không thể thoát được số phận phải chết như Thầy của mình, tuy nhiên: “… can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Thật thế, chỉ trong sự thật, chúng ta mới được vào Nước Trời và được Đức Giêsu tuyên bố nhận chúng ta trước mặt Chúa Cha và Triều Thần Thiên Quốc: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta” (Mt 25, 34-37).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Vua Vũ Trụ, xin cho con được yêu mến và ham thích đường lối sự thật và tình yêu của Chúa, đồng thời biết chia cơm sẻ bánh cho người nghèo khổ.
Ước gì khi làm những điều đó trong lòng mến, chúng con sẽ được vào Vương Quốc của Vua tình yêu và sự thật để được sống đời đời. Amen.
.
SUY NIỆM LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ. NĂM A
Lm. Anthony Trung Thành
Chúa Nhật 34 là Chúa Nhật lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, đồng thời cũng là Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ. Giáo hội hướng chúng ta về ngày chung cuộc của con người và toàn thể vũ trụ. Đó chính là ngày Tận thế. Trong ngày đó, mỗi người sẽ phải đối diện với cuộc phán xét chung do chính Vua Giêsu làm Thẩm Phán. Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Mathêu cho chúng ta thấy quang cảnh của ngày phán xét chung đó. Đức Giêsu sẽ ngự đến trong vinh quang và chung quanh Người có các Thiên thần hậu cận. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái: chiên là những người lành thì được thưởng trên Thiên đàng, còn dê là kẻ dữ sẽ bị phạt xuống Hỏa ngục (x. Mt 25,31).
Để đón chờ ngày Tận thế, ngày vị Thẩm Phán Giêsu ngự đến, chúng ta cần phải xác tín và thực hành những điều sau đây:
Thứ nhất, chúng ta luôn phải xác tín rằng có ngày Tận thế: Vấn đề này chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Đức Giêsu cũng nói về ngày Tận thế rằng: “Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong ngày của Con Người cũng sẽ xảy ra như vậy.” (Lc 17,26). Người cũng nói với các Tông đồ: Thầy đi để dọn chỗ cho anh em và Thầy lại đến để đem anh em về với Thầy (x. Ga 14, 2-3). Tin mừng Thánh Mathêu hôm nay cũng cho biết: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.”(Mt 25,31). Như vậy, có ngày Tận Thế, nhưng ngày đó đến lúc nào thì chúng ta không biết được. Chúng ta cần phải xác tín như vậy.
Thứ hai, vào ngày Tận thế, Đức Giêsu là vị Thẩm Phán sẽ xét xử toàn thể nhân loại: Thánh Phaolô khẳng định: “Tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước tòa Đức Ki-tô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (2 Cr 5:10). Về vấn đề này, Đức Giêsu cũng đã nói rõ ràng qua dụ ngôn những nén bạc (x. Mt 25,14-30). Qua dụ ngôn này, ông chủ chính là Đức Giêsu. Cuộc hành trình ông chủ đi xa chỉ việc Người về với Chúa Cha. Các đầy tớ là những người tin vào Đức Giêsu. Những nén bạc được trao cho các đầy tớ là những khả năng Chúa ban. Những nén bạc được các đầy tớ sinh lãi là những việc tốt chúng ta đã làm khi tận dụng các khả năng của mình. Sự trở về của ông chủ là việc Đức Giê-su trở lại trong ngày Tận thế. Khi đó, ông chủ tức là Đức Giêsu sẽ phán xét con người tùy theo công nghiệp của họ. Đầy tớ thứ nhất và thứ hai là hiện thân của những người được thưởng. Còn đầy tớ thứ ba là hiện thân của những người bị phạt. Như vậy, mỗi người chúng ta luôn phải nhớ rằng, vào ngày Tận thế, Đức Giêsu là vị Thẩm Phán sẽ xét xử chúng ta theo nguyên tắc: “Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng” : Có công thì được thưởng, có tội thì bị phạt. Nhờ đó, chúng ta luôn cố gắng làm lành lánh dữ.
Thứ ba, tiêu chuẩn để được thưởng và lý do bị phạt là luật bác ái: Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đồng hòa Người với những kẻ bé mọn. Nên những ai giúp đỡ những kẻ bé mọn là giúp đỡ chính Người. Vì thế, Người nói với những kẻ lành rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta.” (Mt 25,34-36.40). Ngược lại, Người nói với những kẻ dữ rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!… Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,41-43.45). Tóm lại, tiêu chuẩn để Đức Giêsu phán xét là luật bác ái yêu thương.
Thứ tư, chúng ta phải làm gì để đón chờ ngày Tận thế? Có ngày Tận Thế và ngày đó đến một cách bất ngờ như kẻ trộm (x. 2 Pr 3,10). Vì thế, chúng ta phải siêng năng làm việc để sinh lãi những vốn liếng Chúa trao như người đầy tớ thứ nhất và thứ hai trong dụ ngôn những nén bạc (x. Mt 25,14-30). Chúng ta phải có thái độ như người đầy tớ tỉnh thức đợi chủ đi ăn cưới về hay như chủ nhà tỉnh thức để canh chừng kẻ trộm (x. Lc 12, 35-40). Chúng ta phải chuẩn bị dầu đèn đầy đủ như năm cô trinh nữ khôn ngoan (x. Mt 25,1-13). Đặc biệt, mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực thi bác ái yêu thương, vì đó là tiêu chuẩn để chúng ta được vào Thiên đàng. Trong bài giảng “ngày quốc tế người nghèo lần thứ nhất” tại Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng định rằng: “Người nghèo là thông hành vào cửa Thiên đàng của chúng ta.” Và Ngài nhắn nhủ mọi người: “Thiên Chúa ban cho chúng ta các nén bạc, các khả năng, cần phải tận dụng và phát triển để mưu ích cho tha nhân, nhất là cho người nghèo… Yêu thương người nghèo như thế có nghĩa là chiến đấu chống lại mọi thứ nghèo đói tinh thần cũng như vật chất.”
Lạy Chúa Giêsu là Vua Tình Thương, xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống đức ái trong cuộc sống hằng ngày để mai sau chúng con có được giấy thông hành vào nước Thiên đàng với Chúa. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Khao khát được công thành danh toại, không muốn thua chị kém em về mặt hiểu biết, về tấm lòng bao dung, người có ước mơ đẹp như thế, phải là người được chăm sóc giáo dục tốt từ tấm bé. Tục ngữ có câu: vỏ quýt dầy, có móng tay nhọn. Con voi to lớn, không sợ con vật nào, nhưng lại có thể gục ngã vì con kiến nhỏ xíu. Lịch sử Việt Nam ghi nhận, Kiều Công Tiễn tạo phản, rồi liên kết với quân Nam Hán nhằm củng cố địa vị, nhưng Ngô Quyền đã phá tan âm mưu xâm lược từ một trận hải chiến “Bạch Đằng Giang” (năm 938). Trong đời sống siêu nhiên, mỗi người dù tin hay không, chúng ta vẫn dang chịu sự phân xử rất công minh: làm việc thiện, tâm hồn sẽ bình an ; làm điều xấu, lương tâm sẽ cắn rứt.
Theo tự nhiên, đoàn tầu có giờ khởi hành, cũng sẽ có điểm dừng, có giờ kết thúc ; được sinh ra làm con Chúa, ắt phải có ngày trình diện Chúa về những việc làm tốt xấu, đó là quy luật, là công bằng. Con đường chật hẹp hoặc rộng lớn, đều mang một sứ mệnh đưa dẫn người ta đến điểm dừng, dù đích đến hạnh phúc của mỗi người sẽ được cân đo bằng việc làm, bằng nghĩa cử yêu thương. Bậc cha mẹ nuôi dạy con, yêu thương con, đầu tư cho con, rồi khi chia gia tài cho con, các ngài luôn mong ước các con biết sử dụng tiền của, biết sống đạo làm người, hầu xây dựng một đời sống thật ý nghĩa cho dòng tộc. Xã hội gia đình, thực tại tâm linh, hay sức khoẻ, trí tuệ, mỗi người mỗi khác, nhưng tự do, quỹ thời gian, luôn là cơ hội để chúng ta minh chứng về sự khôn ngoan của mình.
Vua chúa trần gian hiểu theo nghĩa tích cực là thay trời phật lãnh đạo, lo cho dân an quốc thái, vua trần gian hành quyền trên dân, ban phát bổng lộc cho người có công, tiêu diệt hoặc bỏ tù người có tội. Vua Giêsu mà chúng ta hằng tuyên xưng là Vua Tình Yêu, Ngài không ngồi trên ngai để chỉ đạo, phân xử, luận tội, Ngài ở nơi tâm hồn người nghèo đói, đau bệnh, Ngài mang hình ảnh của những người bị xem là ngu dốt, “thấp cổ bé miệng” trong xã hội. Vua trần gian còn được soi sáng để làm nhiều điều tốt cho dân, Con Vua Trời ở trong vũ trụ vạn vật, ở trong tâm hồn mỗi người, để ban phát hồng ân cứu độ, vì Ngài là Tình Yêu.
Từ xưa đến nay, không ai đủ tư cách tự phong chức tước cho mình, nhưng qua việc làm, qua những nghĩa cử bác ái, ai cũng phải tự chứng minh về trách nhiệm và bổn phận đối với ơn gọi làm thần dân của Vua Giêsu. Mọi người đều mơ ước xã hội có sự công minh rõ ràng, thưởng phạt đối với kẻ làm điều xấu và vinh danh người biết thực thi nghĩa cử đẹp. Trong ơn gọi kitô giáo, mỗi người còn đủ khôn ngoan để hiểu biết và thực thi đức công bằng đối với nén bạc mỗi người đã lãnh nhận, dù trái tim và khối óc vẫn đang lên tiếng, thôi thúc chúng ta hành động. Người kitô hữu sẽ không kỳ thị kẻ xấu người tốt, tách biệt lương giáo, nhưng ai cũng được hiểu biết phải sống có trách nhiệm, có bổn phận yêu thương tha nhân, vì tiếng nói sâu thẳm nơi tâm hồn đang phán xét việc làm của mỗi người.
Khuynh hướng tự nhiên, không ai “tự phong” cho mình là người giầu, dư thừa tiền của vật chất, cũng không có người nghèo khổ viết tên đeo bảng: tôi là người nghèo, tôi cần tiền, cần trợ giúp, dù chúng ta đều ý thức mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Tục ngữ có câu: con có khóc, mẹ mới cho con bú. Có những lý luận cho rằng vì con chưa nói được, chưa thể diễn tả được, nên nó phải khóc để nhắc mẹ nó hãy thực thi sứ mệnh yêu thương nó. Và cũng có lý lẽ khác lại nói: bản chất của người mẹ là thương con, nhưng người mẹ rất cần con thổ lộ một chút tâm tư để người mẹ đáp ứng đúng, và phù hợp, không làm tổn thương đến lòng tự trọng người con.
Ngày hôm nay, nghệ thuật đối nhân xử thế, hoặc kinh nghiệm sách vở, mỗi người sẽ không khó vi phạm tội vô tình với anh chị em mình. Người xưa có câu: kẻ ngu thường tỏ ra là mình nguy hiểm, nhưng kẻ nguy hiểm thường lại tỏ ra mình là ngu dốt. Hãy khiêm tốn, hãy hành động bác ái hơn là chỉ là hô hoán suông. Dù phủ nhận trời phật, xã hội vẫn đang chủ trương phải nghĩ đến anh chị em gặp thiên tai, và kêu gọi cộng đồng hãy quảng đại trợ giúp kẻ nghèo khổ, ít là vì đạo làm người: tứ hải giai huynh đệ. Chúa Giêsu mô tả cuộc phán xét chung dựa trên hành động yêu thương, ngày sau hết Ngài sẽ đến theo quy luật để phân biệt tốt xấu, vinh danh người hiền đức và khiển trách kẻ ác tâm, vì Chúa là tình yêu, công bằng và hay thương xót.
