CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: 2Mcb. 7, 1-2.9-14; 2Tx. 2,16-3,5; Lc. 20, 27-38
———
- Điều nên quan tâm(Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Sống trong Đấng là Tình Yêu(Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Một tương lai đẹp (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Sống chứ không phải chết (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
- Sự sống lại và hôn nhân ở đời sau (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
- Sự sống mới (Sr.Nguyễn Như Ý, MTG.Thủ Đức)
- Tất cả đều đang sống (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Cuộc sống nơi trần gian (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
- Sự sống đời sau (Maria Mỹ Loan, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
- Sống lại (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
- Đổi mới trong Chúa (Lm. Vũ Đình Tường)
- Tin vào sự sống lại đời sau (Lm. Trần Bình Trọng)
- Niềm tin xác tín (Lm. Quốc Toản, CRM)
- Họ là con cái Thiên Chúa giống như các Thiên thần (Lm. Huy Châu, CRM)
- Sự sống đời sau. (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
- Sống lại từ cõi chết (Lm. John Nguyễn Tươi)
- Thực tại mới, tương giao mới (Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
- Vấn đề sống lại (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
- Sống (Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
- Mầu nhiệm sự sống lại (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
- Thiên Chúa của kẻ sống (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
- Sự sống đời sau sẽ như thế nào? (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
- Thiên Chúa của kẻ sống. (An Phong)
- Hợp hoan bên Chúa (Thiên Phúc)
- Xác tín có đời sau (PM. Cao Huy Hoàng)
- Lằn ranh (Trầm Thiên Thu)
- Cuộc sống mai hậu (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- Kẻ chết sống lại (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
- Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 32 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Bên kia sự chết (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Sống lại (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Tin sự sống đời sau (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Mầu nhiệm cánh chung (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
7. Cõi sống (Trầm Thiên Thu)
8. Gậy ông đập lưng ông (JM. Lam Thy, ĐVD)
9. Giống như Thiên Thần (AM. Trần Bình An)
10. Tin để sống (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
11. Đối với ThiênChúa tất cả mọi sự đều đang sống (Lm.Gioan NguyễnVăn Ty, SDB)
12. Họ là con cái Thiên Chúa (Lm. Phan Kế Sự)
13. Người là Thiên Chúa của kẻ sống (Fx. Đỗ Công Minh)
14. Tin vào sự sống đời sau (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
15. Đời này và đời sau (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
16. Tất cả đều đang sống (P. Trần Đình Phan Tiến)
17. Tin sự sống đời sau- (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
18. Sự sống đời sau (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
19. Tôi tin có cuộc sống mai hậu (Lm. Đan Vinh)
20. Tin sự sống lại (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
21. Có chăng sự sống bên kia cái chết (Lm. Giuse Nguyễn)
22. Đời này, đời sau (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
23. Chúa Nhật 32 Thường niên_C (Lm. Antôn )
.
ĐIỀU NÊN QUAN TÂM
Lm. Jos DĐH.
Truyện cười, truyện tếu, truyện phiếm, là những câu truyện vui, dí dỏm, dù có thiếu tính xác thực, vẫn được nhiều người quan tâm. Tiền nhân chúng ta khuyên dạy con cháu: muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học. Các chuyên gia thì cho rằng: nếu đặt câu hỏi ngu ngốc, chỉ ngu đôi ba phút, nhưng nếu không biết đặt câu hỏi ngốc nghếch, sẽ ngu suốt cả đời. Nhìn vào thực tế, tôi đã từng dò xét và bình luận: đúng là thừa giấy vẽ voi, dư tiền của, thời gian, chỉ biết nướng vào cờ bạc ! Trong khi đó, khối kẻ hỏi tôi: này bạn, sao bạn tài giỏi, khoẻ mạnh, mà bạn cứ túng nghèo, tôi “tịt ngòi”, không có câu trả lời ! Truyện cười thế gian là thế: đã dốt lại hay nói chữ, đã nghèo mà xài sang. Vâng, nếu bạn ngu ngốc thì đó không phải là tội, mà tội chính ở chỗ bạn không biết mình ngu ngốc ! Câu hỏi về một ông 7 bà, hay bảy bà 1 ông, quả là đề tài, đáng để chúng ta suy xét cho hiện tại và tương lai của mình.
Làm gì để có thành công, sống thế nào để không là trò hề cho thiên hạ, xử sự với anh chị em ra sao để không hổ thẹn với trời đất, hẳn là điều đáng phải quan tâm. Sống rồi chết, chết rồi sống, vừa là “quy luật”, vừa là “mầu nhiệm”. Đức Giêsu mong muốn ta phải lưu tâm, phải biết, không nên né tránh và đổ lỗi cho vấn đề là quá phức tạp. Rõ ràng, chẳng ai muốn trở thành một thằng ngốc, nhưng mấy ai đủ ý thức đừng kiêu căng ngạo mạn, đừng tỏ ra mình tài giỏi, thông minh. Phải hỏi, phải học, phải chân thành, mới thấy cơ hội thành công, là sự thật, khi mà ta luôn khiêm tốn học và hành bằng ý chí quyết tâm của mình. Đức Giêsu không trả lời người “phụ nữ” sẽ là vợ ai trong số bảy người, nhưng Ngài xác định là có sự sống: “con cái đời này lấy vợ lấy chồng, song những ai xét đáng được dự phần vào đời sau thì không lấy vợ lấy chồng nữa”.
Điều quan tâm của mỗi người có thể là: công thành danh toại, là giầu sang phú quý, là con cháu được nên người hữu ích, hẳn là không sai, nhưng chưa đủ, vì còn niềm tin hồn an xác mạnh, vì chết không phải là hết. Câu hỏi ai sẽ là chồng của người phụ nữ sau khi chết, không phải là phi lý, khôi hài, mà còn là khờ dại trước Đấng là Thầy là Chúa. Vấn đề tin và thực hành niềm tin Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa …, Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, mới là trọng tâm của đời người. Trẻ thơ: sợ ma, sợ bóng vía, nhưng thích nghe kể chuyện ma, tính bảo thủ, nghi ngờ, của người Sađốc không tin vào sự sống, thì họ lại muốn tranh luận về đằng sau sự chết ở đời này. Yêu phải nói như đói phải ăn, muốn giầu kiến thức phải khiêm tốn học hỏi, muốn biết thực hư về sự sống đời đời, phải tin, phải đón nhận giáo huấn của Đấng từ trời xuống.
Điều quan tâm của “tôi” là đang sử dụng thời giờ, muốn tìm hiểu và sống đức ái thế nào, đang hành động theo bản năng tự nhiên, bằng lý trí, hoặc bằng niềm tin Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống ? Tình bạn mà thiếu chân thật, chẳng qua cũng chỉ là xã giao, yêu mà thiếu đi chữ ghen, tình yêu đó chỉ có thể là giả tạo ! Chữ tài đi với chữ tai một vần (Nguyễn Du). Bằng cấp, tài sắc, khéo mồm miệng, sức khoẻ tuyệt vời, nhưng sống chẳng có mục đích, không cảm được trời cao bể rộng, khác nào bạn đang lạc hướng, thật tội nghiệp ! Con người qua các thời đại vẫn khao khát được vui khoẻ, hạnh phúc, qua thắc mắc sự thể một ông 7 bà, Đức Giêsu hướng chúng ta tới sự bình an, niềm tin Chúa là Thiên Chúa hằng sống. Thời giờ, cơ hội, tài năng, nếu bỏ qua, có khác gì ta đang sống mà thiếu cảm xúc, ta khao khát yêu mà là yêu mình, ta đang giầu tiền lắm của, nhưng không có tình người, tình Chúa, thì đúng là mơ hồ.
Điều nên quan tâm của bạn là gì ? Làm điều lành, xa tránh điều xấu, ý thức: sống sao chết vậy, đã là tốt rồi, nhưng đúng hơn, chuẩn hơn, bạn phải biết chết không phải là hết; phải tin Thiên Chúa là Chúa sự sống, đối với Chúa, tất cả đều đang sống. Gia đình là nơi cuộc sống bắt đầu và tình yêu thì không bao giờ kết thúc. Thế giới đầy dãy những đau khổ bởi sự độc ác, nhưng mỗi người không thể im lặng ngồi đó than thở, ai cũng phải hành động. Có chăng, Đức Giêsu kêu gọi đi tìm lý chứng của sự sống, mà hãy khiêm tốn để tình yêu của Chúa hoạt động nơi tâm hồn đầy giới hạn của ta. Mỗi chúng ta hôm nay không tranh luận về đằng sau sự chết, mỗi người từ sâu thẳm tâm hồn vẫn đang được nhắc nhớ: sống tốt, cư xử tốt với anh chị em mình. Riêng rẽ, đơn lẻ, mỗi chúng ta chỉ là giọt nước, đồng lòng cùng nhau, chúng ta là đại dương.
Điều quan tâm của Đức Giêsu, là con người tìm gặp được bình an, vì tình yêu, hạnh phúc thật, nơi cuộc sống hôm nay và mai sau, chính nhờ sống tốt, nhờ lòng thương xót của Chúa, sau hết người ta sẽ nên giống như các thiên thần. Đức Giêsu hẳn muốn nói với chúng ta và cả những người không tin rằng: chính tình yêu thương mới thoả mãn thao thức về việc sống và chết, chết và sống. Truyện tình sử Lê Lai hy sinh vì nghĩa lớn, khoác áo cẩm bào phá vòng vây để cứu chúa. Quân nhà Minh tưởng đã dập tắt được cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nhưng dân gian vẫn cho rằng Lê Lai không chết, tinh thần dân tộc của Lê lai sẽ sống mãi. Dù tin hay không, người ta vẫn nói: gieo gì gặt nấy, hãy mau làm điều lành, điều tốt, để thấy sự sống chỉ thay đổi mà không mất đi là gì ? Amen.
.
SỐNG TRONG ĐẤNG LÀ TÌNH YÊU
Bông Hồng Nhỏ, MTG. Thủ Đức
Hôm nay, có mấy người thuộc nhóm Xađốc đến gặp Thầy Giêsu. Họ đưa ra trường hợp một người vợ có bảy đời chồng nhưng bà không có con với ai trong bảy người ấy, rồi hỏi Thầy Giêsu rằng: Đến ngày sống lại bà sẽ là vợ ai? (x. Lc 20, 27-33). Nhóm này muốn dùng điều luật mà ông Môsê đã viết để bảo vệ quan điểm không có sự sống lại của mình nhưng Thầy Giêsu đã dùng sách Xuất Hành để chứng minh ngược lại: chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Ðức Chúa là Thiên Chúa của tổ phục Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống (x. Lc 20,38).
Trước vấn nạn mà nhóm Xađốc đưa ra, Thầy Giêsu đã khẳng định rằng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20,34-36). Đó chính là niềm xác tín của mỗi người Kitô hữu, họ đặt trọn niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu chuộc họ, sẽ dẫn đưa họ vào trong sự sống vĩnh cửu với Ngài. Cuộc sống nơi dương gian này, người ta dựng vợ gả chồng, vất vả mưu sinh, cuộc sống bộn bề những lo toan; nhưng những ai sau khi trải qua cuộc phán xét, được thưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì giống như các thiên thần, họ không còn chết nữa. Trên thiên đàng, chỉ còn lại tình yêu và tình yêu thì không bao giờ mất. Muốn vào được Nước Trời, mỗi người đều phải trải qua cuộc chiến đấu để bảo vệ đức tin, để chỉ chọn Chúa là gia nghiệp muôn đời. Đứng trước phần mộ của người thân, ta thấy phận người thật mỏng giòn nhưng cũng thật quý giá. Thân xác trở về với lòng đất sẽ hư hoại, nhưng đến ngày sau hết, thân xác ấy sẽ sống lại trong Thiên Chúa.
Đối với Thiên Chúa, tất cả đều đang sống. Được sống trong tình yêu thương của Thiên Chúa là hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa dành tặng cho con người. Cũng vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban cho con người tự do, họ có quyền đón nhận hay từ chối tình yêu của Người. Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người đều được cứu độ, được sống hạnh phúc với Người, nhưng những ai từ chối bước đi trên con đường Chúa Giêsu đã đi, từ chối sống yêu thương và tha thứ như Ngài thì họ cũng đã từ chối tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ khi sẵn sàng thi hành những điều Chúa Giêsu truyền dạy, người môn đệ mới có thể cảm nếm tình yêu ấy. Người môn đệ có được diễm phúc nếm trước niềm hạnh phúc của Nước Trời khi sống quảng đại, yêu thương theo gương Thầy chí thánh. Họ trở thành dấu chỉ có khả năng thôi thúc các Kitô hữu khác sống trọn vẹn ơn gọi của mình. Một lời giảng dạy tuyệt vời sẽ càng tuyệt vời hơn khi đi kèm với đời sống chứng tá. Một khao khát cháy bỏng được thuộc trọn về Chúa sẽ trở thành sự thực khi người môn đệ biết mở rộng trái tim, mở rộng đôi tay, cất bước đến với người anh em. Thiết nghĩ, những ai thuộc trọn về Chúa thì cũng có cùng một kinh nghiệm được thuộc về một dân tộc, thuộc về một cộng đoàn, thuộc về một gia đình, hay thuộc về một ai đó. Đối với Thiên Chúa, tất cả đều đang sống. Người ta chỉ thật sự sống khi biết yêu thương; không biết yêu thương, phải chăng họ chỉ đang tồn tại trên cõi đời. Một cuộc đời yêu thương là một cuộc đời đáng sống. Chính Chúa Giêsu-Đấng Cứu Độ cũng đã trải qua một cuộc đời tràn đầy tình yêu, và hơn thế chính Người là tình yêu. Ai đến với Người, đặt trọn niềm tin tưởng nơi Người đều tìm thấy cho mình một con đường dẫn đến Thiên Chúa Cha- Đấng là Thiên Chúa Tình Yêu.
Lạy Chúa Giêsu! Hôm nay, Chúa đã nhắc nhở con nhớ rằng, con không sống mãi trên đời, con chỉ có một cuộc đời để sống. Xin Chúa cho con được xác tín hơn vào tình yêu của Chúa và không ngừng nỗ lực để đáp lại tình Chúa yêu con. Để nhờ đó, con không chỉ tồn tại nhưng đang sống dồi dào trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Amen.
.
Lm. Jos DĐH.
Sau cơn mưa, trời sáng ; sau đêm đen, bình minh ló dạng, đó là quy trình vạn vật vũ trụ phát đi tín hiệu ấm áp tình, lan toả khắp muôn phương. Nhờ tai mắt tinh thông, người ta nghe, nhìn, và có khả năng đoán biết được nhiều “hoạ-phúc” đang xảy đến. Phải chăng, suy bụng ta ra bụng người, có quan sát điềm trời để biết người biết ta, hầu rút kinh nghiệm cho tương quan tha nhân tốt đẹp, cuộc sống ý nghĩa hơn, đó là một nghệ thuật mỗi người cần trang bị ? Triết lý ở đời cho rằng: trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên. Muốn có một gia đình hạnh phúc người ta phải đầu tư, muốn có một tâm hồn thanh thản, người ta phải “gieo điều lành”. Muốn nghe nhìn và gặt hái quả ngọt trái thơm ở tương lai, ai cũng phải ý thức chung tay xây dựng một gia đình hiện tại ngay lúc này chan hoà tình yêu thương.
Được sinh ra làm người là vinh dự, một khởi đầu xuôi thuận rồi, tiếp đến: tự do, chọn lựa, ý chí quyết định, của mỗi người sẽ hình thành và góp phần làm nên một xã hội có tâm, có tầm hạnh phúc. Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học ; đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Thắc mắc mong được giải thích, được hiểu, khác với thắc mắc để bảo vệ cho lập trường sai lạc của mình: chết là hết ! Không hiểu đằng sau sự chết là gì, không biết sau khi từ giã cõi đời này, mỗi người sẽ ra sao, vẫn mãi là điều bí mật nơi vũ trụ vạn vật này. Quan trọng là người ta tin như thế nào về vấn đề chết và sống ? Đức Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho đám đông, cho chúng ta: “con cái đời này cưới vợ lấy chồng, nhưng những ai xét đáng được phúc là sống lại đời sau thì không lấy vợ lấy chồng nữa. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì họ sẽ ngang hàng với các thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa, là con cái sự sống”.
Ngày hôm nay, không phải chỉ có người kitô hữu chúng ta chủ trương: ở hiền gặp lành, đại đa số các đấng bậc sinh thành đều ý thức phải sống lời răn dạy của tiền nhân: cha mẹ hiền lành để đức cho con. Ngày hôm nay, quan niệm: sống lành chết lành, bảo bệ môi trường, bảo vệ sự sống, bác ái từ thiện, các phần cơm miễn phí, tất cả mọi người giầu nghèo không phân biệt lương giáo, đang cùng chung tay xây dựng tình người theo lẽ sống: công bằng yêu thương. Cũng vì tình yêu, vì kinh nghiệm, và vì muốn chia sẻ để con cháu sống ý nghĩa ở hiện tại và hướng đến điều tốt đẹp trong tương lai. Các hiền nhân nói rằng: miệng ít nói tự nhiên ít hoạ, bụng dạ ít ăn, tự nhiên ít bệnh, trong lòng ít muốn, tự nhiên ít lo, thân mình ít sự, tự nhiên ít khổ. (Khổng Minh). Chắc không phải tự nhiên mà phái Xa-đốc tranh luận với Đức Giêsu về sự sống lại, cũng không phải do tình cờ mà Đức Giêsu trưng dẫn đoạn thánh kinh khi ông Môi-sê gọi “Thiên Chúa là Chúa của các tổ phụ: Abraham, Isa-ác, Gia-cóp, và Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”.
Đức Giêsu không lý sự dài dòng với những ai tự mãn kiêu căng, Ngài vẫn muốn vắn gọn với tất cả những ai tin và theo Ngài: “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”. Chính vì đang sống, nên hiện tại Thiên Chúa cho mỗi người được tự do để trở thành người tốt, tự do để học biết suy nghĩ đúng và hành động đẹp, tự do để đủ cảm nhận đằng sau sự chết ở trần gian không phải là chấm hết. Một cuộc sống an vui hạnh phúc, luôn khởi đi từ gia đình, một tâm hồn bình an là một tâm hồn được nuôi dạy, được học hỏi và ý thức sống quảng đại yêu thương. Muốn có tương lai tốt đẹp, thì hiện tại phải đầu tư, muốn: con hơn cha, nhà có phúc, là sự thực, bậc cha mẹ phải hy sinh, phải chịu vất vả, quan tâm giáo dục con cháu. Kinh nghiệm của tiền nhân để lại: người ta không gieo trồng tri thức khi còn trẻ, nó sẽ không cho ta bóng râm khi về già.
Một tương lai đẹp, một cuộc đời an vui hạnh phúc, cũng là một hiền tài đức độ đang góp phần sống động cho hiện tại và thế giới muôn phương. Vì tinh thần dân tộc, vì ơn gọi sống mãi trong tình yêu Thiên Chúa, người theo Đức Kitô không phải chỉ lưu danh hậu thế, cũng không chú trọng dưỡng nuôi linh hồn, loại bỏ thân xác hư hèn. Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, Thiên Chúa đến trần gian cứu độ vạn vật vũ trụ, cứu cả người tội lỗi thánh thiện, cứu cả thân xác hay chết của mỗi người. Một tâm hồn tốt lành thánh đức, phải là một một tâm hồn được thao luyện, phải là một tâm hồn được Đức Kitô biến đổi mỗi ngày một nên toàn vẹn xứng hợp tình yêu Chúa. Để có một tương lai tốt đẹp, để thấy quê hương sống động trong tình yêu thương, trong Nước Trời hạnh phúc, Thiên Chúa qua các bậc sinh thành vẫn đang nhắc nhớ con cháu: khuyên ai ăn ở cho lành, kiếp này chưa gặp để dành kiếp sau. Xin tình yêu Đức Kitô giúp mỗi người chúng con biết tự tin, vì chúng con chính là những phần tử sống động của Thiên Chúa, là Chúa sự sống hôm nay và mai sau. Amen.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Con người sinh ra để sống chứ không phải để chết! Thế nhưng, con người đang sống lại đang tìm về cái chết, do chính ích kỷ, tư lợi. Sống mà không tin rằng sẽ sống đời đời, đó là cái sống phung phá chính mình và thiên nhiên. Sống cần biết rằng sự sống tiếp tục luôn mãi mới quý trọng sự sống đang có.
Chúa Giêsu mạc khải về sự sống muôn đời bất diệt là để mời gọi con người vào tham dự vào vinh phúc của Thiên Chúa.
Mở rộng tâm hồn để sống.
Con người được dựng nên với người khác, cho người khác và vì người khác, như vẫn thường nói: “Không ai là một ốc đảo”. Cũng thế, con người không chỉ sống cô độc giữa sa mạc mênh mông, con người được sống với thiên nhiên, với rừng xanh, với những thác nguồn, sông suối, thảo mộc và động vật các loại. Khi sáng tạo ban đầu Chúa đã đặt con người vào giữa thiên nhiên ấy để sống phong phú, dồi dào sinh lực.
Khi con người chiếm hữu, bắt đầu con người tự kết thúc đời mình bằng những ghen ghét, ăn thua, thù oán, giàu nghèo cách biệt xa thêm mãi. Với thiên nhiên, con người tham lam vơ vét tài nguyên, thoả mãn cá nhân. Càng thu vén cá nhân càng dẫn vào diệt vong, thiên nhiên cũng chết ngạt trong sự tham lam của con người. Con người vơ vét cho cá nhân, càng cảm thấy cuộc sống dường như vô nghĩa, cuộc sống khốn nạn nhiều hơn hạnh phúc, và từ ấy ru ngủ mình bằng những thú vui hoang dã, lấp đầy cuộc sống bằng những vật chất. Khi đánh mất linh hồn con người chỉ còn thể xác chết thối.
Con người tham lam chiếm hữu cũng đánh mất một niềm vui sống với người khác và với thiên nhiên. Đông Phương luôn ý thức hạnh phúc mỗi người gắn liền với hạnh phúc của toàn thể: Con người với nhau và với thiên nhiên. Khi con người cắt đứt với toàn thể, con người tự nhốt mình trong sự giam hãm của nhà tù ích kỷ, giết chết căn rễ sâu xa của con người xuất phát từ thần linh. Có thể thấy những triết thuyết đề cao vật chất đã giết chết tinh thần và tâm linh.
Sự Sống đời đời con người tìm kiếm
“Tôi sẽ luôn luôn đuổi xua khỏi tâm hồn mọi ác ý sâu xa và vun trồng cho tình yêu trong mình bừng nở, vì hiểu người đã ngự trị từ lâu trong sâu thẳm tim tôi.” (Lời Dâng, bài số 4, R. Tagore). Niềm vui cuộc sống chỉ tồn tại khi con người nhận ra sức sống thần linh đang cuốn hút con người đi tới. Một thế giới bất diệt không có trong thế giới vật chất này! Thế nên, khi đi tìm sự bất diệt trong cõi tạm này, con người thấy hụt hẫng: “Cộng niên tuế ước chừng bảy chục, khỏe lắm chăng cũng được bát tuần. Hầu trọn kiếp chỉ là lao đao khốn khó, vì năm tháng sầm sập qua đi và chúng tôi vụt mất!” (Tv 90 10).
Ngay cả trước cái chết, niềm vui sống vĩnh cửu xoá tan mọi lo âu, sợ hãi, hân hoan vui bước vào nơi an nghỉ. Trong tâm hồn người tình cuộc đời, thi sỹ của tình yêu đã thấy khung trời rộng mở: “Kính lạy người lần cuối, xin cho giác quan tôi trải rộng, tiếp xúc thế giới dưới chân người” (Lời Dâng, bài 103, R. Tagore)
Có lẽ thướng thấy hơn, khi con người tập chết đi trong cái tôi mỗi ngày, để sống yêu thương hơn, gắn bó hơn với cuộc sống. Niềm vui dấn thân đi tới, sống với anh chị em, sống cho anh chị em và vì anh chị em. Tính năng động của sự sống càng gia tăng, nghịch lại với cái tôi ích kỷ đang chết dần đi. “Thượng Đế, đây lời tôi cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường. Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó hay cúi đầu khuất phục ngạo mạn, đầy quyền uy. Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý người muốn.” (Lời Dâng, bài số 36, R. Tagore)
Xin Chúa Thánh Thần đốt cháy đi những cản trở của niềm vui sống trong Chúa, nơi cuộc đời chúng con!
Niềm vui bất tận ấy là tiếng gọi của thần linh, của Thiên Chúa: “Lòng nhiệt thành nhà Chúa thiêu đốt cuộc đời tôi” (Ga 2, 17). Vươn tới và vui sống mỗi ngày vì không chỉ sống cho mình mà còn cho anh chị em mình. Không chỉ sống thực tại trần thế mà còn sống vì thực tại Nước Trời. Không chỉ sống với Thiên Chúa mà còn được sống trong Thiên Chúa.
Thiên Chúa của sự sống chứ không phải là sự chết, trong lời loan báo đó, con người được mời gọi: “Tất cả mọi người đều đang sống” (Lc 20, 38).
Sống trong niềm vui và hân hoan trong Chúa Thánh Thần!
.
SỰ SỐNG LẠI VÀ HÔN NHÂN Ở ĐỜI SAU
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
1- Vấn nạn về sự sống mai hậu
Gần cuối năm phụng vụ, chủ đề chính mà Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu là sự sống lại, hướng chúng ta tới cuộc sống mai sau. Đây là chủ đề được con người mọi thời quan tâm, cả những người Do Thái vào thời Chúa Giêsu và cả chúng ta hôm nay. Trong bài Tin Mừng, khi trả lời câu hỏi mà những người Xađốc đặt ra để gài bẫy Chúa Giêsu về người đàn bà có bảy người chồng. Trước hết Chúa Giêsu tái khẳng định rằng có sự sống lại ở đời sau, đồng thời Người điều chỉnh quan niệm méo mó duy vật và thực dụng của phái Xađốc về sự sống lại mai hậu.
Quả thế, hạnh phúc đời sau không phải là sự gia tăng niềm vui trần thế hay là kéo dài sự sống trần thế. Đời sống mai hậu là một đời sống hoàn toàn khác, có một phẩm chất khác như Chúa Giêsu quả quyết: “Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần” (Lc 20,35-36).
Ở cuối bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giải thích lý do tại sao có sự sống lại sau khi chết khi nói rằng: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy Thiên Chúa của tổ phụ Ápbraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,37-38). Vậy đâu là nền tảng của sự sống lại? Nếu Thiên Chúa được định nghĩa là Thiên Chúa của Ápbraham, Ixaác và Giacóp và là Thiên Chúa của sự sống, chứ không phải của sự chết, thì điều này có nghĩa là các tổ phụ Ápbraham, Ixaác và Giacóp vẫn còn sống ở bên Thiên Chúa, dầu họ đã chết hàng thế kỷ rồi so với lúc mà Thiên Chúa nói với Môsê. Như thế, Thiên Chúa của sự sống là nền tảng cho niềm tin vào sự sống lại của con người. Người là Đấng hằng sống và Người không muốn con người phải chết, nhưng được sống mãi. Việc Thiên Chúa đã sai Con Một làm người, chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển để giải thoát con người khỏi chết và cho họ được sống mãi trong Thiên Chúa là bằng chứng hùng hồn cho sự sống lại mai sau.
2- Vấn nạn về hôn nhân sau khi chết
Một số người giải thích cách sai lầm câu trả lời của Chúa Giêsu cho phái Xađốc, nên đã quả quyết rằng: hôn nhân gia đình sẽ không còn tiếp tục ở trên thiên đàng. Nhưng trong câu trả lời này, Chúa Giêsu bác bỏ quan niệm méo mó mà những người Xađốc trình bày về đời sau, một quan niệm cho rằng thiên đàng đơn thuần là một sự tiếp tục tương quan vợ chồng ở trần gian. Đồng thời Chúa Giêsu mời gọi các đôi vợ chồng phải tái khám phá trong Thiên Chúa sợi dây đã liên kết họ khi ở trần gian.
Chúng ta thử đặt ra vài câu hỏi: phải chăng khi ở trần gian các đôi vợ chồng đã sống với nhau và suốt đời kính sợ Thiên Chúa, nhưng khi chết, những gì thuộc về hôn nhân của họ như tương quan vợ chồng, tình yêu và dây hôn phối… sẽ bị quên lãng hay biến mất để chỉ dành cho tình yêu Thiên Chúa mà thôi? Phải chăng có điều gì đó trái ngược với điều mà Chúa Giêsu đã nói rằng: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, thì loài người không được phân ly?” (Mt 19,6). Nếu Thiên Chúa đã liên kết họ ở trần gian, tại sao Người lại phân ly họ trên thiên đàng? Phải chăng toàn bộ cuộc sống hôn nhân này không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống của họ ở thiên đàng sao?
3- Định mệnh của sự vĩnh cửu
Chúng ta tìm thấy câu trả lời từ chính mạc khải Kinh Thánh về niềm hy vọng này. Đó cũng chính là ước vọng tự nhiên của các đôi vợ chồng. Kinh Thánh quả quyết rằng hôn nhân là “một bí tích,” bởi vì hôn nhân biểu tượng sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (Ep 5,32). Theo cái nhìn này, làm sao có thể hiểu được nếu hôn nhân sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn ở trên thiên đàng. Hôn nhân không hoàn toàn kết thúc với cái chết, tương quan và sợi dây hôn phối vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng nó được biến đổi, được “thần hóa” nhờ sự hiệp thông với Thiên Chúa. Nhờ đó, nó xóa bỏ những giới hạn, bất toàn của đời sống hôn nhân ở trần gian.
Một cách tương tự, mối tương quan giữa cha mẹ và con cái hoặc tương quan bạn bè cũng vẫn tiếp tục tồn tại mà không bị quên lãng. Trong lời Kinh Tiền Tụng của thánh lễ cầu hồn, phụng vụ nói rằng: “Sự sống này chỉ thay đổi, chứ không mất đi.” Chúng ta có thể nói một cách tương tự như thế về hôn nhân, là một phần của đời sống, nó chỉ thay đổi, chứ không mất đi ở đời sau.
Đó là trường hợp của các cặp vợ chồng sống yêu thương và chung thủy với nhau trọn đời. Nhưng đối với trường hợp những người đã phải trải qua những kinh nghiệm bất đồng và đau khổ trong hôn nhân ở trần gian thì sao? Số phận của họ như thế nào? Phải chăng sợi dây hôn phối vẫn còn sẽ là một sự an ủi hay là lý do gây sợ hãi cho họ? Dựa vào giáo lý của Giáo Hội, chúng ta có thể trả lời rằng: trong thế giới của Thiên Chúa, sự dữ sẽ không còn tồn tại; những khiếm khuyết, sự thiếu thấu hiểu, cả những đau khổ đã làm họ tổn thương sẽ biến mất. Chỉ còn lại tình yêu và những gì tốt lành giữa họ tồn tại.
Các đôi vợ chồng sẽ được trải nghiệm tình yêu đích thực khi họ được tái kết hợp trong Thiên Chúa và nhờ đó, họ có niềm hạnh phúc và sự viên mãn của sự kết hợp mà họ đã có khi ở trần gian. Nhà thơ Goethe diễn tả điều này trong câu chuyện tình yêu giữa Faust và Margeret: “Chỉ trên thiên đàng, sự kết hợp và niềm hạnh phúc viên mãn giữa hai thụ tạo yêu nhau mới trở thành hiện thực. Đó là điều không thể tìm thấy ở trần gian.” Trong Thiên Chúa, tất cả sẽ hiểu nhau, sẽ được hòa giải và mọi người sẽ tha thứ cho nhau.
Còn đối với trường hợp những người đã kết hôn một cách hợp luật nhiều lần thì sao? Tương quan giữa họ thế nào? Đây chính là trường hợp mà nhóm Xađốc hỏi Chúa Giêsu về bảy anh em lấy cùng một người vợ khi sống (x. Mc 12,18-27). Khi chết ai là chồng của người đàn bà này? Ngay cả trường hợp này, chúng ta phải nhắc lại một điều tương tự: đó là tình yêu đích thực và sự hiến dâng giữa vợ chồng là một điều tốt lành đến từ Thiên Chúa, chúng sẽ không bị biến mất. Nhưng trên thiên đàng không có sự tranh dành, tranh đua và ghen tuông trong tình yêu vợ chồng. Chúng là những giới hạn thuộc bản năng của thụ tạo khi ở trần gian, chúng sẽ biến mất khi ở trên thiên đàng, sẽ được hoàn toàn biến đổi. Họ sống như các thiên thần, được kết hợp nên một với Thiên Chúa và với nhau. Họ sống tình yêu đích thực của Thiên Chúa, nên họ vẫn yêu thương và tôn trọng nhau trong “trời mới đất mới.”
Như thế, cuộc sống hôn nhân ở trần gian là sự chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Trong thế giới đó, ơn gọi và đời sống gia đình sẽ được viên mãn nhờ quyền năng và ân sủng Thiên Chúa. Vì thế, các đôi vợ chồng được mời gọi hãy sống yêu thương và trung tín với nhau khi ở trần gian, để cùng nhau hưởng hạnh phúc trên thiên đàng. Đó là lời hứa và phần thưởng cho những ai sống đời sống gia đình. Amen!
.
Sr. Nguyễn Như Ý
Trong cuộc sống, con người chúng ta ai cũng mong muốn cho mình có một điều gì đó mới mẻ, giá trị và tồn tại mãi. Vì vậy mà có người cho rằng, tôi sẽ sống mãi, không bao giờ chết vì tôi có nhiều tiền, tôi có thể mua cả bệnh viện tốt nhất khi tôi bệnh, nhưng họ đâu biết rằng tiền của không mua được sức khỏe. Điều đó cho ta biết một sự thật, sự sống thể xác không hệ tại do quyết định của chính chúng ta, nhưng là nơi bàn tay uy quyền của Đấng tác tạo nên ta. Điều quan trọng là mỗi người đã và đang chuẩn bị gì cho sự sống mới trong tương lai của chúng ta, giống như trong lời bài hát “Ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay” (N.S Hoàng Vân).
Tin mừng cho ta thấy rằng, sự sống đời này và đời sau không giống nhau “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng” (Lc 20, 34) còn “con cái đời sau giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa vì họ là con cái của sự sống lại” (Lc 20,36 ). Để được sự sống đời này hay để có sự sống đời sau là chính mỗi người chúng ta tự do quyết định và chọn lựa. Và để thực hiện những quyết định đó, chúng ta cần có ơn Chúa trợ giúp bởi vì chúng ta sinh ra đã là những con người yếu đuối mang thân phận tội lỗi. Có những lúc chúng ta nghĩ rằng ta có thể làm được việc này chuyện kia một cách tốt đẹp không cần ơn phù trợ. Và cũng có khi ta cho rằng mình đủ mạnh mẽ để vượt thắng những cạm bẫy thế gian, nhưng cuối cùng ta cũng bị bại trận vì “Ai tưởng mình đứng vững, coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12). Nhưng cho dù ta có yếu đuối vấp ngã thế nào, Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn và cho ta cơ hội để làm lại cuộc đời, bằng chứng là Ngài đã cho con của Ngài xuống trần gian để “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19, 10).
Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống vĩnh cửu qua việc trao hiến thân mình Ngài cho ta, về phần chúng ta, ta cũng cần có chút gì đó để đền đáp ân tình mà Ngài đã tặng ban cho ta. Chúa không cần ta đáp lễ cho Ngài cách trọn vẹn, Ngài muốn thấy nơi ta lòng khao khát được sống trong Ngài bởi khi “Ngài tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta. Nhưng khi cứu độ ta, Ngài không thể thiếu ta” (St. Augustine). Hơn nữa, vì Ngài là Đấng yêu thương, Ngài yêu thương hết mọi loài hiện hữu, không ghét bỏ bất cứ loài nào, vì nếu ghét loài nào thì Ngài đã chẳng dựng nên (x. Kn 11,24). Ngài muốn chúng ta được sống và sống hạnh phúc với Ngài. Để được sống hạnh phúc với Chúa, ta cũng hãy sống như Đức Giêsu đã sống. Bởi thế, đã là Kitô hữu, là đã mang trong mình sứ mạng cao cả là sống, làm chứng cho tình yêu và sự sống của Thiên Chúa đang tồn tại nơi trần gian này, ta cần luôn cố gắng biểu lộ sự sống ấy nơi chính cuộc sống thường ngày của ta qua việc sống chứng tá Tin mừng, bởi ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy. Trách nhiệm của chúng ta phải là người sống Tin mừng trước hết, bởi qua chính cuộc sống của ta mọi người sẽ nhận ra tình yêu và sự sống của Chúa đang hiện hữu nơi trần gian này vì Nước Trời không “Ở đây này! hay “Ở kia kìa!, nhưng Nước Trời đang ở giữa các con” (x.Lc 17, 20 – 21). Và “Nước Trời cũng chẳng phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14, 17). Bởi chính những điều tốt đẹp ấy, mọi người sẽ tin rằng Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện nơi trần gian này.
Lạy Chúa, con khao khát được sống và sống mãi trong tình yêu Chúa hứa ban. Tuy nhiên, có những lúc con cảm thấy mình yếu hèn và bất xứng để có thể lãnh nhận ơn trọng đại này. Xin Chúa giúp con luôn biết tận dụng những hoàn cảnh thuận lợi cũng như bất thuận lợi để huấn luyện bản thân mỗi ngày sống trọn vẹn hơn cho tình yêu Chúa, và mai sau con cũng xứng đáng hưởng hạnh phúc cùng Chúa. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Có những lúc, ta tưởng mình sẽ sống mãi trên mặt đất nến cứ mải mê với những gì chóng qua. Ta quên mất rằng, kiếp sống này, ta chỉ là thân lữ khách. Quê hương của ta ở trên Trời, nơi có Thiên Chúa là Đấng yêu thương ta. Người không ngừng mời gọi ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng sẽ giải thoát ta khỏi mọi thứ ràng buộc của tội lỗi và đưa ta vào hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau.
Khi suy nghĩ về sự sống đời sau, ta cảm thấy thật băn khoăn. Lắng nghe Lời Chúa, lòng ta như được tháo cởi và tìm thấy niềm hy vọng và ánh sáng để bước đi. Hôm nay, khi nhóm Xađốc đến gặp Chúa Giêsu để hỏi về việc bảy anh em lấy cùng một người vợ, vì cả bảy người đều đã chết đi mà không có con nối dõi, Người đã hé mở cho ta về sự sống đời sau. Đời này, người ta cưới vợ lấy chồng để truyền sinh, để cùng nhau xây dựng gia đình và xã hội. Đó là lẽ thường tình và là điều rất tốt đẹp. Những tương quan huyết thống ở đời này giúp con người gắn bó với nhau, cùng nhau sống hạnh phúc trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”. (Lc 20, 34-36). Cuộc sống đời này sẽ chuẩn bị cho ta bước vào cuộc sống đời sau. Ở đời này nếu ta sống theo thánh ý Thiên Chúa, ngày sau ta sẽ được Người cho hưởng sự sống muôn đời.
“Đối với Thiên Chúa, tất cả đều đang sống” (Lc 20, 38). Ta có thật sự đang sống không? Theo con người tự nhiên, ta vẫn đang sống từng ngày như bao người khác nhưng để sống thật sự thì ta phải sống sự sống mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho ta. Đó là luôn biết lắng nghe và sống Lời Chúa Giêsu đã dạy, và đây cũng chính là niềm tin sống động của ta. Khi chiêm ngắm gương sống của chính Chúa Giêsu, ta sẽ tìm ra con đường đi đến với Chúa Cha, vì chính Người đã khẳng định: “Chính Thầy là con đường là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Chính khi hết lòng sống theo gương Chúa Giêsu, ta sẽ được hưởng nếm hạnh phúc quê Trời ngay ở đời này,vì hạnh phúc mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho ta chính là được sống trong tình yêu với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu! Cuộc sống này luôn muốn lôi cuốn chúng con rời xa Chúa bằng những vẻ đẹp rực rỡ của nó. Có nhiều lúc, con bị phù hoa của đời này lôi cuốn, khi niềm vui chóng qua chẳng còn, con rơi vào nỗi buồn chán, cô đơn và thất vọng. Trong thảm trạng đó, xin Chúa chạm vào lòng con, nâng con lên và ban cho con niềm hy vọng. Xin cho con mỗi ngày luôn biết dành một khoảng lặng trong tâm hồn để tìm về với lòng mình, để gặp gỡ Chúa và nhận biết con được Chúa yêu thương, để con thật sự sống và sống dồi dào trong Chúa. Amen.
.
Anna Cỏ May
Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ đời sau thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Đó là sự thật mà Chúa Giêsu đã khẳng định.
Cuộc sống ở thế gian, việc dựng vợ gả chồng là để duy trì dòng giống gia tộc. Đó cũng là một trong những ơn gọi Thiên Chúa muốn dành cho con người. Bí tích Hôn phối là dây liên kết giữa người nam và người nữ, giúp họ chu toàn trong tình yêu của mình. Từ tình yêu ấy làm nên mối liên hệ trong gia đình. Mối liên hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái và anh chị em với nhau là mối quan hệ thật chính đáng và quý giá nơi cuộc sống thế gian. Nhưng mối liên hệ này sẽ không còn nữa khi con người bước vào cuộc sống đời sau. Đúng hơn, là sau khi mỗi người chúng ta chết và sống lại thì sẽ không còn mối dây liên hệ theo máu huyết nữa. Có nhiều người đã không tin có sự sống đời sau và họ chỉ sống trong sự thỏa mãn ở đời này.
Trong Tin Mừng Luca, những người thuộc nhóm Xa Đốc chủ trương không có sự sống lại, họ đến hỏi Đức Giêsu về câu chuyện bảy anh em lấy chung một vợ nhưng không có con nối dõi và rồi người đàn bà ấy cũng chết. “Trong ngày kẻ chết sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?” (x. Lc 20, 29-33). Đức Giêsu biết rõ sự sống đời sau vì chính Ngài đã đến từ đó. Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không còn cưới vợ hay lấy chồng. Mọi người sẽ được sống ngang hàng với các thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa, sống thân mật với Ngài.
Như vậy, việc cưới vợ gả chồng là việc ở đời này, nó chỉ tạm thời và sẽ chấm dứt sau khi chết. Mỗi người chúng ta được mời gọi để không bám víu hay dính chặt vào các mối liên hệ ở đời này mà phải vượt qua để đạt tới mối liên hệ siêu nhiên ngay từ đời này. Thật khó để chúng ta có thể thực hiện điều này vì chúng ta vẫn là con người yếu đuối, cần có chỗ cậy dựa. Chỗ dựa tuyệt vời mà chúng ta cần bám vào đó chính là Đức Giêsu. Chúng ta đừng quá phụ thuộc vào những mối liên hệ ở thế gian này, nhất là những mối liên hệ trái với ý Thiên Chúa, vì ý Thiên Chúa là muốn cho người vợ người chồng luôn sống chung thủy với nhau. Thật là có phúc cho những ai không thấy mà tin vào Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu! Chúng con dâng lên Chúa những mối liên hệ ở trần gian này. Xin cho chúng con sống đúng với ý Chúa và chu toàn sứ mạng Chúa trao, nhờ đó chúng con xứng đáng hơn trong ngày xét xử mà hưởng hạnh phúc đời sau.
.
Maria Mỹ Loan
LỜI CHÚA: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không lấy vợ cũng chẳng lấy chồng”. (Lc 20,34-35)
Giữa cuộc sống trần gian, khi đến tuổi trưởng thành thì người ta lấy vợ cưới chồng như một tất yếu. Đời sống hôn nhân được Thiên Chúa chúc lành và giữ gìn. Quy luật này nhằm mục đích phát triển sự sống, con cái. Những mối liên hệ giữa vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em là những mối liên hệ chính đáng trong cuộc sống trần gian. Nhưng vẫn có những trường hợp là ngoại lệ. Có những người vì những lí do khác nhau mà chọn cuộc sống độc thân. Đối với công giáo đặc biệt là Kitô Giáo, thì những vị linh mục, tu sĩ nam nữ, vì những lí tưởng của đời sống siêu nhiên mà chọn kết hiệp mật thiết với Chúa hơn là đời sống vợ chồng. Nhưng dù sống cuộc sống hôn nhân hay là ơn gọi tu trì thì tất cả mọi người đều hướng về Thiên Chúa là cùng đích. Thiên Chúa mới là điều quan trọng chứ không phải quà tặng hay con đường đến với Chúa quan trọng.
Vì những ai đáng hưởng sự sống đời sau và sống lại từ cõi chết thì không còn giữ những mối liên hệ ở trần gian nữa. Mà giờ đây mối liên hệ duy nhất của họ chính là Thiên Chúa – một mối liên hệ siêu nhiên, không phai nhạt hay biến đi mà được củng cố mỗi ngày để thắm thiết hơn, bền vững hơn. Mọi Kitô hữu được mời gọi để hướng tới mối liên hệ siêu nhiên ở đời sau, mà không bám víu hay dính chặt vào những mối liên hệ của trần gian ngay từ đời này. Vậy chúng ta phải luôn tỉnh thức và thay đổi cái nhìn cho phù hợp với niềm tin Kitô giáo. Can đảm từ bỏ tội lỗi và mọi điều xấu xa để bớt bất xứng với ơn cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa.
“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Thiên Chúa tất cả đều đang sống”. (Lc 20,38)
Thiên Chúa của tổ phụ Ap-ra-ham, I-xa-ac, Gia-cop vì các Ngài đã cùng sống với Thiên Chúa qua những điềm thiêng, sự tỏ mình của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho con người sự sống tự nhiên và sự sống siêu nhiên. Sự sống tự nhiên biến mất để nhường chỗ cho sự sống siêu nhiên khi con người chết đi và sống lại ở đời sau. Tuy nhiên, con người lại ham muốn sự sống tự nhiên hơn, bám dính vào cuộc sống ở đời này, làm những việc tội lỗi mà không chuẩn bị gì cho đời sau. Để cho con người cũng được sống như các Thiên Thần, Thiên Chúa chấp nhận sống trong xác phàm như con người và đã chịu chết để làm cho thân xác Đức Kitô sống lại và trở thành nguồn sống mới cho các tín hữu sống ở đời này. Như đã có lời khẳng định: “Tôi đến để đoàn chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10)
Ý thức được sự lệ thuộc vào sự Phục Sinh của Chúa Kitô, Thánh Phaolô đã nhắc nhở mọi Kitô hữu: “Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2Cr 5,15). Vì vậy, chúng ta phải sống và hướng về Thiên Chúa là sự sống đích thực và đời đời.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết tránh xa tội lỗi, những gì thuộc về thế gian để trở nên kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô là nguồn sống vĩnh hằng.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Không tin sự sống đời sau,
Mắt nhìn thiển cận, nỗi đau quấy rầy.
