CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: Kn 11,22-12,2; 2 Tx 1,11-2,2; Lc 19,1-10
——-
- Tất cả vì yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- “Ngài gọi tên con” (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Tìm kiếm Chúa (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Từ bỏ của cải không dễ (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
- Cuộc hoán cải kỳ diệu (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
- Chúa là cùng đích của cuộc đời (Sr. Anna Nguyễn Như Ý, MTG.Thủ Đức)
- Gặp người đổi đời (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Bạn đang tìm gì? (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
- Lòng nhân từ (Maria Đỗ Minh Thư, MTG.Thủ Đức)
- Khao khát tìm gặp Chúa để được cứu độ (Maria TrầnThắm, MTG.Thủ Đức)
- Da-kêu được biến đổi (Lm. John Nguyễn)
- Con người được đổi mới (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- Sám hối cụ thể như Zakêu (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
- Thiên Chúa đi tìm (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
- Sám hối (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
- Lòng thương xót (Lm. Trần Thanh Sơn)
- Ơn cứu độ (Lm. Vũ Minh Nghiễm)
- Thiên Chúa từ bi và nhân hậu (Lm. Thanh Minh)
- Gặp gỡ và biến đổi (Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn)
- Tôi phải lưu lại nhà anh (Lm. Louis Đặng Quang Tiến)
- Đổi mới cuộc đời (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
- Giakêu mừng rước Đức Giêsu (Lm. Vũ Khắc Nghiêm)
- Niềm vui của Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
- Có một cái nhìn như thế (Thiên Phúc)
- Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ (An Phong)
- Hôm nay nhà này được ơn cứu độ (Giuse Vinhsơn Ngọc Biển, SSP)
- Vóc dáng (Trầm Thiên Thu)
- Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 31 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
- Cuộc gặp gỡ giữa ông Giakêu và Đức Giêsu (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
- Chúa Nhật 31 Thường niên. Năm C (Lm. Antôn)
1. Da-kêu: Chứng nhân của lòng thương xót (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Ánh mắt yêu thương (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Dám nhận cái sai để sửa (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Hãy thương xót như Cha trên trời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Cây sung Giakêu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
7. Hành trình trở về: Biết Chúa-Biết người-Biết mình (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
8. Sám hối cụ thể như Zakêu (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
9. Quyết tâm (Trầm Thiên Thu)
10. Tìm và cứu (P. Trần Đình Phan Tiến)
11. Gặp Chúa đổi đời (AM. Trần Bình An)
12. Chúa là Đấng giải thoát (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)
15. Nghệ thuật cảm hóa lòng người của Chúa Giêsu (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
16. Gặp gỡ và biến đổi (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
17. Tình yêu đến (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
18. Đón nhận lòng xót thương (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
19. Ánh mắt xót thương (JM. Lam Thy, ĐVD)
20. Sức mạnh hoán cải của tình thương (Lm. Đan Vinh)
21. Chúa Nhật 31 Thường niên_C (Lm. Antôn)
TẤT CẢ VÌ YÊU
Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc
Những cụm từ đã từng làm xáo trộn suy nghĩ nhiều người: nhỏ mà có võ, cú xấu mà cú lắm lông, xanh vỏ đỏ lòng, có thể bạn không cao, nhưng người khác phải ngước nhìn, liệu có còn phù hợp để “bàn bạc” không ? Đồng ý rằng: sông sâu biển thẳm dễ dò, nào ai lấy thước mà do lòng người. Quả là bất công, khi chúng ta vẫn phải nghe: xấu người, xấu cả nết, khéo mồm miệng đỡ chân tay. Thực ra, tai tinh, mắt thính, sức khoẻ tốt, cơ hội thành đạt bao giờ cũng cao, ấy vậy, già lão, túng nghèo, trẻ em, lại là những phần tử dồi dào kinh nghiệm, và tự tin để nghe để hiểu để có hạnh phúc. Thành công của bạn là yếu tố kích thích tôi phải nỗ lực, vấp váp của bạn, là điều nhắc nhớ tôi cẩn thận, nghiêm túc hơn trong bổn phận hàng ngày, khiếm khuyết tội lỗi của bạn chính là chìa khoá mở trí lòng tôi, hãy khiêm tốn đừng tự mãn.
Cổ nhân có câu: người ta dễ dàng quen nhau vì diện mạo tướng tá, quý nhau vì tiền của dồi dào, xấu mấy ai thèm dòm, nghèo dễ gì có ai theo ! Câu truyện mà trang tin mừng hôm nay nói đến hết sức ly kỳ, cuộc gặp gỡ có một không hai, ít nhiều đã làm thay đổi suy nghĩ của nhiều người. Một Giakêu có chiều cao khiêm tốn, một Giakêu bị tai tiếng là tên thu thuế tội lỗi. Một Giakêu tưởng chừng không biết đến trời đất, cũng chẳng quan tâm động lòng trước đồng loại, và rồi “tình yêu Giêsu” đã biến đổi con tim khối óc của ông từ “ánh nhìn” đầy thiện cảm. Vì tình yêu, Đức Giêsu mời gọi: “hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ông”. Vì yêu, Đức Giêsu đã cho thấy người thánh thiện, kẻ tội lỗi, đều đáng hưởng lòng thương xót của Chúa. Vì yêu, Đức Giêsu đã tạo cơ hội để Giakêu minh chứng cho muôn thế hệ biết: tôi mập nhưng tấp nập người theo, tôi thấp bé, nhưng khối kẻ dõi nhìn.
Vì yêu, Giakêu bỏ lại tất cả để tiếp đón Đức Giêsu, bỏ ½ tài sản giúp người nghèo, sẵn sang đền gấp bốn, nếu ông lỗi đức công bằng với tha nhân, điều đẹp lòng Chúa hẳn là ông phải bỏ tội lỗi của ông. Vì yêu, Đức Giêsu không sợ đám đông dị nghị: “tại sao ông này đến trọ nhà người tội lỗi” ? Vì yêu, Đức Giêsu cho cả nhân loại hiểu rằng: chẳng ai tội lỗi, bất xứng đến độ, không được hưởng lòng thương xót của Chúa. Vì yêu, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người thu thuế, vẫn mãi là cơ hội, là dịp thuận lợi, nhằm giúp mỗi người nghe rõ và hiểu đúng hơn: “Con người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Vì yêu, đấng bậc sinh thành vẫn đang chuyển tải những hy sinh rất âm thầm mà mạnh mẽ: cha mẹ yêu con biển hồ lai láng. Vì yêu, kẻ làm con đã hiểu rằng: chỉ có cha mẹ mới yêu con vô điều kiện, thế giới này phải có điều kiện mới yêu con.
Tất cả vì yêu, Giakêu bỏ bàn thu thuế, trèo lên cây sung, ông chỉ ước mong nhìn thấy Vị Thầy sắp đi qua. Vì chưa hiểu, chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa giầu lòng xót thương, nên mới có hờn ghen oán trách: tại sao Thầy đạo đức thánh thiện lại đồng bàn với kẻ tội lỗi ! Vì yêu, gánh nặng bất công nơi tâm hồn Giakêu vơi đi, khi ông gặp gỡ Đức Giêsu và tin tưởng vào Đấng cứu chữa ông. Vì yêu, Đức Giêsu mở trí lòng cho Giakêu, soi sáng đám đông nhận biết: Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ, không giới hạn nơi người đạo đức: “hôm nay nhà này được chúc phúc”. Vì yêu, hành động sám hối của Giakêu được sánh ví như: ánh dương soi tỏ muôn chiều, cũng chưa rực rỡ bằng yêu thắm nồng. Đức Giêsu sẽ rất vui, khi mỗi người biết khao khát tìm gặp Đấng là hiện thân của lòng xót thương, Đấng đến để cứu chữa những gì đã hư mất.
Tất cả vì yêu, tất cả đều có cơ hội để trở thành người tốt, tất cả đều có cơ hội làm việc thiện, và tất cả mọi người đều có cơ hội chọn điều lành và xa tránh điều xấu. Giầu có không nói lên bạn đang hạnh phúc ở mức độ nào, bằng cấp cũng chưa chứng thực bạn có bao nhiêu kiến thức. Khóc to gào lớn cũng chẳng ai đo được tình yêu thương của bạn, nhưng việc thiện và hành động bác ái, chứng thực bạn đang trưởng thành trong đức tin kitô giáo. Tình yêu của Giakêu là từ bỏ, là thực hiện đức công bằng, là hành động yêu thương, là thật lòng sám hối trở về với Đấng là Thiên Chúa cứu độ. Vì thấp bé, Giakêu phải trèo leo như đứa trẻ con mới nhìn được Thầy Giêsu, vì yêu, Giakêu nghe và hiểu phải san sẻ tiền của vật chất để tâm tư ông được bình an, được niềm vui thật.
Vì yêu, Đức Giêsu cho Giakêu cơ hội, ông đón tiếp Chúa và sử dụng tốt nhất phương tiện mà ông có. Vì yêu, Đức Giêsu cho đám đông hiểu rằng: không sám hối, không liên đới hiệp thông, chẳng ai cảm nhận được Thiên Chúa hiện diện là Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ. Vui như ngày tết, hạnh phúc như Giakêu được Thầy ngỏ lời ngụ lại nhà ông, mới là khởi đầu cho tình yêu lớn lên, trưởng thành hơn. Dù mỗi chúng ta đây không phải là Giakêu, không phải là số đông đang dò xét tấm lòng bao dung tha thứ của Chúa, chúng vẫn cần đến cuộc gặp gỡ thân tình với Thầy Giêsu, bắt đầu từ cõi lòng mình. Vì yêu, Đức Giêsu vẫn đang muốn nhắn gởi chúng ta: hỡi bạn, Ta luôn yêu thương bạn như yêu thương người thu thuế Giakêu. Hỡi bạn: lười biếng sẽ không khai mở được tâm – đức; ý chí cùn, nghèo, tài giỏi, giầu có, cũng không thể đưa dẫn bạn tới hạnh phúc. Amen.
.
“NGÀI GỌI TÊN CON”
Bông hồng nhỏ
Bài trích Phúc Âm theo thánh sử Luca kể về câu chuyện Chúa Giêsu đi vào thành Giêrikhô. Trong thành ấy, ông Giakêu là người đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Từ lâu, ông Giakêu đã nghe nói về Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng ông vẫn mang trong lòng một nỗi khắc khoải, đó là được nhìn thấy Chúa bằng cách của mình, tận mắt của mình. Ông không chấp nhận chỉ biết Chúa qua “lời người ta nói”. Khi ông đang vất vả tìm cách gặp được Chúa thì chính Chúa Giêsu tiến lại và gọi ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.
Ông Giakêu đã tìm mọi cách để gặp gỡ Chúa. Ông ấy muốn xem cho thấy Chúa Giêsu nhưng không được vì dân chúng quá đông, mà ông ấy lại lùn. Giới hạn thể lý không ngăn cản ông tìm cách gặp Chúa. Ông liền chạy lên phía trước, tách ra khỏi đám đông, nhưng ông vẫn chưa thể thấy được Chúa. Ông bèn nghĩ ra một cách là trèo lên một cây sung để xem cho được mặt của Chúa. Ông vất vả lắm mới leo lên được, ông ngồi trên đó mà thỏa thích nhìn Chúa từ xa. Ông trông thấy Chúa rồi nhưng Chúa còn ở xa quá, nên ông không thấy rõ. Kìa, Chúa Giêsu đang tiến về phía ông. Ông hồi hộp và lòng mừng vui vì được thấy Chúa rõ ràng hơn. Chúa đến, đứng dưới chân ông, Người ngước mắt lên nhìn ông và gọi ông xuống. Người báo cho ông một tin vui: hôm nay Người sẽ ở lại nhà ông.
Ông Giakêu là người đứng đầu những người thu thế và rất giàu có. Vậy tại sao ông phải tìm gặp Chúa Giêsu? Phải chăng ông Giakêu ngưỡng mộ tài năng và lời giảng dạy tuyệt vời của Chúa Giêsu! Phải chăng những thứ của cải trần gian không thể lấp đầy trái tim ông? Ta có đang tìm cách để gặp được Chúa Giêsu không? Còn Chúa Giêsu, Người rất mong được gặp gỡ ta. Chúa hiện diện với ta trong Bí tích Thánh Thể, Chúa nói với ta khi lắng nghe Lời Chúa, Chúa ở bên cạnh ta khi cầu nguyện, Chúa đến với ta khi ta tiếp đón những người nghèo khổ, … Chúa Giêsu rất vui lòng ngự đến trong tâm hồn ta, Người sẽ giúp ta sống tốt hơn, biết chia sẻ hơn; và Người cũng giúp cho mọi người trong gia đình, trong cộng đoàn biết quan tâm, yêu thương nhau hơn.
Vậy làm sao ta có thể đón Chúa Giêsu vào lòng và rước Chúa về nhà mình? Khi ông Giakêu đón rước Chúa về nhà mình, ông đã làm gì? Ông ấy mở một bữa tiệc thết đãi Chúa và mọi người, sau đó ông đã chia tài sản của mình cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những người mà ông đã chiếm đoạt của cải. Gặp Chúa, ông đã từ bỏ con đường tội lỗi của mình, từ bỏ hết những gì làm cho ông xa Chúa và xa mọi người. Ông đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng ông sẵn sàng từ bỏ hết mọi sự để được ở bên cạnh Chúa, làm môn đệ của Chúa, được yêu Chúa Giêsu. Ta yêu mến Chúa Giêsu. Tình yêu phải được diễn tả bằng việc làm. Khi ta nói yêu Chúa, ta cần phải loại bỏ những thứ đam mê của tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu! Giữa một đám đông, con thấy mình thật nhỏ bé và như mất hút. Nhưng từ giữa muôn người, Chúa đã gọi tên con, tỏ cho con biết ý muốn của Chúa. Con cảm tạ Chúa đã thương xót con, cho con được gặp Chúa, được đón rước Chúa vào tâm hồn, được rước Chúa về nhà mình. Con tạ ơn Chúa vì Chúa đã luôn đi bước trước để đến với con, chính Chúa đã tìm và cứu những gì con đã đánh mất vì tội lỗi. Chúa đã làm cho hồn con được hân hoan vui sướng. Xin cho con sau mỗi lần gặp Chúa thì can đảm thay đổi đời sống như Chúa mời gọi. Amen.
.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Lúc con người bước vào đời cũng là lúc khởi đầu hành trình kiếm tìm Thượng Đế. Hành trình tìm kiếm này khác nhau nơi mỗi người: có người thì thuận lợi, có người thật khó khăn; có người thật lâu dài, lại có người rất đơn giản ngắn gọn. Mục đích của việc kiếm tìm Thượng Đế là để gặp gỡ Ngài, được Ngài chia sẻ tính thần thiêng và vinh quang của Ngài. Có nhiều cách trình bày Thượng Đế khác nhau, tùy truyền thống văn hóa hay quan niệm tôn giáo tín ngưỡng. Người Kitô hữu được mặc khải cho biết Đấng Cao Cả có một tên gọi: Thiên Chúa. Hành trình cuộc đời cũng là hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Nhờ nỗ lực tìm kiếm Chúa mà chúng ta có thể nên giống Ngài ngay khi còn sống ở thế gian này, là bảo đảm sẽ được nên giống Ngài hoàn toàn ở đời sau.
Ông Giakêu là một người tìm kiếm Chúa. Dưới ngòi bút của thánh Luca, Giakêu là một người khá giả và là một thủ lãnh của những người thu thuế. Tuy vậy, sự giàu có và sung túc của ông không làm cho ông được thỏa mãn. Vì vậy, khi nghe nói có vị ngôn sứ tên là Giêsu đi ngang qua, ông đã vượt qua mặc cảm tự ti về vóc dáng, sẵn sàng trèo lên cây vả để nhìn rõ vị ngôn sứ sắp đi ngang qua. Vóc dáng ông tuy lùn, nhưng ý chí của ông lại cao. Dù là một thủ lãnh thu thuế, ông không ngại những lời chê bai đàm tiếu của công chúng. Cử chỉ trèo lên cây cho thấy nỗ lực tìm kiếm Chúa của ông.
Nếu con người mọi thời đang nỗ lực tìm kiếm Chúa, thì Chúa cũng chủ động kiếm tìm con người. Chúng ta thấy điều này nhiều nơi trong Tin Mừng thánh Luca. Những dụ ngôn “người chủ chiên đi tìm chiên lạc”, “người đàn bà tìm đồng bạc bị mất” đều diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Đang khi ông Giakêu còn loay hoay ngồi trên cây, thì Chúa Giêsu chủ động đề nghị: “Ông hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông”. Một vinh dự không ngờ! Giakêu chỉ nghĩ leo lên cây để nhìn Chúa đi ngang qua, nhưng Chúa lại đích thân đến nhà ông. Không phải chỉ có chúng ta ngạc nhiên, mà những người Do Thái đương thời cũng ngạc nhiên không kém. Không những ngạc nhiên, họ còn ganh tỵ với ông Giakêu và xầm xì với nhau. Đó là tâm lý thường thấy nơi con người. Khi thấy người ta hơn mình điều nọ điều kia thì tìm cách bới móc những khuyết điểm của họ để hạ thấp giá trị của họ xuống. Không chỉ ganh tỵ với ông Giakêu, những người đương thời còn tỏ ra bất bình với Chúa Giêsu, vì “nhà người tội lỗi mà ông ta cũng đến trọ”.
Trong khi những người Do Thái xầm xì với nhau, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố ông Giakêu là người được ơn Cứu độ. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã làm ông thay đổi cuộc đời. Từ một người thu thuế hay gian lận tham lam, ông trở thành người quảng đại, sửa lỗi bằng cách sẽ đền bù cho người bị thiệt và chia cơm sẻ áo cho người nghèo. “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đã giúp ông vượt lên mọi thành kiến xã hội, lấy lại tự tin và niềm hy vọng. Việc Chúa đến thăm nhà giúp ông xua tan mọi mặc cảm về nghề nghiệp cũng như thân phận của mình. Những gì ông thưa với Chúa cho thấy một sự đổi đời tận gốc rễ. Ông Giakêu, một người thu thuế đã thực sự trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, một người con đích thực của Abraham, người công chính. Ông Giakêu đại diện cho vô vàn vô số những người nam nữ già trẻ trong mọi thời đại đang tìm kiếm Chúa. Họ tìm kiếm Chúa như hoa hướng dương tìm về mặt trời, như suối tìm về nguồn và như chim tìm về tổ. Con người không ngừng tìm kiếm Chúa mặc dầu họ chưa biết rõ về Ngài. Tin Mừng Thánh Luca là “Tin Mừng của lòng thương xót”, vì vậy tác giả thường trình bày Chúa Giêsu như một vị Ngôn sứ rao giảng và diễn tả lòng bao dung. Hãy nhớ lại điều người cha ngỏ với con mình trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,31). Hoặc lời Chúa Giêsu trên thập giá: “Tôi bảo thật, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Thiên Chúa là Đấng hay thương xót. Đó là một điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn của Cựu ước. Đoạn sách trích từ sách Khôn ngoan hôm nay (Bài đọc I) là một ví dụ. Thiên Chúa thương xót hết mọi người. Ngài nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi của họ để mong họ sám hối trở về và được cứu rỗi. Chúa luôn giang rộng vòng tay ôm lấy các tội nhân, nếu họ thành tâm trở về với Ngài. Như thế, người tín hữu cần vững lòng trông cậy vào lòng từ bi Chúa. Niềm trông cậy phải được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày, qua cách ăn nết ở của chúng ta – Thánh Phaolô khuyên các tín hữu như vậy (Bài đọc II). Người trông cậy Chúa sẽ không hoang mang lo sợ trước những lời đồn đại và những tư tưởng lầm lạc, vì họ tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa.
Cuộc tìm kiếm Chúa mặc dù còn nhiều gian nan, nhưng chắc chắn những ai nỗ lực tìm Chúa sẽ được gặp Ngài. Chúa đang hiện diện trong cuộc đời và trong chính tâm hồn chúng ta. Việc gặp Chúa thực ra rất đơn giản: tin tưởng, yêu mến và cậy trông vào Ngài, tất yếu sẽ được gặp Ngài và được Ngài ban trọn niềm vui.
.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Một đại đức ở tỉnh Vĩnh Phúc, sư Thích Thanh Toàn, sau khi được Giáo hội Phật giáo chấp thuận cho xả giới hoàn tục vì bị cáo buộc ‘gạ tình’, đã công khai với báo chí ông có khối tài sản khoảng 200 đến 300 tỷ đồng bao gồm tiền, vàng, xe, nhà đất, trang trại… Đại Đức Thích Thanh Toàn còn vui mừng bày tỏ ông sẽ lập gia đình và ăn chơi xả láng. . . Nhưng điều đó đã không thành, vì Giáo hội Phật giáo quy định kẻ đi tu thì không có quyền trên tài sản được công đức cho Chùa … ông phải ra về tay trắng trong ê chề.
Thành thực mà nói nhiều người đã không nhìn thấy người đi tu dám sống từ bỏ. Ngược lại, đôi khi lại thấy người đi lại luôn miệng cần tiền và tìm mọi cách vun quén của cải từ dân chúng. Người ta thấy người đi tu tích luỹ nhiều hơn ban phát. Người đi tu vẫn còn đầy tham sân si mà dường như chưa bỏ được bụi trần.
Ở đời chỉ những ai dám từ bỏ lòng tham và từ bỏ của cải thì mới thấy tâm hồn họ thanh thoát bình an. Chính tinh thần từ bỏ mới giúp họ sống không vì lợi ích bản thân và dám sống vì lợi ích mọi người.
Chúa Giê-su hôm nay khen ngợi Gia -kêu. Ông có quá khứ tham tiền. Ông có quá khứ sống ích kỷ và hưởng thụ bất chính trên đồng tiền không do mồ hôi của ông. Nhưng điều mừng là ông sám hối và từ bỏ. Qua Chúa Giê-su ông công khai sám hối và sẵn lòng đền bù cách tương xứng những thiệt hại do mình gây ra. Ông còn dám từ bỏ địa vị mình để từ nay ông sống thanh thoát khỏi danh lợi thú trần gian. Ông còn hứa sẽ sống một cuộc đời đầy ý nghĩa là cho đi tài sản của mình để giúp đỡ người nghèo và bất hạnh.
Đây là niềm vui của Gia-kêu khi ông biết cho đi. Có lẽ cuộc đời ông trước kia chỉ tích góp, chỉ biết vun quén, và vun quén bằng những hành vi bất chính. Ông có tiền và rất giầu. Ông có kho lẫm tích trữ rất nhiều nhưng ông không có niềm vui tâm hồn. Ông biết rằng khi trao ban mới có niềm vui nhưng ông không tìm được lý do để trao ban. Cho tới khi ông gặp Thầy Giê-su, ông mới mạnh dạn làm cái điều mà mình hằng thổn thức, hằng ước mong. Khi gặp Thầy Giê-su, ông chỉ muốn dùng tài sản của mình để đền bù cho những ngày tháng mình quá ích kỷ. Ông muốn làm việc nghĩa. Ông sẵn sàng làm tất cả để chuộc lại lỗi lầm. Giờ đây ông biết rằng: tiền bạc chẳng mua được hạnh phúc và càng không mua được Nước trời.
Cuộc sống đôi khi cũng làm cho chúng ta có đôi chút tham lam. Có những khi trong tâm trí chúng ta trỗi dậy lòng ham muốn của cải người khác. Cũng có những khi chúng ta đã sử dụng của cải một cách bất chính. Cũng có những khi chúng ta đã biến của chung thành của riêng. . .
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng tội lỗi ai cũng có, điều quan trọng là có dám như Gia-kêu để làm lại từ đầu. Để sám hối, để đền bù thiệt hại và để từ bỏ những cái không thuộc về mình cho xã hội hay Giáo hội hay không?
Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Chúa biết sống cho đi mà không tính toán, cho đi cả mạng sống mình vì hạnh phúc tha nhân để nhờ đó chúng ta được sống mãi trong tình thương của Chúa. Và xin cho chúng ta biết can đảm sửa lại lỗi lầm khi dám công khai nhìn nhận tội và dám đền bù thiệt hại mà mình đã gây nên. Amen
.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong tác phẩm nổi tiếng Những Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables), văn hào Victor Hugo miêu tả câu chuyện về cuộc đời của Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp của giết người đã từng bị ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã phải nếm mùi khinh dể vì bị mọi người xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; vào nhà trọ, thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; đi qua lũ chó, thấy bộ dạng nhếch nhác râu ria của anh, chúng liền thi nhau sủa inh ỏi… Chỉ khi bước vào nhà Đức Giám mục Myriê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa tối thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi lòng tham, nên nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao, rồi chuồn mất. Nhìn thấy bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền đòi khám xét chiếc túi vải anh đang vác trên vai và họ nhìn thấy mấy cái chân đèn bằng bạc. Anh liền bị giải đến trước mặt vị giám mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không kết tội, mà còn nhận là đã tặng cho anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu, nhưng con phải sám hối để làm lại cuộc đời.” Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương bao dung của ngài. Anh quyết tâm sám hối và sau đó đã trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau, Văn Giang đã chinh phục được tình cảm của mọi người và còn được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng của thành phố. Sở dĩ từ một tên tội phạm trở thành một người lương thiện và được kính nể là do ông đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục Myriê.
Câu chuyện trên đây có điều gì đó rất giống với câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca trình thuật lại biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Ở đó có một người tên là Dakêu. Ông đứng đầu những người thu thuế và là người giàu có. Khi Chúa Giêsu đi qua, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu. Thấy thế, Chúa Giêsu bảo ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người. Sau khi đón tiếp Chúa, ông tuyên bố rằng: “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (x. Lc 19,1-10).
Qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, thánh Luca muốn minh chứng cho chúng ta thấy những yếu tố làm nên cuộc hoán cải kỳ diệu của Dakêu.
1- Lòng thương xót của Thiên Chúa
Yếu tố thứ nhất phải nói đến đó là lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện qua những hành vi cứu độ và rất nhân bản của Chúa Giêsu đối với ông Dakêu
.
Bất chấp lý lịch ‘không mấy trong sáng’ của ông, Chúa Giêsu không nhìn ông với cái nhìn loại trừ và khinh bỉ như những người Do Thái; Người đã chủ động gặp ông, gọi tên ông và đến nhà ông dùng bữa. Luca muốn diễn tả sự hiện diện của Chúa Giêsu tại nhà ông chính là sự hiện diện của một Thiên Chúa cứu độ. Người là hiện thân của một vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót và tha thứ. Người đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất (Lc 19,10). Quả thế, Đức Giêsu chính là vị Thiên Chúa say mê con người, khát khao cứu độ con người; bởi đó, Người đã đi bước trước trong việc tìm kiếm, gặp gỡ và cứu độ con người. Chính lòng thương xót đó đã đụng chạm con tim của Dakêu và biến đổi ông. Đây là yếu tố quyết định làm nên cuộc hoán cải lạ lùng nơi Dakêu cũng như nơi biết bao tội nhân trong lịch sử của Giáo Hội.
Quả vậy, Thiên Chúa luôn mong muốn các tội nhân hoán cải. Người đi bước trước để giúp họ trở về. Cũng như vị giám mục trong câu chuyện trên đã hành xử theo lòng tốt, nhờ đó đã hoán cải tên cướp Văn Giang. Thiên Chúa không hành xử với tội nhân theo luật công bình, nhưng là theo lòng thương xót để tạo cơ hội giúp họ hoán cải. Đây là yếu tố của lòng thương xót, yếu tố của ân sủng.
2- Sự đáp trả của con người
Yếu tố thứ hai là sự thiện chí của Dakêu hay nói đúng hơn chính là sự cộng tác của ông. Dẫu là một người lùn, lại bị liệt vào hàng tội lỗi vì nghề thu thuế, bị loại trừ và khinh bỉ, nhưng Dakêu đã biết tìm mọi cách để vượt lên những giới hạn đó để được thấy Chúa. Những hành động của ông minh chứng ông là một người rất có thiện chí: “Trèo lên cây sung,” “tụt xuống để đón Chúa vào nhà,” “tiếp đãi Chúa” và nhất là “lấy tài sản bố thí và đền bù gấp bốn cho những ai thiệt hại.” Luca cho thấy những hành vi này diễn tả sự khát khao, sự đón nhận và cộng tác của ông với ơn Chúa. Sự thiện chí này là điều kiện cần thiết để cho ơn Chúa sinh hoa kết quả. Từ một “người tội lỗi,” bây giờ ông Dakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Ápbraham.”
Như thế, ân sủng kết hợp với sự cộng tác của con người tạo nên một cuộc đổi đời, một sự hoán cải kỳ diệu nơi Dakêu. Đó là hai yếu tố cần thiết cho mọi sự hoán cải. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Khi tạo dựng nên con, Chúa không cần con, nhưng để cứu chuộc con, cần phải có con.”
3- Hoa trái của hoán cải
Hoa trái của hoán cải là trở về với Thiên Chúa và hướng tới một đời sống công bình, huynh đệ và bác ái đối với tha nhân như trường hợp Dakêu. Sau khi gặp gỡ Chúa Giêsu tại nhà mình, ông quyết định lấy phân nửa tài sản của ông mà cho người nghèo và xin đền gấp bốn cho những người ông đã chiếm đoạt của cải của họ (x. Lc 19,8). Về điểm này, luật Môsê buộc phải đền trả những gì đã chiếm đoạt của người khác hơn một phần năm. Trong khi đó, luật Rôma buộc phải đền gấp bốn. Dakêu thực hiện theo luật này. Ngoài ra, ông còn sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo. Quả thế, sự biến đổi từ bên trong con người phải được thể hiện ra bên ngoài, như là hoa quả của việc hoán cải. Rõ ràng ông có một sự hoán cải tận căn, thay đổi não trạng, cách nghĩ khi không coi tiền bạc là trên hết, ông thay đổi con tim khi không còn bám víu và nô lệ tiền bạc và địa vị, ông thay đổi đời sống ích kỷ khi hướng tới tha nhân bằng đời sống công bình và bác ái.
Qua câu chuyện hoán cải của Dakêu, một đàng, chúng ta được mời gọi hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa; đàng khác, noi gương Dakêu, chúng ta hãy cố gắng hết mình, làm hết sức để cộng tác với ơn Chúa trong việc hoán cải bản thân cũng như tha nhân. Như một tác giả tu đức nói rằng: để được cứu độ, chúng ta hãy để cho Chúa làm nơi chúng ta 100% do ân sủng Chúa và đồng thời chúng ta phải làm hết sức mình 100% do nỗ lực cá nhân mỗi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu đến viếng thăm ngôi nhà mỗi người và mang ơn cứu độ cho chúng ta để mỗi người cũng trở thành những Dakêu mới cho cuộc sống hôm nay. Amen!
.
CHÚA LÀ CÙNG ĐÍCH CỦA CUỘC ĐỜI
Sr. Anna Nguyễn Như Ý
Cuộc sống bộn bề với trăm công nghìn việc làm cho con người quên đi cùng đích của đời mình là gì. Con người ngày hôm nay chỉ thích tìm kiếm những gì nhằm thỏa mãn bản thân, nhưng cuối cùng mọi thứ đều không thể làm cho họ thỏa mãn ước mơ cuộc đời, cho dù họ kiếm được nhiều tiền, nhà cao cửa rộng, công thành danh toại… Và thử hỏi trong số những người đi tìm sự khao khát ấy, có bao nhiêu người đã tìm được hạnh phúc đích thực cho cuộc đời mình.
Hình ảnh Gia-kêu trong đoạn Tin mừng của thánh Luca 19, 1 – 10 là một bằng chứng cụ thể cho cuộc sống của con người ngày hôm nay. Cuộc sống của ông có vẻ làm cho những ai khao khát sự thành công ở trần gian đều mơ ước. Nhưng đổi lại ông được gì? Sự khinh bỉ, sỉ nhục, ganh ghét của đồng bào mình. Điều này có làm cho ông thật sự hạnh phúc? Tâm hồn ông có thật sự bình an khi hằng ngày phải đối diện với chính lương tâm của ông? Chắc chắn một điều rằng, ngày nào đó ông cũng mong thoát khỏi sự khốn khổ bất hạnh này. Và ngày đó đã đến với chính cuộc đời ông, ngày mà Giêsu xuất hiện. Ở giữa đám đông, chẳng có ai thèm để ý đến ông thì ông lại là người được Giêsu để ý đến. Không ai nhìn thấy ông nhưng chính Chúa lại thấy ông. Ngày hạnh phúc đã đến với ông. Đối với ông chẳng còn niềm hạnh phúc nào có thể sánh ví được. Vì thế, ngày hôm ấy, ông đã sẵn sàng cho người nghèo phân nửa tài sản của ông, và sẽ đền gấp bốn nếu ông đã chiếm đoạt của ai cái gì (x.Lc 19, 8).
Điều gì đã làm thay đổi cuộc đời ông cách mạnh mẽ như vậy? Từ một con người đã bị dân chúng xầm xì là người tội lỗi (x.Lc 19, 7) thì nay ông đã được Chúa ở lại nhà (x.Lc 19, 5). Phải chăng đó là sự gặp gỡ mà ông hằng khao khát và tiềm kiếm bấy lâu nay. Chỉ có thể là sự gặp gỡ với Chúa thật sự, mới có thể làm thỏa mãn tâm hồn ông. Sư hiện diện của Chúa đã phá vỡ rào cản giữa ánh sáng của lòng bác ái và bóng tối của sự thù hận. Ông đã trả lại cho Chúa và tha nhân những gì không thuộc về ông. Đối với ông bây giờ Chúa đã là đủ rồi.
Hình ảnh Giakêu đâu đó cũng ẩn hiện nơi mỗi người chúng ta, những người đang sống trong ơn gọi Kitô hữu. Chúng ta nhiều khi tôi cũng loay hoay tìm kiếm những gì thuộc về thế gian mà quên mất cùng đích của đời mình là gì? Hằng ngày, chúng ta vẫn đọc kinh cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, rước Chúa đều đặn nhưng phải chăng tâm hồn chúng ta vẫn chưa thật sự bình an. Và cho dù chúng ta đã làm nhiều việc mang danh Chúa, nhưng chúng ta vẫn không cảm thấy thỏa mãn là bởi vì chúng ta vẫn còn tìm kiếm điều gì đó cho bản thân mà quên mất rằng mọi sự thế gian này chóng qua như hoa sớm nở chiều tàn. Chúng ta quên mất rằng chỉ có Chúa mới là cùng đích và là niềm hi vọng của đời ta. Đã bao lần chúng ta đã không tìm kiếm Chúa nơi những công việc ta đang thi hành. Chúng ta đã không nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Những việc ta làm có thể chỉ là thói quen, chưa phải là hành động của đức ái. Chúng ta hãy mở rộng lòng để cho Chúa đến và hướng dẫn ta như Chúa đã làm cho Giakêu khi xưa, nhưng với điều kiện là chúng ta phải luôn khao khát tìm kiếm Người với tất cả tấm lòng thành.
Lạy Chúa, xin biến đổi tâm hồn chúng con như Chúa đã làm cho Giakêu được trở nên bạn nghĩa thiết của Ngài. Chỉ khi nào chúng con cảm nghiệm được Chúa thật sự là nguồn hạnh phúc của đời chúng con thì chúng con chẳng còn tìm kiếm gì nữa ngoài Chúa. Xin hãy ở lại với chúng con và hướng dẫn chúng con trong mỗi giây giây phút sống, để những gì chúng con làm đều là để sống theo thánh ý Chúa, để cuộc đời chúng con sẽ ngày càng hạnh phúc và ý nghĩa hơn. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu vào thành Giêrikhô, ta choáng ngợp trước một “rừng người” đang chen lấn nhau để nghe Thầy giảng. Ai cũng muốn được đến thật gần Thầy Giêsu. Cùng đi theo Thầy đó nhưng có mấy ai diễm phúc được đón
Người vào nhà như ông Dakêu hôm nay.