Với dụ ngôn ngày chung cuộc là có thật, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho con người biết tất cả những gì được coi là bí mật trong ơn gọi làm thần dân của Nước Chúa: niềm vui, phần thưởng, hạnh phúc đời đời. Đức Giêsu Vua Tình Yêu, Ngài sẽ giúp mỗi người thấy được sự phân minh rõ ràng bởi tình yêu thương chúng ta đã nhận lãnh và sẻ chia. Hạnh phúc được sánh ví như một thứ nước thơm, người kitô hữu không thể vẩy nước thơm lên anh chị em mình mà ta không làm vương vài giọt lên chính mình. Xin Vua Giêsu tiếp tục đồng hành và làm cho trái tim của chúng con luôn mềm mại và đầy tình mến yêu đối với anh chị em chúng con gặp gỡ mỗi ngày. Amen.
.
Phạm Anh
Trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng cuộc sống đời này chỉ là tạm bợ, và cuộc sống thực sự của mỗi người là ở đời sau, trong Nước Trời. Vào ngày sau hết, chúng ta sẽ được nhìn thấy nhãn tiền gương mặt Đức Vua Vinh Hiển, và Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc mình làm (x. Mt 25, 31-46). Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc diện kiến quan trọng ấy.
Thiên Chúa là Vị Vua yêu thương, Người chăm sóc chúng ta trong từng giây phút. Mỗi ngày sống là một món quà mà Người gửi đến cho mỗi người. Thật hạnh phúc khi mỗi sáng thức dậy chúng ta thấy mình vẫn còn đang hiện diện, và một ngày mới với những công việc đang chờ đón. Đã có biết bao hoàn cảnh chẳng được như chúng ta. Hôm nay, người ấy còn hiện diện, nhưng có thể ngày mai sẽ chẳng còn nữa. Đó là điều mà chẳng ai biết trước được. Chúng ta hãy tận dụng mỗi phút giây và làm cho nó trở nên ý nghĩa hơn. Những ai dạy học hãy trao những kiến thức bằng cả trái tim của người thầy. Những ai làm văn phòng hãy làm với hết năng lực trong sự rõ ràng, công minh. Những ai làm thợ xây hãy làm với cả sự tinh tế và trách nhiệm… Một công việc dù nhỏ bé đến đâu, chúng ta hãy làm bằng cả tấm lòng. Như thế, cuộc sống của mỗi người sẽ trở nên đẹp hơn, ý nghĩa hơn. Khi đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Đàng đang hiện diện ngay giữa trần gian này.
Một phương thế hữu hiệu có thể giúp chúng ta để đạt được hạnh phúc đời sau đó chính là quan tâm tới những người nghèo, những người nhỏ bé. Chính Chúa đã nói: “Ta bảo thật các ngươi; mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Trong bài giảng của Đức Thánh Cha ngày 19/11/2017, ngày Quốc tế người nghèo, Đức Thánh Cha đã nói: “Nếu trước con mắt trần gian người nghèo ít có giá trị, thì họ lại là những người mở ra cho chúng ta con đường về trời, họ là thông hành vào Thiên Đàng của chúng ta”. Thật vậy, tâm lý tự nhiên của chúng ta khi gặp những người nghèo, những người bệnh tật là xa lánh, hắt hủi, chê bai,…Tại sao vậy? Nguyên nhân có thể do người nghèo thường làm những công việc bẩn thỉu, hôi hám, thấp hèn. Nhưng chính Chúa Giêsu đang hiện diện trong họ. Người đang mời gọi chúng ta bỏ qua những rào cản bên ngoài để đến với họ bằng con tim biết rung cảm. Họ đang khao khát được hòa nhập cùng với chúng ta, và được nhìn nhận trong xã hội. Những con người ấy đang cần được chúng ta đùm bọc, sẻ chia, chứ không phải là xa lánh.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì mỗi buổi sáng thức dậy, chúng con biết sẽ được sống thêm một ngày. Xin cho chúng con biết cộng tác với ơn Chúa ban để từng giây phút qua đi đều mang lại cho chúng con những điều ý nghĩa. Đặc biệt, xin cho chúng con can đảm bỏ qua những rào cản của địa vị, hoàn cảnh sống,… để đến với từng người chúng con gặp gỡ, đặc biệt là những người nghèo, bị bỏ rơi. Để mai sau, chính những người ấy dẫn chúng con tới Nước Trời, diện kiện trước Vua Giêsu. Amen.
.
Phê-rô Trần Đình Phan Tiến
Ai cũng biết, vua là người đứng đầu một Đất Nước , một Quốc Gia, người có quyền thống lãnh toàn quốc. Nếu một vị vua nhân ái, hiền lành, thương dân , lo cho dân, thì người ta gọi vị vua ấy là : “ Minh vương”, còn nếu vị vua ấy độc ác , thì người ta gọi là: “ Hôn quân” hay “ Bạo chúa”. Nếu ai sống trong một vương quốc của một bạo chúa, thì coi như “ tàn đời”. Vâng, đó là Vua trần thế, vua ở thế gian.
Nhưn, hôm nay đây, Giáo Hội Công giáo mừng kinh một Vị Vua duy nhất trên Nước Trời, đó là Vua Giêsu. Vị vua nhân ái , Người đã “ đồng hóa” với “thần dân” nghèo hèn của Người.
Tin Mừng (Mt 25, 31 -46), là Đoạn Tin Mừng nói về “Ngày phán xét chung”, tuy dài nhưng, nội dung tóm lược là: “VỊ THẨM PHÁN THƯƠNG XÓT”. Đó là, Đức Giêsu- Kitô, Vị Vua Duy Nhất trên Vương Quốc vĩnh cửu. Thường thì các bậc quân vương trần thế đứng về phía người giàu, không có vị vua nào đừng về phía người nghèo. Nội dung Tin Mừng hôm nay, tuy là cuộc phán xét chung, chung thẩm, nhưng thực ra chỉ có một vần đề duy nhất là : Biết chia sẻ cho tha nhân.
- Sự đói, khát
- Sự trần truồng
- Sự đau yếu, tù tội.
- Sự trú ngụ, lữ khách
Tóm lại là nhu cầu hằng ngày của tha nhân, tức người đồng loại. như , chúng ta biết, Vị Thẩm Phán chí công là chính Chúa Giêsu, đồng thời là vị Vua nhân ái, mặc nhiên Người không bất công, Người không thể nào “lên án“ người vô tội.
Theo ý nghĩa Tin Mừng, Thiên Chúa muốn cho mọi người đều được sống cách bình đẳng, không phải chỉ có người giàu có mới sống được , còn những thân phận nghèo khổ, cơ cực thì phải sống lầm than , đau khổ.
Vì không phải ai cũng nghèo khổ, thì thế giới nầy không còn là một thế giới sống, mà là hỏa ngục, nơi đọa đày tội nhân. Hoặc, thế giới nầy không phải là nơi “cực lạc” vĩnh hằng, để ai ai cũng giàu có.
Thiên Chúa “đồng hóa” với người nghèo là để cho người giàu” tạo phúc” cho họ, giàu vật chất chưa đủ, còn phải giàu tâm linh. Tại sao, Thiên Chúa muốn đồng hóa với người nghèo, người đau khổ bất hạnh. Bởi vì, Thiên Chúa muốn cho họ giàu có “ân sủng” là chính Chúa, nơi Chúa, nơi “dựa” vũng chắc và cũng là nơi bù đáp : “ thỏa mãn “nhất cho người đau khổ.
Đau khổ là “bậc thang thánh thiện”, nếu người ta biết khai thác “ giá trị” của đau khổ. Vì, đau khổ sinh ra khiêm nhường, khiêm nhừơng sinh ra bác ái, bác ái sinh ra công phúc, vì bác ái chính là Thiên Chúa.
Vì thế, Đau khổ không phải là sự trừng phạt, mà là dịp để cho người nghèo lập công, và người giàu tạo phúc. Thiên Chúa yêu thương và “chia sẻ” chính mình, vì thế, Người muốn thế nhân chia sẻ với người khác. Chia sẻ là bản tính Thiên Chúa, không phải Thiên Chúa chủ trương “ lấy của người giàu chia cho người nghèo” một cách bất công , vô lý. Thiên Chúa đồng hóa với người bất hạnh vì Thiên Chúa muốn biểu lộ bản chất “tình yêu” chính là Thiên Chúa. Vì, Thiên Chúa cho đi chính mình, Thiên Chúa ban tặng chính Thiên Chúa cho người giàu cũng như kẻ nghèo. Thiên Chúa đòi hỏi yêu thương người nghèo, vì người giàu cũng đã được Thiên Chúa yêu thương rồi, khi nghe Đọan Tin Mừng hôm nay, người ta nghĩ Thiên Chúa “ bất công”, vì tại sao, Thiên Chúa lại yêu thương người nghèo đến độ đồng hóa với họ?!
Vâng, thưa quý vị, đây chính là điểm mấu chốt của vấn đề, mà có những học thuyết thế gian không thể “ bắt chước được. Như chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Maxs – Lênin, chủ nghĩa xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh chẳng hạn. bởi vì, những thứ chủ nghĩa nầy hoàn toàn là do con người, bởi con người mà ra., gọi là “ chủ thuyết “ có nghĩa là chỉ có “ nói “ là chính, chứ không làm.
Còn Thiên Chúa đã làm những gì Người nói, sở dĩ Lời Chúa hôm nay mang tính là “chung thẩm”, nhưng có được “ Lời lẽ” nầy là do “ Mầu nhiệm Cứu Độ”, mầu nhiệm làm Người của Con Thiên Chúa, là Đức Giêsu. – Kitô, Vị Vua nhân ái.
Kết cục chung thẩm không phải là người nghèo, người bất hạnh được tuyên dương, hay đề cao, hoặc tất cả người nghèo được lên Thiên Đàng, hoặc tất cả những ai ở tù, những ai vô gia cư, đau yếu , bệnh tật mà được lên Thiên Đàng hết đâu.
Nhưng, là những ai có điều kiện, hoặc gặp gỡ người bất hạnh, mà “ bỏ qua”, thì mặc nhiên căn cứ Lời Chúa hôm nay, họ sẽ trả lẽ.
Lạy Chúa là Cha Toàn Năng, Cha đã ban Thánh Tử Giêsu là VỊ THẨM PHÁN CHÍ CÔNG trong ngày sau hết. Xin cho những ai nghe Lời Chúa hôm nay được mau mắn thực thi, vì Lời Chúa dành cho kẻ công chính, cũng như kẻ bất lương, người giàu cùng kẻ nghèo, xin thương ban cho mọi người đều biết nhận ra tình Chúa cao vời mà đáp đền muôn một./. Amen
.
Lm Vũđình Tường
Thời đại vua chúa đã qua đi, ngày nay rất ít quốc gia còn sót lại hoàng tộc. Nếu có hoàng gia đóng vai trò biểu tượng của một thời đại vàng son đã qua mà không nắm giữ quyền hành lãnh đạo, chủ trì vận mạng dân tộc trong tay như thời xưa. Việc lãnh đạo đất nước nằm trong tay những người do dân cử. Điều này cho thấy không chủ thuyết, chủ nghĩa hay đảng phái chính trị nào tồn tại vĩnh viễn.