Tâm tư thắc mắc điều này,
Vợ chồng kết hợp, tình say mặn nồng.
Kết hôn gắn bó tương đồng,
Thủy chung son sắt, đèo bồng xứng đôi.
Sao mà chia cách đơn côi,
Ngày sau sống lại, kết tôi với mình.
Người anh cưới vợ gái trinh,
Chẳng may bệnh chết, mối tình dở dang.
Không con nối dõi gia cang,
Người em kế tiếp, cưới nàng lập hôn.
Tiếp theo năm chú đồng môn,
Bảy người đều chết, mồ chôn mả dài.
Không ai thừa tự quản cai,
Ngày sau vợ chết, nhận ai là chồng.
Chúa rằng sống lại đợi trông,
Không còn cưới gả, vợ chồng lứa đôi.
Đời sau sống mãi tinh khôi,
Nhẹ nhàng thánh thoát, xứng ngôi thiên thần.
Qua hai ngàn năm, đã có hằng tỷ người cùng tuyên xưng một đức tin: Xác loài người ngày sau sẽ sống lại. Bài Phúc âm hôm nay mở lối cho chúng ta về sự sống ngày sau. Những người Sađucêô không tin có sự sống lại. Họ mượn cớ một câu truyện về một gia đình bảy anh em lần lượt cưới cùng một người vợ, sau cùng mọi người chết, vậy ai sẽ là chồng của cô ta. Họ dựa vào lý luận và cuộc sống trần thế để giải đáp về cuộc sống mai hậu. Chúa Giêsu cho chúng ta một câu trả lời xác đáng: Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng, họ sẽ không chết nữa, vì họ giống như thiên thần.
Trong lịch sử các tôn giáo trên thế giới, tôn giáo nào cũng cố gắng tìm giải đáp cho ước vọng sâu xa của con người về cuộc sống ngày sau. Có hai quan điểm chính từ Ấn Độ, Phật Giáo quan niệm cuộc sống như vòng tròn, xoay vần, như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và đi hết vòng này sang vòng khác. Vì thế họ tin vào thuyết luân hồi. Sống kiếp này chưa tốt, đầu thai vào kiếp khác, cho tới khi hoàn hảo sẽ được hưởng lạc trên Niết Bàn. Theo quan điểm Kitô Giáo là quan niệm cuộc đời theo đường thẳng. Mỗi người có khởi đầu và có chấm dứt. Sau khi mãn cuộc đời này sẽ bắt đầu cuộc sống mới. Khi chết hồn và xác tách biệt. Xác tan rã và hồn bất tử chịu sự phán xét về việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn ở trần thế. Hồn xác sẽ sống lại vào ngày quang lâm.
Hồn và xác kết hợp làm nên một chủ thể. Phật giáo tin thuyết nhân qủa, gieo gió thì gặt bão, cây nào sinh trái đó và cây tốt sinh trái tốt. Nhìn qủa biết cây và làm tốt sẽ được thưởng. Đạo Công Giáo cũng một niềm tin, nếu chúng ta sống tốt thì sẽ được hưởng hạnh phúc. Làm dữ sẽ bị đoán phạt. Nên cuộc đời trần thế là một chặng đường chuẩn bị cho hạnh phúc mai sau.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, đó là hoa qủa đầu mùa của những kẻ đã yên giấc. Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể, chúng ta là chi thể, đầu đi tới đâu thì thân thể cũng sẽ đi tới đó. Chúa Giêsu nói Ngài về cùng Chúa Cha và dọn chỗ cho chúng ta. Chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta tiến bước trong hy vọng.
Nhìn cảnh vật chung quanh, mùa Thu lá đổi mầu và rụng xuống, để cây trơ trụi, trải qua mùa Đông dài và mùa Xuân tới, cây cối sẽ lại trổ mầm sinh tươi. Chúng ta cũng phải bước qua ngưỡng cửa sự chết mới đạt tới sự sống lại. Như hạt giống gieo xuống đất phải chịu mục nát mới có thể trổ sinh hoa trái. Chúa Giêsu đã nằm xuống qua cái chết, Chúa đã sống lại. Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian.
Lạy Chúa chúng con tin Chúa là sự sống và là sự sống lại. Chúng ta cùng tuyên xưng trong kinh tin kính: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy. Amen.
.
Lm Vũđình Tường
Khả năng con người quá hạn hẹp khi phải khám phá sức sống của vật thể hữu hình. Nguồn sống vô tận này cung cấp sự sống cho con người, thanh tẩy bầu quí quyển, làm sạch nước đại dương và là nguồn cảm hứng của học hỏi, phỏng theo sáng chế dụng cụ cho con người. Càng ngày càng có nhiều khám phá mới về cuộc sống của vũ trụ. Nhân loại dường như không bao giờ khai thác, học hỏi, hiểu biết cặn kẽ về vật thể hữu hình quanh ta. Chỉ riêng những vấn đề như làm thế nào sống vui hơn, mạnh hơn, giảm bệnh tật và thọ hơn cũng đủ điên đầu các khoa học gia. Vấn đề đời sống hiện tại đã thế, nói đến vấn đề tâm linh, siêu hình còn phức tạp hơn gấp bội. Mọi tranh biện có hay không có sự sống sau cuộc sống này đều là những võ đoán, lí luận riêng của cá nhân. Khối óc con người vất vả phấn đấu đêm ngày mới hiểu được phần nào cách cấu kết, sinh hoạt về cuộc sống hữu hình đời này. Nói về cuộc sống vô hình, cuộc sống đời sau mọi kết luận có hay không có sự sống đời sau chắc chắn là vượt quá giới hạn của khối óc. Đây không phải là vấn đề mới mẻ. Vấn đề cuộc sống trường sinh dường như đồng hành với cuộc sống của nhân loại, còn nhân loại trên mặt đất vấn đề còn được đặt ra, bởi sống và suy luận luôn đồng hành. Con người muốn sống bất tử nhưng khi bàn về bất tử kẻ chấp nhận, người chối bỏ. Cái mâu thuẫn này không có kết thúc chung. Mỗi cá nhân tự chọn niềm tin riêng cho mình. Mọi cố gắng áp đặt niềm tin trên tập thể chỉ là tin cách giả tạo, bởi ai đo được niềm tin tiềm ẩn, sâu kín trong lòng. Dù tin hay không cũng không thể chối bỏ được cuộc sống tâm linh, thần bí trong trong đời. Lãnh tụ các thời đại ước mơ có những người con tài trí, nhưng ước mơ và hiện thực không song hành. Như thế con người đầu hàng trước thế giới thần linh.
Hai nhóm Pharisiêu và Biệt Phái dù bất đồng nhưng họ cấu kết với nhau triệt hạ Đức Kitô. Cả hai đều trọng Luật của Môisen nhưng vì chiến tranh, di dân, ảnh hưởng bởi văn hoá ngoại bang và chức tước bổng lộc nên mỗi nhóm đi theo một đường và cuối cùng chê trách nhau. Nhóm Pharisiêu tự hào về quyền dịch sách Ngũ Thư và tôn trọng truyền thống; nhóm Biệt Phái không chấp nhận truyền thống và chú trọng vào việc lãnh đạo Đền Thờ. Họ kết hợp với nhau vì Đức Kitô chỉ trích họ trong việc phụng thờ và coi luật lệ trọng hơn sự sống. Họ đến hỏi Ngài về sự sống lại. Nhóm Pharisiêu tin có sự sống lại, nhóm Biệt Phái tin chết là hết. Họ không hỏi để tìm hiểu mà hỏi tìm cớ giết Ngài. Đức Kitô vạch cho họ biết cái sai của họ.
Thứ nhất Ngài xác định rõ những ai sống theo đường lối Chúa sẽ được hưởng sự sống đời sau. Sự sống vĩnh cửu trong nước Chúa. Sẽ không còn chết, không còn đau khổ, tang thương.
Thứ hai, nhu cầu vật chất cần thiết cho sự sống của thân xác đời này và nhu cầu cuộc sống tâm linh hoàn toàn khác biệt.
Thứ ba, niềm vui của thân xác đến từ vật chất trần thế; niềm vui tâm linh đến từ tình yêu Chúa. Vì thế cuộc sống trần thế lập gia đình để hỗ trợ nhau, thoả mãn nhu cầu cuộc sống; cuộc sống tâm linh sống bằng tình yêu Chúa và họ không còn thiếu, thèm khát bất cứ điều chi nên không còn nhu cầu đòi hỏi. Tình yêu Chúa ban cho họ cuộc sống vui thoả, không còn thiếu thốn chi.
Thứ tư, Đức Kitô cũng cho họ biết họ sai lầm khi giảng giải Ngũ Thư. Câu chuyện Môisen trông thấy bụi gai cháy và có sự hiện diện của các Tổ Phụ: Abraham, Isaac và Jacob cho biết các Ngài đang sống hạnh phúc trong nước Chúa. Đối với thế giới họ đã chết, đã ra khỏi thế giới nhiều năm trước. Chuyện bụi gai cho biết họ không chết mà chính là từ bỏ thế giới vật chất để vào sống hạnh phúc trong thế giới siêu hình.
Tranh biện về cuộc sống trường sinh không có kết thúc. Còn con người còn có lí luận khác nhau và còn tranh biện. Đức Kitô là Đấng sống lại từ cõi chết. Ngài là Đấng duy nhất có tiếng nói chính đáng nhất trong vấn đề này. Từ chối lắng nghe tiếng của Ngài sẽ không còn tiếng nói nào chính xác hơn, đáng tin hơn bởi tất cả đều là sản phẩm của suy tưởng, lí luận. Thắng hay thua trong việc tranh biện đều không quan trọng. Điều quan trọng là tin vào món quà sự sống trường sinh Đức Kitô hứa ban. Quà này ban cho những ai yêu mến và tin vào Ngài. Nhìn vào giá trị món quà để định giá là cách trẻ em thực hiện. Chúng reo vui khi thích quà tặng, buồn ra mặt khi không thích. Người lớn không nhìn vào giá trị món quà mà nhìn vào tình yêu người tặng quà dành cho. Quà chỉ là biểu tượng của tình yêu. Kitô hữu đón nhận sự sống trường sinh với tất cả lòng yêu mến vì chúng ta không đáng hưởng tình yêu chan chứa của Thiên Chúa nhưng Ngài ban cho vì thế chúng ta đón nhận với tâm tình cảm tạ, khiêm nhường.
Rất có thể cuộc sống trường sinh, hạnh phúc, nhiều ít thế nào ra sao trong tương lai được đo lường bằng niềm tin hiện tại. Tin mãnh liệt sẽ sống tích cực, yêu mến Thiên Chúa và thương tha nhân sẽ hưởng tình yêu Chúa cách nồng nàn. Tin ít hơn, hời hợt hơn sẽ sống đời sống chứng nhân hời hợt hơn và cuộc sống trường sinh cũng nhạt màu. Tin rất ít sẽ đáp trả lại tình yêu Chúa cách lạnh nhạt vì thế sẽ không thể nào hưởng trọn tình yêu Chúa trong cuộc sống mới. Đời sống hiện tại chính là khung sườn, ảnh hưởng đến cuộc sống trường sinh bởi cuộc sống trường sinh là cuộc sống yêu thương. Thiếu yêu thương nơi trần thế sẽ chẳng thể nào hội nhập vào yêu thương cao cả trong nước Chúa.
.
Lm Trần Bình Trọng
Nếu đời này là cùng đích và là cứu cánh của con người, thì nhiều sự việc xẩy ra ở trần thế là bất công, khi người gian ác được giầu sang, mạnh khoẻ; còn người hiền đức lại phải sống cảnh nghèo khó, bệnh tật. Nếu không có đời sau thì người ta phải tận hưởng những sự vật đời này cho tới mức tối đa, người ta phải tìm ăn ngon, mặc đẹp và kiếm tìm những thú vui cho thoả mãn ở đời này. Người theo các tôn giáo lớn như Phật Giáo, Ấn Giáo và Hồi Giáo đều tin có một kiếp sống nào đó ở đời sau. Còn đối với người Thiên Chúa Giáo, thì việc trải qua từ đời này sang đời sau, được gọi là phục sinh hay sống lại.
Nhóm người Xa Ðốc dựa vào sách Thứ luật, không tin vào sự sống lại vì bổn sách không đề cập tới. Hôm nay lợi dụng cơ hội hiếm có, nhóm Xa Ðốc lại đặt vấn đề về sự sống đời sau với Chúa Giêsu, và họ đặt câu hỏi cách tài tình, nhưng lại mưu mô. Họ dựa vào luật Thế huynh nối dòng trong sách Thứ luật (Ðnl 25:5-6) để bịa ra câu chuyện như sau. Một người đàn bà có bảy đời chồng là bảy anh em ruột. Người đàn bà cưới người anh cả, rồi người anh cả chết đi, không con. Chị ta bèn phải lấy người em thứ hai, rồi người này cũng chết mà không con. Và sự việc cứ xẩy ra như vậy cho tới người thứ bảy, mà không ai có con. Sau cùng người đàn bà cũng chết. Vậy nếu bảo rằng có sự sống đời sau, thì ai sẽ là chồng chị trong kiếp sống mai hậu? Nhóm người Pharisêu không trả lời được vấn đề này vì theo họ thì đời sau, người ta cũng cưới hỏi như đời này.
Thực ra thì nhóm Xa Ðốc không quan tâm ai sẽ là chồng của người đàn bà trong cuộc sống đời sau. Vấn đề thắc mắc về hôn nhân chỉ là cạm bẫy họ dùng để bắt bẻ Chúa Giêsu về sự sống đời sau. Tại sao họ phải dựng câu chuyện về bảy người chồng như vậy? Trong trường hợp này, họ chỉ cần trưng ra hai người chồng thì cũng đủ biện minh cho lí lẽ của họ. Trưng ra bảy người chồng có lẽ họ muốn nói đến bảy anh em trong sách Macabêô đã chết vì tin theo Chúa với hi vọng được sống lại chăng (2 Mcb 7:9)?
Theo sách Macabêô thì người Do Thái từ thế kỉ thứ hai trước Chúa Giêsu giáng sinh đã tin có sự sống lại. Tuy vậy không phải hết mọi người Do thái thời đó đều tin có sự sống đời sau như nhóm người Xa Ðốc. Nhóm Xa Ðóc chỉ nhận bộ sách Ngũ kinh, trong đó sách Thứ luật không bàn gì về sự sống lại. Họ không công nhận những sách khác trong Cựu ước, gồm sách Macabêô có ghi lại niềm tin của bảy anh em về sự sống lại.
Ðến đây thì Chúa giải thích cho nhóm người Xa đốc hiểu rằng, theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, thì kiếp sống đời sau khác hẳn thực tại của kiếp sống đời này. Mối liên hệ mật thiết nhất ở đời này là tình luyến lái trong đời sống hôn nhân cũng không còn cần thiết cho đời sau (Lc 20:34), vì một trong những mục đích của hôn nhân là tìm sự luyến ái vợ chồng để nâng đỡ nhau về đời sống tình cảm và để sinh con đẻ cái, đã được hoàn tất ở đời này rồi.
Trong cuộc sống đời sau trên thiên quốc, người ta được hưởng nhan thánh Chúa cách trực tiếp và sung mãn (c. 36), nên tình nghĩa vợ chồng không còn cần thiết nữa. Trong cuộc sống mai hậu, người ta cũng không cần ăn uống và do đó cũng không có nhu cầu đi vệ sinh. Phúc âm thánh Luca có ghi: sau khi sống lại, các tông đồ đưa cho Chúa một nhát cá nướng, rồi Chúa cầm lấy mà ăn (Lc 24:42-43). Sách Công Vụ Tông Đồ cũng ghi: sau khi sống lại Chúa cùng ăn uống với các tông đồ (Cv 10:41). Việc Chúa ăn uống ở đây là vì các tông đồ, chứ trong thân thể phục sinh của Chúa, Chúa không cần ăn uống. Việc Chúa ăn ở đây giống như thiên sứ Ra-pha-en ăn, rồi trả lời cho hai cha con ông Tôbít và Tobia: Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thực ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy (Tb 12:19).
Khi có người thắc mắc kẻ chết sống lại sẽ lấy thân thể nào mà trở về (1 Cr 15:35), thánh Phaolô trả lời thân xác phục sinh khác thân xác trước kia như sau: Gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1 Cr 15:44). Đó là lí do tại sao các tông đồ lúc đầu không nhận ra Chúa phục sinh khi Người hiện ra với các ông (Lc 21:16, 37; Ga 20:14; Ga 21: 4) vì theo thánh Mác-cô: Chúa tỏ mình dưới một hình dạng khác (Mc 16:12), nghĩa là hình dạng đã biến đổi.
Ðể thuyết phục nhóm Xa Ðốc sao cho họ xác tín về sự sống lại, Chúa Giêsu còn trích dẫn đoạn Thánh kinh trong sách Xuất hành về việc ông Môsê, khi được Chúa hiện ra đã tuyên xưng: Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp (Xh 3:6;Lc 20:37). Vậy nếu Chúa là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, thì mặc nhiên ba tổ phụ này đã sống lại (c. 38). Nhóm Xa Ðốc biết nhiều về Thánh kinh nên họ đã chịu khuất phục trước lối cắt nghĩa của Chúa về việc sống lại. Và như thánh sử Luca ghi lại: Họ không dám chất vấn Người điều gì nữa (Lc 20:40).
Giáo lí công giáo dạy phục sinh không phải là một hình thức luân hồi. Giáo lí công giáo coi việc sống lại không phải chỉ dạy rằng con người có linh hồn bất tử. Theo lời Chúa trong Phúc âm hôm nay thì: Họ không thể chết nữa vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa vì là con cái sự sống lại (Lc 20:36). Và Chúa cũng đặt những điều kiện là: Những ai được xét xử là đáng được hưởng hạnh phúc đời đời (Lc 20:35) thì được hưởng sự sống lại.
Ðức tin và lí trí của người tín hữu đòi hỏi phải có sự sống lại. Ðức tin của người tín hữu trong kinh Tin Kính tuyên xưng: Tôi tin xác sống lại và sự sống đời sau. Lí trí của ta đòi hỏi sự sống lại là vì ta được tạo dựng gồm cả hồn và xác để phụng sự Thiên Chúa. Nếu không có sự sống lại thì người tín hữu không cần cầu nguyện cho người quá cố, không cần xin lễ cầu nguyện cho linh hồn nọ, linh hồn kia. Nếu không có sự sống lại thì việc xin lễ cầu nguyện cho linh hồn nọ kia, là việc làm mất thời giờ uổng công. Theo Tín điều Các thánh cùng thông công của các công đồng Nicea II, Firenze và Triđentinô, mà Công đồng Vaticanô II gọi là Hiệp thông Sống động (Giáo hội # 51), thì người tín hữu tại thế có thể hiệp thông với các thánh trên trời và thông công với các linh hồn nơi luyện ngục bằng cách cầu nguyện hi sinh cho họ.
Trong tháng Các Linh hồn, người tín hữu nhớ đến các linh hồn nơi luyện ngục một cách đặc biệt bằng cách dâng lễ cầu nguyện. Ðặc biệt người tín hữu được nhắc nhở cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc và những linh hồn mồi côi. Nếu có ai hỏi vây phải cầu nguyện cho người quá cố tới bao giờ? Câu trả lời là tới bao lâu người tín hữu còn sống. Nếu linh hồn người quá cố mà ta cầu nguyện cho đã được lên thiên đàng, thì theo Tín điều Các Thánh cùng Thông công, mà Công đồng Vaticanô II gọi là Hiệp thông sống động, Thiên Chúa sẽ chuyển những lời cầu nguyện, lễ dâng và công hiệu thiêng liêng của việc hi sinh bác ái ta làm, cho những linh hồn khác nơi luyện ngục.
Lời cầu nguyện xin cho được hưởng sự sống lại:
Lạy Chúa, Chúa là vinh quang của các thánh
và là nguồn hi vọng của người tín hữu.
Xin cho những người tin tưởng vào Chúa
và tuân giữ giới răn Chúa khỏi phải thất vọng.
Xin dạy con biết tìm kiếm những của vững bền
để làm hành trang cho kiếp sống mai hậu.
Xin Chúa là gia nghiệp của con ở đời này và đời sau. Amen.
.
Lm. Quốc Toản
Chúng ta sống trên đời này là để thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân hầu được phúc hưởng nhan Thiên Chúa Hằng Sống đời sau. Để được thế mỗi người phải chiếu giãi đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Còn gương lành nào chiếu giãi đức tin cho bằng gương của bảy anh em lần lượt chịu tử đạo trước sự chứng kiến của người mẹ can đảm trong Bài Đọc thứ nhất hôm nay? (x. 2Mac 7:1-2; 9-14). Đây qủa là một tấm gương đáng được ghi nhớ muôn đời trong lịch sử nhân loại!
Bảy anh em đã chiếu sáng sự thánh thiện và lòng kiên trì qua sự chấp nhận những tra tấn dã man dưới tay phường vô nhân đạo. Sở dĩ họ chịu đựng được những tra tấn cũng một phần do sự khuyên bảo và khích lệ của người mẹ tràn đầy lòng tin. Đặc biệt hơn nữa là vì họ có một niềm tin xác tín rằng Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa của công bằng và yêu thương, Đấng mà họ sẵn sàng hy sinh mạng sống đời này, đã dành cho họ một cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đàng.
Trải qua hơn hai ngàn năm, hằng triệu Kitô hữu đã hy sinh mạng sống cách anh hùng vì đức tin. Trong số đó có các Thánh Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Ngày nay cũng có hằng triệu người đang chịu đau khổ và tử đạo liên lỉ vì cùng một đức tin. Tuy nhiên, họ may mắn hơn bảy anh em người Do-thái xưa vì họ có gương lành của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chịu đựng một cuộc tử đạo đau đớn dã man hơn mọi người. Vì thế, một cách nào đó, gương lành của người mẹ và bảy anh em Do-thái đáng được ngưỡng mộ hơn. Nhưng, điều quan trọng là cũng chính một Thiên Chúa, Đấng đã ban cho họ những ơn cần thiết để chịu đựng mọi cơn thử thách, ngày nay vẫn tiếp tục ban cho mọi Kitô hữu những ơn cần thiết để chịu đựng mọi thử thách hầu được hưởng cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời với Thiên Chúa Hằng Sống.
Những gương anh dũng của các tiền nhân đều đáng cho chúng ta phải thật sự ngưỡng mộ. Tuy nhiên, là những Kitô hữu, ngưỡng mộ không chưa đủ! Ta cần phải bắt chước và thực hành những gương anh hùng đó trong cuộc sống thường ngày. Theo tự nhiên, ai trong chúng ta khi nghĩ đến những thử thách tra tấn cũng phải giùng mình kinh hãi. Chắc chắn các đấng đi trước cũng vậy. Nhưng, khi cơn thử thách đến thì Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chịu đựng như Chúa đã ban cho các đấng tiền nhân.
Những tấm gương chứng nhân đức tin sáng ngời của các bậc đi trước là một thách đố mà chúng ta có thể áp dụng cho cuộc sống ngày nay. Chúng ta không cần phải hỏi, “Tôi có sẵn sàng chấp nhận những cực hình và cái chết vì đức tin hay không?” Điều chúng ta nên làm là xét xem mình có sẵn sàng và thật sự sống đức tin trong cuộc sống hằng ngày chưa. Nghĩa là chúng ta đã sống tinh thần chịu đựng, hy sinh và can đảm đúng với địa vị của mình hay chưa? Thí dụ: vợ chồng có nhịn nhục, can đảm hy sinh chịu đựng lẫn nhau hay không? Bố mẹ có quan tâm đến con cái và săn sóc, dậy dỗ chúng nên người hay chỉ lo làm ăn đến độ bỏ bê chúng? Con cái có biết vâng lời bố mẹ và chăm chỉ học hành cho giỏi hay chỉ biết đi chơi và phá nghịch xóm làng…v.v.?
Cuộc sống là một chuỗi ngày chiến đấu với ma quỉ, thế gian và xác thịt. Vì thế, để sống đúng địa vị của chính mình không phải là một chuyện dễ làm đối với bất cứ một ai. Với nhiều người đây chính là một cuộc tử đạo liên lỉ. Nhưng, hãy nghĩ đến hoặc nhìn lại những tấm gương xác tín đã tăng cường sức lực cho người mẹ và bảy anh em Do-thái xưa. Mọi Kitô hữu phải luôn tạo cho mình có một niềm tin xác tín vào Thiên Chúa Hằng Sống như thế.
Nếu chúng ta trung thành với Chúa thì Ngài sẽ thưởng chúng ta. Nếu chúng ta trung thành với giới răn của Chúa thì Ngài sẽ giữ lời hứa của Ngài. Và nếu Chúa có muốn chúng ta hy sinh mạng sống để làm chứng nhân cho Ngài thì Ngài sẽ ban cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc trường sinh trên quê trời. Được thế thì chúng ta đã hoàn tất được mục đích cuộc sống đời này; đó là chiếm được cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau với Thiên Chúa Hằng Sống.
.
HỌ LÀ CON CÁI THIÊN CHÚA GIỐNG NHƯ CÁC THIÊN THẦN
Lm. Huy Châu
Bài đọc thứ nhất và Phúc Âm hôm nay có cùng một nội dung: sự sống lại đời sau. Vấn đề sự sống lại trong bài Phúc Âm hôm nay được nêu lên do nhóm Xađuxê. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu qua về nhóm này: Hai nhóm vị vọng trong dân Do Thái thời Chúa Giêsu mà Phúc Âm thường nhắc đến là Pharisiêu và Xađuxê. Hai nhóm này có nhiều khác biệt. Điển hình là nhóm Pharisiêu chủ trương lo việc tôn giáo, không nhúng tay vào chính trị. Họ tin có sự sống đời sau và có thiên thần. Ngược lại Xađuxê là một nhóm nhỏ nhưng có chỗ đứng trong guồng máy cai trị của người Rôma. Phái Xađuxê không tin có thiên thần và không tin có sự sống đời sau.
Nhìn lại bối cảnh Phúc Âm, có lẽ sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sự sống đời sau, nhóm Xađuxê cảm thấy “khó chịu” nên muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu và đặt Ngài vào chỗ bí. Câu hỏi họ đặt ra về việc một người đàn bà lần lượt lấy 7 anh em theo luật Maisen có ghi trong sách Đệ Nhị Luật, đoạn 25, câu 5. Họ hỏi nếu người đàn bà đó lấy cả 7 anh em, thì sau khi sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ của ai? Câu hỏi này khi mới nghe thì có vẻ hóc búa và có lẽ nhóm Xađuxê hí hửng vì bắt bí được Chúa Giêsu. Nhưng câu trả lời của Chúa trước hết khiến cho họ bẽ mặt và làm cho câu hỏi đó thật chỉ là câu hỏi có vẻ “trẻ con”. Thứ nữa, câu trả lời của Chúa hé mở cho chúng ta thấy “tình trạng” con người được sống lại trên thiên đàng thế nào: trên thiên đàng người ta không sống trong tình trạng vợ chồng nhưng sống như các thiên thần (Lc 20:34-36). Thực sự chúng ta không biết các thiên thần “sống” như thế nào trên thiên đàng nhưng một số điều căn bản chúng ta biết về các thiên thần là các ngài không có thể xác, không lệ thuộc vào vật chất, và các ngài được hưởng kiến nhan Chúa nên được tràn ngập hạnh phúc.
Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy một tình trạng tâm lý tự nhiên là khi người ta được an toàn dư dật trong cuộc sống vật chất và danh vọng thì người ta coi nhẹ hay ít màng tới đời sống tinh thần. Họ thoả mãn với cuộc sống hiện tại, nên việc họ không tin vào đời sống sau này cũng là một điều dễ hiểu. Một điều lạ là ngày nay số người tin có sự sống sau khi chết (life after death) hay linh hồn bất tử tại Hoa Kỳ gia tăng. Nhưng nhiều người chỉ tin một cách mơ hồ nào đó chứ không tin theo lối tin truyền thống của niềm tin Kitô Giáo. Là những Kitô Hữu đích thực, chúng ta cần xác tín một chân lý là đời sống trên thế gian này không phải là đích tối hậu, nhưng là thiên đàng mai sau. Dầu thế, thiên đàng bắt đầu ngay từ đời này. Do đó đời sống hiện tại của chúng ta sẽ quyết định đời sống mai sau.
Theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, con người là chiếc cầu nối liền thế giới thần linh (spiritual) và vật chất (material) vì trong con người có cả hai yếu tố: linh hồn và thể xác. Qua con người, thế giới vật chất được nâng lên biên giới của thế giới thần linh (xem God and the World, tr. 89). Như thế, ngay ở đời này, chúng ta cũng có thể bắt đầu “sống như thiên thần”, và nếu chúng ta muốn bắt đầu cuộc sống như thiên thần trên đời này, chúng ta cũng cần phải đặt lại thứ tự giá trị cuộc sống: giá trị tinh thần trên vật chất; đòi hỏi của Phúc Âm và Giáo Hội trên đòi hỏi của nhu cầu tự nhiên; hướng tất cả về đời sống mai sau. Có lẽ chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu dạy: “Được lời lãi cả thế gian này mà mất linh hồn mai sau thì được ích gì” (Mt 16:26). Lời Chúa hôm nay, một lần nữa kêu gọi chúng ta lựa chọn: Đời này hay đời sau.
.
Lm.Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Vào thời Đức Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau. Những người thuộc nhóm Biệt phái tin linh hồn bất tử và tin có sự sống lại đời sau. Một số khác tin rằng: cuộc sống sau khi chết cũng ăn uống, dựng vợ gã chồng, buôn bán, vui chơi bình thường như cuộc sống dương gian. Còn riêng nhóm Sađốc là những người quí tộc Do Thái, phần đông gồm các tư tế giàu có, giữ những chức vụ cao nhất trong đạo Do thái. Họ lấy Ngũ Thư tức 5 cuốn sách đầu của bộ Cựu ước (St, Lv, Ds, Xh, Đnl) làm tiêu chuẩn độc nhất về đạo lý, mà những sách này không nói rõ ràng về sự sống lại, cho nên đối với họ, linh hồn và thể xác chết là hết, và như vậy họ không tin có sự sống lại ở đời sau.
Chính vì thế, họ đặt vấn nạn với Đức Giêsu qua câu chuyện: người em phải lấy chị dâu để có con nối dõi tông đường, nếu người anh chết mà chưa có con. Họ đặt ra trường hợp có 7 anh em nhà kia cùng lấy một người đàn bà. Vậy sau khi sống lại người đàn bà ấy là vợ của ai?(Lc 20, 33).
Dựa vào nền tảng Thánh kinh, chúng ta chứng minh tin có sự sống lại ở đời sau.
Thứ nhất, chỉ những ai được tuyển chọn mới được vào Nước Chúa. Trong Tin mừng, Đức Giêsu nhiều lần đề cập đến việc tuyển chọn này. Chẳng hạn như dụ ngôn nói về ngày phán xét, Chúa tách chiên ra khỏi dê. Chiên tượng trưng cho người sống ăn ngay ở lành, còn dê tượng trưng cho những người làm điều gian ác (Mt 25, 31-46).
Dụ ngôn cỏ lùng, cỏ lùng bị gom lại bó thành bó và đem đốt đi, còn lúa thì thu lại đem vào kho lẫm (Mt 13, 24-30). Dụ ngôn chiếc lưới, cá tốt thì giữ lại, cá xấu thì bỏ đi (Mt 13, 47-50).
Dụ ngôn người phú hộ và người hành khất Lazarô. Người phú hộ rơi xuống biển lửa, còn Lazarô thì được hạnh phúc trong lòng tổ phụ Abraham (Lc 16, 19-31).
Thứ hai, thánh Phaolô nói rằng: “Tất cả chúng ta sẽ không chết, nhưng sẽ được biến đổi trong giây lát, trong nháy mắt….vì chưng, cái thân xác hay hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự trường sinh bất tử” (1 Cor 15, 51-53).
Như vậy, chết không phải là hết, nhưng là bước vào đời sống mới. Lúc bấy giờ con người sẽ sống giống như các thiên thần, nên không còn ăn uống. Vì người ta không chết nữa, cũng không còn cưới vợ lấy chồng, chẳng còn sinh sản con cái để nối dõi tông đường.
Cuối cùng, ngày lãnh Bí tích rửa tội, chúng ta được tái sinh làm con Chúa, được gọi Chúa là Cha, sau này được đồng thừa tự với Đức Kitô, được tham dự vào sự sống của Chúa Ba ngôi. Nếu ngay ở đời này, chúng ta ăn ngay ở lành, lập công tích đức, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, thì sau khi chết sẽ được Chúa ân thưởng vào Nước trời. Vì Đức Giêsu đã hứa: “Những người làm điều thiện sẽ phục sinh để được sống, còn những người làm điều ác sẽ sống lại để chịu án phạt” (Ga. 5,19).
Anh chị em thân mến,
Việc Đức Kitô phục sinh là bằng chứng hiển nhiên có sự sống lại đời sau, và đó cũng là nền tảng đức tin Kitô giáo.
Vì như lời thánh Phaolô khẳng định: “Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì đức tin của chúng ta chỉ là hảo huyền, và lời rao giảng của chúng tôi cũng trở nên vô ích…(1Cor 15,14”.
Thật vậy, nếu không có sự sống lại đời sau, thì các thánh tử đạo không điên dại gì mà phải đổ máu mình ra. Nếu không có sự sống lại đời sau, thì các nhà truyền giáo không điên cuồng gì mà phải từ bỏ quê hương xứ sở để ra đi loan báo Tin mừng. Nếu không tin có sự thưởng phạt ở đời sau, thì chúng ta chẳng cần phải nỗ lực sống đạo hay lập công tích đức để làm gì.
Hơn nữa, chỉ vì tin có sự sống lại ở đời sau mà Giáo hội mời gọi các tín hữu sống mầu nhiệm các thánh cùng thông công, là cầu khấn cùng các thánh trên trời, cầu hồn xin lễ cho các linh hồn trong luyện tội. Một lần nữa, để xác tín niềm tin có sự sống lại ở đời sau, kính mời tất cả cộng đoàn cùng đứng lên tuyên xưng đức tin. Amen.
.
Lm. John Nguyễn Tươi
“Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời”
Theo quy luật của kiếp nhân sinh, con người được sinh ra, lớn lên, già yếu, bệnh tật và chết đi. Không ai có thể thoát khỏi quy luật này. Tuy nhiên, người ta vẫn đặt câu hỏi. Sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?
Trong trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ nghe câu trả lời của Chúa Giê-su về sự sống lại từ cõi chết. Khi nhóm Xa-đốc đến gặp Chúa Giêsu, nhóm này chủ chương không tin có sự sống lại, và họ đặt câu hỏi cho Chúa Giê-su: “Có bảy người anh em lấy một phụ nữ. Sau đó, tất cả điều phải chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết đi. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Câu hỏi này không chỉ nhóm Xa-đốc đặt ra cho Chúa Giêsu về sự sống lại mà ngay cả thời đại này, con người vẫn đang đi tìm câu giải đáp sự sống đời sau.
Tất cả các tôn giáo đều tin có sự sống đời sau. Thuyết luân hồi của đạo Phật, người ta tin vong hồn sẽ đầu thai vào một thân xác nào đó, và trở thành một kiếp khác theo quy luật nhân quả quy định. Giáo lý nhà Phật gọi là vòng luân hồi. Nó cứ mãi chuyển xoay đến khi nào linh hồn rũ sạch hết bụi trần. Giáo thuyết nhấn mạnh đến cái nghiệp quả của người kiếp trước. Vì vậy, họ tin rằng, cái nghiệp đó sẽ được diệt sạch bằng việc tu tâm và lòng từ bi thì sẽ được siêu thoát.
Dưới ánh sáng Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu giải đáp rõ về sự sống đời sau: Khi con người sống lại, những ai được xét và hưởng phúc đời sau, họ sẽ được sống lại từ cõi chết, thì họ không còn cưới vợ gã chồng nữa và không thể chết nữa vì họ được ngang hàng với các thiên thần. Tất cả là con cái của Thiên Chúa và được hưởng viễn mãn trên thiên đàng. Tất nhiên, người phụ nữa đó cũng chẳng thuộc về ai.
Với cái nhìn của con người, chúng ta thường bị giới hạn bởi không gian và thời gian, hay lệ thuộc về một người nào đó, khi chúng ta sở hữu những thứ chúng ta có. Chẳng hạn, cái nhà chiếc xe, hay ngay cả chuyện vợ chồng. Chết rồi còn hỏi Chúa cô ta thì thuộc về ai. Con nguời luôn tự ràng buộc mình vào những thứ thuộc về thế gian, nên họ cố bám víu vào nó như là thước đo cho những giá trị hạnh phúc ở đời. Nhóm người Xa-đốc, họ vẫn còn mang nặng mùi theo kiểu trần tục trong việc vợ chồng, rồi họ đặt ra vấn đề cô ta sẽ thuộc về ai.?
Ngẫm nghĩ sự đời, người ta vẫn thường nói: “Chết rồi cũng không buông tha”. Đời người thật mong manh, chóng qua.
Dựa trên các quan niệm về đời sau, chúng ta có thể nhận thấy rằng, con người luôn khao khát tìm kiếm chân lý, để làm cứu cánh và định hướng đi cho cuộc đời. Lòng khát khao đó giúp cho con người sống mỗi ngày để hoàn thiện bản thân mình, thì Thiên Chúa là con đường cho ta bước theo, là ánh sáng dẫn bước chúng ta. Ngài là ánh, là chân lý vĩnh cửu và trường tồn. Ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô thắp lên niềm tin và hy vọng cho tất cả nhân loại nhân, để nhận biết sự sống chiết suất từ Thiên Chúa. “Ai tin vào Ta sẽ được sống đời đời.” Giáo hội mời gọi chúng ta hãy luôn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn trong tháng 11 này.
Chúa cho Lazarô sống lại thì Ngài cũng cho kẻ chết sống lại. Niềm tin và hy vọng của chúng ta là nơi Chúa Phục Sinh, Ngài sẽ chúng ta cũng được sống lại trong ngày sau hết, để hưởng phúc trên thiên đàng. Sự sống này chỉ thay đổi, chứ không mất đi. Với niềm xác tín vào sự sống đời đời, chúng ta sẽ biết chọn cho mình cách sống và hướng đi thích hợp ở đời này và cho đời sau. Đó là cách chọn lựa của mỗi người khi chúng ta sống trên trần gian này. Chúa Giê-su phán: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được gì?.”
Lạy Chúa:
– Con vẫn nghe Lời Chúa dặn, con người sẽ được sống lại, nhưng tâm hồn con vẫn còn xa lìa Chúa.
– Con biết một ngày nào đó, con sẽ từ giã cõi đời này, nhưng nơi cõi lòng con vẫn còn tham lam của cải, danh vọng và lạc thú.
– Con vẫn biết trần gian là quán trọ để dừng chân, nhưng chân con vẫn chạy theo những thứ vui giả trá để giết chết thể xác và linh hồn.
– Con biết sự dữ và tội ác đang vây bủa thân con bởi kiêu ngạo, hận thù và gian ác nhưng con vẫn làm ngơ trước sự cám dỗ của ma quỷ.
Xin Ngài thương xót và cứu chữa linh hồn con cả đời này và đời sau. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật
Câu trả lời của Vị Ngôn Sứ
Đứng trước cái chết, con người cảm thấy cuộc đời cá nhân của mình bị cắt ngang, họ tìm cách kéo dài sự hiện diện, sự tổn tại của mình qua các tác phẩm nghệ thuât, qua các công trình, qua con cái. Với những dấu vết đó, họ tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng họ không hoàn toàn biến mất, không hoàn toàn tiêu tan vì vẫn có những người nhắc nhớ đến họ, vẫn lưu giữ những kỷ niệm, những dấu vết của họ. Theo chiều hướng này, luật Mô-sê đã đưa ra điều khoản về “thế huynh” (xem Đnl 27,5-6): một người đàn bà goá mà không có con, phải kết hôn với em chổng để duy trì dòng dõi cho người anh quá cố.
Luật Mô-sê dành ưu tiên cho người đàn ông, nên phụ nữ, trẻ con chỉ là phương tiện, và từ đó tạo nên cả một hệ thống về quyền lợi, dựa trên những mối liên hệ khác nhau của ý định muốn tổn tại lâu dài. Những người thuộc phái Xa-đốc đã bắt đầu từ những mối liên hệ, những quyền lợi của cuộc sống này để đặt câu hỏi với Đức Giêsu: “Người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?”
Theo một khía cạnh, câu hỏi đó có lý, vì nó khởi đi từ quan niệm về sự tổn tại, về quyền lợi, như đã được ghi lại trong luật Mô-sê, với mục đích duy trì dòng dõi của con người.
Thế nhưng, câu hỏi tự nó có tính cách phi lý và quá chi li: đây là một câu hỏi lắt léo nhằm để bắt bẻ hơn là làm sáng tỏ vấn đề. Đức Giêsu biết điều đó và Người không quan tâm. Người làm bùng nỗ hệ thống tư tưởng của con người về cuộc sống mai sau. Với tư cách là Vị Ngôn Sứ, Đức Giêsu đưa ra câu trả lời không theo lối suy nghĩ và những hoàn cảnh của cuộc sống trần gian. Người đến để loan báo, để thông ban sự sống mới, nhưng sự sống đó không phải là một sự tổn tại, không phải là trường thọ; trái lại, đó là một cuộc tái sinh, là sự đạt tới một thực tại khác, một mức độ mới.
Câu trả lời của Đức Giêsu không hề có ý nói rằng thực tại mới sẽ làm cho mọi người, mọi mối tương giao trở nên bằng nhau, như là một kiểu san bằng tất cả, nhưng chỉ có ý gạt bỏ khía cạnh xác thịt hay tình cảm của những mối tương giao: đó chỉ là những điểm khởi đầu có tính cách tự nhiên.
Khi người ta khen ngợi thân mẫu của Người, Đức Giêsu đã nói: “Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi?”, và Người đã khẳng định về một tương giao mới, về ý nghĩa của gia đình dựa trên mối tương giao với Lời Chúa. Những tương giao nhân bản vẫn có giá trị, nhưng sẽ phải nhường chôỵ cho một tương giao đích thực, trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.
Thực tại mới
Như thế, đời sau là một thực tại, một thực tại mới, khắc hẳn với trần thế này. Trong thực tại mới đó, tất cả đều biến đỗi: không thể lấy những tiêu chuẩn của trần gian để xét đoán, để mô tả đời sau. Thật là lầm lẫn khi đặt vấn đề: trong cuộc sống mai sau không có hôn nhân sao? hay tương tự như thế: ở đời sau có đá banh không? có ti-vi không? có… không? Những câu hỏi này vẫn chỉ dựa trên cái nhìn của trần thế để hiểu về đời sau.
Tuy vậy, vẫn có thể dựa trên mặc khải để hiểu về thực tại mới này như sau:
– Con người được nhìn thấy Thiên Chúa “nhãn tiền”. Thiên Chúa như thế nào, con người được thấy như vậy: đó là hưởng kiến, đó là hạnh phúc, vì được nhìn thấy Thiên Chúa với tất cả vinh quang của Người. Trong Thiên Chúa, con người hiểu rõ những gì liên quan đến mình, kể cả mối tương giao với bạn bè, với người thân trên mặt đất.
– Trong thực tại mới này, con người chìm ngập trong vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa, không có gì cao đẹp hơn vinh quang đó, và con người chỉ có việc hưởng vinh quang, ca tụng vinh quang.
– Trong cuộc sống trần thế, con người vui hưởng tình yêu, cái đẹp, sự hiểu biết, quyền lực… những điều này chỉ có tính cách tương đối. Còn trong thực tại mới, Thiên Chúa là chính tình yêu, tình yêu trọn vẹn, là toàn năng, toàn mỹ, toàn thiện.
Đàng khác, theo thánh Phao-lô: thân xác của con người trong thực tại mới này sẽ hoàn toàn khác hẳn với thân xác trên mặt đất, như một cây to lớn khác với hạt giống khởi đầu. Cái gieo xuống là thân xác tự nhiên, cái mọc lên là thân xác thiêng liêng.
Thân xác vinh hiển không cần phải ăn uống hay những liên hệ của trần thế này. Khi ấy, con người được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa: họ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và quy hướng về Người.
Tin vào Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu được giải thích như sau: Với cái chết, nhân loại được biến đỗi từ tình trạng thể lý, và được giải thoát khỏi những ràng buộc của trần thế. Chính Đức Kitô, Đấng sẽ chịu chết và phục sinh, loan báo sự thay đỗi này. Không chỉ có số phận của thân xác được thay đỗi, nhưng cả các tương giao xã hội: cơ chế và luật pháp sẽ chẳng còn giá trị, bởi vì chúng chỉ là thực tại tạm thời và vô ích, được sử dụng cho cuộc sống trần gian. Còn trong thực tại mới, tất cả phải biến mất, vì đó là cuộc sống vinh quang, là thời gian viên mãn, là “thời của Đức Kitô”.
Trong trình thuật này, Đức Giêsu nối kết hai ý niệm “con Thiên Chúa” và “được sống lại”. Điều này có nghĩa là con Thiên Chúa là những người được sinh ra trong đời sống vĩnh cửu, đời sống của chính Thiên Chúa.
Những người được hưởng ơn phục sinh có hai nét đặc trưng:
– Một là sự tự do của con cái Thiên Chúa. Theo thánh Phao-lô: những người con của Thiên Chúa không còn phải chịu nô lệ dưới ách lề luật, nhưng là những người hưởng tự do trong ân sủng.
– Hai là họ được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn. Nhờ sự vâng phục Thánh Thần – không hề đi ngược với tự do – họ trở nên những người sống giữa trần gian với nét độc đáo riêng của mình.
Nói thế, bởi vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống: Người đã tạo tác sự sống và không để sự sống phải tiêu vong; trái lại, Người duy trì sự sống qua việc làm cho kẻ chết sống lại và ban phát sự sống trường cửu. Đức Giêsu sẽ chịu chết và Người sẽ sống lại để tất cả mọi người đều được phục sinh, được tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Khi Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa của tỗ phụ Áp-ra-ham, của tỗ phụ I-xa-ác, của tỗ phụ Gia-cóp”, Người không chỉ gợi lại các biến cố của thời quá khứ và các nhân vật đã qua, nhưng còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng Bất Tử, là Đấng Bảo Tổn. Tất cả những ai đã chân thành, đã tin Thiên Chúa đều được sống với Người, sống vĩnh cửu. Niềm tin chân chính vào Thiên Chúa cũng gắn liền với niềm tin vào sự sống vĩnh cửu.
