Suy niệm Chúa Nhật 33 Thường Niên Năm A và Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

1968

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Cn 31, 10-13.19-20.30-31; 1Tx 5, 1-6; Mt 25, 14-30

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

——-

Mục lục

  1. Siêng năng và biếng nhác (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Cơ hội thành tài  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  3. Nén bạc Chúa trao? (Thiên San, MTG Thủ Đức)
  4. Nén bạc tình yêu  (Jorathe Nắng Tím)
  5. Tình yêu đáp trả tình yêu (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)
  6. Khả năng Chúa ban  (Anna Cỏ May, Học viện MTG.Thủ Đức)
  7. Tùy khả năng riêng (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
  8. Phần riêng biệt  (Trầm Thiên Thu)
  9. Chân thành  (Lm. Vũ Đình Tường)
  10. Đầu tư vào của cải, tài năng, ân huệ Chúa ban (Lm. Trần BìnhTrọng)
  11. Tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến  (Lm. Đan Vinh)
  12. Chỉ một bước chân (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  13. Lòng mến Chúa yêu người nơi Các Thánh TĐVN (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  14. Hiến dâng để sống tinh thần Tử Đạo  (Lm. Nguyễn Minh Hùng)
  15. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Lễ Các Thánh Tử Đạo VN  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
  16. Màu sắc tin yêu  (Trầm Thiên Thu)

 

Mục lục (2017)

1. Sinh lợi thiêng liêng  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Làm gì với nén bạc Chúa trao?  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

3. Suy nghĩ về nén bạc  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Vươn mình đứng dậy  (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Ai sẽ làm  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Nén bạc  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

7. Nén trách nhiệm  (Trầm Thiên Thu)

8. Giọt tình  (Trầm Thiên Thu)

9. Sinh lời  (P.Trần Đình Phan Tiến)

10. Các Thánh Tử Đạo VN thấy Chúa trong mọi sự (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

11. Làm chứng cho tình yêu  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

12. Suy niệm lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam (Lm. Anthony Trung Thành)

13. Suy niệm lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam- (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

14. Suy niệm lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

15. Tôn vinh những con người từ chối bước qua Thập giá (Lm.Giuse Đỗ Đức Trí)

16. Kiên quyết không bỏ đạo yêu thương  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

17. Tính sổ  (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

18. Tính sổ Nước trời  (JM. Lam Thy, ĐVD)

19. Tất cả cho Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

20. Cộng tác   (Lm. Vũ Đình Tường)

21. Qúa khóa xưa và nay (Lm. Antôn Lương Văn Liêm)

22. Suy niệm Chúa Nhật 33 Thường niên. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)

23. Tử đạo trong thế kỷ 21  (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

24. Chết vì lẽ công chính – Sống vì tình yêu Thiên Chúa (P.Trần Đình Phan Tiến)

25. Nén bạc nào tôi đang có?  (Phạm Anh, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

26. Hãy tin Thầy  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

27. Sức mạnh và sức sống của đức tin  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

28. Làm chứng cho Chúa hôm nay  (Lm. Đan Vinh)

29. Quyết chọn Chúa (Lê Chung, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

30. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam   (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

31. Vạn tuế Các Thánh Tử Đạo Việt Nam (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

32. Chúa Nhật 33 Thường niên_A (Lm. Antôn)

.

SIÊNG NĂNG VÀ BIẾNG NHÁC

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Giữa những toan tính bon chen của cuộc sống hằng ngày, vào lúc cuối năm, Phụng vụ nhắc chúng ta đừng quên tính sổ với Chúa, để “kết toán” những gì chúng ta đã sống, đã hành động, đồng thời đừng quên ơn mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa. Những ơn đó cũng chính là số vốn mà Chúa trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Có những người sử dụng ơn Chúa ban một cách siêng năng và sinh lợi gấp nhiều lần, nhờ vậy mà được ban thưởng; nhưng cũng có những người biếng nhác, chẳng chịu làm gì, để rồi bị chúc dữ và chịu án phạt. Vào lúc năm cùng tháng tận, chúng ta cần suy xét cuộc đời, nhờ đó, xác định hướng đi, với hy vọng đạt tới hạnh phúc vào lúc cuối cuộc đời.

Bài Tin Mừng hôm nay được đặt vào ngữ cảnh một chuỗi những bài giảng về cánh chung, tức là ngày tận thế. Chúa Giêsu đã giáo huấn bằng 5 dụ ngôn liên tiếp, đó là dụ ngôn về đại hồng thủy (Mt 24,37-42); về kẻ trộm ban đêm (Mt 24,43-44); về người đầy tớ trung tín (Mt 24,45-51); về mười cô trinh nữ (Mt 25,1-13). Như vậy, dụ ngôn những nén bạc (Mt 25,14-30) là dụ ngôn cuối cùng của chuỗi dụ ngôn này, trước khi Chúa nói về cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46).

Thật hiếm thấy tác giả Tin Mừng dùng ngôn ngữ của thương mại để diễn tả giáo huấn của Chúa Giêsu. Nên lưu ý, trong tiếng Anh và tiếng Pháp, chữ “Talent” vừa có nghĩa là “yến bạc” hoặc đơn vị tiền tệ, vừa có nghĩa là “tài năng”. Một tác giả đã nghiên cứu lịch sử và lượng giá một “Talent” hay một yến bạc thời Chúa Giêsu tương đương với thu nhập của 15 năm đối với một người lao động bình thường. Dụ ngôn muốn nói với chúng ta, những gì chúng ta có được, kể cả tài năng và của cải, đều là Chúa trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Sẽ đến lúc chúng ta phải tường trình về cách sử dụng những tài năng và của cải đó.

Ông chủ trong dụ ngôn vừa khôn ngoan và vừa quảng đại. Ông khôn ngoan vì biết khả năng của mỗi đầy tớ. Ông quảng đại vì không hề ra điều kiện buộc phải sinh lợi bao nhiêu với số vốn đã trao. Ông chủ chính là hình ảnh Thiên Chúa. Ngài ban cho chúng ta những yến bạc, những tài năng để chúng ta sinh lợi. Người ban nhiều hay ít là tùy theo khả năng của mỗi người. Chúa trao cho chúng ta sức khỏe, trí thông minh, hoàn cảnh gia đình, bạn bè và những điều kiện thuận lợi. Đó là vốn liếng chúng ta được nhận từ Chúa và chúng ta có bổn phận phải sinh lợi. Sau khi trao phó của cải cho các đầy tớ, ông chủ đi xa lâu ngày. Thiên Chúa cũng dường như vắng bóng trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta không nhìn thấy Ngài. Nhưng chắc chắn có ngày Ngài đến để thanh toán sổ nợ với chúng ta. Người Kitô hữu tin rằng đó là lúc sau hết của cuộc đời con người. Khi ấy, Thiên Chúa sẽ đến gặp gỡ chúng ta và chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa về số vốn được trao.

Người đầy tớ thứ nhất và thứ hai được ông chủ khen là “tài giỏi và trung thành”, vì họ đã làm lợi gấp đôi số vốn được trao. Khi tuyên bố: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh”, ông chủ đã đưa anh từ địa vị đầy tớ lên ngang hàng với ông chủ, không còn phân biệt “chúa-tôi” nữa. Nói cách khác, nhờ sự trung thành và cần mẫn, hai người đầy tớ đã thoát khỏi thân phận nô lệ mà trở nên như con cái của ông chủ, được cho hưởng niềm vui và vinh quang. Đây cũng là mạc khải Kitô giáo về ý nghĩa và phẩm giá con người. Những ai tin vào Chúa Giêsu và thực hành giáo huấn của Người sẽ trở nên những nghĩa tử của Thiên Chúa. Sau khi kết thúc cuộc sống đời này, họ được đón nhận vào nhà Chúa để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Họ không còn phải than khóc, buồn sầu, nhưng được hưởng niềm vui trọn vẹn mà Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến và phụng sự Ngài.

Thân phận của người đầy tớ thứ ba thì lại không được như thế. Anh bị ông chủ mắng là “vô dụng, xấu xa và biếng nhác”. Anh không thật tâm với ông chủ. Bằng chứng là mặc dù anh chịu ơn ông chủ, nhưng trong đầu óc của anh luôn nghĩ xấu về chủ mình. Những nhận định của anh về ông chủ vừa thiếu thiện chí vừa mang tính vu khống: “Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi…”. Tại sao lại nói ông chủ là người “gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” trong khi chính ông chủ đã trao tận tay anh ta một yến bạc để làm vốn? Hơn nữa, trong khi hai người đầy tớ trước rất tự tin nói với ông chủ: “Ông đã trao cho tôi năm (hai) yến, tôi đã gây lời được năm (hai) yến khác đây”, thì anh đầy tớ lười nhác này lại nói với ông chủ: “Của ông vẫn còn nguyên đây này!”. Cách nói “Nén bạc của ông” và “Của ông vẫn còn nguyên” ở câu 25 cho thấy người đầy tớ xấu xa và lười nhác chưa bao giờ coi số vốn đó là như của mình, để rồi anh quan tâm làm cho sinh lợi. Anh là người vô trách nhiệm và thiếu thiện chí. Một điều nhỏ nhất anh có thể làm được mà anh cũng bỏ không làm, đó là đem gửi số bạc đó vào ngân hàng để hưởng lợi. Anh đáng khiển trách không phải vì đã làm điều xấu, nhưng vì anh biếng nhác không chịu làm gì. Hơn thế nữa, anh còn có lối suy nghĩ không tốt về chủ mình, người chủ đã tin tưởng trao vốn cho anh một yến bạc, dù biết khả năng anh khiêm tốn. Hình phạt cho anh đã rõ ràng và thích đáng: anh bị tước mất một yến bạc được trao phó và bị tống ngục. Ngục giam ở đây được trình bày như một nơi tăm tối và khóc lóc, là nơi thiếu vắng tình yêu. Đó chính là cách diễn hỏa ngục theo niềm tin của Do Thái giáo.

Siêng năng là một đức tính cần thiết trong đời sống Đức Tin cũng như trong đời sống xã hội. Tác giả sách Châm ngôn diễn tả sự siêng năng qua chân dung một người phụ nữ đức hạnh. Nàng biết miệt mài làm việc trong gia đình. Nơi nàng, người chồng đặt niềm tin tưởng hoàn toàn. Nàng luôn biết quan tâm đến những người xung quanh, mang cho họ niềm vui và nụ cười (Bài đọc I). Đó là vẻ đẹp nội tâm, vượt xa những vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài.

Siêng năng cũng mang một khuôn mặt khác là tỉnh thức. Vâng, chúng ta cần tỉnh thức, vì cuộc sống này chính là một cuộc chờ đợi không ngừng. Chúa sẽ đến vào giờ chúng ta không ngờ, ngay cả lúc người ta nghĩ là yên ổn và an bình. Hãy tỉnh thức và sống tiết độ, đó là lời khuyên của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Thessalonica (Bài đọc II). Đó cũng là thông điệp mà Giáo Hội gửi đến chúng ta trong những ngày cuối năm này.

Bốn điều mà thế hệ trẻ nên suy gẫm:

– Thất bại là gì? Bỏ cuộc là thất bại lớn nhất.

– Kiên cường là gì? Một khi bạn đã kinh quan gian khó, uất hận và thất vọng, chỉ khi đó bạn mới hiểu được kiên cường là gì.

– Nghĩa vụ của bạn là: Siêng năng hơn, chăm chỉ hơn, và tham vọng hơn người khác.

– Chỉ kẻ ngu muội mới dùng miệng để nói. Người thông minh dùng trí óc, và người sáng suốt dùng trái tim (Samuel Johnson).

Về mục lục

CƠ HỘI THÀNH TÀI

Lm. Jos DĐH.

Tương lai của mỗi người vô cùng phong phú: kẻ yếu hèn sẽ nói hạnh phúc là điều không thể ! Người sợ hãi sẽ nói, tình yêu thật là điều tôi chưa nghe, chưa hiểu ! Với người dũng cảm, mỗi ngày, mỗi giây phút trong đời, đều là cơ hội. Bạn có tin vào tương lai không, hãy hành động, đó là cơ hội, vì ngay cả khi tiền tài của bạn tựa non cao, giầu sang cùng phú quý, cũng chẳng mua được “tình” ? Cuộc sống hiện tại, đúng là cơ hội dành cho ta: thành  đạt, có danh có phận, có quả phúc. Đã gọi là cơ hội, không thể chậm trễ, ví như: trâu chậm uống nước đục ; trăng đẹp sao sáng về đêm khuya, nhưng không phải đêm nào cũng có “sao băng”. Được sinh ra làm người, lẽ nào bạn không có ước mơ, ít là ước muốn làm người tốt, người hữu ích ?

“Các con hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ”. Đó là sự thật, là một tương lai đáng sợ cho những ai sống hời hợt, khi theo Đức Giêsu làm môn đệ ! Vì tinh thần thì lanh lẹ, xác thịt lại yếu đuối: bạn chấp nhận là hèn yếu, hay mang trái tim “thỏ đế”, là hiền nhân quân tử, hoặc vì yêu, vì tín thác Đấng là Thầy là Chúa ở trong bạn ? Câu trả lời của mỗi người phải là: có hay không mùa đông mới biết, giầu nghèo, 30 tết mới hay ! Các Thánh tử đạo Việt Nam có cơ hội để chọn lựa, có tự do minh chứng về một tình yêu thật, các ngài không để vụt tắt điều kỳ diệu được nên giống Thầy: thử thách càng to, hạnh phúc càng lớn.

Con người tự nhiên lý luận rằng: luyện mãi thành tài, miệt mài tất giỏi, câu thành ngữ có sức thuyết phục tới đâu, tuỳ thời gian, mức độ và hoàn cảnh mỗi người sẽ tự trả lời. Về phương diện siêu nhiên, con người yếu đuối mỏng giòn, ai đủ bình chân như vại khi nghe Đức Giêsu nói: “các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền, và vua chúa, vì Thầy, để làm chứng cho họ, cho dân ngoại được biết”. Cha ông chúng ta có cơ hội để thăng quan tiến chức, được ăn sung mặc sướng, không phải đau đớn thể xác, không phải chết, nhưng tại sao các ngài từ chối ? Các ngài còn cảm thấy vui, khi nói: đối với tôi, bị bắt vì đạo Chúa là một hồng ân. (Phêrô Tự). Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên Thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa là đạo thật. (Têphanô Vinh).

Hãy học cách lắng nghe, cơ hội có thể gõ cửa rất khẽ khàng. (Frank Tyger). Các thánh tử đạo chắc chắn không phải vì dốt, vì dại khờ, không biết né tránh khổ đau sự chết, lịch sử ghi nhận các ngài vì yêu, vì ước muốn được nên Một Tình Yêu Ba Ngôi. Xã hội văn minh, không ai lấy dạ tiểu nhiên để đo lòng người quân tử, nhất là đụng đến các vị anh hùng dân tộc. Ra khỏi gia đình, bạn sẽ nghe rất nhiều âm vang khác lạ: đừng bao giờ hỏi cha mẹ đã nuôi dạy, đã đầu tư cho bạn thế nào, nhưng hãy tự suy xét, bạn có thương yêu cha mẹ, đã sống chữ hiếu chữ thảo đến đâu rồi ? Tiếng nói của các chuyên gia vẫn vô cùng thiết thực: hoàn cảnh sống của bạn có thể nghèo, hèn, có thể bẩn, hôi, nhưng bạn không được hèn nhát, vì tổ tiên dòng tộc của các bạn là anh hùng quân tử.

Là con cháu của các thánh tử đạo, là môn đệ của Đức Giêsu, dù điều kiện, hoàn cảnh, của ta không thuận lợi, nhưng cơ hội vẫn rộng mở: giầu 30 tuổi chớ mừng, khó 30 tuổi xin đừng vội lo. Cơ hội để thành tài, trở nên người hữu ích, là có thật, như lời Chúa Giêsu nói: “khi người ta bắt nộp các con, các con đừng lo nghĩ phải nói gì, vì chưng, không phải các con nói, nhưng chính Thánh Thần của Cha nói trong các con”. Cơ hội tiếp nối truyền thống của tiền nhân, là có sức mạnh và tình yêu Chúa, là để Thánh Thần mách bảo đường đi nước bước, dẫn đến chân lý vẹn toàn. Tình yêu thật, khôn ngoan thật, cũng là cơ hội “thành nhân, thành người hùng tài” theo truyền thống đức tin như Chúa Giêsu diễn tả: “vì Danh Thầy, các con sẽ bị người đời ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ”.

Các thánh tử đạo Việt Nam không giầu tiền của, không bận tâm đến lý lẽ thế gian, nhưng các ngài có sức mạnh của tình yêu, có đủ ý chí tự do, hầu chứng minh với con cháu: thành người, thành danh, thành tài, là nhờ bởi tình yêu Đức Kitô. Nếu thế gian cho rằng: không gì quý hơn mạng sống, ở trong Đức Kitô, hẳn người tín hữu sẽ đủ khôn để nói: không gì quý hơn sự thuỷ trung với ơn gọi nên người tốt, nên muối men cho gia đình, xã hội. Chí khí trung kiên của tiền nhân đã thể hiện được tính anh hùng, các ngài sẽ còn hiệp thông và chuyển cầu cho con cháu biết liên đới sống mầu nhiệm đức tin: không hổ thẹn với trời đất, không vô ơn với bậc sinh thành. Cho dù khó khăn gian khổ còn đó, nhưng kinh nghiệm và phúc lộc của tiền nhân vẫn đang nhắc bảo: bao lâu bạn chưa bỏ cuộc, cơ hội thành người hữu ích, thành môn đệ Đức Kitô là sự thật. Amen.

Về mục lục

Nén bạc Chúa trao?

Thiên San, MTG Thủ Đức

 Có ông chủ kia sắp đi xa mới gọi các đầy tớ lại mà giao phó của cải mình cho họ. Ông giao cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tùy khả năng riêng của mỗi người. Sau khi ông chủ đi xa, các đày tớ mới đem số bạc ấy đi làm ăn. Sau một thời gian dài, ông chủ trở về và tính sổ với các đầy tớ. Khi bước vào đời, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa giao cho những nén bạc khác nhau để sinh lời. Số nén bạc nhiều hay ít tùy thuộc vào khả năng của từng người. Tuy nhiên dù ít hay nhiều, chúng ta cũng được mời gọi làm cho nén bạc ấy sinh lời.

Thiên Chúa trao phó của cải của Ngài cho chúng ta quản lý. Tất cả những gì chúng ta sở hữu, sử dụng đều là quà tặng Thiên Chúa ban cho. Nó không thuộc về chúng ta. Ngài ban cho chúng ta mỗi người nhiều hay ít là tùy vào khả năng mỗi người. Thiên Chúa là Đấng dựng nên ta, chắc chắn Ngài biết khả năng của chúng ta. Ngài biết và Ngài hiểu. Ngài biết chúng ta có thiên hướng gì, có sở thích gì, khả năng gì. Chẳng hạn, trong học tập, có những người có xu hướng thiên về các môn học Tự nhiên, cũng có những người thiên về các môn học Xã hội, cũng có những người thuộc loại hình thông minh ngôn ngữ, thể chất… Mỗi người có những mặt mạnh và mặt chưa mạnh khác nhau. Nếu chúng ta khám phá ra xu hướng của mình và nỗ lực phát huy các điểm mạnh ấy, đồng thời khắc phục những điểm chưa mạnh thì chắc chắn chúng ta sẽ ngày càng làm phong phú thêm cuộc sống của mình, những “nén bạc” Chúa trao cũng từ đó mà sinh lời thêm.

Thiên Chúa là Đấng dựng nên ta, chắc chắn Ngài biết và hiểu rõ về ta. Bởi đó Ngài cũng tùy khả năng của mỗi người mà trao phó số nén bạc của Ngài cho ta nhiều hay ít. Còn chúng ta, chúng ta có hiểu và biết mình? Thật khó để trả lời gãy gọn câu hỏi này. Việc biết mình thật sự rất quan trọng. Bởi nó giúp ta nhận ra những giá trị tích cực của mình, từ đó biết chọn cho mình một thái độ sống cũng như một lối sống phù hợp. Tuy nhiên, biết mình luôn là điều khó. Chúng ta thường dễ rơi vào xu hướng lầm tưởng về mình. Chúng ta nhầm lẫn về bản thân khi chỉ biết cậy dựa vào những gì mình có, những gì mình làm được hoặc những gì mình nghĩ và mong đợi. Chính thái độ này đẩy ta rơi vào sự thất vọng, chán nản, buông xuôi khi gặp trái ý.  Thiết nghĩ, những gì ta có, những gì ta làm được chỉ là những cái chóng qua, dễ thay đổi. Ai đó sở hữu một giọng hát hay nhưng thử hỏi người đó có thể giữ được giọng hát ấy cả đời? Một căn bệnh chợt đến và lấy đi giọng hát ấy. Thử hỏi có gì đảm bảo cho ta?

Khi nhận biết mình là ai, chúng ta sẽ hiểu được giá trị đích thực của cuộc sống. Cái tôi có hôm nay đều do Chúa ban. Điều tôi làm hôm nay là cách thức giúp tôi gây lời nén bạc Chúa trao. Chọn lựa là ở mỗi người. Chẳng ai trong chúng ta tay trắng. Mỗi người tùy khả năng được Thiên Chúa trao phó những nén bạc khác nhau. Điều cần và phải thực hiện chính là nhận ra đâu là nén bạc Chúa trao cho tôi. Chỉ khi ta nhận ra nén bạc Chúa trao, ta mới có thể bắt tay vào việc sinh lời. Bao lâu ta còn nhìn về những gì người khác có, phân bì và không chịu nhìn ra cái ta có, ta sẽ chỉ như tên đầy tớ đem chôn giấu nén bạc của ông chủ. Nhưng khi ta khiêm tốn nhìn nhận nén bạc ta có, dù nó ít ỏi thì khi ấy ta mới biết cách sinh lời trong cuộc sống. Hãy học cách nhìn về mình để biết mình đang có gì, mình như thế nào, từ đó học cách sinh lời nén bạc Chúa trao. Chúa chẳng đòi ta nhiều hơn những gì Ngài đã trao. Nếu được trao năm nén, hãy sinh lời thêm năm nén, nếu hai nén thì hãy sinh lời thêm hai nén. Nếu chỉ có một nén thì hãy cứ vui vẻ sinh lời một nén.

 

Về mục lục

NÉN BẠC TÌNH YÊU

Jorathe Nắng Tím

Vào những Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy nghĩ nhiều hơn về giờ chết, về biến cố Con Người thình lình đến “như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Kinh Thánh trình bày ngày cánh chung dưới hai dạng : dạng thứ nhất như tai họa  hình phạt sụp đổ trên những người tội lỗi, dạng thứ hai như cuộc gặp gỡ con người với Thiên Chuá, Đấng xét xử công bình nhưng rất bao dung, nhân từ, giầu lòng thương xót mà Tin Mừng Mátthêu đề cập đến trong Chúa Nhật này.

Đó là cuộc gặp gỡ Đức Giêsu. Tuy là cuộc gặp gỡ mang tính quyết định, nhưng Đức Giêsu không xuất hiện như quan toà nghiêm khắc, “bới lông tìm vết” để trừng phạt, nhưng như ông chủ tốt lành và “biết điều” đã đánh giá công trạng của đầy tớ trên khả năng sinh lợi vốn liếng đã nhận.

Ông chủ tốt lành ấy đã trao cho các đầy tớ mỗi người một số nén bạc khác nhau, và điều mong uớc duy nhất của ông là các đầy tớ không bỏ quên hay coi thường những nén bạc “vốn liếng” được trao ban ấy, nhưng tìm cách sinh lợi tùy theo khả năng riêng mỗi người.

Ở đây chúng ta thấy : ông chủ đã không cho đồng đều các đầy tớ cùng một số lượng vốn liếng, nhưng rất khác nhau : người thì năm nén bạc, người khác hai, người chỉ có một, vì khả năng sinh lợi Thiên Chúa ban cho mỗi người không giống nhau, không cùng độ lượng, nhưng tất cả đều chung một đòi hỏi là phải sinh lời.

Vì thế, lòng ganh ghét khi thấy người khác tài giỏi, khéo léo hơn mình là điều thật vô lý, vì như một thân thể, mỗi chi thể có vai trò, nhiệm vụ khác nhau, như tất cả chúng ta không có cùng sứ vụ trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều quy về lợi ích chung của Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô.

Vấn đề được Đức Giêsu đặt ra với mỗi người ở đây chính là chúng ta đã làm gì với ơn huệ Thiên Chúa đã ban trên hành trình dương thế?

Có rất nhiều ơn huệ, nhưng tất cả đều xuất phát từ Đức Giêsu và quy hướng về Đức Giêsu, nên việc sinh lời các ơn huệ được ban cũng phải nằm trong qũy đạo của Đức Giêsu. Nói cách khác, chúng ta nhận vốn liếng để kinh doanh “Danh Thiên Chúa, Ý Thiên Chúa, Nước Thiên Chúa”. Mà “danh Thiên Chúa” là Thiên Chúa Tình yêu ; “Ý Thiên Chúa” là mọi người yêu mến Thiên Chúa, và yêu thương anh em như chính mình ; “Nước Thiên Chúa” là mái ấm hạnh phúc, là gia nghiệp đời đời dành cho những ai sống yêu thương. Và bởi “Thiên Chúa là Tình Yêu”, nên tất cả những nén bạc nhận được từ Thiên Chúa đều là những nén bạc Tình Yêu.

Những nén bạc tình yêu ấy là khả năng yêu thương Thiên Chúa ban cho mỗi người và đòi hỏi phải sinh lời khi phát triển khả năng yêu thương ấy để “yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em” vừa là lệnh truyền của Thiên Chúa, vừa là tiêu chuẩn Thiên Chúa dùng để đánh giá công tội của mỗi người ở buổi gặp gỡ đời đời với Thiên Chúa, mà không một ai sẽ được chuẩn chước, miễn trừ.

Thực vậy, bài đọc thứ nhất trích từ sách Châm Ngôn nói về người đàn bà hoàn hảo, người vợ tuyệt vời : “Nàng qúy giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc, chứ không gây tai hoạ cho chồng… Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ, và đưa tay cứu kẻ khốn cùng… Chồng nàng được tiếng thơm nơi cổng thành khi ngồi cùng với hàng kỳ mục trong dân… Con nàng đứng lên ca ngợi nàng có phúc, chồng nàng cũng tấm tắc ngợi khen… Hãy để cho nàng hưởng những thành qủa tay nàng làm ra. Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm” (Cn 31,10-12. 20. 23.28.31).

Chọn hình ảnh người đàn bà đáng yêu, người vợ đáng qúy và đặt vào bên cạnh bài Tin Mừng “những nén bạc” đã không là điều ngẫu nhiên, nhưng nằm trong ý của Giáo Hội với chủ đích nói lên khả năng yêu thương là nén bạc qúy giá vô cùng Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, và mỗi người phải sinh lợi cho Thiên Chúa, vì hạnh phúc của chính mình, khi sống giới luật Yêu Thương trong cuộc sống trần gian.

Và bài đọc hai, khi nhắc đến “tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày” (1 Tx 5,5), thánh Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy bước đi trên hành trình yêu thương, khi trang bị cho mình “áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8), để khi Chúa đến, không ai trong chúng ta phải hụt hẫng, ngỡ ngàng, vì còn  say sưa, mê ngủ…

Như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã một đời yêu mến Chúa và các linh hồn, một đời phụng sự Chúa và phục vụ chị em trong nhà với tình yêu tha thiết, nồng nàn, chúng ta nài xin Chúa đổ tràn tình yêu của Ngài trong trái tim cằn cỗi, chật hẹp của chúng ta, để mỗi ngày chúng ta biết yêu thương nhiều hơn, phục vụ anh em ân cần, tận tụy hơn, bởi đến ngày giờ Chúa gọi, hành trang duy nhất đáng được Chúa xót thương khi đến trình diện trước tôn nhan Ngài sẽ chỉ là những Nén Bạc Tình Yêu đã được sinh lợi.

Về mục lục

TÌNH YÊU ĐÁP TRẢ TÌNH YÊU

Bông hồng nhỏ

Khi yêu, người ta có rất nhiều cách để bày tỏ tình yêu với người mình yêu. Yêu mến Thiên Chúa, ta cũng khao khát được diễn tả tình yêu của mình. Thiên Chúa yêu ta, Người đã xuống thế làm người, chịu chết trên thánh giá để cứu chuộc ta. Yêu mến Chúa, ta sẽ làm gì đây?

Hôm nay, nghe Thầy Giêsu kể chuyện về những đầy tớ được chủ trao cho các nén bạc, ta ngẫm về cuộc đời của mình. Những đầy tớ được chủ trao cho nén bạc, mỗi người tùy theo khả năng mà được lãnh nhiều hay ít, họ đã cố gắng làm ăn sinh lời. Ông chủ khen họ là đầy tớ trung thành, cho họ được vào chung hưởng niềm vui của chủ. Nhưng, có một người, một người đã lười biếng không chịu làm ăn sinh lời, anh đem chôn giấu số bạc chủ trao. Anh bị quở trách, bị tước mất số bạc đã được trao cho và bị đẩy vào chỗ tối tăm. Ta là ai trong hai hạng người ấy?

Chúa Giêsu đã nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5, 17). Con người làm việc để có của ăn nuôi sống mình, xây dựng quê hương xứ sở mình. Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Ngài thánh hóa công việc và mặc cho nó một tinh thần mới. Con người làm việc không phải chỉ để có cơm bánh hằng ngày nhưng vượt lên trên những giá trị tự nhiên ấy, làm việc là để tôn vinh Thiên Chúa và để bước vào chung hưởng hạnh phúc đời sau với Ngài. Bởi thế, khi các đầy tớ được chủ trao cho những nén bạc, lập tức, người lãnh năm yến đi làm ăn và sinh lời được năm yến khác, người lãnh hai yến cũng đã sinh lời được hai yến khác. Cả hai người này đều được ông chủ tán thưởng: “Khá lắm! Hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25, 21. 23). Những tháng ngày làm việc gian khổ, lao nhọc, những giọt mồ hôi và nước mắt cùng bao công khó của họ đã được bù lại bằng niềm hạnh phúc tuyệt vời. Có một người được lãnh một nén bạc, anh đã đi chôn giấu số bạc ấy với hy vọng nó sẽ không bị thất thoát. Điều gì làm cho anh lo sợ đến nỗi phải giấu số bạc ấy đi? Anh lo sợ thất bại hay vì quá biếng nhác. Anh thiếu tin tưởng vào chủ của mình, không yếu mến chủ. Với anh, ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi (x. Mt 25, 24). Anh đã trả lại cho ông chủ những gì anh nhận được. Hành động của anh chẳng hề đẹp lòng ông chủ. Anh bị quở trách là người tồi tệ và biếng nhác. Thật đáng buồn thay!

Thiên Chúa đã ban cho ta những nén bạc nào? Những gì ta đang có: khả năng yêu thương của trái tim, trí tuệ, sức khỏe, thời gian,… đều là những nén bạc Chúa trao. Mỗi lần ta yêu thương ai, ta muốn trao cho người đó rất nhiều thứ. Ta có thể trao hiến cả bản thân ta nữa. Thiên Chúa yêu thương ta, Ngài đã trao cho ta những hồng ân tuyệt vời. Ngài đã trao ban cho ta những khả năng để ta có thể dùng tất cả những khả năng ấy để đem lại hạnh phúc cho mình và người khác. Hạnh phúc của ta không phải chỉ mình ta tận hưởng nhưng ta chỉ thật sự hạnh phúc khi được cùng người ta yêu chia sẻ những niềm vui nỗi buồn và cả những thành công hay thất bại trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã cùng ta chia sẻ kiếp người, Ngài đã tặng ban chính mình Ngài cho ta. Nếu ta chưa mở tâm hồn để đón Ngài ngự đến trong ta, Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi, Ngài gõ của lòng ta luôn luôn. Ta có nghe thấy lời Ngài thúc giục trong nội tâm mình không? Đừng lo lắng hay sợ hãi! Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương, “Chúa là Đấng chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (x. Tv 102, 9-10).  Thế nhưng, có những khi ta tận hưởng tất cả những gì Chúa trao như thể ta đã chẳng hề nhận lãnh của ai cái gì, cứ như thể, tất cả đều do công sức mình bỏ ra. Yêu Chúa, ta hãy sống theo lời Chúa dạy. Ta có nhận ra, chính lúc ta yêu thương anh chị em mình, phục vụ anh chị em bằng tài năng và tất cả tình yêu trong ta, với một tình yêu vô vị lợi thì ta sẽ thu được một khoản lời tuyệt vời không? Chính lúc ta yêu thương như Chúa dạy, ta đã chẳng yêu thương bằng trái tim của riêng mình mà chính Chúa Giêsu đang hành động trong ta. Hãy tin tưởng rằng: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể chịu được hết” (Pl 4, 13).

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã sửa dạy con. Con xin lỗi Chúa, vì từ bấy lâu nay con đã chỉ chạy theo ý riêng con mà lơ là với thánh ý Chúa. Cái tôi “vĩ đại” của con luôn làm cho con lạc xa Chúa. Con xin Chúa hãy kéo con về bên lòng Chúa, cho con nhận ra lỗi lầm của con, để con không sợ hãi mà chôn giấu những nén bạc Chúa trao nhưng gắng sức làm việc, cộng tác với ơn Chúa. Xin cho con luôn biết “lấy tình yêu để đền đáp Tình Yêu” theo gương mẫu của chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Con tạ ơn Chúa! Amen.

Về mục lục

KHẢ NĂNG CHÚA BAN

Anna Cỏ may

Khi kinh doanh hay buôn bán một sản phẩm gì, chúng ta luôn tính đến tiền lời. Tiền lời của mỗi sản phẩm có thể lên gấp hai, gấp năm nhưng cũng có lúc thua lỗ. Điều ấy tùy vào khả năng của mỗi người. Vậy khả năng đó từ đâu mà có?

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nén bạc mà kể cho các môn đệ rằng: “Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ” (Mt 25,14-18). Như vậy, khả năng mỗi người đang dùng là một ơn Chúa ban. Chúa ban cho người này năm khả năng, người kia hai khả năng và người nọ một khả năng. Những khả năng đó có thể là khả năng âm nhạc, khả năng ngoại ngữ, khả năng kinh doanh hay các khả năng khác. Chúng ta được tự do sử dụng những khả năng đó. Có không ít người đã thành công trong cuộc sống từ những khả năng đó, nhưng họ đã thất bại trong các mối tương quan. Bởi, họ dùng những khả năng đó để vun vén, quy hướng về mình. Cũng có những người biết dùng những khả năng mình có để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Nhiều khi, họ cảm thấy mệt và chẳng ai biết đến, nhưng họ vẫn có được niềm vui và bình an trong tâm hồn. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu đang chờ đợi khi giao những khả năng cho chúng ta. Ngài lấy làm vui khi mọi người biết tận dụng và phát huy khả năng của mình để sinh ích cho anh em mình. Ngài sẽ ban thưởng và cho họ vui hưởng niềm vui chung với Ngài trên Nước Trời (x. Mt 25, 21-23). Trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô tông đồ đã viết: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác” (1Pr 4,10). Như vậy, ơn riêng Thiên Chúa ban được sinh ích thật sự khi chúng ta biết dùng mà phục vụ người khác.

Nhìn lại chính mình, tôi đang được Chúa ban cho những khả năng, ơn riêng nào? Chúa đang chờ đợi tôi điều gì? Tôi đã và đang thực hiện khả năng Chúa ban ra sao? Những khả năng ấy đem lại cho tôi điều gì?

Lạy Chúa, Chúa là Đấng Thiện Hảo. Ngài có quyền trao ban khả năng cho chúng con. Xin cho chúng con biết sử dụng các khả năng Chúa ban để mưu ích cho anh em mình. Như thế, những khả năng Chúa ban mới thật sự sinh lời và đem lại hạnh phúc cho chúng con. Amen.

Về mục lục

TÙY  KHẢ NĂNG RIÊNG

Thiên San

Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành. Muôn loài muôn vật đều do bởi Ngài mà ra. Ngài tiếp tục cho chúng ta là những thụ tạo được cộng tác vào công trình sáng tạo khi cho chúng ta có cơ hội được lao động. Qua dụ ngôn “Những yến bạc”, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy dùng số bạc Chúa trao để sinh lời tùy theo khả năng riêng của mỗi người.

Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Ngài yêu thương khi dựng nên ta và cứu chuộc ta cách lạ lùng qua giá máu của Con Yêu Dấu. Ngài yêu thương, cứu độ ta không theo cách chung chung nhưng rất cá vị. Tình yêu ấy được diễn tả cách cụ thể khi Ngài tin tưởng trao ban cho chúng ta những nén bạc để từ số vốn đó, chúng ta sinh lời thêm tùy khả năng riêng. Khi trao ban nén bạc cho chúng ta, Thiên Chúa có vẻ không công bằng. Ngài trao cho người này năm nén, người kia hai nén, người nọ một nén (x.Mt 25,15). Rõ ràng là mỗi người được trao số bạc khác nhau. Nhưng nếu nhìn như vậy để nói Thiên Chúa không công bằng thì không phải. Thiên Chúa yêu ta cách rất riêng. Vì rất riêng nên Ngài biết rõ chúng ta có cá tính như thế nào, khả năng gì đề từ đó giao số vốn cho từng người. Số vốn của mỗi người tuy khác nhau nhưng tất cả đều được mời gọi làm sao cho số vốn sinh lời tùy theo khả năng riêng. Chúng ta biết rằng, một ly nước có thể tích một lít thì nó chỉ có thể chứa được một lít nước, còn ly kia có thể tích năm lít thì sức chứa của nó sẽ là năm lít. Cả hai đều nhận nước nước đầy tràn theo sức chứa của mình. Chúa trao nén bạc cho mỗi người chúng ta cũng theo cách hiểu đó. Điều quan trọng là khám phá ra nén bạc Chúa trao để nỗ lực sinh lời.

Nén bạc Chúa trao Chúa trao tuy khác nhau về số lượng nhưng tất cả đều được lấy ra từ số vốn của Ngài. Bổn phận của chúng ta là tra tay làm việc ngay. Thái độ vui vẻ tra tay làm việc của người vợ trong sách Châm ngôn (31,13) rất đáng cho ta học hỏi. Với số vốn được trao, chúng ta cũng hãy vui vẻ làm việc hầu có thể sinh thêm lời. Đó là cách thức chúng ta có thể làm vui lòng Ngài. Mỗi người hãy cứ luôn tin tưởng và nỗ lực hết mình, phần còn lại đã có Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng mình không thể làm gì có ích. Không ai là người vô dụng, chỉ có những người lười biếng mà thôi. Chúng ta cũng đừng bao giờ nghi ngờ Thiên Chúa để rồi sợ hãi đem chôn số bạc ấy xuống đất. Nếu hiểu sai về Thiên Chúa, chúng ta sẽ làm sai ý Ngài. Một khi đã trao cho ta những nén bạc thì Thiên Chúa đã rất thương và tin tưởng ta, Ngài biết ta làm được. Mỗi ngày sống mở ra là những nén bạc Thiên Chúa trao vào tay ta để ta cộng tác, để ta sinh lời. Nén bạc đó có thể là thời gian, sức khỏe, khả năng, gia đình, bạn bè, công việc ta đảm nhận… Từ bây giờ, mỗi người hãy biết quý trọng tất cả những  gì Thiên Chúa ban để làm cho cuộc sống thêm tươi đẹp, thêm tình yêu thương và đầy ắp sự hiện diện của Thiên Chúa.

Lạy Thiên Chúa chúng con thờ! Chúng con xin chân thành cảm tạ Chúa vì đã luôn tin tưởng, yêu thương, quan tâm đến chúng con. Xin cho chúng con biết vui vẻ làm việc vì đó là cơ hội để chúng con cộng tác vào công trình sáng tạo của Chúa, đó cũng là cách chúng con làm cho nén bạc Chúa trao được sinh thêm nhiều lợi nhuận. Nhờ đó, chúng con được hưởng “niềm vui của Chủ mình” trong ngày sau hết. Amen.

Về mục lục

PHẦN RIÊNG BIỆT

Trầm Thiên Thu

Thiên Chúa nhân lành, công bằng và không thiên tư. Ngài tạo dựng chúng ta thì Ngài dành phần riêng cho mỗi người, không phải người được nhiều, kẻ được ít, mà Ngài biết rõ ai có thể làm gì thì Ngài ban cho đủ “vốn” để làm, nhưng là để sinh lợi cho người khác chứ không phải bo bo giữ lấy. Đừng ghen ăn tức ở như nhóm Pharisêu, Sađốc, kinh sư, luật sĩ,…

Bất cứ ai cũng được Thiên Chúa cấp vốn, nghĩa là ai cũng có tài này hay tài nọ, không ai hơn hoặc kém, nhưng cần cộng tác và cố gắng hết mình. Albert Einstein phân biệt: “Sự khác biệt giữa kẻ ngu xuẩn và thiên tài là thiên tài biết giới hạn của mình. Kẻ ngu xuẩn nào cũng có thể khiến mọi thứ trở nên to hơn, phức tạp hơn và bạo lực hơn. Cần có thiên tài – và nhiều dũng khí – để biến chuyển ngược lại. Người trí thức giải quyết rắc rối, bậc thiên tài ngăn chặn rắc rối.” Còn Thomas Edison xác định: “Thiên tài là một phần trăm cảm hứng và chín mươi chín phần trăm mồ hôi.”

Tất cả là do ơn Chúa, kể cả thời gian, chúng ta chỉ quản lý – vừa là quyền vừa là trách nhiệm. Kinh Thánh nói: “Bản thân chúng ta, cùng với ngôn từ, với toàn bộ trí tuệ và tài năng, tất cả đều nằm trong tay Thiên Chúa.” (Kn 7:16) Người tài năng thường được tỏa sáng trong im lặng, còn kẻ kém cỏi thường tự lan tỏa bằng âm thanh.