Giáo Hội mừng kính lễ Đức Kitô vua. Đức Kitô không phải là vua một chủ nghĩa, môt chủ thuyết mà là vua của tình yêu, vua bình an. Tình yêu là điều không thể thiếu trong cuộc sống, không có tình yêu không có sự sống thật; không tình yêu không có bình an thật. Tình yêu chân chính và nước của vua tình yêu luôn tồn tại. Tình yêu chân chính tồn tại muôn đời, vĩnh cửu bởi tình yêu đó được vua sự sống, vua tình yêu ban phát sự sống vĩnh cửu. Lễ Đức Kitô vua được cử hành để nhắc nhở nhân loại về sự tai hoạ, tàn phả nhân phẩm do các chủ nghĩa thời đại. Đức Kitô đến trần gian hướng dẫn con người về con đường chân lí, sự thật và sự sống và đường lối đó bị xã hội lên án, loại bỏ vì trái nghịch hướng dẫn của xã hội. Để triệt tiêu lòng nhân ái họ tìm cách giáng hoạ và kết án tử hình, đóng đinh Đức Kitô vào thập tự. Kitô hữu chia sẻ ơn vương quyền qua bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được mời gọi chia sẻ ơn vương quyền làm chứng nhân cho vua tình yêu qua cách sống yêu thương, tha thứ, cầu nguyện và cổ võ cho bình an. Đức Kitô luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần thế. Dù không nhìn thấy nhưng cảm nhận có Ngài gần bên khi chúng ta tuyên xưng công lí, cổ võ cho an bình và lên tiếng bảo vệ kẻ thế cô. Sống thực hành ơn vương giả của Kitô hữu là sống một đời sống tôn trọng sự thật, công bằng, bác ái do Đức Kitô giáo huấn. Khi trả lời cho Philatô, kẻ chất vấn Ngài, Đức Kitô đáp.
Tôi đến thế gian để làm chứng cho sự thật và ai làm theo sự thật thì nghe lời tôi Jn 18,37.
Mỗi khi chúng ta dám lên tiếng chống lại bất công, tranh đấu cho công lí, cho sự thật, cho bình an thực sự là lúc chúng ta đang sống ơn vương quyền của Đức Kitô bởi Ngài đến trần gian để làm chứng cho sự thật và sự thật đó là nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên ta, dựng lên vũ trụ và Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Mỗi khi chúng ta bị đối xử bất công, bị vu oan, cáo vạ vì lẽ công chính là lúc chúng ta đang chia sẻ nỗi khổ đau của Đức Kitô trên thập giá. Tất cả mọi cố gắng giải thích lệch lạc, xuyên tạc, cố gắng bẻ cong, uấn éo chân lí Đức Kitô rao giảng và sống đều thuộc về con người, do con người nguỵ tạo, đội lốt dưới hình thức xem ra có vẻ tốt lành, đều là giả tạo.
Hãy xuống khỏi thập giá, để chúng ta tin. Mat 27,42.
Mỗi lần chúng ta chống trả lại các cơn cám dỗ dưới mọi hình thức, kể cả kì thị, chia rẽ là chúng ta đang thực hành ơn vương quyền của Đức Kitô bởi chính Ngài đã chống lại các cơn cám dỗ, chiến thắng thần chết sự dữ, đập tan bóng tối của thần ác để sống lại vinh quang, đổi mới tạo vật, thiết lập thiên quốc vĩnh cửu, bình an. Sách Khải Huyền gọi Ngài là Đấng khởi đầu đổi mới vạn vật. Kh 1,5
Mỗi khi chúng ta nói thật, sống thật, làm chứng cho sự thật. Mỗi khi chúng ta làm chủ thói xấu con người mình, bắt chúng phải phục tùng ta chính là lúc chúng ta sống ơn vương quyền của Đức Kitô bởi chính Đức Kitô chiến thắng thần dữ, đập tan thần chết, kêu gọi chúng ta sống trong chân lí và sự thật. Đức Kitô không đến trần gian để thiết lập vương quốc trần thế nhưng thiết lập thiên quốc, kêu gọi con người sống tôn trọng sự thật, công lí và bình an vì mọi người đều do Chúa tạo dựng, đều là anh chị em trong Đức Kitô. Ngài là vua của bình an nên khi người ta chửi rủa, đánh mắng, thách thức Ngài luôn im lặng, không lên tiếng tranh biện. Tình yêu chân chính đòi hy sinh, thực hành, không phải để tranh biện, cãi lí. Kitô hữu được mời gọi sống công lí cho chính mình, cho anh chị em, cho xã hội và bảo vệ trái đất và vũ trụ do Chúa tạo thành.
.
Lm Trịnh Ngọc Danh
Về ngày phán xét chung, Đức Giêsu đã nói: “ Về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.”( Mt 24:36) Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy viễn cảnh ngày“Con Người sẽ đến trong vinh quang” để phán xét con người. Ngày ấy sẽ xảy ra như thế nào và số phận của mỗi người sẽ ra sao? Để được chúc phúc, phải tỉnh thức, sẵn sàngvà hành động thế nào?
“ Bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên và dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.” Và Người sẽ bắt đầu phán xét.
Như vào mùa gặt, chủ ruộng phân loại lúa tốt và cổ lùng, vào ngày phán xét chung Vị Thẩm Phán Tối Cao tách biệt chiên và dê. Lúa tốt và cỏ lùng sống chung trong một thửa ruộng, chiên và dê sống chung trong một đàn, người lành người dữ, người tin hay không tin đều thuộc cộng đồng nhân loại.
Với những người đứng bên hữu,Vị Thẩm Phán sẽ phán quyết: “ Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống…”; và với những người đứng bên trái, Ngài sẽ lên án: “ Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống…”
Vị Thẩm Phán Tối Cao không xét là giáo sĩ hay giáo dân, không dựa vào địa vị xã hội giàu hay nghèo; Ngài cũng không lấy tiêu chuẩn tham dự Thánh lễ nhiều hay ít, siêng năng đọc kinh, cầu nguyện hay biếng nhác… Được chúc phúc hay bị lên án là tùy vào tiêu chuẩn làm hay không làm, cho hay không cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, tiếp rước người khách lạ, người trần truồng cho áo mặc, chăm non kẻ yếu đau, thăm viếng người tù tội. Như vậy, tiêu chuẩn để Thiên Chúa phán xét loài người dựa trên hành vi bác ái yêu thương người đồng loại chứ không dựa trên lời nói suông. Mỗi lần chúng ta làmnhững việc yêu thương bác ái, phục vụ những người anh em bé nhỏ đang sống chung quanh chúng ta,là chúng ta làm cho chính Chúa.
Những người được thưởng và cả những người bị phạt, nếu thấy Chúa đói khát, trần truồng, ốm đau, tù đày, không biết có làm được như lời họ nói: “ Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” Cuộc sống của Đức Giêsu ở trần gian, cuộc khổ nạn chịu chết trên Thánh Giá đã tố giác lòng hèn nhát, dối trá của con người!
Nếu được hỏi: Tình yêu phải như thế nào, có lẽ tùy hoàn cảnh, tùy nhận thức, mỗi người chúng ta có những quan điểm khác nhau. Riêng thánh Augustine, tiến sĩ Hội Thánh đã trả lời câu hỏi trên như sau:” Tình yêu có đôi tay để giúp đỡ người khác. Tình yêu có đôi chân để mau mắn đến với những ai nghèo khó và những ai cùng quẫn. Tình yêu có đôi mắt để nhìn thấy những nỗi khổ tâm và sự thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để lắng nghe những tiếng thở than và những lời ai oán của người khác. Hình dạng của tình yêu là như thế.”
Chúa Kitô là Vua Tình yêu.Vương quốc của Ngài là Vương Quốc tình yêu. Muốn vào Vương Quốc của Ngài, chúng ta phải trở thành công dân của Vương Quốc ấy, phải có lòng yêu mến Chúa và yêu mến anh em thật sự. Đến ngày phán xét, chúng ta bị kết án không phải vì những lỗi lầm đã phạm,mà là vì những tội lỗi do thiếu sót trong Luật Yêu thương của Thiên Chúa.
Nhờ đức tin, chúng ta được nên công chính, được ơn cứu độ; nhưng đức tin đích thực sống động phải là đức tin đi đôi với việc làm. “ Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”. ( Gc 2: 17)Hành động của đức tin trong cuộc sống hôm nay quyết định cho số phận mai sau.
.
JM. Lam Thy
Cũng đã có một số người chê đạo Công Giáo vẫn còn duy trì chế độ quân chủ (vua làm chủ) lỗi thời, vẫn sùng bái tôn thờ một vị Giáo chủ một triều đại cách đây 2000 năm gọi là Vua Giê-su, thậm chí còn coi vị Giáo chủ ấy là Vua cả vũ trụ. Cái chế độ quân chủ ấy vẫn được tiếp nối đến tận ngày nay và gọi những vị Giáo chủ là Giáo hoàng (hoàng: vua), gọi nơi làm việc của Giáo hoàng là thủ đô (Giáo đô La Mã) và gọi bộ máy hoạt động là triều đình (Giáo triều Rô-ma). Trong khi đó, thế giới đã hầu như không còn chế độ quân chủ, mà hầu hết đều theo chế độ dân chủ. Cứ kể xét về mặt từ ngữ, về tên gọi, thì nhận định trên không sai. Nó cũng không khác bao nhiêu với những quan điểm nhận định, đánh giá con người qua cái áo, qua bộ cánh (sang trọng hay thấp hèn) và như thế là đã quên mất cái cốt lõi của vấn đề, bởi “cái áo không làm nên thầy tu”.
Thực thế, ngay như ở Việt Nam cũng đang áp dụng một chế độ được gọi là dân chủ, gọi bộ máy chính quyền là nơi tập trung dân chủ, và khẩu hiệu được nêu lên thật… hoành tráng: “Dân làm chủ”. Dân được làm chủ, nhưng lại do “chính quyền quản lý” và đặc biệt là “Đảng lãnh đạo”. Đồng thời, nơi gọi là “tập trung dân chủ” (bộ máy chính quyền) thì hầu hết phải là những đảng viên gộc, còn giai cấp lãnh đạo chính quyền phải là những “chóp bu” (cấp lãnh đạo) của Đảng. Nói tóm lại, tất cả đều do Đảng cầm quyền sinh sát. Thế đấy! Và có lẽ được làm chủ như vậy nên ông chủ (dân ngu khu đen) lúc nào cũng… méo mặt, khốn đốn trước quý vị đầy tớ! Không chỉ ở Việt Nam, mà cũng vẫn còn nhiều nơi trên thế giới chỉ dân chủ ở cái quốc hiệu, ở cái tiêu đề trên những văn bản pháp quy, ở những khẩu hiệu… Ôi chao! Chẳng lẽ cái áo lại thực sự làm nên thầy tu hay sao? Thôi chẳng dám dông dài nữa, kẻo lại phạm huý, chạm nọc. Xin được chia sẻ vào chủ đề: Lễ Chúa Ki-tô Vua.
Như vậy thì phải hiểu như thế nào về thánh hiệu Đức Ki-tô Vua Vũ Trụ? Thời quân chủ, vua được trọng vọng ví như con rồng: thân thể của vua đựơc gọi là mình rồng (long thể: 龍 體), mặt là mặt rồng (long nhan: 龍 顏), râu là râu rồng (long tu: 龍 鬚), nơi vua ở là điện rồng (long điện: 龍 殿), áo vua mặc là áo rồng (long bào: 龍 袍), ghế vua ngồi là ghế rồng (long ỷ: 龍 袍), giường vua nằm là giường rồng (long sàng: 龍 床), xe vua đi là xe rồng (long xa: 龍 車). Chưa hết, vì là rồng nên chỗ vua ngồi tại triều đình phải là một cái ghế được chạm khắc hình rồng và sơn son thếp vàng choáng lộn, gọi là ngai vàng (hay “bảo toạ”: 寶 座). Đến khi vua chết thì phải tìm mạch rồng (long mạch: 龍 衇) mà táng xác và bắt cả nước phải để tang (quốc tang: 國 喪).
