CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Kn. 6, 12-16; 1Tx. 4, 13-18; Mt. 25, 1-13
——-
-
Khôn – Dại (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Khôn Và Tỉnh(Lm Josh DĐH, Gp. Xuân Lộc)
-
Tỉnh Thức Và Sẵn Sàng (Thiên San, MTG Thủ Đức)
-
Năm Cô Trinh Nữ Khôn Ngoan (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
-
Khôn ngoan tỉnh thức (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Năm cô khờ dại (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
-
Tìm gặp Thiên Chúa (Jorathe Nắng Tím)
-
Giọt dầu yêu thương (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Bạn chuẩn bị những gì? (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Để sẵn sàng (Thiên San, T MTG.Thủ Đức)
-
Cảnh giác (Lm. Vũ Đình Tường)
-
Khôn và khờ. (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Đời khôn, đời dại (Trầm Thiên Thu)
-
Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 32 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
-
Khôn ngoan của ta đây (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Đèn đầy dầu cháy sáng (Lm. Xuân Hy Vọng)
-
Để cho tâm hồn tỏa sáng (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
-
Sự chọn lựa “Về Đích” khôn ngoan (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
-
Sửa soạn đèn dầu tâm hồn (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Sống khôn để chết thiêng (Lm. Nguyễn Minh Hùng)
-
Người khôn ngoan (Lm. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD)
-
Như các trinh nữ đi đón Chúa (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
-
Dự liệu, phó thác và tỉnh thức (An Phong)
1. Hãy tỉnh thức (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Trinh nữ khôn ngoan (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Sẵn sàng tỉnh thức (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Cách thức chờ đợi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Dầu đèn và Trinh nữ (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
6. Cẩn thận – Sẵn sàng (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
7. Hãy thắp và tỏa sáng (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
8. Đâu thể mượn dầu (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
9. Tỉnh thức (Phạm Anh, MTG.Thủ Đức)
10. Sẵn sàng (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
11. Sẵn sàng- (Lm. Vũ Đình Tường)
12. Khôn ngoan và khở dại (Lm.. Giuse Nguyễn Hữu An)
13. Khôn ngoan trong tỉnh thức (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
14. Đón Chúa (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
15. Dụ ngôn 10 Trinh nữ (Lm. Carolo)
16. Nước Trời là sự khôn ngoan (P.Trần Đình Phan Tiến)
17. Suy niệm Chúa Nhật 32 Thường niên_A (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
18. Suy niệm Chúa Nhật 32 Thường niên. Năm A (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
19. Khôn và khờ (Trầm Thiên Thu)
20. Tích lũy nhiều dầu cho đèn cháy sáng (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
21. Sống khôn ngoan (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
22. Suy niệm Chúa Nhật XXXII Thường niên_A (Lm. Anthony Trung Thành)
23. Chuẩn bị cho ngày sau (Lm. Giuse Nguyễn)
24. Sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
25. Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn (Fx. Đỗ Công Minh)
26. Khôn ngoan tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa (Lm. Đan Vinh)
27. Cái gì không thể cho mượn. Cái gì khg thể cho vay? (Lm.Anphong Nguyễn Công Minh,OFM)
28. Trí khôn của ta đây (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
29. Người Kitô hữu phải là trinh nữ khôn ngoan (Lm. Đinh Quang Thịnh)
30. Chúa Nhật 32 Thường niên. Năm A (Lm. Antôn)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong ngôn ngữ đời thường, khôn và dại là hai tính từ chỉ hai tình trạng đối lập nhau. Tuy vậy, để kết luận một người nào đó khôn hay dại lại không dễ dàng chút nào. Một người buổi sáng khôn ngoan với hành vi thận trọng, bỗng buổi chiều trở thành dại khờ vì có phát ngôn không tốt. Khôn dại cũng được nhận định theo cảm nhận chủ quan của mỗi người. Ranh giới giữa khôn và dại thật mỏng manh, lượng giá xem dại hay khôn thật khó đoán. Vì thế mà cổ nhân dạy: “Khôn ba năm dại một giờ”. Một hành vi sai trái có thể làm cho người khôn nên dại; một cử chỉ khôn ngoan có thể biến người dại nên khôn. Một phút dại khờ có thể làm một người khuynh gia bại sản, một giây khôn ngoan có thể làm cho một người trở nên phú quý cao sang.
Sự khôn ngoan được nói tới trong Phụng vụ hôm nay hoàn toàn khác với quan niệm thông thường. Trước hết, Bài đọc I nói với chúng ta về Đức Khôn Ngoan (Lưu ý chữ viết hoa). Đức Khôn Ngoan được trình bày như một con người, một Đấng đang hiện hữu giữa chúng ta. “Ai tìm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp… Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà”.
Dưới ánh sáng của mạc khải Kitô giáo, chúng ta nhận ra Đức Khôn Ngoan được diễn tả trong Cựu Ước chính là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Nơi Đức Giêsu, Đức Khôn Ngoan của Cựu Ước đã được “ngôi vị hóa”. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người để đến gặp gỡ thân thiện với con người trần gian. Những ai nghe Đức Giêsu giảng dạy đều thán phục và trầm trồ khen ngợi, “vì người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22). Bằng cuộc sống và giáo huấn của Người, Đức Giêsu dạy cho con người thay đổi quan niệm về khôn – dại. Người khôn ngoan không chỉ là người có “chỉ số IQ” cao như ngày nay người ta thường nhận định, nhưng là người biết sống vì tha nhân, biết quan tâm đến những người xung quanh mình. Chúng ta hãy đón nhận giáo huấn của Chúa. Hãy để Lời Chúa thanh luyện để chúng ta đạt được sự khôn ngoan đích thực.
Cuộc sống người Kitô hữu chính là hành trình tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, tức là tìm kiếm Đức Kitô. Lịch sử đã chứng minh: ai gặp được Đức Kitô thì tìm được hạnh phúc. Biết bao người nam cũng như nữ suốt bề dày lịch sử đã can đảm chọn Chúa là gia nghiệp duy nhất và chấp nhận mất tất cả để đánh đổi lấy sự Khôn Ngoan. Họ là những vị thánh, được tôn vinh vì sự chọn lựa cao cả tuyệt vời ấy. Hôm nay, Đức Khôn Ngoan vẫn đang hiện diện giữa chúng ta để đồng hành với chúng ta trong hành trình kiếp người. Ai thành tâm thiện chí tìm kiếm thì sẽ gặp được Người.
Làm thế nào để gặp Đức Khôn Ngoan trong cuộc đời? Chúa Giêsu kể cho chúng ta nghe câu chuyện dụ ngôn về mười cô trinh nữ đi đón chàng rể theo phong tục tập quán của người Do Thái. Năm cô trinh nữ mang đèn mà không đem theo dầu bị kết án là những người dại dột. Các cô sống mà không có định hướng cho tương lai. Các cô chỉ a dua theo người ta đến đám cưới. Quan niệm về cuộc sống của các cô chỉ mang tính nhất thời, thiếu sâu sắc. Các cô quá chú ý đến việc trang điểm và y phục bề ngoài, mà quên rằng chàng rể có thể đến sớm và cũng có thể đến muộn. Các cô cũng quên rằng việc mang theo đèn có dầu thắp sáng là một điều kiện để theo chàng rể vào phòng tiệc.
Như trên đã nói, khái niệm khôn – dại mà Phụng vụ đề cập hôm nay hoàn toàn không giống như cách suy nghĩ của người đời. Thánh Phaolô đã quảng diễn điều đó trong thư gửi giáo dân Côrinhtô: “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo. Nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người” (1Cr 1,23-25). Theo quan niệm của người đời, người khôn là người biết làm lợi cho bản thân; trong quan niệm của Thánh Kinh, người khôn là người biết hy sinh cho kẻ khác. Cũng một sự kiện Đức Giêsu chịu treo trên thập giá, Người có đức tin nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa; người vô tín chỉ thấy thất bại nhục nhã và khổ đau.
Trong cánh đồng cuộc đời, cỏ lùng và lúa cùng mọc lên. Trong cuộc sống nhân sinh, người khôn và kẻ dại cùng hiện hữu. Người dại thường phải chấp nhận một số phận hẩm hiu, thua thiệt; người khôn lại mang số phận phú quý cao sang. Người Công giáo tin rằng với nỗ lực cố gắng của bản thân và với ơn phù trợ của Chúa, người ta có thể trở thành người khôn ngoan thực sự, nhờ lòng mến Chúa yêu người.
Khôn ngoan và dại dột không chỉ là hai hạng người hiện hữu trong cuộc sống, nhưng đó còn là hai thái cực đồng thời tồn tại trong cùng một con người. Nơi mỗi người luôn có sự khôn ngoan, nhưng đồng thời cũng vẫn còn sự dại dột, vì thế mà chúng ta phải thận trọng trong ngôn từ cũng như trong hành động, nhờ đó mà chúng ta trở nên người khôn ngoan, loạn trừ dần sự dại dột đang tồn tại trong chính chúng ta.
Chúng ta vừa long trọng mừng lễ Các Thánh. Chúng ta cũng đang cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục trong suốt tháng 11 này. Cuộc đời của các thánh giúp chúng ta suy nghĩ về sự khôn ngoan đích thực, giống như năm cô khôn ngoan trang bị đủ dầu. Số phận các linh hồn nơi luyện ngục lại nhắc ta phải tỉnh thức, để tránh rơi vào tình trạng bi thảm của năm cô khờ dại vì thiếu dầu. Dừng chân bên nấm mộ, chúng ta cảm nhận rõ hơn sự mong manh của phận người. Suy tư về sự chết, chúng ta nhận ra đâu mới là những giá trị tồn tại vĩnh viễn, giúp chúng ta đạt được sự sống đời đời. Như vậy, khôn ngoan hay dại khờ là do chính chúng ta chọn lấy cho mình.
Tuần 32 TN-A: Mt 25, 1-13
Lm Josh DĐH, Gp. Xuân Lộc
Học giỏi, bằng cấp nhiều, địa vị cao, được như thế, người đời vẫn coi là thành đạt, nhưng được nhìn nhận là khôn ngoan, là an vui hạnh phúc thật, đó mới là điều bạn nên khao khát kiếm tìm. Làm kinh tế giỏi, công danh sự nghiệp vững chắc, “của chìm của nổi” tầm cỡ, sẽ có nhiều kẻ say mê. Được mọi người “mộ mến”, được gọi là người có tâm có tầm với gia đình xã hội, chắc chắn là điều mà bạn nên theo đuổi ! Đích điểm thành công, hạnh phúc ở hiện tại và tương lai, người xưa đã biết lưu ý con cháu: có hay không, mùa đông mới biết, giầu nghèo ba mươi tết mới hay. Đúng sai, khôn hay khờ, thành hay bại, tất cả sẽ rõ ràng, phân minh, dù thời gian lâu mau, gần hay xa: cháy nhà ra mặt chuột.
Dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể, tưởng vẫn còn nặng mùi phân biệt đối xử: khi kẻ được người không, kẻ khờ thì bơ vơ ở ngoài chẳng ai cứu xét, người khôn thì được vào dự tiệc vui muôn đời ! Lời răn dạy của tiền nhân: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương; đừng ngu ngơ như kẻ bất mãn kinh niên: đi cày quên trâu, đi học quên bút ! “Năm cô khờ mang đèn mà không mang dầu, năm cô khôn mang đèn và còn mang dầu đầy bình”. Hạnh phúc, khổ đau, hệ tại bởi khôn, khờ, mọi sự rõ ràng đáng sợ từ khi nửa đêm “có tiếng hô to: kìa chàng rể đến” ! Thời gian xoá đi nhiều kỷ niệm, thời gian tố cáo mọi kẻ yêu nhau, thời gian sẽ khép lại cơ hội và thời gian cũng mở ra cánh cửa hy vọng nơi người biết sống niềm tin: “những trinh nữ sẵn sàng thì theo chàng rể vào dự tiệc cưới, …”.
“Các chị cho chúng em xin chút dầu, vì đèn của chúng em tắt cả rồi”. Khờ và khôn, say và tỉnh, thời nào cũng có kẻ ở tình cảnh đáng thương, dù các đấng bậc nhắc bảo, cầu nguyện, và đã nghiêm túc sống gương sáng cho con cháu. Người khôn lập luận: phòng bệnh hơn chữa bệnh, người khôn cân nhắc: uốn lưỡi bảy lần trước khi nói. Kể dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể, Chúa Giêsu cho thấy người khôn biết tỉnh thức, biết chuẩn bị dầu đèn đức tin, ước muốn được dự tiệc Nước Trời. Khôn hay khờ, đều được mời “dự tiệc vui”, khôn hay khờ cũng phải tỉnh không được say, có như thế mới không giật mình, trước sự việc xảy đến bất ngờ. Chẳng ai ở đời muốn mình bị mang tiếng là khờ, có ai mà không mơ ước được chàng rể Giêsu đón vào dự tiệc vui muôn đời ! Khôn hay khờ cũng đầy thiếu sót, bất xứng, trước thiên nhan Đấng tối cao: “vì chàng rể đến chậm, nên tất cả các cô đều thiếp đi và ngủ cả…”
Dại nhà khôn chợ mới ngoan, khôn nhà dại chợ thế gian chê cười. (cd). Khôn hay tỉnh, trong sáng hay mờ đục, cũng chỉ là cách nhìn nhận chủ quan; trong tư thế sẵn sàng, người khôn, người tỉnh: đêm có dài bao nhiêu, ngày rồi sẽ tới, khổ đau dù chồng chất, hạnh phúc rồi sẽ hé mở. Có hay không, người khôn ngoan mới đáng hưởng mọi quyền lợi ? Có hay không, việc bác ái tông đồ thuộc về người giầu ? Có thật xã hội luôn cần người tài giỏi, không cần người đức độ lý lẽ ? Nước Trời giống như mười trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó có người khôn kẻ dại, họ thao thức đón chàng rể, mong được dự tiệc cưới, họ cùng chuẩn bị dầu đèn, cùng thiếp ngủ, chỉ khác nhau là không mang dầu dự trữ. Người ta mua xe, cần phải có tài xế; cầm đèn đi đón chàng rể, cũng phải mang dầu theo, lãnh nhận đức tin, phải sống đức tin; khôn ngoan ở đời, phải khôn ngoan theo ý Chúa, mới là khôn thật, tỉnh thật.
Được mời gọi đón chàng rể Giêsu, là được yêu thương, là cơ hội tốt, để tham dự tiệc vui muôn đời. Người ta phải dầu đèn đầy đủ, mặc áo cưới xứng hợp, dụ ngôn làm sáng rõ một thông điệp: không tỉnh thức, thiếu sự chuẩn bị là kẻ khờ dại. “Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại”. Khôn ngoan, tỉnh thức, cầm đèn cháy sáng trong tay, chính là sử dụng nén bạc được trao, là sống mến Chúa yêu người, thời giờ, sức khoẻ, hiểu biết, là cơ hội Chúa ban. Để đèn sáng thì phải châm dầu, để không chè chén say xưa, phải ý thức sự giới hạn của mình, tỉnh thức trước bổn phận trách nhiệm được giao. Có duyên mới gặp, hết duyên khó tìm. (KD). Mười trinh nữ và chúng ta hôm nay, tuy khác nhau về điều kiện, thời gian, nhưng ai cũng có cơ hội trở thành người khôn: “các cô khôn mang đèn và dầu đầy bình”.
Khôn hay tỉnh, minh mẫn hay dại khờ, tất cả sẽ rõ ràng khi “nửa đêm có tiếng hô to: kìa chàng rể đến, hãy ra đón người”. Ít nhiều gì chúng ta đã nghe: này kẻ khôn đều có dại, làm người có dại mới nên khôn. Khao khát đủ khôn ngoan và tỉnh thức, hẳn người ta phải cố gắng: ai đâu yêu kẻ ngu si, ai đâu thương kẻ nằm lì đòi ăn ! Tiếng cầu cứu xin giúp em chút dầu sẽ còn vang vọng mãi nơi cuộc sống này, và câu trả lời của người khôn ngoan tỉnh thức không ai chê trách: “e không đủ cho em và các chị, các chị hãy ra hàng mà mua thì hơn”. Khôn ngoan trong Chúa và khôn ngoan ở đời không thể giống nhau, tỉnh thức ở đời là không ngủ, tỉnh thức theo thánh ý Chúa: là nói, là làm, là sống niềm tin bằng tình yêu thương có Chúa.
Thiên San, MTG Thủ Đức
Cuộc sống luôn là những bất ngờ. Quá khứ qua đi, tương lai chưa đến và hiện tại ở trong tay mỗi người. Thực ra, quá khứ, hiện tại hay tương lai như thế nào đều tùy thuộc ít nhiều ở cách ta lựa chọn, cách ta sống. Cuộc sống được nối dài bởi những chọn lựa của mỗi người trong chúng ta. Quá khứ đã qua không còn cơ hội nuối tiếc, tương lai chưa tới ta cũng chẳng thể nắm bắt, chỉ còn duy nhất hiện tại nằm trong tầm tay. Chúng ta không thể biết trước được điều gì sẽ xảy ra cho mình. Sống tỉnh thức và sẵn sàng luôn là thái độ của những người khôn ngoan. Khi kể dụ ngôn “Mười trinh nữ” ra đón chú rể, Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy sự khờ dại và khôn ngoan của các trinh nữ khi cầm đèn đi đón chú rể (x. Mt 25, 1-13). Người cũng mời gọi chúng ta: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” (Mt 25, 13).
Người Do thái có tục lệ ăn cưới ban đêm, không phải rước dâu mà là đón rể. Các trinh nữ với đèn sáng trong tay được chọn đi đón rể. Câu chuyện Đức Giêsu kể rất quen thuộc với văn hóa của người Dothái. Quả thực, cả mười trinh nữ được cử đi đón rể đều có đèn cháy sáng trong tay. Cái khôn hay cái dại của các cô là ở sự chuẩn bị xa. Những cô trinh nữ khôn ngoan vì biết nhìn xa, chuẩn bị dầu đèn kỹ lưỡng. Ngược lại, các cô dại thì chỉ biết cầm đèn sáng trong tay đi đón rể. Họ chưa nhìn xa trông rộng, chưa chuẩn bị dầu đèn kỹ lưỡng như các cô khôn. Chú rể đến muộn, tất cả các cô đều ngủ thiếp đi. Nửa đêm có tiếng la lên: “chú rể kia rồi, ra đón đi” (Mt 25, 7). Lúc này tất cả các cô đều tỉnh giấc, sửa soạn dầu đèn. Bấy giờ các cô dại nói với các cô khôn: “Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” (Mt 25, 9) Các cô khôn đáp lại: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” (Mt 25, 10). Các cô khôn tiếp tục hành trình và được cùng chú rể vào dự tiệc. Sau khi ra hàng mua dầu, quay trở lại thì chàng rể đã đi mất, các cô dại chẳng còn được vào dự tiệc cùng chàng rể.
Chàng rể đến muộn có phải là lỗi của các trinh nữ? Thực ra, việc chàng rể đến muộn là sự có ngoài ý muốn. Giả như chàng rể không đến muộn, có thể cả mười trinh nữ đã được vào dự tiệc cưới cùng chàng rể. Nhưng chỉ khi chàng rể đến muộn, ta mới hay ai dại ai khôn. Tiệc cưới Nước Trời dành cho những ai biết sống tỉnh thức, biết chuẩn bị và luôn sẵn sàng. Là con cái của Chúa, mỗi người cũng được mời gọi sống sự tỉnh thức ấy. Chẳng phải vì ta là con cái Chúa qua bí tích Rửa tội mà được vào dự tiệc cưới Nước Trời nhưng là ở thái độ sống của ta. Ngọn đèn ta lãnh nhận ngày chịu phép Thánh tẩy phải luôn cháy sáng trong cuộc đời chúng ta. Để cho nó cháy mãi, mỗi ngày ta phải bồi dưỡng đời sống đức tin là thứ dầu của tình yêu. Nếu ta chỉ đi lễ đọc kinh thôi thì chưa đủ nhưng để duy trì ngọn lửa ấy, cần lắm một đời sống bác ái yêu thương. Cuộc sống nơi trần gian này là cơ hội để mỗi người chuẩn bị dầu đèn đầy dủ. Hãy tự chuẩn bị dầu đèn cách chu đáo khi còn có cơ hội, đừng để đến giờ cuối mới đi xin. Bởi không ai có thể cho ta điều đó.
Lạy Chúa! Cuộc sống quả bận rộn khiến chúng con dễ bị cuốn vào vòng xoáy tiền bạc, mưu sinh. Nó cũng khiến chúng con chỉ mải mê loay hoay tìm kiếm những của chóng qua đời này mà quên đi đích đến. Nó cũng thường khiến cho chúng con chểnh mảng trong đời sống đức tin. Xin Chúa giúp chúng con biết chọn lựa cách khôn ngoan, biết sống tỉnh thức trong từng giây phút. Nhất là xin giúp chúng con ngay khi ở đời này biết lo lắng chuẩn bị cho đời sau bằng việc sống tin yêu vào Chúa, sống bác ái yêu thương. Đó cũng là đèn và dầu sẽ được thắp sáng trong tay chúng con trên đường di đón chú Rể. Thật hạnh phúc cho chúng con khi được hân hoan vào dự tiệc cưới Nước Trời.
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần XXXII Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta, trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa.
Trên đường về với Chúa, chúng ta thường xuyên bị cản bước tiến, do bởi sự ngu dại của chính mình. Điều mà thế gian cho là khôn ngoan, thì lại là ngu dại đối với Thiên Chúa, ngược lại, khôn ngoan của Thập Giá, thì lại là ngu dại và điên rồ đối với thế gian. Khôn ngoan của thế gian sẽ làm cho chúng ta bị trói buộc, mất tự do; Khôn ngoan của Thập Giá sẽ làm cho chúng ta được thanh thản, hoàn toàn tự do để thực hiện ý Chúa.
Đức khôn ngoan rất cần thiết cho chúng ta trong việc tuân giữ những gì Chúa dạy. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, nhờ ơn khôn ngoan Chúa ban, mà Đanien và các bạn vẫn giữ được Luật Chúa, không ăn những đồ ô uế, ngay tại triều đình vua ngoại đạo: Họ được Chúa ban ơn hiểu nhiều, biết rộng, về tất cả chữ nghĩa, và lẽ khôn ngoan. Chúa cho lòng họ đầy tràn ơn thông hiểu. Khi vua hỏi họ: về bất cứ điều gì, cần đến sự khôn ngoan và tài trí, vua đều được toại lòng. Bài đọc một của Thánh Lễ, được trích từ sách Khôn Ngoan, chỉ với vỏn vẹn 5 câu, mà cụm từ “Đức Khôn Ngoan” được lặp đi lặp lại đến 14 lần: Ai tìm kiếm, khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan sẽ cho gặp.
Bài đọc hai của giờ Kinh Sách cho thấy: Do trí khôn mù tối, chúng ta đã tôn thờ gỗ đá, vàng bạc và đồng là những thứ do con người làm ra, và suốt đời, chúng ta sống mà cũng chỉ như đã chết. Chúng ta bị bóng tối bủa vây và chỉ còn nhìn thấy đêm đen dày đặc. Tuy nhiên, Thiên giàu lòng từ bi, Người không để chúng ta chết trong sự ngu muội của mình, cho nên, Thiên Chúa đã không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chết vì chúng ta, để chúng ta được cùng sống với Người. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.
Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 62, vịnh gia đã diễn tả sự khôn ngoan của mình qua niềm khao khát Thiên Chúa: Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng đã chọn cho ngày lễ hôm nay cho thấy: sự khôn ngoan được diễn tả qua việc tỉnh thức và sẵn sàng: Anh em hãy canh thức và hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Bài Tin Mừng cho thấy năm cô khôn ngoan đã mang đèn và mang theo cả chai dầu. Có lẽ, năm cô khôn này cũng đã bị năm cô dại cười nhạo: rườm rà, phiền phức, mất công. Trước khi chàng rể đến, cả mười cô đều như nhau, cũng ngủ cả, nhưng, khi chàng rể đến, thì đã có một sự khác biệt rất lớn, giữa những cô khôn và những cô dại. Tình yêu sẽ làm phát sinh những sáng kiến. Khôn ngoan là ở chỗ đó. Do đó, thánh Autinh nói: Yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm. Tình yêu đích thực, thì không bao giờ sai lầm. Thiên Chúa là tình yêu, cho nên, Người không bao giờ sai lầm. Người luôn có những sáng kiến để yêu chiều chúng ta. Sáng kiến vĩ đại của Người chính là sự khôn ngoan của Thập Giá, điều mà thế gian coi là ô nhục, và điên rồ. Niềm khao khát đón gặp chàng rể, khiến các cô khôn chuẩn bị thêm cả chai dầu: dù có phiền phức, vất vả, khó chịu một chút, nhưng, lại là sáng kiến khôn ngoan của tình yêu. Tình yêu đáp đền tình yêu, ân tình đền đáp ân tình. Ước gì chúng ta biết khước từ sự khôn ngoan của thế gian, để trở nên ngu dại, và điên rồ vì Đức Kitô, hầu chúng ta luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng với một tình yêu tự do thực thi ý Chúa, để rồi, chúng ta được thong dong cùng Chúa tiến vào Tiệc Cưới.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Tháng 10 năm 2020 có lẽ là tháng ngập tràn đau thương nơi Miền Trung. Mưa lũ đã cuốn trôi và chôn vùi hơn 100 nạn nhân và chôn vùi cả một ngôi làng. Đặc biệt là 22 quân nhân bị chôn vùi ở Hướng Phùng- Quảng Trị, có những người còn rất trẻ, họ ra đi khi tuổi đời chỉ mới đôi mươi. Họ chẳng có vợ con đến đưa tiễn, nhưng nước mắt của những người mẹ thật sự khó diễn tả bằng lời.
Theo báo mới: người mẹ Nghệ An ngồi trong lán trại dã chiến, bà Quyên nói như vô thức rằng con bà cao lớn vừa tròn 20 tuổi. Mấy hôm trước có điện về nhà nói với mẹ vài tháng nữa sẽ ra quân. “Hắn hứa với tôi là ra quân dư 21 triệu đồng sẽ cho mẹ mua tôn lợp lại mái nhà. Hứa mà không giữ lời với mẹ hả con!” –
Và một người cha ở Hà tĩnh có con trai đi bộ đội đã chết bởi lũ ở Quảng Trị nói trong nước mắt: “Chỉ còn mấy tháng nữa là nó ra quân. Ngày nhập ngũ nó hứa với bố mẹ sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự sẽ tiếp tục học đàn để ổn định rồi lập nghiệp, hứa đưa mẹ đi Hà Nội chữa bệnh.
Một người chết đi có liên hệ tới biết bao nhiêu chuyện. Sẽ là bài học về cách sống và cách làm người. Con người sẽ rút ra bài học “có sinh thì có tử”, nhưng chết rồi sẽ về đâu? Phải sống ra sao để khi lìa đời còn có người thân đưa tiễn?
Qua trận lũ lịch sử tại miền Trung với hơn 100 cái chết bất đắc kỳ tử và hàng trăm ngàn ngôi nhà chìm trong nước, cho ta thấy kiếp người thật mong manh. Con người có thể nắm bắt mọi thứ nhưng không nắm được phận số ngắn dài của mình. 13 sĩ quan cao cấp của quân đội bị lũ cuốn tại Rào Trăng 3, 22 quân nhân chôn vùi tại Hướng Phùng, và nhiều người chết thuộc đủ mọi thành phần già trẻ, giầu nghèo đều cũng ra đi trong lúc mình không ngờ và có lẽ cũng chưa chuẩn bị hành trang ra đi.
Nghĩ về kiếp người mong manh. Tin vào sự sống đời sau. Cha ông ta đã lưu truyền cho con cháu những lời khuyên dạy thật hữu ích như câu ca dao:
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau.
Hôm nay Chúa Giê-su đã so sánh nước Trời giống như “những cô khờ dại mang đèn mà không mang dầu theo; còn những cô khôn ngoan thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.” (Mt 25:3-4). Có thể những cô khờ dại này lại cứ tưởng mình khôn lắm, chỉ lo trưng diện thân xác hay ăn chơi bên ngoài mà quên mất tích trữ chất liệu cho hồn bên trong. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Nhưng“đèn nhà ai người ấy sáng”. Ánh sáng của niềm tin, của tình yêu thì không thể vay mượn được. Nên cánh cửa đời sau đã khép lại với những người không đủ đèn sáng trong cuộc đời.
Bài phúc âm hôm nay như nhắc nhở thái độ cần có nơi người ky-tô hữu chúng ta. Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương. Yêu thương thì không có điểm dừng. Yêu thương thì luôn mãi. Yêu thương càng không có ranh giới. Yêu thương mọi người và mọi nơi. Khi chúng ta yêu thương là chúng ta đang thêm dầu vào cuộc đời để thắp sáng tình yêu cho thế gian. Nếu cuộc đời chúng ta không còn yêu thương thì lúc đó ánh đèn cuộc đời ta đã bị dập tắt và chắc chắn không còn đủ ánh sáng đi đón Chúa.
Cuộc đời sẽ kết thúc. Kết thúc lại bất ngờ. Không ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Xin Chúa giúp cho chúng ta đừng bao giờ để mình bị ngụp lặn trong tội lỗi, nhưng luôn sống có mục đích, biết phấn đấu vươn lên không ngừng, biết tránh xa tội lỗi và chu toàn bổn phận của mình. Nhờ vậy, chúng ta mới là những trinh nữ khôn ngoan xứng đáng tham dự tiệc vui thiên quốc. Amen.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Có thực sự là khờ dại không? Vẫn là câu hỏi lớn trong cuộc đời này! Người ta vẫn thấy sự giả trá, lấy cắp lên ngôi. Người ta vẫn thấy những người lương thiện đều chịu nhiều đau khổ, thử thách, gian nan, khi sống với nhiều người bất chính?. Ta hãy đi tìm hiểu từ Lời Chúa.
Năm cô khờ dại, thật ra không khờ dại: “Con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”. (Lc 16, 8)
Đúng là như vậy! vào những thời gian khi viết Tin Mừng này trong xã hội, thánh Luca đang sống. Người giàu có thể thuê mướn người quản lý cho tài sản của mình, dĩ nhiên người này có những tài năng nhưng chưa chắc đã là chân chính. Người quản lý vừa nắm giữ sổ sách, vừa lên kế hoạch kinh doanh, vừa có thể chi tiêu, miễn sao có tiền thêm cho chủ là được. Người quản lý có rất nhiều kinh nghiệm về tài chánh, bất chính thật dễ dàng, bớt xén phần cho mình ngoài số tiền được chia. Người quản lý cũng có nhiều mối làm ăn, cho vay, cho mượn, quen biết hoặc có nhiều kênh làm ăn mờ ám khác, ông chủ đâu có hay.
Các cô khờ dại, dụ ngôn nói tới chỉ khờ dại vì đang bán đời mình đời sau để mong sao kiếm lợi tức từ đời này thôi. Đâu cần nghĩ tới đời sau, cầm đèn, mang dầu làm gì? Chỉ nghĩ tới mình đang sống, ăn ngon, ngủ yên, có nhiều tiền bạc ăn chơi, du lịch hạng sang. Chẳng cần đợi chủ về, lúc nào về lúc đó hay. Không có dầu, dùng tiền mua lại dầu của năm cô trinh nữ khôn ngoan kia. Các cô khôn ngoan đời sau, dại đời này, dễ mua chuộc hoặc là dẻo miệng xin là có thôi. Không được thì đánh cắp.
Vào tuần này chúng ta thấy vấn đề bầu cử tại Hoa Kỳ. Phe cánh tả đâu cần đi vận động chi nhiều. Tới đâu vận động cũng chỉ vài trăm người, lâu lâu còn bị nghe la ó. Nằm nhà, có mấy nhóm hậu sự kia lo. Họ có nhiều phương cách để chiếm lấy phiếu bầu bằng nhiều gian lận. Con cái đời này lắm trò, nhiều chiêu để thắng cuộc bầu cử. Chẳng phải lo vận động dân chúng làm gì nhiều. Có nhiều tiền là có thể làm được hết mọi sự “Cái gì không mua được bằng tiền, sẽ mua được bằng nhiều tiền”. Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng.
“Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34, 20). Trước tiên được Chúa giải thoát, người công chính luôn chịu nhiều thử thách. Những thử thách lắm khi làm nản lòng người công chính, ngay thẳng. Lúc nào cũng cần sự khôn ngoan Chúa ban, đề phòng những mưu chước kẻ dữ giăng bẫy, chơi xấu, gian lận tư bề.
Sự dữ không bao giờ ở một mình, chúng thường liên kết với nhau một cách chặt chẽ, tìm mưu hại người lành. Chúa Giêsu bị nộp cho người đời, đến tòa án Philatô, rồi chuyển qua tòa án Hêrôđê, từ đó Philatô và Hêrôđê kết thân với nhau (Xem Lc 23, 8 – 12). Người công chính, ngay lành đôi khi bị dụ dỗ hay chia rẽ nhau. Đó là nguyên cớ làm cho những người công chính, ngay lành thường hay chịu đơn độc, chỉ một số ít người tiến lên cùng nhau. Chúa nói qua lời ngôn sứ Isaia, số còn lại là con số quan trọng để chiến thắng: “Số sót sẽ trở lại – số sót của Yacob – với Thiên Chúa anh dũng. Vì dẫu dân ngươi như cát biển, hỡi Israel, trong chúng cũng chỉ có một số sót sẽ trở lại, án tận tuyệt đã định tràn lụt công minh. Quả vậy án tận tuyệt, điều đã phân định, Ðức Chúa Yavê các cơ binh đang thi hành ở giữa toàn cõi đất.” (Isaia 10, 21 -23).
Tin tưởng vào Thiên Chúa là niềm tin của người công chính ngay lành, họ chiến đấu với mưu chước thù, Thiên Chúa là Đấng ở với họ, là khiên che, thuẫn đỡ họ: “Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính, còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong.” (Tv 1, 6)
Chúng ta cần liên kết với Chúa như năm cô khôn ngoan trong Tin Mừng, dầu đèn cháy sáng trong tình yêu với Chúa, liên kết với anh chị em của mình, đối diện với sự dữ, gian dối, mưu chước kẻ thù.
“Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).
Jorathe Nắng Tím
Chúng ta vừa mừng lễ các Thánh Nam Nữ, và cầu nguyện đặc biệt cho các linh hồn. Các bài đọc của Chúa Nhật hôm nay còn ở trong bầu khí của hai ngày lễ lớn Giáo Hội vừa mừng, khi đề cập đến chính cái chết, và mầu nhiệm của đời sống mới, nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu.
Bài đọc thứ nhất trích từ thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Têxalônica, được coi là bản văn cổ nhất của Kitô giáo là câu trả lời của thánh nhân, cũng là của Giáo Hội về vấn đề những người đã chết : “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” (1 Tx 4,13-14).
Nhưng “những người đã an giấc trong Đức Giêsu” để “được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” là ai?
Thưa là những người khôn ngoan, những người có đức khôn ngoan, vì đức khôn ngoan “bảo đảm được trường sinh bất tử. Truờng sinh bất tử cho ta được ở bên Thiên Chúa” (Kn 6,18-19).
Chân lý này được Đức Giêsu khẳng định trong dụ ngôn “Mười trinh nữ”. Trong số mười cô, có năm cô khờ dại “mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn ngoan “thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo” (Mt 25,2-5). Vì chàng rể đến muộn, “nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả”. Đến khi chàng rể đến, thì các cô khờ dại tất tả đi mua dầu, nhưng không ai chờ ai, nên chỉ năm cô khôn ngoan có đèn đốt sáng trong tay “được theo chàng rể vào dự tiệc cưới” (x. Mt 5-10).
Nghe dụ ngôn, chắc hẳn chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước sự khờ dại của những cô mang đèn mà không mang dầu. Nhưng rất tiếc, đó là sự khờ dại của chính chúng ta trong đời sống thiêng liêng.
Chúng ta khờ dại vì thiếu khôn ngoan khi nghĩ rằng mình bất tử, và sẽ không bao giờ có ngày phải rời bỏ cuộc đời này ; chúng ta khờ dại khi thả trôi thời gian cách vô ích mà không chuẩn bị hành trang cho chuyến đi vào đời đời ; chúng ta khờ dại khi tưởng mình biết hết mọi sự và làm chủ mọi hoàn cảnh, tình huống để rồi đến giờ Chúa gọi phải ra đi lại cuống quýt thất thần, vì chưa sẵn sàng ; chúng ta khờ dại khi sống như người không thuộc về Chúa, không cần đến Chúa, không tương quan với Chúa, để khi hữu sự, chính chúng ta sẽ tự nghi nan, tuyệt vọng vì không quen bám víu, cậy trông vào Chúa, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Thực vậy, Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cảnh báo chúng ta phải khôn ngoan, không được khờ dại, bởi khờ dại sẽ không được gặp Ngài khi Ngài đến, khờ dại sẽ lỡ chuyến đò cùng Ngài xuôi dòng Hạnh Phúc, khờ dại sẽ mất cơ hội đi với Ngài vào Nước vinh quang của Ngài.
Đức Giêsu cảnh báo nhưng không đe dọa, làm sợ, mặc dù hậu qủa dành cho những cô trinh nữ khờ dại sẽ là câu trả lời không mấy dễ nghe của chàng rể : “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” (Mt 25,12). Ngài chỉ nhắc nhở chúng ta phải khôn ngoan chuẩn bị hành trang cần thiết cho buổi gặp gỡ đời đời với Thiên Chúa, khi giờ chết đến.
Chuẩn bị hành trang bằng trái tim khao khát tìm kiếm Thiên Chúa, bằng tâm hồn khiêm tốn phụng sự Chúa và phục vụ anh em, bằng cõi lòng luôn mở rộng để đón nhận ơn thương xót của Chúa và sự tha thứ của anh em.
Hành trang là “đèn đầy dầu luôn được thắp sáng” trong suốt hành trình dương thế. Đó chính là Đức Tin được biểu hiện sống động qua đời sống Cầu Nguyện và Bí Tích ; là Đức Tin được nuôi lớn mỗi ngày bằng việc làm thiết thực của Đức Ái ; là tình yêu quên mình được thể hiện qua đời sống khiêm hạ phục vụ.
Và trên tất cả, cũng là khởi điểm của hành trình đi gặp Chúa là lòng khát khao Thiên Chúa, khát khao được hoàn toàn thuộc về Chúa như lời thánh vịnh 62:
“Lậy Thiên Chúa là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước… Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài. Qủa thật, Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui” (Tv 62,2.7-8).
Bông hồng nhỏ
Trong cuộc sống, có nhiều tình huống xảy đến bất ngờ khiến cho ta không trở tay kịp, chỉ vì ta đã không có sự chuẩn bị trước. Cũng vậy, khi tình yêu Chúa trong ta không đủ mãnh liệt, ta cảm thấy thật khó để có thể yêu thương những người bên cạnh ta, thật khó hơn nữa khi phải yêu thương người đã làm ta tổn thương. Chúa đến bất ngờ lắm! Nếu đang khi ta còn giận một người, chưa tha thứ cho ai kia, bất ngờ Chúa gọi ta về, ta phải làm sao? Ta không sẵn sàng, vì thế ta sợ hãi.
Hôm nay, Chúa Giêsu kể cho ta nghe về dụ ngôn mười trinh nữ cầm đèn đi tiếp đón chàng rể: năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Chú rể đến chậm và tất cả đều ngủ thiếp đi. Cả mười cô trinh nữ đều gặp phải những thử thách giống nhau. Họ đều phải kiên nhẫn chờ đợi trong đêm khuya. Tất cả đều quá mỏi mệt và họ đã ngủ thiếp đi trong lúc chờ đợi. Bất ngờ, nửa đêm có tiếng hô lớn: “Chú rể kia rồi, ra đón đi!” (Mt 25, 6). Họ bừng tỉnh, vội vàng sửa soạn đèn dầu để ra đón chàng rể. Thế nhưng chỉ có năm cô khôn ngoan có dầu để thắp sáng. Năm cô khờ dại không mang sẵn dầu theo và họ đã phải ra hàng quán để mua. Đang khi họ đi mua thì chàng rể tới. Chỉ có năm cô khôn ngoan được vào dự tiệc, năm cô khờ dại chẳng được vào dự tiệc cưới. Ta là ai trong mười cô trinh nữ ấy?
Mỗi ngày, Lời Chúa vẫn hối thúc trong tâm hồn ta: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Lòng ta vẫn âm vang một lời mời gọi thật đẹp. Trái tim ta có sẵn sàng mở ra để cho Thánh Thần tình yêu thiêu đốt tất cả những giận hờn, ghen ghét, đố kỵ là những đứa con đẻ của sự kiêu ngạo không? Năm cô khờ dại cũng khao khát vinh dự được đón chàng rể, được vào dự tiệc cưới như năm cô khôn ngoan. Họ cũng đã phải chờ đợi, cũng đã ngủ thiếp đi trong sự mỏi mệt như năm cô khôn ngoan. Tại sao họ không được vào dự tiệc cưới? Vì, họ đã không mang dầu dự phòng. Chàng rể đến chậm là một tình huống bất ngờ, không dự đoán trước được. Dầu đã có sẵn trong đèn sẽ vơi cạn theo thời gian. Bởi đó, cần phải mang theo dầu dự phòng. Đèn được thắp sáng nhờ có dầu. Ánh sáng được ví như đức tin của ta, dầu là lòng mến. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: “Cao trọng hơn cả vẫn là đức mến” (x. 1 Cr 13, 13). Cuối cùng, lòng mến sẽ giúp cho ta có khả năng thực hành thánh ý Thiên Chúa đến cùng. Lòng mến của ta sẽ chiếu sáng đến cùng. Không có lòng yêu mến, mọi việc ta đã làm xem như uổng công.
Ai có lòng mến, đức tin sẽ được diễn tả ra hành động và người khác sẽ nhận ra ánh sáng của họ, người khác cũng sẽ được vui hưởng ánh sáng của họ. Lòng mến Chúa và yêu người được ví như dầu cần phải có để có thể thắp sáng đức tin mỗi ngày. Tự sức mình, ta không thể gia tăng lòng yêu mến ấy được. Mỗi ngày, ta đều được đặt trước hai chọn lựa: chọn đứng về phía Thiên Chúa hay chọn theo Satan. Muốn trở thành chiến sĩ của Đức Kitô, ta phải sẵn sàng mặc lấy binh giáp là Lời Chúa. Lời Chúa là khiên thuẫn chở che ta, giúp ta chiến đấu đến cùng. Hãy mang lấy tâm tình của Chúa Kitô, để Người làm cho trái tim ta được lớn lên hơn nữa, được mở ra đón nhận tất cả mọi người. Mỗi ngày một giọt dầu yêu thương, ta sẽ có đủ dầu để thắp sáng cho đến giờ sau hết.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết con yếu đuối và thiếu lòng yêu mến Chúa. Chúa đã yêu con đến cùng, Chúa muốn con được sống trong tình yêu thương của Chúa. Xin giúp con biết chọn yêu Chúa và thực thi ý Chúa với cả tình yêu nơi trái tim của con. Để nhờ đó, ngọn đèn đức tin nơi con luôn cháy sáng. Amen.
Anna Cỏ may
Khi đi đâu xa, chúng ta thường phải tính toán xem mình cần phải đem theo những gì và đem bao nhiêu là đủ. Nhưng có một số người thì khác, họ không cần tính, đi đến đâu họ mua ở đấy. Đó là sự tính toán riêng của mỗi người. Tuy nhiên, có những điều mà chúng ta không thể không tính toán và chuẩn bị sẵn sàng trước được.
Trong Tin Mừng Mátthêu, có mười cô trinh nữ cầm đèn đi rước chàng rể. Năm cô khôn cầm đèn và mang theo dầu, còn năm cô khờ dại mang đèn mà không mang dầu theo. Khi chàng rể đến chậm, các cô thiếp đi. Nửa đêm có tiếng hô: “Chàng rể đến rồi kìa, ra đón đi”. Bây giờ, năm cô khờ dại đến xin năm cô khôn chút dầu vì đèn sắp tắt. Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mua lấy thì hơn”. Đang lúc các cô khờ dại đi mua thì chàng rể đến. Năm cô khôn ngoan đã sẵn sàng nên được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Còn năm cô khờ dại đã không được vào vì cửa đã đóng (x. Mt 25, 1-13).
Với lối văn ẩn dụ, Chúa Giêsu ví đèn là đức tin, dầu là lòng mến. Đức tin không được tỏa sáng là đức tin chết (x.Gc 2,17). Nhưng nếu chỉ có đức tin mà không có lòng mến chẳng khác nào như những người Pharisêu hay nhóm Kinh sư. Họ tin có Thiên Chúa và giữ luật rất ngặt, nhưng họ thiếu lòng mến. Họ nói mà không làm (x.Mt 23,1-12). Vì vậy, Chúa Giêsu mời gọi những ai mang đèn hãy mang dầu theo. Chúng ta phải luôn luôn có dầu trong cuộc sống. Để luôn luôn có dầu, đòi hỏi chúng ta cần có sự tìm kiếm và chắt lọc, suy tính và chọn lựa. May mắn thay, chúng ta không phải tìm kiếm ở đâu xa mà đã có ở nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng ban phát cho tất cả mọi người qua Bí tích Thánh Thể, Lời Chúa và trong các lời kinh hằng ngày. Bên cạnh đó, chúng ta còn có Mẹ Maria, Mẹ sẽ giúp chúng ta chắt lọc dầu mến trong cuộc sống qua những hy sinh đau khổ thường ngày. Có thế, chúng ta mới luôn có dầu để sẵn sàng thắp sáng khi Chàng Rể đến. Vì Chàng Rể của chúng ta luôn đến một cách bất ngờ.
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con. Chúa biết chúng con đang sống trong một xã hội hưởng thụ, một xã hội chủ nghĩa cá nhân. Cuộc sống này khiến chúng con chỉ mải mê đi tìm và tích trữ những gì thuộc về thế gian, quên đi việc chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Xin Chúa hãy đánh thức, biến đổi chúng con trong từng ngày sống để nhờ đó, chúng con biết quay trở về với Chúa là suối nguồn tình yêu và sống một cuộc sống hạnh phúc bên Chúa. Amen.