Qua cuộc đối thoại giữa Vị Ngôn Sứ của sự sống vĩnh cửu và những người không tin vào sự sống này, chúng ta được nhìn thấy những viễn tượng mới, rất rộng lớn.
Con người được mời gọi tín thác vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng luôn yêu thương và hằng mong ước cho họ được sống với Người mãi mãi. Sự sống, tình thương nơi Thiên Chúa không phải là điều bất toàn, có tính cách tạm thời; trái lại đó là sự sống, là tình thương trọn vẹn, vĩnh cửu. Bởi vì Người là Đấng Hằng Sống và là Tình Yêu. Không nhận điều đó tức là không tin Người là Đấng Toàn Năng, và coi Thiên Chúa như bất cứ ngẫu tượng nào khác.
Ngoài ra, con người được kêu gọi vượt qua những giới hạn của tình trạng gia đình, nghề nghiệp, xã hội; đổng thời họ được kêu gọi vượt qua những biên giới của tình yêu trần thế, để ngay từ cuộc sống nơi trần thế, họ đã khởi đầu cho những tương giao mới, đạt tới tầm mức của con cái Thiên Chúa sẽ được hoàn tất trong cuộc sống mai sau.
Như vậy, với Đức Giêsu, cái chết không còn là một kết thúc, nhưng là khởi đầu cho cuộc sống mới, cuộc sống đích thực, cuộc sống vĩnh cửu.
Hạnh phúc cho những ai, trong những mối tương giao nhân loại, đã bắt đầu kiến tạo thực tại vĩnh cửu này. Bởi vì ngay từ bây giờ, họ đã khám phá ra sự thật của mối tương giao mới, mối tương giao do chính Thiên Chúa làm nảy sinh.
* * *
Lạy Thiên Chúa, Đấng sáng tạo tâm hổn,
Chúa là Đấng cho mọi loài được sống,
xin ban hạnh phúc cho chúng con.
Chúng con sống
không nhờ sức lực của chúng con
nhưng nhờ sự sống của Chúa
đang thấm nhuần cả vũ trụ.
Không phải tự sức chúng con
hoàn thành các công việc,
nhưng chính quyền năng cao cả của Chúa,
đang sống trong chúng con.
Một bạn trẻ Nhật Bản
.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Mấu chốt của vấn đề mà nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu là sự sống lại và sự sống đó như thế nào. Chúa đã trả lời làm hai bước: Trước hết, Chúa nói về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại, sau đó, Chúa đưa ra một lập luận dựa trên một kiểu nói cơ bản nhất trong bộ Ngũ Kinh là những sách mà những người Xa-đốc công nhận là Sách Thánh.
Trước hết, về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại. Chúa cho biết nó không phải là một sự lặp lại cuộc sống trần gian, hai yếu tố của cuộc sống trần gian mà những người Xa-đốc nêu lên là chuyện cưới vợ lấy chồng và cái chết thì sẽ không còn nữa, những người đã sống lại thì được ngang hàng với các thiên thần nên không thể chết được nữa. Sự sống sau khi sống lại là sự tham dự trọn vẹn vào cuộc sống của Thiên Chúa, lúc đó người ta mới thể hiện đầy đủ bản chất là con Thiên Chúa, vì người ta được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Con của loài vật thì có sự sống của loài vật, con của loài người thì có sự sống của loài người, con của Thiên Chúa thì có sự sống của Thiên Chúa. Người ta được ngang hàng với các thiên thần, giống như các thiên thần, không còn bận tâm nào khác ngoài việc chiêm ngắm và ngợi khen Thiên Chúa. Vậy thì lập luận của những người Xa-đốc không đứng vững, bởi vì chính quan niệm của họ về cuộc sống sau khi sống lại không đúng.
Tiếp theo, Chúa Giêsu dựa vào một kiểu nói cơ bản rút ra từ một đoạn văn then chốt trong Cựu Ước và đối với lịch sử Do Thái, đó là đoạn văn kể việc Thiên Chúa hiện ra với ông Mô-sê dưới hình ngọn lửa cháy trong bụi gai (Xuất Ai Cập 3,6). Chúa nhấn mạnh vào ông Mô-sê, vì phái Xa-đốc nhìn nhận uy quyền của ông. Trong sách thì đây là lời Thiên Chúa tự xưng với ông Mô-sê, nhưng vì truyền thống Do Thái coi đây là sách do ông Mô-sê viết, nên Chúa Giêsu dựa vào đó mà lập luận. Ông Mô-sê gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Phái Xa-đốc không tin có đời sau, chết là hết, bởi vậy Chúa Giêsu lập luận: nếu chết là hết, thì các vị tổ phụ kia đã chết rồi, mắc mớ chi mà gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ đâu phải là Thiên Chúa của kẻ chết. Bởi vì đã gọi Ngài là Thiên Chúa của ai tức là người đó đang sống, tuy đối chúng ta thì người đó chết rồi. Ông Mô-sê không khẳng định có sự sống lại, nhưng trong kiểu nói này ông Mô-sê cho thấy rằng có cuộc sống đời sau, con người không chỉ có cuộc sống trên trần gian này thôi, chết không phải là hết, nhưng là đi vào một cuộc sống mới, sống trước mặt Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa.
Chúng ta thấy lối lập luận của Chúa Giêsu thật độc đáo, nên những người tranh luận với Chúa đã chịu lý và không thể cãi lại. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về lời tuyên xưng cuối cùng trong kinh Tin Kính về sự sống lại và sự sống đời sau. Thực vậy, chúng ta tin có sự sống lại và có sự sống đời sau, nên chết không phải là hết, nhưng là bắt đầu sống thực sự, như chúng ta vẫn hát trong thánh lễ an táng: “Lạy Chúa, đối với tín hữu Chúa, đời sống thay đổi chứ không bị tiêu diệt”. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trên giường hấp hối, cũng đã nói: “Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống”. Quả thực, sự chết vẫn hiện hữu, nhưng chết chỉ là chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi: từ tạm thời sang vĩnh cửu, từ hữu hạn sang vô hạn, chết là bắt đầu một đời sống mới, một cuộc đời vĩnh cửu.
Tóm lại, chết là một sự kiện hiển nhiên không cần phải chứng minh, đã là con người thì sẽ phải chết. Và đối với đức tin của chúng ta, thì thân xác chúng ta chắc chắn sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống như thiên thần hay quỷ dữ lại là chuyện khác. Chắc chắn thân xác chúng ta sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống hạnh phúc muôn đời hay bất hạnh ngàn thu là vấn đề chúng ta phải hết sức quan tâm, bởi vì kẻ lành, kẻ sống tốt lành thánh thiện cũng sống lại, và kẻ dữ, kẻ sống xấu xa tội lỗi cũng sống lại, nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, đó là điều khác biệt. Căn cứ vào đâu để Thiên Chúa thưởng hay phạt chúng ta? Căn cứ vào đời sống hiện nay của chúng ta, đời này quyết định số phận đời sau, như Chúa đã quả quyết: “Ai sống làm sao Ta sẽ trả cho như vậy”, “gieo thứ gì gặt thứ ấy”.
Lạy Chúa, cuộc sống này có là bao? Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Xin cho chúng con luôn nhớ mình sẽ phải chết để sống tốt, sống lành hầu xứng đáng đón nhận phần thưởng vĩnh phúc.
.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Càng bị đe dọa, sự sống càng vùng dậy mãnh liệt. Cái chết là một đe dọa lớn nhất và ghê sợ nhất. Muốn vươn đạt tới sự sống vĩnh hằng, con người phải có một sức mạnh hơn tử thần. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ta tới một cuộc sống trên cõi thiên thần.
HAI CUỘC SỐNG.
Cuộc sống rất tương đối. Sự sống thật hữu hạn. Thế nhưng niềm tin mở ra một chân trời mới. Thế giới đang tiến về một đỉnh cao dành cho “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết” (Lc 20,35) Sống trong thế giới đó, con người không còn bị lệ thuộc vào những điều kiện vật chất hữu hạn nữa. Tất cả đều “là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” (Lc 20,36) Một cuộc lột xác hoàn toàn sẽ đem lại cho nhân loại một sự sống mới chưa từng thấy.
Sự sống bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Bởi vậy, sự sống không thể thua sự chết, không thể bị tắc nghẽn vì những giới hạn tử thần. “Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (1 Cr 15,56-57) Nếu không có Đức Giêsu, chắc chắn tất cả nhân loại sẽ bị tử thần khuất phục. Đó là điều sỉ nhục đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã phục sinh để chứng minh Thiên Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,38) nhờ máu Đức Giêsu đổ ra trên thập giá. Chính niềm xác tín vào sự sống như thế đã cho ta có quyền hi vọng vào chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa, Đấng “đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp.” (2 Tx 2,16)
Nếu chỉ nhìn theo nhãn quan trần thế, không thể nào có được niềm an ủi và cậy trông đó. Nhóm Xađốc đã dựa trên hiện tại để củng cố “chủ trương không có sự sống lại.” (Lc 20,27) Họ hoàn toàn căn cứ vào tương quan hôn nhân để phi bác cả một thế giới thiêng liêng, nơi con người “không thể chết nữa, vì được ngang hàng với thiên thần.” (Lc 20,35) Chỉ trong cuộc sinh tồn đắp đổi này, con người mới cần đến hôn nhân để duy trì cuộc sống. Còn trong cõi vĩnh hằng, tại sao cần phải duy trì sự sống bằng những phương tiện của thế giới vật chất nữa? Hai thế giới khác nhau không thể dựa trên cùng một nền tảng. Lập luận của nhóm Xađốc hoàn toàn nằm ngoài qui luật thiên giới. Họ không thể vượt ra ngoài cõi tục để thấy được cuộc sống của con cái Thiên Chúa, vì họ không phải là con cái sự sống lại. Cuộc sống đó thật là mầu nhiệm và siêu việt, nhưng lại rất thực tiễn vì đáp ứng được niềm ước vọng bất tử của nhân loại và vào chính sự phục sinh của Đức Giêsu. Thật vậy, “nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không chỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em.” (1 Cr 15,13.16) Nếu niềm tin chúng ta hoàn toàn hão huyền, làm sao Kitô giáo lại có thể đem lại cho nhân loại một nền văn minh tốt đẹp như vậy? Thực tế, nhân loại đã được giải thoát khỏi xích xiềng tội lỗi nhờ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Bởi thế, không thể không có sự sống lại. Đó là niềm tin căn bản nhất và vững chắc nhất, chi phối toàn thể cuộc sống Kitô hữu.
Niềm tin đó đã bắt nguồn rất sâu xa trong Kinh thánh. Quả thế, “hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ” (2 Mcb 7,1) dưới thời vua Antiôkhô. Họ đã có tất cả sức mạnh chiến thắng tử thần nhờ “dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hi vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2 Mcb 7,14) Bao nhiêu cực hình đã không chiến thắng nổi niềm tin vững chắc và đầy quả cảm đó. Nếu “luật pháp của cha ông” (2 Mcb 7,8) đã khiến cho họ có sức mạnh lớn lao đến thế, thì “Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8,11) Thế nên, niềm tin vào sự sống lại được chính Ba Ngôi bảo đảm. Niềm tin đó đang trổ sinh những mùa màng tươi tốt trên toàn thế giới.
Như vậy Đức Giêsu đã dùng một lập luận vững chắc để phi bác niềm tin của phai Xađốc. Lập luận đó căn cứ trên thực tế cuộc sống thiên thần và qui chiếu vào Kinh thánh. Chính thực tại lớn lao là “Thiên Chúa của kẻ sống” đã đủ mạnh để áp đảo tất cả những lập luận bênh vực cho sự chết. Đối với Thiên Chúa, không có vấn đề chết. Vì tất cả đã được Đức Kitô trả lại sự sống mới bắt nguồn từ Thiên Chúa.
MỞ RỘNG TẦM NHÌN.
Không có sự sống mới đó, cuộc sống hiện tại sẽ trở thành nhàm chán và vô nghĩa. Nói khác sự sống lại không phải là sự nối tiếp cuộc sống hiện tại. Bởi vậy vấn đề các người Xađốc đặt ra hoàn toàn “trật dơ”. Sự sống lại khác tự bản chất, vì con người sẽ “ngang hàng với các thiên thần.” (Lc 20,36) Không có niềm hi vọng sống lại, không thể đủ nghị lực và phấn khởi vượt qua những thách đố phi lý của cuộc sống hiện tại. Trái lại, sự sống lại là động cơ thúc đẩy con người vươn tới những mục tiêu siêu việt.
Không mở rộng tầm nhìn, không thể thấy được tất cả ý nghĩa sự sống lại đem lại cho sự sống hôm nay. Sự sống hôm nay đang dẫn tới cái chết. Đó là một sự phi lý hoàn toàn. Nhưng sự sống lại giúp con người hiểu được tại sao mình sống và đang đi về đâu. Sự sống lại sẽ dẫn con người tới một sự thật: Thiên Chúa là “Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38) Nghĩa là, đối với các tín hữu, không gì, kể cả cái chết, có thể làm họ thất vọng. Những người không có niềm tin vào “Thiên Chúa của kẻ sống”, chỉ thích chọn giải pháp dễ dãi của tử thần. Chẳng hạn, những người chủ trương cho chết êm dịu, phá thai, triệt sản, khủng bố v.v hoàn toàn đóng khung tầm nhìn vào những giới hạn trần giới.
Bởi đấy, cần phải mở rộng tầm nhìn vào cõi sống của “con cái sự sống lại” để tìm một giải pháp toàn diện cho những bế tắc hôm nay. Nhưng đừng để bị những kẻ mơ mộng đánh lừa. Họ có thể nhân danh sự sống đời sau để đẩy con người vào cõi chết. Những kẻ khủng bố 11/9/2001 vừa qua cũng tin vào sự sống bất diệt nơi Thiên Chúa. Nhưng họ đã tạo ra bao đau thương cho chính mình và nhân loại. Có một sự mâu thuẫn giữa cuộc sống hiện tại và tương lai trong niềm tin của họ. Mặc dù có sự khác biệt sâu xa, nhưng niềm tin vào cõi bất tử không thể là một lối thoát cho những người tuyệt vọng như vậy.
Bởi đấy niềm tin vào sự sống lại chỉ chính đáng khi đem lại cho con người sức mạnh xây dựng cuộc sống hiện tại tốt đẹp hơn. Niềm tin đó đang là điểm tựa cho nhiều người trong cuộc chiến chống lại tử thần. Đó là lý do tại sao Kitô hữu không ngừng vận dụng mọi nỗ lực xây dựng nền văn minh sự sống, chống lại nền văn minh sự chết. Từ nay nhờ Đức Giêsu, trong văn minh sự sống Kitô hữu có thể đem lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại.
Tất cả đều “dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2 Mcb 7,14) Lời hứa đó thực sự đã được thực hiện trên thập giá Đức Giêsu. Chính Người “là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25) của chúng ta. Không có Người, tất cả sẽ trở thành vô nghĩa và vô giá trị, vì tất cả bị thần chết tiêu diệt. Nhưng nếu muốn thoát ách tử thần, Kitô hữu phải “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hi vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3,10) Thập giá là con đường dẫn tới sự sống và sự sống lại trong Đức Giêsu Kitô.
.
Lm. Phêrô Lê văn Chính
Niềm tin vào sự Phục sinh thân xác là điều mới mẻ và được lần hồi tin tưởng và khẳng định trong lịch sử dân Israel, nhất là vào giai đoạn muộn thời của thế kỷ II vào những năm 165 trước Chúa giáng sinh, trong cuộc chiến của anh em nhà Macabê chống lại những cuộc xâm lăng của nhà vua Hy lạp Antiôkhô Êpiphane. Bận tâm của những người do thái là Đền thờ và Lề luật, họ luôn nhắc nhở mọi người trung thành với Đền thờ và Lề luật là những yếu tố cốt lõi của đời sống tôn giáo của dân tộc của họ. Cuộc chiến đấu của anh em nhà Macabê là một cuộc chiến tranh dành độc lập cho dân tộc chống lại những người Hy lạp đến làm ô uế đền thờ và thay đổi phong tục thiêng liêng của người do thái. Họ quan niệm rằng cuộc chiến của họ vì đức tin và vì lề luật sẽ là hoàn cảnh giúp cho dân Chúa được ý thức nhiều hơn về lòng trung tín của mình đối với Thiên Chúa là Đấng trung tín, luôn có sự sống sung mãn sẽ ban tặng lại sự sống đời đời cho những ai tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa qua việc trung tín với lề luật và dám hy sinh mạng sống mình. Câu chuyện trích đoạn hôm nay nhắc lại cái chết tử đạo cao cả đẩm máu của người mẹ và bảy con trai của bà. Tất cả họ đều can đảm tuyên xưng niềm tin và lòng trung tín đối với lề luật chống lại quân vô đạo, bắt ép họ bỏ lề luật cha ông bằng cái chết của mình. Họ thà chết chứ không chấp nhận vâng theo lệnh vua mà từ bỏ lề luật. Họ đều tuyên xưng rằng dù có chết, nhưng Thiên Chúa là Đấng hằng sống sẽ ban lại cho họ sự sống đời sau bất diệt cao quí hơn nhiều sự sống đời này.
Vào thời Chúa Giêsu, những người thuộc phái Sađuxê là những người rất bảo thủ. Họ luôn bám vào sách Ngũ thư, vẫn được gọi là sách Luật, để từ chối niềm tin vào sự sống lại đã được hình thành lần hồi qua trào lưu các tiên tri, nhất là vào thời cuộc chiến tranh của nhà Macabê vào khoảng những năm 165 trước Chúa giáng sinh. Những người Sađuxê biết rằng Chúa Giêsu, những người Pharisiêu và phần đông dân chúng tin vào sự phục sinh nên họ đặt ra một tình huống nan giải để chứng minh không thể có sự phục sinh. Có bảy anh em lần lượt cùng cưới một người đàn bà làm vợ, vậy nếu có sự sống lại thì bà sẽ là vợ của ai. Theo luật levirat vốn đã lỗi thời lúc đó, cho phép người em có thể cưới chị dâu khi người anh ruột qua đời mà không có con. Người con đầu lòng mà người chị dâu này sinh ra sẽ mang tên người anh đã quá cố và sẽ được xem như là con của người anh theo luật pháp. Theo quan niệm bình dân lúc bấy giờ, người ta vốn tin rằng những người chết sẽ sống lại vài giai đoạn trước thời kỳ của Đấng cứu thế, diễn ra trước phán xét chung. Những người chết sống lại sẽ sống một cuộc đời tiếp nối cuộc đời trần thế này, và họ sẽ tham dự vào cuộc phán xét chung. Chúa Giêsu giải thích chống lại những lối hiểu chật hẹp này, người điều chỉnh lại quan niệm này. Sự sống lại không phải chỉ là tiếp nối sự sống trần thế. Đây sẽ là sự sống giống như của các thiên thần, người ta sẽ không cưới vợ lấy chồng nữa. Đây sẽ là một sự tạo dựng mới, một sự biến đổi tận căn triệt để, được tham dự vào ánh sáng mới huy hoàng của Thiên Chúa, được tham dự vào vinh quang chói lòa, được gọi là con Thiên Chúa, và sự sống này chỉ dành cho những người công chính là những người được xét xứng đáng tham dự vào vinh quang đời đời, trong khi đó những người tội lỗi thì không được tham dự vào sự sống này, nhưng họ sẽ phải bị chết tủi nhục muôn đời. Chúa Giêsu nhắc lại câu chuyện hiện ra với Môisen trong bụi gai bốc cháy: Thiên Chúa của Abraham, Isaác, Giacóp. Tương quan mà người ta có được với Thiên Chúa là một tương quan bền vững, không hề bị gián đoạn và Thiên Chúa luôn là Đấng thành tín với giao ước mà người đã thiết lập. Sự chết không làm đổ vỡ giao ước của Thiên Chúa với những người mà Thiên Chúa yêu thương và hằng đặt lòng tin tưởng cậy trông vào người.
Mầu nhiệm phục sinh thân xác là điều mới mẻ mà Chúa Giêsu chỉ mới hé lộ phần nào. Người ta dễ có quan niệm hoặc là phủ nhận như người Sađuxêô, hoặc quan niệm đó sẽ là một sự tiếp nối của đời sống trần gian, với đời sống phái tính, vợ chồng và sinh con đẻ cái. Thật ra, khi khẳng định có sự sống lại, Chúa Giêsu không bảo đảm rằng những gì mà chúng ta đã xây dựng, đã có trên trần gian này sẽ được bảo đảm mãi mãi ở đời sống mai sau. Rồi thì chúng ta sẽ quay trở lại cuộc sống xinh đẹp khoẻ mạnh giống như chúng ta đang sống, gặp gỡ lại những người thân quen đầy đủ không thiếu một ai và sự sống lại chỉ đơn giản là hành động của Thiên Chúa bảo đảm cho mọi sự lại tiếp nối và những gì mà chúng ta đã biết như hiện nay vẫn cứ tiếp tục mãi như thế. Điều Chúa Giêsu hé mở phần nào cho chúng ta, đó là sự sống lại là một thế giới mới, hoàn toàn khác với những gì chúng ta hình dung. Chúng ta không cần phải có con cái để tiếp tục duy trì nòi giống, nhưng chúng ta sẽ cảm nghiệm sự sống chân thật vĩnh cửu đầy vinh quang của Thiên Chúa, khi đó những tương quan giữa con người không còn chỉ là những tương quan thân xác như chúng ta vốn có trong đời sống con người mà sẽ là những tương quan tinh thần như là tương quan giữa các thiên thần. Nói chung, chúng ta được mời gọi chuẩn bị cho một thế giới mới, hoàn toàn khác với thế giới chúng ta đang sống. Sâu xa hơn nữa, chúng ta được mời gọi đón nhận và trải nghiệm điều này, đó là sự sống mới này bắt đầu từ bây giờ, trong đời sống hiện tại từ khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội là đã bắt đầu đi vào tương quan với Chúa Giêsu, được đón nhận sự sống mới thần linh, và được không ngừng nuôi dưỡng trong đời sống này ngay từ cuộc đời hiện tại như chút men người đàn bà đã trộn vào đấu bột, như hạt cải bé nhỏ không ngừng lớn lên để trở thành một cây lớn mà chim trời đến đậu.
Khẳng định mầu nhiệm Phục sinh dẫn chúng ta đến việc suy nghĩ về việc Chúa Giêsu sẽ trở lại lần thứ hai. Việc Chúa trở lại không phải để làm cho chúng ta lo sợ mà để chuẩn bị chúng ta. Người đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết, sự phán xét này sẽ xác định xem chúng ta có được phúc tham dự sự sống đời đời hay phải chịu tủi nhục muôn đời. Phúc cho chúng ta đó là được nhắc nhở để rồi biết chuẩn bị xứng đáng và những chọn lựa trong đời sống hằng ngày mà chúng ta bắt đầu thực hiện sẽ quyết định cho sự phán xét sau này khi Chúa trở lại.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Thiên đàng theo ý con người
Không có một tôn giáo nào mô tả Thiên Đàng là một khu vườn với những lạc thú vật chất và nhất là những lạc thú nhục dục tuyệt đỉnh với những cô gái trinh đẹp tuyệt vời và trẻ mãi không già… như trong kinh Koran. Người ta gọi Thiên Đàng của Hồi Giáo là Thiên Đàng của lạc thú (The Paradise of Delights) hoặc Thiên Đàng của Kinh Koran (The Koranic Paradise).
Kinh Koran (47:15) cho biết trên thiên đàng có những con sông với những dòng nước nguyên chất (rivers of purest water) những con sông sữa tươi không bao giờ hư (rivers of milk for ever fresh) và những con sông mật ong trong sạch nhất (rivers of clearest honey). Chương 56:16-39 mô tả thiên đàng là những khu vườn lạc thú (garden of delights) và mọi người lên thiên đàng đều trở thành những thanh niên trẻ mãi không già (Immortal Youth). Điều đặc biệt nhất là trên thiên đàng Hồi Giáo có các cô gái trinh đẹp tuyệt vời với những cặp mắt đen huyền vô cùng quyến rũ (the dark-eye houris).
Thiên Chúa Allah đã phán rằng: “Ta đã tạo ra các cô trinh nữ tuyệt vời đó, giữ cho họ mãi mãi trinh trắng với tình yêu nồng nàn để làm phần thưởng cho những ai làm việc phải” (We created the hourist and made them virgins, loving compassion, a reward for those on the right hand – Koran: surah 56).
Hầu hết các thanh niên Hồi Giáo cuồng tín đều ước mơ sớm được lên thiên đàng lạc thú. Con đường ngắn nhất và bảo đảm nhất để họ đạt được mục đích này là sẵn sàng tử đạo trong các cuộc thánh chiến (Jihad). Kinh Koran hứa rằng: “Những ai bị giết vì Chúa đều được vào thiên đàng lạc thú” (As for those who are slain in the cause of God, He will admit them to the Paradise of Delight). “Đừng bao giờ nghĩ rằng những người bị giết vì Chúa sẽ chết. Họ sẽ sống mãi, không có gì phải sợ hãi hoặc hối hận, hãy vui hưởng các hồng ân của Chúa. Chúa không bao giờ từ chối phần thưởng dành cho các tín đồ của Ngài” (Never think that those who were slain in the cause of God are dead. They are alive and well provided for by the Lord. Have nothing to fear or to regret, rejoicing in God’s grace. God will not deny the faithful their reward – Koran 3:169). (Internet)
Ở Trung Quốc, khi người ta khai quật những phần mộ cổ xưa, đặc biệt hạng người giàu có, và vua chúa, người ta khám phá nhiều thứ đồ mang theo để phục vụ cho “cuộc sống mai sau” được sung túc như cuộc sống trần gian họ từng được hưởng. Tần Thủy Hoàng là một thí dụ. Năm 1974, người ta bắt đầu khai quật và khám phá hàng ngàn tượng lính đất nung trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Theo tài liệu sử học Trung Quốc và những truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi, nó giống như một phần bản đồ thành phố với những bức tường, cung điện, nghĩa trang, tức là có thể phục vụ Tần Thủy Hoàng khi ông sang thế giới bên kia.
Ở Việt Nam, cũng có tục lệ đốt “hàng mã”. Hàng mã gồm đủ loại, từ nhà lầu, xe hơi, xe Honda, đến quần áo, tiền bạc, để người chết dùng khi về cõi âm phủ.
Hóa ra, hạnh phúc trên Thiên Đàng, trong cõi vĩnh hằng, cũng tầm thường, nhàm chán đến thế sao? Và chính cái tầm thường, nhàm chán, chóng qua ấy, lại chính là sự cản trở bước tiến con người, cản trở sự vươn cao, sự thăng hoa của con người. Hạnh phúc của cuộc sống sau khi chết cũng không khác gì cuộc sống trần thế, nên phải thụ hưởng những gì ta đang có trên cõi đời này, cần gì tin những hứa hẹn xa xôi về hạnh phúc mà mình sẽ có.
Những thứ hạnh phúc giới hạn phù phiếm kiểu trần gian ấy rồi cũng dẫn đến những giới hạn của cuộc sống, những ngang trái, u sầu, những khát vọng vô tận không thể đáp ứng được…
Tình huống người vợ có bảy đời chồng mà nhóm Xa-đốc đặt ra thật khó xử nếu con người sống lại và “cuộc sống trần gian” lập lại ở… bên kia thế giới! Khi đưa ra trường hợp này, phái Xa-đốc thật có lý khi nhìn thấy bao điều rắc rối của cuộc sống sau khi con người sống lại và nếu cuộc sống “kiếp sau” này giống hệt đời người đã đi qua. Và như thế, con người phải giải quyết những gì cuộc sống trần gian còn dang dở.
Thực tế, câu chuyện mà nhóm Xa-đốc đưa ra chỉ là một trong muôn thứ vấn đề rắc rối khó giải quyết khi con người từ cõi chết sống lại và tiếp tục sống như chưa từng chết. Hãy thử tưởng tượng còn biết bao nhiêu chuyện ngang trái, biết bao nhiêu nghịch cảnh, biết bao chuyện trắng đen, con người sẽ giải quyết ra sau khi con người sống lại.
Thật, nhóm Xa-đốc cũng có lý của họ khi dựa vào đó để bảo vệ lập trường của mình. Vì họ không tìm thấy câu giải đáp cho vấn đề.
Sở dĩ họ không thể tìm thấy câu giải đáp, vì họ quan niệm sự sống lại – cõi vĩnh hằng – hay vào Thiên Đàng – không khác gì cuộc đời trần thế. Con người sau khi sống lại, vẫn là con người của ngày nào khi còn sống ở trần gian!
Thế thì, bản thân con người, sự sống lại đó có khác gì sự thức dậy từ một giấc ngủ? Và cuộc sống sau khi chết, có khác gì thay đổi một chỗ định cư?
Thiên đàng theo thánh ý Chúa.
Sự sống lại.
Cuộc hành trình của con người là một cuộc hành trình lột xác, không ngừng thay đổi và lớn lên trong Thánh Thần.
Con người phải nhận ra những tội lỗi thấp hèn của mình và sống trong tình yêu của Thiên Chúa. – Sống trong tình yêu Thiên Chúa, là sự sống lại trong Đức Giêsu Kitô. “Khi còn nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chổ chết. Nhưng giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc sự sống đời đời. Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Kitô, Chúa chúng ta”. (Rm.6,20-23).
Chính nhờ sự sống trong Đức Kitô, con người được thanh sạch, trong trắng. Sự sống lại ấy làm con người trở nên như thiên thần. Cuộc sống của một con người mới trong một thế giới mới.
“Phép rửa nay đã cứu thoát anh em. Nhờ phép rửa này, không phải là anh em được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cầu xin Thiên Chúa ban cho mình một lương tâm trong trắng, nhờ Đức Kitô phục sinh, Đấng đã lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (1Pr.3,21-22).
Thế giới vĩnh hằng
Thiên Chúa ban sự sống cho mọi loài thụ tạo. Và sự sống bởi Ngài mà có. Ngài yêu thương sự sống mà Ngài tạo dựng ra.
Do đó, Ngài không bao giờ hủy diệt sự sống, điều mà Ngài đã tạo dựng và Ngài thấy tốt lành. “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”(Lc.20,28).
Thế giới vĩnh hằng không phải là thế giới trần gian kéo dài để tiếp nhận con người từ cõi chết sống lại. Cõi Vĩnh Hằng là một thế giới hoàn toàn mới với hạnh phúc vô biên vượt qua thứ hạnh phúc dục vọng phàm phu của kiếp người trần thế. Thế giới ấy là “Trời mới Đất mới” mà những con người đã được thanh luyện và sống lại trong Đức Kitô mới hiểu được và vào được. “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm đến đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh. 21,1-4).
Những điều cũ đã biến mất, nên không có sự tồn tại của câu chuyện “người đàn bà có bảy đời chồng” hay những “chuyện cũ” tương tự. Tất cả đã trở nên tinh tuyền trong Đức Kitô. Và tất cả chỉ còn là niềm hạnh phúc vô tận trong Tình Yêu Thiên Chúa. “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”. (Kh.7,14).
Nếu con người vẫn còn mê ngủ trong những cuộc vui hưởng thụ trần thế, họ sẽ dừng lại hạnh phúc đời người ở giới hạn đó. Nếu con người không vươn cao lên, con người không thể nào hiểu được thế nào là sống lại và thế nào là hạnh phúc trong Đức Kitô. Không thể nào hiểu được thì không thể nào tin được con người sẽ sống lại, như những người thuộc nhóm Xa-đốc. Vì, mọi sự chỉ sáng tỏ trong ánh sáng Đức Kitô. Và Nước Trời chỉ thuộc về những ai Ngài tuyển chọn. “Kìa đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhàn lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’”. (Kh.7,9-10).
Thực tế, con người ngày nay với những bước tiến khoa học, đã vươn ra rất xa. Vươn xa đến tận cuối chân trời, vươn xa vào vũ trụ mênh mông, nhưng con người đã không vươn cao được, ngược lại con người còn tuột dốc. Những giá trị đạo đức của con người ngày nay thu hẹp lại, còn những điều phi nhân phi nghĩa thì phình to ra. Con người vươn rộng chiều ngang nhưng lại thu ngắn chiều cao. Tâm hồn của con người cạn dần sức sống thiêng liêng và những giá trị nhất thời thay thế dần những giá trị cao siêu bền vững.
Thật sự, sống lại, phải được hiểu là sự sống lại trọn vẹn xác hồn. Sống dồi dào. Sống hạnh phúc. Và như thế, không có sự sống lại và không có thiên đường trong những con tim không có tình yêu Thiên Chúa ngự trị.
Lạy Chúa,
Xin cho con từng ngày luôn tỉnh thức, từng ngày đổi mới, từng ngày sống lại, trong tình yêu Chúa. Amen.
.
SỰ SỐNG ĐỜI SAU SẼ NHƯ THẾ NÀO?
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE
Gần đây từ Miền Bắc đến Miền Nam, xuất hiện nhiều người tự xưng mình là những “nhà ngoại cảm” có khả năng tiếp xúc với vong hồn, cõi âm, cũng từ đó rộ lên phong trào tìm hài cốt người thân. Không chỉ như thế, nhiều nhà ngoại cảm đã biến mình trở thành những thứ thày bói, thày thuốc, chữa bệnh và bói bệnh cho nhiều người, chữa bệnh bằng cách đào nhà để tìm cốt. Trong số này có cả một vài linh mục tu sĩ biến mình trở thành ông thày bà cốt. Có một thời gian Bộ Thương Binh Xã hội cũng cậy nhờ những người này để truy tìm hài cốt các liệt sĩ, tuy nhiên một vài tuần gần đây báo đài đồng loại đưa tin và lật tẩy cảc chiêu lừa của các nhà ngoại cảm này. Qua xét nghiệm ADN, thì đa số đều không chính xác, có khi là xương hoặc răng thú vật. Điều này đang khiến dân chúng hoang mang nửa tin nửa ngờ. Việc bốc cốt tìm cốt này nó không chỉ tác động trên đời sống người dân, mà nó còn tác động trên đời sống đức tin của nhiều tín hữu, và điều nguy hiểm hơn nữa là nó đang làm sai lệch giáo lý của Giáo Hội Công Giáo về Bốn Sự Sau: Sự chết, Phán xét, Thiên Đàng và Hỏa ngục.
Cho đến hiện nay thì cả những người xưng mình là vô thần, cũng không thể phủ nhận được niềm tin linh hồn bất tử và sự hiện hữu của một cuộc sống sau khi chết. Trước đây, có một thời những người duy vật, vô thần cực đoan đã phủ nhận Thiên Chúa và tất cả các thực tại thiêng liêng, và họ cho rằng con người chỉ là vật chất, chết là hết. Thế nhưng ngày nay trong thực tế, chính những người này lại đang tin vào thế giới vô hình, thế giới của các linh hồn, và tin rằng thế giới ấy đang ảnh hưởng trên thế giới trên cuộc sống hiện tại và còn ảnh hưởng trên tương lai sự nghiệp của họ. Chính vì vậy mà họ cúng bái, tin kiêng, yểm bùa và không dám xúc phạm đến xác chết, đến mồ mả của người chết.
Quả thực nếu chết là hết theo quan niệm của những người chủ trương duy vật vô thần, thì con người không khác chi con vật. Nếu con người không có linh hồn, thì cái chết của con người cũng không khác chi cái chết của con chó, và người ta cũng không cần thắp nhang tôn kính người qua đời. Niềm tin tôn giáo chỉ cho chúng ta biết rằng, con người có xác có hồn. Đặc biệt đức tin Kitô Giáo còn cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng: Cái chết chỉ là một giai đoạn tạm thời, là giai đoạn chờ đợi, rồi tất cả chúng ta sẽ có ngày sống lại khi Đức Kitô trở lại.
Niềm tin kẻ chết sống lại là một niềm tin đã có từ lâu nơi các dân tộc, đặc biệt nơi những người Do Thái. Họ tin rằng những ai trung thành với lề luật của Thiên Chúa, thì sẽ được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Câu chuyện trong sách Macabê cho thấy những người Do Thái đã kiên cường với đức tin của cha ông, chấp nhận mọi đau khổ cực hình, can đảm chấp nhận cái chết, vì tin tưởng và hy vọng, Thiên Chúa sẽ trả lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn. Câu chuyện sách Macabê thuật lại có bảy anh em cùng chịu chết một cách đau đớn nhưg họ không sợ hãi vì tất cả họ tin rằng sau một giây lát chịu cực hình họ sẽ được gặp lại Thiên Chúa, và vì thế họ thà chịu chết chứ không chịu lỗi luật của thiên Chúa.
Trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xứng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Niềm tin vào sự sống lại đời sau vẫn là một thách thức đối với nhiều người, khiến họ không dễ gì chấp nhận. Thời Chúa Giêsu cũng có một nhóm người thuộc phải Xadốc không chấp nhận niềm tin này, nên họ mới đặt vấn đề với Chúa Giêsu: Có một người cưới bảy anh em trai, mà cuối cùng chết đi không ai có con, thì sau này nếu như sống lại người ấy là vợ của ai trong số họ? Nhân cuộc tranh luận này, Chúa Giêsu sửa lại lối suy nghĩ của họ về cuộc sống đời sau, vì họ nghĩ rằng cuộc sống đời sau hoàn toàn giống như cuộc sống tại thế, cũng dựng vợ gả chồng, cũng xây nhà cửa, cũng có của cải vật chất…, Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cuộc sống đời sau trổi vượt hơn hẳn cuộc sống đời này và hoàn toàn khác với cuộc sống đời này. Cuộc sống mai sau là cuộc sống không còn đau khổ chết chóc, không còn dựng vợ gả chồng, không còn tìm thú vui thể xác nữa, mà trái lại mọi người sống siêu thoát, sống hạnh phúc trong thế giới của Thiên Chúa giống như các thần linh, và họ hạnh phúc vì được ở cùng Thiên Chúa. Hạnh phúc ở đời sau mới là hạnh phúc đích thật của con người và là niềm khao khát của mọi người, khao khát được trở nên như thần linh, được gặp gỡ Thiên Chúa là cội nguồn cuộc đời của mình,
Cũng trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu cho thấy, Thiên Chúa dựng nên con người vì yêu thương và Ngài muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc mãi mãi, và vì thế, Ngài đã “thổi hơi” thở thần linh của Ngài cho con người, hơi thở ấy chính là sức sống của Thiên Chúa được thông chia cho con người, ban tặng cho con người. Chính vì thế, những ai thuộc về Thiên Chúa, giữ gìn mối dây sự sống với Thiên Chúa thì sẽ không bị hủy diệt. Thiên Chúa mãi là Thiên Chúa của kẻ sống, và các tổ phụ như Apraham, Isaac, Giacop, hay tất cả mỗi chúng ta, là những người đón nhận sự sống từ Thiên Chúa họ vẫn đang sống, song vì sự hiện diện của họ khác chúng ta nên chúng ta không nhìn thấy họ, nhưng họ vẫn đang nhìn thấy chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tin một cách chắc chắn rằng, chúng ta sẽ không bị hủy diệt vĩnh viễn, nhưng nhờ kiên trì theo Chúa ở thế gian này, chúng ta sẽ được sống mãi mãi bên Chúa, và ngày sau hết chúng ta sẽ từ bụi đất sống lại. Đồng thời xin cho chúng ta biết thể hiện niềm tin vào cuộc sống mai sau bằng cách ngay từ hôm nay sống tốt và sống đầy tràn tình yêu thương mỗi ngày, vì chúng ta chỉ có thể sống trong vương quốc của tình yêu thương khi hôm nay chúng ta biết yêu thương, và nhờ đời sống của mỗi tín hữu chúng ta làm chứng cho mọi người về niềm tin vào sự sống mai sau của chúng ta.
Thưa quý OBACE, chính vì muốn biết sự sống bên kia cái chết sẽ như thế nào nên con người từ cổ tới kim vẫn đang cố gắng để giải thích và diễn tả cuộc sống ấy, có điều là nhiều người đã không tin và không dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa, mà muốn tự mình hoặc là cho mình có khả năng để biết và tiếp xúc được với thế giới ấy. Những câu chuyện về ma quỷ là những câu chuyện hấp dẫn và được thêm bởi nhiều tình tiết cho ly kỳ và gợi lên sự tò mò cho nhiều người, đặc biệt gần đây những câu chuyện về vong hồn dường như đang có sức ảnh hưởng đến nhiều người.
Là kitô hữu, chúng ta tin rằng tất cả những ai trung thành với giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống công chính thánh thiện, thì sau khi chết họ sẽ được vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa, sống hạnh phúc đời đời, còn nhưng ai chưa xứng đáng thì phải trải qua một thời gian thanh luyện để nên xứng đáng hơn. Còn những người khi sống đã quyết liệt từ chối Đức Kitô và ân sủng của Ngài thì sau khi chết họ sẽ không được gặp Đức Kitô, không được bước vào nhà của Ngài, mà phải rơi vào nơi đầy hận thù, thất vọng và chết chóc. Như thế, thì sẽ không thể có những linh hồn đi lang thang, và cũng không ai có thể nói chuyện được với vong hồn, vì hai thế giới hoàn toàn khác nhau.
Chúng ta đừng quên rằng, ma quỷ là tên luôn gieo sự nghi ngờ, ngay từ đầu, nó đã gieo nghi ngờ cho Adam – Eva, và đến nay nó tìm mọi cách quấy phá và làm lung lạc đức tin của chúng ta. Nó có thể mượn các hình thức của vong hồn, mượn miệng của người sống để nói về đủ điều, kể cả những điều tốt lành, hoặc những điều ghê sợ để gieo vào trong chúng ta sự nghi ngờ về sự hiện diện, và quyền năng của Thiên Chúa, và khuyến khích chúng ta tin vào quyền năng và sự ly kỳ của nó, cuối cùng là chạy theo nó.
Chúng ta cũng cần nhớ rằng, ma quỷ nó không cám dỗ chúng ta ngay một lúc, nhưng nó dùng các câu chuyện được thêu dệt và truyền miệng từ người này qua người khác để dần dần đánh gục đức tin của chúng ta, nó dùng các hình thức bói toán gọi hồn, để khiến chúng ta tin vào các ông thày bà thày mỗi khi gặp khó khăn hay bệnh tật, khiến cho người tin hữu đánh mất thói quen cầu nguyện, và sống phó thác, không còn muốn lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa nữa. Trong thư thánh Phêrô, đã có lần chia sẻ: Ma quỷ thù địch của anh em, nó như sư tử rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự.
Dựa vào lời Thánh Phaolô hôm nay, để chúng ta cầu xin Đức Giêsu Kitô và xin Thiên Chúa Cha của Ngài luôn gìn giữ và bảo vệ chúng ta, xin Ngài làm cho tâm hồn chúng ta nên vững mạnh sống với niềm hy vọng phục sinh và xin đừng để chúng ta sa chứơc cám dỗ của ma quỷ. Amen.
.
An Phong
Niềm tin vào sự sống đời sau vừa là một khát vọng, vừa là một điều khó khăn đối với con người. Khát vọng vì con người không cảm thấy bằng lòng với cuộc sống này; không thể chấp nhận những bất công còn đầy dẫy mà cuộc sống này không bao giờ có thể giải quyết hoàn toàn; không thể chịu đựng được sự phi lý vì những mất mát, chia lìa của cuộc sống nhân loại phải đón nhận. Khó khăn vì người ta dễ cảm thấy chắc tâm khi đạt được những thành công, tìm thấy những bảo đảm cho cuộc sống này để mình được sung sướng; hơn là “thả mồi bắt bóng” ở thế giới nào khác.
Những người Sađốc là những người muốn an tâm với những sung sướng rõ ràng như thế; vua Antioco và quần thần của vua thì tưởng ai cũng như thế, nên lấy những hình phạt thể xác để đe dọa các tín hữu.
Niềm tin của người kitô hữu không phải là khinh chê cuộc sống này để “thả mồi bắt bóng”, nhưng luôn qui chiếu đời sống của mình vào ngày Thiên Chúa hoàn thành chương trình cứu độ; khi đó Ngài “trả lại” những mất mát, Ngài hoàn thành những khát vọng, Ngài nối lại những chia lìa, Ngài biến đổi những giới hạn nên một “trời mới đất mới”.
Người ước vọng hạnh phúc đời sau không phải là người chán đời, bi quan; nhưng là những người tràn đầy lòng yêu thương, sống mãnh liệt niềm khát vọng thực hiện cuộc đời mình cho tốt đẹp hơn, muốn mang lại hạnh phúc cho người khác trọn vẹn hơn.
Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, xác tín điều đó giúp cho người kitô hữu vượt qua lòng ích kỷ, thắng được sự nhát đảm và cảm nhận được giá trị của niềm vui đích thực, niềm vui “là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại”.
Tâm tình hiệp lễ
Vầng đông dậy, ánh hồng gieo rắc
Chốn thiên cung nhã nhạc vang hòa…
Ấy Vua Cả oai phong lẫm liệt
Cõi âm ty: hủy diệt tiêu tan.
Chân người dẫm nát tử thần
Tù nhân đau khổ ân cần đưa lên.
Đã im bặt câu than tiếng khóc,
Đã hết rồi cảnh ngục thê lương,
Sứ thần áo trắng vui mừng
Loan tin Chúa đã vui mừng phục sinh.
Xin cho mọi lòng thành hoan hỉ
Mãi muôn đời mừng lễ Vượt Qua
Tái sinh ơn nghĩa chan hòa
Vang vang khúc khải hoàn ca reo hò.
Muôn lạy Chúa Giêsu từ ái
Đấng lừng danh đánh bại tử thần.
Ngàn đời hiển trị muôn dân
Cùng Ngôi Thánh Phụ Thánh Thần quang vinh.
Thánh Thi Phục Sinh
.
Thiên Phúc
Trong kho tàng truyện cổ Tây phương có câu chuyện Công Chúa Ngủ Trong Rừng, như sau:
Ngày xưa, ở vương quốc hạnh phúc, nhà vua sinh được một công chúa xinh đẹp tuyệt vời. Lễ rửa tội được tổ chức linh đình, có mặt các bà tiên, mỗi bà tặng công chúa một món quà là một lời chúc tốt đẹp.
