Chúa Nhật XXXII thường niên_A
và Cung hiến thánh đường Latêranô
Lời Chúa: Ed 47, 1-2. 8-9. 12; 1 Cr 3, 9b-11. 16-17; Ga 2, 13-22
và
Kn 6,12-16; Tx 4,13-18; Mt 25,1-13
********
1. Khôn – Dại (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Chúa Nhật lễ Cung Hiến Thánh Đường Latêrranô (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)
3. Tục hóa đền thờ (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Sạch tâm hồn (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
5. Cung hiến đền thờ tâm hồn (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí. Gp. Xuân Lộc)
6. Khôn ngoan và tỉnh thức (Trầm Thiên Thu)
7. Đền thờ tâm hồn (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong ngôn ngữ đời thường, khôn và dại là hai tính từ chỉ hai tình trạng đối lập nhau. Tuy vậy, để kết luận một người nào đó khôn hay dại lại không dễ dàng chút nào. Một người buổi sáng khôn ngoan bỗng buổi chiều trở thành dại khờ vì có hành vi không tốt. Khôn dại cũng được nhận định theo cảm nhận chủ quan của mỗi người. Ranh giới giữa khôn và dại thật mỏng manh, khoảng cách giữa dại và khôn thật gần gũi. Vì thế mà cổ nhân dạy: “Khôn ba năm dại một giờ”, hay “Kiếm củi ba năm thiêu trong một giờ”. Một hành vi sai trái có thể làm cho người khôn nên dại; một cử chỉ khôn ngoan có thể biến người dại nên khôn. Một phút dại khờ có thể làm một người khuynh gia bại sản, một giây khôn ngoan có thể làm cho một người trở nên phú quý cao sang.
Hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người kể lể công phúc đã làm và cảm tạ Chúa đã cho mình được như thế. Người ta bảo, người này khôn.
Người kia chỉ đấm ngực nhận mình là kẻ tội lỗi. Người ta nói, người này dại.
Khi rời Hội đường trở về, lời cầu nguyện của người kể lể công phúc không được đón nhận. Người ta bảo, người này dại.
Lời cầu nguyện của người nhận mình đầy tội lỗi được Chúa nhận lời. Người ta nói, ông này khôn.
Năm cô trinh nữ mang đèn mà không đem theo dầu bị kết án là những người dại dột. Các cô sống mà không có định hướng cho tương lai. Các cô chỉ a dua theo người ta đến đám cưới. Quan niệm của các cô chỉ mang tính nhất thời, thiếu sâu sắc. Các cô quá chú ý đến việc trang điểm và y phục bề ngoài, mà quên rằng chàng rể có thể đến sớm và cũng có thể đến muộn.
Trong truyền thống Khánh Kinh, quan niệm về khôn – dại không giống như cách suy nghĩ của người đời. Thánh Phaolô đã quảng diễn điều đó trong thư gửi giáo dân Côrinhtô: “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo. Nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người. Ðó là lời Chúa” (1 Cr 1,23-25). Theo quan niệm của người đời, người khôn là người biết làm lợi cho bản thân; trong quan niệm của Thánh Kinh, người khôn là người biết hy sinh cho kẻ khác. Cũng một sự kiện Đức Giêsu chịu treo trên thập giá, Người có đức tin nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa; người vô tín chỉ thấy nhục nhã khổ đau.
Ngày nay, với tiến bộ của khoa học, người ta đang dự tính sẽ nghiên cứu con người khi còn là phôi thai trong lòng mẹ, để lọc bớt những yếu tố có thể làm chậm phát triển trí tuệ. Như thế, trong tương lai có lẽ chỉ hoàn toàn là những người khôn hiện hữu trên thế gian này. Tuy vậy, nếu người ta khôn ngoan về trí thông minh, biết đâu lại quá dại dột trong cách đối xử với nhau. Chính vì thế mà định nghĩa khôn dại thật là lắt léo và phức tạp.
Trong cánh đồng cuộc đời, cỏ lùng và lúa cùng mọc lên. Trong cuộc sống nhân sinh, người khôn và kẻ dại cùng hiện hữu. Người dại thường phải chấp nhận một số phận hẩm hiu, thua thiệt, người khôn lại mang số phận phú quý cao sang. Người công giáo tin rằng với nỗ lực cố gắng của bản thân và với ơn phù trợ của Chúa, người ta có thể trở thành người khôn ngoan thực sự.
Khôn ngoan và dại dột không chỉ là hai hạng người hiện hữu trong cuộc sống, nhưng đó còn là hai thái cực trong cùng một con người. Nơi mỗi người luôn có sự khôn ngoan, nhưng đồng thời cũng vẫn còn sự dại dột, vì thế mà chúng ta phải khôn ngoan thận trọng để không hành xử theo những quyết định vội vàng do sự ích kỷ gây nên.
Dưới ánh sáng của mạc khải Kitô giáo, chúng ta nhận ra Đức Khôn Ngoan được diễn tả trong Cựu Ước chính là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể (Bài đọc I). Nơi Đức Giêsu, Đức Khôn Ngoan của Cựu Ước đã được “ngôi vị hóa”. Tác giả của Bài đọc I đã diễn tả về Đức Khôn Ngoan như một nhân vật, một con người: “Ai tìm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp… Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà”. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người để đến gặp gỡ thân thiện với con người trần gian. Những ai nghe Đức Giêsu giảng dạy đều thán phục và trầm trồ khen ngợi, “vì người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22). Bằng cuộc sống và giáo huấn của Người, Đức Giêsu dạy cho con người thay đổi quan niệm về khôn – dại. Người khôn ngoan không chỉ là người có “chỉ số IQ” cao như ngày nay người ta thường nhận định, nhưng là người biết sống vì tha nhân, biết quan tâm đến những người xung quanh mình. Chúng ta hãy đón nhận giáo huấn của Chúa. Hãy để Lời Chúa thanh luyện để chúng ta đạt được sự khôn ngoan đích thực.