Ông Dakêu là một người đứng đầu những người thu thuế và rất giàu có. Ông nghe danh tiếng Thầy và muốn được nhìn thấy Thầy. Lòng khao khát của ông rất chân thành. Chen lấn mãi mà vẫn không lại gần Thầy được, ông bèn chạy lên trước đám đông, trèo lên cây sung để nhìn Thầy và ở đó chờ cho đến khi Thầy đến. Ông đã nhìn ngắm vị Thầy mình ngưỡng mộ trong âm thầm như thế. Đám đông chẳng hề biết có một người giàu sang đang ngồi trên cây sung. Thế nhưng, Thầy Giêsu biết ai là người thành tâm tìm gặp mình và Người biết rõ tấm lòng của họ. Người đã dành cho ông Dakêu một món quà rất bất ngờ, vượt quá điều mà ông mong ước. Dừng lại dưới gốc cây sung, Thầy ngước nhìn ông và gọi: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Ông đã vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người. Người ta biết ông là tên thu thuế tội lỗi nên xì xào bàn tán: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ” (Lc 19, 7). Lời ấy vừa nhắm thẳng để trách móc Thầy Giêsu nhưng cũng vừa để khinh dể ông Dakêu. Hơn ai hết, ông biết thân phận tội lỗi khốn cùng của mình. Ông không ngần ngại trước lời dèm pha chỉ trích của đám đông đang ganh tị với mình, bởi ông nhận thấy Thầy Giêsu đã thương xót đến mình. Tình thương của Thầy cho ông một niềm tin mạnh mẽ, một niềm hy vọng lớn lao để có thể đổi đời.
Trước đám đông, ông thưa cùng Thầy: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn (Lc 19, 8). Lòng sám hối phải được diễn tả rõ ràng qua hành động quyết liệt như thế. Chỉ khi cảm nhận mình được Chúa đón nhận, ta mới có thể hoán cải. Cũng như ông Dakêu, ta không ngờ rằng chính khi ta cố gắng để tìm gặp Chúa, chính Ngài đã tìm gặp ta trước. Ngài gọi chính tên ta và nói lên ý định đầy yêu thương của mình: “Hôm nay Ta phải lưu lại nhà con”. Nhiều người đã nhìn ta với cái nhìn khinh bỉ vì họ biết những yếu đuối của ta. Nhiều lần, ta đã cảm thấy bất lực khi phải vượt qua những rào cản từ phía “đám đông” và rào cản từ chính mặc cảm tội lỗi của mình. Nhiều lần, ta đã chỉ nghe tiếng Chúa nói qua trung gian, ta mong được gặp thấy Chúa. Món quà bất ngờ mà Chúa đã dành ông Dakêu hôm nay khiến ta cũng háo hức biết mấy. Để rồi, trong cuộc sống, dù nhiều lần vấp ngã, ta cũng sẽ can đảm tìm gặp Chúa, để nhìn về Thiên Chúa thiết tha nguyện xin, ơn thiêng của Chúa sẽ đỡ nâng ta. Chính khi tình yêu tìm gặp Đấng là Tình Yêu, tâm hồn ta sẽ được đổi mới.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết rõ lòng con khao khát Chúa. Chính Chúa đã tìm gặp con trước vì Chúa yêu con. Xin cho con mỗi ngày biết hướng lòng về Chúa để kiên trì vượt qua chính mình mà gặp Chúa. Con tin, Chúa sẽ vui lòng sống trong con và biến đổi con. Amen.
.
Anna Cỏ May
Theo lẽ tự nhiên, người giàu có thường tìm cách để giàu có hơn. Người nghèo thì lo làm sao mình bớt nghèo đi. Người trẻ thì tìm kiếm những cuộc vui chơi mới lạ theo sở thích, người Già thì tìm sự an nhàn sau một đời lao nhọc. Còn tôi, tôi tìm gì, tôi có bao giờ đi tìm Chúa không?
Chúa Giêsu không bao giờ ngưng tìm kiếm con người. Còn con người ngày nay, mấy ai đi tìm gặp Chúa như ông Dakêu. Ông Dakêu là người đứng đầu những người thu thuế giàu có. Thời Chúa Giêsu, những người làm nghề thu thuế được khép vào hạng những người tội lỗi. Bởi đó, ông không thể tránh khỏi ánh mắt khinh bỉ của dân chúng. Dầu vậy, khi nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, ông vội tìm cách để biết Chúa Giêsu là ai. Với lòng háo hức và lòng khao khát muốn nhìn thấy Chúa Giêsu, ông đã quên đi thân phận giàu có, quên đi mặc cảm tội lỗi. Với thân hình nhỏ bé, ông không thể nhìn thấy Chúa Giêsu được vì dân chúng rất đông. Ông liền chạy tới phía trước, vượt qua đám dân chúng đang chen lấn và cố gắng leo lên cây sung để nhìn thấy Chúa Giêsu.
Lòng khao khát tìm cách để thấy Chúa Giêsu nơi ông đã chạm tới chính tấm lòng của Chúa Giêsu, vì chính Người cũng đang “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (x. Lc 19,10). Thật bất ngờ, điều ông nhận được còn vượt xa những gì ông mong đợi. Chúa Giêsu đã đứng dưới cây sung mà nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người, mặc cho dân chúng xầm xì. Chúa đã vào nhà ông, nói đúng hơn Người đã đi vào tâm hồn của ông và làm nó biến đổi. Sự biến đổi bên trong của ông biểu lộ ra lời nói và hành động bên ngoài. Ông nói: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn (Lc 19, 8). Đó không phải là lời hứa lúc ông cao hứng nhưng là lời thốt ra từ trái tim. Ông Dakêu đón Chúa vào nhà một ngày, nhưng ông đã đổi một cuộc đời đó là đời ông đã hoàn toàn đổi mới, hoàn toàn sống như Chúa Giêsu mong đợi. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa Giêsu vào lòng không biết bao nhiều lần, đời chúng ta đã nên giống Chúa Giêsu chút nào chưa? Người luôn luôn tìm kiếm và muốn ở trong lòng chúng ta qua bí tích Thánh Thể. Khi rước Chúa Giêsu là chúng ta cũng rước Chúa Cha và Chúa Thánh Thần vào trong lòng mình. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30). Ngoài ra, Chúa Giêsu vẫn đến và ở lại với mỗi người qua những người thấp bé, tội lỗi và bị bỏ rơi. Ngài nói: “Ai đón tiếp em nhỏ này vì danh Thầy là đón tiếp chính Thầy” (Lc 9, 48). Chúa Giêsu không muốn chúng ta phải chết nhưng được ăn năn và được sống. Nhìn lại chính mình, chúng ta có muốn rước Ngài vào trong tâm hồn của mình không? Chúng ta có tìm gặp Ngài dù chỉ một lần trong ngày không hay chúng ta chỉ thích lui tới những quán cà phê, thích tới những khu vui chơi giải trí? Còn Chúa Giêsu, Ngài vẫn đang chờ đợi chúng ta rước Ngài vào nhà mỗi ngày.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã luôn tìm kiếm và hằng muốn ở lại trong chúng con. Xin Chúa ban ơn cho chúng con vững tin và rước Chúa ngự vào nhà. Xin cho chúng con được đổi mới như lòng Chúa mong muốn. Amen.
.
Maria Đỗ Minh Thư
Nhân từ là một đức tính cần thiết cho mỗi người trong chúng ta. Bao dung, tha thứ cho người khác khiến ta có được sự bình yên đáng có, được đáp trả lại bằng tình thương của mọi người. Chúa Giê-su là người Cha đầy lòng từ bi nhân hậu. Người luôn tha thứ cho mọi tội khiên của chúng ta khi chúng ta thật lòng ăn năn sám hối.
“Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” ”. (Lc 19, 5)
Da-kêu là một người thu thuế giàu có trong vùng Giê-ri-khô, là người mà trong thành khinh chê, là người mà định kiến thời đó cho là tội lỗi, là người không đáng được Chúa viếng thăm và ghé vào nghỉ chân nơi nhà ông. Nhưng không Chúa lại chọn nhà của người tội lỗi đó, của Da-kêu, Người không quan tâm đến người khác nói gì, cũng chẳng cần biết họ nghĩ như thế nào? Liệu có lý do nào để giải thích hành động của Đức Giê-su? Nếu là một kẻ trong đám đông hôm ấy, liệu có chắc tôi và các bạn nghĩ và nói gì?
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta không biết tha thứ cho người khác cũng như cho chính bản thân mình. Có những khi người khác gây ra cho chúng ta một sự tổn thương dù nhỏ bé đến đâu trong lòng con không thật sự tha thứ cho họ trong khi môi miệng đã nói lời tha thứ. Và ngay cả khi chúng ta gây ra sự tổn thương cho người khác, dù cho họ đã tha thứ chúng ta và sự tha thứ làm cho lòng họ cảm thấy bình an nhưng chính bản thân ta cũng không tha thứ được cho chính mình vì những gì mình đã gây ra. Sự tha thứ cho người khác sẽ làm cho người tha thứ cảm thấy bình an và vui vẻ hơn trong cuộc sống và trong các mối quan hệ với tha nhân.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã ngự vào nhà của ông Da-kêu, nhà của một người tội lỗi vì lòng nhân từ và Người đã giúp ông trở về, về với con người thánh thiện. Lạy Chúa xin Chúa cũng ngự vào nhà con, ngự vào tâm hồn con cách thiêng liêng để con cũng được như ông Da-kêu, được biến đổi, được quay trở về vì con là người tội lỗi luôn cần đến tình thương và lòng vị tha của Người. Amen.
.
KHAO KHÁT TÌM GẶP CHÚA ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ
Maria Trần Thắm
Lời Chúa: (Lc 19, 9-10)
Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.
Suy niệm:
Tâm hồn mỗi người chúng ta luôn khao khát tìm kiếm Chúa để được ơn cứu độ và có sự bình an trong một ngày sống. Nếu chúng ta muốn gặp gỡ Ngài, Ngài có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta, sớm hay muộn gì Ngài sẽ gặp chúng ta như đã gặp Người phụ nữ Samari và Dakêu. Nhưng gặp gỡ này chỉ có thể thay đổi được, nếu chúng ta khao khát đợi chờ Ngài. Chính vì Dakêu khao khát Ngài đã trở nên Đấng cứu độ cho ông.
Chúa Giêsu đã đến loan báo Tin Mừng ngay tại nhà ông Dakêu: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham” (Lc19,9). Giakêu, một nhân vật có đủ: sự giàu sang, chỗ đứng, quyền thế trước mặt người đời nhưng trước Nhan Thánh Chúa và dân tộc mình thì Dakêu vẫn cảm thấy mình là một tội nhân, thiếu tình thương và sự sống của Chúa. Nhân loại ngày nay có đầy đủ tất cả vật chất, của cải cần thiết cho cuộc sống con người. Chúng ta hay đi tìm chỗ ở cho mình thật cao sang, nhưng chỗ gần nhất thì không biết tìm đến là ngay chính trong tâm hồn của mình. Một chân lý nữa lại diễn ra: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc19,10). Cho thấy, Thiên Chúa luôn đi tìm và cứu những con người tội lỗi. Trong cuộc sống của thời đại này, con người bị cuốn vào guồng sống vội, sống nhanh, sống bon chen, vội vã. Và hệ lụy đôi khi là một lối sống buông thả, đánh mất ý nghĩa về giá trị đích thực của đời người. Có nhiều người không dám, và không đủ nghị lực, niềm tin để đứng dậy và trở về “với Cha”. Nhiều bạn trẻ vì thú vui bên ngoài, đánh mất ơn nghĩa mật thiết với Chúa, thờ ơ, không nhìn ra tội mình đã phạm làm Chúa phải buồn. Mặc dù, Chúa vẫn hằng giang tay chờ đón những con người tội lỗi biết ăn năn trở về. Điều đó nói lên rằng, những ai khiêm nhường nhận mình là tội nhân thì đều được Chúa ban ơn cứu độ. Hãy chấp nhận ra đi tìm kiếm Ngài, khám phá tình yêu vô bờ bến của Ngài theo gương Dakêu mau chóng trở về. Để trong đời sống mau mắn khiêm nhường hoán cải những lầm lỗi phạm đến Chúa và mọi người. .
Ước gì chúng ta nhìn tha nhân bằng bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên thần linh hơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống một con người công chính, ngay thẳng ở trước mặt Chúa. Khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari, Chúa cần đến nhà ông Gia kêu để nghỉ chân ban nhiều hồng phúc cho chúng con. Xin cho chúng con biết đền đáp những ơn lành Chúa hằng ban cho.Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người, khám phá ra đốm lửa của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi, biết gặp gỡ Chúa mỗi ngày để chúng con trở về và thay đổi cuộc sống tội lỗi. Như Thánh Giáo Hoàng Gio an Phaolô II nói: “ Hỡi các bạn trẻ hãy để Thiên Chúa là ơn cứu độ và là nguồn hạnh phúc của các bạn”.
.
Lm. John Nguyễn.
Tại Giê-ri-khô, ông Da-kêu được xếp vào loại người giàu có, nhờ cái nghề thu thuế. Ở trong vùng này, ai cũng đã biết rõ con người tham lam này. Và Da-kêu cũng thừa biết thiên hạ chẳng ưa thích gì ông ta, bởi vì ông đã làm những điều bất chính, thu gom của cải người dân để trục lợi cho bản thân với cái nghề cho vay nặng lãi. Dưới mắt bàn dân thiên hạ, ông ta là kẻ đáng bị quyền rủa và bị trừng phạt bởi việc làm gian tham của ông. Nhưng điều làm cho đám đông phải kinh ngạc bởi cách xử sự của Chúa Giê-su dành cho Da-Kêu, đã làm cho nhiều người xầm xì, bàn luận về việc của Chúa Giê-su ở lại nhà Da-kêu. Từ nguyên nhân này dẫn đến cuộc tranh luận không chỉ cho những người đi theo Chúa lúc bấy giờ mà còn là cho mọi người chúng ta suy gẫm về cách hành xử của Chúa Giê-su trước con người tội lỗi qua đoạn Tin Mừng của thánh Luca thuật lại hôm nay.
Chúng ta đi vào trang Tin Mừng thuật lại câu chuyện. Khi nghe tin Chúa Giê-su đi ngang qua, Da-kêu muốn biết Chúa Giê-su là ai? Vì ông đã được nghe danh tiếng của Chúa Giê-su lan truyền khắp nơi. Da-Kêu muốn được tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-su. Ông đã chen vào đám đông. Nhưng vì quá lùn, ông phải trèo lên cây sung để nhìn thấy Chúa Giê-su. Thay vì, ông ta muốn gặp Chúa Giê-su, thì chính Chúa lại đi tìm ông ta trước. Chúa Giê-su ngước nhìn lên cây sung và bảo cho Da-kêu: ” Này anh Da-Kêu xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh.” Ông mừng rỡ tụt xuống và rước Ngài về nhà. Mọi người thấy vậy sửng sốt và xầm xì với nhau: ” Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Một câu nói mỉa mai, đánh tiếng và chê bai của đám đông khi Chúa ghé nhà Da-kêu.
Thật sự, những thắc mắc và nghi ngờ của đám đông là có lý do, bởi vì họ đã biết rõ Da-kêu là người xấu. Một người thánh thiện, tốt lành không có thể đi chung với con như tội lỗi như Da-kêu. Người đời thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Còn Chúa Giê-su thì làm ngược lại cách nghĩ của đám đông đang vây quanh Ngài. Con người vốn mang xã hội tính: kẻ thù thì phải trừng trị, loại trừ, kẻ gian ác thì phỉa diệt vong và phải phân biệt tốt xấu rõ ràng. Cho nên, những người Pha-ri-siêu thường tách biệt những người thu thuế và tội lỗi ra khỏi cộng đồng của họ. Cụ thể, câu chuyện người Pha-ri-siêu và người thu thế vào đền thờ cầu nguyện trong tuần qua. Người Pha-ri-siêu luôn tự đắc mình là người thánh thiện, công chính để rồi kết án người khác, giữ đạo theo kiểu hình thức bên ngoài, khoát trên mình chiếc áo thụng chũm chọe để được người ta khen ngợi và tán thưởng, chúng giống như mồ mả tô vôi, chỉ đẹp bên ngoài nhưng lòng dạ thì xấu xa.
Tội của Da-kêu, ai cũng biết, ông ta không dám rước Chúa vào nhà ông vì ông không xứng đáng. Nhưng Chúa Giê-su đã nhận ra con người của ông, Chúa cần được đến với ông, vì Da-kêu cần chữa lành những vết thương tội lỗi của ông, cần được tắm rửa tội lỗi trong dòng suối mát tình yêu Thiên Chúa. Một Thiên Chúa giàu lòng xót thương cho những con người tội lỗi. Và chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới có thể làm biến đổi ông ta thành con người mới. Cha mẹ không thể ghét bỏ đứa con mình, cho dù nó có bất hiếu và ngược đãi với mình, cha mẹ vẫn yêu thương nó, tha thứ cho nó, kêu nó trở về nhà. Cha mẹ thế gian còn biết cho con mình những điều quý giá, thì tại sao chúng ta lại không nhận ra Thiên Chúa là tình yêu vô biên dành cho hết tất cả mọi người chúng ta. Khi ta nhận ra được lòng thương xót của Thiên Chúa là lúc chúng ta sống trong tình yêu đó với tha nhân. Chúng ta sẽ nhìn cuộc đời tốt đẹp hơn và bớt đi tính ích kỷ hẹp hòi với tha nhân.
Tình yêu Thiên Chúa thì không giới hạn bởi rào cản, bởi thành kiến, cách nhìn và cách đánh giá của người khác qua dáng vẻ bên ngoài, nhưng là tận nơi cõi lòng. Hành trình cuộc đời của thánh Matheu, ngài cũng là một người thu thuế và được Chúa gọi đi theo Ngài, để rồi từ bỏ nghề thu thuế để đi làm môn đệ của Chúa. Chúa luôn tìm kiếm con người và tạo điều kiện để có cơ hội trở về. Trái lại, những người Pha-ri-siêu thì loại trừ không chỉ là những người thu thế mà cả những người phong cùi ra khỏi cộng đồng. Họ tin vào Thiên Chúa, nhưng lại không sống yêu thương và tha thứ, đã nhiều lần bị Chúa Giê-su lên án: “đạo đức giả”.
Phải chăng lý do nhiều người xầm xì bảo Chúa Giê-su không được đến ăn uống với người tội lỗi cũng từ quan niệm và cách nhìn của con người loại trừ. Với lối sống và quan niệm vị kỷ như thế, thì việc Chúa Giê-su làm không thể tránh khỏi bởi dư luận bởi những người giữ luật quá khắc khe và tỉ mỷ, chính thế họ đã bóp chết lòng từ bi và khoan dung với tha nhân. Tôi thiết nghĩ câu chuyện ông Da-kêu hôm nay, Chúa Giê-su đã làm một cuộc cách mạng để làm thay đổi quan niệm, cách nhìn và thành kiến đối với những người làm nghề thu thuế mà hay đúng hơn là những người tội lỗi. Chính sự quan tâm đặc biệt của Chúa dành cho Da-kêu lại là cái cớ làm cho tính ganh tỵ của con người. Họ ganh tỵ vì không được Chúa viếng thăm nhà mình nên họ không bác ái đủ với ông ta. Nhưng với Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài luôn tìm kiếm những con chiên lạc, ốm đau bệnh tật để đưa chúng trở về đàn chiên. Ngài nói: “Bệnh nhân mới cần thầy thuốc”.
Hình ảnh Da-kêu có thể làm đại diện cho hàng triệu người trên thế giới hôm nay, họ cũng đang phải chịu bởi sức ép với cái nhìn thành kiến của con người của một xã hội đã cài đặt lên con người, để rồi chỉ biết kết án và thiếu lòng bác ái với những con người bị sa ngã. Họ cần có một ai đó đón nhận và cho họ có cơ hội để nhận ra giá trị tình yêu đích thực xuất phát từ tình yêu giàu lòng xót thương của Thiên Chúa. Họ cũng cần được chữa lành và cần tìm ra ánh sáng chân lý trong cuộc đời này, như Da-kêu đã được Chúa chữa lành và được cứu độ. Một vĩ nhân đã nói ” Muốn thay đổi một người, thì bạn hãy đến với người đó. Nếu bạn xa lánh và tránh né họ, thì bạn chẳng bao giờ biến đổi được ai”.
Thật vậy, khi Da-kêu gặp được Chúa Giê-su, ông đã từ bỏ lối sống củ, bỏ đi lòng tham của cải bất chính, biết cải thiện đời sống. Thay vào đó, ông đem nửa gia tài của mình để phân phát cho người nghèo, nếu ông làm thiệt hại và chiếm đoạt của cải ai, ông ta đền gấp bốn. Hành động của Da-kêu đáng khen ngợi và cho chúng suy ngẫm. Tôi đã làm thiệt hại ai không? Tôi có tham lam lấy tiền tiền bạc của cải người và làm điều bất chính không?
Tóm lại, Da-kêu được Chúa biết đổi bởi vì được Chúa yêu thương, tha thứ và đồng cảm được ước muốn được cải thiện đời sống, ông ta đã mạnh dạn đến với Chúa, và Chúa ở lại nhà Da-kêu, nhờ đó tâm hồn của ông ta được thay đổi. Vì Thiên Chúa luôn là Người Cha tốt lành, Ngài biết được nhu cầu của con cái Ngài. Chúa Giêsu dùng tình yêu để hoán cải Da-kêu.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Xin Chúa biến đổi tâm hồn con như Da-kêu. Khi con được biến đổi, thì đời sẽ thay đổi. Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
“Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa mọi người”, đó là chủ đề của Lời Chúa hôm nay.
Thiên Chúa yêu thương mọi loài . Lý do : nếu Chúa không yêu thương thì Ngài đã không tạo dựng, nếu Ngài ghét bỏ thì Ngài đã không bảo tồn (bài đọc 1). Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa sống động và cụ thể cho tư tưởng trên đây. Quả thật, Thiên Chúa không thiên vị ai, không khinh bỉ ai, Ngài chỉ nhìn đến thiện chí của người ta và ban ơn cứu độ.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta câu chuyện của ông Giakêu trở lại như thế nào. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với hạng người trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, vì họ làm việc cho người La mã, nên người ta cho họ là những kẻ phản bội và ruồng bỏ họ. Trái lại, Đức Giêsu lại có lối hành xử khác, Ngài kêu gọi ông, lại còn đến ăn uống và trọ trong nhà ông nữa. Việc này làm cho người Do thái rất tức giận. Ngài xử sự như thế để tỏ rõ sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì hư mất”. Cảm động bởi lòng nhân hậu của Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy những sai lầm của mình và quyết tâm sửa đổi.
“Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A.Pope). Đối với những người tội lỗi, chúng ta hãy có thái độ khoan dung và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải. Còn đối với từng người chúng ta, không ai dám nhận là mình hoàn toàn trong sạch, không bao giờ lầm lỗi. Hãy tin vào lòng nhân hậu và thương xót của Chúa, hãy tìm đến gặp Ngài và quyết chí thay đổi cuộc sống của mình để nên tốt hơn.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Kn 11,22-12,2.
Kết luận một trình thuật về cuộc Xuất hành, câu chuyện khá độc đáo ở điểm tác giả nhấn mạnh việc Thiên Chúa nương tay đối với người Ai cập (Kn 11,15-20). Vì sao Ngài nương tay ? Bởi vì Thiên Chúa thương yêu “tất cả những gì hiện hữu”; nếu không, Ngài đã không tạo thành. Vì thế, Thiên Chúa yêu thương mọi người bất kỳ ai và mời gọi họ hoán cải.
Nhìn lại lịch sử, tác giả sách Khôn ngoan khám phá được đường lối hành xử của Thiên Chúa : Ngài tỏ ra rất khoan hồng đối với những người tội lỗi. Đây là một giảng dạy ngược với cách sống khép kín của dân Do thái lưu lạc, họ không muốn tỏ cho lương dân thấy Thiên Chúa không ngừng yêu thương họ.
+ Bài đọc 2 : 2Tx 1,11-2,2.
Các Kitô hữu ở Thessalonica hoang mang bởi những lời tiên tri, những câu chuyện và những lá thư được gán cho thánh Phaolô nói đến ngày tận thế đã gần kề. Vì thế, họ đâm ra lười biếng không muốn làm việc nữa.
Để giải tỏa những lo lắng của họ, thánh Phaolô viết lá thư thứ hai này khuyên họ đừng tin vào những luận điệu mơ hồ ấy.
+ Bài Tin mừng : Lc 19,1-10.
Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa cụ thể những khẳng định của sách Khôn ngoan :”Chúa xót thương mọi người và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải”.
Giakêu là một người đứng đầu những người thu thuế, ông rất giầu. Ông muốn tìm cách để biết xem Đức Giêsu là người thế nào. Thiện chí của ông đã được đáp ứng : Đức Giêsu hứa sẽ đến nhà thăm ông. Việc này đã làm cho nhiều người khó chịu, họ xầm xì với nhau:”Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”!
Được Chúa thương vào nhà thăm, ông rất phấn khởi và tỏ ra quảng đại, ông đã tự nguyện hứa với Chúa : lấy nửa tài sản mà phân phát cho người nghèo và nếu làm hại đến ai thì xin đền gấp bốn.
Đức Giêsu đã chấp nhận lòng quảng đại của ông và đã tuyên bố :”Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Lời tuyên bố này phù hợp với lời Ngài đã phán:”Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Nhờ Đức Kitô, ông Giakêu không những đã được giải hòa cùng Thiên Chúa mà còn được làm hòa cùng anh em đồng loại nữa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. ĐỨC GIÊSU KÊU GỌI ÔNG GIAKÊU.
Bài Tin mừng hôm nay nhằm nói lên sứ mạng của Đức Giêsu là “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Ông Giakêu đã là người được cứu chữa. Ông là thủ lãnh những người thu thuế ở Giêricô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm biết Đức Giêsu, nên ông đã được gặp và còn được Ngài đến thăm nhà mình nữa. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã tỏ ra quảng đại, chia nửa phần tài sản cho kẻ khó và đền bù gấp bốn những ai ông đã làm hại. Vì thế Đức Giêsu đã tuyện bố :”Hôm này, nhà này được ơn cứu độ”.
- Hoàn cảnh .
Giêricô có biệt danh thật thơ mộng và đẹp đẽ là “Moon city” : thành phố Nguyệt Nga, một thành phố quan trọng ở phía Bắc của Biển chết, ở cách Giêrusalem 37 km, thấp hơn mặt biển 256 mét. Giêricô là thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình của những người hành hương lên Giêrusalem.
Trên con đường dẫn vào thành phố Giêricô có hai hàng cây đổ bóng mát. Loại cây thường được trồng có tên là sycamore – cây sung. Sung là một loại cây kết hợp hình thù của cây vả và cây dâu, với những cành to lớn không cách xa khỏi mặt đất, rất dễ trèo lên, dù người thấp bé và lùn như Giakêu.
“Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” để đi lên Giêrusalem và đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình. Ngài lên Giêrusalem và chịu tử nạn ở đó. Trong cuộc hành trình này, tình cờ Ngài đã gặp ông Giakêu.
- Con người ông Giakêu.
Ông là người Do thái, tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”. Phải chăng là một sự hài hước, hoặc chế diễu ? Ông không thanh khiết tí nào vì lòng ham mê tiền bạc, tham nhũng, hối lộ, và hà hiếp dân lành ?
Nhưng chúng ta hãy chờ cho câu chuyện chấm dứt.
Giakêu là trưởng ty thuế vụ giầu có ở Giêricô. Thu thuế là một nghề bị người Do thái khinh chê, ghét bỏ. Ngay cả những người Rôma cũng không muốn làm nghề này, nên họ mướn những người Do thái làm. Kẻ làm nghề thu thuế bị coi là người phản bội lại dân tộc, chạy theo đế quốc Rôma. Họ bóc lột tiền bạc của dân chúng càng nhiều càng tốt để chính họ có thể tránh né khỏi phải trả thuế.
Giakêu, một con người bị tránh xa như dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không được giao du với con người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.
Ta thử tưởng tượng điều gì có thể thúc đẩy Giakêu bất chấp sự chế diễu, đã xắn chiếc áo thụng của một ông trưởng giả Do thái và có lẽ cái áo choàng La mã để leo lên cây sung như một thằng nhóc tầm thường. Vì tính tò mò chăng ? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng ? Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng ? Phải nói rằng đây là cử chỉ nói lên lòng khao khát của Giakêu muốn nhìn thấy Đức Giêsu tận mắt, chứ không chỉ nghe thấy tiếng vang của Ngài đối với người bình thường. Cử chỉ này không có gì đáng nói, nhưng đối với Giakêu, một người thu thuế tội lỗi bị người ta khinh bỉ và sống cách biệt, mà lại có lòng khao khát như vậy thì quả là một người có thiện chí và lòng ngay.
- Đức Giêsu gọi tên ông.
Đứng trên cây sung, Giakêu đang trố mắt nhìn xuống Đức Giêsu, nhưng đồng thời Đức Giêsu cũng trố mắt nhìn lên Giakêu. Bốn con mắt nhìn nhau thật thắm tình. Đức Giêsu lên tiếng gọi :”Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Một lời kêu gọi bất ngờ đối với Giakêu vì Ngài gọi tên riêng ông, nhưng đối với Chúa thì không. Ta nhận thấy Đức Giêsu biết rõ con người của ông, chứ không phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên, Chúa đã gọi đúng tên ông như đã quen biết ông từ lâu rồi. Chúa tỏ ý muốn vào nhà thăm và ở lại với ông như người bạn thân.
Nghe được lời mời gọi này, Giakêu quá sung sướng nên vội vã tụt xuống. Vì quá lòng mong ước, nên Giakêu cũng có một lòng hiếu khách, một đức tính sẵn có trong dòng máu Do thái, ông đã mời Đức Giêsu vào nhà và tiếp đãi rất ân cần.
Việc Đức Giêsu vào nhà ông Giakêu ăn tiệc, lại còn muốn trọ tại nhà ông mấy bữa làm cho mấy người biệt phái ưa chỉ trích rất bất mãn; vì theo quan niệm của người Do thái, việc giao thiệp với người tội lỗi đưa đến sự dơ bẩn (Lc 5,30; 7,34; 15,2). Việc lẩm bẩm chỉ trích như vậy tỏ thái độ khắt khe của con người đối với tội nhân, nhưng cử chỉ đón nhận của Đức Giêsu đối với tấm lòng ngay và thiện chí của Giakêu lại là thái độ đầy tình thương và cứu độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thấy thái độ thành thực của Giakêu, Đức Giêsu đã tuyên bố :”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Đức Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài:”Con Người đến đi tìm và cứu những gì đã hư mất”. Giakêu là con cái Abraham, nhưng đối với Giakêu, người Do thái cho là tội lỗi, không thuộc về dòng dõi Abraham nữa, thì nay nhờ ơn cứu độ lại là con cái Abraham một cách đúng nghĩa : Con cái Abraham không phải theo xác thịt nhưng là người được Thiên Chúa cứu độ.
II. CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI MỚI.
- Tiếng gọi của Thiên Chúa.
Người ta nói :”Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Câu nói văn hoa và thâm thúy này chắc hẳn bắt nguồn từ Lời Đức Kitô:”Đèn của thân thể là con mắt…”(Mt 6,22t; Lc 11,34t). Hiểu được ánh mắt của một người quả là không mấy dễ dàng (có chăng là ánh mắt tuổi thơ). Vì ánh mắt của một người là biểu lộ của chính tâm hồn người đó… Mà mấy ai trong chúng ta dám cho rằng mình hiểu được tâm hồn ai ? Dĩ nhiên là tùy vào cách xử sự và hành động… Như qua bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay, trong khi những người biệt phái chỉ nhìn các người thu thuế (như Giakêu) bằng cái nhìn khinh thị kết án – Thì Đức Kitô, với cái nhìn tuyệt vời không những đã làm đổi mới cuộc đời ông và gia đình, mà còn bao điều tốt đẹp cho những người từng bị điêu đứng vì Giakêu. Cao qúi biết bao chỉ một cái nhìn…
Cái nhìn của Đức Giêsu là cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt, một cái nhìn có sức cảm hóa tâm hồn, một cái nhìn nhân từ, như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầu tiên chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, con người theo sau. Người ta có thể gọi cây sung là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xẩy ra nếu Đức Giêsu không ngước mắt nhìn lên Giakêu ở cây sung. Chúng ta tưởng rằng chúng ta tìm kiếm Chúa trong khi mà chính Ngài tìm kiếm chúng ta trước, tự muôn đời.
- Sự đáp trả của con người.
Được đón nhận lòng nhân hậu và thương xót của Đức Giêsu, Giakêu đã tỏ bầy một tâm trạng muốn hoán cải đời sống bằng cách ông muốn thực hiện ngay việc bác ái và công bằng. Ông quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất cả những gian lận mà ông tự thú đã phạm.
Trong việc đền trả này ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi. Chỉ khi nào trộm là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới phải đền bù gấp bốn (x. Xh 22,1). Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). Nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5; Ds 5,7). Giakêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động, ông tỏ ra đã được biến cải.
Giakêu đã tỏ ra là con người quảng đại sau khi đã hoán cải. Việc bố thí cho người nghèo sinh ích lợi nhiều cho ông. Thánh Kinh đã làm chứng :”Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11).
Tiên tri Đaniel viết theo :”Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo”(Dn 4,24).
Nơi khác lại khen :”Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa”(Cv 11,4).
Đức Giêsu hứa:”Hãy bố thí, rồi mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các con”(Lc 11,41).
Khi ở thành Rages về, sứ thần Raphael bảo cha con ông Tobia :”Nước mắt ông chảy ra cũng như của làm phúc bố thí với những lần bỏ bữa ăn đi chôn xác kẻ chết, Ta đã thu lượm và dâng lên trước mặt Thiên Chúa… bây giờ Ta về với Đấng đã sai Ta, ông hãy tạ ơn Thiên Chúa”(Tb 12,12-13).
- Khả năng đổi mới của con người.
Sách Tam tự kinh có viết :”Nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận tập tương viễn”. Bản tính của con người lúc đầu là tốt nhưng vì hoàn cảnh mà trở nên xấu. Đây là chủ trương lạc quan của Mạnh Tử. Trái lại, Mặc Tử lại chủ trương :”Nhân chi sơ tính bản ác”. Nếu bản tính con người vốn tốt mà vì hoàn cảnh mà trở nên xấu thì dễ sửa hơn, còn nếu bản tính mà xấu rồi thì sẽ sửa làm sao ?
Chúng ta phải khẳng định rằng con người xấu có thể trở nên tốt được bởi vì bản tính vốn là tốt, và nếu có ơn Chúa trợ giúp nữa thì sẽ dễ dàng. Chúng ta hãy lấy trường hợp ông Giakêu ra làm điển hình. Người Do thái coi ông là một người tội lỗi, ô uế, phải tránh xa, đã xấu thì cho xấu luôn, không thương tiếc.
Nhưng sau cuộc gặp gỡ Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy tình yêu và lòng thương xót của Chúa đối với mình, ông nhận ra con người thật của ông : một con người xấu xa tội lỗi, đáng bị nguyền rủa. Nhưng ông thấy rằng mình có thể sửa đổi được, có thể cải tà qui chính, và ông thực sự đã hoán cải. Do đó, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng :”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”. Nhìn vào cuộc đời của Giakêu lúc này chúng ta phải lấy câu tục ngữ Việt nam mà khen ông :
Xanh vỏ đỏ lòng (Tục ngữ)
Câu tục ngữ này có ý nói những cái bề ngòai xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt. Người ta chỉ có thể thấy cái bên ngoài của một người mà không biết được lòng người ta.
Người ta muốn đánh giá Giakêu thế nào cũng được, nhưng Đức Giêsu có cái nhìn thấu suốt, không nhìn cái vẻ bề ngoài của con người mà Ngài nhìn rõ cả bên trong, cho nên Đức Giêsu sẽ khen cho Giakêu một câu chắc nịch như đinh đóng cột :
Xù xì da cóc trong bọc trứng tiên (câu đố).
Đây là một câu đố bình dân mà người ta thường đố nhau. Vậy “xù xì da cóc trong bọc trứng tiên” là cái gì ? Chúng ta hãy giải đáp xem nó là cái gì. Nhưng cho dù nó là cái gì thì lúc nào cũng có ý nói rằng bề ngoài xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt, giống như câu “Xanh vỏ đỏ lòng” vậy.