Thiên San
Ở quê, mỗi lần mất điện bất ngờ, cả làng liền ồ lên; rồi khi có điện trở lại, mọi người cùng reo hò mừng vui. Quả thật, nếu như không có ánh sáng của đèn điện, đèn dầu, nến… làm sao ta có thể nhìn thấy sự vật trong đêm tối, và sẽ thật khó khăn để có thể làm gì. Ngày xưa, người Do Thái thường có truyền thống rước rể ban đêm. Bởi đó, đèn và dầu là những thứ rất cần thiết cho việc di chuyển trong đêm. Hôm nay, khi kể về dụ ngôn “Mười trinh nữ”, Đức Giêsu dùng chính truyền thống đó để dạy chúng ta phải luôn canh thức để có thể sẵn sàng đón “Chàng Rể” đến bất cứ lúc nào.
“Are you ready?”- Bạn đã sẵn sàng chưa? Có lẽ, chúng ta cần trả lời câu hỏi đó trước khi bắt tay làm một việc gì đó. Tâm thế sẵn sàng sẽ giúp chúng ta thêm tự tin để bắt đầu và nó cũng là yếu tố quan trọng để có được thành quả tốt đẹp. Vậy để sẵn sàng bắt đầu một việc gì đó, chúng ta không thể không có bước chuẩn bị. Thật vậy, khi đã chuẩn bị mọi thứ, tính toán, cân nhắc tính khả thi, lường trước những khó khăn để từ đó vạch ra những kế hoạch, phương pháp thực hiện, chúng ta sẽ thật sự sẵn sàng thực hiện. Chẳng hạn, khi muốn xây một ngôi nhà, chúng ta phải ngồi lại tính toán các phí tổn, số vốn hiện có, quy mô, kiểu cách… để biết được mình có thể xây một ngôi nhà vào thời điểm này hay không. Hoặc khi muốn có một giờ nguyện ngắm tốt, ta cũng phải chuẩn bị bằng việc dọn gẫm. Cuộc sống luôn có những điều bất ngờ. Bởi vậy, ta cần phải luôn sẵn sàng để có tể đón lấy những cơ hội cũng như đối phó với những sự cố có thể xảy ra.
Đức tin dạy ta biết rằng, sự sống đời này chỉ là đời tạm, sự sống đời đời nơi Nước Trời mới là sự sống đích thực. Hành trình dương thế là cơ hội để ta tiến về quê hương đích thực. Chúng ta phải luôn chuẩn bị sẵn sàng “đèn” và “dầu” đủ cho cuộc hành trình. Trong chúng ta, ai có thể biết được ngày giờ Chúa gọi ta về diện kiến Thánh Nhan. Khi kể dụ ngôn “Mười trinh nữ”, Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải sẵn sàng tỉnh thức “vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13). Sở dĩ các trinh nữ “khôn ngoan” được vào dự tiệc cưới cùng “Chàng Rể” là vì đèn và dầu của họ vẫn cháy sáng, và còn đủ cho cuộc hành trình. Đang khi chơi cùng đám bạn, thánh Đaminh Saviô được hỏi rằng: “Nếu Chúa đến vào lúc này thì con sẽ làm gì?” thì ngài đã trả lời: “Con vẫn tiếp tục chơi”. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu đã giúp ngài luôn sẵn sàng chờ đời Chúa đến. Còn chúng ta, ngay bây giờ, nếu Chúa đến và gọi, chúng ta có sẵn sàng đi theo Chúa? Thật sự rất khó để sẵn sàng nếu đời sống ta còn nhiều “dở dang”, thiếu bác ái yêu thương, vẫn còn đó những lầm lỗi. Chúng ta hãy bắt chước các trinh nữ khôn ngoan biết chuẩn bị đèn dầu đầy đủ để dù “Chàng Rể” có đến muộn ta vẫn có thể đi theo Ngài vào dự tiệc cưới. Đèn và dầu của chúng ta là gì? Phải chăng là tình yêu và sự gắn bó với Chúa? Hay là một đức tin luôn cháy sáng trong những hành động bác ái đầy yêu thương ta dành cho Thiên Chúa và tha nhân? Hoặc là những nhân đức ta thủ đắc và tập luyện khi sống đức tin? Sự sẵn sàng của ta phải luôn luôn. Ta không thể chỉ yêu hôm nay nhưng là mọi ngày trong đời. Tình yêu trong ta phải được thắp lên bằng ngọn lửa của Thánh Thần, thôi thúc ta sống cho Chúa và tha nhân, làm tất cả chỉ vì tình yêu dành cho Ngài. Để chuẩn bị đầy đủ đèn dầu, thiết nghĩ, mỗi người phải tự mình trả lời được câu hỏi: Đèn và dầu của tôi là gì?
Lạy Chúa! Chúng con tha thiết dâng lên Chúa lời ca cảm tạ vì tình thương Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con biết tận dụng mọi cơ hội Chúa ban trong từng ngày sống để mỗi ngày chúng con khám phá ra “đèn” và “dầu” của mình để biết chuẩn bị đầy đủ mọi thứ khi còn thời gian. Nhờ đó, chúng con có thể sẵn sàng cùng “Chàng Rể” là chính Đức Kitô vào dự tiệc cưới. Amen.
Lm Vũđình Tường
Tiệc cưới là thời gian đặc biệt. Đặc biệt vì đây là ngày đầu một gia đình được thành lập. Quan trọng hơn nữa là ngày này bắt đầu có những thay đổi lớn trong đời của đôi hôn nhân. Thay đổi đầu tiên là giã từ cuộc sống độc thân. Kế đến là nhận thêm họ hàng, thân thuộc hai bên. Đang từ kẻ xa lạ nay trở thành con, dâu, rể trong gia đình. Thay đổi kế tiếp là trở thành anh chị em trong đại gia đình mới, nhận thêm bà con họ hàng mới. Tóm lại thay đổi chính là từ người xa lạ thành người thân trong gia đình, với những liên hệ tình cảm mới. Đức Kitô dùng hình ảnh tiệc cưới trần gian diễn tả, giúp Kitô hữu hiểu biết thêm về những thay đổi tâm linh trong nước trời. Liên hệ Tâm linh khởi đầu bằng bí tích Thanh Tẩy. Qua bí tích Thanh Tẩy chúng ta trở thành con cái Chúa, là thành viên trong Giáo Hội Chúa, thành anh chị em trong đại gia đình Kitô hữu. Những thay đổi này bắt đầu nơi trần gian và hoàn thành, viên mãn nơi Thiên Quốc. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thesaonica 4,13-18 viết: ‘Về những ai đã an giấc ngàn thu, tôi không muốn để anh em không hay biết, hầu anh em khỏi buồn phiên như những người khác, là những người không có niềm hy vọng…Dức Jêsu đã chết và đã sống lại… những người đã an giấc trong Đức Jêsu, cũng sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Jêsu… chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi’.
Dụ ngôn tiệc cưới nói về mười trinh nữ, năm khôn ngoan và năm khờ dại. Vì chàng rể đến chậm hơn theo chương trình nên tất cả đều mỏi mệt, thiếp ngủ. Ngủ không gây phiền toái gì. Phiền toái xuất hiện khi nghe loan báo chàng rể đến. Các cô khờ dại nhận biết đèn hết dầu, nên hỏi mượn dầu từ các cô khôn ngoan. Các cô từ chối và khuyên nên đi mua dầu ngoài chợ. Trong lúc các cô đi mua dầu, chàng rể đến. Có dầu rồi trở lại, tiệc cưới đã bắt đầu và cổng khoá chặt. Các cô kêu gọi nhưng không ai mở cho. Cái khờ dại đầu tiên là không chuẩn bị mang thêm dầu. Từ đây phát sinh ra nhiều cái dại khác. Thứ nhất tính kĩ quá, chắc quá hoá lép. Cần phải trừ hao trong việc tính toán. Thứ hai, các cô hỏi mượn dầu trong đêm là một sai lầm khác. Nếu mỗi cô khờ dại xin đi chung với một cô khôn ngoan, như thế cả hai cùng đi trong ánh sáng và cùng vào dự tiệc cưới. Việc đi mua dầu khiến cho người khác hiểu lầm là dầu (vật chất) quan trọng hơn đón chàng rể (con người). Việc làm này dẫn đến giải thích là vật chất quan trọng hơn con người. Những cô khôn ngoan đặt vấn đề đón chàng rể là quan trọng nhất; những cô khờ dại coi việc mua dầu quan trọng hơn cả. Sau khi vào dự tiệc cưới thì số dầu dự trữ, thừa thãi kia có lẽ sẽ chẳng bao giờ dùng đến. Như thế việc vay dầu và trả dầu trở thành thừa thãi. Hơn nữa sau tiệc cưới người cho vay dầu phải lưu lại chờ đợi cho các cô đi mua dầu về trả là một phiền toái lớn. Rất có thể lỡ cả chuyến xe về. Từ chối xem ra có vẻ khôn ngoan hơn, ít phiền toái hơn cho vay dầu. Thứ đến, việc từ chối không cho mượn dầu có thể là do liên hệ tình cảm giữa các cô lạnh nhạt. Thiếu tình cảm dẫn đến thiếu thông cảm. Điều các cô cần là dầu thì không được, các cô nhận được điều không cần là lời khuyên. Dù là lời khuyên đến từ người khôn ngoan. Điều này cho biết không ai suốt đời khôn, và cũng không ai suốt đời khờ. Kẻ khôn cũng có lúc dại; người dại cũng có lúc khôn. Trên đường lữ hành mà có bạn đồng hành là điều may lành. Không thân thiết với bạn đồng hành là một cái dại lớn bởi bạn đồng hành là người không những cùng đi với, chia sẻ tâm tình, vui cùng hưởng, hoạn nạn cùng chịu và nguy hiểm cùng bảo vệ, hỗ trợ.
Dụ ngôn tiệc cưới nhắc nhở Kitô hữu cần chuẩn bị kĩ cho tiệc cưới nước trời, tiệc cưới vĩnh cửu. Thời gian ta tại thế không nằm trong tay ta, không biết ngày nào, giờ nào vì thế cần chuẩn bị trước. Chuẩn bị bằng cách tạo mối giây liên hệ tình cảm tốt đẹp với Thiên Chúa và với tha nhân. Đây chính là những điều kiện cần thiết để được đón nhận vào nước trời. Tóm lại, chuẩn bị chính là thực hành cuộc sống yêu Chúa, thương người.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tỉnh thức và sẵn sàng là điều quan trọng hơn cả, nên Chúa tiếp tục dùng dụ ngôn nhắn nhủ chúng ta. Câu chuyện những cô gái được mời cầm đèn, làm hàng rước danh dự đi đón chàng rể, theo phong tục cưới hỏi, được Chúa dùng để diễn tả một vài khía cạnh của sự sẵn sàng ấy. Đám cưới thường tổ chức vào buổi tối mùa hè, khí trời mát mẻ. Chàng rể đến nhà đàng gái còn phải qua nhiều thủ tục, nhất là chuyện trao của hồi môn, trước khi đưa được cô dâu ra khỏi nhà. Trong khi đó đoàn rước dâu phải chờ. Cô dâu được chú rể rước về nhà trai, người ta nhảy múa ngoài sân cho tới khi đèn cạn dầu mới vào nhà, đóng cửa lại và nhập tiệc.
Chuyện Chúa kể chia 10 cô gái thành hai nhóm khôn và khờ, mỗi nhóm năm cô. Nhóm khôn mang đèn và mang theo dầu dự trữ, nhóm khờ mang đèn mà không mang dầu dự trữ. Chàng rể bị chậm trễ vì thủ tục ở nhà gái nên tới trễ. Cả mười cô cầm đèn danh dự đều ngủ thiếp đi. Nghe tiếng hô bừng dậy thì đèn nào cũng tắt vì cạn dầu. Nhóm khôn có dầu dự trữ thì thắp đèn lên, nhóm khờ đi xin dầu không được, phải đi mua. Nhóm khôn sẵn sàng thì nhập đám rước vào nhà. Nhóm khờ đi mua được dầu về tới nơi thì cửa đã đóng vì tiệc cưới đã bắt đầu. Nhóm khờ bị từ chối không cho vào dự tiệc. Chúa nhắc lại điệp khúc: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào.”
Chúng ta tự hỏi, “dầu dự trữ” ở đây có ý nghĩa gì? Khôn và khờ đều thiếp ngủ cả. Cái khác của nhóm khôn là có mang theo chai dầu dự trữ, nên đèn vẫn sẵn sàng. Nhưng không chia cho nhóm khờ được. Vậy thì “đèn và dầu” ở đây phải là cái gì sâu thẳm trong mỗi người để lúc nào cũng có thể soi sáng con đường mình đi. Việc Chúa chia ra hai nhóm khôn và khờ, nhắc ta đi tìm ý nghĩa trong văn chương khôn ngoan của Cựu Ước. Đặc biệt sách Châm Ngôn, chương thứ chín kể dụ ngôn Đức Khôn Ngoan mở tiệc đãi khách và Mụ Khờ Dại cũng nhái theo, ngồi mời mọc kẻ qua người lại. Khôn Ngoan mời: Hãy đen mà ăn bánh của ta và uống rượu ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết… Nhờ ta con sẽ được sống lâu và tăng thêm tuổi thọ. Nếu con khôn thì chính con được hưởng, còn con ngoan cố thì gánh chịu một mình.
Còn “thực khách Mụ Khờ Dại mời, lại phải ở trong chốn âm ty sâu thẳm” (Cn 9,1-18). Những lời nhắn nhủ Chúa đưa ra trong bài giảng này và các dụ ngôn đều xoay quanh sự khôn ngoan, sống theo đường lối của Chúa, đừng để bị lừa dối bởi các kitô giả và ngôn sứ giả. Sự khôn ngoan của Tin Mừng được đón nhận và nắm giữ nhờ đức tin, là đèn và dầu của chúng ta. “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24, 13).(x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Matthêu, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).
Sự khôn ngoan của các cô trinh nữ là luôn tỉnh thức, tay cầm đèn cháy sáng trong tay và mang theo dầu dự trữ. Có thể hiểu “đèn cháy sáng” là luôn sống dưới ánh sáng hướng dẫn của Chúa và “dầu dự trữ” là những việc lành phúc đức như “của gởi về đời sau”.
Dụ ngôn Muời Cô Trinh Nữ được đặt trong bối cảnh chuẩn bị kết thúc năm Phụng Vụ.Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ. Chúa Kitô quang lâm vào ngày tận cùng của lịch sử là điều không ai có thể đoán trước được. Người Kitô hữu được diễn tả như các trinh nữ đi đón chàng rể. Trong số các trinh nữ đó, có năm cô khôn ngoan và có năm cô khờ khạo. Họ đều là phù dâu nhưng khôn và khờ khác nhau ở chỗ là mang theo dầu dự trữ.
Họ giống nhau ở ba điểm: Tất cả đều mang theo đèn. Tất cả đều nhắm đến một mục đích là đi đón chàng rể. Tất cả đều ngủ thiếp đi vì chàng rể đến chậm. Nhưng họ chỉ khác nhau có một điểm: các cô khôn biết lo xa nên mang dầu đầy đủ, các cô khờ không biết chuẩn bị dầu phòng xa nên đèn tắt. Các cô khôn được theo chú rể vào dự tiệc cưới hạnh phúc. Còn các cô khờ bị đuổi ra ngoài.
Nếu đức tin được ví như đèn, thì đức mến được ví như dầu. Đèn đức tin phải có dầu đức mến. Thiếu dầu đức mến, ngọn đèn đức tin sẽ tắt. Chỉ có dầu tình yêu mới thắp sáng được cây đèn đức tin của người tín hữu. Thánh Gioan viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.Cuộc đời và thế giới này rồi sẽ chấm dứt. Chúa sẽ đến ngày kết thúc đời người và dẫn vào dự tiệc Nước Trời. Mỗi người đều có đèn trong tay. Quan trọng là mình có chuẩn bị để ngọn đèn ấy cháy sáng vào lúc chung cuộc không. Quá muộn nếu đến lúc ấy chúng ta mới vội vã đi mua dầu.
Thiên Chúa muốn đưa con người vào tiệc cưới Nước Trời. Con người cần phải chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về số phận đời đời của mình. Không ai có thể làm thay cho mình được.
Giờ phút long trọng và quyết định, đó là lúc chàng rể xuất hiện, lúc ấy mỗi người chuẩn bị đèn cháy sáng của mình. Đến lúc này mới thấy là ai khôn và ai dại, ngọn đèn của các cô khôn ngoan vẫn còn cháy sáng, còn ngọn đèn của các cô khờ dại đã tắt từ lâu. Vào phút giây long trọng ấy, không ai có thể giúp mình được. Các cô khờ dại không thể xin dầu của ai được. Người khôn ngoan biết xác định cùng đích cuộc đời của mình và chuẩn bị những gì cần thiết để đạt được cùng đích đó. Người khờ dại không biết phải chuẩn bị những gì.
Ai cũng phải đối diện với ngày cuối cùng cuộc đời là giờ chết, phút giây ấy không ai giúp ai. Mỗi người theo sự khôn ngoan hay khờ dại đón nhận số phận chung cuộc.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng!
Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cạn dần. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi. Lời kinh có đôi khi cũng phôi pha. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi suối nguồn yêu thương chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính Mình Thánh Chúa làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.
Trước khi tắt thở, Thánh Têrêxa Avila môi mấp máy nói lên với Chúa :“Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”. Thánh Têrêxa Giêsu Hài Đồng thân thưa: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa” và ngài ra đi bình an. Hai trinh nữ khôn ngoan đã cầm đèn cháy sáng Tin Yêu ra đón Chúa và đã được gặp gỡ “Đấng Tình Quân” muôn thuở của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin vững vàng và lòng yêu mến nồng say để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.Amen.
Trầm Thiên Thu
Kinh Thánh cho biết nguồn gốc của đức khôn ngoan: “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời.” (Hc 1:1) Sự khôn ngoan được tác thành trước vạn vật (Hc 1:4) thì chắc hẳn rất cần thiết cho muôn loài, nhất là con người. Nhưng không phải bất cứ ai muốn cũng được, Thánh Mark Khổ Tu cho biết: “Chỉ có những người mù lòa trước tất cả những gì không phải là Thiên Chúa mới được Người ban tặng ơn khôn ngoan, cho họ nhìn thấy Người rõ nhất.” Một giá phải trả rất đắt, không bình thường chút nào!
Chính Thiên Chúa “đã tạo dựng, đã thấy, đã đếm và làm cho khôn ngoan nổi bật trên mọi công trình, nơi mọi phàm nhân, theo lòng quảng đại của Người, và Người đã rộng ban khôn ngoan cho những ai yêu mến Người.” (Hc 1:9-10) Quả thật, khôn ngoan là một nhân đức vô cùng cần thiết trong cuộc sống. Người khôn ngoan nhận biết các dấu chỉ thời đại, tiên liệu và dự phòng điều có xảy ra bất ngờ. Khôn ngoan không có nghĩa là học cao, vì có cả một bụng chữ cũng chưa chắc khôn ngoan. Người không học nhiều nhưng vẫn có thể khôn ngoan. Sống lâu cũng chưa chắc khôn ngoan hơn người ít tuổi. Menander (342-291 trước công nguyên) xác định: “Tóc bạc không sinh ra sự khôn ngoan.” Ai khiêm nhường cầu xin thì Thiên Chúa ban cho, để làm sáng danh Ngài chứ không để “chà đạp” người khác.
Mọi thứ đều có tính liên đới, cái này liên quan cái khác, con người cũng vậy, kể cả tội lỗi cũng có tính liên đới. Khôn ngoan là một nhân đức có liên quan sự tỉnh thức hoặc sự cảnh giác. William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) so sánh: “Khắc ghi một sự thật lớn lao vào trí nhớ là đáng nể, nhưng khắc ghi sự thật đó vào đời mình mới là khôn ngoan.” Sách Giảng Viên cho biết: “Người khôn biết mở mắt nhìn, kẻ dại bước đi trong tăm tối.” (Gv 2:14) Thật tai hại nếu thiếu khôn ngoan, mặc dù chưa đến nỗi ngây dại hoặc ngu xuẩn.
Tín nhân là người thực sự diễm phúc, vì được ơn khôn ngoan từ khi mới thành hình hài: “Bước đầu của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, ngay từ lúc thành hình trong lòng mẹ, các tín hữu đã được ơn khôn ngoan.” (Hc 1:14) Đó là nền tảng, cần phát triển thêm. Càng có chức quyền càng cần khôn ngoan. Người ta phải đạt được sự khôn ngoan để có thể dùng tốt quyền lực đó, nếu không sẽ rất nguy hiểm. Xã hội Việt Nam ngày nay cho chúng ta thấy rõ mối nguy hiểm khôn lường bởi những kẻ thiếu khôn ngoan nhưng lại lớn chức, to quyền. Dân bị hành tới tận cùng bảng số.
Kinh Thánh xác định: “Con người ta dẫu thập toàn đi nữa mà chẳng có Đức Khôn Ngoan của Ngài, thì cũng kể bằng không không vậy.” (Kn 9:6) Rõ ràng là sự khôn ngoan vô cùng cần thiết.
ƠN KHÔN ĐỨC NGOAN
Theo Việt ngữ, chúng ta có thể “tách đôi” khôn ngoan thành Khôn và Ngoan – Khôn là một hồng ân, Ngoan là một nhân đức. Vua Salômôn thực sự khéo léo khi xin Chúa ban cho được khôn ngoan và hiểu biết để lãnh đạo dân. Và rồi ông đã có mọi thứ, vì điều ông xin đã làm Thiên Chúa hài lòng: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi.” (1 V 3:11-13; 1 Sb 1:11-12) Có rồi thì được cho thêm, hơn cả những gì mong ước.
Sự khôn ngoan vô cùng cần thiết: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà.” (Kn 6:12-14) Có mấy “điều nhỏ” có thể rất cần cân nhắc để phân định:
[1] Chỉ biết sáng đi làm, chiều về nhà, rồi ăn uống, xem ti vi, lướt web, và ngủ, thì chẳng khác gì động vật;
[2] Chỉ có ý ăn cắp cái gì đó của người khác thì cũng là điều tồi tệ nhất của cuộc đời;
[3] Làm thầy mà không dạy học trò biết ham học thì đó là người thầy kém cỏi, không đáng làm thầy;
[4] Học trò mà không biết lắng nghe thầy cô giảng bài thì là học trò ngu dốt, vô trách nhiệm với chính mình, chẳng hy vọng gì mai sau;
[5] Người có tình bộp chộp, nóng vội gây ảnh hưởng xấu cả tinh thần và thể lý, ảnh hưởng xấu tới những người xung quanh, xét về phương diện tinh thần thì người đó không hơn con chó giữ nhà;
[6] Sống mà thụ động, không ước mơ, luôn than phiền, người đó chẳng khác loài tầm gửi, chỉ biết bám víu vào cây khác để hút nhựa sống, hoặc như loài đỉa hút máu người khác để sống.
Mấy điều đó có thể khiến người ta “chạm” tự ái. Đừng nóng vội, cứ từ từ. Và không chỉ vậy, còn nhiều điều khác tương tự như thế. Quả thật, đó là kiểu ích kỷ, chỉ yêu mình, thiếu sáng suốt. Khôn thì phải Ngoan. Kẻ cố chấp thì không ai có thể giúp gì được.
Người khôn ngoan là người sâu sắc, nói ít, nghe nhiều, trầm lặng để thấm nhuần đức khôn ngoan vào máu thịt: “Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu. Vì những ai xứng đáng với Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ.” (Kn 6:15-16) Ở đây là sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa chứ không là sự khôn ngoan của phàm nhân.
Người khôn ngoan tìm kiếm những thứ bền vững, không hư hỏng, dù cho họ có thể bị coi là “điên rồ” theo cách nhìn của loài người, nhưng đó là điều kỳ diệu thuộc về Thiên Chúa. Hằng ngày họ luôn cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.” (Tv 63:2-3) Có Chúa là có tất cả, không cần gì khác.
Người khôn ngoan chuyên tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và họ có được Thiên Chúa. Thật vậy, Thánh Vịnh gia cảm nghiệm và chia sẻ: “Ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca. Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài. Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.” (Tv 63:8) Có Chúa thì có bình an đích thực.
Người ta sẽ khắc khoải, bất an và nuối tiếc nếu thiếu sự khôn ngoan. Người ta trở nên bình an thư thái khi được ơn Chúa tác động. Đó là nhận thức cần thiết về tâm linh. Lúc về già, thi sĩ Bùi Giáng sống như người mất trí, ông lang thang khắp nơi với phong cách rất “bụi.” Ông đã than thở bằng thơ: “Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thật – Thế cho nên tất bật đến bây giờ!” Ông như người điên nhưng lại rất tỉnh trong cách nhận định: “Đừng tưởng cứ núi là cao, Cứ sông là chảy, cứ ao là tù; Đừng tưởng cứ dưới là ngu, Cứ cao là sáng, cứ tu là hiền…” Rất đúng với xã hội ngày nay.
Tương tự, trong thi phẩm “Dại Khôn,” thi sĩ Trần Tế Xương nhận định: “Thế sự đua nhau nói dại khôn – Biết ai là dại, biết ai khôn.” Chẳng biết ai dại, ai khôn. Chúng ta tưởng người khôn mà hóa ra người dại, chúng ta tưởng người dại mà hóa ra người khôn: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người.” (1 Cr 1:25) Thánh Vịnh gia cho biết: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan.” (Tv 111:10) Đó là khôn ngoan nhất.
CỐ TỈNH MÀ THỨC
Chẳng ai biết ngày mai trời mưa hay nắng, chẳng ai biết đời mình sẽ ra sao, vì thế mà luôn cần sẵn sàng và tỉnh thức, nghĩa là phải biết mình khôn hay dại để tránh ảo tưởng hoặc tự phụ.
Phải Tỉnh mới có thể Thức, bởi vì có khi Thức mà không Tỉnh thì vẫn có nguy cơ. Chính Thiên Chúa cảnh báo: “Nếu ngươi không tỉnh thức thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi.” (Kh 3:3) Bão bùng, giông tố, lũ lụt, động đất, sóng thần, sạt lở,… không ai biết ở đâu, lúc nào, dự báo thời tiết cũng chỉ là dự đoán – có thể đùng hay sai, cũng chẳng biết chắc thời điểm nào. Sau những vụ sạt lở, người ta không nhận trách nhiệm mà lại đổ lỗi kia, viện cớ nọ. Thứ trưởng tài nguyên và môi trường tại Việt Nam nói: “Hoạt động dân sinh có thể là nguyên nhân kích hoạt thiên tai.” (vnexpress.net) Một phát biểu cứ ngỡ của kẻ ngáo đá!
Thiên Chúa hằng hữu và toàn năng, Ngài luôn hiện diện trong mọi biến cố lịch sử của cuộc đời mỗi người. Danh nhân Rabindranath Tagore (Rabīndranātha Thākura, 1941-1961, Ấn Độ) đã cảm nhận sâu sắc về Đấng Toàn Năng: “Bạn không nghe thấy bước chân Người thầm lặng đó sao? Người tới và luôn luôn thường tới. Người tới và luôn luôn thường tới hằng giờ, hằng đêm, hằng ngày, hằng thời đại,… Người tới và luôn luôn thường tới qua lối đi nho nhỏ trong rừng, vào những ngày Xuân đượm nắng ngạt ngào. Người tới và luôn luôn thường tới trên xe mây ầm ầm tiếng sấm, vào những đêm Thu mưa ướt tối mù. Bước chân Người đã giẫm lên tim tôi đang ôm nặng những nỗi buồn dai dẳng. Khi niềm vui trong tôi ngời sáng, ấy là do chân Người vàng óng chạm vào.” Tư tưởng của R. Tagore rất gần với Công giáo, đặc biệt là tập thơ “Lời Dâng” (Gitanjali), với bút danh Bhānusiṃha – Sư Tử Thái Dương. Nhận định của ông thật tuyệt vời, ông hữu thần hơn chúng ta tưởng.
Từ ngàn xưa, Thánh Vịnh gia đã thân thưa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.” (Tv 139:1-5) Thật vậy, đến từng sợi tóc trên đầu chúng ta cũng đã được Thiên Chúa đếm cả rồi. (Mt 10:30; Lc 12:7) Chắc chắn không có gì ngoài Thánh Ý Chúa. Thật chí lý khi người Mỹ luôn xác tín: “In God we trust – Chúng tôi tin vào Thiên Chúa.”
Thật kỳ diệu, sợi tóc chẳng đáng gì mà Thiên Chúa còn quan phòng, huống chi chuyện sinh – tử, liên quan sinh mạng con người, thụ tạo của Ngài. Thánh Phaolô cho biết: “Về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu.” (1 Tx 4:13-14) Ý tưởng này thật phù hợp khi chúng ta đang ở Tháng Cầu Hồn và cuối năm.
Được làm người và sống ở đời, chúng ta không chỉ đi bằng đôi chân, mà quan trọng hơn, đó là phải đi bằng cái đầu. Cũng vậy, sống không chỉ cần lương thực nuôi sống thân xác, mà quan trọng hơn, đó là phải cần lương thực nuôi sống tinh thần và linh hồn. Tín nhân chúng ta cần cả Thánh Thể và Lời Chúa, không thể thiếu một trong hai thần lương đó.
Vừa giải thích vừa động viên, Thánh Phaolô nói: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau.” (1 Tx 4:15-18) Qua đó, chúng ta biết chắc thời đại của chúng ta là thời cánh chung – thời cuối cùng. Không biết chúng ta có được diễm phúc chứng kiến thời điểm lịch sử vĩ đại nhất hay không, nhưng chắc chắn trải qua “tận thế riêng” là cái chết của chính mình.
Bởi vì chúng ta không biết nên mới phải cố gắng “tỉnh” để mà “thức” tới cùng, và không ngừng sống yêu thương bằng ý thức tâm linh: “Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hoà thuận với nhau. Thưa anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ kẻ nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người.” (1 Tx 5:13-14)
Dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ” (Mt 25:1-13) nêu rõ vấn đề sẵn sàng và tỉnh thức. Đây là một trong các dụ ngôn đặc biệt nói về thời điểm cánh chung, cách riêng là “phút cuối” của mỗi chúng ta: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (Dt 9:27)
Rất cụ thể, Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như chuyện mười trinh nữ chuẩn bị đèn để đón chú rể. Trong mười cô đó, có năm cô dại và năm cô khôn. Các cô dại có đèn mà không đem dầu theo. Các cô khôn có đèn và dự trữ dầu. Chú rể đến chậm nên các cô thiếp ngủ. Nửa đêm, có người báo chú rể đến. Bấy giờ, tất cả các cô đều thức dậy và thắp đèn. Nhưng đèn của năm cô dại cạn dầu, không đủ sáng. Họ xin các cô khôn chút dầu. Năm cô khôn không thể chia sẻ vì dầu không đủ để thắp sáng đèn cho chính mình và người khác, thế nên họ bảo năm cô dại ra hàng mà mua dầu. Đang lúc năm cô dại đi mua dầu thì chú rể tới, năm cô khôn đã sẵn sàng nên được đi theo chú rể vào phòng dự tiệc cưới. Và rồi cửa đóng, then cài. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Rồi năm cô dại cũng về đến nơi và gọi cửa. Thế nhưng chú rể thản nhiên nói: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” Thế thì tiêu. Chấm hết! Vì thế, Chúa Giêsu vừa căn dặn vừa cảnh báo: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” Chắc hẳn Ngài không chơi trò ú tim hoặc gài bẫy ai. Người ta rất bướng bỉnh, đã được cảnh báo nguy cơ ngập lụt và sạt lở thế nhưng “kẻ đầu sỏ” không nghe. Và cái gì tới đã/sẽ tới!
Chỉ có một đời, một mạng, nhưng ai khôn và ai dại thì đã rõ, không mơ hồ hoặc đoán mò. Người mà chúng ta tưởng là khôn thì lại chỉ là kẻ dại, người mà chúng ta tưởng là dại thì lại là người khôn. Thi sĩ Trần Tế Xương đã “ngộ” ra và kết luận: “Này kẻ nên khôn đều có dại – Làm người có dại mới nên khôn.” (Dại Khôn) Thật kỳ diệu, chứ không kỳ cục, đối với 2K – Khôn và Khốn. Nên Khôn nhờ Khốn, thoát Khốn nhờ Khôn.
Chắc chắn ai nên khôn cũng đã hơn một lần khốn. Đau khổ càng nhiều thì kinh nghiệm càng dày. Ngay cả trong lĩnh vực tinh thần hoặc tâm linh, chúng ta thấy tuyết tương đối của bác học Einstein vẫn đúng. Tuyệt lắm! Tất nhiên chính Thiên Chúa đã tác động để ông khả dĩ thấu hiểu quy luật tự nhiên và đưa ra định luật như vậy. Trí thông minh và khôn ngoan ông có được là do Thiên Chúa trao ban để sinh lợi cho cả nhân loại.
Lạy Thiên Chúa là nguồn mọi sự thánh thiện, xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan, (Tv 90:12) xin dạy chúng con thấu triệt lẽ khôn ngoan, (Tv 51:8) và xin ban trí thông minh để chúng con được am tường thánh ý. (Tv 119:125) Xin giúp chúng con dẹp bỏ cái tôi để cuộc sống không tồi, cuộc đời không tối và bớt tội. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 32 TN_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm A xoay quanh một chủ đề: “con người mong ước được gặp gỡ Thiên Chúa”.
Kn 6: 12-16
Bài Đọc I trích từ sách Khôn Ngoan, trong đó tác giả minh họa Đức Khôn Ngoan qua những phẩm tính thần linh. Đức Khôn Ngoan là đối tượng mà con người ra sức tìm kiếm và khao khát được gặp gỡ.
1Tx 4: 13-18
Bài Đọc II trích từ thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, trong đó thánh Phao-lô khẳng định rằng những tín hữu đã qua đời sẽ được sống lại để rồi cùng với những người đang sống gặp gỡ Thiên Chúa vào ngày Chúa Ki-tô quang lâm.
Mt 25: 1-13
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể”, trong đó chỉ năm cô khôn ngoan chuẩn bị chu đáo cho cuộc gặp gỡ này mới có thể vào dự tiệc cưới với chàng rể.
BÀI ĐỌC I (Kn 6: 12-16)
Sách Khôn Ngoan, sách cuối cùng của Cựu Ước, được viết không bằng tiếng Híp-ri, nhưng bằng Hy-ngữ, bởi một tác giả nặc danh, vào những năm 80-50 tCn. Tác giả, một người Do thái gắn bó với niềm tin của cha ông, sống ở thành phố A-lê-xan-ri-a bên Ai-cập, một trong những môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, một nền văn hóa đề cao sự khôn ngoan và sản sinh nhiều trường phái triết học.
Lý do tác giả viết tác phẩm này chính vì Do thái giáo có nguy cơ bị nền văn hóa Hy-lạp rực rỡ đồng hóa. Tác giả muốn chứng minh rằng sự khôn ngoan của Kinh Thánh trổi vượt hơn sự khôn ngoan của ngoại giáo. Trên bình diện văn chương, tác giả định vị mình trong truyền thống Minh Triết Do thái, nhất là sách Châm Ngôn và sách Huấn Ca. Trên bình diện thần học, sứ điệp của tác giả về Đức Khôn Ngoan đã dọn đường cho khoa thần học về Ngôi Lời và khoa thần học về ân sủng.
Bản văn hôm nay, trích từ phần thứ hai của tác phẩm (ch. 6-10), ca ngợi Đức Khôn Ngoan. Trong phần trích dẫn này, tác giả nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan cách sinh động, linh hoạt và thi vị qua bốn phẩm tính thần linh của Đức Khôn Ngoan:
- Đức Khôn Ngoan hiện thân Thiên Chúa (6: 12)
Trong câu đầu tiên của đoạn trích hôm nay, Đức Khôn Ngoan được minh họa qua hình ảnh ánh sáng vĩnh cửu: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ” (6: 12a). Trong Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan, Ngôi Lời Thiên Chúa cũng được minh họa qua hình ảnh như vậy:
“Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9).
Với ai yêu mến Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan cho được diễm phúc chiêm ngưỡng mình:
“Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan
thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng” (6: 12b).
Với ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan cho được diễm phúc gặp gỡ mình:
“Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan cho gặp” (6: 12c).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan khẳng định rằng:
“Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1: 18).
- Đức Khôn Ngoan đi bước trước (6: 13-14)
Với ai khao khát Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan tự tìm đến và tỏ mình ra cho người ấy:
“Ai khao khát Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết” (6: 13).
Với ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan đã hiện diện ở đó rồi, “ngồi ngay trước cửa nhà”. Một hình ảnh gợi lên những sáng kiến thần linh, như trực giác về điều mà các nhà thần học sau này gọi: “ân sủng dự phòng”:
“Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan,
thì không phải nhọc nhằn vất vả.
Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà” (6: 14).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan cũng mô tả Ngôi Lời đi bước trước như vậy:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người
là Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).
- Đức Khôn Ngoan giúp hoàn thiện sự hiểu biết (6: 15)
Đức Khôn Ngoan xứng đáng cho con người để hết tâm trí suy niệm, vì Ngài là nguồn mạch của mọi điều thiện hảo, ban hạnh phúc cho con người, trút bỏ mọi lo âu phiền muộn khỏi con người:
“Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan
là đạt được sự minh mẫn hoàn hảo.
Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm,
sẽ mau trút được mọi lo âu” (6: 15).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan khẳng định rằng:
“Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).
- Đức Khôn Ngoan tỏ mình ra cho những ai yêu mến mình (6: 16)
Mục đích của Đức Khôn Ngoan là tìm kiếm những ai yêu mến mình để dẫn họ đến với mình:
“Vì những ai xứng đáng với Đức Ngôn Khoan,
thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm.
Trên các nẻo đường họ đi,
Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện.
Mỗi khi họ suy tưởng điều gì,
Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (6: 16).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan mô tả Ngôi Lời cũng tương tự như vậy:
“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1: 11-12).
Nói tóm lại, Đức Khôn Ngoan được minh họa qua những phẩm tính thần linh như trên là hình bóng của “Ngôi Lời nhập thể”. Chính Đức Giê-su cất tiếng kêu mời con người đến với Ngài, gặp gỡ Ngài, đón nhận Lời Ngài, nội tâm hóa Lời Ngài để Lời Ngài trở thành nguồn mạch phun trào sự sống đời đời trong lòng mình. Với ai yêu mến Ngài, Ngài sẽ tỏ mình ra cho người ấy biết chân tính thần linh của Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14: 21).
BÀI ĐỌC II (1Tx 4: 13-18)
Những người Ki-tô hữu tiên khởi tin rằng ngày Quang Lâm của Đức Giê-su sắp đến gần. Niềm tin này dựa vào lời quả quyết của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy đến” (Mt 24: 34). Ngoài ra, vào thời đó, nhiều thế hệ Do thái chờ đợi ngày cánh chung mà các sách khải huyền Do thái đã tiên báo. Ấy vậy, trong số các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có những người Ki-tô hữu gốc Do thái; họ dễ dàng chia sẻ bầu khí nôn nóng chờ đợi này. Chúng ta có thể cảm nhận tâm trạng đầy xao xuyến của những tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca khi họ nêu ra câu hỏi về số phận của những người giữa họ đã qua đời trước ngày Chúa quang lâm: làm thế nào những người này có thể được Ngài dẫn vào Nước Trời? Vậy số phận của họ sẽ như thế nào?
Thánh Phao-lô trấn an họ khi nhắc cho họ nhớ rằng niềm tin của họ đặt nền tảng trên cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su. Niềm hy vọng vào cuộc sống mai hậu dựa vào niềm xác tín rằng được nên một với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ được chung phần vào cùng một vận mệnh với Ngài.
- Không ai được mất niềm hy vọng
“Anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng”: Chắc hẳn nhiều lương dân được nuôi dưỡng bằng niềm hy vọng vào cuộc sống bên kia cái chết, như linh hồn bất tử của người Hy-lạp hay những đạo lý của những tôn giáo thần bí. Nhưng những người đó có thật sự xác tín như vậy hay không? Họ có dự kiến về sự phục sinh của thân xác hay không? Ngoài ra còn có biết bao người không chờ đợi bất cứ điều gì hay nghi nan ngờ vực.
“Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này”: Chắc chắn ở đây thánh Phao-lô không nhắm đến một lời chính xác nào đó của Chúa Giê-su, đúng hơn đây là giáo huấn Tin Mừng, dựa trên đó thánh Phao-lô công bố niềm hy vọng lớn lao xuất phát từ Đức Ki-tô.
- Một niềm xác tín không lay chuyển
Kiểu nói: “Chúng ta, những người đang sống” được hiểu là bao gồm cả thánh Phao-lô lẫn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, những người mà thánh nhân đang ngỏ lời với họ. Quả thật, xem ra thánh Phao-lô hy vọng là mình vẫn còn sống để dự phần vào biến cố vinh quang này, vì thánh nhân nói thêm: “Những người còn lại vào ngày quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu”. Nhưng kiểu nói này cũng có thể được hiểu một cách tổng quát, vì xa hơn một chút, thánh Phao-lô nói rằng thánh nhân không biết một chút gì về ngày quang lâm (bản văn này sẽ được trích dẫn vào Chúa Nhật tới).
Dù thế nào, “Lời Chúa” đem lại cho chúng ta một niềm xác tín: những người đang sống vào ngày Chúa quang lâm sẽ không được hưởng bất kỳ ưu tiên nào; đúng hơn những người đã qua đời sẽ sống lại trước tiên để rồi cùng với những người vẫn đang sống sẽ gặp lại Đức Ki-tô và hiệp nhất với Ngài mãi mãi.
Khi đọc đoạn thư này, đừng quá chú trọng đến cảnh tượng mô tả cuộc Quang Lâm ở đây. Thánh Phao-lô mượn những hình ảnh từ các sách khải huyền Do thái. Điều cốt yếu là thực tại mà các hình ảnh này muốn thông đạt.
TIN MỪNG (Mt 25: 1-13)
Dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể” được dàn dựng như một vỡ kịch bắt đầu với phần Mở và chấm dứt với phần Kết, ở giữa được phân chia thành ba cảnh theo hình thức đối xứng nghịch đảo:
– Mở (25: 1-4)
Cảnh 1: Các cô trinh nữ ngũ thiếp vì chàng rể đến muộn (25: 5).
Cành 2: Chàng rể đến và phản ứng khác nhau (25: 6-9).
Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12).
– Kết (25: 13)
– Mở (25: 1-4):
Phần Mở giới thiệu các nhân vật. Các cô được chọn làm phù dâu để rước cô dâu về nhà chú rể. Các cô phải có mặt lúc chàng rể đến, với đèn cháy sáng trong tay. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm, vì thế các cô phải tự mình tiên liệu những điều cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ đã được giao phó cho mình.
Chắc hẳn Chúa Giê-su đã được gợi hứng từ phong tục tập quán rước dâu của người Do thái, rồi sửa đổi đôi điều để diễn tả giáo huấn của riêng Ngài. Theo tập tục lễ cưới của người Do thái, chàng rể cùng với đoàn rước đến đón cô dâu tại nhà cha mẹ của cô, rồi long trọng rước cô dâu về nhà mình, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Ở đây, Đức Giê-su không đề cập đến cô dâu, vì Ngài có chủ ý khai thác bài học từ các cô phù dâu mà thôi.
Ngay trong phần “Mở” này, Đức Giê-su cung cấp cho thính giả của Ngài chìa khóa để hiểu câu chuyện. Trong số mười cô trinh nữ, có năm cô được gọi là “khờ dại” vì không biết tiên liệu: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, và năm cô được gọi là “khôn ngoan” vì biết tiên liệu: không chỉ mang đèn lại còn mang thêm dầu dự trữ. Cách sống của các cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, còn cách sống của các cô khôn ngoan là biết “tiên liệu phòng xa”.
– Cảnh 1: Các cô trinh nữ ngủ thiếp vì chàng rể đến muộn (25: 5):
Khi màn sân khấu được kéo lên, khung cảnh vắng lặng, không một tiếng động, các cô trinh nữ đều ngủ thiếp cả. Sự kiện các cô ngủ thiếp đi thực ra không có gì sai quấy cả, lý do đơn giản là vì chàng rể đến trễ hơn dự kiến. Cả mười cô đều ngủ, ấy vậy, năm cô khôn ngoan được xem là có thái độ tỉnh thức. Tình trạng tỉnh thức được hiểu ở đây là sau khi đã chuẩn bị mọi việc cách chu đáo, dự phòng những điều bất ngờ có thể xảy ra, các cô có quyền nghỉ ngơi.
– Cảnh 2: Chàng rể đến và phản ứng khác nhau (25: 6-9)
Đây là cảnh trung tâm của vở diễn. Có tiếng la vang lên giữa đêm vắng: “Chàng rể kia rồi, ra đón đi!”. Khung cảnh vắng lặng bổng nhiên chuyển động dồn dập đem lại kịch tính cho vỡ diễn. Thông thường chàng rể đến giữa tiếng đàn ca xướng hát nên người ta có thể nghe được từ đằng xa. Đàng này, lời loan báo bất ngờ vang lên đánh thức mười cô trinh nữ. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảng khắc mà các cô mong chờ đã đến. Một chút nữa thôi, khi đèn được thắp sáng, các cô sẽ được tháp tùng chàng rể vào tiệc cưới.
Khi thấy đèn mình hết dầu, các cô khờ dại năn nỉ năm cô khôn ngoan chia sẻ dầu với mình. Thật kỳ lạ, năm cô khôn ngoan, mỗi cô có cả một bình đầy ắp dầu, lại từ chối chia sớt dầu với các bạn mình. Có phải các cô khôn ngoan quá ích kỷ không? Đây không phải là chuyện dầu đèn bình thường. Ngọn đèn mà các cô phải giữ cho cháy sáng để đón chàng rể là ngọn đèn đức tin, đức cậy và đức mến. Vì thế, để nuôi dưỡng ngọn đèn đặc biệt này, cần đến dầu đặc biệt, dầu của đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin, đức cậy và đức mến là một hành vi tự do và riêng tư của mỗi người. Vì thế, không ai có thể chia sẻ đức tin, đức cậy, đức mến của mình với người khác. Khi từ chối, các cô khôn ngoan chỉ nêu lên hậu quả do thái độ thiếu tiên liệu. Bây giờ mọi sự đã quá muộn. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình.
– Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12)
Trong khi năm cô khờ dại đi mua dầu thì chàng rể đến. Năm cô khôn ngoan với đèn cháy sáng trong tay tháp tùng chàng rể vào dự tiệc cưới. Cửa phòng tiệc đóng lại.