Dù không được mời, mụ phù thủy ghen tức cũng bay đến, lẩm bẩm câu chúc dữ: “Một ngày kia, cái suốt chỉ sẽ đâm vào tay công chúa và con bé sẽ phải chết!”. Nói xong, mụ bay vù qua cửa sổ. Mọi người buồn bã mất vui. May thay, vẫn còn một bà tiên tốt bụng đến trễ. Bà nói: “Ta sẽ làm nhẹ lời nguyền rủa ấy: cô bé sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc rất dài cho tới khi một hoàng tử tốt lành, sẽ đến nắm tay kéo dậy và cô sẽ được hạnh phúc mãi mãi”.
Để đề phòng, nhà vua cấm tất cả thần dân không được dùng suốt chỉ. Nhưng một ngày kia, công chúa lên tháp canh trong lâu đài và thấy một bà lão đang khâu vá. Cô xin bà cho khâu thử. Thế là cái suốt chỉ đâm vào tay cô, cô lăn ra chết!
Người ta đặt xác cô giữa lâu đài, nhưng các bà tiên tốt bụng đã khiến mọi người trong lâu đài cùng bất tỉnh cả. Một rừng cây mọc lên che phủ lâu đài. Hoa thơm cỏ lạ bốn mùa đua nở.
Thời gian trôi đi đã ngàn năm, cho đến khi một hoàng tử lịch lãm đi săn ngang qua đó, khám phá ra lâu đài. Chàng bước vào ngỡ ngàng trước nàng công chúa xinh đẹp. Hoàng tử đã quỳ gối cầm tay công chúa, và nàng liền mở mắt chỗi dậy. Thế là hoàng tử rước công chúa về kinh thành, xin vua cha tổ chức lễ cưới linh đình.
Công chúa ngủ trong rừng chính là hình ảnh của người tín hữu an nghỉ trong ơn nghĩa Chúa. Sau một giấc ngủ dài họ được Thái Tử Bình An là chính Chúa Giêsu cầm tay nâng dậy, đưa vào tiệc cưới Nước Trời.
Chúng ta tin rằng con người sinh ra là để được sống mãi. Cái chết chỉ là ngưỡng cửa đưa vào chốn trường sinh. Một người chỉ có một cuộc sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định số phận cho cuộc sống đời sau. Việc thiện hôm nay sẽ bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ Hoàng Văn: “Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.
Phái Xađốc, trái lại, họ không tin có sự sống đời sau, cũng chẳng tin có sự sống lại, nên hôm nay, Chúa Giêsu muốn tiết lộ một vài hình ảnh của đời sau rằng: Đời sau khác hẳn đời này. Người ta “không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” vì con người “không thể chết nữa”, nên đâu cần sinh con để bảo tồn nòi giống, nhưng được “sống ngang hàng với các thiên thần” là ca ngợi, tôn vinh và phụng thờ Thiên Chúa. Họ được thông phần vinh quang Thiên Chúa, được dự phần vào dòng dõi của Người. Thánh Phaolô đã viết: “Việc kẻ chết sống lại cũng vậy. Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí mà chỗi dậy là thân thể có thần khí.
Quả thật, con người được Thiên Chúa dựng nên để sống trường sinh, nhưng vì sự đố kỵ của ma quỉ mà cái chết đã nhập vào thế gian. Thánh ý của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chặn bởi quỉ ma, con người phải tìm lại được quyền bất tử của mình. Đó là sự sống lại của những người công chính. Lời than thở của thánh Augustinô đã nói lên nỗi khát khao của con người: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con, hướng về Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa”.
Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những thú vui trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ “đời sau”. Họ đang sống mà như đã chết.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, đã cho chúng con hưởng dùng hương hoa của cuộc sống cùng với bao niềm vui và hạnh phúc. Chúng con chỉ xin Chúa thêm một ân huệ này, là cho chúng con được về hợp hoan với Chúa đời đời. Amen.
.
PM.Cao Huy Hoàng
Câu chuyện của người Mẹ và 7 bảy anh em trong sách 2 Macabe 7,1-2.9-14 đã gửi đến cho chúng ta những xác tín về sự sống lại, về đời sau. Niềm xác tín ấy được soi sáng bởi Thánh Linh và cũng chính niềm xác tín quan trọng ấy đã giữ họ trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa, qua truyền dạy của Moise: Không ăn thịt heo. Không phải họ không quí trọng thân xác, nhưng họ được linh hứng cho biết thân xác nầy được Chúa ban cho và dù có mất đi dưới tay người phàm họ cũng sẽ lấy lại được. Họ “sẵn sàng thà chết hơn là vi phạm luật của cha ông” (c.2). Họ xác tín “Vua Vũ Trụ sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (c.9). Đối với họ , sự sống và tất cả những gì thuộc về sự sống ở đời nầy đều là của Chúa ban, và dù có mất đi, họ vẫn đặt hy vọng nhờ Thiên Chúa họ sẽ lấy lại được (c.11). Họ thà chết trong khi dựa vào Lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại (c.14).
Điểm ưu việt của đoạn sách nầy là : niềm xác tín Phục sinh vào thời kỳ Tin Mừng và Tin Mừng Phục sinh chưa xuất hiện. Một cõi sống ở đời sau có thể nói là còn mơ hồ trong tâm tưởng loài người, thì bảy anh em đã tuyên tín về sự sống lại trước mặt vua chúa quan quyền thế gian. Dấu ấn mạc khải do Thánh Linh thật rõ nét và sống động đến nỗi người đời sau, những người đã tiếp nhận ánh sáng Tin mừng Chúa Giêsu và Tin Mừng Phục Sinh của Ngài, phải ngẫm nghĩ mà tự hổ thẹn về cách đón nhận và cách tuyên xưng niềm tin của mình.
Đức tin không lý luận
Không chỉ các người thuộc nhóm Sađốc, thời Chúa Giêsu, mà cả loài người, cả chúng ta nữa, cho đến hôm nay vẫn thích dùng cái lý trí nhỏ bé của mình mà suy luận về những mầu nhiệm cao siêu thuộc về Thiên Chúa, trong đó có Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô và sự sống lại của thân xác chúng ta. Từ cái suy luận duy lý trí nảy sinh những ảo tưởng về một thực tại thuộc phạm vi Đức Tin. “ Vậy, trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy anh em đều lấy nàng làm vợ”.(Lc 20,33). Một suy luận hoàn toàn con người thì còn gì là mầu nhiệm.
Câu tuyên tín “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại” bắt đầu bằng hai từ “Tôi tin”, cho thấy rằng lý trí của tôi không nhất thiết phải tham gia gì thêm nữa. Không phải là một đức tin mù quáng, nhưng là sự hy sinh của lý trí một cách chính đáng, để niềm tin của tôi không bị chao đảo lung lay hay thay đổi, vì với lòng khiêm tốn, tôi biết lý trí của tôi không thể làm điều vượt qua khả năng của lý trí.
Cơn cám dỗ về đức tin là một cơn cám dỗ nguy hiểm nhất, do bởi thần kiêu ngạo dữ tợn nhất, luôn thúc bách lý trí ta lý luận không phải để chấp thuận, mà tìm mọi cách để từ chối, phản bác.
Nhóm Sađốc đã bị sập bẫy của Satan khi dùng những lý luận để bảo thủ cho mình cái chủ trương không có sự sống lại, không có đời sau. Những lý luận chỉ dựa trên những gì có thể thấy được, có thể sờ đụng, có thể trải nghiệm thực tiễn. Họ hiểu sự sống lại và đoàn viên trong Nước Thiên Chúa như là một thế giới khác với thế giới hôm nay, nhưng giống y như thế giới hôm nay về mọi sinh hoạt con người.
Chúa Giêsu nói: “Con cái đời nầy cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì họ được ngang hàng với các thiên thần” (Lc 20,34-36)
Tôi nghĩ lời giải thích của Chúa Giêsu là một định tín. Chỉ có Đức Tin mới thấu đạt được, chứ không dễ chấp nhận theo lý luận con người. Không thể lấy một thực tại hữu hình, mà so sánh mới một thực tại vô hình; không thể lấy một sự đã trải nghiệm thực tiến đem so sánh với sự chưa trải nghiệm, mà sự chưa trải nghiệm ấy lại thuộc về tương lai của mỗi người, của nhân loại.
Con đường dẫn đến cái chết để phục sinh
Người tín hữu hôm nay có một ưu thế hơn anh em nhà Macabê vì nền tảng niềm tin “xác loài người sẽ sống lại” được đặt vào “sự phục sinh của Chúa Giêsu”.
Chính vì tôi tin Chúa Giêsu Phục Sinh mà tôi cũng tin tôi sẽ được sống lại với người. Tôi không nhất thiết phải dùng lý trí con người, suy luận, tưởng tượng hay hình dung sự sống lại ấy thế nào, sinh hoạt như thế nào. Tôi chỉ cần biết một điều là để được Phục sinh với Chúa Giêsu, để sống lại như Ngài, tôi phải đi theo con đường của Ngài: “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”. Vì nếu không đi theo con đường của Ngài, tôi sẽ lao vào “con đường dẫn tới cái chết không phục sinh”.
Vậy con đường của Chúa Giêsu là con đường khiêm hạ, con đường từ bỏ, con đường yêu thương phục vụ cho đến chết. Có thể tôi chưa thấy một người bằng xương bằng thịt phục sinh trở về để tôi hỏi người ấy về sinh hoạt của thế giới bên kia, nhưng tôi có thể thấy chung quanh tôi có những người sống trọn vẹn cho Thiên Chúa theo đường hướng của Chúa Giêsu khi họ từ bỏ tất cả cho vinh danh Chúa. Họ có thể chia sẻ cho tôi những cảm nghiệm về sự sống đời sau mà họ đang có ngay ở đời nầy. Vâng chính họ đang sống trước mầu nhiệm phục sinh ngay ở dương gian nầy khi họ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và theo ý định của Ngài qua việc kết hiệp với Chúa Giêsu và đi theo con đường Chúa Giêsu đã vạch ra, “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”.
Lời Chúa hôm nay cho tôi thêm một cơ hội xác tín điều tôi vẫn tuyên xưng: “tôi tin xác loài người sẽ sống lại”, “ tôi tin một cuộc sống đời đời” và còn là cơ hội nhắc nhớ tôi không những phải hy sinh cái lý trí nhỏ bé của mình mà còn phải biết tránh “con đường dẫn tới cái chết không phục sinh” để đi vào con đường của Chúa Giêsu, con đường từ bỏ, hy sinh, yêu thương, phục vụ… “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”.
Lạy Chúa, xin cho con yêu mến và tín thác hoàn toàn vào Chúa, xin cho con khát khao sống sự sống của Chúa, để không còn phải thắc mắc nào khác hơn là con luôn tự hỏi: “ Tôi có từ bỏ mọi sự để hoàn toàn thuộc về Chúa khi còn ở dương gian này hay chưa?”.
.
Trầm Thiên Thu
Lằn ranh là biên độ phân định giữa cái này và cái kia, nơi đây và nơi đó, không chỉ có nghĩa đen mà có cả nghĩa bóng, và có thể mang nghĩa tốt hoặc xấu. Giữa thiện và ác cũng có lằn ranh rõ ràng, đặc biệt nhất là lằn ranh giữa Thiên Đàng và Hỏa Ngục.
Người ta dùng thuật ngữ “Lằn Ranh Đỏ” để chỉ một giới hạn, một ranh giới vô hình được vạch ra, nhằm cảnh báo không được phép vượt qua vì có nguy cơ bị trừng phạt hoặc chịu hậu quả bất lợi. Cụm từ này có nguồn gốc từ tiếng Anh (Red Line), và bắt nguồn sâu xa từ tiếng Do Thái (קו אדום, Kav Adom). Danh từ này được đề cập trong một bài báo có tựa đề là “Lằn Ranh Đỏ Mong Manh”.
Một số quốc gia cũng đặt ra “lằn ranh đỏ” với các nước khác, đặc biệt là đối với các nước hiếu chiến, nguy hiểm. Ngày nay, hầu như các quốc gia trên thế giới đều đặt ra “lằn ranh đỏ” đối với Trung quốc, bởi vì người ta nhận thấy nước này như loại virus tiềm ẩn nhiều nguy cơ độc hại về nhiều lĩnh vực. Khi biết cái xấu mà cứ lao đầu vào thì chính mình là kẻ ngu xuẩn. Tiền nhân nói nhẹ mà thấm thía: “Chọn bạn mà chơi.”
Các tôn giáo cũng có những “lằn ranh” khác nhau. Công giáo khác hẳn với các tôn giáo khác là tin có sự sống lại và sự trường sinh bất tử. Đó không chỉ là niềm tin mà còn là sự thật minh nhiên, bằng chứng là Chúa Giêsu đã bị người ta giết chết, thế nhưng Ngài đã chiến thắng tử thần và phục sinh vinh hiển. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Hằng Sinh, đúng như Chúa Giêsu minh định: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” (Ga 14:6) Có điều đặc biệt là những ai tin Ngài thì Ngài cũng cho sống lại trong ngày sau hết, nhưng đây KHÔNG là tình trạng mà người ta gọi là kiếp luân hồi – nghĩa là không có kiếp luân hồi.
Với người vô thần thì chết là hết, nhưng với người có niềm tin vào Đức Kitô thì chết là ngưỡng để vào cõi vĩnh hằng – là hóa kiếp, là biến đổi, sống chứ không chết. Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” CHẾT mà lại là SỐNG. Những người không có niềm tin không thể tin nổi, bởi vì thông thường thì ai cũng tham sanh và úy tử, thậm chí còn biến thành hèn nhát, chứ mấy ai dám liều mạng. Thế nhưng cái nghịch-lý-thuận “chết là sống” kia chỉ có trong niềm tin Kitô giáo, mà là thật chứ không mơ hồ hoặc ảo tưởng. Và điều này được minh chứng sống động qua các vị tử đạo, cả xưa và nay, thời nào cũng có.
Từ xa xưa, Kinh Thánh cho biết sự kiện về một người mẹ bị bắt cùng với bảy người con trai. Sau đó, vua An-ti-ô-khô truyền đánh họ bằng roi và gân bò để bắt họ ăn thịt heo – loại thịt cấm ăn theo luật Môsê. Nhưng một người lên tiếng thay mặt các anh em: “Vua muốn tra hỏi chúng tôi cái gì? Vua muốn biết điều gì? Chúng tôi sẵn sàng THÀ CHẾT chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi.” (2 Mcb 7:1-2) Rất can đảm, ngoan cường. Thật xứng danh tín nhân!
Anh vẫn hiên ngang và dõng dạc nói trước khi chết: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.” (2 Mcb 7:9) Lại một lần nữa chứng tỏ chí khí nam nhi, minh chứng niềm tin kiên cường, không sợ thế lực trần gian. Rất đáng khâm phục. Đúng như Kinh Thánh xác định: “Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời.” (Tv 118:9)
Người này chết, đến lượt người thứ ba bị tra tấn. Vừa được yêu cầu, anh liền thè lưỡi, can đảm đưa tay ra, và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được.” (2 Mcb 7:11) Quá đỗi kỳ lạ, đến nỗi nhà vua và quần thần đều phải sửng sốt vì lòng can đảm của một người trẻ mà dám coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. (2 Mcb 7:12)
Đến lượt người thứ tư cũng bị tra tấn như vậy. Khi sắp tắt thở, anh xác định: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu.” (2 Mcb 7:14) Và rồi tất cả bảy mẹ con đều có mẫu số chung: Can đảm chết vì đức tin. Chết là sự giải thoát và là mối lợi đối với họ. Cuối cùng, chính sự chết là “thù địch cuối cùng bị tiêu diệt.” (1 Cr 15:26) Đó là điều minh nhiên. Hại được người thì cười ha hả, rồi luật nhân quả sẽ tỏ tường.
Đối với người đời, những người-tin-vào-Đức-Kitô là đối thủ, bị coi là “kẻ thù không đội trời chung.” Kể cũng lạ, sống tốt, làm thiện mà lại bị ghét. Tại sao? Vì đối lập với ma quỷ. Tuy nhiên, mặc dù bị bách hại đủ cách, cá nhân hoặc tập thể, các tín nhân vẫn không kiếp nhược, không chịu khuất phục, luôn kiên tâm tin tưởng cầu nguyện liên lỉ, một mực yêu mến Sự Thật và Công Lý của Thiên Chúa mà thôi: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa.” (Tv 17:1) Tín nhân đích thực là thế, đúng như Thánh Phaolô đã xác định: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu.” (Rm 8:39)
Ác nhân càng ngày càng gia tăng bách hại các tín nhân khắp nơi, nhưng càng bị bách hại, các tín nhân vẫn tín trung với Thiên Chúa, vì họ chân nhận rằng chỉ có Ngài là cùng đích và cứu cánh: “Con dõi vết chân Ngài, con không vấp ngã. Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con. Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu.” (Tv 17:5-6) Chúa chưa ra tay giải thoát ngay, không phải Ngài muốn thử lòng, mà Ngài thấy chưa thực sự cần thiết, và Ngài biết họ là những môn đệ chân chính của Ngài. Chắc chắn rồi Ngài sẽ ra tay cứu độ, Hỏa Ngục còn chưa làm gì được thì đáng gì những kẻ bách hại Giáo Hội của Ngài.
Vững lòng trung tín, các tín nhân tha thiết van xin Thiên Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở.” (Tv 17:8) Lời cầu nguyện đầy ắp niềm tín thác, ngay cả trong những lúc quẫn bách nhất. Họ biết mình thế nào nên không hề run sợ, không hề nhát đảm, chỉ muốn bảo vệ Chân Lý của Thiên Chúa Hằng Sinh: “Về phần con, sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài, khi thức giấc, được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan.” (Tv 17:15) Ánh Đức Tin sáng ngời, thật tuyệt vời!
Thời Cựu Ước, khi vua Khít-ki-gia lâm trọng bệnh, ông chân thành xác tín và cầu xin: “Lạy Chúa, ngày tháng đời con là của Chúa, sự sống linh hồn con thuộc về Ngài. Xin chữa lành và cho con được sống.” (Is 38:16) Ông đã được Thiên Chúa nhậm lời, cho ông được bình an, tha tội cho ông và cứu ông khỏi hố diệt vong. (Is 38:17)
Ngày xưa, Thánh Phaolô cũng đã từng tha thiết cầu chúc các Kitô hữu: “Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.” (2 Tx 2:16-17) Làm và nói luôn phải đi đôi, không thể nói suông mà không làm, có thể không cần nói nhưng phải làm. Đó mới là người luôn đứng thẳng, nhìn thẳng, và trực ngôn với bất kỳ kẻ thù nào, dù địch thù rất nham hiểm và tàn ác. Cây ngay chẳng sợ chết đứng.
Điều mong ước của Thánh Phaolô rất thực tế: “Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô.” (2 Tx 3:5) Với tình yêu, người ta có thể vượt qua mọi trở ngại và đủ sức chịu đựng mọi thứ. Với lòng yêu thương chân thành, người ta cũng có thể làm bất cứ thứ gì. Tình yêu rất kỳ diệu, càng kỳ diệu hơn khi tình yêu đó dành cho Thiên Chúa.
Ở đâu cũng có những người mưu mô thâm độc, chẳng trừ ngõ ngách hoặc khe hở nào, họ là hiện thân của quỷ sứ. Đôi khi họ ảo tưởng hoặc ngộ nhận nên tỏ ra mình nhân đức và muốn chứng tỏ mình biết “thương người như thể thương thân,” năng nổ và nhiệt thành sinh hoạt các hội đoàn, nhưng lại ngấm ngầm gây chia rẽ giữa hội này với đoàn nọ, kỳ thì nhóm nọ với nhóm kia,… Loại “vẻ đạo đức” đó chỉ là tấm bình phong mà thôi. Thực sự hành động vì Chúa hay vì ai, hoặc vì cái gì?
Trình thuật Lc 20:27-40 cho biết rằng có mấy người thuộc nhóm Sa-đốc đến gặp Chúa Giêsu. Họ là những người chủ trương không có sự sống lại. Họ lải nhải hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” (Lc 20:28-33) Rất đểu, đểu thật! Ra cái vẻ lịch sự, nhưng họ chỉ ngọt cái miệng thế thôi, chứ bụng dạ trương phình và bốc mùi xú uế. Mức độ nham hiểm của họ rất tinh vi, đôi lúc lại “giả mù sa mưa” và mưu tính giăng bẫy khác.
Sa-đốc nói dóc, thèo lẻo lắm điều. Chúa Giêsu cũng làm “một lèo” luôn: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20:34-38) Mấy kinh sư vào hùa và nịnh: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.” Và rồi họ im re!
Người ta nói: “Kẻ cướp gặp bà già.” Đừng tưởng bở. Bảy mươi còn phải học bảy mốt kia mà. Không nói thì thôi, họ càng nói ra thì càng lòi cái ngu, không phải ngu bình thường mà là dạng ngu bẩm sinh, ngu quốc tế, ngu tận số, ngu siêu đẳng, ngu trên từng cây số,… nói chung là “đại ngu”. Ngu mà chảnh, xấu mà đỏng đảnh.
Họ đành câm họng, im như thóc thối, bởi vì nghe Sư Phụ Giêsu phân tích rạch ròi, chí lý. Thôi thì bồ hòn có đắng mấy cũng ráng ngậm và ráng ra vẻ “ngọt như mía lùi” vậy. Cũng đáng đời lắm! Thế nhưng không như thế cũng không được, bởi vì có như vậy mới “xứng tầm” với những kẻ mặt người mà lòng ma dạ quỷ. Chẳng oan ức gì đối với những kẻ chuyên “ngậm máu phun người” như đám họ. Đúng như tiền nhân nói: “Thần khẩu hại xác phàm.” Chắc chắn họ phải lủi đi cho nhanh ngay sau đó, chứ còn mặt mũi nào nữa. Mặt họ có chai cỡ nào cũng không vênh váo được nữa rồi.
Chân phước Henry Suso (1295–1366) nói: “Người ta thường mua hỏa ngục bằng một cái giá quá đắt, vì họ chịu hy sinh bản thân để làm đẹp lòng thế gian.” Thật đáng quan ngại và đáng để chúng ta xem lại các động thái của chính mình.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban thêm ơn khôn ngoan, các đức đối thần và đối nhân, để chúng con luôn sống rạch ròi, nghiêm túc, thẳng thắn, mạnh mẽ, bất khuất, can đảm hành động theo sự thật của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Chết là một qui luật phổ biến : mọi người đều phải chết. Người Việt nam chúng ta tin rằng, trong tình trạng bình thường, cuộc đời của mỗi người phải trải qua 4 giai đọan : sinh, lão, bệnh, tử. Chết là giai đọan kết thúc cuộc đời. Nhưng chết rồi sẽ ra sao ? Đi về đâu ? Hay là đi vào hư vô ? Người Việt chúng ta tin rằng chết là trở về cội nguồn vì “Sinh ký tử qui” (Hòai Nam Tử) : Sống là gửi, là nhờ, chết mới là về !
Trong thời Đức Giêsu, người ta cũng tin như thế, nhất là với nhóm biệt phái. Nhưng nhóm Sađucêu là những tư tế thiên về chính trị và vật chất thì không tin như thế. Họ không tin có sự sống lại và sự sống đời sau. Do đó họ đã cố bịa ra một câu chuyện kỳ cục để gài Đức Giêsu vào thế bí và để cho mọi người thấy rằng sống lại là một chuyện lố bịch. Nhưng dựa vào Kinh Thánh, Đức Giêsu đã chứng minh cho họ là có sự sống lại và có đời sau; đồng thời cũng cho họ biết là đời sống mai hậu khác với đời sống ở trần gian này, không còn cưới vợ gả chồng nữa, người lành sống lại giống như các thiên thần luôn lo việc phụng thờ và ca ngợi Thiên Chúa trong hạnh phúc vinh quang.
Chúng ta vẫn tuyên xưng niềm tin ấy khi đọc kinh Tin kính :”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Lời thánh Phaolô nhắn gửi cho tín hữu Côrintô càng làm cho chúng ta xác tín :”Nếu chết là hết, thì quả thật chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong thiên ha”(x. 1Cr 15,19). Cuộc sống của chúng ta ở trần gian này là cuộc hành trình đi về nguồn cội là quê trời, nơi mà Đức Giêsu đã nói :”Để con ở đâu thì chúng cũng ở nơi đó với Con”. Cuộc sống mai hậu của chúng ta sẽ như thế nào thì tùy thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta ở trần gian này vì “gieo giống nào thì gặt giống nấy”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 2Mcb 7,1-2.9-14.
Khi cuộc bách hại khốc liệt xẩy ra vào thế kỷ II thời vua Antiochus, dân Do thái đã có những vị tử đạo. Câu chuyện kể về một bà mẹ với 7 người con thà chịu chết chứ không chịu bỏ đạo Chúa đã chứng tỏ niềm tin ngày càng gia tăng rằng sau khi chết, mỗi người vẫn còn tiếp tục sống. Lần đầu tiên các vị tử đạo của Cựu ước đã khẳng định xác kẻ lành sẽ được phục sinh. Sở dĩ những thanh niên này can đảm chối từ sự sống trần thế, là vì họ tin chắc rằng Thiên Chúa đủ quyền năng để phục sinh họ vĩnh viễn.
Giá trị câu chuyện ở chỗ cho thấy sự phục sinh không là một ý tưởng. Đó là niềm hy vọng cho những ai chịu mất mạng. Hồng ân đáp lại sự dâng hiến. Ai không bao giờ cho sẽ không mong lãnh nhận được điều gì. Tư tưởng này liên kết với Tin mừng hôm nay.
+ Bài đọc 2 : 2Tx 2,16-3,5.
Tiếp theo đoạn thư của Chúa nhật tuần trước, thánh Phaolô khuyên tín hữu Thessalonica hãy kiên tâm bền chí. Khó khăn không thiếu, nhưng phương tiện để vượt qua cũng nhiều, đó là lòng trung tín chân thật dựa trên Lời Chúa và những hướng dẫn của ngài.
Sau đó, ngài xin họ cầu nguyện cho việc truyền giáo của ngài được thành công, dù gặp nhiều chông gai. Ngài phục vụ Lời Chúa và mong Lời Chúa được hoàn thành cũng như được “tôn vinh” nơi lời đáp xin vâng của những người được Lời Chúa kêu gọi.
+ Bài Tin mừng : Lc 20,27-38.
Nhóm Sađucêu thiên về chính trị có quan điểm khác với nhóm biệt phái và luật sĩ. Họ không tin có cuộc sống đời sau. Họ không công nhận điều gì ngoài những điều Thiên Chúa đã mạc khải cho Maisen. Họ bác bỏ sự sống lại và cho rằng đó chỉ là truyền thống hoàn toàn của con người. Họ tưởng rằng cuộc sống mai hậu nếu có thì cũng chỉ như cuộc sống ở đời này, cũng cưới vợ gả chồng, sinh con cái và hưởng thụ tất cả lạc thú như ở đời này. Nên họ đưa ra cho Đức Giêsu một vấn nạn khó giải quyết.
Để trả lời cho họ, Đức Giêsu vừa xác nhận có sự sống đời sau, vừa cho họ biết ý nghĩa về cuộc sống ấy :
– Trong cuộc sống mai hậu, người ta sẽ bất tử, không còn vấn đề truyền sinh, nên không còn cưới vợ gả chồng nữa.
– Trong ngày sống lại, người ta sẽ giống như các thiên thần để hưởng hạnh phúc bên Chúa.
Đức Giêsu cho chúng ta hiểu rằng ngôn ngữ loài người không đủ sức diễn tả tình trạng cụ thể của người được phục sinh. Câu hỏi của nhóm Sađcêu vì thế không đáng phải ghi nhớ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. MỘT VẤN NẠN ĐƯỢC ĐẶT RA.
- Thân thế nhóm Sađucêu.
Trong thời Đức Giêsu, có ba nhóm rất có thế lực và chi phối đời sống tôn giáo cũng như xã hội Do thái. Ba nhóm ây là luật sĩ, biệt phái và Sađucêu. Nhóm luật sĩ và biệt phái là những người đạo đức chuyên lo việc học hỏi Thánh Kinh và giữ luật một cách tỉ mỉ. Họ chuyên lo việc đạo chứ không quan tâm đến chính trị. Tuy thế, họ là những người giả hình và hay chống đối Đức Giêsu. Nhiều lần Ngài đã phải thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối của họ.
Còn nhóm thứ ba là Sađucêu. Đây là một nhóm tư tế cao cấp trong Do thái giáo. Họ có quyền cả về sinh hoạt tôn giáo và chính trị Do thái từ trước thời Đức Kitô. Họ chỉ chấp nhận Ngũ Kinh, coi Maisen là vị tiên tri vĩ đại và hoài nghi các tiên tri khác. Họ không tin linh hồn bất tử và sự sống lại (họ trái ngược và kình địch với nhóm biệt phái) vì hai lý do : một là họ bảo giáo lý về sự sống đời sau không có trong Thánh Kinh (đối với họ chỉ có luật Maisen thôi), hai là họ nghĩ rằng : quyền năng của Thiên Chúa không vượt qua con người.
- Một cái bẫy được giương ra .
Với trí khôn minh mẫn và trào phúng, họ cố làm cho câu chuyện sống lại trở nên lố bịch và buồn cười, họ đã nại đến thế giá ông Maisen mà Đức Giêsu không thể không nhìn nhận (Đnl 23,5) để bịa ra câu chuyện về sự sống lại.
Theo luật Maisen, luật mà Thánh Kinh gọi là luật Levirat (Dt 25, 5-10), khi có người anh em trong gia đình chết mà không có con, người anh em còn sống phải lấy chị dâu hay em dâu góa để gây dòng họ cho anh em mình. Đứa con đầu tiên sinh ra do sự phối ngẫu này được xem như là con đẻ của người anh xấu số, được phép nhân danh người quá cố để tiếp tục sống trong cộng đoàn Israel. Theo phái Sađucêu, việc áp dụng luật như vậy, nhất thiết chứng minh rằng không có sự sống lại. Họ hỏi Đức Giêsu : Nếu một người đàn bà theo luật Levirat lấy liên tiếp 7 anh em mà không có con thì khi sống lại bà là vợ ai ?
Thực ra, trong thực tế không có trường hợp nào xẩy ra như vậy; nhưng ở đây chỗ quá đáng của 7 anh em có mục đích cho ta thấy việc sống lại là một việc không thể tin được.
Cái sai lầm của những người Sađucêu đặt ra câu chuyện này là ở chỗ quan niệm có tính cách vật chất về sự sống lại. Họ nghĩ đời sống trần gian này thế nào, thì khi sống lại ở đời sau cũng vậy : Đời này dựng vợ gả chồng thì đời sau cũng chồng nào vợ nấy.
II. MỘT GIẢI ĐÁP ĐƯỢC THỰC HIỆN.
Đức Giêsu đã trả lời bằng cách bác bỏ quan niệm sai lầm về sự sống lại mà phái Sađucêu chế giễu. Ngài chứng minh rằng :”Con cái đời này cưới vợ gả chồng”, sự sống tại trần thế có cưới vợ gả chồng vì lẽ đời sống con người có sinh có tử, và vì có tử nên con người cần phải dựng vợ gả chồng để truyền sinh và nối dõi.
Trong đời sống mai hậu họ không còn cưới vợ gả chồng vì hai lý do : một là vì họ sẽ không thể chết được nữa, và họ được ngang hàng với các thiên thần; hai là vì họ trở nên con cái Thiên Chúa, và là con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và sự sống mới từ nơi Thiên Chúa.
* “Quả thật, họ không thể chết nữa”, vì được ngang hàng với các thiên thần : khi sống đời đời, người ta sẽ không còn lo lắng việc đời nữa, ngoài việc phụng sự và ngợi khen Thiên Chúa, giống như nhiệm vụ của các thiên thần.
* “Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” : Kiểu nói của người Sêmít này có nghĩa là một khi được Thiên Chúa nhận là con cái thì họ cũng được thừa hưởng thế giới mới và sự sống mới nhờ việc sống lại (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).
Còn nói về việc kẻ chết sống lại thì Đức Giêsu dựa vào Thánh Kinh để chứng minh có sự sống lại. Ngài nêu ra một đoạn trong sách Xuất hành mà nhóm Sađucêu công nhận để chứng minh chân lý ấy : khi hiện ra với Maisen trong bụi gai đang cháy, Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaác và Thiên Chúa của Giacóp (x. Xh 3,6). Mà Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống : Các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp dù đã qua đời, nhưng câu nói của Thiên Chúa với Maisen có hàm ý là các vị ấy hiện vẫn còn sống. Vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống đang điều khiển lịch sử loài người. Ngài không thể là Thiên Chúa của những kẻ chết, mà phải là của những kẻ sống. Con người gồm cả hồn lẫn xác, nên không những linh hồn con người thiêng liêng không bao giờ chết được, mà cả thân xác con người, dù có hóa thành bụi đất, thì nhờ quyền năng của Thiên Chúa Hằng Sống, cũng sẽ được sống lại trong ngày tận thế (x. Ga 11,23-26).
III. CUỘC SỐNG ĐỜI NAY VÀ MAI HẬU.
- Chết là một qui luật phổ biến.
Có biết bao vĩ nhân thế giới, biết bao anh hùng cái thế đã qua đi mà chỉ còn trong sử sách. Ngay Hoàng đế Tần Thủy Hoàng của Trung hoa xưa đã truyền lệnh cho các thầy thuốc tìm ra thuốc trường sinh cho nhà vua mà đành chịu bó tay. Ông đã chết như mọi người. Kinh nghiệm này đã được Văn Thiên Trường nói lên như một khẳng định :
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử” : từ xưa đến nay ai mà không chết ? Đúng vậy. Đời người ngắn ngủi lắm. Thi sĩ Cao Bá Quát cũng nói lên kinh nghiệm đó trong mấy vần thơ :
Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.
Thôi công đâu chuốc lấy sự đời,
Tiêu khiển một vài chung lếu láo.
Thi sĩ nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm, dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ, uống rượu “tiêu khiển một vài chung lếu láo”.
- Nhưng chết là gì ?
Có nhiều cách định nghĩa về cái chết nhưng không định nghĩa nào thấy thỏa đáng. Chúng ta chỉ biết rằng con người kết thúc cuộc đời này khi linh hồn lìa khỏi xác. Chỉ khi nào linh hồn lìa khỏi xác thì mới là chết thật.
Chết là một sự chuyển đổi chứ không phải là một mất mát, đi vào ngõ cụt hay đi vào hư vô.
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu trước khi sinh thì đã nói với chị em đang đứng chung quanh :”Em không chết đâu, em đi vào cõi sống”.
Ngay cả những người ngoại giáo từ ngày xưa đã tin như thế, nên Hòai Nam Tử đã nói :”Sinh ký tử qui” : sống là sống gửi, còn chết mới là về. Về đâu ? Đi về cội nguồn, đi về một kiếp khác chứ không phải đi vào hư vô.
Cũng trong niềm tin đó, thi sĩ Nguyễn Du trong “Đoạn trường tân thanh” đã khẳng định :”Thác là thể phách còn là tinh anh”.
Lời than thở của thánh Augustinô đã nói lên nỗi khát khao của con người được an nghỉ trong Chúa sau khi lìa cõi đời này :”Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”.
Truyện : Đại tá David Marcus.
Đại tá David Marcus bị chết trong trận chiến ở Israel tháng 6 năm 1948. Trong bóp của ông, người ta thấy một tấm thẻ ghi lại những lời thi vị hóa cái chết như sau :
“Tôi đang đứng trên bờ biển. Bên cạnh tôi một con tầu đang trương buồm trắng phất phơ trong gió sớm hướng về đại dương. Con tầu trông thật đẹp và mạnh mẽ. Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một dải mây trắng nơi trời và nước hòa lẫn với nhau. Lúc đó có người đứng cạnh tôi thốt lên :”Kìa, con tầu biến mất rồi” ! – Biến đi đâu ? – Biến khỏi tầm mắt tôi, thế thôi ! Nó vẫn là cột buồm, là vỏ tầu rộng lớn như lúc nó rời cạnh tôi và cũng vẫn đủ khả năng mang hàng hóa tươi sống đến nơi đã định. Kích thước con tầu chỉ giảm đi trong ánh nhìn của tôi chứ không phải nơi chính nó. Và ngay lúc đó tiếng người cạnh tôi vang lên :”Kìa ! Nó biến mất rồi”! thì lại có nhiều tiếng khác ở chân trời đàng kia vang lên đầy hoan hỉ :”Kìa ! Nó đến rồi”! Và đó chính là lúc chết (M. Link).
- Kiếp sống mai hậu.
Nhiều người tự nghĩ : nếu cuộc sống chỉ có đời này, và chết là hết, thì liệu những việc tôi đang làm đây có ý nghĩa gì không ? Và nói như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô : “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19). Quả thật, nếu không có niềm tin vào sự sống lại, không có niềm tin vào sự phán xét công minh và yêu thương của Thiên Chúa sau khi chết, có lẽ không ai trong chúng ta ngu dại gì mà sống ngay thẳng, thành thật; và cũng chẳng có ai dù đủ kiên trì để chịu đựng những thử thách, bất công, hoặc cũng chẳng ai dại gì mà đi chia sẻ, giúp đỡ người khác nếu điều đó không có lợi cho mình.
Tiền nhân chúng ta tin tưởng :”Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng” : Có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt. Điều này rất hợp với tự nhiên, bởi vì kinh nghiệm đã cho thấy nhiều người ngay lành gặp phải rủi ro trong khi những người tội lỗi gặp nhiều may mắn, nếu không có thưởng phạt đời sau, thì sao cho hợp lẽ công bằng ?
Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử”(near death experience) : nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau :
– Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
– Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
Chúng ta chưa ai có kinh nghiệm về cuộc sống mai hậu nên không thể hiểu được và cũng không diễn tả được, nhưng chúng ta hãy tin vào Lời Chúa. Đức Giêsu cho chúng ta biết trật tự, cách tổ chức, sinh hoạt, cách thế hiện hữu trong cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đối với cuộc sống mai hậu, con người không hề có một kinh nghiệm nào và cũng không có một từ ngữ nào tương xứng để diễn tả. Thánh Phaolô có nói về sự siêu nghiệm ấy như sau :”Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được”(1Cr 2,9).
Đức Giêsu đã khẳng định : Đời sống của các kẻ sống lại được hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống, là đời sống hoàn toàn mới lạ so với đời sống trần gian này. Đời sống đó không có kiểu mẫu nào ở đời này cả. Đó là một cuộc sống không thể nào tưởng tượng ra nổi, một cuộc sống hoàn toàn được biến đổi, một cuộc sống của những người “con Thiên Chúa”, những “người được hưởng ơn phục sinh” :”Họ giống như các thiên thần”.
Truyện : Bác sĩ Paul Nagai.
Chết không phải là hết. Paul Nagai, từ sau quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, đã trở thành con người bất hủ, vì sự tận tụy và tấm lòng hy sinh vô bờ bến của ông đối với các nạn nhân.
Chính ông đã để lại mấy dòng tâm sự làm cho ta biết tại sao ông từ vô thần đã trở thành con người có tin tưởng.
“Trong kỳ nghỉ xuân – lời ông – lúc đó tôi học hết năm thứ hai đại học y khoa, mẹ tôi bị trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường mẹ tôi, người chỉ còn một chút hơi thở. Mẹ tôi trừng trừng nhìn tôi, mà thở ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt bà mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương tôi đến cùng, cặp mắt này nói cho tôi một cách rõ rệt : dầu sao khi người khuất núi, người vẫn còn luôn luôn ở bên Takashi yêu dấu của bà. Tôi nhìn trong con mắt đó, tôi con người đã không tin có linh hồn và tự nhiên tôi cảm thấy : linh hồn mẹ tôi có; linh hồn mẹ tôi lìa khỏi xác nhưng còn tồn tại mãi mãi”.
Sau đó ông thêm rằng :”Con người tôi đã đổi hẳn, dầu tôi làm hết sức cũng không thể làm cho tôi tin phục rằng cái đã gọi là mẹ tôi đã bị hoàn toàn tiêu diệt… Con mắt tôi lần đầu tiên mở ra nhìn thấy cái thế giới siêu hình” (Văn Quy, Đi về đâu, tr 7-8).
- Tin vào sự sống lại.
Chúng ta rất phấn khởi và đầy tin tưởng khi đọc lời tung hô Alleluia :”Vạn tuế Đức Kitô, Đấng đầu tiên từ cõi chết sống lại. Người vinh hiển quyền năng. Vạn vạn tuế”. Người là đầu thân thể đã sống lại để cho chi thể được sống lại với Người.
Mỗi khi chúng ta đọc kinh Tin kính, chúng ta vẫn tuyên xưng :”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng. Chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Đức Giêsu lẫn ở thời nay.
Người Kitô hữu tin rằng không chỉ có linh hồn tham dự vào cuộc sống mai hậu, mà cả thân xác cũng sẽ sống lại sau khi hư nát một thời gian, để tham dự vào sự sống thần linh và vĩnh cửu đời sau. Thân xác ấy sẽ được biến đổi để phù hợp với cách hiện hữu mới ấy. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Kitô, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”(Cv 2,32; 10,41).Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Kitô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là Kitô hữu.
Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Ông Eymieu đã công bố bản thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19 thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert người Đức cho biết trong số 300 nhà bác học lỗi lạc nhất ở 4 thế kỷ vừa qua có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng (Văn Quy, Đi về đâu, tr 39).
Truyện : Con bọ nước.
Một nhà sản xuất và giám đốc của một hãng phim lớn, ông Cecil B. DeMille vừa có nhiều năng khiếu về nghệ thuật, lại có đời sống nội tâm sâu xa nữa. Ông nhận xét sự chia sẻ của mình với bạn bè như sau :
“Trong khi đi thuyền canô trên hồ Maine, ông chú ý thấy một bầy con bọ nước cánh cứng ngay dưới mặt nước. Một con trong bầy ngoi lên trên mặt nước và từ từ bò lên mạn thuyền canô. Sau cùng, nó phấn đấu leo lên được bên trên thuyền, bám vào thành gỗ và lăn ra chết. DeMille đã quên bẵng đi con bọ nước này cho đến mấy tiếng đồng hồ sau đó ông lại chú ý thấy một con bọ nước khác. Trong ánh mặt trời ấm áp, cái vỏ cứng bên ngoài của nó đã trở nên khô và dòn. Chăm chú theo dõi, ông thấy cái vỏ của nó đã vỡ đôi ra, và từ bên trong nổi ra một hình thức mới, một con chuồn chuồn, cất cánh bay lên không gian với mầu sắc tráng lệ lóng lánh trong ánh mặt trời. Chỉ trong một thoáng, con chuồn chuồn đã bay được xa hơn là con bọ nước bò đi chậm chạp trong nhiều ngày. Nó bay lượn vòng quanh, phóng lên, lao xuống, chập chờn trên mặt nước.
DeMille chú ý thấy cái bóng của nó in hình trên mặt hồ. Con bọ ở dưới nước cũng có thể nhìn thấy điều đó, nhưng bây giờ người đồng loại của chúng trước đây đã hiện hữu trong một tình trạng vượt xa sự hiểu biết của chúng. Còn con bọ nước vẫn đang sống trong thế giới nhỏ bé và giới hạn, trong khi người anh chị em bà con của nó đã có được tất cả sự tự do giữa trái đất và bầu trời.
Khi nói với bạn bè của ông điều đã nhìn thấy, DeMille đã kết luận với câu hỏi gợi ý như sau :”Có thể nào Thượng Đế vĩ đại của vũ trụ làm điều đó cho con bọ nước, lại không làm cho con người sao”(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa…, tr 367-368).
- Chuẩn bị cho đời mai hậu.
Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không phải chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những lạc thú trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ “đời sau”. Họ đang sống mà như đã chết.
Cuộc đời này tuy ngắn ngủi, nhưng lại rất quan trọng : nó ảnh hưởng một cách quyết định đến cách thế hiện hữu của ta trong cuộc sống mai hậu. Một người sống đầy tình người, đầy yêu thương ở đời này chắc chắn tình trạng đời sau sẽ khác hẳn với người đời này sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình. Đời này là nhân, đời sau là quả : nhân nào sinh quả nấy, cây nào sinh trái nấy, “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, cũng như cây xấu không thể sinh trái tốt”(Mt 7,17-18). Người làm tốt sẽ được thưởng, người làm điều xấu sẽ bị phạt như thư Rôma và sách Khải huyền viết :”Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm”(Rm 2,6; Kh 2,23).
Nói đến nguyên tắc “gieo gì thì gặt nấy”, phương Tây có một câu ngạn ngữ rất hay :
Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế.
Nếu bạn muốn hạnh phúc muôn đời, hãy làm người có đạo tốt.
Để kết luận, chúng ta tự hỏi : Tôi sẽ chọn cho mình cách sống nào ? Sống để chiếm lấy vĩnh cửu hay là chỉ những kẻ chọn lấy đời này và đánh mất đời sau ? Đời sau vẫn cứ là huyền nhiệm lớn không thể tả. Chẳng ai biết thiên đàng, hỏa ngục như thế nào. Người ta chụp được rất nhiều hình ảnh lạ mắt, nhưng chưa từng có ai lấy được hình ảnh của thiên đàng hay hỏa ngục. Vì không thể tìm được chân dung, người tín hữu nói riêng và loài người nói chung, dễ bị cuốn hút vào những cái thấy được của cuộc đời này, bám chặt vào nó đến nỗi có lúc đã trở nên tội lỗi và lún sâu vào tội lỗi.
Chúng ta hãy tâm niệm rằng Sống là để chết. Ta biết mình đang đi về đời sau để gặp Đấng mà mình tin yêu suốt đời. Vì thế, cái chết không làm cho chúng ta bi quan, ngược lại, cái chết dạy ta biết cách sống. Ta hãy sống như sẽ chết, để khi chết, ta trở về nguồn cội đích thật của mình là quê hương vĩnh cửu. Nơi đó Chúa đang chờ để ban hạnh phúc muôn đời cho kẻ đã “xét đáng được dự phần đời sau” là chính chúng ta.
.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1-. Trong đoạn trước, Chúa Giêsu đã làm bẽ mặt người biệt phái cố ý giăng bẫy Ngài khi đề cập đến vấn đề nộp thuế cho hoàng đế César. Sau những người biệt phái, là những người không dám chất vấn Ngài nữa, các nhân vật khác bắt đầu nhập cuộc. Họ thuộc về một trong ba phái Do thái đồng thời với Chúa Giêsu. Đó là những người Sađđuceô, nghĩa là “con cáo của Sađoc”, thuộc chi họ Lêvi (Ez 40,46). Họ thuộc giai cấp tư tế, nhưng từ lâu họ không còn giữ đạo Do thái cách thuần túy. Nếu trung thành làm các việc phụng tự bên ngoài, họ lại rất ít quan tâm đến các giáo điều nói về niềm tin tôn giáo: vì phụng vụ đã làm họ thỏa mãn. Hoài nghi kiên quan đến tín điều, họ quả quyết “không có sự sống lại, không có thiên thần” (Cvsđ 23,8), cũng như phủ nhận bất tử tính của linh hồn (theo Josèphe Ant.jud., XVIII,1,4). Điều sau này không đúng. Trong các điều họ phủ nhận, ở đây Lc chỉ nói điều phủ nhận về sự sống lại, bởi vì họ tranh luận với Chúa Giêsu về điểm này.