Cuộc sống có những chữ T gây ra nhiều phiền toái – Tình, Tiền, Tội, Tù, vì 4 T đó mà có thể Tử. Phần riêng có tốt và có xấu: “Chúa đổ mưa tai họa xuống đầu ác nhân; lửa đỏ, diêm sinh và gió nóng là phần riêng của chúng trên đời.” (Tv 11:6) Đó là phần riêng cho ác nhân, theo luật công bằng chứ Thiên Chúa chẳng ghét bỏ ai. Ở hiền thì gặp lành, nhưng đôi khi người hiền lành lại hay vướng “cái eo” đau khổ, phần riêng đó chỉ để bụng mà thôi: “Nỗi đắng cay chỉ riêng lòng mình biết, niềm hân hoan đâu chia sẻ được với người ngoài.” (Cn 14:10)

Chúa Giêsu dạy từ bỏ mình, quên mình chứ không quên người khác, hy sinh tư lợi vì lợi ích chung – công ích. Thánh Phaolô cho biết: “Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào. Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. Việc phục vụ này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của Đức Kitô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và với mọi người.” (2 Cr 9:10-13) Thực hiện công ích là thực thi Đức Ái, sống vì người khác là thể hiện lòng thương xót.

Trong Giáo huấn Xã hội Công giáo, công ích là một trong bốn nguyên tắc chính: [1] Nhân phẩm, [2] Công ích, [3] Bổ trợ, [4] Liên đới. Nói về công ích, có thể chúng ta cảm thấy xa lạ, nhưng thật ra rất gần gũi, vì công ích được phát xuất từ gia đình, mà gia đình lại chính là nền tảng của xã hội. Thật vậy, Kinh Thánh nói: “Tìm đâu ra một người vợ đảm đang? Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai họa cho chồng. Nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc.” (Cn 31:10-13) Tiền tuyến luôn cần hậu phương. Người vợ âm thầm làm việc, với đủ thứ việc “không tên,” các việc lặt vặt mà không nhỏ, rất cần thiết để tạo nên Tổ Ấm, duy trì hạnh phúc thực sự trong gia đình.

Phụ nữ được Thiên Chúa ban cho tính cách độc đáo lắm: “Nàng tra tay vào guồng kéo sợi, và cầm chắc suốt chỉ trong tay. Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.” (Cn 31:19-20) Cái tính nết đã đặc biệt rồi, mà cái tâm cũng khác lạ. Thật tốt lành. Nàng dịu hiền vì nàng là phụ nữ. Quả thật, nét dịu dàng rất cần ở phụ nữ, ca dao đã đặt vấn đề: “Có ai bán cái dịu dàng, tôi mua một gánh tặng nàng làm duyên.” Lời này như nhắc nhở chị em nào chưa dịu dàng đủ mức thì cố gắng thêm.

Phái nào cũng cần nét duyên dáng, đặc biệt rất cần đối với nữ giới, nhưng không nên yểu điệu quá hóa kiểu cách, phản tác dụng, vì Kinh Thánh nói: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân. Người phụ nữ kính sợ Đức Chúa mới đáng cho người đời ca tụng. Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra. Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm.” (Cn 31:30-31) Nét duyên dáng tâm linh mới thực sự cần thiết, nhưng giáo dân hoặc tu sĩ đều có dạng “chảnh” đặc trưng.

Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền là “tam giác sống” ai cũng có. Ngày nay, cả đời và đạo không còn nhìn phụ nữ như thời quân chủ, mà có tầm nhìn sâu rộng hơn về vị trí nhất định của nữ giới. Kinh Thánh nói: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái, và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn.” (Tv 128:1-3) Hình ảnh gia đình hạnh phúc được mô tả rõ nét. Thánh Vịnh này rất quen thuộc vì thường được dùng làm đáp ca trong các lễ cưới, đặc biệt là lễ Thánh Gia – gương mẫu cho các gia đình.

Đó cũng là hình ảnh Giáo Hội luôn đầy tràn hồng ân Thiên Chúa. Thánh Vịnh ca ngợi: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu.” (Tv 128:4-6) Đó là hạnh phúc thực sự đáng mơ ước, vì hạnh phúc đó chính là Ơn Thánh do Thiên Chúa trao ban.

Trong cuộc sống đời thường, người ta nhắc nhở: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng!” Nhắc nhở mà là cảnh báo, rất cần thiết, bởi vì con người dễ ảo tưởng mà tự mãn. Ma quỷ rất mưu mô xảo quyệt luôn tìm mọi thủ đoạn để giành lấy linh hồn chúng ta, nó gài bẫy chúng ta bằng sự ảo tưởng để tạo thói kiêu ngạo. Được người ta khen khi chúng ta làm được điều gì đó “có vẻ hay” một chút, chúng ta rất dễ “lên mặt,” cứ tưởng mình là “cái rốn” của vũ trụ, cứ tưởng mình có đầy bụng chữ, rồi coi thường người khác. Xã hội Việt Nam ngày nay có nhiều “giáo sư, tiến sĩ” hợm mình kiểu như vậy. Thảo nào cụ thi hào Nguyễn Du đã khuyến cáo: “Có tài mà cậy chi tài, chữ TÀI liền với chữ TAI một vần.” (Truyện Kiều, câu 3247-3248) Và cụ xác định: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.” (Truyện Kiều, câu 3252) Chữ Tài thiếu dấu huyền hóa chữ Tai, nghĩa là có TÀI chưa đủ mức thì hóa TAI. Việt ngữ vô cùng độc đáo!

Chuyện xa lân la chuyện gần, chuyện gần phân vân chuyện xa. Về ngoại hình, đối với cả nữ và nam, khi tự thấy mình có ngoại hình “coi được” một chút là đã “chảnh” lắm rồi, cộng thêm “giỏi” một chút nào đó nữa thì mức độ càng tăng thêm. Thậm chí ngay cả khi làm công việc đạo đức, từ thiện, công ích,… người ta cũng “dám” lấy ngoại hình của mình mà “lấn át” người khác. Chính mình “chảnh” mà lại không nghĩ vậy, quên rằng “sắc đẹp là những cánh hoa hồng sẽ bị thời gian tỉa dần.” Ý tưởng nông cạn như thế thì nguy hiểm vô cùng! Hãy học thuộc lòng câu Kinh Thánh này: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.” (Cn 31:30) Cố gắng đè bẹp “cái tôi” xuống.

Mọi thứ có liên quan lẫn nhau – từ cái nhỏ tới cái lớn, từ điều đơn giản tới điều phức tạp, từ chỗ xa tới chỗ gần, phong cách tiệm tiến và lung khởi. Thánh Phaolô căn dặn: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: ‘Bình an biết bao, yên ổn biết bao!’ thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.” (1 Tx 5:1-3) Ý tưởng tỉnh thức này luôn xuất hiện trong Công giáo, bất kỳ thời điểm nào, đặc biệt là mùa Chay, mùa Vọng, mùa Cầu Hồn và cuối năm.

Cố gắng tỉnh thức là sống khôn ngoan, biết sống khôn ngoan là biết sống trong đức ái – một trong ba nhân đức đối thần quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Thánh Phaolô giải thích: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.” (1 Tx 5:4-6) Có cái này thì có cái kia, không có cái kia thì chẳng có cái nọ. Tính liên đới lạ lùng lắm.

Chúa Giêsu đã từng so sánh và xác định: “Con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng.” (Lc 16:8) Cái “khôn ngoan” ở đây không phải là một lời khen, mà là lời cảnh báo và chê trách. Khôn ngoan ở đây là khôn lỏi, khôn ranh, ma mãnh, mưu mô, xảo quyệt,… Ngày nay gọi là “đểu,” không là “đểu giả” mà “đểu thật,” đểu chính hiệu.

Trình thuật Mt 25:14-30 (≈ Lc 19:12-27) đề cập dụ ngôn “những yến bạc.” Khi sắp đi xa, ông chủ gọi đầy tớ đến để giao phó của cải. Người này được ông trao cho năm yến, người kia hai yến, người khác một yến, tùy khả năng riêng mỗi người. Sau đó, người lãnh năm yến đi làm ăn buôn bán, sinh lời được năm yến khác, và người lãnh hai yến sinh lời được hai yến khác, còn người lãnh một yến đi đào lỗ để chôn giấu. Một thời gian sau, ông chủ về tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ.

Mọi người lần lượt tính sổ. Người lãnh năm yến tiến lại và đưa năm yến khác, người lãnh hai yến cũng tiến lại và đưa hai yến khác. Ông chủ khen hai người này: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Hạnh phúc nhãn tiền, sự công bằng chính đáng.

Rồi người lãnh một yến cũng tiến lại và phân bua: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” Ông chủ thẳng thắn và nghiêm nghị nói: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

Nơi tối tăm đó chẳng phải là nơi hang động âm u hoang vắng, thiếu ánh sáng, cũng chẳng phải là chốn Luyện Hình, mà chính là Hỏa Ngục. Đúng là dốt mà chảnh, ngu mà kiêu. Đã kém cỏi mà không dám nhận, còn đổ lỗi cho người khác. Loại người này cũng thấy xuất hiện thường xuyên trong xã hội Việt Nam ngày nay. Theo báo Thanh Niên, mỗi năm Việt Nam mất 2.500 ha rừng, thế nên lũ lụt xảy ra dữ dội hơn, nhưng giới hữu trách lại biện hộ với các lý do rất ngớ ngẩn, thậm chí là ngu xuẩn.

Phàm nhân chúng ta chỉ là thụ tạo, là đầy tớ của Chủ Nhân Thiên Chúa. Mỗi chúng ta đều được Ngài trao cho đồng đều: Nhân vị, nhân phẩm, nhân quyền, và sự tự do. Ngài trao cho mỗi người khác nhau về số nén, loại nén, và kiểu nén. Nhưng vấn đề quan trọng là chúng ta có sinh lời hay không, tức là làm lợi cho chính mình và tha nhân. Nếu chỉ làm lợi cho mình thì là ích kỷ, muốn lên Thiên Đàng một mình cũng là ích kỷ. Chúng ta như bức tượng được nhà điêu khắc tạo ra, không có quyền than phiền bất cứ điều gì đối với nhà điêu khắc.

Chắc chắn không ai là kẻ bất tài hoặc vô dụng, người có tài này, kẻ có tài kia; người giỏi trong lĩnh vực này, kẻ giỏi trong lĩnh vực khác. Có tài để cộng tác với Thiên Chúa chứ không phải là để vinh danh mình. Hơn người khác về lĩnh vực nào đó thì đừng vội ảo tưởng được Thiên Chúa “ưu tiên” hoặc “cưng” hơn. Vĩ nhân Pythagore (570-495 trước công nguyên) nhận định: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại.” Ông là một thiên tài vĩ đại (triết gia, nhạc sĩ, chính trị gia, nhà đạo đức học, nhà toán học, nhà siêu hình học,…), nhưng ông rất sợ thói kiêu ngạo. Thế thì chúng ta là gì mà dám vênh váo tự đắc chứ? Vỏ quýt dày thì có móng tay nhọn.

Thật chí lý khi biết nhận diện chính mình và khiêm nhường, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Thật vậy, những gì chúng ta lãnh nhận không phải để sở hữu riêng mà phải làm vì lợi ích chung. Chúa Giêsu khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11:29) Quả thật, bài học khiêm nhường chỉ có thể học được ở Trường Siêu Đẳng của Thầy Giêsu mà thôi.

Lạy Thiên Chúa chí thánh, xin tạ ơn Ngài ban phần riêng cho chúng con, mỗi người mỗi khác, để chúng con cộng tác và bổ túc lẫn nhau. Xin ban ơn khôn ngoan để chúng con sinh lời theo đúng ý Ngài, và xin giúp chúng con nhận biết mình bé nhỏ và kém cỏi, bất túc và bất trác. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 [*] Giáo huấn Xã hội Công giáo cho biết: “Công ích được hiểu như là những điều kiện xã hội cho phép mọi người đạt đến trọn vẹn tiềm năng con người và nhận ra nhân phẩm của mình.” Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, nguyên tắc công ích cho thấy nhu cầu về các cơ cấu quốc tế để có thể thúc đẩy sự phát triển cá nhân và gia đình vượt ra khỏi ranh giới quốc gia và khu vực. Sự thiếu vắng cảm thức về công ích là dấu chỉ chắc chắn về sự xuống cấp của xã hội. Cảm thức cộng đồng bị xói mòn sẽ dẫn đến các dạng suy thoái về công ích, từ đó có thể dẫn tới các hệ lụy khác gây ảnh hưởng xấu.

Về mục lục

CHÂN THÀNH

Lm Vũđình Tường

Dụ ngôn quà tặng, hay tài năng xác định tất cả những gì tốt lành con người có đều là của Chúa ban. Đó có thể là khôn ngoan, trí thông minh, nghệ thuật ca múa, kịch nghệ, sức khoẻ và ngay cả đời sống. Tất cả đều đến từ Thiên Chúa. Ngài mong đợi con người phát triển những tài năng đó, trước hết để nuôi thân và quan trọng hơn hết làm sáng Danh Chúa qua phục vụ đồng loại là Dân Chúa. Thiên Chúa không mong đợi con người lập những kì công vĩ đại, nhưng qua việc bác ái đơn giản, Thiên Chúa biến những việc đơn giản, nhẹ nhàng đó thành kì công, vĩ đại, mang lại ích lợi cho dân Ngài. Mọi tham vọng mong đạt được thành quả ngoài giới hạn khả năng con người đều là những việc làm vô bổ. Tham vọng đó không đến từ Thiên Chúa mà do khao khát riêng của con người. Cố gắng chứng minh Thiên Chúa không hiện hữu là một tham vọng hoài công, ngoài khả năng con người. Bởi nếu không có Ngài, sẽ chẳng có ta và khả năng hạn hẹp của ta không thể nào hiểu được tình yêu của Ngài.

Chân thành, thành tín dẫn ta đến gặp Chúa. Ẩn nấp sau bất trung và gian dối là đường dẫn đến diệt vong. Chân thành, thành tín là đường ngay thẳng, tốt lành. Chúng là ánh sáng soi sáng tâm trí ta, là đường lành hướng dẫn ta hành động công chính và là đường lối của Thiên Chúa. Kêu gọi dân chúng tiết kiệm khi về hưu dưỡng, người ta nói ‘Thành công vĩ đại có nguồn gốc từ thành công nhỏ’. Chân thành, thành tín trong việc nhỏ tiếp sức niềm tin lớn là tinh thần bài đọc hôm nay.

Dụ ngôn kể vị chủ kia trước khi đi xa gọi gia nhân đến trao của cải của ông cho họ coi sóc. Mỗi gia nhân nhận được tuỳ theo khả năng cuả họ. Thời gian chủ trở về không xác định, nhưng việc chủ trở về là chắc chắn. Hai gia nhân đầu yêu mến chủ và sẵn sàng phục vụ hết khả năng mình. Họ thành công trong việc làm lợi cho chủ. Điều này cho biết chủ đánh giá xác thực tài năng của hai gia nhân. Chủ rất vui và trao cho họ thêm nhiều hơn nữa để họ tiếp tục làm lợi cho chủ. Người gia nhân còn lại tin vào phán đoán của nguời khác cho chủ là ‘Người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế tôi sợ, chôn giấu yến bạc của ông. Của ông, xin trả lại ông’. c.25. Người gia nhân này đâu biết khi anh ta phê phán chủ anh cách hà khắc lại là phê phán chính bản thân anh. Lời phê phán vay mượn này không phải do anh biết về chủ mà nghe người ta nói về chủ và anh tin vào điều đó. Bởi đặt niềm tin sai chỗ nên anh hành động sai. Sợ hãi về chủ làm tê liệt chí khí anh. Chính sợ hãi làm cho con người anh ra hèn nhát, yếu đuối, sợ không dám mạo hiểm. Hy sinh, mạo hiểm là thực tế trong cuộc sống. Không thật sự hy sinh, sao có tình yêu thật. Không dám mạo hiểm, không việc gì được thực hiện. Ông chủ muốn gia nhân học mạo hiểm từ ông bởi khi giao tài sản cho gia nhân là một mạo hiểm lớn. Ông chủ đã đi con đường mạo hiểm đó tiến đến thành công.

Gia nhân thành tính luôn làm việc hết khả năng, dù chủ ở gần hay khi khuất mặt, họ vẫn chăm chỉ làm việc vì họ không coi mình là người làm thuê mà làm việc của chủ như việc của chính họ, bởi hành động của họ được hướng dẫn bởi con tim chân thành. Gia nhân bất trung ghét công việc nhưng lại thích quyền hành. Đối xử với người khác bằng quyền lực là dấu chỉ của yếu kém, bất tài nên dùng quyền lấn át người khác. Dùng quyền xử tệ với nhau làm cho gánh nặng cuộc đời trở nên nặng nề. Chủ thưởng cho gia nhân thành tín và phạt nặng gia nhân bất trung. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết dùng tài năng Chúa ban để làm sáng Danh Chúa qua phục vụ tha nhân.

Về mục lục

ĐẦU TƯ VÀO CỦA CẢI, TÀI NĂNG, ÂN HUỆ CHÚA BAN

Lm Trần Bình Trọng

Theo thông lệ được sử sách ghi lại ở những nước miền Cận Ðông như Ai Cập, Át-sua và Pa-lét-tin, thì khi một người giàu có trẩy đi xa nhà và dài hạn, họ thường giao tài sản cho những đầy tớ tín cẩn, ít hay nhiều, tuỳ theo khả năng của mỗi người (1). Dụ ngôn trong Phúc âm hôm nay kể lại người đầy tớ nhận được năm yến bạc biết ông chủ mong mình đầu tư để kiếm lời và anh ta đã làm lời được năm yến nữa. Người nhận được hai yến, mặc dù ít hơn, cũng đầu tư để sinh lời. Theo tỉ lệ phần trăm, thì người đầy tớ làm lời thêm hai nén, cũng thành công như người đầy tớ sinh lời thêm năm yến. Cả hai người cùng cố gắng đầu tư để sinh lời cho những nén bạc của chủ, và do đó được ơn nghĩa với chủ. Tại sao hai người đầy tớ đầu tư đều được lời gấp đôi như vậy? Thưa là thế này. Vào thời đó mà người ta cho vay tiền trong thời gian dài hạn, thì được lãi xuất rất cao (2) .

Còn người đầy tớ chôn vùi một yến bạc của chủ có đủ khả năng để làm việc nhỏ được trao phó. Tuy nhiên, khi nhận được yến bạc, anh ta đã đem chôn cất đi. Anh ta chỉ nói lí do là sợ hãi vì ông chủ hà khắc và còn là người keo kiệt nên mới đem chôn yến bạc của chủ để có thể trả lại tiền vốn nguyên vẹn cho chủ, không lời cũng không lỗ. Vì lười biếng và thiếu tinh thần trách nhiệm, anh ta đã bị ông chủ sa thải và trách phạt. Những lí do khác nữa mà anh ta không nói ra có thể là bất mãn với chủ vì chủ chỉ trao có một yến bạc, hoặc là anh ta ganh tị với các bạn đầy tớ vì họ nhận được nhiều hơn. Có những học giả thánh kinh coi người đầy tớ biếng nhác là tượng trưng cho nhóm người kinh sư và Pharisêu. Họ là những người thông luật, nhưng lại câu nệ vào việc giữ luật một cách hẹp hòi và đóng cửa lòng lại trước tiếng gọi của Chúa và coi thường tha nhân.

Cũng như người chủ mong người đầy tớ dùng những yến bạc đã được trao phó để làm lời, Thiên Chúa cũng muốn người ta dùng của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban để làm vinh danh Chúa. Chúa không đòi người ta phải trả nhiều hơn quá mức họ dã nhận được. Chúa chỉ đòi người ta trách nhiệm về của cải, tài năng và ân huệ đã được trao phó và sinh lợi theo tỉ lệ: nhận nhiều phải trả nhiều, nhận ít trả ít. Người được trao hai yến bạc sinh lời được hai yến nữa cũng được ông chủ khen thưởng là tài giỏi và trung thành (Mt 25:23) và còn được chủ hứa trao thêm và cho hưởng niềm vui của chủ như người nhận được năm yến mà làm lợi thêm năm yến nữa. Còn người không chịu dùng tài năng bé nhỏ mà chủ ban thì không có cơ hội phát triển cho nên tài năng bị cùn nhụt đi. Ðó chính là lời Chúa phán: Phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng bị lấy đi (Mt 25:29).

Bài học mà Chúa muốn dạy ta trong dụ ngôn hôm nay là tầm quan trọng của việc đầu tư vào đời sống thể chất, tinh thần và thiêng liêng. Theo thánh Phaolô thì mỗi người nhận được những ân huệ thiêng liêng khác nhau của Chúa: Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được thần khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ; người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ (1Cr 12:8-10).

Mỗi người còn nhận được những của cải vật chất và tinh thần. Có người có đầu óc thông minh, sáng tạo. Có người có khiếu về thể thao, âm nhạc. Có người có tư cách cao đẹp về bản ngã, nhân vị. Người khác có đời sống thiêng liêng cao sâu, có thể gợi cảm thiêng liêng nơi người tiếp súc. Ðiều quan trọng là người ta cần khám phá ra những của cải, tài năng và ân huệ mình có và tìm cách phát triển để làm lợi cho nước Chúa ở trần gian. Việc tìm cách phát triển của cải, tài năng và ân huệ là để làm vinh danh Chúa và phục vụ nhân loại chứ không nhằm mục đích chỉ để khoe khoang. Có tài năng mà người ta có thể không biết vì họ không chịu xử dụng. Khi dùng những tài năng mà mình có, người khác mới biết để mà phê phán và đánh giá. Khi được người khác đánh giá tích cực về tài năng của mình thì mình lại càng có hứng đề tự đào luyện hầu có thể phát triển thêm về tài năng của mình. Thơ của Hàn Mặc Tử lúc đầu chưa đặc sắc lắm. Tuy nhiên khi gặp những nguồn thi hứng khác nhau, thơ của chàng thư sinh trở thành bay bướm và được độc giả tán thưởng và ngưỡng mộ. Rồi một biến cố đến cho bản thân làm đảo lộn cuộc đời của tác giả. Bệnh cùi khiến Hàn Mặc Tử phải điên loạn, làm thay đổi cái nhìn về cuộc sống. Cuối cùng tìm được nguồn an ủi thiêng liêng từ nơi Thiên Chúa và Ðức Nữ Maria, Hàn Mặc Tử chấp nhận bệnh tật với tâm tình tin yêu phó thác và dâng hiến cuộc đời trong việc phục vụ đồng loại bằng những vần thơ rung cảm do nguồn cảm hứng siêu nhiên.

Như vậy thì mỗi người đều có số vốn để đầu tư: vốn về vật chất, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Câu hỏi ta cần đề cập đến hôm nay là mỗi người đã dùng của cải, tài năng, ân huệ Chúa ban như thế nào? Mỗi người cần nhìn vào chính mình để tìm ra khoảng cách giữa tài năng mình có và công việc mình hoàn thành. Cũng như người chủ kì vọng vào các đầy tớ đầu tư vốn được trao phó để sinh lời cho ông, Thiên Chúa cũng muốn ta dùng của cải, tài năng và ân huệ Chúa trao ban để sinh lợi cho nước Chúa. Mỗi người tuỳ theo cơ hội, hoàn cảnh và điều kiện có thể, được gọi để dùng những của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban một cách khôn ngoan và với tinh thần trách nhiệm hầu làm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ đồng loại.

Lời nguyện xin cho biết đầu tư vào của Chúa ban:

Lạy Chúa, Chúa là nguồn mạch mọi tạo vật trên trời dưới đất.

Con xin tạ ơn Chúa đã ban cho mỗi người chúng con

số vốn vật chất, tinh thần và thiêng liêng để đầu tư vào đời sống.

Xin dạy con biết bằng lòng chấp nhận

những của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban.

Xin đừng để con bao giờ phàn nàn kêu trách Chúa.

Và  xin dạy con biết trung thành đầu tư vào số vốn

mà Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại. Amen.

Về mục lục

TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA ĐẾN

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 25,14-30

(14) Có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tới riêng của mình đến mà giao phó của cải mình cho họ. (15) Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, (16) người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm nén khác. (17) Cũng vậy, người đã lãnh hai nén gây lời được hai nén khác. (18) Còn người đã lãnh một nén thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. (19) Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến và thanh tóan sổ sách với họ. (20) Người đã lãnh nhận năm nén tiến lại gần, đưa năm nén khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén khác đây”. (21) Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (22) Người đã lãnh hai nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai nén, tôi đã gây lời được hai nén khác đây”. (23) Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !”. (24) Rồi người đã lãnh một nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. (25) Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy !”. (26) Ông chủ đáp: “Hỡi tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác ! Ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, (27) thì đáng lý ngươi phải gởi số bạc của ta cho các chủ ngân hàng, để khi ta đến, ta thu hồi của thuộc về ta cùng với số lời chứ !”. (28) Vậy các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười nén. (29) Vì phàm ai có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. (30) Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: Ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.

  1. Ý CHÍNH:

Tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến trong giờ chết và vào ngày tận thế. Chỉ những ai chu toàn nhiệm vụ làm lợi cho Chúa bằng tất cả khả năng Chúa ban, mới được kể là đầy tớ trung tín và sẽ được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời với Chúa.

  1. CHÚ THÍCH:       

– C 15: + Nén bạc: là một đơn vị tiền tệ có giá trị tương đương với 6.000 quan tiền, tương đương 6.000 ngày công lao động. Đây là một số tiền rất lớn, nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa. Người trao các nén bạc tài năng, trình độ học vấn, của cải vật chất và địa vị xã hội… cho mỗi người. Số nén bạc được trao năm nén, hai nén và một nén, ám chỉ các ân huệ và tài năng được ban nhiều ít tùy theo khả năng mỗi người.

– C 18: + Đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ: Đây là thái độ tiêu cực và vô trách nhiệm của người đầy tớ được trao cho một nén. Những ai không sử dụng các tài năng và của cải Chúa ban để làm sáng danh cho Chúa tức là đã đem chôn giấu nén bạc được trao cho mình.

– C 29: + Phàm ai có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi: Ai tin vào Đức Giê-su và dùng ơn Chúa ban để làm vinh danh cho Chúa và phục vụ phần rỗi tha nhân thì sẽ được Thần Chân Lý giúp hiểu biết sự thật và ngày một nên hoàn thiện hơn. Còn những kẻ không yêu mến Chúa, thể hiện qua việc không làm lợi các nén bạc được trao, thì sẽ không được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau với Chúa.

– C 30: Khóc lóc nghiến răng: Một kiểu nói diễn tả các hình phạt của những kẻ không tin yêu Chúa. Họ sẽ chung số phận với ma quỷ muôn đời trong hỏa ngục, nơi đầy đau khổ và hận thù.

  1. CÂU HỎI: 1) Nén bạc là gì ? Giá trị thế nào ? Ám chỉ điều gì ? 2) Thái độ đào lỗ để chôn giấu số bạc của chủ là hành động của hạng người nào ? 3) Câu “Phàm ai có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” có ý nghĩa thế nào ? 4) Kiểu nói “Khóc lóc nghiến răng”ám chỉ người bị sa hỏa ngục phải chịu những hình phạt gì ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) HÃY LÀM MỌI VIỆC VỚI HẾT KHẢ NĂNG.

Sau khi đến thăm gia đình của một cô bạn cùng lớp vừa bị tai nạn xe cộ, cô bé Lin-đa trở về nhà. Cha cô đã nổi giận khi biết con gái vừa đến thăm tang gia của bạn. Ông trừng mắt nhìn Lin-đa và hỏi: “Tại sao con lại đến nhà người ta vào lúc này ?” Lin-đa trả lời: “Thưa ba, con đến là để giúp đỡ cho gia đình bạn ấy”. Ông bố lại hỏi: “Nhưng con thì làm được việc gì để giúp đỡ gia đình nhà họ ?” Lin-đa đáp: “Ba ơi, con chẳng giúp gì được cho gia đình bạn ấy cả. Con chỉ biết chạy đến ôm chầm lấy mẹ của bạn ấy mà khóc, và mẹ bạn ấy cũng ôm con vào lòng và cùng khóc với con”. Câu trả lời của Lin-đa đã làm cho cha cô hiểu ra rằng: Tuy Lin-đa không làm được gì nhiều cho tang gia, nhưng em đã làm tất cả những gì trong khả năng và tầm tay của mình để an ủi bà mẹ đang đau khổ vì vừa bị mất đứa con thân yêu.

2) LỜI TRĂN TRỐI CỦA MỘT NGƯỜI LÚC SẮP CHẾT:

Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người thiệt mạng. Một thời gian ngắn trước khi máy bay rơi xuống vách núi nổ tung thì hành khách đã được phi hành đoàn thông báo cho biết máy bay họ đang đi đã bị mất điện và sắp bị rơi. Hành khách có vài phút để viết mấy lời từ biệt người thân.

Khi các nhân viên cấp cứu đến nơi máy bay bị rớt thì họ đã tìm thấy một cuốn lịch bỏ túi của một thương gia người Nhật. Trong đó, người thương gia đã ghi lại mấy hàng chữ run rẩy như sau: “Máy bay sắp bị rơi rồi… tôi buồn quá!”. Trang tiếp viết cho con cái : “Hãy sống tốt, làm việc hăng say, mà giúp đỡ cho mẹ các con”. Những hàng chữ run rẩy trong cuốn lich bỏ túi nói trên của một người biết mình sắp chết. Cái chết đã bất chợt đến mà không báo trước như tên trộm lúc đêm tối.

3) HÌNH ẢNH VỀ CUỘC PHÁN XÉT CHUNG:

Vào lễ Giáng sinh 1541, khi mở tấm màn che bức tranh khổng lồ của họa sĩ MICHEL-ANGELO về ngày phán xét chung, nhiều người chiêm ngưỡng đã phải rùng mình khiếp sợ, vì khuôn mặt của Chúa Giê-su không còn mang vẻ hiền lành của một Mục tử nhân lành, mà đã biến thành một vị Thẩm phán oai nghiêm công thẳng. Trong bức tranh, đã có hơn 300 hình ảnh nhỏ ghép lại: nào là hình các thánh Tông đồ, các thánh Tử đạo, các thánh Tiến sĩ, các Đức Giáo hoàng, những người giáo dân… Theo tiếng kèn thiên sứ, hết mọi người chết đều trỗi dậy và ra khỏi mồ để chịu phán xét chung. Có những hình ảnh về cha mẹ đang âu yếm khi gặp lại con cái; Hình bạn bè gặp nhau tay bắt mặt mừng… Thế nhưng, trong ánh mắt của mọi người đều biểu lộ một nỗi sợ hãi vì số phận đời đời của họ sắp được ấn định.

Đức Giê-su đã tiên báo về ngày cùng tận của thành Giê-ru-sa-lem ám chỉ về ngày tận thế. Vào năm 70 sau Công Nguyên, dân Do thái nổi loạn chống lại Đế quốc Rô-ma. Tướng Titus đã mang quân đến vây hãm thành nhiều ngày liền và họ triệt đường nước và lương thưc. Cuối cùng thì thành đã bị thất thủ và bị đốt cháy tàn phá “không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”.

Cũng vậy, trong ngày tận thế khi Chúa Ki-tô tái lâm sẽ phán xét chung toàn nhân loại. Khi ấy mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của mỗi người đều bị phơi bày trước nhan Chúa.

Điều cần là mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức cầu nguyện và làm lợi các tài năng Chúa ban, để được Chúa khen ngợi ban thưởng Nước Trời đời đời như sau : “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).

  1. SUY NIỆM:

1) TỈNH THỨC BẰNG LỐI SỐNG ĐƠN SƠ NHỎ BÉ NHƯ THÁNH NỮ TÊ-RÊ-SA:

– Tuy không làm được những việc lớn lao, nhưng Tê-rê-sa đã sống tinh thần “con thơ phó thác”, yêu mến cậy trông vào Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su. Thế mà ngày nay chị đã được Hội Thánh tôn lên hàng đại thánh và được hằng triệu con tim ngưỡng mộ học tập.

– Tuy không đi giảng Tin Mừng và không rửa tội được cho ai, nhưng nhờ lời cầu nguyện kèm theo sự hy sinh hãm mình cho việc truyền giáo, mà chị thánh đã được đánh giá như một vị thánh đi truyền giáo hữu hiệu, ngang hàng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê.

– Tuy không để lại những tác phẩm lớn lao uyên bác như thánh Tô-ma A-qui-nô, nhưng Tê-rê-sa vẫn được tôn lên hàng tiến sĩ, là thầy dạy của Hội Thánh về đức tin.

Như vậy, không nhất thiết phải giàu sang, có địa vị cao và tài năng vượt trội, chúng ta mới có thể  làm được những việc lớn lao. Vì đối với Thiên Chúa, ai càng nhỏ bé khiêm hạ sẽ được Ngài tôn lên.

2) TỈNH THỨC BẰNG VIỆC QUÊN MÌNH PHỤNG SỰ CHÚA VÀ THA NHÂN:

– Trong cuộc sống, bạn có biết mỉm cười để cảm thông với tha nhân không ? bạn có sẵn sàng làm những việc trong tầm tay của mình như: dọn một tách cà phê vào buổi sáng cho bố, đi chợ nấu cơm dọn dẹp nhà cửa giúp cho mẹ, động viên các em học bài ở nhà, giúp bạn bè vượt khó với hết khả năng của mình… Mỗi buổi tối chúng ta hãy tự hỏi mình: “Trong ngày hôm nay tôi đã sử dụng nén bạc Chúa trao thế nào ?”

– Ngày nay có nhiều người cho rằng Thiên Chúa bất công khi để xảy ra tình trạng: người thì “bát ăn bát để”, đang khi nhiều kẻ khác lại phải bị “khố rách áo ôm”. Người thì cao sang quyền quý “lên xe xuống ngựa”, đang khi nhiều kẻ phải “làm thân trâu ngựa” cho người ta cưỡi. Có những cô gái vừa “đẹp người” lại vừa “đẹp nết” nên được nhiều kẻ đón người đưa, đang khi nhiều cô khác lại “sinh ra nhằm ngôi sao xấu” nên chẳng ai thèm đoái hoài… Đức Giê-su đã gián tiếp trả lời cho vấn nạn trên qua dụ ngôn “những nén bạc” trong Tin Mừng hôm nay. Điều quan trọng là hãy bằng lòng với những gì mình đang có và biết dùng những tài năng đó để làm lợi cho Chúa.

– Trộm cướp giết người là trọng tội đáng bị trừng phạt đời sau, nhưng tội không sử dụng tài năng của cải Chúa ban để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi các linh hồn cũng là một trọng tội bị loại khỏi hạnh phúc Nước Trời.

– Hôm nay tôi sẽ sử dụng những của cải và tài năng Chúa ban thế nào để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân?

  1. THẢO LUẬN:

Một số khá đông tín hữu nghĩ rằng: “Tôi rất bận với công việc bổn phận lo kiếm tiền nuôi gia đình, nên không có giờ cầu nguyện, dự lễ hằng ngày hoặc làm các việc bác ái truyền giáo như các linh mục tu sĩ được”. Bạn có đồng ý với câu nói chữa mình nói trên không ? Tại sao ?

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xưa khi Mẹ Ma-ri-a khi được khen là “có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói” (x Lc 1,45), thì Mẹ đã dâng lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Rồi từ đó, cuộc đời của Mẹ trở thành một bài ca “Xin vâng” thánh ý Thiên Chúa (x. Lc 1,38), và luôn “ngợi khen cảm tạ tình thương của Người”.(x Lc 1,46.49). Cuộc đời chúng con ở trần gian hôm nay vẫn còn nhiều gian truân đau khổ. Xin Chúa giúp chúng con cũng biết “xin vâng” ý Chúa như Mẹ Ma-ri-a xưa. Xin cho chúng con biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để “làm vinh danh cho Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Xin cho chúng con biết ra tay làm việc hơn là chỉ biết ngồi đó mà kêu trách số phận như người ta thường nói: “Thà thắp lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối !”.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

CHỈ MỘT BƯỚC CHÂN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo”.

Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn một trăm ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong dòng thời gian bị bách hại, các Kitô hữu phải trải qua một trong những thử thách đức tin là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các Kitô hữu bước qua. Đôi khi chỉ là hai cây gỗ bắt chéo nhau. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình dã man. Ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.Bước qua là được tiếp tục sống an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất cả mạng sống. Chỉ cần một bước chân thôi là mọi sự thay đổi. Đã có người bước qua, và cũng có người không.

Có người bị khiêng qua thánh giá nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận, đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế; các ngài vẫn khẳng khái nói không, không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.

Đứng trước thập giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.Giây phút đứng trước thập giá là giây phút quan trọng.Quyết định không bước qua thập giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất…Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa dứt khoát : theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô. Giây phút quyết định ấy chỉ có các Ngài với Thiên Chúa, chỉ có linh hồn với cõi phúc vô biên. Giây phút ấy không bị ảnh hưởng bởi gia đình, tổ quốc, nhân sinh. Người chết trong máu tử đạo đã coi nhẹ nghĩa phu thê, đã xem thường đường phụ tử. Họ khao khát một tình yêu vô biên mỹ lệ như giải ngân hà sao sa vời vợi, như vầng nhật nguyệt huy hoàng khôn tả. Các Ngài đã hoan hỉ chấp nhận chết để được sống một cuộc đời mà không mỹ từ nào diễn tả nổi, không bút hoạ nào vẽ thành và không hùng biện nào tuyên dương cho trọn. Người chết trong gông cùm mòn mỏi đã đặt tổ quốc đàng sau những giá trị vĩnh cửu. Ước vọng của họ không phải là được người đời tưởng niệm, được hậu thế tôn phong. Họ chết là vì đức tin thúc đẩy. Họ chỉ muốn thực hiện điều đã từng nghe biết : “Ai tuyên xưng danh Ta trước mặt trần gian, Ta sẽ tuyên danh nó trước mặt Cha Ta trên trời” (Mt 10,32). (x.Thiên Hùng Sử trang 4).

Thánh Nữ Inê Lê Thị Thành, sinh tại làng Bái Điền, địa phận Thanh Hóa, vào khoảng năm 1781; nhưng sau này theo mẹ về quê sống tại làng Phúc Nhạc, địa phận Phát Diệm. Năm lên 17 tuổi bà kết duyên cùng ông Nhất và sinh được 2 trai, 4 gái. Vì con trai đầu lòng tên Đê, nên theo tục lệ thời ấy, dân chúng gọi hai người là ông bà Đê. Suốt 60 năm trời, cuộc đời của bà êm đềm trôi qua trong nghĩa vụ làm người vợ thảo, mẹ hiền.

Thế rồi, vào lối tháng 3 năm 1841, có 4 linh mục thừa sai về đến làng Phúc Nhạc. Họ chia nhau ẩn trú mỗi người tại một nhà giáo dân. Bà Đê được vinh dự che dấu cha Thành trong nhà mình. Nhưng một ngày kia, ông Đễ, một giáo dân thường hay theo giúp cha Thành, đã thay lòng đổi dạ, ham tiền thưởng nên đi mật báo với quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Thế là quan tổng đốc bất thần đem 500 quân về vây làng Phúc Nhạc vào rạng sáng Phục Sinh, 14-4-1841. Cha Thành và cha Ngân nhanh chân trốn kịp. Cha Nhân trốn trên gác bếp vô tình để gấu áo lò ra ngoài kẽ ván nên bị bắt. Cha Lý, đang ẩn bên nhà ông trùm Cơ, lúng túng không tìm được đường tẩu thoát, nên chạy sang nhà bà Đê ẩn núp. Bà dẫn cha ra vườn sau, dấu cha dưới đường mương, rồi mẹ con bà lấy rơm rác phủ dấu che cha. Nhưng quan quân đã thấy cha Lý chạy sang nhà bà Đê, nên kéo đến vây kín, lục soát thật kỹ, cuối cùng họ đã bắt được cha Lý, bắt luôn bà Đê áp giải về Nam Định. Với tuổi cao sức yếu, lại phải mang gông cùm nặng nề, đoạn đường từ Phúc Nhạc về đến Nam Định đã trở thành chặng đàng thánh giá, con đường dẫn đến Núi Sọ.

Tại Nam Định, bà đã bị lôi ra tòa, bị đánh đập nhiều lần nơi công đường, khi thì bằng roi, khi thì bằng cây củi lớn, nhưng bà vẫn một mực trung kiên tuyên xưng đức tin.

Lính vừa đánh vừa lôi bà dẫm lên thánh giá. Bà vùng ra rồi nằm sụp xuống ôm lấy thánh giá. Bà cầu nguyện: Chúa con ơi, xin thương con, con không bao giờ bỏ Chúa đâu. Họ cậy con là đàn bà yếu đuối mà ép lôi con dẫm lên thánh giá. Con không bỏ Chúa đâu, con không bỏ Chúa đâu. Xin thương giúp con.

Quan: Con mụ già này to gan thật. Được, để ta xem ngươi to gan đến đâu. Quân bây đâu.Đem rắn độc ra cho ta.Túm áo túm quần nó lại. Thả rắn độc vào mình nó, để xem nó to gan đến đâu, xem Chúa nó có cứu nó được không? Lính thi hành. Nhưng bà vẫn bình tĩnh đứng yên. Quan đi từ khoái chí đến kinh ngạc, rồi giận dữ.

Quan: Lôi nó vào ngục, đánh cho nó thêm một trận nhừ đòn. Đánh cho toát máu, cho áo quần nó phải đẫm máu mới thôi.

Cô Nụ, con bà Đê đến xin thăm nuôi mẹ. Một người lính lôi bà Đê ra. Vừa thấy mẹ, cô Lucia Nụ òa lên khóc vì thấy mẹ quá tiều tụy, áo quần rách nát, đẫm máu. Nhưng bà vẫn vui vẻ an ủi con.

Cô Nụ: Mẹ, sao áo quần mẹ tả tơi, đẩm máu thế này.