Sau đó, các cô khờ dại cũng đến khẩn khoan van xin: “Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với”, nhưng chàng rể đáp lại: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”. Cuộc đối thoại ngắn này cho thấy sự thiếu sót lúc đầu tưởng rằng đây chỉ là một lỗi sơ xuất vô hại: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, nhưng bây giờ trở nên một hậu quả nghiêm trọng khôn lường: không được vào dự tiệc cưới với chàng rể. Bài học được rút ra: đừng ai nghĩ rằng hễ đã được chọn vào đoàn rước là đảm bảo cho mình được tham dự tiệc cưới. Các cô khờ dại, vì sự chểnh mảng không dự phòng dầu để giữ cho đèn cháy sáng, đã bị loại ra khỏi tiệc cưới.
Đến đây dụ ngôn trở thành ẩn dụ: “chàng rể” là Đức Ki-tô; “mười cô trinh nữ” là hình ảnh Giáo Hội đang chờ đợi ngày Quang Lâm của Chúa mình; “thời gian chậm trễ” diễn tả ngày Quang Lâm bị trì hoãn lâu dài, dù các Ki-tô hữu cứ tưởng là gần kề; tham dự tiệc cưới là được dự phần vào hạnh phúc Nước Trời; “cửa đóng lại” diễn tả sự khai trừ dứt khoát, nhắc chúng ta nhớ lại lời cảnh báo của Đức Giê-su: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: ‘Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác’” (Mt 7: 22-23).
– Kết (25: 13):
Câu 13: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” được dùng để kết thúc dụ ngôn “Mười Trinh Nữ” xem ra không hợp lý cho lắm, bởi vì cả mười cô đều ngủ. Vả lại câu chuyện không trực tiếp dạy về “tỉnh thức”, nhưng về việc chuẩn bị dầu đèn trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ khi nào Ngài đến. Thật ra, tư thế tỉnh thức ở đây hệ tại ở nơi quyết tâm của người môn đệ là trung tín chu toàn những gì mình đã được giao phó.
Lm. Jos DĐH.
“Trí khôn của ta đây”, đó là thông điệp mà truyện cổ tích Việt Nam, vẫn đang ghi vào tâm tư trẻ thơ bài học khôn ngoan, một bài học chất chứa đầy kỹ năng sống động. Câu truyện cho thấy, vì bị kích thích tính tò mò, Cọp muốn hiểu, muốn biết tại sao thân to, xác lớn, cọp lại sợ con người. “Chú Cọp” lân la hỏi: này anh bạn, sao anh to lớn như vậy mà để cho người ta bé nhỏ, quát mắng, quất vụt, phải kéo cày như thế ? Trâu ngượng ngùng đáp: vì người có trí khôn, anh cứ đến mà hỏi con người sẽ rõ hơn. Kết thúc câu truyện là Cọp đồng ý chịu người nông dân trói buộc, chỉ mong thoả mãn cái biết, trong khi đó Trâu thì cười té ngửa, trước sự linh lợi của con người: “trí khôn của ta đây” !
Khôn ngoan, dại khờ, cuộc đời là thế, “cái biết” luôn đi cùng với “cái giá” phải trả: muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học, có cái biết nào miễn phí đâu ? Kinh nghiệm đón khách quý đến nhà, không thể thiếu sự chuẩn bị, ít là theo tiêu chí: nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm, hoặc trân trọng hơn: khách đến nhà không gà thì vịt. Việc sạch đẹp bên ngoài và niềm vui bên trong, có chút liên quan tới khôn và khờ. Trâu đi cày, phải chịu đòn vọt, khác với Cọp phải bị roi đòn, sợ hú vía, có liên quan đến “tỉnh” và “say”. Đâu phải tự nhiên mà bậc sinh thành quở trách con cháu: khôn nhà dại chợ. Không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta lại nói: cười có nguy cơ bị đánh giá là vô duyên, khóc lóc, vẫn bị xem thường là yếu đuối ; bình tĩnh, biết cân nhắc sự việc, cư xử hợp tình hợp lý, luôn được gọi là khôn là ngoan.
Khi trưng dẫn dụ ngôn 10 trinh nữ đi đón chàng rể, Chúa Giêsu không bi quan cho rằng chỉ có 50% số người lanh lợi, hoặc Nước Trời chỉ đủ chỗ cho một nửa nhân loại, đúng hơn, tiệc Nước Trời luôn là cơ hội cho tất cả mọi người khi tỉnh thức, khôn ngoan, biết sống chọn lựa. Mười trinh nữ đi đón chàng rể, họ đều khôn, đã ý thức chọn lựa, do chàng rể đến chậm, các cô đã thiếp ngủ, vì họ giới hạn như nhau, 5 cô bị gọi là khờ, khi không chuẩn bị dầu dữ trữ, nên không đủ chuẩn vào dự tiệc Nước Trời. Muốn vào dự tiệc cưới cùng chàng rể, các cô phải khôn ngoan, có sự chuẩn bị, ở trong tư thế sẵn sàng, phòng tiệc sẽ không mở cửa cho người khờ, thiếu chuẩn bị. Phòng tiệc Nước Trời sẽ không mở, nếu đương sự ngu muội, không tỉnh thức, không cầm cháy sáng trong tay, không minh chứng được sự khôn ngoan theo ý chàng rể Giêsu.
Người nông dân trả lời với con Cọp: trí khôn của ta đây, quả là dễ dàng. Con người chẳng bao giờ trả lời với Đấng tạo thành: khôn ngoan của tôi ở đây, ở kia. Dù khối tài sản bạn to lớn, sự khôn ngoan thật mà bạn muốn mua cũng không thể mua được, không phải vì đó là tiền âm phủ, nhưng vì ở đời không ai đủ khả năng bán sự khôn ngoan. “Các chị cho chúng em xin chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt”, vâng, tình yêu ai bán mà mua, ai cho mà nhận ai thừa mà xin ? Người yêu phải giữ trong tim, phải ghim trong não chứ tìm đâu ra ? Ở trần gian, ta có thể vay mượn tiền của vật chất để tiêu dùng ; khi chàng rể Giêsu đến, không ai có thể mua, hoặc vay mượn công phúc của người khác để trình diện, để trả lời với Chúa: khôn ngoan của con đây ! Khôn ngoan trong Chúa là khôn ngoan thật, là biết cậy trông vào Chúa, để dầu đèn đức tin luôn sáng mãi với thời gian.
Câu truyện dụ ngôn 10 trinh nữ cho thấy nhờ khôn ngoan, người ta sẽ không lỡ chân, trật bước, nhờ tỉnh thức mà đèn lúc nào cũng cháy sáng, nhờ luôn trong tư thế sẵn sàng, ta không phải ưu tư lo lắng khi nào chàng rể Giêsu đến. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không nói, không cho biết ngày giờ tháng năm chàng rể đến, chẳng muốn một thành viên nào bị mang tiếng là khờ dại, là dầu đèn đức tối tăm hết chiếu sáng. Thiên Chúa vẫn cho con người có thời gian suy xét, có cơ hội thức tỉnh sám hối, hầu trả lời với Đức Kitô Đấng đang đến, sẽ đến: khôn ngoan của con đây, việc sống đức tin, đức ái của con đây. Hãy là người khôn ngoan, “hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào, lúc nào Con Người đến”.
Mười trinh nữ đi đón chàng rể, hay mỗi người có một hành trình dài ngắn khác nhau, để chuẩn bị, để minh chứng với chàng rể Giêsu, “con là đầy tớ khôn ngoan và trung tín” của Chúa. Cha ông ta thì dạy rằng: khôn làm cột cái, dại làm cột con, chàng rể Giêsu, Đấng cứu độ trần gian, ước mong tất cả mọi người đều đủ khôn, đủ hiểu, đủ ơn Chúa mà sống tốt ơn gọi của mình. Sống đức tin, sống tỉnh thức, không phải là từ sáng đến tối cứ đứng im cầm đèn cháy sáng, mà phải dấn thân, thể hiện được niềm tin với nén bạc mỗi người, mỗi hoàn cảnh và ơn gọi, ta đang có mà sống xứng hợp nhất. Xin Chúa Giêsu Đấng là Thầy là Chúa, là Đấng đã thắng thế gian, giúp chúng con luôn biết sống ơn ban, hầu chúng con đủ tự tin, mai này sẽ thân thưa: lạy Thầy, khôn ngoan của con đây. Amen.
Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa quý ông bà và anh chị em rất thân mến! Với cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ đầy kịch tính không chỉ tại Mỹ mà dậy sóng sôi sục tại nhiều nơi trên toàn thế giới. Dường như khác với mọi kỳ bầu cử, riêng lần này với nhiều biến cố, sự kiện cũng như vô vàn sự thật phơi bày ra trước mắt chúng ta, thì hầu hết đâu đó có chung một nhận định: đây không đơn thuần là cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ, mà là cuộc chiến cam go giữa chân lý và gian dối, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa thiện lành và ác dữ…Qua đây, chúng ta thấy được yếu tố ‘tỉnh thức’, ‘sẵn sàng’ và ‘kiên vững’ rất quan trọng trong khi chờ đợi chiến thắng vinh quang của chân lý.
Song, Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến lí do khác trong dụ ngôn ‘mười cô trinh nữ’. Trong lúc chờ đợi chàng rể tới, cả mười cô đều ngủ thiếp đi, bất luận là khôn ngoan hay khờ dại “…vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả” (x. Mt 25, 5). Tại sao chàng rể lại đến trễ? Phải chăng chàng rể muốn đến muộn như vậy? Rất nhiều nghi vấn được đặt ra, nhưng tựu chung lại, chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa đến không theo lịch trình, thời gian, kỳ vọng của con người. Ngài thực hiện chương trình theo thánh ý và theo thời điểm của Ngài.
Tuy nhiên, một thực tế rõ ràng là người khôn ngoan hay kẻ khờ dại đều không thể nào chiến thắng ‘trạng thái buồn ngủ, thiếp đi’ trong lúc chờ đợi. Vô số lí do vì sao chúng ta lại ngủ thiếp đi. Có lẽ quá mệt mỏi về thể xác cũng như tinh thần! Hay thao thức, kỳ vọng điều mình muốn mà nó lại chẳng đến hoặc chưa đến, nên chúng ta cảm thấy thất vọng, chán chường! Hơn thế, chúng ta không đủ tỉnh táo, mất đi động lực, nhuệ khí tan biến,…nên dễ dàng rơi vào trạng thái ngủ thiếp đi. Nếu ai trong chúng ta có trải nghiệm chăm sóc người bệnh, đặc biệt người thân thì nhận ra được tính hệ trọng, khẩn cấp của việc tỉnh thức ra sao.
Quả thật, trong đời chúng ta, ít nhiều ai cũng đã rơi vào trường hợp ‘ngủ thiếp’ và ‘chưa tỉnh thức’; nhưng điều quan trọng hơn mà dụ ngôn ‘mười cô trinh nữ’ lột tả, chính là: đèn và dầu. Trong số mười cô trinh nữ, cho dù khôn ngoan hay khờ dại, ai cũng mang đèn, song điểm khác biệt lớn lao và mang tính quyết định là: năm cô khôn ngoan chuẩn bị dầu thắp đèn tươm tất và dồi dào, còn năm cô khờ dại thì chẳng mang theo dầu thêm đề phòng trong trường hợp đèn hết dầu nữa chừng. Ở đây, chúng ta nói đến sự khôn ngoan trong đời sống đức tin, hơn là tính thông minh, sáng dạ, khôn khéo, lanh lợi nơi bản tính con người, hay theo cấp độ xã hội. “Những ai yêu mến Đức Khôn Ngoan, sẽ xem thấy dễ dàng, và những ai tìm kiếm, sẽ gặp được. Đức Khôn Ngoan sẽ đón tiếp những ai khao khát…” (x. Kn 6, 12-13). Ai trong chúng ta đều được Chúa ban cho ánh sáng đức tin qua biểu tượng “cây nến cháy sáng” hay “chiếc đèn sáng rực” khi chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Rồi lớn dần lên, chúng ta được trau dồi, học hỏi, rèn luyện trong đời sống đạo đức từ cách dạy dỗ, hướng dẫn của cha mẹ, của cha xứ, quý sơ và các anh chị giáo lý viên, v.v…ngõ hầu ánh sáng đức tin ấy ngày càng được bừng cháy. Trên hết, Thiên Chúa luôn đồng hành, nâng đỡ, khích lệ, giáo dục chúng ta từng bước qua Giáo Hội, qua việc tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích, qua việc đọc-học-suy niệm Kinh Thánh, qua sinh hoạt giáo xứ trong các hội đoàn, qua mọi biến cố vui hay buồn trong đời, v.v…, cụ thể, Ngài tuôn đổ hồng ân, ơn lành, đặc sủng, đoàn sủng, những ơn cần thiết, thậm chí Ngài ban cả Thánh Thần cho chúng ta. Vậy, hình ảnh ‘dầu’ ở đây chính là ơn thánh, là Đức Khôn Ngoan, là chính Chúa Thánh Thần. Đèn cháy sáng cần dầu thế nào, thì đời sống đức tin cần đến ơn Chúa, sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh như vậy.
Hơn nữa, hình ảnh ‘dầu’ cũng khiến chúng ta liên tưởng đến sự nỗ lực cộng tác với ơn Chúa hằng ngày, qua việc hy sinh sống Lời Chúa giữa những bề bộn cuộc sống thực dụng, vật chất này. ‘Dầu’ không chỉ giúp đốt cháy, giữ mãi ánh lửa bừng sáng, mà còn dùng chữa lành, chăm sóc như người Sa-ma-ri-a nhân lành đã làm khi thấy người xa lạ mắc nạn bị vứt bỏ bên lề đường. Với ‘dầu’ này, chúng ta dám bỏ thời gian, của cải, kế hoạch, chương trình, lịch hẹn hò của bản thân mà ân cần chia san với anh chị em đang cần đến mình, bất luận chúng ta biết họ hay không, họ thân quen hay xa lạ với chúng ta hay không! Việc sửa soạn đèn của năm cô khôn ngoan cũng khá ư dễ dàng, bởi lẽ họ đã chuẩn bị lượng dầu dự trữ đầy ắp. Tuy nhiên, tại sao các cô khôn ngoan lại không chia bớt dầu cho năm cô khờ dại? Thậm chí có người còn cho rằng: năm cô khôn ngoan thật ích kỷ, chẳng phải bạn tốt? (giáo dân trong lớp giáo lý trưởng thành của tôi đã nghĩ vậy!!!!). Đễ dễ liên tưởng và trả lời đúng đắn, chúng ta thử nghĩ đến thời gian Chúa gọi chúng ta về (lúc hấp hối), thì thử hỏi chúng ta còn có cơ hội ‘vay mượn’ hay ‘chạy đi mua’ không? Mặc khác, ơn Chúa ban cho chúng ta theo bậc sống, theo trách vụ của mỗi người nữa như: đặc sủng dành cho những ai sống đời sống thánh hiến khác với đặc sủng của người sống đời sống hôn nhân-gia đình…
Tóm lại, Chúa ban cho chúng ta cả ‘đèn’ và ‘dầu’, nhưng trong khi tỉnh thức chờ đợi theo thời gian của Chúa, thì chúng ta cần noi gương năm cô khôn ngoan. Cho dù có thiếp ngủ đi vì lí do nào đi chăng nữa, thì với ‘đèn đầy dầu’, chúng ta lại tỉnh giấc, thức dậy, sẵn sàng đón chàng rể vào tiệc mừng muôn đời.
Lạy Chúa, xin giúp con như năm cô khôn ngoan
Dù phải thiếp đi trong khi chờ đợi chàng rể đến
Cũng chẳng bao giờ quên ‘đèn đầy dầu cháy sáng’
Như đèn rực rỡ cần đến dầu tràn trề thế nào
Ánh sáng đức tin của con cần đến ơn Thánh đến như vậy.
Xin giúp con luôn luôn sẵn sàng, sửa soạn chong đèn
‘Dầu’ dạt dào mãi đốt cháy ngọn nến sáng yêu thương. Amen!
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Qua dụ ngôn mười cô trinh nữ cầm đèn đón chàng rể đến trễ giữa đêm khuya, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải để cho đèn nhân đức của mình tỏa sáng như những chiếc đèn trong tay năm cô phù dâu khôn ngoan. Nhờ có đèn sáng trên tay, năm cô khôn ngoan được đón vào phòng tiệc trong vui mừng hoan hỉ.
Và nếu ánh sáng nhân đức của chúng ta cũng tỏa sáng như đèn giữa thế gian thì chúng ta cũng sẽ được Thiên Chúa mời vào phòng tiệc trên trời để cùng với triều thần thánh vui hưởng hoan lạc đời đời trên thiên quốc.
Ngược lại, năm cô phù dâu khờ dại được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay thức dậy giữa đêm đen đón chàng rể đến và vì đèn đã cạn dầu nên không có ánh sáng trên tay, do đó đã bị xua ra ngoài đêm tối, lủi thủi lê bước về nhà trong đau buồn tủi nhục.
Tương tự như thế, những ai thiếu đức hạnh thì cũng như đèn cạn dầu, cuộc đời họ tối om và hậu quả là họ phải bị đuổi ra ngoài trong bóng tối khổ đau miên trường bất tận.
Ngoài ra, trong Tin mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta phải tỏa chiếu ánh sáng nhân đức. Ngài nói : “Ánh sáng của các con phải được chiếu giải ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những công việc tốt đẹp các con làm mà tôn vinh Cha các con trên trời.” (Mát-thêu 5,16)
Hữu xạ tự nhiên hương
Hễ đâu có mùi hương thì tất nhiên mùi hương đó sẽ tỏa lan ra. Người xưa dùng câu nói này để diễn tả một quy luật cuộc đời là hễ có gì bên trong thì sẽ phơi bày ra bên ngoài không thể che đậy, dấu diếm được.
Ai hiền lành thì sự hiền lành sẽ tỏa sáng như ánh đèn trong đêm tối và mọi người đều nhìn thấy và mến mộ.
Ai hung dữ thì sự hung dữ sẽ lộ ra ngoài, không tài nào che giấu được nên ai cũng thấy người đó là kẻ hung dữ và tìm cách xa lánh.
Ai khiêm tốn thì sự khiêm tốn sẽ lan tỏa như hương thơm khiến mọi người quý mến.
Ai kiêu căng thì sự kiêu căng đó sẽ phải lộ ra ngoài không thể che giấu được và mọi người đều thấy đó là kẻ kiêu căng nên không muốn lại gần.
Nói tóm lại: Mùi hôi của tính xấu sẽ tỏa lan khiến nhiều người xa lánh.
Hương thơm của nhân đức sẽ tỏa ngát khiến nhiều người quý trọng, mến yêu.
Ai không tỏa sáng nhân đức thì số phận đời sau của họ cũng tương tự như số phận của năm cô phù dâu dại khờ ; họ sẽ không được đón nhận vào phòng tiệc trên trời mà lại bị xua ra ngoài trong bóng tối miên trường khổ đau bất tận.
Còn ai tỏa sáng nhân đức sẽ được người đời quý mến trong đời sống hiện tại, lại còn được mời vào phòng tiệc trên trời muôn đời hoan hỉ.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con noi gương năm cô trinh nữ khôn ngoan biết tích lũy thật nhiều đức hạnh ; đó là thứ dầu quý làm cho tâm hồn chúng con lúc nào cũng tỏa sáng ; nhờ đó sẽ được mọi người quý trọng và được Chúa ban thưởng đời đời.
Xin giúp chúng con tránh xa tội lỗi và thói hư tật xấu vì đây là nguyên nhân làm cho tâm hồn chúng con tối tăm, hôi hám và vì thế mà bị xua đuổi ra ngoài như năm cô phù dâu không có đèn sáng trên tay. Amen.
SỰ CHỌN LỰA “VỀ ĐÍCH” KHÔN NGOAN
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Trong những ngày này, hầu như rất nhiều người tại đất nước Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới, cứ mỗi ngày thức dậy là chăm chăm soi vào màn ảnh truyền hình, máy tính hay điện thoại thông minh… để “tìm kiếm kết quả” cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của hai ứng viên Tổng Thống D. Trump và J. Biden. Vâng “câu chuyện Tổng Thống Mỹ” đang là vấn đề nóng nhất hiện nay; và thậm chí, nhiều người cho rằng: kết quả bầu chọn vị Tổng Thống mới của nhiệm kỳ 4 năm sắp tới của Mỹ sẽ định hướng cho một “trật tự thế giới mới”.
Nhưng có thật sự là như thế không ? Liệu “một con người” hay một “chính phủ” có thể định hướng hay đổi thay cả một “con đường”, một “lộ trình” đầy phức tạp, nhiêu khê của cả thế giới nầy ?
Đối với những con người mang tâm thức “duy kinh tế, khoa học, kỹ thuật, sự thông minh…” và “sùng bái” tư cách “cường quốc số một” của Hoa Kỳ cùng với cung cách bang giao mang tính “sen đầm quốc tế” của quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh nầy, thì câu trả lời sẽ là “có”. Nhưng, đối với những ai nhìn “cuộc cờ thế giới” trong viễn tượng đức tin và sự quan phòng đầy khôn ngoan của Thiên Chúa, thì câu trả lời chắc chắn sẽ là “không” ! Vì Thánh vịnh 127 đã dạy rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công” !
Và đây chính là nội dung sứ điệp Lời Chúa muốn chuyển tải đến cộng đoàn Kitô hữu chúng ta trong Chúa Nhật gần cuối năm Phụng vụ nầy: MỘT SỰ LỰA CHỌN “VỀ ĐÍCH” KHÔN NGOAN HAY HÃY TÌM KIẾM THIÊN CHÚA VÀ SỰ KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC ĐẾN TỪ NGÀI.
Trước hết, sứ điệp nầy đã từng được vang lên trong suốt chặng đường lịch sử cứu độ, qua tiếng gọi của các sứ ngôn, các bậc hiền giả từ xa xưa trong lịch sử của dân tộc Israel mà những lời Thánh Vịnh 62 được chọn làm Đáp Vịnh Ca hôm nay chứng tỏ:
Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa.
Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước.
Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quanh của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài…
Phải chăng, được Lời Chúa mách bảo, các ngôn sứ và các bậc hiền nhân quân tử thời xưa đã nghiệm thấy rằng: các bậc đế vương cùng những đế quốc hùng mạnh như Ba Tư, Ai Cập, Babylon, Hy Lạp, Rôma… rồi sẽ qua đi, sẽ “biến tan như cơn gió thoảng qua, như cỏ nội hoa đồng…”. Vì thế, ai đặt niềm tin, niềm hy vọng của mình trên “điểm tựa” là những thực tại hão huyền và chóng tàn đó sẽ thất vọng. Vì thế, điều cốt yếu đó chính là “đặt cược” cuộc sống, niềm tin yêu hy vọng vào chính Thiên Chúa và sự khôn ngoan trường cửu của Ngài, như cách cảm nhận và cũng là lời dạy của tác giả sách Khôn Ngoan: “Sự khôn ngoan sáng tỏ, và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước. Từ sáng sớm, ai tỉnh thức tiến lại gần nó, sẽ không lao nhọc, vì sẽ gặp nó ngồi nơi cửa nhà mình. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn tuyền; và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm” (Bđ 1).
Thế nhưng, không phải thời nào, lúc nào dân Chúa cũng đều có chọn lựa “Khôn Ngoan” như thế. Bằng chứng là vào thời Chúa Giêsu, khi xã hội Do Thái bị phân mảnh dưới ách thống trị của Rôma cùng với những cám dỗ đầy hấp dẫn của nền văn hóa thời thượng Hy Lạp, thì sự khôn ngoan mà người ta chọn lựa thường xuyên lại “ngã” về hướng con người, lối trần tục… mà ở đó chính là: chấp nhận cúi đầu trước quyền lực con người thay vì khiêm tốn suy phục Thiên Chúa, chọn lựa sự đảm bảo nơi của cải và giàu sang vật chất thay vì sự khôn ngoan và những giá trị thần linh, chấp nhận ma mánh và thủ thuật của sự gian dối thế gian thay cho việc thực thi lề luật ngàn đời của Giao ước thánh, lề luật của sự tự do trong đời sống con cái Chúa… ; và phải chăng, đó là sự chọn lựa mà người ta dễ dàng chứng kiến qua các diễn biến phức tạp trong cuộc chạy đua tới Toà Bạch ốc của hai ứng viên Tổng Thống đại diện cho hai đảng Cọng Hoà và Dân Chủ trong những ngày “nước rút” nầy !
Thật vậy, thời đó, những người Pharisiêu rao giảng và sống theo một thứ khôn ngoan “giả hình và kiêu ngạo” dựa trên những thứ luật lệ không dẫn đến Thiên Chúa mà cũng chẳng phục vụ con người; riêng nhóm Sa-đốc lại chọn lựa sự khôn ngoan chính là “thiên đàng tại thế” với nhu cầu vật chất và điểm tựa quyền lực chính trị…; trong khi đa phần dân đen khố rách áo ôm thì như “bèo dạt mây trôi”, chẳng biết phải nghe theo tiếng nói, lời dạy của sự khôn ngoan đích thực nào, của vị “rabbi” nào “đủ tâm và đủ tầm” để dạy dỗ, thuyết phục…
Và Thiên Chúa đã không để Dân Ngài phải đợi chờ quá lâu. Ngài đã sai Con Một đến không chỉ soi sáng cho con người những bước đi, những lộ trình ngay nơi cuộc hành lữ dưới thế gian nầy, mà còn dẫn lối đưa đường để nhân loại tiến bước vào quê hương vĩnh cửu.
Thật vậy, nếu con đường “Bát Phúc” và những lời dạy xa gần về việc thực thi giới răn “mến Chúa yêu người” mà chúng ta đã được “giải trình” trong suốt cuộc hành trình của Năm Phụng vụ, thì trong Chúa Nhật sắp kết thúc nầy, Tin Mừng muốn hướng niềm tin và hy vọng của chúng ta đến chân trời “cánh chung”, đến biên giới cuối cùng của cuộc đời tại thế để chuẩn bị bước vào “Bàn Tiệc Nước Trời” mà Thánh sử Matthêô đã khéo minh hoạ qua dụ ngôn Tin Mừng “Mười cô trinh nữ”.
Chúng ta có thể nói được rằng: sứ điệp của vị “Rabbi” đến từ Nadarét đã tiếp nối tài tình những lời giáo huấn của các ngôn sứ, đặc biệt, với lời dạy về sự “Khôn Ngoan” đích thực. Thật vậy, bài học Khôn Ngoan, theo ẩn dụ của Đức Kitô trong Tin Mừng hôm nay, đó là biết hướng về tương lai chung cuộc để đón gặp “Tân Lang” với “đèn dầu nghiêm túc” là hành trang của thiện lương, thánh đức…, như “5 cô thiếu nữ phù dâu với đèn cháy sáng trên tay hân hoan vào dự tiệc cưới”.
Cuộc hành trình đức tin của người Kitô hữu luôn là cuộc lên đường tiến về cùng đích cuộc đời, tiến về quê hương vĩnh cửu. Cuộc hành trình đó, trong ngôn ngữ của dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, chính là “sự tỉnh thức đợi chờ của những người thiếu nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón tân lang”. Thế nhưng, đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng.
– Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng tất cả sự “nôn nóng của tình mẫu tử” được thể hiện qua cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc đứa con rứt ruột của mình.
– Người vợ mong đợi chồng trở về từ chiến tuyến với tình yêu thuỷ chung son sắt và chỉn chu trong bổn phận của người vợ, người mẹ… để mái ấm gia đình luôn hồng lên ngọn lửa hạnh phúc lứa đôi.
– Người cha già mong đứa con phiêu bạt trở về trong mối tình “phụ tử tình thâm” để không đứa con nào phải ra đi hay bị loại trừ khỏi vòng tay nhân ái bao dung…
Vâng, đó chính là “sự lựa chọn khôn ngoan” cho cuộc hành trình tiến về vĩnh cửu, một lựa chọn của một niềm xác tín và đầy lòng trông cậy rằng: ở cuối đường cuộc sống tại thế, người ta sẽ gặp được một Nước Trời hạnh phúc đang mở cửa đón đợi, một “vị Quân vương đang thết tiệc đợi chờ”, một “Đấng Tình Quân” là Đức Kitô đang mở rộng vòng tay dìu đưa “người bạn thiết” vào địa đàng hạnh phúc…
Đây chính là một “chọn lựa khôn ngoan” hay một “niềm cậy trông vững vàng” mà Thánh Phaolô đã ân cần khuyến dụ cộng đoàn Thêxalônia cách đây gần hai mươi thế kỷ nhưng vẫn còn mang tính thời sự với chúng ta hôm nay: “Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người”.
Sứ điệp đó, giáo lý đó, đâu chỉ là một học thuyết suông ! Trên cuộc hành trình gần 2000 năm của Hội Thánh lữ hành, đã có biết bao nhiêu “cô trinh nữ khôn ngoan” đã sống trọn vẹn sự tỉnh thức và đợi chờ cuộc hội ngộ tình yêu đầy ấn tượng: Thánh Nữ Tiến Sĩ Têrêsa Avila mấp máy nói lên với Chúa trước khi tắt thở: “Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”; trong khi chị Thánh Têrêsa Giêsu Hài đồng than thở: “Lạy Chúa, con… yêu mến Chúa”, đôi mắt xuất thần nhìn thẳng vào một điểm trên pho tượng Đức Mẹ, mặt tươi tắn, rồi nhắm mắt ra đi, đồng hồ chỉ 7 giờ 20 phút tối 30 tháng 9 năm 1897. “Những người trinh nữ” ấy đã cầm đèn cháy sáng ra đón Chúa và gặp gỡ “người tình lang” muôn thuở…
Tóm lại, vào những ngày gần kết thúc năm phụng vụ, sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta sống đức “Trông cậy” một cách vững vàng, chọn lựa Thiên Chúa và sự khôn ngoan đích thực bằng chính một cuộc đời luôn tỉnh thức để toả sáng nhân đức “mến Chúa yêu người”, để sống động thực hành con đường Bát Phúc, để tín trung nghiêm giữ những lề luật của Giao ước.
Và sự chọn lựa gần nhất, căn bản nhất, sự chọn lựa “về đích” khôn ngoan và đích thực nhất của bây giờ và hôm nay, đó chính là “sắp sẵn với ngọn nến trên tay” để đi vào Bàn Tiệc Đức Ki-Tô đang mở cửa đón mời: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, sẽ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54).
Lm Trần Bình Trọng
Nhiều hình ảnh khác nhau về nước Thiên Chúa, cũng gọi là nước Trời, hay nước Thiên đàng được Chúa Giê-su dùng để giảng dạy về nước hằng sống.
Nước Thiên Chúa được sánh ví và giải thích bằng những dụ ngôn như: dụ ngôn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải, dụ ngôn men trong bột, dụ ngôn kho báu và ngọc quí, dụ ngôn chiếc lưới, dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót, dụ ngôn thợ làm vườn nho, dụ ngôn hai người con, phúng dụ những tá điền sát nhân và dụ ngôn tiệc cưới.
Hôm nay nước Trời được ví như mười cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể, trong đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại đem đèn mà không đem dầu dự trữ. Còn năm cô khôn ngoan sửa soạn đem thêm dầu với đèn (Mt 25:3-4). Theo sử sách ghi lại, đám cưới Do thái thời bấy giờ thường tổ chức vào lúc mặt trời lặn khi bắt đầu ngày mới và họ ăn cưới rất tưng bừng, kéo dài cả mấy ngày. Tuy nhiên đám cưới hôm nay còn những chuyện lòng thòng chưa giải quyết xong như về sinh lễ và của hồi môn giữa hai gia đình dâu rể cho tới nửa đêm. Do đó chàng rể rước dâu về trễ mà các cô khờ dại không ngờ.
Khi được loan báo là chàng rể tới trễ, các cô đều chỗi dậy sửa soạn mang đèn ra đón chàng rể. Thấy đèn hết dầu, các cô khờ dại bèn xin các cô khôn ngoan cho vay chút dầu. Sợ không đủ dầu cho đèn của mình, nên các cô khôn ngoan không dám chia sẻ. Kết quả là khi các cô khờ dại đi mua dầu, thì chàng rể tới, cùng với các cô khôn ngoan vào phòng tiệc cưới và cửa được đóng và chốt then lại. Còn các cô khờ thì bị kẹt, đứng ngoài chầu rìa. Lỗi lầm của các cô khờ dại không phải là thiếp ngủ, vì các cô khôn ngoan cũng ngủ, nhưng là thiếu sửa soạn dầu, thiếu dự tính và thiếu óc phòng xa.
Dầu trong Kinh thánh tượng trưng cho ân huệ của Giavê Thiên Chúa, được xức trên người Chúa chọn, mà Thánh kinh gọi là dầu tấn phong (Lv 8:12; 1 Sm 10:l; 16:13). Ðèn không có dầu thì vô dụng. Nói theo nghĩa bóng, tâm hồn không có ơn thánh, là tâm hồn khô héo và cằn cỗi. Người ta có thể trách cứ các cô khôn ngoan là ích kỷ vì đã không cho các cô khờ dại vay dầu để cùng vào phòng cưới đón tiếp chàng rể. Tuy nhiên việc sửa soạn đi ăn cưới: cần đem theo bao nhiêu dầu là tùy thuộc vào dự tính của mỗi người. Dầu cần cho đèn để dự tiệc cưới nước Trời là ơn nghĩa với Chúa. Việc vào nước Trời không phải là việc vay mượn, đổi chác. Người ta có thể nhắc nhở cho người khác sửa soạn dầu tâm hồn để dự tiệc cưới nước Trời, chứ không thể làm thay thế họ được.
Khôn ngoan theo nghĩa Thánh kinh Cựu ước có liên quan tới niềm tin vào Ðức Giavê. Theo sách Châm ngôn thì khôn ngoan, mặc dầu học được bằng kinh nghiệm và truyền tụng, cuối cùng cũng là ân huệ Chúa ban (Cn 2:6). Do đó mà sách Châm ngôn còn dạy: Kính sợ Thiên Chúa là bước khởi đầu của sự khôn ngoan (Cn 1:7). Còn Thánh kinh Tân ước nói về sự khôn ngoan của Chúa hài nhi như sau: Còn Ðức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan (Lc 2:52). Và sau này người hàng xóm láng giềng ngạc nhiên hỏi nhau về Ðức Giêsu Nadarét: Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế (Mt 13:54)? Theo họ, ông chỉ là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria nội trợ và không được đi học tại trường đào tạo làm thầy Ráb-bi, mà sao ông ta được như vậy?
Bài trích sách Khôn ngoan hôm nay đề cao sự khôn ngoan như một bảo đảm cho hạnh phúc nước Trời: Ðể tâm suy niệm về Ðức Khôn ngoan là đạt được sự minh mẫn vẹn tuyền. Ai thức khuya dậy sớm để tìm Ðức Khôn ngoan thì sẽ mau trút được mọi lo âu (Kn 6:15). Ðức khôn ngoan dạy năm cô trinh nữ mang dầu dự trữ cho đèn. Ðức Khôn ngoan được thánh Phaolô đề cập đến trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca bằng việc tin vào Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại và còn cho người đã an giấc trong Ðức Kitô cũng được vào nước Trời: Nếu chúng ta tin vào Ðức Kitô phục sinh, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Ðức Kitô, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người (1Tx 4:14). Xưa kia ở xã hội Việt Nam, người ta trọng chữ trinh của người con gái trước khi cưới hỏi, nên mới có câu tục ngữ: Khôn ba năm, dại một giờ. Vì dại một giờ mà hôn nhân của cô dâu mới cưới bị hủy bỏ và không còn hi vọng có đám cưới thứ hai. Cũng vậy, để dự tiệc cưới nước Trời, người ta cũng phải cẩn thận canh chừng về đời sống thiêng liêng, kẻo lỡ ra không còn đủ thời giờ và cơ hội để mà học khôn chăng?
Tiệc cưới của hoàng tử ám chỉ bữa tiệc nước Trời, khi mà người tín hữu được gọi ra khỏi đời này, để đến dự tiệc nước Trời. Mười cô trinh nữ ám chỉ toàn thể dân Chúa, giáo sĩ, tu sĩ nam nữ cũng nhu giáo dân: đàn ông, đàn bà, già trẻ, lớn bé. Muốn được liệt kê vào sổ các cô trinh nữ khôn ngoan, ta phải sửa soạn linh dược thiêng liêng, chờ ngày Chúa sai thiên thần đến gọi ta ra khỏi thế gian để đối diện trước toà phán xét. Tuy nhiên không ai biết được ngày giờ Chúa gọi, không biết được bệnh tật, tai nạn, thiên tai sẽ đến thế nào?
Việc chàng rể đến vào nửa đêm nói lên tính cách bất thần của ngày giờ Chúa gọi vì Chúa không làm hẹn. Ðợi đến giờ chót mới đi mua dầu dự tiệc cưới là việc quá trễ cho các cô khờ dại, thì cũng có thể là việc quá trễ cho người tín hữu nào, đợi tới giờ phút cuối cùng mới tính sổ nhà linh hồn với Chúa. Như vậy dự định để tính sổ nhà linh hồn vào giờ phút chót là thiếu khôn ngoan. Ta có thể nghe người nọ, người kia nói: Ngày đó họ sẽ hoà giải với Chúa qua bí tích Cáo giải và làm lại cuộc đời. Tiếc rằng ngày đó có thể không xẩy ra vì người ta đã ra đi vĩnh viễn trước ngày đó.
Vậy thì trong khi trông đợi ngày mở tiệc cưới nước Trời – là ngày phán xét – ta cần tỉnh thức, dự phòng, kiên nhẫn và sẵn sàng chờ đợi như Phúc âm dạy, không thể thờ ơ mà quên chuẩn bị dầu đèn cho tâm hồn, là sống trong ơn nghĩa với Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được liệt kê vào số năm cô trinh nữ khôn ngoan:
Lạy Chúa là Ðấng khôn ngoan thượng trí.
Cũng như năm cô trinh nữ khôn ngoan sửa soạn dầu đèn,
xin dạy con biết dự phòng, tỉnh thức
và sẵn sàng sửa soạn dầu đèn cho tâm hồn,
kẻo khi Chúa gọi con bất thình lình ra khỏi đời này
mà tâm hồn con thiếu dầu là thiếu ơn nghĩa với Chúa chăng?
Và xin cho con được liệt kê vào sổ
năm cô trinh nữ khôn ngoan được vào dự tiệc cưới. Amen.
Lm Nguyễn Minh Hùng
Tin Mừng theo thánh Matthêô nhiều lần cho thấy, thánh nhân sử dụng phương pháp đối kháng trong cách viết của mình để gây chú ý. Chẳng hạn: lúa tốt – cỏ lùng; chiên – dê; nhà xây trên đá – nhà xây trên cát…
Dụ ngôn hôm nay, thánh nhân cũng cho thấy sự đối khán ấy trong lời dạy của Chúa Giêsu: khôn ngoan – thiếu khôn ngoan; người biết chuẩn bị – người không lo chuẩn bị; người được dự tiệc cưới – người bị khước từ dự tiệc.
Bằng lối so sánh, thánh nhân muốn làm nổi bật hai chiều kích trái nghịch nhau, mâu thuẫn nhau: Người khôn ngoan luôn biết chuẩn bị sẵn sàng cho đời mình để vào hưởng phúc của Chúa – Ngược lại, sự thiếu khôn ngoan của những ai không biết chuẩn bị, sẽ nên vô phúc, sẽ bị khước từ tham dự hạnh phúc ấy.
Hạnh phúc Nước Trời là được sống chính sự sống đời đời của Thiên Chúa. Chuẩn bị đầy đủ để vào Nước Trời (biểu trưng là tiệc cưới của chàng rể) là biết sống công chính, giữ luật Chúa, yêu Chúa, trung thành với lòng mến mà bản thân dành cho Chúa, yêu anh chị em, sẵn sàng tha thứ, bác ái, tương trợ, quan tâm lẫn nhau… Tất cả những điều ấy là con đường của khôn ngoan, của hạnh phúc sẽ dẫn tới sự sống trong Chúa.
Ngoại trừ những ai sống bê tha, không biết lo cho linh hồn mình, không biết chuẩn bị cho ngày giờ Chúa gọi. Còn tất cả mọi Kitô hữu không ngoan đều hiểu rằng: Cuộc đời mỗi Kitô hữu dù đang nơi dương thế, vẫn hướng về và chờ đợi ngày về cùng Thiên Chúa, khác nào cuộc nghinh đón chàng rể.
Chàng rể mà mỗi Kitô hữu đang trông đợi chính là Chúa Kitô. Người cũng là thẩm phán xét xử từng con người, sau khi họ được Người đến và mang đi.
Tin Mừng cho biết chàng rể sẽ “đến chậm”, nghĩa là Chúa sẽ đến vào lúc không ai ngờ. Đó là giờ chết của mỗi chúng ta.
Sau khi chàng rể đến, cửa sẽ đóng lại. Cuộc đời trên dương thế của mỗi người cũng đóng lại trong ngày Chúa gọi rời bỏ sự sống hiện tại này.
Ý nghĩa thiêng liêng của hình ảnh “chàng rể đến và cửa sẽ đóng”, đó là: người ta chỉ chết một lần, không có cơ hội làm lại cuộc đời nếu đã không có sự chuẩn bị. Vậy hãy như năm cô trinh nữ khôn ngoan, mỗi người cần chuẩn bị hành trang cho ngày giờ Chúa đến gọi đích danh mình.
Nếu ngay bây giờ, ta biết để cho sứ điệp của dụ ngôn lắng sâu vào hồn mình, thấm vào trí nhớ mình, chắc chắn ta sẽ gặp gỡ Chúa, sống cùng Chúa, ở kề bên Chúa trong từng phút giây, từng hoạt động, từng công tác, từng suy tư của ta…
Đã có Chúa sống trong ta luôn luôn, thì nếu có chết, cái chết chỉ là sự nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa, hay chỉ là cuộc gặp gỡ Chúa ở dạng thức khác mà thôi.
Hãy nhớ, người không ngừng gặp gỡ Chúa là người tỉnh thức và khôn ngoan. Họ đang sống chính lời mà Chúa dạy hôm nay: “Các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào”.
Ai khôn ngoan và tỉnh thức, dù các chết ập đến bất cứ lúc nào, vẫn không là chết bất ngờ. Ai để cho mình có cuộc gặp gỡ dành cho Chúa luôn luôn, sẽ là người luôn nắm giữ bình an trong giây phút hiện tại, sẽ không sợ hãi trong giờ chết, và trong giờ trình diện trước tòa Chúa.
Còn sống ngày nào trên dương thế, là vẫn còn thời gian để tỉnh thức, để chuẩn bị, để sống “khôn”. Hãy chuẩn bị cho thật đầy đủ dầu đèn là mọi thứ cố gắng nhằm thanh tẩy mình, ăn năn thú tội, xưng tội, lãnh nhận các bí tích khác và quyết tâm chừa tội, quyết tâm thực thi đức bác ái, thực thi lòng từ tâm với mọi anh chị em…
Chỉ có sống khôn, mới có cái chết thiêng mà thôi…
Lm. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD
Tôi xin bắt đầu bài suy niệm này bằng việc giải thích cấu trúc của từ Triết học. Triết học, tiếng Anh viết là philosophy. Từ này đến từ tiếng Hy Lạp gồm hai từ kết hợp lại, đó là philo, tức là yêu mến; và sophia, nghĩa là sự khôn ngoan. Như vậy, triết học có nghĩa là yêu mến sự khôn ngoan hay đi tìm sự khôn ngoan. Môn triết học đưa ta đi tìm hiểu những gì liên quan đến đời sống của con người và vũ trụ, không chỉ có giới hạn ở cuộc sống hiện tại mà đề cập đến những gì xảy ra trong quá khứ và ngay cả trong tương lai. Triết học không chỉ có đặt câu hỏi về một thực trạng thuộc trần gian mà cả đến cuộc sống mai sau của con người.
Những câu hỏi mà các triết gia thường đưa ra, đó là “Thiên Chúa có tồn tại hay không?” “Con người là ai, con người có nguồn gốc từ đâu và sẽ đi về đâu? “Con người có khả năng nhận biết hay không, căn cứ vào đâu để con người nhận biết sự thật?” “Sự thật là gì, sự thiện được hiểu như thế nào, làm sao con người có thể trở nên một người tốt?” “Con người có tương quan như thế nào với nhau, với môi trường và với Thượng Đế?”
Đây là kho tàng của sự khôn ngoan mà môn triết học có ý muốn giúp con người đạt đến. Tuy nhiên, nghịch lý thay môn triết học trong các nhà trường ngày hôm nay thường bị coi nhẹ. Sinh viên thời nay chỉ muốn chọn những môn học nào có liên quan đến sở thích của mình và họ cho là có ích cho nghề nghiệp tương lai. Hay nói cách họ chỉ chọn những môn học liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, kỷ thuật, thương mại, y học… chứ ít ai muốn chịu khó dành thời gian nghe và bàn thảo những chủ đề về sự khôn ngoan.
Thật không ngoa khi ta nhận xét rằng con người thời nay đang thờ ơ với việc yêu mến và tìm kiếm sự ngoan mặc dầu họ biết sự khôn ngoan theo cách hiểu của các triết gia và thần học gia rất cần thiết cho họ. Nói cách khác họ chỉ muốn tìm kiếm sự “khôn ngoan” nào nhằm giúp họ khi ra trường có được việc làm và kiếm được nhiều tiền. Còn những đề tài “Thiên Chúa có tồn tại hay không, con người là ai, làm sao để trở thành người tốt, có sự sống sau khi chết hay không..,” thì họ chẳng màng quan tâm.
Còn đối với người Công Giáo, tháng 11 là tháng cầu nguyện cho các linh hồn, nên chúng ta có cơ hội để suy niệm về chiều sâu của cuộc đời, cụ thể hơn về cái chết, về đời sống mai hậu, để tìm xem chúng ta cần có thái độ như thế nào để chuẩn bị đón nhận cái chết mà không ai có thể chạy trốn. Dĩ nhiên Hội thánh không muốn chúng ta phải chìm đắm trong một cảm giác đau buồn hay nơm nớp sợ hãi về cái chết, nhưng Hội thánh muốn ta luôn sẵn sàng nhìn vào sự chết với thái độ lạc quan và hy vọng, nhìn về một thời khắc quan trọng sẽ đến với mỗi người chúng ta. Vậy làm sao để chúng ta có được sự sẵn sàng đó?