Trong những ngày này, theo truyền thống lâu đời trong Giáo Hội, chúng ta đến cầu nguyện bên mộ của những người thân. Hình ảnh năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan cũng giúp chúng ta xét mình về tình trạng hiện tại của đời sống. Vâng, nếu Chúa đến gọi chúng ta, chúng ta sẽ ra sao? Liệu chúng ta có chuẩn bị đủ “dầu” là lòng mến Chúa yêu người, là sự bao dung đức độ và là tình bác ái đối với anh chị em chúng ta?
CHÚA NHẬT LỄ CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta hãnh diện về ngôi nhà của mình. Nhiều người cố gắng công sức và nhiều khi tiêu rất nhiều tiền để gìn giữ ngôi nhà khang trang và sạch sẽ từ bên ngoài vào đến bên trong. Phải thú nhận rằng, lúc mới sang định cư tại đây tôi rất ngạc nhiên và buồn cười khi thấy người Hoa Kỳ trồng cỏ, rồi bón phân và tưới nước nuôi cỏ mọc lên. Rồi sau đó mua những máy móc và bỏ công sức dứơi ánh nắng mặt trời oi bức vào mùa hè cắt cỏ bằng phẳng cho đẹp mắt. Nhiều người trả tiền rất hậu cho những công ty để gìn giữ và làm đẹp quang cảnh bên ngoài. Ngoài ra, mỗi người trong gia đình đều có những công việc để gìn giữ sạch sẽ, ngăn nắp, cũng như tạo một khung cảnh ấm cúng cho ngôi nhà. Thật vậy, ngôi nhà phản ảnh, tiêu biểu cho người ở trong ngôi nhà đó, và biểu lộ sự tôn trọng cũng như ân cần khi tiếp đón bạn bè và khách thăm viếng.
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta mừng lễ Cung hiến đền thờ thánh Gioan Lateran vì là nhà thờ chánh toà của Đức Giáo Hoàng với tư cách là Giám mục của Rô-ma. Đền thờ này đã được hoàng đế Constantinô xây dựng vào năm 320 để cảm tạ, tôn vinh danh Thiên Chúa, và để dân Chúa có nơi tụ tập, đọc kinh cầu nguyện, lãnh nhận ơn Chúa và các bí tích. Ngôi thánh đường này biểu hiệu cho Đức giáo hoàng và toàn thể mọi người trong Giáo hội trên toàn thế giới. Ngôi đền thờ Latêranô đã trải qua biết bao nhiêu biến cố, trải qua bao nhiêu thăng trầm, biết bao nhiêu thử thách, khó khăn trong lịch sử của Giáo hội. Ngày nay, đền thờ Latêranô vẫn đứng sừng sững, cao vút như muốn nói với mọi người Thiên Chúa luôn hiện diện và yêu thương dân Người.
Ông bà anh chị em thân mến. Trong ngày mừng kính đền thờ thánh Gioan Lateran hôm nay, chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giê-su thanh tẩy đền thờ Giêrusalem. Chúng ta nhận thấy câu chuyện này có 2 phần, thứ nhất là hành động xua đuổi trong đền thờ của Chúa, và thứ hai là sự tiên đoán, báo trước về ngày đền thờ bị phá hủy. Nhưng chủ đích của câu chuyện trong bài Tin mừng không nhắm vào hành động thanh tẩy và số phận của đền thờ, nhưng nói về sứ vụ của Chúa Giê-su, là sự hiện diện của Thiên Chúa nơi trần gian. Tuy trong thời điểm bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, nhưng Chúa Giê-su đã đề cập đến cái chết và sự phục sinh của Người, để minh chứng cho những điều Người giảng dạy và để mọi người tin vào Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Qua câu chuyện thanh tẩy đền thờ của Chúa, chúng ta ghi nhận những điều quan trọng sau đây. Thứ nhất, đền thờ hay nhà thờ của chúng ta đây, là nơi tôn nghiêm vì là nơi Chúa ngự và là nơi chúng ta đến để cầu nguyện, thờ phương và lãnh nhận ơn Chúa và các Bí tích, vì vậy chúng ta phải cố gắng hết sức tôn trọng sự thiêng liêng và thánh thiện và gìn giữ sạch sẽ, trang nghiêm. Thứ hai, chính Chúa Giê-su là Đền Thờ, bảo đảm sự hiện diện, tình yêu và những ơn sủng của Thiên Chúa trên trần gian. Vì chỉ có Chúa Giê-su Kitô mới là Ðền Thờ đích thực như chính Người đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng hôm nay: “Các ông cứ phá hủy Ðền Thờ này đi. Nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại.” Và lời này được thánh Gioan giải thích ở cuối bài Tin mừng: “Ðền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người.” Tất cả mọi người chúng ta được kêu gọi đi vào Đền Thờ này để được gặp Thiên Chúa, để được thánh tẩy và nhận những ơn sủng của Chúa. Chỉ trong và qua Thân Thể Chúa Ki-tô, chúng ta mới thờ phượng Thiên Chúa một cách đích thực.