Mẹ: Con ơi, con đừng có khóc. Con hãy vui mừng với mẹ, vì mẹ đang mặc áo hoa hồng đây. Áo này là áo đau khổ vì Chúa mà. Con phải vui mừng với mẹ mới đúng.

Cô Nụ: Mẹ, sao mẹ khổ thế này!

Mẹ: Con ơi, con đừng khóc nữa. Mẹ đang sung sướng kia mà. Mẹ sắp được chết cho Chúa đây, còn gì phúc hơn. Con phải mừng với mẹ, cám ơn Chúa với mẹ mới đúng chứ. Con hãy về đi, về đi và cho mẹ gởi lời thăm hỏi mọi người. Các con hãy cố gắng giữ đạo cho sốt sắng, rồi một mai mẹ con ta sẽ lại đoàn tụ trên thiên đàng.

Bên cạnh những cực hình của ngục tù, đòn vọt, bà Đê lại mắc thêm bệnh kiết lỵ. Chính trong cảnh tù đày, đòn vọt, bệnh tật này, bà đã nhìn lên Đức Giêsu tử nạn, để tìm thấy lẽ sống cho đời mình, để múc lấy sức mạnh vác thánh giá cho đến hơi thở cuối cùng.Và cũng như Đức Giêsu trên thánh giá, bà đã cầu nguyện cùng Chúa trong cơn hấp hối: Lạy Chúa… xưa Chúa đã chết cho con… thì nay con xin hết lòng vâng theo Ý Chúa. ..Xin Chúa tha thứ cho họ… cũng như tha hết. .. mọi tội của con. Rồi bà gục đầu tắt thở trong tay cô Nụ.

Cô Nụ: Mẹ, và ôm xác mẹ khóc nức nở.

Bà Đê đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 12-7-1841, sau ba tháng bị giam cầm, thọ 60 tuổi. Lính đã đến đốt ngón chân bà để biết chắc bà đã chết. Sau đó thi hài bà được đem chôn tại Năm Mẫu, sau lại được cải táng đưa về Phúc Nhạc. Vị thánh nữ đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam.(x.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Trong Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo, Linh mục Vinh sơn Bùi Đức Sinh, trang 216-220).

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.

Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn. Ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống. Ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời. Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa, bởi lẽ “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).

Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Đây là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ.

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.

Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh Giá, Thánh Thể không có ý nghĩa. Không có Thánh Thể, Thánh Giá chỉ là thất bại.Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhờ sức mạnh của Thánh Thể nên đã chọn Thánh Giá cách tuyệt đối và quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Là con cháu của các ngài, xin cho chúng con luôn khôn ngoan trong những chọn lựa của đời sống hàng ngày. Amen.

Về mục lục

LÒNG MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI NƠI CÁC THÁNH TĐVN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Nét son của đạo Công giáo là yêu thương. Ai không sống yêu thương thì người đó không còn xứng đáng gọi là môn đệ của Chúa. Vì xưa Chúa Giê-su đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Yêu thương làm nên người Công Giáo. Yêu thương là hoàn thiện mình nên giống Thầy Chí Thánh Giê-su.

Các thánh Tử đạo Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tất cả các ngài đều có một đời sống gắn bó với quê hương, với xóm làng và đầy tình yêu thương với mọi người từ gia đình đến xã hội. Cụ thể là thánh Simon Phan Đắc Hoà, giáo dân tử đạo. “Là một lương dân, cậu Phan Đắc Hoà đã bị cuốn hút bởi đời sống bác ái yêu thương của một số kitô hữu mà cậu gặp gỡ. Cậu đã xin phép mẹ để được học đạo. Trở thành kitô hữu, lập gia đình, có 12 người con, ông Simon Phan Đắc Hoà luôn sống gương mẫu cho mọi gia đình trong làng. Làm nghề y, ông không bỏ qua một cơ hội giúp người nghèo khó bệnh tật

Với ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình “. Với quan Hồ Đình Hy thì: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý “. Ông từng chăm sóc nuôi nấng một người bệnh bơ vơ, suốt 15 ngày sáng tối thăm hỏi, và khi người bệnh lìa đời, đã tổ chức lễ an táng tử tế. Ông cũng nuôi hai bé gái bị bỏ rơi cho đến khi trưởng thành: một cô xin đi tu, một xin lập gia đình, ông quảng đại lo đến nơi đến chốn.

Chính đời sống đức tin tỏa sáng nhờ có dầu bác ái mà các ngài đã nêu gương sáng cho mọi người, các ngài đã đi vào lòng quan quân, và dân chúng một sự ngưỡng mộ và kính trọng. Mặc cho triều đình nhà Nguyễn ra những chiếu chỉ bách hại, dấu hiệu tình thân giữa bà con chòm xóm đối với người Công Giáo vẫn trước sau như một. Thí dụ trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ “.

Và ngày hôm nay trong cứu trợ lũ lụt đồng bào Miền Trung người ta thấy các xứ đạo trong tỉnh Đồng Nai dường như rất nhiệt tình chia sẻ với anh chị em Miền Trung. Nhiều xứ trở thành nơi gói bánh chưng, tập kết quần ào, gạo, mì tôm và nhiều nhu yếu phẩm khác. . . để gửi ra Miền Trung. Đây là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta đã và đang làm theo gương cha ông chúng ta. Đó cũng là những hành động làm chứng cho tin mừng, là chia cơm sẻ áo, là chia sẻ tiền bạc, vật dụng để những người gặp cảnh hoạn nạn… có thêm cơ hội để sống và sống đúng với nhân phẩm của mình.

Nếu hiểu tử đạo là lời chứng cho tin mừng thì người Công giáo chúng ta hôm nay đang làm chứng về tình yêu thương khi biết cho đi mà không mong đền đáp. Nhưng vượt lên trên tình yêu của đồng loại với nhau, thì tử đạo là đặt Chúa lên trên hết cho mọi chọn lựa. Dầu có bị thiệt thòi, bắt bớ, tra tấn hay tù đầy thì vẫn phải làm chứng cho sự thật, công lý và tình thương.Như thánh Simon Phan Đắc Hoà dầu bị tra tấn dã man vẫn không hề nản chí. Dù nhìn thấy viễn cảnh: đầu rơi, xa lìa những người thân yêu nhất trong gia đình, ông vẫn nhất quyết theo gương Thầy Chí Thánh, sống vì mọi người và một lòng theo thánh ý Thiên Chúa cho tới hơi thở cuối cùng. Ông từng nói:

Những trận đòn không làm ông nản chí, trái lại ông còn lấy thế làm hạnh phúc, vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh

Ngày nay, chúng ta phải sống trong môi trường xã hội đảo điên, tiền bạc chi phối mọi sinh hoạt đời sống xã hội. Cônglý bị bẻ cong. Người dám nói sự thật bị cô lập. Người lên tiếng cho công lý bị tù đầy.

Điều đáng buồn là nhiều người hôm nay đã chọn gỉai pháp im lặng để an toàn cho bản thân và có đôi khi là cơ hội để thăng tiến. Đây là cách sống phản lại tin mừng của Chúa. Vì tin mừng là muối, là men để thay đổi xã hội nên tốt hơn chứ không phải để cất dấu sẽ làm hư men tin mừng.

Mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam xin cho chúng ta là con cháu biết kế thừa tinh thần đầy yêu thương và can trường của cha ông để sống và làm chứng cho xã hội hôm nay. Xin đừng vì ích kỷ, lợi lộc bản thân mà im lặng truớc bất công và cái xấu, những giữa cuộc chiến thiện và ác, chúng ta phải can trường để đưa tin mừng xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn khi công lý và tình thương được lan rộng khắp mọi nơi. Amen

Về mục lục

HIẾN DÂNG ĐỂ SỐNG TINH THẦN TỬ ĐẠO

 Lm Nguyễn Minh Hùng

Ngày lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam là ngày Hội của Đức tin người Công giáo Việt Nam. Bởi từ khởi đầu truyền giáo đến nay, chưa từng có một khoảnh khắc bình an đúng nghĩa để giữ đạo và sống đạo, người Công giáo Việt Nam vẫn bất khuất trước mọi đầu sóng ngọn gió để đạt một gia sản đức tin quá đỗi lớn lao cho đến hôm nay, chắc chắn sẽ còn mãi về sau.

Người Công giáo Việt Nam vui mừng, hãnh diện vì đức tin của mình. Ngày Hội của Đức tin hàng năm là ngày người Công giáo Việt Nam vừa ôn lại quá khứ để học đòi bắt chước tấm gương kiên trung của cha ông, vừa là ngày mà họ trang trọng khẳng định với mọi người, nhất là với những ai thù ghét, luôn muốn đặt đức tin Công giáo trở thành mục tiêu tiêu diệt, rằng: Sức mạnh của đức tin là sức mạnh chiến thắng trên mọi chiến thắng!

Ngày Hội của Đức tin nhắc nhở từng người con của Hội Thánh Việt Nam, hậu duệ của các thánh Tử Đạo, phải ý thức đức tin của mình, phải lấy tấm gương quyết một lòng sống và chết cho đức tin của các ngài mà soi rọi, mà học tập, mà rút tỉa kinh nghiệm… cho chính đời sống Kitô hữu của mình.

Qua chính tấm gương của các thánh Tử Đạo Việt Nam, ta thấy Đức tin luôn luôn có những đòi hỏi. Đòi hỏi rõ ràng nhất là đòi hỏi HIẾN DÂNG.

Thư gởi tín hữu Do Thái đã từng ca ngợi Chúa Kitô: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu độ vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9, 12).

Hoặc nơi khác, thư gởi tín hữu Do Thái viết tiếp: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 5-7).

Nếu Chúa Kitô, người Thầy, đã tận hiến chính mình, đến lược mọi tín hữu, một khi đã tin Chúa Kitô, đi theo Người, cũng được mời gọi hiến dâng mình trong từng ngày sống để thánh hóa mình, để thu ngắn cánh đồng truyền giáo, để tôn vinh danh Chúa, mưu cầu hạnh phúc đời đời cho con người, để Hội Thánh tiếp tục trường tồn và phát triển.

Trong đời sống, hiến dâng mình là đón nhận Thánh Ý, vui sống với Thánh Ý qua từng ngày sống, từng biến cố, từng hoàn cảnh đời mình.

Hiến dâng mình còn là nỗ lực băng mình phục vụ Chúa, phụng sự Nước Trời bằng tất cả khả năng, tất cả mọi công tác, tất cả mọi hy sinh, tất cả mọi đóng góp mà việc mở mang Nước Chúa cần đến chúng ta.

Hiến dâng mình là ta tự thánh hóa từng giây phút sống, thánh hóa ngay giây phút hiện tại mà Chúa ban, để mỗi giờ khắc trôi qua trong đời ta đều là giờ khắc thánh, đưa ta đến gần Chúa, đến gần ơn cứu độ của Người.

Hiến dâng mình là can đảm nghe thấu tiếng kêu của người đau khổ, kẻ góa bụa, nạn nhân của bóc lột, của bất công, của sự lủng đoạn công lý…

Ta không tự bịt mắt trước hoàn cảnh của người cô thân, người bị bỏ rơi, người thiếu thốn, người cơ hàn… đang cần sự trợ giúp vì thiếu thốn cả tình yêu, tinh thần, lẫn vật chất.

Chúa Kitô đã từng chỉ cho ta cách hiến dâng mình để tự thánh hóa:“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mt 16,24).

Thập giá ấy chính là trách nhiệm, là nỗ lực, là trung thành đến cùng qua tất cả mọi lao tác, mọi phận vụ, mọi chiều kích, dẫu có phải vượt qua chông gai, vượt qua đau đớn.

Vác thập giá chính là hiến dâng mình trong đức tin, để biến thời gian sống của ta thành thời gian thánh và biến đời ta thành đời hy tế ích lợi cho anh chị em.

Ta sống là sống với Chúa, sống với anh chị em.Vì thế, trong đức tin, ta hiến dâng là hiến dâng cho Chúa và cho anh chị em.

Như Chúa Kitô hiến tế cho trần thế, các thánh Tử Đạo Việt Nam noi gương Chúa Kitô hiến dâng chính mình. Các ngài hiến dâng cái quý giá nhất trong cuộc đời này, đó là mạng sống, là sự sống của bản thân.

Các thánh Tử Đạo trở thành tấm gương và bài học sống động để chúng ta, hậu duệ của các ngài, thời này sang thờii khác noi gương bắt chước.

Ngày lễ trọng đại kính mừng các thánh Tử Đạo Việt Nam là ngày hạnh phúc, ngày hãnh diện, ngày vui mừng, ngày Hội lớn nhắc nhở chúng ta về một truyền thống đức tin không biết sợ hãi hay khuất phục, không bao giờ cúi đầu, nhưng luôn luôn bình tĩnh đón nhận dẫu phải trải qua những bàn tay dã man nhất, luôn luôn ung dung tự tại dẫu phải đối diện với trăm ngàn đe dọa hiểm độc nhất, luôn luôn ngẩng cao đầu đến nỗi những kẻ sắt máu nhất sẵn sàng lao vào giết hại mình bất cứ lúc nào cũng phải bạt nhược, khiếp đảm.

Ngày Hội Đức tin nằm trong bối cảnh năm Đức tin, lại càng là dịp giúp mọi con cái các thánh Tử Đạo, là tất cả các Kitô hữu Việt Nam, ra sức nêu cao tinh thần đức tin quật cường của Cha Ông!

Chúng ta phải đi trên con đường của Cha Ông, để không bao giờ hỗ thẹn với tinh thần đức tin của các ngài.

Chúng ta không được phép lỗi hẹn với Tiền Nhân.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VN

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Vào ngày lễ mừng kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa ca ngợi cuộc sống chứng tá của những người công chính bị bách hại và những ân phúc mà họ được hưởng trước thánh nhan Thiên Chúa.

Kn 3: 1-9

“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Các thánh tử đạo là những người công chính đã được Thiên Chúa tôi luyện như vàng trong lò lửa và “thấy họ xứng đáng với Ngài”. Họ là những người làm chứng cho lòng tin ở Chúa. Lòng tin ấy sẽ “rực sáng như tia lửa bén nhanh giữa rừng sậy” như cách diễn tả của Chúa Giê-su: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12: 49).

1Cr 1: 17-25

Giáo Hội Việt Nam hôm nay hân hoan mừng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, đa số là giáo dân. Các ngài không phải là những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng các ngài là những chứng nhân cho “Đức Ki-tô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, được hưởng phúc trên Nước Trời.

Mt 10: 17-25

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã lần lượt bị điệu đến quan quyền để làm chứng cho đức tin. Thánh I-nê-đê, một phụ nữ quê mùa. Thánh Tô-ma Thiện, chủng sinh mới 16 tuổi. Nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài đối diện với vua quan, đã dạy các ngài phải nói gì, và cuối cùng các ngài đã bền vững trong lòng tin vào Chúa, nên gương sáng cho cháu con hôm nay. Quả thật, như lời của thánh Âu-gút-ti-nô: “Trên mảnh đất đã gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều vị tử đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng của Giáo Hội. Các thánh tử đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Kitô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn đang giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn vang dội sâu xa” (Trích từ tập san “Công Giáo và Dân Tộc”, Năm Phụng Vụ 93).

BÀI ĐỌC I (Kn 3: 1-9)

Những khẳng định của sách Khôn Ngoan là một khúc quanh quan trọng, kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận của những người công chính ở bên kia nấm mồ.

Trước đó, vấn đề thưởng phạt thường được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào. Trong lịch sử dài này, tư tưởng chiếm ưu thế đó là “ở hiền gặp lành”“gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Những người công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn: lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Trái lại, niềm tin vào cuộc sống mai hậu thì quá bi quan: tất cả mọi người, công chính hay gian ác, khi từ giả cõi đời này đều cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài bóng tối âm u.

Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trông thấy mà đau đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế này. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 tCn) xao xuyến nêu lên vấn đề họa vô đơn chí giáng xuống trên người công chính. Thật ra, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng số phận của người công chính khác với kẻ gian ác ở bên kia nấm mồ. Các Thánh Vịnh công bố rằng người công chính sẽ được hưởng phúc vinh hiển trước Thánh Nhan Chúa muôn đời (Tv 16; 17; 49; 73). Tiếp đó, niềm tin vào sự sống lại của những vong nhân vào ngày phán xét bắt đầu lộ diện. Vào thời An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê bách hại dân Do thái thật khủng khiếp, những người tử vì đạo tuyên xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống bên kia cái chết (2Mcb 7: 1-38).

Tác giả sách Khôn Ngoan còn triển khai xa hơn nữa. Ông thấy niềm tin vào sự bất tử linh hồn của người Hy lạp củng cố niềm hy vọng vào sự sống lại mai hậu vẫn còn tiềm ẩn hay rụt rè của người Do thái. Nhưng ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp này không hoàn toàn tương xứng với tư tưởng Kinh Thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường thân xác như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bỉ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau khi chết.

  1. Quan niệm sai lầm về con người

Trước hết, tác giả bài bác quan niệm duy vật về con người: sinh ra là một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng; khi hơi thở biến mất, cuộc sống tan biến như sương khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật này, không có chỗ nào dành cho Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.

Tác giả viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở A-lê-xan-ri-a cho đồng bào của mình, họ đang bị nền văn hóa ngoại giáo chung quanh hấp dẫn lôi cuốn. Số lượng người bội giáo (tác giả gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và của các tôn giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa hữu vị, Đấng có một kế hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan niệm vô tri và duy vật này, tác giả trình bày quan niệm đích thật về con người mà Thiên Chúa đã mặc khải.

  1. Quan niệm đích thật về con người (3: 1-6)

Ở trung tâm lập luận của mình, tác giả sách Khôn Ngoan trình bày điều cốt yếu nhất liên quan đến con người được Thiên Chúa sáng tạo nên “trường tồn bất diệt” dựa trên sách Sáng Thế (1: 27):

“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người

cho họ được trường tồn bất diệt.

Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23).

Từ đó, tác giả sách Khôn Ngoan khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn toàn, sống một đời thánh thiện:

“Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa;

và chẳng cự hình nào động tới được nữa.

Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi;

khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc.

Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt,

nhưng thực ra họ đang hưởng an bình.

Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt,

nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (3: 1-4).

Tất cả những khai triển này mang đậm nét Kinh Thánh, đặc biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, không liên hệ gì đến triết thuyết nhị nguyên của Hy-lạp. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất diệt trong thân xác hư hoại, nhưng là “sinh khí của Thiên Chúa” (St 2: 7).

Từ nay, vấn đề về sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử. Đau khổ là một sự thử thách nhằm tôi luyện các tôi trung của Thiên Chúa để cuộc đời của họ trở thành “của lễ toàn thiêu”:

“Sau khi chịu sửa dạy đôi chút,

họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao.

Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ

và thấy họ xứng đáng với Người

Người đã tinh luyện họ

như người ta luyện vàng trong lò lửa

và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu” (3: 5-6).

  1. Vinh quang chung cuộc (3: 7-8)

Ở đây, tác giả mô tả vinh quang mà người công chính được hưởng vào ngày cánh chung:

“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm,

họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (3: 7)

“Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ Kinh Thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như lời di chúc của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn vàn ân phúc của Ngài.

Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra vào thời cánh chung, vào lúc đó, những người công chính sẽ rực sáng vinh quang, Thiên Chúa sẽ đặt họ “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, nghĩa là đức hạnh của người công chính sẽ chiến thắng trên sự ác tâm quỷ quyệt của quân vô đạo:

“Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước.

Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (3: 8).

Chính trong chiều hướng này mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và tác giả sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26). Đức Giê-su sẽ sử dụng kiểu nói tương tự để xác định vị thế của các môn đệ Ngài trong vương quốc Nước Trời: “Khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Mt 19: 28).

  1. Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và từ tâm (3: 9)

Niềm hy vọng lớn lao này căn cứ trên tình yêu, ân phúc và từ tâm của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu, ân phúc và từ tâm này mà những người công chính sống:

“Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật;

những ai trung thành, sẽ được Chúa yêu thương

và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc,

và thương xót những ai được Người tuyển chọn” (3: 9).

Lời kết thúc của Bài Đọc I này được viết cách Tin Mừng đến một thế kỷ, loan báo sứ điệp rất gần với sứ điệp Tin Mừng. Có một sự duy nhất của Mặc Khải Cựu và Tân Ước.

BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 17-25)

Bài Đọc II, trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô, được cấu trúc rất chặt chẽ. Tuy nhiên, cần phải đặt nó vào trong văn mạch để hiểu rõ hơn tư tưởng của thánh nhân. Xin nhắc lại cách ngắn gọn: cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau về các vị rao giảng của họ, gây nên các bè phái ở giữa họ. Cực lực chống lại việc chia năm xẻ bảy này, thánh Phao-lô lớn tiếng chỉ trích cách hành xử này không phù hợp với tinh thần Tin Mừng.

  1. Sự khôn ngoan của thế gian (1: 17-21)

Đáp lại những kẻ tự phụ cho mình là “thông thái”, thánh Phao-lô nhắc nhớ rằng thánh nhân đã rao giảng cho họ không bằng lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá trái với những điềm thiêng dấu lạ người Do thái mong đợi và sự khôn ngoan người Hy lạp tìm kiếm.

Người Do thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a thực hiện những điềm thiêng dấu lạ, một Đấng Mê-si-a quyền năng và chiến thắng. Người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, tức là một cuộc sống quân bình, mực thước và điều độ, không có nó không một xã hội nào có thể bền vững được; đó là điều mà tất cả hệ thống triết học đề cao. Hai quan niệm, Do thái và Hy lạp, rất khác biệt nhau, nhưng không có quan niệm nào phù hợp với hình ảnh Thập Giá.

Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phao-lô đã gặp phải hai chướng ngại này. Biết bao người Do thái đã không thể chấp nhận Đấng Mê-si-a chịu khổ hình trên thập giá. Ở An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, Thê-xa-lô-ni-ca và nơi khác, thánh Phao-lô đã bị những người Do thái này khai trừ và bách hại.

Còn đối với người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thánh Phao-lô đã chạm trán với họ ở A-thê-na. Thánh nhân đã cố thuyết phục họ nhưng vô ích. Họ mong chờ những diễn từ lời hay ý đẹp, trong khi thánh nhân rao giảng một Đấng chịu đóng đinh trên thập giá. Quả thật, bản văn cho thấy rằng việc rao giảng Thập Giá khó thuyết phục con người. Đối với người Hy lạp, ưu phẩm hàng đầu của một vị thần chính là Mỹ, vì thế Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng con người không thể nào được sánh ví với hình ảnh của một thần linh.

  1. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1: 22-25)

Thập Giá không là một diễn từ lời hay ý đẹp, nhưng là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ở đó ẩn dấu sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những kỳ vọng của con người.

Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô đưa ra một trong những bài học lớn lao đó là: “dạy mầu nhiệm đau khổ như một yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Chung chung, thần học của thánh Phao-lô không bao giờ tách rời biến cố Tử Nạn với mầu nhiệm Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là trường hợp ngoại lệ và có chủ đích. Đối mặt với sự tự mãn của con người, thánh nhân nhấn mạnh một hình ảnh độc nhất: “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”.

TIN MỪNG (Mt 10: 17-25)

Đoạn Tin Mừng hôm nay, trích từ diễn từ về sứ vụ sai đi của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mát-thêu (Mt 10: 5-42), có thể được phân chia như sau: cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-20), cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22), thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại (10: 23) và kết luận (10: 24-25).

  1. Cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-21)

Khi căn dặn các môn đệ: “Hãy coi chừng người đời”, Đức Giê-su không khuyên họ trốn tránh “người đời”, nhưng trong những cuộc giao tiếp với người đời, họ nên giữ mình khỏi mọi ảo tưởng. Các môn đệ đừng quên rằng Thầy của họ đã bị những người đời này tìm cách khai trừ, loại bỏ. Ở đây, “người đời” này không ai khác là người Do thái: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ” (10: 17).

Tuy nhiên, câu 18 cho thấy bối cảnh của cuộc bách hại có thể vừa ở trong xứ Pa-lét-tin nhưng cũng vừa ở ngoài xứ Pa-lét-tin. Trong xứ Pa-lét-tin, họ có thể bị bắt và bị điệu ra trước vua chúa (dòng dõi Hê-rô-đê) quan quyền (chính quyền chiếm đóng Rô-ma) hoặc ngoài xứ Pa-lét-tin, trước các giới cầm quyền dân ngoại. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, các Ki-tô hữu đừng quên rằng những cách hành xử đầy bạo lực này có một ‎ ý nghĩa, đó là dịp là cơ hội làm chứng cho Đức Ki-tô và Nước Trời. Lời chứng này nêu bật tính chất vừa công khai vừa chính trị. Các vua chúa và dân chúng có dịp nghe nói về Đức Giê-su và Nước Trời.

Câu 19-20 là lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Trong giờ đó, họ không cần phải lo nghĩ phải nói gì, vì Thiên Chúa sẽ ban cho họ Thánh Thần để trợ giúp họ như Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê: “Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói gì” (Xh 4: 12). Câu 20: “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”, mới nhìn thoáng qua, khiến cho nghĩ đến ơn phù trợ này loại bỏ sự dự phần của chứng nhân. Nhưng không phải như thế, trái lại hai cụm từ “chính anh em” và “trong anh em” nhấn mạnh rằng ân huệ này được ban cho các chứng nhân không như những khí cụ thụ động nhưng ở trong họ và bởi chính họ nữa.

  1. Cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22)

Đối xứng với đoạn văn 10: 17-20 ở trên, đoạn văn 10: 21-22 bao gồm một lời cảnh báo về cuộc bách hại và một lời hứa. Câu 21 cảnh báo rằng ngay cả những người thân thuộc trong gia đình cũng sẽ tố cáo họ vì họ dám chấp nhận cái chết vì tin vào Đức Giê-su. Còn câu 22 đề cập đến việc họ sẽ bị mọi người thù ghét vì Ngài, nhưng hứa rằng những ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.

  1. Thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại (10: 23)

Người Ki-tô hữu không phải đưa thân mình ra cho những kẻ bách hại mình, nhưng “khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn chạy sang thành khác”, bởi vì nếu thành này xua đuổi họ thì có thành khác để loan báo Tin Mừng. Như vậy, sứ mạng loan báo Tin Mừng là bổn phận phải chu toàn cho đến cùng. Huấn thị này gợi nhớ cuộc bách hại giáng xuống trên cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem sau cuộc tử đạo của thánh Tê-pha-nô. Sách Công Vụ ghi nhận rằng những người này phải tản mác khắp nơi, đi đến đâu họ loan báo Tin Mừng đến đó (Cv 8: 4).

  1. Kết luận (10: 24-25)

Các môn đệ của Đức Giê-su không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị kết án tử trên thập giá. Thầy và trò, chủ và tớ được đặt vào trong cùng một thân phận: “Trò được như Thầy, tớ được như chủ”. Tuy nhiên, diễn ngữ này không giới thiệu một sự so sánh, nhưng căn nguyên khác nhau giữa Thầy và trò. Nếu cả hai đều chia sẻ cùng một vận mệnh: đau khổ, bị bách hại và bị án tử, điều đó không muốn nói rằng Thầy khai mở cho người môn đệ sống lại cuộc mạo hiểm mà chính Thầy đã kinh qua. Cả hai giống nhau trong những diễn biến bên ngoài nhưng lại khác nhau trong ý nghĩa và tầm mức. Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của Đấng ở nơi Ngài Nước Trời đã đến (x. 10: 7) trong khi đau khổ của người môn đệ là đau khổ của một chứng nhân về Nước Trời này (x. 10: 18).

Về mục lục

MÀU SẮC TIN YÊU

Trầm Thiên Thu

Máu Đỏ Lung Linh Sắc Yêu Mến

Da Vàng Lấp Lánh Màu Kính Tin

Như một quy luật bất biến, Kinh Thánh cho biết: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.” (Tv 126:5) Thật đúng như vậy, chỉ là người đời rất ư bình thường mà người ta cũng có thể nhận định: “Có nhục mới có vinh.” Tương tự, muốn thành công thì phải khổ luyện, có đau khổ mới có hạnh phúc đích thực.

Theo bản tính con người, ai cũng sợ chết, dù chỉ chết một lần, bởi vì chỉ có một cuộc đời để sống, không thể rút… kinh nghiệm. Thế nên phải cố gắng sống sao cho có ý nghĩa để cái chết hợp lý. Chắc chắn các thánh tử đạo Việt Nam nhận thức được vậy nên không sợ chết, đặc biệt là chết vì tin vào Đức Giêsu Kitô. Đó là một mối phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:10)

Như để tái xác định, Chúa Giêsu giải thích thêm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5:11-12)

Thật lạ lùng với cách nhận xét của De Giradin: “Tình yêu chỉ sống được nhờ đau khổ. Sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết dần mòn.” Chính đau khổ và hy sinh là bằng chứng về tình yêu chân thật. Tình yêu vô hình, không thể nhìn thấy nhưng có thể cảm nhận. Bussy Rebutin nói: “Tình yêu trong xa cách ví như ngọn lửa trong gió, gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ và thổi bùng ngọn lửa lớn.” Đó là nói về tình yêu đôi lứa, nhưng vẫn có ý nghĩa đối với các dạng tình yêu khác, kể cả tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa. Tính chất của lửa rất lạ, càng được chia sẻ càng lan tỏa, càng tăng thêm, chứ không bị giảm bớt hoặc mòn dần.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã.” Máu duy trì sự sống bằng cách không ngừng từ Trái Tim – Trung Tâm Phân Phối Sự Sống – chuyển giao đi khắp cơ thể. Người ta khác nhau về loại máu, nhưng chung quy vẫn là sống và yêu. Tim còn đập là còn sự sống, còn sống thì còn yêu.

Theo y học, có khoảng 46 nhóm máu khác nhau, nhưng nhóm máu chủ yếu là O, A, B, AB và yếu tố Rhesus (Rh, có Rh+ và Rh-). Trong đó, máu O có thể cho bất cứ loại máu nào nhưng chỉ nhận cùng loại máu; còn máu AB có thể tiếp nhận mọi loại máu. Tuy nhiên, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại các nhóm khác. Một nhóm máu hoàn chỉnh có thể bao gồm một bộ 30 chất trên bề mặt của các RBC (red blood cell – hồng cầu), và nhóm máu của cá thể là một trong những cách kết hợp của một số kháng nguyên nhóm máu. Trong số 30 nhóm máu, có hơn 600 chất kháng nguyên (phân tử kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể, sản sinh kháng thể) đã được phát hiện, nhưng đa số rất hiếm hoặc chủ yếu được tìm thấy trong các nhóm bộ tộc nhất định.

Đối với Kitô giáo, Công giáo nói riêng, Thập Giá là biểu tượng của đức tin, vì thế mà những người bách hại dùng Thập Giá – dù chỉ là hai thanh gỗ xếp thành hình thập giá – để bắt người ta bước qua, nhưng chỉ luống công vô ích, vì các tín nhân chân chính luôn tuyệt đối tin vào Đức Giêsu Kitô. Điều đó đã được chứng minh bằng hàng trăm ngàn cái chết của các vị tử đạo Việt Nam trong thời bách hại của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.

Đó là ứng nghiệm lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt 10:17-18) Lời tiên báo đó đã và đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam xưa và nay, càng ngày càng có xu hướng gia tăng. Thật đáng sợ với mưu mô thâm độc của ma quỷ, nhưng đừng hốt hoảng, vì Chúa Giêsu đã nói: “Khi người ta nộp anh em thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” (Mt 10:19-20) Cứ an tâm mà sống!

Bách hại đủ kiểu, đủ mức, tín nhân cũng chẳng yên thân với chính người thân ngay trong gia đình mình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:21-22) Không hẳn là những người trong gia đình hoặc trong dòng họ sẽ nộp nhau hoặc ra mặt chống đối, nhưng có thể “bằng mặt mà không bằng lòng,” họ bách hại nhau bằng nhiều cách tinh vi: Lườm nguýt, xa lánh, ghen ghét, mỉa mai, gièm pha, khích bác,… Đơn giản chỉ là không thúc giục nhau sống đạo.

Âm nhạc có những cung bậc khác nhau nhưng chung giai kết trọn, cuộc đời của chúng ta cũng tương tự, cần noi gương các thánh tử đạo Việt Nam, cùng hòa âm bản Hùng Ca Tin Yêu qua cách sống hằng ngày. Chúng ta không viết bản nhạc cuộc đời mình bằng máu tử đạo, nhưng có thể viết bằng cách khác: Sống âm thầm chịu đựng đau khổ vì Chúa cũng là một cách tử đạo liên lỉ, có ích lợi cho chính mình và các linh hồn. Cách nào cũng có mức độ khó riêng, chẳng cách nào dễ. Quan trọng là chúng ta phải hoàn tất bản tổng phổ đời mình.

Bửu Huyết Đức Kitô đã đổ ra vì thương xót và cứu độ nhân loại. Nhờ đó, nhiều người không tham sanh úy tử, dám liều chết vì Chúa. Đó là những nhân chứng đức tin, là các vị tử đạo. Chính máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Cũng là những người có cuộc sống bình thường như chúng ta, nhưng các vị tử đạo đã có cách sống khác thường. Thời đó, Việt Nam mới lãnh nhận đức tin Kitô giáo chưa được bao lâu, nhưng đức tin đã bén rễ mau chóng và sâu sắc.

Cụ thể là chàng trai trẻ Anrê Phú Yên (1625-1644) mới rửa tội được 4 năm, vậy mà đức tin ấy đã sớm trưởng thành nên không ngại thí mạng vì Đức Kitô khi mới 19 tuổi đời. Bà Anê Lê Thị Thành (1781-1841), thường gọi bà Đê, là một bà mẹ Công giáo bình thường, nhưng lại có một đời sống đức tin khác thường, để rồi dám chết vì Đức Kitô. Biết tin vua Thiệu Trị ra lệnh xử trảm, thương gia Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847) vẫn thản nhiên nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm.” Thật tuyệt vời biết bao!

Đối với xã hội loài người, họ là những người dại dột, thậm chí là ngu xuẩn, nhưng đối với Thiên Chúa thì họ là những người khôn ngoan. Chúa Giêsu đã giải thích: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10:28) Thật vậy, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa.” (Kn 3:1) Đau khổ chẳng là gì đối với những người hết lòng yêu mến Chúa, vì họ xác tín với lòi Chúa Giêsu: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 9:24)

Các vị tử đạo Việt Nam đã chứng minh lòng tin yêu theo lời Thầy Chí Thánh: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.” (Lc 9:26) Rất rõ ràng. Rất mạch lạc.

Tại Việt Nam, người Công giáo đã từng bị bách hại đủ kiểu, vì thế người Bắc và Trung đã tìm cách di cư vào Nam để có thể tự do tôn thờ Thiên Chúa, nhiều nhất là hồi tháng 07-1954. Mỗi thời có kiểu bách hại riêng, càng ngày càng tinh vi hơn. Thời Cựu ước, sách Ma-ca-bê 2 kể rằng có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Môsê cấm. Bà mẹ là người rất mực xứng đáng khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Hẳn là rất hiếm có bà mẹ nào như vậy. Bà thực sự can đảm, đúng là bà yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chắc chắn “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)

Các Việt nhân chân chính sống trung thành, luôn đặt trọn niềm vui và hy vọng vào Chúa, hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Họ THEO ĐẠO, cương quyết GIỮ ĐẠO, can đảm SỐNG ĐẠO, và chứng tỏ niềm tin bằng cái chết. Đúng là “vô tri bất mộ.” Không biết thì không yêu mến, nhưng càng biết thì càng thích, càng thích thì càng yêu, càng yêu thì càng mê, mê tới… chết.

Đạo và đời có liên quan lẫn nhau: Người có đạo giữ đạo và sống đạo giữa đời. Các thánh tử đạo Việt Nam đã trải qua như vậy, nhưng các ngài đã kiên cường giữ vững đức tin và không ngả theo cái xấu.

Về phần đời, Việt Nam có danh tướng Trần Bình Trọng đã chống lại quân Nguyên – Mông năm 1285, đời nhà Trần. Ông bị giặc bắt nhưng khí phách vẫn khẳng khái: “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.” Một tấm gương sáng về tính cương trực và lòng ái quốc. Ngài Thomas Jefferson (1743-1826), tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ, nói: “Nếu pháp luật bất công, người ta không chỉ phải bất tuân mà còn bắt buộc phải làm như vậy.” Thật vậy, Thánh GH Phaolô VI cho biết: “Chính trị là một dạng bác ái cao nhất.”

Lạy Thiên Chúa chí thánh chí tôn, xin ban thêm đức tin và đức mến cho chúng con, xin giúp chúng con can đảm sống chân chính, không xao xuyến trước bất cứ áp lực nào. Lạy chư thánh tử đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay và thúc giục chúng con sống xứng đáng là hậu duệ của các ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

 

SINH LỢI THIÊNG LIÊNG

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Trong xã hội hôm nay, mọi sự đều có thể biến thành hàng hóa, mọi công việc đều mang tính thương mại, kể cả trong lãnh vực tâm linh. Con người ngày càng trở nên so đo tính toán thiệt hơn trong mối tương quan xã hội. Qua hình ảnh của một xã hội thương mại, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: hãy biết sinh lợi thiêng liêng để đem lại ích lợi lâu bền, tức là phần rỗi linh hồn.
 
Tự bản tính, con người sống trên đời phải lo làm ăn kiếm sống. Có những người đôn đáo suốt đời mà vẫn tay trắng, vì thiếu cần cù, khôn ngoan hoặc thiếu đức độ. Tiền nhân dạy: “Có đức mặc sức mà ăn”. Điều này có nghĩa, trong công việc làm ăn, phải lấy đức làm đầu. Bởi lẽ “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Người tính không bằng trời tính. Con người mưu mô, tính toán theo những tham vọng của mình, nhưng Trời lại có cách tính khác. Vì vậy, những ai tưởng mình “lấy tay che được mặt trời” sẽ bị thất bại. Người phụ nữ được diễn tả trong sách Châm ngôn, là hình ảnh người phụ nữ lý tưởng, đầy đủ mọi tiêu chuẩn: công, dung, ngôn, hạnh như truyền thống Việt Nam chúng ta. Còn hơn thế nữa, người phụ nữ nay chăm chỉ làm việc và kính sợ Chúa, đồng thời biết dùng của cải mình làm ra để giúp những kẻ khó nghèo. Đây là nét làm cho bà đáng kính trọng và đáng ca tụng, vì đức hạnh không hệ tại ở nhan sắc bề ngoài. Hình ảnh này không chỉ diễn tả những người phụ nữ nội trợ, mà là mẫu mực cho hết thảy chúng ta. Vì trong cuộc sống này, lao động thuộc bản tính của con người. Lao động lương thiện, với tâm tình mến Chúa và quảng đại chia sẻ cho người nghèo sẽ đem lại cho chúng ta muôn vàn phúc lộc. Đó cũng là một cách sinh lợi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta được phong phú.
 
Theo tâm lý tự nhiên, chúng ta thường phàn nàn về những điều chưa hài lòng trong cuộc sống. Ít khi chúng ta nghĩ đến những điều tốt đẹp Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta cũng hay so sánh mình với những người khá giả hơn mình, mà ít khi dừng lại để thấy mình còn hơn rất nhiều người xung quanh. Người hạnh phúc là người cảm nhận những niềm vui nho nhỏ ngay giữa cuộc sống còn bộn bề những gian nan. Người bất hạnh chỉ nhìn thấy những điều tiêu cực hoặc chỉ chú trọng đến những điều không hài lòng. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhìn lại cuộc đời mình để thấy những điều tốt đẹp, đồng thời, xem lại cách sử dụng những vốn liếng Chúa ban như thế nào. Đức tin nói với chúng ta: vốn liếng Chúa ban cho chúng ta là sức khỏe, gia đình, của cải, con cái, công việc, bạn bè và môi trường sống. Chúng ta đã làm gì để cho số vốn ấy sinh lời?
 
Nếu mỗi người sống trên trần gian đều được Chúa trao cho một phần tài sản nào đó để quản lý và sinh lợi, thì có lúc Ngài sẽ tính sổ với chúng ta về cách quản lý và sử dụng của cải đã được trao phó. Bài Tin Mừng Thánh Luca phần nào phác họa khung cảnh ngày tận thế, tức là lúc Chúa xét xử con người.  Lưu ý đoạn Tin Mừng này được đặt trong ngữ cảnh những bài giảng của Chúa Giêsu nói về ngày cánh chung, tức là ngày phán xét. Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta, giống như người kinh doanh thanh toán sổ sách vào cuối năm xem việc làm ăn buôn bán lỗ lãi thế nào. Ngài dựa trên khả năng của mỗi người để trao vốn cho họ: người nhiều thì được trao năm nén bạc, người hai nén và người khác chỉ có một nén. Việc trao vốn này cho thấy không ai trong chúng ta dựa trên khả năng kém cỏi hay đời sống nghèo nàn của mình mà biện minh cho sự lười biếng. Chúa muốn chúng ta sinh lợi, tùy khả năng của mình. Ngài không đòi người đã được trao hai nén phải sinh lợi giống như người được trao năm nén. Đến thời điểm chung cục của cuộc đời, mỗi người đều phải thanh toán sổ sách với Chúa, bất luận nghèo hay giàu, văn minh hay lạc hậu, trí thức hay bình dân.
 