Nếu chúng ta có gặp được Giakêu sau khi nhờ ơn Chúa trở lại rồi thì ông sẽ tâm sự cho chúng ta nghe. Ông cho biết nhờ ơn Chúa ông đã thực sự sửa đổi con người của mình. Đời ông không còn như xưa nữa, nay đã trở nên con người mới hoàn toàn. Có thể bề ngòai không giống nhau, nhưng thực sự bề trong đã được đổi mới hoàn toàn :
Thân em như quả ấu gai,
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem,
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.
(Ca dao)
Truyện : Harold Hughes trở lại.
Harold Hughes xưa kia là Thống đốc tiểu bang Iowa, và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời điểm trong đời ông, đã phá hủy tất cả mọi sự, và mất tất cả.
Một đêm nọ ông nhảy vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng shotgun vào bụng, rồi nhốt cái chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh Kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, qùi xuống nền gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong đời. Ông viết trong cuốn tự truyện như sau :
“Một sự bình an ấm áp dường như bao phủ lấy tôi. Những tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão, thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa, và tôi nói với Ngài,”Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi thánh ý Cha”.
Kinh nghiệm đáng nhớ muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình giúp đỡ những người cai thuốc phiện và nghiện rượu (Nguyễn văn Thái).
- Thái độ với kẻ tội lỗi.
Vấn đề chính của con người là ở chỗ chúng ta có thể thay đổi tâm hồn và học yêu thương người khác như thế nào. Phải có một tâm hồn cảm kích, mềm mại xúc động mới làm cho tâm hồn ấy mở ra và sau cùng chia sẻ sự phong phú, cảm thông. Một sự tiếp cận khắt khe làm cho tâm hồn khép kín và chai cứng. Một sự tiếp cận nhân từ, như cách Đức Giêsu thực hiện với Giakêu làm cho tâm hồn mềm mại và cởi mở không có gì có thể làm thay đổi tâm hồn bằng chính tâm hồn. Theo cách thức đó, ông Goethe đã phát biểu :”Đối xử với một người như người đang là sẽ làm cho người ấy trở nên tệ hơn, đối xử với người ấy như người ấy phải trở thành hoặc như người ấy mong ước trở thành sẽ làm cho người ấy trở nên tốt hơn, bởi vì khát vọng của chúng ta là phần chúng ta thật sự đã đóng góp”.
Như vậy, gần gũi và biểu lộ tình thương với người tội lỗi là tốt nhất. Đây là thái độ Đức Giêsu thường xử sự đối với người tội lỗi, và hầu như luôn luôn có tác dụng tốt. Ngài không hề xa tránh những người thu thuế, bọn đĩ điếm, vốn bị coi là hạng người tội lỗi, như những biệt phái và luật sĩ thường làm. Kết quả của thái độ nhân từ đó là biết bao người tội lỗi trở lại con đường ngay chính, say mê nghe Ngài rao giảng Tin mừng, mà bài Tin mừng hôm nay kể ra một trường hợp điển hình. Chính vì Đức Giêsu sẵn sàng vào nhà ông Giakêu, một kẻ bị coi là tội lỗi, ăn uống và trọ lại nhà ông, mà con người ông đã hoàn toàn thay đổi. Thử tưởng tượng xem, nếu Ngài cũng đối xử với Giakêu như cách mà người Do thái thường làm là tẩy chay và xa lánh ông, thì kết quả ra sao !
Truyện : Thiền sư Sengai và đệ tử.
Nhiều đệ tử đang theo học thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo :
– Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy.
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
- Công cuộc đổi mới của mỗi người.
Như ở trên chúng ta đã nói : “Nhân chi sơ tính bản thiện” thì con người có hư hỏng rồi cũng có thể cải thiện được. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã được trở nên tinh tuyền, đã được mặc lấy Chúa Kitô và có thể nói là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhưng chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đã được tha tội nguyên tổ nhưng không thể tránh được hậu quả của tội ấy, do đó con người chúng ta trở nên yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội. Vì vậy, thánh Phaolô cảnh giác chúng ta :”Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã”.
“Sai phạm là bản tính của con người, còn tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A. Pope). Vì thế chúng ta có thể nói : sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường. Có biết bao nhiêu gương sa ngã mà đã chỗi dậy nhờ ơn Chúa. Người lành thánh mà còn sai phạm một ngày ít là 7 lần, chúng ta chưa lành thánh là bao, có sai lỗi thì cũng là chuyện bình thường, không đáng lo, cứ cậy trông vào ơn Chúa và quyết tâm hoán cải.
Truyện : Leonard da Vinci vẽ hình.
Danh họa Leonard de Vinci đang thực hiện tuyệt tác “Bữa Tiệc ly”. Nhưng để diễn tả một phần nào đúng chân dung của Chúa và 12 vị tông đồ, danh họa phải đi tìm những nét mặt đó nơi những người đương thời. Một hôm, họa sĩ bắt gặp trong thánh đường ở Rôma, một vị kinh sĩ trẻ tuổi có gương mặt thanh tú, trong sạch tuyệt vời hợp với chân dung thánh Gioan. Thế là ông đi theo và xin vị Kinh sĩ ngồi làm mẫu cho mình vẽ. Vị Kinh sĩ bằng lòng và họa sĩ đã vẽ được một gương mặt đẹp như Thiên thần.
Vài năm sau, bức tranh “Bữa Tiệc ly” vẫn chưa hoàn thành vì không tìm ra người mẫu để vẽ chân dung độc đáo của Giuđa. Tình cờ, trên đường phố, họa sĩ gặp một người ăn mày, áo quần rách tả tơi với vẻ mặt quái đản, gian ác đến độ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm tự chủ :”Trời ơi, người mẫu này thật lý tưởng, ta sẽ vẻ mặt gian xảo này cho thật mâu thuẫnvới vẻ mặt Thiên thần của chàng trai trước đây”. Sau khi thương lượng với giá cao, người ăn mày bằng lòng làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Vẽ xong, họa sĩ sung sướng lấy chân dung chàng trai trẻ đặt bên chân dung người ăn mày mà ngắm nghía. Còn người hành khất giật mình chết lặng, rồi hai dòng nước mắt chảy dài trên hai gò má đen đủi và nghẹn ngào nói:”Bức chân dung người trẻ kia chính là tôi mà ông đã vẽ cách đây mấy năm. Khi đó trông tôi tốt lành, trong trắng dường nào, nhưng bây giờ tôi là một tên ăn mày, cờ bạc rượu chè say sưa”. Nói xong, anh ta bỏ đi thật tội nghiệp.
Nếu chẳng may chúng ta đã để cho mình trở nên xấu như chàng ăn mày kia, chúng ta hãy bắt chước ông Giakêu tìm đến gặp gỡ Đức Giêsu. Phía Chúa Ngài luôn khẳng định là Ngài xuống thế cốt tìm kiếm và cứu kẻ tội lỗi, nên Ngài luôn luôn hiện diện mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng theo dõi, đợi chờ con người tỏ dấu ăn năn thì Ngài sẽ hành động ngay.
Nhưng nếu chỉ gặp Chúa mà thôi thì chưa đủ, cần phải có hành động cụ thể. Muốn biến cuộc gặp gỡ thành một cuộc tình gắn bó, một cuộc liên kết chặt chẽ, lâu dài thì phải thực hiện một công đoạn tiếp theo là đổi mới cuộc sống. Như Giakêu, ông ta không dừng lại ở chỗ gặp Chúa, trái lại ông ta muốn tiến xa hơn là thay đổi cuộc sống bằng cách bố thí và thực hiện đức công bằng. Cũng thế, để nhận được sự tha thứ và sự bình an của Chúa trao tặng, mỗi người chúng ta phải đổi mới ngay cuộc sống của mình bằng những cố gắng thực tế như : bỏ dần những tính hư tật xấu, cắt đứt ngay những liên hệ xấu xa, sửa lại những lầm lạc sai phạm, rồi dũng cảm thực hiện các việc đạo đức bình thường như đọc kinh, xem lễ, lần hạt và đi xưng tội, rước lễ…
.
Lm. Phêrô Lê văn Chính
Để hiểu bài Tin mừng Chúa nhật tuần này về câu chuyện Zakêu người thu thuế, cần bắt đầu với chủ đề của sách Khôn ngoan về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Một cách rất hiện thực và trong một cái nhìn tổng thể, sách Khôn ngoan cho thấy điều kiện của nhân loại rất là mong manh yếu đuối trước mắt Thiên Chúa, ví được như là hạt gạo trên đĩa cân, hay sương sa trên mặt đất, nó chẳng là gì cả, dễ tan biến vào hư vô. Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng yêu thương vô bờ bến, Người yêu thương nhân loại vô cùng nên rất nhẫn nại và chờ đợi con người sám hối tội lỗi để trở về với Thiên Chúa. Bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với mọi loài là ý định tạo dựng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa tạo dựng, có nghĩa là Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại và có ý định ban tặng sự sống cho mọi loài. Và điều quan trọng, đó là lần hồi, nhờ thần trí của Thiên Chúa tốt lành, Chúa sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn những người tội lỗi để họ trở về với Thiên Chúa và từ bỏ con đường tội ác của mình mà được sống hạnh phúc sung mãn.
Điều này được cụ thể hoá qua hình ảnh cụ thể của người thu thuế Zakêu, một người tội lỗi, được Chúa Giêsu viếng thăm tại nhà và vui mừng thay đổi đời sống đón nhận ơn cứu độ. Điều rất cao đẹp và quí giá mà Thiên Chúa thực hiện cho con người, đó là từ tình trạng xấu xa tội lỗi và hậu quả là phải chết tủi nhục, Thiên Chúa biến đổi để con người trở nên thánh thiện và xứng đáng đón nhận sự sống đời đời. Sự biến đổi và thánh hóa của Thiên Chúa thực là kỳ diệu, và con người luôn được Thiên Chúa mời gọi và tìm kiếm, bởi vì Thiên Chúa luôn nhớ đến mỗi người và thành tín yêu thương vô cùng. Zakêu là một khuôn mặt tiêu biểu đáng nêu lên bởi vì sự biến đổi mà Thiên Chúa thực hiện nơi ông đã diễn ra một cách rất nhẹ nhàng và đầy niềm vui. Ông là một ông trùm trong số những người thu thuế giàu có, một người tội lỗi công khai vì nghề thu thuế tai tiếng. Đàng khác, vóc dáng nhỏ thó, lùn tịt của ông cũng làm cho ông bị người khác coi thường. Khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêrikô là nơi ông ở, Zakêu đã có một cử chỉ thực là hồn nhiên, là leo lên cây để được nhìn Chúa Giêsu đi ngang qua. Đáp lại, Chúa Giêsu quyết định đến gặp Zakêu tại nhà để đáp lại cách cụ thể ước muốn của ông, nên người nhìn lên và nói với ông: “Zakêu! Xuống mau đi, vì hôm nay tôi muốn tới ở nhà ông”. Và điều kỳ diệu bất ngờ đã xảy ra, vượt mọi dự đoán của mọi người. Trong khi mọi người khác vẫn còn đóng kín trong những phê phán hẹp hòi chật hẹp thiếu hiểu biết của mình, nói rằng Chúa Giêsu đến nhà người tội lỗi. Zakêu đã có những quyết định rất táo bạo cương quyết : “Thưa thầy, tôi xin bố thí nửa phần tài sản của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đến gấp bốn”. Ông không nói bố thí hết tài sản, mà chỉ chia một phân nửa, phần còn lại giữ lại cho mình và đền bù gấp bốn lần cho những người mà ông đã làm thiệt hại. Thế nhưng đó đã là một cuộc hoán cải đầy đủ và trọn vẹn, nhắc lại phần nào lời giải đáp xưa kia của Gioan Tẩy giả khi rao giảng ở sông Giorđan. Cuộc gặp gỡ và hoán cải hiện thực là như thế, không viễn vông ảo tưởng nhưng chân thành hiện thực. Zakêu phải can đảm chấp nhận cho đi những của cải của mình. Đó không phải là điều dễ dàng. Nhưng phải chăng cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cứu độ là như thế, không dừng lại ở cái nhìn tò mò, nhưng là đón nhận chính Đấng cứu thế vào trong nhà mình và can đảm mở lòng để đền bù lại những thiệt hại mà mình gây cho người khác, giúp đỡ cho những người nghèo khổ túng thiếu.
Trên con đường Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, tin mừng theo Luca cho chúng ta được khám phá nhiều điều mới mẻ về ơn cứu độ. Chúa Giêsu đi đến gặp gỡ từng người trên con đường người đi qua. Một cách nghịch lý, những con người tội lỗi, bị ghét bỏ trong xã hội, bị đánh giá thấp lại là những người gặp gỡ được tình yêu thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Và lời nói tiêu biểu của Tin mừng Luca được lặp lại như đã được công bố ở hội đường Nazarét: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì người này cũng là con cái Abraham”. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu dẫn đến ơn cứu độ thực sự, đầy tràn niềm vui, đầy tràn sức sống. Ơn cứu độ trả lại cho con người phẩm giá làm con Thiên Chúa. Zakêu, một con người bình thường như những người khác, lại có điều gì đó mà chúng ta cần phải học hỏi. Không yếu ớt, không tự phụ, không thu mình trong địa vị của hàng tư tế hay biệt phái tự cho mình là những người thánh thiện trong sạch, nhưng dám quyết định và hành động mạnh mẽ chia sẻ chính tài sản của mình, đền bù lại những thiệt hại đã gây ra cho người khác. Đồng thời ơn cứu độ mà Zakêu nhận được là điều rất cao quí. Từ nay, ông lại được đón nhận thừa hưởng gia nghiệp của con cái Abraham. Từ tình trạng tội lỗi và thân phận phải hư mất đời đời, ông được chữa lành và được đón nhận vào trong sự sống sung mãn của Giao ước với Thiên Chúa. Lời mà Chúa Giêsu đã tuyên bố khởi đầu ở hội trường Nazarét, giờ đây lại được công bố cách mạnh mẽ: “Hôm nay ơn cứu độ lại đến với nhà này”.
Cộng đoàn Kitô giáo thời thánh Phaolô là cộng đoàn những người đã bắt đầu tin vào Chúa Giêsu và dấn thân trên con đường đón nhận ơn cứu độ của đời sống mới. Họ có thể bị chao đảo bởi những hoàn cảnh lịch sử mà họ đang phải trải qua. Họ vẫn tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại gần kề, nhưng nghịch lý là Chúa Giêsu vẫn chưa đến như mọi người mong đợi. Thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn hãy vững vàng trong ơn gọi của mình. Thái độ tỉnh thức và chờ đợi Chúa trở lại là thái độ cụ thể, không phải chỉ là những tâm tình chờ đợi hốt hoảng lo âu vì những tuyên bố của người này người khác không có thẩm quyền chính thức của tông đồ. Ngược lại, thái độ chờ đợi Chúa đến thực sự là luôn vững vàng trong lòng tin của mình và sống thánh thiện theo ơn Chúa kêu gọi.
.
Lm.Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Trên hành trình rao giảng Tin mừng, một hôm Đức Giêsu tới thành Giêricô, Ngài nhìn thấy Giakêu ở trên cây sung, và Giakêu bắt gặp ánh nhìn của Chúa, đời ông và gia đình được ơn biến đổi từ đây. Biến cố này làm nổi bậc lên dung mạo Thiên Chúa đầy lòng xót thương chủ động đi tìm con người. Và cuộc đi tìm không mấy dễ dàng. Thật vậy, để tìm được con chiên lạc, người chăn chiên phải vượt núi băng rừng, bất kể ngày đêm, thời tiết nắng mưa, bất chấp nguy hiểm tính mạng.
Cũng vậy, để đi tìm con người, được Giêsu phải từ bỏ trời cao xuống đất thấp. Phải từ bỏ địa vị Thiên Chúa nhập thể làm người. Phải từ bỏ ngôi nhà êm ấm để ra đi khắp mọi miền đất nước. Phải từ bỏ mạng sống để cho con người được sống.
Ngài đi tìm một Lêvi đang ngồi nơi bàn thu thuế, để đưa ông về sau này trở thành tông đồ thánh sử. Ngài đi tìm một Phaolô trên đường lầm lạc bắt đạo, biến đổi ông sau này trở thành tông đồ dân ngoại.
Hôm nay, Chúa đến thành Giêricô, một thành phố lớn, tấp nập kẻ buôn người bán, lại có đám đông cùng đi theo. Trong thành phố này có người tên là Giakêu, ông khao khát được nhìn thấy Chúa, nhưng vì ông khiêm nhường chiều cao, nên vội vàng trèo lên cây sung để nhìn thấy Chúa. Thế nhưng, khi Chúa đi gần đến nơi thì nhìn thấy Giakêu trước, lại còn gọi rõ tên ông.
Chính lòng thương xót mà Đức Giêsu đi tìm Giakêu. Lòng thương xót của Đấng quyền năng đi tìm phàm nhân thấp bé. Lòng thương xót của Đấng Tạo hoá đi tìm thụ tạo thấp hèn. Và lòng thương xót của Đấng Cứu độ trần gian đi tìm tội nhân cùng khốn. Qua sự tìm kiếm này, Giakêu cảm nghiệm được Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đã thay đổi đời ông.
Chúng ta ghi nhận rằng: Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người tội lỗi đến đâu đi nữa, thì tình thương của Ngài cao vời khôn ví phủ lấp muôn vàn tội lỗi. Tình thương Chúa luôn đi bước trước.
Thật vậy, Giakêu chưa nhìn thấy Chúa, thì Chúa đã nhìn thấy ông. Giakêu chưa lên tiếng, thì Chúa đã gọi đích danh ông: Giakêu hãy xuống mau. Giakêu chưa kịp mời, thì Chúa đã ngỏ lời đến thăm nhà ông “Hôm nay, Ta sẽ lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Giakêu chưa mở lời thú tội, thì Chúa đã nói lời tha thứ cho ông trước rồi “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ” (Lc 19, 9).
Vì lòng thương xót mà Đức Giêsu nhìn tới Giakêu. Vì lòng thương xót mà Chúa đến thăm nhà Giakêu. Vì lòng thương xót nên Chúa tha thứ cho Giakêu. Chúa như người cha nhân hậu đầy lòng xót thương mong tìm đứa con trở về. Chúa như người mẹ hiền luôn bao dung tha thứ cho con mình, cho dù nó ngàn lần lầm lỗi.
Từ ánh nhìn quan tâm yêu thương của Chúa, đã làm trái tim ông Giakêu bừng lên ngọn lửa sám hối. Vì thế, ông đứng thẳng lên thưa cùng Chúa như một hành vi thú tội công khai: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần gia tài tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”(Lc 19, 8). Quả thật, ánh nhìn của Chúa có một năng lực cứu độ, có sức biến đổi lòng người.
Mỗi người chúng ta cho dù bé nhỏ tầm thường đến đâu đi nữa, đều là đối tượng của lòng Chúa thương xót. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta là hình ảnh, là giá máu cứu chuộc của Chúa. Thật vậy, vì lòng thương xót nhân loại lỗi lầm, mà Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài xuống trần gian, để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa không dừng lại nơi đây, nhưng còn vượt xa hơn thế nữa kìa. Là sau khi tìm kiếm để tha thứ, để chữa lành, thì Thiên Chúa còn vui mừng biết bao. Hãy chia vui với tôi vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc (Lc 15,6);; hãy mở tiệc ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy (Lc 15, 32). Cũng vậy, cả triều thần thánh vui mừng, vì một người tội lỗi hối cải hơn là 99 người công chính không cần hối cải (Lc 15,10).
Anh chị em thân mến,
Giakêu nhận biết mình tội lỗi, nên ông tìm đến Chúa, thế nhưng, Chúa đã tìm thấy ông trước. Nhờ cuộc gặp gỡ này, mà đời ông và gia đình ông được ơn cứu độ.
Ước gì, qua biến cố Đức Giêsu gặp gỡ ông Giakêu hôm nay, xin cho mỗi chúng ta ngày càng cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa thương xót. Nếu chúng ta khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân bất xứng mọi bề, thì hãy noi gương ông Giakêu, là siêng năng tìm đến với Chúa mỗi ngày nơi nhà thờ này, để gặp gỡ Chúa qua Lời của Ngài; siêng năng gặp gỡ Chúa trong bí tích Thánh Thể và làm mới tâm hồn trong bí tích Hòa Giải. Từ nơi thánh thiêng này, mong sao chúng ta sẽ gặp được tấm lòng thương xót của Thiên Chúa. Hi vọng tâm hồn chúng ta được ơn đổi mới, hầu trở nên xứng đáng là con cái Chúa hơn. Amen.
.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Cách đây ít lâu, đài truyền hình Nhật Bản đã trực tiếp truyền hình cho khán giả trên cả nước được xem toàn bộ ban quản trị của một công ty dược phẩm cung cấp máu có tên là “Thập tự xanh” đã ra trước ống kính truyền hình để thú nhận vai trò của họ trong việc phân phối máu có nhiễm vi-rút HIV hồi năm 1986 làm cho nhiều người phải mang bệnh Si-đa. Sau khi ông chủ tịch công ty đọc lời thú tội, thì trong đám đông có tiếng la lớn: “Hãy quì gối xuống”. Đó là tiếng kêu của một trong những nạn nhân của hành động thiếu trách nhiệm trên đây. Liền sau đó, một người khác cũng hô lớn: “Hãy nhận lấy trách nhiệm của các ngươi về tội ác”. Tức khắc, ông chủ tịch và năm người trong ban quản trị công ty đã quì gối trước mặt cử tọa và gục đầu xuống sàn nhà trong 10 phút để nhận tội và tỏ dấu sám hối.
Sám hối về những sai lỗi là điều bình thường, không có gì là hèn hạ và nhục nhã. Đạo của chúng ta xem việc sám hối ăn năn là một trong những đòi hỏi tiên quyết của niềm tin. Vì thế, sám hối là một đề tài mà không một ngôn sứ nào, không một tông đồ nào, không một nhà giảng thuyết nào không đề cập tới, chẳng hạn, thánh Gio-an Tẩy Giả khi bắt đầu giảng dạy, ngài kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối để đón Chúa đến”. Chúa Giêsu cũng vậy, bắt đầu cuộc đời công khai, lời truyền giảng đầu tiên của Ngài là kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Sám hối là chân thành nhìn nhận những lỗi lầm, những thiếu sót của mình và quyết tâm đổi mới đời sống. Do đó, sám hối không phải chỉ là hối tiếc những hành vi quá khứ, lại càng chẳng phải là thực thi cho đủ một nghi thức bên ngoài theo luật định, nhưng là thay lòng đổi dạ, đổi mới đời sống và cách sống của mình. Hiểu như vậy thì sám hối là việc bình thường nhưng cần thiết đối với tất cả mọi người.
Tin Mừng kể lại nhiều mẫu gương sám hối, một gương mẫu điển hình là ông Da-kêu. Ông là một người tội lỗi nhưng đầy thiện chí. Ông ước muốn được nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng dân chúng đông quá, ông lại lùn, nên ông trèo lên một cây sung ở bên đường mà không sợ mọi người chế diễu. Quả thực, ông đã có thiện chí, bấy nhiêu thôi đã đủ để Chúa thưởng cho tấm lòng chân thành của ông, không những cho ông thấy mà Chúa còn đến nhà ông. Trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn, sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo, không những thế, ông còn thực hiện sự công bình, làm thiệt hại ai ông sẽ đền gấp bốn.
Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của ông Da-kêu là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta cũng hãy thực hiện một cuộc gặp gỡ Chúa như thế. Thực vậy, ông Da-kêu là gương mẫu người sám hối như Chúa Giêsu mong muốn, nhìn vào ông chúng ta sẽ kinh nghiệm được thế nào là sám hối. Vậy điều quan trọng chúng ta hãy nhớ: việc sám hối là một đặc ân của Thiên Chúa, chứ không phải là sáng kiến của chúng ta. Đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có nhiệm vụ đáp lại. Ông Da-kêu vì tò mò muốn xem Chúa, nên trèo lên cây mà nhìn, nhưng tâm hồn ông chỉ thay đổi hẳn khi Chúa nhìn ông, kêu tên ông và vào nhà ông. Những chi tiết đó nói lên cho chúng ta biết một cách hùng hồn vai trò của ơn Chúa, của tình thương Chúa trong việc sám hối: ơn Chúa đi trước, kêu gọi và mời đón. Tuy nhiên, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, đáp lại sự trông đợi của Chúa thì công việc mới hoàn thành.
Chúng ta cần đến gặp Chúa Giêsu và sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời. Chúa Giêsu là tình thương, là đại dương tình thương, nên dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong tình trạng nào, dù cuộc đời chúng ta có xấu xa, bê bối thế nào, thậm chí tội lỗi chúng ta có nhiều và nặng nề đến đâu, vẫn không sao, Chúa sẽ tẩy xóa hết, Chúa sẽ tha thứ hết, để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thương trong đại dương yêu thương bao la của Chúa. Nhưng với điều kiện chúng ta phải đến với Chúa, phải gặp gỡ Chúa và thành thật nhìn nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình.
.
Lm. Trần Thanh Sơn
Suốt mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong đời sống kitô hữu chúng ta. Trong Chúa Nhật 29, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cầu nguyện liên lỷ đừng nản lòng, như bà goá kiên trì trước vị Thẩm phán bất lương. Còn trong Chúa Nhật vừa rồi, Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta cầu nguyện với một tấm lòng khiêm tốn, biết nhận ra những lỗi lầm, yếu đuối của mình, để nhờ đó chúng ta nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, như người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ.
Sỡ dĩ Đức Giêsu luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện, vì Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ là một người Cha đầy lòng nhân ái. Ngài yêu thương chúng ta “đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Người Con đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đã được Chúa Cha sai đến thế gian, không phải để xét xử, nhưng là để chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đến trong thế gian là để ban ơn cứu độ, hay nói như lời Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”.
1- Lòng thương xót của Thiên Chúa:
Theo tâm lý tự nhiên, chúng ta thường muốn sự dữ, và những kẻ làm điều ác, những người sống bất công phải trả giá ngay lập tức. Khi suy nghĩ như thế, mặc nhiên chúng ta đang tự đặt mình trong tư thế của những người công chính để lên án kẻ khác. Nhưng Thiên Chúa thì khác, bài sách Khôn ngoan hôm nay cho chúng ta thấy rõ lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Mặc dù Thiên Chúa luôn đối lập với sự dữ, nơi Ngài không hề có bóng dáng của bất cứ một sự dữ nào, thế nhưng Ngài lại hết lòng thương xót các tội nhân. Ngài luôn chờ đợi sự trở về của những người tội lỗi. Và chính lòng thương xót vô biên đó đã chứng tỏ cho chúng ta thấy được quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Kinh nghiệm thực tế cũng cho chúng ta thấy rằng, chỉ những người yếu mới tìm cách để loại bỏ những người mình không ưa thích, còn những người mạnh mẽ thực sự thì lại thường dễ dàng bỏ qua những thiếu sót, và tạo mọi cơ hội để người khác có thể làm lại cuộc đời.
Tương tự như thế chính vì là Đấng dựng nên muôn loài, nên Thiên Chúa luôn yêu thương và không muốn bất cứ một tạo vật nào của Ngài phải hư đi, như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, … Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó. Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được?”. Thậm chí, Ngài còn “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối”. Thiên Chúa chưa xét xử và kết án chúng ta, không phải vì Ngài không biết, hay đồng ý với cách sống của chúng ta, nhưng Thiên Chúa muốn dành cho chúng ta một thời gian, một cơ hội để chúng ta “ăn năn sám hối”, trở lại với Ngài.Vâng, nếu Thiên Chúa cư xử với chúng ta như cách chúng ta cư xử với anh em, với những người chúng ta không thích, có lẽ tôi và quý vị không ai còn có mặt trên cõi đời này. Sỡ dĩ, chúng ta vẫn còn sống và đang tiếp tục nhận được biết bao hồng ân của Thiên Chúa, thì chẳng phải là do chúng ta đạo đức thánh thiện, nhưng bởi vì “Chúa là Đấng nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng”. Ngài luôn sẵn sàng đưa tay “nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên”.
Chính lòng thương xót đã thúc đẩy Đức Giêsu dừng bước để ngỏ lời và viếng thăm gia đình ông Giakêu, một thủ lãnh của những người thu thuế, nghĩa là một người tội lỗi đầy mình theo cái nhìn của người Do thái. Nhưng cho dù dưới mắt mọi người Giakêu có là người tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì dưới con mắt yêu thương của Đức Giêsu, Giakêu vẫn là “con cái Abraham”, nghĩa là xứng đáng nhận được ơn cứu độ. Do đó, Đức Giêsu đã đến và dùng bữa tại nhà ông, và ban ơn cứu độ cho gia đình ông, bởi lẽ sứ mạng của Đức Giêsu là “đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”. Cảm nghiệm điều này, thánh Phaolô chia sẻ với giáo đoàn Thessalônica: “Thiên Chúa chúng ta đã đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng với ơn Chúa kêu gọi anh em”.Thiên Chúa rất giàu lòng thương xót vẫn sẵn sàng ban ơn cứu độ cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, để nhận được ơn cứu độ, về phần mình, giống như Giakêu, mỗi người chúng ta cũng cần có những nỗ lực cá nhân để xứng đáng với ơn ban của Thiên Chúa.
2- Lời mời gọi đáp trả:
Trở lại với bài Tin mừng, lúc đó Đức Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem, và có rất đông dân chúng cùng đi với Ngài. Lúc đó có một người thủ lãnh của những người thu thuế tên là Giakêu cũng muốn đến gặp mặt Đức Giêsu, nhưng không thể được, vì dân chúng quá đông còn vóc dạng của ông thấp bé. Nhưng cho dù có nhiều trở ngại, ông vẫn không bỏ cuộc. Ông đã đoán hướng đi của Chúa và chạy trước đến một cây sung và trèo lên để có thể nhìn thấy Chúa. Điều này chứng tỏ được lòng nhiệt thành và quyết tâm của ông. Mặc dù là một thủ lãnh của những người thu thuế, nhưng ông đã quên đi địa vị của mình để rồi, trèo lên cây như một đứa trẻ. Và khi được Chúa ngỏ lời sẽ đến và ở lại nhà ông, ông đã vui vẻ trèo xuống và đón tiếp Người cách hân hoan, mặc cho những lời xì xầm, đàm tiếu của đám đông dân chúng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”. Ông biết rõ mình là người tội lỗi, nhưng ông không giấu giếm điều đó. Ông thành tâm muốn giao hoà với Thiên Chúa.
Không chỉ giao hoà với Thiên Chúa. Ông còn muốn giao hoà với anh em. Và chính sự giao hoà lại với anh em này của Giakêu đã trở nên một dấu chỉ rõ ràng cho tâm tình sám hối chân thành của ông. Ông thưa với Chúa: “Tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Không chỉ đền trả theo lẽ công bằng, Giakêu xin đền gấp bốn. Thậm chí ông còn tự nguyện chia sẻ nửa phần gia tài của ông cho tha nhân. Giakêu đã vượt qua sự công bình thông thường để đi đến đức ái. Lòng nhân ái của Giakêu, chắc hẳn phát xuất từ cảm nghiệm của ông về lòng nhân ái của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Ông biết Thiên Chúa luôn yêu thương ông. Do đó, ông cũng có bổn phận yêu thương và chia sẻ cho anh chị em mình.
Mặc dù câu chuyện của Giakêu đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng có lẽ mẫu gương của Giakêu vẫn là bài học thiết thực cho mỗi người chúng ta hôm nay. Tương tự như ông Giakêu, trong hành trình theo Chúa, mỗi người chúng ta vẫn đang gặp biết bao khó khăn, trở ngại. Nào là đường xá xa xôi, lầy lội, thời tiết bất thường đi lại khó khăn; nào là bận rộn với công việc làm ăn bởi vì hôm nay “người khôn của khó”; nào là Nhà thờ chật chội, nóng nực, lại còn bị muỗi đốt … Thế nhưng, theo gương của Giakêu, chúng ta hãy cố gắng “chạy lên trước” vượt qua những khó khăn bên ngoài, rồi can đảm “trèo lên cây”, để vượt thắng sự nhỏ bé ươn lười của chính bản thân, để đến với Chúa trong các Thánh Lễ mỗi ngày, nhất là Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, và sốt sắng đón Chúa vào lòng nhờ việc hiệp lễ một cách chu đáo. Và nhờ có Chúa trong tâm hồn, chắc chắn chúng ta sẽ nhận được ơn cứu độ. Đồng thời, cuộc sống của chúng ta sẽ là một lời chứng sống động để dẫn đưa anh chị em chúng ta đến với Chúa. Amen.
.
Lm. Vũ Minh Nghiễm
“Hôm nay nhà nầy được ơn cứu độ.”
Toàn bộ sách Tin Mừng được viết ra tập trung vào một chủ đề: Đức Kitô là Đấng cứu độ trần gian. Đó là quan niệm của các môn đồ tiên khởi về thân thế và sự nghiệp của Ngài.
Trên thực tế, Ngài đã cứu họ. Ngài rất hiểu sứ mạng cứu thế của Ngài. Ngài nói: “Con Người đến trong thế gian để tìm cứu những gì đã hư mất” (Lc 19:10)
Điều đáng tiếc là trong Giáo hội, đề tài này chỉ mặc được một ý nghĩa rất giới hạn. Gần như chỉ giới hạn vào những gì sẽ xảy đến cho chúng ta sau khi chết mà thôi. Được cứu rỗi có nghĩa là đời sau, tại bên kia thế giới, chúng ta được vào thiên đàng, sống bên cạnh Chúa muôn đời.
Điều này thật sự thì rất dễ hiểu. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Thiên đàng là nơi cực lạc, thoát ra ngoài những truân chuyên buồn khổ của trần gian. Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng ước được vào thiên đàng.
Nhưng đây không phải là điều mà sách Phúc âm nhấn mạnh trước hết trong công cuộc cứu độ trần gian của Đức Kitô. Trong Phúc ân, các thánh sử đã trình bày Ngài như một vị Tôn sư giúp con người ta đối phó với những thử thách của cuộc đời, giải thoát con người ngay trên dương thế.
Bài Phúc âm hôm nay là một ví dụ điển hình. Đức Giêsu đến thăm nhà một ông trưởng thuế vụ. Chúng ta biết câu chuyện đã bắt đầu như thế nào, và đã kết thúc làm sao. Nhưng giữa đó những gì đã xảy ra? Chúng ta không được biết rõ. Đầu hết, Đức Giêsu trên đường đi ngang qua thành Yêricô, nhìn thấy trên cây sung một người thấp bé. Ngài liền nói:
“Hỡi Giakêu, hãy xuống mau. Hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi.”
Kết thúc là ông Giakêu hứa cùng Chúa sẽ lấy nửa phần của cải to lớn của ông bố thí cho người nghèo. Sẽ đền bù gấp bốn cho những người ông đã gian lận. Gian lận ai 100, ông sẽ bù lại cho 400. Chúng ta có thể đoán được sự Chúa viếng thăm ông đã làm cho ông được vui mừng hạnh phúc như thế nào, đã đổi mới đời ông, giải thoát ông như thế nào.
Và Đức Kitô đã tỏ mình là đấng cứu độ loài người ngay trên trần gian nầy như thế nào.
Đây lời Ngài phán trong cuộc tiếp xúc với ông Giakêu:
“Hôm nay đây, nhà này được ơn cứu độ.”
Lời Chúa vừa nói có nghĩa gì? Chúng ta có thể nghĩ rằng hôm nay ông Giakêu đang được ở trên thiên đàng?
Nhưng đó không phải là điều mà bài Phúc âm muốn nhắm. Chúa đang nói về kinh nghiệm cứu độ xảy đến ngay ngày hôm đó tại nhà ông Giakêu. Ông đã được cứu độ cách rất thiệt thực trong đời sống hằng ngày của ông tại thành Yêricô.