Thứ ba, đền thờ không phải chỉ là bằng gỗ, bằng gạch đá, nhưng còn là Giáo hội vì là Thân Thể Phục Sinh Của Chúa Ki-tô, tức là cộng đoàn, giáo xứ những người tin Chúa, và do đó phải phản ảnh sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa con người trần thế. Và thứ tư, qua Bí tích Thánh tẩy, mỗi người chúng ta đã trở nên đền thờ của Thiên Chúa, nghĩa là mỗi người chúng ta đã được thánh hóa để trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô không ngần ngại khẳng định: “Ðền thờ của Thiên Chúa chính là anh (chị) em.” Hơn thế nữa, ngài còn nói: “Thân xác anh (chị) em là Ðền Thờ của Thánh Thần.” Vì thế, chúng ta phải gìn giữ đền thờ ấy luôn tốt lành, thánh thiện từ lời nói, tư tưởng, hành động và cách sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Ngày kính lễ cung hiến đền thờ hôm nay, nhắc nhở chúng ta về ngôi nhà thờ mà hằng ngày, hằng tuần chúng ta đến cầu nguyện và thờ phượng kính mến Chúa, và về “Đền Thờ Cộng Đoàn Giáo Xứ” của chúng ta, và hơn nữa, cũng nhắc nhở về “Đền Thờ Gia Đình” của chúng ta, là những nơi chúng ta gặp gỡ Chúa hằng ngày. Như ngôi nhà của gia đình, mỗi người có những bổn phận, trách nhiệm, công việc để gìn giữ ngôi nhà khang trang, sạch sẽ và đẹp, cũng như hãnh diện về ngôi nhà của mình, mỗi người Ki-tô hữu, mỗi giáo dân trong giáo xứ cũng có những trách nhiệm và bổn phận, thứ nhất, về vật chất, tài năng và thời giờ để xây dựng và gìn giữ ngôi nhà thờ khang trang, xứng đáng là nơi có sự hiện diện của Chúa và là nơi thờ phượng. Chúng ta phải tỏ lòng tôn kính khi chúng ta vào nhà thờ. Và thứ hai, vì mọi người giáo xứ chúng ta kết hợp lại, trở thành “Đền Thờ Chúa Ki-tô” nên chúng ta cũng có bổn phận về tinh thần để làm sáng danh Chúa, qua đời sống chứng tá đức tin, qua đời sống tốt lành, thánh thiện và qua lòng bác ái, quảng đại. Như Chúa Giê-su Ki-tô là viên đá góc và là nền, mỗi Kitô hữu, mỗi giáo dân cũng là những viên gạch sống động xây đắp ngôi Ðền Thờ Giáo Hội, và xây dựng “Đền Thờ Giáo Xứ.” Do đó, chúng ta phải luôn sống phù hợp với nơi thờ phượng là nhà thờ, và nơi Chúa ngự là chính bản thân và gia đình chúng ta, và có lòng hy sinh phục vụ và quảng đại trong tinh thần hiệp nhất làm Sáng danh Chúa.
Chưa bao giờ thân xác con người lại bị xem thường như ngày hôm nay. Thân xác được coi như món hàng để trao đổi tình cảm, trao đổi công việc. Họ dùng thân xác để kiếm tiền, để tiến thân hay tệ hơn chỉ là để hành lạc thỏa man thú tính của mình.
Đây là một vấn nạn rất nan giải cho thời đại hôm nay. Khi mà người ta không còn nhìn nhận sự linh thánh nơi thân xác thì người ta sẽ dùng thân xác để tìm mối lợi, đôi khi chỉ là trao đổi thỏa mãn một nhu cầu sinh lý cho nhau mà thôi.
Người ta có rất nhiều lý do để đưa nhau vào nhà nghỉ để hành lạc. Ngày xưa nhà nghỉ đơn thuần là để dành cho khách lỡ đường, nhưng ngày này nói đến nhà nghỉ là người ta liên tưởng đến một cuộc trao đổi đồi bại của thân xác con người. Của những người yêu nhau nhưng chỉ tìm thỏa mãn tính xác thịt. Của những người ham của lạ, thích “trốn chúa lộn chồng” thiên hạ. Của những học sinh nhẹ dạ thích làm chuyện người lớn. Của những kẻ có tiền để rửa tiền nơi thân xác những cô gái chân dài thích tiền và cần tiền. . .
Đó là lý do mà các nhà nghỉ mọc ra như nấm ở mọi nơi, mọi chốn. Không chỉ các thành phố lớn mà cả thôn quê cũng tràn lan. Đối tượng vô nhà nghỉ cũng thật phong phú. Học sinh có, sinh viên cũng có. Người trẻ có và người già cũng có. Kẻ nghèo hèn cũng có, người giầu sang cũng đến. Nhưng đáng tiếc đều là những quan hệ bất chính và tội lỗi mới dẫn nhau vào nhà nghỉ . . . !
Xem ra con người hôm nay coi thường thân xác đến mức độ dễ dãi với bản thân và với nhau. Có những người dùng thân xác để kiếm tiền và điều đáng tiếc là họ không bao giờ hối hận vì điều mình đã làm. Mới đây công an đã phá đường dây mại dâm có hot girl từng đoạt giải người đẹp phục vụ cho 2 đại gia với giá 1.000 USD. Một trong hai cô chính là người mẫu Hoàng Hải Yến và người cầm đầu là Nguyễn Văn Hoàng, biệt danh Hoàng “mẫu” .
Khi bị bắt gã tú ông này thú nhận, vì kiếm tiền quá dễ lại nhẹ nhàng, chỉ sau vài cú điện thoại kết nối là đã đút ví được vài trăm đô la nên gã bất chấp tất cả.
Hóa ra kẻ cần tiền, kẻ cần tình đều có thể dùng thân xác để đạt mục đích. Điều đáng nói là họ không nhận ra sự nhơ bẩn ấy mà vẫn bình an vô sự. Thân xác đã đánh mất sự linh thiêng thì còn đâu giá trị thân xác là đền thờ của Chúa? Đền thờ tâm hồn đã bị tục hóa bởi đồng tiền và lạc thú! Xem thường thân xác cũng đồng nghĩa xem thường nhân phẩm của nhau. Còn đâu nhân phẩm khi dùng thân xác để kiếm lợi danh?
Lời Chúa hôm nay tả về việc Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem trong ngày lễ Vượt Qua. Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”.