Cái gì cũng rồng hết trơn, chỉ khác một điều, ấy là rồng thì phun nước mà vua thì hét ra lửa, mửa ra khói. Khiếp quá! Còn ông vua Giê-su thì sao? Đó chỉ là một người xuất thân trong một gia đình lao động nghèo ở một làng quê nghèo và hẻo lánh; là con của một ông thợ mộc trầm lặng và một bà nội trợ hiền lành; ăn mặc thì xuềnh xoàng, tụ họp môn đệ (kiểu như họp triều đình) để giảng dạy khi thì trên một bãi cỏ, lúc thì ven đường đi, bên bờ giếng, trên triền núi, nếu có tụ họp trong nhà thì lại là nhà của một bệnh nhân hay một người nghèo kiết xác; di chuyển thì đa phần là lội bộ hơn là cưỡi ngựa hoặc đi xe, đến khi chết thì bị nhục hình chết treo trên thập giá và được môn đệ táng trong hang đá. Vậy đó! Như vậy mà gọi được là vua sao?
Hoá cho nên, nếu chỉ căn cứ vào bộ vó bên ngoài thì không thể đánh giá đúng chất lượng được. Xanh vỏ đỏ lòng, “tốt mã giẻ cùi” (1) cũng là lẽ thường tình thế sự. Thực ra, cũng không phải tất cả những ông vua phong kiến (kể cả những ông vua hiện đại được gọi bằng tên khác như: thống chế, tổng thống, thủ tướng, quốc trưởng, chủ tịch nước…) đều xấu xa, đáng lên án. Cũng có nhiều những ông vua thương dân như con, biết “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của mọi người” (“tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” 先 天 下 之 忧 而 忧,后 天 下 之 乐 而 乐 ), rất xứng đáng là những bậc minh quân trị vì dân nước. Với Đức Giê-su thì vì Người là Con của Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, điều này không phải chỉ do Người tự xưng (đến nỗi đã bị nhóm Pha-ri-sêu cho là phạm thượng – Mt 26, 65), mà còn được chính Thiên Chúa Cha phán bảo khi Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan (Mt 3, 1-17), khi Người biến hình trên núi (Lc 9, 28-36), đồng thời Chúa Thánh Thần còn linh hứng, mạc khải cho các Thánh sử, các vị tiên tri, ngôn sứ nữa.
Đức Giê-su Ki-tô chính là ”Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình.” (Cl 1, 15-16). Người là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, muôn loài, như vậy Người là chủ muôn loài, chủ vũ trụ (Vua vũ trụ) cũng là lẽ đương nhiên. Đó là xét về mặt danh nghĩa, nhưng còn mặt thực chất của vấn đề, và cũng là điều quan trong nhất, ấy là Người đã vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Không cần nói đến những phép lạ, những linh hứng, mạc khải, mà chỉ cần suy niệm vào chính cuộc đời trần thế của Người (từ cách sống, cách giảng dạy, cách chữa trị bệnh nhân, đến chính việc hy sinh cả tính mạng mình vì yêu thương loài người tội lỗi), cũng đủ để xác tín Người chính là Vua – VUA TÌNH YÊU. Và chính điều này một lần nữa khẳng định Đức Giê-su Ki-tô thật sự là vua trên hết các vua, chúa trên hết các chúa, Người chính là VUA VŨ TRỤ vậy.
Ngày 11/12/1925, Đức Giáo hoàng Pi-ô XI thiết lập lễ kính trọng thể CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ VUA, với lời nhắc nhở cộng đồng dân Chúa rằng: Chúa Giê-su Ki-tô, Con của Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, chính Người là Vua vũ trụ, Vua muôn loài. Người không những là Vua của từng cá nhân, từng gia đình mà còn là Vua của tất cả mọi loài, mọi người, mọi dân tộc, là Vua trên hết các vua ở trần gian này. Vương quyền của Người chi phối toàn thể vũ trụ, mặc dù vương quyền ấy là linh thiêng, vĩnh cửu, không lệ thuộc vào không gian, thời gian hữu hạn, không thuộc về thế gian (Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao? ” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” – Ga 18, 36-37).
Lịch sử cứu độ đã khẳng định Đức Giê-su Ki-tô là Vua không theo nghĩa chính trị hẹp hòi của trần thế với những ưu thế tuyệt đỉnh về vật chất trong một quốc gia như những vua chúa gian trần. Sau đó, tại Công đồng Va-ti-ca-nô II, khi canh tân Phụng vụ, Giáo hội đưa thêm vào một ý nghĩa mới: “ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ, VUA VŨ TRỤ” (Giáo hội thừa nhận đặc tính vũ trụ và cánh chung được thể hiện cụ thể và đầy đủ nhất nơi mầu nhiệm Giê-su Ki-tô, vì thế nên Lễ này được đặt vào đúng vị trí của nó: Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, thay vì như trước đó, Đức Pi-ô XI để vào CN trước ngày Lễ Các Thánh 01/11).
Không bút mục nào có thể kể hoặc ghi lại cho hết được những điều mà Đức Vua Giê-su đã nói, đã dạy và đã làm, thật đúng như lời Gio-an Thánh sử: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Quả thực nếu chỉ nhìn vấn đề bằng con mắt trần tuc thì ông Vua Giê-su là một ông vua không giống ai – một ông vua kỳ dị! Và vì thế cần phải có nhãn quan thần học để có thể suy niệm và chia sẻ Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô – Vua vũ trụ.
Muốn được vậy, người Ki-tô hữu hãy cầu nguyện và khắc ghi trong tâm khảm lời dạy của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-líp-phê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su: ”Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.” (Pl 2, 5-11).
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Ki-tô là Người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Giê-su Ki-tô Vua vũ trụ)
Chú thích: (1) “Tốt mã giẻ cùi”: Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia), “Giẻ cùi” có tên khoa học là: Urocissa erythroryncha. Đây là một loài chim có dáng vẻ bề ngoài (bộ lông và cái đuôi) rất đẹp. Tiếc rằng chúng lại hay ăn phân chó (“Giẻ cùi tốt mã dài đuôi, Hay ăn phân chó ai nuôi giẻ cùi?” – ca dao VN). Thành ngữ “Tốt mã giẻ cùi” có ngụ ý chỉ những con người chỉ chuộng vẻ hào nhoáng bên ngoài, nhưng thực chất bên trong thì chẳng có gì là tốt đẹp cả.
.
GÓP PHẦN XÂY DỰNG VƯƠNG QUỐC TÌNH THƯƠNG CỦA VUA GIÊSU
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 25,31-46.
(31) Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu. Bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. (32) Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê, (33) Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. (34) Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc. Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”. (35) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; (35) Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom. Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”.(37) Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống. (38) Có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc ? (39) Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ?” (40) Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”. (41) Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó”. (42) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn. Ta khát, các ngươi đã không cho uống. (43) Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu hay ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”. (44) Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu ?” (45) Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé mọn nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”. (46) Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời”.
- Ý CHÍNH:
Vào ngày tận thế, sau khi các thiên thần đã tập trung tất cả người chết được Chúa cho sống lại, Vua Giê-su sẽ tái lâm trong vinh quang để làm một cuộc phán xét chung (31). Người xét xử người ta không dựa trên những việc làm khác thường, nhưng trên thái độ và cách ứng xử của đức tin đối với tha nhân, nhất là yêu mến phục vụ Người hiện thân nơi những người nghèo hèn đau khổ về thể xác cũng như tâm hồn (40.45).
- CHÚ THÍCH:
– C 31: + Khi Con Người đến trong vinh quang của Người: Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến trần gian 2 lần: Lần thứ nhất Ngưới đến để thi hành sứ mệnh cứu thế, để dạy lòai người nhận biết Thiên Chúa và mở ra con đường lên trời là: “Bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Người” (x Mc 8,34). Lần thứ hai Người sẽ đến trong uy quyền và vinh quang của Con Thiên Chúa (x Mt 16,27), là Vua của vũ trụ vạn vật (x Mt 28,18) và là Thẩm Phán xét xử muôn dân để ban thưởng kẻ lành và trừng phạt kẻ dữ (x Mt 25,31-32).
– C 32-33: + Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái: Bấy giờ Đức Giê-su sẽ phân chia muôn dân thành hai lọai là chiên và dê. Chiên và dê là hai lòai giống nhau. Nhưng đặc tính của con chiên là hiền lành, còn đặc tính của con dê thì hay phá phách chuồng trại. Chiên có giá trị kinh tế hơn dê nhờ bộ lông dầy được xén từng thời kỳ, và được dùng làm len để đan áo ấm.
– C 34: + Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha ta chúc phúc…: Những người được xếp bên phải là những tín hữu sống theo “Tám Mối Phúc thật” (x. Mt 5,1-12), thực hành bác ái phục vụ Chúa hiện thân nơi những người đau khổ bất hạnh (x Mt 25,35-36). Còn những người bên trái là những kẻ vô tín, thể hiện qua thái độ làm ngơ trước những người đau khổ bất hạnh của người khác (x Mt 25,41-45).
- CÂU HỎI:
1) Đức Giê-su đến trần gian mấy lần ? Người đến thứ nhất để làm gì ? Người sẽ đến lần thứ hai khi nào và nhằm mục đích gì ? 2) Trong ngày tận thế Đức Giê-su sẽ phân chia lòai người thành hai lọai người là những lọai nào ? 3) Chiên và dê khác nhau ở điểm nào? 4) Những ai được xếp vào lọai “chiên” bên tay phải, và những ai được xếp vào loại “dê” bên tay trái ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Chúa phán: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,45).
- CÂU CHUYỆN:
1) “HOÀNG TỬ VÀ NGƯỜI HÀNH KHẤT”:
Cách đây 300 năm, nhà văn MARK TWAIN nước Anh đã viết câu chuyện “Hoàng Tử và người hành khất”, nội dung kể về hai cậu bé: một là hoàng tử EDWARD xứ Wales, và hai là đứa trẻ bụi đời tên là TOM CANTY. Dù khác nhau về giai cấp, nhưng hoàng tử Edward muốn làm bạn với Tom. Có điều lạ là cả hai lại có khuôn mặt rất giống nhau như hai anh em sinh đôi.
Một ngày kia, hoàng tử Edward đề nghị chơi trò hoán đổi địa vị, bằng cách cho Tom Canty làm hoàng tử, được mặc quần áo sang trọng và được vào sống trong hoàng cung, còn mình thì mặc bộ quần áo rách nát của Tom và hằng ngày đến sống trong khu ổ chuột trong hầm cầu. Ban ngày hoàng tử Edward nhập bọn với đám người hành khất đi xin ăn, đêm về phải nằm ngủ dưới nền đất tối tăm lạnh lẽo. Nhưng cũng nhờ sống giữa những người nghèo và sinh hoạt như một người nghèo mà hoàng tử Edward đã trải qua đủ nỗi khổ nhục những người nghèo phải chịu đựng. Một thời gian sau, khi không còn hứng thú với trò chơi này, Edward đã đến hoàng cung gặp Tom Canty đang đóng vai hoàng tử để yêu cầu hoán đổi địa vị lại như trước. Nhưng do đã quen với lối sống giàu sang nên Tom không những đã từ chối không chịu hoán đổi trở thành kẻ bụi đời mà hắn còn tố cáo khiến Edward bị tống giam vào ngục, với tội danh nhục mạ hoàng tử. Trong phiên tòa xét xử xác minh thật giả, với trí thông minh đối đáp, kèm theo những chứng cớ cụ thể về gia thế, Edward đã chứng minh mình mới là hoàng tử thật sự và đã giành lại quyền lên làm vua thay vua cha mới băng hà. Từ khi lên làm vua, do đã trải nghiệm cuộc sống nghèo khổ, tân vương Edward đã đặc biệt quan tâm đến những người nghèo khổ và trở thành ông vua liêm chính và nhân ái trong lịch sử nước Anh.