Nhìn vào bối cảnh của đời ông, chúng ta có thể hiểu được phần nào Đức Kitô đã cứu giúp ông như thế nào. Phúc Âm nói: “Ông là một trưởng ty thuế vụ vùng Yêricô, tức là người cầm đầu các nhân viên thu thuế. Điều nầy làm cho ông Giakêu trở thành một người bị đồng hương ghét bỏ hoàn toàn. Người thu thuế là hạng người đáng ghét nhứt, đáng khinh bỉ nhất trong dân Israel thời bấy giờ.
Người thu thuế trong Phúc âm với người có tội cũng là một. Họ có tội thứ nhất, là tội phản quốc. Cộng tác với kẻ thù là dân cai trị Rôma, để thâu tiền về cho đế quốc. Họ có tội thứ hai là tội lỗi phép công bằng. Họ thâu đa mà nộp thiểu. Họ thâu mười mà không biết có nộp cho chính phủ được bốn năm hay không? Họ được chính phủ cho phép tha hồ làm giàu trên dân chúng.
Người thu thuế quả là người có tội. Mà ông Giakêu không những là người thu thuế, mà còn là cầm đầu các người thu thuế. Với cương vị trưởng ty thuế vụ, ông còn bốc lột hơn các đồng nghiệp. Người thu thuế đã đáng ghét rồi, ông trưởng ty phải đáng ghét gấp bội. Không ai muốn nói chuyện với ông. Trên đường phố, ai cũng xa lánh ông. Ông bị cấm tham dự các buổi lễ nghi tôn giáo.
Sự khinh khi ghét bỏ của xã hội chung quanh đó hẳn gây ảnh hưởng tai hại lớn lao cho tính tình ông, cho đời sống hằng ngày của ông. Ông chỉ là cái đích cho thiên hạ phỉ nhổ.
Tôi sẽ không thể có được một chút tự tin hay hãnh diện nào về bản thân tôi, nếu không có một người nào khác giúp tôi có đuợc sự tự tín hay hãnh diện về tôi.
Đức Giêsu chính là người khác đó của ông Giakêu. Trong khi những người đồng hương xa lánh ông, coi ông như phẩn thổ, thì Đức Kitô nhận biết ông, gọi ông đích danh: “Hỡi Za khê”. Trong khi những người khác khinh thị ông, thì Đức Kitô kính nể ông. Ngài không sợ người chung quanh thấy Ngài chuyện vãn với ông. Hơn nữa, Ngài muốn lưu lại nhà ông hôm đó, dường như là bạn cố tri của ông Giakêu vậy.
Sự Đức Kitô chấp nhận ông là khởi điểm ơn cứu độ của ông. Ngài cho ông chỗ đứng trong đời sống mới.
Người chung quanh chỉ thấy ông là một người tham lam bất lương. Và hình như ông Giakêu cũng mặc nhận như vậy. Nhưng Đức Kitô nhìn thấy trong ông những đức tính tiềm tàng có thể làm ông trở nên một ngưới lương thiện.
Thái độ của Đức Kitô đối với ông đã làm cho những đức tính tiềm tàng kia hiện ra và đáp ứng với những thách đố của một đời sống cao thượng.
Trước đây ông vốn tham lam, bất lương. Nhưng hôm nay ông đã đổi đời, không đi theo con đường cũ nữa. Lòng quảng đại của ông đã bị chôn vùi trong bao nhiêu năm, hôm nay, với sự hiện diện của Đức Kitô, lòng quảng đại đó đã bộc phát một cách thật rõ ràng.
“Tôi xin bố thí nữa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu xưa nay tôi có làm thiệt hại ai, tôi xin bù lại gấp bốn.”
Quả là một sự lạ lùng. Rất lạ lùng: “Hôm nay đây nhà nầy được ơn cứu độ.”
Hôm nay đây ông Giakêu đã trở nên người hiền lương, một người bạn dân. Ông sẽ được các đồng hương kính nể, yêu vì. Khi cần, họ sẽ cầu bàu cùng Đức Giêsu cho ông như họ đã cầu bàu cùng Ngài cho viên sĩ quan Rôma rằng: “Ông nầy đáng được Ngài giúp đỡ, vì ông quí mến dân ta.” (Lc 7:5). Phải: “Hôm nay đây, chính hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”
Phương pháp Đức Kitô dùng để cứu đời là giúp người ta khai thác những khả năng tiềm tàng của mình: Ngài nhìn họ như người điêu khắc nhìn thấy một pho tượng tốt đẹp trong khối đá cẩm thạch sù sì. Ngài giúp họ khai thác các đức tính của họ như thầy giáo giúp học trò khai thác các tài năng của mình. Lòng ưu ái của Ngài đã làm cho những đức tính vốn tiềm tàng của họ được hiện ra sống động.
Một người khác tên Simon, vốn rất yếu đuối và nhu nhược, đến nỗi run sợ trước một cô sen, chối bỏ Thầy đến những ba lần. Thế mà lòng ưu ái của Ngài đã biến đổi con người yếu đuối dễ thất trung thất tín ấy thành Phêrô, hòn đá tảng của Giáo hội. Ông được cứu độ hoàn toàn trong đêm thứ Sáu Tuần thánh.
Một người khác nữa tên Saolô, thuộc nhóm biệt phái, cuồng tín, hung hăng dữ tợn, bắt bớ đạo Chúa không ai bằng. Thế mà Ngài đã cảm hóa được. Và Saolô đã trở thành Phaolô, vị tông đồ thượng thặng của các dân ngoại. Phaolô đã được cứu độ hoàn toàn trên đường Damas.
Đối với chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta có thể quả quyết rằng tất cả những gì là tốt lành, là lương thiện trong chúng ta, một phần lớn là do nơi lòng tin tưởng một cách nào đó, một lúc nào đó, của một người nào đó đối với chúng ta.
Cũng như sự nghi ngờ, khinh khi của người khác đối với tôi sẽ làm cho mất tinh thần, bế tắc, bại hoại, xuống giốc, thì lòng tin tưởng, ưu ái của người khác đối với tôi, là một động lực thúc đẩy tôi trở thành người tốt, hầu đáp lại lòng tin tưởng và ưu ái của họ.
Đức Kitô đã tin tưởng vào ông Giakêu. Ngài giúp ông tìm ra thế giá của mình.
Rồi Ngài đi một bước xa hơn. Ngài đã giúp ông ý thức được trách nhiệm đối với người khác. “Tôi sẽ chia sẻ nửa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu tôi đã làm thiệt hại ai, tôi sẽ đền bù cho họ gấp bốn.”
Trau dồi các nhân đức nơi bản thân và lưu tâm giúp đỡ kẻ khác, là như đôi ngựa song phi. Hai điều kiện hình thành ơn cứu độ. Người chỉ lo cứu linh hồn mình, mà không quan tâm gì đến việc giúp đỡ kẻ khác, người đó tự lừa dối mình.
Một buổi sáng bêm bờ hồ Galilê, Đức Giêsu hỏi Simon Phêrô:
– Con có yêu mến Thầy không?
Phêrô trả lời:
– Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.
Không đợi cho Phêrô nói gì thêm, Đức Giêsu tiếp liền:
– Hãy chăn dắt các con chiên Ta. (Yo 21:16)
Cứu độ là một danh từ vĩ đại trong tất cả các ngôn ngữ của thế giới. Toàn bộ sách Phúc âm được cấu tạo chung quanh hai tiếng cứu độ. Một ơn cứu độ torng đời sống thường ngày ngay trên trần gian. Nhưng ơn Cứu độ bao giờ cũng có hai chiều song song. Chúa cứu độ tôi. Và đến lượt tôi, tôi phải thực hành ơn cứu độ đó nơi kẻ khác, bằng cách bớt thời giờ, bớt sức lực, bớt tài năng, bớt của cải, để phục vụ Chúa nơi kẻ khác. Chỉ có lúc bấy giờ, lời Chúa phán hôm nay mới được đầy đủ thể hiện nơi tôi:
“Hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”
.
Lm. Thanh Minh
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhất lé nhì lùn”. Đó là hai hạng người mà dân gian có thành kiến rằng “chẳng ra gì”. Nhưng không riêng gì Việt Nam mà có lẽ nhiều nước trên thế giới như Do Thái cũng không coi trọng hạng người thiếu thước này.
Phúc Âm hôm nay thuật lại một câu chuyện ngộ nghĩnh của một “chú lùn” lọt mắt xanh Chúa Giêsu đó là ông Giakêu, một người vừa lùn lại vừa làm nghề thu thuế là nghề được coi là bất chính dưới cái nhìn của dân Do thái.
Nhận biết thân phận lùn của mình, nên Giakêu đã làm một công việc có vẻ “ấu trĩ”, đó là trèo lên một cây cao để có thể nhìn thấy Đức Chúa Giêsu đi ngang qua, vì dân chúng đông đúc. Ông giật mình hoảng sợ vì không ngờ Đức Chúa Giêsu đã ngước nhì lên và gọi đích danh cùng ngỏ ý muốn trọ tại nhà ông. Ông vội vàng tụt xuống khỏi cành cây, lòng tràn ngập vui mừng đón rước Chúa vào nhà và khoản đãi trịnh trọng.
Trước mặt Chúa Cứu Thế, ông đã tà quy chính và hứa sẽ bồi thường thiệt hại gấp bội cho những ai mà mình đã làm thiệt hại. Đáp lại Chúa Giêsu đã tuyên phúc: “Hôm nay nhà được ơn cứu độ… Con Người đến để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã mất”. Vì lòng chân thành mà ông Giakêu đã được tha thứ vá chúc phúc, còn gì hạnh phúc hơn.
“Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 102:8.10).
Sách khôn ngoan nói bài đọc thứ nhất đã nói đến phẩm tính nầy của Thiên Chúa. Trong Phúc âm, đã nhiều lần Đức Chúa Giêsu dùng hình ảnh dụ ngôn để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa và sứ mạng của Ngài như: Người cha và đứa con hoang đàng, người mục tử đi tìm con chiên lạc, bà goá tìm một đồng bạc bị mất v..v..
Dĩ nhiên Thiên Chúa yêu thích những người thánh thiện công chính, nhưng cũng không bỏ rơi những kẻ lầm đường lạc lối. Chúng ta hãy cố gắng sống đạo đức thánh thiện nhưng đừng ngã lòng khi sa chân lỡ bước vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu.”
.
Lm. Jos. Phạm Ngọc Ngôn
Chúng ta đang ở chặng cuối cùng của hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu và các môn đệ để thực thi công cuộc cứu độ. Chặng cuối của hành trình và cũng là cửa ngõ đi vào thánh thánh Giêrusalem chính là thành phố Giêrikhô. Chính nơi đây, thánh sử Luca ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên trưởng quan thu thuế Giakêu. Câu chuyện thật cảm động và thật ý nghĩa. Lý do là vì nó không chỉ cho chúng ta biết cách thức, hành trình của một tội nhân trở lại đón nhận ơn cứu độ, mà còn là dịp để chúng ta nhận ra tình yêu thương và sứ mệnh của Chúa Giêsu đối với người tội lỗi.
Tên gọi Giakêu có nghĩa là “người thanh liêm”- xem ra có vẻ mâu thuẫn với chính con người cũng như công việc hiện tại của ông, nhưng đó lại là sự thật. Vâng, thánh sử Luca đã không ngần ngại liệt kê lý lịch đầy bất hảo của ông- ít nữa trước mắt người Dothái: “Đứng đầu người thu thuế và là người giàu có”. Rõ ràng Giakêu là quan thu thuế, mà không chỉ là quan thu thuế bình thường, ông là đại quan, là “đầu sỏ” của những tên thu thuế, bóc lột dân đen để làm lợi cho đế quốc Rôma. Thế nên, sự giàu có của ông cũng là điều dễ hiểu. Đó là sự giàu có không do công sức của mình mà phần lớn xuất phát từ những trò ma mãnh trong ngành mà có. Vì lẽ đó, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Giakêu bị dân chúng Dothái khinh bỉ, bị tẩy chay và cho là kẻ ô uế. Thế nhưng dù có bị dân chúng tẩy chay, khinh bỉ, Giakêu vẫn cố tìm cách để nhìn thấy Chúa khi biết Người sẽ đi qua thành phố Giêrikhô thân yêu. Chúng ta có thể thấy nổ lực của Giakêu trong việc cố tìm cách để thấy Chúa không hẳn xuất phát từ sự tò mò, hiếu kỳ trước con người Giêsu, mà đó còn là khởi điểm cho một hành trình đức tin, tìm về cội nguồn chân lý. Đám đông cũng như vóc dáng nhỏ bé không cho phép ông nhìn thấy Chúa, ông không thất vọng, ông trèo lên cây sung và nóng lòng đợi chờ…
Những nổ lực của Giakêu cuối cùng đã có tác dụng nhờ Chúa Giêsu chính là người đã đi bước trước. “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Chính Chúa Giêsu đã cố tìm Giakêu vì sứ mệnh của Người là đi tìm những con chiên lạc, quy tụ về một ràn chiên. Không chỉ thế, Chúa Giêsu tự làm khách đến nhà của Giakêu – điều mà trước đây chẳng mấy ai làm, ngoại trừ bị ông kêu đến để hoạch hoẹ về chuyện thuế má. Chúa đến nhà ông, đồng bàn cùng ông, bởi như ngôn sứ Êdêkien, Chúa Giêsu “không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18, 23), Người muốn Giakêu nhận ra những lầm lỗi của mình để trở về.
Chúng ta có thế thấy nổi vui mừng khôn tả của Giakêu khi được Chúa Giêsu viếng thăm. Ông không thể ngờ rằng trong khi mọi người trong thành phố Giêrikhô này đều căm ghét, lạnh lùng và khinh bỉ ông, thì cái ông Giêsu “bắc kỳ” (miền Galilê) lại vui vẻ thân tình với ông. Ông có ngờ đâu đang khi người dân của thành phố Giêrikhô liệt ông vào hạng người tội lỗi, bán linh hồn cho ma quỷ, thì lại được Chúa Giêsu công khai nhìn nhận ông là “con cháu tổ phụ Apraham”. Ông cũng có ngờ đâu xuất phát từ ý muốn có thể là bộc phát chỉ để nhìn thấy Chúa, đơn giản thế thôi, thì giờ đây khi được tiếp xúc với Người, được đồng bàn với Người, ông quyết định làm lại cuộc đời. Cuộc đổi đời của Giakêu không chỉ trong việc ông chia sẻ, bố thí cho người nghèo “phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”, mà còn được thể hiện trong ước muốn sống đời sống công bình ngay thẳng nữa. Ông thú nhận với Chúa: “Nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúng ta biết luật Dothái cũng như luật Rôma chỉ quy định khi có bằng chứng xác thực về tội ăn trộm chiên hoặc bò, thì phải đền 5 lần đối với bò và 4 lần đối với chiên (x. Xh 21, 37). Giakêu không chỉ buộc mình có vậy, ông còn đi xa hơn nữa trong tất cả mọi của cải chiếm đoạt.
Có thể nói không gì có thể sánh ví niềm vui mừng khôn tả của Giakêu khi cuộc đời ông được gặp gỡ Chúa và được Chúa biến đổi. Cuộc gặp gỡ và biến đổi đó không chỉ trên bình diện cá nhân, mà còn lan rộng, mang chiều kích xã hội. Ước gì mỗi người trong chúng ta cũng được Chúa Kytô biến đổi để trở nên những Giakêu thanh liêm hầu mưu ích cho muôn người.
.
Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến
Luca thuật lại hai câu chuyện liên quan đến thành Giêricô: người mù được chữa lành khi Chúa Giêsu đến gần đó (18,35-43), và ông Giakêu khi Người đi ngang qua thành (19,1-9). Câu chuyện Giakêu được đặt ở cuối hành trình lên Giêrusalem (9,51-19,27). Hành trình tạm ngưng khi Người dừng chân ở lại nhà người thu thuế nầy (x. 17,11;18,31). Có thể phân chia bố cục của đoạn như sau: – Bối cảnh dẫn nhập (c. 1); – Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6); – Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông, và kết luận (cc. 7-10). Hai phần chính có cấu trúc hình thức tương tự nhau. Trong phần đầu (cc. 2-6), Giakêu tìm gặp Chúa Giêsu, và bị dân chúng cản trở. Họ che ông khỏi thấy Người, vì ông thấp bé (c. 3). Ông tìm cách vượt qua trở ngại bằng cách trèo lên cây sung (c. 4). Chúa Giêsu đáp lại sự tìm kiếm của ông là đi ngang qua chỗ ông và nói với ông (c. 5). Người đến nhà ông và ông đón tiếp trong vui mừng (c. 6). Trong phần thứ hai (cc. 7-10), Chúa Giêsu đến nhà Giakêu, và bị dân chúng cản trở bằng những lời lẩm bẩm (c. 7). Người vẫn đến và Giakêu đáp lại bằng sự sửa mình của ông (c. 8). Chúa Giêsu vui mừng vì đã cứu vớt được một người con của Abraham (cc. 9-10). Những từ quan trọng liên kết hai phần với nhau đều nằm ở câu 5 và 9 là “hôm nay”, “ nhà” và “Giêsu”. Hai câu nầy là chìa khóa giúp hiểu ý nghĩa của mỗi phần. Từ eis-erchomai “đi vào”(c. 1) và erchomai “đi” “đến” (c. 10) đóng khung đoạn (inclusio), đánh dấu việc cứu độ Chúa Giêsu làm cho Giakêu đã xong tại Giêricô. Dựa trên câu chuyện của Giakêu, có thể thấy việc Giakêu tìm kiếm Chúa (c. 3) đã kết thúc với việc Chúa Giêsu tìm kiếm ông theo chiều ngược lại, và đã cứu vớt ông (c. 10).
Chúa Giêsu vội vã đi ngang qua Giêricô để lên Giêrusalem (c. 1). Động từ “đi ngang qua”, dia-erchomai, gợi lên ý tưởng đi xuyên lãnh thổ, và đi vội vã (x. 2,15; 4,30; 5,15). Người nhắm đến Giêrusalem và không muốn chậm trễ. Tuy nhiên, Người đã tự cầm chân mình lại trong nhà Giakêu để cứu vớt người nầy.
Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6). Phân đoạn nầy tập trung vào Giakêu: – Con người và ước muốn (cc. 2-3); – Thực hiện ước muốn và kết quả đến hơn cả lòng mong muốn (cc. 4-6). Cụm từ “Và nầy” mở đầu, dùng để kéo sự chú ý vào điều sắp được trình bày; tương tự như thế khi nói về Simêon (2,25). Luca giới thiệu tên, nghề nghiệp và thân thế của Giakêu (c. 2). Zacchaeus là hy lạp hoá tên hipri Zakkay (Nêh 7,14; Esdra 2,9), có nghĩa là “sạch, vô tội”. Là trưởng thu thuế, nên ông giàu có. Giêricô là trụ sở quan thuế thường được nhắc đến, và đây là thí dụ điển hình.
Giakêu tìm thấy cho bằng được Chúa Giêsu là ai (c. 3). Động từ “tìm kiếm” được dùng rất nhiều lần trong Luca; nhưng ở thể quá khứ chưa hoàn thành, chỉ được dùng cho Giakêu, cho Hêrôđê (9,9) và Giuđa (22,6). Khó có thể nghĩ là độ dài, sự lập lại của việc tìm kiếm của Giakêu chỉ xảy ra cách ngắn ngủi khi Chúa Giêsu vội vã ngang qua thành Giêricô. Nếu như thế, tìm kiếm ấy chỉ là một sự tò mò nhất thời. Sự tìm kiếm nầy phải là đã từ lâu, bây giờ là cơ hội để tìm thấy, như trường hợp của Hêrôđê (x. 23,7-8) và Giuđa (22,47). Động từ nầy thường hàm ý là tìm cho đến khi nào thấy được (2,48.49; 9,9). Tuy Giakêu đã đi tìm, chính Chúa Giêsu mới là người tìm thấy ông (c. 5). Người tỏ mình ra cho ông, như trong khẳng định “Ai tìm sẽ được cho” (11,9-10; 12,31). Sự thấp bé của Giakêu là sự kiện chứ không phải là nguyên nhân. Dân chúng mới là nguyên nhân “vì dân chúng” (c. 3). Họ cản trở không cho ông nhìn thấy Chúa Giêsu, cũng như họ không muốn Người đến nhà ông (c. 7). Đáng ngạc nhiên là Luca trình bày phản ứng của dân chúng tương tự như phản ứng của những người Pharisêô (x. 5,30; 15,2).
Khung cảnh thu nhỏ lại hơn. Chúa Giêsu “đi ngang qua Giêricô” đến “đi đến” chỗ cây vả nơi có Giakêu (c. 4). Chúa Giêsu dừng lại ở đó. Tên “Giêsu” được nêu rõ ở đây, cũng như ở câu 9, chỉ sự quan trọng của điều Người sắp nói: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh” (c. 5). Chúa Giêsu lên chương trình cho Giakêu. Ông phải “xuống mau” vì Người đang vội vã đi lên Giêrusalem. Nhưng Người “phải” ở lại, vì đó là sứ mệnh cứu độ của Người (x. 2,49; 4,43; 9,22…). “Hôm nay” sẽ được lập lại trong c. 9 chỉ thời điểm ơn cứu độ được thực hiện (2,11; 4,21; 5,26; 23,43). “Nhà của anh” đại từ chỉ ngôi “của anh” đặt sau “nhà” là vị trí nhấn mạnh. “Ở lại” là một phần của việc tông đồ (x. 1,56; 9,4; 10,7; 19,5; 24,29). Giakêu đã trèo lên để tìm xem Chúa (c. 4). Bây giờ ông trèo xuống vì đã gặp Người (c.6). “Vội vã” chỉ sự khao khát (x. 2,16). Động từ “đón tiếp” hàm ý sự hiếu khách (x. 10,38). Ông vui mừng vì Chúa ở lại nhà ông. Luca thường nói đến niềm vui của những người được Thiên Chúa can thiệp và cứu độ (x. 1,14; 1,28; 6,23; 10,20; 13,17; 19,6). Như thế, Giakêu đã nhận được nhiều hơn cả điều ông mong ước.
Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông (cc. 7-10). Động từ “cho” và “hoàn trả” (c. 8) ở thì hiện tại hiểu như là tương lai gần: “tôi sẽ cho”, “tôi sẽ hoàn trả lại” (x. 4,6; Cv 3,6). Giakêu đã không làm điều nầy trong quá khứ. Ông đã đặt giả thiết là ông có thể đã làm thiệt hại ai đó trong quá khứ (c. 8). Nên không lạ gì dân chúng nghĩ ông là “người tội lỗi” (c. 7). Do đó, quyết định nầy chứng tỏ ông đã hoán cải. Và Chúa Giêsu mới tuyên bố là “hôm nay ơn cứu độ đến với nhà nầy” (c. 9), và “Người đến để cứu vớt những người hư mất” (c. 10). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã biến đổi đời ông. Động từ “sykophante” có nghĩa là “gian lận”, “áp bức”, “hăm dọa tống tiền” (x. 3,14). Làm nghề thu thuế, Giakêu gian lận tiền bạc của người khác cho chính mình. Dựa vào luật Môse, phải đền trả lại “gấp bốn” (x. Xh 21,37; 2 Sam 12,6) hay “gấp năm” (x. Lv 6,5; Ds 5,6-7).
Như câu 5 ở trên, Chúa Giêsu lại tuyên bố (c. 9), và lần nầy Người nói đến sự cứu độ cho Giakêu, “người con của Abraham.” “Cứu độ” được gắn liền với “hôm nay”; xem ở trên. “Con cháu của Abraham” không phải chỉ do bởi sự thuộc về dân tộc Do thái. Chúa Giêsu đã phê bình những người tự hào là họ có Abraham là tổ tiên, nhưng thiếu lòng hoán cải (x. 3,8). Chính sự hoán cải trở về với Thiên Chúa mới chứng thực ai là con cái của Abraham. Giakêu đã làm điều nầy và đáng được gọi là con cái của Abraham. Câu 10 lấy lại ý tưởng của câu 5,32 với nhiều thay đổi từ ngữ. Đó là “đến tìm kiếm” và “những người hư mất”, thay vì nói đến việc kêu gọi “người tội lỗi hoán cải”. Việc thay đổi từ ngữ nấy nhằm nhấn mạnh sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu; xem dụ ngôn đi tìm chiên lạc (15,4-7). Tước hiệu “Người Con của Nhân Loại” gắn liền với cuộc thương khó, sự chết và vinh quang (9,26.44; 12,8; 22,69); đồng thời cũng gắn liền với những người thu thuế và tội lỗi (7,34; 19,10). Họ là những người đầu tiên “phải” được tìm đến và cứu chuộc. Vậy như lời hứa với Abraham (1,73), Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với con cháu của ông (1,55) qua việc ban ơn cứu độ cho Giakêu.
Thiên Chúa vẫn còn đi ngang qua trần gian nầy để tìm kiếm và cứu độ những người đã hư mất. Hãy mở cửa nhà cho Chúa. Mời Người vào và lãnh nhận ơn cứu độ.
.
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng
Chúng ta đổi công việc, đổi nhà, thay xe…, nhưng nói đến đổi mới cuộc đời thì ít ai muốn thực hiện. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do đáng kể nhất đó là người ta không muốn mạo hiểm và cố gắng. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc đổi đời đầy mạo hiểm và nỗ lực về phía ông Giakêu, nhưng quan trọng hơn chính là vai trò và ảnh hưởng của Chúa Giêsu trong cuộc thay đổi này.
Câu chuyện xảy ra tại Giê-ri-khô, một thành phố nằm phía đông Giê-ru-sa-lem và gần Biển Chết. Thành phố đông dân cư, buôn bán phồn thịnh. Cho nên ông Giakêu đứng đầu những người thu thuế ở đây thì nhất định phải là người giàu có rồi. Dân chúng khinh dể ông, còn gọi nhà ông ở là “nhà người tội lỗi”. Chúng ta không rõ lý do nào khiến ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Rất có thể vì ông đã nghe nói “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng” và Người còn “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lu-ca 15:1-2). Tuy nhiên lần này cộng thêm với việc ông tìm cách gặp Chúa, thì chính Chúa lại chủ ý đi tìm ông. Ông nấp ở trên cây sung, không ai nhìn thấy ông. Nhưng Chúa Giêsu không cần ai mách bảo, Người chủ động nhìn lên và kêu ông xuống. Trong cuộc đổi đời này, cả ông Giakêu lẫn Chúa Giêsu đều đích thân tìm đến với nhau. Chúa Giêsu đã mở đầu diễn tiến cho cuộc thay đổi khi Người đề nghị trước: “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Dường như Chúa muốn ngầm bảo ông: Tôi đã tóm được ông rồi. Giả như ông có đuổi, tôi cũng không đi! Hôm nay tôi ở lại với ông, để bắt đầu cho việc ở lại vĩnh viễn suốt cuộc đời ông! Đúng vậy, chỉ có sự hiện diện của Chúa mới giúp cho cuộc đổi đời thành công. Khi người ta có mối tương quan với Chúa, tương quan ấy sẽ có sức mạnh biến đổi họ. Gần đèn thì rạng là thế. Đáp lại đề nghị của Chúa, ông Giakêu “vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”.
Trong cảnh kế tiếp của câu chuyện, thánh Luca mô tả một ông Giakêu mới. Chúa và ông Giakêu đứng đó trước mặt mọi người. Mặc cho bao con mắt soi mói, ông chỉ biết có Chúa Giêsu hiện diện mà thôi. Ông công khai “xưng tội” với Chúa và trước mặt mọi người. “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Ông nhìn nhận mình đã ăn cướp của người nghèo nên giờ đây ông lấy phân nửa tài sản để trả lại cho người nghèo. Ông thú nhận đã chiếm đoạt nhiều thứ của người khác nên ông tự nguyện xin đền gấp bốn. Quả thực ông đã trở thành con người mới rồi, tất cả là nhờ gặp gỡ Chúa Giêsu! Về phần Chúa Giêsu, Người trang trọng nhìn nhận sự thay đổi của con người Giakêu. Chúa Giêsu trước hết nói về cuộc biến đổi của cái nhà: “nhà người tội lỗi” giờ trở thành “nhà tiếp nhận ơn cứu độ”. Rồi Chúa nói đến sự biến đổi con người. Từ một “người tội lỗi” và bị đồng bào loại trừ khỏi cộng đồng con cháu Áp-ra-ham, bây giờ ông Giakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sau khi nhìn nhận cuộc đổi đời của ông Giakêu, Chúa Giêsu đã khẳng định lại vai trò của Người: “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất”. Lời này của Chúa làm cho chúng ta vững tâm thay đổi cuộc sống. Chúng ta “đã mất” trong nhiều phương diện, nhất là mất đi căn tính làm con cái Chúa. Thường chúng ta không đổi đời một cách nhanh chóng và ấn tượng như trường hợp ông Giakêu, nhưng là cuộc biến đổi từ từ, liên tục và kéo dài cả một đời. Dù thế nào đi nữa, vai trò sự hiện diện của Chúa Giêsu và cố gắng của chúng ta vẫn là những yếu tố chính để việc biến đổi được tiếp tục. Hơn lúc nào hết, hình ảnh “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Philípphê 4,10) mà thánh Phaolô nêu lên luôn là hình ảnh sống động nhất diễn tả tiến trình thay đổi. Có lẽ chúng ta sử dụng hình ảnh này mỗi ngày trong cuộc xét mình buổi tối, nhìn lại một ngày sống để xem cuộc đổi đời của chúng ta tiến triển như thế nào.
Chúa Giêsu lúc nào cũng muốn đến để tìm và cứu chữa chúng ta. Cũng như ông Giakêu, chúng ta chỉ cần mở tâm hồn đón Chúa. Chúa muốn ở lại với chúng ta, nên chúng ta hãy để cho người tiếp tục ở lại và thực hiện cuộc tìm và cứu chữa này.
.
Lm Vũ Khắc Nghiêm
Văn hòa Victor Hugo viết tác phẩm nổi tiếng tựa đề là “Những kẻ khốn cùng” (Les Misérables) đã kể câu chuyện vền Văn Giang (Han Valjean), một tên sát nhân bị tù 19 năm. Khi được tha về, không ai dám đến gần. Chàng vào tiệm ăn, bị đuổi, vào nhà trọ, vừa thấy mặt anh, người ta đóng cửa lại, vào ổ chó, chó sủa inh ỏi, vào trọ nhà Đức Giám mục Myriet được tiếp đãi hết sức trọng hậu. Nhưng đến đêm, chàng nổi máu tham, ăn cắp cây đèn bạc rồi trốn đi. Chính quyền bắt được, giải tới Đức Giám mục. Ngài nói: “Chính tôi tặng anh và tặng thêm hai cây đèn nữa.” Rồi Ngài nói với anh: “Anh cầm lấy, anh hãy bỏ ác theo thiện. Tôi mua linh hồn anh và trao cho Chúa.” Từ đó, Van Giang suy nghĩa, hối cải và sau này trở thành một Thị trường rất đạo đức.
Đức Giêsu cũng đã xử rất thân tình với người thu thuế mang tiếng là ông tổ tham nhũng, ăn cướp của dân, tên là Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Phân tích bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có ba lối xử sự. Lối thứ nhất sợ “gần mực thì đen.” Lối thứ hai “gần đèn thì sáng”. Lối thứ ba “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, còn làm cho bùn được vẻ thanh tao đẹp đẽ, hay đúng hơn đó là ánh sáng thế gian, là muối đất còn hơn là hoa sen.
Lối xử thứ nhất của những người xì xầm nói hành Đức Giêsu: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ.” Theo quan niệm dân Do Thái bấy giờ coi những người dân ngoại, những người công chức bám gót đế quốc Rôma, và nhất là hạng người thu thuế cho Đế quốc, bị coi là hạng người tội lỗi ghê tởm. Họ phải xa tránh, lỡ phải tiếp xúc với những người ấy, khi về nhà, họ phải thanh tẩy bằng cách tắm rửa để khỏi ô uế. Lối xử đó gây ra hậu quả tai hại là phân chia giai cấp, chia rẽ chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, tự cô lập mình. Hậu quả tai hại thứ hai là tạo ra hạng người kiêu căng, tự coi mình là trong sạch, hơn dân tộc khác. Họ không biết mình cũng đầy tội lỗi như mọi người. Họ phải đấm ngực ăn năn xin Thiên Chúa tha thứ. Họ không được phép kết án ai để khỏi bị Thiên Chúa kêu án. Có lần họ đã kết án người đàn bà phạm tội ngoại tình và xin Đức Giêsu kết án ném đá chị. Nhưng Người bảo họ: “Ai không có tội, hãy ném đá chị đi! Họ đã rút lui để khỏi bị Đức Giêsu kết án.
Lối xử thứ hai của ông Giakêu: “Ông đứng đầu những người thu thuế và là người giầu có.” Chế độ thu thuế lúc bấy giờ là cho đấu thầu. Dĩ nhiên ai nhiều tiền lắm của mới trúng thầu. Ông Giakêu chắc trúng thầu mới là người đứng đầu những người thu thuế. Người chủ thầu mặc sức thu thuế để mau thu lại vốn và làm giầu. Sự giầu có của ông còn hơn cả những chủ thầu ở những thành khác vì thành Giêricô, cách Giêrusalem 23 cây số, là đô thị cổ nhất thế giới đã có từ hơn 10 ngàn năm, và nổi tiếng văn minh, thương mại sầm uất, cũng là một đô thị chiến lược được xây cất rất kiên cố ngay thời ông Giosuê dẫn dân Do thái về đất Hứa. Giầu có và sang trọng như thế, nhưng ông lại rất có lòng khao khát được thấy Đức Giêsu. Lòng khao khát mạnh đến nỗi thúc đẩy ông bỏ cả thể diện sang trọng giầu có, sẵn sàng trèo lên một cây sung như đứa trẻ nhỏ để nhìn cho được khi Đức Giêsu đi qua. Đức Giêsu lúc đó đối với ông chỉ là thường dân, khá lắm chỉ là một ngôn sứ nào đó đối với dân thôi, còn đối với chính quyền đời và đạo, Đức Giêsu không là gì, không có chức tước gì. Nhờ lòng khao khát mạnh mẽ đó, ông Giakêu đã được ơn soi sáng thấy một điều lạ lùng: Ông đã được thấy Đấng Cứu thế, và cả gia đình ông được cứu độ: “Hôm nay nhà này đươc ơn cứu độ.”
Đời ông đã đổi mới hẳn. Ông sẳn sàng bán nửa gia tài giúp cho người nghèo khó. Đức bác ái của ông dâng cao. Đức công bằng cũng không kém. “Nếu tôi làm thiệt hại ai, tôi xin đền gấp bốn.” Ông Giakêu chỉ rước Chúa vào nhà có một ngày, đời ông đã hoàn toàn đổi mới, đã hoàn toàn sống theo Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa vào linh hồn không biết bao nhiêu lần, đời chúng ta đã đổi mới, đã nên giống Đức Kitô chút nào chưa?
Lối xử sự của Đức Giêsu là lối xử sự của Thiên Chúa. Người làm cho mặt trời mọc soi sáng cho mọi loài, cho kẻ lành cũng như kẻ dữ, làm mưa xuống cho mọi tạo vật cho kẻ công chính cũng như bất lương, là lối xử sự của Đấng Cứu độ hằng thương xót những người tội lỗi, hướng dẫn những người lầm đường lạc lối, cứu chữa những người yếu đuối, tìm kiếm những người hư mất, phục sinh những người đã chết. Thật ra, “toàn thể vũ trụ trước mắt Người chỉ là hạt sương sớm rơi trên đất, thế mà Người vẫn xót thương. Người xử sự thật khoan dung, vì chúng ta là của Người. Lạy Chúa tể tốt lành và hiếu sinh dường bao!” (Bài đọc 1). Thiên Chúa nhân hậu và quí trọng sự sống của chúng ta như vậy, cho nên thánh Phaolô cầu nguyện cho chúng ta vững tin: “Đừng hoảng sợ.” Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống.
Lạy Chúa! Xin cho con vững tâm tin tưởng mừng rước Chúa đến ngự vào nhà con, cho con được đổi mới và được ơn cứu độ như ông Giakêu. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật
Vẫn có một khát vọng
Đức Giêsu sắp đi ngang qua Giê-ri-khô, chặng cuối cùng trước khi băng qua sa mạc để lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc đi qua này xác định thêm một lần nữa sứ vụ của Đức Giêsu ; đó là tìm kiếm những gì đã hư mất.