Trong cuốn sách Đường Hy Vọng, Đức Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận có kể một câu chuyện như sau: khi một đám trẻ đang vui chơi dưới sân, một giáo viên đến hỏi các em bé rằng: “Nếu trong vòng 5 phút nữa các con chết, các con sẽ làm gì?” Một em trả lời một cách rất tỉnh táo: “Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện.” Em khác lại hối hả thưa: “Con sẽ đi xưng tội…” Cuối cùng một em bé hết sức điềm tĩnh trả lời: “Con-sẽ-tiếp-tục-vui-chơi.” Vâng, đó là câu trả lời của thánh Luy Gonzaga. Câu trả lời này khiến chúng ta cảm thấy hết sức bất ngờ và rất ưng ý, bởi nó mang một ý nghĩa thật là quan trọng, đó là chúng ta cần có cảm giác tự tại và tinh thần sẵn sàng trước mọi tình huống của cuộc sống ngay đến cái chết. Nếu chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng thì đứng trước cái chết không có lý do gì khiến chúng ta sợ hãi cả.
Thật vậy, sẵn sàng chu toàn mọi công việc là sự khôn ngoan để chúng ta luôn vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh mà mọi biến cố của cuộc sống. Như dụ ngôn mà Chúa dùng để cảnh tỉnh chúng ta hôm nay, dụ ngôn về 10 cô gái được mời đi đón Tân lang để vào dự tiệc. Tuy nhiên, trong mười cô gái đó, chỉ có 5 cô, khi ra đi biết chuẩn bị đèn và đổ đầy dầu. Vì thế khi chàng rể đến họ cầm đèn cháy sáng trên tay để đón chàng rể và hân hoan đi vào dự tiệc. Chúa gọi họ là những cô trinh nữ khôn ngoan. Còn 5 cô gái khác, ra đi dự tiệc cưới, mang theo đèn nhưng không đổ dầu cho đầy bình. Hôm đó chàng rể lại đến muộn, họ không có đủ dầu, vội vã đi xin dầu, nhưng không ai cho vì không ai cho. Oái ăm thay họ đã luống cuống chạy đi xa để mua, nhưng khi trở về, vì đã quá muộn, nên họ đã bị từ chối. Kinh thánh gọi họ là những cô khờ dại.
Bạn thân mến, cuộc đời chúng ta là một chuỗi những lựa chọn. Chúng ta cần chọn và yêu mến sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Lắng nghe lời Chúa dạy và đem Lời Ngài ra thực hành trong cuộc sống là một thái độ hết sức khôn ngoan của chúng ta. Chúa dạy chúng ta phải biết tỉnh thức và sẵn sàng chuẩn bị tâm hồn. Hằng ngày không phải chỉ có biết đâm đầu vào công việc, kiếm tiền, mà quên đi chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng để sẵn sàng đi đón Chúa. Vì giờ phút thiêng liêng đó có thể đến rất bất ngờ, đến bất cứ lúc nào không ai biết.
Hạnh phúc thay cho chúng ta khi luôn tỉnh thức đợi chờ và cầm đèn cháy sáng trong tay để ra đón Chúa. Xin đừng để tâm hồn chúng ta ra ô uế, mê muội chạy theo sự khôn ngoan của trần thế mà đánh mất linh hồn. Và xin cho chúng ta luôn biết tìm đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chuẩn bị sẵn tâm hồn, để khi nghe tiếng Chúa gọi, chúng ta mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa, này con đây” (Tv 39, 8).
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong những Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm về những diễn từ cánh chung được trình bày trong Tin Mừng Mátthêu (từ chương 24-25). Đây là năm diễn từ cuối cùng về cánh chung. Mỗi Chúa Nhật là một dụ ngôn: Chúa nhật hôm nay bắt đầu dụ ngôn mười trinh nữ, Chúa Nhật tới là dụ ngôn những nén bạc, Chúa Nhật cuối cùng là phán xét chung.
Để chú giải dụ ngôn “mười cô trinh nữ đi đón chàng rể,” chúng ta cần chú ý đến điểm giống nhau và khác nhau của những cô trinh nữ. Hai yếu tố này làm nên sự hấp dẫn và ý nghĩa của dụ ngôn.
1- Điểm giống nhau giữa các trinh nữ
Quả thế, trong dụ ngôn các trinh nữ có những điểm tương đồng đó là: Họ đều đi đón chàng rể, họ đều mang đèn đi (x. Mt 25, 1-5). Điều này cho phép chúng ta suy tư về một khía cạnh chính yếu của đời sống Kitô hữu – đó là chiều kích cánh chung, nghĩa là cuộc sống Kitô hữu là một hành trình đón chờ Chúa và chúng ta hy vọng sẽ gặp Người. Điều này giúp chúng ta trả lời cho câu hỏi muôn thủa: Chúng ta là ai và chúng ta sẽ đi về đâu?
Kinh Thánh nói rằng chúng ta chỉ là những người lữ hành khi sống trên trần gian này. Thánh Phêrô trong thư I nhắc nhở chúng ta rằng: “Anh em là khách lạ và lữ hành” (x. 1 Pr 2,11), khi “sống cuộc đời lữ hành này” (x. 1 Pr 1,17). Quả thế, trần gian là quán trọ, là chốn lưu đày, là đò qua sông, hay là nơi tạm trú tạm bợ như được diễn tả: “Con chim ở trọ cành tre, con cá ở trọ trong khe suối nguồn, tôi nay ở trọ trần gian, trăm năm về chốn xa xăm cuối trời” (Trịnh Công Sơn). Đời sống của người Kitô hữu trên trần gian là một cuộc đời lữ hành tiến về nhà Cha trên trời. Chúng ta không có một nơi nào cố định ở trần gian, nhưng là hướng về tương lai vĩnh cửu là Nước Trời (x. Hr 13,14). Vì thế, các Kitô hữu ở “trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian” (x. Ga 17,11.16). Quê hương đích thực và vĩnh cửu của con người là ở trên trời, chúng ta chờ đợi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ sẽ đến (x. Pl 3,20).
Theo lịch sử cho biết các Kitô hữu đầu tiên nghĩ rằng Chúa Giêsu sắp trở lại với họ lần thứ hai, nên họ chỉ tập trung vào việc đón chờ Chúa đến. Từ thế kỷ II, cùng với quan niệm rằng: “Tự bản chất, con người là một lữ khách trên trần gian” (thư gửi cho Diogenes), người ta còn quan niệm thế gian là thế giới của tội lỗi, và vì thế, họ không đòi hỏi phải dấn thân xây dựng thế giới này qua các bổn phận trần thế như trong hôn nhân gia đình, trong công việc làm ăn, trong đất nước họ sống. Vì họ cho rằng những điều đó không có gì thuộc về Kitô giáo. Thời đó, người tín hữu quan niệm rằng: “Kết hôn như mọi người chỉ để sinh con cái, chứ chúng không có ích lợi gì cả.” Cách hiểu về “thân phận lữ hành” mang ý nghĩa cánh chung, chứ không theo ý nghĩa hữu thể học. Nghĩa là người Kitô hữu nhận mình là kẻ lữ hành từ ơn gọi, chứ không phải từ bản tính. Dầu họ được tiền định để sống cho một thế giới khác và thế giới đó là nơi họ xuất phát. Ý thức Kitô giáo về kiếp lữ hành dựa trên nền tảng sự phục sinh của Chúa Kitô: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3,1). Đó là lý do tại sao người Kitô hữu không bác bỏ sự sáng tạo trong sự thiện hảo nền tảng của nó.
Thời gian sau này, việc tái khám phá vai trò và sự dấn thân của người Kitô hữu trong thế giới đã giảm nhẹ ý nghĩa cánh chung, và dường như người ta lại im lặng không nói nhiều về những sự sau: đó là chết, phán xét, hỏa ngục và thiên đàng. Tuy nhiên, sự chờ đợi Chúa trở lại đượm chất Tin Mừng hơn. Theo đó, khi hướng về thiên đàng không cho phép sao nhãng bổn phận dấn thân cho tha nhân, hơn thế, còn thánh hóa bổn phận này. Các Kitô hữu được dạy rằng phải “biết phán xét với sự khôn ngoan những điều tốt lành ở trần gian, khi chúng ta hướng về những điều tốt lành trên trời.” Thánh Phaolô, sau khi nhắc nhở các tín hữu rằng “thời giờ vắn vỏi,” kết luận: “Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,10).
2- Những điểm khác biệt giữa các trinh nữ
Với tiến trình nhận thức trên, giờ đây, chúng ta chuyển sang những điểm khác biệt giữa các cô trinh nữ trong dụ ngôn: Quả thế, năm cô được gọi là khôn ngoan, thì đem đèn và đem dầu theo, khi chàng rể đến muộn, họ tỉnh dậy và sẵn sàng để ra đón chàng rể. Còn năm cô được gọi là khờ dại, vì họ mang đèn mà không mang dầu theo, khi chàng rể đến, họ phải đi mua dầu, khi trở về, thì không thể vào dự tiệc cưới. Dầu là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa họ (x. Mt 25,1-13).
Thánh Augustinô giải thích: những cô khờ dại là biểu tượng con người tự nhiên, chưa được ân sủng biến đổi. Còn những cô khôn ngoan biểu tượng của con người đã được ân sủng biến đổi. Chi tiết dụ ngôn về năm cô khôn ngoan không chia sẻ dầu hay giúp đỡ gì cho những cô khờ dại xem ra họ là người ích kỷ và không muốn giúp người khác. Điều này không cho phép chúng ta hiểu như thế. Ở đây, dụ ngôn chỉ muốn diễn tả rằng vào lúc giờ sau hết, người khác không thể thay thế chúng ta lo phần rỗi mình được, mỗi người phải tự chịu trách nhiệm cho chính mình, nếu không sẽ bị loại ra ngoài. Đây là những bổn phận không thể thay thế. Không có cơ hội để thay thế. Nên phải luôn sẵn sàng và chuẩn bị đầy đủ.
Hình ảnh đèn là biểu tượng của đức tin, còn dầu là biểu tượng của đức ái. Nếu đức tin không có đức ái thì như đèn không có dầu và không thể thắp sáng lên được. Cũng như các trinh nữ, để đi đón chàng rể, họ phải có đèn, dầu và lòng khao khát gặp gỡ, cũng thế, để đi đón Chúa và để gặp Chúa, người Kitô hữu phải có đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin giúp chúng ta tin vào Chúa, nhận biết Chúa là Đấng Cứu Độ của chúng ta. Đức cậy là niềm hy vọng, sự khát khao trông chờ của chúng ta trong cuộc gặp gỡ đó. Và đức ái giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Nếu sống cuộc đời lữ hành này mà không có ba nhân đức đối thần, chúng ta giống như những cô trinh nữ khờ dại, đưa đèn đi đón chàng rể mà không mang dầu. Nhưng nếu có ba nhân đức này, chúng ta giống như những cô khôn ngoan, sẽ được gặp Chúa trong ngày sau hết và sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa trên thiên đàng.
Như thế, chờ đợi Chúa trở lại không có nghĩa là chúng ta mong cho được chết sớm, nhưng là tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nghĩa là hướng toàn bộ đời sống của chúng ta vào trong cuộc gặp gỡ Chúa Kitô và biến cuộc gặp gỡ này thành trụ cột của mọi sự chú ý và là biển chỉ đường cho cuộc sống. Khi đó, lúc nào Chúa đến không còn quan trọng nữa, bởi lẽ chúng ta đã luôn sẵn sàng và tỉnh thức để gặp gỡ Chúa rồi. Amen!
DỰ LIỆU, PHÓ THÁC VÀ TỈNH THỨC
An Phong
Bài Tin mừng hôm nay là một dụ ngôn về 5 cô trinh nữ khờ dại và 5 cô trinh nữ khôn ngoan. Các cô khờ dại bị loại khỏi tiệc cưới, vì họ thờ ơ không chuẩn bị thích hợp. Còn các cô khôn ngoan thì được đón nhận vào tiệc cưới.
Người kitô hữu cũng vậy, nếu thờ ơ không chuẩn bị thích hợp, họ cũng sẽ bị loại khỏi bữa tiệc cánh chung của Thiên Chúa.
Cuộc đời vốn là một hành trình đầy bất ngờ; bởi luôn có nhiều điều xảy ra ngoài dự kiến của ta. Sự bất ngờ đôi khi gây thú vị, nhưng cũng lắm lúc làm đớn đau, tan nát… và thường làm cho ta khó hoạch định tương lai một cách chắc chắn. Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã biết dự phòng, bằng cách mang dầu theo với đèn; điều đó làm cho các cô có thể ứng xử đúng đắn khi điều bất ngờ xảy đến.
Cuộc đời là một hành trình và khôn ngoan là biết dự liệu tối đa.
Cuộc đời là một cuộc phiêu lưu, có niềm vui, có hạnh phúc; nhưng cũng không thiếu nỗi đau, bất hạnh. Những đau khổ và bất hạnh đó nhiều khi vùi dập con thuyền đời của ta, làm cho ta thất vọng, chán nản. Người kitô hữu cần phải luôn hy vọng đạt đến bến bờ hạnh phúc, để có đủ sức mạnh hoàn tất cuộc hành trình này. Khi nào chúng ta sẽ đạt đến bến bờ hạnh phúc? Chúng ta không biết, cũng như các cô trinh nữ không biết khi nào chàng rể đến. Nhưng chúng ta hy vọng sẽ có ngày toại nguyện, như các trinh nữ biết chắc chàng rể sẽ đến.
Cuộc đời vốn là một bến đợi, và khôn ngoan là biết sống trong hy vọng.
Cuộc đời có quá nhiều khó khăn sẽ dễ làm cho chúng ta chai lì; sự mong đợi lâu ngày có thể làm chúng ta dửng dưng với mọi sự; những khó khăn hằng ngày khiến chúng ta luôn phải tìm cách giải quyết những chuyện trước mắt; và cuối cùng chúng ta có thể lâm vào tình trạng chẳng còn biết mình trông đợi ai, mình hy vọng điều gì, mình sống trên đời để làm gì nữa. Lúc 5 cô khờ dại đi mua dầu, thì chàng rể đã đến; có thể Chúa đến đang lúc chúng ta bận tâm chuyện gì khác chăng?
Cuộc đời là bến mê; và khôn ngoan là biết tỉnh thức.
Để đón nhận Chúa, chúng ta cần biết dự liệu sẵn sàng biết kiên nhẫn hy vọng và biết tỉnh thức sáng suốt.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến với con trong bí tích tình yêu này
Và Chúa vẫn hằng đến với con trong từng bước cuộc đời của con.
Xin cho con biết tỉnh thức,
để nghe được tiếng bước chân của Ngài.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Vào thời điểm cuối năm Phụng vụ, cũng là cuối năm dương lịch, trong tiết trời se lạnh của mùa đông vừa khởi đầu, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy nghĩ về chung cục của cuộc đời, tức là cái chết. Có nhiều người kiêng không muốn nghĩ tới cái chết, vì cho đó là điều xui xẻo. Nhưng dù nghĩ đến hay không, thì cái chết vẫn đi liền với cuộc sống của con người. Chẳng ai có thể phủ nhận được nó. Vậy, thay vì tránh né cái chết, Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng khi cái chết đến, tức là hãy tỉnh thức. Bởi lẽ, như thực tế đã chứng minh, cái chết đến chẳng biết vào lúc nào, chẳng từ lứa tuổi nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Câu chuyện 10 cô đi đón chàng rể, trong đó có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại, chuyển tải một lời mời gọi hãy tỉnh thức. Khái niệm về “tỉnh thức” ở đây rất phong phú diễn tả nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống con người cũng như đời sống đức tin.
Tỉnh thức trước hết là luôn nghĩ rằng cuộc đời này hữu hạn chóng qua. Nhiều người trong xã hội hôm nay sống mà không cần biết đến ngày mai. Họ không nghĩ tới có ngày họ phải nhắm mắt xuôi tay để rời cõi đời này. Chính vì thế, họ đắm chìm trong say sưa, sống vô trách nhiệm với gia đình và những người thân thuộc. Hơn thế nữa, họ trở nên gánh nặng cho xã hội và là mối kinh hoàng cho những người xung quanh. Xã hội hôm nay ngày càng có nhiều thanh niên trong tình trạng “ngáo đá” hoặc nghiện ma túy. Đây cũng là nguyên nhân của bạo lực, cướp của giết người. Năm cô khờ dại chắc chắn cũng chuẩn bị nhiều thứ để đi đón chàng rể, nhưng điều cốt lõi như “dầu đèn” thì họ lại không coi trọng và để ý. Có thể họ chỉ chú trọng đến nhan sắc và những gì bề ngoài. Một cái kết không ngờ đã dành cho họ, khiến họ bị xua đuổi ra ngoài. Khi nghĩ đến cuộc đời chóng qua, chúng ta cố gắng nỗ lực để vươn tới sự sống vĩnh cửu. Tác giả thư gửi tín hữu Thêxalônica (Bài đọc II) đã khẳng định với chúng ta về sự sống mới sau sự chết. Chết chỉ là sự biến đổi. Nếu sự chết là mối kinh hoàng đối với người vô tín và đối với những người gian ác, thì lại là dịp để người lành gặp gỡ Thiên Chúa và được Ngài thưởng công. Đây là câu trả lời cho một vấn nạn gai góc về ý nghĩa cuộc đời, về cái chết và sự sống đời sau. Tin vào đời sau và chuẩn bị sẵn sàng để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Đó là niềm hy vọng Kitô giáo. Người tỉnh thức là người sống niềm hy vọng ấy, đồng thời chuẩn bị những gì cần thiết, để sau khi kết thúc cuộc đời dương thế, được Chúa đón nhận vào nhà của Người.
Tỉnh thức là khôn ngoan sáng suốt chọn lựa cho mình một tương lai. Trong cuộc đời này, có người chọn cho mình những giá trị thiêng liêng bền vững, nhưng cũng có người chỉ dừng lại ở những giá trị tạm thời chóng qua. Khái niệm “Khôn – Dại” nhiều khi bị chi phối bởi quan niệm sống trong một giai đoạn hoặc ở một bối cảnh nào đó. Có những người được khen là “khôn” hôm nay, nhưng lại là “dại” ngày mai. Một tình trạng phổ biến nơi giới trẻ hiện nay là sự lạc hướng trong những chọn lựa cho mình một người bạn đời hay một nghề nghiệp. Vào lúc đang đứng ở ngã ba đường, cần phải quyết định cho chọn lựa tương lai, nhiều bạn trẻ chỉ dựa trên những tiêu chí vật chất, bổng lộc, nhan sắc, mà không để ý đến những tiêu chuẩn khác như đạo đức con người, nghề nghiệp chân chính, quan niệm tôn giáo hay thực hành đức tin. Nhiều cô gái Việt nhắm mắt đưa chân theo một mối tình vô định với một người nước ngoài, chỉ mong đổi đời mà bất chấp chênh lệch tuổi tác, khác biệt văn hóa và không cùng tôn giáo. Họ phó mặc tương lai cuộc đời, như đánh một canh bạc may rủi. Nhiều người đã phải trả giá bằng sự tủi nhục triền miên, thậm chí bằng chính mạng sống nơi xứ người.
Tỉnh thức còn là biết chọn lựa Thiên Chúa như đích điểm của cuộc đời. Tác giả sách Khôn ngoan đã giới thiệu với chúng ta về sự khôn ngoan của Thiên Chúa, được gọi là “Đức Khôn Ngoan” (Bài đọc I). Theo nội dung được diễn tả, thì Đức Khôn Ngoan vừa là một lý tưởng, vừa là một định hướng, vừa giống như một nhân vật hiện hữu trong đời. Giáo huấn Kitô giáo đã khẳng định Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Quả vậy, Đức Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian mạc khải cho con người về Nước Thiên Chúa. Người là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Ai tin vào Người sẽ được sống đời đời. Chọn lựa đi theo Chúa Giêsu và sống theo giáo huấn của Người, có những lúc bị coi là dại dột trong xã hội tân tiến hôm nay. Một số người thiếu thiện cảm coi giáo huấn của Chúa là lỗi thời và ngăn cản đà tiến của con người. Lối suy nghĩ này không có gì lạ, vì nó đã tồn tại từ thời ban đầu của Giáo Hội, qua phản ánh của Thánh Phaolô trong thư gửi giáo dân Côrinhtô: ““Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo. Nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người (1 Cr 1,23-25).
“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai!”. Đây vừa là lời khước từ đối với những người không tỉnh thức, vừa là lời tuyên án xác định hậu vận tương lai của họ. Đây cũng là lời cảnh báo cho những ai chỉ đam mê đời này mà quên đời sau, chỉ chạy theo những tham vọng vật chất mà quên tiếng nói của lương tâm, cũng là tiếng nói của Thiên Chúa.
Trong những ngày này, theo truyền thống lâu đời trong Giáo Hội, chúng ta đến cầu nguyện bên mộ của những người thân. Hình ảnh năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan cũng giúp chúng ta xét mình về tình trạng hiện tại của đời sống. Vâng, nếu Chúa đến gọi chúng ta, chúng ta sẽ ra sao? Liệu chúng ta có chuẩn bị đủ “dầu” là lòng mến Chúa yêu người, là sự bao dung đức độ và là tình bác ái đối với anh chị em chúng ta?
.
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Đám cưới là một sinh hoạt bình thường của con người. Chúa đã dùng một sinh hoạt bình thường của xã hội để nói về Nước Trời cho mọi người dễ hiểu. Qua dụ ngôn này, Chúa sánh ví Nước Trời giống như một đám cưới. Chúa chính là chàng rể. Linh hồn là trinh nữ. Giờ Chúa đến là giờ ta từ giã đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Bóng đêm là những thử thách ta gặp trên đường về Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên tính cách bất ngờ của giờ chết. Qua dụ ngôn này, Chúa hé mở cho ta mấy chân lý về Nước Trời.
Hạnh phúc Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng, được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa.
Con người được Chúa trân trọng. Hình ảnh chàng rể đến giữa đêm khuya thật gợi ý. Chúa đến tận nơi tìm ta. Chúa không triệu ta đến như ông vua ra lệnh cho thần dân. Nhưng Chúa trân trọng đến đón rước linh hồn. Và để đến tìm ta, Chúa phải vượt suối băng ngàn, đi trong đêm hôm khuya khoắt. Chúa yêu thương ta biết bao.
Mọi người được mời gọi. Chúa mong ước mọi người được ơn cứu độ. Chúa mong ước cho ta được hạnh phúc. Dựng nên con người, Chúa muốn mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Nên cả mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn để đi đón chàng rể. Cả mười cô được dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều tham dự vào đám rước dâu và vào dự tiệc cưới.
Nhưng ai có đủ điều kiện mới được vào. Điều kiện được diễn tả như ngọn đèn cháy sáng. Đi rước dâu đòi phải cầm đèn. Đèn ai sáng mới được dự vào đám rước. Đèn tắt bị loại ra ngoài. Những người cầm đèn sáng là những người tha thiết yêu mến Chúa nên chăm lo thực hành lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể. Còn những người đèn tắt là những người tuy cũng muốn vào dự tiệc cưới nhưng không chịu chuẩn bị. Họ là những người tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, có tên trong sổ rửa tội, nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Có đèn mà không có dầu. Có đèn mà đèn để tắt. Có đạo mà không giữ đạo. Biết luật Chúa nhưng không chịu thực hành.
Các con Thiếu Nhi Thánh Thể thân mến,
Thánh Thể vốn là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong Thánh Thể Chúa yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời. Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đời ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật hạnh phúc cho ta.
Vì yêu thương, nên Chúa Giêsu cũng đã từ trời xuống thế tìm ta. Để được con người Chúa đã phải trải qua biết bao vất vả khó nhọc. Nhất là phải chịu nhục nhã và chịu chết nữa. Hôm nay Chúa vẫn ở trong nhà chầu chờ đợi ta.
Trong nhà thờ luôn có ngọn đèn chầu. Khi không có ai thờ phượng Chúa, thì có ngọn đèn chầu lúc nào cũng thắp sáng để thờ phượng Chúa. Thiếu Nhi Thánh Thể nguyện là những ngọn đèn chầu ơ bên cạnh Chúa. Mỗi khi các con đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể, các con trở nên những ngọn đèn chầu. Càng có nhiều ngọn đèn chầu và những ngọn đèn chầu càng sáng lâu thì trái tim Chúa càng được sưởi ấm.
Ngọn đèn chầu của các con được sáng lâu và sáng mạnh là nhờ các con sống bí tích Thánh Thể. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống để tuân theo thánh ý Đức Chúa Cha, Thiếu Nhi Thánh Thể hãy luôn yêu mến và làm theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống vì tha nhân. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết yêu mến mọi người. Như Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết khiêm tốn phục vụ mọi người. Như Chúa Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng mọi người. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết chia sẻ cơm áo với những người nghèo, viếng thăm an ủi những người buồn khổ. Thực hành bí tích Thánh Thể là chất dầu giữ cho ngọn đèn tâm hồn các con luôn cháy sáng. Với ngọn đèn cháy sáng trên tay, các con sẽ an ủi Chúa Giêsu Thánh Thể và khi Chúa đến, các con sẽ cầm đèn cháy sáng cùng Chúa vào tham dự hạnh phúc Nước Trời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Dụ ngôn 10 côT trinh nữ có ý nghĩa gì?
2- Bạn chuẩn bị thế nào để được vào dự tiệc Nước Trời?
3- Chúa đến bất ngờ. Điều này dạy ta phải làm gì để sẵn sàng đón Chúa.
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, lúc nào chúng ta cũng học được cái mới mẻ, lúc nào chúng ta cũng bắt gặp những sự ngạc nhiên. Chúa dạy chúng ta về mọi vấn đề trong cuộc sống, đặc biệt, Người mời gọi chúng ta tìm kiếm Nước Trời bởi vì tất cả mọi sự ở đời : vinh dự, danh vọng, tiền tài, của cải, vật chất, đến cả sinh mạng của con người rồi cũng sẽ qua đi. Do đó, chúng ta và mọi người đều không biết trước được ngày mình phải ra đi. Sự chết đến bất ngờ, chóng vánh chúng ta không thể biết trước được.
Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn hơi kỳ lạ, một tiệc cưới khác với mọi tiệc cưới ở trần gian mà chúng ta đã được tham dự. Thực tế, Chúa nói về tiệc cưới Nước Trời. Chàng rể không đến đám tiệc bình thường, nhưng lại đến một cách bất ngờ, một cách đột xuất vào nửa đêm. Thật kỳ dị, thật lạ lùng ! Tuy nhiên, Tin Mừng thuật lại :” Năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn, mang dầu dự phòng đi theo. Nên, chàng rể đến, họ đã thắp đèn đón chàng rể và cùng chàng rể vào phòng dự tiệc cưới “.Còn năm cô trinh nữ khờ dại mang đèn, nhưng không mang dầu, nên họ không được vào phòng cưới dự tiệc.
Dụ ngôn này cho chúng ta thấy rõ việc tỉnh thức sẵn sàng là tối ư quan trọng. Việc mười cô trinh nữ trong đó có năm cô khôn và năm cô khờ dại cho chúng ta thấy hình ảnh của cả loài người.Chúa đến trần gian để cứu độ mọi người, cứu rỗi con người và đem lại cho con người hạnh phúc. Dân Do Thái được Thiên Chúa chọn, họ cứ tưởng ơn cứu độ chỉ dành cho họ mà thôi, do đó, họ không cố gắng, họ không sẵn sàng, họ không tỉnh thức.Lịch sử của dân tộc họ là một chuỗi những bất trung, ngỗ nghịch, trong khi đó, Chúa là Đấng luôn trung tín…Chúa mời gọi mọi người hưởng hạnh phúc Nước Trời, tuy nhiên, muốn được vào Nước Thiên Chúa, con người phải khôn ngoan, sẵn sàng và tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan. Theo Chúa không có nghĩa là cứ ngồi lì, hay nằm đó mà chờ sung rụng.Nhưng theo Chúa, con người phải vượt thắng, cải thiện đời sống, ăn năn sám hối và đặc biệt bước theo con đường tám mối phúc thật. Con người phải lắng nghe và thực hành lời Chúa.Nước Trời luôn mở rộng nhưng người Kitô hữu không thể sống tà tà, giữ đạo bằng cách đọc một số kinh nào đó, đi lễ một năm vài lần theo luật nhưng lòng mình lại xa Chúa và xa anh em của mình. Theo Chúa nhưng không biết cảm thông, không biết chia sẻ, không biết giúp đỡ những người nghèo, những người neo đơn, già cả, những người cô thân cô thế, cô nhi quả phụ vv…Muốn đi vào Thiên Quốc, người Kitô hữu phải khôn ngoan tỉnh thức, sẵn sàng và chờ đợi chàng rể.
Theo Chúa và tìm kiếm Nước Trời là mục đích chính của người Kitô hữu.Tuy nhiên, để được vào Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu phải chóng vánh, sẵn sàng và cầm đèn đức tin cháy sáng để đón chàng rể là Đức Kitô hầu cùng Người vào dự tiệc Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức, sẵn sàng cầm đèn cháy sáng trong tay để chờ Chúa đến với chúng con một cách hết sức bất ngờ để dự tiệc cưới Thiên Quốc.Amen.
Gợi ý để chia sẻ :
1. Năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô khờ dại tượng trưng cho ai ?
2. Tiệc cưới ở đây là gì ?
3. Chàng rể là ai ?
4. Muốn được vào Nước Thiên Chúa, người Ktô hữu phải làm gì ?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Chờ đợi là hai từ mà chúng ta vẫn nói trên môi. Chờ đợi một ai đó. Chờ đợi một chuyến đi. Chờ đợi một sự kiện. Một ngày có rất nhiều lần chúng ta phải chờ đợi. Nếu một chiều đứng lặng và quan sát nơi đường phố, chúng ta sẽ thấy những chiếc xe đẩy hàng rong chờ đợi người mua, những chiếc taxi xếp hàng dài chờ đón khách, những người đi lại chờ đèn để băng đường, những người ăn xin chờ đợi một tấm lòng, …
Chờ đợi có thể sẽ rất buồn và rất lâu nhưng cũng có thể chờ đợi là niềm vui và hạnh phúc vì người ta chờ đợi sẽ đến, việc ta mong sẽ thành. Ai đó từng nói rằng chờ đợi là hạnh phúc, nhưng cũng có người bảo rằng chờ đợi chỉ mang lại khổ đau. Song, không ai có thể trải qua cuộc sống này mà không một lần chờ đợi và đôi khi chúng ta cứ phải chờ, chờ rất nhiều, rất lâu đơn giản vì không thể nào làm khác được.
Có bài hát viết rằng: “Em vẫn từng đợi anh, như hoa từng đợi nắng, như gió tìm rặng phi lao, như trời cao mong mấy trắng.”. Sự chờ đợi đích thực không phải là không làm gì, là án binh bất động mà là tìm kiếm, là hành động để không bỏ lỡ cơ hội gặp lại người mình yêu.
Như vậy, chờ đợi để đón nhận một niềm vui, chờ đợi là để tiếp tục một công việc. Chờ đợi là nhịp cầu để chúng ta hoàn thành một công việc, hoàn thiện một ước mơ. Chờ đợi là một điểm nhấn cần có trong cuộc sống để chúng ta nắm bắt những cơ hội tốt hơn trong cuộc sống.
Chúa Giê-su nói rằng cuộc sống chúng ta cũng có một bến đợi. Nơi bến đợi đòi hỏi chúng ta phải làm việc. Bến đợi cuộc đời đòi buộc chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức để luôn chu toàn bổn phận. Tỉnh thức để luôn chuẩn bị đủ dầu thắp sáng giữa đêm tối đầy những cạm bãy rình chờ. Đừng như những trinh nữ khờ dại vì lười biếng mà bỏ lỡ cơ hội dự tiệc vui Nước Trời. Hãy sẵn sàng như các cô trinh nữ khôn ngoan luôn tỉnh thức để được cùng tân lang vào trong phòng tiệc.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự. Chắc họ đã lo trang điểm cho mình. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya. Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới. Nhưng muộn quá! “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”.
Đáng tiếc cho các cô khờ dại là có đèn, nhưng đèn lại không đủ sáng khi Chúa đến, vì Chúa đến quá bất ngờ khiến dầu đã cạn, ánh sáng đã không còn.
Bài phúc âm hôm nay như nhắc nhở thái độ cần có nơi người ky-tô hữu chúng ta. Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương. Yêu thương thì không có điểm dừng. Yêu thương thì luôn mãi. Yêu thương càng không có ranh giới. Yêu thương mọi người và mọi nơi. Khi chúng ta yêu thương là chúng ta đang thêm dầu vào cuộc đời để thắp sáng tình yêu cho thế gian. Nếu cuộc đời chúng ta không còn yêu thương thì lúc đó ánh đèn cuộc đời ta đã bị dập tắt và chắc chắn không còn đủ ánh sáng đi đón Chúa.
Cuộc đời sẽ kết thúc. Kết thúc lại bất ngờ. Không ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Xin Chúa giúp cho chúng ta đừng bao giờ để mình bị ngụp lặn trong tội lỗi, nhưng luôn sống có mục đích, biết phấn đấu vươn lên không ngừng, biết tránh xa tội lỗi và chu toàn bổn phận của mình. Nhờ vậy, chúng ta mới là những trinh nữ khôn ngoan xứng đáng tham dự tiệc vui thiên quốc. Amen
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Dụ ngôn về mưới cô trinh nữ đi đón chàng rể, năm cô mang dầu đèn và năm cô mang đèn lại không dầu. Giảng nghĩa cho câu truyện dụ ngôn này Chúa muốn dạy: Sẵn sàng và tỉnh thức.
Trinh nữ: Biểu lộ tâm hồn trong trắng và trống rỗng. Đó cũng là tình trạng của một con người đã sẵn sàng đón nhận.
Đèn và dầu: Đèn tượng trưng cho thân xác và linh hồn, chất dưỡng nuôi linh hồn là dầu, lửa tượng trưng trí tuệ.
Chàng rể đến: Chỉ về ngày quang lâm không biết ngày nào, giờ nào đến.
Mười cô đều đi đón chàng rể, được hiểu như là những cô phù dâu được vinh dự mời để đón chàng rể. Các cô đều là những trinh nữ, nghĩa là đều là những con người mang tâm hồn trong trắng chưa bị vẩn đục. Điều này cũng giống như những con người vừa lành nhận bí tích Rửa Tội. Được nên sạch trong, nhưng thời gian giữ gìn tâm hồn ấy như thế nào để khi Chúa đến vẫn là sạch trong.
Thời gian và hoàn cảnh nối tiếp thay đổi mau, đó cũng là tình trạng chờ đợi giờ chàng rể đến. Mười cô trinh nữ tất cả đều được mời gọi đi đón chàng rể. Cuộc sống đời này, mỗi người đều được mời để cùng với chàng rể đi vào tiệc cưới trần thế.
Tiếc cho năm cô khờ dại, thời gian chờ đợi trôi qua vô ích. Dầu tượng trưng cho việc dưỡng nuôi linh hồn chờ đợi lại không có, vậy ngọn lửa mến cũng chẳng có để mà thắp lên.
Khi cuộc đời thiếu dầu, ngọn lửa không được thắp lên. Sự trắng trong cũng bị vẩn đục vì đi trong bóng đêm. Thời gian không còn, niềm vui muôn đời đã mất, buồn cho phận người long đong, tất tưởi chốn tử vong.
Cuộc đời chờ đợi, chờ đợi lại vô ích. Được mời gọi vào cuộc vui trần thế, nhưng cuộc đời lại trở nên vô vị. Cái gì cũng có, nhưng lại không có chất dưỡng nuôi linh hồn. Thân xác này no đầy, trang phục đắt giá, ở những nơi sang trọng, cuộc sống vui chơi, nhưng lại tắt ngúm khi ngày cuối cùng đến. Lời Chúa nói: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào lợi ích gì” (Mt 16, 26)
Năm cô khôn ngoan vừa được đời này vừa tìm kiếm được đời sau. Biết sống và chuẩn bị cho cuộc sống đời đời là sống niềm vui trọn vẹn của Lời Chúa chúc phúc.
Xin cho chúng con luôn biết chuẩn bị xác hồn, dầu đèn, cuộc đời để đón Chúa.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Kính … khi rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh cụ thể thường ngày để giúp cho người ta dễ hiểu về mầu nhiệm Nưới Trời. Nước Trời như hạt cải, Nước Trời như chuyện mở tiệc cưới. Và hôm nay Đức Giêsu nói, Nước Trời giống như chuyện mười cô trinh nữ trong đám rước dâu. Vậy chúng ta tự hỏi : Bài dụ ngôn hôm nay muốn nói gì? Và qua dụ ngôn ấy, Đức Giêsu muốn nói gì với chúng ta?
Đọc dụ ngôn này chúng ta thấy có điều không ổn, bởi vì chàng rể đến chậm, nên các cô phù dâu ngủ cả. Một điều khác nữa chúng ta thấy là chàng rể trong dụ ngôn đã không cư xử như những chàng rể thông thường. Đây là một chàng rể đặc biệt và một tiệc cưới cũng đặc biệt, bởi trong tiệc cưới đó, mọi người phải tuân giữ những luật lệ khác với những luật lệ thông thường. Và điều khiến người ta thắc mắc và để ý hơn cả đó là đám cưới có bao điều cần thiết, chứ đâu chỉ cần mỗi người một đèn sáng trong tay là vào dự tiệc cưới, chàng rể đến cũng phải đem đèn đi theo chứ, vả lại năm cô có đèn mà đèn hết dầu thì vẫn còn năm cô kia, hai người một đèn không đủ sao? Mà cũng thật là thiếu bác ái trong nhóm phù dâu. Chỉ có mười cô cùng nhóm với nhau thôi mà cũng không chịu chia sẻ dầu cho nhau để tất cả có dầu đèn, cùng vào dự tiệc cưới thì vui biết mấy.
Năm cô có đèn nhưng lại hết dầu xin năm cô còn đèn thắp sáng, lại còn dầu dự trữ nữa, thế mà không san sẻ cho bạn. Không những thế, lại còn nói : “E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra hàng mà mua thì hơn” (Mt 25, 9). Tin Mừng kể lại, chính lúc năm cô đi mua thì chàng rể đến. Lúc có dầu có đèn thì chàng rể đã đến và cửa đã đóng. Các cô gõ cửa, chú rể đích thân ra, nhưng trả lời một cách khắc nghiệt : “Ta không biết các ngươi” (Mt 25, 12). Các cô là những người giúp việc nhà, là những người quen thuộc, mà chú rể nói rằng không quen, “không biết”. Hậu quả năm cô này được gọi là năm cô khờ dại, vì đã mang được đèn mà không mang dầu theo.
Chúng ta nên nhớ đây chỉ là một dụ ngôn thôi, chứ thực tế không có đám cưới nào hay đám rước dâu nào lại xảy ra như thế cả. Dù chàng rể có tới trễ, chắc chẳng ai ngủ được, phương chi các cô phù dâu, quần áo đầu tóc như thế làm sao mà ngủ nổi? Khi nói dụ ngôn này, Chúa Giê-su chỉ muốn dạy chúng ta một bài học là phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Chàng rể đặc biệt đó chính là Chúa Giê-su, mười trinh nữ phụ dâu là toàn thể nhân loại, được Thiên Chúa yêu thương và đón mời về dự tiệc cưới Nước Trời. Dầu và đèn là các điều kiện cần có để được tham dự tiệc cưới ấy. Mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh con người, có người dại người khôn. Khôn hay dại là căn cứ vào thái độ họ có biết sẵn sàng hay không. Chúng ta thấy mười trinh nữ phù dâu, các cô khôn, cô dại đều ngủ cả, chứ đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ. Nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau, là ở chỗ cẩn thận và sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ, nhưng ngủ trong thái độ sẵn sàng. Còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, tới đâu hay tới đó. Nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Còn việc chàng rể đến chậm, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ việc Chúa đến. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng hoàn toàn bất ngờ, đột xuất nên ai khôn thì sẵn sàng. Sẵn sàng chờ đón ngày chung cục của thế giới, ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa phán xét toàn thể nhân loại. Ngày đó không ai biết trước được. Sẵn sàng đón nhận giờ chết, giờ bất ngờ, không ai biết trước được. Đòi hỏi mỗi người phải hết sức cẩn thận và sẵn sàng. Đây chính là bài học Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta.
Muốn đón Chúa chúng ta phải khôn ngoan, tỉnh thức, sẵn sàng và phải có đèn. Đèn ở đây là chính tình yêu, một lòng mến bình thường, không gây mỏi mệt và buồn chán. Đèn muốn hữu dụng phải có dầu. Dầu đốt mãi cũng phải hết. Vậy, chúng ta phải tích trữ dầu càng nhiều càng tốt. Từng giọt dầu nhỏ bé được thêm vào liên tục là những công việc nhỏ bé, tốt lành, thiện hảo trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Đó là những giọt dầu của tình yêu mến, giữ cho ngọn lửa đời sống đạo đức của chúng ta luôn cháy sáng như ngọn lửa hồng đầy sức sống. Với dầu cầu nguyện và việc lành, chúng ta sẽ giữ đèn của chúng ta luôn cháy sáng, và Người sẽ nhận ra chúng ta.
Dầu này là dầu không vay không mượn được như người ta tưởng, nên không thể nói đến chuyện thiếu bác ái ở đây. Nhân đức và cách sống không thể cho vay cho mượn để vào Nước Trời, mỗi người phải tự tích luỹ cho mình, nghĩa là phải trở nên người thực thi lời Chúa hơn là người chỉ biết nghe lời Chúa.
Chúng ta không biết ngày hay giờ nào Thiên Chúa đến, nên phải chuẩn bị để khi Người đến chúng ta có thể vào được Nước của Người. Tất cả những gì Chúa Giêsu nói trong bài dụ ngôn này được coi như là một lời cảnh báo yêu thương Chúa dành cho chúng ta, thức tỉnh tâm hồn ta sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy nhớ rằng, một ngày nào đó, cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào. Vì thế, phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, tức là chúng ta phải luôn sống tốt lành. Amen.
.
Anna Cỏ may
Bỗng một tiếng hét lên.
– Ê cô dâu chú rể kìa! Ra xem tụi bay ơi!
Nghe tưởng là ai, hóa ra thằng Sinh, nó gọi mấy đứa bạn ra xem rước dâu của nhà chú Tám. Chuyện đó bình thường mà, yêu nhau thì cưới nhau. Nhưng với dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể lại làm cho chúng ta phải bận tâm.
Chúa Giêsu ví Nước Trời như dụ ngôn “mười cô trinh nữ” cầm đèn ra đón chàng rể. Khi nghe mình được đi đón chàng rể, các cô hớn hở cầm đèn ra đi. Nhưng năm cô khôn ngoan nhanh nhẹn cầm thêm dầu theo phòng hờ hết dầu. Đúng là hết dầu thật! Vì chàng rể đến chậm, các cô thiếp đi, mà đèn vẫn thắp sáng. Khi nghe tiếng hô “Chàng rể kia rồi, ra đón đi” (Mt 25, 6), các cô thức dậy thì đèn đã sắp tắt. Năm cô khờ dại không biết làm sao, xin cũng không đủ liền đi mua thêm dầu. Trong lúc đi, chàng rể đã đến, năm cô khôn ngoan đã được đi cùng chàng rể (Mt 25,1-10). Thật là hạnh phúc cho năm cô khôn ngoan nhưng cũng đáng thương cho năm cô khờ dại. Cũng thật khó hiểu! Đám cưới thường được diễn ra ban ngày hoặc chập tối, có ai lại ban đêm. Phải chăng, đó là phong tục của người Do thái. Với hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn diễn tả về cuộc phán xét của Thiên Chúa. Các cô trinh nữ là chúng ta và chàng rể chính là Ngài. Cái đèn là biểu thị đức tin của chúng ta. Khi bước vào các nhà nguyện, dù nhà nguyện to hay nhỏ thì luôn phải có một cái đèn nhỏ thắp sáng bên Nhà Tạm. Khi đi trong bóng tối, chúng ta cũng luôn mang theo một cái đèn bin để soi lối đi. Những cái đèn ấy chỉ chiếu sáng trong một không gian nhỏ. Nó không tỏa sáng như ánh điện. Nhưng nó mang đến cho con người sức sống, tia hy vọng khi cần. Bởi vậy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng là Ngài không cần đòi hỏi gì quá sức chúng ta. Ngài chỉ cần thấy tình yêu và đức tin nơi chúng ta tỏa sáng mỗi ngày mà thôi. Vậy, làm thế nào để thắp sáng và để tỏa sáng cho Chúa thấy đây?
Trong giờ cơm trưa, cô bạn nói với Nương:
– Bạn là đạo Chúa mà!
– Ừm! Sao vậy?
– Chị Nan cũng đạo Chúa, nhưng khi ăn cơm, chị ấy hay làm gì ở trán rồi vai và cả …
– À! Tớ quên làm dấu đấy mà.
Vâng, tưởng chừng chúng ta thắp sáng bằng cách năng đi lễ, lãnh các Bí tích là đủ. Nhưng đèn phải được tỏa sáng cho mọi người nhận biết, tỏa sáng ngay chính nơi chúng ta hiện diện qua cử chỉ nhỏ thôi.
Chúa Giêsu đã nói “Ta là ánh sáng thế gian” (Ga 1). Ở đâu có ánh sáng là ở đó có sức sống Chúa Giêsu. Bởi vậy, để thuộc về và làm con Thiên Chúa, chúng ta phải sống trong ánh sáng. Cũng nhờ ánh sáng, mọi người mới nhận ra chúng ta là con cái Chúa. Vì thế, các cô trinh nữ phải cầm đèn sáng để chàng rể đến mới không có nhầm lẫn chàng rể này với cô dâu khác. Các cô không biết lúc nào chàng rể đến và chúng ta cũng không biết giờ nào Chúa tới. Chúa đến bất ngờ và thầm lặng, nhẹ nhàng không ai biết, nên chúng ta phải khôn ngoan và sẵn sàng hơn mười trinh nữ. Chúng ta phải thắp và tỏa sáng đức tin, cùng chuẩn bị tâm hồn mình bằng những hy sinh, từ bỏ, phụng sự Chúa và phục vụ mọi người.
Thân con là đèn
Con được tỏa sáng
Do bàn tay xinh
Không ngừng chăm chút
Nhờ đó con được
Không ngừng tỏa sáng
Lạy Chúa, mỗi chúng con là ngọn đèn, xin cho chúng con không ngừng luôn đổ dầu vào đèn và mãi tỏa sáng. Nhờ đó, chúng con được đi cùng Chúa trong mọi tình huống bất ngờ xảy đến với con. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
– Nhanh chân lên em!