2) LÒNG MẾN CHÚA THỰC SỰ ĐƯỢC BIỂU LỘ QUA HÀNH ĐỘNG YÊU NGƯỜI:
Trong tác phẩm: “Thị kiến của người Kitô hữu” (The Christian Vision), nhà văn JOHN POWELL đã kể một chuyện cổ xưa của người Ái Nhĩ Lan như sau:
Một hôm có một ông vua đã gần đất xa trời mà vẫn không có hoàng tử nối ngôi. Vua bèn sai sứ giả thông báo khắp nơi sẽ mở một cuộc thi tuyển chọn hoàng tử. Mọi thanh niên có tướng mạo tốt và được quan chức địa phương tiến cử sẽ được ghi danh lên kinh đô ứng thí. Chính nhà vua sẽ đích thân sát hạch các thí sinh về lòng mến Chúa yêu người, là điều kiện trở thành ông vua tốt.
Bấy giờ có một thanh niên tướng mạo phi phàm và sống đạo rất tốt nên được dân chúng trong vùng và viên quan chức địa phương đồng ý tiến cử về hoàng cung dự thi. Nhưng có điều anh này gia cảnh quá nghèo, có mẹ già đau ốm liên miên, nên hằng ngày anh phải làm người khuân vác trong chợ để kiếm sống. Anh cũng không đủ tiền mua được một bộ quần áo tươm tất đi dự thi, và mua lương khô mang theo đi đường. Nhiều người góp tiền mua tặng anh một bộ quần áo và mua lương khô để anh mang theo đến thủ đô.
Sau một tháng liên tục ngày đi đêm nghỉ, chàng thanh niên đã đi đến thủ đô và từ xa đã nhìn thấy tòa lâu đài tráng lệ của nhà vua. Rồi bỗng có một lão ăn mày áo quần rách nát xuất hiện bên đường. Thấy anh, lão liền ngửa tay xin giúp đỡ: “Này cậu kia, lão đã bị nhịn đói và chịu rét run mấy ngày qua. Xin cậu dủ lòng thương cho lão ít đồ ăn cho đỡ đói”. Cảm thương hoàn cảnh của lão ăn mày, chàng thanh niên liền cởi chiếc áo khoác đang mặc, để đổi lấy chiếc áo cũ sờn rách nhiều chỗ vá của lão và chàng còn cho lão cả số lương khô còn lại. Rồi chàng tiếp tục đến hoàng cung. Bọn lính gác sau khi kiểm tra giấy tờ đã đưa chàng vào khu tiếp đón thí sinh phỏng vấn. Khi được gặp nhà vua chàng cúi mình bái lạy, rồi khi ngẩng mặt lên, chàng hết sức bỡ ngỡ, khi nhận ra đức vua đang ngồi trên ngai vàng chính là lão ăn xin mà chàng mới gặp. Chàng liền lên tiếng :
– Tâu Đức vua, có phải Đức Vua là người ăn xin ngồi bên đường mà thần vừa gặp phải không?
– Đúng thế. Đức Vua đáp.
– Vậy tại sao Đức Vua lại cải trang thành người ăn xin như thế ? Chàng hỏi tiếp.
– Trẫm phải đóng vai người ăn xin để kiểm tra lòng mến Chúa của người như thế nào? Vì một lòng mến Chúa thực sự phải được biểu lộ qua lối ứng xử với tha nhân, nhất là đối với những người nghèo hèn.
Trước vẻ mặt tuấn tú và sự ứng đáp khôn ngoan của chàng thanh niên, đức vua đã chọn chàng làm hoàng tử. Từ đó chàng được sống trong hoàng cung và ngày ngày học tập để trở thành một ông vua tốt.
3) NẾU TÔI BIẾT LÀ NGÀI…
NEN-SÂN MÊN-ĐƠ-LA (Nelson Mandela), vị Tổng thông da đen đầu tiên tại một nước có tệ “phân biệt chủng tộc” là Nam Phi, khi còn là một thanh niên, đã là lãnh tụ của một đảng phái lấy tên “Quốc hội Châu Phi” (ANC) bị cấm họat động. Vì đang ở trong thời kỳ đấu tranh dành quyền lực với đảng cầm quyền, nên NEN-SÂN buộc phải cải trang để hoạt động bằng cách ăn mặc cẩu thả và hóa trang thành nhiều người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Ông tin rằng khi hóa trang như thế, người ta sẽ không nhận ra ông, để ông có thể đi đó đây trong nước.
Lần kia, khi đi dự một cuộc họp kín tại một vùng quê nghèo miền GIO-HAN-NÉT-BỚC (Johannesberg), do một linh mục sắp xếp để NEN-SÂN nói chuyện về cách mạng với một số giới trẻ Công giáo. Khi ông đến nơi, người phụ nữ giữ cửa thấy cách ăn mặc lôi thôi đã không nhận ra ông nên từ chối không cho vào với lý do: “Ở đây không có chỗ cho lọai người như ông”. Nói xong chị ta đóng sầm cửa lại trước mặt ông.
Nhưng sau khi được biết người mới đến kia là ai, chị ta đã vội trở lại nói với NEN-SÂN rằng: ”Xin lỗi ngài về sự thất kính của tôi khi nãy, vì tôi đã không nhận ra ngài. Nếu như tôi biết đó là ngài, thì tôi đã mở rộng cửa ra đón và phục vụ ngài thật chu đáo”.
Tuy nhiên, dù Nen-sân giả dạng thành nhiều người khác, nhưng vẫn có một số người quen nhận ra ông. Một hôm, khi ông giả dạng làm một bác tài xế ở Gio-han-nét-bớc, đang dừng xe đón khách ở một góc phố, ông khóac chiếc áo ngoài bụi bặm và trên đầu đội một chiếc mũ nhàu nát, thì chợt thấy một anh cảnh sát đang sải bước tiến về phía mình. Ông nhìn quanh để tính lối thoát thân. Nhưng viên cảnh sát kia đã mỉm cười chào ông, anh ta lén đưa tay lên chào theo kiểu ANC, rồi bước đi theo một hướng khác. Những sự cố như vậy xảy ra nhiều lần, và NEN-SÂN cũng tạm yên tâm vì biết rằng có nhiều người Châu Phi thực tâm ủng hộ con đường đấu tranh với tệ phân biệt chủng tộc của chính quyền da trắng. Cuối cùng sau nhiều năm bị cầm tù, NEN-SÂN MÊN-ĐƠ-LA đã được thả ra và chiến thắng trong một cuộc bầu cử công bằng để trở thành vị Tổng thống da đen đầu tiên của nước Nam Phi.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng đang ẩn mình dưới nhiều hạng người đau khổ bất hạnh. Vậy bạn có nhận ra và ân cần phục vụ Người cách chu đáo không ?
4) ÔNG HOÀNG HẠNH PHÚC:
OSCAR WILDE đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là “ÔNG HOÀNG HẠNH PHÚC” (The Happy Prince) như sau :
Một Ông Hoàng kia sống rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một bệ cao dựng ở trung tâm thành phố đặt tên là “Ông Hoàng Hạnh Phúc”, hy vọng ông sẽ mang lại may mắn và hạnh phúc cho dân thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đã đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng nó cảm thấy một giọt nước từ phía trên rơi trúng đầu. Nhìn lên nó rất ngạc nhiên khi thấy đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng Hạnh Phúc. Thì ra ông Hoàng đang khóc.
– Tại sao ông khóc ? Ông là ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà !
– Từ khi được người đời đặt ta trên bệ cao và ta có thể nhìn thấy dân tình trong thành, ta rất đau lòng và không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Ta muốn có thể đến giúp những cảnh đời bất hạnh. Nhưng đôi chân ta lại bị chôn chặt vào bệ không thể đi đâu được. Chim có thể giúp ta làm việc giúp đỡ những người đang bị bất hạnh kia không ?
– Không được đâu, vì tôi phải bay đi Ai Cập để tránh cái lạnh của mùa đông đang đến.
– Ta chỉ yêu cầu chim giúp ta một đêm nay thôi.
– Được rồi. Bây giờ ngài muốn tôi làm gì giúp ngài ?
– Trong một túp lều ở đàng kia có một người mẹ đang khóc vì đứa con bị bệnh nặng, mà bà không có tiền đi mời bác sĩ đến khám bệnh cho toa mua thuốc. Chim hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem tặng cho bà ấy đi.
Chim én liền dùng mỏ quặp lấy viên ngọc ở chuôi kiếm và bay đến trao cho bà mẹ nghèo. Nhờ số tiền bán viên ngọc quý này mà bà mẹ đã chữa dứt bệnh cho đứa con.
Hôm sau ông Hoàng lại yêu cầu chim én nán lại thêm một đêm nữa để mang một viên ngọc khác đến giúp cho một người ăn xin sắp bị chết rét. Rồi hôm sau nữa chim lại đến giúp một người nghèo khác nữa bị vỡ nợ sắp phải tự tử. Cứ thế, hết ngày này đến ngày khác, chim én lần lượt lấy các đồ trang sức trên mình ông Hoàng mang cho những người nghèo khổ trong thành phố. Cuối cùng đến giữa mùa đông, trời trở lạnh nhiều và tuyết rơi đầy đường, và trên người ông Hoàng cũng không còn thứ gì đáng giá nữa. Vào một buổi sáng, người ta thấy con chim én đã nằm chết cóng dưới chân pho tượng của ông Hoàng. Bên dưới đường phố, mọi người đều cảm thấy hạnh phúc. Họ đâu biết rằng hạnh phúc họ có được là nhờ sự hy sinh của ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia giúp đỡ.
Còn chúng ta hôm nay, chúng ta có thể làm gì để mang lại hạnh phúc cho người chung quanh? Chúng ta có thể chia sẻ cơm áo vật chất và khiêm nhường phục vụ những người nghèo khổ bất hạnh chung quanh chúng ta không?
- SUY NIỆM:
1) Đức Giê-su thiết lập Nước Trời yêu thương bằng cái chết thập giá của Người:
Khi còn sống, Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta (Tê-rê-sa Cancutta) rất tâm đắc với đoạn Tin Mừng diễn tả cái chết của Đức Giê-su trên cây thập giá. Mẹ luôn bị những người đau khổ bất hạnh lôi cuốn. Dưới mắt Mẹ, những người này không những là những kẻ đáng thương, mà còn là hiện thân của Đức Giê-su đang chịu đau khổ và bị bỏ rơi trên thập giá. Nơi Mẹ Tê-rê-sa, tình yêu mến Đức Giê-su và tình thương những người bất hạnh hòa quyện vào nhau. Càng yêu Chúa Giê-su bao nhiêu thì Mẹ lại càng yêu những người bệnh tật đau khổ bấy nhiêu. Mẹ thường nhắc các chị em nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ sáng lập như sau: “Chị em cần tập nhìn thấy Đức Giê-su bị bỏ rơi nơi mỗi người bất hạnh mà chị em đang phục vụ, dù họ đáng kinh tởm đến đâu đi nữa”.
2) Đức Giê-su sẽ tái lâm để phán xét về lòng tin yêu trong ngày tận thế:
Tin Mừng lễ Ki-tô Vua hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su sẽ tái lâm vào ngày tận thế để xét xử muôn dân. Người sẽ tách biệt người lành kẻ dữ như mục tử tách biệt chiên khỏi dê. Người sẽ thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ cách công minh. Ngày nay Vua Giê-su cũng đồng hóa mình với những kẻ đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu, ở tù mà chúng ta gặp mỗi ngày (x. Mt 25,31-46).
Ngày nay dù đã được Chúa Cha tôn làm “Chúa” mọi loài, nhưng Đức Giê-su vẫn ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế. Người hiện diện trong bí tích Thánh Thể, trong Lời hằng sống, trong cộng đoàn hội hiệp nhau vì danh Chúa… Ngoài ra Người còn hiện thân trong những người đau khổ nghèo khó bệnh tật cần được trợ giúp. Có những lần chúng ta gặp Chúa mà không nhận ra Người, thậm chí còn đối xử tàn tệ với Người. Sau này khi đến trước tòa phán xét, chúng ta sẽ bị Vua Giê-su xét xử về tội đã bỏ qua không làm việc chia sẻ phục vụ Người nơi người nghèo đói bất hạnh.