Ông Da-kêu là một người bị dân chúng coi thường, vì ông là người cộng tác với quân chiếm đóng Rô-ma. Ông là một nhân viên thuế vụ luôn tìm cách thu lợi cho quân chiếm đóng và nhờ vậy mình được giàu thêm. Trước mắt dân chúng, đó là một con người bị khinh bỉ, mặc dù tên gọi của ông có nghĩa là trong sạch, là công chính.
Tuy nhiên, con người này lại muốn nhìn thấy Đức Giêsu. Trong tâm hổn ông đang trào lên một khát vọng gặp được Đức Giêsu, một con người lừng danh vì các phép lạ, và cả vì lời giảng của Người. Nhưng ông lại là một người thấp bé. Ông chen chúc trong đám đông. Ông nghển cỗ, kiểng chân, nhưng vô ích! Ông chẳng nhìn thấy Đức Giêsu, ông thật là một con người nhỏ mọn, không giá trị. Ông không dám chịu đến gần Đức Giêsu. Ông không dám tỏ mình ra.
Vậy là ông bỏ qua mọi chuyện: viên chức cao cấp này tìm cách trèo lên một cây sung. Một hấp lực nào đó từ bên trong thôi thúc ông. Ông hy vọng từ trên cành cây ông có thể nhìn thấy Đức Giêsu mà không bị phát giác. Những người dân ở đó nhìn thấy cảnh này hẳn phải bật cười: quả là kỳ cục, một đứa trẻ cũng không làm như thế.
Quả thật, vì Đức Giêsu, ông Da-kêu chẳng kể gì đến địa vị của mình. Ông chấp nhận tầm vóc nhỏ bé đích thực của mình. Ông chỉ là một người bé nhỏ khốn khỗ, và ông chấp nhận tình trạng này. Ông khiêm tốn, và bỏ hết mọi sự che đậy, mọi vẻ bên ngoài giả tạo. Ông trở về với sự giản dị của mình. Những gì vẫn bao phủ ông từ trước tới nay, lúc này rơi xuống hết. Đối với người khác, có thể chẳng có gì thay đỗi, nhưng đối với ông tất cả đang bắt đầu!
Tất cả đã thay đỗi – như phần sau của câu chuyện cho thấy. Ông Da-kêu được tái tạo, khi ông khiêm tốn hạ mình. Ông đã leo lên cây (hình bóng của thập giá) và con người cũ đã chết trên đó. Một đời sống mới được khởi đầu, một con người mới được nảy sinh.
Người đến để đem niềm vui
Đức Giêsu đi ngang qua và thấy có gì khác lạ. Ngước mắt lên, Người nhìn thấy ông và ngỏ lời với ông, một con người bị dân Do-thái coi là kẻ bất lương. Người nhận ra nơi con người này có điều gì đó đặc biệt: hành động leo lên cây của ông là một tiếng kêu gửi đến Người.
Người đòi lòng hiếu khách của ông và tỏ ý muốn dùng bữa tại nhà ông. Ông cảm thấy quá hạnh phúc và “vội vàng tụt xuống”. Từ đây cuộc sống của ông hoàn toàn thay đỗi: từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruổng bỏ, ông được Đức Giêsu đưa nhập vào cộng đoàn con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham.
Ông Da-kêu đã bị bất ngờ, nhưng phải nói là dân chúng Giê-ri-khô còn bị bất ngờ hơn: “Nhà người tội lôỵi mà ông ấy cũng vào trọ.” Thật là xúc phạm, không thể nào chấp nhận nỗi. Vậy mà Đức Giêsu còn tuyên bố rõ ràng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
Như thế, từ cái nhìn yêu thương và mời gọi yêu thương, Đức Giêsu không loại trừ ai cả, dù người đó thế nào chăng nữa. Lòng thương xót của Người đủ rộng để bao phủ mọi tội lôỵi của con người. Ông Da-kêu đã lọt vào trong tấm lưới là lòng từ ái của Thiên Chúa. Ông tìm lại được niềm tin nơi người đã cứu ông, và ông đã trở thành người được tha thứ. Còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa! Niềm vui chính là câu trả lời của Thiên Chúa cho con người chấp nhận để mình được cứu thoát khỏi chính bản thân mình và khỏi tội lôỵi.
Ông Da-kêu vui và làm cả nhà rối loạn lên vì niềm vui. Ông thúc giục gia nhân chuẩn bị đón tiếp Đức Giêsu. Từ trước đến nay do bản tính keo kiệt, chưa bao giờ ông tỗ chức một cuộc tiếp đón tưng bừng như thế.
Nhưng chưa hết, do sức mạnh của ơn giải thoát, của niềm vui đang dào dạt trong lòng, ông đã sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo, và hứa đền gấp bốn cho những người đã bị ông cưỡng đoạt tài sản.
Ông Da-kêu đã bị tình yêu Đức Giêsu chinh phục, ông sẵn sàng bỏ mọi sự để sống đời sống mới do Đức Giêsu đem lại. Nhờ lòng thương xót của Người, tâm hổn ông đã hoán cải. Ông không nhận ra chính mình nữa, người khác cũng không nhận ra ông: đó là phép lạ lớn nhất. Có lẽ có người nghĩ rằng ông đã mất trí. Thực ra, sự quảng đại khó tin nỗi này là hệ quả đơn giản do lòng rộng rãi của Thiên Chúa, là dấu chỉ bên ngoài của sự hoán cải bên trong. Khi người ta thực sự được thứ tha, làm sao người ta lại không ước muốn trao tặng tất cả? Bởi vì lúc ấy người ta là một người khác: một con cháu của tỗ phụ Áp-ra-ham, một người được cứu thoát, một người tin vào tình yêu đầy bất ngờ do Thiên Chúa đem lại.
Thiên Chúa cần đến chúng ta
Qua khát vọng của ông Da-kêu, Đức Giêsu đã mở một con đường. Chính Người đã đưa ra sáng kiến, đã lôi ông từ trên cành cây xuống, đã làm vỡ tung những vỏ bọc bên ngoài con người ông. Người cần đến ông Da-kêu, như đã cần đến các ông Phê-rô, An-rê, và những người khác nữa như các cô Mác-ta, Ma-ri-a. Người cần đến họ để ở trong nhà họ, để sống với họ, biến họ thành những người bạn, những người anh em. Người cũng cần đến môỵi người chúng ta, Người muốn đến cư ngụ nơi chúng ta.
Thế nhưng, môỵi lần Đức Giêsu đến với một người nào thì Người trở thành người quấy rầy, người phá vỡ những tình trạng an toàn sẵn có. Những chuyện như thế không chỉ xảy ra nơi ông Da-kêu, nhưng còn nơi nhiều người khác như chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng. Chẳng hạn như Mác-ta, cô phải thay đỗi cách nhìn ; như ông Phê-rô buộc lòng phải thả lưới, như Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải lên đường về Bét-lem, rổi sau đó từ Bét-lem sang Ai-cập. Luôn là những con đường hướng đến nơi không biết trước, không an toàn, kèm theo một thái độ từ bỏ quyết liệt buộc con người phải ra khỏi mình để lao vào trong tấm lòng của Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng đang ở trong chúng ta: Người muốn lôi chúng ta xuống khỏi cái cây của chúng ta. Người muốn phá vỡ sự phòng vệ cá nhân của ta, Người muốn đập tan những gì chúng ta coi là cần thiết để giữ thể diện. Người đang nhìn chúng ta và thôi thúc chúng ta môỵi ngày. Để đáp lại, chúng ta phải để cho lòng thương xót của Người xâm chiếm, đổng thời cũng để niềm vui của chính Thiên Chúa tràn ngập tâm hổn chúng ta.
Nhưng Đức Giêsu ngỏ lời với chúng ta bằng cách nào? Nên nhớ rằng Thiên Chúa đã làm người để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người, ngôn ngữ bình thường của cuộc sống. Chúng ta có khát mong được nghe lời ấy không?
* * *
Con chẳng biết làm thế nào
để kính chào Chúa,
phải chăng là dùng luật lệ của con?
Lạy Chúa, xin chỉ dạy con đường nẻo của Chúa,
xin giải thoát con khỏi cảnh nô lệ
là sự điên rổ của con.
Xin hướng dẫn con, con vẫn còn đủ sức hạ mình,
trước khi chính con trở thành gánh nặng cho con.
theo J. Halevy
.
Thiên Phúc
Nhiều đệ tử đang theo học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
– Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy?
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
Thiên Chúa không những tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ và yêu thương những con người tội lỗi.
Ông Giakêu là một trưởng ty thuế vụ thành Giêricô, một người giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị liệt vào số những kẻ tội lỗi, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn ông bằng con mắt ấy, Người ngước nhìn ông đang ngồi trên cây sung; một cái nhìn nhân từ như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầy chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Người nói với ông: “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Hạnh phúc quá bất ngờ: Người không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ nhoi là được nhìn thấy Người, nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước. Ông chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Báctimê là người thế nào, nhưng chính Đấng ấy lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Vâng, chính đôi mắt tâm hồn ông đã bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy cần chia sẻ và trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đến gấp bốn”. Và Chúa chỉ chờ có thế, để nói với mọi người: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Thật vậy ở đâu có Chúa hiện diện là có ơn cứu độ, ở đâu có ơn cứu độ là có sự tha thứ. Ông Giakêu đã được thứ tha để được nhận lại làm con cái Abraham, con cái của lòng tin, con cái của Thiên Chúa.
Và chắc chắn, không ai có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau đó. Chắc chắn, ông Giakêu không còn giàu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Những người được Chúa “tìm đến và cứu chữa” bao giờ cũng trổi vượt trong nhân cách và kiên vững trong lòng tin.
Lạy Chúa, có rất nhiều người cần chúng con nhìn họ với cái nhìn của Chúa, có rất nhiều người mong chúng con ghé thăm.
Xin cho chúng con một tấm lòng khoan dung như Chúa, và một tâm hồn quảng đại như Giakêu, để cả thế giới này trở nên con cái Abraham, và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Amen.
.
An Phong
Ranh giới giữa nhơ uế và thanh sạch
Trong đạo Do Thái, có một ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa tội lỗi và công chính… một ranh giới rất “thiêng liêng”, mà chỉ có một đời sống luân lý nghiêm khắc mới có thể giúp người ta vượt qua được. Như thế, yếu tố luân lý trở thành yếu tố quan trọng nhất. Họ quan niệm cuộc đời con người như một cuộc thi cử, ai đủ điểm trung bình thì vượt qua được ngưỡng cửa thi cử, đó là thi đậu; ai không đủ điểm thì không thể vượt qua và là thi rớt. Cách phân chia này làm cho người nào chưa vượt qua được mức trung bình thì sợ hãi; người nào vượt qua được mức trung bình thì yên tâm, an nghĩ và thỏa mãn với đời sống của mình.
Chúa Giêsu nhiều lần phá bỏ ranh giới “siêu hình” này, vượt qua ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế. Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế, ăn cơm với họ, Ngài để cho người đàn bà tội lỗi lấy tóc lau chân. Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới úy kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi… để gặp gỡ những người Ngài yêu thương và kiếm tìm.
Không phải luân lý nhưng là ơn cứu độ
Ở đây cũng thế, Chúa Giêsu đã đi bước trước, Ngài vượt qua cái úy kỵ của người biệt phái: bị nhơ uế vì tiếp xúc với người tội lỗi, Ngài thân hành đề nghị trú ngụ ở nhà ông Giakêu, dù lúc đó ông chưa có “hành vi sám hối”.
“Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống đạo: điều chính yếu của Tin Mừng Đức Giêsu chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp cho ông Giakêu sám hối và tìm được một đời sống luân lý tốt đẹp, chứ không phải ngược lại.
Chính vì thế, Luca hay nêu lên cái ngày hôm nay của ơn cứu độ; và mỗi khi Kinh Thánh nói tới “hôm nay”, thì có nghĩa là một điều gì mới của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống con người.
“Hôm nay nhà này được cứu độ”
Ơn Cứu độ tặng-không
Trong thư Roma (5, 8), thánh Phaolô đã từng nói rằng: “Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”
Điều đó được thể hiện trong trình thuật Chúa Giêsu đến với Giakêu hôm nay. Điều “cần thiết” của Giakêu chỉ thái độ sẵn sàng để đón nhận hồng ân của Chúa. Một thái độ sẵn sàng, một lòng tin đơn thành, một sự chân nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là những điều thuộc về tự do của con người mà Thiên Chúa không muốn ép buộc. Với những ai sẵn sàng, Chúa Giêsu nhìn thấy con người đó trong dòng dõi những người tin; “bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”, và Ngài nhận thấy họ chính là đối tượng sứ vụ Ngài; bởi vì: “Con Người đến là để tìm và cứu vớt những gì hư hỏng”.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Không phải con đến với Chúa,
nhưng là Chúa đến với con trong bí tích Thánh Thể hôm nay.
Con đến nhà thờ hôm nay như bày tỏ một chút thiện chí của con;
những gì còn lại, là ơn cứu độ, là sự thay đổi đời sống,
xin Chúa rộng lòng ban cho con
như Chúa đã ban cho ông Giakêu khi xưa.
.
HÔM NAY NHÀ NÀY ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển
Thiên Chúa luôn yêu thương, tha thứ và ban cho con người được ơn cứu độ. Đây chính là bản chất của Thiên Chúa. Bởi vì: “ Thiên Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó” (Kn 11, 23-24).
Bài Tin Mừng hôm nay làm toát lên đặc tính đó khi Đức Giêsu chủ động gọi Giakêu và vào nhà ông cũng như dùng bữa mặc cho người ta xầm xì bàn tán: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi” (Lc 19,7). Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa không quan tâm đến quá khứ của con người, nhưng Ngài để ý đến giây phút hiện tại, sự thiện chí và ngay lành của họ để ban ơn cứu độ.
- Ý nghĩa Lời Chúa
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, đây là chặng cuối cùng trên đường lên Giêrusalem để thực thi sứ vụ cứu chuộc của Ngài bằng cái chết trên thập giá. Trên lộ trình ấy, có dân chúng theo sau Ngài khá đông. Tuy nhiên, trong đám người đó có Giakêu, ông là: “Thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có” (Lc 19, 2). Như vậy, ông là một vị quan chức cấp cao. Nhưng chớ trêu thay, ông lại lùn, mà đám người thì lại quá đông, nên ông ta phải trèo lên cây sung để mong được nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang qua.
Nói đến Gia Kêu là người thu thuế, người Do Thái thường có những dị nghị về hạng người như ông và họ xếp ông chung với hạng đĩ điếm, trộm cắp, là những người làm tay sai cho đế quốc La Mã. Vì thế, họ là những người phản quốc, hại dân. Khi gặp họ, người Do Thái tránh xa như tránh dịch. Không ai được phép giao du với những con người như thế. Bởi vì đây là người tội lỗi tầy trời, đồ thối tha dơ bẩn. Khi đi ngang qua người ấy, người ta sẵn sàng nhổ nước miếng tỏ lòng khinh bỉ…
Tuy bị người ta khinh thị như thế, nhưng ông nhất quyết không chịu khuất phục trước đám đông, vượt lên trên dư luận, và nhất là vượt lên trên mặc cảm tự ty của mình để trèo lên cây sung với hy vọng được tận mắt nhìn thấy Đấng Kitô, Ngài là Cứu Chúa của mình và toàn dân. Đam mê ấy của ông chính là Giêsu, con người mà ông đang mong đợi. Sự kiên quyết của ông không chỉ đơn thuần là sự tò mò, mà đây còn là khởi điểm của hành trình đức tin nơi ông.
Đức Giêsu đã không để cho ông thất vọng khi gọi chính tên ông: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Theo lối hiểu của Kinh Thánh, gọi tên ai là biểu hiện của việc biết rõ về người ấy và có một mối tương quan thân tình với người được gọi. Hôm nay, Chúa gọi ông, vậy Chúa biết rất rõ lòng ông và muốn ông trở về với con người lương thiện, công chính của mình, bởi vì tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”, hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn trở thành người nhà của ông khi nói: “Hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Như vậy, nếu hiểu qua, Giakêu hôm nay đi tìm Chúa, nhưng thực ra Chúa đã đi tìm ông trước.
Hôm nay, Đức Giêsu nhìn Giakêu, nhưng cái nhìn của Đức Giêsu là một cái nhìn mang tính chinh phục, cảm hóa tâm hồn, cái nhìn nhân từ, thương xót, cái nhìn cứu độ. Chính cái nhìn này đã đi lọt vào trong tâm hồn của Giakêu và như một lời cật vấn lương tâm của ông. Cũng chính cái nhìn nhiệm mầu này đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Nếu ánh mắt của Đức Giêsu là ánh mắt nhân từ, yêu thương, thì ánh mắt của Giakêu là ánh mắt sám hối, tin tưởng. Tội của ông rất lớn, vì ông không phải là một người thu thuế thường, mà lại là một thủ lãnh những người thu thuế. Nhưng: “Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản chất của Thiên Chúa” (A.Pope).
“Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Câu nói này của Đức Giêsu đã làm cho ông vui mừng khôn xiết, đồng thời đã thay đổi toàn bộ cuộc đời và thái độ của ông.
Không vui và thay đổi sao được khi cả một xã hội khinh miệt và coi thường ông, thì một Đức Giêsu, một Cứu Chúa lại sẵn sàng vào nhà mình. Giờ đây, với ông, cuộc gặp gỡ này là một cuộc gặp gỡ của tình yêu. Tình yêu đi bước trước là Đức Giêsu, và ông thực sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho ông, nên tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đã biến đổi ông, tình yêu đã gợi lại cho ông lòng bác ái và lẽ công bằng. Chính tình yêu đã hướng dẫn và thôi thúc ông đến hành động là đức ái. Tại sao ông lại can đảm để cho lương tâm lên tiếng? Tại sao ông lại có được lòng quảng đại như vậy? Thưa chỉ một lẽ rất đơn giản là vì ông đã được tha thứ và được yêu nhiều. Lời tuyên bố của Đức Giêsu đã là một lời minh chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho ông: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất” (Lc 19, 9).
Hôm nay, Giakêu đã có cơ hội chuộc tội của mình bằng việc bác ái, và ông đáng được hưởng ơn cứu độ: “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11). Trong sách Tiên tri Đaniel có viết: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Dn 4,24). Và sách công vụ Tông đồ cũng có câu: “Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11,4). Gia kêu đáng cứu độ, vì lòng đơn sơ của ông xuất phát từ sự khiêm nhường, và khiêm nhường lại là linh hồn của đức đơn sơ.
- Sống Sứ Điệp Lời Chúa
Đã là con người, ai cũng có những thiếu xót, bất toàn. Điều quan trọng là chúng ta có dám tụt xuống khỏi cây sung để gặp được Chúa như Giakêu hay không?
Ông Giakêu hôm nay ông đã gặp được Chúa, nên cuộc đổi đời của ông thành công, còn nếu ông mà gặp người Biệt Phái thì có lẽ ông đã xấu lại càng xấu hơn.
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa, chẳng có ai là người trong sạch hoàn toàn. Vấn đề đặt ra, đó là: thái độ của chúng ta có quyết tâm quay lại với Chúa hay không mà thôi.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta không được xét đoán, bởi vì không chừng, chính chúng ta đang có nguy cơ xa dần và đánh mất ơn cứu độ ngay trong khi nhân danh sự tốt lành, thánh thiện kiểu “mồ mả”.
Ngược lại, chúng ta cần có sự cảm thông, xóa bỏ mặc cảm để đến với người tội lỗi với lòng bao dung, tha thứ như Thiên Chúa. Đây cũng chính là liều thuốc bình an mà Đức Giêsu đã dùng cho những người mà Ngài gặp gỡ…
Mong thay, trong xã hội ngày nay, có nhiều người nhận ra và dám sống theo lương tâm; cần ý thức rằng: có một lúc nào đó, tiền bạc không đem lại cho ta niềm hạnh phúc thật. Chức quyền không đảm bảo được cuộc sống mai sau. Chỉ có Chúa mới là nguồn bình an, niềm vui và hạnh phúc thật, bởi vì, Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn biến đổi như Giakêu khi xưa. Xin cũng ban cho chúng con biết yêu thương mọi người và sẵn sàng thực thi bác ái trong tinh thần Kitô giáo. Như thế, chúng con tin tưởng và hy vọng sẽ được ơn cứu độ của Chúa. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Kinh Thánh Cựu Ước cho biết: “Từ nguyên thủy đã sinh ra những kẻ khổng lồ tiếng tăm lừng lẫy, vóc dáng to cao, thạo nghề chinh chiến. Nhưng những người này, Thiên Chúa không chọn, cũng chẳng dạy cho con đường hiểu biết.” (Br 3:26-27) Thế nhưng Thiên Chúa lại chọn Israel.
Người ta luôn chú ý vóc dáng, nhất là phụ nữ, và người ta có câu: “Nhất dáng, nhì da.” Cái vóc dáng quan trọng vì là cái “đập vào mắt” người khác, ít khi người ta chú ý vẻ đẹp tâm hồn – và phải cần có thời gian mới có thể biết được. Thật chí lý khi tục ngữ nói: “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Chắc chắn rằng cái gì TỐT thì ĐẸP, nhưng cái gì ĐẸP thì chưa chắc TỐT. Ngày nay, có lẽ vì quá chú trọng “bề ngoài” (đẹp, giàu, xài sang, nhà cao, xe xịn,…) nên người ta vẫn thường nói đùa mà thật: “Cái đẹp đè bẹp cái nết”. Có lẽ đó là nỗi đau của thời đại vì quá coi trọng vật chất – mặc dù chưa đến mức duy vật.
Mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa, với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, đồng thời có ba thiên chức (vương giả, tư tế và tiên tri). Thế nhưng người ta vẫn “kỳ thị” nhau đủ kiểu, vẫn “bên trọng, bên khinh,” kỳ thị rõ ràng chứ không “thoang thoảng” đâu. Trí tuệ hạn hẹp của phàm nhân thật nhỏ bé, nông cạn, vì thế mà càng dễ ảo tưởng và tự tôn.
Từ xa xưa, Kinh Thánh đã xác định: “Trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất.” (Kn 11:22) Các chi tiết rõ ràng, rạch ròi. Cả vũ trụ còn chẳng là gì huống chi “hạt bụi phàm nhân” là mỗi chúng ta! Nhưng có vấn đề đáng lưu ý: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11:23) Đó chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh GH Gioan Phaolô II có “bài toán thần học” thế này: Sự đau Khổ + Lòng Thương Xót = Sứ Vụ. Lãnh nhận sứ vụ để phục vụ chứ không để thống trị hoặc hưởng tư lợi. Phục vụ là thương yêu, thương xót. Vì thế, đừng lạm dụng cụm từ “lòng thương xót” hoặc suy diễn theo ý riêng mình.
Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không thể không chạnh lòng thương xót. Sách Khôn Ngoan xác định: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì?” (Kn 11:24-25) Ba giả thuyết thật tuyệt vời. Chúng ta là tội nhân khốn nạn mà Ngài không ghê tởm, còn chết để cứu chuộc chúng ta. Vì thế, chúng ta không thể viện bất cứ lý do gì để mà tránh né yêu thương người khác.
Kinh Thánh là Lời Chúa, mọi điều trong đó đều được Thiên Chúa linh hứng. (2 Tm 3:16) Do đó, Lời Chúa luôn chính xác và rõ ràng: “Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa.” (Kn 11:26) Gió, lửa và nước rất hiền và rất mềm, nhưng khi chúng “nổi điên” thì không ai có thể chống lại, dù là các phương tiện khoa học tân tiến nhất. Thật ngu xuẩn khi người ta huênh hoang nói rằng chống lũ lụt, thay trời làm mưa, hoặc vắt đất ra nước. Nói hay, nổ to, xạo giỏi, nhưng nào có làm được gì. Đúng là điếc không sợ súng!
Thực sự phải công nhận rằng tín nhân chúng ta thật may mắn khi có thể nhận biết Thiên Chúa, được Ngài ở với và ở trong chúng ta, đồng thời lại kiên nhẫn và vô cùng xót thương, mặc dù chúng ta chẳng ra gì, luôn muốn nổi loạn: “Quả vậy, lạy Đức Chúa, sinh khí bất diệt của Ngài ở trong muôn loài muôn vật. Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.” (Kn 12:1-2) Chúa dễ thương hết sức, dễ thương tới mức chúng ta cảm thấy khó tin, đôi khi có vẻ như “không chịu nổi.” Nhưng tình trạng “không chịu nổi” có hai dạng: Một là không-thể-không-yêu-mến (dạng tốt), hai là phát tức vì ganh tỵ – kiểu như “nổi loạn” vậy (dạng xấu).
Từ xưa tới nay, không hề thấy một vị lập quốc nào hoặc vị lập đạo nào mà dám tuyên bố mình là Chúa, không chỉ Chúa mà Thiên Chúa, nhưng chỉ có Chúa Giêsu dám nói, dù bị tra khảo và bị giết chết cũng không thay đổi “lời khai” tại dinh Philatô và Caipha. Chỉ đơn giản thế thôi cũng đủ biết Chúa nào là Chúa thật. Còn những kẻ tuyên bố là “thiên tử” chỉ là những kẻ đại bịp bợm. Vì thế, chúng ta phải biết tạ ơn và mau mắn tôn vinh Thiên Chúa như Thánh Vịnh gia đã xưng tụng: “Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.” (Tv 145:1-2) Chỉ có Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, vì Ngài là sự thật, và cho chúng ta biết thế nào là chân lý, đồng thời còn cho chúng ta biết “bí quyết” để được sống đời đời. Vì ghen tức mà người ta hèn hạ, hèn hạ vì hèn nhát, càng hèn nhát càng thủ đoạn, tìm đủ cách để bách hại những ai tin theo Chúa Giêsu Kitô.
Nghiên cứu cho biết rằng cứ 7 Kitô hữu thì có 1 người bị bách hại vì đức tin của mình, có gần 300 triệu Kitô hữu sống tại các miền đất bị bách hại. Sự gia tăng bách hại mạnh mẽ tại 20 quốc gia: Arập Sauđi, Burkina Faso, Camerun, Trung Quốc, Bắc Hàn, Ai Cập, Eritrea, Philippines, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Iraq, Myanmar, Niger, Nigeria, Pakistan, Cộng Hòa Trung Phi, Siria, Sri Lanka và Sudan. Thật đáng quan ngại về sự vi phạm nhân quyền mà các Kitô hữu phải chịu. Đó là cuộc tử đạo liên lỉ của Giáo Hội, xin Thiên Chúa che chở họ!
Đức Mẹ xác định: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:50) Như vậy, ngay từ thuở tạo thiên lập địa đã có Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, chứ không chỉ có từ khi Chúa Giêsu mặc khải lòng thương xót cho Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (1905-1938). Đó chỉ là thời điểm cần phải “nhấn mạnh” vì người ta khinh suất hoặc lơ đãng, mặc dù trước đó Chúa Giêsu đã mặc khải Tình Yêu Thiên Chúa cho Thánh nữ Magarita Maria Alacoque (1647-1690) ở dạng khác: Thánh Tâm – với vòng gai và ngọn lửa. Như vậy, Thánh Tâm và Lòng Thương Xót không hề khác nhau – với Lòng Thương Xót là hai tia sáng, với Thánh Tâm là Lửa Tình Yêu. Chỉ MỘT tình yêu của Thiên Chúa, nhưng được diễn tả bằng các cách khác nhau mà thôi.
Thật vậy, Thiên Chúa là tình yêu, cũng là lòng thương xót, lòng trắc ẩn, sự chạnh lòng, đúng như Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.” (Tv 145:8-9) Thật là “may mắn” cho chúng ta, thế nên phải biết chân nhận và lên tiếng: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.” (Tv 145:12)
Thiên Chúa luôn thành tín trong mọi lời Ngài phán, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm, đặc biệt là quan tâm những người thấp cổ bé miệng, vừa yếu đuối vừa yếu thế: “Ai quỵ ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên.” (Tv 145:14) Ngài là Thiên Chúa của mọi chân lý nên Ngài cương quyết bảo vệ công lý. Ai muốn làm đệ tử của Ngài thì cũng phải hành động như Ngài. Chắc chắn như vậy. Hành động bảo vệ Chân Lý và Công Lý là thực hiện thiên chức Tiên Tri (Ngôn Sứ) mà Thiên Chúa đã trao ban. Đó là trách nhiệm – trách nhiệm thì không thể không thi hành. Từ xưa, Thiên Chúa đã truyền lệnh: “HÃY giải thoát người bị áp bức khỏi tay phường áp bức, ĐỪNG hèn nhát khi con phải xét xử.” (Hc 4:9) Một câu mà hai mệnh lệnh – một xác định, một phủ định.
Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa, bởi vì “chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Thánh Phaolô vừa tâm sự vừa khuyên nhủ: “Lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô.” (2 Tx 1:11-12) Sự cầu nguyện luôn cần thiết và có tính liên đới kỳ lạ.
Người ta càng sống lâu thì càng có thể nhận ra rằng cuộc sống rất nhiêu khê, cả tinh thần và đời thường, luôn có những thứ có thể khiến chúng ta dao động – đặc biệt là về sự kiện tận thế. Rất cần phải tự tin, tự tin cả đời thường và tâm linh, nếu không thì chúng ta sẽ bị chao đảo, ảnh hưởng cả thể lý và tinh thần. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ.” (2 Tx 2:2) Đó là động thái “cứ là chính mình”, không bị chi phối bởi bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì. Không nghiêng ngả vì vật chất, không mặc cảm vì kém cỏi, không sợ hãi người có quyền, không khúm núm với người thích dùng mệnh lệnh, không bợ đỡ người có chức vị,… như thế mới thực sự là người sống đủ bản lĩnh, không khuất phục những thứ vớ vẩn.
Thánh sử Luca kể: Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Dakêu (Zacchaeus, Ζακχαῖος hoặc Zakchaios – nghĩa là người Trong Sạch và Công Chính). Ông có quyền thế vì là người đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông có uy tín chứ chẳng bình thường, nhưng ông thấy nể trọng Đức Giêsu, thế nên ông mới tìm cách để xem cho biết Ngài là ai. Nhưng ông không thể thấy được Ngài, vì ông lùn tịt giữa đám đông dân chúng. Ông phải dùng mưu: chạy tới phía trước và leo lên một cây sung để nhìn cho tỏ tường dung nhan Ông Giêsu, vì Ngài sắp đi qua đó. Ông Dakêu “nhanh trí” ghê đi!
Ông là người có quyền, có của, nhưng kém ngoại hình, vóc dáng ông thuộc dạng “thiếu thước tấc”. Được cái nọ thì mất cái kia, đó là chuyện thường tình, và cũng là lẽ công bằng. Tuy nhiên, tại sao một người có thế giá như ông, có thể “chơi ngông” kiểu Công tử Bạc Liêu, vậy mà lại muốn được diện kiến để gặp gỡ Ông Giêsu? Gặp trực tiếp thì sẽ trò chuyện, đối thoại, hai năm rõ mười. Có lẽ đó mới là điều ông thực sự mong muốn. Ôi, như thế thì thật tuyệt vời!
Chắc chắn Chúa Giêsu biết có người muốn nhìn thấy mình nên khi tới chỗ ấy, Ngài nhìn lên cây và nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19:5) Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Ngài biết mọi sự. Chưa gặp bao giờ mà Ngài biết “ông thu thuế leo cây” tên là Dakêu, cũng có lần Ngài biết Philípphê từ lúc ông ở dưới cây vả trước khi gặp mặt. (Ga 1:48) Có lẽ ông Dakêu cũng chẳng dám mong được Ông Giêsu ưu ái đến như vậy, ông chỉ cần thấy bóng dáng Ngài thì ông cũng mãn nguyện lắm rồi. Vừa nghe Chúa Giêsu bảo xuống và sẽ ở lại nhà mình, ông Dakêu khoái chí lắm, vội vàng tụt xuống ngay, và mừng rỡ đón rước Ngài tới nhà mình.
Đám đông thấy vậy nên xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” (Lc 19:7) Miệng thế gian thì khỏi nói! Vừa xuống khỏi cây, chưa biết ất giáp thế nào, ông Dakêu không chần chừ, không so đo, không tính toán, mà vui mừng nói ngay: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19:8) Ôi chao, thế thì còn gì bằng! Chắc hẳn lúc này Đức Giêsu vừa cười vừa gật gù vì thấy ông lùn này thế mà hay đáo để, chịu “đền tội” ngay ở thế gian này. Rồi Ngài nói rõ về ông cho mọi người cùng biết: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham.” (Lc 19:9) Đám đông thấy vậy chắc hẳn cũng cảm thấy “nóng gáy” lắm. Ông Dakêu là cán bộ thu thuế, dưới tay ông có nhiều tay sai, thế mà ông lại dám tìm gặp Đức Kitô, đúng là ông can đảm thật. Theo cách nhìn của người đời thì ông là người xấu, nhưng thật ra ông lại là người tốt – tốt thật.
Câu nói này của Chúa Giêsu rất đặc biệt, đáng lưu ý: “Con Người ĐẾN để TÌM và CỨU những gì đã mất.” (Lc 19:10) Ba động từ tạo thành Tam-Giác-Đều của Lòng Chúa Thương Xót. Chẳng cần bàn gì thêm, vì điều đó đã nói lên tất cả. Thật vậy, Thánh Phaolô xác định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.” (Rm 5:20) Còn ĐGH Phanxicô nói: “Những người tội lỗi là những người ở gần Thánh Tâm Chúa Giêsu nhất.” Chúa Giêsu đền thế gian vì muốn cứu những gì đã mất, đó là các tội nhân. Mà các tội nhân là ai? Là tất cả chúng ta chứ “còn ai trồng khoai đất này” nữa?
Thật lạ lùng, kỳ diệu, và thú vị: Ông Dakêu thấp thể lý, kém chiều cao, mà người lùn thì thường mập, vóc dáng không “bắt mắt” người khác, nhưng ông có vóc dáng tinh thần cao ráo và linh hồn rất xinh đẹp. Người ông không đẹp, nhưng nết ông đẹp. Cái nết có thể “đánh chết” cái đẹp. Và chắc rằng Chúa cũng chỉ mong như thế mà thôi. Kinh Thánh nói: “Vẻ đẹp và duyên dáng làm người ta thích nhìn, nhưng cánh đồng xanh mướt còn đáng nhìn hơn.” (Hc 40:22) Thế nào là vẻ đẹp? Đó là khiếu thẩm mỹ mà không phải ai cũng có được. Người đẹp chưa chắc thực sự đẹp, bởi vì có thể với người này là đẹp nhưng với người khác thì không. Hầu như mọi lĩnh vực đều có khái niệm như vậy.
Lạy Thiên Chúa, Đấng sáng tạo mọi loài và tác giả của muôn vẻ đẹp (Kn 13:3), xin giúp chúng con biết thực hiện đúng mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã truyền dạy, biết xác định “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” mà không coi trọng hình thức. Xin giúp chúng con biết nghiêm túc giữ trọn Luật Yêu Thương, can đảm bảo vệ Chân Lý và Công Lý bằng mọi giá. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 31 TN_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm C nhấn mạnh tấm lòng yêu thương hay tha thứ của Thiên Chúa, Ngài không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống, vì như lời dạy của thánh Giáo Phụ I-rê-nê: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.
Kn 11: 23-12: 2
Thiên Chúa đối xử rất khoan hồng đối với những người tội để họ ăn năn sám hối mà được sống.
2Tx 1: 11-2: 2
Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca sống xứng đáng với ơn gọi của mình và đừng để cho lời loan báo thất thiệt về ngày Quang Lâm của Đức Giê-su sắp đến làm cho tinh thần dao động và sợ hãi.
Lc 19: 1-10
Tin Mừng kể cho chúng ta câu chuyện đổi đời ngoạn mục của một viên quan thu thuế tên là ông Da-kêu, vì ông cảm kích trước tình yêu hay tha thứ của Đức Giê-su dành cho ông.