Lý luận của người thứ ba cho thấy sự biếng nhác và thiếu thiện chí của anh: “Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt nơi không gieo và thu nơi ông không phát: nên tôi khiếp sợ mà đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại cho ông”. Người này đã quên thân phận đầy tớ của mình. Anh ta vừa lười biếng, vừa vu khống chủ là “một người keo kiệt”. Anh bị ông chủ mắng là “xấu xa và biếng nhác”. Anh không thật tâm với ông chủ. Bằng chứng là mặc dù anh chịu ơn ông chủ, nhưng trong đầu óc của anh luôn nghĩ xấu về chủ mình. Tại sao lại nói ông chủ là người “gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” trong khi chính ông chủ đã trao cho anh ta một nén bạc để làm vốn? Hơn nữa, trong khi hai người đầy tớ trước rất tự tin nói với ông chủ: “Ông đã trao cho tôi năm (hai) nén, tôi đã gây lời được năm (hai) nén khác đây”, thì anh đầy tớ lười nhác này lại nói với ông chủ: “Của ông vẫn còn nguyên đây này!”. Anh đầy tớ xấu xa và lười nhác chưa bao giờ coi số vốn đó là như của mình, để rồi anh quan tâm làm cho sinh lợi. Một điều nhỏ nhất anh có thể làm được mà anh cũng bỏ không làm, đó là đem gửi số bạc đó vào ngân hàng để hưởng lợi. Anh đáng khiển trách không phải vì đã làm điều xấu, nhưng vì anh lười biếng không chịu làm gì. Hình phạt cho anh đã rõ ràng và thích đáng: anh bị tước mất một nén bạc được trao phó và bị tống ngục. Ngục giam ở đây được trình bày như một nơi tăm tối và khóc lóc, là nơi thiếu vắng tình yêu. Đó chính là cách diễn hỏa ngục theo niềm tin của Do Thái giáo.
 
Không chỉ chờ đến ngày tận thế hay ngày lâm chung mới thanh toán sổ sách với Chúa, vì Chúa đến không biết vào ngày nào giờ nào. Thánh Phaolô cảnh báo chúng ta như thế, đồng thời Ngài kêu gọi chúng ta hãy luôn sẵn sàng, đừng mê ngủ, kể cả khi mọi người xung quanh cho rằng yên ổn và an toàn.
 
“Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”. Đây là những lời ngọt ngào ông chủ nói với người đầy tớ đã biết khôn ngoan làm cho vốn được trao sinh lợi. Ước chi đây cũng là lời Chúa nói với chúng ta, khi chúng ta kết thúc hành trình cuộc đời để về gặp gỡ Đấng là Cha và là Cội Nguồn của muôn vật muôn loài.

Về mục lục

.

LÀM GÌ VỚI NÉN BẠC CHÚA TRAO?

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Vào Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ, chúng ta đang tiến gần tới Mùa Vọng, Chúa Giêsu kể cho chúng ta một dụ ngôn khác về ngày phán xét.

Câu chuyện ba người đầy tớ được ông chủ tin tưởng trao phó tài sản của mình trước khi ông bắt đầu một cuộc hành trình dài. Hai trong số họ đã làm rất tốt công việc của mình, vì họ đã làm sinh lợi gấp đôi cái nhận được. Nhưng người thứ ba thì không : “Người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình” (Mt 25,18). Anh đào lỗ chôn giấu, vì sợ ông chủ, không biết làm thế nào để sinh hoa lợi. Đây có lẽ là trung tâm của dụ ngôn.

Việc gì đến cũng sẽ đến, chủ trở về, ông gọi các đầy tớ lại để tính sổ những gì ông đã trao phó cho họ. Ông hoanh nghênh hai người đầu tiên, và tỏ sự thất vọng đối với người thứ ba. Trong thực tế, người thứ ba đã sai lầm khi chôn kín số tiền nhận được, anh hành xử như thể chủ nhân của anh không quay trở lại, hoặc như thể sẽ không có ngày anh sẽ bị hỏi về những việc anh đã làm.

Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy những môn đệ, và qua các môn đệ, Chúa gửi đến mỗi người chúng ta lời khuyên về cách sử dụng tốt những gì chúng ta đã được ban tặng.

Ý nghĩa của dụ ngôn này thật rõ ràng. Ông chủ trong dụ ngôn này là Chúa Giêsu, những đầy tớ là chúng ta và những nén bạc là tài sản mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Khi thông ban cho chúng ta sự sống, Thiên Chúa cũng phú ban cho chúng ta những nén bạc, có thể là khả năng nhiều hay ít. Các nén bạc tượng trưng cho những ơn ban của Chúa để phát triển cá nhân, đạo đức và tôn giáo. Các nén bạc ấy, Ngài đã ủy thác để chúng ta làm cho chúng sinh lời. Cái hố được đào dưới đất bởi người “đầy tớ xấu xa và biếng nhác” (Mt 25, 26) diễn tả nỗi sợ sự rủi ro là thứ đã bóp nghẹt sự sáng tạo và sự phong nhiêu của tình yêu. Vì nỗi sợ rủi ro trong tình yêu sẽ bóp nghẹt chúng ta. Chúa không yêu cầu chúng ta phải bảo quản ân ban của Ngài trong két sắt! Nhưng mong muốn rằng, chúng ta sử dụng nó để sinh lợi cho tha nhân. 

Những nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhiều hay ít, số lượng không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người xử dụng những nén bạc đó. Chúa không chú  ý tới số lượng ơn ban, mà chú ý tới cố gắng của mỗi người. Bởi thế, người đã lãnh năm nén và người đã lãnh hai nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ” (x.Mt 25, 21.23). Cách xử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời. Việc sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ, người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.

Câu Chúa Giêsu nói : “Người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi” (Mt 25,29), rõ ràng không phải là một câu châm ngôn về tiêu dùng. Nó chỉ có thể được hiểu ở mức độ của tình yêu và lòng quảng đại. Và quả thật, nếu chúng ta tương xứng với những món quà tin cậy của Thiên Chúa trong sự giúp đỡ của Ngài, thì chúng ta sẽ kinh nghiệm rằng, Ngài là Đấng ban phát nhiều hơn điều chúng ta ao ước cầu xin.

Chúng ta cũng có thể hiểu nén bạc là đức tin. Đức tin được ban cho chúng ta một cách nhưng không, nhưng không bởi vì chúng ta có được đức tin mà không do bất cứ công lao nào của chúng ta. Một niềm tin được chia sẻ là một niềm tin sống động, trái lại một niềm tin chôn cất sẽ là một niềm tin bị mai một và chết dần. Dụ ngôn này khuyến khích chúng ta không được che giấu niềm tin và sự thuộc về Chúa Kitô của chúng ta, không được chôn vùi Lời Chúa, nhưng phải để nó lan truyền trong đời sống của chúng ta. Phải làm như thế. Phải làm cho những tài năng, những món quà, những ân ban mà Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng ta, đến được với tha nhân, lớn lên, và kết trái, cùng với chứng tá của chúng ta. 

Ông chủ nói với người đầy tớ : “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (Mt 25,23)

Đừng nghĩ đơn giản rằng ơn Chúa ban chỉ là những tài năng, sức khoẻ và những điều kiện xem ra thuận lợi theo cái nhìn của con người. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng nói “Tất cả là hồng ân”. Như thế, nén bạc Chúa trao còn là : thời giờ ; môi trường ta đang sống ; những chung sống với ta v.v….

Chúng ta hãy cầu xin Chúa trợ giúp để mỗi người biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao, trung thành với ơn Chúa qua những bổn phận hằng ngày với lòng yêu mến, với tất cả nhiệt tâm. Amen.

Về mục lục

.

SUY NGHĨ VỀ NÉN BẠC

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Trên con đường về với Chúa, những nén bạc Chúa trao là những khả năng để đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Với một đòi hỏi: “Ai được giao nhiều sẽ bị đòi nhiều” (Lc 12, 47), để suy  nghĩ về những nén bạc.

Đôi khi, giống như hai người lữ hành trên đường Emmau, đi bên cạnh Chúa, chỉ nghe như những câu chuyện dọc đường. Thấy ấm lòng, nhưng không mặn mà tha thiết. Như người có một nén chẳng đầu tư vào đâu được cả, giữ lấy bên mình. Hành trình có lẽ xa và mệt nhọc, dù chặng đường không xa. Giống như cuộc đời kéo dài lê thê trong đau khổ và buồn chán. Những chặng đường chiều vàng cuộc đời mà chưa tìm kiếm được gì, tay vẫn trống không, lòng vẫn trĩu nặng. Xin Chúa tỏ hiện mỗi khi lòng chúng con trĩu nặng vì buồn chán khi chưa tìm được chính Chúa!

Đôi khi hành trình cũng giống như người thất vọng khi thất bại sau những ngày đầu tư. Trở về với nghề đánh cá cũ khi khởi nghiệp thất bại. Vẫn không đánh bắt được gì sau những đêm miệt mài đánh lưới. Đói khổ, buồn nản, kiệt sức vì mòn mỏi, bao lần bỏ vốn, bao lần mất cả. Xin Chúa ban lại niềm tin đã bị xói mòn sau những lần ngã quỵ, thất vọng!

Đôi khi đồng bạc Chúa trao lại bị cướp mất. Kẻ cướp vẫn ngạo mạn xây những biệt phủ từ đồng tiền lấy được từ sức lao động người khác. Những con người làm ra được những nén bạc khác, không đủ sống và đối mặt nhiều thử thách bất công, bóc lột, sống tạm, ăn tạm những thực phẩm nhiễm độc… Nén bạc Chúa trao làm ra được đã khó, nhưng lại bị tước đoạt trước khi đem về trình diện. Những nén bạc đau thương! Xin Chúa là Đấng đã từng bị tước đoạt cho chúng con không bị tước đoạt mất Chúa.

Đôi khi những nén bạc lại như người con hoang đàng đem đi tiêu xài phung phí. Những nén bạc đánh đổi những niềm vui phù phiếm, giả tạo. Trắng tay rồi mới thấy tiếc nuối và bắt đầu lại từ chốn khốn cùng. Xin Chúa thứ tha những lầm lỗi để chúng con trở về với lòng Chúa xót thương!

Đôi khi không cần nén bạc nào vẫn tìm được những nén bạc khác. Như Giuđa bán Chúa lấy ba mươi đồng bạc. Có những đồng tiền kiếm được khi bán đứng người anh chị em, những đồng bạc kiếm được qua việc làm gian dối, chế biến thực phẩm bẩn, làm hàng giả… Xin cho chúng con biết làm những việc chân chính phuc vụ Chúa qua anh chị em!

Đôi khi những nén bạc được trao vào những người biết sinh lợi và giữ được nó trong sạch, không nhiễm bẩn. Những nén bạc quý giá đem về dâng Chúa thật quý giá. Những nén bặc mua được Nước Trời, mua được hạnh phúc đời này và đời sau. Làm sao tìm được những nén bạc đó? Cần có Chúa, cần có cố gắng sống với Chúa, bên Chúa và sống với anh chị em thân tình như Chúa yêu thương.

Xin dạy chúng con làm lợi được những nén bạc mà Chúa đã trao, một cách chân chính và ngay thẳng, xây dựng được tình người, làm cho xã hội công bằng hơn, xứng đáng đem về dâng Chúa.

Về mục lục

.

VƯƠN MÌNH ĐỨNG DẬY

Bông hồng nhỏ

Đứng trước một cơ hội, con người thường có hai cách chọn lựa: hoặc là mau mắn chớp lấy cơ hội, hoặc là lo sợ mình không thể nào hoàn thành được nên từ chối cơ hội. Hôm nay, Thầy Giêsu kể về dụ ngôn những yến bạc. Những ai cật lực làm việc, biết sinh lời những nén bạc Chúa ban sẽ được hưởng niềm vui, hạnh phúc; còn kẻ nào biếng nhác, lo sợ mà chôn dấu yến bạc sẽ phải trả lẽ.

Ta lững thững trên con đường quen thuộc mỗi ngày. Ta không được vui, thậm chí là thất vọng về chính mình khi đã thất bại. “Đổ gãy”, đó là tình trạng hiện tại của ta. Chiều buồn, tiếng chuông nhà thờ ngân vang hối thúc tâm hồn ta tìm lại niềm vui, sự an bình cho tâm hồn. Tiếng chuông hay tiếng Chúa gọi ta tìm về, để nhận ra chính mình và dám đứng lên, bắt đầu lại? Tiếng chuông đã dứt rồi nhưng trong tâm hồn ta vẫn vọng mãi một tiếng gọi mời tha thiết: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 28-29).

Vào gặp Chúa nơi ngôi nhà nguyện ấm cúng, ánh đèn chầu cho ta nhìn rõ hơn ngôi Nhà Tạm. Ta thủ thỉ cùng Chúa Giêsu Thánh Thể: “Xin ngự đến tâm hồn con! Lạy Chúa! Xin lấy tình yêu bao la của Chúa mà khỏa lấp lỗi lầm con đã phạm. Xin tăng thêm nghị lực cho tâm hồn con. Vâng, con đã thất bại.”

Lần mở trang Tin Mừng, Lời Chúa là dụ ngôn những yến bạc. Ta đọc đi đọc lại nhiều lần, mỗi lần lại đọc chậm rãi hơn. Có ba người đầy tớ được ông chủ giao cho những yến bạc, tùy vào khả năng riêng của mỗi người. Họ đã có cách hành xử khác nhau khi sử dụng những yến bạc chủ trao. Người đã lãnh năm yến và người lãnh hai yến đều mau mắn đem số bạc đi làm ăn buôn bán và đã gây lời được một số tiền khác; còn người lãnh một yến suy trước tính sau rồi lo sợ nên chôn dấu số bạc ấy đi. Ta là ai trong hai hạng người ấy? Vì sao ta thất bại để rồi thấy mình như đã bị “đổ gãy”? Người đầy tớ dại khờ trong dụ ngôn không còn cơ hội để làm lại từ đầu. Còn ta thì sao? Chúa vẫn ban cho ta có cơ hội đứng lên để bắt đầu lại. Người mời ta hãy nhận ra những ân huệ ta được nhận lãnh nhưng không. Đó là thời gian, sức khỏe, tri thức, nhận thức,…và còn nhiều ân huệ khác nữa mà ta phải khám phá để gắng sức sinh lời.

Chúa vẫn yêu ta nhiều lắm nhưng tại sao ta vẫn còn phạm tội? Suốt một thời gian dài như thế, ta thấy thất vọng về chính mình. Ta đã chẳng xứng đáng với tình yêu Chúa ban. Nghĩ thế rồi, ta cứ mãi lo sợ về những tội đã phạm và vì nghĩ mình không có khả năng khắc phục, ta từ chối tình thương của Chúa. Chẳng phải là trong chính lúc ấy, ta đem số bạc Chúa ban mà chôn xuống đất đi đó sao. Ta không xứng đáng với tình yêu Chúa ban, điều đó quả là một sự thật hiển nhiên. Chúa thì yêu thương vô cùng, cao cả vô cùng, còn ta chỉ là một tội nhân. Nhưng lạ lắm, có một cô gái điếm kia đã cúi mình dưới chân Chúa mà khóc. Chị ấy chẳng có gì khác ngoài tình yêu để dâng Chúa. Người ta khinh thường chị, hắt hủi chị và loại trừ chị nhưng Thầy Giêsu không làm thế. Thầy biết rõ tình trạng của chị và Thầy đã tha thứ cho chị vì chị đã yêu mến nhiều. Chị yêu mến nhiều vì đã được tha nhiều. (x. Lc 7, 36-50).

Có hai người lên Đền Thờ cầu nguyện. Người Pharisêu thì đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi (Lc 18, 11-13). Phải rồi, Thầy Giêsu vẫn dạy ta hãy học với Thầy sự hiền lành và khiêm nhường. Dù ta bất xứng nhưng Chúa yêu thương những ai biết quay trở về với tình thương xót của Chúa. Nhìn lên Chúa Giêsu Thánh Thể, ta thấy lòng mình được bình an hơn. Thầy Giêsu yêu thương những kẻ tội lỗi có lòng sám hối ăn ăn. Kiêu ngạo chỉ dẫn ta đi xa rời tình thương của Chúa.

Lạy Chúa! Những nén bạc Chúa đã trao vào tay con là hồng ân nhưng không. Xin Chúa cho con biết nhận ra những ân huệ Chúa ban cho con và giúp con gắng sức sinh lời. Xin Chúa vực con lên để con vươn mình đứng dậy, để con không quá thất vọng khi gặp thất bại, không kiêu căng tự mãn khi được thành công. Xin cho con hiểu rằng, chính những giới hạn nơi bản thân con cũng là một cơ hội để con biết cậy dựa vào tình thương Chúa nhiều hơn. Amen.

Về mục lục

.

AI SẼ LÀM?

Anna Cỏ may

Những người nông dân nghèo, họ có được cơ hội vay tiền không lấy lãi để kinh doanh giúp gia đình có đời sống ổn định hơn. Nhưng đến kỳ hạn, họ vẫn phải hoàn lại số tiền đã vay. Hôm nay, chúng ta được nghe dụ ngôn “nén bạc” như những gì diễn ra trong cuộc sống mỗi người. Chính những nén bạc này Thiên Chúa ban cho mỗi người tùy vào năng lực mà họ đã lãnh nhận.

  1. Yến bạc được giao

Ông chủ sắp đi xa. Ông gọi các đầy tớ đến  giao của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác một yến, tùy vào khả năng của đầy tớ. (Mt 25, 14-15). Ông là chủ, xung quanh là các đầy tớ. Theo thời gian năm tháng, ông quan tâm và yêu thương họ, nên ông biết rõ khả năng của từng người. Một ông chủ mà không quan tâm các đầy tớ thì sẽ không biết rõ tài năng của họ. Bởi thế, ông đã tin tưởng giao tài sản cho họ. Người khôn ngoan và nhanh nhẹn, ông giao năm yến. Người cẩn thận, ông giao hai yến và người nhỏ bé, ông giao một yến. Rồi ông an tâm ra đi trong niềm tin vào các đầy tớ. Một ông chủ không chỉ yêu, tin tưởng mà còn cho đầy tớ cơ hội phát huy năng lực của mình.

  1. Yến bạc được sinh lời

Khi ông chủ vừa đi, lập tức người lãnh năm yến và người hai yến liền ngồi xuống tính toán làm cách nào với số yến bạc ấy. Còn người một yến lại đi chôn xuống đất. (Mt 25, 16-18). Ba con người với hai hành động khác nhau. Người năm yến và người hai yến tuy sợ và lo lắng nhưng can đảm lao mình vào cuộc chơi, còn người một yến sợ quá nên tìm cách an toàn hơn là không làm gì. Qua đó, chúng ta thấy được có những con người chăm chỉ, biết vượt lên nỗi sợ, đối diện với tất cả để phát huy tài năng của mình. Mặt khác, họ là các đầy tớ biết ơn và thấy được tình yêu thương, sự tin tưởng của chủ mà cố gắng đền đáp công ơn ấy. Còn kẻ không biết sinh lời là kẻ chỉ biết nghĩ đến mình, sống cho mình, không quan tâm đến người khác. Nơi họ cũng không có ý chí, hy sinh vượt qua khó khăn. Qủa thực, những gì ta muốn có thì phải nỗ lực vượt qua sự yếu đuối và nỗi sợ hãi của bản thân.

  1. Thừa hưởng yến bạc

Không có gì là không thể. Qủa thực sau một thời gian, ông chủ về cũng là lúc họ phải thanh toán sổ sách. Người năm yến giao cho ông chủ năm yến khác và người hai yến cũng vậy, khiến ông chủ rất đỗi vui mừng mà cho hưởng niềm vui của ông chủ. Còn người một yến bị khinh chê và bị quăng ra chỗ tối tăm (Mt 25, 19-30). Điều tuyệt vời nơi ông chủ là ông chỉ lấy lại số yến bạc được giao ban đầu nơi các đầy tớ, phần còn lại ông cho họ hưởng trọn những yến bạc ấy. Vâng, ba người cùng trong một khoảng thời gian để sinh lời yến bạc nhưng chỉ có hai người thực hiện, người kia thì đã làm việc gì trong thời gian ấy. Có bài hát rằng: “Mẹ đi vắng, mẹ đi vắng, con sang chơi nhà bạn í a”. Lẽ nào, ông cũng đi làm những việc mà ông thích cho thỏa sức. Không ai biết rõ. Điều mà vui hơn cả là những người đẹp lòng ông chủ, bây giờ cùng hưởng niềm vui với ông chủ; cùng ngồi đồng bàn và vui cười thỏa thuê với ông chủ. Còn kẻ không vâng lời ông chủ mất hết tất cả. Thật hạnh phúc cho những ai thi hành ý chủ và khốn thay cho những kẻ không biết ý chủ.

  1. Ngày cánh chung

Với dụ ngôn yến bạc, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ngày phán xét của mỗi người là như vậy. Khi còn sống ở trần gian, Ngài cho mỗi người những yến bạc tùy vào khả năng từng người. Đến ngày phán xét, Ngài cũng chỉ hỏi chúng ta đã sự dụng yến bạc ấy thế nào? Chúng ta phải hiện diện trước mặt Ngài và trình bày tất cả những gì đã làm với yến bạc ấy, mặc dù Ngài đã biết rõ. Chính Ngài cũng thưởng phạt chúng ta dựa vào những việc làm ở trần gian. Cao cả và tuyệt vời hơn là Ngài muốn những yến bạc sinh lời nơi chúng ta sẽ được trao cho mọi người xung quanh, chứ không làm riêng cho mình. Bởi vậy, dù có giỏi, thành công thế nào mà không biết khiêm nhường, tự hạ thì cũng trở về số không.

Lạy Chúa, hạnh phúc nào cho đủ bằng hạnh phúc ở trong nhà Chúa. Xin cho mỗi người chúng con liên lỉ không ngừng sinh lời những yến bạc Chúa trao và biết trao ban chia sẻ cho mọi người. Nhờ đó, chúng con được hưởng trọn niềm vui trong ngày phán xét cùng Thiên Chúa. Amen

Về mục lục

.

NÉN BẠC

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chủ ông sửa soạn đi xa,
Gọi mời đầy tớ, vô nhà nhận công.
Ông trao đầy tớ bạc đồng,
Người này năm nén, lợi trông số tiền.
Kẻ kia hai nén nhận liền,
Người sau một nén, tự nhiên thấy buồn.
Tùy theo năng khiếu bán buôn,
Có người sinh lợi, tiền muôn bạc vàng.
Lâu sau ông chủ về làng,
Cùng nhau tính sổ, sẵn sàng lo toan.
Người nào trung tín hân hoan,
Chủ thương đãi ngộ, hiền ngoan ở đời.
Vui mừng vào hưởng Nước Trời.
Tín trung việc nhỏ, xin mời thăng quan.
Hai người lãnh nén trao ban,
Sinh lời đấu bạc, sẻ san công hầu.
Kẻ lười chôn dấu từ đầu,
Không gieo không gặt, lấy đâu sinh lời.
Khốn thay vô dụng trong đời,
Nghiến rằng lãnh phạt, giam nơi khổ hình.

Các nén bạc được trao ban cho các đầy tớ một cách nhưng không. Mỗi người lãnh nhận tùy theo lòng tốt của ông chủ. Trong bài dụ ngôn kể rằng: Chủ trao cho người mười nén, kẻ năm nén và có người chỉ có một nén. Chủ muốn mỗi người hãy sinh lợi theo khả năng của mình.

Chúa ban cho mỗi người có khả năng khác nhau. Khác nhau để bù đắp cho nhau. Mỗi cá nhân có bổn phận góp sức vào việc chung. Xây dựng một xã hội muôn màu, muôn sắc và đa dạng. Nhìn thế giới chung quanh, chúng ta hiểu được sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa Tối Cao. Chúng ta có muôn ngàn các công nghệ, nghề nghiệp, chuyên môn và khả năng phát triển không giới hạn của con người trong mọi ngành nghề. Tất cả những khả năng đó đều là quà tặng nhưng không từ Thiên Chúa.

Của cải được ban phát để làm vốn là kho tàng châu báu trong mỗi con người. Đôi khi chúng ta nghĩ rằng tại sao ông chủ không chia đồng đều, mà lại có kẻ nhiều người ít. Đây chính là sự quan phòng và tính toán chu đáo của chủ. Biết rằng mỗi người chúng ta không ai giống ai. Mỗi cá nhân có khả năng riêng biệt. Thiên Chúa quan phòng trao ban cho mỗi người một món quà. Món quà nhiều hay ít không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta có biết sử dụng món quà đó để làm lợi thêm hay không.

Đã lãnh nhận quà làm vốn, mỗi người có bổn phận sinh lợi. Chúng ta đã lãnh nhận sự sống với linh hồn, trí khôn, thân xác và mọi tài năng. Chúng ta hãy sử dụng những khả năng, thời gian và của cải của chúng ta để góp phần xây dựng đời sống xã hội và giáo hội. Đừng đem tài năng nhỏ mọn chôn vùi.

Ai làm lợi nhiều, Chúa sẽ ban thêm, thêm dư dật, thêm niềm vui và thêm hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta.

Về mục lục

.

NÉN TRÁCH NHIỆM

Trầm Thiên Thu

Trách nhiệm là phần việc được giao và phải làm xong, gọi là bổn phận, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu hậu quả. Mức độ trưởng thành của một con người dựa vào tinh thần trách nhiệm của họ đối với người khác và với chính mình.

Nữ chính khách Anna Eleanor Roosevelt (1884–1962) nói: “Về lâu về dài, chính chúng ta sẽ định hình bản thân con người chúng ta và cuộc sống của chúng ta. Quá trình đó không bao giờ kết thúc cho tới khi ta chết. Rốt cuộc thì chúng ta luôn phải gánh chịu mọi trách nhiệm về chính sự lựa chọn của mình”. Elbert Hubbard (1856–1915, triết gia và tác gia, Hoa Kỳ) nhận định: “Responsibility is the price of freedom” (Trách nhiệm là cái giá của sự tự do). Một cách nhận định chí lý!

Đối với Kitô giáo, Thiên Chúa trao cho mỗi người một phần việc riêng theo ơn gọi của mình, đó chính là Nén Trách Nhiệm mà ai cũng phải cố gắng hoàn thành một cách xuất sắc nhất. Trách nhiệm có liên quan các vấn đề khác: [1] Nhân phẩm, [2] Công ích, [3] Bổ trợ, [4] Liên đới. Đó là bốn nguyên tắc chính trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo. Công ích là ích lợi chung, đồng thời cũng là trách nhiệm chung của mọi người.

Về vấn đề công ích, Giáo huấn Xã hội Công giáo cho biết: “Công ích được hiểu như là những điều kiện xã hội cho phép mọi người đạt đến trọn vẹn tiềm năng con người và nhận ra nhân phẩm của mình”. Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, nguyên tắc công ích cho thấy nhu cầu về các cơ cấu quốc tế để có thể thúc đẩy sự phát triển cá nhân và gia đình vượt ra khỏi ranh giới quốc gia và khu vực. Sự thiếu vắng cảm thức về công ích là dấu chỉ chắc chắn về sự xuống cấp của xã hội. Cảm thức cộng đồng bị xói mòn sẽ dẫn đến các dạng suy thoái về công ích, từ đó có thể dẫn tới các hệ lụy khác.

Đề cập công ích, Thánh Phaolô nói: “Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào. Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. Việc phục vụ này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của Đức Kitô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và với mọi người” (2 Cr 9:10-13). Thực hiện công ích cũng là thực thi Đức Ái vậy.

Thật thú vị và ý nghĩa khi công ích được phát xuất từ gia đình, mà gia đình lại chính là nền tảng của xã hội. Kinh Thánh nói: “Tìm đâu ra một người vợ đảm đang? Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai hoạ cho chồng. Nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc” (Cn 31:10-13). Tiền tuyến luôn cần hậu phương. Người vợ âm thầm làm việc, với biết bao việc “không tên”, nhưng các “việc nhỏ” đó lại rất cần thiết để duy trì hạnh phúc gia đình, khả dĩ tạo nên Tổ Ấm.

Quan phòng và tiền định, Thiên Chúa đã phú cho nữ giới có tính cách đặc biệt: “Nàng tra tay vào guồng kéo sợi, và cầm chắc suốt chỉ trong tay. Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng” (Cn 31:19-20). Cái tính đã đặc biệt rồi, mà cái tâm cũng khác lạ: Hy sinh, nhịn nhục, chịu đựng,… Nàng dịu hiền vì nàng là phụ nữ. Quả thật, nét dịu dàng rất cần ở phụ nữ, ca dao đã đặt vấn đề như lời nhắc nhở nữ giới: “Có ai bán cái dịu dàng, tôi mua một gánh tặng nàng làm duyên”.

Nam giới cần cứng rắn, nữ giới cần dịu dàng. Nét duyên dáng rất cần, nhưng đừng yểu điệu quá hóa kiểu cách, phản tác dụng, vì Kinh Thánh nói: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân. Người phụ nữ kính sợ Đức Chúa mới đáng cho người đời ca tụng. Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra. Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm” (Cn 31:30-31). Nét duyên dáng tâm linh mới thực sự cần thiết, nhất là đối với các phụ nữ là Kitô hữu – cả giáo dân và nữ tu. Giáo dân có dạng “chảnh” của giáo dân, tu sĩ có dạng “chảnh” của tu sĩ.

Thiên Chúa cho chúng ta làm người nên Ngài cũng trao ban cho những thứ cần thiết để sống. Ai cũng có nhân vị và nhân phẩm. Ngày nay, cả đời và đạo không còn nhìn nữ giới bằng “nửa con mắt” như trước, theo kiểu “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, nhưng đã có tầm nhìn sâu rộng hơn về vị trí của họ. Kinh Thánh cho biết: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái, và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Hình ảnh gia đình hạnh phúc được mô tả rõ nét, phụ nữ có vị trí nhất định, khó có thể thay thế. Thánh Vịnh này rất quen thuộc vì thường được dùng làm đáp ca trong các lễ cưới, đặc biệt là lễ Thánh Gia.

Gia đình là hình ảnh của Giáo hội luôn đầy tràn hồng ân của Thiên Chúa. Thánh Vịnh gia xác định và cầu chúc: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:4-6). Niềm hạnh phúc như vậy là niềm hạnh phúc đáng mơ ước, vì hạnh phúc đó chính là nhờ hồng ân của Thiên Chúa!

Có một câu nhắc nhở người ta thường nói: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng!”. Lời cảnh báo rất cần thiết, bởi vì con người dễ ảo tưởng mà tự mãn. Khi nghèo, người ta biết thương nhau, nhưng khi giàu, người ta dễ xa nhau. Ma quỷ rất mưu mô và xảo quyệt, nó tìm cách giành lấy linh hồn của chúng ta nên nó dùng chính sự kiêu ngạo để gài bẫy chúng ta. Được người ta khen ngợi khi chúng ta làm được điều gì đó “hay ho” một chút, chúng ta rất dễ “lên mặt”, cứ tưởng mình là “cái rốn” của vũ trụ, cứ tưởng mình có cả một bụng chữ, rồi coi thường người khác. Thảo nào cụ thi hào Nguyễn Du đã khuyến cáo: “Có tài mà cậy chi tài, chữ TÀI liền với chữ TAI một vần” (Truyện Kiều, câu 3247-3248). Và cụ nhắn nhủ: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI” (Truyện Kiều, câu 3252). Những mẫu tự T mang ý nghĩa khác nhau, T tốt và T tồi. Cái Tôi thật đáng ghét biết bao!

Tương tự, về ngoại hình đối với nữ giới (kể cả nam giới), khi thấy mình có ngoại hình chỉ “coi được” một chút là đã “chảnh” lắm rồi, cộng thêm “giỏi” một chút nào đó nữa thì mức độ càng tăng thêm. Thậm chí ngay cả khi làm công việc đạo đức, từ thiện, công ích,… người ta cũng “dám” lấy ngoại hình của mình mà “đè bẹp” người khác. Chính mình “chảnh” mà lại không nghĩ là mình “chảnh”, và họ quên rằng “sắc đẹp là những cánh hoa hồng sẽ bị thời gian tỉa dần”. Vì nông cạn mà ảo tưởng, thật là nguy hiểm vô cùng! Hãy đọc lại và ghi nhớ câu Kinh Thánh này: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân” (Cn 31:30).

Lỗ nhỏ có thể làm đắm thuyền. Cái tật nhỏ có thể dẫn tới cái tội to. Từ những cái đơn giản dẫn tới những cái phức tạp, từ những cái nhỏ dẫn đến những cái lớn, từ những cái xa dẫn tới những cái gần, hoặc ngược lại, tiệm tiến và lung khởi. Thánh Phaolô căn dặn: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: ‘Bình an biết bao, yên ổn biết bao!’, thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được” (1 Tx 5:1-3). Ý tưởng tỉnh thức thường xuyên xuất hiện trong Phúc Âm, bất kỳ thời điểm nào, nhưng đặc biệt vào thời điểm cuối năm Phụng Vụ, Mùa Vọng và Mùa Chay.

Sống tỉnh thức là sống khôn ngoan, biết sống khôn ngoan là biết sống vì công ích, và công ích có liên quan đức ái – một trong ba nhân đức đối thần quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Rất hợp lý. Thánh Phaolô giải thích: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy TỈNH THỨC và SỐNG TIẾT ĐỘ” (1 Tx 5:4-6).

Chúa Giêsu cũng đã có lần so sánh và xác định: “Con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng” (Lc 16:8). Cái “khôn ngoan” ở đây không phải là một lời khen, mà là một lời cảnh báo và chê trách. Khôn ngoan ở đây là khôn ranh, ranh ma, ranh mãnh, mưu mô, xảo quyệt. Ngôn ngữ bình dân ngày nay gọi là “đểu”, họ không “đểu giả” mà “đểu thật” đấy!

Tin Mừng hôm nay là dụ ngôn “những yến bạc” (Mt 25:14-30, tương đương Lc 19:12-27). Khi chủ nhân sắp đi xa, ông gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải. Ông trao cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi…

Được giao nhiều hay ít không phải để phân bì, mà vấn đề là trách nhiệm – nhận ít thì trách nhiệm ít và bị đòi ít, nhận nhiều thì trách nhiệm nhiều và bị đòi nhiều (Lc 12:48). Tác giả sách Giảng Viên xác định: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn; càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau” (Gv 1:18).

Dụ ngôn cho biết rằng người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ về tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ.

Giờ G đã điểm. Chủ nhân đã trở về. Trước tiên, người đã lãnh năm yến tiến lại gần, và đưa năm yến khác. Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại và đưa hai yến khác. Chủ nhân nói với hai người này: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”.

Cuối cùng, người đã lãnh một yến cũng tiến lại và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!”. Chủ nhân thẳng thắn và nghiêm nghị nói: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. Chủ nhân nói đúng quá, thế nên anh ta đành câm miệng. Nơi tối tăm mà anh ta phải vào chẳng phải là hang động âm u hoang vắng, thiếu ánh sáng, cũng chẳng phải là chốn Luyện Hình, mà chính là Hỏa Ngục – vương quốc của Luxiphe!

Tất cả chúng ta đều là các thụ tạo, là các đầy tớ của Chủ nhân Thiên Chúa. Mỗi chúng ta đều được Ngài trao cho đồng đều: Nhân vị, nhân phẩm, nhân quyền, quyền tự do, và có thể có thêm một vài năng khiếu nào đó. Mỗi người được Ngài trao cho số nén, loại nén, và kiểu nén khác nhau. Nhưng vấn đề quan trọng là chúng ta có sinh lời hay không, tức là thể hiện vì công ích – lợi ích cho chính mình và tha nhân. Chỉ làm lợi cho mình hoặc tha nhân thì đều là ích kỷ. Muốn lên Thiên Đàng một mình cũng là ích kỷ. Chúng ta như bức tượng được nhà điêu khắc tạo ra, bức tượng không có quyền than phiền bất cứ điều gì đối với người đã tạo ra nó!

Chắc chắn không ai là kẻ bất tài, người này có tài này, người khác có tài khác; người này giỏi trong lĩnh vực này, người khác giỏi trong lĩnh vực khác. Không có nông dân thì chúng ta lấy gì mà ăn? Không có thợ xây thì chúng ta lấy gì mà ở? Có bất cứ tài gì (dù là tài vặt) cũng là để cộng tác với Thiên Chúa chứ không phải là để vinh danh mình. Hơn người khác về lĩnh vực nào đó thì đừng tưởng mình “ngon” hơn, được Thiên Chúa “ưu tiên” hơn hoặc “cưng” hơn. Là một vĩ nhân nhưng Pythagore (570-495 trước công nguyên) vẫn sống khiêm nhường, và ông nhắc nhở chúng ta: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”. Ông là một thiên tài vĩ đại (triết gia, nhạc sĩ, chính trị gia, nhà đạo đức học, nhà toán học, nhà siêu hình học,…), nhưng ông rất sợ thói kiêu ngạo. Thế thì chúng ta có gì mà dám tự tôn hoặc khinh người khác chứ? Chúng ta chỉ có một thứ duy nhất: Tội lỗi.

Thật vậy, ông Gioan đã minh định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Ôi chao, thế thì cái mà chúng ta lãnh nhận không phải để sở hữu riêng mà phải thực hiện vì công ích. Đức khiêm nhường là bài học phải học suốt đời, và chỉ có thể học được ở tại Trường-Học-Thầy-Giêsu, vì Ngài đã khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Biết khiêm nhường thì sẽ dễ dàng sinh lời Nén Trách Nhiệm mà Thiên Chúa đã giao phó.

CN XXXIII Thường niên (năm A, 19-11-2017), là ngày Giáo hội cử hành Ngày Vì Người Nghèo lần thứ nhất với chủ đề “yêu thương bằng hành động chứ không bằng lời nói suông” (Love not in word but in deed). Đó là lời nhắc nhở thực hành đức ái một cách cụ thể, bởi vì vẫn có rất nhiều người nghèo trên thế giới ngày nay, đồng thời cũng nhắc nhở về dụ ngôn “Người Phú Hộ và Ladarô” (Lc 16:19-31). Chia sẻ với người nghèo là “Nén Trách Nhiệm” mà Thiên Chúa trao cho tất cả mọi người.

Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin giúp con biết khôn ngoan sinh lời những gì Ngài đã trao ban cho con, xin canh chừng “cái tôi” của con để con làm tất cả vì vinh danh Ngài mà thôi, và xin giúp con biết khiêm nhường như một đầy tớ vô dụng. Xin tiếp tục thương xót con dù con đã dám làm bận mắt Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

GIỌT TÌNH

Trầm Thiên Thu

DA VÀNG BẤT KHUẤT VỮNG TIN CẬY CHÚA

MÁU ĐỎ HÀO HÙNG HẰNG MẾN YÊU NGÀI

Tình liên quan Tim, Tim liên quan Máu. Cái trừu tượng (tình) mà lại không thể tách rời cái cụ thể (tim và máu). Thật kỳ diệu!

Máu là chất lỏng bình thường mà khác thường. Bình thường vì vì máu chỉ là một trong các loại chất lỏng, khác thường vì máu giúp duy trì sự sống. Người ta có Ngân Hàng Máu, và rất cần những người hiến máu. Những Giọt Hồng bình thường đó trở thành những Giọt Tình, trao tặng sự sống cho người khác. Thật đẹp biết bao!

Với ý nghĩa đó, tục ngữ Việt Nam có câu: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Máu duy trì sự sống bằng cách không ngừng từ Trái Tim – Trung Tâm Phân Phối Sự Sống – chuyển giao đi khắp cơ thể. Máu có vài loại máu, nhưng chung quy vẫn là sự sống. Tim còn đập là còn sự sống, tim ngừng đập là chết. Máu có màu đỏ tươi, màu của Tình Yêu Thương. Sự Sống và Yêu Thương chính là hiện thân của Thiên Chúa – Đấng là Nguồn Sống và Tình Yêu.

Y học cho chúng ta biết rằng có khoảng 46 nhóm khác nhau, nhưng những nhóm chính là O, A, B, AB và yếu tố Rhesus (Rh, có Rh+ và Rh-). Trong đó, máu O có thể cho bất cứ loại máu nào nhưng chỉ nhận cùng loại máu; còn máu AB có thể tiếp nhận mọi loại máu. Vì những lý do chưa được khám phá, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia. Một nhóm máu hoàn chỉnh có thể bao gồm một bộ 30 chất trên bề mặt của các RBC (red blood cell – hồng cầu), và một nhóm máu của cá thể là một trong những sự kết hợp của một số kháng nguyên nhóm máu. Trong số 30 nhóm máu, có hơn 600 chất kháng nguyên (phân tử kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể, sản sinh kháng thể) nhóm máu khác nhau đã được phát hiện, nhưng đa số trong chúng rất hiếm hoặc chủ yếu được tìm thấy trong các nhóm bộ tộc nhât định.

Chắc chắn rằng sự sống rất quý giá, nhưng mỗi người chỉ có một cuộc đời, một lần sống, hơn thua nhau là biết sống khôn ngoan hay không. Vòng luân hồi chỉ là chuyện “không tưởng” – vừa giả tưởng vừa ảo tưởng. Cuộc sống không quan trọng ở chiều dài mà quan trọng ở chiều sâu. Ai cũng chỉ có một cuộc đời nhưng số phận có thể khác nhau, Kinh Thánh phân biệt số phận của người công chính và số phận của phường vô đạo.

Ai cũng chỉ có một lần sống, và tất nhiên cũng chỉ có một lần chết. Phải sống sao cho có ý nghĩa thì cũng phải chết sao cho hợp lý. Có điều rất lạ: Trong Nhóm Mười Hai có đến 10 vị Tông Đồ tử đạo, chấp nhận máu đổ ra để minh chứng Đức Tin, trừ người-môn-đệ-Chúa-yêu là Gioan và tông đồ phản bội là Giuđa Ítcariốt. Cái chết oanh liệt đó là Mối Phúc thứ tám: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:10).

Chính Chúa Giêsu còn nói thêm để tái xác định và chứng minh: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5:11-12).