– Còn sớm mà chị. Cứ thong thả thôi.
– Ra ga tàu sớm còn có giờ nghỉ ngơi.
Hai chị em về quê. Sau một tiếng, họ đã có mặt ở sân ga.
– Còn hơn ba mươi phút nữa. À mà em kiểm tra lại giấy tờ xem có thiếu cái gì không?
– Em mang cả đây rồi chị.
Cô em vẫn chăm chú vào chiếc điện thoại. Cô chị lắc đầu rồi dựa mình vào cái ba lô, thiêm thiếp ngủ. Trên sân ga, có kẻ vội vã cho kịp chuyến tàu, có người vẫn thong thả nghỉ ngơi trên những dãy ghế chờ.
Hành khách xếp hàng dài. Hai chị em cũng khệ nệ mang hành lý đứng vào hàng.
– Ấy chết! Cái chứng minh đâu rồi. Rõ ràng mình đã bỏ vào đây mà!
Cô em bối rối kiểm tra chiếc ví hồng nhưng chẳng tìm thấy chứng minh nhân dân của mình đâu. Tàu chuyển bánh, xa dần. Tiếng còi tàu nhỏ dần. Nỗi bực dọc trong lòng người lỡ chuyến tàu càng lúc càng tăng.
Hôm nay, Thầy Giêsu lại kể một dụ ngôn về Nước Trời: Dụ ngôn mười trinh nữ. Trong mười cô trinh nữ thì có năm cô dại và năm cô khôn. Cũng giống như người chị trong câu chuyện trên, năm cô khôn luôn chuẩn bị sẵn sàng những gì cần thiết nên được thỏa lòng mong ước. Cô em kia vì chủ quan, không chuẩn bị kỹ càng nên lỡ mất chuyến tàu. Năm cô dại cũng chỉ vì không mang thêm dầu mà lỡ mất cơ hội được đón chàng rể, không được vào dự tiệc cưới. Cô em trở về lấy chứng minh nhưng vẫn không kịp chuyến tàu với chị. Cô bị bỏ lại và phải mua một vé khác, đi vào giờ khác và có thể, cô đã để lỡ mất nhiều thời gian quý báu, vừa tốn tiền vừa tự chuốc nỗi bực dọc cho bản thân. Chuyện đời ít ra có thể cứu gỡ được. Mặc dù, cô em đã không được đi cùng chị nhưng ít ra cô cũng có thể bắt một chuyến tàu khác để tiếp tục hành trình. Thế nhưng, để vào Nước Trời, liệu có còn cơ hội khác cho những ai dại khờ không?
Chiều đến, ta cũng vội vã sắm sửa mọi thứ, diện áo quần thật đẹp để đi đón “chàng rể”. Chắc chắn, tâm hồn ta háo hức và mong chờ đến ngày hôm nay. Vì đón chàng rể trong đêm hôm, nên ta cần đèn cháy sáng trong tay, lần sương đến nơi đã hẹn. Có nhiều người đi cùng ta bởi họ cũng có chung một vinh dự như ta. Ai ai cũng có những chiếc đèn được thắp sáng bởi thế mà bóng đêm không còn là nỗi sợ hãi nữa. Lạ quá, đã đến giờ mà chàng rể vẫn chưa xuất hiện. Đêm đã về khuya lắm rồi. Mắt ai cũng nặng trĩu và thế là tất cả mọi người đều thiếp đi. “Chú rể kia rồi, ra đón đi!” (Mt 25, 6). Tiếng la lớn khiến ta bừng tỉnh. Tất cả vội vã thức dậy sắm sửa đèn.
“Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!”(Mt 25,7b). Mấy cô dại nài nỉ nhưng các cô khôn đáp “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” (Mt 25, 9). Tại sao mấy cô khôn không tỏ lòng bác ái giúp mấy cô dại, ít ra trong hoạn nạn thì “lá lành đùm lá rách” là điều dễ hiểu. Sự khôn ngoan của các cô khôn có phải là khôn ngoan theo kiểu thế gian? Dầu để thắp đèn mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn là thứ dầu gì mà không thể cho vay mượn? Giống như cái giấy chứng minh nhân dân là của mỗi người, không thể cho nhau mượn đỡ lúc cần kíp được. Dầu để thắp sáng của mỗi người chính là dầu nhân đức. Bởi thế, ta không thể sống tốt lành thay ai đó được. Nhưng, ta có thể sống chứng nhân cho Chúa giữa đời. Ta mang bình đầy dầu, khi thấy người anh em đã lỡ tay đánh vỡ bình dầu thì hãy giúp họ. (Mt 18, 15-20). Đến ngày mà ta không ngờ, thì Chúa đến. Có thể trong lúc chờ đợi chàng rể đến, ta có thể thiếp ngủ. Tiếng la lớn giữa đêm khuya là tiếng gọi của Chúa Thánh Linh thức tỉnh tâm hồn ta mau mắn thắp đèn để đón chàng rể. Ta đã tỉnh dậy rồi nhưng liệu dầu nhân đức của ta có còn không? Nếu chẳng còn dầu thì ta lấy đâu ra thời gian để mua nữa vì chàng rể đã đến và sẽ không chờ đợi kẻ dại khờ. Nếu ta cứ sống vô tư đến vô lo, đến đâu thì đến mà không có sự chuẩn bị kỹ càng thì ta cũng chung số phận với những cô gái dại khờ ấy, dù có gõ cửa nhưng cửa đã đóng rồi.
Lạy Chúa! Ngày Chúa đến thật bất ngờ. Xin cho con biết chuẩn bị tâm hồn, sống trong tâm tình tỉnh thức và cầu nguyện để lắng nghe được tiếng gọi của Chúa giữa đêm khuya cuộc đời. Chúa ban cho con có dầu của Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Xin cho con biết bước theo Chúa trong mỗi ngày của đời sống con, cho con có một niềm Tin son sắt, một lòng Cậy vững vàng và một lòng Mến thiết tha. Xin Chúa dạy con sống có trách nhiệm với chính mình và biết sống tình liên đới với tha nhân. Amen.
.
Phạm Anh
Theo lẽ tự nhiên, hành trình của con người tuân theo quy luật : sinh-lão-bệnh-tử. Nhưng hiện nay, rất nhiều người đã “đốt cháy giai đoạn”, chết trước khi bước qua tuổi già. Điều này thật đau buồn : “người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh”. Chẳng ai muốn vậy, nhưng cái chết đến bất ngờ, không ai biết trước được điều gì sẽ xảy ra. Vì thế, mỗi người hãy luôn tỉnh thức, sắm sẵn cho mình hành trang để bước vào cuộc sống đời sau, như Thầy Giêsu đã dạy : “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25, 13).
Nếu chết là đặt một dấu chấm kết thúc thì con người sống trên thế giới này chẳng còn ý nghĩa. Bởi, con người chỉ sống cho những gì là hưởng thụ thân xác như : ăn những món ngon, sống thật an nhàn sung sướng, tranh giành địa vị, chức quyền, chèn ép người khác,… Tôi chỉ biết đến bản thân tôi, còn người khác thì kệ mặc. Nhưng những điều đó chỉ là hạnh phúc trong giây lát, mau qua, và con người luôn khao khát đi tìm hạnh phúc thật sự. Hạnh phúc ấy là sống trong vinh quang của Thiên Chúa. Vì thế, con người luôn hướng về cuộc sống mới trong Nước Trời với sự chờ đợi và niềm hy vọng.
Mỗi ngày sống trôi qua, chúng ta càng tiến gần hơn tới Nước Trời. Trong từng ngày, chúng ta có rất nhiều cơ hội để chuẩn bị cho hành trang vào đời sống mới. Nhưng dường như chúng ta chưa tỉnh thức nhận ra và đã bỏ lỡ nó. Nhiều lần, chúng ta đã dửng dưng trước lời cầu xin của đứa trẻ bán vé số, bĩu môi chê cười những người rách rưới, tàn tật, những người làm công việc nhỏ bé như quét rác. Chúng ta đã vô cảm trước sự nguy hiểm của bệnh nhân đang gặp tai nạn. Chúng ta đã bỏ qua bữa cơm sáng đã được dọn sẵn. Chúng ta chẳng cần đến những nụ cười, lời chào hỏi thân thiện của những người trong gia đình. Chúng ta đã làm ngơ trước những nhu cầu của người khác… Ai ai cũng “sống vội”, với công việc của mình. Mỗi ngày, chúng ta hãy nhạy cảm hơn để nhận ra những cơ hội, tuy là tầm thường, nhưng tích lũy trong chúng ta rất nhiều ân sủng, tình thương cho cuộc sống mai sau.
Những cơ hội ngay trong tầm tay của chúng ta, mỗi người có thể chọn lựa để hành động. Nhưng nhiều lúc chúng ta còn chưa nhận ra, vậy những mưu mô của ma quỷ chúng ta càng khó nhận ra biết mấy. Ngay cả những điều tưởng chừng như là tốt lành thánh thiện, nhưng núp sau đó là bẫy của ma quỷ.
Ở làng kia, có một bà lão, ngày nào bà cũng siêng năng đi lễ, đi nhà thờ, giờ đọc kinh nào cũng không bỏ. Người ngoài nhìn vào thấy bà thật sốt sắng. Nhưng trong bà luôn có những suy nghĩ : “Tôi đạo đức như vậy, chẳng ai được bằng tôi”. Vậy hóa ra, bà đi lễ đi nhà thờ chỉ chờ được người ta khen ? Những chiêu bài của ma quỷ thật tinh xảo, chúng ta khó có thể nhận ra được. Nó luôn hiện diện với chúng ta bất cứ lúc nào, nó luôn ẩn hiện trong từng lời nói, hành động, ngay cả trong suy nghĩ, nếu chúng ta chẳng để ý. Thánh Phêrô đã nói : “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8). Thật vậy, con người thật yếu đuối, tự sức con người chẳng thể nào nhận ra và vượt qua được. Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, Người sẽ bênh đỡ, bảo vệ chúng ta. Ngay từ thưở ban đầu, Thiên Chúa đã đặt trong lương tâm mỗi người biết phân biệt điều xấu-tốt, điều lành, điều dữ. Điều quan trọng, chúng ta hãy luôn lắng nghe lời dạy bảo của Chúa Thánh Thần, và kiên tâm chiến đấu để khỏi sa chước ma quỷ cám dỗ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn nhạy cảm để nhận ra những cám dỗ của ma quỷ. Đồng thời, chúng con biết nhận ra và “nắm lấy” muôn vàn cơ hội mà Thiên Chúa đã chuẩn bị sẵn cho chúng con, trong đời sống hằng ngày. Từ đó, chúng con chẳng chần chừ, nao núng, nhưng luôn sẵn sàng trong giờ lâm chung. Xin Chúa cho chúng con trở nên can đảm, vâng nghe lời dạy dỗ của Chúa Thánh Thần trong từng giây phút sống của chúng con. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Dụ ngôn trinh nữ khôn ngoan,
Mười cô nhận thiệp, lo toan mọi bề.
Năm cô chuẩn bị cận kề
Chờ mong chàng rể, khi về đón ngay.
Dầu đèn đã sẵn trong tay,
Bất ngờ chàng tới, vui thay đợi chờ.
Năm cô thiếu nữ khù khờ,
Mê say giấc ngủ, nào ngờ bóng đêm.
Thiếu dầu đèn thắp đổ thêm,
Tắt đèn dầu cạn, tối đêm mịt mờ.
Tiếng hô chàng rể đang chờ,
Các cô thức tỉnh, mượn nhờ có đâu.
Thắp đèn cụt bấc hết dầu,
Thời gian cấp bách, đêm thâu dự phòng.
Sẵn sàng tiệc cưới vào trong,
Chủ nhân đóng cửa, trông mong ở ngoài.
Năm cô tới trễ van nài,
Thưa ngài mở cửa, cũng hoài công thôi.
Các con tỉnh thức liên hồi,
Ngày giờ sẽ đến, tinh khôi sẵn sàng.
Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Nhiều khi chúng ta thức đó, mà lại không tỉnh. Gần đến cuối năm phụng vụ, giáo hội có cơ hội nhắc nhở chúng ta về ngày cuối đời. Chúng ta không biết ngày nào và giờ nào sẽ kết thúc. Cách tốt nhất là hãy tỉnh thức.
Tỉnh thức như năm trinh nữ khôn ngoan chờ đón chàng rể. Họ mang đèn và mang dầu theo. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, họ sằn sàng thắp đèn ra đón chàng rể. Còn các trinh nữ khờ dại, họ đã phung phí tất cả cho cuộc sống hưởng thụ. Họ sống trong bừa bãi theo phù vân giả tạo. Không lo cho ngày mai. Không dự liệu phòng hờ cái gì sẽ xảy ra.
Mang theo dầu, dầu đây chính là các nhân đức tập luyện được. Trong cuộc sống đời thường, ai trong chúng ta cũng phải lo, phải chắt chiu, để dành và dự phóng về tương lai. Rất ít người trong chúng ta nghĩ đến việc chuẩn bị cho ngày sau cùng. Đôi khi chúng ta nghĩ có lẽ chưa xảy ra cho chúng ta. Sự chết còn xa vời.
Chúng ta còn cảm thấy khoẻ khoắn và còn nhiều dự án chưa xong. Chúng ta không muốn chết và không muốn nghĩ đến cái chết. Dù rằng hằng ngày, nhiều tai nạn và chết chóc xảy đến ngay bên. Chúng ta như cứ bình chân như vại. Hưởng thụ cuộc đời đi kẻo hết.
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta đừng mải mê hoan lạc lo tìm tích trữ của thế gian mà quên đi sự sống ngày sau. Mỗi ngày chúng ta hãy chu toàn mọi việc được trao ban. Cái gì chúng ta có thể làm được trong ngày hôm nay, hãy cố gắng hoàn tất. Đừng để cơn giận vần còn lẫn quẩn trong người chúng ta. Để rồi khi trên giường ngủ, vắt tay trên trán, trần trọc trong sự bực tức và cay cú khi tìm vào giấc ngủ. Biết đâu đêm nay Chúa sẽ gọi chúng ta về. Chi bằng chúng ta hãy luôn tỉnh thức và sẵn sàng để được ra đi trong bình an.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết nhận ra giá trị của thời gian sinh sống. Mỗi phủt giây trôi qua là chúng con bước gần đến cuối đường. Xin cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng để đón Chúa trong ngày sau hết.
.
Lm Vũđình Tường
‘Sẵn sàng chưa’ là câu nói người nào cũng có lúc nói và người nào cũng có lúc nghe người khác hỏi mình đã sẵn sàng chưa. Trẻ em nghe cha mẹ hỏi câu này thường xuyên; người lớn cũng nghe câu hỏi này thường xuyên; vợ chồng nghe hỏi câu này thường xuyên. Có người cần rất nhiều thời gian chuẩn bị, kẻ khác lại mau chóng, nhanh gọn hơn. Hạnh phúc thay cho ai có được tính kiên nhẫn bởi gia đình họ được yên vui đầm ấm.
Trước khi ra đi cần chuẩn bị ít nhiều, đi gần chuẩn bị ít hơn, đi xa chuẩn bị nhiều hơn và người đi du lịch thường xuyên học từ kinh nghiệm. Họ mang những gì cần thiết cho chuyến đi mà không mang dư bởi nó trở thành gánh nặng cho chuyến đi. Họ cũng tính toán dự đoán những điều có thể xảy ra ngoài í muốn và chuẩn bị ít nhiều cho điều đó, đề phòng lỡ có xảy ra thì họ đã có chuẩn bị mà không lâm vào thế kẹt.
Dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể hôm nay cho thấy có hai nhóm. Cả hai đều chuẩn bị cho chuyến đi. Nhóm một mang đèn nhưng không chuẩn bị thêm dầu kèm theo vì họ tính toán rất khít khao. Nhóm hai mang đèn còn kèm thêm dầu dự phòng trong trường hợp bất trắc xảy đến và họ đã đoán đúng. Vì lí do nào đó chàng rể đến trễ hơn dự định và nửa đêm có tiếng loan báo chàng rể đến. Cả hai cùng ngủ nhưng khi có tiếng loan báo chàng rể đến thì nhóm một nhận ra đèn của hỏ họ hết dầu. Họ xin nhóm hai chia dầu cho nhưng bị từ chối với lí do không đủ dầu cho cả hai. Trong lúc nhóm một đi mua thì chàng rể đến và họ đã trễ chuyến đi bởi cửa đã đóng và không được vào. Mới nghe thì rõ ràng là thiếu lịch sự và cảm thông cho kẻ lữ hành lỡ độ đường. Xét kĩ để biết có nhiều yếu tố quyết định chọn lựa của việc giúp đỡ khi cần thiết. Nhóm hai cho biết rõ họ mang vừa đủ dầu cho chính họ mà không có dư để chia sẻ. Giúp đỡ khi có thể, không thể giúp đỡ khi không có thể. Sợ hãi là yếu tố chính quyết định nên giúp đỡ hay từ chối giúp đỡ- sợ không đủ cho cả hai. Dụng cụ chuyển dầu từ bình vào đèn có sẵn sàng hay không, hơn nữa trường hợp gió làm tắt đèn thì làm sao thắp đèn lại được. Trong khi nhóm kia đi mua dầu thì cửa phòng đóng và đến trễ bị từ chối cho biết yếu tố thời gian khá quan trọng trong việc từ chối giúp đỡ. Hãy tưởng tượng bạn đang chờ nơi quan thuế trước khi vào máy bay mà người ta đã kêu tên bạn mau mau lên máy bay bạn có thể nhường cho ai đi trước bạn chăng. Làm thế bạn chắc chắn sẽ lỡ chuyến bay.
Xét rộng ra trong đời có nhiều thứ chúng ta không thể chia sẻ, dù muốn hết sức mình cũng đành bất lực, đứng ngó hoặc từ chối mà không thể giúp đỡ. Cha mẹ có thể dậy con bài học khôn ngoan mà không thể chia sẻ khôn ngoan của mình cho con. Cha mẹ có thể dậy cho con học hành mà không thể san sẻ túi khôn, kiến thức của mình cho con. Cha mẹ có thể chia sẻ tiền tài, của cải cho con mà không thể cho sức khoẻ. Cha mẹ có thể chạy chữa cho con mà không thể bệnh thay cho con. Bác sĩ có thể giải thích bệnh mà đôi khi không biết cách chữa trị. Thân hữu có thể cảm thông cho nhau nhưng không thể chia sẻ đau khổ của nhau. Người ta có thể than khóc người đã mất mà không thể cho họ sức sống. Giáo Hội giáo huấn đức tin mà không thể bắt người khác tin nếu người đó không chịu lãnh nhận. Cha mẹ có đạo đức nhưng không bảo đảm con cháu sẽ sống đạo đức. Phúc âm kêu gọi chúng ta chuẩn và sẵn sàng và ai làm người đó được hưởng, không thể làm thay cho người khác và cũng không thể hưởng dùm người khác. Chuẩn bị và sẵn sàng là mục đích chính trong bài bởi điều này không ai thay thế được; chính cá nhân người đó phải làm cho mình. Cộng đoàn Kitô hữu có thể cầu thay nguyện giúp, nâng đỡ, an ủi nhưng chính đương sự phải tự giúp bằng cách cộng tác với cộng đoàn để được nâng đỡ ủi an. Thời gian đóng yếu tố quan trọng nên đừng hững hờ, cho là có đủ thời gian để đối phó với sự việc. Sự việc đến lúc nửa đêm có tiếng loan báo chàng rể đến ra đón chàng. Bạn có nhiều thời gian nhưng bạn không biết khi nào chàng rể đến, nửa đêm. Đúng thế, nửa đêm nhưng khi nào là nửa đêm? Hơn nữa nửa đêm lại là lúc tối trời, cửa nhà đều đóng. Thiếu chuẩn bị và sẵn sàng là tự chuốc vạ vào thân.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tháng 11, tháng cuối năm phụng vụ. Tại các nghĩa trang, người tín hữu thường đến thắp nhang, cắm cành hoa tươi, đọc kinh cầu nguyện trước phần mộ người đã qua đời. Người còn sống cầu nguyện cho người đã chết. Người đã an giấc ngàn thu nhắn nhủ người đang sống về lý lẽ cuối cùng của cuộc sống làm người. Bầu khí phụng vụ tháng 11 hướng về cùng đích của cuộc sống làm người. Đó chính là Cánh Chung. Chúa Giêsu dùng hình ảnh đám cưới để nói về Cánh Chung. Đây là dịp của niềm vui chứ không phải là nỗi buồn, hạnh phúc chứ không đau khổ.
Bài Tin mừng Chúa Nhật hôm nay nói đến lễ cưới và các trinh nữ. Năm cô trinh nữ khôn ngoan với thái độ sẵn sàng và năm cô trinh nữ khờ dại với việc chểnh mảng ngu ngơ là những biểu tượng của những cách sống của con người (GLCG # 1950). Nếu ví cuộc đời là lữ quán thì chúng ta chỉ là những người khách trọ qua đường. Chúng ta phải có thái độ nào thích hợp đối với cuộc sống trần gian? (Lumen Gentium, 48, 50, 68; GLCG # 972).
Khôn ngoan hay khờ dại được đánh giá bằng việc con người có sẵn sàng và chuẩn bị hay không.
1. Khôn và dại theo Thánh kinh
Khôn ngoan theo Thánh kinh có hai chiều kích.
Tự nhiên: khôn ngoan là một thứ nhận thức giỏi, thông minh, thận trọng và tài khéo để hướng dẫn cuộc sống đạt tới hạnh phúc chân thực. Đó là sự khôn ngoan của những nhà lãnh đạo có tài quản trị, những quân sư có tài giáo dục và thuyết phục, những hiền triết có tài lập ra những lý thuyết triết học, đạo đức, cũng như các nhà khoa học kỹ thuật có tài phát triển nền văn minh thế giới.
Tổ phụ Giuse vừa có tài kinh tế vừa có tài giải đáp những ước mơ của lòng người, đã được vua Ai cập chọn làm Thủ tướng. Môisê vừa có tài lãnh đạo vừa có tài thuyết phục kẻ thù cũng như đồng bào. Salomon được khen ngợi là “Người khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung đông và Ai cập” (1V 5, 9-14).
Siêu nhiên: khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa. Daniel đã chúc tụng Thiên Chúa là “Đấng ban khôn ngoan cho hạng khôn ngoan, ban trí thức cho người hiểu biết” (Dn 2, 21). Khi mười hai tông đồ triệu tập các tín hữu lại để chọn bảy phó tế, các ngài đã nói : “Hỡi anh em hãy xét và chọn lấy giữa anh em bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan” (Cv 6, 3).
Sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa “Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái” (Đnl 4, 6). Ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên khôn ngoan : “Cố tổ tôi tên là Giêsu, hầu như hiến cả mạng sống vào việc đọc lề luật, các tiên tri cùng các sách của cha ông, đã nên quán xuyến, lão luyện và phát hứng biên soạn đôi điều liên quan đến giáo huấn và khôn ngoan” (Hc 1, 7-12)
Luật Chúa chính là lời Chúa như mười giới răn Chúa ban trên núi Sinai. Chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó: “Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi” (Tv 119, 72. 103-105. 154-155. 165). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1, 1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói : “Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa” (Lc 11,31).
Người khôn ngoan là người nghe và sống lời Chúa. Người dại khờ là người chỉ nghe mà không đem ra thực hành. Chúa Giêsu dạy: “Vậy phàm ai nghe các lời này của Ta và thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… và phàm ai nghe các lời này của Ta mà không thi hành, thì ví được như người dại xây nhà trên cát.” (Mt 7, 24. 26). Mạnh mẽ hơn, Chúa Giêsu còn khẳng định: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời.” (Mt 7, 21)
2. Thái độ khôn ngoan.
Khôn ngoan là một ân ban Thiên Chúa trao tặng cho con người để họ biết cách sống theo đường lối của Ngài. Người khôn ngoan là biết sống theo sự hướng dẫn của Đấng Tối Cao (GLCG # 2500).
Năm cô trinh nữ khôn ngoan mang theo bình dầu, họ có chuẩn bị cho trường hợp chàng rể đến muộn. Họ luôn sẵn sàng chờ đón chàng rể đến. Chàng rể là hình ảnh Chúa Giêsu đến trần gian. Người đến nhiều lần với chúng ta trong cuộc đời và đến trong ngày sau hết của từng người. (x. 2 Tim 4,6 ; 2 Pr 1,14).
Khôn ngoan là một ơn ban quý báu của Chúa. Nó giúp con người biết cách sống thế nào cho phải, biết tìm kiếm những gì đáng tìm, và biết học hỏi suy nghĩ những gì đáng học hỏi. Ơn khôn ngoan quý báu ấy, Chúa sẵn sàng ban cho những ai thao thức kiếm tìm. Bài đọc I mời gọi chúng ta hãy khao khát yêu chuộng đức khôn ngoan. Thức khuya dậy sớm tìm kiếm, suy niệm đức khôn ngoan thì sẽ được chiêm ngưỡng, gặp gỡ đức khôn ngoan, sẽ được minh mẫn toàn hảo, được đức khôn ngoan niềm nở xuất hiện và sẽ hết mọi nhọc nhằn, trút hết mọi lo âu. (Kn 6, 12-16).
Cuộc đời kitô hữu khác nào như một cuộc nghinh đón chàng rể và chàng rể đây chính là Đức Kitô, vị thẩm phán. Tin Mừng nói chàng rể sẽ “đến chậm”, nghĩa là đến vào lúc người ta không ngờ. Rồi khi chàng rể đến, chàng sẽ “đóng cửa lại”. Ý nghĩa thiêng liêng của câu nói là : người ta chỉ chết một lần, không có cơ hội làm lại cuộc đời nếu đã không có sự chuẩn bị, như năm cô trinh nữ khôn ngoan.
Sự khôn ngoan của các cô trinh nữ là luôn tỉnh thức, tay cầm đèn cháy sáng trong tay và mang theo dầu dự trữ. Ngày xưa, dân Chúa chuẩn bị vượt qua Biển Đỏ cũng có thái độ như thế. Có thể hiểu “đèn cháy sáng” là luôn sống dưới ánh sáng hướng dẫn của Chúa và “dầu dự trữ” là những việc lành phúc đức như “của gởi về đời sau”.
Văn sĩ E. Hemingway có viết một quyển tiểu thuyết, nhan đề “ngư ông và biển cả”, kể lại cuộc vật lộn uổng công của lão ngư phủ người Cuba tên là Xăngtiagô với biển khơi. Ông câu được một con cá kình, nhưng vì cá quá to, ông đành phải cột cá bên mạn thuyền để kéo vào bờ. Buồn thay, trên đường về, lũ cá mập đã đánh ra hơi và xúm vào rỉa thịt. Khi về tới bến, con cá to chỉ còn là bộ xương mà thôi.
Không thể nào trình diện Chúa với hai bàn tay trắng.
3. Thái độ khờ khạo.
Lễ cưới theo nghi thức Tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều hướng mắt về cô dâu lộng lẫy trong trang phục lễ cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên cung thánh đón tiếp cô dâu.
Trong nghi thức đám cưới Do thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về quà cáp, của hồi môn…vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.
Các cô dại không hề chuẩn bị gì cho trường hợp đó. Theo tập tục cưới hỏi của người Do Thái, chú rể sẽ đến nhà cha cô dâu để đón cô về nhà mình. Những cô trinh nữ phù dâu có nhiệm vụ cầm đèn cùng với cô dâu đón chú rể, làm thành một đám rước cô dâu về nhà chú rể, và ở đó, một tiệc cưới linh đình sẽ được tổ chức. Một khi đã nhận nhiệm vụ, các cô trinh nữ đó có nhiệm vụ phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đó của mình.
Năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến họ hết dầu. Các cô trinh nữ khờ dại, vì sự thiếu chuẩn bị đúng đắn của mình, đã bị loại khỏi niềm vui của tiệc cưới và không thể làm gì để thay đổi thực tế bi đát đó được nữa.
Giống như các cô trinh nữ khôn ngoan, các cô trinh nữ khờ dại cũng được mời gọi đi đón chàng rể rồi vào dự tiệc cưới. Các cô biết chàng rể chắc chắn sẽ đến. Các cô cũng tha thiết mong chờ chàng rể đến. Điều các cô thiếu là một sự chuẩn bị sãn sàng và đầy đủ những thực tại cần thiết để có thể thực hiện được lời mời gọi và nhiệm vụ dành cho các cô và nhờ đó được thỏa lòng mong ước của mình. Các cô mang đèn nhưng không mang dầu theo. Sai lầm của các cô không phải ở chỗ các cô không hướng lòng về biến cố chàng rể đến, mà là ở chỗ các cô đã không có sự chuẩn bị phù hợp cho biến cố đó. Được mời gọi làm thành viên của đoàn đón chàng rể thôi, chưa đủ. Biết rằng chàng rể sẽ đến vào một lúc nào đó thôi, chưa đủ. Còn phải có sự chuẩn bị thích hợp nữa.
4. Hãy luôn chuẩn bị sẵn sàng.
Cuộc đời và thế giới này rồi sẽ chấm dứt. Chúa sẽ đến ngày kết thúc đời người và dẫn vào dự tiệc Nước Trời. Mỗi người đều có đèn trong tay. Quan trọng là mình có chuẩn bị để ngọn đèn ấy cháy sáng vào lúc chung cuộc không. Quá muộn nếu đến lúc ấy chúng ta mới vội vã đi mua dầu.
Thiên Chúa muốn đưa con người vào tiệc cưới Nước Trời. Con người cần phải chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về số phận đời đời của mình. Không ai có thể làm thay cho mình được.
Giờ phút long trọng và quyết định, đó là lúc chàng rể xuất hiện, lúc ấy mỗi người chuẩn bị đèn cháy sáng của mình. Đến lúc này mới thấy là ai khôn và ai dại, ngọn đèn của các cô khôn ngoan vẫn còn cháy sáng còn ngọn đèn của các cô khờ dại đã tắt từ lâu. Vào phút giây long trọng ấy, không ai có thể giúp mình được. Các cô khờ dại không thể xin dầu của ai được. Người khôn ngoan biết xác định cùng đích cuộc đời của mình và chuẩn bị những gì cần thiết để đạt được cùng đích đó. Người khờ dại không biết phải chuẩn bị những gì.
Ai cũng phải đối diện với ngày cuối cùng cuộc đời là giờ chết, phút giây ấy không ai giúp ai. Mỗi người theo sự khôn ngoan hay khờ dại đón nhận số phận chung cuộc.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng! Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cạn dần. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi. Lời kinh có khi cũng phôi pha. Cây đàn có lúc cũng quên mất nốt nhạc. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi suối nguồn yêu thương chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính mình Người làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Nhà văn Hy Lạp Nikos Nazantzakis đã viết một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có hai người thợ săn lên rừng giăng lưới bắt chim. Họ thu được một mẻ lưới khá nhiều, nhưng phần đa là những con chim gầy yếu và khó bán. Cả hai bàn tính sẽ nhốt những con chim vào trong một chiếc lồng sắt để vỗ béo một thời gian, sau này đem bán sẽ có lợi hơn. Trong một tháng được nuôi nhốt, những con chim quen dần với cảnh chim lồng cá chậu và ăn uống thỏa thích, chỉ duy nhất có một con không chịu ăn, vì nó vẫn nhớ tới bầu trời mênh mông bên ngoài, nơi nó được tự do bay nhảy. Nó vốn đã gầy lại càng gầy thêm. Thế rồi, đến ngày đem chim đi bán, hai người thợ săn thò tay vào lồng để bắt từng con một. Cả bầy chim hoảng loạn tìm cách thoát thân nhưng không làm sao chui ra được vì chúng đã được vỗ béo và mắt lưới nơi cái lồng chật chội lại quá dầy. Chỉ duy nhất con chim gầy do đã nhịn ăn nhiều ngày qua, chỉ cần lách nhẹ một cái là có thể bay ra, về lại khung trời xưa cũ. Nhà văn kết luận : “Con chim gầy kia là một con chim khôn ngoan vì nó đã hy sinh từ bỏ những vui thú trong cái lồng chật chội để tìm lại tự do cho chính mình. Câu chuyện ngụ ngôn có thể khởi dẫn, giúp chúng ta suy tư về sứ điệp lời Chúa được trình bày trong phụng vụ hôm nay. Chúa mời gọi chúng ta phải sống khôn ngoan trong tinh thần tỉnh thức và sẵn sàng, như những cô trinh nữ thức suốt đêm chờ chàng rể đến với đèn thắp sáng trên tay.
Bí quyết khôn ngoan: Memento finis
‘Memento finis’ có nghĩa là ‘Hãy nghĩ đến cùng đích mai sau’. Trong bài đọc 1, tác giả sách khôn ngoan đã viết : “Đức Khôn ngoan sáng chói và không hề tàn tạ. Để tâm suy niệm về Đức Khôn ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn ngoan mà thức khuya dậy sớm sẽ mau trút được mọi lo âu”. Đức Khôn ngoan mà tác giả nói ở đây là chính Đức Chúa, Đấng mà mọi người chúng ta phải luôn quy hướng về. Ngày xưa, các triết gia Hy Lạp cũng hay suy tư về sự khôn ngoan theo cái nhìn triết học, nhưng họ chưa biết Thiên Chúa là ai, và những suy tư của họ chỉ dừng lại trên lãnh vực thuần lý nơi đầu óc con người. Triết gia Diogène đã nói : “Bí quyết sự khôn ngoan ở đời là ‘Hỡi người, hãy nghĩ đến cùng đích mai sau’. Triết gia Socrate cũng nói tương tự khi truyền đạt cho các học trò của ông rằng : “Ở đời, ta thường rơi vào 3 điều ngu xuẩn nhất, đó là không biết những gì cần phải biết, tò mò muốn biết những gì ta không nên biết và tưởng rằng đã biết những gì chúng ta thực sự chưa biết”. Ông cắt nghĩa tiếp, cái biết cần thiết nhất trên đời là ta cần phải biết cuộc sống ta từ đâu đến, ta đang sống để làm gì và cuộc sống mai sau của chúng ta sẽ đi về đâu. Những tư tưởng triết học đó cũng rất hữu ích để chúng ta quy chiếu vào sứ điệp Chúa nói hôm nay, qua hình ảnh 5 cô khôn ngoan và 5 cô khờ dại thức đêm đón chú rể đến. Khôn ngoan trong tỉnh thức và chờ đợi là điều cần thiết với điều kiện là những cây đèn phải được thắp sáng. Đèn muốn được thắp lên phải châm đầy dầu. Đây là dầu của đức tin khi chúng ta biết quy hướng cuộc sống về với Chúa. Đây cũng là dầu của đức ái với những việc làm cụ thể, như thánh Giacôbê đã dạy : “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Tỉnh thức và sẵn sàng
Trong thời gian qua, nhiều nơi trên thế giới đã phải hứng chịu nhiều thiên tai khá trầm trọng như những cơn bão lũ ở miền Bắc, ở miền Trung, nạn động đất xảy ra ở Mêxicô hồi tháng Tám, trận lũ lụt ở Houston nước Mỹ.. Nhiều cái chết xảy ra bất ngờ không ai biết trước. Một gia đình ở Mêxicô đang bồng một đứa bé đến nhà thờ xin rửa tội, bất ngờ cơn động đất xảy ra. Đứa bé đã chết, bị chôn vùi trong đống đổ nát. Bà mẹ cũng chết. Niềm vui chưa kịp đến đã kéo theo bao nhiêu tang tóc. Hằng ngày, chúng ta thấy biết bao tai nạn xảy ra ngoài đường phố. Những nạn nhân tử vong không bao giờ nghĩ rằng hôm đó là ngày cuối cùng trong cuộc đời của họ. Sứ điệp Chúa nói hôm nay vẫn luôn mang tính thời sự cho tất cả mọi người chúng ta, đặc biệt đối với các bạn trẻ. Chúng ta đừng ngủ quên trên những gì chóng qua mà quên mất cùng đích mai sau. Trong trận động đất năm 1996 tại tiểu bang California bên Hoa Kỳ, người ta đào bới trong đống đổ nát và tìm thấy một cô gái, là một nữ ca sĩ nổi tiếng và cũng khá xinh đẹp. May mắn cô gái vẫn còn sống. Thu hết tàn lực cuối cùng, cô hỏi bác sĩ : “Liệu tôi có thể sống được bao lâu nữa ? Bác sĩ trả lời : “Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức, nhưng tối đa cô chỉ còn sống được 4 tiếng đồng hồ nữa thôi”. Nghe nói vậy, cô gái bật khóc và rên rỉ : “Thôi, trễ mất rồi”. Khi Cha thánh Gioan Bosco hỏi các học sinh đang chơi trong sân trường : “Gỉa như một vài tiếng đồng hồ nữa Chúa sẽ gọi chúng con, chúng con phải làm gì?” Duy có một mình Đaminh Saviô trả lời “Nếu một lát nữa con sẽ chết, sẽ về với Chúa, con vẫn tiếp tục chơi bình thường”. Hai thái độ hoàn toàn khác nhau. Khác nhau ở chỗ là một người luôn sống trong tỉnh thức và sẵn sàng còn người kia thì không.
Chết không phải là hết
Con người khác con vật, vì con người chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng có linh hồn. Linh hồn không bị tiêu tan cho dầu thân xác con người bị tiêu hủy. Vì vậy, chết không phải là hết, không phải là dấu chấm hết, kết tận cuộc sống chúng ta một cách vô nghĩa. Đây là chân lý mà thánh Phaolô đã gợi nhắc trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay : “Nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an nghỉ trong Đức Giêsu sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng với Ngài” (1 Thes 4,14).
Trong những tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội nhắc lại cho chúng ta những chân lý về mầu nhiệm cánh chung. Trong kinh tin kính, chúng ta vẫn tuyên xưng ‘Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin có sự sống đời đời’. Tin vào cuộc sống mai sau mời gọi chúng ta luôn sống trong tỉnh thức và sẵn sàng. Đó là thái độ khôn ngoan mà các bài đọc lời Chúa hôm nay gợi mở.
Nhiều bạn trẻ ngày nay đang lao đầu vào một cuộc sống hiện sinh mang tính chất vô thần. Họ dấn mình vào những cuộc ăn chơi tác tráng, sống một cách buông thả để thỏa mãn và không bao giờ nghĩ đến tương lai. Họ cố gắng tìm cách kiếm tiền, càng nhiều càng tốt bằng mọi giá. Khi có tiền, họ mặc sức ăn chơi để hưởng thụ. Hạn từ ‘enjoy’ tức hưởng thụ, là một hạn từ rất quen thuộc trong tầng lớp giới trẻ bên xã hội Âu Mỹ và ngày nay giới trẻ Việt Nam cũng đang có xu hướng sống như vậy. Lối sống hưởng thụ (consumérism) đang dần gặm nhấm đức tin nơi chúng ta và đây là một chiêu bài ma quỷ tung ra rất có hiệu quả để làm mất đi định hướng nơi các Kitô hữu.
Kết luận
Chúng ta mhớ lại lời căn dặn của thánh Phêrô. Trong lá thư thứ nhất, Ngài đã viết : “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức vì ma quỷ, thù địch anh em như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự (1P 5, 8-9). Lời căn dặn của vị Thánh Tông Đồ vẫn luôn là bài học quý giá và cần thiết cho chúng ta hôm nay, khi đang sống giữa một thế giới ngả theo trào lưu tục hóa và vô thần.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Dụ ngôn vẫn được quen gọi là ‘mười trinh nữ’ nằm trong số các dụ ngôn được tác giả Mát-thêu dồn vào hai chương 24 và 25 của sách Tin Mừng khi ngài đề cập tới thời đại cánh chung, đồng thời kêu gọi giữ thái độ luôn sẵn sàng. Sẵn sàng không chỉ như một tư thế chung chung, như khi chuẩn bị làm một công việc nào đó; ở đây nó được so sánh với chờ mong để nhận diện và đón tiếp một nhân vật. Nhân vật này, trong nhiều dụ ngôn khác, được sánh với ông chủ, ông vua, hay một bậc vị vọng quyền quí đi xa về, thì trong dụ ngôn này lại mang bộ mặt một chú rể. Mười trinh nữ cầm đèn sẵn sàng nhận diện chú rể trong ngày cưới (đúng hơn đêm cưới) hẳn phải hàm chứa một nội dung nào đó hết sức quan trọng: “Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn đi đón chú rể”.
Như vậy chú rể chính là Con Người quang lâm trong ngày sau hết của Mt 24:37, có nghĩa là trong ngày quang lâm Con Người sẽ có khuôn mặt rạng rỡ của một chú rể ngày cưới. Khuôn mặt chú rể ngày cưới không thể mang bộ tịch của một ông hoàng thịnh nộ, không thể có điệu bộ nghiêm khắc của một quan tòa xét xử… Chú rể ngày cưới sẽ là khuôn mặt rạng rỡ yêu thương, thâm chí say đắm trong yêu đương, và Ki-tô hữu chúng ta phải là những người đầu tiên nhận diện được khuôn mặt đó. Ngọn đèn các trinh nữ cầm trong tay và thắp sáng lên chính là để làm công việc nhận diện này: giữa đêm tối, họ phải là những người đầu tiên nhận ra khuôn mặt say đắm yêu đương của Chú Rể, và soi cho mọi người được biết để cùng nhận ra, và tiến vào bữa tiệc cưới Nước Trời.
Trong ngày rửa tội ngọn đèn đức tin của mỗi tín hữu đã được thắp lên. Ngọn đèn này trước nhất phải soi sáng để chúng ta nhận ra dung mạo của một Thiên Chúa đầy tình yêu thương. Bí tích rửa tội Tân Ước không mang nội dung chính là dục lòng thống hối ăn năn để được xóa sạch mọi tội lỗi, nhưng là để nhận biết Thiên Chúa cứu độ và từ nhân. Rửa tội không chỉ biến tôi thành một trinh nữ, nhưng quan trọng hơn, trao cho tôi ngọn đèn thắp sáng để tôi tham gia vào cuộc đón rước Chú Rể. Bao lâu ngọn đèn còn cháy sáng, bấy lâu tôi còn có thể nhận diện được Người trong đêm tối. Chú Rể có thể đột ngột xuất hiện, Người có thể tới từ bất cứ đâu, vào bất cứ giờ giấc nào… “Chú rể kia rồi, ra đón đi”, thì tôi vẫn luôn luôn nhận ra Người với nét yêu thương không thể nhầm lẫn.
Thế nhưng ngọn đèn này vẫn có thể bị tắt ngúm bất cứ lúc nào vì cạn dầu. Cho dầu có là một Ki-tô hữu đạo đức tốt lành (như hình ảnh các trinh nữ đi đón chàng rể) tôi vẫn luôn có nguy cơ không nhận diện được Thiên Chúa tình yêu, Người Cha yêu thương khi Ngài đến. Tự nó, việc nhận ra một Thiên Chúa quyền phép, thánh thiện, cao sang sẽ không là quá khó. Cựu Ước và rất nhiều tôn giáo khác (như Hồi Giáo chẳng hạn, với sự tôn trọng tuyệt đối dành cho Đấng Allah), thậm chí một nền triết học thuần túy, cũng có thể đạt tới trình độ này. Cho dầu việc suy tôn đó có hoàn toàn đúng, thì diện mạo Thiên Chúa mà Đức Giê-su Ki-tô cất công xuống thế để loan truyền lại giống với dung mạo một chú rể hơn: Chú Rể rạng rỡ yêu đương. Ki-tô hữu phải là các trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể này. Thế nhưng éo le thay, ngọn đèn nào thì cũng có thể bị tắt, nhất là khi cạn dầu giữa đêm hôm; vậy thì dầu đó là gì, chúng ta tự hỏi? Tông đồ Phao-lô khảng định không có Thần Khí thì chẳng có nghĩa tử, thì chẳng ai có thể kêu lên với Thiên Chúa ‘Ab-ba, Cha ơi!’ (Rm 8:15-16). Như vậy có nghĩa là ngay cả các Ki-tô hữu có thể tay vẫn cầm ngọn đèn nhưng lửa thì đã tắt vì cạn dầu nên chính họ giữa đêm khuya không thể nhận ra dung mạo đúng của Chú Rể… Và rồi thì cánh cửa tiệc cưới yêu thương sẽ đóng lại, tiếng Chú Rể vọng ra “Tôi không biết các cô là ai cả!”, vì điều quan trọng hơn cả đối với các trinh nữ Ki-tô hữu này sẽ không là gì khác hơn nhận dạng ra, và đón tiếp Chú Rể của tiệc cưới yêu thương.
Câu chuyện dụ ngôn này đưa một Ki-tô hữu như tôi đi đến kết luận: sống như một trinh nữ (luân lý tốt lành, đạo hạnh) là điều tốt đẹp và cần thiết, nhưng chưa hẳn là chính yếu. Điều hệ trọng hơn cả vẫn luôn là “vừa mang đèn, vừa mang chai dầu theo” để duy trì nơi tôi khả năng nhận dạng Chú Rể và đón tiếp Người bất cứ lúc nào và nơi đâu Người đến. Hội Thánh qua các bí tích (nhất là bí tích Rửa tội, Giải Tội, Thánh Thể và Sức Dầu bệnh nhân…), không chỉ nhằn giúp tôi giữ cho mình được sống như một trinh nữ, nhưng quan trọng hơn là bảo đảm tuôn đổ dầu Thánh Thần trên tôi hầu có thể nhận ra diện mạo Chú Rể tiệc cưới. Và nếu Chú Rể có bất chợt tới giữa đêm khuya tăm tối đi nữa (và đêm khuya đó rất có thể là hình ảnh tình trạng tâm hồn tội lỗi của tôi và của nhân loại), đèn tôi vẫn chưa tắt vì còn đầy dầu Thánh Thần, điều làm tôi nhận ra ngay được dung mạo nhân từ của Người, và cùng “đi theo người vào dự tiệc cưới”.
Lạy Chúa là Chú Rể tiệc cưới Nước Trời, trong mọi biến cố cuộc sống, khi Chúa bất chợt đến dưới bất cứ hình thức nào và cả giữa đêm đen tối tăm nhất, xin cho con ơn luôn cầm trong tay ngọn đèn cháy sáng với dầu Thánh Thần để con nhận ra dung mạo Đấng Cứu Độ thân thương của con. Và nếu giờ chết bất chợt đến với con dưới bất cứ hình thức nào và trong trạng thái tâm hồn nào đi nữa, con chỉ xin Chúa cho con vẫn duy trì được khả năng nhận ra khuôn mặt đầy yêu thương của Chú Rể, và được theo vào gia nhập bàn tiệc cưới Nước Trời. A-men
.