3) Tình yêu được biểu lộ cụ thể bằng việc chia sẻ cơm áo và khiêm nhường phục vụ:
Ngày nay trong hình hài những kẻ hèn mọn, Đức Giê-su vẫn tiếp tục xin sự trợ giúp: Những nạn nhân bị bão lụt Miền Trung đang rất cần sự sẻ chia cơm áo; Những người mù lòa nghèo khổ đang cần được giúp mổ đục thủy tinh thể; Những kẻ mù chữ cần được cấp học bổng theo học lớp tình thương hay bổ túc văn hóa; Các trẻ em mồ côi đang cần được nuôi dạy trong những ngôi nhà mở; Những cụ già neo đơn cần được chỗ ở ổn định và được nuôi dưỡng tử tế; Những người nghiện ma túy, và những cô gái đang kiếm sống bằng việc bán thân xác … đang cần được giúp sống lương thiện và phục hồi nhân phẩm… Chúng ta sẽ làm gì cụ thể để khu phố ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, cho môi trường sống trở thành “Trời Mới Đất Mới” trong ngày tận thế.
4) Cần xây dựng Nước Trời đời sau bằng những việc bác ái cụ thể đời này:
Nếu Chúa Giê-su thực sự là Vua của hơn một tỉ người Công giáo trên thế giới, thì có lẽ xã hội chúng ta đang sống không còn bạo lực nghèo đói và biến thành thiên đàng tình yêu từ lâu rồi. Sở dĩ đến nay chúng ta vẫn chưa làm cho khối bột xã hội dậy lên men tình yêu, vì men tin yêu nơi chúng ta đã quá “đát”, đã hóa thành chai lì và mất phẩm chất. Ngày nay nhiều tín hữu thường chữa mình rằng: “Làm sao tôi có thể đi vào nhà tù để thăm nuôi tù nhân ? Làm sao tôi dám chứa chấp những khách lỡ đường không giấy tờ vào ở trọ nhà vì có thể gặp nguy hiểm ? Tôi lấy đâu ra nhiều tiền để chăm sóc các bệnh nhân HIV-AIDS, bệnh phong cùi ? …” Nếu chúng ta cứ lý luận như thế thì chúng ta sẽ không thể làm gì mà chỉ biết khoanh tay đứng nhìn. Nhưng thực ra vẫn còn nhiều việc cụ thể chúng ta dễ dàng thực hiện như: giúp một sinh viên nghèo vượt khó; Làm dấu báo nguy cho đi đường khỏi bị sụt cống; Thăm viếng an ủi tang gia có người thân mới qua đời hay thăm viếng một đôi vợ chồng có nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc …
- THẢO LUẬN:
Một giáo sư đại học thành phố Chi-ca-gô Hoa Kỳ đã đặt cho các sinh viên câu hỏi sau: “Bạn hãy cho biết: Gần đây nhất, bạn có giúp đỡ cụ thể cho một người nào cần sự trợ giúp hay không ?” Đây là một câu hỏi quan trọng mà mỗi buổi tối chúng ta cần phải tự hỏi mình, rồi hồi tâm sám hối và quyết tâm sống tình bác ái yêu thương là điều kiện để sau này chúng ta sẽ được hạnh phúc đời đời trong Nước Chúa.
- NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã cứu độ loài người chúng con bằng tình thương và sự hy sinh mạng sống mình trên thập giá. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đối xử với những người lương chưa nhận biết Chúa, những người nghèo khổ bất hạnh… Nhờ đó chúng con sẽ giới thiệu Chúa cho những ai đang đi tìm Chúa nhận biết và tin yêu Chúa để được hưởng ơn cứu độ.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
CHÚA GIÊSU VUA TÌNH YÊU – VUA CÔNG CHÍNH
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Cách đây mấy tuần, Việt Nam mời một tỉ phú Trung Quốc là Jack Ma nói chuyện với các bạn trẻ, ông đã đưa ra những lời khuyến khích cũng như thách thức người trẻ học theo ông. Báo chí muốn tôn ông này như một ông vua của sự thành công từ hai bàn tay trắng. Một số bạn trẻ Việt Nam ngưỡng mộ ông đến độ, một bạn đã quỳ xuống lậy và hôn chân ông. Hành động thiếu suy nghĩ và hết sức phản cảm của một bạn trẻ đang phản ánh tình trạng sống hời hợt, thiếu chiều sâu của một tầng lớp trong các bạn trẻ. Nhưng điều băn khoăn hơn đó là: nhà tỉ phú Jack Ma này giàu lên nhờ kinh doanh và điều khiển một mạng lưới cung cấp hàng giả, hàng nhái toàn cầu. Các nhà tổ chức không biết cố ý hay vô tình đã đưa một con người làm đồ giả, đồ nhái để làm gương cho các bạn trẻ. Như vậy chẳng khác gì họ tôn vinh những con người làm giàu bằng sự giả dối, hay đúng hơn là một tên ăn cắp trí tuệ của người khác.
Trong tuần cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, chắc chắn Ngài không phải là vua theo kiểu báo chí tôn vinh, nhưng Ngài thực sự là Vua, là Chúa, Đấng làm chủ và cầm quyền sinh tử mọi người, mọi vật và cả vũ trụ này. Dù con người có nhận biết Ngài hay không, thì Ngài vẫn là Vua, Đấng tạo dựng và đang tiếp tục điều khiển vũ trụ theo một trật tự lạ lùng, hài hòa và hết sức kì diệu.
Lời Chúa trong ngày lễ hôm nay cho thấy nét nổi bật nơi vị vua Giêsu, Ngài là vua Tình Yêu – Vua Công Bình. Tiên tri Ezekiel diễn tả Thiên Chúa là Vua tình yêu qua hình ảnh của một mục tử hết lòng yêu thương chăm sóc cho đoàn chiên của Ngài. Chúng ta biết rằng trong văn hóa Do Thái, tương quan mục tử và đoàn chiên là một tương quan hết sức đặc biệt. Đây không chỉ là tương quan giữa con người và đàn vật, mà giống như tương quan cha con, như người thân thiết ruột thịt. Vì thế, Thiên Chúa đã nói về tình thương của Ngài đối với dân, giống như tình thương của mục tử đối với đoàn chiên: Chính Ta sẽ chăm sóc chiên của ta, chính Ta sẽ kiểm đếm đàn chiên của mình sau những ngày chúng bị tản mác. Chính Ta sẽ quy tụ chúng và đưa chúng ra khỏi những ngày tối tăm mù mịt. Với những lời lẽ như thế, Thiên Chúa muốn diễn tả tình yêu đầy tràn Ngài dành cho dân của Ngài. Thiên Chúa khẳng định: Chính Ngài sẽ “dùng đôi tay, dùng sức lực” và tình thương của mình để chăm sóc cho đoàn dân chứ không cậy nhờ ai khác. Ngài chăm sóc dân Ngài bằng hết cả trái tim và tất cả tấm lòng yêu thương. Tiên tri cũng cho thấy, Thiên Chúa không chỉ yêu thương dân Ngài một cách chung chung, cũng không yêu thương như một đám đông, nhưng Ngài yêu thương chăm sóc cho mỗi người và từng người một cách cụ thể, riêng biệt theo từng hoàn cảnh mỗi người: Con nào bị lạc, Ta đi tìm. Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó. Con nào bệnh tật, Ta sẽ chăm sóc. Con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng.
Thiên Chúa cho thấy Ngài không chỉ là Vua Tình Yêu nhưng Ngài còn là vị Vua Công Bình khi khẳng định: Chính Ta sẽ xét xử giữa chiên và dê, sẽ phân biệt chúng. Trong dụ ngôn ngày chung thẩm, Chúa Giêsu đã giải thích rõ hơn về cuộc xét xử này khi dùng hình ảnh một phiên tòa thật uy nghi đáng sợ. Ngày Con Người ngự đến có đoàn tùy tùng là các thiên thần hầu cận. Ngài sẽ ngự trên ngai và ra lệnh triệu tập muôn dân quy tụ trước mặt Người. Cách diễn tả này cho thấy, ngày phán xét là ngày Thiên Chúa thể hiện sự công thẳng và công bình của một vị chúa tể nghiêm minh.
Ngày ấy, Vua Giêsu sẽ tách biệt rạch ròi người tốt và người xấu như mục tử tách chiên ra khỏi dê, người tốt thì được thưởng, người xấu sẽ bị loại trừ. Vua Công Bình sẽ trả lại sự công bằng cho mọi người mọi dân. Ngài thật công thẳng, nghiêm minh, không cả nể, không bỏ quên những việc tốt và cũng không làm ngơ trước việc xấu của con người. Mọi hành động tốt hoặc xấu đều được xét xử công khai. Các việc tốt sẽ được trọng thưởng cân xứng và các việc xấu, cũng như các việc đáng lẽ phải làm mà không làm, sẽ bị phạt tương xứng.
Vua Tình Yêu sẽ xét hỏi những điều gì? Ngài sẽ xét hỏi, khen thưởng hay luận phạt về một nội dung duy nhất, đó là sự chạnh thương, việc tốt lành mỗi người đã làm cho anh em. Vua Giêsu không hỏi về tiền bạc, bằng cấp, nhà cửa hoặc sự giàu sang, Ngài cũng không hỏi về thân thế, gốc gác, địa vị hoặc các mối quan hệ xã hội. Cả những người bên phải và bên trái, người tốt và xấu đều được thưởng hoặc bị loại trừ chỉ vì lý do: Khi xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta bị tù đày, các ngươi đã viếng thăm ta.
Cả những người được thưởng và bị phạt đều ngỡ ngàng thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ tôi thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống? Có bao giờ tôi thấy Chúa trần truồng mà cho mặc hay yếu đau mà thăm viếng đâu? Vua Giêsu đáp lại: Mỗi lần các ngươi làm như vậy cho một trong các anh em nhỏ bé nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta. Cũng vậy, những kẻ bị loại trừ thắc mắc và đã được trả lời: Vì Ta đói các ngươi không cho ăn… Mỗi lần các ngươi đã không làm gì cho các anh em bé nhỏ nhất của ta là các ngươi không làm cho Ta.
Như vậy, Vua Giêsu đánh giá cao và phân biệt người tốt và người xấu, người đáng thưởng và kẻ bị loại trừ ở chỗ, họ có một tấm lòng chạnh thương với anh em. Người có lòng chạnh thương và trái tim trắc ẩn sẽ dễ dàng rung nhịp và đưa tay ra trợ giúp cho anh chị em đang cần đến sự giúp đỡ của mình. Những người thực sự có trái tim chạnh thương, sẽ làm các việc bác ái chia sẻ một cách hết sức tự nhiên, không tính toán, không nghĩ gì khác, đến độ khi được khen thưởng, họ ngỡ ngàng thưa với Chúa: Có bao giờ tôi làm như Chúa đã kể ra đâu? Nhưng Thiên Chúa là Vua Công Bình, Ngài không không bao giờ quên một việc tốt, việc yêu thương bác ái, dù nhỏ bé, mà một người đã làm cho anh em mình.
Cũng vậy, nhửng kẻ bị loại trừ là những người đóng cửa lòng mình lại, để trái tim mình bị khô cứng không còn chạnh thương, không còn xúc động trước nỗi đau khổ của anh chị em. Họ bị Thiên Chúa quở trách, loại trừ, vì họ đã không mở rộng vòng tay, mở rộng lòng với anh em, đã làm ngơ trước những nhu cầu của họ. Những người có trái tim hẹp hòi, có lòng chai cứng với anh em như thế sẽ không phù hợp với Nước Trời là nơi đầy ắp tình yêu thương. Những người này chỉ thích hợp với những nơi đầy hẹp hòi và ích kỉ là hỏa ngục mà thôi.