Thái độ của Chúa Giê-su xem ra thật khác thường. Ngài không nhẫn nại bao dung như tấm lòng vốn có của Ngài. Ngài thẳng tay loại trừ. Ngài bất chấp nguy hiểm để dọn dẹp lại đền thờ. Ngài phẫn nộ khi thấy Đền thờ bị lạm dụng. Đền thờ bị ô uế, đền thờ đánh mất linh thiêng khi biến thành nơi buôn bán trao đổi tiền bạc. Ngài đã làm tất cả để trả lại sự trong sạch, vẻ đẹp cho đền thờ
Con người mọi thời đại đều bị cám dỗ trần tục hóa đền thờ, trần tục hóa niềm tin tôn giáo như những kẻ buôn bán đổi tiền được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Họ không nhìn thấy sự linh thánh nơi đền thờ vật chất, và cũng không bao giờ nhìn nhận sự thiêng liêng nơi đền thờ thân xác con người. Đó là lý do nhà thờ hôm nay vẫn rộ lên những cuộc bán buôn quanh nhà thờ. Đó cũng là lý do người ta chỉ cần thỏa mãn lạc thú trên thân xác mà bất chấp tất cả lề luật của giáo quyền hay chính quyền.
Nếu Chúa Giê-su hôm nay nhìn đến đền thờ là thân xác chúng ta, Ngài có hài lòng hay ngài vẫn phải nhất quyết thanh tẩy đền thờ của Ngài. Đền thờ của chúng ta là thân xác đã bị ô uế bởi danh lợi thú. Đền thờ là tâm hồn đã bị hoen ố bởi đam mê thấp hèn. Đền thờ đã bị tục hóa vì chỉ để tìm kiếm lạc thú hay đồng tiền bất chính.
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến đền thờ Latêranô. Ðền thờ Latêranô được xem như là đền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ của thành Rôma và của toàn thế giới. Đền thờ là nơi Chúa ngự, xin cho chúng ta biết dùng đền thờ để tôn vinh, chúc tụng Chúa. Thân xác con người cũng là nơi Chúa ngự, xin cho chúng ta biết kính trọng thân xác mình và tha nhân. Xin đừng lạm dụng thân xác như món hàng trao đổi, mà biết gìn giữ vẻ đẹp thanh cao nơi thân xác con người là hình ảnh của Chúa. Amen
.
Sự thu hút nơi cuộc sống hôm nay là xinh đẹp, lắm tiền nhiều của, khôn ngoan, có tài, có đức… Giới tri thức thì quan tâm đến học để lấy bằng cấp, nhằm mưu ích cho bản thân, gia đình xã hội. Tầng lớp bình dân, ưu tư nhiều hơn cả là công ăn việc làm, là mau chóng thoát nghèo. Lưu ý đến lãnh vực riêng tư cá nhân, ta sẽ thấy đa số mọi người đang cố gắng làm đẹp, làm giàu cho chính mình theo chủ trương “phận ai nấy lo”.
Trách nhiệm, bổn phận, có phải là thước đo về “công bằng tình thương” giữa con người với nhau, giữa gia đình và xã hội hay không? Vẻ đẹp riêng tư liên đới với ích chung cộng đồng, nhất thiết phải được duy trì và phát triển toàn diện, nếu không chỉ là “khẩu hiệu”. Cái biết lý thuyết và thực tế có thể hòa nhập làm cho cuộc sống phong phú, niềm vui bình an và hạnh phúc được chia sẻ. Xây nhà cao cửa rộng mà thiếu vắng con cháu, có gì vui vẻ đâu ! Giầu có địa vị mà con cái hư hỏng, sao gọi là hạnh phúc ! Đẹp người xấu nết, thông thái mà cư xử vụng về, diện mạo dễ coi mà tâm hồn dơ bẩn, mấy ai có thể vỗ tay khen thưởng ?
Chúa Giêsu phải nổi giận vì con người “vụng dại” đã làm ô uế đền thờ, vì lợi nhuận vật chất, họ tự thay đổi nơi thờ phượng thành nơi buôn bán. Người bình thường nhất họ còn phân biệt được, chỗ ăn, chỗ ngủ, không thể giống nhau. Thời giờ làm việc, lao động, và thời gian ở bên người yêu phải khác nhau. Thiên Chúa ban cho con người 6 ngày để làm việc lao động, lẽ công bằng mà con người phải sống bác ái và nhớ về tổ tiên dòng tộc, nhớ đến Thiên Chúa cội nguồn là 1 ngày, xét xem có phải quá ít không ? Ai cũng có nhà cửa, ruộng đất tài sản riêng, vậy mà người ta còn kéo về đền thờ để buôn bán, kinh doanh, sao có thể gọi là đẹp lòng Chúa.
Sống có lý có tình, hay sống thế nào để lương tâm không hổ thẹn với trời đất, nghĩa là người ta cần phải biết chú ý đến vẻ đẹp của tình yêu. Đền thờ vật chất, người Kitô hữu chúng ta còn lau chùi hàng ngày hàng tuần để khỏi dơ bẩn. Đền thờ tâm hồn, tất nhiên cũng phải sạch đẹp để đời sống cầu nguyện, kết hiệp của chúng ta xứng hợp với Thiên Chúa tình yêu. Hôm nay Chúa Giêsu sẽ không bện dây thừng để đánh đuổi người buôn kẻ bán ra khỏi thánh đường nhà thờ. Chỉ trong niềm tin, ta mới hiểu Chúa vẫn đang giao trách nhiệm ấy cho Giáo Hội, cho từng người Kitô hữu chúng ta phải bảo vệ nhà thờ, nhà cầu nguyện, nơi được thánh hóa cho sự hiện diện của Chúa.
Dù ở điều kiện nào, câu tục ngữ “nhà sạch thì mát…” cũng thích hợp và cần thiết để ta có một bầu khí trong lành. Khi thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa cho thấy sự sạch đẹp bên ngoài, hòa nhập với tình mến bên trong của tâm hồn mới đủ chất đủ lượng. Ngày nay, đền thờ vật chất ta có thể dùng thuốc tẩy rửa đa năng để làm sạch những cáu bẩn; đền thờ tâm hồn muốn sạch đẹp phải tẩy bằng cầu nguyện, bằng đời sống các Bí tích.