Thời gian bị bách hại, Giáo hội tại Việt Nam vẫn như đứa trẻ mới thôi nôi, còn nhỏ bé nhưng kiên cường bất khuất trước bạo quyền. Trải dài khoảng 300 năm, qua sáu triều vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức, Giáo hội tại Việt Nam bị bách hại triệt để, nhưng hơn một trăm ngàn người đã minh chức hạt giống đức tin đã nảy mầm và lớn mạnh. Tiền nhân của chúng ta chịu tra tấn đủ kiểu – nào là “bào cách” (trói vào cột lửa cho đến chết), nào là “tẫn hình” (cắt xương bánh chè), nào là “xử giảo” (treo cổ), nào là “lăng trì” (tùng xẻo, lóc thịt theo tiếng cồng chiêng), và còn nhiều cách khác như xỏ mũi, xâu tai, phanh thây, voi giày, ngựa xéo,…

Những người thủ ác dụ đủ chiêu, nói rằng cứ giả vờ bước qua Thánh Giá, nhưng tiền nhân dứt khoát không giả vờ. Họ còn dụ rằng ông Phêrô chối Chúa ba lần mà còn được chọn làm trưởng Hội Thánh, nhưng tiền nhân cũng không xiêu lòng. Đó là bài học sống đức tin cho chúng ta hôm nay: Đặt mình trước Thánh Giá và quyết tâm chọn lựa dứt khoát như Thánh Phaolô: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Gl 6:14).

Thật vui mừng vì ngày nay người ta đã bắt đầu yêu quý sự sống, điều này được thể hiện qua chương trình Hiến Máu Nhân Đạo. Đó là tín hiệu tốt. Hoạt động này thực sự đáng trân trọng. Hiến máu có hai cái lợi: Một là cứu sống người, hai là chính mình được thay máu mới và sẽ tránh béo phì, sức khỏe sẽ tốt hơn. CHO mà KHÔNG HẾT, càng CHO càng có LỢI. Thật tuyệt vời!

Theo lịch sử, từ thế kỷ 17 tới 19, Việt Nam theo chế độ quân chủ chuyên chế, vua là thiên tử (con trời) nên có toàn quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Nho giáo quan niệm như vậy. Vua cho sống thì được sống, bắt chết thì phải chết, ai không chết là bất trung. Các vị Tử đạo Việt Nam đã giới thiệu một nền dân chủ trong đó người dân làm chủ đất nước, vua chỉ là người đại diện Thiên Chúa điều hành đất nước mà thôi, và mọi người đều là anh em với nhau, theo kiểu nói “huynh đệ chi binh”. Không ai có quyền sát nhân vì Thiên Chúa là Chủ nhân của sự sống, nhưng chính Đức Giêsu đã chết cho nhân loại, dù Ngài là Thiên tử. Quan nhất thời, dân vạn đại. Chính phủ nào không vì dân thì không thể tồn tại. Dân làm chủ đất nước chứ không phải vua chúa hoặc tổng thống, chính quyền. Thế nên các thánh nhân đã can đảm chết cho giá trị của Nền Dân Chủ cao quý để bảo vệ Chân Lý và Công Lý.

Vào thời kỳ đó, xã hội Việt Nam theo chế độ đa thê: “Trai thì năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Nho giáo quan niệm là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một con trai kể là có, mười con gái kể là không), phận nữ nhi thiệt thòi quá! Còn nữa, vua chúa thời đó thích ai thì có quyền “bắt” về làm thiếp. Cô gái nào “bị lọt vào mắt xanh” của nhà vua thì coi như chôn vùi cuộc đời nơi cung cấm. Chế độ quân chủ thật ích kỷ, tham lam và tàn nhẫn! Các thánh nhân đã giới thiệu chân giá trị của Tin Mừng là “một vợ, một chồng” và chung thuỷ trọn vẹn suốt đời theo lệnh truyền của Đức Kitô (Mt 19:6; Mc 10:9). Các thánh nhân thẳng thắn giới thiệu giá trị của sự bình đẳng nam nữ, tất cả đều do Chúa dựng nên với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền – nghĩa là không ai hơn ai, hoàn toàn bình đẳng.

Một sự thật minh nhiên là chính người Công giáo “sáng chế” ra chữ Quốc Ngữ, ông tổ là Lm Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ, sinh 15-3-1591, mất 5-11-1660), nhà truyền giáo người Pháp, Dòng Tên. Gia Định Báo là tờ báo tiếng Việt đầu tiên xuất hiện tại miền Nam Việt Nam vào năm 1865. Thời đó, lý lịch ai là Công giáo ghi trong sổ dân đinh thì sẽ gặp đủ chuyện rắc rối, không được học hành, thi cử, buôn bán… và còn bị thích hai chữ “tả đạo” trên trán. Thế nhưng người Công giáo vẫn không sợ gì. Khi khó khăn quá, họ trốn vào núi rừng sâu thẳm như ở Trà Kiệu, La Vang,… và tìm cách mưu sinh qua ngày. Gay go nhất là thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Thời kỳ đó đã có hàng trăm ngàn vị tử đạo. Người Công giáo ở cả miền Bắc và miền Trung đều bị bách hại đủ kiểu, vì thế họ đã tìm cách di cư vào Nam để có thể tự do tôn thờ Thiên Chúa, nhiều nhất là hồi tháng 7-1954.

Ai theo Đức Kitô đều bị người ta ghen ghét, đúng như Ngài đã nói trước: “Người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy” (Mt 24:9; Mc 13:9; Lc 21:12). Mỗi thời có kiểu bách hại riêng, càng ngày càng tinh vi hơn. Thời Cựu ước, sách Ma-ca-bê 2 kể rằng có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Môsê cấm.

Thật tuyệt vời vì bà mẹ này là người rất đáng khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Chính mắt bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Hẳn là rất hiếm có bà mẹ nào như vậy. Bà thực sự can đảm, đúng là bà yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chỉ là lời lẽ của một phụ nữ, nhưng lại đầy chí khí nam nhi khi bà khuyến khích từng đứa con: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (2 Mcb 7:22-23). Lý lẽ đầy xác tín và tràn trề hy vọng, không hề ảo tưởng. Những người không có niềm tin Kitô giáo chắc hẳn cho ai hành động như vậy là ngu xuẩn, là điên rồ.

Sau đó, bà mẹ này nghiêng mình về phía con trai, vẫn hiên ngang chế nhạo tên bạo chúa, và âu yếm nói với con trai: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ” (2 Mcb 7:27-29). Là nữ nhi, phận liễu yếu đào tơ, nhưng đức tin của bà rất vững vàng!

Ôi, những lời lẽ của bà chứa đầy kiến thức Kitô giáo và tràn đầy Thần Khí. Bà phân tích giản dị nhưng mạch lạc, với lý lẽ cứng rắn và rạch ròi. Thật đáng khâm phục một nữ nhi mà có tấm lòng rắn như thép. Hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam cũng đã từng không “tham sanh, úy tử”, không chịu “giá áo, túi cơm”, không hèn nhát trước những ác nhân, mà vẫn hiên ngang làm chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô đến giọt máu cuối cùng!

Bao giờ cũng thế, các tôi trung luôn đặt trọn niềm vui và hy vọng vào Thiên Chúa, hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Họ đã THEO ĐẠO và cương quyết GIỮ ĐẠO, đặc biệt là can đảm SỐNG ĐẠO dù bị cấm cản đủ cách. Chuyện tất yếu như một quy-luật-muôn-thuở: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126:5). Chắc chắn là vậy. Các vị tử đạo đã “nhìn thấy” phía sau những gì đang xảy ra với chính mình trong giây phút hiện tại: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:6). Hy vọng của họ bừng sáng mà không ai hoặc không gì có thể dập tắt!

Với kinh nghiệm dày dạn của bản thân, Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh” (Rm 8:31-36). Theo tầm-nhìn-thế-gian, gian truân và nguy hiểm là những chướng ngại vật phải tránh cho xa, càng tránh được nhiều thì càng tốt. Nhưng theo tầm-nhìn-Kitô-giáo, những thứ đó không là chướng ngại vật mà là “đòn bẩy” đưa người ta lên cao vút, tới tận nơi Thiên Chúa ngự.

Tiếp tục giải thích, Thánh Phaolô cho biết: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:37-39). Thật đúng như vậy, đơn giản như đôi nam nữ yêu nhau, cha mẹ càng cấm thì họ càng yêu nhau mãnh liệt. Có những người “yếu bóng vía” và không có niềm tin Kitô nên họ đã tự tử. Tuy nhiên, người thất tình là người yêu mạnh lắm. Và thật lạ, đại văn hào Victor Hugo (1802-1885, Pháp) đã nhắn nhủ: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa. Chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Chỉ có những người yêu thật mới khả dĩ hiểu nổi, không thì sẽ cho là “bị chạm thần kinh” ở cấp độ nặng!

Như chúng ta biết, thời nào cũng có bách hại tôn giáo, chỉ khác ở cách thức và mức độ. Ngày xưa, Đức Giêsu đã tiên báo những cuộc bách hại: “Hãy COI CHỪNG người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10:17-18). Ngài biết chúng ta sẽ lo lắng nên Ngài căn dặn: “Khi người ta nộp anh em thì anh em ĐỪNG LO phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, KHÔNG PHẢI chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10:17-20). Chúa Thánh Thần luôn hoạt động mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi người. Một sự thật vừa minh nhiên vừa mặc nhiên, và chỉ những ai có đức tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được điều này.

Tất cả những người yêu mến Chúa, bất luận nam-phụ-lão-ấu, đều bị chống đối và bị ghét bỏ bằng cách nào đó, không chỉ đối với người ngoài mà đối với cả những người thân và bạn hữu, thậm chí là ngay trong gia đình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10:21-22). Máu của các vị tử đạo đúng là Máu Đào thực sự. Đó là những Giọt Tình vô giá!

Khi thấy những chuyện xảy ra như vậy có vẻ lạ lùng, nhưng thực ra cũng chỉ là chuyện bình thường, sự thể vốn dĩ như vậy. Vấn đề là chúng ta có can đảm sống đúng theo lý tưởng Đức Kitô hay không. Đó cũng là một dạng tử đạo: Tử đạo liên lỉ từng ngày trên đường lữ hành trần gian. Tử đạo kiểu nào cũng có cái khó khăn riêng, chẳng có cách tử đạo nào dễ dàng!

Muôn lạy Thiên Chúa là Nguồn Sống, xin giúp con biết duy trì và bảo vệ sự sống mà chính Ngài trao ban. Sự sống là của Ngài, nhưng khi cần thiết, xin giúp con can đảm sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Thánh Danh Ngài.

Vạn lạy chư vị tiền nhân tử đạo của non sông Việt Nam, xin thương nguyện giúp cầu thay, nâng đỡ con trên hành trình đức tin để con luôn sống xứng đáng là tử tôn của các ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

Về mục lục

.

SINH LỜI

P. Trần Đình Phan Tiến

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, “SINH LỜI” là cụm từ “kinh doanh”, bởi vì, kinh doanh chủ đích là kiếm lời, nếu kinh doanh không lời, thì không còn là kinh doanh nữa. Vì thế, mục đích kinh doanh là để kiếm lới, ( ngoài mục đích từ thiện).

Vậy, hôm nay đây, Lời Chúa trong (Mt 25, 14 -30), cũng cho chúng ta một ý niệm “SINH LỜI”, nhưng việc sinh lời nầy là sinh hoa kết trái ơn ích thiêng liêng, chứ không phải  là sinh lời vật chất. Đời sống vật chất muốn duy trì, thì cũng phải “kiếm lời”, kiếm lời chân chính, kiếm lời phải chăng. Kiếm lời chân chính là kiếm lời bởi sự lao động của chúng ta, như người ta thường nói : “Có làm thì mới có ăn…”.

Lời Chúa trong ngày Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay cho chúng ta một ý tưởng” Sinh Lời vì Nước Trời”.

Theo đó, Nước Trời là một việc “ SINH LỜI” trên Thiên Quốc. Điều nầy thật hợp lý, bởi vì, không ai “sinh lời” cho chúng ta. Đời sống thiêng liêng, Thiên Chúa ban cho mỗi người, tùy theo nhu cầu và năng lực, nhưng khi được đón nhận phải biết sinh lời tùy theo “số vốn “ đã được nhận lãnh ban đầu.

Tình yêu của Thiên Chúa là ân sủng hằng ngày Chúa ban cho chúng ta, ít nhiều chúng ta được lãnh nhận, không phải so đo, nhưng tùy “Lòng Xót Thương” bởi Thiên Chúa. Mặc nhiên, ai lãnh nhiều thì phải sinh lời nhiều, ai lãnh ít thì sinh lời ít. Thiên Chúa không bao giờ bất công khi giao ít , mà đòi nhiều, cũng như Thiên Chúa không lấy đi số lời mà chúng ta đã sinh lợi. Thiên Chúa luôn cho thêm và đong đầy cách hào phóng cho chúng ta. Vì sự công bằng nơi Thiên Chúa là tuyệt đối, bởi vì “số lời” mà chúng ta làm ra, Thiên Chúa luôn ban thêm cho chúng ta.

Dụ ngôn Tin Mừng hôm nay tuy dài, nhưng rất dễ hiểu, quy luật công bằng luôn “đòi trả lẽ”. Nếu được đón nhận ân sủng siêu nhiên mà không biết “SINH LỜI”, thì ơn ích ấy không phát sinh hoa trái.

Khởi đi từ Bài Đọc I hôm nay (Cn 31, 10 -13, 19 – 20. 30 -31) chúng ta thấy, gương người phụ nữ nhân đức, chăm lo công việc gia đình thật là chỉnh chu, quán xuyến tươm tất. Hình ảnh người vợ hiền đức không phải nói lên nghĩa đen mà thôi, song nó còn miêu tả được hình ảnh “ Người Mẹ hiền Giáo Hội”, hằng ngày quán xuyến việc gia đình một cách chu đao. Như vậy, Giáo Hội được mệnh danh là Mẹ hiền, có nghĩa là như người phụ nữ giỏi giang chăm lo việc gia đình, măc nhiên người phụ nữ nầy phải hiền đức, chăm sóc , quản cai rất mực hiền lương.

Vậy, GƯƠNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM được Giáo Hội mừng kinh hôm nay, cho chúng ta điều gì. Chắn chắc không phải là “cái chết” thể xác mà thôi, mà là “SỰ SỐNG BẤT DIỆT”.

Vâng, “Đầu rơi, máu chảy” không phải là yếu tố để “ tôn thờ”, nếu chúng ta tôn thờ việc đầu rơi , máu chảy, thì chúng ta “tôn thờ sự chết”, như vậy không phù hợp với tinh thần Kitô giáo. Vì, Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, mặc nhiên chúng ta phải “TÔN THỜ SỰ SỐNG “ và sống vĩnh hằng.

Thực tế, chúng ta thấy, không phải “thù giết thù”, mà nhiều lúc “ bạn giết bạn”. Như vậy, nếu ở thế gian không có sự Hiện Hữu của Thiên Chúa, thì không có “bạn hữu ”, và như vậy tất không tồn tại sự sống.

Như vậy, nếu việc sống Đạo mà dẫn đến cái chết không thôi, thì chẳng còn ai dám sống Đạo làm gì nữa. Qủa thật, qua cái chết, CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM đang sống Đạo cách phi thường. Bởi vì : “Nếu Hạt Lúa gieo xuống lòng đất không thối đi, không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình…” . Vâng, vì thế “TỬ ĐẠO” là “SINH LỜI” theo Tin Mừng.

Nhưng, việc Tử Đạo của các ngài cũng rất hiếm hoi, không phải ai muốn cũng được, mà là do bởi Thiên Chúa trao ban cho các ngài “Những nén bạc sinh lời”.

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng giàu lòng xót thương, Xin thương ban cho những ai được lãnh nhận ân sủng bởi Thiên Chúa, thì họ biết siêng năng, can đảm sinh lời hầu mưu ích cho chính họ, để Lời Chúa không mai một đi cách uổng phí, trái lại được sinh lời để muôn đời trông thấy mà ngợi khen Thiên Chúa trên trời. Vì việc sinh lời thiêng liêng không phải Chúa lấy lại, nhưng ban thêm cho họ./. Amen

Về mục lục

.

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VN THẤY CHÚA TRONG MỌI SỰ

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Có ai đó nói rằng: “cái quý giá nhất của con người là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời; sự nghiệp mang lại hạnh phúc cho  loài người”.

Đó là cuộc sống đẹp. Cuộc sống trọn vẹn ý nghĩa sẽ làm cho ta mãn nguyện, hạnh phúc vì mình đạt điều mình mong ước, nắm bắt được điều mình khao khát. Cuộc sống dài hay ngắn không quan trọng. Điều quan trọng là ta sống hiến dâng, sống phục vụ, sống có ích cho tha nhân.

Các thánh tử đạo đã sống đẹp. Cái đẹp đối với cuộc đời các ngài là luôn tín thác vào Chúa. Dù bị hiểu lầm, dù bị đòn roi, dù bị bách hại nhưng vẫn yêu đời, vẫn yêu người. Không oán ghét căm hờn, không giận ghét kẻ gây nên nỗi đau cho mình. Các ngài vẫn thanh thoát hiên ngang ra pháp trường không mang nỗi sợ hãi, không hằn vết hận thù. Các ngài chẳng sợ đòn roi, cực hình. Các ngài có thể đối diện với bách hại mà vẫn bình an là vì các ngài có cái nhìn đức tin, hay có thể nói các ngài có con mắt của niềm tin. Các ngài đã có thể thấy cõi thiên đàng ngay trong cực hình nên chẳng còn gì khiến các ngài hoảng sợ.

Đọc tiểu sử các ngài chúng ta thấy dường như các quan và mọi người đều thấy một điều không thể hiểu được: tại sao mọi khi những tội nhân bị dẫn ra pháp trường xử tử thì run rẩy sợ hãi cùng độ, mà các vị tử đạo lại ung dung hân hoan tiến bước, miệng đọc kinh hay ca hát. Thánh Marrtino Thọ bị đánh đập nhừ tử mình mẩy đầy vết thương, bị ngâm vào lò nước tiểu rồi lôi ra phơi nắng, vậy mà cứ trơ trơ ra không hề sợ hãi, không tức giận, không nổi cáu, không phàn nàn.

Các ngài luôn bình thản trước đớn đau vì các ngài có đủ niềm tin vào Thiên Chúa. Các ngài hiểu được rằng: sự khốn khó đời này chẳng là gì so với phúc thiên đàng đời đời. Niềm tin đó còn giúp các ngài luôn có cái nhìn lạc quan ngay chính trong đau khổ, như thánh Nguyễn Huy Mỹ đã nhìn cái gông cùm thành khăn quấn cổ cho ấm, và những vòng xích thành dây trang sức cho người thêm sang trọng.  

«Vai mang bốn điệp tai thêm ấm

Xổng xểnh ba vòng cổ lại thanh”. 

Từ trong nhà tù, thánh Dũng Lạc đã viết thư ra ngoài khích lệ một linh mục bạn là cha Thực. Cho thấy ngài vẫn an nhiên ngay giữa những nghịch cảnh chao động nhất? 

Lòng nhớ bạn nỗi còn vất vả

Dạ thương khách chạy chưa yên hàn.

Đông qua tiết lại thời xuân tới

Khổ tạm mai sau hưởng phúc an. 

Các thánh tử đạo Việt nam luôn sống đẹp lòng Chúa đẹp lòng mọi người vì các ngài đã luyện được con mắt đức tin để thấy Chúa Toàn Năng đang hiện ra với mình mọi nơi mọi lúc đến nỗi thấy Chúa ở ngay bên; Chúa đang hiện diện ngay trong những đau khổ tứ bề để an ủi, động viên và giúp sức cho các ngài vượt qua đỉnh đồi đau thương để tiến tới vinh quang.

Thế nên, mừng các thánh TDVN xin cho chúng ta cũng luyện được con mắt đức tin để chúng ta thấy Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Chúa đang hiện diện qua người nghèo, bệnh tật .  .. để mời gọi ta chia sẻ, cứu giúp

Chúa đang hiện diện nơi người đang thất vọng  vì làm ăn thua lỗ, vì tình duyên lận đận, vì đời nhiều đắng cay, chúng ta hãy đưa tay ra nâng đỡ.

Chúa cũng đang mời gọi chính chúng ta đón nhận cuộc đời theo thánh ý Chúa. Vì Chúa chúng ta vui lòng đón nhận thánh giá Chúa gửi tới. Thánh giá trong bổn phận khi phải vất vả làm ăn, khi phải phụng dưỡng cha mẹ già, khi phải chịu đựng người bạn đời dở hơi khó tính, khi phải mang trong mình những cơn bệnh hiểm nghèo. . .

Chính con mắt đức tin ấy sẽ giúp chúng ta thấy những đau khổ đời này chẳng đáng là gì so với vinh quang thiên quốc. Chính cái nhìn đức tin ấy giúp chúng ta sống hiến thân từng giây từng phút của đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân. Vì Chúa mà chúng ta: mỗi ngày chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng và đấu tranh cho Chân lý. Vì Chúa mà chúng ta vui sống trong bổn phận của mình hầu làm chứng nhân ngay chính đời sống thường ngày của mình.

Ước gì chúng ta biết noi gương các thánh tử đạo, dám nói không với tội lỗi, dám làm chứng cho đức tin cho dù bị thiệt thòi, bị hiểu lầm, nhưng phần thưởng thật lớn lao trên trời. Amen.

Về mục lục

.

LÀM CHỨNG CHO TÌNH YÊU

Lm. GB. Trần Văn Hào

Một lãnh tụ vô thần đã tuyên bố: “ Chúng ta hãy triệt phá Giáo hội, nhưng đừng tạo ra những vị tử đạo”. Khi tuyên bố như thế, một cách mặc nhiên ông ta công nhận điều mà Thánh giáo phụ Tertulianô đã nói là đúng :“ Máu các Thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu”. Hôm nay, chúng ta mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt Nam. Máu các Ngài đã đổ ra năm xưa, dệt nên những trang sử oai hùng giữa lòng dân tộc. Chúng ta kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ cái chết của các bậc tiền bối cha ông và mở lòng đón nhận sứ điệp về ơn gọi tử đạo mà các Ngài chuyển giao cho con cháu là chúng ta ngày hôm nay.

Lược sử Giáo hội Việt Nam qua dòng thời gian

Hạt giống đức tin đã được gieo vào mảnh đất quê hương Việt Nam từ hơn 500 năm trước. Trong suốt chiều dài lịch sử, Giáo hội Việt Nam đã trải qua hơn 100 năm sống trong bách hại. Sắc dụ cấm đạo đầu tiên được ban hành năm 1625, kéo dài đến hết thời Văn Thân năm 1886. Hàng vạn con người đã ngã xuống do sự thù ghét. Thế gian ghét đạo, ghét Đức Giêsu và ghét luôn những môn đệ của Ngài. Đây chính là điều mà Chúa Giêsu đã cảnh báo từ 2000 năm trước (Mt 5, 11; 10, 22 ). Trong số các anh hùng Tử đạo, đã có 118 vị được ghi tên trong sổ bộ các thánh, gồm 117 hiển thánh và một chân phước. Có 97 vị là người Việt Nam, 11 vị Tây Ban Nha, và 10 vị người Pháp. Họ thuộc đủ các giai tầng xã hội, gồm 8 Giám mục, 50 linh mục, 15 thầy giảng, 1 chủng sinh và 44 giáo dân. Trong số giáo dân, có cả những vị làm quan trong triều đình, có vị làm nghề thu thuế, làm binh lính, y sĩ hoặc chỉ là nông dân quèn. Dù là người Việt Nam hay ngoại quốc, các Thánh Tử đạo đều nói lên một chứng từ duy nhất, đó là các Ngài làm chứng về Đức Giêsu chịu hiến tế, như Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “ Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh vào Thập giá”. Cái chết của các Ngài là bài giảng sống động nhất và thâm thúy nhất. Họ rao giảng không phải trên lý thuyết, nhưng bằng chứng tá cụ thể, những chứng tá sống động và rất sâu xa. Có 6 loại án được thực hiện để hành quyết các vị tử đạo: Bá đao (cắt thân thể thành trăm mảnh) có 1 vị;  Lăng trì (chặt chân tay, mổ bụng và vất xuống sông)  có 4 vị ; Thiêu sinh (đốt sống) có 6 vị;  Xử giảo (xiết cổ bằng dây) có 2 vị ; Xử trảm (chém đầu) có 75 vị và chết rũ tù có 9 vị. Vị Tử đạo lớn tuổi nhất là linh mục Vũ Bá Loan 84 tuổi và trẻ nhất là chủng sinh Tôma Thiện 18 tuổi. Trong thời Trịnh Nguyễn  từ năm 1745 đến năm 1774 có 4 vị. Thời vua Cảnh Thịnh (1788 – 1801 ) có 2 vị. Dưới thời Minh mạng (1820 – 1840) có 58 vị tử đạo. Trong thời Thiệu Trị từ năm 1841 đến 1847 có 3 vị và thời Tự Đức  từ năm 1847 đến 1883 có 50 vị. Đó là phác lược tổng quát các mốc điểm thời gian và bối cảnh dẫn đến cái chết của các Thánh Tử đạo. Nhìn lại một cách thoáng chung lịch sử của Giáo hội Việt Nam, chúng ta tạ ơn Chúa vì gia sản đức tin mà cha ông đã để lại. Gia sản đó được đan dệt bằng máu và nước mắt, đúng như lời quả quyết của thánh Tertulianô: “ Máu các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu.”(sanguis  martyrorum semen christianorum est)

Ý nghĩa của việc tử đạo

Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị có kể lại một giai thoại. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng bỗng có tiếng khóc ai oán vang lên nghe thật não nuột. Đứa bé sợ, ôm chầm lấy mẹ và hỏi: “ Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời thằng bé thế nào. Bà ngồi bật dậy mở Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan, bà đọc thấy đoạn sau: “ Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (Ga 13,1)”. Gấp sách lại, bà nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Chúa Cha và yêu thương đến cùng. Đây là hai chiều kích đặc thù nơi cái chết của Đức Giêsu, vị tử đạo đầu tiên, và cũng được lập lại nơi cái chết của các Thánh tử đạo tại Việt nam. Các Ngài đã chết để trở về nhà Cha và hoàn tất cuộc hành trình yêu thương của mình nơi trần thế. Họ ý thức Lời Chúa dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Nếu được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn, nào có ích gì?” (Mc 8, 35-36)” . Thánh Phaolô Đạm nói trước tòa án Nam Định: “ Nếu tôi có hai linh hồn, tôi sẽ bán một cái cho ma quỷ để cho các ông vui lòng, nhưng tiếc quá tôi chỉ có một linh hồn, nên tôi không thể bỏ mất”.

Nhưng trên hết, hành vi Tử đạo luôn hàm ngậm ý nghĩa của việc làm chứng. Hạn từ Marturion theo nguyên ngữ Hi Lạp cũng mang chở ý nghĩa này. Các Ngài chết để làm chứng, nhưng không phải làm chứng cho một chế độ, một chủ nghĩa, nhưng làm chứng cho một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu, một Thiên Chúa làm người đã can đảm đón nhận cái chết khủng khiếp giống một tên cướp, để khai mở cho chúng ta chân trời ơn cứu độ. Các Thánh Tử đạo đã dùng máu của mình để làm chứng cho Đấng mà các Ngài tin theo.

Sống ơn gọi tử đạo ngày hôm nay.

Trong đại hội tu sĩ trẻ thế giới tổ chức tại Rôma đầu tháng Chín vừa qua. Ban tổ chức đã dành một tiếng đồng hồ để các tu sĩ đặt câu hỏi và Đức Thánh Cha trực tiếp trả lời. Có một anh em tu sĩ dòng DonBosco đến từ Syria đứng lên phát biểu và hỏi Ngài vài điều. Đức Thánh Cha sau khi trả lời đã hỏi ngược lại: “Con từ đâu đến đây ?”. Vị tu sĩ trẻ nói là Ngài đến từ Syria. Đức Thánh Cha mở to đôi mắt nhìn vị linh mục và nói với cử tọa: “Chúng con hãy cầu nguyện cho các vị tử đạo hiện nay tại Iraq và Syria”. Cả hội trường xúc động vì tình hình chiến sự đang xảy ra rất khốc liệt tại Trung Đông, khiến bao nhiêu Kitô hữu bị giết, nhiều gia đình ly tán, các nhà thờ bị đốt phá, cả trăm ngàn người dân vô tội phải trốn tránh hoặc đi tị nạn.

Như vậy, ngày hôm nay vẫn còn các vị tử đạo, những con người bị thù ghét vì lý tưởng và niềm tin của mình. Nhưng hiểu theo nghĩa rộng hơn, sống mầu nhiệm tử đạo không phải là chuyện viễn tưởng xa vời. Đó chính là bản chất ơn gọi gắn liền với căn tính Kitô hữu chúng ta. Chúa Giêsu đã nói “ Ai muốn theo tôi phải bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo tôi”(Mc 8,34).

Hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày nay đã bãi bỏ án tử hình, và cũng tôn trọng tự do tôn giáo, ít nhất là trên lý thuyết. Việc đàn áp tôn giáo với những màn tra tấn, tống ngục hay giết chết đang dần bị con người ngày hôm nay đào thải, vì nó đi ngược với khái niệm về nhân quyền mà xã hội luôn đề cao. Tuy nhiên lời mời gọi của Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy để sống ơn gọi tử đạo vẫn luôn mang tính thời sự cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại, vì nó là thuộc tính nơi cuộc sống của những học trò Đức Giêsu. Ơn gọi Kitô hữu luôn hàm ngậm cái chết. Cái chết trên Thập giá theo gương Đức Giêsu là đích điểm mà tất cả mọi người chúng ta phải vươn tới. Văn hào Goethe đã viết: “ Làm một việc hy sinh to lớn trong khoảnh khắc thì dễ, chỉ cần chút can đảm nhất thời, nhưng thể hiện những hy sinh nho nhỏ và liên tục trong suốt cuộc đời thì khó hơn nhiều”. Đó là cái chết tiệm tiến, từ từ trong cuộc sống đức tin để sao chép lại chính cái chết của Đức Giêsu. Mô thức ơn gọi tử đạo của tất cả chúng ta hôm nay là như thế. Chúng ta phải đi sâu vào cái chết không đổ máu, không  xích xiềng hay tù ngục qua cuộc sống hằng ngày và một cuộc sống như vậy chính là để làm chứng cho tình yêu.

Kết luận

Để kết luận, xin trích mượn tư tưởng của thánh Charles de Faucauld. Ngài nói: “ Ở đời này chúng ta chỉ có thể ôm lấy Chúa Giêsu bằng cách ôm trọn Thập giá của Ngài. Ta không thể yêu mến Thập giá mà lại không có Chúa Giêsu bị đóng đinh nằm ở trên. Đồng thời chúng ta cũng không thể ôm lấy Chúa Giêsu mà lại vắng bóng Thập giá”. Hoa hồng là biểu tượng của tình yêu. Cánh hoa hồng càng rực rỡ càng có nhiều gai nhọn ẩn sâu bên dưới. Cũng vậy tình yêu đến thật nhiều xuyên qua đau khổ. Con đường đau khổ dẫn đến Thập giá, chính là con đường của ơn gọi tử đạo, con đường của tình yêu. Cũng như thánh Têrêsa hài đồng Giêsu đã viết: “Sống bằng tình yêu không phải là định cư mãi với Chúa Giêsu trên đỉnh núi Tabor giữa những vinh quang sáng chói, nhưng là còn phải trèo lên đỉnh Calvê để ôm nhận Thập giá như một kho tàng”. Sống ơn gọi tử đạo là như thế.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Lm. Anthony Trung Thành

Khi mời gọi mọi người đi theo mình, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai muốn theo Thầy thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (x. Mc 8,34). Khi huấn dụ cho các Tông đồ, Đức Giêsu báo cho họ biết trước: “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét…” (x. Mt 10,22). Khi sai các Tông đồ đi rao giảng, Đức Giêsu cũng nói: “Thầy sai các con đi như đàn chiên đi giữa bầy sói”(x. Mt 10,16). Như vậy, bách hại luôn gắn liền với các Kitô hữu, họ phải chịu muôn vàn hình khổ mà người đời có thể nghĩ ra, nhưng qua cái chết của họ nói lên cho thế giới nhiều điều. Đó là ba điểm chúng ta cùng nhau suy niệm trong ngày lễ hôm nay.

1. Bách hại luôn gắn liền với các Kitô hữu

Thật vậy, bách hại luôn gắn liền với đời sống của môn đệ Đức Giêsu và cuộc sống của Giáo hội mà Ngài sáng lập. Lịch sử Giáo hội qua mọi thời đại đã chứng minh cho chúng ta thấy điều đó. Sau cái chết của Đức Giêsu, các môn đệ và vô số những người đi theo Ngài lần lượt bị giết hại. Thánh Stêphanô được xem là vị tử đạo tiên khởi. Rồi đến các thánh Tông đồ. Cứ thế, Giáo hội Rôma bị bách hại liên tiếp suốt 300 năm. Từ đó tới nay, nơi này hay nơi khác, không có thời gian nào mà Giáo hội không bị bách hại. Theo báo cáo của tổ chức “Open Doors”, trong năm 2013, trên thế giới có 2 123 vụ giết chết “tử vì đạo” (Nguồn: Reuters). Riêng tại Việt Nam chúng ta, Giáo hội cũng bị bách hại trong suốt gần 300 năm đầu, từ khi đón nhận Tin mừng. Bách hại khốc liệt nhất là thời kỳ của các vua nhà Nguyễn: Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức. Có khoảng 150 ngàn người chết tử vì đạo. Trong số đó, có 117 vị đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988 và một vị được phong Chân phước đó là thầy giảng Anrê Phú Yên.

Hiện tại, mặc dầu không có sắc chỉ cấm đạo một cách minh nhiên, nhưng Giáo hội Việt Nam vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc giữ đạo, sống đạo và truyền đạo.

2. Những hình khổ các Kitô hữu phải chịu?

Người ta có thể nghĩ ra muôn vàn hình khổ để bắt các vị Tử đạo phải chịu. Cụ thể, các Kitô hữu ở Rôma phải chịu các hình khổ như: Cho thú dữ phanh thây, chà đạp, xé xác, hoặc tẩm dầu đốt cháy như những ngọn đuốc trong đêm tối hay đóng đinh vào thập tự…Còn ở Việt Nam, hình khổ mà các vị Tử đạo phải chịu là: Bá đao : bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng; Lăng trì : chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu; Thiêu sinh : bị thiêu sống; Xử trảm : bị chém đầu; Xử giảo : bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết; Chết rũ tù : bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.

Mặt khác, người kitô hữu phải chịu muôn vàn hình khổ khác do kế hoạch Phân Sáp của Vua Tự Đức vào năm 1851 và 1856. Đây là một kế hoạch rất thâm độc: Thứ nhất, không cho người Công Giáo sống trong làng Công Giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương; thứ hai, một người Công Giáo bị năm người bên lương canh giữ cẩn mật; thứ ba, các làng Công Giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người Công Giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người lương sử dụng và nộp thuế cho nhà nước; thứ tư, không cho người đàn ông Công Giáo ở một nơi với người đàn bà Công Giáo, không cho vợ chồng Công Giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người Công Giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi. Theo các sử liệu ghi chép lại, với kế hoạch Phân Sáp, có khoảng 400 000 kitô hữu phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50 000 – 60 000 tín hữu phải chết nơi phân sáp, 100 làng Công Giáo bị tàn phá bình địa, 2 000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 Linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.

Ngoài ra, phải kể đến những cuộc thảm sát người Kitô hữu do phong trào Văn Thân ở thế ký 19 gây ra: tổng cộng số giáo dân bị giết khoảng 40 000 người, 30 linh mục Việt Nam, 20 thừa sai và hàng ngàn họ đạo bị thiêu hủy. (Nguồn các dự liệu: Internet)

3. Cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên điều gì?

Thứ nhất, cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên niềm tin mãnh liệt của cha ông chúng ta đối với đạo Chúa. Thật vậy, cha ông chúng ta đã được đón nhận đức tin vào Chúa. Đức tin đó đã được đâm rễ sâu vào tâm hồn của các Ngài một cách chắc chắn đến nỗi không có gì có thể tách rời được. Đúng như lời Thánh Phaolô khẳng định: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8,38,39). Bằng chứng cụ thể: Tại công trường Đông Hới, quan tra vấn Cha Khoa nhiều lần, khuyên dụ Cha bỏ đạo, quan còn ra lệnh đánh Cha 76 roi để uy hiếp tinh thần và dùng nhiều mưu kế và khổ hình để lung lạc đức tin của Cha Khoa, nhưng Ngài nhất quyết đi trọn con đường khổ giá, giữ vững đức tin. Các quan đành thua cuộc và quyết định lên án xử giảo cha.

Thứ hai, cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên lòng trung thành với Thiên Chúa: Các Thánh Tử Đạo không chỉ trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc mà còn trung thành với Giáo Hội và nhất là với Thiên Chúa. Thánh Micae Hồ Đình Hy thưa với vua rằng: “Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô”. Thánh Phêrô Quí khẳng định: “Dù trăng trói, gông cùm, tù rạc; chén ngục hình xiềng toả chi nề; miễn vui lòng cam chịu một bề; cho trọn đạo trung thần hiếu tử”.

Thứ ba, cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên đức hy sinh can đảm phi thường: Con người ai mà không tham sống sợ chết, ai mà không sợ đau khổ, nhất là những đau khổ man rợ như: voi dày, thiêu sinh, trảm quyết, lăng trì, bá đao…Vậy mà, nhờ ơn Chúa trợ giúp, các Thánh Tử Đạo đã hy sinh, can đảm lướt thắng tất cả những khổ hình để giữ vững đức tin, giữ vững lập trường : “Thà chết chứ không chịu bỏ đạo, bỏ Chúa”. Thánh Anrê Thông xác quyết : “thà tôi bị lưu đày và chịu chết vì Chúa; Chứ tôi không chối đạo”. Thánh Laurenxô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá : “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh Giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn sàng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”. Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, khẳng định : “Tôi là một kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.

Tóm lại, cái chết của các Thánh Tử Đạo cho chúng ta thấy niềm tin mãnh liệt vào Đạo, lòng trung thành sắt son với Chúa và sự hy sinh can đảm phi thường trước muôn vàn hình khổ của cha ông chúng ta. Vì thế, cái chết của các ngài như những hạt giống tốt được Thiên Chúa gieo vào lòng đất và trổ sinh nhiều bông hạt. Đúng như câu nói bất hủ của giáo phụ Tertulien : “máu các Thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các Kitô hữu”. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã nói : Sỡ dĩ Giáo Hội đã phát triển mạnh là nhờ “thời gian gieo giống của các Đấng tử đạo và gia sản sự thánh thiện của các thế hệ Kitô hữu đầu tiên”. Nói cách khác, chính hành vi làm chứng đạo bằng cái chết của vô vàn tiền nhân đã xây dựng nên Giáo Hội.

Năm 2018, chúng ta sẽ kỷ niệm 30 năm Toà Thánh nâng 117 vị Tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Vậy, “chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những chứng nhân anh dũng, dám sống mầu nhiệm hạt lúa được gieo vào lòng đất, chấp nhận chết đi để mang lại nhiều hoa trái (x. Ga 12,23-25)”. Đồng thời, “kỷ niệm biến cố phong Thánh Tử Đạo là dịp để chúng ta ôn lại đời sống chứng nhân của các ngài, noi gương các ngài, sống tinh thần Phúc Âm trong mọi hoàn cảnh, cộng tác phần mình xây dựng một Giáo Hội vững mạnh và một xã hội công bằng và nhân ái.” (x. Thư chung HĐGM Việt Nam 2017, số 5).

Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM-

 Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Hôm nay Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Lịch sử Giáo hội hoàn vũ là những chuỗi ngày bị bách hại, giữa những bách hại tàn khốc. Giáo hội vẫn luôn lớn mạnh không ngừng, vì “máu của các Thánh tử đạo là hạt giống phát sinh những Kitô hữu”. Lịch sử Giáo hội Việt Nam được viết bằng máu của các thánh tử đạo. Hơn 300 năm phát triển cùng với các cuộc bách hại dưới các thời đại vua Lê Chúa Trịnh, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… Hạt giống Nước Trời cứ phát triển khi được gieo xuống lòng đất. Hơn 130.000 tín hữu đã hy sinh để nói lên lòng trung thành, niềm tin yêu kiên cường đối với Đức Giêsu và Thiên Chúa. Những vị anh hùng tử đạo Việt Nam như hạt lúa gieo vào lòng đất, chết đi, mục nát đi để phát sinh hoa trái làm cho Giáo hội Việt Nam càng ngày càng phát triển và lớn mạnh như lời một linh mục giáo sư đã nói:

“Giáo hội Công giáo ngoài 4 đặc tính duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền còn thêm một đặc tính thứ 5, đó là bị bách hại, càng bị bách hại càng lớn lên. Các bậc tổ tiên đã gieo trong nước mắt và đau thương, nhưng hào hùng và can trường”.

Như thế, chúng ta có thể khẳng định: lịch sử của Giáo hội Việt Nam cũng là lịch sử của những cuộc bách hại. Bắt bớ, bách hại luôn đi liền với ngững kẻ tin nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa, tin nhận Thiên Chúa là Cha, Đấng sáng tạo muôn loài. Các Thánh tử đạo của Giáo hội, 117 vị thánh tử đạo Việt Nam và hàng ngàn hàng vạn vị tiền bối cũng chết vì đạo Chúa. Các ngài đã kiên cường, anh dũng chứng minh niềm tin yêu của mình đối với Đức Giêsu Kitô, bất chấp mọi cực hình, tra tấn dã man, gông cùm, xiềng xích, tù tội, bá đạo, lăng trì hay trảm quyết “Không có gì tách các ngài khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô” (Rm 8, 39).

Lời minh chứng lòng tin yêu về Chúa, được gợi lại trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay: Tin theo Chúa, đi theo Chúa phải trả bằng một giá rất mắc, hy sinh tất cả, hy sinh cả mạng sống mình, là tử đạo. Tử đạo là làm chứng nhân cho Chúa một cách cao đẹp nhất và anh hùng nhất.