Thưa quý OBACE, tôn vinh Chúa là Vua Tình Yêu, Vua Công Bình, chúng ta được mời gọi để sống xứng đáng là dân của Ngài, tức là những người biết sống yêu thương; đồng thời tôn Ngài làm Chúa, làm Vua và làm chủ cuộc đời chúng ta. Các bậc làm cha mẹ hãy để cho Vua Giêsu là chủ và điều khiển gia đình của mình. Ngài sẽ điều khiển mọi thành viên biết sống theo tình yêu và biết chạnh thương quan tâm đến nhau, bằng việc làm yêu thương cụ thể. Tôn vinh Chúa Giêsu là Vua Công Bình, chúng ta được mời gọi sống theo sự công bình của Chúa, gạt bỏ khỏi gia đình tất cả sự gian dối, gại bỏ khỏi công việc làm ăn những gì mờ ám, quanh co. Nhất là hãy để Chúa thực sự làm chủ điều khiển mọi hành vi, lời nói và việc làm của gia đình.
Nhiều bạn trẻ ngày nay bị cuốn hút bởi các thần tượng là những người giàu có, thành đạt, thậm chí tôn những người này làm vua của mình. Các bạn đừng quên rằng: Chỉ có Vua Giêsu mới thực sự là lý tưởng, là gương mẫu cho chúng ta. Ngài không hứa hẹn cho chúng ta một cuộc sống giàu sang vật chất, nhưng chắc chắn Ngài có thể giúp chúng ta trở thành giàu có trong tâm hồn, giàu lòng yêu thương trắc ẩn, giàu sự nhân ái bao dung. Hãy để Ngài làm vua, làm chủ cuộc đời chúng ta, Vua Giêsu sẽ chăm sóc chúng ta bằng tình thương mục tử của Ngài và sẽ ban tặng chúng ta trái tim yêu thương của Ngài. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Mỗi lần nghe bài hát “Chuyện ngày cuối năm” của nhạc sĩ Song Ngọc, trong tôi đều dâng trào cảm xúc: “Cuối năm ngồi tính lại sổ đời, ba trăm ngày vui đã qua mất rồi. Đời mình lại tay trắng tay, công danh thì chưa được thấy, năm tháng dài vẫn còn bôn ba”. Đó là tình cảm rất thực của một con người khi nhìn lại một năm đã qua.
Chúa Nhật 34 Thường niên là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, cũng là dịp để chúng ta nói “chuyện ngày cuối năm”; là dịp để “ngồi tính lại sổ đời”, nhưng không phải là chuyện “công danh, nợ duyên một năm lỡ rồi”, mà là chuyện “khi Con Người đến trong vinh quang” (Mt 25, 31).
“Con Người” là nhân vật huyền bí trong các sách Khải Huyền của người Do Thái. Hôm nay “Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người” để xét xử “các dân thiên hạ”, một đặc quyền thuộc về Thiên Chúa. Con Người đó cũng chính là Mục Tử được tiên tri Êdêkien nói đến trong bài đọc thứ nhất, Người sẽ “thân hành kiểm điểm đàn chiên” ( Ed 3411b); “Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê”( Mt 25, 32 b). Đó chính là vương quyền của Thiên Chúa đã trao ban cho Đức Kitô, vào thời kỳ viên mãn, nghĩa là ngày tận thế. Người được trình bày như “Đức Vua” xét xử công minh… Tất cả những điều đó được thể hiện rõ trong dụ ngôn về ngày phán xét.
Dụ ngôn này để trả lời cho câu hỏi đâu là người môn đệ chân chính được đặt ra ở phần đầu của Tin Mừng Matthêu: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa’ là được vào nước trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21). Như vậy người môn đệ chân chính của Đức Kitô là người “thi hành ý muốn của Cha Thầy”, mà ý muốn đó được thể hiện rõ trong đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe: “Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).
Như vậy Đức Giêsu đã làm nỗi bật điều mà Người cho là bản chất của “sách các ngôn sứ và Lề Luật”, là lòng yêu thương. Nó không chỉ dành riêng cho người Do Thái thời bấy giờ, mà Đức Giêsu còn muốn mở rộng và trở thành ánh sáng cho muôn dân, để từ đây tiêu chuẩn duy nhất để được vào Nước Chúa không phải là những gì làm cho chính Chúa, mà là làm cho “những kẻ bé mọn”.
Ánh sáng lời Chúa ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ cho thấy vương quyền của Đức Kitô dành cho những “kẻ bé mọn”. Vì lẽ đó mà Đức Thánh Cha Phanxicô chọn Chúa Nhật 33 Thường Niên, trước lễ Chúa Giêsu Kitô là Vua làm ngày thế giới người nghèo, vì họ chính là vương quyền của Đức Kitô, những gì làm cho họ là làm cho chính Chúa.
Từ đó chúng ta ý thức đến mọi hành động của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, vì những gì chúng ta “làm cho một trong những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa”. Ở đây không chỉ là việc làm phúc bố thí, lo cho người nghèo, nhưng là sự ảnh hưởng từ cuộc sống của chúng ta trên kẻ khác, nhất là những người Chúa đã trao phó cho chúng ta: Linh mục đối với giáo dân, cha mẹ đối với con cái, thầy cô giáo đối với các em học sinh, người lớn đối với trẻ nhỏ, người Công Giáo với anh chị em tôn giáo bạn…
Trong 3 năm Giáo hội đặc biệt quan tâm đến các gia đình, đời sống và sự giáo dục của cha mẹ chính là việc “làm cho những kẻ bé mọn”, là những đứa con của họ. Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm trong giới trẻ ngày càng nhiều và nghiêm trọng; đành rằng có nhiều yếu tố gây nên tội ác, nhưng trước hết phải kể đến cách giáo dục trong gia đình. Sau khi thi hành án tử với Nguyễn Hải Dương, có một bài báo đã “tưởng tượng” ra bức thư cuối cùng của Nguyễn Hải Dương gởi cho người mẹ, nhưng chủ yếu là để cho những bậc phụ huynh ý thức về cách giáo dục con cái. Trong lá thư này, “tử tù” đã trách móc mẹ mình quá nuông chiều anh ta ngay từ nhỏ, muốn gì được nấy, nên anh ta đã phạm tội. Xin được trích đoạn cuối của lá thư tưởng tượng này: “Năm con 35 tuổi, khi con biết mẹ đã không còn đồng nào trong người, con đã đi cướp của giết người. Khi con nghe thấy họ tuyên án tử hình, mẹ đã khóc và trách ông trời không công bằng, vất vả cả đời vì con, vậy mà cuối cùng lại ra nông nỗi này. Cuối cùng con đã biết, mẹ đã vì yêu con mà hết lần này đến lần khác cướp đoạt đi cơ hội trưởng thành của con, hết lần này đến lần khác bóp chết đi năng lực sinh tồn của con, lấy đi trách nhiệm đối với cuộc đời của chính con. Hóa ra cho đến lúc cận kề cái chết, con vẫn chưa trưởng thành. Mẹ đã dùng phương pháp sai lầm và vất vả cả đời vì con cái, để đổi lấy sự đau khổ cho cả 2 thế hệ. Hóa ra giáo dục con cái không có cơ hội để lặp lại lần thứ 2, hóa ra, mẹ đã tự tay đưa con lên đoạn đầu đài… Mẹ hãy bảo trọng! Ngày mai con phải đi rồi. Hy vọng ở một thế giới khác, con có thể học được cách có trách nhiệm với chính mình, tự mình tìm được hạnh phúc cho chính mình…”
Và mỗi người trong mỗi hành động của chúng ta đều có ảnh hưởng trên người khác. Nếu hành động tốt, dù không ai biết cũng góp phần làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp. Ngược lại, nếu hành động xấu thì dù thầm kín cũng sẽ làm mất đi vẻ đẹp cho cuộc đời.
Đức Giêsu đã đồng hóa mình với những kẻ bé mọn. Vì vậy hãy nhận ra vẻ đẹp của Ngài nơi mọi người, nhất là những người nghèo khổ, thấp kém nhất. Khi nhận thức được phục vụ con người là phục vụ Thiên Chúa thì chắc chắn chúng ta sẽ cố gắng hết sức để làm những điều tốt đẹp cho nhau. Chính lúc đó vương quyền của Đức Kitô sẽ được tỏa rạng, vì sức mạnh của Thiên Chúa chính là tình yêu.
Để kết thúc, xin được chia sẻ 10 quyết tâm của Đức Thánh Cha Phanxicô trong năm mới 2016 như là những gợi ý để chúng ta bắt đẩu bước vào năm phụng vụ mới 2018:
- Không nói xấu người khác
- Không bỏ phần ăn dư thừa của mình
- Dành thời gian cho người khác
- Chọn những món rẻ tiền hơn
- Đích thân thăm viếng người nghèo
- Không lên án người khác
- Làm bạn với những ai bất đồng với chúng ta
- Thực hiện cam kết : ví dụ như đời sống Hôn Nhân
- Cần có thói quen kêu cầu Thiên Chúa
- Là ngừoi kitôhữu vui tươi.
Lạy Chúa, xin cho vương quyền của Chúa tỏa rạng trong chính đời sống chúng con qua cách sống yêu thương phục vụ mọi người. Xin cho chúng con luôn tâm niệm “Hãy làm mọi sự vì Đức Ái” (!Cr 16, 14)
.
Lm. Giuse Nguyễn văn Nghĩa
Tin Mừng thánh Matthêu chương 25 mẹ Hội Thánh đưa vào trong Thánh Lễ cuối năm Phụng vụ, hình như hơi gai chướng. Sự gai chướng này không nguyên chỉ vì tước hiệu Vua vũ trụ mà Hội Thánh suy tôn Thầy Chí Thánh và còn cả nơi nội dung lời giảng dạy của Người qua dụ ngôn “cuộc phán xét chung”.
Hình ảnh của một minh quân trong lịch sử quá hiếm hơi so với nhiều ông vua gian ác, độc tài, chuyên chế. Nghĩ đến thể chế phong kiến người ta dễ có tâm tình không mấy thiện cảm. Đã là quân chủ với một ông vua cai trị kiểu cha truyền con nối thì sự chuyên chế hà khắc thường xảy ra. Thế mà Hội Thánh vẫn không ngần ngại suy tôn Chúa Kitô với danh hiệu Vua vũ trụ. Qua danh hiệu này Hội Thánh không chỉ nhìn nhận quyền tối thượng của Đức Kitô trên mọi vật mọi loài thọ tạo, hữu hình và vô hình, mà còn tuyên bố với mọi người về niềm hạnh phúc và vinh dự của mọi loài thọ tạo khi có Đức Kitô làm vua của mình.
Đã là loài thọ tạo thì phải thần phục Đấng dựng nên mình. Tuy nhiên chúng ta không sống tâm tình thần phục như nguời nô lệ. Đấng xứng đáng là Vua, là chủ tể chúng ta đã tự nguyện làm anh cả giữa loài người. Đấng tạo thành đã tự nguyện trở nên con của loài người. Và đặc biệt Người đã chọn hạnh phúc của con người, của từng người làm vinh quang của chính Người. Có thể nói không ngoa ngữ chút nào: Người tự nhận số phận của con người, của từng người, nhất là những người yếu thế, kém phận, làm số phận của chính Người.
Chúa Kitô làm vua của một vương quốc mà trong đó mọi người từ cổ chí kim đều là con dân của Người. Chúng ta hãnh diện và vui mừng vì vương quốc mà Chúa Kitô thống trị là một vương quốc mà trong đó “dân vi quý, dân vạn đại”. Chúng ta vui mừng và hãnh diện trong vương quốc này vì vị Vua cai trị chúng ta là Đấng có thể nói theo kiểu phàm nhân rằng “luôn lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ”. Chúng ta lại càng hãnh diện và vui mừng vì vương quốc Chúa Kitô thiết lập là một vương quốc mà trong đó không một ai là đáng bỏ đi, không một ai là thành phần hạ đẳng.