Sự sống lại là điểm giáo lý khiến họ ly khai với người biệt phái và khi phủ nhận điều đó, họ cho mình là người giữ lại niềm tin cổ truyền của Israel. Họ công nhận sau khi chết, linh hồn vẫn còn sống trong Shéol. Niềm tin vào sự sống lại xuất hiện vào thời các sách Macabêô hoặc vào thời đại trước đó, dưới ảnh hưởng của một đời sống sâu xa hơn, của ước muốn thông hiệp chặt chẽ hơn với Thiên Chúa trong một thế giới tốt đẹp hơn. Sự hiện diện của những hồn ma trong Shéol không thể lấp đầy những khát vọng đó. Chỉ có sự nối kết giữa linh hồn và thể xác bên cạnh Thiên Chúa mới có thể làm họ thỏa mãn. Niềm hy vọng về sự sống lại được củng cố trong suốt các cuộc chiến tranh tôn giáo. Thế nhưng đối với người Sâđđucêô, đó lại là một tín điều mới và họ phủ nhận điều đó, in tuồng họ đã đồng hóa với triết lý Hy lạp.
2-. Chúa Giêsu chia sẻ niềm xác tín của người biệt phái và dẫn chứng: thực sự có việc người chết sống lại. Đó là lý do khiến một vài người Sâđđucêô tìm cách chế diễu Ngài.
Họ bắt đầu bằng cách nại đến thế giá của Môisen mà Chúa Giêsu không thể nhìn nhận. Trong sách Đnl (25,5tt), luật Môisen buộc người nào đó, có anh đã cưới vợ nhưng đã chết mà không có con, phải cưới bà góa đó và sinh con thừa tự cho anh mình; đứa con đầu tiên sinh ra do sự phối ngẫu này được xem như là con đẻ của người đã quá cố, được phép nhân danh người quá cố để tiếp tục sống trong Israel. Luật này trở nên khe khắt trong trường hợp cả hai anh em cùng sống chung với nhau, những người Sâđđucêô bỏ qua chi tiết này. Vả lại, chi tiết này không nhập gì đến lập luận mà họ muốn dựa vào để bác bỏ sự sống lại.
Theo họ, việc áp dụng luật này nhất thiết chứng minh rằng: không thể có sự sống lại. Họ đưa ra trường hợp một người chết không con, sáu anh em của người này tuần tự lấy chị dâu mình rồi cũng chẳng ai có con, người thứ bảy cũng thế. Cho quá đáng trong con số 7 có mục đích cho ta thấy việc sống lại là chuyện không thể tin được.
Đến lượt người đàn bà cũng thế. Nếu có việc sống lại bà sẽ ra sao? Ai trong 7 anh em sẽ là chồng bà Bởi vì không ai trong bảy người có con và tất cả đã chấp hành đúng luật Môisen, nên tất cả đều có quyền lợi đồng đều đối với bà. Quả vậy, tình cảnh thật đáng buồn cười khi người ta có một quan niệm vật chất về sự sống lại, có lẽ đó cũng là quan niệm của người biệt phái.
3-. Chúa Giêsu bắt đầu cách bác bỏ chính ý kiến sai lầm về sự sống lại. Thật thế, người Do thái tin rằng khi sống lại người ta sẽ tiếp tục cuộc sống ở trần gian này. Tuy nhiên, họ nghĩ rằng cuộc sống này xem ra có thể làm cho họ vui thích. Một tiến sĩ luật danh tiếng đã nói: “trong ngày đó (sau khi sống lại) người đàn bà sẽ sinh con trong mọi ngày”; càng nhiều con, niềm vui của kẻ có con càng lớn lao. Điều mà người Sâđđucêô minh chứng, nhắm đến chính kiểu tin tưởng này về sự sống lại. Thế nhưng Chúa Giêsu lại không tin vào sự sống lại theo kiểu này. kẻ sống lại từ cõi chết không dựng vợ gả chồng và không đính hôn. Đời sống của những người sống lại không phải là sự tiếp nối đơn thuần đời sống trên trần gian.
Người sống lại không thuộc về thế giới trần thế này nữa, nhưng thuộc về một thế giới mai hậu, một thế giới mới. Viễn ảnh lịch sử trong sấm ngữ Do thái nói đến hai thời kỳ, hai thế giới, hai thời đại của thế giới: thế giới này và thế giới khác. Tiếp theo sau thời kỳ hiện tại là thời kỳ của bất công, phiền não, chết chóc, bại hoại tội lỗi, sẽ đến thời kỳ mới vô cùng tận, mọi sự độc dữ sẽ bị tiêu diệt, sự bại hoại luân lý sẽ bị xua trừ, sự vô tín sẽ bị loại bỏ, nơi đó sự công chính sẽ được biểu dương và chân lý sẽ là điều duy nhất được mến chuộng. Tân ước lấy lại hình ảnh này. Con cái của thời này, của thế giới này , phải tùng phục tội lỗi và cái chết; nhưng những người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban ân sủng, thuộc về thời kỳ mới này sẽ lãnh nhận đời sống vĩnh cửu và được thông phần vào sự sống lại từ cõi chết (x.Mt 12,2; Lc 16,8; 20,34; “thời kỳ này”; Lc 20,35: “thời kỳ đó”; Mc 10,30; Lc 18,30: “thời sẽ đến”; Mt 12,32: “thời tương lai”).
Hôn nhân được sử dụng trong thế giới hiện tại, bây giờ. Nhưng sẽ không cần thiết trong thời kỳ sẽ đến, vì thời đó người ta không còn phải chết nữa. Đó là sự tiếp tục truyền sinh nhân loại được hiểu ngầm như là ý nghĩa của hôn nhân (Stk 1,28). Khi đạt tới bất tử, con người không còn cần hôn nhân nữa. Người Sađđucêo đã chứng minh sai. Hôn nhân chỉ có trong một thời.
Những người của kỷ nguyên sẽ đến được bất tử vì họ giống như thiên thần. Họ hiện hữu với cách thế thiên thần. Họ được sống như vậy vì là con cái Thiên Chúa. Kinh thánh thường ám chỉ các thiên thần dưới danh hiệu “con Thiên Chúa” (x. chẳng hạn Giop 1,6; 2,1). Họ thông phần vào vinh quang của Thiên Chúa, vào sức mạnh và ánh sáng của Ngài (Cvsđ 12,7). Những người sống lại được dự phần vào dòng dõi Thiên Chúa (1Gio 3,2; Rm 8,21), vinh quang (Rm 8,18), một “thân xác thần thiêng” (1Cor 15,44). “Cũng vậy, về sự kiện kẻ chết sống lại: gieo xuống trong ô nhục, người ta sống lại trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối, người ta sống lại trong quyền năng; gieo xuống là xác khí huyết, sống lại, sống lại là xác thần thiêng” (1Cor 15,44tt). Những người sống lại không còn phải chết nữa. Những người đạo hạnh của thế giới ngoại giáo, Hy lạp, đương thời ước ao được sống hạnh phúc trong một thứ tình trạng được thần linh hóa, một đời sống không còn bị cái chết đe dọa; họ hy vọng đạt được nhờ cử hành các bí nhiệm hoặc nhờ trực quan, “tri thức”. Nhưng họ không quan niệm được một cái gì thích thú trong sự sống lại thể lý, bởi vì thân xác được coi như là một gánh nặng, một nhà tù và như vậy là mồ chôn của linh hồn. Sự sống lại có giá trị nhiều hơn sự bất tử; người chết sẽ sống lại với tư cách là hữu thể không thể bị hủy diệt và “chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cor 15,52): không phải chỉ có linh hồn sẽ sống, chính con người toàn diện với cả xác lẫn hồn sẽ có đời sống vô cùng tận.
Người sống lại đã được xét là xứng đáng với thời kỳ sẽ đến. Sự sống lại là một tặng phẩm của Thiên Chúa, một tặng phẩm hoàn toàn nhưng không, cũng như nước trời (2Th 1,5). Thế nhưng không phải chỉ có những người Thiên Chúa tuyển chọn và xét xứng đáng mới sống lại mà là tất cả mọi người, tội lỗi cũng như người công chính. Lc nhận biết niềm hy vọng này, rằng sẽ có một sự sống lại của những người công chính và bất chính (Cvsđ 24,15). Nhưng đối với những người công chính, sự sống mới là vinh quang (14,14). Chúa Giêsu ở đây nghĩ đến chính sự sống lại của người công chính khi Ngài nói với họ được xem như là xứng đáng với thời kỳ sẽ đến.
Các câu 37-38 mang lại, nếu không phải là bằng chứng mới, ít nhất cũng một giai đoạn mới người lời minh chứng của Chúa Giêsu. Đó là câu Chúa Giêsu trích dẫn Kinh thánh dựa trên thế giới của Môisen, mà người Sađđucêô vừa viện dẫn. Trong bộ ngũ thư, trong đoạn nói về bụi cây đang cháy (Xac 3,1tt), Thiên Chúa tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacop. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống. Từ hai tiền đề đó, hình như phải kết luận về sự bất tử của linh hồn hơn là sự sống lại. Có một khó khăn về nghĩa từng chữ của sách Xac, trong đó Thiên Chúa tự xưng là Thiên Chúa mà tổ phụ dân Israel đã thờ lạy. Thật là thích đáng khi nghĩ Thiên Chúa đã cho đoạn này một nghĩa sâu xa hơn: Thiên Chúa vẫn còn là Thiên Chúa của những ai phụng sự Ngài và hằng tiếp tục sống cho Ngài. Vậy các tổ phụ vẫn còn sống. Để từ một sự bất tử của linh hồn đến sự sống lại mà Chúa Giêsu chắc chắn muốn dựa vào đoạn văn này để chứng minh. Phải nại đến lòng tin tưởng của người Do thái về đời sống ở thế giới bên kia. Người công chính đi vào Shéol, ở đó họ chưa được hạnh phúc đời sống họ vì thế chưa được hoàn toàn. Đời sống của họ, nhờ vâng theo thánh ý Thiên Chúa, đáng được thưởng công, linh hồn họ đáng được Thiên Chúa đưa ra khỏi Shéol để sống đời sống mới hoàn hảo hơn. Đời sống này sẽ được ban cho họ khi sống lại; và chỉ đời sống mới này mà họ sống lại từ cõi chết. Nếu đã chết đối với loài người, thì nay họ vẫn còn sống đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sáng tạo con người bất tử, chính vì sự đố kỵ của ma quỉ mà cái chết đi vào thế gian (Kn 2,23-24). Ý định của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chận do sự can thiệp của ma quỉ: con người sẽ tìm lại được quyền bất tử của mình, được diễn tả cách đẹp đẽ trong sự sống lại.
4-. Người Sâđđucêô ngượng ngùng vì lập luận của Chúa Giêsu. Ngài được các ký lục hiện diện ở đó hoan nghênh, dù họ là đối thủ của Ngài. Sự hoan nghênh đó vì hai lý do: họ thán phục cách Chúa Giêsu lập luận chống lại người Sađđucêô và minh chứng được niềm tin vào sự sống lại mà họ vẫn có; đàng khác sự thất bại mà họ vừa chịu (về vấn đề nộp thuế cho vua César) cho họ một bằng chứng mới về nguy hiểm họ gặp khi muốn bắt bẻ Chúa Giêsu; trong trường hợp đặc biệt này, họ muốn hoan nghênh Ngài hơn là liên minh vào một cuộc tranh luận mới sẽ làm họ bẽ mặt như những cuộc tranh luận trước.
KẾT LUẬN
Qua lời tuyên bố long trọng của Chúa Giêsu về sự sống lại, qua tất cả các đoạn phúc âm nói về vương quốc Thiên Chúa, một lần nữa tỏ ra cho ta thấy một thứ phúc âm của sự sống. Tuy nhiên, ai xác tín về sự bất tử dành cho những vị thánh sẽ được sống lại trong Chúa (Gio 11,25-26) cũng cảm thấy mình đang sở hữu trong chính mình cái bí mật của đời sống vĩnh cửu đó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1-. Người Sâđđucêô đến chất vấn Chúa Giêsu về việc người chết sống lại. Ít khi chúng ta gặp phải những người Sađđucêô này, chúng ta thường thấy các cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái hơn. Thật ra nhóm Sađđucêô, một chi tộc Do thái khác, ít hơn nhóm Biệt phái, họ kết thành giai cấp tư tế của đền thờ Giêrusalem và là một phe phái chính trị hơn là tôn giáo. Tuy nhiên họ đối lập với các người biệt phái, bởi lẽ với khuynh hướng rất bảo thủ về Israel, họ giới hạn mạc khải vào 5 cuốn sách đầu tiên trong toàn bộ Kinh thánh và phủ nhận sự sống lại của thân xác. Vậy họ đến hỏi Chúa Giêsu một vấn nạn liên quan đến mạc khải về sự sống lại để làm cho Ngài lúng túng.
2-. Chính vì thế, họ phịa ra một câu chuyện khá kỳ lạ. Đi từ một lời khuyên luân lý hoàn toàn xác đáng của luật, đòi buộc bà góa không con phải được em chồng lấy làm vợ. Họ tưởng tượng ra một trường hợp một người đàn bà đã lần lượt lấy 7 anh em và sau đó thắc mắc làm sao sự sống lại có thể có được, vì người đàn bà này không có thể là vợ của 7 anh em trong một lượt, khi cả bảy anh em sẽ được sống trong cuộc sống sau khi chết này. Từ đó, họ kết luận sự sống lại sau khi chết là phi lý, vì như vậy, sự sống lại gây nên những tình cảm vô nghĩa.
3-. Vấn nạn, hay đúng hơn thể thức của vấn nạn xem ra đáng buồn cười; thật ra không đáng buồn cười lắm đâu, nó khiến chúng ta nghĩ đến vấn nạn mà hiện nay người ta có thể đặt ra. Bàn về cuộc sống sau khi chết, nhiều người hoặc sẽ phủ nhận hoặc sẽ chế giễu theo quan niệm của họ.
Đối với một số người, cuộc sống sau khi chết là chính cuộc sống hiện tại một khi được hoàn toàn thành công; và tùy theo hoàn cảnh và tính tình, cuộc sống đó đối với mỗi người sẽ là việc nối tiếp tình yêu hôn nhân sâu sắc, tiếp tục được một gia đình hạnh phúc, được hoan lạc bình an trong công bình và chính trực; đối với người khác, cuộc sống sau khi chết là một thế giới nhiệm mầu, đầy quyến rũ nhưng mù mờ, tương ứng với các hoài vọng về một thiên đàng trần thế.
Đối với một số người khác, thiên đàng trần thế không phải là cái gì xa vời nhưng đạt được ngay từ bây giờ, đó là chủ trương của người Mac-xít và tất cả những ai ngây thơ tin vào sự tiến bộ vô hạn định của nhân loại. Sự sống lại từ cõi chết có hay không và sẽ xảy đến thế nào? Có nên tin điều đó không và làm cách nào để xác tín? Đó là những vấn nạn chúng ta đang đặt ra cho Ngài.
4-. Ngay lúc đó, Chúa Giêsu lấy lại một ví dụ của các người đối thoại với Ngài; họ nói về sự hôn nhân và sự vĩnh tồn của hôn nhân sau khi chết. Chúa Giêsu nói chỉ có người đời này mới dựng vợ gả chồng; đó là chuyện hợp tình hợp lý trên trái đất, nhưng không thích hợp với những người sống ở thế giới bên kia. Trong thế giới khác, khi sống lại từ cõi chết, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa.
Khi bàn về sự sống lại và đời sau, những người này đã dựa trên kinh nghiệm trần thế của họ. Đó là một sai lầm. Hai thế giới khác biệt nhau, không thể có chuyện so sánh. Để giải thích, Chúa Giêsu nói: “Họ giống như thiên thần”. Điều này không có nghĩa họ không còn là người, nhưng là người đã thoát khỏi điều kịn trần thế; và sự hiện hữu mới của họ cũng khác với sự hiện hữu lúc còn tại thế.
Sau đó Ngài minh xác hai trong số đặc điểm rõ ràng nhất của đời sống sau khi chết. Trước hết Ngài nói: “Họ không còn phải chết nữa”, họ thoát khỏi những định luật của sinh vật học, thoát khỏi luật phát triển được quan niệm bằng những hạn từ: biến đổi, đào thải, mỏng dòn và lão yếu. Và “họ là con cái của Thiên Chúa”; một cuộc sống mới đến thay thế cuộc sống cũ, một cuộc khai sinh mới đã được thực hiện.
5-. Câu trả lời của Chúa Giêsu thật quan trọng, vì giải đáp những vấn nạn của người Sađđucêô và của chúng ta. Không thể dựa trên cuộc sống trần thế nàỵ để bàn về cuộc sống đời sau. Phải dựa trên chỗ khác. Nếu đi từ kinh nghiệm bản thân, anh chị em sẽ quan niệm sai lầm, đó là câu trả lời thứ nhất của Chúa Giêsu.
6-. Trả lời như thế xem ra tiêu cực, nên Ngài tiếp tục (trả lời) để chứng minh cho người Sađđucêô, việc kẻ chết sống lại, Ngài nại đến Môisen và dùng luận chứng xác tín nhất của họ, vì đối với họ ngoài Môisen không còn vị đại diện tiên tri nào nữa. Chúa Giêsu nói với họ: “Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacop, không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống; quả vậy mọi người đều sống với Ngài”. Chúa Giêsu khuyên đừng quan niệm về một Thiên Chúa chỉ có thể yêu thương cách bất toàn, tạm thời. Quan niệm như thế là lộng ngôn phạm thượng. Nếu yêu thương ai, Ngài yêu thương mãi mãi, không thể để họ chết mà không cho sống lại. Quả thật, Chúa Giêsu không chứng minh gì cả. Dựa vào kinh thánh, Ngài khẳng định rằng chối bỏ sự sống lại sẽ làm mất đi tầm vóc, mật độ và lòng kính yêu trong niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Nếu tin vào Thiên Chúa của kẻ sống, anh chị em phải tín nhiệm và tin cậy vào Ngài về một đời sau không thể không hiện hữu. Chối bỏ sự sống lại, chính là xếp Thiên Chúa hằng sống và chân thật ngang hàng với các ngẫu tượng câm nín và vô dụng.
7-. Câu trả lời của Chúa Giêsu là lời mời gọi tín thác vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng luôn yêu thương chúng ta và hết lòng ước ao một ngày nào đó chúng ta sẽ được sống với Ngài mãi mãi. Ngay bây giờ, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi này bằng một đời sống đầy tin tưởng và hy vọng vào đấng sẽ phục sinh chúng ta.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 32 TN_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm C thắp sáng một trong những vấn đề căn bản nhất của đức tin chúng ta: “Kẻ chết sống lại”.
2Mcb 7: 1-2, 9-14
Sách Ma-ca-bê quyển hai thuật lại cuộc tử đạo anh dũng của bà mẹ và bảy người con. Họ chấp nhận hy sinh sự sống đời này, vì họ tin chắc rằng Chúa sẽ cho họ được sống lại muôn đời.
2Tx 2: 16-3: 5
Thánh Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca để họ gặp thấy ở nơi Chúa Giê-su niềm an ủi bất diệt và niềm tin vững mạnh trong những thử thách.
Lc 20: 27-38
Tin Mừng của thánh Lu-ca thuật lại cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với nhóm Xa-đốc về vấn đề kẻ chết sống lại.
BÀI ĐỌC I (2Mcb 7: 1-2, 9-14)
Sách Ma-ca-bê quyển hai được viết bằng Hy-ngữ quãng năm 124 tCn. Sách này không kể những biến cố lịch sử tiếp theo sau sách Ma-ca-bê quyển một, nhưng đúng hơn trong lời tựa của mình, tác giả cho biết ông chỉ “thu gom lại” thành một cuốn duy nhất từ một tập sách gồm năm cuốn sách do công trình biên soạn của ông Gia-xon người Ky-rê-nê nào đó (x. 2: 23). Nhân vật này chúng ta không biết chút gì về ông ngoài việc ông là một kiều Do thái mộ đạo chịu ảnh hưởng Hy-lạp và có thể ông viết ở A-lê-xan-ri-a Ai-cập.
Sách Ma-ca-bê quyển hai đưa ra những cái nhìn rất sâu sắc về lòng tin của dân Ít-ra-en vào thời kỳ vua Hy-lạp là An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê chủ trương hy lạp hóa toàn thể đế quốc của ông bằng cách tiêu diệt niềm tin của dân Do thái. Đoạn trích hôm nay thuật lại một phần cuộc tử đạo anh dũng của người mẹ và bảy người con. Cuộc bách hại khủng khiếp này nêu bật niềm tin vào cuộc phục sinh thân xác của người công chính và cuộc tạo dựng từ hư không.
- Cuộc phục sinh thân xác của người công chính
Sách Đa-ni-en đã khai mở rồi: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ chỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời” (Đn 12: 2). Sách Ma-ca-bê quyển hai tái khẳng định cách mạnh mẽ cuộc sống sau khi chết liên quan đến những người bị bách hại và “phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong cuộc đời đạo hạnh” (2Mcb 12: 45). Câu chuyện về cuộc tử đạo của bảy anh em và bà mẹ của họ tỏa ánh hào quang rực rỡ của niềm hy vọng này (2Mcb 7: 9, 11, 14, 23, 29, 36). Đối với những kẻ bách hại và quân vô đạo, họ “sẽ không thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa toàn năng, là Đấng thấu suốt mọi sự” (2Mcb 7: 35).
- Cuộc tạo dựng từ hư không (ex nihilo)
Lời của bà mẹ khuyên đứa con út của mình trong cảnh bị tra tấn vì đạo: “Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy” (2Mcb 7: 28). Đây là lời khẳng định mạnh mẽ nhất và dứt khoát nhất về cuộc tạo dựng từ hư không.
BÀI ĐỌC II (2Tx 2: 16-3: 5)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Trong đoạn trích hôm nay, thánh Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca để họ được gặp thấy ở nơi Chúa Giê-su niềm an ủi bất diệt và niềm tin vững mạnh trong mọi thử thách.
- Niềm an ủi bất diệt (2: 16-17)
Thánh Phao-lô đã cố làm yên lòng các tín hữu Thê-xa-lô-nica bằng giáo huấn rõ ràng của mình. Tuy nhiên, thánh nhân nhận ra rằng giáo huấn vẫn chưa đủ. Thánh nhân cầu nguyện để họ gặp thấy niềm an ủi ở nơi Chúa Giê-su Ki-tô mà họ đã tín thác cuộc đời của họ vào Ngài, và ở nơi Thiên Chúa là Cha của họ. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho họ niềm an ủi “bất diệt”, nghĩa là niềm an ủi không thuộc vào thế giới này nhưng vào vương quốc Thiên Chúa, vì thế, niềm an ủi này được chính Thiên Chúa bảo đảm.
- Niềm tin vững mạnh trong mọi thử thách (3: 1-5)
Ở đây chúng ta thoáng thấy tấm lòng của một nhà truyền giáo không biết mệt mõi, mong ước phổ biến Tin Mừng để mọi người thấy được tình yêu của Thiên Chúa tuyệt diệu đến mức độ nào. Buồn thay, không phải mọi người đều tin, nhưng Thiên Chúa vẫn trung tín. Thánh Phao-lô tin tưởng rằng Ngài sẽ làm cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca thêm vững mạnh trong những thử thách mà họ đang phải gánh chịu.
Khi “truyền lệnh” cho họ (3: 4), thánh Phao-lô nhấn mạnh giáo huấn của thánh nhân xuất phát từ Chúa Ki-tô Phục Sinh, Đấng đã ủy quyền cho thánh nhân giảng dạy cho họ (x. 1Tx 2: 13; 4: 2, 11; cũng 2Tx 3: 6, 10, 12).
Kiểu nói: “biết yêu mến Thiên Chúa” (3: 5) bao gồm cả tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, lẫn tình yêu họ dành cho Thiên Chúa, tương tự với kiểu nói: “biết chịu đựng như Đức Ki-tô”. Thánh nhân đang quy chiếu đến cả sự chịu đựng của Đức Giê-su giữa những đau khổ và thử thách, lẫn đến sự dự phần vào đức hạnh mà Đức Giê-su đã ban cho các môn đệ Ngài.
TIN MỪNG (Lc 20: 27-38)
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với nhóm Xa-đốc về kẻ chết sống lại (20: 27-38). Cuộc tranh luận này được đặt vào trong bối cảnh Chúa Giê-su thi hành sứ vụ sau cùng của Ngài tại Giê-ru-sa-lem theo đó những nhóm có thế lực trong dân Ít-ra-en, lần lượt đến gặp Đức Giê-su và luân phiên đặt ra cho Người những câu hỏi thâm hiểm để mong hãm hại Người (19: 47-21: 38).
- Vấn nạn của nhóm Xa-đốc (20: 27-33)
Đối thủ của Đức Giê-su lần này là nhóm Xa-đốc. Nhóm Xa-đốc tuy không đông bằng nhóm Pha-ri-sêu nhưng rất giàu có và có thế lực. Về phương diện trần thế, họ là giai cấp thống trị cộng tác chặt chẽ với chính quyền Rô-ma chiếm đóng, vì muốn bảo vệ của cải và duy trì địa vị của mình
Về phương diện tôn giáo, nhóm Xa-đốc chỉ chấp nhận thẩm quyền của bộ Ngũ Thư mà thôi. Dựa trên lối giải thích Ngũ Thư của họ, họ không tin kẻ chết sống lại. Nhóm Xa-đốc này cũng như bao người Do thái chính thống đều tin chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, nhưng việc Thiên Chúa có cho con người được sống lại hay không thì thuộc về thẩm quyền của Ngài. Vì thế, nhóm này không tin vào sự sống lại mai sau, bởi vì không có bằng chứng nào về một niềm tin như thế được tìm thấy trong bộ Ngũ Thư. Hơn nữa, không có kinh sư nào, những ngươi thông luật, giải đáp cho vấn nạn mà họ nêu lên.
Căn cứ theo luật Lê-vi (x. Đnl 25: 5tt.), nếu một người qua đời mà không có người nối dõi tông đường, thì người em phải cưới chị dâu ấy để cho anh mình có người con nối dõi tông đường. Dựa trên luật này, họ hư cấu một câu chuyện bảy anh em lần lượt lấy một người vợ để có người con nối dõi tông đường, nhưng đều chết mà không có con; vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là chồng của người phụ nữ này. Như vậy, niềm tin vào sự sống lại thật là lố bịch.
- Câu trả lời của Chúa Giê-su (20: 34-38)
Chúa Giê-su quả quyết có sự sống lại, đồng thời cũng giải thích những đặc tính của sự sống lại: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng”. Như thế, theo Chúa Giê-su, lập luận của nhóm Xa-đốc về sự sống lại như vậy thì thật là quá duy vật. Theo lập luận này, cuộc sống lại chỉ là tiếp tục cuộc sống trần thế, dù được nâng cao lên đến mức độ nào. Nếu hiểu cuộc sống lại như vậy là giới hạn quyền năng của Thiên Chúa và coi thường tình yêu của Ngài: “Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”.
Để bác bỏ lập luận của nhóm Xa-đốc dựa trên bộ Ngũ Thư để phủ nhận niềm tin vào sự sống lại, Chúa Giê-su viện dẫn sách Xuất Hành (Xh 3: 2, 6), một trong năm quyển sách được gọi là Ngũ Thư, để cho thấy cách hiểu của nhóm Xa-đốc thật sự sai lầm trầm trọng. Dựa trên Xh 3: 2, 6 trong đó Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp”, Chúa Giê-su kết luận: “Thiên Chúa không là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”, có nghĩa rằng Thiên Chúa vẫn thường hằng có mối liên hệ với ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, dù các vị tổ phụ này đã chết từ lâu rồi. Vì thế, dù những người công chính này đã chết trên bình diện thể lý, họ vẫn đang sống, thật sự sống trong Thiên Chúa và mong chờ sự sống lại.
3. Barclay đã đưa ra một lời nhận xét rất xác đáng như sau: “Có thể chúng ta cảm thấy đoạn Kinh Thánh này thật khô khan. Nó đề cập đến những vấn đề có vẻ sôi bỏng trong thời Chúa Giê-su với những lý luận mà một kinh sư cho là rất mạnh, nhưng người thời nay lại không thấy thế. Nhưng từ chỗ khô khan đó, ta rút được một chân lý lớn lao cho những ai giảng dạy hoặc muốn làm chứng về Ki-tô giáo. Chúa Giê-su đã dùng những lý luận mà dân chúng đang nghe Người có thể hiểu được, Người nói với dân chúng theo ngôn ngữ riêng của họ, Người gặp gỡ họ trên chính mảnh đất của họ và chính đó là lý do tại sao giới bình dân đã nghe Người cách thích thú. Đôi lần, chúng ta đọc những sách đạo hoặc về thần học, ta thừa nhận rằng những gì được viết quả là đúng, nhưng không thể đem trình bày cho những đầu óc mới hiểu biết ít, và họ lại là đa số trên thế giới cũng như trong Hội Thánh. Chúa Giê-su đã dùng ngôn ngữ và lý luận mà dân chúng có thể và đã hiểu được, Người gặp gỡ họ trong ngữ vựng của họ. Chúng ta sẽ giảng đạo, làm chứng cho họ Chúa tốt hơn nhiều, khi học tập đường lối phổ biến Tin Mừng của chính Chúa Giê-su” (“Tin Mừng theo Thánh Lu-ca”, 238-239).
.
Ai trong chúng ta cũng đã trải qua kinh nghiệm đau đớn khi mất người thân. Sự chia lìa kẻ ở người đi là một nỗi mất mát không gì bù đắp nổi. Tình cảm vợ chồng, ơn nghĩa cha con, tình bạn bè lối xóm… tất cả đều bị cái chết làm cho gián đoạn. Nếu chủ trương “chết là hết”, thì cuộc sống trở nên vô nghĩa. Con người thật bất hạnh, vì người tốt kẻ xấu đều như nhau khi đều kết thúc cuộc đời bằng nấm mồ.
Kinh Thánh nói với chúng ta, sự chết không phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa. Nấm mộ không phải là đích điểm của cuộc sống con người. Con người được tạo dựng để sống hạnh phúc mãi mãi với Chúa là Đấng tạo thành và cứu độ, chứ không phải để hòa tan vào hư vô như nhiều người lầm tưởng. Đích điểm của đời sống chúng ta là Quê trời. Chúa Giêsu tiếp nối giáo huấn truyền thống của Cựu Ước để mời gọi con người hãy mở lòng đón nhận Nước Trời. Người hứa phần thưởng Nước Trời cho những ai sống công chính, tức là mến Chúa và yêu người. Đối với những ai mến Chúa thì không sợ sự chết, vì thực ra, sự chết chỉ là một cuộc chuyển tiếp để đi từ cuộc sống đầy khổ đau tới hạnh phúc, từ cuộc sống tạm thời đến vĩnh cửu. Người mẹ can đảm được kể lại trong Sách Macabê (Bài I) đã tin vững vàng vào những giá trị đời sau. Bà là niềm tự hào của dân tộc Do Thái, đồng thời là mẫu gương về lòng trung thành với Lề Luật. Bà chứng kiến bảy người con chịu hành hình. Những người con này thà chết còn hơn phạm Luật Chúa. Vào giờ phút thử thách đau thương ấy, bà đã mạnh mẽ khuyên các con hãy kiên trì chấp nhận những cực hình, vì bà tin rằng, sau cái chết là phần thưởng vinh quang Chúa dành cho người trung thành. “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại”, lời tuyên bố mạnh mẽ của một trong bảy anh em đã nói lên đức tin kiên cường và niềm hy vọng chắc chắn vào sự sống sau cái chết.
Trước cái bẫy của người Xađốc, Chúa Giêsu đã khẳng định: người công chính sau khi chết sẽ được hưởng vinh quang Thiên Chúa. Họ không còn lấy vợ lấy chồng nữa, nhưng họ sẽ giống như các thiên thần. Thực vậy, nếu trên thiên đàng mà người ta còn lấy vợ lấy chồng, thì có nghĩa là người ta sẽ còn già, còn chết, còn ly dị và còn đau khổ. Thiên đàng là nơi con người không phải chết nữa. Họ cũng không còn đau khổ, vì nơi đó không có mâu thuẫn, chỉ có tình yêu ngự trị. Chúa Giêsu trích dẫn sự kiện Ông Môisen được thấy Thiên Chúa qua bụi gai cháy bừng. Khi tỏ mình cho Ông Môisen, Thiên Chúa tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp. Khi xưng danh như thế, Thiên Chúa chứng tỏ Ngài là Chúa của lịch sử, trong dòng lịch sử ấy, có những con người được tạo dựng để tồn tại mãi mãi.
Trong tháng mười một dương lịch này, theo truyền thống của Giáo Hội, chúng ta thường đi viếng mộ người thân. Những nấm mộ không phải đống đất vô tri vô giác. Mỗi ngôi mộ đang bao bọc một cuộc đời, một con người đã từng thành công, thất bại, đau khổ hạnh phúc. Ngôi mộ chính là một “phòng chờ” của những người đã chết trước khi sống lại vinh quang vào ngày tận thế để hưởng thánh nhan Chúa. Khi thinh lặng suy tư bên nấm mộ của người thân, chắc chắn chúng ta sẽ được nghe Chúa nói với chúng ta về ý nghĩa cuộc đời. Chúng ta cũng có thể nghe thấy người thân dưới nấm mộ chia sẻ với chúng ta về kinh nghiệm sống trên cõi đời đầy thử thách này.
“Anh em hãy cầu nguyện cho chúng tôi được thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không phải ai cũng có đức tin..” (Bài đọc II). Hạnh phúc Nước Trời là kết quả của những phấn đấu không ngừng để sống theo Lời Chúa dạy. Chỉ những ai sống tình yêu mến đối với Chúa và đối với tha nhân mới có thể được hưởng sự sống đời đời. Những chức tước, danh dự, của cải và vinh hoa trần thế chỉ là nhất thời, sẽ biến tan khi sự chết đến gặp chúng ta. Chỉ có tình yêu mới tồn tại vĩnh cửu và sẽ giúp chúng ta lãnh phần thưởng đời đời. Mến Chúa yêu người, đó là điều Chúa mong đợi nơi mỗi người chúng ta.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong chương trình “Những điều bạn có thể chưa biết” của đài VTV3 có tường thuật một trường hợp lạ lùng: Một phụ nữ bị nhồi máu cơ tim. Chị tắt thở. Chị đã chết. Nhưng nhiều giờ sau, chị tỉnh lại. Các bác sĩ hỏi chị đã thấy gì trong thời gian ấy. Chị trả lời: chị thấy mình như bay bổng lên cao, và từ trên cao chị nhìn xuống thấy các bác sĩ, các y tá đang chăm sóc cho mình, nhìn thấy thân xác mình nằm bất động, nhìn thấy thuốc men, dụng cụ y tế. Chị cũng nhìn thấy một chiếc giày tennis cũ màu xanh da trời, đế giày bị mòn ở mép trong bàn chân, giây giày màu trắng, đầu một sợi dây thòng xuống dưới đáy giày. Nghe lời tả rất chi tiết của chị, vị bác sĩ chuyên điều tra băn khoăn để ý tìm kiếm. Một hôm vị bác sĩ đi qua tòa nhà đối diện nhìn sang bệnh viện, bà giật mình kinh hãi vì thấy ở tầng ba của tòa nhà, trên một gờ xi măng rất cheo leo, có một chiếc giày tennis cũ ai đã đặt ở đó tự hồi nào. Vị bác sĩ quan sát kỹ lưỡng và thấy chiếc giày giống từng chi tiết với chiếc giày mà người chết kể lại: chiếc giày vải cũ màu xanh, đế giày mòn ở mép trong, dây giày màu trắng, đầu một dây thòng xuống nằm ở dưới đáy giày.
Đó là một trong 1370 trường hợp trở về từ cõi chết mà các bác sĩ Đức và Mỹ đã điều tra. Theo những người có kinh nghiệm về cái chết này thuật lại thì: Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này. Và sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm tiền bạc, danh vọng, lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. Tất nhiên đây chưa phải là bằng chứng chắc chắn về việc người chết sống lại. Nhưng nó rất gần với mặc khải của Lời Chúa hôm nay. Và kinh nghiệm hiếm có của họ rất có thể hữu ích cho ta. Kinh nghiệm của họ nói với ta hai điều:
1) Có cuộc sống khác ở bên kia cái chết. Kinh nghiệm của họ phù hợp với niềm tin dân gian, nhất là của người Việt Nam vẫn tin rằng: thác là phế thách, còn là tinh anh. Vì tin có sự sống ở bên kia cái chết mà chúng ta mới thờ kính tổ tiên, cúng quảy, giỗ chạp.
Niềm tin ấy phù hợp với giáo lý của Chúa. Khi Môsê thấy Chúa hiện ra trong bụi gai cháy đỏ. Ông hỏi Chúa là ai. Chúa trả lời: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Isaác, Giacóp”. Vào thời của Môsê, Abraham đã qua đời được 5, 6 trăm năm. Vậy mà Chúa vẫn tự giới thiệu là Thiên Chúa Abraham, tức là Abraham vẫn sống, đang sống bên Chúa. Vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không phải Thiên Chúa của kẻ chết.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc đến cuộc sống sau cái chết như dụ ngôn người giàu có và Lagiarô, trong dụ ngôn về ngày phán xét, dụ ngôn lúa đồng và cỏ dại.
Theo thánh Phaolô, cuộc sống đời sau mới là đích điểm mà mọi tạo vật nhắm tới. Trong thư Rôma, Ngài viết: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt phải chịu vậy. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến nay, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,19-23)
Chúng ta rên siết vì cuộc sống hiện tại đầy khổ ải. Chúng ta mong chờ cuộc sống đích thực ở mai sau. Đời sống này là thời kỳ thai nghén. Ta phải chịu đau đớn để sinh vào đời sau.
2) Cuộc sống ở bên kia rất khác với cuộc sống hiện tại. Khi Chúa Giêsu trả lời người Sadducêô, Chúa Giêsu đã mặc khải ba chân lý.
Chân lý thứ nhất: Chỉ những ai được tuyển chọn mới được vào Nước Chúa. Sự sống đời sau có đó. Nhưng không phải ai cũng vào được. Chỉ có những người được xét là xứng đáng mới được vào. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa đã nói tới việc tuyển chọn này. Chúa sẽ loại chiên ra khỏi dê, lúa tốt ra khỏi cỏ dại, cá tốt ra khỏi cá xấu. Tiêu chuẩn để chọn lựa là Tám mối phúc, nhất là giới răn bác ái yêu thương.
Chân lý thứ hai: Người ta sẽ giống như thiên thần. Đời sống trên trời sẽ không có gì giống với đời sống dưới đất. Sẽ không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống. Sẽ chẳng có lấy vợ lấy chồng, sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa. Nếu vậy, trên trời ta có còn là ta nữa không hay ta trở thành một người khác, một kiếp khác? Thưa, tuy có khác nhưng ta vẫn là ta. Đứa bé bụ bẫm hôm nay chẳng có gì giống với cái bào thai ngọ nguậy trong bụng mẹ hôm qua. Nhưng cả hai chỉ là một. Bà cụ 90 tuổi hôm nay chẳng còn gì giống với cô thiếu nữ mà bà đã là cách nay 70 năm. Nhưng cả hai vẫn là một. Chú bướm xinh đẹp nhởn nhơ bay lượn trên khóm hoa hôm nay chẳng có gì giống với gã sâu xấu xí lê la trên đất hôm qua. Nhưng cả hai vẫn chỉ là một.
Trên trời, ta sống một cuộc sống khác, không ăn uống, không lấy vợ lấy chồng. Nhưng ta vẫn là ta. Có khác biệt nhưng vẫn có liên tục.
Chân lý thứ ba: Ta sẽ trở thành con Thiên Chúa. Sống lại rồi, ta như đứa con bấy lâu phiêu bạt xa quê nay được trở lại nhà cha mẹ. Tâm hồn luôn bị dằn vặt vì niềm khao khát vô biên, nay mới được no thỏa: Thiên Chúa chính là hạnh phúc lấp đầy được vực thẳm khao khát vô biên của ta. Thánh Augustinô đã nói: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Là con Thiên Chúa, hạnh phúc lớn nhất của ta là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là cội nguồn hạnh phúc, nên thánh Phaolô đã nói: “Những đau khổ ta chịu bây giờ không thấm gì so với hạnh phúc sau này ta sẽ được. Và mọi tạo vật mong tới ngày được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, để được cùng con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,22). Vì hạnh phúc ấy mà tám mẹ con trong bài đọc thứ nhất đã cam chịu mọi khổ hình.
Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta bao niềm hy vọng. Chúa cho ta biết, đời ta sẽ không đi trong bất định, lạc vào hư vô, nhưng đời ta có một cùng đích, đó là trở về với Thiên Chúa là cội nguồn của ta. Đời ta sẽ không chìm đắm trong đau khổ, nhưng sẽ vươn lên hạnh phúc, hạnh phúc làm con Thiên Chúa, hạnh phúc chia sẻ sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đời ta như vậy sẽ không đi vào mạt kiếp lụi tàn, nhưng sẽ triển nở trong vinh quang tự do. Đúng như lời thánh Phaolô nói: “Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,43-44)
Lạy Chúa, xin cho con biết sống ở đời này theo đúng Lời Chúa dạy, để mai sau con xứng đáng được trở nên con của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Cái chết là một thành phần của đời sống. Bạn chuẩn bị và đón nhận cái chết thế nào?
2) Con người sinh ra không phải để chết nhưng để sống. Bạn hiểu câu này thế nào?
3) Đời sau ta sẽ sống với Chúa. Ngay từ bây giờ bạn phải làm gì để chuẩn bị cho cuộc sống với Chúa?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Trong ngôn ngữ Việt Nam khi nói về sự chết luôn hàm ý là một sự chuyển tiếp chứ không kết thúc. Sự chết luôn là một khởi hành cho một chuyến đi mới ở một thế giới khác với chốn dương gian. Có lẽ chúng ta đã từng nghe và cũng từng nói những từ ngữ như: Từ trần, Qua đời, Băng hà, Đi rồi,… khi nói về một người chết. Những từ này theo từ điển Việt Nam được giải thích như sau:
+ Từ trần nghĩa là từ giã cõi này để đi đâu đó. Vậy là chết rồi vẫn còn đi tiếp.
+ Qua đời nghĩa là qua đời này đến một đời khác. Vậy là còn một đời nữa.
+ Băng hà nghĩa là đi qua một dòng sông, hàm ý qua sông để đến một chỗ mới.
Nhiều người còn lý luận rằng phải có sự sống sau khi chết mới có thể trả lại công bằng cho sự sống trần gian. Nếu không thì cuộc đời này là một phi lý khi người sống thiện lại bị thiệt thòi còn kẻ gian ác lại sống sung sướng hưởng lạc. Thế nên, sự sống đời sau sẽ là phần thưởng cho những ai sống tốt lành và ngược lại là hình phạt cho ai ăn ở ác nhân ác đức.
Đây cũng là lẽ công bằng vì nếu chết là hết thì người ta đâu cần sống tốt như bài thơ của ai đó đã viết:
Nếu chết là hết thì
Sống tốt để làm gì
Học hành có nghĩa chi
Phấn đấu làm việc cũng vậy thôi
Giàu có sung sướng rồi gì nữa
Văn minh lịch sự để làm gì
Danh tiếng này kia có ích chi
Lời Chúa còn dạy rằng: “Con người đã được định là phải chết một lần rồi sau đó chịu phán xét.” Chết một lần rồi sau đó chịu phán xét, đó là quy luật của Thiên Chúa đã định cho loài người. Chết một lần rồi chịu phán xét nghĩa là chết rồi không phải là hết mà còn có đời sau. Theo Kinh Thánh thì con người là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, nhưng đó chỉ là phần thân xác. Con người chúng ta không những chỉ có thân xác mà còn có linh hồn. Linh hồn thì giống hình ảnh Thiên Chúa nên sẽ bất tử, vĩnh hằng, dầu cho cái chết thể xác có trở về với bụi tro thì linh hồn vẫn sống trường sinh bất tử.
Lời Chúa hôm nay khẳng định có sự sống đời sau. Sự sống đó không còn lệ thuộc bởi việc dựng vợ gả chồng vì con người đã tham dự vào sự sống bất diệt của Đấng hằng sống. Sự sống đó cũng không còn lệ thuộc bởi vật chất, hay bởi danh lợi thú vì con người không còn cảm thấy thiếu thốn mà đã đạt đến sự sung mãn trong sự sống thần linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống và con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa, nên con người cũng được thừa hưởng sự sống thần linh của Chúa. Đây chính là niềm vui, là sự khích lệ cho cuộc đời chúng ta. Đau khổ cuộc đời này sẽ qua. Những khốn khó trần gian sẽ qua đi. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ. Sự sống thần linh mới là vĩnh cửu. Cuộc sống đó không còn những tranh chấp của danh lợi thú, không còn những khổ đau của thiếu thốn, không còn nước mắt của dòng đời bể khổ mà chỉ còn hạnh phúc viên mãn bên Chúa mà thôi.
Nguyện xin Chúa là Đấng hằng sống luôn nâng đỡ phù trì chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen
.
CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa” hay “vì Chúa.” (Lc 20, 37-38)
Augustine nói rất đúng : Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để từng phút giây “hướng về Ngài“. Quả thật, Thiên Chúa trao ban sự Thiện tốt hảo, kể cả chính mình cho con người để con người được sống.
Cái chết không là một phần kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa : “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kn 1 , 13-14). Do tội, sự chết đã du nhập vào trong tạo dựng, Thánh Phaolô nói : “Nọc của sự chết là Tội, mãnh lực của Tội là Lề luật” (1Cr 15, 56), đúng là tội lỗi sinh ra sự chết vì sự chết cắt đứt mối liên hệ với Đấng Hằng Sống làm ra sự sống. Nhưng “Ðội ơn Thiên Chúa, Ðấng đã ban toàn thắng cho ta nhờ Chúa chúng ta, Ðức Yêsu Kitô!” (1 Cr 15 , 57) .