Bài đọc I sách Macabê nhắc lại niềm tin trung kiên của người mẹ và 7 người con vào Thiên Chúa: “Thà chết không phạm luật, thà chết không từ khước Thiên Chúa, thà chết không phản bội Thiên Chúa”. Nhà vua cho lý hình hành hạ, hăm dọa, tra tấn tàn nhẫn: cắt lưỡi người anh cả và lột da người anh trước mặt người mẹ và 6 người anh em. Vua nghĩ rằng những hành vi độc ác sẽ làm siêu lòng người mẹ và các em để vi phạm luật, khước từ Thiên Chúa. Nhưng không, người mẹ đã can đảm khuyên các con trung thành với Thiên Chúa: “Chính Đấng tạo hóa sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống… chúng tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi”.

Người mẹ đã tuyên xưng niềm tin một cách tuyệt vời và dũng cảm với những lời khuyên thật thuyết phục như bà đã nói với người con út:

“Con đừng sợ tên đao phủ này, hãy tỏ ra xứng đáng với các anh của con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ”.

Bài đọc 2 trong thơ gởi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy niềm tin trung kiên vào Đức Giêsu Kitô. Với niềm tin vào Đức Kitô, Phaolô bất chấp mọi gian khổ, gươm giáo, tù đầy, miễn là Đức Giêsu Kitô được rao giảng. Ngài đã xác quyết:

“Không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8, 31-39).

Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra những điều kiện cho những người muốn đi theo Chúa. Đi theu Chúa thì phải chấp nhận vác thập giá, từ bỏ mình và phải hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh em.

“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Đi theo Chúa Giêsu là chấp nhận bị bách hại, bị tra tấn, bị sỉ nhục, bị tù đầy và bị giết chết như Đức Giêsu Kitô, như người mẹ và 7 người con trong sách Macabê, như Phaolô, như các Thánh tử đạo Việt Nam mà Giáo hội mừng kính và tôn vinh hôm nay.

Cuộc đời Kitô hữu là cuộc hành trình làm chứng nhân cho Đức Kitô, là tử đạo. Nói cách khác, cuộc đời hôm nay đặt chúng ta trước nhiều sự chọn lựa: Đức Kitô, thế gian, danh vọng, địa vị, của cải vật chất… chọn lựa là từ bỏ. Để sống đúng địa vị con Chúa, chúng ta phải từ bỏ những gì là bất chính. Để chu toàn luật Chúa, chúng ta phải từ bỏ những thú vui trần gian, hưởng thụ xác thịt không lành mạnh. Để sống yêu thương bác ái, chúng ta phải biết hy sinh phục vụ mọi người. Để chọn Đức Kitô, chúng ta phải vác thập giá, từ bỏ mình. Nói cụ thể, bước đi theo Đức Giêsu Kitô là chúng ta phải luôn can đảm nói  với Thiên Chúa và nói không với ma quỷ, tội lỗi, thế gian.

Để chọn lựa như thế, cần có ơn khôn ngoan, có ơn Chúa, có sức mạnh của Chúa trợ giúp, chúng ta mới là môn đệ chân chính của Chúa và xứng đáng là con, cháu các thánh anh hunhg tử đạo Việt Nam. Chính sự lựa chọn đó đưa chúng ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến,

Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng mừng kính các anh hùng tử đạo tại Việt Nam của chúng ta. Trong  bầu khí linh thiêng và cảm động này  tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài tâm tình của tôi.

  1. Tâm tình thứ nhất là tâm tình tự hào.

Các thánh Tử đạo Việt Nam của chúng ta làm cho chúng ta tự hào.

Chúng ta phải tự hào vì chúng ta đã có được những vị tổ tiên anh hùng thật xứng đáng. Các Ngài đã được sinh ra, đã làm việc, đã cùng sống với những người Việt Nam  chúng ta ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu này. Các ngài đã sống như biết bao nhiêu những con nguời khác đã sống, nhưng các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người khác ở chỗ các ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, không để cho mình bị khuất phục. Tiền bạc không làm cho các ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã qụy, và cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các ngài.

Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau:

  – Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xíếng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.

  – Nặng hơn một chút thì bị voi dầy, bị trói ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.

  – Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) và thiêu sống.

  – Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)

Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:

“Họ cột chân tay ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông – rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17giờ.

Cha chết rồi, lính chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi….đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày, rồi lấy xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rồi vất tất cả xuống biển cho mất tích”

Vâng, kính thưa anh chị em.

Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng thành của các ngài còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùntg tử đạo Việt Nam ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: “Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội Chúa Kitô”.

  1. Tâm tình thứ hai là lòng biết ơn.

Việc mừng lễ hôm nay làm tôi nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu: “Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ ” (Ga 4,36-37).

Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo Hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lởi rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: “Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác”

Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các ngài vì chính nhớ các ngài mà hạt giống Đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta.

  1. Tâm tình  thứ 3 là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.

Châm ngôn Việt Nam có câu rất hay: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”

Phải sống xứng đáng để những thệ mai sau khi nhìn vào thế hệ này, họ cũng phải cảm thấy tự hào.

Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình, nhà bác học nổi danh nhất của thể kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau: “Các cháu nên nhờ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học ở trường hôm nay là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta tạo ra chung với nhau”

Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quí giá do cha ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.

Nhưng truyền lại bằng cách nào ?

– Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.

Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói: “Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới Thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau”

a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chuớc đó là phải trung thành với niềm tin.

Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta.

Hãy bảo vệ lấy, đùng để cho nó bị hao mòn đi.

Phaolô Mợi bị bắt, bị giải đến quan.

Quan dụ:

– Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.

Phaolô không trả lời.

Quan lại hỏi:

– Vậy một nén vàng!

– Bẩm quan chưa đủ.

– Vậy anh muốn bao nhiêu?

– Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để  mua được một linh hồn  khác.

Nguuyễn văn Lựu: “Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được.”

b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.

Trong một bài diễn văn đọc cho binh lính trước khi họ lâm trận, Hitler đã nói: “Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ”

Victor Hugo: “Đồi Calvario ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó”

Chúa Giêsu: “Nước Trới phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy”(Mt 11,12)

Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng.

Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát.

Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.

Phải xử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.

Lời cuối cùng của tôi. Tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô:    “Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” Và Ngài kết luận: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, hiên thần hay ma vương qủy lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta.”(Rm 8,35-39). Amen.

Về mục lục

.

TÔN VINH NHỮNG CON NGƯỜI TỪ CHỐI BƯỚC QUA THẬP GIÁ

 Lm. Jos Đỗ Đức Trí 

Sách Macabe có kể câu chuyện: Khi ấy, người Hy Lạp đô hộ đất Israel. Họ đem theo tập tục văn hóa và bắt buộc người Do Thái phải tuân theo các thói quen của người Hy Lạp. Chúng bắt người Do Thái phải ăn thịt cúng cho các thần linh, không được cắt bì cho con trẻ, phải tham dự vào các trò chơi vô luân của người Hy Lạp, bắt người Do Thái phải cúng bái các thần linh Hy Lạp. Trước sự ép buộc nhưng cũng là cơn cám dỗ ngọt ngào hấp dẫn đó, nhiều người Do Thái đã sẵn sàng từ bỏ luật Môsê và các tập tục tiền nhân để hòa vào lối sống của người Hy Lạp. Những ai công khai từ chối niềm tin của cha ông sẽ được nhà vua trọng thưởng. Hôm đó, khi dân chúng bị bắt phải ra quảng trường để công khai tế thần, có một người từ trong đám đông hiên ngang bước ra cúng bái thần linh dân ngoại trước quan lính và đám đông. Nhiều người khác vỗ tay cổ vũ cho tên chối đạo này. Lúc đó, ông Giuđa Macabê cũng có mặt trong đám đông, không thể chịu nổi sự nhục nhã này, ông đã xông ra vung gươm giết chết tên phản đạo đó. Ông tuyên bố với mọi người: Ai trong các ngươi còn trung thành với Thiên Chúa và lề luật thì theo tôi. Trước sự can đảm đó, nhiều người đã theo ông trốn lên núi và lập thành một đội quân khởi nghĩa chống lại người Hy Lạp.
Thưa các bạn, từ xưa đến nay, những người tin vào danh Thiên Chúa ở khắp nơi luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn cấm cách. Có nhiều người đã đầu hàng trước khó khăn vì những lời hứa hẹn bổng lộc của thế gian, nhưng cũng có nhiều người đã mạnh dạn từ chối những cám dỗ mời chào đó, vì trung thành với chọn lựa đức tin của mình.
Ngay từ những ngày đầu thế kỷ XVII khi Tin Mừng được gieo vào mảnh đất Việt Nam, hạt giống này như gặp được mảnh đất tốt nơi tâm hồn cha ông tổ tiên chúng ta và đã nhanh chóng nảy mầm và sinh hoa kết trái. Tuy nhiên cũng liền sau đó, cánh đồng lúa đức tin của Việt Nam còn non trẻ, đã bị những cơn bão bách hại vùi dập suốt ba trăm năm. Trong suốt thời kỳ này, đã có hằng trăm ngàn tín hữu vì trung thành với Chúa và Tin Mừng đã chấp nhận sự nhục mạ, roi đòn, tù đầy, chết chóc. Trong số họ có đủ mọi thành phần, mọi lứa tuổi, từ quan chức đến binh lính, từ dân thường đến quý tộc, từ người giàu đến người nghèo, người bình dân, từ linh mục tu sĩ đến giáo dân, từ người già đến trẻ nhỏ. Các Ngài đã dám từ chối cuộc sống dễ dãi, những lời hứa hẹn giàu sang bổng lộc để chọn trung thành với Chúa Kitô. Trong số hàng trăm ngàn người phải chết vì niềm tin, Giáo Hội đã tôn phong 118 vị tiêu biểu nhất như là gương mẫu cho chúng ta.
Khi nói đến các vị tử đạo, chúng ta thường liên tưởng đến những cực hình các ngài phải chịu và ca tụng sự can đảm của các ngài. Điều đáng khâm phục hơn đó là cuộc chiến đấu của các ngài với bản thân để chọn lựa giữa sự sống và cái chết, giữa đau khổ cực hình và sự sung sướng, giữa dễ dãi và khó khăn. Đọc lại tiểu sử các thánh, có những vị là quan chức trong triều đình, có người làm hương chức trong làng, là chánh tổng của một tỉnh. Chắc chắn các ngài thuộc gia đình danh giá giàu có, nhưng lại chọn giúp các cha thừa sai cũng như giúp các tín hữu khác, dù biết làm như thế là nguy hiểm đến công danh và tính mạng. Có những vị thánh là cha con trong gia đình như cụ Án Khảm, Chánh tổng Phạm Trọng Tả và con là Cai tổng Phạm Trọng Thìn. Gia đình này có nền tảng đời sống đạo đức, họ từ chối bước qua thánh giá, từ chối tất cả những lời hứa hẹn của vua quan, để phải chịu án tử. Có những người là người mẹ trong gia đình như Thánh Annê Thành đã chu toàn việc nuôi dạy con cái khôn lớn theo đạo lý của Chúa và còn làm gương sáng cho con trong việc trung thành với đức tin, chấp nhận roi đòn cực hình vì Chúa Giêsu. Có vị là linh mục như cha Giuse Đặng Đình Viên, khi bị truy đuổi, Ngài đã trốn thoát vào vườn mía. Khi nghe thấy những tên lính tra khảo một em bé, ngài đã sẵn sàng ra khỏi chỗ ẩn nấp để xin quan lính tha cho đứa bé. Khi bị điệu ra trước mặt vua quan, các ngài đã khẳng định một điều, các ngài không hề cộng tác với giặc, không phản bội tổ quốc, nhưng chỉ vì một lòng mến Chúa và từ chối bước qua thập giá dù có phải chết. Có những vị như Thánh Y đã dõng dạc tuyên bố trước mặt vua quan: Cả một đời tôi rao giảng về đạo thập giá, tôi không thể nào bước qua thập giá hay từ chối Chúa tôi được.
Tin Chúa, theo Chúa là chấp nhận từ bỏ những gì không phù hợp, những gì cản lối chúng ta bước theo Chúa, cho dù đó là tình máu mủ ruột thịt, tiền bạc, địa vị của cải; khi phải chọn lựa giữa sống và chết vì Tin Mừng thì cũng dám chấp nhận. Đó cũng là đòi hỏi Chúa Giêsu đã công bố: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống. Người nào được lời lãi cả thế gian mà đánh mất chính mình và phải thiệt thân thì nào có ích lợi gì. Ai xấu hổ vì tôi và Tin Mừng thì Con Người cũng xấu hổ vì kẻ ấy. 
Đây là đòi hỏi quyết liệt và dứt khoát mà Chúa muốn những người theo Chúa phải chấp nhận. Trải qua dòng thời gian, đã có hàng hàng lớp lớp những con người nhận ra giá trị cao quý của lời mời gọi này. Họ đã đáp lại bằng cả cuộc đời và đánh đổi bằng mạng sống mình để đạt được Nước Trời và giữ được mạng sống cho cuộc sống đời đời. Tổ tiên chúng ta, các anh hùng tử đạo Việt Nam, mặc dù mới biết Chúa tin Chúa, nhưng cũng đã dám từ bỏ tất cả vinh quang lợi lộc trần thế, vác thập giá đời mình bước theo Chúa Giêsu. Các ngài đã dám đánh đổi cả gia đình, sự nghiệp, hạnh phúc ở đời này và mạng sống để mong đạt được hạnh phúc đời đời. Sự can đảm và cái chết anh dũng của các ngài là một lời tuyên xưng mạnh mẽ vào Chúa Giêsu và thập giá của Ngài, là tấm gương cho các thế hệ con cháu và cũng là tấm gương đánh động tâm hồn những người dân ngoại.
Từ chối bước qua thánh giá, từ chối những lời mời gọi hứa hẹn hấp dẫn, từ chối địa vị danh vọng… đó là tấm gương cha ông, các vị tử đạo Việt Nam, đã để lại cho chúng ta. Ngày nay, chúng ta không bị ép bước qua thánh giá, nhưng nhiều người đã nhắm mắt tự nguyện để đạp lên Tin Mừng và lề luật của Chúa. Những người này bỏ ngoài tai những lời nhắc nhở của Chúa và Tin Mừng, họ sống mà không dám thể hiện mình là người Kitô hữu. Nhiều tín hữa đã không dám từ chối những cám dỗ, mời chào và sự hứa hẹn của thế gian; họ nhắm mắt chạy theo danh lợi, địa vị; họ gạt Chúa và Tin Mừng qua một bên.
Các bậc cha mẹ và bạn trẻ thân mến, ngày xưa, các vị tử đạo đã đổ máu ra để tuyên xưng niềm tin; ngày nay, chúng ta chưa phải đổ máu, nhưng chúng ta phải đổ mồ hôi, đổ nước mắt để sống niềm tin của mình. Giữa một xã hội gian dối, chúng ta được mời gọi để sống ngay thẳng theo công lý và sự thật. Trong xã hội vô cảm dửng dưng này, chúng ta được mời gọi biết chạnh thương và cảm thông, biết mở rộng tay để chia sẻ, biết bước đến để giúp đỡ và phục vụ.
Thay vì tử vì đạo, chúng ta bước vào cuộc “sống vì đạo”. Chúng ta bắt đầu từ nơi gia đình, mỗi thành viên hãy biết từ chối những gì có nguy cơ làm tổn thương và rạn nứt trong gia đình, từ chối những cách làm ăn gian dối, những lối sống bất công. Các thành viên cần gỡ bỏ khoảng cách để bước đến với nhau, làm hòa với nhau và tha thứ cho nhau. Cũng vậy, trong giáo xứ, mỗi người cũng cần biết tôn trọng quyền lợi của người bên cạnh, của xóm giềng, bỏ qua những tự ái và chịu một chút thiệt thòi, để xây dựng đời sống cộng đoàn thêm hiệp thông, hòa thuận yêu thương.
Xin các thánh Tử đạo Việt Nam phù hộ chúng ta là con cháu biết sống vì đạo, sống vì Tin Mừng, vác thập giá theo Chúa trong hoàn cảnh xã hội dễ dãi ngày nay.  Amen.

Về mục lục

.

KIÊN QUYẾT KHÔNG BỎ ĐẠO YÊU THƯƠNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Mấy thế kỷ trước đây, trong thời gian các tín hữu Công giáo Việt Nam bị bách hại khốc liệt, nhà cầm quyền khuyến dụ các tín hữu bước qua thập giá như một dấu chỉ từ bỏ đạo Chúa. Tín hữu nào theo lệnh vua quan dẫm đạp lên thập giá được xem như là người công khai bỏ đạo.

Ngày nay, các ki-tô hữu không còn bị thúc ép dẫm lên thập tự giá như các tín hữu ngày xưa, nhưng vẫn còn nhiều áp lực thúc đẩy họ chà đạp lên tình người, mà ai chà đạp lên tình người thì kẻ ấy đã thực sự chối bỏ Đạo yêu thương của Chúa Giê-su. 

Đạo Chúa là Đạo yêu thương

Đạo Chúa được gọi là Đạo yêu thương vì 2 lý do chính:

  1. Đạo Thiên Chúa được gọi là Đạo yêu thương vì cốt tủy của Đạo là giới luật yêu thương và mục tiêu của Đạo là xây dựng đời sống yêu thương huynh đệ trên khắp thế giới.

Khi có vị luật sĩ hỏi Chúa Giê-su, trong các điều răn, điều nào trọng nhất trong đạo, Chúa đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” (Mat-thêu 22, 37-40)

Thánh Phao-lô nhắc lại giáo lý nầy cho các tín hữu Rô-ma: “Các điều răn… đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… Ai yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rô-ma 13,9-10).

Tuyên ngôn yêu thương nầy đã được Chúa Giê-su nâng lên một tầm cao hơn khi Ngài truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau cách sâu đậm như Ngài đã yêu thương chúng ta: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Gioan 13, 34). 

  1. Đạo Chúa là Đạo yêu thương vì chỉ có những ai yêu thương nhau mới được xem là tín đồ chính danh của Đạo.

Muốn ghi tên gia nhập vào một tổ chức, một đoàn thể hay một đảng phái nào đó, ứng viên phải chấp nhận một số nội quy của tổ chức đó.

Cũng thế, khi muốn gia nhập vào Đạo yêu thương để trở thành môn đệ Chúa Giê-su, thì điều kiện đầu tiên phải có là lòng yêu mến tha nhân, như lời Chúa Giê-su dạy: “Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Gioan 13, 35).

Như thế, không phải hễ đã có tên trong sổ rửa tội, có tham gia sinh hoạt tôn giáo là có thể xưng mình là môn đệ Chúa Giê-su nhưng là phải thật sự yêu mến tha nhân quanh mình. 

Ai ghét bỏ tha nhân là từ bỏ Đạo yêu thương của Chúa

Vì Đạo Chúa là Đạo yêu thương nên ai ghét bỏ người khác, kẻ ấy không còn là môn đệ của Chúa Giê-su nữa, như lời Chúa dạy: “Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Gioan 13, 35).

Như thế, khi ghét bỏ người khác, ki-tô hữu tự loại mình ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa.

Ngoài ra, những ai không có lòng yêu mến người khác thì trong ngày phán xét, sẽ bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa, như lời Chúa dạy trong dụ ngôn phán xét cuối cùng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25, 34. 41).

Những tên đao phủ ngày nay

Ngày nay không còn những viên quan ngồi xử án, truyền lệnh cho ta phải bước qua thập tự giá hay những tên đao phủ vung đao chém đầu những người ki-tô hữu giữ vững niềm tin nữa, nhưng có một quyền lực lớn đang ngự trị trong lòng mỗi người, đó là lòng tham lam, là ích kỷ, là oán thù… Những quyền lực này thường xô đẩy các ki-tô hữu chà đạp lên tình người, chối bỏ Đạo tình thương, làm hoen ố khuôn mặt của Hội thánh Chúa.

Biết vạch mặt những tên lý hình này và truất phế chúng, không để cho chúng thống trị tâm hồn và xui khiến ta chối bỏ Đạo tình thương là điều rất cần thiết để làm người ki-tô hữu và được sống đời đời.

Lạy Chúa Giê-su,

Các thánh tử đạo Việt Nam đã anh dũng bước theo Chúa và kiên trì giữ đạo Chúa đến cùng. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương, xẻ thịt… các ngài vẫn không hề nao núng. Nhờ đó, các ngài được lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Xin cho chúng con hôm nay biết noi gương các ngài, kiên quyết xoá bỏ tham lam, ích kỷ, hận thù ghen ghét… để sống chan hòa với mọi người trong tình huynh đệ, để giữ vững Đạo tình thương. Nhờ đó, chúng con sẽ được chung phần vinh phúc với các thánh tử đạo trên thiên quốc.

Về mục lục

.

TÍNH SỔ

Lm Trịnh Ngọc Danh

Bắt đầu dụ ngôn những nén bạc, Đức Giêsu nói: “ Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến mà giao phó của cải của mình cho họ. Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi.” Và “ sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến và thanh toán sổ sách với họ.”Trong thời gian ông chủ đi vắng, các đầy tớ đã làm gì với số nén bạc được giao?

Ông chủ ấy là Đấng Tạo Hóa. Ngài ban cho con người những nén bạc về đời sống, trí tuệ, tài năng khác nhau…Hơn ai hết, ông biết rõ khả năng của từng người đầy tớ của mình; vì thế, khi giao của cải cho các đầy tớ, ông đã không giao đồng đều cho mỗi người, nhưng giao tùy khả năng của từng người. Điều quan trọng đối với ông là sự nổ lực của mỗi người tùy theo khả năng của mình.

Những nén bạc mà Thiên Chúa giao cho nhân loạilà Tin Mừng Cứu Độ, là lòng thương xót vô biên, là lòng tha thứ bao dung của Thiên Chúa với con người, là những ân huệ Ngài đã ban cho mỗi người trong cuộc sống, là những năm tháng của cuộc đời mỗi người. Tất cả chúng ta không ai hoàn toàn đồng đều với nhau về mọi mặt. Thiên Chúa trao cho những nén bạc khác nhau tùy theo khả năng riêng của mỗi người. Chính nhờ lòng nhiệt tình đáp lại những gì Thiên Chúa đòi hỏi bằng lòng tin yêu Ngài mà những đầy tớ đã được Thiên Chúa khen là đầy tớ tài giỏi và trung thành.

117 vị thánh tử đạo Việt Nam, không phải là những bậc tài trí xuất chúng, cũng không phải là những người giàu sang phú quý, nhưng đều là những người bình thường trong xã hội, là những công dân tận tụy với chức vụ, trung thành với tổ quốc và nhân dân, nhưng đã phải chịu tử hình vì không chối bỏ đức tin: Thánh Phaolô Tống Viết Bường, chức Thị vệ, đã chịu trảm quyết ngay trước cổng nhà người con gái ngài, vào ngày 23/10/1883 tại Huế, triều vua Minh Mạng.Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, Câu phủ họ Đầu Nước, tỉnh Anh Giang, đã bị bắt và hy sinh vì Chúa tại Châu Đốc, ngày 31/7/1859. Thánh Anê Lê Thị Thành, một bà mẹ công giáo gương mẫu; vì sốt sắng giúp đỡ các linh mục trong buổi cấm đạo, nên đã bị bắt và chịu nhiều cực hình nên kiệt sức và chết rũ tù ngày 12/7/1841 v.v…Rồi có những giáo xứ ở Quảng Trị, bị lính lùa vào nhà thờ rồi chất rơm chung quanh đốt cháy tất cả.  Các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Phanrang bị vứt xuống giếng và lấp đất chôn sống… Những nén bạc đức tin và lòng yêu mến Thiên Chúa nơi các ngài đã sinh lời được năm hay hai nén khác. Đúng như lời Đức Giêsu nói: “ Phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.”

Thời gian ông chủ đi vắng cũng là lúc chúng ta sống cuộc sống của mình ở thế gian này. Đó là nén bạc thời gian của sự sống. Sau một thời gian lâu dài, lúc trở về, ông cho gọi các đầy tớ đến để kết toán sổ sáchcũng là lúc chúng ta lìa cõi thế này để về với Chúa. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Thêxalônica đã kêu gọi phải tỉnh thức canh phòng để chờ ngày Chúa đến lần thứ hai. Thức tỉnh canh phòng là phải làm hết sức mình để thưc hiện những chỉ thị của Chúa: “Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.”( 1 Tx 5:5-6)

Cuộc sống của mỗi người là một quà tặng của Thiên Chúa ban. Chúng ta sinh lợi được bao nhiêu từ những nén bạc cuộc đời của chúng ta để làm quà tặng cho Thiên Chúa hay lại đem chôn giấu đi! Được khen là “ đầy tớ tài giỏi và trung thành” hay bị nguyền rủa là “đầy tớ tội tệ và biếng nhác” là tùy thuộc vào những nổ lực sinh lời từ những nén bạc Tin Mừng Cứu Độ, lòng thương xót bao dung của Thiên Chúa và những ân huệ Ngài ban bằng đức tin, lòng mến và phục vụ Thiên Chúa và con người.

Về mục lục

.

TÍNH SỔ NƯỚC TRỜI

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXXIII/TN-A – Mt 25, 14-30) trình thuật dụ ngôn “Những yến bạc”. Dụ ngôn kể câu chuyện ông chủ cấp vốn làm ăn cho những đầy tớ. Vì đã biết rõ khả năng từng người, nên “Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người.”  Điều này cho thấy ông chủ không hề bắt ép một ai phải làm việc quá sức của mình. Đến khi ông chủ tính sổ thì kết quả làm ăn của mỗi người mỗi khác (“người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.” – Mt 25, 16-18).

Duy chỉ có tên đầy tớ thứ ba thì đã không chịu làm ăn mà còn đem chôn giấu số bạc; để rồi khi tính sổ thì nói thẳng vào mặt chủ: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” Điều đó cho thấy ngay từ trong tư tưởng, tên đầy tớ thứ ba đã không tin tưởng vào ông chủ, không những đã lười biếng không chịu làm ăn, mà còn bày tỏ thái độ chống đối lại bằng lời lẽ hỗn xược. Nếu chẳng vậy, ông chủ đã không nặng lời gọi hắn là “đầy tớ tồi tệ và biếng nhác!” Bị án phạt “quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” là điều tất nhiên. Vậy là lại thêm một bằng chứng cụ thể đặt ra cho người tín hữu, đó là vấn đề căn cơ, nền tảng của Ki-tô Giáo: Đức Tin. Nói đến đức tin là phải nói đến mối liên hệ giữa tư tưởng với lời nói (“Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ.” – Rm 10, 10), đồng thời còn phải làm sao cho lời nói đi đôi với việc làm, bởi “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 17).

Chúa nhật hôm nay cũng là lễ kính trọng thể các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam. Hơn ai hết, các ngài đã hiểu rất rõ ràng các ngài hiện diện trên trái đất này chính là một đặc sủng, một quà tặng tuyệt đối vô song Thiên Chúa đã ban tặng, và khi đón nhận ơn gọi Ki-tô hữu chính là lúc các ngài được Người cấp vốn làm ăn. Người có thể gọi các ngài về bất cứ lúc nào để tính sổ coi các ngài đã sử dụng số vốn được trao ấy ra sao. Hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, các Thánh Tử Vì Đạo đã tuyệt đối tin tưởng, sống và hành động hết mình cho lý tưởng mình đã khám phá được với một ý chí sắt đá, dù cho còng trói tay, gươm kề cổ cũng không chùn bước, cuối cùng đã hy sinh cả mạng sống; đó là phẩm hạnh tuyệt hảo của các ngài. Và hôm nay chính là kỷ niệm ngày các ngài  được chính thức “hưởng niềm vui của Chủ” nơi cõi phúc trường sinh.

Quả thực, “Một số Ki-tô hữu ngay từ thời sơ khai đã được gọi và sẽ còn được gọi mãi để làm chứng tình yêu ấy cách hùng hồn trước mặt mọi người, nhất là trước mặt những kẻ bách hại mình. Khi tử vì đạo, người môn đệ đồng hóa với Thầy mình, Ðấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu độ thế giới, và người môn đệ nên giống Người trong việc đổ máu; Giáo hội coi việc tử vì đạo đó như một ân huệ lớn lao và một bằng chứng cao cả về đức ái.” (Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 42). “Đạo“ là con đường, chính con đường Thập Giá (Đạo Thập Giá) là món quà vô giá Thiên Chúa đã ban cho nhân loại, mà các Thánh Tử Vì Đạo đã sống để được nên “đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su Ki-tô”. Chính Thánh Tử Vì Đạo VN Tê-ô-pha-nô Ven đã nói với bọn quan quyền bách hại Đạo Chúa về món quà vô giá (Đạo Thập Giá) đó: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về Đạo Thập Giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hoá đến độ tôi phải bỏ Đạo mà mua?”  (Điệp ca Ca vịnh 3, Kinh Chiều II, Lễ kính CTTĐ/VN). Sự sống đời này dù quý hoá tới đâu cũng không thể so sánh với quà tặng Đạo Thập Giá được, đó là điều hiển nhiên.

Càng suy niệm, càng thấy lời dậy của Thánh Phê-rô là xác thực: “Anh em thân mến, anh em đang bị lửa thử thách: đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em. Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ. Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em.” (1Pr 4, 12-14). Các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã “thật có phúc”, vì “cùng được vui mừng hoan hỷ” khi “vinh quang của Đức Ki-tô tỏ hiện”. Đó là quà tặng vô giá mà chỉ những người “thật có phúc” mới biết trân trọng chu toàn ý muốn của Người Chủ đã trao tặng. Vì thế, chỉ trong ba thế kỷ (từ thế kỷ XVI tới XIX) đã có trên 130.000 Ki-tô hữu VN vui mừng đón nhận quà tặng (là cây Thập-Tự-Kitô-hữu), kiên cường vác cây thập-giá-đời-mình mà theo Đức Ki-tô, để rồi anh dũng đổ máu ra nhuộm thắm cây Hồng-Thập-Tự. Và trong số ấy, Giáo hội đã tuyên phong 117 vị lên bậc hiển thánh.

Suy niệm bài Tin Mừng thì thấy mọi sự đã rõ ràng: Các Thánh Tử Vì Đạo được cấp vốn, các ngài đã làm ăn sinh lợi đúng như ý muốn của Ông Chủ. Tuy nhiên, khi coi lại bài đọc 1 (Cn 31, 10-13.19-20.30-31), tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Vấn đề chủ yếu trong Thánh lễ CN XXXIII/TN-A (mừng kính các Thánh Tử Vì Đạo VN) thì có liên quan gì tới “Người Vợ Đảm Đang”? Ngay từ Cựu Ước, đã nhiều lần Hội Thánh được mô tả như một phụ nữ hay trinh nữ (2Sm 1, 24; 1V 1, 2-4; Is 16, 1; Is 61, 4-5; Is 62, 11; Dc 2, 14; Hs 2, 12; Xp 3, 14…); sang đến Tân Ước cũng vậy (Mt 21, 5; Mt 25, 1-7; Ga 12, 15; 2 Cr 11, 2; Gl 3, 27…); không những thế, chính Đức Giê-su Thiên Chúa cũng coi Giáo hội là hiền thê của Người. Vì thế, qua bài đọc 1 (trích sách Châm ngôn), Phụng vụ muốn nói với tất cả Giáo hội: hãy cố gắng trở thành người vợ đảm đang, tức là nhiệt tình thi hành tốt sứ mệnh của mình. Nói cách khác, bài sách Châm ngôn muốn nhắc nhở trước hết với những ai có trách nhiệm lãnh đạo từ Giáo hội toàn cầu đến Giáo hội địa phương (Giáo phận, Giáo xứ): Họ phải tỏ ra đảm đang (như người vợ trong gia đình) để cộng đoàn Dân Chúa được hoàn hảo.

Ngoài ra, nếu coi các Thánh Tử Vì Đạo đã kinh doanh với số vốn do Thiên Chúa cấp được lời lãi như vậy, thì cũng chẳng khác gì các ngài là hạt giống tốt được Người Gieo Giống đem gieo và đã trổ sinh “hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục.” (Mt 13, 9). Nói cách khác, máu của các Thánh Tử Vì Đạo là hạt giống trổ sinh Giáo hội, nhờ đó, “Giáo hội trong mỗi khúc quanh của lịch sử vẫn bén rễ sâu qua lời chứng của các vị tử vì đạo.” (Tông sắc Mầu nhiệm Nhập thể “Incarnationis Mysterium”, số 13). Và vì thế, “Ðối với các tông đồ và những vị tử vì đạo của Chúa Ki-tô, là những chứng nhân cao cả đã đổ máu vì đức tin và đức ái, Giáo hội luôn tin rằng, các ngài liên kết với chúng ta khắng khít hơn trong Chúa Ki-tô: với lòng yêu mến đặc biệt, Giáo hội tôn kính các ngài cùng Ðức Trinh Nữ Maria và các Thánh Thiên Thần, và sốt sắng nài xin các ngài trợ giúp và cầu bầu cho.” (Hiến chế “Lumen Gentium”, số 50).

Mừng lễ các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam, người Ki-tô hữu phải để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài, tức là phải noi gương các ngài trong đời sống xã hội phục vụ anh em đồng bào. Nói cách cụ thể, thì người có đức tin phải luôn duy trì và phát triển động lực thúc đẩy (tức là Thần Khí Ðức Ki-tô ở trong bản thân mình) để sống đời sống chứng tá ngay trong môi trường xã hội nơi mình cư ngụ. Để được như vậy, cần phải mang sự chết của Người trong thân xác, là biết chết cho bản thân và các khuynh hướng vị kỷ. Chỉ có như vậy mới đi vào được đường lối của các Thánh Tử vì Đạo và theo các ngài cho đến tận cùng hành trình thực thi sứ vụ làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ. Ấy cũng bởi vì muốn nên giống các ngài hoàn toàn (để được đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô), thì không những phải biết sống như các ngài mà còn phải biết chết như các ngài. Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Chúa và trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam).

Về mục lục

.

TẤT CẢ CHO THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Sống trên đời, ai cũng muốn cho mình được thành công, may mắn và trở nên hữu ích cho đời, cho bản thân, cho người khác. Đối với Kitô hữu sống bình thường, sống để làm giầu, sống bon chen và tất bật suốt ngày để mong có nhiều lợi nhuận.Đó là mối nguy hiểm cho một con người bất toàn bởi vì người yêu mến Chúa chỉ cần một việc hoàn toàn cho Chúa cũng là một mùa bội thu.

Vâng, những bài đọc của những ngày Chúa Nhật cuối năm phụng vụ đều hướng chúng ta về ngày cánh chung. Do đó, các bài đọc, đặc biệt bài Tin Mừng luôn cảnh tỉnh chúng ta về ngày tận cùng của nhân loại, của con người. Tin mừng đưa ra những dụ ngôn như Nước Trời là viên ngọc quý, là bữa tiệc, là mẻ cá, là mười cô trinh nữ, là người quản lý bất lương vv…Tất cả những dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra nhằm đánh thức con người, thức tỉnh con người: ” Hãy sẵn sàng và tỉnh thức “. Con người không biết lúc nào mình chết, nên thái độ con người phải có là khôn ngoan, tỉnh thức và sẵn sàng ra đi khi Chúa mời gọi. Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hình ảnh ba con người. Tất cả ba người này đều được Chúa trao cho vốn liếng tùy theo khả năng của mình. Chúa mời gọi họ hãy chăm chỉ làm việc, làm lợi cho bản thân và đặc biệt cho Chúa. Bổn phận, trách nhiệm và quyền lợi của con người là phải siêng năng, cần mẫn, tận tụy làm lời số vốn được ông chủ trao phó. Con người không được làm biếng, ngồi im một chỗ, bất động không chịu làm lời. Hành động im lìm, bất động và thái độ lười biếng sẽ bị ông chủ nghĩa là Chúa chê trách:” Đầy tớ vô dụng “ và sẽ bị lấy hết những gì người này đang có, đang thụ đắc vv…Sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay là những đầy tớ trung tín, biết chịu khó làm lời những gì Chúa trao sẽ được Ngài trọng thưởng, ban cho nhiều hơn và trao phó thêm những trách nhiệm cao quý khác. Ngược lại, đầy tớ biếng nhác, phán đoán, phân định theo ý của mình sẽ bị lấy đi tất cả và bị quăng vào nơi tối tăm khóc lóc. Sự tương phản ấy cho thấy sự công bằng của Thiên Chúa, sự khôn ngoan của Ngài và Lòng Thương Xót của Ngài đối với những ai biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong đời sống của mình.

Đầy tớ nào biết quãng đại, trung tín với chủ sẽ luôn quy hướng con người của mình, hành động của mình, những gì chủ trao cho mình về ông chủ, ngoan ngoãn làm theo ý ông chủ bởi biết rằng ông chủ yêu thương mình, không bao giờ chất gánh nặng trên đôi vai của mình, trái lại đầy tớ vô dụng chỉ biết quy hướng về mình, ích kỷ, ghen tương nên nghĩ sai, phán đoán sai ông chủ nên đã không làm theo ý của ông chủ.

Là môn đệ của Chúa, Chúa trao cho chúng ta những nén bạc nghĩa là ân huệ của Ngài. Chúa ban cho chúng ta trí khôn, tài năng, sức khỏe, những ơn cần thiết tuy nhiên chúng ta đã dùng những nén bạc Chúa trao như những đầy tớ khôn ngoan hay như tên đầy tớ vô dụng ?

Tất cả cho Chúa, tất cả quy hướng về Ngài.Chúng ta sẽ mau mắn vâng lời Ngài, làm lợi cho Ngài, cho bản thân, cho tha nhân mà không ích kỷ, ghen tỵ và làm biếng, ù lì không làm lợi cho Thiên Chúa và mọi người vv…

Hôm nay Giáo Hội Việt Nam mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những Vị tiền bối đã xây nên Giáo Hội của Chúa ở Việt Nam đúng như nhà sử học Tertullien đã viết: ” Dòng máu của các Thánh Tử Đạo đã làm nẩy sinh các tín hữu “. Xin cho Giáo Hội Việt Nam luôn phát triển không ngừng noi gương các anh hùng Tử Đạo đã can đảm xây dựng Hội Thánh Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con biết nhìn ra muôn vàn hồng ân Chúa đã ban cho chúng con và để chúng con luôn biết cảm tạ tri ân Chúa không ngừng trong mọi hoàn cảnh.Amen.

Gợi ý để chia sẻ:

1. Tại sao người được trao một nén bạc lại đem chôn nén bạc đó ở dưới đất ?
2. Chúa đòi hỏi các đầy tớ phải như thế nào ?
3. Ông chủ ở đây là ai ?
4. Chúa muốn người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào ?

Về mục lục

.

CỘNG TÁC

Lm Vũđình Tường

Cộng tác trong trường hợp này mang í nghĩa cùng chung nhau làm một công việc tốt lành. Xứ đạo thiếu cộng tác giữa giáo dân và cha xứ là một xứ đạo thiếu sinh động. Thiếu sinh hoạt xã hội, nghèo nàn sức sống giữa các đoàn thể và vắng bóng sinh hoạt bác ái là một xứ đạo nghèo tinh thần, kém sức sống, thiếu chiều sâu. Đời sống tâm linh toàn xứ nghèo nàn, hầu như trống rỗng. Khi các thành viên trong xứ cùng chung nhau cộng tác sinh hoạt xứ sẽ sầm uất, sức sống tâm linh trong xứ dồi dào và đời sống linh hoạt hẳn lên. Quí khách đến thăm xứ cảm nhận ngay được tinh thần đầm ấm, lòng hiếu khách của xứ. Tất cá các kì quan thế giới do bàn tay con người tạo nên, tồn tại đến ngày nay, chúng đều có chung một điểm đó là do sự cộng tác của nhiều bàn tay, khối óc kết hợp lại. Cộng tác chung giữa các tín hữu làm cho đời sống tâm linh vững mạnh khi họ chia sẻ hiểu biết về tình yêu Chúa và thực hành tình yêu đó trong cuộc sống hàng ngày trong xứ và trong gia đình. Sức mạnh của cộng đoàn dân Chúa được củng cố, gắn bó bằng tình yêu chân thành cộng tác.

Phúc Âm hôm nay dường như đưa ra ba cấp bậc trong cộng tác: Đó là cộng tác cách tích cực, kế đến là cộng tác tuỳ hứng và cuối cùng là không quan tâm. Cộng tác cách tích cực khi người đó dành ưu tiên cho công việc chung và dùng hết khả năng của mình để cùng làm việc với người khác. Cộng tác tích cực được chủ khen thưởng và giao cho trách nhiệm lớn hơn bởi gây được lòng tin với chủ. Mat 25,20

Cộng tác tuỳ hứng là trường hợp cộng tác khi gặp hoàn cảnh huận lợi; trường hợp cộng đoàn cần sự giúp đỡ lại dưa lí do chính đáng từ chối bởi đời sống tâm linh thiếu chiều sân. Người chủ nhắc đến việc đơn giản nhất là gởi tiền vào ngân hàng lấy lời cũng là một cách cộng tác, dù là cộng tác tiêu cực. c.27

Không quan tâm là tín hữu có danh nhưng không phẩm chất. Người đó trở thành Kitô hữu khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy và đời sống tâm linh không được nuôi dưỡng nên nó vẫn sống trong tình trạng phôi thai. Chôn vùi lòng tin nơi Thượng Đế. c 25

Cộng tác chung thường là phải từ bỏ í riêng, í cá nhân để đón nhận í chung của cộng đoàn. Họ sống trong hy vọng bởi cộng tác chung luôn mang lại thành quả và đó là thành quả chung, niềm vui chung của mọi người. Phúc Âm còn cho biết cộng tác chung chính là kiến tạo, làm giầu đời sống tâm linh cho chính mình. Điều này thể hiện khi ông chủ nói với các người cộng tác. Đầy tớ trung thành, đáng khen; hãy vào hưởng gia nghiệp dành sẵn cho các ngươi bởi ngươi đã trung tín trong việc nhỏ nên đáng hưởng niềm hạnh phúc muôn đời dành cho kẻ tín trung. c. 23

Đời sống tâm linh Kitô hữu thiếu hạnh phúc nếu họ thiếu cộng tác, sinh hoạt chung trong đời sống cộng đoàn bởi cộng đoàn là môi trường giúp họ sống hạnh phúc, là nơi giúp họ thể hiện tình bác ái, tương trợ lẫn nhau, là nơi tình yêu Chúa thể hiện cụ thể qua hành động bác ái, yêu thương. Gia đình thiếu cộng tác chung trong cầu nguyện, trong sinh hoạt hàng ngày biến mái ấm gia đình thành nhà trọ, biến các thành viên thành ốc đảo cô đơn và tình cảm gia đình trở nên lạnh nhạt. Khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy Kitô hữu nhận ba nhiệm vụ chính đó là chức tư tế, tiên tri và vương giả. Ba chức vụ này thể hiện qua đời sống cầu nuyện hàng ngày, bác ái và yêu thương tha nhân. Kitô hữu cần thể hiện nhiệm vụ đó bằng cách sống và tích cực cộng tác chung với nhau, không phải sống lẻ loi, đơn bóng mà cộng tác chung vai sát cánh làm việc giữa đời và giữa cộng đoàn. Như thế mới làm sáng danh Chúa và sinh ích cho tha nhân. Cộng đoàn tích cực hỗ trợ sinh hoạt đoàn thể, làm việc chung với nhau là cộng đoàn biết đón nhận yêu thương và ban phát yêu thương. Khi có quí khách đến cộng đoàn họ nhận ngay ra tâm tình chào đón nồng ấm đó. Bởi có cộng tác, có yêu thương nên người trong cộng đoàn hưởng được hoa quả của bác ái, lòng nhân và lòng mến từ đó cảm thông trong đối xử và yêu mến trong lối sống. Cộng đoàn thiếu cộng tác sẽ rời rạc, nhạt nhẽo và đó không phải là cộng đoàn Kitô hữu đích thực mà Đức Kitô kêu gọi. Kitô hữu thiếu cộng tác chung trong cộng đoàn sẽ có đời sống nội tâm nghèo nàn và nếu có thì cũng là đời sống nội tâm lạc loài, không phải đời sống nội tâm tác động bởi Thánh Thần Chúa.