Khi các người làm hay không làm điều tốt cho một trong những kẻ bé mọn này là các ngươi đã làm hay không làm cho chính Ta (x.Mt 25,31-46). Hiến pháp, luật lệ của vương quốc này thật đơn giản. Đó là phải sống cho có lòng, có tâm với nhau, đặc biệt với người anh chị em yếu thế, kém may mắn cận kề chúng ta.
“Thầy bảo thật cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Và Chúa Giêsu đã quảng diễn sự phải “công chính hơn” là không được phép loại bỏ bất cứ một ai dù chỉ là trong cung cách hành xử, trong tâm trí. Không loại bỏ tha nhân chưa đủ, Người còn đòi hỏi phải biết liên đới với tha nhân trong hạnh phúc của họ. “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Dĩ nhiên, nếu vì lỗi của ta thì việc bỏ của lễ lại để đi làm hòa trước đã, là điều dễ hiểu. Còn nếu không phải do lỗi của ta mà do lỗi của người anh em, thì ta cũng phải làm như thế. Nếu không, ta sẽ mắc phải món nợ tình yêu, khi ta thờ ơ với số phận của người anh em mình. Người có lỗi, người có tội là một trong những bé mọn mà ta cần quan tâm nâng đỡ. Mẹ Hội Thánh đã hiểu chân lý này khi dạy chúng ta những mối thương người: “Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội…”
Không ai có thể lên trời “một mình”. Không ai có thể làm con dân Nước trời với sự ích kỷ, với thái độ bàng quan, hững hờ trước người anh em. Mặc dù vẫn có đó sự gai chướng của hình ảnh Vị Quân Vương do quá khứ lịch sử nhân loại. Thế nhưng đã đón nhận chân lý trong niềm tin thì chúng ta cùng với toàn thể thụ tạo phải thần phục tuyệt đối Đấng tạo thành nên mình. Đã con thần dân của vương quốc tình yêu thì ta phải sống theo thể chế và luật lệ của vương quốc mà thôi. Luật lệ và thể chế ấy không gì hơn là sự hiệp thông liên đới huynh đệ trong tình yêu của Vị Vua trên các vua đã yêu thương chúng ta. Đã có biết bao người xưa lẫn nay đã đón nhận sự gai chướng ấy và rồi họ đã cảm nghiệm nó thật là “êm ái và nhẹ nhàng”(x.Mt 11,28-30).
.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người và Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê”(x.Mt 25,32).
Người sẽ cho CHIÊN đứng bên phải và cho DÊ đứng bên trái. Bấy giờ Đức Vua phán với cùng người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”(x.Mt 25,33-34).
Đức Vua đó là ai ? Đó là Con Người. Con Người đó chính là Đức Giê-su Ki-tô. Vì Chúa nói: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có tất cả các Thiên Sứ theo hầu. Bấy giờ Người ngự trên ngai của Người”(x.Mt 25,31). Đức Giê-su Ki-tô là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân nước, là Vua mọi tâm hồn con người. Ngài là Vua nhưng không thống trị mà nhân lành như người Mục Tử. Ngài yêu thương tất cả mọi người cũng như thương xót mọi vật. Nhưng ai sẽ được hưởng tình yêu thương và lòng thương xót của Ngài ? Đó là những CON CHIÊN.
Những CON CHIÊN này đã làm gì ? Họ đã giúp đỡ người khác: đói thì cho ăn; khát thì cho uống; thấy ai mình trần thì cho mặc; ai đau yếu thì đến thăm; ai ở tù thì đến hỏi han. Thế nhưng cho người ta ăn, cho người ta uống, cho người ta mặc, đi thăm viếng hay an ủi người ta thì có liên quan gì đến Chúa? Có chứ. Đức Vua Giê-su đã nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”(x.Mt 25,40).
Có làm thì có thưởng. Đức Vua Giê-su nói với những CON CHIÊN này: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”. Ta làm ở đời này, thì ta được Chúa thưởng ở đời sau. Làm một chút mà được hưởng sự sống muôn đời thì dại gì mà không làm. Ta hãy suy nghĩ, xem coi mình đã làm được gì chưa ? Nếu chưa thì phải bắt tay vào làm ngay hôm nay. Nếu làm ít thì phải làm cho nhiều; làm càng nhiều càng tốt. Càng làm nhiều thì phần thưởng càng lớn. Cùng vào thiên đàng như nhau nhưng phần thưởng không như nhau ạ. Điều này hợp với đức công bằng của Chúa.
Bởi đó ta đừng lo lắng hay thắc mắc khi nghe dụ ngôn Người làm vườn nho (x. Mt 20,1-16). Ta thấy người làm từ sáng sớm cũng được “một đồng”, mà người làm có một tiếng đồ hồ cũng lãnh được “một đồng”. “Một đồng” đó chính là được vào thiên đàng, nhưng phần thưởng không như nhau được. Người làm nhiều sẽ được phần thưởng khác với người làm ít chứ. Chúa là Đấng CÔNG BẰNG VÔ CÙNG mà, đâu có xử ép ta được. Cho nên ta phải cố gắng làm càng nhiều bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu.
Ta mà lười không làm thì coi chừng hãy nghe lời Đức Vua Giê-su phán: “Quân bị nguyền rủa, đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỉ và các tay sai của nó”(x.Mt 25,41). Đó gọi là cái chết thứ hai. Cái chết thứ nhất là cái chết tự nhiên của thân xác. Cái chết thứ hai là cái “chết” của linh hồn. Nói “CHẾT” mà lại không chết, vì linh hồn không bao giờ chết. “Cái chết thứ hai” nghĩa là linh hồn phải vào chốn cực hình muôn đời. Không chết mới khốn khổ khốn nạn. Thà là chết đi cho xong !
Có hai cái CHẾT thì Cũng có hai cuộc PHỤC SINH. Cuộc phục sinh thứ nhất là ta biết hoán cải ngay ở đời này, ngay từ bây giờ. Bởi đó mà ta phải lo bỏ làm việc xấu, để lo làm việc tốt, việc lành và giúp đỡ người khác. Cuộc phục sinh thứ hai là linh hồn ta được vào thiên đàng sau khi chết và đến ngày tận thế thì cả hồn lẫn xác – cái xác đã được phục sinh – vào thiên đàng hưởng hạnh phúc mãi mãi.
Nói vậy thì ta chỉ lo cho người khác, còn bản thân ta thì sao ? Đương nhiên ta cũng phải lo cho ta nữa chứ. Ta phải lo cho ta trước khi lo cho người khác đấy chứ. Ta cũng phải cho thân xác ta ăn, cho nó uống, cho nó mặc. Ta lo cho linh hồn của ta được tràn đầy ơn Chúa qua việc cầu nguyện, dâng lễ và làm những việc lành.
Ta phải lo cho ta sao cho DÊ trở thành CHIÊN. CON CHIÊN thì chất phát, hiền lành; dễ thương, dễ mến. CON DÊ thì không có hung hăng, dữ dằn gì hay đáng ghét chi. Nhưng tại sao Đức Vua Giê-su lại để DÊ bên trái? DÊ ở đây ta phải hiểu là “động từ” chứ không phải “danh từ”. Nghĩa là những ai hung hăng, dữ dằn, ghen ghét, ganh tị; làm hại, làm điều xấu, điều ác cho người khác.
Chúa đặt Chiên bên phải và Dê bên trái, đó chỉ là sự tách biệt thôi. Chứ không nhất thiết CON DÊ phải ở bên trái. Là CON DÊ mà không “DÊ”, thì đâu có vấn đề gì. Là Chiên mà “DÊ” thì cũng đứng bên trái à. Cái quan trọng là “DÊ” hay không “DÊ” và “DÊ” thế nào ? “DÊ” ở đây là động từ.
Người ta có nói đến những “dê xồm”, những “yêu râu xanh” hay những kẻ “quấy rối tình dục”, họ dùng mọi thủ đoạn xấu xa để lừa gạt hay cưỡng bức người khác để thỏa mãn thú tính của mình. Họ thấy “người nữ” là “cầm lòng không đậu”, thấy đói, không cho ăn; thấy khát không cho uống; cứ để mình trần, không cho mặc, hãm hại và làm nhục người ta, trên thân xác cũng như trên tinh thần. Họ làm khổ cả cuộc đời người khác. Những kẻ này không ai thích, không ai ưa và họ đáng nghe lời Đức Vua Giê-su phán: “Quân bị nguyền rủa, đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỉ và các tay sai của nó”.
Ai có tính “dê” đó hãy bỏ đi, đừng làm nữa. Có “dê” thì cũng phải “dê” cho thánh thiện. “Dê” sao cho người ta mê; dê sao cho người ta chết mê chết mệt. Cái DÊ đó là ra sức giúp đỡ người khác và yêu thương với tấm lòng chân tình và chân thành. Như siêng năng làm việc; chăm chỉ học hành; kiên trì tập luyện. Thể xác thì cường tráng; sự hiểu biết thì sâu rộng; cử xử hòa nhã, đúng mực; không chỉ “ga-lăng”, làm để lấy lòng người đẹp mà còn chân thật và chân tình. Không cần phải nói nhiều mà cần phải làm nhiều việc tốt, việc lành. Dê sao cho người ta cười, người ta khoái thì OK. Họ đáng được nghe lời Đức Vua Giê-su phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”.
Có “sở khanh” thì cũng phải “sở khanh của Chúa”. “Sở khanh” theo nghĩa thường, nghĩa đen là những tay đẹp trai, đem cái mã đẹp trai, tiền của, nói ngon, nói ngọt đi lừa các cô gái, để rồi hại đời biết bao cô gái nhẹ dạ, làm cho người ta phải khốn khổ khốn nạn suốt đời. Những tên sở khanh này cũng sẽ được nghe lời phán của Đức Vua Giê-su: “Quân bị nguyền rủa, đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỉ và các tay sai của nó”.
Còn “sở khanh của Chúa” là những người đi giúp đỡ các cô, các bà, ai muốn đi tu thì giúp cho đi tu; tu cho đắc đạo. Ai muốn có công ăn việc làm thì giới thiệu; ai muốn có một gia đình hạnh phúc thì góp ý, tư vấn, không nhận thù lao hay quà cáp gì hết. Ngay cả sự cám ơn cũng không màng, có cũng được mà không có cũng được. Có khi còn bị “gậy ông lại đập lưng ông” nữa cũng cam chịu. Giúp đỡ cho người ta nhiều, khi đạt được rồi thì quay lại nói xấu, vu khống, cũng cam lòng. Miễn sao các cô, các bà được thành công, được hạnh phúc là được. Họ đáng được nghe lời Đức Vua Giê-su phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”.
Không những các chàng sở khanh, những chàng “dê xồm” mà những nàng chanh chua, những nàng có tâm địa xấu xa và gian ác, những “bà-la-sát”, cũng phải bỏ, cũng phải hoán cải để nên người tốt, người lành; để nên những CON CHIÊN hiền lành, ngoan đạo.
Vậy dù ta có là ai Nam hay Nữ, ta hãy biết hoán cải ngay ở đời này, biết bỏ đi những tính hư tật xấu; biết biến đổi từ người xấu sang người tốt; từ người gian ác nên người tốt lành; Từ DÊ nên CHIÊN; từ “yêu râu xanh” nên “xanh-râu-yêu”, nghĩa là làm mọi việc vì yêu; từ tên Họ Sở (khanh) sang người Họ“Giúp”(đỡ), để ta hưởng được tình yêu và lòng thương xót của Đức Vua Giê-su. Ta sẽ được đứng bên phải và được nghe lời Đức Vua Giê-su phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”. Hạnh phúc biết bao !!!!!!!!!!!!!!!! phải không bạn.
.