Vâng, vinh quang cho Đức Giêsu Chúa chúng ta, Đấng đã chiến thắng kẻ thù trên trần gian ! Lời Hằng Sống đã kết thân với phận người, được đánh dấu bằng cái chết, để chiến thắng sự chết vào buổi sáng Phục Sinh. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa đã xuống đầy lòng chúng ta, những người chịu phép Rửa tội, ngõ hầu chiến thắng của Chúa Kitô Phục sinh hiện diện trong đời ta.
Đức Kitô đã phục sinh, sự chết không làm gì được Ngài nữa. Nên “nếu ta sống, chính cho Chúa mà ta sống; và nếu ta chết, thì chính cho Chúa mà ta chết. Vậy dù sống, dù chết, ta vẫn thuộc về Chúa,” (Rm 14 , 8 ). Làm sao không ngạc nhiên cùng với Thánh Phaolô kêu lên : “Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu ?” ( 1Cr 15, 55 ) Đó là lý do tại sao “những người được coi là xứng đáng lãnh phần thưởng trong thế giới mai ngày và sự sống lại từ cõi chết, nghĩa là những người đã được rửa tội, không thể chết nữa : họ là con cái Thiên Chúa, thừa hưởng sự sống lại.“
Tất nhiên, chúng ta không thể tưởng tượng được sự viên mãn ở đời sau sẽ ra sao, các thiên thần gợi ý cho thấy một cuộc sống hoàn toàn dành cho việc ngợi khen Chúa, trong sự hiệp thông hoàn hảo và tạ ơn muôn đời. Vì sự chết sẽ không làm gì được nữa, không cần thiết để đảm bảo sự sống còn của muôn loài: hôn nhân như một tổ chức để duy trì cuộc sống không có lý do để tồn tại nữa. Chúng ta sống trong một mối quan hệ tình yêu hoàn hảo với Thiên Chúa và với nhau, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần.
Như thế chúng ta sẽ hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu cho phái Sađốc : “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại“. (Lc 20, 34-36)
Câu trả lời của Chúa Giêsu trước vấn nạn kẻ chết sống lại của nhóm Sađốc cho thấy: Cái nhìn của họ về cuộc sống đời sau còn quá hẹp hòi. Họ không hiểu ý nghĩa của sự phục sinh hàm chứa trong câu Thánh Kinh: Thiên Chúa là Chúa các tổ phụ. Người là Thiên Chúa của kẻ sống (x. Lc 20, 37-38). Nếu tin Thiên Chúa hằng hữu thì phải tin con người có cuộc sống vĩnh cửu. Họ không chấp nhận sự kiện con người sẽ sống lại là vì họ không chịu tìm hiểu Kinh Thánh. Ðó là điểm đáng trách của họ. Họ không biết vì không chịu tìm hiểu và xin Chúa soi sáng.
Ước gì các cặp vợ chồng đừng có lo lắng : vì tình yêu đích thực của chúng ta trong cuộc sống hay chết này không chỉ bảo toàn nhưng biến đổi : vợ chồng nhận biết Thiên Chúa trong ánh sáng của tình yêu liên kết họ với nhau cách hoàn toàn trong một nụ hôn vĩnh cửu. Hôn nhân không kết thúc với cái chết, nhưng biến đổi. Chúa chúng ta làm mất đi tất cả những hạn chế đặc trưng của sự sống trên trái đất. Tương tự như thế, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái hoặc giữa bạn bè với nhau sẽ không bị quên lãng. Nhưng nói rằng hôn nhân trần thế là một kinh nghiệm tiêu cực, hiểu lầm và đau khổ. Cái chết không cắt đứt các mối liên hệ có còn là lý do để sợ hãi nữa không ? Không, bởi vượt qua thời gian vào cõi đời đời, cái xấu sẽ biến mất chỉ còn cái tốt. Tình yêu hiệp nhất họ với nhau, ngay cả khi nó chỉ kéo dài một thời gian ngắn, thấy phát triển đầy đủ, trong khi các khuyết điểm, hiểu lầm, đau khổ mà họ đã gây ra cho nhau sẽ tan biến.
Nhiều cặp vợ chồng sẽ được trải nghiệm tình yêu đích thực giữa họ với tình yêu, niềm vui và sự viên mãn của hiệp thông mà họ đã không được biết đến trên trái đất cho đến khi họ được đoàn tụ “trong Thiên Chúa”, vì Ngài sẽ hiểu tất cả, người ta sẽ bảo đảm tất cả, tha thứ tất cả.
Vậy, nói gì về những người đã lập gia đình cách hợp pháp với nhiều người như góa vợ và góa chồng rồi tái hôn ? ( Cụ thể trường hợp phái Sađốc giới thiệu về Chúa Giêsu, bảy anh em đã liên tục kết hôn với cùng một người phụ nữ). Đối với họ là bằng nhau, lặp đi lặp lại cùng một điều : đó là tình yêu đích thực và món quà mỗi cặp vợ chồng, khách quan tất cả đều tốt, Thiên Chúa sẽ không xóa nhòa nhưng hoàn tất nó ở trên trời. Trong Thiên Chúa sẽ không có sự cạnh tranh hay ghen tuông : những điều không thuộc về tình yêu đích thực, hay dưới ách thống trị do hậu quả của tội lỗi, sẽ không tồn tại ở trên trời.
Tóm lại có “một cuộc sống khác” đang chờ đợi chúng ta, như Đức Giêsu nói : “Họ là con cái Thiên Chúa“. Đối với Chúa Giêsu chắc chắn rằng một vài lời nói lên tất cả , bởi vì đối với Ngài không có hạnh phúc lớn hơn : là con cái Thiên Chúa được chia sẻ trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa.
Sống, yêu, ca tụng, vui mừng … tất cả những động từ này sẽ đề cập đến thực tế duy nhất tồn tại ở nơi Thiên Chúa, những người cuối cùng sẽ là “tất cả trong mọi sự” ; “Bởi lòng yêu mến Người đã tiền định cho ta được phúc làm con, nhờ Ðức Yêsu Kitô, và vì Người, chiếu theo nhã ý của thánh chỉ Người,“(Ep 1, 5 ) .
Lạy Chúa, “Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống : trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16). Amen.
.
TIN VÀO THIÊN CHÚA VÀ SỰ SỐNG ĐỜI SAU
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Blaise Pascal (1623-1662), nhà toán học cũng là triết gia thời danh đã nói đến người khôn ngoan luôn có niềm tin đời sau.
Có hai người tạm đặt tên là anh “A” và anh “B”. Anh “A” tin có Thiên Chúa, tin có đời sau. Anh “A” luôn cố gắng giữ và sống những điều Chúa dạy: Tôn thờ Thiên Chúa, anh dự lễ ngày Chúa nhật và yêu mến anh em hết lòng; hay giúp đỡ những người nghèo khó. Anh sống công bằng và bác ái. Khi lỗi phạm anh tìm cách thống hối ăn năn. Nhờ thế, gia đình anh hạnh phúc, anh được bà con trân trọng, quí mến. Và đặc biệt anh được bình an trong tâm hồn.
Anh “B” không tin có Thiên Chúa, không tin có đời sau. Anh “B” thường sống buông thả, giả hình. Anh vi phạm lỗi công bằng. Anh cố che đậy những điều sai quấy, miễn sao pháp luật không biết là được, vì anh chỉ sợ pháp luật. Kết quả gia đình mất hạnh phúc; dân làng chê bai; mọi người chỉ sợ anh chứ không trọng anh! Anh không có sự bình an thực sự trong tâm hồn.
Pascal đưa ra hai giả thuyết về Thiên Chúa và đời sau.
Giả thuyết thứ nhất: Không có Thiên Chúa và cũng không có đời sau. Nếu không có Thiên Chúa và đời sau thì ngay ở đời này anh “A” đã hơn anh “B” là gia đình hạnh phúc, mọi người quí mến. Anh “A” được bình an trong tâm hồn. Còn anh “B” gia đình mất hạnh phúc, dân làng chê cười. Anh không có bình an trong tâm hồn. Còn sau khi chết cả anh “A” và “B” huề nhau.
Giả thuyết thứ hai: Có Thiên Chúa và có đời sau. Có Thiên Chúa và có đời sau thì anh “A” được hưởng trọn ven; trong lúc anh “B” mất trắng không được gì.
Pascal kết luận: Khi ta tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau ta được cả đời nay lẫn đời sau, chỉ chịu thiệt đôi chút về chức quyền, danh vọng. Nếu ta không tin vào Thiên Chúa ta mất cả đời này lẫn đời sau. Như thế, người tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau là người khôn ngoan; người không tin vào Thiên Chúa là những người vô cùng dại dột.
Từ rất xa xưa, người ta không coi chết là hết: người chết vẫn có một nơi để đến, để sống tiếp một cách nào đó, “một cõi đi về”. Với Trung quốc, nơi ấy được gọi là Cửu tuyền, Hoàng tuyền. Với Do thái, thì đây là Sheol…Vì thế ngôn ngữ mọi thời đã gọi cái chết bằng những ngôn từ nhẹ nhàng hơn như “khuất núi”, “ra đi”, “mất”, “về nơi chín suối”, “quy tiên”, “chầu trời”, “qua đời”… Từ “qua đời” thật ý nghĩa, người đã chết bước từ đời tạm này để đi đến một đời sống mới, đời sống vĩnh hằng bên Thiên Chúa.
Ðối với Ki-tô giáo, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có ? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi (Rm 5,12; 6,23). Nhưng Thiên Chúa “vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16) và lời tuyên bố của Chúa Giê-su trước khi làm cho La-da-rô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Lời mặc khải này có nhiều người tin vào Chúa, nhưng cũng không ít người nghi ngờ, không tin.
Bài Phúc Âm hôm nay kể về phái Xa-đốc không tin có sự sống lại, họ đặt ra những vấn nạn vô lý để chất vấn Chúa Giê-su. Họ trích sách Ðệ nhị luật 25, 5-6 để hỏi Người: Nhà kia có 7 anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Mô-sê, người em phải lấy chị goá để có con nối dõi, và cả 7 anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị goá đó vợ sẽ là của ai ?. Họ đưa ra ví dụ mà chẳng thể xảy ra trong thực tế. Trong thế giới mai sau, bà vợ thuộc về ai trong số 7 ông chồng? Chẳng lẽ 7 ông đánh nhau để dành 1 bà trên thiên đàng? Kiểu lý luận hàm ẩn một quan niệm, thế giới mai sau cũng như hiện tại, nối dài hiện tại. Người Việt Nam cũng vậy, thói quen đốt vàng mã, đốt đôla, đốt xe honda, đốt nhà lầu…cho người cõi âm xài…Người ta tin rằng thế giới mai sau cũng giống như thế giới mình đang sống cho nên người đã chết cũng cần xe, cần tiền…
Chúa Giê-su trả lời với hai nét độc đáo: thế giới mai sau là một thế giới hoàn toàn khác, hoàn toàn được biến đổi, và sự sống mới hoàn toàn được bắt đầu từ hôm nay.
- Ðời sau khác đời này
Người ta không lấy vợ gả chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, chỉ lo phụng sự và ca ngợi Chúa. Ðời sau không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì: “Ðức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống”.
Qua mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh sắp tới, Ðức Giê-su sẽ hoàn tất mạc khải này. Ðức Giê-su đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Ðấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Ki-tô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết (1 Cr 15, 14). Thánh Phê-rô đã nói một cách sâu sắc: “Tội lỗi của chúng ta, chính Ðức Ki-tô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính” (1 Pr 2, 24).
Vì Ðức Giê-su đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng, nên Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người. Ðức Ki-tô đã trở nên con đường giao hoà và Thập Giá Ðức Ki-tô đã trở thành như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người. Yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Ðức Giê-su không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Ki-tô đã được Thần Khí hoá (Rm 8,11; 1 Pr 3,18), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa (Rm 6,10).Theo thánh Phaolô, cuộc sống đời sau mới là đích điểm mà mọi tạo vật nhắm tới: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt phải chịu vậy. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến nay, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,19-23). Chúng ta rên siết vì cuộc sống hiện tại đầy khổ ải. Chúng ta mong chờ cuộc sống đích thực ở mai sau. Đời sống này là thời kỳ thai nghén. Ta phải chịu đau đớn để sinh vào đời sau.
- Đời sau bắt đầu từ đời này
Sự sống đời sau viên mãn, nhưng không phải ai cũng vào được. Chỉ có những người được xét là xứng đáng mới được vào. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa đã nói tới việc tuyển chọn này. Chúa sẽ loại chiên ra khỏi dê, lúa tốt ra khỏi cỏ dại, cá tốt ra khỏi cá xấu. Tiêu chuẩn để chọn lựa là Tám mối phúc, nhất là giới răn bác ái yêu thương. Đời sau, người ta sẽ giống như thiên thần. Đời sống trên trời sẽ không có gì giống với đời sống dưới đất. Sẽ không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống. Sẽ chẳng có lấy vợ lấy chồng, sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa. Mỗi người trở thành con Thiên Chúa, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bài đọc 1 kể chuyện: Bà mẹ và bảy người con tin có sự sống đời sau, và họ đã làm chứng cho niềm tin ấy bằng cách dám hy sinh mạng sống đời này. Chúng ta tin có sự sống đời sau, nên trong đời sống thường ngày mỗi người không chỉ tìm kiếm những giá trị vật chất cho cuộc sống, mà còn tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức để bảo đảm cho cuộc sống đời sau. Đó là hết lòng kính mến Chúa qua việc học hỏi Lời Chúa, siêng năng tham dự Thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích. Đó còn là hết lòng sống công bằng, bác ái yêu thương mọi người, và nỗ lực xa lánh mọi tội lỗi làm mất lòng Chúa.
- Tin và sống trong ân tình của Chúa Ki-tô
Niềm tin vào Ðức Giê-su, Ðấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Khi trái tim một người Ki-tô hữu ngừng đập thì chuông Nhà Thờ vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn một người đã được Chúa gọi về. Nghe chuông báo tử, mọi người đến tang gia để thăm viếng, phân ưu, đọc kinh cầu nguyện, tham dự nghi thức tẩm liệm, cùng đưa người chết đến Nhà Thờ. Linh cửu được đặt ngay trước Nhà Tạm của Chúa Giê-su. Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho sự sống lại của Chúa và của những ai theo Người được thắp sáng lên đặt cạnh quan tài. Thánh Lễ được cử hành để hiệp thông cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội trân trọng với cả xác chết. Ðại diện cho Giáo Hội là Linh mục tiễn đưa người quá cố từ Nhà Thờ đến Ðất Thánh, làm phép huyệt để thánh hoá nơi người chết an nghỉ và nói lên niềm hy vọng tuyệt vời: “Chúng ta gởi thân xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại gặp nhau trên Thiên Ðàng”.
Sự chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô không những đã chuộc lại được cho con người những gì nó đã mất vì tội lỗi, nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Bởi vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa và con người được nối lại và một tương quan mới được thiết lập, đó là tương quan Cha Con. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Ki-tô, con người được tha thứ, được gội rửa sạch tội lỗi, khỏi án chết đời đời và trở nên con cái Thiên Chúa. Từ nay con người được gọi Thiên Chúa là Áp-ba, Cha ơi (Rm 8, 15).
Tin và sống trong ân tình của Chúa Ki-tô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11,26; 1Ga 3,14). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay. Niềm tin đó thôi thúc chúng ta sống theo Tin Mừng Chúa Giê-su. Niềm hy vọng ấy thôi thúc chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ, làm việc lành phúc đức nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho những người thân yêu và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.
Thiên Chúa dựng nên con người để con người được hưởng hạnh phúc đời này và cả đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú chóng tàn mà quên đi cùng đích cuộc đời là gặp được Chúa. Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Người.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa (Thánh Augustinô). Amen.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống mai sau, cuộc sống mà chúng ta đang vươn hướng tới. Nghĩ về cái chết và cuộc sống mai hậu không phải là một thái độ mang vẻ bi quan, nhưng ngược lại, đây là cách thức để khơi dậy niềm hy vọng và giúp chúng ta sống cuộc sống hiện sinh cho thật ý nghĩa. Chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin khi đọc kinh Tin kính : “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Đó là niềm hy vọng cánh chung của mọi Kitô hữu, bởi vì chết không phải là hết. Cái chết không kết thúc cuộc sống chúng ta một cách vô nghĩa, nhưng nó chính là cửa ngõ đưa dẫn chúng ta vào cuộc sống vĩnh hằng. Đây cũng là sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay gợi mở.
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Luca thuật lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và nhóm Saducêo. Nhóm này không tin có sự sống lại. Đối với họ, chết là một dấu chấm hết. Những người Saducêo đưa ra câu chuyện giả định và có tính ngụy tạo về một phụ nữ có 7 đời chồng để gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Chúa trả lời có sự sống lại, thì không thể giải quyết vấn đề ai là chồng chính thức của người phụ nữ ấy trong cuộc sống mai sau, còn nếu Chúa trả lời không, đương nhiên họ có thêm một đồng minh. Tình thế tiến thoái lưỡng nan. Câu trả lời của Chúa Giêsu là một khẳng định chắc chắn mang tính thần khải về sự sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên Ngài không nói rõ cuộc sống ấy sẽ như thế nào, vì tâm địa hẹp hòi của người Do thái lúc bấy giờchưa thể lãnh hội được chân lý của mầu nhiệm. Ngài chỉ cho họ biết rằng trong đời sống mới, con người sẽ sống như các thiên thần, không còn chuyện dựng vợ gả chồng như cuộc sống hôm nay. Chúa cũng từ từ vén mở cho chúng ta biết về thực tại cách chung. Trong cuộc sống mai hậu sẽ không còn khổ đau và chết chóc, bởi vì con người đi vào cuộc sống trường cửu.
Thời cựu ước, tư tưởng về cuộc sống mai sau rất mờ nhạt. Sách Macabê là quyển sách đầu tiên nói về sự sống lại. Bảy anh em nhà Macabê đã can đảm tiến nhật cái chết với niềm tin tưởng này. Trước khi lìa đời, họ đã nói với vua Antiôkhô : “Chúng tôi chết vì luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời(2Mac 7,a)” hoặc “ Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đời đời đâu”(c.14). Sau này, khi Guiđa thắng trận và thu gom các tử thi, ông đã gom tiền gửi về Giêsusalem để dâng lễ tạ tội cầu cho những người đã chết. Tác giả thư Macabê còn chú thích thêm : “Thật thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho kẻ đã chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn(2 Mac 12,44). Niềm tin về sự sống lại mai sau được Đức Giêsu dần dần khai sáng. Thánh Phaolô đã nhắc đi nhắc lại về niềm tin này, như trong Rm chương 8; Rm 6,8; 1 C 15,20-23; 2 C4, 14-15; Pl3, 20; 2Tm2,8-13 v.v..
Mọi người đều phải chết.
Để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau, chúng ta phải đi qua cái chết. Đây là một thực tại mà không ai có thể trốn tránh. Ngày xưa vua Tần Thủy Hoàng đã sai phái cả ngàn y sĩ tài giỏi đi khắp nơi săn lùng những thang thuốc quý để ông được trường sinh bất tử, nhưng cuối cùng ông cũng phải chết giống như mọi người. Biết bao anh hùng hào kiệt đã lẫy lừng một thời, được mọi người ca tụng như những vĩ nhân ‘đời đời sống mãi’, nhưng tất cả cũng đều đã chết. Xác của họ có đặt trong những lăng tẩm nguy nga để mọi người đến kính viếng, cũng chỉ là một nắm xương khô mà thôi. Triết học kinh điển của Hy Lạpnổi tiếng với tam đoạn luận‘Mọi người đều phải chết, Socrate là người, nên(ergo) Socrate cũng phải chết’. Tam đoạn luận ấy cũng được ứng dụng cho mỗi người trong chúng ta.
Là Kitô hữu, chúng ta chuẩn bị đón nhận cái chết như thế nào.
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị có kể lại một giai thoại. Hồi còn bé, ban đêm ông ngủbên mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng, có tiếng khóc não nuột vang lên. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi mẹ : “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ”. Câu hỏi của đứa bé khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời làm sao. Bà bật dậy ngồi vào bàn và mở Kinh Thánh ra đọc. Trong Tin Mừng Gioan, bà đọc thấy đoạn viết : “Trước lễ Vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến, Ngài phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng”(Ga 13,1). Gấp sách lại, bà trở về giường nói với đứa trẻ : “Con ơi, chết là trở về với Chúa Cha và yêu thương đến cùng”. Đây là khuôn mẫu từ cái chết của Chúa Giêsu để giúp chúng ta suy gẫm và chuẩn bị đón nhận cái chết nơi mình. Khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu đã từng run sợ khi đối diện trước cái chết. Ngài sợ đến mức độ mồ hôi và máu toát ra. Tác giả thơ Do Thái đã viết : “ Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ(Dt5,7). Mọi người chúng ta cũng vậy, theo bản năng tự nhiên, ai cũng sợ hãi khi tiếp cận cái chết. Nhưng với niềm tin và lòng yêu mến, chúng ta sẽ chiến thắng. Thánh Phaolô đã khẳng quyết : “Tình yêu mạnh hơn sự chết’’(Rm 8, 39). Thánh nữ Têrêsatrên giường hấp hối đã nói với các chị em trong cộng đoàn : “Em sắpchết, nhưng không phải em chết mà em đang tiến về cõi sống”.Mới đây người ta cho đăng hình một nữ tu rất xinh đẹp, lúc nào trên môi cũng nở nụ cười cho dầu đang phải chiến đấu chống lại những đau đớn do bệnh ung thư. Vị nữ tu này khi chết, trên gương mặt xinh xắn vẫn nở một nụ cười rất tươi. Người phụ nữ trẻ này đã an bình trở về với Chúa và kết thúc cuộc hành trình trần gian không một chút lưu luyến.
Kết luận:
Một linh mục nọ tổ chức tại giáo xứ một lễ an táng khá đặc biệt. Ngài báo trước từ lâu để đông đảo mọi người đến tham dự. Giữa nhà thờ ngài đặt một cỗ quan tài. Theo truyền thống, trước khi đưa thi hài ra phần mộ, quan tài được mở nắp để từng người đến tiễn biệt người quá cố lần cuối. Nhưng khi mọi người nhìn vào quan tài để xem người nằm trong đó là ai, họ không thấy gì, chỉ thấy một tấm gương lớn, phản chiếu chính khuôn mặt của họ. Vị linh mục chú thích:” Mỗi ngày anh chị em hãy tự mai táng chính mình”.
Thiên Chúa là tình yêu. Nếu chúng ta sống sung mãn trong tình yêu, chúng ta sẽ trở nên bất tử vì được thông dự vào bản tính củaThiên Chúa, là Đấng không bao giờ chết. Đây là phương cách giúp chúng ta thực hành để đạt đến sự bất tử trong cuộc sống vĩnh hằng mai sau.
.
Trầm Thiên Thu
Có Cõi Sống thì cũng có Cõi Chết. Chắc chắn ai cũng muốn vào Cõi Sống, không ai muốn vào Cõi Chết. Nhưng “chẳng ai tìm được đường về cõi sống” (Cn 2:19). Vậy phải làm sao đây?
Có câu danh ngôn thế này: “Life lives, life dies; life laughs, life cries; life gives up and life tries. But life looks different through everyone’s eyes – Đời sống, đời chết; đời cười, đời khóc; đời bỏ cuộc và đời thử. Nhưng đời nhìn khác nhau qua con mắt của mỗi người”. Có nhiều loại đời, thật chí lý! Vâng, cuộc đời như thế nào là tùy cách nhìn của mình.
Cuộc đời như tấm gương, chúng ta cười thì nó cũng cười, chúng ta khóc thì nó cũng khóc. Ai cũng chào đời bằng tiếng khóc, sống với nhiều điều phàn nàn, nhưng chết với niềm hy vọng hoặc với nỗi thất vọng là cách chúng ta tự chọn.
Søren Kierkegaard (1813-1855), triết gia, thần học gia, thi sĩ, nhà phê bình người Đan Mạch, nói: “Ngay khi bạn sinh ra trên thế giới này, bạn đã đủ già để chết”. Còn Hans Christian Andersen (1805-1875), nhà văn kiêm nhà soạn kịch người Đan Mạch, nói: “Cái chết đi nhanh hơn gió và không bao giờ trả lại thứ gì mình đã lấy đi”.
Nói đến cuộc đời là nói đến cuộc sống, nói chính xác là cách sống. Có người sống nhanh, sống vội vã; có người sống chậm, sống từ từ; có người sống xả láng, bất cần; có người sống cẩn thận, ý tứ; có người sống ác độc, có người sống nhân hậu; có người sống tham sanh, úy tử; có người sống cực khổ, dám hy sinh vì người khác. Cách sống có đủ kiểu và đủ mức!
Trình thuật 2 Mcb 7:1-2. 9-14 nói về “cuộc tử đạo của bảy anh em”, và có cả người mẹ nữa. Trình thuật này là một thước phim bi hùng của những con người yêu công lý và hòa bình, dám chết cho chính nghĩa. Từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, đâu đâu cũng có những kiểu bách hại tôn giáo, càng ngày người ta càng ranh ma và tinh vi hơn.
Kinh Thánh kể rằng, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm. Thay mặt cho anh em mình, một người lên tiếng nói: “Vua muốn tra hỏi chúng tôi cái gì? Vua muốn biết điều gì? Chúng tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi”.
Vua tức giận, ra lệnh nung một cái chảo lớn, ra lệnh cắt lưỡi người vừa nói thay cho anh em, lột da đầu và chặt cụt chân tay của anh ngay trước mắt các anh em và bà mẹ. Chặt chân tay anh rồi, vua truyền lệnh đưa anh còn đang thở thoi thóp đến lò lửa mà nướng. Cảnh tượng thật hãi hùng!
Thế nhưng bà mẹ và các anh em vẫn khích lệ nhau chết cho anh dũng. Họ bảo nhau rằng Thiên Chúa thấy rõ và chắc chắn người dủ lòng thương chúng ta, như lời ông Mô-sê đã làm chứng cho mọi người rằng: “Đức Chúa sẽ dủ lòng thương hàng tôi tớ”.
Người thứ hai cũng phải chịu các cực hình y như người thứ nhất. Khi sắp trút hơi thở cuối cùng, anh nói: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời”.
Đến người thứ ba bị tra tấn. Vừa được yêu cầu anh liền thè lưỡi, can đảm đưa tay ra, và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được”. Nhà vua và quần thần phải sửng sốt vì lòng can đảm của người thanh niên đã dám coi thường đau khổ. Người thứ tư cũng bị tra tấn như vậy. Khi sắp tắt thở, anh nói: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu”.
Lần lượt bảy anh em đều bị lý hình hành hạ cho đến chết, nhưng ai cũng hiên ngang đối diện với Tử Thần. Cuối cùng, người mẹ cũng chết theo các con. Cả gia đình trở thành thánh tử vì đạo. Diễm phúc biết bao! Tuy nhiên, vấn đề là họ can đảm liều thân vì Chúa. Tử đạo bằng máu là bị giết chết liền, còn tử đạo liên lỉ là chết từ từ. Tử đạo kiểu nào cũng khó, không có ơn Chúa thì không thể vượt qua chính mình!
Cuộc sống luôn có nhiều lúc khó khăn, cả tinh thần và thể lý, hãy chân thành tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa” (Tv 17:1). Và cứ an tâm tín thác vào Ngài, như tác giả Thánh Vịnh bộc bạch: “Dõi vết chân Ngài, con không vấp ngã. Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con. Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu” (Tv 17:5-6). Càng tránh né đau khổ hoặc tìm cách diệt đau khổ thì càng đau khổ, dám đối mặt với nó và đi xuyên qua nó là chiến thắng nó, chúng ta sẽ thanh thản cười vào những nỗi đau khổ. Đó là một dạng tự trào phúng. Khôi hài có khả năng biến đau khổ thành tiếng cười.
Cầu nguyện là sức mạnh của con người, khả dĩ khiến Thiên Chúa “mủi lòng” và thay đổi số phận của chúng ta. Cầu nguyện để được bình an và được Thiên Chúa xót thương: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở. Về phần con, sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài, khi thức giấc, được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan” (Tv 17:8 và 15).
Cầu nguyện là hơi thở, là lương thực của Kitô hữu để có thêm sức sống. Thật vậy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện, làm gì Ngài cũng cầu nguyện một mình nơi thanh vắng. Ngài muốn chúng ta noi gương Ngài nên Ngài khuyên: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:36).
Cõi sống đời này đã quan trọng rồi, cõi sống đời sau càng quan trọng hơn gấp bội, không gì có thể so sánh. Vì cõi sống đời sau là cõi trường sinh, bất tử, vô hạn; còn cõi sống đời này hữu hạn, sẽ có lúc chấm dứt. Muốn sống thì phải sống khôn, sống khéo. Đó là điều tất yếu.
Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ. Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để LÀM và NÓI tất cả những gì tốt lành” (2 Tx 2:15-17). Ngôn hành phải song song, cân bằng hai vế như trong một phương trình, không thể chỉ có một vế.
Như đã nói, cầu nguyện là điều cần thiết, lời cầu nguyện còn có sức mạnh liên đới, khả dĩ tác động tới người khác. Cầu nguyện lẫn nhau như chất xúc tác giúp cân bằng tâm linh lẫn nhau, vì ba thù là loại virus cực độc. Ba thù là Ma Quỷ, Thế Gian và Xác Thịt. Ma Quỷ như những tên cướp đường, chúng có thể ập đến bất ngờ, không cảnh giác thì trở tay không kịp; Thế Gian ví như thời tiết thất thường, chúng ta có thể bị bệnh tật nếu không bảo vệ mình bằng các dưỡng chất hoặc thuốc men; Xác Thịt là các thói hư tật xấu, ví như sâu bọ đục khoét thân cây, không kịp chữa thì cây sẽ chết. Xác thịt là chính mình, loại nội gián vô cùng nguy hiểm, có thể nguy hiểm hơn hai kẻ thù kia!
Không ai dám nhận mình là trong sạch, vô tội, công chính. Thánh Phaolô cũng đã phải cậy nhờ người khác: “Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy nơi anh em. Xin cũng cầu nguyện cho chúng tôi được thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không phải ai cũng có đức tin” (2 Tx 3:1-2). Con người rất yếu đuối, sơ sảy một chút là sa ngã ngay, thậm chí chúng ta còn tự biện hộ và viện cớ với nhiều lý lẽ lắm. Cái tôi đúng là đáng ghét thật!
Không có Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được (x. Ga 15:5), thở cũng chẳng nổi. Vì thế mà đừng cậy sức mình, ngay cả trên đường hoàn thiện chính mình. Nhưng có Chúa thì OK ngay, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Thánh Phaolô cho biết: “Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần. Trong Chúa, chúng tôi tin tưởng vào anh em: anh em đang làm và sẽ làm những gì chúng tôi truyền. Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô” (2 Tx 3:3-5).
Trình thuật Lc 20:27-38 nói về Sự Sống Lại (tương đương Mt 22:23-33 và Mc 12:18-27). Chính sự sống lại này xác định giá trị của niềm tin Kitô giáo: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15:17).
Kinh Thánh cho chúng ta biết có hai nhóm chuyên phá bĩnh: Pha-ri-sêu và Xa-đốc. Nhóm Pha-ri-sêu tin có sự sống lại nhưng lại ưa thói giả hình, còn nhóm Xa-đốc không tin có sự sống lại.
Một hôm, có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giêsu, và hỏi Ngài một lèo: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?”.
Đúng là những kẻ chuyên tìm cách hại người khác, bề ngoài làm ra vẻ nghiêm chỉnh nhưng đầu óc và lòng dạ họ đầy cặn bã, những thứ ô uế nhất. Cái miệng hại cái thân, vì phát ngôn bất cẩn. Kinh Thánh Cựu Ước cho biết: “Con người phải chịu hậu quả lời mình nói và được hưởng những gì môi miệng họ thốt ra. Sống hay chết đều do cái lưỡi, ai yêu chuộng nó, sẽ lãnh nhận hậu quả” (Cn 18:20-21). Còn Tân Ước xác định: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Ga 1:26). Chớ khinh suất mà nói càn! Tự rước họa vào thân chỉ vì KHÔNG uốn lưỡi bảy lần trước khi nói.
Nhóm Xa-đốc cho rằng đó là vấn đề hóc búa, chỉ từ lết đến chết mà thôi. Nhưng họ lầm to! Chúa Giêsu thản nhiên chứng minh: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”.
Ui da, nghe mà lùng bùng lỗ tai. Sao Anh Chàng Giêsu này thông minh và khôn ngoan thế nhỉ? Con Bác Thợ Mộc Giuse và Cô Maria ở xóm nghèo Na-da-rét mà hay dữ vậy ta? Tất nhiên bọn Xa-đốc phải câm họng, đành ngậm bồ hòn làm ngọt, lủi thủi kéo nhau đi chứ đứng lại đây thì có nước độn thổ mà thôi!
Không có Ánh Sáng của Thiên Chúa thì không ai biết đười về Cõi Sống, có Ánh Sáng của Ngài chiếu soi thì chúng ta tin tưởng sẽ đến đích, an tâm và vui sống: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:11).
Nhưng ai khả dĩ được vào Cõi Sống, Miền Trường Sinh? Tác giả Thánh Vịnh cho biết rạch ròi: “Người thực thi công chính được đi vào cõi sống, kẻ theo đuổi gian tà phải đến chốn tử vong” (Cn 11:19). Đó là sự công bình và công lý của Thiên Chúa vậy! Sống công chính là làm đúng những điều Thiên Chúa truyền dạy, như ông Nô-ê đã thi hành ngày xưa vậy (St 6:22 và 7:5).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết không ngừng tìm kiếm Thánh Nhan Ngài, xin giúp con luôn sống đúng theo Thánh Ý Ngài – dù khi vui hay buồn, lúc sướng hay khổ. Ngài ở đâu thì xin cho con cũng được ở đó. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
JM. Lam Thy.
Ba nhóm quyền lực nhất trong dân Do-thái thời bấy giờ, đó là: Nhóm Pha-ri-sêu (còn gọi là nhóm Biệt Phái), nhóm Ét-sê-ni và nhóm Xa-đốc. Nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Ét-sê-ni gồm các kinh sư, các tiến sĩ Luật và cả tư tế nữa. Họ chỉ chú trọng đến việc đạo đức và giữ Luật cách tỉ mỉ, hình thức bên ngoài. Họ tổ chức thành hội, nhằm giúp nhau giữ đạo của cha ông và trung thành với Luật Mô-sê. Họ tin linh hồn bất tử và tin có sự sống lại của thân xác. Nhóm Xa-đốc thì lại chú tâm đến vấn đề chính trị và tiền bạc, còn vấn đề tôn giáo thì họ chỉ dựa trên Luật thành văn là bộ sách Ngũ Thư, nên nghĩ rằng không có chuyện kẻ chết sống lại (Mt 22, 23). Tuy thái độ và cách sống đạo khác nhau, nhưng cả 3 nhóm này đều là những người chống đối Đức Giê-su. Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXII/TN-C – Lc 20, 27.34-38) trình thuật câu chuyện nhóm Xa-đốc lại kiếm chuyện gài bẫy Đức Giê-su.
Theo Thánh sử Lu-ca thì “Nhóm Xa-đốc chủ trương không có sự sống lại” (Lc 20, 27). Đó chính là nhóm thuộc phe bảo thủ trong giới lãnh đạo tôn giáo của Do-thái, các tư tế Do-thái thường xuất thân từ nhóm này. Nhóm này chỉ công nhận 5 cuốn sách (Ngũ Thư) do ngôn sứ Mô-sê viết (Sáng Thế Ký, Xuất Hành, Lê-vi, Dân Số, Đệ Nhị Luật) là Thánh Kinh mà thôi. Trong những sách này, Mô-sê không đề cập đến việc sống lại, nên nhóm Xa-đốc chủ trương không có sự sống lại. Việc sống lại để sống vĩnh cửu chỉ được đề cập đến trong những sách Cựu Ước khác, chẳng hạn trong quyển Ma-ca-bê 2 (xc bài đọc 1 CN XXXII/TN-C – 2Mcb 7, 1-2.9-14 và xem thêm 2Mcb 12, 43-44), sách ngôn sứ I-sai-a (Is 26, 19). Ngược lại với nhóm Xa-đốc, nhóm Pha-ri-sêu không chỉ công nhận giá trị mạc khải của 5 cuốn sách do Mô-sê viết, mà còn công nhận những sách khác nữa, nên họ chủ trương có sự sống lại. Do đó, hai nhóm luôn tranh luận và bất đồng ý kiến với nhau về vấn đề này.
Tuy có bất đồng ý kiến với nhau về quan điểm tôn giáo, nhưng họ lại chung một tâm trạng ghen tức, tị hiềm với Đức Giê-su. Vì thế, sau thất bại thê thảm của nhóm Pha-ri-sêu và Ét-sê-ni gài bẫy Đức Giê-su về vấn đề “ném đá người đàn bà ngoại tình” (Ga 8, 2-11), rồi vấn đề “có nên nộp thuế cho vua Xê-da hay không?” (Lc 20, 20-25), giờ đến lượt nhóm Xa-đốc thử thách Người. Họ lợi dụng cơ hội Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để chuẩn bị cho cuộc thương khó mà Người sẽ phải chịu: “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất.” (Lc 18, 31). Họ dựng lên một câu chuỵên không tưởng để dồn Đức Giê-su vào thế bí. Đó là chuỵên một người đàn bà lần lượt kết hôn với bảy anh em ruột, từ người anh cả trở xuống (chiếu theo Luật Mô-sê, nếu người anh chết mà chưa có con thì người em kế cận phải tiếp nối hôn nhân ấy). Chẳng người nào có con cái và tất cả 7 người đều chết. Thực tế, dù cho Luật Mô-sê có cho phép, cũng không thể có trường hợp cả 7 anh em ruột đều lần lượt ăn ở với chỉ một người phụ nữ, đều không có con và chết hết. Dụng ý của nhóm Xa-đốc chỉ là đặt câu hỏi: “Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?” và tin rằng Đức Giê-su sẽ bí, không trả lời được.
Thật vậy, nếu Đức Giê-su trả lời là sau khi sống lại, cả bảy người sẽ cùng sống chung với duy nhất một bà vợ, thì quả là thậm vô lý và phạm luật của Thiên Chúa “một vợ một chồng, một xương một thịt”. Còn nếu trả lời là cả 7 người đàn ông và người phụ nữ đã chết là hết tất cả, làm gì có chuyện là vợ của ai, thì vô hình chung, Đức Giê-su cũng coi như không có đời sau. Không có đời sau thì làm gì có sự sống lại. Trả lời cách nào cũng kẹt, và vì thế càng thấy sự nham hiểm của nhóm người Xa-đôc (kể cả nhóm Pha-ri-sêu), đó là họ cố tình gài bẫy để có chứng cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59). Thánh Gio-an Tẩy Già đã quá đúng khi gọi họ là “nòi rắn độc” (“Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” – Mt 3, 7). Chỉ có rắn độc có nọc độc mới có thể mau chóng giết chết những sinh vật bị chúng cắn phải.
Nhóm Xa-đốc đã tưởng với cách gài độ thâm hiểm của họ sẽ làm cho con mồi là Đức Giê-su sập bẫy. Nhưng thật không ngờ Đức Giê-su đã dùng chính “gậy ông đập lưng ông”. Họ dựa vào luật Mô-sê – mà họ công nhận có giá trị mạc khải – để tấn công Đức Giê-su, thì Người cũng dùng chính lời của Mô-sê để hoá giải, khiến họ phải câm miệng. Nếu họ dựa vào Mô-sê để nói rằng không có sự sống lại chỉ vì ông không minh nhiên đề cập đến sự sống lại, thì Người cũng dựa vào chính Mô-sê để minh chứng ngược lại: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20, 37-38). Rõ ràng là các tổ phụ vẫn sống trước nhan Thiên Chúa (mặc dù thân xác các ngài đã chết và đang chờ ngày sống lại), nên ông Mô-sê mới gọi là “Thiên Chúa của các tổ phụ”. Cuối cùng thì không nhũng Đức Giê-su làm cho đám Xa-đốc tịt ngòi, mà còn khiến nhóm Pha-ri-sêu cũng phải bái phục (“Mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm!” – Lc 20, 39).
Cả ba lần 2 nhóm người Pha-ri-sêu và Xa-đốc gài bẫy Đức Giê-su đều nhắm vào Lề Luật. Họ chỉ mong Đức Giê-su sập bẫy để họ kết án là Người đã chống lại Luật Thiên Chúa (Luật Mô-sê vốn được coi là Luật Thiên Chúa). Nhưng họ đã thất bại bởi chính cái bẫy họ giương lên. Đối với Lề luật, cũng đã nhiều lần Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5, 18); hoặc lên án bọn kinh sư giả hình (“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.” – Mt 23, 23). Điều đó cho thấy, Đức Giê-su không hề chống lại, mà rất tôn trọng Lề Luật. Duy chỉ có điều Người muốn mọi người – nhất là đám Pha-ri-sêu và Xa-đốc – hiểu rằng “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật”. Áp dụng Luật mà thiếu một trong ba điều đó, thì chưa thể coi là hiểu biết và tôn trọng Luật.
Rõ ràng bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa chứng minh rằng, cuộc sống siêu nhiên ở đời sau không giống với những suy nghĩ của con người căn cứ trên thực tại trần thế (“Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng.” – 1Sm 16, 7). Điều đó cũng cảnh báo cho con người hiểu rằng: đừng suy tính cuộc sống mai hậu như kiểu tính toán trong cuộc sống hiện tai ở trần gian, đừng lo rằng nơi cõi phúc có được lấy vợ lấy chồng hay không. Điều đáng quan tâm lo lắng nhất là hãy tìm cho ra con đường sự thật (đường chân lý), chuẩn bị sẵn sàng và kỹ lưỡng tất cả hành trang và dũng cảm nhập cuộc trên hành trình tiến về quê Trời. Và trên tất cả, hãy cầu cho được một nguồn động lực thúc đẩy như người mẹ đối với 7 người con trong bài đọc 1 (2Mcb 7, 1-2.9-14). Nguồn động lực đó tất yếu là Đức Giê-su Thiên Chúa cùng với Mẹ Maria Vô Nhiễm, hãy đến với Người bằng tất cả niềm cậy trông bất diệt (“Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.” – 2Tx 2,16-17).
Ôi! Lạy Chúa! Con hiểu rằng thân xác này của con sẽ sống lại vào ngày sau hết để bước sang cuộc sống vĩnh cửu, đó là một trong những niềm tin căn bản nhất của Ki-tô giáo. Con tin chắc rằng những gì đang xảy ra với con trong cuộc sống ngắn ngủi này đều nằm trong sự quan phòng của Chúa, đều do Chúa cho phép xảy ra để chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu của con sau này. Vì thế, con sẵn sàng chấp nhận tất cả với lòng tin tưởng vào tình yêu vô biên của Chúa dành cho con. Cúi xin Chúa ban Thánh Linh củng cố niềm tin nơi con, để ngày chung thẩm con được vinh dự đứng ở bên phải Chúa như lời Chúa đã phán năm xưa (Mt 25, 31-46). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con, Amen.
.
AM. Trần Bình An
Cuối tháng 4 năm 1987, người ta chở bà Hary Houghton, 68 tuổi, vào bệnh viện Boston vì chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đã chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn phòng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩm liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám va xác nhận bà lão đã hồi sinh. Nhớ lại những diễn tiến sau khi chết bà kể lại:
“Tôi đang ngồi nhà đọc báo thì thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tôi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết mình đang ở đâu. Một lúc thì nhận thức rằng có lẽ mình đã chết. Tôi thấy mình đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện thì thấy mình dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đãng hơn. Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bổng lên được. Lúc đó ở trên cao nhìn xuống, tôi thấy một chùm chìa khóa màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc. Tôi thấy mình đã đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận bóng rổ trên tivi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics và một người y tá đánh cuộc thua… Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Mỗi khi trong người khó chịu thì lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hãi. Hai đứa con đang bàn việc tôi đã không chịu mua bảo hiểm nhân thọ…. Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Hình như tôi đã sống một cách ích kỷ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết.. Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi là một người quá tự hào về mình, quá hãnh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng nhiều điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cõi sống nầy. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện. Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thiên Chúa hãy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được âm thanh quen thuộc. Tôi thấy minh đang nằm trên giường bệnh viện… Tôi đã tỉnh lại.” Lời khai của bà Houghton đều được bác sĩ Elizabeth Kubler Ros và những người liên quan, xác nhận hoàn toàn đúng. (Betty Eadie, Embraced By The Light)
Lời tường thuật của bà bà Hary Houghton thêm khẳng định linh hồn luôn hiện hữu trong mỗi người. Trong Tin Mừng thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu giải đáp con người đi về đâu sau cái chết cho đám người theo phái Sa đốc, vốn không tin có đời sau.
Linh hồn hiện hữu
Nhân câu hỏi nếu người phụ nữ phải lấy bảy anh em ruột làm chồng rồi tất cả đều chết, thì khi sống lại sẽ là vợ của ai, Đức Giêsu thẳng thắn trả lời về đời sau: “(Ai) được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng.”
Đức Giêsu đã gián tiếp xác nhận linh hồn hiện hữu trong thân xác, khi an ủi các môn đệ đừng sợ hãi những kẻ dữ hãm hại.“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10, 28)
Sinh ký tử quy
Sống gửi thác về, sống là ở gửi tạm, chết trở về cội nguồn, Đấng Tạo Hoá. Chính vì thế, khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát, ngàn dân tung hô, tôi thật vinh phúc.” (Lm Kim Long, Ngày Về 1)
Hội Thánh cũng dạy rằng, linh hồn bất tử, (Cđ Latran 1513) không hư mất khi lìa khỏi xác trong giờ chết, và sẽ tái hợp trở lại với thân xác trong ngày phục sinh cánh chung. (GLHTCG, số 366)
Linh hồn tuy không hình hài, nhưng vẫn nhận biết mọi sự qua tư tưởng, trở nên siêu nhiên như các thiên thần. “Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần.”
Ngày cánh chung
“Những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết.” Thánh Luca gọi đó là “Ngày Của Chúa,” ngày phán xét chung, Đức Giêsu còn hoa mỹ gọi là “mùa gặt” trong dụ ngôn cỏ lùng, tất cả các linh hồn được xét xử công minh để thưởng phạt.
“Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy…Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ.”(Mt 13, 39-43)
Hoặc như trong dụ ngôn tiêc cưới, chiếc áo cưới mà những người được mời phải mặc vào khi dự tiệc, là những tâm tình hãm mình, xả kỷ vị tha, yêu thương, chia sẻ, bác ái, hiến dâng, cho đi, thì mới được vào tham dự Nước Trời. Nếu không, kẻ cố chấp bất tuân sẽ bị trừng phạt. “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo: ”Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 22, 12-14)
“Giữa những đau khổ, oan ức, những giả dối, bất công, con hãy vững vàng tuyên xưng với toàn thể dân Chúa: “Và Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng.” (Đường Hy Vọng, số 679)
Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con. Xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn. (Lời nguyện của Đức Mẹ Fatima dạy ba trẻ)
Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu chúng con luôn cố gắng sống trung thành với Chúa luôn. Xin giúp chúng con mau hồi tâm, ăn năn sám hối, ngay mỗi khi sa chước cám dỗ. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Đổi đời hay lên đời là điều nhiều người đã nghĩ tới: nghèo đói mong được no đủ, đau khổ cần có lối thoát, đang bế tắc mâu thuẫn, mong tìm được lời giải, mơ ước như vậy có chính đáng không ? Hy vọng dù có mong manh, bao giờ cũng là động lực dẫn đưa kẻ sầu muộn kiên nhẫn nhìn về phía tương lai. Sống và sống hạnh phúc hơn, hẳn luôn là mối bận tâm của người đang có danh phận, thầm ước xây dựng được thành trì vững chắc cho mình. Theo qui luật, người điên khùng sẽ không biết buồn, người say bí tỉ mấy ai biết nhớ biết thương, người lạc quan thường dễ tìm thấy niềm vui nơi cuộc sống.
Ưu tư của người lập gia đình là vợ chồng biết yêu thương nhau, sinh con, trước là để nối dõi dòng tộc, sau là các thành viên gia đình cùng giúp nhau đạt tới niềm vui hạnh phúc, chỉ thế là đủ. Tâm tình đó, những người không tin có sự sống lại họ cũng mơ ước như thế, vô lý ở chỗ không tin có linh hồn bất tử, vậy mà họ còn đặt vấn đề về sự sống lại, nhất là đưa ra sự kiện bảy anh em lấy một người phụ nữ. Quan niệm hạnh phúc không phải chỉ giới hạn nơi chuyện vợ chồng, đúng hơn nên hỏi con đường dẫn đến niềm vui và bình an thật ở đâu, niềm vui hiện tại và tương lai có gì khác biệt ?
Tục ngữ có câu : cọp chết để da, người chết để tiếng. Lời khuyên thực tế đó ngụ ý nói có sinh ắt có tử, con người hữu hạn, nếu biết sống tốt, tự hậu thế sẽ chứng minh hình ảnh bất tử của ta. Trong gia đình, con cái tin tưởng cha mẹ, anh em yêu thương nhau, đúng là ý tưởng và hành động đang phản ánh sự trường sinh : cha là núi mẹ là sông, anh em hiếu thuận, nhớ công sinh thành. Nhờ thao thức một chân lý sống, những người Sađucêô mới dám đặt vấn nạn chuyện vợ chồng sau khi chết là gì ? Đâu là điều kiện để trí lòng người ta cảm nhận được triết lý sống ở hiện tại và tương lai ?
Nhờ Đức Giêsu, một tình yêu sống động đang hiện diện, người không tin vào sự sống lại, cả những người hiểu mập mờ về linh hồn bất tử cũng được sáng hơn.“Con cái đời này lấy vợ cưới chồng, song những ai sẽ xét được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng ; họ sẽ không chết nữa, vì họ giống thiên thần, họ là con cái của sự sống lại”. Người xưa có để lại câu nói đáng để ta suy nghĩ : kẻ đặt câu hỏi ngốc nghếch, chỉ ngu dại năm phút, người không dám đặt câu hỏi ngu ngốc, sẽ ngu dại cả đời người. Kinh nghiệm đó cho thấy kẻ lạc quan là biết tin tưởng vào tình người, tình đời ; người lạc quan trong Đức Giêsu là biết cậy nhờ vào tình yêu Thiên Chúa để sống.
Kitô giáo chúng ta không ai thắc mắc khi lìa trần linh hồn đi đâu, cũng chẳng nghi ngờ : cuộc sống có Đức Giêsu có đúng là có bình an, là có sự sống trọn vẹn ? Vì thế, tin để sống, tin để minh chứng tình yêu bằng hành động, ắt sẽ gặp được sự sống trường sinh. Trải qua những tương quan nơi cuộc sống, ta từng đối đầu với cả thành công lẫn thất bại nơi gia đình, điều quan trọng không phải là nghi ngờ thắc mắc, là tại sao ? Chúng ta không thể im lặng ngồi đó nguyền rủa bóng tối, mà mỗi người được mời gọi sống xứng hợp với điều kiện ta đang có : cây cao bóng mát không ngồi, ra ngồi chỗ nắng trách trời không mây.
Mấy người Sađucêô không tin có sự sống lại, khi gặp và nghe Đức Giêsu nói đến một thực tại của sự sống, ít nhiều đó cũng là cơ hội để họ thể hiện mơ ước sống, hầu cảm nhận thế nào là bất tử. Ca dao có câu : nhà nghèo yêu kẻ thật thà, nhà quan yêu kẻ giầu ra nịnh thần. Chúng ta đây không giầu, cũng không là quan chức, vì thế Đức Giêsu vẫn đang chờ đợi chúng ta trước là thực hành bài học yêu thương, sau là trung thực trong các tương quan với Chúa và anh chị em. Không tin có sự sống lại, nói chuẩn hơn là do chưa có người sống đúng chân lý đức tin nhằm giúp họ hiểu và chỉnh sửa, thay đổi lại quan niệm về sự sống hiện tại.
Cầu nguyện và thưa chuyện với Đức Giêsu để hiểu mình, hiểu bạn, để rồi chia sẻ và sống yêu thương thì nên lắm, hết sức cần. Có Chúa trong hiện tại mới chỉ là khởi đầu dẫn ta tiến tới cửa ngõ hạnh phúc, do đó, ai cũng cần duy trì phát triển tình liên đới, tình yêu thương giữa Chúa và tha nhân. Hạnh phúc không thể vắng bóng tình yêu, trường đời luôn có bài học lý thuyết gởi gắm đến các học trò áp dụng vào thực tế. Sự sống thật chắc chắn phải được thể hiện bằng việc làm của đức tin, linh hồn bất tử chỉ được lý giải khi có Đức Giêsu trong hành trình đời người. Niềm tin chỉ trừu tượng khi không có thực hành, tình yêu nâng cao giá trị tinh thần gợi lên một khao khát sống, và sống hạnh phúc.
Người xưa nói rằng : sống kể ngày, chết kể năm, đại loại là độ ngắn dài, sống chết, ở mỗi người khác nhau. Tình yêu, niềm tin, sẽ không có ngày tháng năm, nhưng lại được cân đo đong đếm bằng việc làm cụ thể, đó chính là cánh cửa minh chứng tính bất tử của sự sống. Tham sống sợ chết, ăn cây táo rào cây sung, xã hội vẫn coi họ là anh hùng rơm, là kẻ tiểu nhân, chỉ biết hiện tại, thật đang tiếc.
Công thành danh toại ở trần gian không phải điềm xấu, nhắc nhớ đến thân phận con người giới hạn có sinh có tử, không bao giờ thừa, tin để sống, và sống thật để gặp được trường sinh, vẫn luôn thiết thực hơn cả. Quan niệm chết và sống lại, không chỉ dừng lại ở chân lý đức tin, do Chúa Giêsu đã gợi mở Ngài chính là Thiên Chúa của kẻ sống. Chết đi và sống lại vừa là qui luật tự nhiên, vừa là trách nhiệm mỗi người hãy ý thức sử dụng nén bạc Chúa trao cách tốt nhất. Amen.
.
ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA TẤT CẢ MỌI SỰ ĐỀU ĐANG SỐNG
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Cách đặt vấn đề ‘kẻ chết sống lại’ của nhóm Xa-đốc quả là rất ấn tượng, nhưng cũng ấn tượng không kém là lời giải đáp Đức Giê-su đưa ra! Chúng ta rất dễ bị cuốn hút vào một cuộc tranh luận mang tính triết lý như thế: ‘có hay không có sự sống lại từ cõi chết?’ Thật ra trong câu trả lời, Đức Giê-su không chỉ giới hạn trong việc chứng minh tính lô-gích của sự sống lại, Người còn đi xa hơn thế nhiều khi khảng định: sự sống và ‘sự sống lại’ liên quan trực tiếp tới bản chất hay yếu tính của Thiên Chúa. Vấn đề ‘sống lại từ cõi chết’ thường được chúng ta đặt ra như sau: Con người có thật sẽ sống lại không… tại sao lại cần phải có sự sống lại…, do quyền năng nào mà ta được sống lại? Thiết nghĩ các vấn nạn tương tự cũng được anh em Phật Giáo đặt ra khi thuyết pháp về kiếp luân hồi; và anh em cũng trưng ra những giải thích hết sức hợp lý dựa trên một số định đề được Phật Giáo công nhận, mà không cần đề cập gì tới sự hiện hữu của Thiên Chúa. Để trả lời thắc mắc của nhóm Xa-đốc là những người Do Thái chính hiệu, Đức Giê-su chỉ cần viện dẫn quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa thì đã quá đủ sức thuyết phục; tuy nhiên khi đưa ra lời giải đáp được ghi nhận, Đức Giê-su thực tình muốn đưa các thính giả tới một khám phá rất Tin Mừng về Thiên Chúa. Nhân vấn đề ‘kẻ chết sống lại’, Người mời gọi họ tiến sâu hơn trong một hiểu biết về bản tính đích thực của Thiên Chúa: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”.
Qua lời khảng định đầy uy lực trên, trước hết Người cho ra một định nghĩa về Thiên Chúa trong tương quan trực tiếp tới từng người chúng ta! Trong tương quan này, Thiên Chúa không những là sự sống qua việc tạo dựng loài người và ban cho họ sự sống qua việc thổi hơi trên họ, nhưng Người còn là sự sống lại của họ… vì tất cả, phải tất cả mọi người đều đã chết trong tội. Khi đề cập tới những kẻ được cứu rỗi, Người gọi: “họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”! Nói như thế hầu như Đức Giê-su muốn khảng định rằng: đối với mỗi con người tội lỗi, cũng như toàn thể nhân loại hư hỏng, thì Thiên Chúa không những là sự sống trong tạo dựng, mà còn là sự sống lại nữa trong thực tế hiện sinh của kiếp người. Sẽ không tìm thấy bất cứ một người lành hay thánh thiện nào trên thiên quốc, nếu không phải là những kẻ được sống lại từ cõi chết tội lỗi. Quả vậy, sách Khải Huyền đã xác định rõ điều này qua hình ảnh: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? …Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:13-14).
Đối với tất cả mọi người, không trừ một ai, bằng cách này hay cách khác, họ chỉ có thể trở thành con Thiên Chúa vì họ đã được sống lại từ cõi chết của tội lỗi. Thực thế, như Phao-lô khảng định sau này: không một ai thoát khỏi tình trạng này, không một ai có thể là luật trừ, “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5:12). Trong giai thoại về La-da-rô sống lại, Đức Giê-su cũng đã tự giới thiệu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống!” (Ga 11:25). Điều đáng lưu ý ở đây là: ‘sự sống lại’ được đặt trước cả ‘sự sống’. Hơn nữa, Người không chỉ khảng định: Ta – hay Thiên Chúa có khả năng ‘làm’ cho sống lại, mà chính Người ‘là’ sự sống lại. Đối với Người, làm cho sống lại thể lý từ cõi chết như trường hợp La-da-rô, hay sẽ xảy đến cho hết mọi người trong ngày sau hết, chỉ là sự kiện nhỏ; sự thật lớn hơn nhiều và chính yếu sẽ là: những ai đặt trọn niềm tin vào Đức Ki-tô Giê-su, Đấng cứu độ duy nhất, thì sẽ được cho sống lại từ cõi chết của tội lỗi, vì đã tiếp nhận lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Người quả là sự sống lại, nhất là đối với những ai đã chết trong lỗi tội nặng nề! “Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống”.
Và chính vì Thiên Chúa là sự sống lại và là sự sống mà ‘đối với Người, tất cả đều đang sống’; Lòng thương xót và ơn cứu độ của Ngưởi đạt tới hết thảy mọi người, không loại trừ một ai! Con người có muốn tiếp nhận hay không tiếp nhận lòng nhân từ đó lại là chuyện khác; vì thế Người tuyên bố: Người “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống”. Phao-lô gợi lại tư tưởng trên như sau: “Ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người…vì họ trở nên công chính… được sống… và được thống trị ” (Rm 5:15.17). Quả thế Đức Giê-su Ki-tô, trong cái chết và phục sinh của Người, đã minh chứng cách hùng hồn rằng: đối với con người tội lỗi, thì tự bản chất trước nhất của Thiên Chúa phải là sự sống lại. Đó chính là nền tảng vững chắc nhất của niềm tin và hy vọng của mọi Ki-tô hữu! Tin và hy vọng được sống lại, không chỉ sẽ xẩy đến về mặt thể lý trong ngày sau hết, nhưng đã và đang diễn ra liên tục trong cuộc sống đức tin, khởi đầu vào ngày người Ki-tô hữu chịu phép rửa, rồi mỗi khi họ, vì yếu đuối, rơi vào cái chết muôn hình vạn trạng của tội lỗi, họ được bảo đảm sẽ được chỗi dậy do sức mạnh của lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa.
Quả thật: ‘Thiên Chúa là sự sống lại và là sự sống’ của hết thảy mọi người – thánh thiện hay tội lỗi, của tôi… và của cả bạn nữa, tại bất kỳ nơi đâu và vào bất cứ lúc nào; quan trọng là: có thật chúng ta chân thành xác tín điều đó không?
Lạy Chúa Ki-tô – Đấng đã chết và sống lại, xin cho con biết tuyên xưng không ngừng: Chúa chính là sự sống lại và là sự sống của con. Mỗi khi tự mình, hay được người khác nhắc nhở: mình là ‘con Thiên Chúa’, xin cho con cũng xác tín vững chắc rằng:mình đã và đang không ngừng được sống lại từ cõi chết của tội lỗi…, nhờ vào lượng từ bi hải hà của Chúa mà thôi. Con muốn luôn nhắc nhở cho mình điều này, để con có thể không ngừng cất tiếng ca tụng lòng từ bi thương xót Chúa, ngay giữa những tội lỗi và yếu hèn nhất của con. A-men.
.
Lm Phan Kế Sự
Bận tâm của con người qua mọi thời đại vẫn lẩn quẩn kiếm tìm trong các lạc thú : danh,lợi,dục, để hưởng thụ và cũng để tồn tại.Người ta chỉ biết tìm kiếm và thu góp những lợi nhuận thuộc về trần thế mà không hề lo lắng đến sự sống đời đời của mình như nhóm Xa-đốc ngày xưa. Chính khi mải mê với những đam mê và hưởng thụ những giá trị trần thế,chúng ta đành mất tất cả. Kết thúc cho một đời chạy theo những đam mê là hủy diệt và sự chết.Thiên Chúa là của kẻ sống và Ngài muốn tất cả chúng ta hãy biết sống cho sự tồn vong của mình; nhưng có một sự thật là Ngài lại không sống thay cho chúng ta.
- Ước muốn sâu xa nhất của con người là muốn được tồn tại,tồn tại lâu dài,tồn tại mãi mãi.Nhóm Sa-đốc đến gặp Chúa cũng chỉ mong có một lời khuyên dành cho việc hưởng thụ đời này,ngoại trừ việc sống còn đời sau. Xem ra họ chỉ muốn thụ hưởng ,muốn kéo dài sự sống mình bằng sự hiện diện của con cái, dựng vợ gả chồng cho dòng máu của mình, nhưng chẳng hề muốn có sự thưởng phạt, không hề chịu trách nhiệm về những gì mình làm ở đời sau !
- “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”Có những giá trị ở đời tưởng chừng như bất tử : tiền bạc,danh vọng,thú vui xác thịt Nhưng tất cả đều có giới hạn, nay còn mai mất và chẳng tồn tại lâu dài. Sách Giảng Viên có câu “ Phù hoa nối tiếp phù hoa,ở đời tất cả chỉ là phù hoa”.Chỉ có Chúa mới là sự sống thật và chỉ ai thuộc về Ngài,mới được vinh dự trường tồn vĩnh cửu.
- Sẽ chẳng có câu trả lời cho hạng người,giống như phái Sađốc, và cũng chẳng có niềm hy vọng nào đáp ứng lại khát vọng cho con người,khi mà tất cả chúng ta đều phải đối diện với cái giới hạn cuối cùng là sự chết,là sự hủy diệt. Câu trả lời của Chúa chính là giải đáp cho sự sống còn đời sau,mà ai nấy đều phải nỗ lực để chiếm lấy,hầu có thể tồn tại vĩnh cửu.Nếu chỉ là hưởng thụ,chỉ là những giá trị thực tại,thì sinh mạng con người có khác gì những con vật và thật đáng xấu hổ.
Lạy Chúa,con người chúng con vẫn mong ước một cuộc sống trường tồn, nhưng nhiều khi chúng con lại chỉ biết chạy theo và kiếm tìm những cái hư vong.Chúa dựng nên chúng con là để chúng con thuộc về Chúa. Xin giúp chúng con biết sống cho mình,dám sẵm sàng đánh đổi mọi giá trị trần thế, để được thuộc về Chúa. Amen.
.
NGƯỜI LÀ THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG
Fx. Đỗ Công Minh
Chết là hết ! Câu nói cửa miệng của những người tự xưng là vô tín. Vậy điều đó có đúng? Bài Tin Mừng hôm nay Đức Kitô đã cho chúng con biết được một điều : Chết là bước vào một đời sống mới. Cuộc sống ở thế giới sau cái chết nối tiếp cuộc sống hôm nay. Đối với” những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết”, họ sẽ bước vào một cuộc sống không còn như cuộc sống tại thế, ở đó không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng. Không còn gì là ràng buộc với nhau. Họ sống trong ân sủng của Thiên Chúa, như các Thiên Thần, họ không bao giờ chết nữa vì” họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại “. Thế nhưng có phải tất cả mọi người đều được như thế? Chúa Giêsu đã nhiều lần nói trong Tin Mừng về những người được cứu, đó là ” những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ trở nên Con Thiên Chúa” (Ga. 1,12 ).
Lạy Chúa,
Để được sống lại trong nước Thiên Chúa, ngay từ cuộc sống nơi trần gian này con phải chuẩn bị mỗi ngày, từng ngày. Chuẩn bị cho ngày Chúa đến với con trong vinh quang. Nếu chỉ chăm bẳm lo cho cuộc sống hôm nay, lo có sức lực, tiền tài, địa vị, lo thụ hưởng mọi thú vui, thỏa mãn mọi nhu cầu về ăn uống, về lạc thú, về quyền lực như một bài hát đã diễn tả:”. . .ngày qua ngay đời nhiều vấn nghi, lạc lòai niềm tin, sống không ngày mai, sống quen không ai cần ai. . . Rồi cuộc vui tàn mọi người bước đi, một mình tôi về, nhiều lần ướt mi. . .” thì sao có thể bước vào một cuộc sống mới? May thay, “ Và con tim đã vui trở lại, tình yêu đến cho tôi ngày mai, tình yêu chiếu ánh sáng vào đời, tôi hy vọng được Ơn cứu rỗi. Và con tim đã vui trở lại, và niềm tin đã dâng về Người, trọn tâm hồn nguyện yêu mãi riêng Người mà thôi!(Và con tim đã vui trở lại- NS Đức Huy ). “ Người” ở đây chính là Đức Giêsu như Thánh Gioan đã diễn tả” Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con Một( là Đức Giêsu), để những ai tin vào Con của người sẽ khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Xin cho con luôn ý thức rằng rồi con sẽ chết, nhưng không phải là tuyệt vọng, vô vọng, sống không ngày mai. Con dù bất xứng, nhiều lỗi lầm, nhưng nếu con biết nhận mình thiếu sót, tội lỗi, con hồi tâm trở về xin ơn tha thứ, Chúa sẽ cho con sống mãi bên Chúa. Con tin rằng Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người tất cả đều đang sống.
Nhân tháng cầu nguyện cho các đẳng Linh hồn, xin cho con biết nhớ đến các Linh hồn ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Những người đã ra đi trước, đã để lại cho con một niềm tin “Tôi tin xác lòai người ngày sau sống lại, tôi tin một cuộc sống muôn đời “, con luôn nhớ cầu nguyện cho các Ngài. Cái chết sẽ đến, xin Chúa giúp con biết sống sao, để khi từ bỏ cuộc sống này, con sẽ được tiếp tục sống lại cùng Chúa trên nước trời . AMEN.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có một bạn trẻ hỏi rằng: Tại sao những người cộng sản họ không thích người Công Giáo, họ có thành kiến với người Công Giáo, coi những người Công Giáo như những đứa con lai trong xã hội ? Sự khác biệt dẫn đến nghi kị nơi những người cộng sản đối với người Công giáo, đó là trong việc chọn lựa niềm tin và đức tin. Những người vô thần tuyên bố rằng, họ không tin sự hiện hữu của thần linh. Những người vô thần chọn theo thuyết duy vật, họ cho rằng, con người và mọi vật chỉ là do vật chất kết tụ lại, chết là hết, không có linh hồn cũng không có đời sau. Trong thực tế, có những người xưng là vô thần nhưng vẫn tin vào thần thánh, vẫn cúng bái, kể cả lập bàn thờ lén lút trên lầu hoặc trong phòng. Ví dụ, ông Hồ Chí Minh là một người Cộng sản vô thần, nhưng trong di chúc, ông viết rằng: sau khi chết tôi sẽ phải đi gặp Cac Mac, Lenin và các đồng chí của tôi. Nếu ông viết như thế, có nghĩa là chết chưa phải là hết, hồn ông còn đi lang thang đây đó được.
Người Công Giáo tin rằng, thân xác con người được Thiên Chúa tạo dựng từ vật chất, linh hồn do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng nên và linh hồn thiêng liêng, bất tử. Hơn nữa, người Công Giáo còn tin sau khi bước qua cánh cửa sự chết, con người sẽ bước vào sự sống đời sau; đến ngày tận thế, thân xác con người sẽ sống lại, hồn trở về với xác. Đây là niềm tin hết sức đặc biệt của người Công Giáo khiến họ khác với các tôn giáo khác. Vì niềm tin vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau và coi nhẹ sự sống đời này, khiến người vô thần không thích người Công Giáo.
Nếu như có những người tuyên bố mình vô thần, nhưng vẫn cúng bái, vẫn tin vào sự sống sau khi chết, thì cũng có những người tuyên bố mình là người có đạo nhưng lại sống như người vô thần, vô đạo sống như khống có đời sau. Những người có đạo nhưng không tin, không chỉ là những người ngày nay, mà từ thời Chúa Giêsu đã có những người như thế.
Thời Chúa Giêsu, tất cả những người Do Thái đều tin vào Thiên Chúa duy nhất là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, nhưng không phải tất cả đều tin như nhau. Cụ thể, những người thuộc phái Xa đốc, tức là thuộc hàng tư tế trong đền thờ, họ không tin vào sự sống lại và sự sống đời sau. Vì thế, khi thấy Chúa Giêsu rao giảng về Nước Trời và sự sống đời sau, những người thuộc nhóm Xađốc này đưa ra một ví dụ để bắt bẻ Chúa Giêsu. Họ nói: Mose đã ra luật nối dõi cho anh hoặc em mình: Khi một người cưới vợ không có con, anh ta chết, người em phải cưới người chị dâu đó để nối dõi cho anh mình. Vậy, có bảy anh em trai cùng cưới một người vợ nhưng ai chưa có con thì đã chết, sau này khi sống lại, người phụ nữ đó sẽ là vợ của ai? Những người này tưởng rằng với lý luận và ví dụ như thế, Chúa Giêsu không thể giải thích nổi.
Nhưng Chúa Giêsu đã chỉ cho họ thấy cái sai của họ khi họ lấy những quan điểm, tập tục của trần gian, của đời này để áp dụng cho đời sau. Nhiều người Việt cũng có suy nghĩ “cõi dương làm sao cõi âm làm vậy”, họ lấy suy nghĩ của con người để áp đặt cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói với họ: Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, những kẻ sống lại từ cõi chết sẽ không cưới vợ lấy chồng nữa. Họ không chết nữa, họ được ngang hàng với các thiên thần.
Câu trả lời của Chúa Giêsu không những chỉnh lại suy nghĩ của những người Xa đốc, mà còn mạc khải cho chúng ta biết về cuộc sống đời sau. Người ở cõi trần vì phải chết, nên họ có bổn phận và nhu cầu phải duy trì nòi giống cho mai sau. Khi đã bước vào đời sau, con người sẽ bước vào thế giới của thần linh, của bất tử. Vì thế, con người sẽ không có nhu cầu và cũng không cần phải có con nối dõi nữa. Cuộc sống của họ được sánh ngang hàng với các thiên thần, tức là họ được sống hạnh phúc đầy tràn sung mãn vì có Chúa là nguồn hạnh phúc của họ. Vì thế, họ không còn khao khát hoặc tìm kiếm bất cứ thứ hạnh phúc nào nữa.
Chúa Giêsu cũng dùng Kinh Thánh trích từ Sách Ngũ Kinh để minh chứng rằng, ngay từ ngày xưa, các tổ phụ như Apbraham, Isaac và Giacóp đã có một niềm tin sâu xa vào sự sống đời sau. Sở dĩ trích đọan sách Ngũ Kinh này, vì đây là năm cuốn sách đầu tiên và quan trọng nhất của người Do Thái, mà những người Xa đốc chỉ tin nhận năm cuốn sách này mà thôi. Đoạn sách cho thấy, Môse đã tin Thiên Chúa và tin Ngài là Đấng có quyền năng làm cho các tổ phụ trở thành những con người bất tử. Ông tin rằng, các tổ phụ Apbraham, Isaac, Giacop đang được xum họp cùng nhau trong vinh quang của Thiên Chúa. Vì thế, ông đã gọi Thiên Chúa là Chúa của Apbraham, Isaac, Giacop.
Niềm tin vào sự bất tử của linh hồn và sự sống đời sau là một niềm tin đã ăn sâu nơi người Do thái. Chính vì niềm tin này, bao nhiêu thế hệ các tín hữa đã dám liều thân chịu chết, mất mạng sống đời này để được sự sống đời sau. Câu chuyện sách Macabe cho thấy điều đó, khi kể câu chuyện bảy anh em cùng chịu chết với người mẹ, vì trung thành với lề luật Do thái và vì tin sự sống đời sau. Câu trả lời của bảy anh em thể hiện một đức tin vững chắc vào sự sống đời đời. Người anh trả lời các quan: Chúng tôi chết vì luật pháp của Vua vũ trụ, thì Ngài sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời. Người anh kế trả lời các quan: Tôi được Chúa ban cho các phần chi thể, vì lề luật của Chúa, tôi coi thường các thứ đó, vì tôi hy vọng, nhờ Chúa, tôi sẽ lấy lại các phần chi thể mà các ông lấy của tôi. Tất cả những lời tuyên xưng của bảy anh em này, đều nhắm đến một mục đích chung đó là sự sống lại đời sau mà Thiên Chúa sẽ ban cho những người trung thành với lề luật của Chúa.
Thực tế cho thấy, ngày nay có những người có đạo nhưng đang rơi vào tình trạng vô thần. Những người này có rửa tội, nhận mình là người Công giáo, nhưng trong đời sống, họ sống không khác gì những người vô thần. Niềm tin của họ vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau rất mờ nhạt, vì thế mục tiêu cuộc đời của họ không phải là tìm kiếm hạnh phúc đời sau, mà chỉ là tìm kiếm vật chất ở đời này.
Lý do dẫn đến tình trạng vô thần trong thực tế này, là do không đào sâu học hỏi về giáo lý đức tin của mình, để mình trở nên ấu trĩ trong đời sống đạo. Những người này chú tâm phát triển về kiến thức, nhưng lại mất cân bằng trong việc phát triển đức tin, khiến cho cuộc sống bị lệch lac. Lý do tiếp theo là do lối sống đạo hời hợt cảm tình bên ngoài, thiếu sự cầu nguyện và suy gẫm, thiếu gắn bó với Chúa Giêsu và Tin Mừng, khiến trở nên mù mờ trong đời sống đạo. Lý do khác nữa là, do lối sống thực dụng, chạy theo thỏa mãn vật chất, khiến cho nhiều người bỏ quên mục đích chung cuộc của đời mình, là tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời, để lao vào tìm kiếm vật chất.
Niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời sau sẽ phải là niềm tin thúc đẩy chúng ta sống thật tốt và tròn đầy cuộc sống hôm nay. Chúng ta hướng về cuộc sống đời sau nhưng không bê trễ bổn phận của cuộc sống này; trái lại, vì cuộc sống mai sau, mà chúng ta phải sống tốt ngay từ hôm nay. Chúng ta phải bắt đầu từ trong gia đình, làm cho gia đình mình mỗi ngày thật ấm cúng thuận hòa, trở thành thiên đàng ngay trong gia đình mình.
Niềm tin vào sự sống đời sau sẽ phải phải chi phối mọi hoạt động, lời nói việc làm của từng tín hữu chúng ta. Vì niềm tin ấy, chúng ta sống trong niềm vui và hy vọng và trở thành người đem niềm vui và hy vọng cho người khác. Vì niềm tin này, chúng ta cũng được mời gọi sống thanh thoát khỏi nhưng lôi kéo lệ thuộc của vật chất, danh vọng để sống thanh thoát cao thượng hơn.
Chúa Giêsu đã chết, đã sống lại và lên trời để mở đường cho chúng ta về trời, xin cho chúng ta luôn biết yêu mến Nước trời là quên hương đích thực và là cùng đích của mỗi người chúng ta. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Có người cho rằng: Chết là hết, không có sự sống đời sau, không còn gì hết.
Nếu quả thật như thế thì cuộc sống của con người thật là bi đát, bởi vì, một khi cái chết đến nó sẽ cướp đi tất cả. Tiền rừng, bạc biển, công danh sự nghiệp lẫy lừng cũng chẳng đem lại lợi lộc gì cho kẻ đã chết.
Theo Giáo Huấn của Hội Thánh Công Giáo: Chết không phải là chấm dứt nhưng là bắt đầu một cuộc sống mới.
Đời nầy và đời sau là hai giai đoạn của một cuộc sống
Hôm nay, con lăng quăng ngo ngoe trong vũng nước, nhưng mai đây nó sẽ hoá thành muỗi, giã từ vũng nước và bay sang môi trường khác.
Hôm nay, con sâu còn nằm yên trong tổ kén; mai đây, nó hoá bướm bay lượn đó đây.
Hôm nay, hạt lúa bị chôn vùi trong bùn đất, tưởng sẽ mục nát đi, ai ngờ mấy tháng sau nó hoá thành bụi lúa sum suê mang nhiều bông hạt…
Con lăng quăng mạt hạng kia, con sâu tí ti hèn hạ kia hay hạt lúa bé nhỏ kia… còn có đời này và đời sau, không lẽ con người là tác phẩm tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại chỉ có đời này mà chẳng có đời sau?
Thực ra, hôm nay, con người “ở trọ” trên mặt đất, nhưng mai đây sẽ từ giã nhà trọ trần gian để bước sang một thế giới khác.
Như thế, chết không phải là bị tiêu diệt, nhưng là biến đổi. Thánh Phaolô viết:“Chúng ta sẽ không chết, nhưng hết thảy chúng ta sẽ được biến đổi… vì chưng cái hư hoại nầy sẽ mặc lấy bất hoại, đồ chết dở nầy sẽ mặc lấy trường sinh bất tử. (I Cor 15, 51. 53).
Chúa Giê-su dạy có sự sống đời sau
Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giê-su về cuộc sống đời sau, Chúa Giê-su khẳng định là có. Ngài dạy rằng có “những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần” (Lc 20, 36).
Trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giê-su cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì “phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng lấy sự sống muôn đời.” (Mt 25,46) Như thế, Chúa Giê-su khẳng định không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài “muôn đời muôn kiếp.”
Ngoài ra, Chúa Giê-su còn báo cho ta biết có sự sống đời sau khi đoan hứa rằng: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-2).
Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giê-su còn dùng cả cuộc đời của Ngài để minh chứng cho thấy có cuộc sống đời sau.
Sự kiện Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết chứng tỏ có sự sống đời sau
Dù là Thiên Chúa quyền năng, Chúa Giê-su đã trở nên hoàn toàn là người như chúng ta, đã sống kiếp phàm trần như chúng ta, đã chết như chúng ta và qua ngày thứ ba, Ngài đã từ trong cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển. Điều nầy chứng tỏ loài người có sự sống đời sau.
Công trình cứu chuộc của Chúa Giê-su chứng tỏ có sự sống đời sau
Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng hoả ngục, con người chết rồi là hết, và sau khi chết, ai cũng chỉ còn là tro bụi như ai… thì cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su là hoàn toàn vô ích; cái chết đau thương của Chúa Giê-su trên thập giá chẳng mang lại lợi ích gì cho bất cứ ai. Chẳng lẽ Ngôi Hai Thiên Chúa lại chịu khổ nạn và chịu chết cách vô ích sao?
Để mang lại cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau cho muôn người, Chúa Giê-su đã không ngại trao hiến thân mình. Điều nầy chứng tỏ cuộc sống mai sau hoàn toàn có thực.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho niềm tin vào cuộc sống đời sau trở thành một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chúng con sống tốt lành thánh thiện để mai đây được hưởng phúc đời đời.
Xin cho niềm hy vọng nầy cũng thúc đẩy chúng con hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho ông bà cha mẹ và các tín hữu đã ra đi trước chúng con được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Kính thưa quý vị rất thân mến ! Suy niệm Lời Chúa trong ba bài đọc hôm nay, chúng ta thấy, sự chết dường như là một sự “đe dọa” của kẻ “bất lương”, kẻ thống trị bằng cường lực, cường quyền, nói chung là kẻ thủ ác. Vậy, kẻ thủ ác đầu têu là ai, hay nói cách khác kẻ thủ ác số một là ai? Há, không phải là “THẦN CHẾT” hay sao ?! vậy , thần chết đồng nghĩa với sự bại trận, bởi vì ĐỨC KITÔ đã đánh bại tử thần, mở đường cho tất cả những ai đã an giấc ngàn thu.
Vâng , chúng ta thấy Thiên Chúa chính là Tình Yêu là điều hiển nhiên. Nếu , ai biết tháp nhập vào Đức Kitô thì không bao giờ chết, dẫu thân xác thấp hèn chúng ta tạm nghĩ ngơi, sau khi linh hồn chúng ta lìa khỏi xác, dù được mai táng cách nào, cũng trở về bụi tro. Nhưng, linh hồn bất diệt, bởi vì linh hồn là hình bóng bởi Thiên Chúa, hay nói cách khác là Sinh Khí Thần Linh không bao giờ chết được. Nhưng, vì như thánh Phaolo nói : “… bởi vì không phải ai cũng có đức tin .”(2Tx 3, 2b)
Vậy, đức tin của người Công giáo là : “Tin xác loài người ngày sau sống lại .. tin hằng sống vậy…”. Vâng, đức tin Công giáo hoàn toàn có cơ sở. bởi vì, Đức Kitô là “ĐẦU”, Đầu sống vĩnh hằng, thì Thân Mình không thể chết được. Đây là điều chắc chắn, mà các thánh đã đi qua , đã cảm nghiệm và đã minh chứng cách trung kiên. Tuyên xưng đức tin bằng máu đào, không phải có từ thời Đức Kitô rao giảng công khai và cứu chuộc, nhưng, đã có từ thời Cựu Ứơc, sách II Mcb đã cho thấy điều đó. Bảy anh hùng tử đạo cùng với mẫu thân kiên cường anh dũng mà Bài đọc I hôm nay nhắc đến (2 Mcb 7, 1-2 ; 9 -14 ), là một tấm gương anh dũng muôn đời cho đức tin và sự sống muôn đời nơi những linh hồn thánh thiện bất tử. Vâng, sự bất tử của các thánh, theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, là một minh chứng xác tín về sự sống vĩnh hằng.
Vâng, chính vì điều ấy, Thiên Chúa đã tự xác tín cho loài người qua cuộc Khổ Hình sinh ơn Cứu Độ của Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu- Kitô.
Tin Mừng hôn nay ( Lc 20, 27 -38), qua thánh Luca, Chúa Giêsu xác tín sự sống lại của loài người có đức tin và trên hết Người xác tín rằng : “… tất cả đều đang sống .” ( Lc 20, 38b)
Vâng, Đấng Hằng Sống xác tín điều hằng sống, mà chúng ta không tin, thì chúng ta là những kẻ mù quáng đến cực độ. Một sự mù quáng tin theo thần chết thì chúng ta làm sao cùng sống với Đức Kitô.
Sự sống vĩnh hằng không thể diễn tả bằng con mắt thể lý, nhưng được bày tỏ theo nhãn quan đức tin. Vì, Thiên Chúa hằng sống vô biên, không thể theo sự hữu hình mau tan biến .
Chúng ta tin vào Đức Kitô, vì trong Thiên Chúa không có sự chết, kẻ chết, vì vậy, “TẤT CẢ ĐỀU ĐANG SỐNG “, đó là LỜI HẰNG SỐNG từ Đức Giêsu- Kitô, Đấng đã PHỤC SINH.
Lạy Chúa Giêsu , Ngôi Lời Hằng Sống, xin thương ban cho chúng con biết bước theo Người, để đáng nhận được sự sống muôn đời bởi Chúa mà ra./. Amen.
.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Có ngày sinh ắt có ngày chết. Đó là chân lý. Nếu ngày sinh, chúng ta cất tiếng khóc trong niềm vui mừng của mọi người, thì ngày chết, mọi người sẽ khóc cho kiếp người của ta đến đây kết thúc. Vậy, chết là lẽ thường tình của một kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, điều mà chúng ta cần đặt ra, đó là: chết rồi sẽ đi về đâu? Bên kia cái chết là gì?
Những câu hỏi như thế, nhóm Sa đốc trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đã đặt ra cho Đức Giêsu. Nhân cơ hội, Đức Giêsu đã mạc khải cho họ biết về cuộc sống mai hậu. Và đây cũng chính là câu trả lời cho mỗi chúng ta về thắc mắc trên.
- Tại sao nhóm Sa đốc không tin sự sống lại
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt vào trong bối cảnh sau khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, và cũng là một trong những bài giáo huấn quan trọng của Ngài tại Giêrusalem. Đức Giêsu lên Giêrusalem lần này là để chuẩn bị cho cuộc thương khó mà Ngài sẽ chịu: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất” (Lc18,31). Vì thế, khi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài ở đây, nhóm Pharisêu và Biệt Phái luôn tìm cách gài bẫy để bắt Đức Giêsu nhằm loại trừ Ngài và xóa bỏ giáo lý mà Ngài đang loan báo. Hôm nay, thêm một nhóm nữa cũng với ý đồ như hai nhóm trên, họ chính là nhóm Sa đốc.
Nhóm này là một trong ba nhóm quyền lực nhất trong dân thời bấy giờ, đó là: Pharisêu, Biệt Phái và Sa đốc. Hai nhóm đầu họ chỉ chú trọng đến việc đạo đức và giữ luật cách tỉ mỉ, hình thức bên ngoài. Còn nhóm Sa đốc thì lại chú tâm đến vấn đề chính trị và tiền bạc. Thái độ và cách thức khác nhau, nhưng họ đều là những người chống đối Đức Giêsu. Chủ trương của nhóm Sa đốc này là không tin có sự sống lại. Họ hoàn toàn phủ nhận tất cả những gì không nằm trong bộ Ngũ Thư, bởi vì họ chỉ tin năm cuốn sách đầu của Cựu Ước, và họ bác bỏ hết tất cả các sách còn lại. Trong bộ Ngũ Thư của Mô sê không có nói trực tiếp đến vấn đề sống lại. Có chăng chỉ là những hình ảnh. Vì thế, họ không tin. Mặt khác, giả thiết của nhóm này là: nếu có tin thì sự sống đời sau chẳng khác gì cuộc sống hiện tại trên trần gian và, quyền năng của Thiên Chúa không xa hơn khả năng của con người là bao.
Khởi đi từ quan điểm, lựa chọn trên của nhóm này, nên họ đã đặt ra cho Đức Giêsu một tình huống hết sức ly kỳ. Họ trưng ra một câu chuyện theo kiểu trào phúng: khi có hai người lấy nhau, người chồng chết mà không con, theo luật, người vợ đó sẽ được lấy tiếp người anh em còn sống để có con nối dõi, và lần lượt như thế tới 7 đời chồng mà vẫn không có con, vấn nạn đặt ra là sau khi sống lại, người đàn bà này sẽ là vợ của ai? (x. Lc 20, 27-38)
Khi đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi như vậy, họ đã dùng biện pháp “nhất tiễn diệt song điêu” một mũi tên bắn hai đích. Một phần họ muốn gài bẫy Đức Giêsu để kiếm cớ tố cáo Ngài; mặt khác, họ muốn so tài với nhóm Biệt Phái và Pharisêu, vì hai nhóm này đã bị thất bại nhiều lần và chịu sự khiển trách nặng nề của Đức Giêsu công khai trước mặt toàn dân.
Khi nhóm Sa đốc đặt ra cho Đức Giêsu câu hỏi về sự sống lại như thế, nhân cơ hội này, Ngài đã mạc khải cho họ về sự sống lại và cuộc sống của con người sau cái chết.
- Mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại
Ngay sau khi nghe họ đặt câu hỏi, Đức Giêsu đã đi thẳng vào vấn đề: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần” (Lc 20, 35).
Thật vậy, ở đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải lấy vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, bởi vì: Thiên Chúa vẫn là Đấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải là một vị Thiên Chúa của kẻ chết.
Tuy nhiên, không phải ai cũng được vào dự phần vinh phúc đó, chỉ những người được chọn và gọi mà thôi: “những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết” (Lc 20, 35) thì sẽ được dự phần phúc ấy. Họ là những con chiên được tuyển chọn và được tách ra khỏi dê, là lúa tốt được phân rẽ ra khỏi cỏ lồng vực, là cá tốt được lọc ra khỏi cá xấu… Họ là con cái Thiên Chúa, khi chết, họ trở về ngôi nhà vĩnh cửu của Cha mình để hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đối: “Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được” (1Cr 2,9).
Nhưng được hạnh phúc, được dự phần hay không, còn do thái độ của chính đương sự, chứ Chúa không ép buộc: “Đây Ta đưa ra cho các ngươi chọn: hoặc con đường đưa tới sự sống, hoặc con đường đưa tới sự chết” (Gr 21,8) hay: “Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29). Quả thật, ân sủng của Chúa vẫn có đó, con người được ơn cứu độ hay không là tùy vào thái độ đón nhận hay không đón nhận.
- Niềm tin vào sự sống lại của chúng ta
Như vậy, qua mạc khải của Đức Giêsu về sự sống lại, nên chúng ta tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26); “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51); “Ai ăn thịt và uống máu Ta sẽ được sống đời đời” (Ga 6,59). Niềm tin ấy đạt đến đỉnh cao khi chính Đức Giêsu, Đấng đã chết, được mai táng trong mồ ba ngày, và ngày thứ ba đã trỗi dậy từ cõi chết. Niềm tin này đã được các tông đồ loan báo và làm chứng: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3, 15; x. Cv 2,32; 10,41). Thật vậy: “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1 Cr 6,14). Niềm tin này đã được Giáo Hội tuyên tín trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”.
Khi tin như thế, cái chết chỉ là một sự chuyển hóa, là cánh cửa ta cần bước qua để tiến vào sự sống viên mãn, vĩnh cửu hơn mà thôi. Quả thật, nếu không có sự sống lại sau cõi chết, thì niềm tin của chúng ta trở nên mù quáng, điều này cũng đã được chính thánh Phaolô diễn tả khi nói: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19).
Tuy nhiên, sống hay chết là một sự chọn lựa. Cuộc sống đời sau là có thật, nhưng để đạt được hạnh phúc hay không lại tùy vào thái độ và sự lựa chọn của mỗi chúng ta. Chọn lựa tốt thì sẽ được hạnh phúc, chọn lựa sai thì sẽ bị đau khổ.
Như vậy, muốn cho cuộc sống của mình được hạnh phúc trường sinh với Chúa thì: hãy sống như những người tỉnh thức để đợi chủ về. Hãy sống như các cô trinh nữ khôn ngoan. Và, hãy sống như đây là giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, chính mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa là bảo chứng tuyệt đối của chúng con vào cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con ý thức rằng một ngày nào đó chúng con sẽ phải từ giã cuộc sống tạm bợ này để về với Chúa là nguồn bình an, hạnh phúc thực sự. Vì thế, xin cho chúng con ngay từ giây phút này, biết chuẩn bị cho xứng đáng ngày trở về với Chúa. Amen.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Chết là hết hay chết là đi về một thế giới khác? Các nhà bác học, triết học cũng chưa ai giải đáp thỏa đáng được nỗi băn khoăn của con người. Dù cho quan niệm vô thần bảo rằng chết là hết thì vẫn không làm an tâm người đang sống hưởng thụ. Hầu hết các tôn giáo đều quan niệm rằng chết chưa phải là hết, nhưng chết là được đưa sang một thế giới khác hoặc được đưa đến một chỗ nào đó để tiếp tục sống.
Người Xađốc không tin có sự sống lại, người Do thái thì tin. Để tranh luận với Chúa Giêsu về việc kẻ chết sống lại, họ đã dựa vào luật Môsê: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải cưới lấy nàng, để gầy dựng một dòng giống cho anh em mình.” từ đó, họ nêu lên một trường hợp: nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Cứ thế sáu anh em còn lại tiếp tục lấy cô vợ góa ấy; nhưng bảy anh em đều chết mà không ai để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết: “Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy là vợ của ai, vì cả bảy đều lấy nàng làm vợ?”
Để trả lời, Chúa đưa ra hai sự sống khác biệt giữa hai thế giới khác nhau: “ Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.” Chúa Giêsu phủ nhận quan điểm cho rằng đời sau chỉ là tiếp nối đời này, và không thể so sánh giữa đời này với đời sau sau khi sống lại; đồng thời, Ngài dùng bằng chứng về các tổ phụ như Ápraham, Ixaác và Giacóp đang sống để khẳng định về niềm tin kẻ chết sống lại.