Lm Carolo
- Đám cưới Do thái
Một trong những phần lễ nghi của một đám cưới do thái là cuộc rước dâu. Diễn tiến như sau: Cô dâu và các cô phù dau trang điểm xinh đẹp chờ sẵn bên nhà cha mẹ cô dâu. Riêng cô dâu phải mang mạng che mặt. Bên gia đình đàng trai, chú rẻ và các bạn phù rể cũng trang điểm xinh đẹp. Xong xuôi phái đoàn đàng trai đi đến nhà đàng gái để rước. Rồi cả hai đoàn nhập lại thành một cuộc rước cô dâu về đàng trai. Nếu đám cưới tổ chức ban đêm thì những người tham dự phải mang đèn theo.
Lại có một kiểu rước dâu khác như sau: Người ta rước cô dâu về chờ sẵn bên gia đình chú rể, nhưng tiệc liên hoan chưa bắt đầu. Phần chàng rể thì phải sang gia đình cha mẹ cô dâu để thỏa thuận với nhau về những điều kiện của hôn ước (chẳng hạn về số tiền Mohar). Khi chàng rể đã thỏa thuận xong thì mới trở về nhà, nơi đó đã có sẵn cô dâu và các cô phù dâu. Lúc chàng rể về tới thì mới bắt đầu tiệc liên hoan.
Chi tiết chàng rể về muộn trong dụ ngôn này cho thấy có lẽ trường hợp này theo kiểu rước thứ hai. Sở dĩ chàng rể về muộn là vì phải mất giờ thương lượng cho xong về các điều kiện của hôn ước.
- Dụ ngôn hay ngụ ngôn
Có một số chi tiết là ngụ ngôn: Chàng rể là Đức Kitô; 10 trinh nữ là cộng đoàn kitô đang chờ đợi ngày Parousia.
Tuy nhiên còn một số chi tiết không thể nào cắt nghĩa theo ngụ ngôn đươc, như: đèn là gì, dầu là gì?
Vậy đây là một dụ ngôn được ngụ ngôn hóa trong một vài chi tiết.
- Khờ dại và khôn ngoan
Trong số 10 cô phù dâu, có 5 cô được đáng giá là “khờ dại” và 5 cô “khôn ngoan”. Nhưng “khờ dại” và “khôn ngoan” nghĩa là gì?
Trong nguyên văn hy lạp, khờ dại là môros. Mt cũng dùng tĩnh từ này khi nói về người xây nhà trên cát, với ngụ ý nói tới người nghe Lời Chúa mà không dám đem ra thực hành (7,26-27). Một lần khác (23,17) Mt cũng dùng tĩnh từ này để nói tới những người biệt phái do óc tỉ mỉ vụ luật theo kiểu chẻ sợi tóc làm tư nên không còn biết nhận ra cái gì là chính, cái gì là phụ trong bậc thang các giá trị. Nếu dịch chữ moros là “khùng điên” thì quá nặng. Có lẽ ta nên hiểu chữ này là: thiếu óc phán đoán (như biệt phái). Không nhìn xa trông rộng (như người xây nhà trên cát), cho nên phải đi tới hậu quả là hư hao (nhà trên cát sẽ sập) và hỏng việc (lỡ dịp nhập tiệc với chàng rể).
Còn “khôn ngoan” trong nguyên văn là phronimos. Tính từ này Mt cũng dùng khi nói về người xây nhà trên đá với ngụ ý là biết đem Lời Chúa mnhf đã nghe ra thực hành (7,24); khi nói về người môn đệ Đức Giêsu phỉa phronimos như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu (10,16); và khi nói về nười tôi tớ “tín trung và phronimos mà chủ đặt lên coi sóc gia nhân trong nhà để đến giờ thì phân phát lương thực cho họ” (24,45). Như vậy phải hiẻu chữ phronimos theo nghĩa: vừa biết nhận định chính xác về sự việc, vừa kiên quyết thi hành theo điều mình nhận định.
Nếu hiểu theo ngụ ngôn, nghĩa là 10 trinh nữ này là hình ảnh của cộng đoàn Kitô và việc chàng rể đến là hình ảnh ngày Parousia, thì ta phải lưu ý thêm chi tiết này nữa: trong đoàn dự tiệc ban đầu có tất cả 10 cô, nhưng có 5 cô vì làmôros nên không được dự tiệc. Ý nghĩa là: mặc dù mọi người trong cộng đoàn Kitô đều được mời, nhưng không phải chỉ nhờ nguyên sự kiện đang ở trong GH mà đương nhiên được cứu rỗi đâu, còn phải tỏ ra là phronimos nữa, nghĩa là phải khôn khéo và cương quyết đem Lời Chúa rat hi hành nữa.
- Chàng rể đến trễ
Chi tiết này cũng có nghĩa ngụ ngôn: Ngày Parousia sẽ đến trễ. Ban đầu các Kitô hữu tưởng Parousia đã gần kề. Nhưng càng ngày càng thấy nó đến chậm. Từ đó họ đâm ra chểnh mảng, bớt lòng sốt sắng ban đầu.
Với chi tiết này, Mt muốn nói rằng: mặc dù Parousia đến trễ nhưng tín hữu không được nguội lạnh và chểnh mảng, trái lại chính vì nó đến trễ cho nên phảiluôn luôn sẵn sàng (như đèn luôn có đủ dầu). Chữ “tỉnh thức” ở c 13 không có ý là cấm ngủ, vì thực tế cả 10 cô đều đã ngủ. Chữ này muốn nói tới một sự “tỉnh thức tích cực” như đoạn trước. Tuy 5 cô khôn ngoan cũng ngủ, nhưng họ có quyèn ngủ, có thể yên tâm ngủ, vì dù ngủ mà cũng như họ tỉnh thức, bởi đã chuẩn bị sẵn mọi việc.
- Tính bất ngờ
Chi tiết ở câu 6 xem ra không thực: Thông thường chàng rể đến phải có những dấu hiệu báo trước, chẳng hạn tiếng nhạc, tiếng hát ca từ xa vọng tới, hay có ai đó chạy trước báo tin. Không thể đột ngột chàng rể đã đứng ngay trước cửa như từ trời rơi xuống. Do đó chi tiết này cũng có nghĩa ngụ ngôn: ngày Chúa đến sẽ rất bất ngờ, bất ngờ đến nỗi cho dù ta đang chờ đợi cũng không dè là nó lại đến vào một lúc như thế. Trước tình huống bất ngờ này, chỉ có những ai đã có dự tỉnh thức tích cực như 5 cô khôn ngoan thì mới sẵn sàng vào tiệc với chàng rể.
Còn những cô “khờ dại” đợi tới lúc đó mới lo chuẩn bị thì đã quá muộn. Ý nghĩa là không nên chờ tới phút chót mới chuẩn bị, không được chờ nước tời trôn mới nhảy!
5 cô khờ dại này lúc đó bối rối vay mượn dầu nơi 5 cô khôn ngoan. 5 cô khôn ngoan đã từ chối. Chi tiết này không có nghĩa là ích kỷ, mà muốn nói lên ý nghĩa này: tới giờ phút quyết định ấy, chẳng ai giúp ai được nữa, số phận mỗi người hoàn toàn tùy thuộc sự chuẩn bị sẵn sàng trước đó của họ.
- Giải thích chi tiết
c 1 – “Mười cô trinh nữ”: tuy băn văn viết là “trinh nữ” nhưng thực ra không nhất thiết là trinh nữ, chỉ cần hiểu là “thiếu nữ” thôi cũng đủ.
c 12 – “Ta không biết các ngươi”: không phải là nói dối. Theo cách nói do thái, nói như vậy hàm ý phủ nhận không chịu nhìn.
c 13 – “Hãy tỉnh thức”: không có nghĩa là “không được ngủ”, mà có nghĩa là phải sẵn sàng.
- Kết luận
Kitô hữu ngay từ bây giờ phải tỉnh thức sẵn sàng, nghĩa là phải trung thànhthực hành những gì đã được nghe dạy. Có như vậy đến GIỜ của Chúa, họ mới có thể vào dự tiệc cưới với Ngài, bởi vì không thể đợi đến phút chót mới lo, cũng không thể hy vọng đến phút chót sẽ được ai tiếp cứu.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, chúng ta đang sống trong tuần thứ hai của tháng các Linh Hồn, Tin Mừng Chúa Nhật 32 TN hôm nay có liên hệ đến tháng các Linh Hồn cách rõ rệt nhất. Dụ ngôn Mười Cô Trinh Nữ đi đón chàng Rễ, nhưng, năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại.
Vậy, thế nào là “khôn”, thế nào là “dại” ? Vâng, nhắc đến “khôn “ và “ dại”, con nhớ lại bài hát trẻ con khi còn bé : “Thiên đàng địa ngục hai bên, ai khôn thì dại ai dại thì khôn. Đêm nằm nhớ Chúa, nhớ Cha, đọc kinh cầu nguyện khỏi sa linh hồn. Linh hồn phải giữ linh hồn, đến khi gần chết, được lên thiên đàng ”.
Vâng , thưa quý vị, các bạn, có lẽ tác giả của bài hát trẻ con nầy ít ai biết và nhớ được, có lẽ, tác giả là người lớn, chứ không phải trẻ con. Bởi vì, lời của bài hát “quá đúng” với ý nghĩa của Đoạn Tin Mừng hôm nay (Mt 25, 1 -13), Mười Cô Trinh Nữ.
“Ai khôn thì dại, ai dại thì khôn”. Như vậy, là có thể trả lời được cho câu vấn , thế nào là khôn và dại?
Ở đời người ta thường “dại” và “ khôn” đối với nhau. Vì người ta thường nói :” Khôn thì sống, dại thì chết”. Nhưng, “Ai khôn thì dại, ai dại thì khôn”, đó là quy luật, đó là chân lý dành cho con người, mà hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một Dụ Ngôn để biết về NƯỚC TRỜI.
Dụ ngôn Mười Cô trinh nữ, nhưng năm cô khôn ngoan còn năm cô khờ dại, vậy khôn ngoan Nước Trời là gì? Thưa, đó là sự sẵn sàng, sự thắp sáng, sự mong chờ, sự chuẩn bị cho mục đích , công việc của mình. Nói cách khác là sự chuẩn bị “ chu đáo”, mà trong Tin Mừng gọi là “canh thức”. cụ thể, đèn và dầu là phương tiện và nhu cầu thiêng liêng cần phải có. Đó là, sự khao khát thiêng liêng, khao khát chính Chúa là nguồn mạch mọi ân sủng.
Theo ý nghĩa Tin Mừng, chúng ta biết, ân sủng siêu nhiên vào giờ sau hết không được ai chia sẻ, cũng như không thể mua được. Mua không ai bán, xin không ai cho, mà phải chuẩn bị khi còn có thể. Chúng ta thấy, sự khôn khoan và sự khờ dại trong dụ ngôn theo nghĩa đen thật dễ hiểu. Đó là sự thiếu chuẩn bị, sự thờ ơ, sự bất cẩn, sự hớ hênh của năm cô khờ dại. Sự bất cẩn nầy là sự không tha thiết, không tập trung, lơ là, xao lãng, những đức tính hời hợt trong nhiệm vụ của mình. Trong công việc, bổn phận hằng ngày cũng thiếu quan tâm, thì huống chi là bổn phận thiêng liêng. Như vậy, ân sủng không dành cho người thiếu thiện chí, khát khao đón nhận.
Thánh vịnh 62 hôm nay cho chúng ta biết “Ai khát khao Chúa thì sẽ được”, “Tôi hằng mong muốn kiếm tìm Chúa luôn. Hồn tôi khao khát bản thân mong Chúa”.
Như vậy, sự khôn ngoan Nước Trời là sự khôn ngoan tuyệt đối, sự khôn ngoan thế gian không có được, đèn và dầu là nhu cầu “thiêng liêng”, là ân sủng, là ơn Thánh hằng ngày mà chúng ta đón nhận ,còn hơn những nhu cầu vật chất của trần thế chóng qua.
Ơn khôn ngoan là “vàng ròng” vô giá, mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, nhưng, những ai đón nhận phải biết phát huy, như “đèn” thì phải có “dầu”. Đèn là “ân sủng” bởi Thiên Chúa , “dầu” là sự nổ lực của chúng ta, nếu không đèn không có dầu thì không thể cháy sáng.
Từ tư tưởng trong Dụ Ngôn hôm nay, Chúng ta thấy có mấy ý chính quan trọng :
- Thứ nhất : Ân sủng bởi Thiên Chúa ban cho chúng ta công bằng như nhau.
- Thứ hai : Khôn ngoan hay khờ dại là do chúng ta.
- Thứ ba : khi Giờ chết đến không còn “xin “ sự chia sẻ của ai, hoặc có tiền cũng không ai bán mà mua.
- Thứ tư : Ân sủng tự nhiên cũng như siêu nhiên , phải biết trân trọng giữ gìn, tích lũy, gia tăng trong tinh thần sẵn sàng.
- Thứ năm : Thiên Chúa nhân từ, nhưng công thẳng , giờ sau chót không phải là “ cơ hội” để Thiên Chúa “trì hoãn” với chúng ta.
Muốn vậy, “LÒNG MẾN” là “DẦU” tích lũy cho chúng ta, Lòng Mến Thiên Chúa luôn sẵn sang, và tình yêu chính là “ lòng ăn năn tội cách trọn” trong giờ lâm chung. Lòng Mến Thiên Chúa luôn gia tăng từng giây phút của cuộc đời chúng ta. Như thế , Thiên Chúa là Đấng “Giàu Lòng Thương Xót”, sẽ luôn “đong đầy” tình mến cho chúng ta.
Bài đọc II hôm nay (1Tx 4, 13 -18), thánh Phao-lô cho chúng ta một hình ảnh “rõ nét” về sự phục sinh của người chết, nếu “TIN “vào Đức Kitô- Giêsu. Có thể noi, Đoạn Thánh Thư nầy là niềm cậy trông và an ủi cho những ai đang “an giấc ngàn thu”.
Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương nhân loại, nên Chúa đã xuống thế làm Người, để dạy cho con người biết nhận ra “TÌNH CHÚA” cao vời. Xin cho họ biết luôn “đong đầy “ Tình Chúa, nhờ đó chính là “năng lượng” giúp họ đạt đến chính Chúa là nguồn mạch yêu thương . Vì lạy Chúa, dù cho uy quyền của Chúa bị xúc phạm, nhưng con cũng không dám xúc phạm Người./. Amen
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN_A
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Những ngày cuối của năm phụng vụ, Giáo hội hướng chúng ta về ngày cánh chung. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể để dạy chúng ta phải thức tỉnh và sẵn sàng luôn cầm đèn cháy sáng đón Chúa đến vào ngày cuối đời hoặc vào ngày tận thế.
Tiệc cưới luôn nói về niềm vui và hạnh phúc. Theo truyền thống Do Thái, tiệc cưới thường được tổ chức vào ban đêm. Nghi thức quan trọng nhất là đến rước cô dâu. Chập tối, chàng rể và các bạn phù rể tay mang đèn đuốc tiến về nhà gái. Khi đó cô dâu và các cô phù dâu sửa soạn đèn sẵn, chờ chàng rể đến. Khi mọi sự đã sẵn sàng, đám rước dâu khởi hành. Về đến nhà trai là mọi người vào dự tiệc cưới. Đèn của các cô phụ dâu phải đủ dầu đốt chờ chàng rể đến và phải thêm bình dầu dự trữ để đủ đến khi dự tiệc cưới.
Dụ ngôn có nhiều chi tiết cần nắm bắt để hiểu nội dung Chúa muốn nói. Chúa Giêsu là chàng rể. Ngài đến một cách đột xuất và bất ngờ “ban đêm”chúng ta không biết được “ngày nào, giờ nào”. Vì thế, cần phải tỉnh thức sẵn sàng, mới được vào dự tiệc cưới Nước Trời.
Mười cô trinh nữ là biểu tượng chỉ tất cả mọi người đang trong cuộc hành trình đức tin về quê trời.. Năm cô khôn ngoan là những Kitô hữu biết tiên liệu đủ dầu trong thời gian chờ đợi Chúa đến, biết tỉnh thức sẵn sàng với đầy đủ hành trang: biết nghe lời Chúa, sống bác ái, sống đạo tất, lương thiện… Dầu làm cho ngọn đèn cháy sáng là những việc lành phúc đức, từ thiện bác ái. Họ sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Còn năm cô khờ dại là những người không chu toàn bổn phận, chểnh mảng đời sống đạo, thiếu lòng tin mến đối với Chúa và bất công với anh em, mất ơn nghĩa với Chúa “Tôi không biết các cô”.
Ngày hôm nay định đoạt cho số phận đời đời trong tương lai. Mỗi người làm chủ cuộc sống mình ở trần gian, người ta có thể giúp đỡ, chỉ bảo, chia sẻ với nhau khi còn sống. Nhưng khi chết, đến trước tòa Chúa, thì mỗi người chịu trách nhiệm về cuộc đời mình, người khác không thay thế hoặc giúp ích được. Chỉ còn tội phúc của mỗi người. “Các chị ra hàng mà mua thì hơn”.
Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng làm cho chúng ta luôn ở trong tình trạng ân sủng, thường xuyên sống trong ơn nghĩa Chúa và gia tăng việc làm phúc đức mỗi ngày một hơn. Theo các thánh giáo phụ, đời sống yêu thương bác ái là dầu làm cho ngọn đèn luôn cháy sáng để được vui hưởng hạnh phúc Nước Trời. Như thế, biết yêu mến là biết khôn ngoan phòng xa, hướng về cuộc sống tương lai.
Chuyện kể: Có 2 người đàn bà chết cùng một ngày, người thứ nhất là người dân Hoa Kỳ, có ăn học, viết nhiều sách báo đạo đức. Các tác phẩm của bà được nhiều người quý chuộng, một vài cuốn sách của bà được vào hàng bán chạy nhất “best seller”. Thỉnh thoảng bà còn được mời đi thuyết trình về những khảo cứu công phu liên quan đến Kinh thánh. Một ngày kia bà đau tim và qua đời. Có nhiều nhân vật quan trọng tham dự tang lễ. Đoàn đồng tế mấy chục cha, ai cũng ca tụng và thương tiếc bà.
Cùng thời gian đó, tại Ấn Độ, một người đàn bà trong khu dân nghèo cũng chết. Tang lễ do cha xứ cử hành, giáo dân tham dự cũng khá đông.
Nơi cổng thiên đàng, chỗ Phêrô đang cứu xét công trạng, người ta thấy hai bà xếp hàng nối vào những người đi trước. Bà người Hoa Kỳ đem theo một valy đầy sách quý, bà người Ấn Độ trên tay cầm một cuốn tập không quá 10 trang.
Hôm đó, số người chết quá nhiều và thánh phêrô phải làm việc khá kỹ, nên phải chờ đợi hơi lâu. Để đỡ sốt ruột, người đàn bà Hoa Kỳ mon men đến làm quen với bà Ấn Độ. Bà hỏi:
– Bà viết thứ gì trong tập sách be bé kia vậy
– À, tôi viết tên của những người mà tôi thương yêu, chăm sóc, tha thứ, giúp đỡ, chở che.
Nghe thế, bà Hoa Kỳ hoảng hốt kêu lên rằng: chết tôi rồi! Vậy tôi đem lộn sách mất rồi!
Một ngày nào đó, bạn và tôi cũng phải mang cuốn sách cuộc đời đến trước nhan Chúa, cuốn sách ghi tội phúc của mỗi người. Tất cả sẽ được đọc lên. Có thể chúng ta được Chúa thưởng “Hãy vào hưởng hạnh phúc Nước Trời” hoặc chúng ta sẽ bị Chúa từ chối “Tôi không biết quý vị từ đâu tới”. Tất cả đang còn tùy thuộc vào thái độ tỉnh thức sẵn sàng của mỗi người trong cuộc sống hiện tại hôm nay.
Nếu hôm nay Thiên Chúa đến vào cuối đời, tôi là những cô trinh nữ khôn ngoan hay những cô trinh nữ khờ dại?
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN. NĂM A
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Kính thưa anh chị em
A. Dụ ngôn chúng ta vừa nghe là một trong những dụ ngôn quen thuộc trong Tin Mừng. Nếu chỉ nhìn dụ ngôn dưới con mắt của người Việt thì chúng ta thấy câu truyện xem ra có vẻ bày đặt, thiếu tự nhiên. Tuy nhiên nếu chúng ta đặt nó vào hoàn cảnh đất nước Do thái thì chúng ta sẽ thấy khác. Ở bên nước Do Thái thì câu chuyện này là một câu chuyện có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Hôm nay cũng vẫn còn như vậy.
Tại vùng quê ở xứ Palestine thì đám cưới là một cơ hội rất trọng đại. Cả làng đi đưa đôi tân hôn về ngôi nhà mới của họ. Thường thì đôi tân hôn thích đi bằng con đường dài – càng dài càng tốt để họ có thể nhận được những lời chúc mừng vui vẻ của nhiều người. Và càng nhiều người chúc mừng thì càng vui, càng “hên”.
Hầu như mọi người trong làng từ sáu đến mười sáu tuổi đều tham dự. Họ đi theo tiếng trống cưới. Các Rabi còn cho phép mọi người gác lại việc học hỏi và nghiên cứu luật pháp để họ có giờ chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn.
Đây là phong tục của người Do thái. Nó khác xa với phong tục của chúng ta.
Tiến sĩ Alexander Findlay có lần đi du lịch tại xứ Palestine về, đã kể lại những điều ông đã được chứng kiến ở xứ Palestina cho những người nghe ông như sau: “Khi chúng tôi đến gần cổng một thị xã Gallilê…tôi thấy mười cô gái được hướng dẫn bởi một đoàn thanh niên rất đông, vừa đi vừa vỗ tay và đánh đàn rất vui vẻ. Họ nhảy múa dọc theo con đường phía trước xe chúng tôi. Tôi hỏi họ:
– Các bạn đang làm gì vậy?
Người hướng dẫn trả lời:
– Chúng tôi đang ra nhập bọn với cô dâu để chờ chàng rể đến.
Tôi hỏi người đó xem tôi có thể quan sát đám cưới này được không thì người đó lắc đầu và sau đó người đó cắt nghĩa:
– Không thể được vì đám cuới có thể là tối nay, tối mai hay có khi cả hai tuần lễ nữa, không ai biết chắc khi nào thì đám cưới cử hành.
Sau đó anh còn cho chúng tôi biết: một trong những niềm vui lớn nhất trong một đám cưới thuộc giới trung lưu ở miền Palestine này là làm sao bắt gặp nhà gái đang ngủ. Chính vì vậy mà chàng rể thường đến bất ngờ. Đôi khi vào lúc nửa đêm.
Rồi cũng theo tục lệ ở đây thì trước khi đến chàng rể phải cho một người đi phía trước để la lên: “Kìa chàng rể đang đến!”. Việc này có thể xẩy ra bất cứ lúc nào nên nhà gái phải luôn sẵn sàng để đón chàng rể khi anh đến.
Một chi tiết khác cũng khá quan trọng là không ai được phép ở ngoài đường lúc trời đã tối ngoại trừ khi họ có đèn cầm ở tay và khi chàng rể đã đến – cửa đã đóng lại thì những người đến trễ không được phép vào. Xét như thế thì dụ ngôn Chúa kể cũng không có gì là khác với thực tế là bao.
B. Bây giờ chúng ta tự hỏi Chúa muốn dạy gì khi đưa ra dụ ngôn này?
Chúng ta có thể trả lời: Cũng giống như những dụ ngôn khác, dụ ngôn này cũng bao hàm nhiều ý nghĩa.
* Đối với người Do Thái lúc đó thì ý nghĩa đã quá rõ. Họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Cả lịch sử của họ lý ra phải là một cuộc chuẩn bị sửa soạn cho việc đón nhận Đấng Cứu thế khi Ngài tới. Đáng lý ra thì phải là như thế. Nhưng họ đã không làm như vậy. Chính vì họ không chuẩn bị để đón tiếp Ngài cho nên họ đã bị bỏ ra ngoài. Đây là tấn thảm kịch về sự mất mát lớn lao mà người Do thái phải chịu. Chúa đã khôn khéo tế nhị cho họ thấy điều đó thế nhưng rồi mọi sự đâu cũng vào đó. Thật là xót xa cho Chúa và cũng xót xa cho cả dân tộc được Chúa yêu thương một cách đặc biệt này.
* Tuy nhiên câu truyện không phải chỉ dừng lại ở đây. Nó còn mang nhiều ý nghĩa sâu xa hơn.
1. Trước hết là bài học về bổn phận hằng ngày của mỗi người. Bổn phận đó đòi hỏi chúng ta phải chu toàn qua từng giây từng phút của cuộc đời chứ không phải là dành mãi đến phút chót mới làm.
Một học sinh đến ngày thi mới chuẩn bị thì quá trễ.
Nếu một người không chuẩn bị sẵn sàng về khả năng và phẩm cách để làm một công việc nào đó sẽ được trao phó thì khi công tác cần đến, người đó sẽ không còn thời giờ để chuẩn bị nữa.
Đối với Chúa, cũng vậy, nếu không có sự chuẩn bị sẵn sàng để gặp Chúa thì khi Ngài đến chúng ta khó mà kịp trở tay và hậu quả lúc đó như thế nào thì ai cũng biết.
Người biết chuẩn bị là người khôn. Người không biết dự phòng là người dại. Hậu quả của hai thái độ đó như thế nào thì chắc là ai cũng hiểu
2. Đàng khác dụ ngôn cũng còn dạy chúng ta một chân lý nữa: Có những điều chúng ta không thể vay mượn được. Những cô trinh nữ dại khi khám phá ra đèn của mình hết dầu rồi mới đi cầu cứu thì lúc đó mới thấy được cả một thực tế phũ phàng.
Người ta chẳng có thể nào mà đi mượn được mối giây liên hệ với Chúa nếu chính họ không tự làm ra mối giây liên hệ đó.
Chúng ta cũng không thể vay muợn được nhân cách. Mỗi người phải có nhân cách riêng của mình.
Chúng ta không thể cứ sống nhờ mãi vào người khác. Đến một lúc nào đó thì chúng ta phải tự chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình. Đến lúc đó thì chúng ta không còn có thể cậy dựa vào bất cứ một ai hay bất cứ một quyền lực nào. Không có tiếng chuông báo tử nào nặng ký bằng tiếng chuông rung lên hai chữ “Quá muộn”.
3. Và cuối cùng là sự khôn ngoan của cuộc sống. Người sống khôn là người biết sống luôn sẵn sàng như cuộc sống chỉ là bây giờ, chỉ là hôm nay. “Các chị ra hàng mà mua thì hơn, e không đủ cho các em và các chị”
Ma quỉ rất sợ những con người như thế. Bởi vì phần thắng đã nằm ở trong tay họ.
Một ngày kia quỉ vương hỏi các quỉ cố vấn:
– Làm thế nào để những người trên trần thế sa đọa và thua mình?
Các cố vấn đề nghị là nên phỉnh gạt người ta là không có Thiên Chúa hoặc không có sự trừng phạt gì ở đời này và đời sau. Quỉ vương suy nghĩ và chê các ý kiến đó là không hữu hiệu. Sau đó một hồi lâu, một quỉ nhỏ lại lên tiếng đề nghị: “Xin Ngài hãy nói với họ là ngày giờ còn rộng, còn dài, hãy thư thả rồi sẽ tính”
Vua quỉ vội đứng dậy vỗ tay khen hay:
– Đúng, mày nói đúng, chỉ có cách này mới làm cho con người an tâm mà xa thần thánh và không sợ trừng phạt. Bấy giờ ta sẽ mặc sức xúi dục chúng sa đọa theo ý của ta.
Các tôn giáo đã cống hiến cho chúng ta câu châm ngôn: “Hãy sống ngày hôm nay như ngày cuối cùng của đời mình để chúng ta trở về cõi thực, canh tân nếp sống.
Mẹ Têrêxa có lần đã phát biểu:
“Tôi dâng lễ này như là lễ đầu tiên, như là lễ cuối cùng và như là lễ độc nhất cuộc đời của tôi”
Nói một cách khác biết sống từng giây phút của hiện tại của đời mình một cách đầy đủ ý nghĩa – đó là cách chuẩn bị tốt nhất cho mọi tình huống có thể bất chợt xẩy ra. Đó là cách giữ cho chiếc đèn đức tin của chúng ta lúc nào cũng có dầu và không bao giờ sợ bị tắt.Amen.
.
Trầm Thiên Thu
KHÔN và KHỜ là hai trạng thái đối lập. Hai tâm tình cùng “ca hát” nhưng lại không vui vẻ như nhau – một Khôn Khéo, và một Khờ Khạo. Thật thú vị khi nói về cách đánh vần trong Việt ngữ, một cách là “ca hát” (KH) và một cách là “khờ” (KH). Hoàn toàn trái ngược!
Kinh Thánh minh định: “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời” (Hc 1:1). Thánh Vịnh gia cũng xác định: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan. Sáng suốt thay kẻ thực hành như vậy. Mãi đến thiên thu còn vang tiếng ngợi khen Người” (Tv 111:10). Và Thánh Bênađô đặt vấn đề: “Nếu con người KHÔNG biết kính sợ và yêu mến Thiên Chúa, bất kể họ gọi Ngài là gì thì KHÔNG THỂ gọi họ là người khôn ngoan”. Kinh Thánh xác định: “Người khôn tránh bạn xấu” (Cn 1:8a). Chúng ta đã thực sự là người khôn ngoan chưa? Coi bộ “căng” dữ nghen!
Ai cũng khả dĩ biết rằng sự khôn ngoan là một đức tính cần thiết trong cuộc sống, Kitô hữu chúng ta gọi là “nhân đức” – Đức Khôn Ngoan, một trong bảy ơn Chúa Thánh Thần. Người khôn ngoan là người biết tiên liệu và dự phòng mọi thứ có xảy ra bất ngờ. Khôn ngoan không có nghĩa là học cao, vì có cả một bụng chữ cũng chưa chắc khôn ngoan. Dù không học nhiều, thậm chí là mù chữ, nhưng người ta vẫn có thể khôn ngoan. Sống lâu cũng chưa chắc khôn ngoan hơn người ít tuổi. Từ xa xưa, Menander (342-291 trước công nguyên) đã xác định: “Tóc bạc KHÔNG sinh ra sự khôn ngoan”. Mạnh mẽ và thẳng thắn, tác giả sách Huấn Ca nói mà không kiêng nể chi: “Già đầu mà ngu” (Hc 25:2).
Thật thú vị bởi vì đức khôn ngoan liên quan sự tỉnh thức. Sự tỉnh thức hoặc sự cảnh giác cũng rất cần thiết trong đời sống. William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) so sánh: “Khắc ghi một sự thật lớn lao vào trí nhớ là đáng nể, nhưng khắc ghi sự thật đó vào đời mình mới là khôn ngoan”. Tác giả sách Giảng Viên cho biết: “NGƯỜI KHÔN biết mở mắt nhìn, KẺ DẠI bước đi trong tăm tối” (Gv 2:14).
Người ta phải có sự khôn ngoan trước khi có thể đạt được quyền lực, có khôn ngoan mới có thể sử dụng quyền lực đó một cách đúng đắn, nếu không sẽ rất nguy hiểm – nguy hiểm cho người khác và cho chính họ.
Ngày xưa, Vua Salômôn thực sự khôn ngoan khi xin Chúa ban cho được khôn ngoan và hiểu biết để lãnh đạo dân. Và rồi ông đã có mọi thứ, vì điều ông xin đã làm Thiên Chúa hài lòng. Ngài giải thích: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi” (1 V 3:11-13; 1 Sbn 1:11-12). Vua Salômôn nổi tiếng khôn ngoan với vụ xử kiện “giành con” của hai cô gái điếm (x. 1 V 3:16-28).
- ĐỨC KHÔN NGOAN
Kinh Thánh nói về tầm quan trọng của sự khôn ngoan: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà” (Kn 6:12-14).
Đề cập đức khôn ngoan, chúng ta thử suy nghĩ vài “điều nhỏ” này: [1] Nếu chỉ biết sáng đi làm, chiều trở về, ăn uống, xem ti vi, rồi ngủ nghỉ, thế thì người đó chẳng khác gì loài động vật; [2] Nếu bạn chỉ có ý định gian lận cái gì đó của người khác thì đó cũng là lúc đen tối nhất của cuộc đời rồi; [3[ Người thầy mà không dạy cho học trò biết ham muốn học tập thì đó là người thầy tồi; [4] Học trò mà không biết lắng nghe thầy cô giảng bài thì đó là học trò ngu dốt, vô trách nhiệm với chính cuộc đời mình, chẳng hy vọng gì trong tương lai; [5] Người nóng vội, bộp chộp, động thái đó ảnh hưởng xấu tới cả tinh thần lẫn thể lý, ảnh hưởng xấu tới cả những người xung quanh, xét về phương diện tinh thần thì người đó không hơn một con chó giữ nhà; [6] Sống mà không có ước mơ, luôn than phiền, người đó chẳng khác loài tầm gửi, chỉ biết bám víu vào cây khác để hút nhựa sống, hoặc như loài đỉa hút máu người khác để sống.
Và còn nhiều điều khác tương tự như vậy. Lối sống đó là ích kỷ, chỉ biết yêu mình, không sáng suốt và chắc chắn là không khôn ngoan chút nào. Như vậy là lãng phí cuộc đời, là “chết” ngay trong khi còn sống, bởi vì sống quá thụ động, buông xuôi!
Kinh Thánh nói: “Trí khôn ngoan làm miệng nên khéo léo, và thêm sức thuyết phục cho đôi môi” (Cn 16:23). Sự khôn ngoan không chỉ làm cho người ta linh hoạt về tinh thần, mà còn tươi tỉnh cả về thể lý: “Sự khôn ngoan làm cho gương mặt con người ngời sáng, và nét cứng cỏi nên dịu dàng” (Gv 8:1). Sự khôn ngoan quá tuyệt vời, thế nên mới cần thiết. Người khôn ngoan là người sâu sắc, nói ít, nghe nhiều, trầm lặng để thấm nhuần đức khôn ngoan vào máu thịt: “Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu. Vì những ai xứng đáng với Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (Kn 6:15-16). Ở đây không là sự khôn ngoan nhờ vào phàm nhân mà là sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa.
Cái lợi này tích lũy thêm cái ích nọ. Càng khôn thì càng khéo, và người ta thường ghép đôi là “khôn khéo”. Cứ thế và cứ thế. Người khôn ngoan biết tìm kiếm những thứ bền vững, không hư hỏng, dù cho họ có thể bị coi là “điên rồ” trong tầm nhìn của loài người. Nhưng điều trường cửu đó là điều thuộc về Thiên Chúa. Hằng ngày họ cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” (Tv 63:2-3).
Khôn ngoan đích thực phát xuất từ Thiên Chúa. Vì thế, người khôn ngoan là người chuyên tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và họ có được Thiên Chúa. Thật vậy, Thánh Vịnh gia cảm nghiệm và chia sẻ: “Ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca. Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài. Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui” (Tv 63:8). Khôn ngoan giúp người ta bớt lo lắng, bớt lo lắng thì dễ an tâm, nhờ an tâm mà vui sống. Rất lô-gích!
Ngược lại, vì thiếu khôn ngoan mà người ta cảm thấy bất an, khắc khoải, lo sợ và nuối tiếc. Người ta trở nên bình an thư thái khi được ơn Chúa tác động. Thuyết nhà Phật gọi tình trạng đó là “giác ngộ”. Lúc về già, thi sĩ Bùi Giáng sống như người mất trí, ông lang thang khắp Saigon với phong cách rất “bụi”, và ông đã than thở:
Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ!
Còn đối với thi sĩ Trần Tế Xương, trong thi phẩm “Dại Khôn”, ông đã nhận định thế này:
Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại, biết ai khôn
Thật vậy, khó có thể nhận biết ai dại, ai khôn. Chúng ta tưởng người này khôn mà hóa ra người dại, chúng ta tưởng người kia dại mà hóa ra người khôn. Thánh Phaolô cho biết: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người” (1 Cr 1:25). Người khôn ngoan nhất là người biết kính sợ Thiên Chúa (x. Tv 111:10). Làm người sống ở đời, chẳng ai biết ngày mai trời mưa hay nắng, cũng không thể biết cuộc đời mình ra sao, vì thế mà luôn cần tỉnh thức. Người khôn ngoan là người luôn biết tỉnh thức!
- KHÔN và KHỜ
Khôn Khéo thì Tỉnh Thức, Khờ Khạo (Không Khôn) thì Mê Muội. Khôn và Khờ là hai trạng thái khác nhau, “khoảng cách” rất mong manh giữa hai trạng thái đó. Thiên Chúa đã cảnh báo mỗi người chúng ta: “Nếu ngươi KHÔNG TỈNH THỨC thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi CHẲNG BIẾT giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi” (Kh 3:3). Bão lũ, lụt lội, giông tố, động đất, sóng thần, tai nạn,… Cụ thể là cơn siêu bão Damrey vừa “tấn công” Khánh Hòa ngày 4-11-2017. Chắc chắn không ai biết lúc nào gặp “sự cố”, dự báo thời tiết cũng chỉ là dự đoán, không thể biết chính xác thời điểm nào. Ngay giữa lòng thành phố Saigon mà có nhà tự dưng sụp hố làm lọt xe và người xuống. Ai có thể dự đoán? Chắc chắn là “bó tay”, ấy thế mà người ta vẫn dám coi thường Thiên Chúa, muốn loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống này. Thế thì thật khốn thay!
Thiên Chúa là Đấng duy nhất và toàn năng, mọi sự đều bởi Ngài và nhờ Ngài, và Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố lịch sử của cuộc đời mỗi người. Danh nhân thông thái Rabindranath Tagore (Rabīndranātha Thākura, 1941-1961, Ấn Độ) đã cảm nhận sâu sắc về Đấng Toàn Năng: “Bạn không nghe thấy bước chân Người thầm lặng đó sao? Người tới và luôn luôn thường tới. Người tới và luôn luôn thường tới hằng giờ, hằng đêm, hằng ngày, hằng thời đại,… Người tới và luôn luôn thường tới qua lối đi nho nhỏ trong rừng, vào những ngày Xuân đượm nắng ngạt ngào. Người tới và luôn luôn thường tới trên xe mây ầm ầm tiếng sấm, vào những đêm Thu mưa ướt tối mù. Bước chân Người đã giẫm lên tim tôi đang ôm nặng những nỗi buồn dai dẳng. Khi niềm vui trong tôi ngời sáng, ấy là do chân Người vàng óng chạm vào”. Tư tưởng của R. Tagore rất gần với Công giáo, đặc biệt là tập thơ “Lời Dâng” (Gitanjali), với bút danh Bhānusiṃha (Sư Tử Thái Dương).
Tương tự, Thánh Vịnh gia cũng chân thành thân thưa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5). Thật vậy, đến từng sợi tóc trên đầu chúng ta cũng đã được Thiên Chúa đếm cả rồi (Mt 10:30; Lc 12:7). Ai tìm Ngài thì Ngài cho người đó được gặp, ai lìa xa Ngài thì Ngài sẽ lìa bỏ người đó (1 Sbn 28:9).
Chỉ nhỏ nhoi như sợi tóc, chẳng đáng gì, thế mà Thiên Chúa còn quan phòng và tiền định, huống chi chuyện sinh – tử, liên quan mạng sống của con người – mà Ngài lại chính là Sự Sống và Nguồn Sống (Ga 14:6; Tv 36:10). Thánh Phaolô cho biết: “Về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” (1 Tx 4:13-14).
Được làm người sống ở đời, người ta không chỉ đi bằng đôi chân, mà quan trọng hơn, đó là phải “đi” bằng cái đầu. Cũng vậy, sống không chỉ cần lương thực nuôi sống thân xác, mà quan trọng hơn, đó là phải cần lương thực nuôi sống tinh thần và linh hồn. Kitô hữu cần cả Thánh Thể và Lời Chúa.
Thánh Phaolô giải thích: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau” (1 Tx 4:15-18). Qua đó, chúng ta biết chắc chắn thời đại của chúng ta là thời cánh chung, nhưng không biết chúng ta có được diễm phúc chứng kiến thời điểm lịch sử vĩ đại nhất hay không.
Vì không biết nên chúng ta mới phải tỉnh thức, và không ngừng sống trong tình trạng tỉnh thức, nghĩa là phải sống yêu thương đến từng chi tiết: “Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hoà thuận với nhau. Thưa anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ kẻ nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người” (1 Tx 5:13-14).
Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mt 25:1-13, đề cập dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ”, nêu rõ vấn đề “tỉnh thức”. Đây là một trong các dụ ngôn “quen thuộc”, đặc biệt nói về thời điểm cánh chung, nói chi tiết là liên quan ngày tận thế riêng của mỗi người chúng ta. Trong dụ ngôn này có hai nhóm đối lập: Người Khôn và Người Khờ.
Qua đó, Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, có năm cô dại và năm cô khôn. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô khôn mang đèn và mang chai dầu dự trữ. Vì chú rể đến chậm, nên các cô ngủ thiếp. Nửa đêm, có tiếng báo “chú rể đến”. Bấy giờ, tất cả các cô đều thức dậy và sửa soạn đèn.
Tuy nhiên, đèn của năm cô dại cạn dầu, thế nên không thể đủ dầu để thắp sáng. Các cô khờ biết mình thiếu dầu nên xin các cô khôn. Các cô khôn không dám cho bởi vì biết dầu của họ không thể đủ dầu thắp đèn sáng đèn của chính mình và của người khác, thế nên họ khuyên các cô dại nên ra tiệm hoặc cây xăng mà mua. Đang lúc các cô dại đi mua dầu thì chú rể tới, các cô khôn đã sẵn sàng nên được đi theo chú rể vào phòng dự tiệc cưới. Sau đó, cửa liền đóng lại. Cánh cửa cơ hội cũng khép lại!
Ngay lúc đó, các cô dại về đến nơi và gọi cửa, thế nhưng chú rể nói thẳng: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”. Quá bất ngờ, nhưng thế là xong! Vì vậy, Chúa Giêsu đã vừa căn dặn vừa cảnh báo: “Anh em hãy CANH THỨC, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”.
Hai năm rõ mười. Ai khôn, ai dại đã rõ, không còn mơ hồ hoặc phỏng đoán. Người mà chúng ta tưởng là khôn lại chỉ là người dại, người mà chúng ta tưởng là dại lại chính là người khôn. Cũng trong thi phẩm “Dại Khôn”, thi sĩ Trần Tế Xương đã “ngộ” ra và kết luận:
Này kẻ nên khôn đều có dại
Làm người có dại mới nên khôn
Trong bài “Dậy Mà Đi”, cụ Ngô Tất Tố đã xác định: “Ai nên khôn (mà) không khốn một lần!”. Trong cái khó lại ló cái khôn. Cuộc sống cho chúng ta biết rằng đau khổ càng nhiều thì kinh nghiệm càng dày. Ngay cả trong lĩnh vực tinh thần hoặc tâm linh, chúng ta thấy tuyết tương đối của Bác học Einstein vẫn đúng. Kỳ diệu thật! Tất nhiên chính Thiên Chúa đã tác động để ông khả dĩ thấu hiểu quy luật tự nhiên và đưa ra định luật như vậy, bởi vì mọi sự đều bởi Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa, Ngài là Đấng chí thánh, chí thiện và chí ái, nên Ngài luôn yêu quý những ai đơn sơ và chân thật, xin dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan (Tv 51:8), xin dạy con biết đếm tháng ngày con sống để tâm trí con được khôn ngoan (Tv 90:12), xin giúp con chuẩn bị đủ dầu-đức-tin để đủ thắp sáng đèn-đời trong thời gian canh thức. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
TÍCH LŨY NHIỀU DẦU CHO ĐÈN CHÁY SÁNG
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Được mời làm phù dâu là một vinh dự lớn đối với các cô gái đương xuân. Đây là một cơ hội tốt để giao lưu, để gặp gỡ, để làm quen với nhiều người bạn khác cùng trang lứa… Và biết đâu, nhân dịp nầy, các cô có thể tìm thấy bạn trai ý hợp tâm đầu rồi sau đó kết ước chuyện trăm năm thì còn gì hạnh phúc bằng!
Vì thế, ngay khi được mời làm phù dâu, các cô nô nức sửa soạn cho ngày quan trọng nầy rất chu đáo. Phải trang điểm chi li từ lọn tóc trên đầu cho đến cái móng chân!
Thế rồi, thời điểm chờ đợi lâu nay đã đến. Các cô tung tăng hớn hở cùng nhau tiến về nhà cô dâu để chuẩn bị nghênh đón chàng rể và để gặp gỡ những người bạn trong mơ.
Thế nhưng, điều đáng tiếc là vì mải lo sửa soạn áo xống, lo trang điểm bên ngoài thật tươm tất chu đáo thì năm trong số mười cô phù dâu xinh đẹp lại quên mất điều quan trọng nhất là chêm thêm dầu vào chiếc đèn của mình.
Và bởi quên đi điều quan trọng nầy nên khi chàng rể đến bất thần giữa đêm đen, các cô chỗi dậy sửa soạn đèn đóm, không ngờ đèn đã cạn dầu từ lúc nào không hay. Các cô năn nỉ, nài xin các bạn có mang dầu đầy bình giúp cho chút ít, nhưng chẳng ai cho.
Thế là vì không có đèn sáng trên tay, các cô không được vào phòng tiệc cưới, không được chung vui cùng cô dâu chú rể, không được hàn huyên trò chuyện với các bạn bè, không được ăn uống tiệc tùng gì cả… và rồi phải thui thủi ra về trong buồn tủi giữa đêm đen!
Có lẽ lúc bấy giờ các cô rất hận mình, vò đầu bức tóc và tự dằn vặt tại sao mình lại ngu khờ đến thế! Uổng công trang điểm má hồng môi son, uổng công mua những thỏi son hạng nhất, mua những lọ nước hoa đắt tiền, phí tiền may sắm quần áo lụa là xa xỉ, uổng công trang điểm chi li từ lọn tóc trên đầu cho đến cái móng chân và trải qua bao ngày nôn nao chờ đợi… Nhọc công làm tất cả những điều ấy mà không biết mang theo đủ dầu cho đèn cháy sáng nên mới ra nông nổi nầy. Đau buồn biết bao!