Ở đời, người ta dễ lẫn lộn giữa cái đẹp và cái nết, giữa hình thức và nội dung. Dâng của lễ toàn thiêu, dâng tấm lòng lên trước nhan Thiên Chúa, một việc làm tự nguyện vô cùng ý nghĩa. Nhưng người ta đặt ra qui định chiên bò phải được đền thờ kiểm duyệt, tiền phải là tiền của đền thờ mới giá trị…, hết sức vô lý và xúc phạm ! Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho đền thờ, họ lại bực tức nghĩ Ông Giêsu là kẻ gây rối trật tự. Chúa Giêsu lưu ý tới đền thờ tâm hồn, người Do Thái lại hiểu về đền thờ vật chất. Chúa nói : “các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Họ nói đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao? “
Trong tương quan xã hội hôm nay, người ta rất dễ bị gục ngã bởi những lời nói ngọt lịm, trau chuốt và đầy lễ độ. Có người chủ trương “sống đâu âu đó”; người khác lại cho rằng “văn hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm tiền”. Chúa Giêsu lên tiếng phản đối những ai đang sống an phận trong im lặng nhút nhát. Dù đơn độc Chúa vẫn cương quyết thanh tẩy đền thờ, trả lại ý nghĩa thánh thiêng. Có thể “im lặng là vàng”, nhắm mắt làm ngơ về những việc làm xấu, ta sẽ được thang điểm cao trong mắt người khác, nhưng liệu tâm hồn ta có bình an hạnh phúc không ? Trong cư xử “dĩ hòa vi quí”, đôi khi ta không ngần ngại, cố gắng để nặn ra những điều thật phù hợp với suy nghĩ hay sở thích của anh chị em mình, để rồi tâm hồn ta lại trống rỗng, khiếp sợ, lỡ phải thiệt thân. Thật đáng tiếc khi sự sạch đẹp vẫn luôn giằng co trong tâm tư của người mang danh Kitô.
Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại, mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa hẹn gặp con người. Tâm hồn mỗi người có cấu tạo giống nhau, nhưng thực tế sẽ khác, khi tâm hồn năng lãnh nhận Bí tích để được sạch đẹp. Ý thức căn bản của người Kitô hữu là hướng tới hạnh phúc Nước Trời, ta không thể để Đền Thờ tâm hồn bất xứng, hy vọng chúng ta sẽ thường xuyên giúp nhau canh tân đời sống phù hợp với tình yêu Chúa. Amen.
.
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kỷ niệm ngày Cung hiến đền thờ Laterano. Chắc chắn ngày lễ này có một tầm mức quan trọng và ý nghĩa đặc biệt trong sinh hoạt phụng vụ nên mới được Giáo Hội cử hành mỗi năm, cho dù có trùng vào ngày Chúa nhật.
Trước hết, xét về mặt lịch sử, đền thờ Laterano được dâng kính Thánh Gioan và được xây dựng tại Laterano, nên được gọi là đền thờ Gioan Laterano. Đây là đền thờ cổ kính nhất trong Giáo Hội. Trải qua hơn 300 năm từ khi Tin Mừng được rao truyền tại Roma và Châu Âu, Giáo Hội đã bị bách hại một cách khốc liệt và đã có hàng trăm ngàn tín hữu phải chết vì đức tin. Cũng vào thời điểm đó, mọi sinh hoạt của Giáo Hội đều phải cử hành lén lút tại các vùng hoang vu hoặc nơi các hầm mộ dưới lòng đất. Năm 313, với chiếu chỉ Milano, hoàng đế Constantino đã công nhận Kitô Giáo là một tôn giáo được hoạt động tự do và hợp pháp trên toàn đế quốc Roma. Sau đó, Hoàng đế cùng với gia đình gia nhập đạo Công Giáo. Để đánh dấu sự kiện này, ông đã xây dựng cung điện Laterano để tặng cho Giáo Hội và được Đức Thánh Cha Silvester thánh hiến năm 324, được chọn làm nhà thờ Chánh tòa của giám mục giáo phận Roma, tức là Chính tòa của Đức Giáo Hoàng, và được coi là mẹ của các nhà thờ trên toàn thế giới.
Xét về mặt ý nghĩa, biến cố cung hiến đền thờ Laterano nhắc chúng ta nhớ đến ơn của Bí Tích rửa tội là tẩy rửa chúng ta khỏi sự nô lệ, ràng buộc của tội lỗi, được sống sự tự do của con cái Thiên Chúa. Bí tích rửa tội cho chúng ta được trở nên con Thiên Chúa, trở nên con của Giáo Hội, và trở nên anh chị em với nhau. Với ý nghĩa như thế, chúng ta được mời gọi cùng nhau xum họp trong nhà Chúa, cùng chung lời tạ ơn Thiên Chúa và làm nên một dân tộc thánh thiện, một dân mới của Chúa. Vì thế, chúng ta phải ra sức sống cho xứng đáng với ơn này.
Mừng lễ Cung hiến đền thờ, chúng ta không mừng ngôi đền thờ bằng gỗ, đá, nhưng chúng ta mừng vì đền thờ chính là nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Người, là nơi được dành riêng cho Thiên Chúa và từ nơi này, ân sủng của Thiên Chúa được trao ban cho con cái loài người. Tiên tri Ezekiel trong một thị kiến, ông đã được bước vào đền thờ của Thiên Chúa, một ngôi đền nguy nga, lộng lẫy và ông đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được cứu rỗi, được tràn đầy sức sống. Dòng nước ân sủng ấy như dòng sông đem phù sa bồi đắp và làm cho mọi loài, mọi vật được tốt tươi và sinh nhiều hoa trái : trái dùng làm lương thực và lá dùng làm thuốc. Thị kiến này cho thấy ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ chảy ngang qua đền thờ của Ngài để tưới giội cho tâm hồn tất cả các tín hữu, làm cho cuộc sống các tín hữu được phì nhiêu, phong phú, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi vật, mọi loài.