BÀI ĐỌC I (Kn 11: 23-12: 2)
Sách Khôn Ngoan thuộc truyền thống minh triết Cựu Ước. Trước tiên, tác giả cảnh giác các kiều bào Do thái của mình đang sống tại A-lê-xan-ri-a về mối hiểm họa của nền văn hóa Hy lạp và những nguy hiểm của cuộc bách hại. Để củng cố lòng can đảm và dẫn đưa những kẻ lầm đường lạc lối trở về, ông đối lập số phận vinh quang đang chờ đợi người công chính và sự trừng phạt không chút xót thương mà Thiên Chúa dành cho bọn ác nhân. Để bảo vệ những đồng bào của mình khỏi sức hấp dẫn của những văn minh dân ngoại, ông cho thấy rằng những người Do thái khờ dại tìm kiếm sự khôn ngoan ở nơi khác, trong khi Thiên Chúa ban cho dân Ngài sự khôn ngoan của Ngài, tức là Lề Luật, cách dồi dào. Cuối cùng, ông nhắc nhở họ đặc quyền của dân Chúa chọn là có sứ mạng truyền đạt cho toàn thế giới “ánh sáng không hề tắt của lề luật” (18: 4).
Nhưng ông cũng nhiều lần nói lên sự bận lòng của mình đối dân ngoại. Đây là một trong những nét độc đáo của sách này. Tác giả ra sức chứng minh rằng Thiên Chúa thương yêu hết mọi người không hề phân biệt, và Ngài đòi hỏi con cái của Ngài hãy tỏ mình là “bạn hữu của con người”. Nếu dân ngoại ngoan ngoãn vâng theo ánh sáng của lý trí, cuối cùng họ cũng sẽ nhận ra Đấng Hóa Công duy nhất của hoàn vũ. Họ sẽ đón nhận Đức Khôn Ngoan tinh tuyền và đích thật, bên cạnh Ngài, sự khôn ngoan của dân ngoại chỉ là trẻ con.
Trong đoạn trích hôm nay, khi nhìn lại lịch sử, tác giả khám phá ra đường lối hành xử của Thiên Chúa: Vì yêu thương hết mọi người mà Ngài đã dựng nên, Thiên Chúa không muốn ai phải chết, nhưng được sống. Vì thế, đối với những người tội lỗi, Thiên Chúa “nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi của loài người để họ còn ăn năn sám hối”, đối với “những ai sa ngã, Ngài sửa dạy từ từ… để họ bỏ điều ác mà tin vào Ngài”.
BÀI ĐỌC II (2Tx 1: 11-2: 2)
Thánh Phao-lô viết thư thứ hai gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có lẽ từ Cô-rin-tô. Cuộc bách hại mà thánh Phao-lô đề cập đến trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vẫn tiếp diễn. Mối quan tâm của tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca về ngày Quang Lâm của Chúa cũng vậy. Tuy nhiên, trong thời gian này, hoàn cảnh còn nghiêm trọng hơn nhiều. Sự hỗn loạn xuất phát từ “bên trong” cộng đoàn tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Vài người loan báo ngày của Chúa sắp đến, và còn quả quyết những lời tuyên bố của mình được Thánh Thần linh hứng.
Trong đoạn trích thư này, thánh Phao-lô nói cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca biết rằng dù xa mặt nhưng không cách lòng, thánh nhân vẫn hằng cầu nguyện cho họ để họ sống xứng đáng với ơn gọi, hoàn thành mọi thiện chí và mọi công việc họ làm vì lòng tin, nhờ đó Đức Giê-su được tôn vinh ở nơi họ và họ được tôn vinh nơi Ngài (2Tx 1: 11-12). Thánh nhân còn căn dặn các tín hữu phải coi chừng đừng để cho mình bị lừa dối bởi những tin đồn thất thiệt về ngày Chúa Quang Lâm: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa đã gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ” (2Tx 2: 1-2).
TIN MỪNG (Lc 9: 1-10)
Đối với Da-kêu, đây là một ngày đáng nhớ, một kỷ niệm không thể nào quên đi được, một cuộc gặp gở để đời, bởi vì chính cuộc gặp gở với Đức Giê-su vào ngày hôm đó mà ông hiểu thế nào là cái thênh thang rộng mở của tấm lòng Thiên Chúa và thế nào là sức bật tức khắc và triệt để của một cuộc đổi đời. Câu chuyện này được dàn dựng theo hình thức “đối xứng xen kẻ”:
A- Ông Da-kêu mong ước được gặp Chúa Giê-su (19: 1-4)
1-2. Tất cả bắt đầu từ cái tình cờ, Chúa Giê-su tình cờ đi qua thành Giê-ri-cô nơi ông đang sinh sống. Đối với Da-kêu, cái tình cờ này không thể nào bỏ qua, bởi vì đây là một dịp may hiếm có để “xem cho biết” Đấng mà người ta ca ngợi Người là một vị ngôn sứ.
3.“Ông tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn”: Việc “xem cho biết”một vị ngôn sứ đi ngang qua quê mình đối với dân chúng là một chuyện bình thường, nhưng đối với Da-kêu chẳng bình thường chút nào, bởi vì ông là một viên quan thu thuế được xem như một tội nhân công khai, một kẻ bị nguyền rủa, một kẻ bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn cứu độ. Vì thế, ông không thể hoà mình vào đám đông, cùng chung niềm vui với muôn người để đón mừng vị ngôn sứ. Hơn nữa, ông e ngại cái nhìn nghiêm khắc và sợ những lời kết án cứng rắn của vị ngôn sứ, vì ông biết ông là một tội nhân.
4. “Ông liền chạy tới trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó”: Tuy nhiên, tính tò mò muốn “xem cho biết”thúc bách ông và nẩy sinh một sáng kiến, một sáng kiến thật ngộ nghĩnh: ông chạy đến trước, leo lên một cây sung, ẩn mình trong cành lá chỉ để xem cho biết Đức Giê-su. Cây sung gần giống như một cây sồi, trồng bên đường, rất dễ trèo vì thân đầy khối u, các nhành tỏa ra tứ phía. Một Da-kêu thường ngày uy nghi đường bệ của viên quan thu thuế, nay lại trở thành một trẻ con, thơ ngây, hồn nhiên đong đưa trên cành cây sung để xem cho biết Đức Giê-su. Khi tìm kiếm Thiên Chúa, đừng để cho sự hổ ngươi cũng như sợ bị coi là lố bịch ngăn cản, phải biết tận dụng những nguồn sẵn có giúp chúng ta gặp được Chúa Giê-su.
B- Chúa Giê-su mong ước được lưu lại nhà ông Da-kêu (19: 5-7)
5.“Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông”: Nhưng ông không ngờ sáng kiến ngộ nghĩnh của ông lại được Đức Giê-su để ý đến và Người cũng không thể bỏ qua đi được. Một sáng kiến ngộ nghĩnh của ông Da-kêu được đáp trả bằng sáng kiến ngộ nghĩnh không kém của Đức Giê-su, bởi vì nó không hợp với cái lô-gích theo nếp gấp suy nghĩ của ông. Người đến nơi cây sung, tận nơi sáng kiến ngộ nghĩnh của ông và nói với ông những lời thân thiết đến mức giản dị và tự nhiên như thử hai người bạn thân xa cách từ lâu nay gặp lại nhau: “Này Da-kêu ơi! Xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Thật lạ lùng, Da-kêu chỉ muốn xem cho biết, ông đâu nghĩ gì xa xôi, ấy vậy Người đã dẫn đưa ông đi xa đến độ như “đã quen biết nhau từ thuở nào rồi”. Cái bất ngờ đến lạ lùng này của Chúa Giê-su vào ngày hôm đó đã khai mở cho ông Da-kêu một cái nhìn mới mẽ về Thiên Chúa không như ông nghĩ hay như người ta đã nói với ông trước đây.
Cách hành xử của Đức Giê-su cũng lạ thường đối với nếp gấp suy nghĩ của đám đông. Rồi, trước đây, truyền thống minh triết đã đặt vấn đề về giáo huấn truyền thống “thưởng phạt chí công của Thiên Chúa”. Nếu Thiên Chúa thưởng phạt chí công tại sao Ngài lại “ngoảnh mặt làm ngơ” trước thái độ huyên hoang tự đắc của bọn ác nhân và những đau khổ mà những người công chính phải chịu vì bất công? Câu trả lời của Thiên Chúa được gặp thấy trong Bài Đọc I: “Chúa nhắm mắt làm ngơ không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11: 23), được hiện thực nơi câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Đức Giê-su đã ngoảnh mặt làm ngơ trước một Da kêu, viên quan thu thế, miệt mài làm giàu bằng những đồng tiền phi nhân phi nghĩa, nhưng Người không thể nào ngoảnh mặt làm ngơ trước một Da kêu biến mình thành trẻ thơ đong đưa trên cành với một ước mơ giản dị “xem cho biết Đức Giê-su là ai”. Trong cõi thâm sâu của một viên quan thu thuế, một kẻ hư hỏng không còn gì để nói, vẫn còn đó một mảnh trời xanh hồn nhiên trong sáng. Đối với Chúa Giê-su, một mảnh trời xanh nhỏ bé này hứa hẹn một ngày mới ngập tràn ánh nắng nếu biết nắm lấy cơ hội mà ân tình của Người mở ra.
6. “Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”: Hóa ra trong khi con người chờ đợi Thiên Chúa đến với “cái rành mạch phân minh đâu ra đó của lý lẽ”, thì Thiên Chúa lại thích đến với “cái thênh thang rộng mở không ngờ của một tấm lòng”. Chính cái thênh thang rộng mở của tấm lòng đó mà ngày hôm ấy, Da-kêu hiểu hơn ai hết câu nói này: “Các bạn hãy nếm thử và nhìn xem cho biết Thiên Chúa chúng ta thiện hảo là dường nào”.
7. “Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau”: Nhưng cũng chính cái thênh thang rộng mở của của tấm lòng này lại gây công phẩn nơi công chúng: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”.
A’- Ông Da-kêu đáp trả (19: 8)
8. “Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng”: Cảm kích trước tấm lòng rộng mở của Chúa, ông Da-kêu đáp trả ngay tức khắc, bằng cách xin được đền gấp bốn cho những ai mà ông đã cưỡng đoạt tài sản của họ, như vậy trong việc đền bù ông còn nhất định làm nhiều hơn điều luật đòi buộc: Nếu chỉ trộm cắp thông thường và nguyên vật không thể hoàn trả thì phải tính giá gấp đôi mà đền (Xh 22: 4, 7). Nếu bị can tự thú và tự nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm (Lv 6: 5; Ds 5: 7). Chỉ khi nào trộm cắp là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới buộc phải đền gấp bốn (Xh 22: 1).
Ngoài ra, ông còn quảng đại dâng phân nửa tài sản của ông cho người nghèo. Thánh Am-rô-xi-ô giải thích: “Người giàu hãy học rằng điều xấu không cốt có nhiều của cải, nhưng không sử dụng chúng cho điều tốt; vì trong khi sự giàu có là một trở ngại đối với những người xấu, thì nó cũng là một phương tiện đức hạnh đối với những người tốt” (Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.).
B’- Chúa Giê-su đáp trả (19: 9-10)
9. “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”: Vì Đức Giê-su tự nguyện lưu lại nhà ông Da-kêu và vì ông Da-kêu bằng lòng đón tiếp Người, nên ơn Cứu Độ đến trên toàn thể gia đình của ông: “Sự hiện diện của Đức Giê-su làm cho những gì không thể được, đối với con người, trở thành có thể: một người giàu chui qua lỗ kim được, nhưng không phải là không đòi hỏi một số thay đổi tận gốc”(Pilgrim trong “Good News to The Poor”).
10. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”: Đám đông đã kêu trách Chúa Giê-su vì Người giao du với một người mà họ cho là kẻ tội lỗi (19: 7). Chúa Giê-su biện minh cho cách hành xử của Người khi giải thích rằng lý do Người đến chính là để đi tìm những người tội lỗi. Người đang hiện thực vai trò người mục tử trèo non lặn suối tìm cho bằng được một con chiên lạc (x. Lc 15: 4-7) mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã loan báo rồi: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật; Ta sẽ làm cho mạnh”(Ed 34: 16). Vì Chúa Giê-su mong ước tìm và cứu những người tội lỗi, chúng ta cũng hy vọng mình có thể đạt được ơn cứu độ đời đời. Thánh Am-rô-xi-ô giải thích “Người chọn một thủ lãnh thu thuế, ai có thể thất vọng được chứ khi một con người như thế đạt được ân sủng?” (Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.).
Còn sáng kiến nào thân tình hơn Bàn Tiệc Thánh Thể nhỉ, ở đó Đức Giê-su đã dẫn đưa các môn đệ của Người cho đến tận cùng cái thênh thang rộng mở của tấm lòng Người, như thánh Gioan ghi nhận: “Trước lễ Vượt qua, Chúa Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà đến với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13: 1). Tại sao sống trong ân tình đến như thế, chúng ta lại không cảm thấy niềm hưng phấn đổi đời như ông Da-kêu nhỉ? Bởi vì chúng ta thích thấy mình nơi đám đông hơn nơi Da-kêu, một tội nhân, nên chúng ta thiếu cái sức bật ngay tức khắc và triệt để của một tấm lòng rộn rã muốn được đổi đời như ông Da-kêu. “Ngay tức khắc” vì không thể nào trì hoản được nữa, không thể khất lần thêm được nữa,“Thôi để dịp khác rồi sẽ hay” vì ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay như lời của thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II: “Futur begins today, not tomorrow” (“Tương lai bắt đầu từ ngày hôm nay, chứ không ngày mai”), và “triệt để” vì dám chấp nhận những hậu quả khôn lường của cái giá đổi đời này: từ một Da-kêu mãi miết chắc chiu từng đồng bạc bất nhân bất nghĩa đến một Da-kêu dám chia tài sản của mình cho những người nghèo túng và đền gấp bốn cho những thiệt hại mà mình đã gây nên.
.
CUỘC GẶP GỠ GIỮA ÔNG GIAKÊU VÀ ĐỨC GIÊSU
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1–. Chúng ta đang ở cuối cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Đức Kitô sắp lên Giêrusalem để chịu chết, dù các tông đồ không hiểu ý nghĩa sự loan báo cuộc tử nạn (18,31-33). Vậy chính trong một viễn tượng bi thảm mà sắp diễn ra những biến cố sau đây: Chúa chữa lành người mù trên đường đến Giêrico, ông Giakêu ăn năn trở lại. Bầu khí này làm nổi bật những cử chỉ của Chúa Giêsu.
Chữa lành bệnh nhân, việc người ta ăn năn trở lại một cách đặc biệt, đối với Đức Kitô thì không phải đơn thuần là những hành vi thương xót có tính cách vật chất hay tinh thần. Chúng có ý nghĩa tiên tri do Chúa Giêsu, thủ lãnh các tiên tri làm chủ. Quả vậy, Ngài biết rằng ngôn ngữ con người có thể diễn tả các ý niệm nhân loại, nhưng bất lực khi biểu lộ một vài thực tại tinh thần cao siêu hơn. Khi tiếp tục truyền thống tiên tri của Israel trong thứ ngôn ngữ này, Ngài không thể không biết rằng các cử chỉ trong một vài hoàn cảnh có thể thay thế cho từ ngữ và có thể nói lên ý nghĩa của cái vô hình một cách hữu dụng hơn. Những cử chỉ tiên tri này của Đức Kitô làm thành một thứ giáo huấn cụ thể dễ hiểu đối với những người đơn hèn nhất, nhưng lại khiến những người khôn ngoan nhất phải thán phục. Chắc chắn đó là một sự chuẩn bị cho những cử chỉ mà Chúa Giêsu phải làm sau đó dưới hình thức nhiệm tích. Việc ông Giakêu ăn năn trở lại dạy ta cách rõ ràng về lòng thương xót của Thiên Chúa, về địa vị người tội lỗi trong chương trình cứu chuộc và về chiều kích mầu nhiệm mà bất cứ nhà nào mở cửa đón đấng Kitô đều đạt được.
2–. Lúc gần tới Giêrico, một người mù tuyên xưng Ngài là Con Vua Đavit. Và Chúa Giêsu đã chữa lành ông ta. Người được làm phép lạ quấn quít theo Ngài và tất cả đám đông bắt đầu ca tụng Thiên Chúa và Ngài đã làm những điều kỳ diệu dường ấy. Tiếng vang của việc chữa lành đầu tiên này lan rộng như cát bụi bay tới Giêricô. Một trong những người đầu tiên nghe được tiếng vang này là ông trưởng ty quan thuế.
Lc thường không nói lên các chi tiết liên quan đến những nhân vật mà ông đề cập đến. Tuy vậy, ông cũng cho ta biết tên của viên chức này là Giakêu. Cái tên này có nghĩa là “người trong sạch”. Về phía Lc, phải chăng đó là chuyện hài hước ? Bởi vì một người thu thuế mệnh danh là “người trong sạch” cho ta cảm tưởng tương tự như một người hà tiện có biệt hiệu là “người quảng đại”. Nếu Lc không muốn làm hề để chúng ta cười thì những người ở Giericô, chính họ chắc chắn biết cái tên này không thích hợp với con người chút nào: Giakêu, người tôi lỗi do bởi chức vị, dưới mắt họ được gọi tên là kẻ bị khai trừ. Giakêu là người thu thuế; ông giàu có nhờ đó, nhưng cũng vì đó mà gặp phải bất hạnh.
3–. Đức Kitô là người đưa ra sáng kiến giúp ăn năn trở lại. Đã đến lúc Chúa Giêsu xin hoặc nhận sự trợ giúp để tạo nên cơ hội cho Ngài ban ân sủng. Ngài xin người đàn bà xứ Samaria một chút nước để mạc khải cho Ngài biết Ngài có một thứ nước hằng sống làm hết khát và có thể biến cải bất cứ hữu thể nào thành nguồn nước tuôn trào trong cuộc sống vĩnh cửu. Ngài nhận dầu thơm của người đàn bà tội lỗi để minh nhiên hóa việc tha thứ Ngài ban cho bà trước mặt mọi người. Như vậy, Thiên Chúa làm người muốn biểu lộ một tình yêu chứ không phải là một sự thương hại. tình yêu sáng tạo và cứu độ trước hết chấp nhận đường lối đơn giản, thân tình của tình bạn là nhận ngay trước khi trao ban. Và chắc chắn đó là một trong những biểu lộ cao cả nhất của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những hữu thể mà Ngài muốn ban đầy ơn phúc.
Trong khi vị hoàng tử cải trang thành người ăn mày để bố thí mà không đánh mất danh dự, thì Chúa Giêsu đến với người thu thuế đang ở trên cây, như một người giảng rong để kiếm ăn: Ngài nói với ông: “Giakêu, trèo xuống mau”. Trong cái vội vàng của Chúa Giêsu có một thứ hài hước đầy dịu dàng, gần như là Chúa muốn nói với ông: Giakêu ta đói lắm rồi, vội vàng lên chứ! Thực vậy Ta muốn khẩn trương tới nhà ngươi để mầu nhiệm cứu độ mà Ta mang đến cho thế giới được hoàn tất nơi ngươi.
“Thấy vậy, mọi người xôn xao và nói: ông này đến trọ nhà một người tội lỗi” (c.7). Gương xấu lên tới tột điểm khi Chúa Giêsu không những chỉ quyết định dùng cơm tại nhà người thu thuế, mà còn muốn ở lại đó một thời gian. Nguyên việc dùng cơm với những người tội lỗi công khai đã là nặng rồi; hơn nữa việc tạm trú trong nhà người tội lỗi công khai chắc chắn làm người ta chỉ trích ầm ĩ. Lời xôn xao này, không phải chỉ do một vài người biệt phái ưa chỉ trích, nhưng chắc chắn là của toàn thể đám đông.
4–. “Nhưng Giakêu nhất quyết nói với Chúa: vâng, lạy Chúa, con sẽ lấy nửa gia tài của con để cho người nghèo…” (c.8a). Thật vậy, Giakêu đang đón Đức Kitô nơi cửa nhà ông. Dường như, ông cố ý tuyên bố công khai với hai chủ đích. Một đàng muốn nói lên sự thành tâm ăn năn trở lại của ông, Đàng khác, một cách nào đó, ông có ý khẳng định trước mặt mọi người rằng Chúa Giêsu đã làm đúng khi chọn trọ tại nhà một người không có tà tâm như người ta tưởng. Khi công khai thống hối để nói lên tấm lòng đơn sơ quảng đại của ông, Giakêu đã cho cử tọa thấy và biết cái nhìn phi thường của vị tiên tri ghé qua Giêricô hôm ấy. Cái nhìn của Ngài thành công ở chỗ đụng tới tim đen và từ đó làm lóe lên ánh sáng của Thiên Chúa.
Câu nói của người thu thuế trùng hợp cách kỳ lạ lời cầu nguyện của người biệt phái đầy kiêu căng – xem dụ ngôn thuật lại ở trên – “Tôi dâng một phần mười của cải của tôi” (Lc 18,12). Tuy nhiên giữa người tự kiêu vì đã chu tất của lễ mình dâng và người tội lỗi công khai dưới tác động của ân sủng, bằng lòng cho đi nửa gia tài, thật là khác biệt giữa một lòng sùng đạo cách ngu ngốc với một người như thánh Phanxicô khó nghèo hoặc thánh Gioan Thiên Chúa, là những vị đã bị đảo lộn bởi những tác động đầu tiên của Thiên Chúa. Khi hy sinh như thế, không có gì là nặng nề đối với người biết mình đã được tha thứ.
Thế nhưng, Giakêu để ý ngay đến việc bác ái và công bằng. Ông biết rõ là khi hành nghề, ông đã có thể lạm thu thuế má và bây giờ ông hối hận và muốn sửa lỗi. Ông áp dụng cho ông luật ghi trong sách xuất hành Ai cập (Xac 21,1) được Đavit nhắc lại (2S 12,6) được dự trù trong những trường hợp tương tự. Giakêu cũng phát biểu rằng chỉ có lòng bác ái mới xóa sạch các vết nhơ do việc làm tiền quá đáng của ông, rằng chỉ có sự công bằng mới xóa sạch bất công. Dù sao ông cũng không keo kiệt.
5–. Bấy giờ, Chúa Giêsu quay về phía Giakêu, nhưng lại nói với tất cả cử tọa; hình thức văn phạm của Lời Ngài (Ngài nói về ông Giakêu ở ngôi thứ ba) chứng minh điều này. Qua đó, Ngài hòa giải Giakêu với cộng đoàn Israel, trả lại cho ông các đặc quyền thừa tự lời hứa. Ngoài ra, Ngài còn công khai bác bỏ luận điệu của những luật sĩ tham quyền, theo đó, một số người tội lỗi công khai không thể có hy vọng được cứu rỗi. Cuối cùng, những lời này một lần nữa nhắc lại sứ mạng của Con Người “đến tìm kiếm và cứu vớt những gì lạc mất” (x.Lc 15,6.9.24.32).
Khi quảng đại đón nhận ơn cứu độ, Giakêu khẩn trương thi hành lời khuyên quí báu nơi phúc âm Lc: phải mau mắn biến cải những sự giàu có thế gian thành những giá trị thiêng liêng theo định luật nhiệm mầu về sự giao hoán do Đức Kitô đề ra: “Của cải, các ngươi hãy bán đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình những túi tiền không hề hư hỏng, kho tàng không hề hư hao trên trời, nơi trộm cắp không lai vãng và mối mọt không nhấm nát. Bởi vì, kho tàng các ngươi ở đâu thì lòng các ngươi ở đó” (Lc 12,33-34). Thật vậy, phải có ân sủng do sự hiện diện của Chúa Giêsu mới có thể khuất phục cách mau lẹ một nhà tài chánh thay đổi hệ thống kinh tế của mình.
6–. Câu chuyện Giakêu có một sắc thái đặc biệt khi được đặt trên hậu cảnh Cựu ước, gợi lại sự hiện diện đáng sợ của Thiên Chúa trong một vài nơi đặc biệt. Thiên Chúa, đấng xưa kia chỉ vào nơi cung thánh của đền thờ với vẻ lộng lẫy cao cả của vinh quang Ngài, bây giờ đang ở trong nhà người tội lỗi với vẻ đơn sơ của Ngôi Lời Nhập Thể. Chắc chắn, đền thờ Salomon xây đã trở nên nơi gặp gỡ của dân tộc tội lỗi với Thiên Chúa của họ (1V 8,20-40), thế nhưng, thực tế người ta đến đó triều bái hoàng tử để xin Ngài thương xót. Ngày hôm nay Thiên Chúa di tản chiến thuật, chính Ngài đến cư ngụ nhà người tội lỗi.
Có một cái gì đó đã thay đổi trong quan niệm về cung thánh và người Kitô hữu bây giờ không còn thấy Đền thờ của họ như kiểu mẫu thời xưa. Đối với người đàn bà Samaria, Chúa Giêsu mạc khải ngày tàn của các cung thánh muốn trở thành trung tâm của thế giới: Thiên Chúa phải được tôn thờ “trong tinh thần và chân lý” (Gio 4,24). Chúa Giêsu cũng nói cho chúng ta biết thân xác của Ngài là đền thờ mới (Gio 2,19-21). Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Giakêu, Ngài chính là đền thờ đích thực, là cung thánh duy nhất, từ đó tuôn ra nước hằng sống cho đời sống vĩnh cửu đến thánh hóa nhà người tội lỗi.
Nhà của người bất xứng, nhờ có Đức Kitô hiện diện, trở thành một nguyện đường, nơi đó cử hành phụng vụ về lòng xót thương và nghi lễ hiệp thông. Giakêu trần tình nơi cửa nhà ông. Không ai cấm ông ngồi bên Chúa Giêsu trong bữa ăn được dọn ra sau khi Ngài vào nhà. Như vậy trong một vài giờ, tại một căn nhà ở Giêrico có cử hành mầu nhiệm thánh, khiến nhà ở của con người trở thành nơi cư trú của Đền thờ chân thật duy nhất là nhân tính của Chúa Giêsu.
KẾT LUẬN
Câu chuyện Giakêu ăn năn trở lại gồm tóm tất cả những từ ngữ cũng như những ý tưởng đặc trưng của Lc: hôm nay, ơn cứu độ; cứu vớt những ai lạc mất; (người) nhỏ bé, (người) tội lỗi, (người) thu thuế; ý định cứu độ của Thiên Chúa là cần thiết; sự vội vàng đón tiếp vào nhà, sự vui mừng. Chính ân sủng dồi dào của Thiên Chúa và thiện ý đầy tràn của con người được tỏ lộ tại Giêricô, thành phố mà từ đó Chúa Giêsu lên Giêrusalem, thành chờ đợi lịch sữ cứu độ hoàn tất, là nơi phát xuất ơn cứu độ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1–. Chúa Giêsu để ý thấy Giakêu đang ở trên cây sung và Ngài là người có sáng kiến mang lại ơn cứu độ cho ông. Về phía Giakêu, ông ước ao gặp Chúa Giêsu và làm mọi cách để cho Ngài thấy cũng như được thấy Ngài. Sự gặp gỡ kỳ quặc giữa kiểu cách con người và sáng kiến của Chúa xem ra rõ ràng trong cảnh này tại Giêrico. Dù với hai chủ đích khác nhau, hai tiếng gọi đã gặp nhau, tiếng gọi của con người muốn đi ra khỏi chính mình và vận dụng mọi cách để đạt được điều đó và tiếng gọi của Chúa muốn tìm kiếm những ai lạc mất.
2–. Giakêu không thiếu gì, ông giàu có, ông đã thỏa mãn được những khát vọng của mình; tuy nhiên, ông vẫn còn kiếm tìm một vật gì khác, một con người nào khác vì cảm thấy tâm hồn băn khoăn; có thể ông không biết Chúa Giêsu là ai, thế nhưng bị một thứ gì đó thúc đẩy ông muốn nhìn xem vị tiên tri này: chỉ ngay sau đó ông mới nhận biết Ngài. Dường như ông Giakêu và Chúa Giêsu, cả hai đều xúc động do cùng một hấp lực hỗ tương.
3–. Trong câu sau cùng của trang phúc âm này, Chúa Giêsu xem ra không nói với ông Giakêu, đúng hơn Ngài nói với các nhân chứng, với đám đông. Ngài bắt đầu câu “người này cũng là con cái Abraham”. Qua đó, hình như Ngài muốn nói với chúng ta biết rằng mọi người đều là con Thiên Chúa và nếu chúng ta từ chối hoặc khai trừ ai chính là vì chúng ta ngu dốt, hoặc thiển cận. Rồi Ngài nói tiếp: “Bởi vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì lạc mất”. Ở đây cũng vậy, Ngài muốn dạy chúng ta đừng giới hạn ánh sáng phúc âm, chỉ dành riêng cho những người xem ra xứng đáng đối với chúng ta.
4–. Sự gặp gỡ giữa Giakêu tội lỗi và Chúa Giêsu tượng trưng cho chính tâm trạng của chúng ta. Trong mỗi người chúng ta đều có con người tội lỗi và Chúa. Con Thiên Chúa đến sống trong mỗi người tội lỗi; trong mỗi tín hữu, Giakêu vẫn tiếp tục hiện hữu cho đến khi “Chúa dùng quyền năng của Ngài mà kiện toàn những ý định ngay lành”, như thánh Phaolô viết trong thư gởi tín hữu Thessalonica mà chúng ta vừa nghe đọc. Điều này khiến chúng ta vừa bạo dạn để có thể chu toàn những đòi hỏi riêng biệt do đức tin của chúng ta, bất chấp dư luân của “đám đông chung quanh”, cũng như lưu ý chúng ta phải luôn thận trọng khi có ý kiến về những người khác.
5–. Người rước lễ cũng đón nhận Chúa Giêsu vào nhà mình. Để việc hiệp thông Thánh Thể trở thành hiện tại của ơn cứu độ, người rước lễ phải sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì Chúa biết.
6–. Trong thánh lễ này, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, cho mọi người, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ “bị lạc mất” mà Chúa đang tìm kiếm để cứu vớt.
.
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN. NĂM C
Lm. Antôn
Bài Tin mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe câu truyện Chúa Giê-su đi ngang qua thành phố Giê-ri-cô và gặp ông Gia-kêu. Trong cuộc hành hương Đất Thánh năm trước, tôi đã đến thành phố Giêricô để thăm “Cây sung Giakêu” đã được sách Tin mừng thánh Luca đề cập đến, và thưởng thức những trái chà là ngon nổi tiếng ở vùng đó. Khi đến thành phố, tất cả linh mục trong đoàn hành hương đều hớn hở muốn đến ngay nơi có cây sung để chiêm ngắm. Cây sung Gia-kêu nằm ngay ngã tư đường trong thành phố, thân cây to hơn hai người ôm và có nhiều cành to lớn xun xê. Cây sung này không phải cây sung nguyên thủy, nhưng đã được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Dĩ nhiên bên cạnh lề đường có những người bán rong những đồ lưu niệm hình cây sung này.
Thành phố Giêricô nổi tiếng qua câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua trên đường tiến về Giêrusalem với đám đông dân chúng, chuẩn bị bước vào khổ nạn trong bài Tin mừng hôm nay. Giakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Có lẽ ông đã nghe biết Chúa Giêsu chọn ông Lêvi, là Mát-thêu, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ. Vì thế, ông rất mong muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này. Khi biết Chúa sắp đi ngang làng, Giakêu đã ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông phải leo lên một cây sung để nhìn cho rõ
Khi đến nơi, Chúa đã ngước mắt lên cây sung và nhìn thấy Gia-kêu. Ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc lộ tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế tội lỗi, bị mọi người khinh bỉ, thù ghét, một con chiên lạc đang tìm lối về, vì thế trong tâm hồn ông có một niềm khát khao muốn gặp Chúa. Và Chúa cũng đã nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương, Chúa nói: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông.” Giakêu cảm thấy sung sướng, vội vả nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Để đáp lại tình yêu thương và nhân từ của Chúa, ông đã quảng đại chia sẻ chân thành cho tha nhân, và đền bù lại cho những ai đã bị thiệt hại do ông gây nên. Việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này.” Niềm mong ước gặp Chúa của Gia-kêu và tình thương của Chúa đã cảm hóa và biến đổi cuộc đời của ông.
Chúng ta tử hỏi: “Ðộng lực chính nào đã thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu?” Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động muốn hoán cải. Hoán cải là từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông chia sẻ, và nhóm bị thiệt thòi được nhận lại hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người. Chúng ta ý thức giá trị của một người không căn cứ vào việc làm hình thức bề ngoài, nhưng căn cứ vào nơi tâm hồn. Cũng như gía trị của một việc làm, một hành động là ở nơi lòng yêu mến và sự khiêm nhường chân thật. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu đã trở nên người có giá trị và cao quí nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người.
Có câu truyện về ông Harold Hughes, cựu thống đốc tiểu bang Iowa và Thượng nghị sĩ liên bang Hoa kỳ. Khi còn ở tuổi thanh niên, ông là một người nghiện rượu, sử dụng ma túy và gian dối. Đã có một lúc, ông nghĩ rằng ông đã hủy hoại và đánh mất tất cả mọi sự trong cuộc sống. Một đêm, ông vào buồng tắm và sửa soạn để kết liễu đời mình. Nhưng ngay lúc đó, ông nghĩ tới một câu Kinh thánh nói hủy hoại cuộc sống là điều tội lỗi, vì thế ông muốn nói cho Chúa biết lý do tại sao ông làm việc ghê gớm đó.
Ông bước ra ngoài buồng tắm, quì xuống nền xi măng lạnh ngắt, gục đầu vào tường và nói với Chúa lý do trong sự thổn thức. Sau đó, ông cảm thấy được một sự lạ lùng xảy ra: một luồng cảm giác ấm áp lắng đọng trong tâm hồn. Ông cảm thấy nhẹ nhõm, hình như tất cả sự nặng nề của tội lỗi đã cất xuống khỏi vai ông, và ông cảm thấy tâm hồn bình an. Ông cảm thấy hình như Chúa đã giơ tay xuống và cứu lấy ông. Quì trên nền xi măng ngày hôm đó, ông đã phó thác cuộc sống mình cho Chúa và thành thật thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm điều gì, con sẽ thi hành.”
Cảm nghiệm đặc biệt này đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của ông, và bắt đầu cho một cuộc đời mới. Mười năm sau, ông Hughes được bầu làm thống đốc tiểu bang Iowa, và mười bảy năm sau đó, trở thành thượng nghĩ sĩ liên bang Hoa kỳ. Năm 1975 ông về hưu, và dồn mọi ảnh hưởng, tài năng và nỗ lực còn lại để giúp cho chương trình cai nghiện rượu và ma túy.
Câu chuyện của ông Hughes trên đây mang những sự tương đồng với câu chuyện của ông Gia-kêu trong bài Tin mừng. Câu chuyện của những người có cuộc sống tội lỗi được biến đổi, và trở thành hữu ích cho tha nhân. Câu chuyện của những người biết mở rộng tâm hồn cho Chúa, và được Chúa đổ tràn đầy ơn bằng an và sự vui mừng vượt qua lòng mong ước.
Qua những câu truyện trên đây, hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa Giêsu, Người đã làm bao nhiều điều kỳ diệu và lạ lùng nhìn chúng ta bằng ánh mắt nhân từ và yêu thương của Chúa, để chúng ta cảm nghiệm được lòng nhân từ và yêu thương Người biết tìm đến và ăn năn sám hối. Cũng như biến đổi cuộc sống của chúng ta trở thành sứ giả đem tình yêu và lòng thương xót của Chúa đến cho mọi người chung quanh, bằng tình yêu thương, hy sinh và quảng đại nhờ đó Danh Chúa được cả sáng.
.
DA-KÊU: CHỨNG NHÂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
Năm Thánh Lòng Thương Xót đang dần dần khép lại. Tuy vậy, nếu không còn những buổi cử hành long trọng trong khuôn khổ của Năm Thánh, thì việc thực thi lòng thương xót vẫn luôn là lời mời gọi được gửi đến mỗi người tín hữu chúng ta, vì lòng thương xót là cốt lõi của Ki-tô giáo, là trọng tâm của Tin Mừng. Lòng thương xót cũng làm cho chứng từ của Giáo Hội trở nên khả tín đối với con người của thời đại hôm nay. Trước những hậu quả nghiêm trọng của thiên tai (hoặc nhân tai), người Việt chúng ta, không phân biệt lương hay giáo, đã thể hiện tình liên đới sâu đậm. Đối với các tín hữu Công giáo, giúp đỡ tha nhân cũng là dịp để diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa. Hơn nữa, họ còn nhận ra Đức Giêsu đang hiện diện nơi những người đau khổ bần hàn.