Nói người rồi nghĩ đến ta. Chúng ta cũng là những phù dâu, phù rể đang chờ đợi chàng Rể khác là Chúa Giê-su sắp đến. Mong sao chúng ta đừng bước theo vết chân năm cô phù dâu dại dột nầy.
Cũng như các cô phù dâu khờ dại chỉ mải lo sửa soạn áo xống và đồ trang sức hết sức chu đáo mà không quan tâm tích lũy đủ dầu cho đèn của mình được cháy sáng, chúng ta cũng mải mê sắm sửa cho mình đủ mọi thứ vật dụng cần thiết cho đời sống phần xác mà lãng quên tích lũy những gì cần thiết cho đời sống thiêng liêng. Vì thế, khi Chúa đến, chúng ta không được đón nhận vào phòng tiệc Nước Trời, thì thật vô cùng tai hại. Khi đó dù có than thân trách phận thì cũng đã quá muộn màng.
Chàng Rể Giê-su sẽ đến vào giờ không hẹn trước. Vậy chúng ta đừng mải mê đầu tư tất cả cho thân xác mà không mảy may đầu tư cho đời sống mai sau. Cần phải có dầu đầy bình ngay hôm nay đi, kẻo rồi khỏi phải hối tiếc như những cô phù dâu khờ dại trên kia.
Tích lũy đầy dầu là gia tăng làm việc thiện, là xây dựng đời sống yêu thương huynh đệ trong thôn xóm, là phục vụ, là hiến thân giúp đỡ những anh chị em đang gặp khó khăn đau khổ quanh mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con đừng bận rộn quá đáng với cuộc sống vật chất đời nầy mà quên sửa soạn đèn dầu cho ngày mai.
Xin cho chúng con hôm nay biết siêng năng làm việc thiện, quan tâm xây dựng công ích, ra sức phục vụ xóm giềng … Chính những điều nầy làm cho đời chúng con trở nên đèn sáng. Và như thế, bất cứ lúc nào Chúa đến, chúng con cũng được mời vào dự tiệc vui muôn đời.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Dụ ngôn mười cô trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan là dụ ngôn có thể nói rất quen thuộc với Kitô hữu. Và chúng ta lại dễ dàng đón nhận bài học là phải tỉnh thức sẵn sàng một cách rất tự nhiên khi chúng ta đã nhìn nhận rằng không ai biết được “cái giờ Chúa đến” với mình, nghĩa là cái giờ mình phải giả từ trần gian. Tuy nhiên, thử hỏi thế nào là khôn ngoan thì hẳn không ít người phải chần chừ hoặc ngần ngại trả lời cách dứt khoát và rõ ràng.
Dưới cái nhìn nhân loại thì khôn ngoan là một nhân đức thuộc phạm trù lý trí. Theo viễn tượng này thì người khôn ngoan là người biết sử dụng trí khôn để phân biệt cái này với cái kia, sự vật này với sự vật khác, biết phân biệt điều đúng với điều sai, cái tốt với cái xấu, điều hơn với điều kém…Người khôn ngoan còn biết phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả, cái gì là bản chất, cái gì là hiện tượng…Sự khôn ngoan dưới góc nhìn này được thủ đắc bằng luyện tập và một vài môn học giúp rèn luyện khả năng phân biệt đó là môn toán học, môn luận lý học…
Vì là một nhân đức thuộc phạm trù lý trí, mà trí khôn con người xem ra bị điều kiện hoá bởi thời gian, tuổi tác. Qua cái ngưỡng cửa tuổi bảy mươi thì nói chung khả năng phân biệt, phán đoán của con người giảm dần. “Càng già, càng lẩn thẩn” là một hiện thực như tất yếu. Thế mà Kitô hữu chúng ta mỗi lần tham dự lễ an táng một người cao niên lại được nghe trích đọc bài trích sách Khôn ngoan: “Người đầu bạc thì khôn ngoan và tuổi già là một cuộc đời thanh sạch” (Kn 4,9) (*). Không thể hiểu sự khôn ngoan của câu trích Lời Chúa này theo nhãn quan nhân loại mà cần phải có cái nhìn khác.
Bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật XXXII TN A trình bày về Đức Khôn Ngoan như sau: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết…” (Kn 6,12 tt). Đức Khôn Ngoan ở đây như được nhân cách hoá. Nó không còn là một thuộc tính của trí khôn mà là một ai đó. Nếu ta thay cụm từ “Đức Khôn Ngoan” bằng cụm từ “Thiên Chúa” thì ý của đoạn văn sẽ rõ ràng và dễ hiểu. Như thế, dưới ánh sáng Lời mạc khải thì Đức Khôn Ngoan được đồng hoá với chính Thiên Chúa, Đấng Toàn Tri, Toàn Thiện, Toàn Ái. Đoạn trích sách Khôn ngoan còn tiếp rằng để đạt tới Đức Khôn Ngoan thì cần chú tâm tới lề luật của Đức Khôn Ngoan và yêu mến là tuân giữ lề luật (x.Kn 6, 17-18).
Như thế người khôn ngoan không chỉ là người biết phân biệt mà trên hết là người có tấm lòng biết yêu mến. Dưới cái nhìn này thì chúng ta mới hiểu được người đầu bạc là người khôn ngoan. Tuổi đời càng cao thì con tim người ta càng dễ mở rộng. Tấm lòng của các cụ ông, cụ bà dành cho cháu con thì hẳn ta đã rõ. Nhiều vị dường như chưa chịu nhắm mắt, xuôi tay, khi chưa thấy cháu con yên bề gia thất. Sốt sắng với việc Nhà Chúa thì ít ai bì với người cao tuổi. Quả thật, dù cho “đa thọ thì đa nhục”, nghĩa là tuổi đời càng chồng chất thì lỗi lầm càng thêm nhiều, nhưng chính khi biết lấy những gì bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho chúng ta, chứ không phải do bởi lau chén dĩa bên ngoài (x.Lc 11,37-41).
Trở lại với năm cô trinh nữ khôn ngoan của bài dụ ngôn Chúa Giêsu kể. Các cô được gọi là khôn ngoan vì các cô có tấm lòng với cô dâu, chú rể, với dòng tộc hai họ. Đi đón chàng rể với đèn đầy dầu là một động thái của người có tấm lòng biết lo xa, liệu trước. Các cô tính trước, lo xa không phải vì mình mà vì chính cô dâu, chú rể…Trái lại, năm cô trinh nữ khờ dại là những cô phù dâu ít có tấm lòng với chú rể, cô dâu. Vẫn có đó nhiều cô phù dâu trong các tiệc cưới ngày nay chỉ lo “xoe xua” làm nổi cho bản thân mà chẳng để ý gì đến người khác. Quả là một sự khôn lanh theo kiểu thế gian là tìm mọi dịp để lăng xê chính bản thân mình.
Các nhà chú giải Thánh Kinh cho ta hay: “dầu đèn” theo văn hóa thời bấy giờ có ý nghĩa là những việc tốt, việc lành. Người đã có tấm lòng biết yêu mến thì không bỏ qua một cơ hội dù nhỏ, để làm điều tốt, việc lành cho tha nhân. Và những việc tốt, những việc lành chính là hành trang của người tỉnh thức sẵn sàng khi Chúa đến. Dù Chúa đến bất cứ giờ nào họ luôn có đủ đầy hành trang là các việc tốt để trình diện Vua các vua, Chúa các chúa, Đấng đến thế gian không phải để được hầu hạ nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Không ai muốn làm người ngu dại. Ai cũng thích được nhìn nhận là khôn ngoan. Tuy nhiên, điều quan trọng là biết sống khôn ngoan theo cái nhìn của Chúa, dĩ nhiên là để làm đẹp lòng Chúa và vì chính hạnh phúc đời đời của chúng ta.
(*) Đoạn trích sách Khôn Ngoan 4,9 Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch là: “Đối với con người, sự khôn ngoan còn quý hơn tóc bạc, sống không tì ố đã là sống thọ”.
Sách Nghi thức an táng dịch là: “Thật vậy, sự hiểu biết của con người thay cho đầu bạc, và đời sống trong sạch thế cho tuổi già” (NTAT trang 19).
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN_A
Lm. Anthony Trung Thành
Chúng ta đang ở trong tháng 11, tháng cầu cho các Đẳng linh hồn. Trong thánh này, Giáo hội nhắc nhở chúng ta nhớ tới các linh hồn trong Luyện ngục. Đồng thời, đây là thời gian cuối năm phụng vụ. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy các bài Lời Chúa trong các ngày cuối năm phụng vụ này thường nói về sự chết, sự phán xét, về số phận đời sau, về sự tận cùng của vũ trụ. Cụ thể, đoạn Tin mừng Chúa Nhật hôm nay, nói về sự Chúa đến bất ngờ qua hình ảnh chàng rể trong dụ ngôn Mười trinh nữ. Chính vì Chúa đến bất ngờ nên đòi buộc mọi người phải tỉnh thức và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan. Thiết nghĩ, trong bối cảnh này và qua dụ ngôn Mười trinh nữ hôm nay mời gọi mọi người chúng ta suy niệm ba điểm sau đây:
1. Mọi người đều phải chết
Tần Thuỷ Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thuỷ Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển đông, dân chúng ở đó đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Tần Thuỷ Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ. Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thuỷ tinh làm sông ngân hà, lấy vàng ngọc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống sợ chết ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
Thật vậy, “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: người ta xưa nay ai mà không chết? Sau khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã phán với Adong rằng: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (x. St 3,19). Sau này, Thánh Phaolô cũng cho biết: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” (Rm 5,12). Vì vậy, ai cũng chết: Có những người chết khi còn trong bụng mẹ; Có những người chết khi tuổi còn niên thiếu; Có những người chết khi tuổi con thanh niên; Có những người chết khi tuổi còn trung niên; Có những người chết già trăm tuổi hay hơn nữa như Kinh Thánh cho biết: ông Adong sống thọ 930 tuổi, ông Noe 950 tuổi, ông Mathusalem 969 tuổi. Nhưng, cho dù sống thọ đến trăm tuổi hay hơn nữa thì cũng phải chết. Đó là qui luật chung của hết thảy mọi người.
2. Không biết chết lúc nào
Mặc dầu biết chắc chắn rằng đã là con người thì ai cũng phải chết nhưng không ai biết mình chết lúc nào. Đây là một bí mật chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Theo qui luật thông thường thì con người được sinh ra, lớn lên, già yếu và chết: ông bà chết trước cha mẹ; cha mẹ chết trước con cái; con cái chết trước cháu chắt…Nhưng trong thực tế, qui luật đó không đúng với hết mọi người. Bởi vì có những bậc ông bà, cha mẹ phải khóc lóc tiễn đưa con cái, cháu chắt, như ca dao Việt nam có câu:
“Lá vàng còn ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời.”
Cũng có những người con khi công thành danh toại muốn đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ, vậy mà cha mẹ chẳng còn (cha mẹ chết sớm hơn qui luật thông thường).
Cái chết không theo qui luật thông thường chính là do bệnh tật, thiên tai, chiến tranh, khủng bố… Ở Việt Nam, mỗi năm có 94 000 người chết vì bệnh ung thư; ít nhất 15 000 người chết do tai nạn giao thông; khoảng 300 người chết và mất tích do thiên tai. Ngoài ra, còn có những người chết do chiến tranh, khủng bố…Chẳng hạn, ở Mỹ, vụ khủng bố 1/9/2001 làm 2996 người chết; vụ xả súng ở Las Vêgas ngày 01/10/2017 vừa qua làm chết 50 người; Vụ xả súng tại một nhà thờ Baptist nhỏ ở Texas hôm 5/11/2017, có ít nhất 26 người chết.
Trên đây chỉ là một số thí dụ về những cái chết không theo qui luật thông thường. Nhưng dầu có theo qui luật thông thường đi nữa, thì con người cũng không thể biết mình chết lúc nào. Cho nên, cuối đoạn Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đã cảnh giác chúng ta rằng: “Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13). Nơi khác, Ngài nói: “Chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Ngài còn dùng dụ ngôn “chủ nhà” để nhắc nhở mọi người tỉnh thức, đề phòng cái chết như đề phòng kẻ trộm (Mt 24,42). Thánh Phêrô và Thánh Phaolô cũng nhắc lại lời của Đức Giêsu rằng: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10). Vì không biết chết lúc nào và vì cái chết đến bất ngờ nên đòi hỏi mọi người phải tỉnh thức và sẵn sàng.
3. Tỉnh thức và sẵn sàng như thế nào?
Chúng ta cần tỉnh thức và sẵn sàng theo hai khía cạnh sau đây:
Theo khía cạnh tiêu cực: chúng ta phải cố gắng chu toàn các bổn phận bằng cách tuân giữ luật Chúa, luật Hội thánh và các nhiệm vụ được giao phó, không phạm tội, kể cả những tội nhẹ cố tình. Nếu lỡ sa ngã phạm tội cần phải sám hối ăn năn và lãnh nhận Bí tích Giao hòa.
Theo khía cạnh tích cực: không chỉ giữ mình sạch tội mà còn phải ra sức làm nhiều việc lành phúc đức như tham dự thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích, đọc kinh lần hạt, làm việc bác ái, hy sinh hãm mình…tương tự như năm cô khôn ngoan luôn chuẩn bị đèn và dầu.
Một đề nghị khác của Thánh An-phong cho việc tỉnh thức và sẵn sàng, đó là: Thứ nhất, hãy làm ngay bây giờ những điều tôi phải làm trước khi chết; Thứ hai, hãy làm ngay bây giờ những điều mà trên giường chết tôi ước ao “phải chi mình đã làm”; Thứ ba, hãy làm ngay bây giờ những điều mà trên giường chết tôi không làm được.
Câu chuyện của Thánh Saviô sau đây cũng là bài học cho mỗi người chúng ta về sự tỉnh thức và sẵn sàng:
Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với chúng bạn ngoài sân. Cha Boscô bèn gọi thánh nhân ra hỏi: “Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?”
Saviô trả lời rằng: “Con vẫn tiếp tục chơi!”
Cha Boscô hỏi tiếp: “Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?”
Saviô trả lời rằng: “Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!”
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết sống tinh thần của năm cô trinh nữ khôn ngoan để dù Chúa đến bất cứ lúc nào chúng con cũng sẵn sàng ra nghinh đón Chúa. Amen.
.
Lm.Giuse Nguyễn
1. Nhà thơ Chính Hữu có một tác phẩm để đời về tình “đồng chí”: “Quê hương anh nước mặn đồng chua, làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. Tôi với anh đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Súng bên súng đầu sát bên đầu, đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ. Đồng chí, ruộng nương anh gửi bạn thân cày, gian nhà tranh mặc kệ gió lung lay”. Tình đồng chí này nảy sinh vì lý tưởng họ đã chọn. Nếu không có lý tưởng vì quê hương đất nước thì chắc chắn không có tình đồng chí đi vào thơ ca bất tận này.
“Tình Đồng Chí” đó làm cho tôi nhớ đến nhóm bạn thân của Đức Giêsu: 12 Tông Đồ. Họ đã vì lý tưởng cao đẹp mà từ bỏ tất cả để theo Chúa. Họ đã vì chân lý mà sẵn sàng chịu chết…. Còn nhiều, nhiều lắm hình ảnh những con người vì lý tưởng mà bất chấp tất cả. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy những cô trinh nữ vì lý tưởng của mình mà đã phải thức khuya, dậy sớm, vất vả chong đèn, tìm dầu thắp sáng… để cuối cùng họ đạt được lý tưởng là vào dự tiệc cưới với Hoàng Tử. Ngược lại, có những cô cũng có lý tưởng nhưng không phấn đấu, không hy sinh, không nỗ lực nên cuối cùng phải ngậm ngùi nhìn lý tưởng vụt bay.
2. Đoạn sách khôn ngoan (Kn 6, 12-16) trong bài đọc I nói lên một điều: nếu những ai thấy được giá trị của sự khôn ngoan và ra công tìm kiếm thì sẽ được Chúa cho gặp. Cũng nên nói thêm, sự khôn ngoan là một ân ban của Thiên Chúa, để những ai có được khôn ngoan sẽ biết mình phải sống như thế nào, mình phải tìm kiếm điều gì, mình phải học hỏi điều chi?
Thánh vịnh 62 là tâm trạng của một người đang sống kiếp lưu đày, họ khao khát tìm kiếm Chúa: “Lạy Chúa Thiên Chúa con thờ, linh hồn con luôn khát khao Ngài”. Đó là thái độ khôn ngoan, trong mọi cảnh huống của cuộc đời luôn biết tìm kiếm Chúa.
Khi mới tin Chúa, Giáo lý của những giáo dân thành Thêxalônica còn rất đơn sơ. Họ được biết có ngày tận thế, ngày đó họ sẽ được gặp Chúa, nhưng với họ ngày tận thế chỉ dành cho những người còn đang sống, còn những người đã chết thì sẽ không được gặp Chúa. Vì vậy họ nôn nóng và muốn ngày tận thế đến cho sớm hầu họ có thể gặp Chúa. Biết như vậy nên thánh Phaolô an ủi và củng cố giáo lý cho họ. Ông nói ngày tận thế Chúa đến cho tất cả mọi người. Lúc đó người chết cũng sẽ được sống lại để được gặp Chúa.
Bài Tin Mừng là dụ ngôn về 10 cô trinh nữ đi đón chàng rể. Với phong tục Á Đông nói chung và người Do Thái nói riêng, con trai có giá hơn con gái. Vì vậy mà sau khi đã ấn định thời gian tổ chức lễ cưới, bên đàng gái phải ngồi chờ đàng trai đến rước dâu bất cứ lúc nào. Không có chuyện hỏi tại sao đến trễ vậy? Ví dụ có hỏi thì đàng trai cũng trả lời: “Mình thích thì mình làm thôi! Điểm đặc biệt của người Do Thái nữa là họ không được phép ra đường ban đêm mà không có đèn cháy sáng trong tay. Vì vậy nếu chàng rể đến ban ngày còn đỡ, lỡ đến ban đêm thì phải chờ, và chờ với ngọn đèn cháy sáng. Từ đó mới có dụ ngôn 10 cô trinh nữ: Những cô khôn ngoan biết chuẩn bị dầu đèn sẵn sàng để ra đón chàng rể. Những cô khờ dại nghe lấy chồng thì mừng rỡ mà không lo chuẩn bị điều kiện tối thiểu để có thể trở thành cô dâu là có đèn cháy sáng trong tay để ra đón chàng rể vào dự tiệc cưới.
Tất cả các bài đọc trong ngày hôm nay làm nổi bật lên một chủ để: mỗi người đều có lý tưởng của mình. Bài đọc 1 là tìm kiếm sự khôn ngoan, bài đáp ca là khao khát Chúa, bài đọc 2 là đợi ngày tận thế, và bài Tin Mừng là chờ đón chú rể. Tìm kiếm sự khôn ngoan, khao khát Chúa, đợi ngày tận thế, đón chàng rể đều thể hiện lý tưởng cao cả của người Kitô hữu là tìm về với Đấng Tuyệt Đối là chính Chúa. Tuy nhiên mỗi người có một cách thể hiện lý tưởng của mình khác nhau. Còn lý tưởng của tôi là gì?
3. Lý tưởng không đơn giản là một ước muốn, một mục đích bình thường, nhưng là chủ nghĩa đặt mục đích rất cao, rồi từ đó mà làm hết sức để đạt được ý nghĩa đời mình. Ví dụ hạnh phúc thiên đàng là lý tưởng của Kitô hữu. Sống trên đời có những người không lý tưởng. Họ sống cho qua ngày đoạn tháng, không giá trị, không ý nghĩa gì hết. Ví dụ như Chí Phèo. Phần đông ai cũng có lý tưởng. Có lý tưởng đúng đắn nhưng cũng có lý tưởng sai lầm; Có lý tưởng chỉ là ảo mộng nhưng cũng có lý tưởng rất thực tế; có lý tưởng hữu ích cho đời nhưng cũng có lý tưởng làm cho đời thêm đau khổ… Hitler và Saclô là 2 con người có lý tưởng và sống hết mình vì lý tưởng, nhưng lý tưởng của Hitler chỉ đem đến đau khổ cho đời, vì lý tưởng của ông là tiêu diệt người khác mà cụ thể là chiến dịch bài Do Thái. Với chiến dịch này ông đã tiêu diệt khoảng 5 triệu người Do Thái và làm cho lịch sử đã mãi mãi ghi tên ông như một dấu chỉ của sự tàn ác. Ngược lại, Saclô ra đời trước Hitle 6 ngày (14/04/1889), nhưng lý tưởng của Saclô là làm cho đời bớt đau khổ bởi chiến tranh và giết chóc, vì vậy ông dùng chính tài diễn xuất của mình để đem đến nụ cười cho con người. Ông được bình chọn là diễn viên hài xuất sắc của mọi thời đại. Cuối cùng hai con người này cũng chết, nhưng cái chết của Hitler làm cho cả thế giới vui mừng, ngược lại cái chết của Saclô làm cho cả thế giới phải tiếc thương.
Là Kitô hữu, lý tưởng của chúng ta là Đức Kitô. Lý tưởng này đúng đắn vì Đức Kitô chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Lý tưởng này không làm cho cuộc đời đau khổ, nhưng ngược lại cho đời bớt khổ đau, và đạt tới hạnh phúc viên mãn là Nước Trời. Để đạt được lý tưởng này đòi hỏi người Kitô hữu phải nỗ lực hết sức mình để thi hành theo những gì Chúa dạy.
4. Sau khi đã có lý tưởng cho cuộc đời mình, và lý tưởng này không phải là những gì mau qua, chóng tàn, hay chỉ ở thực tại trần gian. Lý tưởng của danh hài Saclô mặc dù cao quý, nhưng đến khi ông chết chỉ để lại tiếc thương và sự khâm phục cho nhân loại. Lý tưởng của những nhà hảo tâm là muốn giúp đỡ cho người khác, điều đó có thể tiếp diễn sau khi họ qua đời, nhưng đến ngày tận thế thì lý tưởng đó đâu còn nữa. Tóm lại mọi lý tưởng thuộc trần gian này dù cao đẹp đến đâu cũng không thể tồn tại mãi mãi. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là Nguyên Thủy và Cùng Đích thì mới tồn tại mãi mãi. Vì vậy chọn lý tưởng nơi Chúa thì mới vững bền mà thôi. Biết được như thế chúng ta phải nỗ lực hết mình để đạt cho bằng được lý tưởng đó. Những cô trinh nữ khôn ngoan muốn vào dự tiệc cưới đã phải chuẩn bị dầu đèn cẩn thận và tỉnh thức để chờ chàng rể đến.
5. Việc chuẩn bị “dầu đèn” ở đây không gì khác hơn là sống tốt bổn phận hằng ngày, cụ thể trong gia đình, trong sứ mạng mà mỗi người được trao phó. Và hơn thế nữa, phải biết sống trao ban, phục vụ để quan tâm đến những người nghèo khổ, bất hạnh, kém may mắn trong xã hội, nhất là những người gần gũi với chúng ta.
Tháng cầu nguyện cho Các Linh Hồn giúp chúng ta nghĩ đến cái chết của mình, nhất là trong xã hội hôm nay ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh. Nếu không tỉnh thức chúng ta sẽ lơ là với bổn phận của Kitô hữu. Nếu không tỉnh thức chúng ta sẽ làm những điều sai trái không hợp với tư cách là con cái Chúa. Nếu không tỉnh thức chúng ta sẽ không lo quay trở lại mỗi khi chúng ta yếu đuối lỡ lầm.
Tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy xác quyết lại lý tưởng của cuộc đời mình, từ đó chúng ta làm hết sức mình để đạt được lý tưởng đó. Trên con đường tìm kiếm lý tưởng chúng ta không đi một mình, nhưng có Chúa hướng dẫn, Giáo Hội đồng hành và anh chị em cùng đi với chúng ta. Chúng ta hãy hiệp thông với Chúa, với Giáo Hội và với anh chị em để dễ dàng có thêm dầu cho ngọn đèn đức tin của chúng ta.
.
SỐNG THEO SỰ KHÔN NGOAN CỦA THIÊN CHÚA
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Sống trên đời, không ai muốn mình bị coi là kẻ khờ dại, ngây ngô; trái lại, ai cũng muốn mình là người khôn ngoan trong cách sống, cách cư xử. Khôn ngoan có nhiều mức độ, có nhiều người tưởng rằng khôn trong cách sống, cách cư xử, nhưng sau khi hậu quả xảy ra mới thấy là mình dại. Ví dụ: Một số quan chức tưởng mình khôn ngoan, thông thái khi tuyên bố những vấn đề liên quan đến xã hội, nhưng sau đó bị cộng đồng phản ứng mới thấy mình quá dại. Có những quan chức sống khoe khoang, phô trương sự giàu sang của mình khiến nhiều người dòm ngó, tố cáo, khi bị tù đày, mất tài sản mới thấy mình dại. Có người còn trẻ phung phí thời giờ, sức khỏe, sau này ốm đau triền miên, mới thấy mình dại. Tuy nhiên, cái được gọi là khôn theo quan niệm của nhiều người, đó chỉ là một thứ khôn vặt, khôn lỏi, khôn theo kiểu gian dối của thế gian chứ không phải khôn và ngoan.
Hôm nay, Lời Chúa chỉ cho chúng ta biết phải sống thế nào để được gọi là khôn ngoan đích thực theo quan điểm của Tin Mừng. Người khôn ngoan đích thực không phải là người tìm cách làm giàu, tích trữ của cải, cũng không hẳn là người lanh lợi tháo vát trong cuộc sống, nhưng là người biết tiên liệu, nhìn xa thấy trước tương lai đời đời của mình và biết chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu hơn là cuộc sống tại thế. Sự khôn ngoan này là ơn Chúa ban và còn là chính Thiên Chúa ở cùng con người để soi sáng và hướng dẫn hành vi đời sống của họ. Ai sống theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa sẽ là người khôn ngoan, ai nghe theo sự tư vấn của ma quỷ và thế gian sẽ là người khờ dại.
Bài đọc sách Khôn Ngoan đã chỉ cho biết Khôn Ngoan là thế nào. Chữ Khôn Ngoan trong sách được viết chữ Hoa, qua đó tác giả cho thấy Khôn Ngoan không chỉ là cách ứng xử, nhưng chính là Đấng Khôn Ngoan, là Thiên Chúa: Đức Khôn Ngoan sáng chói, Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan, là đạt được sự minh mẫn hoàn hảo. Như thế, sống theo Đức Khôn Ngoan là sống theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn để cho thấy như thế nào là người khôn và như thế nào là người khờ dại trước mặt Thiên Chúa: Nước Trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo, còn các cô khôn ngoan đã đem đèn lại còn mang thêm bình dầu. Các cô được coi là khôn hay dại khác nhau căn bản ở việc chuẩn bị đủ dầu cho chiếc đèn của mình.
Sự kiện được chọn làm phụ dâu để tháp tùng đoàn rước đi đón chàng rể là hết sức vinh dự và quan trọng đối với các cô gái này. Nếu như chàng rể là nhân vật chính của tiệc cưới, ngày cưới là ngày vui mừng họp mặt của cả dân làng, thì các cô gái này là những người vinh dự nhất. Các cô sẽ luôn ở bên cô dâu và chàng rể, các cô cũng sẽ là những người nổi bật trong đám cưới cùng với cô dâu chú rể. Tuy nhiên, cơ hội đời người có được một lần, nhưng các cô khờ dại đã để vuột mất. Các cô không cảm thấy vinh dự được làm phụ dâu, cũng không thấy tầm quan trong của mình trong đám rước. Vì thế, các cô lơ là không chuẩn bị cho chiếc đèn của mình. Đi rước ban đêm mà không có đèn hoặc cầm đèn mà không có dầu, là điều không thể chấp nhận được.
Vì chàng rể đến chậm, nên mười cô đều thiếp đi và ngủ cả. Như vậy, việc các cô thức lâu mệt mỏi, có thiếp đi một chút cũng là điều bình thường không có gì đáng trách. Nhưng điều đáng trách đó là sự thiếu chuẩn bị nơi các cô khờ dại: vào giờ phút quan trọng nhất, thì đèn của các cô hết dầu. Lúc này, các cô không thể xin dầu của ai được. Đang khi các cô phải ra hàng để mua, thì chàng rể đã đến, các cô đã bỏ lỡ cơ hội. Những cô khôn ngoan đã sẵn sàng đủ dầu, đèn được thắp sáng, được vào đoàn rước chàng rể, tham dự tiệc cưới. Các cô khờ dại đến trễ đã bị chàng rể từ chối: Tôi không biết các cô là ai.
Qua câu chuyện, Chúa Giêsu nhắc mỗi người: Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào. Như thế, người tỉnh thức là những người khôn ngoan biết chuẩn bị dầu đèn cho cuộc đời của mình và không để lỡ cơ hội trong cuộc đón rước chàng rể. Chàng rể Giêsu sẽ trở lại để đón chúng ta vào tham dự tiệc cưới Nước Trời. Mỗi người được mời gọi chuẩn bị sẵn sàng chiếc đèn đức tin của mình, bảo vệ, gìn giữ và làm cho ngọn đèn đức tin của ta luôn đủ dầu thắp sáng. Ngọn đèn đức tin không thể thắp sáng bằng tiền bạc, của cải vật chất, cũng không được thắp sáng bằng địa vị danh vọng, nhưng chỉ được thắp bằng một thứ dầu duy nhất, đó là lòng yêu mến: yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Chàng rể Giêsu sẽ đến chậm, Ngài đến vào lúc ta không ngờ, vào giờ ta không biết; vì thế, chúng ta phải luôn trong tư thế sẵn sàng không ngừng châm dầu cho đầy chiếc đèn cuộc đời mình. Không chỉ châm đầy dầu, mà còn phải có thêm nhiều dầu dự trữ, đủ thắp sáng trong thời gian chờ đợi chàng rể Giêsu. Chuẩn bị như thế mới được coi là người khôn ngoan.
Như đã nói trên, có thể chúng ta khôn trong làm ăn buôn bán, khôn trong cư xử giao tế, khôn trong việc luồn lách để kiếm lợi và khôn khéo để biết chờ thời, đạt được quyền lực và danh vọng; nhưng nếu chúng ta thiếu khôn ngoan, thiếu chuẩn bị cho chiếc đèn cuộc đời của mình, thì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là kẻ ngu ngơ khờ dại. Là Kitô hữu, chúng ta không chỉ khôn mà còn phải ngoan, không chỉ khéo trong cuộc sống, mà còn phải khôn khéo trong việc sắp xếp cuộc đời mình, gia đình mình cho sao cho có lợi về đời sống đạo đức và hạnh phúc Nước Trời.
Khôn ngoan là ơn của Chúa Thánh Thần giúp ta phân biệt, cân nhắc đâu là việc tốt việc xấu, việc cần thiết cho hạnh phúc của gia đình và nhất là việc ưu tiên cho hạnh phúc đời đời của các thành viên trong gia đình. Chúng ta cần phải loại khỏi mình những thứ khôn vặt khôn lỏi, đó là kiểu khôn của thế gian và ma quỷ, không đem đến hạnh phúc cho mình và gia đình.
Các bậc làm cha mẹ cần xin Chúa ban sự khôn ngoan, để hướng dẫn gia đình không chỉ khôn khéo trong làm ăn mà còn phải tỉnh thức sẵn sàng, thắp sáng chiếc đèn cuộc đời mỗi người, để cả gia đình cùng được có mặt trong cuộc rước chàng rể Giêsu ngày Ngài trở lại. Đừng chỉ lo tích trữ tiền bạc của cải, lương thục, nhưng hãy tích trữ thật nhiều dầu của tình yêu thương và lòng mến. Dầu này không thể mua bằng tiền, nhưng chỉ có thể đổi bằng các việc làm cụ thể. Thánh lễ và Thánh Thể là nơi chúng ta có thể kín múc được dầu yêu mến cho ngọn đèn đức tin của mình. Hãy đến thường xuyên mỗi ngày, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu Thánh Thể đổ tràn dầu yêu mến vào tâm hồn ta, thắp sáng đức tin của ta và còn ban tặng cho ta bình dầu quan phòng của Ngài.
Xin Chúa cho chúng ta ơn Khôn ngoan để chúng ta biết chuẩn bị dầu và đèn cuộc đời, để sẵn sàng ra trình diện với Chàng rể Giêsu trong ngày Ngài đến với mỗi người, ngày ta nhắm mắt xuôi tay. Vì ngày đó, chắc chắn ta không thể mang theo của cải vật chất hay bất cứ thứ gì ra khỏi trần gian, chúng ta chỉ có thể đem theo lòng yêu mến và các việc lành, việc tốt chúng ta đã thực hiện mà thôi. Amen
.
AI KHÔN THỜI DẠI, AI DẠI THỜI KHÔN
Fx Đỗ Công Minh
Qua bài Tin mừng hôm nay (Mt 25;1-13) con được biết thêm một phong tục của người Do Thái thời Chúa Giêsu. Đám cưới rước dâu vào ban đêm, không ấn định trước giờ nào, lúc nào chú rể đến đón dâu. Chính vì đám cưới cử hành vào ban đêm nên có nghi thức các cô dâu phụ phải cầm đèn đi đón như các em rước đèn trung thu tại Việt Nam. Nhưng đèn của người Do Thái là những chiếc đèn nhỏ, chứa ít dầu chỉ đủ cho một đoạn đường. Chính vì vậy Đức Giêsu mượn khung cảnh ấy để đưa ra dụ ngôn 10 cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể, trong đó có 5 cô khờ dại, 5 cô khôn ngoan. Đọc đoạn tin mừng này con lại nhớ đến một trò chơi dân gian thuở ấu thơ trong xóm đạo, có những câu đồng dao, chắc là do các nhà truyền giáo sọan ra có nhắc đến đoạn Lời Chúa hôm nay :
Thiên đàng hỏa ngục hai bên,
Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn.
Thiên đàng nhớ Chúa, nhớ Cha,
Đọc kinh cầu nguyện nhớ cho Linh hồn
Linh hồn phải nhớ Linh hồn .
Đến khi mà chết được lên thiên đàng .
Các cô khờ dại ( Một cách nói) mà Tin mừng nói đến hôm nay hẳn không phải là những người khờ khạo hay mắc bệnh về tâm thần, bởi để được là những cô dâu phụ đi đón chàng rể các cô cũng ít nhiều được tuyển chọn trong số bao cô gái trẻ đẹp, duyên dáng thường thấy trong các đám cưới xưa nay. Và có khi các cô này lại còn sành điệu hơn cả 5 cô được tiếng là khôn ngoan nhưng lại “nhà quê” chân chất, thật thà, đơn sơ đến độ phải lo xa, dự phòng lỡ đèn hết dầu giữa chừng cuộc rước, hay gặp sự cố. Mà quả vậy, chú rể đến chậm nên các cô “ăn chắc mặc bền” lại trở thành những người được khen ngợi. Khôn thành dại, dại thành khôn là ở chỗ đó. Cái khôn ngoan của con người lại trở thành khờ dại trước mặt Chúa và ngược lại .
Con đang tự hỏi mình là ai trong số các cô trinh nữ nói trên. Con vẫn tự nhận là mình tin vào Chúa, đã được sống trong bầu khí nhà đạo từ lúc lọt lòng, được học hỏi giáo lý, đón nhận các phép Bí Tích, hẳn con cũng biết khi đón chàng rể đến phải làm gì: chuẩn bị đèn dầu, ăn mặc tươm tất . . .Thế nhưng đèn thì có đó nhưng dầu thì không cần dự trữ. Con vẫn nghĩ mình sẽ đủ khả năng đối phó nếu có điều gì bất ngờ xảy đến. Con tỏ ra là người “sành điệu “ đến độ khi biết được giờ chàng rể sắp đến, lúc đó con chạy ra cửa hàng mua dầu, dễ ợt, ăn thua là mình nhanh. Thế nhưng sự khôn vặt của con lại là sự khờ khạo . Chính vì vậy nếu con cứ tiếp tục khôn ranh, cửa phòng tiệc sẽ không mở chờ đợi con vào vì “anh em không biết ngày nào, giờ nào “ (Mt 25,13 ).
Xin Chúa giúp con , Chúa ơi !
Trong tháng các Đẳng này, xin cho con nhận ra thân phận của mình để luôn sẵn sàng với đèn và dầu cháy sáng trong cuộc đời, không để nửa chừng hết dầu, vì như thế, dù có đèn con cũng chẳng nhận được ánh sáng để ra nghênh đón Chúa đến. Xin cho con luôn nhớ đến những người đã đi trước và cầu nguyện cho họ để họ sớm được hưởng vinh phúc Thiên Đàng Chúa đã hứa ban. AMEN .
.
KHÔN NGOAN TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 25,1-13
(1) Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể. (2) Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. (3) Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. (4) Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. (5) Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả.(6) Nửa đêm có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi !” (7) Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. (8) Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi !” (9) Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn. (10) Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. (11) Sau cùng, mấy trinh nữa kia cũng đến gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài ! Mở cửa cho chúng tôi với !”. (12) Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô !”. (13) Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”.
- Ý CHÍNH:
Đức Giê-su sẽ đến lần thứ hai vào ngày tận thế để phán xét và mở Tiệc cưới Nước Trời. Chỉ những người khôn biết luôn tỉnh thức và trong tư thế sẵn sàng mới được vào dự. Còn những người dại không thực hành tình mến Chúa yêu người, sẽ bị lọai ra bên ngòai. Đức Ki-tô sẽ đến bất ngờ vào giờ chết của mỗi người hay trong ngày tận thế chung cả nhân lọai. Do đó, mọi tín hữu cần luôn tỉnh thức và chuẩn bị sẵn dầu đèn là ơn thánh để bất cứ khi nào Chúa đến, họ cũng được vào tham dự bữa tiệc vui với Người
- CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Mười cô trinh nữ: Trinh nữ là các thiếu nữ chưa chồng. + Cầm đèn của mình ra đón chú rể: Dụ ngôn dựa theo phong tục cưới xin của dân Do thái thời Đức Giê-su. Việc cưới xin thường diễn ra vào ban đêm. Mấy hôm trước ngày cưới, hai bên đàng trai đàng gái đặt tiệc riêng đãi bà con bạn bè của mình. Rồi đến chính ngày cưới, hai họ nhập lại chung để ăn uống tại bên họ nhà trai. Nghi thức quan trọng nhất trong đêm rước dâu như sau: Chập tối, chàng rể cùng các phù rể cầm đuốc lên đường đến nhà đàng gái. Khi đó cô dâu và các cô phù dâu có bổn phận sửa soạn đèn chờ họ đàng trai. Khi chàng rể đến đón dâu, đám rước sẽ khởi hành đi về nhà trai và nhập bàn tiệc. Các cô phù dâu phải mang theo bình dầu và cầm đèn cháy sáng đứng chung quanh cô dâu chú rể trong nghi thức khai mạc tiệc cưới.
– C 3-4: + Năm cô dại: Dại vì không biết tiên liệu nên đã không đem bình dầu theo, hoặc có đem mà không đủ dùng, nên khi chàng rể đến thì đèn đã bị tắt. Là người có nhiệm vụ phải đi đón chú rể, nhưng các cô lại không quan tâm chu toàn bổn phận của mình. Các cô dại này ám chỉ những kẻ không có đức tin hay các tín hữu lười biếng dự lễ cầu nguyện và không sống theo Lời Chúa, nên sẽ không đủ điều kiện được vào thiên đàng đời sau. + Năm cô khôn: Khôn vì biết tiên liệu nhìn xa, nên mang theo đủ dầu đi đón chàng rể giữa lúc đêm khuya. Đây là những tín hữu biết xây nhà đức tin trên nền đá vững chắc nhờ lắng nghe và thực hành Lời Chúa (x. Mt 7,24). Họ có nếp sống đạo đức và được dồi dào ân sủng của Chúa, luôn sống đức tin bằng thực thi đức cây và đức mến. Họ sẽ xứng đáng được Chúa đón nhận vào thiên đàng trong giờ chết của mỗi người và ngày tận thế chung của nhân lọai.
– C 5-6: + Vì chàng rể đến chậm: Chàng rể là Đức Ki-tô sẽ đến bất ngờ vào giờ chết mỗi cá nhân hay ngày tận thế chung để phán xét. + Nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả: Thiếp đi và ngủ diễn tả sự “thức lâu chầu mỏi !”. Tuy vậy các cô khôn vẫn có thể ra đón Chúa đến bất ngờ vì luôn chuẩn bị dầu đèn đầy bình. Cũng vậy, người công chính sẽ trong tư thế sẵn sàng nhờ năng lãnh các phép bí tích và thực hành giới răn mến Chúa yêu người. + Nửa đêm: Là thời gian nối tiếp giữa ngày hôm trước với ngày hôm sau, ám chỉ giờ chết là sự chuyển tiếp từ cuộc sống trần gian sang cuộc sống đời sau. Ngòai ra nửa đêm còn là lúc người ta dễ ngủ say và mất cảnh giác nhất. + Kìa chú rể, hãy ra đón đi: Chú rể ám chỉ Chúa Ki-tô sẽ đến trong giờ chết của mỗi chúng ta hay đến với chung với nhân loại trong ngày tận thế.
– C 7-9: + Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị: Tới giờ chết các cô dại mới ý thức về sự dại khờ của mình thì đã quá muộn. + Các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn: Vì khi đó chẳng thể cậy nhờ ai khác giúp đỡ cho mình được nữa.
– C 10-11: + Chính khi họ đi mua dầu là lúc chú rể đến: Đừng đợi tới giờ chết mới hồi tâm sám hối thì không còn kịp. Ta cần luôn sống theo ý Chúa ngay khi còn sống. + Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới: Những người luôn sống kết hiệp với Chúa thì sẽ ở trong tư thế sẵn sàng ra đón Đức Ki-tô bất cứ khi nào. + Và cửa đóng lại: Giờ chết là lúc chấm dứt số phận mỗi người. Những ai được vào dự tiệc cưới sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời. Còn những kẻ bên ngoài sẽ không được vào dự tiệc Nước Trời. + Thưa Ngài xin mở cửa cho chúng tôi: Lời cầu xin này nhắc lại lời Đức Giê-su: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa ! Là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Cũng như trong dụ ngôn “Tiệc cưới”, Những ai cố tình chống lại Thiên Chúa, hoặc không tin và không sống giới răn bác ái yêu thương sẽ bị loại khỏi thiên đàng đời sau (x. Mt 22,13).
– C 12: + Tôi không biết các cô: Giờ chết là giờ phán xét công thẳng và những ai cố tình không tin vào Chúa Giê-su sẽ không được hưởng ơn cứu độ của Người. + Vậy anh em hãy canh thức: Đây là chủ đích của Đức Giê-su khi dạy dụ ngôn này. + Vì anh em không biết ngày nào, giờ nào: Không biết giờ Chúa sẽ kêu gọi là giờ chết sẽ đến vào lúc nào. Chính thái độ tỉnh thức sẵn sàng sẽ giúp người ta sống trong ơn nghĩa Chúa và làm các việc lành ngay khi đang còn sống.
- CÂU HỎI:
1) Mười cô trinh nữ được phân biệt ra hai lọai khôn và dại là do yếu tố nào ?
2) Chi tiết các cô trinh nữ không được vào dự tiệc cưới Nước Trời nhằm dạy chúng ta bài học gì về đức tin ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13).
- CÂU CHUYỆN:
1) KẾ SÁCH KHÔN LANH CỦA MA QUỶ :
Một ngày kia quỉ vương tập họp lũ quỷ lại để cùng nhau bàn kế sách cám dỗ loài người phạm tội. Quỷ vương đặt vấn đề như sau: “Chúng ta cần làm gì để cám dỗ loài người phạm tội và cũng bị phạt hỏa ngục đời đời với chúng ta?”
Một con quỷ già phát biểu: “Chúng ta hãy xí gạt loài người là: không có Thiên Chúa, cũng chẳng có thiên đàng hay hỏa ngục ở đời sau gì cả. Chết đi là hết!”
Quỉ vương nói : “Ta e rằng kế sách đó của ngươi không ổn. Vì loài người có trí khôn, chúng biết suy luận nên dễ dàng biết có Thiên Chúa, và 4 sự sau là: sự chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục”. Sau đó, một con quỉ nhỏ liền hiến kế: “Chúng ta hãy nói với chúng: có Thiên Chúa, có thiên đàng thưởng kẻ lành và hỏa ngục phạt kẻ dữ. Nhưng còn lâu mình mới chết. Hãy cứ ăn chơi hưởng thụ thỏa thích đi. Đợi đến khi bệnh nặng gần chết, sẽ hồi tâm sám hối cũng không muộn”.
Nghe xong, quỷ vương liền đứng dậy vỗ tay khen ngợi: “Đúng, thằng này nói đúng. Nếu dùng kế sách này thì chắc nước hỏa ngục của chúng ta sẽ có thêm rất nhiều thành viên mới. Vì loài người đâu biết rằng: cái chết sẽ đến “Vào lúc chúng không ngờ, vào giờ chúng không biết”.
2) CÁI CHẾT THƯỜNG ĐẾN BẤT NGỜ:
Cách đây hơn 1900 năm, núi lửa Vésuve đã phun trào ở Italia. Khi núi lửa ngưng phun, thành phố Pompéi đã bị chôn vùi dưới lớp phún thạch dầy tới gần 6 mét. Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi cho đến gần đây, khi các nhà khảo cổ đến khai quật lên.
Các nhà khảo cổ đều ngạc nhiên về những điều họ mới khám phá ra: Phún thạch đã làm đông cứng mọi người trong thành phố trong tư thế họ đang có khi cơn đại họa đổ ập xuống. Thân thể của người chết bị lớp phún thạch bao bọc và da thịt bị thối rữa chỉ còn lại những bộ xương giữa lớp tro cứng. Người ta chỉ cần đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ hổng là có thể khôi phục lại tư thế các nạn nhân khi chết : Một thiếu phụ đang ôm chặt đứa con nhỏ trong vòng tay; Một anh lính gác người Rôma chết trong tư thế đứng thẳng tại một trạm gác, trên người còn đeo một thanh kiếm. Anh lính chứng tỏ vẫn đang chu toàn nhiệm vụ cho tới khi chết… Nhưng bên cạnh đó cũng có những người chết khi đang ngồi ở bàn nhậu, có người chết khi đang đánh lộn nhau, đang nhảy nhót vui chơi trong các hộp đêm…
3) CẦN CHUẨN BỊ CHO CÁI CHẾT NGAY TỪ HÔM NAY:
Có một ông nhà giàu nọ đầy quyền thế danh vọng đã bị bệnh đột quỵ và qua đời. Mọi gia nhân đều tỏ ra ngạc nhiên về cái chết bất ngờ của ông chủ và xì xầm bàn tán với nhau. Người quản gia nói với các gia nhân khác rằng : “Theo các chú nghĩ thì bây giờ ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?”