Vì đền thờ là nơi dành riêng cho Thiên Chúa, là nơi Chúa chọn để ở giữa dân Người, là nơi dân Chúa hội họp để ca tụng, thờ lạy Thiên Chúa nên đền thờ là nơi thánh thiêng bất khả xâm phạm. Đối với người Do Thái, đền thờ Giêrusalem còn được coi là nơi Thiên Chúa cư ngụ cách hữu hình giữa dân Ngài. Vì thế, khi thấy đền thờ bị xúc phạm, Nhà Thiên Chúa bị biến thành nơi buôn bán và là nơi gian lận, Chúa Giêsu đã không thể chấp nhận và Ngài lấy dây làm roi xua đuổi những người buôn bán chiên bò, lật đổ những bàn đổi tiền và nói với họ rằng : Đừng biến nhà Cha ta thành nơi buôn bán.
Lễ Vượt Qua là lễ quan trong nhất của người Do Thái, và tất cả mọi người Do Thái đến tuổi quy định đều phải lên Giêrusalem để tham dự dịp lễ này, kể cả những người Do Thái làm ăn buôn bán tại các nước khác cũng sẽ phải trở về Giêrusalem vào dịp này. Một phần để thuận lợi cho những người từ xa trở về, một phần vì hám lợi, các nhà lãnh đạo Do Thái đã cho phép đổi tiền và buôn bán chiên bò ngay trong sân của đền thờ, họ nhân danh tôn giáo để trục lợi.
Thấy sự bất công và sự phàm tục đã lan vào đền thờ và ăn sâu vào trong tâm hồn các thượng tế và những lãnh lãnh đạo, Chúa Giêsu đã kịch liệt phản đối và còn quyết liệt lật đổ bàn ghế cùng xua đuổi con buôn và những thú vật ra khỏi đền thờ. Đây cũng là lần duy nhất Kinh Thánh kể lại việc Chúa mạnh tay như thế. Vì Ngài không thể chấp nhận vinh quang thánh thiện của Thiên Chúa bị xúc phạm. Vì nếu người ta thờ phượng Thiên Chúa mà lại không tôn kính Ngài thì sự thờ phượng ấy chỉ là hình thức bên ngoài. Sự tôn kính phải là tâm tình kính trọng, yêu mến từ bên trong tâm hồn, biết phân biệt đâu là chỗ thánh thiêng, đâu là chốn phàm trần, biết đặt Thiên Chúa vào vị trí vinh quang tuyệt đối của Ngài, không thể đặt Ngài ngang hàng với sự buôn bán, cãi vã, chửi bới ồn ào của một cái chợ.
Xua đuổi người buôn bán cùng với các thú vật của họ ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu còn cho thấy, các hy lễ được dâng bằng thú vật của luật cũ đã chấm dứt và được thay thế bằng hy lễ mới là chính con người, là máu thịt của Chúa Giêsu. Vì của lễ là chiên bò không thể xóa bỏ tội lỗi nhân loại, mà chỉ có máu của Con Thiên Chúa và hy lễ của Ngài mới có sức mạnh tẩy rửa tội lỗi, thánh hóa con người và thế giới. Thái độ thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu hôm nay còn cho thấy việc thờ phượng Thiên Chúa đòi hỏi lòng thành kính, và lễ vật được dâng phải là lễ vật chân thành chứ không phải là mùi mỡ, mùi thịt được hỏa thiêu và đền thờ phải là nhà của Thiên Chúa, là nơi cầu nguyện, nơi dân Chúa gặp gỡ, trò chuyện với Thiên Chúa của mình.
Khi ra tay xua đuổi những người buôn bán, Đức Giêsu đã đương đầu với cả một truyền thống xưa cũ và hệ thống quyền lực, chắc chắn Ngài sẽ bị chống đối, nhưng vì lòng nhiệt thành, vì sự kính trọng với nhà của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã chấp nhận những hệ lụy sẽ xảy đến sau này. Những người Do Thái hạch hỏi Chúa Giêsu : Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho thấy là ông có quyền làm như thế ? Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy một dấu lạ sẽ xảy ra sau này đó là : Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Câu trả lời của Chúa Giêsu cũng là một lời hứa về một phép lạ lớn lao Ngài sẽ thực hiện, đó là phép lạ về cuộc phục sinh của Ngài, Thiên Chúa đã dùng quyền năng mà làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại. Sau này, các môn đệ mới nhận ra : Chúa Giêsu nói như thế ám chỉ đền thờ là chính thân thể của Ngài. Chính nơi đền thờ là thân thể Ngài, Hội Thánh dâng lên Chúa việc thờ phượng và tôn kính, cũng từ nơi đền thờ là thân thể Chúa Giêsu mà ân sủng của thiên Chúa liên tục được tuôn trào trên cả nhân loại này.
Chúng ta dành sự tôn kính cho nhà của Thiên Chúa và dành sự thánh thiêng cho nơi Chúa ngự là điều chính đáng. Cũng thật tốt khi chúng ta chung tay góp sức để xây dựng những ngôi đền thờ bằng gạch đá làm nơi thờ phượng Thiên Chúa và bày tỏ lòng kính trọng mỗi khi chúng ta bước vào nhà của Chúa nơi đây. Điều quan trọng hơn là mỗi người cần phải làm cho đền thờ là tâm hồn và thân xác chúng ta trở thành đền thánh là nơi xứng đáng để Thiên Chúa cư ngụ.
Trong ngày lãnh Bí tích rửa tội, đền thờ là tâm hồn và thân xác chúng ta đã được cung hiến cho Thiên Chúa, tức là dành riêng làm nơi Chúa cư ngụ. Thánh Phaolô đã nhắc điều đó : Anh em không biết rằng anh em là đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự trong anh em sao ? Vì thế, mỗi người cần trả lại sự thánh thiêng, trong sạch cho tâm hồn bằng việc loại bỏ những gian tham, dâm ô ; lật đổ khỏi mình những nếp sống cũ là thói hư tật xấu, là lười biếng và thay vào đó là sự nhiệt thành và lòng tôn kính dành cho Thiên Chúa ngự trong đền thờ tâm hồn. Hãy làm cho đền thờ tâm hồn nên trong sạch nhờ năng thanh tẩy bởi Bí tích giải tội và trang hoàng tâm hồn bằng các nhân đức cùng những việc lành, việc bác ái hy sinh.