Ca ngợi lòng thương xót của Thiên Chúa, đó cũng là nội dung của Lời Chúa hôm nay. Tác giả sách Khôn Ngoan đã suy tư về thân phận tội lỗi của con người và lòng từ bi cao cả của Thiên Chúa (Bài I). Trước nhan Chúa, mọi người đều là tội nhân và rất cần đến sự che chở của Thiên Chúa. Nhờ lòng thương xót của Chúa mà con người có thể tồn tại. Ngài kiên nhẫn thứ tha mọi lầm lỗi, làm ngơ trước tội ác của họ. Ngài không bỏ rơi những ai thành tâm đến với Ngài để bày tỏ lòng sám hối và cậy trông.
Một trường hợp cụ thể được nêu như chứng nhân của lòng thương xót Chúa, đó là ông Da-kêu. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã làm ông thay đổi cuộc đời. Không tự ti mình là người thu thuế, bị mọi người xa lánh ghê tởm; chẳng mặc cảm mình vóc dáng thấp lùn trông khó coi, ông mạnh dạn trèo lên cây sung tìm cách gặp Chúa. Từ một người thu thuế hay gian lận tham lam, ông trở thành người quảng đại, sửa lỗi bằng cách sẽ đền bù cho người bị thiệt: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đã giúp ông vượt lên mọi thành kiến xã hội, lấy lại tự tin và niềm hy vọng.
Ông Da-kêu đại diện cho vô vàn vô số những người nam nữ già trẻ trong mọi thời đại đang tìm kiếm Chúa. Họ tìm kiếm Chúa như hoa hướng dương tìm về mặt trời, như suối tìm về nguồn và như chim tìm về tổ. Con người không ngừng tìm kiếm Chúa mặc dầu họ chưa biết rõ về Ngài. Có thể hình ảnh hay quan niệm về Thiên Chúa của họ còn mờ nhạt, mông lung, nhưng họ chắc một điều, Ngài là Chủ muôn loài. Ban đầu ông chỉ ước ao “nhìn thấy Chúa đi ngang qua”. Không những ông chỉ nhìn thấy Chúa, mà Chúa chủ động đến nhà ông. Việc Chúa đến thăm nhà giúp ông xua tan mọi mặc cảm về nghề nghiệp cũng như thân phận của mình. Những gì ông thưa với Chúa cho thấy một sự đổi đời tận gốc rễ. Ông Da-kêu, một người thu thuế đã thực sự trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, một người con đích thực của Abraham, người công chính.
Khởi đi từ nhân vật ông Da-kêu, mỗi chúng ta hãy nhìn lại mình để nhận ra lòng thương xót vô bờ của Chúa, để rồi, đến lượt mình, chúng ta trở nên những chứng nhân của lòng thương xót. Chúa đã thương chúng ta, như Chúa đã thương ông Da-kêu, có lẽ nào chúng ta không giãi bày tình thương của Ngài nơi cuộc đời chúng ta và qua những nghĩa cử đối với anh chị em mình?
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi đọc câu chuyện ông Giakêu, tôi ngỡ ngàng trước ánh mắt của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn lên ông Giakêu trên cây sung. Ánh mắt ấy có sức mạnh kỳ lạ. Ánh mắt ấy chất chứa bao tâm tình. Chỉ trong một ánh mắt cuộc đời Giakêu hoàn toàn biến đổi.
Đó là ánh mắt quan tâm. Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Giêricô là một thành phố rộng lớn, người đông đúc, buôn bán sầm uất. Một đám đông lớn đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó ông Giakêu thật bé nhỏ. Nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Thật lạ lùng. Giữa đám đông mênh mông ấy, Chúa vẫn nhìn thấy ông Giakêu, dù ông thấp lùn. Giữa muôn người, Chúa chỉ tìm Giakêu. Lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Giakêu, dù ông bé nhỏ trong một đám đông hỗn độn. Giakêu chắc chắn cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa.
Đó là ánh mắt khiêm nhường. Hãy tưởng tượng cảnh Chúa ngước lên nhìn Giakêu. Chúa nhìn lên. Giakêu nhìn xuống. Thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên mới gặp ánh mắt người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Tạo hóa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được thụ tạo. Đấng Cứu Độ phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được cứu. Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Thật là một sự khiêm nhường thẳm sâu. Giakêu chắc chắn phải choáng váng vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.
Đó là ánh mắt tha thứ. Nguyên một việc quan tâm tìm kiếm cũng đã chứng tỏ Chúa tha thứ cho ông rồi. Huống hồ Chúa còn khiêm tốn ngước nhìn lên. Hơn thế nữa Chúa còn ngỏ lời muốn đến thăm nhà ông. Giakêu chưa tìm Chúa thì Chúa đã tìm Giakêu. Giakêu chưa gọi Chúa thì Chúa đã gọi Giakêu. Giakêu chưa mời thì Chúa đã ngỏ ý đến nhà. Giakêu chưa xin lỗi thì Chúa đã tha thứ. Ánh mắt tha thứ mới khoan dung độ lượng và ấm áp làm sao. Giakêu chắc chắn tràn đầy niềm hối cải khi nhìn vào ánh mắt tha thứ của Chúa.
Đó là ánh mắt tin tưởng. Chúa Giêsu nhìn Giakêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng nên không nhìn về quá khứ mà chỉ hướng về tương lai. Chúa quên hết tội lỗi của ông. Hơn thế nữa Chúa tin rằng ông sẽ nên người tốt. Chúa tin rằng ông sẽ làm lại cuộc đời. Chúa tin vào tương lai của ông. Nên Chúa đã nhìn ông. Nên Chúa tha thứ cho ông. Nên Chúa kết thân với ông. Trước ánh mắt tin tưởng của Chúa, chắc chắn Giakêu sẽ cương quyết làm lại cuộc đời.
Đó là ánh mắt yêu thương. Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Giakêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Chúa tin tưởng vì Chúa yêu thương ông, như người mẹ không khi nào nói rằng con mình xấu, dù nó phạm tội trăm lần. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương. Ngập tràn trong yêu thương, trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Đời ông được đốt cháy trong yêu thương. Nên ông đã đáp lại tình yêu thương của Chúa. Vì yêu mến Chúa mà ông yêu thương đồng loại. Yêu thương nên đền bù thiệt hại. Yêu thương nên chia sẻ chân thành.
Lạy Chúa, Chúa luôn nhìn con bằng ánh mắt yêu thương. Xin cho con biết nhìn vào mắt Chúa, nhận ra tình yêu thương của Chúa và biến đổi cuộc đời như ông Giakêu.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa nhìn Giakêu bằng ánh mắt thế nào?
2) Giakêu đã đáp lại ánh mắt của Chúa ra sao?
3) Bạn có bao giờ nhìn thấy ánh mắt Chúa nhìn bạn chưa?
4) Bạn có muốn nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa không?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Xã hội hôm nay sao kiếm được con người tử tế thật khó! Người tử tế biết nhận cái sai để sửa, biết nhận lỗi lầm mình mà ăn năn hầu sống đẹp hơn. Trái lại, người không tử tế dầu biết sai nhưng vẫn cố chấp, vẫn tìm cách bào chữa bản thân và không bao giờ nhận tội về mình.
Có một câu chuyện vui về Người Tử Tế như sau:
“Ði mua bao thuốc lá 20k đưa chủ tiệm 50k, được thối lại 40k, đút túi bỏ về. Anh chủ tiệm chạy theo kêu:
– Chú em, chú để quên không lấy bao thuốc lá nè.
Trên thế gian vẫn còn nhiều người tử tế, tôi nghĩ mình thật tồi tệ. Xúc động rút tờ 10k ra đưa lại cho anh:
– Lúc nãy anh trả dư em 10k này!
Anh chủ tiệm cũng cảm động:
– Thôi, chú đưa lại anh bao thuốc lá, anh đổi cho bao thuốc lá thật.
Hành động của anh lại làm tôi mủi lòng. Trên thế gian sao lại có người cũng thật thà như mình. Tôi tỏ vẻ hận:
– Anh đưa tờ 50k hồi nãy cho em, em đổi cho anh đồng tiền thật.
Cầm tờ giấy bạc, anh chủ tiệm rơm rớm nước mắt:
– Thôi chú đưa anh tờ 10 ngàn lúc nãy, anh đổi cho tờ thật.
Híc! Người ta tốt thế mà mình tồi tệ quá… Tôi rụt rè móc cái điện thoại ra:
– Cái này của anh, lúc nãy em lỡ tay… xin trả lại.
Anh chủ tiệm cảm động, tay run run… Anh rút ra một cái ví:
– Cái này của em, anh cũng xin trả lại em.
Dầu là người xấu nhưng thấy sai dám nhận, dám sửa vẫn đáng kính trọng biết bao. Xét cho cùng “nhân vô thập toàn” ai mà chẳng có lúc sai nhưng chỉ đáng xấu hổ là không dám nhận cái sai mà sửa, đôi khi còn “vừa ăn cướp vừa la làng” hay “cả vú lấp miệng em” để che lấp tội lỗi của mình.
Hôm nay tin mừng cho ta thấy hình ảnh thật đẹp của Gia-kêu. Ông đã từng lún sâu trong tiền bạc. Ông đã từng tham lam vô độ đến nỗi chỉ lo vun quén cho bản thân và lỗi công bình với tha nhân. Nét đẹp của ông là khi gặp được Chúa ông đã thay đổi cái nhìn về cuộc sống. Ông không coi của cải là lẽ sống. Ông không tìm thỏa mãn nơi tiền tài. Ông dám nhìn nhận cái sai mà sửa. Ông nhìn nhận mình đã tham lam nên dùng nửa số tiền để đền bù. Ông đền bù cả lãi lẫn lời lên tới gấp 4 lần. Ông còn tiến tới đức ái hoàn hảo là làm việc phúc đức cho người nghèo với mong phần nào đền bù tội lỗi quá khứ của mình.
Xem ra người tử tế phải là người thấy sai là sửa. Người tử tế không cố chấp ở lì trong tội. Người tử tế dám nhận lỗi, dám chuộc lỗi và làm lại cuộc đời. Thực ra, không có cuộc trở về nào là quá muộn, chỉ cần quay trở về thì chúng ta đã bước ra ánh sáng và khuôn mặt chúng ta sẽ đẹp trước mặt Chúa và tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta biết ăn năn sám hối lỗi lầm của mình, biết can đảm chuộc lại lỗi lầm bằng sự đền bù, bằng sự dấn thân sống có ích cho cộng đoàn và xã hội. Xin đừng vì cố chấp mà đánh mất đi cơ hội làm lại cuộc đời, nhưng luôn trỗi dạy sau những lần vấp ngã để kiện toàn con người mình mỗi ngày một tốt hơn. Amen.
.
HÃY THƯƠNG XÓT NHƯ CHA TRÊN TRỜI
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Vào lúc Giáo hội đang chuẩn bị đóng Cửa Thánh bế mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót, phụng vụ Lời Chúa lại vang lên như tiếng chuông nhắc bảo chúng ta chiêm ngắm Lòng Thương Xót và thực thi lòng thương xót.
Chúa thương xót mọi loài, và yêu thương mọi tạo vật (x.Kn 11,21-26). Thương xót đến đô “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người …không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa tác thành” (Kn 11, 23). Lòng thương xót ấy được cụ thể hóa nơi hành động của Chúa Giêsu đối với tội nhân và những người cùng khổ, Ðấng đã khẳng định rằng Người đến không phải để kêu gọi những người công chính, nhưng để kêu gọi những người tội lỗi (x. Lc 5,32). Trình thuật về cuộc hoán cải của ông Giakêu trong phụng vụ Chúa Nhật hôm nay là một bằng chứng (x. Lc 19, 1-10).
Giakêu, người thấp bé. Đây không phải là một chuyện nhỏ, nhưng là một nỗi đau đối với ông. Trong trí ông luôn mang trong mình sự ảm ảnh mình bị chế giễu và loại trừ, ông là người đau khổ. Ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trả miếng : thậm chí trở thành người thu thuế cho ngoại bang. Đây là nghề không lành mạnh, dễ bị loại ra khỏi đời sống tôn giáo và xã hội, vì thông đồng với người Rôma, kẻ chiếm đóng và bóc lột đồng bào. Nhưng điều đó không quan trọng đối với ông, ông biết, ông có thói quen bị loại trừ. Trở thành một viên thu thuế quyền thế giàu có. Giakêu, như những người khác, đã thu về một khoản tiền lớn từ bàn thu thuế, nhưng sự yêu mến tiền bạc không phải là động lực chính của ông, ông muốn có được sức mạnh trên những kẻ coi thường ông. Vì thế, ông xa cách họ, tránh xa các cuộc tấn công của họ, và ở trên họ.
Nhưng điều trên không làm cho Giakêu chìm vào bóng tối. Con người biết tính độc ác đích thực của mình. Trong sâu thẳm của coi lòng, có cái gì đó lợi hơn : khát khao Thiên Chúa. Giakêu là người con của lời hứa và Thiên Chúa đã không quên ông. Thế là, Chúa Giêsu rảo khắp các ngả đường, giảng dạy trong hội đường. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu thấu đến tai Giakêu như cá gặp nước, củi khô gặp lửa. Người đã nhóm lên trong lòng Giakêu ngọn lửa không hề bị dập tắt từ Thiên Chúa. Giakêu, kẻ thu thuế đã nghe nói về các phép lạ của Đấng Tiên Tri, và rằng Chúa Giêsu không bao giờ từ chối những người tội lỗi. Ông chộp lấy cớ hội, quyết định tiến lại gần Chúa Giêsu.
Để đến được với Chúa Giêsu không phải là dễ, ông gặp phải sự cản trở của bản thân vì thấp bé, của đám đông. Họ sẽ nhận ra và lại chế giễu ông thấp bé, quyền lực, giàu có, bóc lột đồng bào. Họ sẽ khinh thường ông, làm cho ông xấu hổ, báo thù khơi dậy báo thù. Nhưng Giakêu không bỏ lỡ cơ hội, ông sẽ thấy Chúa Giêsu đang đến gần, không gì có thể cản trở ông được.
Vì thế, ông trèo lên cây, ẩn mình trong những tán lá để xem Chúa Giêsu mà không bị ai nhìn thấy, ông tìm cách tiếp cận, với hy vọng những tán lá sẽ bảo vệ ông khỏi đám đông. Nhưng Chúa Giêsu đi ngang qua. Người tiến lại gần, ngước mắt nhìn ông và gọi “Giakêu”. Giakêu có nghĩa là “Chúa nhớ lại”. Thiên Chúa nhớ đến kẻ yếu người nghèo, với lòng thương xót “Giakêu, hãy xuống mau” (Lc 19,5).
Cố gắng của con người xem ra vô dụng, khi dùng cả sức mạnh của mình để vươn lên tới Chúa, tới Trời : “các ngươi sẽ nên như các thần” con rắn cám dỗ Ađam như thế. Giakêu khi ở trên cao, ông khám phá ra rằng để có được điều ông tìm kiếm, ông phải đi xuống. Thiên Chúa đã hạ mình xuống với con người. Thiên Chúa đã trở nên thấp và nhỏ bé, ở dưới gốc cây. Giakêu vui sướng thấy Chúa.
Chúa Giêsu đã giao hòa Giakêu với Thiên Chúa, và với mọi người. Tiếng gọi của Chúa Giêsu đặt Giakêu vào giữa cộng đoàn, khiến ông quên đi sự báo thù, mở lòng ra để đón nhận ơn tha thứ, niềm vui này Giakêu chia sẻ với anh em. Chúng ta đừng có nhầm : Giakêu không vứt bỏ tiền vì đã gặp được Chúa, ông không còn thích nữa. Chính sự dâng cúng này, Giakêu cho thấy ông không còn cần quyền lực để bảo vệ mình giữa mọi người nữa. Cuối cùng, ông đã nhận ra họ là anh em. Trước kia ông sống trong cô đơn, nay ông khám phá ra niềm vui của một tình yêu sâu thẳm vô điều kiện ở nơi Chúa Giêsu. Vì vậy, hạnh phúc của ông là đáp lại anh em mình, bằng cách chia sẻ tài sản của ông, mở ra một mối quan hệ mới với họ, dựa trên công lý.
Trong một văn bản khác của Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định rằng, người giầu rất khó vào Nước Trời (x. Mt 19,23). Trong trường hợp của ông Giakêu, điều xem ra không thể, lại được thực hiện: thánh Girolamo giải thích rằng “ông Giakêu đã cho đi sự giầu có của ông và lập tức thay thế nó bằng sự giầu có của nước trời” (Bài giảng 83,3). Và thánh Massimo thành Torino nói thêm: “Ðối với những người dại dột, của cải giầu sang dưỡng nuôi sự bất chính, trái lại đối với những người khôn ngoan chúng trợ giúp nhân đức; cơ may cứu rỗi được cống hiến cho những người khôn ngoan, còn đối với những người dại dột sự vấp ngã khiến cho họ hư mất” (Bài giảng, 95).
Chúa Giêsu kết thúc: “Con người đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10), “điều đã hư mất” chứ không phải là “kẻ bị mất”. Đây không phải là Giakêu đã mất. Khi cô lập với anh em mình, ông đã mất niềm hy vọng tìm thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang lại cho ông niềm hy vọng khi nói với ông : “Giakêu, hãy xuống mau!”.
Thiên Chúa không loại trừ ai hết, người nghèo cũng như người giầu. Thiên Chúa thấy nơi mỗi người một linh hồn cần cứu vớt. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta : hãy noi gương Chúa và thực thi lòng thương xót như Cha trên trên! Hôm nay ơn cứu độ của Chúa đến với chúng ta ; “Hôm nay, Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Mỗi ngày, hãy đến với Chúa Giêsu, là chủ nhà của tâm hồn chúng ta và là Thầy của đời ta. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đi hành hương Đất Thánh, ai cũng muốn đến Giêricô thăm “Cây sung Giakêu” và thưởng thức trái chà là. “Cây sung Giakêu” to lớn gần hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Tôi đi dịp tháng 4 nên sung nhiều trái. Các bà thích lắm, hái ăn và tin rằng trái từ “cây sung Giakêu” chữa lành mọi thứ bệnh.
Giêricô trở nên nổi tiếng với câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua.
Giêricô chính là miến Đất Hứa, khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy. Sách Giosuê chương 6 kể lại cuốn đánh chiếm thành Giêricô.
Giêricô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan.
Giêricô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêricô là “thành cây chà là”. Sử gia Do thái Josephus gọi là “Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin”. Người La mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới.
Chúa Giêsu đi qua Giêricô, tiến về Giêrusalem với đoàn người hành hương đông đảo, chuẩn bị bước vào khổ nạn. Ông Giakêu leo lên cây sung để nhìn cho được Chúa sắp đi ngang qua. Chúa nhìn lên cây sung thấy Giakêu. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương.Trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Ông đáp lại tình thương của Chúa và thể hiện bằng việc đền bù thiệt hại, chia sẻ chân thành cho tha nhân. Tình thương của Chúa đã cảm hóa Giakêu và biến đổi cuộc đời ông.
- Tình thương biến đổi.
Giakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu đã chọn ông Lêvi, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ (Mt 9,9). Nay ông rất muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này.
Lần kia, biết Người sắp đi ngang Giêricô quê hương ông, Giakêu ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông leo lên một cây sung để nhìn cho rõ. Ðường đường một người “đứng đầu những người thu thuế”, một công chức có địa vị, nhưng ông vẫn không sợ mất mặt, vẫn trèo lên cây cao.
Chúa ngước mắt lên cây sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế, một người bị vạ tuyệt thông cách ly, một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa, một con chiên lạc đang tìm lối về. Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm về đây. Chúa nói: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông“. Giakêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Và đó phải là một bữa tiệc linh đình, có đông bạn bè trong ngành thuế tham dự, giống như ông Lêvi đã làm trước kia (x. Lc 5,29).
Không phải bốc đồng, nhưng từ đáy lòng Giakêu cuộn lên một niềm sám hối mãnh liệt khiến ông cất tiếng thưa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phần nửa tài sản tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn“. Ông Giakêu tự buộc mình làm một việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ. Ðiều ấy chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này“.
Trước đây Giakêu chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác.Trước đây Giakêu vốn tham lam, bất lương, lòng quảng đại bị chôn vùi qua bao năm tháng. Hôm nay, gặp được Chúa Giêsu, ông đã biết sống trao ban cho người khác, quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người. Lòng quảng đại đó được bộc phát cách rõ ràng: “Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn”. Quả là mùa xuân về trong tâm hồn Giakêu. Ngập tràn ánh nắng. Ngây ngất niềm vui. Bình minh Ơn Cứu Ðộ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.
- Tình thương hoán cải.
Trong sách (Lv 5, 20-26; Xh 21, 37; Ds 5, 6) đều nói đến khoản luật phải trả lại, đền bù cho người nghèo, cho kẻ bị thiệt hại một số của cải. Ðó là luật trong Cựu Ước. Giakêu trình bày ngay vấn đề, điều đó cho thấy có lẽ ông đã nghiên cứu Thánh Kinh, biết được các luật lệ đó. Tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới.
Thánh Luca đã nói rõ: ông là thủ lãnh của những người thu thuế. Giêricô bấy giờ là hải cảng, thu thuế nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rôma. Vậy tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giêsu, kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông? Là người giàu có, sang trọng, tại sao ông bỏ cả thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Chúa Giêsu đi qua? Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ngoài tai mọi phê bình.
Ðộng lực nào thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu? Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động.Tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa ! Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm. Hoán cải là từ bỏ. Bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi phải từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu tích cực đi tìm Chúa: “Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung“. Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: “Ông vội vàng tụt xuống“. Ông còn “vui mừng đón rước Ngài về nhà“. Ông nhìn nhận tội lỗi của mình.Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác. Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo. Hoán cải là một hành trình: từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và canh tân đời sống. Giakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông san sẻ cho phân nửa tài sản, nhóm bị oan ức (nếu có) được giải oan và nhận huê lợi hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người.
Giakêu lùn về thể lý nhưng tâm hồn không thấp chút nào. Giá trị một người hệ tại nơi tâm hồn. Gía trị của một việc làm ở nơi lòng mến. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu đã trở nên cao thượng nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người. Chiều cao thân xác Giakêu vẫn thấp nhưng chiều cao tâm hồn bây giờ ngất cao nhờ tình thương chiếu rọi.
- Tình thương cảm hóa.
Chúa Giêsu là bậc Thầy cảm hoá lòng người. Tôn trọng, yêu thương có sức cảm hoá đến kỳ diệu. Ánh mắt, lời nói và thái độ của Chúa Giêsu đem mùa xuân về cho tâm hồn Giakêu. Những gì xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Giakêu trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần. Thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người đáng khâm phục. Bởi lẽ, Ông đã gặp được Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Ðộ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.
Kho tàng văn học Thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!”. Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Giakêu cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.
Giakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu.Giakêu quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu.
Lạy Chúa Giêsu, tình thương của Chúa đã làm nên bao điều kỳ diệu. Xin dạy chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, sống với người khác bằng tình thương, hy vọng vào lòng tốt của mỗi người và tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.Amen.
.
NGƯỜI NÀY CŨNG LÀ CON CHÁU TỔ PHỤ ÁP-RA-HAM
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Việc chủ động xin vào trọ trong nhà ông Da-kêu, một thủ lãnh nhóm thu thuế, một lần nữa lại cho thấy, đời Đức Giê-su luôn gắn liền với các người tội lỗi… Có thể Ki-tô hữu chúng ta đã dần quen và xem thường hình ảnh này, nhưng không phải vậy đối với các Biệt Phái và đám quần chúng Do Thái; “Mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Lý do duy nhất Đức Giê-su đưa ra để biện minh cho quyết định táo bạo này là: “Bởi vì người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”, cho dầu ông ta có tội lỗi bất xứng tới đâu.
“Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”! Bằng nhiều cách nói khác nhau, Đức Giê-su đã không ngừng xác định sứ mệnh của Người khi đến trần gian là: để cứu vớt. Đó là mục tiêu chính và lẽ sống của Người! Do đó, tin và chấp nhận Đức Ki-tô sẽ không là gì khác hơn: chân thành nhìn nhận rằng mình đáng bị hư mất. Ai không nhìn nhận như thế sẽ không thể là Ki-tô hữu, đơn giản vì họ cho là mình không có lý do gì để đón nhận ơn cứu độ Người mang đến. Nhưng để giải thích được điều rất mới mẻ này, tối hậu Đức Giê-su chỉ trưng ra được có một lý giải duy nhất; Người long trọng tuyên bố: “người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”. Câu nói này mang tính cách mạng ghê gớm! vì trong đầu óc và ngôn ngữ Do Thái thì câu này cũng tương tự như nói với người Công Giáo về một người phạm trọng tội đáng bị rút phép thông công rằng: “vì người tội lỗi này cũng đang là con cái Thiên Chúa!”
Đối với quần chúng Do Thái, nhất là các luật sĩ và nhóm Biệt Phái, thì các người thu thuế nói riêng, và mọi kẻ tội lỗi nói chung, không còn là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham nữa: họ đã phản bội Giao Ước, họ phải bị khai trừ, họ đáng bị khinh miệt và ghét bỏ, họ sẽ bị coi như người dân ngoại. Mọi người Do Thái chân chính đáng danh con cháu tổ phụ Áp-ra-ham buộc phải xa tránh họ và nếu có thể…, tiêu diệt họ bằng cách ném đá cho chết. Do đó bất cứ ai tiếp xúc với họ (huống hồ tới trú ngụ trong nhà họ) đều bị coi là đã ‘mắc ô uế’. Lối suy nghĩ tương tự như thế là hoàn toàn hợp lý, và rất phổ biến trong bất kỳ tập thể xã hội hay tổ chức nào dựa trên luật lệ, kể cả xã hội Ki-tô giáo chúng ta hôm nay xét theo diện một tổ chức (thử nghĩ tới thái độ đối với các bè rối với những vạ tuyệt thông…). Vậy mà Đức Giê-su đã xác định ngược lại: thu thuế hay tôi lỗi tới đâu cũng vẫn là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, và vì thế cần phải đi tìm và cứu vớt họ. Câu hỏi được đặt ra là: dựa trên tiêu chuẩn nào mà Người lại đòi hỏi như thế?
Suy nghĩ thông thường vẫn là: anh sai phạm thì anh phải cải tà qui chính để may ra được chúng tôi thứ tha và được nhận trở lại chăng; nếu anh thành tâm sám hối và sửa lỗi mình thì anh mới được tha, và được cho hội nhập trở lại. Rất thường khi, sự tha thứ này còn kèm theo nhiều điều kiện hoặc thử thách khắc nghiệt khác nữa. Trường hợp của Da-kêu cho ta thấy một tiến trình trái ngược: Đức Giê-su chủ động xin tới với ông ta trước, Người vào nhà chia sẻ cuộc sống với ông; điều này xảy ra trước cả khi ông hứa sẽ đền bù thỏa đáng những lầm lỗi của mình. Đối với Người, trình tự này là hoàn toàn hợp lý với lời giải thích: “hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham!”. Nếu sau đó ông Da-kêu có thưa với Người: “Đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” thì đó vẫn không phải là lý do tại sao Đức Giê-su quyết định vào nhà ông; đó chẳng qua chỉ là hậu quả của việc Người chủ động xin đến trú ngụ mà thôi. Nếu vậy thì ta phải đi tới kết luận: khi Đức Ki-tô có quyết định đến với bất cứ tội nhân nào thì không phải là vì họ đã có công trạng gì trước, kể cả có lòng thống hối chân thành. Người cứu chuộc chúng ta chỉ vì Người là Con Thiên Chúa từ nhân, và muôn đời Người sẽ còn tiếp tục hành sử với chúng ta như thế. Cho dầu tội lỗi đầy mình tới mấy, chúng ta vẫn luôn mãi là con cái của Thiên Chúa, là con cái của tình yêu tha thứ xót thương. Đối với Người, con chiên dầu có đi lạc thì vẫn là chiên của chủ chăn, đồng bạc dầu có bị mất thì cũng vẫn là đồng bạc của bà chủ, và đứa con có đi hoang thì vẫn luôn là con của ‘cha già’. Vì như Người khảng định: “Con Người đến để tìm và cứu những gì (Người) đã mất”.
Một trong các tư tưởng căn bản của nền thần học Ki-tô giáo là: ơn cứu độ của Thiên Chúa hoàn toàn là một quà tặng biếu không (gratuitous). Chúng ta chỉ có thể khiên tốn đón nhận với lòng tri ân sâu xa chứ không bao giờ xứng với nó. Nếu có ai cho rằng mình xứng đáng được hưởng ơn cứu độ, hoặc vì lắm công nhiều nghiệp, hoặc vì đầy dẫy các nhân đức, thánh thiện, trung thành tới mức tử đạo, hoặc tối thiểu, vì đã chân thành thống hối ăn năn, thì, trong tiêu chuẩn của Đức Giê-su, người đó đã mắc sai lầm cực kì nghiêm trọng. Ngay cả Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta, vị nữ tu cả đời chỉ làm toàn việc thiện và bác ái, được người đương thời bất luận thuộc tôn giáo nào tán dương như một vị đại thánh, một vĩ nhân, cũng vẫn phải chân thành nhìn nhận: “Thiên Chúa yêu thương tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành, vì biết rằng Chúa thương yêu tôi”. Thế đấy, khi nói lên các việc đền bù mình sẽ làm, Da-kêu cũng đang cố gắng trở nên tốt hơn, chỉ vì nhận thức ra rằng: Thầy Giê-su đã chủ động yêu thương và tha thứ cho mình trước. Do đó ta có thể kết luận: nỗ lực sửa mình và cố gắng vươn lên không phải là điều kiện để được Chúa tha thứ và thương mến, nhưng chỉ là hiệu quả của niềm tin đó mà thôi; và đương nhiên việc vươn lên đó còn tùy thuôc rất nhiều vào mức độ ta nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương đến đâu. Hình như có một tỷ lệ thuận nào đó giữa hai vế, nhưng thứ tự lại ngược hẳn với lối suy nghĩ thông thường: không phải ‘ai yêu nhiều thì được tha nhiều’, nhưng là “Ai được tha nhiều (và nhận thức rõ điều đó) thì yêu nhiều hơn” (xem bình giải Lc 7:47 trong Christian Community Bible) .
Ôi sức mạnh của việc nhận biết lòng thương xót Chúa: vừa rất êm dịu, lại vừa mãnh liệt xiết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho con không ngừng nhận biết lòng Chúa xót thương, nhất là trong các dịp xét mình hay đi xưng tội. Ngay cả trước khi bước vào tòa giải tội để xưng thú tội lỗi, trước cả khi giục lòng thống hối ăn năn và quyết tâm sửa mình, con biết Chúa đã tha thứ cho con vô điều kiện rồi. Với niềm thâm tín này, xin cho các nỗ lực vươn lên của con luôn xuất phát từ niềm tin vào tình yêu tha thứ của Chúa, để ngay cả những lúc thấy mình tội lỗi và thấp hèn nhất, niềm tin của con vẫn luôn hòa quyện trong tâm tình tri ân cảm tạ sâu xa. A-men.
.
HÀNH TRÌNH TRỞ VỀ: BIẾT CHÚA – BIẾT NGƯỜI – BIẾT MÌNH
Lm. GB. Trần Văn Hào
Tin Mừng Luca nói rất nhiều về lòng thương xót của Chúa đối với các tội nhân. Bài Phúc âm hôm nay là một ví dụ tiêu biểu. Tuần trước, Chúa Giêsu đề cao gương khiêm nhường của một người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện với tâm tình sám hối. Tuần này, Thánh Luca cũng thuật lại cuộc hành trình trở về của Giakêu, cũng là một người thu thuế với bao tội lỗi. Giakêu không chỉ là một viêc chức quèn, nhưng còn là một cán bộ cao cấp và có thế giá trong ngành thuế vụ. Với chức vụ đó, đương nhiên ông ta rất giàu (c.2). Ông là người có dáng vóc nhỏ bé. Có lẽ Thánh Luca còn hình tượng hóa, không phải chỉ nói về sự nhỏ bé thể lý, nhưng cũng diễn bày sự bé nhỏ nơi tâm hồn của ông, khi ông ý thức được những lầm lỗi của chính mình. Cuối cùng, Giakêu đã hoán cải sau khi gặp được Đức Giêsu. Lộ trình trở về của Giakêu gồm 3 yếu tố: Biết Chúa – Biết người – và Biết về chính mình.
Biết Chúa.
Khởi đầu Giakêu muốn biết Chúa chỉ vì tò mò. Chúa Giêsu khá nổi tiếng lúc bấy giờ và được dân chúng nể phục. Nhân lúc Đức Giêsu sắp đi ngang qua, Gia kêu trèo lên một cây sung để xem rõ mặt mũi nhân vật nổi tiếng ấy như thế nào. Đây là điểm khởi đầu để dần dần ông được Chúa biến đổi, cho dẫu sự bắt đầu chỉ thuần mang tính nhân loại.
Ông Pchychari khi còn là dự tòng và đang trên con đường tìm kiếm Chúa, vẫn chân thành dâng lên Chúa lời cầu nguyện : “Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, xin hãy tỏ ra cho con biết Chúa là ai.” Biết Chúa không phải là động thái của tri thức, nhưng trên hết, đó là thái độ của tâm hồn. Đi vào thế giới của mầu nhiệm, không cần chúng ta phải vắt óc để lý luận, nhưng cần mở rộng cõi lòng để ánh sáng chân lý soi chiếu. Nhiều triết gia lỗi lạc đã nặn óc suy tư với những lý luận sắc bén, nhưng đã không tiếp cận được và biết về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện với Chúa Cha : “Lạy Cha, Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn (Mt 11,25). Cuộc hành trình trở về của Giakêu bắt đầu từ việc ông khao khát biết Chúa, cho dầu động cơ nơi ông có như thế nào chăng nữa.
Biết người.
Sau khi Chúa gọi Giakêu lúc ông đang ở trên cây, ông đã vui mừng tụt xuống ngay và tiếp đón Đức Giêsu đến nhà mình cách trọng thị (c.6). Điều này cho thấy rằng cho dù ông đã làm nhiều điều xấu, đã thu quén tiền bạc một cách bất chính, nhưng căn gốc sự thiện vẫn còn nơi tâm hồn ông và nay được dịp bùng phát. Chúa Giêsu đã khơi dậy sự thiện hảo nơi ông, vốn đã bị vùi lấp từ lâu do sự cuốn hút của tiền bạc. Kết quả là ông đã được biến đổi. “Thưa Thầy, tôi xin lấy phần nửa tài sản của tôi cho người nghèo. Nếu tôi chiếm đoạt của ai cái gì , tôi xin đến gấp bốn”. Từ chỗ biết Chúa, Giakêu đã đi đến việc biết người. Biết người tức là biết chia sẻ, biết lưu tâm đến cận nhân nghèo khổ sống chung quanh. Một người giàu có đã từng chỉ biết thu gom tiền bạc để hưởng thụ cách ích kỷ, bây giờ can đảm chia một nửa tài sản cho người nghèo, là một con người rất đáng trân quý. Sự cao quý nơi Giakêu ở chỗ, ông đã can đảm phá vỡ pháo đài ích kỷ vốn đã xơ cứng nơi tâm hồn mình, bây giờ trở thành trái tim thịt mềm, một trái tim biết rung lên những giai điệu đồng cảm và yêu thương. Giakêu đã được biến đổi vì ông đã biết Chúa và biết người.
Biết mình.