Người ta chỉ đối diện với thực trạng cái chết cho cuộc sống hôm nay về thân xác mà chưa ai biết được phần linh thiêng sẽ tồn tại và sống thế nào trong cõi mai sau. Nhưng cuộc sống đời sau ở một thế giới nào đó lại là kết quả của cuộc sống hôm nay: khi còn sống, ăn ngay ở lành thì sẽ được sống hạnh phúc, nhưng sống độc ác sẽ chịu hình phạt. Đó là luật nhân quả. Nhưng có một điều không tôn giáo nào, không triết thuyết nào quan niệm rằng con người chết đi rồi sẽ sống lại và sống vĩnh cửu không bao giờ chết nữa như Kitô giáo dạy. Đây là một niềm hy vọng tuyệt vời. Đời sống con người không phải là một cuộc hành trình dẫn đến nơi mơ hồ nào đó, nhưng là đến một miền đất hứa của đời sống vĩnh cửu. Niềm hy vọng ấy không dựa trên bất cứ điều gì của con người, nhưng trên quyền năng và lời của Thiên Chúa. Ngài liên kết chúng ta lại thành một dân mới đang hành trình trong hy vọng về miền đất hứa của sự sống đời đời. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta không phải để chết nhưng để sống đời đời: “ Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”(Ga 3:16)
Sau cái chết của thân xác, con người sẽ phải trải qua một cuộc phân loại như thợ gặt phân loại lúa tốt và cỏ lùng. Vào ngày phán xét chung, khi các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước Con Người: “ Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên và dê.” Chiên và lúa tốt là những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết. Họ sẽ sống theo một trật tự khác. Họ không thể chết nữa và họ được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái của Thiên Chúa, con cái của sự sống lại.
Cái chết là sự vượt qua để bước vào cuộc sống mới. Điều tốt nhất giúp chúng ta đối diện với thực tế của cái chết là đức tin. Đức tin giúp chúng ta can đảm và hy vọng vào tình yêu của Thiên Chúa. Niềm hy vọng sống lại của người Kitô hữu dựa vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Mọi người ai cũng chết, nhưng không phải ai cũng sống. Thảm kịch của cuộc đời là đến khi cuộc đời chấm dứt chúng ta mới nhận ra chúng ta chưa từng sống thực được bao giờ cả!
.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 20,27-38
(27) Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giêsu. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. (28) Mấy người ấy hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: “Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải cưới lấy nàng, để gây dựng một dòng giống cho anh hay em mình”. (29) Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. (30) Người thứ hai, (31) rồi người thứ ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. (32) Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. (33) Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ ? (34) Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, (35) chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. (36) Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. (37) Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. (38) Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.
- Ý CHÍNH: Những người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại sau này, nên khi nghe Đức Giêsu giảng về mầu nhiệm kẻ chết sống lại, họ đã tìm cách phi bác giáo lý ấy qua một câu chuyện giả tưởng về bảy anh em nhà kia theo luật Thế Huynh của Môsê đã tiếp nối nhau lấy cùng một người đàn bà và đều chết mà không có con. Từ đó họ đặt vấn đề: Nếu có chuyện kẻ chết sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em ? Đức Giêsu đã dùng Kinh Thánh để chứng minh có cuộc sống vĩnh hằng sau đời tạm này, và còn cho biết cuộc sống ấy như thế nào.
- CHÚ THÍCH:
– C 27-28: + Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc: Đây là một số người thuộc hàng tư tế phục vụ Đền thờ, là những người không tin có sự sống lại cũng như không tin có đời sau, đang khi người Pharisêu thì tin kẻ chết sẽ sống lai (x. Cv 23,8), dựa vào lời sấm của ngôn sứ Đa-ni-en như sau: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ. Những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.” (x. Đn 12,2-3). Còn Đức Giêsu luôn khẳng định giáo lý về mầu nhiệm kẻ chết sống lại đối lập với phái Xa-đốc, nên phái này đã đến nêu thắc mắc nhằm phi bác giáo lý kẻ chết sống lại của Đức Giêsu và các người Biệt phái. + Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều Luật này…: Nhằm chế diễu giáo lý về sự sống lại, nhóm Xa-đốc đã trưng ra điều luật “Thế huynh” của Môsê nội dung như sau: Nếu người anh lấy vợ mà chết không con, thì em trai của anh ta phải lấy bà chị dâu làm vợ. Đứa con sinh ra đầu tiên sẽ được Luật pháp công nhận là con của người anh đã chết, để cho người anh có con cái nối dòng (x. Đnl 25,5).
– C 29-33: + Vậy nhà kia có bảy anh em trai…: Nhóm này đưa ra câu chuyện giả định chưa từng xảy ra. Sai lầm của nhóm Xa-đốc là đã quan niệm rằng khi sống lại thì người ta cũng sẽ sống y như khi còn sống ở trần gian. Nghĩa là hai người đã là vợ chồng thì khi sống lại sẽ vẫn sống đời vợ chồng với nhau.
– C 34-36: + Con cái đời này cưới vợ lấy chồng: “Con cái đời này” là những người thuộc về trần gian. Câu này có nghĩa là: Vì sự sống của con người ở trần gian có sinh có tử, nên người ta cần phải lấy vợ lấy chồng để sinh con cái nối dòng. + “Nhưng những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết”: Câu này chỉ nhấn mạnh đến việc kẻ lành sống lại để được hưởng vinh quang, và không đề cập đến số phận của kẻ dữ. Thực ra không chỉ những người được Thiên Chúa tuyển chọn và xét xứng đáng mới được sống lại, nhưng là tất cả mọi người: tội lỗi cũng như công chính, đều được sống lại, như thánh Phaolô đã đề cập trong sách Công Vụ như sau: “Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này là: người lành kẻ dữ sẽ sống lại” (Cv 24,15; x Ga 5,28-29; Mt 25,34-45). + Thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng: Họ không dựng vợ gả chồng, một là vì thân xác sẽ được siêu hóa không bao giờ chết và nên giống như các thiên thần; Hai là vì họ trở nên con cái của Thiên Chúa, hay con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và được sự sống mới từ nơi Thiên Chúa (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).
– C 37-38: + Còn vấn đề kẻ chết trỗi dậy…: Đức Giêsu đã dựa vào Thánh kinh để chứng minh có sự sống lại của những kẻ đã chết. Người nêu ra một đoạn trong sách Xuất hành: Khi hiện ra với Môsê trong bụi gai đang cháy, Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp (x. Xh 3,6). + Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống: Các Tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp dù đã chết, nhưng qua câu nói với Môsê, Thiên Chúa cho biết các vị ấy hiện vẫn đang sống với Chúa.
- CÂU HỎI: 1)Trong hai nhóm Pharisêu và Xa-đốc, nhóm nào tin xác lòai người ngày tận thế sẽ sống lại, nhóm nào không tin ? 2)Luật “Thế huynh” của Môsê quy định thế nào về việc kết hôn giữa em trai với chị dâu ? 3)Phải chăng chỉ những người lành thánh mới được sống lại vào ngày tận thế, còn những kẻ tội lỗi sẽ chết luôn và không bao giờ sống lại ? 4)Đức Giêsu đã dựa vào bằng chứng nào để khẳng định mọi người sẽ sống lại trong ngày tận thế ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc 20,38).
- CÂU CHUYỆN:
1) HÌNH ẢNH MINH HỌA VỀ CÁI CHẾT:
ĐÊ-VÍT MA-CỚT (David Marcus) là một viên sĩ quan của quân đội Ítraen đã chết trận vào tháng 6 năm 1948. Người ta đã tìm thấy một cuốn nhật ký, trong đó ông đã ghi lại cảm nghĩ của ông về cái chết có thể xảy ra với ông như sau:
“Tôi đang đứng trên một bến cảng ở bờ biển. Trước mặt tôi là một con tàu vừa trương buồm chuẩn bị ra khơi. Con tàu trông mới hùng vĩ và đẹp làm sao ! Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một vệt trắng ở đường chân trời. Lúc đó, có một người bạn đứng cạnh tôi nói to lên rằng: “Xem kìa, con tàu đã biến mất rồi !”. Nhưng thực ra nó đâu có biến mất. Nó vẫn còn ở đó với chiếc buồm màu trắng và thân tàu to lớn đúng như kích thước khi tôi nhìn thấy nó đậu ở bến cảng. Hiện giờ nó đang trên đường đi đến một nơi đã định trước. Kích thước con tàu chỉ nhỏ dần đi trong mắt của tôi và cuối cùng đã biến mất khỏi tầm nhìn hạn hẹp của tôi mà thôi. Rồi ít ngày sau, con tàu đó sẽ tới một bến cảng mới. Tại nơi nó sắp cập bến lại vang lên tiếng nói đầy vui mừng của những người đang chờ đón người thân: “Ồ con tàu chúng ta chờ đợi đã đến rồi kìa !”. Con tàu đó chính là hình ảnh cái chết của mỗi người chúng ta”.
2) CẢM NGHIỆM VỀ THẾ GIỚI MAI SAU:
Từ sau khi quả bom nguyên tử ném xuống thành phố Na-ga-sa-ki của Nhật Bản, bác sĩ TA-KA-SHI NA-GAI (1908-1951) đã trở thành một nhân vật nổi tiếng nhờ sự tận tâm và tấm lòng hy sinh cao cả phục vụ các nạn nhân bị nhiễm phóng xạ nguyên tử của ông. Sau khi ông chết, người ta đã tìm thấy mấy dòng tâm sự ông để lại, cho biết lý do tại sao từ một người vô thần ông đã trở thành một người tín hữu có đức tin mạnh vào Thiên Chúa như sau:
“Trong kỳ nghỉ Xuân, lúc đó tôi học hết năm thứ hai đại học y khoa, mẹ tôi bị trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường của mẹ tôi khi ấy chỉ còn một chút hơi thở. Mẹ tôi trừng trừng mở mắt nhìn tôi thở hắt ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt bà mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương yêu tôi đến cùng. Cặp mắt này nói cho tôi một cách rõ ràng: Sau khi chết, bà vẫn luôn ở bên tôi là Takashi yêu dấu của bà. Tôi nhìn vào trong cặp mắt đó. Tôi, một con người vốn không tin có linh hồn, tự nhiên đã cảm thấy linh hồn mẹ tôi đang có đó; linh hồn mẹ tôi khi chết đã lìa khỏi thân xác nhưng vẫn tồn tại mãi mãi”. Rồi Na-gai viết thêm : ”Từ đó, con người của tôi đã thay đổi hẳn: Dù tôi đã cố gắng hết sức nhưng cũng không thể khiến tôi tin rằng con người mẹ tôi đã hoàn toàn bị tiêu diệt… Con mắt tôi lần đầu tiên đã mở ra và nhìn thấy thế giới siêu hình”.
3) CẬN TỬ – KINH NGHIỆM HỒI SINH SAU CÁI CHẾT LÂM SÀNG:
Ngày nay người phương Tây ngày càng quan tâm đến kinh nghiệm cận tử: Có một số người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã được bác sĩ xác nhận là đã chết lâm sàng và thi thể của họ được đưa vào nhà xác. Nhưng sau đó một thời gian họ đã được hồi sinh.
Năm 1982, George Gallup ước lượng có khoảng 8 triệu người ở Mỹ và 23 triệu người trên toàn thế giới đã trải qua kinh nghiệm nầy. Những năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ rất chú ý đến hiện tượng nầy. Họ đã phỏng vấn 1 370 người trải qua kinh nghiệm cận tử. Trong những điều các người này thuật lại, có mấy điểm chung như sau:
– Có một cuộc sống khác ở “cõi bên kia” và cuộc sống đó hạnh phúc hơn cuộc sống đời này.
– Điều đặc biệt là sau khi “chết đi sống lại”, không ai trong họ còn sợ chết nữa. Họ cũng không còn ham kiếm tìm tiền bạc danh vọng lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người.
Bác sĩ George Rodonaia, tiến sĩ ngành thần kinh học, cũng đã trải qua một kinh nghiệm cận tử đã được ghi nhận. Vào năm 1976, ông bị tai nạn ô tô. Khi được đưa đến bệnh viện thì các bác sĩ nơi đây xác nhận ông đã chết. Sau đó ông được đưa vào nhà xác trong ba ngày chờ khám nghiệm. khi bác sĩ tiến hành giải phẩu phần bụng, ông đã tự nhiên hồi sinh và đã thuật lại trải nghiệm về cuộc sống bên kia. Ông cho biết chính biến cố nầy khiến ông đổi đời.
Trước khi trải qua kinh nghiệm cận tử, ông vừa là bác sĩ vừa là một nhà thần kinh học vô thần. Vậy mà sau lần chết đi sống lại đó, ông đã theo học môn tâm lý học tôn giáo và được nhận bằng tiến sĩ tâm lý học tôn giáo. Sau đó ông trở thành tín đồ Kitô thuộc Giáo Hội Chính Thống Đông Phương. Hiện nay, ông làm mục sư phục vụ tại một nhà thờ bang Texas Hoa Kỳ.
4) NGƯỜI SẼ NẰM TRONG QUAN TÀI NÀY LÀ BẠN:
Một linh mục nọ tổ chức tại giáo xứ một lễ an táng khá đặc biệt. Ngài báo trước từ lâu để đông đảo mọi người đến tham dự. Giữa nhà thờ ngài đặt một cỗ quan tài. Theo truyền thống của giáo xứ, trước khi tiễn đưa thi hài người chết ra phần mộ, quan tài được mở nắp để từng người đến tiễn biệt người quá cố lần cuối cùng. Nhưng lần này khi mọi người lần lượt đến nhìn vào quan tài để xem người chết nằm trong đó là ai, nhưng họ không nhìn thấy gì, ngoài một tấm gương lớn trong quan tài, phản chiếu chính khuôn mặt của họ, kèm theo dòng chữ: ”Mai ngày người sẽ nằm trong quan tài này chính là bạn”.
5) NẾU THỰC SỰ KHÔNG CÓ CUỘC SỐNG MAI HẬU THÌ AI SẼ BỊ THIỆT?
Một lần kia một triết gia vô thần tên là Voltaire đã gặp triết gia có đức tin Pascal và nói rằng : “Ông bạn tin linh hồn bất tử và có sự sống lại đời sau để rồi trong cuộc sống hiện tại, ông bạn phải sống khắc khổ và đạo hạnh, bản thân phải chịu thua thiệt, mà với người khác phải chịu thua thiệt… Vậy nếu thực sự không có đời sau thì ông bạn sẽ là kẻ thật ngu dại !”
Triết gia Pascal liền trả lời: “Ông bạn nói rất đúng. Do không tin linh hồn bất tử và không tin có cuộc sống đời sau, nên ông sẽ hưởng thụ cuộc sống sa đọa đời này! Nhưng nếu thực sự có cuộc sống đời sau thì sao? Ông là kẻ dại dột và ngu xuẩn nhất! Vì tôi cùng lắm cũng chỉ bị thiệt thòi tạm thời mấy chục năm đời này. Còn ông, ông sẽ bị mất cuộc sống hạnh phúc muôn đời”.
- SUY NIỆM:
Thực tế cho thấy con người ta ai cũng đều phải chết ! Chết là giai đoạn cuối cùng trong bốn giai đoạn cuộc sống của mỗi người chúng ta là: Sinh- lão- bệnh- tử. Nhưng chết là gì và sau khi chết chúng ta sẽ đi đâu ? Ta phải làm gì để được sống lại trong hạnh phúc vĩnh hằng đời sau ?
1) Chết là gì và chết rồi con người sẽ đi đâu ?:
– Chết là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Hầu hết nhân loại đều tin: chết không phải là đi vào cõi tiêu diệt, nhưng là trải qua một cuộc biến đổi từ cuộc sống vật chất trần gian sang cuộc sống vĩnh cửu đời sau, được diễn tả qua câu: ”Sinh ký tử qui” – sống chỉ là ở tạm, chết mới là đi về. Nhưng đi về đâu ? Thưa là đi về với cội nguồn, về cõi vĩnh hằng với Đấng tạo thành nên mình.
– Riêng đối với các tín hữu là những người tin vào Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và đi theo con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang” của Người thì chết là trải qua cuộc biến đổi với Đức Giêsu như lời thánh Phaolô dạy: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2,11). Thánh Au-gút-ti-nô cũng nói lên niềm khát mong được nghỉ yên trong Chúa ở đời sau qua lời cầu nguyện: ”Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên tâm hồn con vẫn luôn khắc khoải mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”. Còn thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu lúc sắp chết cũng đã nói với các chị em đứng chung quanh về niềm tin của mình vào một cuộc sống vĩnh hằng như sau: ”Em không chết đâu, em sắp đi vào cõi sống”.
2) Hai lập trường đối lập về mầu nhiệm kẻ chết sống lại:
– Trong thời Đức Giêsu, các người Biệt phái (Pharisêu) tin rằng: ngoài cuộc sống đời này còn một cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau. Còn phái Xa-đốc gồm các tư tế Đền thờ đã không tin có cuộc sống ở đời sau như vậy. Do đó khi nghe Đức Giêsu giảng về sự kẻ chết sống lại, họ đã phi bác bằng việc đặt ra một câu chuyện giả tưởng như sau: Nhà kia có bảy anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con. Theo luật “Thế huynh” của Môsê, người thứ hai phải lấy người vợ góa đó, nhưng rồi người này cũng chết không con. Tới người thứ ba, tư, năm, sáu, bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không để lại một người con nào. Vậy nếu có sự sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy anh em? Mục đích của phái Xa-đốc khi đưa ra câu chuyện này là để chứng minh niềm tin vào sự sống lại là vô lý. Vì nếu còn có một cuộc sống ở đời sau như vậy thì chẳng lẽ người đàn bà ấy lại là vợ của cả bảy anh em nhà đó hay sao ?
– Để trả lời, trước hết Đức Giêsu cho biết tình trạng người ta sau khi sống lại sẽ không cưới vợ lấy chồng. Cuộc sống của họ sẽ hoàn toàn thanh khiết như “các thiên thần”. Họ sẽ trở thành “con cái của Thiên Chúa” (Lc 20,34-36). Tiếp đến Đức Giêsu xác nhận sự kẻ chết sống lại là điều chắc chắn vì dựa trên Lời Chúa trong Thánh Kinh: Khi hiện ra với ông Môsê trong bụi gai cháy mãi không tàn, Đức Chúa đã tự xưng mình như sau: “Ta là Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp” (Xh 3,6). Câu này hàm ý Thiên Chúa là Đấng hằng sống và điều khiển thế giới người sống. Các tổ phụ dân Do Thái dù đã chết nhưng linh hồn các ngài vẫn đang sống bên Đức Chúa.
3) Niềm tin của người tín hữu về cuộc sống đời sau:
Khi đọc kinh Tin kính, các tín hữu tuyên xưng đức tin vào mầu nhiệm này như sau: ”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Thánh Phaolô cũng đã khẳng định về một cuộc sống mới trong Đức Kitô: ”Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi , thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,19-20). Cuộc sống của chúng ta nơi trần gian là cuộc hành trình về quê trời. Cuộc sống ấy sẽ ra sao tùy thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta trên trần gian theo nguyên tắc: “gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy”.
4) Thể hiện đức tin vào mầu nhiệm này thế nào?:
– Một là không nên sợ chết: Những người không có đức tin sẽ rất sợ chết vì cho rằng chết đi là hết. Nếu người tín hữu sợ chết là tự mâu thuẫn với niềm tin của mình về một cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại về cái chết anh dũng của Phó tế Tê-pha-nô tử đạo như sau: “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7,55-56).
– Hai là phải chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu: Nếu một người chỉ lo kiếm tiền rồi khi có tiền lại tìm cách hưởng thụ các nhu cầu vật chất thể xác do nó mang lại thì sẽ chỉ gặt hái được thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua. Muốn đạt được hạnh phúc lâu dài cần phải có đức tin và sống phù hợp với đức tin ấy như câu ngạn ngữ tây phương sau đây:
“Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một ngày, hãy mua cho mình một một bộ quần áo mới.
Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một tuần, hãy giết thịt một con heo.
Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một năm, hãy kết hôn với người mình yêu.
Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc một đời, hãy sống một cuộc sống lương thiện.
Nếu bạn muốn được hưởng hạnh phúc muôn đời, hãy sống như một tín hữu tốt lành”.
Người tín hữu tốt sẽ luôn sống giới răn mến Chúa yêu người theo lời Chúa dạy trong “Tám Mối Phúc Thật” (x. Mt 5,3-12). Thánh Phaolô cũng cho biết có sự thưởng phạt người lành kẻ dữ trong ngày tận thế: ”Ngày đó Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ đã làm” (Rm 2,6).
– Ba là năng cầu nguyện cho các người thân qua đời: Hằng năm, Hội thánh dành riêng tháng Mười Một để khuyến khích các tín hữu cầu nguyện cho ông bà cha mẹ đã qua đời. Đây cũng là cơ hội tốt giúp chúng ta suy nghĩ về bốn sự sau là: sự chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Chính sự chết dạy cho chúng ta biết phải sống thế nào. Niềm tin vào Thiên đàng hay hỏa ngục sẽ giúp chúng ta tránh những đam mê thứ hạnh phúc giả tạo đời này và động viên chúng ta can đảm chịu đựng những đau khổ gặp phải để đền tội và đi con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” để về quê trời đời sau. Trong tháng này, khi làm các việc lành cầu nguyện cho các linh hồn là chúng ta thể hiện niềm tin vào mầu nhiệm kẻ chết sống lại và cuộc sống vĩnh hằng đời sau.
- THẢO LUẬN: Ngày nay nhiều người chỉ biết đi tìm thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua trong những thú vui nhục dục và những đam mê bất chính. Bạn sẽ làm gì giúp bạn bè và người thân nhận ra tình trạng sa đọa của họ để mau hồi tâm sám hối và bắt đầu một cuộc sống bác ái yêu thương và khiêm nhường phục vụ, để tuyên xưng đức tin cụ thể vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau?
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊSU. Khi đọc kinh Tin kính, tuy miệng con tuyên xưng mầu nhiệm kẻ chết sống lại và tin có sự sống đời sau, nhưng trong thực hành, con lại thường lỗi đức công bình khi có cơ hội, gây ra bao thiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho tha nhân, mà không nghĩ đến việc con sẽ phải đền trả khi ra trước tòa Chúa phán xét sau này. Dường như đức tin của con mới chỉ là thứ đức tin lý thuyết và không đủ mạnh để ngăn cản con khỏi sống ích kỷ và tội lỗi. Trong Tin mừng hôm nay, Chính Chúa đã khẳng định rằng: Thân xác lòai người sau này sẽ sống lại. Khi ấy người ta sẽ không còn cưới vợ lấy chồng, không còn bon chen kiếm sống như khi sống ở trần gian, nhưng mọi người sẽ trở nên giống như các thiên thần của Thiên Chúa và sẽ được sống trong hạnh phúc muôn đời.
– LẠY CHÚA, con muốn rằng: ngay từ bây giờ con sẽ thuộc trọn về Chúa. Con xin dâng lên Chúa tất cả tâm tư, cùng những niềm vui nỗi buồn và những ước vọng của con. Xin Chúa thương nhận và ban xuống dồi dào hồng ân cứu độ cho con. Xin cho con luôn phó thác cuộc sống trong tay Chúa và sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, với niềm tin rằng chúng đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Giacobe Tạ Chúc
Mỗi một tôn giáo đều có những quan niệm về cuộc sống sau khi chết. Vì suy cho cùng, nếu lý giải chết là hết xem ra không ổn chút nào. Con người “linh ư vạn vật”, “thác là thể phách hồn còn tinh anh”. Phật Gíao có Niết bàn, Hồi Giáo có miền thiên đàng cực lạc. Ki-tô Giáo đó là cuộc sống hạnh phúc trong Nước Trời. Dưới rất nhiều nhãn quan, người ta không thể chối bỏ một cuộc sống sau khi đã chết. Nếu vậy ý nghĩa của đời người thật phi lý, thật buồn nôn, như nhận định của triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre.
Những người Sa-đốc chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp. Theo quan niệm của ông Pla-ton thì thân xác con người là ngục tù giam hãm linh hồn. Con người từ thượng giới đã bị vong thân, nên giải thoát là ra khọi ngục tù thân xác. Vì vậy, khi nghe Đức Giê-su nói về sự sống lại thì họ không thể chấp nhận. Đã mong cứu cánh đời mình là ra khỏi nó để bay vào thế giới ý tưởng, hay là thượng giới. Thật không thể hiểu nổi khi phải sống lại trong thân xác, mà trường phái Pla-ton rất xem thường. Để biện hộ cho lập trường của mình, những người Sa-đốc bèn đưa ra một câu chuyện phù hợp với luật Mô-sê dạy, nhưng rất khó xảy ra không đời sống thường ngày, nếu không dám nói là nó không có thật. Một phụ nữ kết hôn trong một gia đình với bảy anh em trai. Vì theo luật, khi người anh chết đi mà người vợ chưa có con, thì buộc người em kế tiếp sẽ cưới chị dâu đó làm vợ mình. Bảy anh em cùng chung một số phận, đều là chồng của người vợ này và hết thảy đều chết. Vấn nạn trở nên vô cùng éo le, khi vào ngày sống lại, làm sao để giải quyết các trường hợp này. Đức Giê-su chẳng đưa ra một phán quyết hay lời giải thích nào. Ngài chỉ khẳng định: “ Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là hưởng phúc đời sau, và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng” (Lc 20, 34-35). Như vậy, Đức Giê-su qua lời giải đáp đã bật mí cho con người biết sự khác nhau giữa đời này và đời sau. Vì Thiên Chúa là Chúa của những kẻ sống, chứ đâu phải của những người đã chết.
Trong những tuần gần hết năm phụng vụ, các bài đọc lời Chúa như được trưng bày qua lăng kính cánh chung. Cuộc sống sau này và số phận mỗi người, sẽ được định đoạt tùy theo những việc mình làm. Thiện ác sẽ được giải quyết một cách dứt khoát. Và Thiên Chúa của tổ phụ Aqp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ac, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Ngài cũng chính là Chúa của mọi con người trên khắp cõi trần gian. Nguyện xin Ngài đưa dẫn tất cả anh chị em vào cõi sống, phúc vinh muôn đời. Amen.
.
CÓ CHĂNG SỰ SỐNG BÊN KIA CÁI CHẾT ?
Lm. Giuse Nguyễn
Vì biết cuộc sống này chóng qua, nên nhà thơ Xuân Diệu đã nhắc nhở mình phải “vội vàng” kẻo không còn kịp nữa:
“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn: Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều. Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Tuy nhiên cũng có người thấy chán ngán cuộc đời, muốn bỏ cuộc đời này đi:
“Ta muốn bỏ đi bỏ cuộc đời/ Quay lưng nhìn lại chẳng mỉm cười/Còn gì thương nhớ còn lưu luyến/ Cứ thế mà đi bỏ cuộc chơi/ Thế sự quay cuồng chẳng còn chi/ Có chăng mộng mị cõi hồn si/ Tâm tư trống rỗng ôi chán ngán/ Cười, khóc, buồn, vui…để làm gì ?
…
Ta đã bỏ đi bỏ cuộc chơi/ Bỏ đi phiền muộn bỏ sầu rơi/ Mình ta lê bước mình ta bước/ Mỉm cười nhàn nhạt hỡi ta ơi…!
(Thơ chán đời, Vô danh)
Từ hai khuynh hướng đó cho chúng ta thấy cuộc đời này sẽ qua đi. Có người cố bám víu, có người muốn thoát khỏi… nhưng chung quy vẫn là sự tạm bợ của cuộc sống trần gian; dù có níu kéo hoặc chối từ thì nó cũng sẽ qua đi.
Nhưng sau cuộc sống đời này là gì? Có người cho rằng: không là gì cả. Vì vậy bao lâu còn sống phải lo hưởng thụ kẻo không kịp như nhà thơ Cao Bá Quát: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy những nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời, tiêu khiển một vài chung lếu láo”.
Còn đức tin Công giáo dạy cho chúng ta như thế nào về sự sống đời sau? Phụng vụ lời Chúa hôm nay là một câu trả lời rõ ràng nhất.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: ( 2 Mcb 7, 1-2. 9-14)
Đoạn sách Macabê kể về câu chuyện bắt đạo thời vua Antiôkhô. Một người mẹ và bảy người con thà chịu chết chứ không chối bỏ niềm tin của mình. Đoạn này kể về cái chết anh dũng của bốn người con đầu. Nhà vua muốn dùng những cực hình khủng khiếp nhằm làm cho họ sợ mà bỏ đạo, đồng thời cảnh cáo cho những người sau. Tuy nhiên dù hình phạt, dù giết chết vẫn không làm họ sợ. Họ vẫn mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình. Đâu là lý do để họ mạnh mẽ như vậy? Thưa vì: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại”(2Mcb, 7, 14). Nghĩa là họ tin tưởng vào hạnh phúc đời sau mà Thiên Chúa hứa ban cho họ, nên họ không sợ điều gì hết, kể cả cực hình và cái chết.
- Tin Mừng: Lc 20, 27-38
Luca kể câu chuyện những người Sađốc không tin có sự sống đời sau, nên đến hỏi Chúa Giêsu về một điều luật của Môsê. Luật này thực ra đã bị bãi bỏ vào TK I, đó là luật nối dõi tông đường. Luật này cho phép người ta cưới chị dâu khi anh mình chết mà không có con, với mục đích để anh mình có người nối dõi. Vấn đề mà những người Sađốc đặt ra để bắt bẻ và cười nhạo Chúa Giêsu là có bảy anh em trai cùng cưới một người đàn bà, vì hễ người nào cưới xong cũng chết. Vậy thì nếu có sự sống đời sau, người đàn bà đó là vợ của ai? Quả thật một vấn đề hóc búa!
Qua câu hỏi này thể hiện được cái nhìn của một nhóm người, rằng không có sự sống đời sau. Và giả dụ có thì sự sống đời sau cũng tiếp nối sự sống đời này. Cũng cần sinh sản để lưu truyền nòi giống. Cũng cưới cưới vợ lấy chồng và mọi sinh hoạt giống như ở trần thế. Một câu hỏi khó đối với con người, nhưng với Đấng “là sự sống và là sự sống lại” thì không có gì là khó khăn.
Trước hết Chúa Giêsu khẳng định có sự sống lại, vì “Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Isaac và Giacop” (Lc 20, 37). Thiên Chúa đã ký kết giao ước với những tổ phụ đến muôn đời, chẳng lẽ lại chấm dứt vào lúc họ chết sao? Vì vậy cái chết chỉ là chấm dứt một giai đoạn thôi, chắc chắn sẽ có sự sống đời sau, sự sống mới. Vì chúng ta tin: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan hững hờ, thì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương”.
Điều thứ hai mà Chúa Giêsu tiết lộ là đời sau không như đời này: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ và cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20, 34-36). Chính vì đời sau bất tận, chúng ta sẽ sống muôn đời nên không cần đến việc lưu truyền nòi giống nữa. Mà không cần lưu truyền nòi giống nên chẳng cần phải cưới vợ, lấy chồng nữa. Quá hợp lý!
Có người sẽ đặt vấn đề về hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Nếu không cưới vợ lấy chồng nữa thì làm sao hạnh phúc? Thưa khi đối diện với Thiên Chúa thì không còn hạnh phúc nào có thể sánh bì. Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng, chỉ Nước Trời, chỉ Đất Hứa, chỉ Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc đích thật, còn tất cả niềm vui, hạnh phúc từ tiền bạc, của cải, danh vọng, dục vọng chỉ có ngần có hạn và không phải là vĩnh cửu. Hay như lời Thánh vịnh đã viết: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi an bình”, và “ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc, đâu là an vui”.
Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay, qua tuyên tín của Giáo hội, chúng ta tuyên xưng lại: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Có sự sống đời sau, và hạnh phúc đích thật của sự sống đời sau là được ở bên Chúa.
II. SỐNG NIỀM TIN VỀ SỰ SỐNG LẠI
Chúng ta xác tin điều đó, thì chúng ta phải sống làm sao để khi chấm dứt cuộc sống này, mình được bước vào sự sống đời sau với niềm hạnh phúc bên Chúa. Muốn được hạnh phúc bên Chúa ở sự sống đời sau thì ngay từ bây giờ chúng ta phải sống gắn bó với Chúa và gắn bó với con người, vì “ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.
- Gắn bó với Chúa
Dân Do Thái trước khi vào vùng Đất Hứa phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm. Đó là thời gian để dân Do Thái biết rõ về tương quan của họ với Thiên Chúa, Ðấng đã chọn và yêu thương họ, để coi họ có thực sự tin tưởng Người hay không. Chính trong sa mạc dân Do Thái đã gắn bó mật thiết với Thiên Chúa hơn. Thánh Phaolô nói: “Hành trình trong sa mạc của dân Israel cũng là một biểu trưng cho hành trình của chúng ta đến với Thiên Chúa”.
Vậy thì trong hành trình đức tin nơi trần thế, giống như dân Do Thái lang thang trong sa mạc, chúng ta cũng phải gắn bó với Thiên Chúa. Nghĩa là nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời ta và quy hướng mọi sự về Ngài. Những khi dân Do Thái chạy theo một thần minh nào khác là rõ ràng họ không gắn bó với Thiên Chúa của mình. Những khi dân Do Thái nổi lên đòi làm theo ý riêng mình là rõ ràng họ không gắn bó với Thiên Chúa. Và cụ thể nhất khi sụp lạy trước con bò vàng là họ đang chối từ Thiên Chúa. Khi đòi quay trở lại Ai Cập là họ đang bắt Thiên Chúa làm theo ý mình…
Sự gắn bó với Chúa trong đời sống của Kitô hữu được thể hiện qua việc họ có nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời họ không? và có sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa không?
a). Nếu nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời, thì mọi ưu tiên trong cuộc sống họ phải dành cho Ngài. Những giờ phút cầu nguyện, những thánh lễ, nhất là ngày Chúa Nhật, việc học hỏi Giáo lý và suy niệm lời Chúa, những việc đạo đức như lần chuỗi, cầu lễ… phải luôn chiếm ưu tiên trong cuộc đời họ. Nếu nhìn nhận Ngài là chủ tể thì phải sẵn sàng từ bỏ những thú vui, những lôi kéo khác như bài bạc, rượu chè, sắc dục…
Thánh Augustinô là tấm gương rõ ràng nhất về việc dành mọi ưu tiên cho Chúa. Tuy với quá khứ đầy dẫy những đam mê, những tội lỗi, nhưng từ khi biết Chúa, yêu Chúa thì Ngài đã sẵn sàng từ bỏ tất cả và đã thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng”.
Vì vậy giả dụ có những ai còn những đam mê khiến họ không thể dành ưu tiên cho Chúa được, thì hãy nhớ rằng không phải là không được, mà vì chúng ta chưa yêu Chúa đủ.
b). Nếu sẵn sàng làm theo thánh ý Thiên Chúa thì phải “vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Có những đau khổ, những buồn phiền, những bệnh tật, những trái ý xảy ra, chúng ta cứ van xin hoài mà không thấy theo ý mình. Hãy biết rằng, chúng ta chỉ thấy những cái trước mắt, còn Chúa thấy cả cuộc đời chúng ta. Nếu trong những hoàn cảnh như vậy mà chúng ta chán nản, thất vọng, thậm chí bỏ Chúa luôn thì rõ ràng chúng ta không chấp nhận vác thập giá theo Chúa. Mà nếu không có thập giá thì sẽ không có Phục Sinh.
2. Gắn bó với con người
Nếu gắn bó với Thiên Chúa là yêu mến Ngài “hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn”, thì gắn bó với con người là “Yêu người như mình ta vậy”.
Yêu người như chính bản thân ta là muốn họ cũng được như ta, cũng hạnh phúc ở đời này và đời sau. Vì vậy vừa phải quan tâm đến họ trong cuộc sống này, nhưng nhất là phải quan tâm đến phần hồn phần rỗi của họ.
a). Quan tâm đến người khác trong cuộc sống này là tình người dành cho nhau. Thánh Phaolô đã nói: “Vui với người, khóc với người khóc”. Nghĩa là cùng chia sẻ với nhau mọi hoàn cảnh. Nhưng phải coi chừng đó là sự chia sẻ hay sự tò mò để thỏa mãn tính hiếu kỳ của chúng ta.
Trong những tháng trước, và hiện tại bây giờ, người dân miền trung đang phải gánh lấy hậu quả nặng nề của những đợt bão lũ làm cho nhiều người chết và mất tích; nhiều gia đình đang phải sống cảnh cơ cực, không có nhà để ở, không có chốn nương thân… Chứng kiến cảnh tượng đó dù chỉ qua các phương tiện truyền thông, chúng ta cũng không khỏi chạnh lòng. Vì vậy mà nhiều người đã sẵn sang mở rộng vòng tay để giúp đỡ đồng bào mình. Giá trị của tình yêu thương, nâng đỡ, san sẻ chính là hình ảnh của hạnh phúc nước trời mai sau. Còn những ai không tin vào sự sống đời sau, họ chẳng những không san sẻ, không giúp đỡ, mà còn thừa cơ hội để ăn lòng hảo tâm của người khác.
b). Nhất là chúng ta phải quan tâm đến phần hồn, phần rỗi của người khác. Khi còn sống, phải nhắc nhở nhau để sống đạo tốt. Khi họ đã qua đời, hãy rộng lượng tha thứ để anh chị em chúng ta giảm bớt thời gian thanh luyện.
Nói tóm lại, phụng vụ Lời Chúa hôm nay thật thích hợp khi chúng ta đang sống trong tháng 11, tháng cầu nguyện cho các Linh hồn. Chúng ta tin rằng có sự sống đời sau, để ngay từ bây giờ chúng ta lo gắn bó với Chúa và yêu thương nhau để có thể được hạnh phúc viên mãn ở sự sống đời sau, trong Nước Chúa.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết.
Một triết gia Ðức bảo con người sinh ra để chết.
Cái chết là số phận của mỗi người,
nhưng nói chung ai cũng muốn sống.
Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.
Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.
Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.
Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.
Chính cuộc đời duy nhất này
định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.
Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.
Chính vì thế phải sống hết mình cho dời này
để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.
Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.
Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.
Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.
Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.
Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,
và sống như thể chỉ có đời này.
Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.
Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết
linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.
Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.
Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng
đời sau là sự kéo dài của đời này.
Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.
Ðức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau.
Ðời sau khác hẳn đời này.
Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,
nhưng sống như các thiên thần,
nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.
Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết.
Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.
Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.
Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,
nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu
để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.
Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,
chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.
Cai chết dạy tôi biết cách sống.
Ðời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,
và những nỗi khổ đau do mê lầm.
Tôi đang đi về đời sau
để gặp Ðấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.
Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồm cội.
húng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,
và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi ra thăm nghĩa địa,
khi vào viếng phòng hài cốt,
con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao
mới dám nghĩ một ngày nào đó
những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.
Con người trở về bụi tro,
nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người,
vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
trần gian này quá đẹp
khiến con mải mê, quên mình là lữ khách.
Thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con.
Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân,
như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất.
Xin khơi dậy nơi con niềm khát khao những điều cao cả.
Xin đừng để con mãn nguyện với những cái tầm thường.
Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt của trời cao,
khi con quên mình để sống cho anh em trên mặt đất.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta đang ở trong tháng 11, và trong tháng này Giáo hội kêu gọi chúng ta hy sinh thời giờ cầu nguyện cho những người đã chết, ông bà, cha mẹ, thân thuộc và những người đã sống trong cộng đoàn giáo xứ đã qua đời. Và cũng trong tháng này, chúng ta được kêu mời suy niệm về sự chết và cuộc sống đời sau, qua giáo lý của Giáo hội, và qua những bài Kinh thánh trong những tuần cuối cùng của năm Phụng vụ.
Quả thực, như chúng ta biết, chết là một thực tại đáng sợ nhất trong cuộc đời, chính vì thế mà mọi người chúng ta cố gắng tìm đủ mọi cách tránh nói, tránh đề cập đến hay nghĩ về sự chết. Và có nhiều người phủ nhận cái chết sẽ không đến với họ.
Trong ngôn ngữ Việt hay Mỹ, mọi người đều tránh nói đến hay đề cập đến sự chết. Tiếng Việt, người chết được gọi là người quá cố, người khuất núi, người đã yên giấc nghìn thu hay người đã ra đi trước chúng ta. Tiếng Mỹ, người chết được gọi là passed away, deceased, deparded. Nhưng muốn hay không, cái chết là một sự thật, là một định luật của tạo hóa, có sinh thì phải có tử. Sự chết đến bằng nhiều cách: bệnh, già, tai nạn và thiên tai. Chúng ta đã chứng kiến không biết bao nhiêu người thân thương ruột thịt chết, và chúng ta chứng kiến cái chết qua các qua những phương tiện truyền thông, truyền hình, báo chí mỗi ngày.
Thật vậy, đối với những người không có niềm tin, sự chết quả là một sự tuyệt vọng và phi lý nhất trong cuộc sống, nhưng đối với những người có niềm tin, thì chính sự chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, và đó là thái độ mà mỗi Kitô hữu chúng ta khi đứng trước phần mộ của người đã chết. Cái chết mang lại ý nghĩa và hy vọng cho chúng ta, bởi vì chúng ta xác tín rằng bên kia cái chết, cuộc sống vẫn tiếp tục, đó là cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Đây là niềm tin, là niềm hy vọng mà chúng ta được mời gọi sống mỗi ngày, và cũng là lý do tại sao chúng ta cầu nguyện cho người thân yêu đã chết.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vững tin và hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Chúa Giêsu không những rao giảng về sự sống lại mà chính Ngài là sự sống lại. Sự phục sinh của Chúa Giê-su là bảo chứng cho sứ vụ cứu độ, cho của cuộc sống và làm chứng cho lời rao giảng của Ngài. Thật vậy, đức tin của chúng ta được xây dựng trên sự phục sinh của Chúa Giê-su, như lời thánh Phaolô khẳng định trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đức tin của chúng ta thật là hão huyền.” Trong Kinh Tin Kính chúng ta vẫn thường đọc: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.” Chúng ta đọc và chúng ta vẫn tin như thế, nhưng không phải tất cả mọi người đều tin như vậy.
Trong bài Tin mừng hôm nay, những người Sa-đốc, không tin có sự sống vĩnh cửu đời sau, không tin có thiên thần, không tin có linh hồn bất tử, không tin có thưởng phạt, cho nên họ không tin có sự sống lại. Chính vì vậy, họ đến gặp Chúa Giê-su với ý định muốn gài bẫy để làm nhục Ngài trước mặt mọi người. Họ đưa ra câu chuyện bảy anh em đều cưới một phụ nữ, và chất vấn Chúa, khi sống lại, người phụ nữ này sẽ là vợ của ai? Đây quả là một câu hỏi khó và là cạm bẫy, nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu đã trả lời cách rõ ràng cho họ dựa trên lý luận và trên Kinh Thánh. Chúa cho họ biết những ai được Chúa xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng, nghĩa là họ đã trở nên con cái Thiên Chúa, họ như những thiên thần, họ sẽ không còn chết nữa, họ được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa, sự sống phục sinh khác xa với sự sống ở trần gian này.
Ông bà anh chị em thân mến. Đức tin vào sự phục sinh sống lại của Chúa Giê-su mang lại ý nghĩa, niềm phấn khởi và hy vọng cho cuộc sống Ki-tô hữu chúng ta hôm nay. Mặc dù phải đối diện hay phải trải qua nghịch cảnh, phải qua sự khó khăn, nhục nhằn và khổ đau, mặc dù phải hy sinh hay chịu thiệt thòi, với niềm xác tín vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, chúng ta tìm được can đảm để sống Lời Chúa và trung thành làm chứng cho Chúa. Sự phục sinh của Chúa cho chúng ta sức mạnh để chúng ta hy sinh phục vụ tha nhân, cũng như bác ái và quảng đại để xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Chúa. Và với niềm xác tín vào sự phục sinh của Chúa, chúng ta tìm được bình an và vui mừng ở đời này, và nhất là hạnh phúc vĩnh cửu trong cuộc sống đời sau, như lời Chúa quả quyết với chúng ta: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa.”
Vì là những người có đức tin vào sự phục sinh và lời của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta biết về sự sống lại và thưởng phạt vĩnh cửu trong đời sống ngày sau, cho nên ngày hôm nay chúng ta hãy sống như những người con của Thiên Chúa, và như những người quản lý khôn ngoan và tốt lành của Ngài, có lòng hy sinh phục vụ, giúp đỡ, chia sẻ với người nghèo khổ, và có lòng quảng đại, bác ái đóng góp xây dựng Nước Chúa và làm sang danh Chúa nơi trần gian.
Một câu chuyện dụ ngôn kể về một người giàu có kia, khi gần chết lòng trí vẫn chỉ nghĩ đến tiền của, là động lực đã thúc đẩy ông khổ cực suốt cả cuộc đời. Dùng chút sức tàn, ông cố lấy chiếc chìa khóa dấu ở gầm giường và trao cho người con thương yêu của ông. Ông nhà giàu ra dấu chỉ chiếc rương nằm trong góc nhà, và bảo người con lấy những túi vàng và đô la ở trong đó bỏ vào quan tài. Sau khi chết, ông gặp thánh Phê-rô, và được thánh Phê-rô chở vào khu ông sẽ cư ngụ. Khi đi ngang qua khu nhà khang trang đẹp đẽ như ngôi nhà ông ở dưới trần thế, ông liền nói với thánh Phê-rô ông muốn ở đây, nhưng thánh Phê-rô nói với ông khu này đã có người ở và đặt cọc rồi. Thánh Phê-rô tiếp tục chở ông đến khu nhà lụp xụp, và dẫn ông đến một ngôi nhà tại đó. Ông nhà giàu bất bình phản đối và nói: “Thưa ngài, tôi không thể sống nơi đây và trong ngôi nhà này được. Tôi xin xây một ngôi nhà khác với số vàng và đô la tôi mang theo đây.” Thánh Phê-rô mỉm cười và nói với ông: “Thưa ông, đô la và vàng không có giá trị ở trên đây. Chúng tôi chỉ dùng tiền và những vật liệu mà trong cuộc sống trước đây, ông đã gởi lên để xây nhà cho ông mà thôi. Nếu ông không muốn ở khu này, thì dưới kia còn nhiều chỗ lắm.” Chúa hứa sẽ chuẩn bị một chỗ cho chúng ta, nhưng chúng ta phải gởi tiền và vật liệu để xây khi chúng ta còn ở dưới trần thế này.
Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải và khẳng định cho chúng ta tín điều về sự sống lại và đời sống đời sau. Chúng ta tự hỏi phải sống như thế nào, và thể hiện niềm tin ấy bằng cách nào trong đời sống hôm nay để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời ngày sau. Xin Chúa ban ơn lành và sự khôn ngoan cho chúng ta.
.