Gia đình là đền thánh của Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, là nơi Chúa chọn để Ngài thực hiện quyền năng trao ban sự sống. Vì thế, các bậc cha mẹ hãy thanh tẩy, làm mới lại gia đình của mình. Hãy làm cho gia đình luôn vang lời ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa thay vì những lời càm ràm chửi bới. Hãy làm cho gia đình thực sự trở nên thánh thiêng bất khả xâm phạm. Mỗi thành viên cần phải liên tục vun đắp và trang hoàng cho gia đình mình xứng đáng là đền thánh của Thiên Chúa. Đừng bao giờ đem vào gia đình những lối sống ô uế, những gian tham lừa lọc và cũng đừng bao giờ biến gia đình thanh nơi buôn bán, lọc lừa, gian dối nhau.
Xin Chúa dùng Lời của Ngài thanh tẩy tâm hồn và cuộc đời chúng ta, giúp mỗi người biết làm cho tâm hồn, thân xác và gia đình trở nên thánh thiêng, xứng đáng là nơi cho Thiên Chúa cư ngụ và làm chủ. Amen
.
Khôn ngoan là một nhân đức cần thiết trong cuộc sống. Người khôn ngoan là người biết tiên liệu và dự phòng mọi thứ có xảy ra bất ngờ. Khôn ngoan không có nghĩa là học cao, vì có cả một bụng chữ cũng chưa chắc khôn ngoan. Người không học nhiều nhưng vẫn có thể khôn ngoan. Sống lâu cũng chưa chắc khôn ngoan hơn người ít tuổi. Menander (342-291 trước công nguyên) xác định: “Tóc bạc không sinh ra sự khôn ngoan”.
Sự khôn ngoan là một nhân đức liên quan sự tỉnh thức. Sự tỉnh thức hoặc sự cảnh giác rất cần thiết. William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) so sánh: “Khắc ghi một sự thật lớn lao vào trí nhớ là đáng nể, nhưng khắc ghi sự thật đó vào đời mình mới là khôn ngoan”. Sách Giảng Viên cho biết: “Người khôn biết mở mắt nhìn, kẻ dại bước đi trong tăm tối” (Gv 2:14).
Trước khi có thể đạt được quyền lực, chúng ta phải đạt được sự khôn ngoan để có thể dùng tốt quyền lực đó, nếu không sẽ rất nguy hiểm.
Vua Salômôn thực sự khôn ngoan khi xin Chúa ban cho được khôn ngoan và hiểu biết để lãnh đạo dân. Và rồi ông đã có mọi thứ, vì điều ông xin đã làm Thiên Chúa hài lòng: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi” (1 V 3:11-13; 1 Sbn 1:11-12).
KHÔN NGOAN
Sự khôn ngoan vô cùng cần thiết: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà” (Kn 6:12-14).
Hãy thử suy nghĩ vài “điều nhỏ” này: (1) Nếu chỉ biết sáng xách ô đi, chiều xách ô về, ăn uống, xem ti vi, rồi ngủ, thế thì người đó chẳng khác gì loài động vật; (2) Nếu bạn chỉ có ý định ăn cắp một cái gì đó của người khác thì đó cũng là lúc đen tối nhất của cuộc đời rồi; (3) Người thầy mà không dạy cho học trò biết ham muốn học tập thì đó là người thầy tồi; (4) Học trò mà không biết lắng nghe thầy cô giảng bài thì đó là học trò ngu dốt, không có trách nhiệm với chính bản thân mình, chẳng hy vọng gì mai sau; (5) Người nóng vội, bộp chộp, động thái đó ảnh hưởng xấu tới cả tinh thần lẫn thể lý, ảnh hưởng xấu tới cả những người xung quanh, xét về phương diện tinh thần thì người đó không hơn gì một con chó giữ nhà; (6) Sống mà không có ước mơ, luôn than phiền, người đó chẳng khác loài tầm gửi, chỉ biết bám víu vào cây khác để hút nhựa sống, hoặc như loài đỉa hút máu người khác để sống. Và còn nhiều điều khác tương tự như vậy. Đó là ích kỷ, chỉ biết yêu mình, không sáng suốt và không khôn ngoan!
Sự Khôn ngoan rất tuyệt vời. Người khôn ngoan là người sâu sắc, nói ít, nghe nhiều, trầm lặng để thấm nhuần đức khôn ngoan vào máu thịt: “Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu. Vì những ai xứng đáng với Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (Kn 6:15-16). Ở đây không là sự khôn ngoan của phàm nhân mà là sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa.
Người khôn ngoan biết tìm kiếm những thứ bền vững, không hư hỏng, dù cho họ có thể bị coi là “điên rồ” trong tầm nhìn của loài người. Nhưng điều trường cửu đó là điều thuộc về Thiên Chúa. Hằng ngày họ cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” (Tv 63:2-3).
Người khôn ngoan là người chuyên tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và họ có được Thiên Chúa. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm và chia sẻ: “Ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca. Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài. Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui” (Tv 63:8).
Thiếu khôn ngoan, người ta sẽ khắc khoải, bất an và nuối tiếc. Người ta trở nên bình an thư thái khi được ơn Chúa tác động. Đó là dạng “giác ngộ” theo thuyết nhà Phật. Lúc về già, thi sĩ Bùi Giáng sống như người mất trí, ông lang thang khắp nơi với phong cách rất “bụi”. Ông đã từng than thở:
Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ!
Trong thi phẩm “Dại Khôn”, thi sĩ Trần Tế Xương nhận định:
Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại, biết ai khôn
Chẳng biết ai dại, ai khôn. Chúng ta tưởng người khôn mà hóa ra người dại, chúng ta tưởng người dại mà hóa ra người khôn: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người” (1 Cr 1:25). Nhưng khôn ngoan nhất là đây: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan” (Tv 111:10). Làm người sống ở đời, chẳng ai biết ngày mai trời mưa hay nắng, cũng không thể biết cuộc đời mình ra sao, vì thế mà luôn cần tỉnh thức. Người khôn ngoan là người luôn biết tỉnh thức!