Về mục lục

.

QUÁ KHÓA XƯA VÀ NAY

Anton Lương Văn Liêm.

Quá khóa (bước qua Thập Giá), là hình thức chối bỏ niềm tin vào Chúa, chối bỏ đạo thánh của Ngài mà những vua, quan các thời: Minh Mạng, Tự Đức, Thiệu Trị, Văn Thân…đã dùng để mời, dụ dỗ và áp đặt lên những người Kitô hữu.

Bước qua Thập Giá để bảo toàn mạng sống cho bản thân và gia đình, được hưởng bổng lộc, dễ thăng quan, tiến chức… Ôm lấy Thập Giá, là ôm vào thân sự tù đày, tra tấn, nhục hình, mất hết tài sản, gia đình và cả mạng sống. 

Theo lịch sử của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam, trải qua các thời kỳ bách hại đã có trên dưới 400 ngàn người khước từ hình thức quá khóa, họ chấp nhận cảnh tù đầy và đã anh dũng hy sinh mạng sống để bảo vệ và minh chứng niềm tin vào Đức Kitô. 

Trong tổng số 400 ngàn con ngưới ấy, Giáo Hội đã tôn phong 117 người lên bậc Hiển Thánh.  Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội tại Việt Nam đã gọi các ngài là: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Các ngài được mừng kính trọng thể vào ngày 24/11 hằng năm.

Ngày xưa, thời Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc Tiền Nhân của chúng ta. Để bảo vệ và minh chứng Đức Tin, các ngài đã phải chịu bao đau khổ trong lao tù, chịu tra tấn, và đón nhận hành hình qua nhiều hình thức: Lăng trì, tùng xèo, voi dày, ngựa xé, chém đầu… 

Thời ấy, cũng không ít người vì quá sợ hãi, ham sống sợ chết, ham muốn lợi lộc thế gian, họ đã chối bỏ Chúa, chối bỏ Đức Tin, khi bước qua Thập Giá.

Thời ấy, chắc không ít người dùng tiền của mua chuộc quan quân để sống Đức Tin và không phải chịu hình thức “Quá Khóa”. 

Ngày nay, tưởng chừng như hình thức “Quá Khóa” không còn và không có. Nhưng, thực tế, hình thức “Quá Khóa” luôn diễn ra hằng ngày và từng giờ đối với ta là người Kitô hữu. 

Có điều, hình thức “Quá Khóa” thời nay rất nhẹ nhàng, rất ngọt ngào, và được tô vẽ bằng những gam màu bắt mắt. Vì thế, mà đôi khi ta thực hiện hành vi “Quá Khóa”, nhưng không hề hay biết. Đôi khi, chính ta đã tạo và dụ dỗ anh em “Quá Khóa”, dùng tài trí và tiền của để mua lấy hình thức “Quá Khóa”.

Vô tình, cố ý “Quá Khóa”; tạo và dụ dỗ anh em “Quá Khóa”; sử dụng tài trí, tiền của mua hình thức”Quá Khóa” là sao và nghĩa là gì? Xin thưa:

– Là người Kitô hữu, nếu như ta sống trái ngược Tin Mừng, thờ ơ với Lời Chúa, thánh lễ, nguyện cầu; sống theo chủ nghĩa: Hiện sinh, hưởng thụ, tương đối, vô thần…của thế gian. Cách sống ấy đã đưa đẩy ta vào tình trạng vô tình, hoặc cố ý “Quá Khóa”.

– Tạo gương mù, gương xấu; nói xấu, bài bác, bất tuân phục Giáo Hội; Coi trọng việc trau dồi tri thức đời, xem nhẹ việc hướng dẫn, đôn đốc học hỏi Giáo Lý và Lời Chúa của đàn con, cháu nơi gia đình, khi ta là cha mẹ, ông bà… Đây là hình thức ta áp đặt và dụ dỗ người khác “Quá Khóa”.

– Kê khai không tôn giáo trên lý lịch, đơn xin việc, học tập để được thăng quan tiến chức; dùng tiền của minh chứng việc kê khai để đạt, đoạt địa vị, công việc, nơi học tập…; dùng tiền để du học, làm việc những nơi ít và không có môi trường sinh hoạt của Giáo Hội Công Giáo, kết hôn giả để được định cư ở nước ngoài… Đây là hình thức bỏ tiền của mua lấy sự “Quá Khóa”.

Mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, hiệp cùng toàn thể Giáo Hội, chúng ta cảm tạ Chúa, vì Ngài đã ban tặng những tấm gương kiên trung, can đảm trong việc sống, giữ và minh chúng niềm tin vào Đức Kitô bằng đời sống và mạng sống.

Là hậu thế, là con cháu của Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, chúng ta tri ân các ngài đã vun tưới hạt mầm Đức Tin, Tin Mừng bằng máu và mạng sống của các ngài.

Cách sống theo Tin Mừng, dấn thấn trong sứ vụ Loan Báo Tin Mừng, cộng tác với Giáo Hội mọi việc và mọi sự; chấp nhận Tử Đạo hằng ngày là cách sống:”  Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây, ăn cây nào, rào cây ấy”, là cách đáp trả nghĩa ân của Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, khi chúng ta là con Chúa, là thành viên trong gia đình Giáo Hội.

Lạy Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Xin Chúa thương giúp chúng con học và noi gương các ngài trong sứ vụ chứng nhân mà Chúa đã ban tặng nhưng không cho chúng con. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Theo truyền thống các nước Cận Đông, những ông chủ giàu có, trước khi đi xa thường giao tài sản cho các đầy tớ của mình. Số lượng tài sản được giao ít hay nhiều tùy thuộc vào khả năng của từng người. Đó là nội dung dụ ngôn “những nén bạc” mà chúng ta vừa nghe Thánh Mathêu tường thuật lại. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn cho chúng ta biết: Ông chủ chính là Thiên Chúa; các nén bạc là những tài năng Thiên Chúa trao ban cho con người; thời gian ông chủ trẩy đi phương xa là thời gian con người được sống trên trần gian; lúc ông chủ trở về và tính tỉnh sổ là lúc Thiên Chúa phán xét con người. Mỗi người phải trả lẽ về cách sử dụng những nén bạc mà Thiên Chúa trao phó. Thiên Chúa sẽ thưởng hay phạt con người giống như ông chủ đã làm với ba đầy tớ trong dụ ngôn.

Thật vậy, con người do Thiên Chúa tạo dựng nên. Những gì con người có đều do Thiên Chúa trao ban: thân xác, linh hồn, khả năng, thời gian và tất cả những gì con người được sở hữu. Thánh Phaolô nhắc nhở mọi người rằng: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7). Lãnh nhận rồi, chúng ta phải trở thánh người quản lý trung tín và khôn ngoan, nghĩa là chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ và sinh lãi cho Chúa.

Trước hết, chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ thân xác: Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 6.19). Vì thế, chúng ta phải gìn giữ thân xác trong sạch, khỏe mạnh như: tắm rửa sạch sẽ, ăn uống điều độ, khám sức khỏe định kỳ, chọn công việc phù hợp, làm việc có giờ giấc, không được hủy hại thân xác bằng những trò chơi không lành mạnh hay say sưa rượu chè, không được tự ý đi tìm cái chết. Ngoài ra, chúng ta còn phải phát triển trí thông minh, phát triển những khả năng của thân xác bằng cách chăm chí học hành, trau dồi kiến thức, thể dục thể thao…Vì “một tinh thần minh mẫn trong một cơ thể tráng kiện”.

Tiếp đến, chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ linh hồn: Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, linh hồn chúng ta được sạch tội Tổ Tông truyền và các tội riêng (nếu có). Đồng thời, chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, giống hình ảnh Thiên Chúa, được sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa. Nhưng sống trong thế gian, linh hồn chúng ta phải đối diện với các chước cám dỗ: Ma quỷ, thế gian, xác thịt. Để khỏi phải sa chước cám dỗ, chúng ta cần phải cương quyết chiến đấu với ba thù, cần phải sống tiết độ và tỉnh thức. Thánh Phêrô dạy: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8). Để gìn giữ linh hồn trong trắng và ân sủng của Chúa khỏi bị tàn lụi, chúng ta phải dứt khoát với tội lỗi. Đức Giêsu mời gọi: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa Hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào Hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào Hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9,43.45.47-48). Ngoài ra, để được gắn bó với Chúa luôn, chúng ta cần phải suy gẫm và sống Lời Chúa, lãnh nhận các Bí tích và siêng năng cầu nguyện.

Thứ ba, chúng ta phải dùng khả năng và thời gian Chúa ban để chu toàn bổn phận: Đó là những bổn phận gắn liền với ơn gọi làm người; những bổn phận gắn liền với ơn gọi làm con Thiên Chúa; những bổn phận theo đấng bậc mình như: linh mục, chủng sinh, tu sĩ, vợ chồng, cha mẹ, con cái, ban hành giáo, giáo lý viên, học sinh, các trưởng ban đoàn…Chúng ta chu toàn các bổn phận đó không chỉ ở khía cạnh “quản lý” mà còn ở khía cạnh “sinh lãi”. Chẳng hạn, cha mẹ không chỉ có trách nhiệm quản lý con cái mà còn phải giúp con cái phát triển về thể dục, trí dục và đức dục. Cũng vậy, cha xứ không chỉ giúp cho con chiên giữ đạo mà còn giúp họ sống đạo và truyền đạo nữa.

Như vậy, tùy theo vai trò, đấng bậc, chức vụ của mỗi người để quản lý hay sinh lãi những gì Chúa trao ban. Đức Giêsu đã nói: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12,48).

Tóm lại, khi chúng ta cố gắng dùng những khả năng và thời gian Chúa ban để gìn giữ thân xác và linh hồn, chu toàn bổn phận làm người, làm con Thiên Chúa và bổn phận của đấng bậc mình thì chắc chắn ngày sau hết Chúa sẽ nói với chúng ta như đã nói với người đầy tớ thứ nhất và thứ hai : “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi” (Mt 25,21). Trái lại, nếu chúng ta sống lười biếng, không chịu dùng khả năng và thời gian Chúa ban để quản lý hay sinh lợi những gì mình có thì chúng ta cũng sẽ bị án phạt giống như người đầy tớ thứ ba: “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 25,30).

Lạy Chúa, chúng con biết rằng Chúa không chú trọng đến khả năng, chức vụ hay công việc của chúng con nhưng Chúa cần sự cố gắng của mỗi người. Chúa cần chúng con đón nhận cuộc sống của mình, đón nhận hoàn cảnh sống của mình và sống tốt trong hoàn cảnh đó. Vậy, xin Chúa giúp chúng con ý thức và làm theo ý Chúa muốn, để khi Chúa đến tính số, chúng con vui mừng vì được Chúa ban thưởng. Amen.

Về mục lục

.

TỬ ĐẠO TRONG THẾ KỶ 21

Tu Sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Các ngài là cha ông, tổ tiên của chúng ta.

Khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta được mời gọi noi gương các ngài để can đảm sống chứng nhân đức tin giữa lòng đời trong bối cảnh hôm nay.

Như vậy, cùng một lời mời gọi nên thánh, chung một lý tưởng hoàn thiện, nhưng mỗi thời đại, chúng ta được thúc đẩy thể hiện niềm tin của mình bằng một cung cách khác.

Nhưng trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu các thánh tử đạo Việt Nam đã sống đời chứng nhân như thế nào?

  1. Đời sống chứng nhân nơi các thánh tử đạo Việt Nam

Mỗi lần nhắc đến các thánh tử đạo Việt Nam, ấy là mỗi lần chúng ta nhắc đến tấm gương anh dũng, can đảm, kiên trì, trung thành vì đức tin; tính trung thực, lòng yêu mến quê hương, tính liên đới, tấm lòng bác ái, vị tha nơi các ngài. Nhất là tấm gương anh dũng hy sinh chấp nhận cả cái chết để bảo vệ niềm tin vào Đức Kitô.

Điểm nổi bật nơi các thánh tử đạo là: các ngài không chấp nhận bất cứ hình thức nào theo kiểu: thuốc đắng bọc đường để bỏ Chúa. Khi dụ dỗ không được, vua quan thường hay tức giận và vu khống đủ điều xấu xa cho các ngài.

Một trong những tội mà các vua quan thời bấy giờ thường hay gán cho các ngài cũng rất giống tội danh mà các nhà lãnh đạo Dothái đã kết án Đức Giêsu, đó là tội chống chính quyền, sách động dân chúng, phản lại dân tộc. Khi bị ghép cho tội tầy trời như thế, thì chỉ còn nước chết và chết mà thôi!!!

Tuy nhiên, đây là một sự hồ đồ, ngộ nhận nơi vua quan, vì thế các ngài đã không chấp nhận và lại là dịp để chứng tỏ lòng yêu nước cũng như trách nhiệm xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp hơn. Điều này đã được thánh linh mục Khuông từng tuyên bố : “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.

Các ngài đã phân biệt được đâu là ranh giới của lãnh vực này. Thánh binh sĩ Trần Văn Trung đã chấp nhận cái chết để nói cho vua quan biết lập trường của người Công Giáo: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thua keo này họ bày keo khác, sự gán ghép với ý đồ thâm độc cho rằng tổ tiên chúng ta là những người theo đạo Tây, nên đây là tà đạo! Thánh linh mục niên trưởng Vũ Bá Loan đã khẳng khái tuyên bố: “Tôi chẳng theo đạo của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa Trời Đất, Chúa của muôn dân thôi”.

Khi nói về mẫu gương nổi bật nơi các ngài, chúng ta không thể quên được lòng trung thực được thể hiện qua cung cách lựa chọn của các thánh.

Các ngài đã noi gương Đức Giêsu, Thầy Chí Thánh của mình, yêu thương thật lòng không giả dối, ngụy biện… Chính thánh quan Hồ Đình Hy đã nói: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý”. Khi nói về tình yêu thương, sự bao dung, tha thứ, thánh Cai Tả nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình”.

Khi được các quan tinh vi gợi ý giả vờ bước qua Thánh Giá để có cớ mà tha cho tội chết. Đây là một cám dỗ khá xảo quyệt và hấp dẫn, có vẻ được lợi cả hai, đời này và đời sau. Nhưng cha ông chúng ta đã không bị vướng vào cạm bẫy này, nên khi bị dụ dỗ và khuyên dụ nhắm mắt bước qua Thánh Giá, thày giảng Nguyễn Cần nói: “Thưa quan, mắt thì nhắm được, chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”.

Nói chung, gương mẫu của các thánh tử đạo Việt Nam là rất nhiều, tuy nhiên, hôm nay, chúng ta chỉ đưa ra hai đặc tính nơi các ngài là:

  • Không chấp nhận sự vu khống cho rằng người Công Giáo là người phản quốc, chống lại dân tộc. Cần phân biệt được đâu là người yêu nước thực sự, đâu là kẻ giả hình…
  • Không chấp nhận sống hai mặt, hai lòng, giả dối để được lợi cho phần xác mà mất linh hồn.

Thiết nghĩ, hai đặc tính trên chính là sức hút và khơi nguồn cảm hứng cho mỗi chúng ta nên thánh trong thời đại hôm nay.

  1. Tử đạo trong thế kỷ 21

Ngày nay, cảnh tượng kinh hoàng như thời các thánh tử đạo của chúng ta phải chịu như máu đổ, đầu rơi; đòn roi tra tấn; hay nhục hình ghê rợn…, không còn diễn ra trên diện rộng nữa, có chăng chỉ là những nơi xa xôi hẻo lánh, hay những người nắm chính quyền thiếu hiểu biết, ấu trĩ, bảo thủ hoặc ngu dốt, nên mới gây ra những hậu quả đáng tiếc, tạo nên sự mâu thuẫn giữa luật và người thi hành luật! Hay khi thi hành đã hành pháp sai mục đích chủ trương chính sách của dân tộc, hoặc đôi khi biết sai nhưng vẫn cứ nhắm mắt thi hành chỉ vì muốn trục lợi cá nhân… dung dưỡng cái bụng của mình mà làm cho cái đầu bị ngắn trí và trái tim bị teo lại nên không còn biết đúng – sai. Những người như vậy, họ thuộc hạng người bị mù lương tâm!

Còn trên bình diện thế giới, hình khổ theo kiểu cổ điển mà các chính quyền đưa ra để đàn áp những người Công Giáo cũng không thể diễn ra, bởi vì: hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Có chăng, chỉ có phiến quân nhà nước Hồi Giáo (IS) cực đoan mà thôi!

Vì thế, khi nói đến tử đạo ngày nay, vẫn khái niệm duy nhất là chết vì bảo vệ đức tin. Tuy nhiên, cần mở rộng lối suy nghĩ để hiểu khái niệm này cách rộng rãi hơn, phù hợp với môi trường cũng như thách đố của chúng ta hiện nay.

Người chứng nhân của thời đại hôm nay chính là dám chấp nhận ngược dòng để sống căn tính, cốt lõi của Tin Mừng, đó là: chấp nhận đứng về phía người thấp cổ bé họng, những người không có tiếng nói, những người cô thế, cô thân, bị loại ra bên lề nhằm bênh vực và lên tiếng thay cho họ khi quyền chính đáng của họ bị cướp đoạt. Khi đứng về phía họ như vậy, chúng ta sẵn sàng bảo vệ công lý, chống lại bất công.

Tử đạo ngày nay còn là lựa chọn và khước từ trước những cám dỗ, lôi cuốn, hấp dẫn để trục lợi cá nhân, an thân, ăn trên ngồi trước, ham quyền cố vị…, hay chạy đua những dục vọng, dâm ô, khát vọng bất chính, sống trác táng, phóng đãng… Khi khước từ những thứ đó, chúng ta được mời gọi để sống một cuộc sống công minh chính đại, sống tinh thần phục vụ vô vị lợi theo lời mời gọi của Chúa và Tin Mừng của Ngài.

Trong thời đại này, một hiện tượng cũng khá phổ biến đang lưu hành trong xã hội và nó chi phối sự lựa chọn của rất nhiều người, làm cho chúng ta đáng quan ngại, đó là: sự dửng dưng, vô cảm trước nỗi đói khổ, hoạn nạn của anh chị em. Bên cạnh đó, lập trường sống theo kiểu hạt nhân, đèn ai nấy rạng, nên không cần quan tâm đến nhau cũng là điều đáng để chúng ta suy nghĩ!

Giữa một xã hội như thế, người Kitô hữu được mời gọi sống tinh thần nghèo khó, liên đới, trách nhiệm, loại bỏ những thứ như: hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, vụ lợi hay những thái độ dửng dưng, vô cảm… để chấp nhận nghịch lý của Tin Mừng khi lội ngược dòng với những hấp dẫn bất chính của con người và xã hội thời nay nhằm truyền tải cho xã hội và con người hôm nay một thông điệp rằng:

Đạo Công Giáo là Đạo Yêu Thương. Yêu con người và yêu dân tộc. Sẵn sàng đóng góp và xây dựng tổ quốc này ngày càng tốt đẹp hơn, nhân bản hơn, yêu thương, liên đới, cảm thông với nhau hơn. Tuy nhiên, khi thấy cảnh trái luân thường đạo lý, người nghèo bị áp bức, bóc lột… sự thật bị bóp méo… thì chúng ta không thể an thân, bình chân như vại. Ngược lại, bằng khả năng, cách thế của mình, chúng ta phải lên tiếng trong sự ôn hòa, yêu thương và trách nhiệm, để làm cho cuộc sống này tràn đầy tình thương và nhân ái hơn.

Khi sống chứng nhân như thế, hẳn chúng ta đã làm cho khái niệm tử đạo ngày nay được phong phú hơn, rộng rãi hơn và thiết thực hơn. Tuy nhiên, đây cũng là một thách đố mang tính trường kỳ nói lên tính tử đạo liên lỷ ngang qua những lựa chọn mà chúng ta phải đối diện hằng ngày.

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam các thánh Tử đạo là mẫu gương cho chúng con noi theo. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu mà ban cho chúng con ơn trung thành, can đảm để sống chứng nhân cho Chúa trong thời đại hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

CHẾT VÌ LẼ CÔNG CHÍNH – SỐNG VÌ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA

P. Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn “ Nghĩa cử anh hùng Tử Đạo “ không phải chỉ có ở Nước Việt Nam, mà hầu như tất cả các Nước trên thế giới. Thời Cựu  Ứơc, sách Macabe là Đoạn sách trình thuật việc Tử Đạo vô cùng can đảm và trung trinh, biểu lộ sự trung kiên đối với chân lý là Thiên Chúa, bởi một tình yêu chung thủy sắt son của loài thụ tạo đối với Đấng Tạo Thành, mà một người mẹ và bảy người con mà sách Macabe thuật lại.

Vâng, hun đúc từ Thánh Kinh, đến thời Tân Ứơc Vị Tử Đạo đầu tiên để đem lại ƠN CỨU ĐỘ cho nhân loại, Đức Giêsu- Kitô, Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nhất thiết phải duy trì địa vị ngan hàng với Thiên Chúa, đã hạ mình cho đến chết và chết trên Thập giá, để đổ Máu ra cứu chuộc thế nhân.

Vì thế, muôn thế hệ, những ai bước theo Đức Kitô đều sẵn sàng mang trong mình “ Hạt Giống Tử Đạo”. Bởi vì “ Hạt Giống Đức Tin” là “Hạt Giống Tử Đạo”. Vâng, dấu ấn Đức Tin bản thân là “Dấu Ấn Tử Đạo”. Tại sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, Bởi vì là :”Đức Kitô là Đầu, là Trưởng Tử của những ai đã an giấc ngàn thu, Người đã chết và sống lại hiển vinh, thì những ai tin vào Người, cũng sẽ được sống lại như vậy ngày sau hết”.

Vâng, vì tin như vậy, tất cả những ai đã được đóng ấn bởi Đức Kitô đều mang sứ vụ “ chứng nhân” cho Người. Vì, Đức Giêsu- Kitô là  Đấng đã “chết vì lẽ công chính – sống vì tình yêu Thiên Chúa”. Vâng, tất cả Các Chứng Nhân Anh Hùng Tử Đạo đều có chung một nhiệt huyết ấy. Không phải để “hiếu chiến “, “ gấy chiến” như những “ luận điệu” không tốt, mà là vì “ TÌNH YÊU đáp trả TÌNH YÊU “. Đó là gương các Anh Hùng Tử Đạo mọi thời, các bậc tiền nhân Tử Đạo trung kiên , vạn lần oanh liệt mà Giáo Hội Việt Nam hân hoan mừng kình hằng năm và chọn làm Bổn Mạng Giao Hội Công Giao Việt Nam , không nằm ngoài chân lý ấy.

Mỗi gương Tử Đạo của mỗi Vị thánh khác nhau, có thể nói không trường hợp nào giống trường hợp nào, trải dài thời gian suốt ba trăm năm, một thời gian khá dài. Các vị truyền giáo, hoặc các vị trong nước, nam , phụ , lão , ấu, giáo sĩ, giáo dân, thấy giảng hay người nhà quê, lao động, thợ thuyền, hay binh sĩ, thương nhân. Diễn biến không phải trong thời gian “gang tấc” mà là kéo dài suốt ba thế kỷ. Không phải người nầy bắt chước người kia, mà là một “ niền tin sắt son” chung thủy. Không phải là yếu tố chính trị hay tiền tài, nhưng bị” hiểu lầm” là” gian tặc”, hoặc “tiếp tay” cho ngoại bang xâm lấn bờ cõi.

Trang sử oai hùng của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam được viết lên bằng “ Máu “ cuả các thánh Tử Đạo, nhưng, không hề mang thù hận. Vâng, đây là điều “ mấu chốt”,vì “Máu của các thánh Tử Đao là Hạt giống nảy sinh người Kitô hữu”. Như vậy, “ Máu của các thánh Tử Đạo là Máu của những người chết vì lẽ công chính, nhưng sống cho tình yêu Thiên Chúa“. Như vậy, mặc nhiên không có “thù hận “ vì , chết cho tình  yêu tức sự tha thứ. Chúng ta thấy, mặc nhiên trên khắp thế giới, Giáo Hội Công Giáo, trải qua bao nhiêu thế hệ, không bao giờ đòi “ nợ máu” của những tín đồ của mình. Vì,

“ PHÚC CHO NHỮNG AI BỊ BÁCH HẠI VÌ LẼ CÔNG CHÍNH. NƯỚC TRỜI LÀ CỦA HỌ”. ( Mt 5, 10)

Tất cả Các thánh Tử Đạo đều có  lý lịch , lai lịch rõ ràng, chết vào lúc nào, cách nào, bởi ai, đều được ghi nhận chính xác. Vì thế, hồ sơ của mỗi vị đều chính xác đến từng milimet, nói như thế, có thể “ kiện” ra tòa án Quốc Tế, để đòi bồi thường chớ chẳng chơi, nhưng, hoàn toàn không có chuyện nầy. Bởi vì, các ngài đã “ CHẾT VÌ LẼ CÔNG CHÍNH – SỐNG VÌ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA”. Amen

Về mục lục

.

NÉN BẠC NÀO TÔI ĐANG CÓ?

Phạm Anh

Theo phong tục Việt Nam, thường khi con gái đi lấy chồng, bố mẹ luôn có quà hồi môn cho con, để con tự tin bước đi trong cuộc sống mới, hay trước lúc lìa đời, cha mẹ thường viết di chúc để chia tài sản cho con cái. Còn người Cha nhân ái của chúng ta trên trời, Người cũng có tài sản dành cho mỗi người chúng ta khi Người cho chúng ta hiện hữu nơi trần gian. Chúng ta có thể thấy rõ điều ấy trong “dụ ngôn những nén bạc”  (x. Mt 25, 14-30). Những của cải chúng ta được nhận là thời gian, sức khỏe, tài năng, kinh nghiệm sống, vốn liếng, tri thức,…

Thiên Chúa là Đấng công minh, Người ban cho chúng ta những nén bạc khác nhau tùy khả năng mỗi người. Điều đặc biệt, Người cho chúng ta được tự do sử dụng: “Ông đưa cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tùy khả năng mỗi người. Rồi ông đi xa” (Mt 25, 15). Có người nói rằng tại sao Chúa không cho ai cũng giống nhau, đỡ phải ghen tỵ, tranh giành, thêm nhiều tội. Đó là những suy nghĩ theo kiểu của con người. Còn Thiên Chúa, Người biết những điều gì là thực sự tốt nhất và cần thiết nhất cho từng người. Điều quan trọng là mỗi người có biết, có nhận ra, và làm phong phú những nén bạc Người trao mà thôi. Thật vậy, nếu ai cũng là giáo viên thì ai là học trò? Ai cũng làm kinh doanh thì ai làm người nông dân, là người thợ sản xuất?!… Thiên Chúa đặt mỗi người chúng ta vào trong những hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau: người làm nghệ sĩ, người làm nông dân, làm bác sĩ, làm phi công,… Như vậy, xã hội của con người mới trở nên phong phú, hữu dụng, toàn diện và tốt đẹp; con người sống tương quan với nhau trong sự tôn trọng, hiệp nhất yêu thương.

Những nén bạc Chúa trao cho mỗi người rất nhiều, nhưng dường như chúng ta đang chôn giấu nén bạc ấy trong sự thất vọng, chán nản. Chúng ta trì trệ trong sự mặc định cho bản thân: Tôi là như thế rồi, số của tôi đã được định sẵn, cố gắng làm gì cho phí công tốn sức rồi cũng chẳng đi đến đâu… Chúng ta không dám thử sức, phấn đấu, làm với hết khả năng. Những ông bố say rượu, cờ bạc vẫn chứng nào tật đấy, chẳng chịu làm ăn, gánh vác trách nhiệm gia đình, tối ngày say xỉn ; những học sinh, sinh viên chưa dám cố gắng hết sức để trau dồi thi thức… Như thế, chúng ta đang tiêu tốn biết bao của cải Chúa ban, mà mãi chúng ta chưa thăng tiến, giống như người đầy tớ nhận được một yến (x. Mt 25, 14-30). Anh ta sợ thất bại, anh tự ti vì anh có một yến ít hơn người khác, anh không làm gì cả và chôn giấu nó. Thật đáng buồn.

Bên cạnh đó, vẫn có những người dù có ít nén bạc nhưng vẫn thành công, điển hình anh Nick Vujicic, người Úc. Tuy anh là người khuyết tật, nhưng anh đã vượt lên trên tất cả để trở thành doanh nhân, thành người diễn thuyết tài giỏi, đặc biệt, anh trở thành người truyền cảm hứng cho người khác.

Mỗi người đừng chôn giấu nén bạc Chúa ban nữa, nhưng ngay từ bây giờ, hãy làm cho nó sinh lời trong từng ngày sống. Chúng ta hãy bắt đầu từ công việc nhỏ nhất như: đọc một cuốn sách, nghe một bài hát, tập quan tâm đến một người nào đó,….Chắc chắn bạn sẽ nhận được rất nhiều điều thú vị mà bạn chưa từng nghĩ tới. Điều quan trọng chúng ta hãy ra sức làm hết bổn phận và trách nhiệm, đặt hết tình yêu vào trong từng công việc mình làm.

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Người đã ban cho con rất nhiều nén bạc. Xin cho con luôn nỗ lực khám phá những nén bạc Chúa ban cho con, cố gắng cộng tác với ơn Chúa ban để sinh lời ra những nén bạc khác. Xin cho những nén bạc ấy không chỉ làm giàu cho chính con, mà còn hữu ích cho tha nhân, xây dựng xã hội trong yêu thương và hiệp nhất. Đặc biệt, vào ngày sau hết, những nén bạc con đã làm sinh lời mua được hạnh phúc Nước Trời cho chính con. Amen.

Về mục lục

.

HÃY TIN THẦY

Lm. Jos. DĐH.

Mang thân phận người, ai chẳng đi theo quy trình: sinh lão bệnh tử, và chúng ta vẫn hiểu: sông có khúc, người có lúc, vì thế hãy chấp nhận cuộc sống có vui, có buồn, cho dù một số vị đang cố gắng tìm cách né tránh những khó khăn khổ đau đang xảy đến. Hãy lạc quan bởi đấng bậc sinh thành cả một đời hy sinh vì con vì cháu, gia tài các ngài để lại không đơn thuần chỉ là vật chất, nhưng trĩu nặng tình yêu thương. Hãy hy vọng tâm ý của các bậc làm cha mẹ luôn mong mỏi: con hơn cha nhà có phúc, hoặc hy sinh đời bố củng cố đời con, là sự thực. Hãy tin, bậc tiền bối của chúng ta còn lưu truyền một sức mạnh thiêng liêng hầu tiếp sức nâng đỡ con cháu: con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh.

Có thể nói, ai sống ở trên đời mà chẳng mơ ước hạnh phúc, mơ được trường sinh bất tử, vì thế nếu không sợ khổ đau, không sợ chết, đó là chuyện lạ. Nếu là người ngoài cuộc, sẽ khó hiểu biết bao, tại sao cha ông chúng ta “không sợ máu chảy đầu rơi”, dù các ngài có cách thoát chết. Đức Giêsu năm xưa có nhắn gởi các môn đệ một sự thật: “người đời sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ, nhưng các con đừng sợ, chính Thánh Thần sẽ trợ giúp các con”. Rồi sau đó, cả Thầy-trò đều bị thế gian ghét bỏ, loại trừ, dù Thầy-trò Đức Giêsu không phạm pháp hay đứng dậy chống đối nhà cầm quyền, tất cả chỉ vì yêu nhân loại.

Giáo hội Việt Nam chúng ta hôm nay mừng kính Các Thánh Tử Đạo, gương chứng nhân đức tin của các ngài đã trổ sinh bông hạt. Dù mắt thường chúng ta không thấy, nhưng bằng mắt đức Chúa vẫn đang ban ơn, ban điều kiện để con cháu cùng phát huy truyền thống sống đạo, giữ đạo. Cách chung chung, đạo làm người được khơi dạy sống chữ tình, chữ hiếu ; hãy theo Thầy, đó là đạo làm con Chúa, mọi người đều được hiểu, phải biết sống giới luật mến Chúa yêu người. Hãy theo Thầy, có thể nhiều người không còn xa lạ với khái niệm nói và làm là nguyên nhân dẫn tới thành công hoặc thất bại, nói khoác lác hay làm bâng quơ không thể đưa đến hạnh phúc thật.

Đức Giêsu không rao giảng một giáo lý đau khổ, không chủ trương một đạo luật yêu thương đến độ im lặng để kẻ gian ác bắt bớ tiêu diệt cách vô cớ. Đức Giêsu kêu gọi những ai theo Chúa làm môn đệ, thì hãy theo Thầy, hãy tin Thầy, vì Thánh Thần sẽ nói, sẽ hướng dẫn và nâng đỡ tất cả những ai sống đạo luật yêu thương. Sống đạo hay sống niềm tin vẫn là một cuộc chiến không ngơi nghỉ giữa thiện và ác, tội và phúc, giữa cái tốt và cái xấu ; tin Chúa, theo Chúa, phải thực hành niềm tin, phải sống khác với thế gian đã là đang chiến đấu rồi. Tiền nhân của chúng ta xưa kia chắc chắn không phải là những người vô hồn vô cảm, ai nói sao làm vậy, ai xúi bậy cũng làm theo, nhưng các ngài rất khôn ngoan khi cậy dựa vào tình yêu, vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Hãy theo Thầy, hãy sống theo truyền thống đức tin của tiền nhân: cha anh hùng, con sẽ hảo hán, dù có lả lướt mỹ từ một chút cũng nên biết lắm: cha là núi, mẹ là sông, anh em hiếu thuận, gia tộc an vui. Chúng ta có quyền tự hào vì dòng máu đức tin của các ngài đã tưới gội lênh láng khắp quê hương đất nước, vì tình yêu Đức Kitô, gương anh dũng sống đạo các ngài đã góp phần xây dựng Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Khi nói đến tình yêu lứa đôi, người ta thường nghĩ đến vẻ đẹp, đến hương vị hạnh phúc, còn nhắc tới tử đạo, người ta thường nghĩ tới máu me, bạo lực, chết chóc xảy ra. Khi nói đến những tín hữu theo Thầy Giêsu, chúng ta luôn được mời gọi để sống chọn lựa, và chọn Chúa sẽ bị thế gian loại trừ, đó là sự thật, là điều mà chúng ta sẽ tiếp tục minh chứng đức tin.

Hãy theo Thầy, tin Thầy, có thể gian lao khốn khó ở hiện tại hoặc hạnh phúc ở tương lai chưa rõ ràng, nhưng theo Thầy thì phải vác thập giá, phải đối diện với thế gian đầy ganh ghét là không sai, nhưng chúng ta chiến đấu và chiến thắng là nhờ sức mạnh của Chúa. Theo Thầy, tin Thầy Giêsu, không có nghĩa là tất cả phải chịu đóng đinh thập giá, chịu chết tù tội hay chết chém để được xếp vào hàng ngũ tử đạo, nhưng người theo Chúa đều phải sống đức tin và đức ái, dù máu không chảy, đầu không rơi. Trong tình đồng loại, người ta có thể chia sẻ cơm áo cho nhau vì yêu thương, trong ơn cứu độ, Đức Giêsu dám từ bỏ ý riêng, vâng phục thánh ý Chúa Cha chết thập giá, biến đổi thân xác Ngài làm của ăn nuôi người trần thế.

Tham sống sợ chết, có thể là bình thường vì chúng ta mang thân phận người yếu hèn, nhưng mỗi người vẫn có tự do để suy nghĩ về cách sống đức tin hiện tại của mình, chúng ta có sợ cái chết vô nghĩa không ? Hãy theo Thầy, tin Thầy, người kitô hữu sẽ hiểu đâu là hạnh phúc thật, đâu là bình an thật, đâu là cuộc sống có ý nghĩa nhất, thưa đó là cuộc đời có đức tin và đức ái, có đủ tình Chúa và tình người. Chết già, chết bệnh, chết vì tai nạn, chết vì dám bênh vực đức tin kitô giáo, chết vì yêu Chúa và Hội Thánh, cũng đều gọi là chết. Hy vọng nhờ ơn Chúa giúp, nhờ lời lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, mỗi chúng ta vừa đủ khôn ngoan để chu toàn bổn phận và trách nhiệm theo Chúa làm môn đệ, tiếp tục truyền thống đức tin của tiền nhân. Amen.

Về mục lục

.

SỨC MẠNH VÀ SỨC SỐNG CỦA ĐỨC TIN

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Hơn 2.000 năm trước, Chúa Giêsu đã phán cùng các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).

Từ sau ngày Chúa Giêsu phác lệnh truyền giáo đến nay, sứ vụ truyền giáo vẫn không ngừng được tiếp nối trong lòng Hội Thánh. Và cũng do phát xuất từ lời sai đi ấy, đức tin của Hội Thánh nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Nó khẳng định mạnh mẽ chỗ đứng của mình bằng một sức mạnh kiên cường, một sức sống vinh thắng.

Đức Tin là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban tặng. Đức Tin là “cửa” mở ra, đưa ta đến đời sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa và bước vào Hội Thánh của Người.

Nhờ sức sống của đức tin, các Thánh Tử Đạo khi bị bắt, vẫn luôn thể hiện sức mạnh quả cảm của chính đức tin ấy: nhất quyết không nao núng trước cực hình, không chối đạo, không bước qua Thánh giá, không làm tổn thương danh dự của Hội Thánh Chúa, không ngừng giương cao lòng tin – cậy – mến của minh.

Nhờ sức mạnh đi cùng sức sống vô cùng của đức tin, các thánh dù bị hành hạ, bị kết án tử hình bằng nhiều hình thức hung bạo, dã man, nhưng không để mình bị khuất phục. Các thánh không nhường bước, không thỏa hiệp để được sống thảnh thơi.

Các thánh không để mình bị tiền bạc làm cho mù tối, không để khổ đau làm cho chùn bước, không để nhục hình làm cho ngã qụỵ. Ngay đến cái chết, cũng không tài nào có thể uốn cong được lòng trung tín của các thánh…

Chính nhờ dòng máu quả cảm căng đầy sức mạnh và sức sống của đức tin ấy, mà các thánh trở thành như những hạt giống gieo vào lòng đất, trổ sinh một Hội Thánh Việt Nam phong phú như những gì đang diễn ra hiện tại, chắc chắn còn mãi về sau.

Hôm nay, lễ các thánh Tử đạo Việt Nam, là con cháu các thánh, chúng ta ngắm nhìn chân dung của một sức mạnh quật cường, một sức sống bất khuất mà các thánh đã soi chiếu trên suốt dòng lịch sử đầy kiêu hùng này.

Ngước nhìn chân dung các thánh là điều cần thiết để chúng ta sống lại những ngày gian khó của cha ông mà biết ơn tất cả những ai đã đặt nền móng đức tin trên quê hương Việt Nam thân yêu này…

Hội Thánh tại Việt Nam, kể từ buổi bình minh rao truyền Tin Mừng đến nay, dù chẳng bao giờ mất ơn bình an nội tâm, vẫn chưa bao giờ có một ngày bình yên ngoài thể xác, chưa một ngày tự do hoàn toàn trong việc trung thành thờ phượng Thiên Chúa, chưa bao giờ có tự do tôn giáo.

Tuy nhiên, Hội Thánh của Chúa Kitô tại mảnh đất hình chữ S này, dù phải trải qua muôn ngàn lao khổ và phải đối đầu cùng vô số sức chống đối, vẫn mạnh mẽ tuyên xưng đức tin, vẫn trung thành với lòng kính thờ Chúa không có sức mạnh nào có thể lay chuyển.

Chỉ là một Hội Thánh còn non trẻ, được khai sinh chưa đầy 500 năm, nhưng Hội Thánh tại Việt Nam đã tự hào vượt lên trên mọi đầu sóng ngọn gió, dù nguy hiểm nhất, dữ dằn nhất, để có được cả một bề dày kinh nghiệm giữ lấy đức tin cho đức tin ngày một tinh ròng đến muôn đời sau. Tất cả là nhờ ơn Chúa, tất cả là do sự linh hoạt mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần.