Họ đáp: “Thì ông ấy sẽ về Nước Trời chứ còn đi đâu nữa”.
Người quản gia nói: “Không đâu. Tôi chắc ông chủ sẽ không đi về nước trời đâu”.
Mọi người đều ngạc nhiên hỏi: “Làm sao bác biết ông chủ không đi về trời ?”
Người quản gia trả lời: “Thường thì trước khi đi xa, ông chủ thường nói với tôi về nơi mình sắp đến và yêu cầu tôi giúp chuẩn bị hành lý mang theo. Còn Nước Trời ở đâu mà sao tôi không bao giờ thấy ông chủ đề cập sẽ đi đến đó, cũng không thấy ông chuẩn bị hành lý nào cả. Như vậy làm sao ông có thể đi đến Nước Trời được!”
4) CHUẨN BỊ ĐỂ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA BẤT NGỜ ĐẾN THĂM:
Một buổi sáng nọ, người ta thấy bác thợ đóng giày thức dậy từ rất sớm. Sau khi dọn dẹp cửa hàng sạch sẽ ngăn nắp, bác vào phòng khách ngồi đợi đón vị khách quý là Chúa Giê-su, mà đêm qua bác đã nằm mơ gặp gỡ Người và Người hứa sẽ đến thăm bác vào ngày hôm nay. Đột nhiên có tiếng gõ cửa gấp. Bác thợ giày vui sướng vì không ngờ Chúa lại đến thăm bác ngay từ lúc sáng sớm như vậy. Nhưng khi cửa mở thì người đứng ngòai cửa không phải là Chúa Giê-su, mà là ông phát thư quen thuộc. Mặt ông ta bị tím tái do vừa đi trong thời tiết băng giá. Bác liền mở rộng cửa đón ông phát thư vào nhà ngồi bên lò sưởi ấm áp. Rồi bác đi pha một bình trà nóng mời ông uống. Sau khi tiễn người đưa thư, bác thợ giày tiếp tục ngồi chờ. Nhìn qua khung kính cửa sổ, bác thấy một bé gái khoảng 7 tuổi đang đứng khóc ngoài hè. Bác ra mở cửa kêu em vào nhà hỏi chuyện. Em cho biết đã đi vào rừng từ sáng sớm để kiếm ít củi về nấu nước xông giải cảm cho mẹ của em. Vì trời mưa tuyết trắng xóa khiến em không nhận ra đường về nhà đành đứng trước nhà bác. Nghe vậy, bác thợ giày vội viết vài chữ dán ngòai cửa báo cho Chúa Giê-su biết mình vắng nhà đến chiều, để đưa cô bé kia về nhà. Khi tìm thấy căn nhà của em và thấy mẹ em đang bị cảm lạnh run rẩy nằm trên giường, bác vội đi mời bác sĩ gần đó đến thăm bệnh và cho toa, rồi bác đích thân đi mua thuốc cho người bệnh. Khi bệnh nhân đã tương đối hồi phục, bác mới trở về nhà thì đã quá nửa đêm. Bác chẳng thiết gì đến ăn uống, nằm vật ra giường ngủ say như chết. Trong giấc ngủ, một lần nữa bác lại nằm mơ được gặp Chúa Giê-su. Người vui vẻ nói với bác: “Ta cám ơn con hôm nay đã đón Ta vào nhà để sưởi ấm khi Ta bị lạnh cóng. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà, đã chăm sóc giúp ta mau chóng bình phục. Vì mỗi khi con phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật… là con đã phục vụ cho chính Ta đó” (x. Mt 25,40-42).
5) CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN BẰNG VIỆC CHU TOÀN CÁC VIỆC BỔN PHẬN:
Giữa một đám trẻ đang chơi đùa, viên giám thị đặt câu hỏi: “Nếu ngay bây giờ chúng con biết mình sắp chết trong một giờ nữa. Vậy chúng con sẽ làm gì?”. Một em trả lời: “Em sẽ vào nhà thờ cầu nguyện với Chúa thật sốt sắng”. Một em khác cho biết: “Em sẽ dọn mình xưng tội để được ơn chết lành…”. Riêng cậu bé Lu-y Gông-gia-ga trả lời: “Riêng em vẫn tiếp tục cuộc chơi, vì em đã luôn chuẩn bị sẵn sàng”. Câu trả lời này là đúng đắn nhất: Không phải cứ đợi đến lúc gần chết mới chuẩn bị thì đã muộn, vì chúng ta không biết Chúa sẽ đến vào giờ phút nào. Tốt nhất hãy tập thành thói quen dâng ngày mỗi buổi sáng khi vừa thức giấc. Rồi trong ngày hãy luôn chu toàn các việc bổn phận, và sẵn sàng thưa khi được Chúa gọi vào giờ sau hết: “Lạy Chúa. Này con đây”.
- SUY NIỆM:
Nội dung Tin Mừng tóm lại trong ba điểm chính như sau: Một là phải khôn ngoan để tỉnh thức sẵn sàng đón Chúa đến. Hai là chàng rể Giê-su sẽ đến bất ngờ vào lúc ta không ngờ. Ba là mỗi người cần chuẩn bị sẵn dầu đèn để cùng chàng rể Giê-su vào dự tiệc cưới Nước Trời đời đời.
1) Cần khôn ngoan tỉnh thức đón chờ Chúa Ki-tô lại đến:
Chúa Ki-tô chắc chắn sẽ đến vào giờ chết của mỗi người và đến chung với nhân loại vào ngày tân thế. Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã thể hiện sự khôn ngoan qua việc vừa chuẩn bị cây đèn đức tin, lại vừa mang theo bình dầu ân sủng, nên đã sẵn sàng cầm đèn cháy sáng đức ái ra đón Chúa Ki-tô. Năm cô khờ dại do nghĩ chàng rể còn lâu mới đến, nên đã không chuẩn bị sẵn bình dầu kèm theo cây đèn đức tin, nên đã bịchàng rể Giê-su từ chối cho vào dự tiệc Nước Trời: “Tôi bảo thật các cô, Tôi không biết các cô” (Mt 25,12).
Câu chuyện ngụ ngôn “Con Ve và Con Kiến” dạy chúng ta phải chuẩn bị cho giờ chết chắc chắn sẽ đến: Con ve suốt ngày chỉ lo vui chơi ca hát mà không nghĩ đến việc phải “tích cốc phòng cơ”. Còn con kiến, luôn chăm chỉ kiếm mồi và tha về đầy tổ, chuẩn bị cho những ngày sắp tới.
Mùa hè qua mau và mùa đông đã đến, mặt đất đều chìm trong tấm màn trắng băng tuyết. Các sinh vật đều tìm nơi trú ẩn để tránh giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt. Những con kiến đã về tổ nghỉ ngơi mà không cần phải lo lắng, vì chúng đã chuẩn bị sẵn thức ăn cho cả mùa đông. Còn các con ve bị lâm vào hoàn cảnh vừa bị lạnh lại vừa bị đói. Do thời gian qua chúng chỉ sống theo sở thích mà không chuẩn bị cho tương lai, nên giờ đây đành chấp nhận hoàn cảnh khó khăn.
2) Cái chết sẽ đến bất ngờ:
Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị cho giờ chết. Câu hỏi được đặt ra là: “Nếu bạn chỉ còn một ngày cuối cùng để sống, bạn sẽ làm gì?”. Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy:
* 57% phụ nữ được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng với gia đình của mình.
* 42% các ông được hỏi cho biết họ cũng muốn sống ngày cuối cùng đó với vợ con.
* chỉ có 12% các bà và 26% các ông thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè trong ngày cuối cùng của cuộc sống.
Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy tâm trạng chung của mọi người khi đứng trước cái chết là sợ sự cô đơn. Cái chết là một cuộc ra đi đơn độc, phải chia tay vĩnh viễn với những người thân yêu. Nếu chúng ta cũng được phỏng vấn như vậy thì chúng ta sẽ trả lời làm gì trước khi chết ?
3) “Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào !”:
Tỉnh thức không phải là không ngủ. Tất cả các cô trinh nữ đều thiếp ngủ, thế nhưng các cô khôn ngoan ngủ mà vẫn luôn sẵn sàng. Sự sẵn sàng được chứng tỏ qua việc chu toàn công việc bổn phận. Như vậy tỉnh thức không phải chỉ là năng dự lễ, đọc kinh cầu nguyện mà thôi, nhưng còn là học và sống Lời Chúa. Tỉnh thức là noi gương Đức Ma-ri-a: “Luôn ghi nhớ những sự kiện xảy ra và suy đi nghĩ lại trong lòng”, để khám phá ra thánh ý Thiên Chúa muốn và mau mắn “xin vâng”.
Chẳng ai biết được giờ chết của mình. Do đó chúng ta phải canh thức luôn. Chỉ những ai không ở lì trong tội và biết hồi tâm sám hối mới là kẻ canh thức thực sự. Đừng để khi bất ngờ Chúa đến, mà thấy chúng ta đang lơ là nhiệm vụ, đang ham mê cờ bạc rượu chè, chích hút sì ke ma túy hay đang đam mê hưởng các lạc thú bất chính…
4) Cần chuẩn bị giờ chết như thế nào ?
– Hãy sống tốt ngay từng phút giây hiện tại:
Biết sống từng giây phút của hiện tại của đời mình một cách đầy đủ ý nghĩa, chính là cách chuẩn bị tốt nhất cho mọi tình huống bất ngờ xẩy ra. Đó là cách giữ cho chiếc đèn đức tin của chúng ta lúc nào cũng có dầu ân sủng và luôn cháy sáng đức ái.
– Không nghĩ tới cái chết không phải là cách trốn tránh khỏi bị chết cách hữu hiệu:
Chết là một chuyện buồn và đáng sợ. Vì thế nhiều người không dám nghĩ tới sự chết. Họ giống như con đà điểu sợ người thợ săn nên vùi đầu xuống dưới lớp cát để khỏi nhìn thấy. Nhưng việc chúi đầu vào dưới cát cũng không thể ngăn cản được bước chân người thợ săn đến gần. Cũng thế, việc không dám nghĩ tới cái chết cũng không giúp cho người ta tránh khỏi bị chết.
– Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào:
Tỉnh thức không phải là không ngủ… Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ. Nhưng người khôn là ngủ trong tư thế sẵn sàng để bất cứ lúc nào Chúa đến cũng sẵn sàng ra đón Chúa.
Tỉnh thức không phải là lúc nào cũng đọc Lời Chúa, nhưng là làm thế nào để Lời Chúa chi phối mọi suy nghĩ nói năng và hành động của mình.
– Điều cần là hãy chuẩn bị bằng việc năng hồi tâm sám hối mỗi buổi tối và chu toàn việc bổn phận hằng ngày : Càng chuẩn bị cho giờ chết thì ta lại càng cảm thấy tâm hồn bình an khi cái chết đến gần. Nếu đã thực sự sẵn sàng, thì ta sẽ cảm thấy vui mừng và mong cho giờ chết mau đến.
- THẢO LUẬN:
1) Dầu chúng ta cần chuẩn bị cho cây đèn đức tin là gì ? 2) Ánh sáng phát ra từ cây đèn đức tin là lọai ánh sáng nào ? 3) Hôm nay tôi phải làm gì để chứng tỏ mình là người khôn luôn chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa đến ?
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Nếu ngày mai Chúa đến gọi con về thì chắc con sẽ vô cùng lúng túng. Con lúng túng vì đến giờ này con vẫn chưa chu toàn nhiệm vụ loan báo Tin Mừng được Chúa trao khi con chịu phép rửa tội và thêm sức ! Cây đèn đức tin của con hiện vẫn đang thiếu dầu ân sủng, nên con chưa thể chiếu tỏa ánh sáng tình thương của Chúa, chưa chiếu soi cho anh em lương dân nhận biết ánh sáng Tin mừng để họ cũng tin thờ và yêu mến Chúa như con.
– LẠY CHÚA. Xin cho con mỗi tối biết dành ít phút kiểm điểm cây đèn đức tin của mình để kịp khắc phục sửa chữa các sai sót khuyết điểm. Xin cho con mỗi ngày làm ít nhất một việc tốt để giúp người ngòai nhận biết Chúa đang hiện diện trong con, hầu sau này họ cũng được tham dự bàn tiệc Nước Trời với con. Xin cho con thực hành theo lời của một người cha trước khi chết đã trăn trối với đứa con trai thân yêu của mình như sau: “Con ơi, ngày con sinh ra, đôi mắt con vừa nhìn thấy ánh sáng, mọi người đều vui cười với con, nhưng con lại khóc. Con hãy sống thế nào, để một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà con lại có thể mỉm cười” (Guy de Larigandie).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
CÁI GÌ KHÔNG THỂ CHO VAY?
Lm. Anphong Nguyên Công Minh
Cái gì không thể cho mượn. Cái gì không thể đi vay ?
Đề tài khôn ngoan : thế nào là khôn thế nào là dại; đề tài tỉnh thức: sẵn sàng dầu đèn, chờ chàng rể đến… có lẽ đã là những đề tài cứ 3 năm một lần, cụ thể là đến chu kì năm A, ta lại nghe đọc và nghe giảng.
Hôm nay, tôi muốn lấy một chi tiết trong dụ ngôn để xây dựng đề tài suy niệm. Chi tiết này chắc đã có lần ta đặt dấu hỏi. Năm cô khôn có phải chỉ khôn theo nghĩa vẫn thường được Kinh Thánh ca tụng, hay là còn khôn và ranh nữa. Rõ rệt hơn, ranh mãnh và ích kỷ. Xá gì một chút dầu , sao lại không cho mượn hay xẻ chia với bạn đồng nghiệp phù dâu, mà lại bắt bí họ đi mua ngoài tiệm, để rồi xôi hỏng bỏng không, họ bị ở ngoài Phòng Tiệc muôn kiếp. Đề tài rút ra từ chi tiết này, là: cái gì không cho mượn được, cái gì không thể đi vay được.
Trong dụ ngôn là Dầu thắp đèn. Nhưng
1. Dầu chắc không phải là
-Lời cầu nguyện. Chắc chắn dầu không phải là lời cầu nguyện như có thánh giáo phụ đã suy đoán. Bởi nếu dầu là lời cầu nguyện, thì ta vẫn thường trao mua đổi chác lời cầu cho nhau. Ta cầu cho người này, người này cầu cho người kia. Xin chị một lời kinh, xin cha một lời cầu… Kể cả dùng tiền để xin cầu nguyện, để mua lời cầu. Vì thế dầu chắc chắn không phải là lời cầu, nếu không, nó có thể cho mượn, cho vay, kể cả cho không. Đàng này, các cô khôn không thể cho mượn
-Việc lành phúc đức. Dầu cũng không phải là việc lành phúc đức. Nếu là việc lành phúc đức, càng có thể cho mượn cho vay hay là làm ơn không đòi lại. Ta thường làm ơn làm phúc cho nhau. Nếu dầu chỉ là ơn phúc, thì chắc chắn ta cho nhau mượn được, vay được, cho không biếu không được.
2. Dầu là gì mà không thể đi vay được?
Cái không thể vay được, mượn được, xẻ bớt, chia phần, mua đi bán lại, đó chính là linh hồn. Gọi có vẻ thần học hơn: đó là phần rỗi. Người ta chỉ có thể khuyên can, răn bảo, chứ không thể giữ giùm phần rỗi của người khác, không thể giữ được linh hồn của người khác. Hồn ai, người ấy phải lo giữ. Khôn ngoan là như vậy.
Có người định nghĩa khôn ngoan là biết trước, tiên liệu những gì sẽ xảy ra. 5 cô khôn ngoan biết trước khi chàng rể đã đến, gặp người nào không giữ chính hồn của mình, lại đi mua, đi mượn hồn của kẻ khác, thì sẽ nghe lời : “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả.” Matthêu đã có những lời khá cay nghiệt như thế ! Tại sao? Chúa không chấp nhận Hồn Trương Ba da Hàng Thịt, hoặc ngược lại, da Trương Ba, Hồn hàng Thịt.
Một chỗ khác, Chúa Giêsu đã nói: được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn nào được ích gì. Linh hồn đâu có dùng tiền bạc mà mua được, đâu có nhờ ai giữ được, đâu có mượn tạm của ai được, nếu không phải là chính mình giữ lấy hồn của mình. Thánh Phaolo, vị tông đồ Dân ngoại đã từng có lần thốt lên : “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1Cr 9:27).
Một ví von ta nghe rất quen về một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
-Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
-Còn mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông !
-Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời !
-Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chẳng còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
– Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?
– Không! Nàng lạnh lùng đáp, Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
-Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
– Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
-Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
-Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
-Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em !
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
-Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất -thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
-Mình đã hãnh diện với chức tước, địa vị -bà vợ thứ hai- nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.
-Họ hàng, gia đình mình -bà vợ thư ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.
-Còn cái linh hồn của mình -bà vợ thứ tư- mà mình đã vì quá chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.
Hãy giữ hồn mình, chăm sóc hồn mình, nuôi hồn bằng những việc lành phúc đức. Hồn không thể vay mượn hay mua bán đổi chác được đâu, cho dẫu có trăm người cầu cho mình thì mình vẫn phải giữ. Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn, nào được ích lợi chi.
.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Nước Trời giống như chuyện mười trinh nữ ra đón Chú Rể. Trong mười cô đó, có năm cô dại và năm cô khôn”(Mt 25,1-2).
Nói 5 cô khờ cho dễ nghe và đồng vần KH (khờ). Trong 10 cô đó có 5 cô KHỜ và 5 cô KHÔN. 5 cô KHÔN là vì mang đèn mà còn mang dầu theo sơ-cua. Nhỡ Chàng Rể có đến trễ thì có cái mà dùng. Ở đời “không ai học được chữ ngờ” mà. Cứ sơ-cua cho chắc ăn. Còn 5 cô KHỜ là vì chỉ mang đèn mà không mang dầu theo sơ-cua; sợ mang theo lỉnh kỉnh, nặng nhọc, rờm rà. 5 cô này không học được chữ NGỜ, nên KHỜ.
Kết quả là 5 cô KHÔN được đón Chàng Rể và vào dự tiệc cưới; còn 5 cô Khờ, “nước đến chân mới nhảy”, đèn tắt, đang khi đi mua dầu thì Chàng Rể đến, không kịp đón nên phải đứng ngoài. Có gõ cửa nhưng Chàng Rể phán một câu xanh rờn: “Tôi không biết các cô là ai cả”.
Cái KHÔN ở đây là biết phòng xa, biết tính toán, biết dự phòng; biết tính trước phòng sau và có cái nhìn xa trông rộng. Điều này rất cần thiết trong cuộc sống con người. Vì không biết ngày mai sẽ thế nào và tương lai sẽ ra sao. Làm rồi nhưng kết quả thế nào, không ai biết trước được. Thi đấu thắng hay thua; làm ăn lời hay lỗ không ai nắm chắc được. Rồi khi nào Chúa đến; khi nào ta chết; lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục, ta hoàn toàn không biết chắc 100%. Bởi đó mà cần có sự khôn ngoan.
Vừa KHÔN lại vừa NGOAN. KHÔN là biết tính toán, phòng trước dự sau. NGOAN là lo thu xếp cho mình, dù có lỉnh kỉnh hơn một chút, có mệt thêm một tí cũng chẳng sao; chứ không làm hại hay làm phiền người khác. Không bắt người khác mang dùm cho mình; cũng không lợi dụng lòng tốt và lòng thương của ai để phục vụ cho cái tôi của mình. Đây là sự khôn ngoan của Chúa chứ không phải là khôn ranh, khôn lỏi của người đời.
Sự khôn ranh và khôn lỏi của con người giống như 5 cô KHỜ. Mấy người này là “Khờ-ơ- khơ- huyền- khờ”. Chỉ có “ơ hay”, chỉ có “lơ khơ”; chỉ có “huyền ảo”, do đó mà thành KHỜ.“Ơ hay”, “ơ chết rồi”, ơ hết dầu rồi, vì không biết tính xa. “Lơ khơ”, lơ là, “lờ mờ”, vì không biết trông rộng. “Huyền ảo”, cứ mờ mờ ảo ảo, cứ bám vào tiền của, vật chất, danh vọng hão huyền. “Khờ” vì quá thực dụng và thiển cận.
Cứ ra công ra sức mà tìm của cải, danh vọng, chức quyền mà không biết có ngày phải để lại tất cả; mọi sự sẽ biến thành mây khói. Không biết sơ-cua mà cứ đi “cua-Sơ”, cua hết người này đến người kia; uốn lưỡi, cong lưng mà đi lấy lòng hết người này đến người nọ, để có được một tiếng khen, một sự ủng hộ và để hơn người khác. Thật là quá khờ và quá dại; vừa khờ lại vừa dại thành ra dại khờ.
Người ta có nói đến cái“khôn” này là : “Khôn ngoan lắm thì oan trái nhiều”. Đó chính là cái khôn ranh, khôn lỏi đây. Cái “khôn ngoan” để trong ngoặc kép. Cái khôn đi lợi dụng, đi hớt tay trên của người khác và đi lừa gạt người ta, cuối cùng sẽ lãnh “Oan trái” cho mình; “Gậy ông đập lưng ông”. Khi người ta biết được sự thật, thì người ta khinh, người ta chê; người ta ghét, người ta oán. Phải nói về cái khôn này là: “Khôn cho lắm thì dại cho nhiều” mà thôi. Đó là “khôn-oan”, chứ không phải là khôn ngoan.
Nhiều khi họ khôn ranh cả với Chúa. Họ cho rằng Chúa lòng lành vô cùng mà; nếu mình có chết thì cũng có Giáo Hội cầu nguyện cho, lo chi phải sa hỏa ngục. Vâng, không sa hỏa ngục nhưng ở mãi trong luyện ngục thì cũng khốn khổ khốn nạn. Đúng là “khôn quá hóa ngu”.
Khôn vì biết Chúa là Đấng lòng lành vô cùng; ngu vì không biết Chúa là Đấng công bằng vô cùng. Dại vì không mở mắt mà xem, có bao nhiêu người còn nhớ đến người chết. Một năm may ra nhớ đến ngày giỗ và Giáo Hội có cầu nguyện cho người chết trong mỗi Thánh Lễ, nhưng không phải mình sẽ được hưởng hết. Chúa ban cho bao nhiêu thì được hưởng bấy nhiêu; mình có đáng được bao nhiêu thì mình hưởng bấy nhiêu, mình không có quyền đòi hỏi.
Cả đời mình không cố gắng lên thánh, nên thiện, không xuống hỏa ngục thì cũng ở mãi trong luyện ngục, chứ ra gì nổi. Sự cố gắng của mình phải là 99 %; của người khác là 1 %. Của mình chỉ có 1% và hy vọng vào người khác là 99% thì là quá dại và quá khờ. Ngay trên đời này thiên tài Ê-đi-son cũng đã nói mà: “ Thiên tài chỉ có 1%; còn 99% là cố gắng”.
Còn người KHÔN là “Khờ-ôn-khôn”. “Khờ” đây là khờ trước mặt người đời. “Ôn” đây là “văn ôn, võ luyện”; ôn đi ôn lại, “ôn cố tri tân”; luyện đi luyện lại. Ôn cái cũ để biết những cái mới; nhớ lại Lời Chúa dạy là phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn và nhất là phải nên thánh nên thiện. Luyện là cố gắng từng ngày; nên thánh, nên thiện mỗi ngày.
Không chỉ cho đời này mà còn biết dùng đời này để chuẩn bị cho đời sau. Biết chuẩn bị lo hậu sự cho mình, phải chôn chỗ nào; phải táng làm sao thì cũng biết chuẩn bị cho mình một chỗ trên thiên đàng nữa. Đời này chóng qua như hoa cỏ, giỏi lắm là 100 năm; còn đời sau là mãi mãi cơ. Như thế nếu chỉ lo cho đời này mà không lo cho đời sau thì không khôn ngoan chút nào.
5 cô khờ và 5 cô khôn giống nhau ở chỗ mang đèn nhưng khác nhau ở điểm có mang dầu theo hay không. Con người ta cũng thế, giống nhau là ai cũng sống trên thế gian này, nhưng khác nhau là có chuẩn bị cho đời sau hay không. Có thì mới thực sự là khôn; không có sẽ là khờ.
Trí khôn của ta đâu ? Hãy suy nghĩ mà xem, mà chọn, mà lựa, đừng để ta bị bó, bị trói vào những gì ở đời này mà bị thiêu đốt, mà lằn vằn như da cọp. Cũng đừng ngu như bò, như trâu thấy người khác bị bó, bị trói như vậy mà cười kẻo mất hàm răng, mất hàm trên; mất Nước Trời; mất tất cả.
“Trí khôn của ta đây”. Khôn là mang đèn và mang theo dầu. Khôn là vừa sống ở đời, vừa lo chuẩn bị cho đời sau. Khôn là biết cua-Sơ mà cũng biết sơ-cua nữa. Amen.
.
NGƯỜI KITÔ HỮU PHẢI LÀ TRINH NỮ KHÔN NGOAN
Lm Đinh Quang Thịnh
Để được vào Thiên Đàng (dự tiệc cưới Con Chiên – Kh 19,7), mọi người phải ý thức chu toàn ơn Thiên triệu của mình để được trở nên trinh nữ khôn ngoan.
I. ƠN THIÊN TRIỆU CHÚA CHỈ DÀNH CHO LOÀI NGƯỜI.
Dụ ngôn mười cô trinh nữ đi đón chàng rể (x Mt 25,1-13 : Tin Mừng), Đức Giêsu muốn mọi người phải hiểu biết về ơn Thiên triệu của mình :
- “Mười cô” : Chỉ toàn thể loài người.
- “Các cô trinh nữ” : Mọi người phải thuộc về Thiên Chúa, chỉ dành cho Chúa sử dụng, chứ không tôn thờ loài thụ tạo như của cải vật chất hoặc một thần minh nào khác ngoài Thiên Chúa (x Gr 3,1-5.19-25).
Thánh Phaolô dạy : “Anh em hãy hiến dâng mình làm của lễ sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là sự thờ phượng thiêng liêng của anh em” (Rm 12, 1).
- “Các cô chờ đón chàng rể” : Là những người đã thuộc về Chúa Kitô, thì ai cũng mong được Chúa đón vào Thiên Đàng, như chàng rể bất ngờ đến đón các cô trinh nữ vào dự tiệc cưới (x Mt 25,13 : Tin Mừng).
- “Dự tiệc cưới” : Sống trong Hội Thánh mỗi ngày được dự tiệc Thánh Thể là bảo đảm “được dự tiệc cưới Con Chiên, trong tiệc này người Kitô hữu là Hiền Thê của Chiên Con mặc áo trúc bâu là công đức của các thánh” (Kh 19,7-8).
II. TRINH NỮ KHÔN NGOAN NGỦ NHƯNG PHẢI TỈNH THỨC.
“Mười cô trinh nữ thiếp ngủ”, ám chỉ cả loài người ai cũng mắc tội. Kinh Thánh nói : “Không một ai công chính, không ai còn có lương tri, không ai tìm kiếm Thiên Chúa ! Hết thảy đều lầm lạc, hư đốn cả lũ. Hành thiện không còn có ai, một người cũng không” (Rm 3,9-12).
Theo phong tục cưới hỏi của người Do Thái : ngày chàng rể đón dâu về nhà, bắt đầu từ lúc mặt trời lặn, chú rể với phái đoàn đến nhà gái, cuộc thương lượng lâu hay mau tùy theo những yêu cầu của nhà gái, có khi kéo dài tới nửa đêm hoặc hơn. Do đó những cô trinh nữ chờ đợi chàng rể đều thiếp ngủ cả, hình ảnh này diễn tả tình trạng loài người ai cũng biết có ngày Chúa đến đón ra khỏi thế gian, nhưng Ngài đến cách bất ngờ như kẻ trộm. Cuộc sống con người nhiều lúc đã quên mất ngày Chúa gọi, nên dễ dàng chiều theo tính xác thịt, đến như vua Đavid được Chúa chọn làm Cha Đấng Cứu Thế (x Mc 12,35), dù ông đã có vợ thế mà còn dan díu bất chính với vợ của tướng Uria (x 2Sm 11). Tội dâm dục ấy di căn tới Amnon, con trai vua Đavid, ăn nằm với Thamar, em gái của ông (x 2Sm 13)! Rồi cả đến vua Salômôn cũng là con vua Đavid, được Chúa cho khôn ngoan nhất trên đời (x 1 V 3,12), vậy mà ông đã có bảy trăm vợ chính thức, còn thêm ba trăm cung phi nữa, trong đó có cả vợ ngoại giáo, những bà này yêu sách vua xây chùa miếu đối diện với đền thờ Giêrusalem để các bà thờ ngẫu tượng! (x 1 V 11). Các vị này danh tiếng đến thế mà còn đắm đuối trong dâm dục, bởi đó thánh Phaolô lên tiếng khuyên : “Chúng tôi dạy anh em phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh, tức là xa lánh gian dâm, mỗi người hãy biết lấy cho mình một người vợ để sống cách thánh thiện và trong danh dự, chứ không buông theo đam mê dục vọng như dân ngoại. Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện. Vậy ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải khinh thường một người phàm, nhưng khinh thường Thiên Chúa ; Đấng hằng ban cho anh em Thánh Thần của Người“ (1Tx 4,1-8).
Như thế người Công Giáo sống trong bậc vợ chồng cũng phải nghiêm túc kiềm chế xác thịt mình, để chung thủy với nhau cũng được gọi là sống trinh khiết trong bậc hôn nhân. Tưởng đó là đức trinh khiết khó giữ hơn đời sống độc thân vì Nước Trời của bậc tu sĩ.
Thánh Công Đồng rất đề cao đức trinh khiết :
- Hiến Chế Hội Thánh số 42 dạy : “Người sống độc thân vì Nước Trời là những người tận hiến trọn tình yêukhông chia sẻ, vì chỉ cho một mình Thiên Chúa cách dễ dàng hơn, trong bậc đồng trinh hay độc thân(x 1Cr 7,32-34). Sự tiết dục hoàn toàn vì Nước Trời luôn được Hội Thánh đặc biệt quý trọng, và coi như dấu chỉ động lực của Đức Ái, và như nguồn mạch đặc biệt sinh nhiều ơn ích thiêng liêng trong thế giới”.
- Sắc Lệnh Đạo Tạo Linh Mục số 10, Hội Thánh dạy : “Các Chủng sinh theo truyền thống đáng kính mà sống bậc độc thân Linh mục đúng với quy luật thánh thiện bền bỉ của lễ chế mình, phải được cẩn thận hướng dẫn sống bậc sống ấy, và một khi khước từ đời hôn nhân vì Nước Trời (x Mt 19,12), họ kết hợp với Chúa bằng tình yêu không san sẻ, phù hợp mật thiết với Giao Ước Mới, họ làm chứng cho sự sống lại đời sau” (Lc 20,36).
- Sắc Lệnh Về Chức Vụ Và Đời Sống Linh Mục số 16, Hội Thánh dạy : “Sự tiết dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời đã được Chúa Kitô khuyến khích, mà qua các thời đại và ngay cả ngày nay vẫn được một số đông Kitô hữu sẵn lòng chấp nhận và tuân giữ một cách đáng khâm phục, thì hiện thời vẫn luôn được Hội Thánh hết sức quý trọng trong đời sống Linh mục. Thực vậy nó là dấu chứng và đồng thời là niềm khích lệ đức bác ái mục vụ và là nguồn mạch đặc biệt làm phát sinh đời sống thiêng liêng phong phú trên thế giới. Bậc độc thân có rất nhiều thuận lợi cho chức Linh mục. Thật vậy, sứ mệnh toàn diện của Linh mục là tận hiến để phục vụ một nhân loại mới, mà Chúa Kitô, Đấng chiến thắng sự chết đã phục hồi trong thế gian nhờ Thánh Thần Người và là một nhân loại đã được sinh ra “không bởi khí huyết, không bởi ý muốn xác thịt, không bởi ý muốn của nam nhân, nhưng bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13). Nhờ đức trinh khiết hay bậc độc thân vì Nước Trời, các Linh mục được thánh hiến cho Chúa Ki-tô với một lý do mới mẻ và tuyệt hảo được kết hợp cách dễ dàng hơn với Người bằng một trái tim không chia sẻ, tận hiến cách tự do hơn trong Người và nhờ Người để phục vụ Thiên Chúa và loài người, sẵn sàng hơn trong việc phục vụ Nước Chúa và việc tái sinh siêu nhiên ; như thế các ngài càng thích đáng lãnh nhận một cách bao quát hơn chức vụ làm cha trong Chúa Kitô. Chính nhờ đó, các ngài tuyên bố trước mặt mọi người rằng mình muốn tận hiến trọn vẹn cho công việc đã được trao phó, nghĩa là muốn đính ước các tín hữu với một người bạn độc nhất, và hiến dâng họ cho Chúa Kitô như một trinh nữ thanh khiết (2Cr 11,2). Ngoài ra các ngài còn trở nên dấu chỉ sống động về thế giới mai sau, mà ngày nay đã hiện diện qua Đức Tin và Đức Ái, trong đó các con cái sự sống lại không còn dựng vợ gả chồng nữa (x Lc 20, 35-36)”.
Quả thực, ai sống đời trinh khiết vì Nước Trời, thì làm cho “tình thương Chúa chan hòa mặt đất” (Tv 33/32,5b).
Thánh Phaolô đã làm gương cho mọi người trong lãnh vực này, ông đã sống độc thân nêu gương cho mọi người bắt chước (x 1Cr 7,7a). Đó là uy tín của ông để việc rao giảng Tin Mừng đạt hiệu quả cao, vì làm cho nhiều người phấn khởi đón nhận lời giảng của ông, hơn là lúc ông cử hành Bí tích.Vì thế ông nói : “Đức Kitô đã chẳng sai tôi làm Phép Rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1Cr 1,17). Tưởng rằng sống đời độc thân để tạo điều kiện thuận lợi cho việc loan báo Tin Mừng không phải dễ mà nó trở thành thập giá. Thế nên ông Phaolô nói tiếp : “Lời rao giảng về Thập Giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đường hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do Thái đòi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, thì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1,18.21-25).
Phương thế gìn giữ sống đời khiết tịnh có hiệu quả nhất là cầu nguyện, đặc biệt là dự Lễ, vì chỉ nhờ hiệu quả của Thánh Lễ, ta mới được Chúa nhìn nhận là “trinh nữ”. Bởi lẽ Bí tích Thánh Thể là trung tâm ơn tha tội bậc nhất : nhờ Lời Chúa thanh tẩy (x Ga 15,3), và nhờ Thịt Máu Chúa Kitô, như thánh Gioan nói : “Họ được giặt áo trắng tinh trong Máu Con Chiên” (Kh 7,14).
Vậy chỉ những ai được tẩy sạch vết nhơ tâm hồn, cùng với việc lành được làm trong Chúa Giêsu, người ấy mới thực sự là cây đèn cháy sáng làm vinh hiển Chúa, Chúa sẽ đặt lên giá cao soi cho mọi người trong thế gian, hơn đèn soi sáng trong nhà ; còn ngủ là nhu cầu của thân xác thuộc bản năng con người, thì kẻ phạm tội cũng là người đang “ngủ”, mà phạm tội cũng là bản năng của con người yếu hèn (x Rm 7,18-19). Điều đó không đáng sợ, chỉ sợ người đó là đèn cạn khô dầu vì không còn muốn nghe Lời Chúa, không khát khao dự tiệc Thánh Thể, thì người ấy không thể phát sáng, giống như đèn của những cô trinh nữ khờ dại đã tắt lịm, vì không mang dầu theo. Thế nên chỉ có những ai khao khát đời sống thánh thiện, khao khát được Chúa Giêsu cứu độ, người ấy mới vào dự tiệc cưới Vua trên trời tổ chức cho Hoàng Tử Giêsu. Ngài chính là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa : “Ai khao khát tìm kiếm Ngài, Ngài ngồi ngay cửa nhà họ, vui vẻ tỏ mình ra ngay mà không ai phải vất vả đi tìm kiếm, vì Ngài đi bước trước mà tỏ mình cho biết, Ngài là ánh sáng không bao giờ tàn lụi, ai để tâm suy nghĩ về Ngài là đạt được sự minh mẫn toàn hảo, sẽ mau trút được mọi lo âu. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Ngài đến với họ ngay” (Kn 6,12-16 : Bài đọc I).
Ta lưu ý tác giả sách Khôn ngoan nói “Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà họ”. Lời Kinh Thánh này báo trước Chúa Giêsu Thánh Thể luôn khao khát mọi người hằng ngày sẵn sàng mở cửa lòng đón rước Ngài, để ai đón Ngài vào nhà linh hồn mình, thì được trở nên khôn ngoan như Thiên Chúa. Vì thế, Chúa cho Tông Đồ Gioan nói với mọi người qua một thị kiến : “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).
Một người thưởng lãm bức tranh Chúa Giêsu đang đứng trước cửa nhà, tay ôm gói quà, tay gõ mà cửa không mở! Người xem tranh phê bình tác giả : “Vẽ cửa nhà mà không có nắm đấm phía ngoài,thì làm sao người ở ngoài mở cửa vào được?”. Người vẽ tranh trả lời : “Đây là cửa nhà linh hồn người ta, nắm đấm ở bên trong, chủ nhà không không mở, thì Chúa Giêsu không thể vào được!”
Mặt khác, ai dự tiệc Cưới Chiên Con, mới bảo đảm được phục sinh vinh hiển muôn đời trong Chúa Giêsu, đây là ơn đặc thù của Bí tích Thánh Thể, như thánh Tông Đồ nói : “Những ai đã được an giấc ngàn thu, thì hãy tin rằng Đức Giêsu đã chết và sống lại, nên chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Kitô sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu. Khi tiếng tổng lãnh Thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên ; rồi đến chúng ta là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghinh đón Chúa trên không trung và chúng ta sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi” (1Tx 4,13-18 : Bài đọc II).
Vậy ta đã biết Bí tích Thánh Thể là trung tâm tha tội, nên ai dự tiệc Thánh Thể thì dù họ có chết cách nào cũng được sống lại vinh hiển như Chúa Giêsu Phục Sinh (x 1Ga 3,2), nhưng không ai biết Chúa sẽ gọi mình ra khỏi thế gian vào giờ phút nào, thì hằng ngày lại càng cần phải kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, như thế là đã thực hành Lời Chúa Giêsu dạy : “Anh em hãy canh thức và hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,42a.44 : Tung Hô Tin Mừng). Muốn sống chân lý này ta hãy luôn cầu nguyện : “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, linh hồn đã khát khao Chúa” (Tv 63/62,2 : Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Ai không đếm xỉa đến công việc của Thiên Chúa, Thiên Chúa phó mặc cho trí não ngông cuồng của nó làm điều bất xứng ! (Rm 1,28).
.
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN. NĂM A
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy cảnh vật thiên nhiên đang có một sự thay đổi diễn ra. Ngày ngắn lại và đêm tốt phủ xuống cảnh vật sớm hơn. Khí hậu đã trở lạnh và lá cây đang rụng vì những làn gió mạnh từ phương Bắc thổi xuống. Tất cả sự kiện này báo hiệu cho một sự tàn lụi, thay đổi và biến thể. Thật kỳ diệu, Mùa Phụng vụ của Giáo hội đi song song với cảnh sắc thiên nhiên, chỉ còn 2 tuần nữa Năm Phụng vụ A sẽ chấm dứt, trước khi bắt đầu Năm Phụng vụ mới. Chúng ta nhận thấy các bài Kinh thánh trong những tuần cuối này nhắc nhở chúng ta về ngày tận thế, ngày Chúa đến phán xét, và kêu gọi chúng ta khôn ngoan chú ý đến cuộc sống, nhất là về cuộc sống đức tin của chúng ta hôm nay.
Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết đến sự khôn ngoan là một đặc ân của Thiên Chúa ban cho những ai khao khát tìm kiếm, để hướng dẫn cuộc sống, để biết phân biệt điều phải, điều trái, làm lành, lánh dữ, để được sống trong ơn sủng bình an và hạnh phúc đời này và đời sau.
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc về một tiệc cưới để dạy chúng ta những điều quan trọng và cần thiết cho cuộc sống đức tin, đó là phải luôn chuẩn bị sẵn sàng. Chúng ta biết trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể, nhưng trong dụ ngôn này, Chúa lại chú trọng đến 10 cô trinh nữ phù dâu. Những cô phù dâu là tất cả chúng ta, được Thiên Chúa yêu thương và mời vào dự tiệc Nước Trời, và chàng rể đặc biệt là Chúa Giêsu. Dầu và đèn là những điều kiện cần phải có để được tham dự tiệc cưới.
Dụ ngôn cho chúng ta biết trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh ám chỉ con người, có người khôn, có người dại. Khôn ngoan hay khờ dại căn cứ vào quyết định, thái độ và cách sống của họ có biết chuẩn bị sẵn sàng hay không. Mỗi người chúng ta là một cây đèn đức tin chờ đón Chúa đến và dẫn chúng ta vào Nước Trời. Cây đèn có ánh sáng hay không là tùy theo có dầu hay không, còn cháy sáng hay không là do có nhiều dầu hay ít, hết hay còn. Chúng ta thấy các cô phù dâu đều ngủ cả, chứ không phải chỉ các cô dại mới ngủ. Nhưng cái làm cho các cô trở thành khôn dại khác nhau là ở chỗ cẩn thận chuẩn bị và sẵn sàng.
Ngày nào và lúc nào chàng rể đến, đến chận, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ việc Chúa đến không ai biết, nhưng chắc chắn Chúa sẽ đến vì vậy phải chuẩn bị sẵn sàng. Chúng ta cũng nhận biết ngày Chúa đến là ngày tận thế phán xét, và cũng ám chỉ đến ngày chết của mỗi người chúng ta. Điều đó đưa đến một câu hỏi hết sức quan trọng: chúng ta phải chuẩn bị cho ngày Chúa đến như thế nào? Hay nói một cách khác, dầu trong đèn của các cô phù dâu đi đón chàng rể là gì?
Muốn đón Chúa đến, chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng có ánh sáng thì phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết. Chúa đến lại chẳng biết rõ lúc nào, lâu hay chóng, sớm hay muộn, là việc ở ngoài sự hiểu biết của chúng ta. Vậy để chắc chắn, chúng ta phải tích trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu là gì? Là những những việc tốt lành, những việc hy sinh phục vụ, bác ái và quảng đại làm sáng danh Chúa và xây dựng Nước Chúa nơi trần gian, do mỗi người tự sắm lấy, tự tạo ra cho mình ở đời này. Vì hạnh phúc Nước Trời là của riêng mỗi người, vì vậy mỗi người cần có một sự nghiệp riêng, không thể vay mượn được khi đứng trước mặt Chúa chịu phán xét. Chồng không thể cho vợ hay ngược lại. Dầu đức tin không phải như gia tài nhà cửa của cải đời này mà chúng ta có thể sang nhượng cho con cái, cháu chắt được. Chúng ta không thể chia sẻ cho ai và cũng không ai có thể san sẻ cho chúng ta được. Chúng ta thấy năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối. Đàng khác, chúng ta cũng đừng nghĩ rằng chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút cuối cùng trước khi chết là được, trái lại phải sắm sửa chuẩn bị suốt cả cuộc đời. Có thể đèn của chúng ta đã hết dầu lâu rồi, nhưng vì lòng Chúa nhân từ và thương xót cho chúng ta vay mượn để chúng ta còn sống, còn mạnh khỏe đến ngày hôm nay, và chắc chắn khi phán xét, Chúa sẽ hỏi chúng ta sử dụng số lượng dầu đó như thế nào? Sự nghiệp thiêng liêng phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, và đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết đến bằng mọi cách và cũng chẳng báo trước cho ai biết trước cả. Vì thế, là những Kitô hữu khôn ngoan, chúng ta phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng phải dự trữ dầu, phải chuẩn bị và đầu tư, để dành trước cho mình một sự nghiệp Nước Trời
Có một câu chuyện được kể sau đây. Trong một vụ đắm tàu, đoàn thuỷ thủ chết hết, chỉ còn xót lại một thanh niên trẻ. Nhờ bám vào tấm ván anh lênh đênh trên mặt biển suốt mấy ngày đêm. Sau đó, anh hoàn toàn kiệt sức vì đói khát, gió lạnh nằm chờ chết. Thình lình, một cơn gió lớn nổi lên đưa dạt anh vào một hòn đảo giữa đại dương. Cư dân trên đảo cứu anh sống rồi phong anh làm vua. Anh hết sức ngỡ ngàng tưởng mình nằm mơ. Dân trên đảo bàn tán sôi nổi với nhau mà anh chẳng hiểu gì. Sau đó, anh cố gắng học ngôn ngữ của họ và hiểu được rằng theo tục lệ, mỗi người chỉ được làm vua có một năm, sau đó bị đày ra một hòn đảo hoang vu cho chết đói. Anh đâm ra lo lắng sợ hãi. Anh suy nghĩ cố gắng tìm ra một phương kế để không bị chết đói khát khi bị đày ra hoang đảo. Anh dùng quyền làm vua của mình sai một số người ra đảo hoang xây nhà, trồng trọt và canh tác. Nhờ sự khôn ngoan biết tính toán, anh đã chuẩn bị cuộc sống tương lại tốt đẹp cho mình. Sau 1 năm mãn hạn làm vua, anh bị đưa ra đảo hoang, nhưng với đời sống tốt đẹp. Thật vậy, người thủy thủ đã khôn ngoan chuẩn bị cho cuộc sống tương lai của mình.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta thành thực nhận biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác. Một ngày nào đó, chúng ta phải từ giã mảnh đất tạm bợ này và sẽ không mang đi được một sự gì. Hôm nay, chúng ta được Lời Chúa kêu gọi hãy sửa soạn cho cuộc sống vĩnh cửu Nước Trời, biết khôn ngoan lợi dụng thời gian, tài năng, của cải, vật chất, biến nó thành dầu thiêng liêng để chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu như người thủy thủ trẻ. Bằng không, sẽ như năm cô trinh nữ dại khờ hết dầu khi Chúa đến. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan và sáng suốt.
.