TỈNH THỨC
Thiên Chúa đã cảnh báo mỗi người chúng ta: “Nếu ngươi không tỉnh thức thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi” (Kh 3:3). Bão lũ, lụt lội, giông tố, động đất, sóng thần,… không ai biết lúc nào, dự báo thời tiết cũng chỉ là dự đoán, không thể biết chắc thời điểm nào. Ngay giữa lòng thành phố Saigon mà có nhà tự dưng sụp hố làm lọt xe và người xuống. Ai có thể dự đoán? Chắc chắn là “bó tay” thôi!
Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố lịch sử của cuộc đời mỗi người. Danh nhân thông thái Rabindranath Tagore (Rabīndranātha Thākura, 1941-1961, Ấn Độ) đã cảm nhận sâu sắc về Đấng Toàn Năng: “Bạn không nghe thấy bước chân Người thầm lặng đó sao? Người tới và luôn luôn thường tới. Người tới và luôn luôn thường tới hằng giờ, hằng đêm, hằng ngày, hằng thời đại,… Người tới và luôn luôn thường tới qua lối đi nho nhỏ trong rừng, vào những ngày Xuân đượm nắng ngạt ngào. Người tới và luôn luôn thường tới trên xe mây ầm ầm tiếng sấm, vào những đêm Thu mưa ướt tối mù. Bước chân Người đã giẫm lên tim tôi đang ôm nặng những nỗi buồn dai dẳng. Khi niềm vui trong tôi ngời sáng, ấy là do chân Người vàng óng chạm vào”. Tư tưởng của R. Tagore rất gần với Công giáo, đặc biệt là tập thơ “Lời Dâng” (Gitanjali), với bút danh Bhānusiṃha (Sư Tử Thái Dương).
Tương tự, tác giả Thánh Vịnh cũng thân thưa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5). Thật vậy, đến từng sợi tóc trên đầu chúng ta cũng đã được Thiên Chúa đếm cả rồi (Mt 10:30; Lc 12:7).
Sợi tóc chẳng là gì mà Thiên Chúa còn quan phòng, huống chi chuyện sinh – tử, liên quan mạng sống của con người. Thánh Phaolô cho biết: “Về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” (1 Tx 4:13-14).
Sống ở đời, người ta không chỉ đi bằng đôi chân, mà quan trọng hơn, đó là phải đi bằng cái đầu. Cũng vậy, sống không chỉ cần lương thực nuôi sống thân xác, mà quan trọng hơn, đó là phải cần lương thực nuôi sống tinh thần và linh hồn. Kitô hữu cần cả Thánh Thể và Lời Chúa.
Thánh Phaolô giải thích: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau” (1 Tx 4:15-18). Qua đó, chúng ta biết chắc chắn thời đại của chúng ta là thời cánh chung, nhưng không biết chúng ta có được diễm phúc chứng kiến thời điểm lịch sử vĩ đại nhất hay không.
Vì không biết nên chúng ta mới phải tỉnh thức, và không ngừng sống trong tình trạng tỉnh thức, nghĩa là phải sống yêu thương đến từng chi tiết: “Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hoà thuận với nhau. Thưa anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ kẻ nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người” (1 Tx 5:13-14).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay là dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ” (Mt 25:1-13), nêu rõ vấn đề “tỉnh thức”. Đây là một trong các dụ ngôn “quen thuộc”, đặc biệt nói về thời điểm cánh chung, nói chi tiết là liên quan ngày tận thế riêng của mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, có năm cô dại và năm cô khôn. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô khôn mang đèn và mang chai dầu dự trữ. Vì chú rể đến chậm, nên các cô ngủ thiếp. Nửa đêm, có tiếng báo “chú rể đến”. Bấy giờ, tất cả các cô đều thức dậy và sửa soạn đèn.
Tuy nhiên, đèn của năm cô dại cạn dầu, không đủ sáng. Họ xin dầu các cô khôn. Năm cô khôn không dám vì không thể đủ dầu thắp đèn sáng cho mình và cho người khác, thế nên họ bảo năm cô dại ra hàng mà mua dầu. Đang lúc năm cô dại đi mua dầu thì chú rể tới, năm cô khôn đã sẵn sàng nên được đi theo chú rể vào phòng dự tiệc cưới. Sau đó, cửa liền đóng lại.
Ngay lúc đó, năm cô dại về đến nơi và gọi cửa. Nhưng chú rể bảo: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”. Thế là xong! Vì thế, Chúa Giêsu vừa căn dặn vừa cảnh báo: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”.
Ai khôn, ai dại thì đã rõ, không còn mơ hồ hoặc phỏng đoán. Người mà chúng ta tưởng là khôn lại chỉ là người dại, người mà chúng ta tưởng là dại lại chính là người khôn. Cũng trong thi phẩm “Dại Khôn”, thi sĩ Trần Tế Xương đã “ngộ” ra và kết luận:
Này kẻ nên khôn đều có dại
Làm người có dại mới nên khôn
Ai nên khôn mà không khốn một lần? Đau khổ càng nhiều thì kinh nghiệm càng dày. Ngay cả trong lĩnh vực tinh thần hoặc tâm linh, chúng ta thấy tuyết tương đối của Bác học Einstein vẫn đúng. Kỳ diệu thật! Tất nhiên chính Thiên Chúa đã tác động để ông khả dĩ thấu hiểu quy luật tự nhiên và đưa ra định luật như vậy.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, xin dạy chúng con thấu triệt lẽ khôn ngoan (Tv 51:8). xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan (Tv 90:12). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
.
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.
- Giới thiệu Đền Thờ Latêranô
Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới.
Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ. ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng.
Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, đươc xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590).
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản cóGiếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008).
- Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này.
Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.
Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.
Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.”Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.
“Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5).
- Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện”
Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
- Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
.