Có nhiều lý do dẫn đến sự bách hại Hội Thánh trong quá khứ và hiện tại: ghen tương, đố kỵ, hiểu lầm, nhiều lý do chính trị khác… Không ai biết chính xác người Công giáo Việt Nam chịu tử đạo từ trước đến nay có số lượng bao nhiêu, vì không thể thống kê hết, chỉ biết rằng đó là một con số khổng lồ.

Từ thái độ sống đến cái chết của các thánh Tử đạo nói riêng, và của các Kitô hữu nói chung, chứng minh cho mọi người thấy rằng, chỉ có Thiên Chúa là trên hết, là cao cả, là tuyệt đối, vượt trên tất cả mọi sự quý giá.

Dẫu là sự sống, điều mà mỗi người chỉ có một duy nhất mà thôi, mất là hết, mất là chấm dứt sự hiện diện đời đời trên cõi thế, vẫn không thể sánh bằng Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội, là tất cả của vũ trụ.

Từ sự hiểu biết về chân lý cao cả ấy, các thánh Tử đạo có một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin nơi Thiên Chúa đến cùng, dù phải hiến dâng mạng sống của mình.

Quay nhìn chân dung các thánh Tử đạo Việt Nam, Đức Thánh Cha Piô XI, trong lễ tấn phong Giám mục cho Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, đã cất tiếng gọ: “Giáo Hội Việt Nam là trưởng nam của Giáo Hội Công giáo tại Á Đông” (Bài giảng lễ tấn phong Giám Mục).

Sử gia A. Launay cũng hết lời khen ngợi đức tin của người Công giáo Việt Nam: “Hỡi Giáo Hội Việt Nam, một trong những Giáo Hội đã bị bắt bớ hà khắc nhất trong các Giáo Hội trên thế giới, kể từ khi công cuộc của Chúa Cứu Thế bị bắt bớ. Một trong những Giáo Hội kiên cố lạ lùng nhất… Ta kính chào Người! và bởi hy sinh càng lớn lao, thì vinh quang càng sáng chói. Người thật xứng đáng được danh thơm muôn thuở, ngang hàng với những Giáo Hội anh hùng nhất phương Tây” (Đã trích trong Lm Bùi Đức Sinh – Lịch Sử Giáo Hội).

Đức Tin bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Các thánh Tử đạo đã hủy mình đi và hiến dâng trọn vẹn cho thiên Chúa. Hôm nay mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam, Chúng ta tin, nhờ lời các thánh chuyển cầu, chúng ta sẽ được tiếp thêm sức mạnh và được đổ tràn đầy sức sống của đức tin, như chính đức tin chiến thắng của các thánh. .

Một khi được tiếp thêm sức mạnh và sức sống của một đức tin mãnh liệt, chúng ta quyết sống đạo ngoan cường, vượt thắng giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay, như thánh Phaolô dạy: “Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô và được củng cố trong đức tin” (Cl 2, 7),

Mừng lễ các thánh, chúng ta phải khám phá ra nhiều bài học có lợi cho đức tin mà các ngài để lại:

– Sẵn sàng tha thứ cho những người bắt bớ, giết chết mình;

– Cầu nguyện nhiều hơn nữa cho các nhà lãnh đạo quốc gia khôn ngoan để nhận ra đâu là đường lối lãnh đạo theo chân lý, đâu là đường lối lãnh đạo sai lầm để đừng giết chính đồng bào vô tội của mình như đã từng làm mà lịch sử không bao giờ quên;

– Biết ơn Hội Thánh đã cưu mang và sinh ra chúng ta trong ơn Chúa;

– Biết đáp trả tình yêu vô cùng của Chúa bằng tất cả đời sống chứng tá của mình dẫu phải hiến dâng mạng sống.

Về mục lục

.

LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 12,20-32

(20) Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. (21) Họ đến gặp ông Phi-lip-phê, người Bết-xai-đa miền Ga-li-lê và xin rằng: ”Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su”. (22) Ông Phi-lip-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-lip-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất. còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy. (27) Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha”. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ”Ta đã tôn vinh danh Ta. Ta sẽ còn tôn vinh nữa !” (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: ”Đó là tiếng sấm !” Người khác lại bảo: ”Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy !” (30) Đức Giê-su đáp: ”Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì Tôi, mà vì các người. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngòai ! (32) Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.  (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ người sẽ phải chết cách nào.

  1. Ý CHÍNH:

Khi mấy người Hy-lạp đang ở Giê-ru-sa-lem yêu cầu các môn đệ cho được gặp Đức Giê-su, thì Người tuyên bố rằng: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !” Sau đó, Người dùng hình ảnh một hạt lúa mì chỉ phát sinh thêm nhiều bông hạt khác nếu nó tự hủy đi. Cũng vậy, Người cũng sẽ phải trải qua sự chết rồi mới được vào trong vinh quang phục sinh. Về phần các môn đệ, các ông cũng cần phải đi con đường của Người: Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, sẵn sàng thí mạng sống mình vì Đức Giê-su, thì sẽ có sự sống vĩnh cửu ở đời sau như Người đã hứa: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.

 

II. SỐNG LỜI CHÚA:

  1. LỜI CHÚA: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. (Ga 12,23-24).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) LOÀI NGƯỜI AI CŨNG SỢ CHẾT:

Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó to sắp mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: “Ước gì tôi được gặp Thần Chết!”

Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập cập trả lời: “Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi”.

Thế đó, dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được: “Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số?” (Tv 49,9-10)

2) CUỘC TỬ ĐẠO CỦA THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC

Trần An Dũng Lạc sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là An-rê. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy An-rê được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi được 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha An-rê được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày giữ chay theo luật định, cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày Thứ Sáu Thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ: qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin vào Chúa và xin gia nhập đạo.

Khi đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha An-rê Dũng đã phải trốn lánh ở nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phê-rô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi cha lại bị đám lính khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phê-rô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.

Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để tỏ ý bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa !”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc cho lính canh.

Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi hai cha bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lê-ô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng chân phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II lại nâng các ngài lên bậc hiển thánh. Hội Thánh cũng chọn làm lễ kính “Thánh An-rê Trần An Dũng Lạc Và Các Bạn Tử Đạo” hay lễ kính “Các Thánh Tử Đạo Tại Việt Nam”.

3) THÀY GIẢNG AN-RÊ PHÚ YÊN SẴN SÀNG CHẾT VÌ DANH CHÚA:

Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.

Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giê-su.

Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giê-su đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể để ngàn đời lưu danh.

  1. SUY NIỆM:

1) TỬ ĐẠO LÀ CHẤP NHẬN CON ĐƯỜNG “QUA ĐAU KHỔ VÀO TRONG VINH QUANG”:

Đức Giê-su đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Rồi Người kêu gọi : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,22-23).Người tiên báo : “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,20). Lời tiên báo này đã được ứng nghiệm trong Hội Thánh như sau:

– Ứng nghiệm nơi Đức Giê-su: Vào năm ba mươi tuổi, Đức Giê-su đã thi hành sứ vụ đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Các đầu mục Do thái do không tin Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, nên tìm mọi cách để chống lại Người: Họ tố cáo Người lộng ngôn phạm thượng khi dám gọi Thiên Chúa là Cha “Ab-ba” (Cha ơi), và con xưng mình là Con Thiên Chúa; tố Người đã nhờ tay Quỷ Vương mà trừ quỷ; Tố Người phạm luật “hưu lễ” khi hành nghề chữa bệnh trong ngày Sabat; Tố Người đã xách động quần chúng không nôp thuế cho chính quyền Rô-ma… Cuối cùng họ đã bắt Người và kết án tử hình cho Người trong Thượng Hội Đồng Do Thái, rồi nộp Người cho quan Tổng Trấn Phi-la-tô và làm áp lực để ông này phải kết án tử hình thập giá cho Người.

– Ứng nghiệm nơi các Tông đồ: Sau lễ Ngũ Tuần, Các Tông đồ được đầy ơn Thánh Thần đã bắt đâu chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng thế giới là thủ đô Rô-ma. Các ông đã bị bắt bớ dánh đòn và bị kết án tử hình. Trong số 12 tông đồ thì ngoài Gioan bị chết già, còn các vị khác đều bị giết chết vì danh Chúa Giê-su. Tông đồ Phê-rô bị đóng đinh ngược và tông đồ Phao-lô bị chém đầu tại thủ đô Rô-ma.

– Ứng nghiệm nơi Hội Thánh Sơ Khai: Giáo Hội Chúa Ki-tô đã trải qua gần 300 năm bị bách hại do người Do Thái và do các hoàng đế Rô-ma. Đến triều hoàng đế Công-tăng-tanh đạo mới được sắc chỉ tha và sau đó còn trở thành quốc giáo. Trong suốt thời gian ấy,  các tín hữu đã phải trốn tránh dưới các hang hố đào trong lòng đất, gọi là các hang toại đạo tại thủ đô Rô-ma. Rất nhiều Tông đồ và giáo dân đã bị bắt bớ, xử tử, nhất là dưới triều hoàng đế Nê-rông.

– Ừng nghiệm nơi Hội Thánh Việt Nam: Ngay từ thế kỷ 16, các vị thừa sai ngoại quốc đã đi theo các đoàn thương thuyền vượt biển từ các nước Âu châu đến Việt Nam giảng đạo theo lệnh Chúa truyền. Nhưng vua quan nước ta thời đó do thiếu khôn ngoan và hiểu biết, đã đồng hóa đạo với đế quốc xâm lược, và ra nhiều sắc chỉ cấm đạo. Phong trào Cần Vương, Văn Thân thời đó đã khích động dân chúng đi phá các làng theo đạo, đốt cháy nhiều nhà thờ và bắt bớ các vị thừa sai, các đạo trưởng và những người có uy tín trong đạo… Rất nhiều tín hữu phải bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn và sản nghiệp để chạy trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc để bảo toàn mạng sống và để giữ vững đức tin. Đã có hàng trăm ngàn tín hữu bị bách hại trong thời kỳ này: Họ bị phân sáp thành vài ba người và phải vào ở giữa làng người lương. Nhiều làng công giáo bị đốt phá, nhiều nhà thờ bị triệt hạ. Trong số các tín hữu bị giết hại ấy, Hội Thánh sau khi điều tra đã tôn phong một số vị có đầy đủ hồ sơ chứng tích vào hàng ngũ các thánh Tử Đạo Việt Nam.

2) TỬ ĐẠO LÀ SẴN SÀNG CHỊU CHẾT VÌ ĐỨC TIN ĐỂ BIỂU LỘ LÒNG YÊU MẾN CHÚA:

– Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa áp dụng là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền cho các tín hữu bị bắt phải bước qua. Ai bước qua thánh giá là dấu công khai bỏ đạo thì sẽ được tha. Ai kiên quyết không bước qua thì bị coi là ngoan cố nên sẽ bị hành hình đến chết. Nhưng chính thái độ sẵn sàng chịu chết này lại là bằng chứng của lòng mến Chúa tột đỉnh.

– Trong số 117 vị thánh Tử Đạo Việt Nam có 8 Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo Dân, một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con. Các ngài thuộc đủ mọi thành phần xã hội, lứa tuổi, ngành nghề như: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, có một số nhà truyền giáo “ngoại quốc” như người Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt nam truyền đạo và đã được phúc tử vì đạo.

– Các ngài đã phải chịu mọi cực hình như: gông cùm xiềng xích trong cũi, bị voi giầy, bị trảm quyết (chặt đầu), xử giảo (thắt cổ), bị thiêu sinh (bị đốt cháy trong lửa đến chết), bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh), bị bá đao (bị chém bằng trăm nhát đao), bị chết rũ tù (Chết bệnh trong thời gian đang ở tù)… để biểu lộ lòng mến tột đỉnh như lời Chúa phán:Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

3) MUỐN ĐƯỢC TỬ ĐẠO PHẢI CHẾT CHO TỘI LỖI VÀ SÔNG LẠI TRONG ƠN CHÚA:

– Không phải chỉ có việc chịu chết là trở thành thánh tử đạo: Thực vậy, trước khi can đảm chịu chém đầu tại pháp trường hay trung thành chịu chết trong chốn ngục tù, các thánh tử đạo đã phải là những người chồng người vợ chu toàn bổn phận đối với gia đình và xã hội; Đã phải là những người con hiếu thảo với cha mẹ; Đã phải là những người lính dũng cảm sẵn sàng bảo vệ quê hương; Đã phải là những thầy thuốc và lý trưởng có tinh thần phục vụ cao… Vì người ta sẽ không thể là công dân của Nước Trời, nếu không là công dân tốt ở trần gian.

– Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta sống niềm tin yêu trung kiên trong mọi tình huống gặp phải. Đừng vì gặp chút khó khăn mà đã chán nản bỏ đạo. Đừng thất vọng khi nhìn thấy gương xấu của một vài vị mục tử. Vì “Con người nhân vô thập toàn”: Trong thửa ruộng Hội Thánh trần gian vẫn luôn có cỏ lùng mọc chen với lúa tốt. Ngay trong hàng ngũ mười hai Tông Đồ do chính Đức Giê-su tuyển chọn và huấn luyện cũng vẫn có một Giu-đa phản bội bán nộp Thầy cho kẻ thù với giá ba mươi quan tiền.

4) LÀM CHỨNG BẰNG LỐI SỐNG VỊ THA NHÂN ÁI VÀ KHIÊM NHƯỜNG PHỤC VỤ:

– Làm chứng cho Chúa bằng sự thực thi giới răn yêu thương theo Lời Chúa dạy:

Không phải một sớm một chiều mà từ một con quỷ xấu xa có thể biến thành một vị thánh từ bi nhân ái, mà người ta chỉ có thể nên thánh với thời gian tập luyện: “Cây xiêu theo chiều nào thì sẽ đổ theo chiều ấy”. Kinh nghiệm cho thấy thực trạng người ta để có thể thay đổi: Khi xã hội và thời thế thay đổi, thì nhiều tín hữu cũng lập tức chối bỏ đức tin chỉ vì miếng cơm manh áo, vì muốn có địa vị cao trong xã hội, hay muốn được tự do hưởng thụ những lạc thú thấp hèn. Nguyên nhân chính yếu là do các tín hữu đó đã không tin cậy vào ơn Chúa giúp, và không học sống theo Lời Chúa dạy. Ngôi nhà Đức tin của họ mới chỉ được xây trên nền cát, nên dễ bị lún sụt khi hoàn cảnh khó khăn như mưa bão lũ lụt xảy ra.

– Ngày nay chúng ta cần làm chứng cho Chúa và tránh thành kẻ phản chứng thế nào? :

+ Trong môi trường xã hội hôm nay, chúng ta chỉ chiếu sáng đức tin hay làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu bằng lối sống yêu thương, luôn tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân.

Trong gia đình, vợ chồng sẽ làm chứng cho Chúa bằng cách vun sới tình yêu bằng sự tôn trọng lẫn nhau, cha mẹ quan tâm nuôi dạy con cái nên người. Con cái hiếu thảo vâng lời cha mẹ. Học trò làm chứng cho Chúa bằng việc chăm chỉ học hành, đạt thành tích cao. Các cầu thủ bóng đá hay các môn thi đấu chỉ làm chứng cho Chúa khi đạt thành tích cao được tuyên dương thăng thưởng.

+ Trái lại, chúng ta sẽ “chối đạo”, sẽ “đạp lên thánh giá ” và trở thành kẻ phản chứng:

Khi ta quá ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, mà không biết quảng đại cho đi và khiêm nhường phục vụ.

Khi ta chỉ lo tìm kiếm tiền bạc và chức quyền bất cứ giá nào, dù phải vi phạm giới răn của Chúa.

Khi ta thụ động trước những bất công và thờ ơ trước những người khổ đau bất hạnh bên cạnh.

Khi ta không giữ lời thề chung thủy vợ chồng, để chiều theo đam mê hưởng thụ lạc thú bất chính.

Khi cha mẹ nhẫn tâm giết con bằng các phương pháp ngừa thai nhân tạo hoặc nạo phá thai.

Khi ta sa đà vào bàn nhậu say xỉn để bàn chuyện làm ăn bất chính, hơn là đi dự lễ Chúa Nhật.

Khi ta nuôi lòng hận thù tha nhân, và không chịu làm hòa và tha thứ theo lời Chúa dạy.

Khi ta thoả hiệp với thế gian, cố tình bịt tai nhắm mắt không dám lên tiếng bênh vực công lý.

  1. THẢO LUẬN:

1)Tại sao đạo Công Giáo luôn bị người đời thù ghét bách hại ?

2)Tử đạo là sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Mỗi người chúng ta phải làm chứng cho Chúa thế nào trước mặt anh em lương dân ? 

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI. Xin cho chúng con luôn giữ đức tin của mình, giữ được vị mặn của muối, tác động của men… để đem đến cho trần gian một sức sống mới và một tinh thần mới của Thánh Thần, để cộng tác với Chúa thánh hóa trần gian nên Trời Mới Đất Mới.

– LẠY CHÚA. Xưa Chúa đã dạy các môn đệ : “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về trần gian”. Xin cho chúng con hôm nay đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo những cám dỗ của thế gian, ma quỉ và xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh” để chúng con luôn sống xứng đáng là những con cháu của các anh hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời: Biết nở nụ cười thân ái mỗi khi tiếp xúc với tha nhân; Luôn cởi mở đi bước trước làm quen với những người mới gặp; Động viên an ủi những ai đang bị rủi ro ; Khiêm nhường phục vụ những người đau yếu bất hạnh, để chúng con nên chứng nhân Tình Thương của Chúa và giúp đưa nhiều người về làm con Chúa trong Hội Thánh.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

QUYẾT CHỌN CHÚA

Lê Chung

Sống là chọn lựa. Giá trị và sự hoàn thiện của chúng ta hệ tại ở mỗi sự chọn lựa ấy. Các Thánh là những người đã phân định, chọn lựa sống theo ý muốn của Chúa. Họ đón nhận đau khổ, chịu bách hại vì đạo để chỉ chọn Chúa mà thôi. Noi gương các thánh nhân, bạn sẽ chọn điều gì? Bạn dựa vào tiêu chuẩn nào để chọn lựa? Điều bạn chọn có phù hợp với ước muốn của Chúa?

  1. Bỏ và chọn

Bỏ và chọn là hai việc xảy ra cùng lúc. Chọn việc này thì phải bỏ điều kia. Mỗi lần chọn và bỏ, chúng đều mang lại cho ta một giá trị nào đó. Các Thánh Tử Đạo cũng phải làm quyết định của “chọn”“bỏ”. Các Ngài đã thực hiện các điều kiện phải có để theo Chúa Giêsu, đó là “từ bỏ chính mình”. Các ngài không đặt mình làm trung tâm, và luôn đặt mình ở dưới Chúa, bỏ ý riêng mình để chọn ý Chúa làm lẽ sống.

Các Ngài là người can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu chịu đóng đinh, không xấu hổ vì chọn Chúa, chọn “vác thập giá mình hằng ngày” theo Người. Các ngài bắt chước Chúa Giêsu sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chống đối để thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha. Các ngài là những con người bình thường như chúng ta, cũng yếu đuối, bất toàn, nhưng các ngài đã biết nhìn lại, sửa đổi cho phù hợp làm con cái Chúa. Khi các ngài chấp nhận thay đổi mình, chính là lúc các ngài vác thập giá đi theo Chúa. Các ngài vượt qua được những tính hư nết xấu, nên lúc đứng trước cây thập giá là sự bắt bớ, lao tù và cái chết, thì dễ dàng vượt qua. Trong hàng ngũ các thánh tử đạo Việt Nam, đã có một Luca Thìn đứng lên từ con người với nhiều khiếm khuyết, để mạnh dạn mất mạng sống vì Chúa. Ngài là quan chánh tổng, có vợ bé, không chăm việc đạo. Nhưng khi nghe lời khuyên nhủ của các linh mục và thân nhân, ngài trở về với Chúa. Cuối cùng ngài đã dùng cái chết để làm chứng cho Chúa.

Các Ngài là người “liều mất mạng sống mình”, chịu ngục tù, chịu róc xương xẻ thịt để đi vào sự sống thật trong Thiên Chúa. Ngày xưa, vua quan buộc cha ông chúng ta bỏ đạo bằng cách bước qua thập giá. Nhưng họ đã từ chối bước qua, liều mất mạng sống để bảo vệ đức tin. Như thánh Têphanô Ven, vị linh mục mới 31 tuổi đã nói: “Cả đời tôi rao giảng về thập giá thì lẽ nào tôi lại giẫm lên thập giá”. Ngài đã chịu tử đạo để giữ lòng trung thành với Chúa.

Từ kinh nghiệm sống đạo của các Ngài cho ta thấy, từ bỏ là điều kiện đầu tiên để ta được tự do, thanh thoát mà theo Chúa. Chọn Chúa là đi trên con đường đau khổ của thập giá. Bao lâu ta chưa dứt khoát ra khỏi mình, bấy lâu ta chưa thể đi theo Chúa.

  1. Con đường nào cho tôi?

Hôm nay Chúa cũng mời gọi ta đi theo con đường Thánh Giá với Người “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.

Chọn Chúa là chọn lội ngược dòng, dám loại bỏ những gì cản trở, ra khỏi ý riêng của mình, dám chịu đau đớn, mất mát. Ta thấy ra khỏi sự ràng buộc của vật chất, tiện nghi hay các mối tương quan đã khó, ra khỏi bản thân càng khó hơn. Tự nhiên thì ta vẫn muốn nuông chiều theo tính xác thịt, muốn thu vén tất cả cho mình. Thế nhưng, sứ điệp của các Thánh Tử Đạo gửi đến cho ta là: Hãy bỏ đi những tự ái, nóng nảy, giận hờn; bỏ đi sự kiêu căng ngạo mạn, sửa đổi cuộc sống, và trung thành theo Chúa. Đó chính là vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa.

Thập giá hằng ngày là những đau thương, thử thách, khó khăn, bệnh tật, hiểu lầm, trái ý, trách nhiệm, bổn phận… Tất cả là thập giá do tha nhân, do hoàn cảnh hay do chính mình tạo ra.

Lạy Chúa Giêsu, khi xưa các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã can trường vác thập giá của mình theo Chúa, thể hiện qua việc chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì tình yêu đối với Chúa và Giáo Hội. Xin cho con nhận ra, và vác thập giá mình hằng ngày một cách vui tươi theo Chúa Giêsu, để nhờ bước theo Người trên đường thập giá, con cùng được bước vào vinh quang phục sinh với Người. Amen.

Về mục lục

.

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Từ ngữ “tử đạo” vốn dễ được mến mộ theo nguyên nghĩa của từ gốc. Tử đạo là làm chứng. Các Thánh Tử đạo là những vị đáng tôn kính cách đặc biệt. Trong Kitô giáo, các Ngài được xếp sau hàng các Thánh Tông đồ và một vài Đấng đặc biệt như Mẹ Maria, Thánh cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy Giả. Thế nhưng, chúng ta cần chân nhận một thực tế đó là hàng Thánh Tử đạo thường mang tính cục bộ của từng tôn giáo. Một vị tử đạo trong tôn giáo này chưa hẳn được trân trọng bởi người tôn giáo khác so với các bậc Thánh hiển tu, nhất là những vi Thánh có đời sống nổi bật về đức ái. Hơn nữa hai từ tử đạo ngày nay xem ra đang bị lợi dụng và cả lạm dụng khiến người ta dễ nghi ngờ, khi mà đang có đó những người ôm bom tự sát làm thiệt hại mạng sống của nhiều người vô tội.

Nói rằng các Thánh Tử đạo là những người chịu chết vì đạo thật không sai. Tuy nhiên cái nhìn này còn hạn chế và mang dáng vẻ tiêu cực. Xin mạo muội gọi các Ngài là những vị “Thánh sống đạo bằng cả giá máu”. Các Ngài sống đạo kính mến Chúa và yêu thương tha nhân bằng cả mạng sống mình.

“Chúa Giêsu nói với mọi người : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9, 23-24). Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu ngõ những lời ấy với tất cả mọi người. Chính vì thế, đã là Kitô hữu thì chúng ta phải là những người sống đạo bằng cả giá máu. Dĩ nhiên là có người đổ máu ra cách hữu hình và có người đổ máu ra cách vô hình. Theo nội dung của bài Tin Mừng trong Thánh Lễ này, xin được gợi ý về một trong những cách thế sống đạo đến hy sinh bằng cả giá máu, đó là trung thành một cách hiên ngang với Chúa Kitô và Lời của Người. “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy…” (Lc 9 26).

Trung thành một cách hiên ngang với Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế: Theo Chúa Giêsu là phải trung thành với công cuộc cứu thế, độ nhân. Phải thực thi đức bác ái với hết mọi người, bất phân chủng tộc, màu da hay chính kiến. Phải sống yêu thương trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp nghịch cảnh. Quả thật cái tâm lý tìm kiếm hiệu năng trước mắt, đã khiến chúng ta tính toán quá nhiều theo cách nghĩ suy nhân loại. Một đôi khi ta cần biết khôn ngoan “đừng quẳng ngọc trai trước mặt heo”. Nhưng cũng đừng quên Thiên Chúa không ngần ngại gieo hạt giống trên các thửa đất, có khi rơi vãi trên cả vệ đường. Chỉ cần có hạt rơi vào đất tốt thì kết quả thu được sẽ lợi hơn nhiều so với phần xem như hoang phí. Hơn nữa, với ơn Chúa và sự cộng tác của con người thì dù là vệ đường, là đất cằn khô, đất gai góc đều có thể trở nên đất tốt. Khi trong tay đã đủ điều kiện vật chất lẫn tinh thần, khi điều kiện ngoại cảnh đang thuận lợi thì sẽ có đó nhiều người tuy khác niềm tin vẫn có thể thi hành việc độ thế cứu nhân. Khi điều kiện còn thiếu, hoàn cảnh còn khó khăn mà ta vẫn kiên trì trong đức ái thì đức ái của ta mới nên giống tình Chúa đã yêu thương ta. Vì khi ấy tình yêu ta dành cho tha nhân mới đậm nét vị tha.

Trung thành và hiên ngang với Lời cứu độ: Một trong những cơn cám dỗ tinh tế ma quỷ gieo vào lòng chúng ta đó là cải biến nội dung lời mạc khải cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài. Dù rằng Hội Thánh dạy ta cần học hỏi, nghiên cứu để phân biệt đâu là ý tác giả Thánh Kinh muốn trình bày theo hình thức văn chương, theo nền văn hóa của từng thời kỳ và đâu là Thánh ý Chúa muốn dạy. Có thể có sự không trùng khớp giữa những gì các tác giả nhân loại trình bày với Ý Chúa muốn dạy. Điều này ta dễ nhận ra trong Cựu Ước và cả trong Tân Ước. Tuy nhiên luôn có đó những lời mà các nhà nghiên cứu đã đồng thuận đúng là những lời đích thị từ miệng Đấng Cứu Thế (ipsisima verba). Lời Chúa, cách riêng lời của của Giêsu như lưỡi gươm sắc bén, phân rẽ tâm hồn. Chính vì thế tính thách đố luôn có trong Lời Chúa. Chúng ta nhận ra điều này nơi miệng các sứ ngôn thời Cựu Ước và cách rõ nét nơi Lời của Đấng Cứu độ. Tin Mừng tường thuật rằng khi nghe những lời của Chúa Giêsu, nhiều Biệt Phái và luật sĩ đã phải tím bầm ruột gan.

Không một ai được phép tự tiện uốn nắn nội dung Lời Chúa vì bất cứ lý do gì. Hãy để cho Lời Chúa trực diện với lòng ta, với tha nhân, với môi trường xã hội, với mọi thể chế, luật lệ của con người. Xin đừng nhân danh hiệu năng mà cắt xén hay cải biên lời Chúa. Xin chớ nhân danh đức ái mà uốn ép lời Chúa cho “mềm mại” và “dễ nghe”. Những điều “dễ nghe” và “mềm mại” thường là thiếu sự thật, ít trung thực và nếu có thì chỉ là phiếm diện. Ánh sáng thì chói chang. Sự thật thì mất lòng. Khi ta trung thành cách hiên ngang với lời cứu độ thì thập giá luôn có đó.

Các tiên tổ anh hùng Tử đạo của chúng ta quả thực là những vị đã sống đạo yêu thương cho đến cùng. Martinô Thọ, Phanxicô Trung, Micae Hy, Emmanuel Triệu…không chỉ yêu thương vợ con, cha mẹ nhiệt tâm, nhiệt tình mà còn yêu thương bà con lối xóm, những người khốn khổ bất hạnh, yêu thương quê hương dân tộc, yêu cả vua quan, những người đang hành hạ mình. Và trên hết các Ngài yêu mến Đấng các Ngài tôn thờ, Thiên Chúa toàn năng, chí tôn, chí thiện. Các Ngài đã trung thành với Thầy Chí Thánh và lời của Người một cách dũng cảm, hiên ngang. “Tâu bệ hạ, đánh Tây thì hạ thần đánh hết mình, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ” (thánh Phanxicô Trung) “ Chúng tôi không phạm tội ác, không chống lệnh vua, không lỗi luật nước, chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu” (thánh Phaolô Khoan). Dòng máu đào đổ ra chỉ là điểm đến của một cuộc đời sống đạo đến cùng mà thôi. Quả thật nếu như máu có đổ đến giọt cuối cùng mà không sống đạo yêu thương thì chỉ là tử nạn chứ không có tử đạo.

Về mục lục

.

VẠN TUẾ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa Nhật ngày 19/6/1988, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nâng 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Dịp khai mạc Năm Thánh 2010, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong sứ điệp gửi các Giám mục Việt Nam có viết : « Việc cử hành Năm Thánh trùng với ngày lễ kính 117 vị thánh Tử đạo hiển vinh của đất nước Đức Cha. Việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài sẽ giúp toàn thể dân Chúa tại Viêt Nam kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày » (Trích Sứ điệp gửi các Giám mục Việt Nam dịp Năm Thánh 2010). Thư của Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám Mục Hà Nội, nguyên Chủ tịch HĐGMVN gửi cộng đoàn dân Chúa nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày tôn phong 117 Hiển Thánh Tử đạo Việt Nam có đoạn : « Đây là cơ hội giúp dân Chúa củng cố đức Tin qua đức Cậy nhờ đức Ái (số 1) ; Giúp cho Giáo hội Việt Nam sống chan hòa trong tình hiệp thông và hiệp nhất (số 2) ; Thúc đẩy chúng ta hăng say hơn trong sứ vụ loan báo Tin Mừng (số 3) ; là dịp để cháu con noi gương các Ngài sống xứng đáng những người con thảo của Cha trên Trời (số 4) ».

Những gợi ý sống trên làm chúng ta nhớ lại bài giảng của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngày 19/6/1988 như sau : « Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm thấy nhu cầu đứng chung quanh các thánh, để xe kết tình huynh đệ kết nghĩa, mến thương … ».

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, khởi đi từ những bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo. Sử liệu ghi lại sự đặt chân của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, tiếp theo là Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v.v. Ba trăm năm loan báo Tin Mừng, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng đầy đau thương và đẫm nước mắt. Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc! Tuy nhiên, một trang sử mới đã mở ra nhờ sự hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như hàng hàng lớp lớp người vì tử đạo đã nằm xuống với muôn cực hình cay đắng, khốn khổ. Dòng máu của các ngài đã đổ ra, tuôn trào, tưới gội Hội Thánh Việt Nam, làm cho Hội Thánh lớn lên và phát triển, không ngừng sinh hoa kết quả tươi tốt, đúng như lời Tertullien đã viết: « Máu tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu ».

Hôm nay đây, chúng ta hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các ngài, trong hân hoan và hãnh diện. Chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài và cùng nhau hô vang : Vạn vạn tuế Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế Các Thánh Tử Đạo anh hùng.

Làm sao kể lại cho hết tất cả 117 vị Tử Đạo, 1 vị á thánh, trong số đó có 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo Dân, một phụ nữ, Thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ sáu người con. Còn có biết bao nhiêu vị cũng đã « tử vì Đạo » mà chưa được tuyên phong, cũng được mừng kính. Các ngài thuộc đủ mọi thành phần, tuổi tác, hoàn cảnh sống : công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số những nhà truyền giáo « ngoại quốc » Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt nam truyền Đạo và chết vì Đạo.

Thánh Vinh Sơn Liêm, Dòng Đaminh là người Việt Nam tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Cha thánh Anrê Trần An Dũng Lạc bị trảm quyết năm 1838. Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như: gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu lên rốn rồi cho bấc vào đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v. Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống. Bị xử lăng trì, phân thây ra từng mảnh hay là xử bá đao là những hình phạt man rợ và hiểm độc nhất. Tổng số 79 vị bị chặt đầu. 18 vị bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.

Lời Chúa trích sách Khôn Ngoan : “Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài” ( Kn 3, 1 ). Quả quyết như trên có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử: thực ra đau khổ đã va chạm thân xác các ngài đến ghê sợ như : tùng xẻo, lăng trì, chặt đầu. Tuy nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp tục quảng diễn tư tưởng: «Đối với mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thực ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng cậy trông của các nài cũng không chết » ( Kn 3, 2 – 4 ).

Đúng là : « Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời » (Thánh Phêrô Truật) ; « Thân xác tôi ở trong tay quan… nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được » (Thánh Phaolô Tịnh)

Các ngài là chứng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, các ngài được nhiều ơn vĩ đại, « vì Thiên Chúa đã luyện lọc các ngài và thấy các ngài xứng đáng, Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu » (Kn 3, 5- 6). Trong Chúa Kitô các ngài được Thiên Chúa cứu rỗi.

Chúng ta, dòng giống các vị tử Đạo. Hôm nay, hãy nghe hết lời sách Khôn Ngoan: « Trong ngày phán xét, người công chính sẽ chói sáng và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau ». (Kn 3, 7) Những tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn quang minh rữc rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn Ngoan: « Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài đến muôn đời » (Kn 3, 17).

Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp chúng con biết chân thành chọn lựa đi theo Chúa, trung thành làm chứng cho đức tin và nhiệt thành yêu mến Giáo hội bằng tinh thần cộng tác, hiệp thông và đồng trách nhiệm trong sứ mạng loan báo Tin Mừng trên quê hương, đất nước chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giê-su dùng dụ ngôn 10 cô trinh nữ cầm đèn dầu đi đón chàng rể, trong số 10 cô trinh nữ này, có 5 cô dại khờ và 5 cô khôn ngoan, để dạy chúng ta phải luôn sẵn sàng chuẩn bị tỉnh thức đón lúc Chúa đến.  Trong bài Tin mừng hôm nay chúng ta nghe dụ ngôn về những nén bạc. Chúng ta thấy cả ba người đầy tớ trong dụ ngôn đều được chủ trao cho một số vốn. Người thứ nhất được chủ trao cho 5 nén bạc, người thứ hai 2 nén, và người thứ ba 1 nén.  Người thứ nhất và người thứ hai nhận biết sự tín nhiệm của ông chủ, cố gắng tìm cách để sinh lợi cho chủ và được chủ khen là những đầy tớ trung thành.  Còn người thứ ba cũng tỏ ra hiểu trách nhiệm, nhưng vì không hoàn toàn tín nhiệm chủ, hay nghĩ rằng được ít hơn 2 người kia, cho nên không cố gắng đầu tư làm lời cho chủ.  Chúng ta thấy anh đã không làm mất vốn của chủ, nhưng dưới con mắt của ông chủ như thế thì không xứng đáng, vì thế anh bị chủ gọi là “tên đầy tớ vô dụng.”

Có một câu hỏi rất quan trọng cho chúng ta là: Tại sao Chúa kể cho chúng ta nghe dụ ngôn này?  Hay nói một cách khác: Ý nghĩa của dụ ngôn là gì?  Ông chủ đi xa là ai? Ai là những người đầy tớ?  Những nén bạc ám chỉ điều gì?  Ông chủ đi xa là chính Chúa Giê-su. Sau khi phục sinh, Người đã về trời và sẽ trở lại trong ngày tận thế để phán xét.  Những người đầy tớ là tất cả chúng ta, ông bà anh chị em và tôi.  Những nén bạc ám chỉ những ơn lành hồn xác Chúa ban, đó là cuộc sống, đức tin, cộng đoàn giáo xứ, gia đình, con cái, trí khôn, tài năng, thời giờ, tiền bạc, của cải, và nhiều thứ khác nữa.  Trong lúc đi xa, Chúa kỳ vọng và mong ước chúng ta sử dụng những ơn lành để xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Người.

Trong kho truyện cổ tích của Ấn Độ, có một câu truyện về một đôi vợ chồng vừa lười lại vừa bướng bỉnh.  Một hôm hai vợ chồng đang ngồi ăn cơm tối, thì bỗng trời nổi gió mạnh, như ngày hôm nay ở Tulsa chúng ta đây.  Gió thổi mạnh vào ga-ra và làm cho cánh cửa vào nhà mở tung ra. Thấy thế chồng nói với vợ: – Bà ra đóng cửa ga-ra lại đi kẻo gió lạnh thổi vào nhà. Người vợ lắc đầu nói: – Ông ra mà đóng. Người chồng không chịu thua, nên đáp trả: – Bà ra mà đóng.

Thế là hai vợ chồng cứ ngồi ở đó lừa cho nhau về việc đi đóng cửa. Thấy việc không ổn, người chồng bỗng nảy ra một ý kiến. Anh nói với vợ: – Bây giờ hễ ai lên tiếng trước thì người đó phải ra đóng cửa ga-ra, bà có chịu không? Người vợ đồng ý. Từ lúc đó, cả hai vợ chồng, chẳng ai nói với ai lời nào nữa. Họ đã giữ im lặng cho đến lúc đi vào phòng ngủ. Thế là cửa ga-ra và cửa vào nhà đêm đó bỏ ngỏ. Vì nhà không đóng cửa, nên đêm đó con chó của hàng xóm đã vào nhà dọn hết sạch những thức ăn ở dưới bếp mà họ đã để dành cho ngày hôm sau.

Sáng hôm sau, lúc vừa từ giường đi ra, cả hai vợ chồng đều chưng hửng vì mọi thứ để ăn sáng đã bị dọn sạch. Nhưng vì chợt nhớ đến điều đã cam kết với nhau tối hôm trước, nên chẳng ai nói với ai lời nào. Sau khi làm vệ sinh cá nhân buổi sáng, hai vợ chồng thấy không còn gì ăn sáng, thế là người vợ lặng lẽ xách giỏ đi chợ. Còn chồng thì ngồi đó chờ ăn sáng và nghĩ cách là làm sao để cho vợ anh phải lên tiếng trước mình. Đang lúc ngồi suy nghĩ thì có một anh thợ hớt tóc dạo đi ngang qua.  Anh vẫy tay và chỉ vào đầu mình. Anh thợ hớt tóc vào chào chủ nhà, nhưng chủ nhà chẳng nói một lời nào. Anh thợ hớt tóc nghĩ có lẽ chủ nhà bị câm điếc, vì thế không cần chờ ý kiến của chủ nhà, anh thợ hớt tóc lấy đồ nghề ra hớt tóc cho chủ nhà.

Thấy bộ mặt dễ ghét và lạnh lùng của chủ nhà, nên anh thợ hớt tóc nẩy ra một ý nghĩ thay vì hớt tóc đàng hoàng, anh lại chỉ hớt một bên, còn bên kia vẫn để nguyên. Nhìn vào gương, thấy mái tóc của mình như thế, chủ nhà giận dữ trố mắt nhìn chứ chẳng nói năng gì. Anh thợ hớt tóc bắt đầu đâm lo, vì anh nghĩ rằng có lẽ người này đã bị ma quỉ ám nhập gì đó. Thế là anh vội vã cuốn gói chạy đi mất.

Khi anh thợ hớt tóc đi khỏi rồi thì người vợ đi chợ về. Vừa bước chân vào nhà, thấy đầu tóc chồng quá dị hợm và buồn cười, nên buột miệng hỏi: – Ông làm sao thế, có khùng không?  Ngay lúc ấy người chồng phá lên cười một cách đắc thắng. Anh nói với vợ: – Thế là từ nay công việc đóng cửa ga-ra là phần của bà đó nhá, vì bà đã lên tiếng trước tôi mà.  Chỉ vì lười biếng và bướng bỉnh mà cả hai vợ chồng kia đã mất hết đồ ăn sáng hôm ấy, và người chồng phải chịu mang một cái đầu tóc quái gở.

Ông bà anh chị em thân mến.  Mỗi người đều được Chúa ban cho một số vốn để sinh sống. Vốn ấy là sức khỏe, thời gian, khả năng… Bổn phận của chúng ta là làm sao để số vốn đó sinh lời, để khi chết hay đến ngày phán xét ra trước tòa Chúa, chúng ta trao lại cho Chúa cả vốn lẫn lời. Đối với Chúa, năm nén, hai nén, hay một nén, điều đó không quan trọng nhưng Chúa muốn mỗi chúng ta phải biết làm sao cho những nén bạc ấy sinh lời. Chúng ta đừng so đo với người khác về khả năng Chúa ban cho, cũng đừng kiêu căng vì người khác ít khả năng hơn mình.

Nén bạc Chúa trao cho chúng ta nói lên rằng chúng ta không phải là đầy tớ nhưng là người cộng tác với Chúa để mở mang, xây dựng Nước Chúa. Chúa không đòi hỏi điều gì quá sức chúng ta.  Chúa chỉ muốn chúng ta có lòng bác ái, hy sinh và quảng đại, vì thế chúng ta phải biết dùng hết khả năng mình mà làm sinh lời những nén bạc Chúa trao. Vấn đề là chúng ta có lắng nghe và thực hành những điều Chúa dạy hay không mà thôi.

Chúng ta tạ ơn Chúa vì đã yêu thương, tín nhiệm và trao cho chúng ta những nén bạc.  Xin Chúa giúp chúng ta cố gắng biết dùng hết khả năng mình mà đầu tư, làm cho những nén bạc ấy sinh lời, để ngày chúng ta đến đứng trước tòa Chúa phán xét, chúng ta được lắng nghe lời dịu dàng của Chúa: “con hãy vào mà hưởng niềm vui hạnh phúc của chủ con.”

Về mục lục

.