Căn gốc của sự hoán cải chính là tự biết mình. Giakêu biết rõ mình là con người tội lỗi và bị mọi người khinh ghét. Nhưng ông còn biết rõ hơn, là chính Thiên Chúa không ghét bỏ ông. Đức Giêsu đã tuyên bố cho mọi người cũng như cho ông biết rằng : “Con người đến để tìm kiếm những gì đã hư mất”. Chúng ta vẫn thường đi xưng tội, và trước khi xưng tội, chúng ta phải xét mình. Xét mình không phải chỉ là liệt kê một bản danh sách các tội một cách máy móc và điền đại vào đó số lần để xưng cho xong. Khi xét mình, chúng ta cần phải đi sâu vào tĩnh lặng để bới tìm những bẩn thỉu ẩn kín sâu tận bên trong. Chúng ta rất dễ bới móc cái rác trong mắt của tha nhân mà vẫn không nhận ra cái đà to đùng nơi con mắt của mình (Mt 7,3). Chúa Giêsu nói điều đó với chút cường điệu để dạy chúng ta phải khiêm tốn nhìn vào nội tâm, chứ đừng vội vã kết án người khác. Đây là phương thức để chúng ta biết về mình cách thực sự.
Tiến trình trở về của Giakêu là như thế. Tiến trình này được thể hiện do chính Đức Giêsu chủ động và lôi kéo. Thiên Chúa luôn đi bước trước để gọi mời, còn chúng ta hoàn toàn tự do để đáp trả hay từ chối. Giakêu đã nghe tiếng Chúa gọi. Ánh sáng từ đôi mắt Chúa đã hắt dọi vào tâm hồn ông và ông đã được biến đổi hoàn toàn. Ông đã gặp Chúa, đã tiếp đón Chúa tại nhà và đã được biết Chúa là ai, là ‘Đấng đến tìm kiếm và cứu chữa những gì hư mất’. Chúa đã soi sáng để ông cũng biết đến tha nhân bằng cách mở rộng cõi lòng chia sẻ. Nhưng quan trọng nhất, ông đã biết về chính mình với bao yếu đuối và tội lỗi. Sự biến đổi nội tâm nơi Giakêu là mô hình để chúng ta thực hiện cuộc trở về mỗi ngày.
Kết luận
Xin được kết luận bằng một câu chuyện dân gian Việt Nam. Một chàng thư sinh rất tự mãn về kiến thức của anh ta. Trên đường trở về quê, anh chàng phải đi qua một con sông lớn và bác lái đò quê mùa ở đó vẫn ngày ngày chở khách qua sông. Trên thuyền, chàng sinh viên khoe khoang hỏi bác lái đò : “Bác ơi bác có biết đọc biết viết hay không? – Cậu ơi, tôi không biết. Chàng thư sinh nói tiếp : “ Thế là bác chết một phần tư đời người rồi”. “Bác ơi, bác có biết về khoa học hay kỹ thuật gì không?”. Bác lái đò vẫn bình thản trả lời : “Cậu ơi, tôi quê mùa có biết gì về văn minh khoa học tí nào đâu” – Tiếc cho bác, thế là bác chết thêm một phần tư đời người nữa rồi”. Chàng thanh niên tiếp tục khoe khoang : “Thế, bác có biết chút gì về nghệ thuật hay không ? -Tôi đã bảo là tôi mù tịt, không biết gì cả. – “Thế là bác chết thêm ¼ cuộc đời nữa, tội nghiệp bác quá”. Đi đến giữa sông, trời bỗng nổi cơn giông rất mạnh. Bác lái đò hỏi chàng thanh niên :“Cậu ơi, cậu có biết bơi không”. “Thưa bác, không”. Chàng thanh niên run sợ trả lời. Bác lái đò nhẹ nhàng nói : “Thôi, thế là cậu sắp chết cả đời người rồi, tiếc cho cậu quá”.
Triết gia Socrates đã nói: “Khởi đầu của sự khôn ngoan là hỡi người, hãy ‘biết’ về chính mình.” Chúng ta hãy học lấy thái độ của Giakêu để thực hành cuộc sám hối trở về, bằng cách biết Chúa, biết người và biết rõ về mình.
.
Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Để hiểu bài Tin mừng Chúa nhật tuần này về câu chuyện Zakêu người thu thuế, cần bắt đầu với chủ đề của sách Khôn ngoan về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Một cách rất hiện thực và trong một cái nhìn tổng thể, sách Khôn ngoan cho thấy điều kiện của nhân loại rất là mong manh yếu đuối trước mắt Thiên Chúa, ví được như là hạt gạo trên đĩa cân, hay sương sa trên mặt đất, nó chẳng là gì cả, dễ tan biến vào hư vô. Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng yêu thương vô bờ bến, Người yêu thương nhân loại vô cùng nên rất nhẫn nại và chờ đợi con người sám hối tội lỗi để trở về với Thiên Chúa. Bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với mọi loài là ý định tạo dựng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa tạo dựng, có nghĩa là Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại và có ý định ban tặng sự sống cho mọi loài. Và điều quan trọng, đó là lần hồi, nhờ thần trí của Thiên Chúa tốt lành, Chúa sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn những người tội lỗi để họ trở về với Thiên Chúa và từ bỏ con đường tội ác của mình mà được sống hạnh phúc sung mãn.
Điều này được cụ thể hoá qua hình ảnh cụ thể của người thu thuế Zakêu, một người tội lỗi, được Chúa Giêsu viếng thăm tại nhà và vui mừng thay đổi đời sống đón nhận ơn cứu độ. Điều rất cao đẹp và quí giá mà Thiên Chúa thực hiện cho con người, đó là từ tình trạng xấu xa tội lỗi và hậu quả là phải chết tủi nhục, Thiên Chúa biến đổi để con người trở nên thánh thiện và xứng đáng đón nhận sự sống đời đời. Sự biến đổi và thánh hóa của Thiên Chúa thực là kỳ diệu, và con người luôn được Thiên Chúa mời gọi và tìm kiếm, bởi vì Thiên Chúa luôn nhớ đến mỗi người và thành tín yêu thương vô cùng. Zakêu là một khuôn mặt tiêu biểu đáng nêu lên bởi vì sự biến đổi mà Thiên Chúa thực hiện nơi ông đã diễn ra một cách rất nhẹ nhàng và đầy niềm vui. Ông là một ông trùm trong số những người thu thuế giàu có, một người tội lỗi công khai vì nghề thu thuế tai tiếng. Đàng khác, vóc dáng nhỏ thó, lùn tịt của ông cũng làm cho ông bị người khác coi thường. Khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêrikô là nơi ông ở, Zakêu đã có một cử chỉ thực là hồn nhiên, là leo lên cây để được nhìn Chúa Giêsu đi ngang qua. Đáp lại, Chúa Giêsu quyết định đến gặp Zakêu tại nhà để đáp lại cách cụ thể ước muốn của ông, nên người nhìn lên và nói với ông: “Zakêu! Xuống mau đi, vì hôm nay tôi muốn tới ở nhà ông”. Và điều kỳ diệu bất ngờ đã xảy ra, vượt mọi dự đoán của mọi người. Trong khi mọi người khác vẫn còn đóng kín trong những phê phán hẹp hòi chật hẹp thiếu hiểu biết của mình, nói rằng Chúa Giêsu đến nhà người tội lỗi. Zakêu đã có những quyết định rất táo bạo cương quyết : “Thưa thầy, tôi xin bố thí nửa phần tài sản của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đến gấp bốn”. Ông không nói bố thí hết tài sản, mà chỉ chia một phân nửa, phần còn lại giữ lại cho mình và đền bù gấp bốn lần cho những người mà ông đã làm thiệt hại. Thế nhưng đó đã là một cuộc hoán cải đầy đủ và trọn vẹn, nhắc lại phần nào lời giải đáp xưa kia của Gioan Tẩy giả khi rao giảng ở sông Giorđan. Cuộc gặp gỡ và hoán cải hiện thực là như thế, không viễn vông ảo tưởng nhưng chân thành hiện thực. Zakêu phải can đảm chấp nhận cho đi những của cải của mình. Đó không phải là điều dễ dàng. Nhưng phải chăng cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cứu độ là như thế, không dừng lại ở cái nhìn tò mò, nhưng là đón nhận chính Đấng cứu thế vào trong nhà mình và can đảm mở lòng để đền bù lại những thiệt hại mà mình gây cho người khác, giúp đỡ cho những người nghèo khổ túng thiếu.
Trên con đường Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, tin mừng theo Luca cho chúng ta được khám phá nhiều điều mới mẻ về ơn cứu độ. Chúa Giêsu đi đến gặp gỡ từng người trên con đường người đi qua. Một cách nghịch lý, những con người tội lỗi, bị ghét bỏ trong xã hội, bị đánh giá thấp lại là những người gặp gỡ được tình yêu thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Và lời nói tiêu biểu của Tin mừng Luca được lặp lại như đã được công bố ở hội đường Nazarét: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì người này cũng là con cái Abraham”. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu dẫn đến ơn cứu độ thực sự, đầy tràn niềm vui, đầy tràn sức sống. Ơn cứu độ trả lại cho con người phẩm giá làm con Thiên Chúa. Zakêu, một con người bình thường như những người khác, lại có điều gì đó mà chúng ta cần phải học hỏi. Không yếu ớt, không tự phụ, không thu mình trong địa vị của hàng tư tế hay biệt phái tự cho mình là những người thánh thiện trong sạch, nhưng dám quyết định và hành động mạnh mẽ chia sẻ chính tài sản của mình, đền bù lại những thiệt hại đã gây ra cho người khác. Đồng thời ơn cứu độ mà Zakêu nhận được là điều rất cao quí. Từ nay, ông lại được đón nhận thừa hưởng gia nghiệp của con cái Abraham. Từ tình trạng tội lỗi và thân phận phải hư mất đời đời, ông được chữa lành và được đón nhận vào trong sự sống sung mãn của Giao ước với Thiên Chúa. Lời mà Chúa Giêsu đã tuyên bố khởi đầu ở hội trường Nazarét, giờ đây lại được công bố cách mạnh mẽ: “Hôm nay ơn cứu độ lại đến với nhà này”.
Cộng đoàn Kitô giáo thời thánh Phaolô là cộng đoàn những người đã bắt đầu tin vào Chúa Giêsu và dấn thân trên con đường đón nhận ơn cứu độ của đời sống mới. Họ có thể bị chao đảo bởi những hoàn cảnh lịch sử mà họ đang phải trải qua. Họ vẫn tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại gần kề, nhưng nghịch lý là Chúa Giêsu vẫn chưa đến như mọi người mong đợi. Thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn hãy vững vàng trong ơn gọi của mình. Thái độ tỉnh thức và chờ đợi Chúa trở lại là thái độ cụ thể, không phải chỉ là những tâm tình chờ đợi hốt hoảng lo âu vì những tuyên bố của người này người khác không có thẩm quyền chính thức của tông đồ. Ngược lại, thái độ chờ đợi Chúa đến thực sự là luôn vững vàng trong lòng tin của mình và sống thánh thiện theo ơn Chúa kêu gọi.
.
Trầm Thiên Thu
Quyết định là điều khó khăn nhất để có thể bắt đầu hành động, phần còn lại là có kiên trì hay không. Cần phải mạnh mẽ và dứt khoát để có thể quyết tâm mau chóng, nhưng cần phải nhận thức tinh tế mới khả dĩ quyết tâm đúng đắn.
Edward Bulwer-Lytton (1803-1873, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và chính khách người Anh) nhận xét: “Ai thận trọng quan sát và kiên quyết vững vàng sẽ tự nhiên dần trở thành bậc anh tài”. Còn William Arthur Ward (1921-1994, nhà giáo dục người Mỹ) nhận định: “Sự kiên nhẫn của ngày hôm nay có thể biến những nản lòng của ngày hôm qua thành khám phá của ngày mai. Những mục đích của ngày hôm nay có thể biến những thất bại của ngày hôm qua thành quyết tâm của ngày mai”.
Càng về cuối năm Phụng Vụ, Lời Chúa càng “xoáy sâu” vào tâm hồn chúng ta – rõ ràng hơn, thẳng thắn hơn, mạnh mẽ hơn, và cũng… “gay gắt” hơn. Cuối năm là thời điểm cần thiết để xem lại chính mình, luôn có nhiều điều cần quyết tâm hoặc tái quyết tâm – cả về đời thường và tâm linh.
Vì yếu đuối, phàm nhân luôn cần phải cố gắng quyết tâm và tái quyết tâm. Thật hạnh phúc vì chúng ta có một Vị Thiên Chúa vô cùng nhân từ và kiên nhẫn: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11:23). Chắc chắn không có thần linh nào như Thiên Chúa của chúng ta. Trong St 18:20-32, Tổ phụ Abraham đối diện Thiên Chúa với mối quan ngại về điều sẽ xảy ra cho thành Xô-đôm. Tổ phụ Abraham đã “mặc cả” với Thiên Chúa, và Ngài sẵn sàng tha thứ cho Xô-đôm nếu thành này có được 10 người công chính.
Kinh Thánh xác định: “Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11:24-26). Thật vậy, Thiên Chúa là ĐẤNG HẰNG SINH (Đnl 5:26; Gs 3:10; Tl 8:19; R 3:13; 1 Sm 14:39 & 45; 1 Sm 17:26 & 36; 1 Sm 19:6; 1 Sm 20:3 & 21; 1 Sm 25:26 & 34; 1 Sm 26:10 & 16; 1 Sm 28:10; 1 Sm 29:6; 2 Sm 2:27; 2 Sm 4:9; 2 Sm 12:5; Tv 42:3; Tv 84:3; Mt 16:6; Mt 26:63; Ga 6:57; Cv 14:15; 2 Cr 3:3; 2 Cr 6:16; 1 Tx 1:9; 1 Tm 3:15; 1 Tm 4:10; Dt 7:24-25) và là ĐẤNG CẦM QUYỀN SINH TỬ (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), nhưng Ngài lại luôn GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT và RẤT MỰC YÊU MẾN chúng ta (Ep 2:4).
Quả vậy, sinh khí bất diệt của Ngài ở trong muôn loài muôn vật. Vì thế, “những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ; Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (Kn 12:1-2). Nếu Thiên Chúa không đại lượng như vậy thì chúng ta chết từ lâu rồi. Chỉ riêng một điều là chúng ta còn hít thở không khí ngày hôm nay cũng đủ cả đời để chúng ta cảm tạ Ngài – dù chúng ta còn khỏe hay đau yếu!
Là thụ tạo, chúng ta không chỉ có bổn phận tôn thờ ngài, mà còn có bổn phận chúc tụng và tôn vinh Ngài. Bức tượng không có quyền đòi hỏi gì ở nhà điêu khắc. Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, hãy noi gương tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời” (Tv 145:1-2).
Thiên Chúa mà chúng ta nhận biết và tôn thờ là Thiên Chúa của tình yêu, của lòng trắc ẩn, của lòng thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:8-11).
Vì bản chất của Ngài là yêu thương, Ngài không thể đứng nhìn các thụ tạo của Ngài chịu đau khổ. Ngài sẽ ra tay kịp thời để bảo vệ chúng ta: “Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Ai quỵ ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên” (Tv 145:13cd-14). Mặc dù giờ của Ngài chưa đến, nhưng lời cầu nguyện chân thành của chúng ta có thể thay đổi số phận, càng hiệu quả hơn nếu chúng ta biết cầu xin Đức Maria. Sự việc đã xảy ra ở tiệc cưới Cana, miền Galilê, là một ví dụ điển hình (x. Ga 2:1-12).
Lời cầu nguyện thành tâm không chỉ có hiệu quả đối với chính mình mà còn đối với người khác – những người chúng ta cầu nguyện cho, đồng thời còn sinh ích lợi cho chính mình: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Thánh Francis Assisi). Thánh Phaolô đã áp dụng cách cầu nguyện “hai chiều” đó: “Lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô” (2 Tx 1:11).
Đức tin sinh ra yêu thương, yêu thương sinh ra hành động, và hành động vì đức tin. Đức tin của chúng ta không mơ hồ, không hão huyền, mà chính xác: “Tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Vả lại, chính Chúa Giêsu đã phục sinh, điều này giúp chúng ta thêm xác tín.
Thánh Phaolô nói: “Về ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ” (2 Tx 2:1-2). “Ngày ấy” có thật và sẽ xảy ra, nhưng chúng ta không tin những kẻ lợi dụng thời cơ để gây náo động. Tin phải có cơ sở đúng đắn, cần có lý trí lành mạnh. Tin để sống tốt hơn chứ không theo kiểu “phong trào”. Quyết tâm canh tân đời sống luôn là điều cấp bách.
Không ai biết ngày giờ tận thế, và cũng không biết chúng ta có được chứng kiến “ngày ấy” hay không, nhưng chắc chắn ai cũng chứng kiến ngày tận thế của cuộc đời mình: Chết. Vì thế mà luôn phải sẵn sàng – thay đổi và dứt khoát. Đó là quyết tâm vô cùng cần thiết, càng sớm càng tốt!
Trình thuật Lc 19:1-10 cho biết về một nhân vật đặc biệt: trưởng trạm thuế vụ Da-kêu. Ông là người có dáng dấp thấp bé, ngắn ngủn, lùn tịt, nhưng đức tin của ông lại cao vòi vọi. Ông là người thông minh, can đảm, dứt khoát, có quyết định mau mắn và chính xác.
Một hôm, Chúa Giêsu vào thành Giê-ri-khô. Ở đó có một trưởng trạm thuế vụ giàu có là Da-kêu. Nghe người ta nói về Chúa Giêsu, ông tìm cách để xem cho biết Ngài Giêsu là ai, nhưng ông không thể nhìn thấy Chúa Giêsu vì ông lùn quá, trong khi dân chúng chen chúc đông như kiến. Vốn thông minh và nhanh trí, ông chạy tới phía trước và leo lên một cây sung, vì Chúa Giêsu sắp đi qua đó.
Tới chỗ cây sung, Chúa Giêsu nhìn lên và nói: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Lạ nhỉ, chưa gặp mà Ngài đã biết tên ông ta là Da-kêu. Có lẽ cũng vì thế mà ông Da-kêu càng tâm phục khẩu phục. Nghe Chúa Giêsu nói vậy, ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Ghen ăn, tức ở, những con người như thế thật là xấu xa. Trong chúng ta cũng vẫn có những con người nhỏ nhen và hèn hạ như thế, có vẻ biết rõ người khác nhưng lại mù lòa về chính mình!
Chúa Giêsu biết người ta xì xầm, bàn ra tán vào, nhưng Ngài không nói gì vì chưa cần thiết, chưa đến lúc. Cũng có thể chính ông Da-kêu cũng biết người ta ghét và nói xấu mình, nhưng ông cứ mặc kệ, việc mình thì mình làm, cứ là chính mình, ai nói sao thì nói.
Hãy quyết tâm điều này: “Đừng bận tâm về những điều người ta nói xấu sau lưng bạn, vì họ là những người chỉ bới móc sai lầm trong đời bạn thay vì lo sửa sai lỗi lầm của chính mình” – kiểu giống như ông Pharisêu tự tôn nên chê trách ông thu thuế (x. Lc 18:9-14). Kể cũng lạ, có những kẻ chuyên gièm pha, ưa thọc gậy bánh xe, khoái ngậm máu phun người, thấy mình không ăn được thì phá cho hôi,… Họ là dạng “siêu nhân” thế nào? Văn sĩ Dale Carnegie (1888-1955, tác giả cuốn “Đắc Nhân Tâm” nổi tiếng) nhận định: “Bất cứ kẻ ngu nào cũng có thể chỉ trích, chê trách và phàn nàn – và phần lớn những kẻ ngu xuẩn đều làm như vậy” (Any fool can criticize, condemn and complain – and most fools do).
Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Ông này nhanh trí nên quyết tâm được ngay, nhanh mà chính xác chứ không liều lĩnh hoặc bốc đồng. Đức Giêsu nói về ông Da-kêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để TÌM và CỨU những gì ĐÃ MẤT”. Nghe Chúa Giêsu nói vậy, chắc chắn những kẻ lẻo mép kia vuốt mặt không kịp, đành phải câm họng mà thôi. Biết mắc cở mà sám hối thì tốt, nhưng khốn thay có những kẻ vẫn cố chấp, không phục thiện, chỉ tỏ ra bằng mặt mà không bằng lòng!
Biết mình, biết người mới có thể quyết tâm đúng đắn. Kẻ thù lớn nhất là chính mình, chiến thắng chính mình mới thực sự là dũng cảm. Không mặc kệ lời người ta nói về mình, nhưng đừng sợ vì người ta ghét mình, cần xét xem mình có sai như họ nói hay không để tự chấn chỉnh. Đa số chưa chắc hơn thiểu số. Có một nhận xét rất hay: “Nếu có bất cứ ai làm bạn tổn thương, bạn hãy coi họ như TỜ GIẤY NHÁM. Giấy nhám CHÀ XÁT và làm bạn ĐAU ĐỚN, nhưng bạn sẽ trở nên SÁNG BÓNG, còn họ thành miếng giấy VÔ DỤNG, chỉ BỎ ĐI thôi”.
Trong cuốn “Tự Thuật” (Confessions III, 6, 11), Thánh GM TS Augustinô (354-430) đã chia sẻ kinh nghiệm tâm linh: “Deus intimior intimo meo – Chúa còn thân mật với tôi hơn chính tôi thân mật với tôi”. Cuối cùng chỉ còn Chúa, chính Ngài mới là người mà chúng ta phải sợ, vì Ngài là Đấng “thấu suốt mọi sự” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).
Quyết tâm đúng thì phát ngôn đúng và hành động đúng, quyết tâm sai thì phát ngôn sai và hành động sai. Đó là điều tất yếu. Trong những ngày trung tuần tháng 10-2016, cơn bão dữ Sarika đã làm cho dân miền Trung điêu đứng – đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Trong khi đó, người ta lại cho xả đập để “nhận chìm” dân lành, rồi còn nói rằng làm vậy chỉ tính “đúng quy trình” chứ chưa tính đến hậu quả. Thật tồi tệ!
Có người còn phát ngôn “vô tư” rằng mong cho bão lụt nữa để tẩy rửa chất độc của Formosa thải ra. Không hề có chút yêu thương nào! Chưa hết, khi người ta xót xa đồng bào mà làm từ thiện thì lại bị cấm, chỉ có nhà nước mới có “quyền” đó – tức là để có dịp “chia chác” chăng? Một cán bộ của “trung tâm nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng” đã tuyên bố bất nhân thế này: “Làm từ thiện là làm mất bản sắc dân tộc”. Khốn thay, vì người ta dám cấm người khác thể hiện lòng yêu thương!
Tiền nhân đã dạy rằng: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Thế nhưng lời dạy này không được người ta coi trọng. Buồn thay, vì còn đâu là tình nhân loại và nghĩa đồng bào! Một danh nhân đã nói: “Chỉ có những ai có lòng yêu thương mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Thật đúng như vậy!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết chính con và người khác, đặc biệt là xin cho con nhận biết Ngài. Xin giúp con luôn có quyết tâm đúng đắn, dứt khoát và chính xác theo Thánh Ý của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Kính thưa quý vị, Lời Chúa trong trang Tin Mừng Chúa Nhật cuối tháng Mân Côi hôm nay ( Lc 19, 1-10), xác tín cho chúng ta một lần nữa, Đức Giêsu- Kitô là : “ Đấng giải thoát ”.
Vậy , ai cần Người “TÌM và CỨU “, tức được giải thoát thì hãy chạy đến với Người, như người thu thuế Giakeu trong Tin Mừng. Vâng, và như vậy, hình ảnh ông Giakeu hôm nay là một tấm gương cho chúng ta, hầu đón nhận được ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa qua Đức Giêsu- Kitô.
Chúa Giêsu khẳng định : Người đến thế gian để TÌM và CỨU những gì đã mất. ( Lc 19, 10). Vậy, điều kiện để được đón nhận “ƠN CỨU ĐỘ” là gì ? thưa, đó là “ Tâm hồn Giakeu ”. Vâng, thật vậy, chúng ta phải có tâm hồn như Giakeu :
- Giakeu nhận thức được Lời chúa
- Giakeu khao khát Ơn cứu Độ
- Giakeu mau mắn đặt trọn niềm tin vào Đấng Cứu Thế
- Giakeu thể hiện niềm tin của mình bằng cách đón tiếp Chúa Giêsu.
- Giakeu mau mắn đền bù tội lỗi.
Rõ ràng, với những tâm tình ấy của Giakeu, Chúa Giêsu đã nói : “ Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này…”( Lc 19, 9)
Chúng ta thấy, qua đoan Tin Mừng hôm nay, thuật lại biến cố trên đường truyền giàng Tin Mừng Cứu độ, Chúa Giêsu đã đón nhận một tâm hồn như lòng Chúa mong ước: đó là Giakeu, một con người có tài sản, có tất cả, nhưng chưa có Thiên Chúa. Dù người đời gièm pha, nhưng với ơn cứu độ, Chúa Giêsu đã mặc khải cho biết sứ vụ của Người đến trần gian là “TÌM và CỨU “những gì đã mất.
Đến đây, chúng ta hiểu rõ ràng về sứ vụ Thiên Sai của Đấng Cứu Thế là “TÌM và CỨU” những gì đã mất. Vâng, trước khi cứu thì phải đi tìm, tìm thấy và cứu chữa. Tìm thấy lý tưởng của Đấng Cứu Thế trong trang Tin Mừng hôm nay, mà Đức thánh cha Phanxico đã có những lời giáo huấn , về vác chiên lên vai, hay muc tử phải có mùi chiên, hoặc truyền giáo trực tiếp từ Đức Kitô- Giêsu, ra những vùng ngoại vi đến với muôn dân
Vâng, TÌM và CỨU là hai động gói gọn dễ nhớ, nhưng không dễ thực thi, nếu không có ”TRÁI TIM NHÂN TỪ QUẢNG ĐẠI “ của Thiên Chúa là Cha.
Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên nhân lành, chính Người đã sống và thực thi. Xác tín một cách minh định nầy là nhân vât Giakeu, tâm hồn ông đã cảm nghiệm, xác tín Lời Chúa Giêsu, mà chúng ta được suy niệm qua trang Tin Mừng hôn nay.
Giakeu, một chứng nhân, đã cảm nghiệm Lời rao giảng của Đấng Cứu Thế, Đấng đã đến vì để “TÌM và CỨU “ những gì đã mất. Trải qua bao thế hệ,. những Giakeu như các vị đại thánh, đến những ai bước theo Đức Kitô đều phải thực thi. Nếu tất cả những ai mang tâm hồn Truyền giáo biết thực thi sứ vụ của Đứcc Kitô là : “TÌM và CỨU “ những gì đã mất, thì thật tuyệt vời
- Ý thứ hai: Đức Kitô không đi tìm người công chính, nhưng tìm kiếm kẻ tội lỗi biết sám hối.
Vâng , thưa quý vị bài đọc I hôm nay (Kn 11, 22- 12 , 2) sách Khôn ngoan cho chúng ta hiểu được điều đó, bởi vì, Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan, Người thực thi sự khôn ngoan bởi chính Thiên Chúa, để kẻ kiêu ngạo, tự đắc vì mình thánh thiện, sẽ phải cúi đầu thuần phục suy tôn Thiên Chúa. Vì hành động THƯƠNG XÓT của Thiên Chúa chính là : NÂNG CAO MỌI KẺ KHIÊM NHƯỜNG.
Vâng, khiêm nhường chinh là hành động , là thái đội ăn năn, hối lỗi, nhìn nhận thận phận bụi tro, thấp hèn của con người thế nhân, là thụ tạo. Như vậy, tai sao, Chúa Giêsu hành động theo hai động từ “TÌM và CỨU “đó. ? Thưa, bởi vì đó là hành động khôn ngoan của Thiên Chúa.
Qua trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta học được bài học bởi Giakêu, là lắng nghe lời Chúa, mau mắn thực thi, và luôn khát khao chân lý. Vì khi thân xác bị thương, ốm đau bệnh tật, thì nhờ đến thầy thuốc để chữa bệnh thân xác. Nhưng , khi linh hồn bệnh tật hoặc bị lầm lạc, thì cần đến ai ? Há, chẳng phải là Đức Kitô – Giêsu hay sao? ! Vì , Người chính là Vị Lương Y của linh hồn.
Cũng vậy, theo đó, Bài đọc II hôm nay, thánh Phaolo trong ( 2 Tx 1, 11- 2, 2) khuyên chúng ta luôn vững tìn vào Đức Kitô, và Giáo Hội luôn cầu nguyện cho chúng ta. Cùng với những mặc khải mà được loan báo về ngày Chúa ngự đến, dù có những dấu lạ, điềm thiêng, chúng ta cũng đừng dao động.
Trở lại ý nghĩa Lời Chúa hôm nay , chúng ta thấy, tại sao, Thiên Chúa muốn tìm kiếm kẻ tội lỗi? Thưa, là bởi vì : “Lòng Thương xót ” của Thiên Chúa phù hợp với sự sám hối của tội nhân. Điều quan trọng là tội nhân phải biết sám hối. Điều nầy là căn nguyên mà Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian. Chúng at thấy, kẻ tội lỗi chính là những kẻ không nhận biết Thiên Chúa, không có Thiên Chúa, nó chỉ sợ luật pháp trần gian trừng phạt. Nhưng, luật pháp trần gian luôn bị giới hạn, bởi sự hữu hạn của nó. Theo đó, những kẻ cầm quyền bất minh, nghĩ rằng luật pháp ở trong tay nó, thì nó tha hồ thao túng. Mặc nhiên, khi ấy những kẻ nầy hoàn toàn không có Thiên Chúa, nó chỉ dựa vào sự bất minh để hưởng lợi và thăng tiến. Hữu nhiên, ơn cứu độ không đến với nó, nhưng , nếu như nó nhận thức bởi lương tâm và sự thúc đẩy nội tâm , khi có dịp nghe nói đến Thiên Chúa và muốn cải tà quy chánh như Giakeu , thì nó cũng nhận được ơn cứu độ của Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến trần gian không phải để kêu mời người công chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi ăn năn. Xin cho những kẻ tội lỗi biết lắng nghe Lời Chúa, nhận thức bởi sự thúc đẩy của Thánh Thần, hầu biết đáp trả chân lý và hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa./. Amen.
.
AM. Trần Bình An
Sinh ra trong một trong những gia đình giàu nhất của Indonesia, Maria Donna Dewiyanti Darmoko, người Indonesia gốc Trung hoa, đã rời bỏ những xa hoa nhung lụa để dâng hiến đời mình phục vụ cho những người nghèo ở Hồng kông, ở Hoa kỳ và hiện nay ở Đông Timor. Chị vào dòng Mẹ Têrêsa với tên Lucy Agnes.
Maria Donna sinh tại Kudus, trong một gia đình Công giáo giàu có, sở hữu ngành công nghiệp thuốc lá PT Djarum. Cô đã theo học tại Úc và sau đó tốt nghiệp tại Hoa kỳ. Lần đầu tiên cô gặp các nữ tu Thừa sai Bác Ái là khi cô tham gia vào việc chăm sóc các người vô gia cư ở Illinois. Rồi một lần kia khi cô đang nghỉ hè với gia đình ở Hồng kông, trong một khách sạn sang trọng, cô cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy quá nhiều người không nhà cửa trên các con đường của Hồng kông, những người nghèo khổ, thấp bé, dơ dáy, bệnh tật. Bản năng tình cảm đầu tiên của chị là muốn chạy khỏi cảnh tượng gây buồn nôn. Rồi khi chị tránh những người này, đã có điều gì đó ngăn chị lại, dường như bảo chị trở lại với họ, để làm điều gì đó tốt cho những người kém may mắn này.
Maria Donna đã quyết định vào dòng các Thừa sai Bác Ái với tên khấn dòng Lucy Agnes. Cha mẹ của chị phản đối mạnh mẽ chọn lựa của chị. Từ ngày đó chị Lucy bắt đầu làm việc với người nghèo và những người thấp bé nhất trong xã hội, tránh sự quan tâm của báo chí. Hiện nay chị đang phục vụ ở Đông Timor, một trong những đất nước nghèo nhất Á châu. Rất khó liên lạc với chị, vì chị không cho nhiều người biết địa chỉ email cũng như số điện thoại của chị; giống như các Thừa sai Bác Ái ở Indonesia, vì họ hoạt động trong âm thầm và không quảng cáo về mình. (Từ bỏ giàu sang để theo Mẹ Têrêsa Calcutta, Asia News 05/09/2016)
Tuy là đạo gốc, nhưng chị Lucy Agnes chỉ tìm thấy Chúa qua những người nghèo khó, bần cùng, khi đang nghỉ hè tại khách sạn sang trọng. Còn Tin Mừng thánh Luca hôm nay, ông Giakêu khao khát tìm Chúa, được toại nguyện, Chúa đến thăm tận nhà.
Tìm Chúa
Vượt qua khó khăn thể lý, cơ thể thấp bé, vượt qua khó khăn khách quan, đám đông che chắn, vượt qua khó khăn tinh thần, thiên hạ dị nghị, chế giễu, Giakêu cứ hăng hái, vô tư trèo lên cây sung, để nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang. Khao khát tìm Chúa, bất chấp khó khăn thử thách, Giakêu đã không uổng công tìm kiếm.“Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, cửa sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin, sẽ nhận được; ai tìm, sẽ thấy; ai gõ, cửa sẽ mở ra.” (Mt 7, 7-8)
Trong cuộc đời, biết bao chướng ngại vật che khuất Chúa, nào bản năng xác thịt đòi hỏi, nuông chiều, nào thế gian đồng loã nhạo báng, khai trừ Chúa, nào áp lực nặng nề ngẫu tượng bò vàng. Tất cả đều ra sức bưng bít, ngăn cản con người tìm Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ những ai thiện chí, thiện tâm mới khám phá ra sự hiện diện của Ngài, tưởng xa xăm, hoá ra rất gần gũi qua Tin Mừng, Bí tích Thánh thể, qua Hội Thánh, các mục tử, chứng nhân và qua chính những người bé nhỏ, khốn khó, bệnh tật, bị bỏ rơi. “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25, 40) Liệu lương tâm mỗi người có thức tỉnh, tâm hồn có khao khát chân thiện mỹ, tinh thần có dũng cảm, quyết tâm tìm Đấng Toàn Năng, đầy Lòng Thương Xót chăng.
Chúa gặp
Đáp lại nguyện vọng nóng bỏng, chính đáng, thánh thiện, đáng ca ngợi của Giakêu, Đức Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi.”
Với những tâm hồn chân thành tìm đến, Chúa không đành làm ngơ, làm thất vọng. Chính Người sẽ đích thân đáp lại, gặp gỡ, chủ động tạo điều kiện hội ngộ, bất chấp hoàn cảnh xứng đáng hay không. Vì Người đã phán: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2,17)
Hơn nữa, Người còn mời gọi, mở rộng cánh tay, ôm lấy an ủi, vỗ về, cứu thoát bất cứ ai đang sầu khổ, thất vọng, cơ cực, khốn khó trong thung lũng đầy nước mắt, đắm chìm trong dục vọng, tội lỗi. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.”(Mt 11, 28)
Đổi đời
Khi được gặp Chúa, ông Giakêu hoàn toàn đổi đời, được tái sinh. Một sự thay đổi tận căn, hay đúng hơn một phép lạ cả thể, nhãn tiền. Từ con người tham sân si, tôn thờ ngẫu tượng bò vàng, chỉ biết say mê mùi tanh tưởi đồng bạc, bỗng dưng ngộ ra phép công bằng, lòng nhân ái, tình yêu tha nhân, Giakêu mau chóng đền bù gấp bốn lần cho những ai bị bóc lột, cùng quảng đại giúp đỡ kẻ nghèo.“Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Gặp gỡ Đức Kitô là canh tân đổi mới, như thánh Phaolô nhắn nhủ tín hữu Êphêsô: “Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hỏng, buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên tạo theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật.”(Ep 4, 22-24)
Gặp gỡ Đức Kitô, không chỉ biến đổi mình, mà còn biến đổi cả thân nhân, tha nhân, môi trường chung quanh mình. Gặp gỡ Người, sẽ trở nên muối và ánh sáng cho đời, “để thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời.” (Mt 5, 13-16)
Lời chào của Thiên Thần: “Kính mừng Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà…” và lời chào của Hội Thánh: “Chúa ở cùng anh chị em” có mang một ý nghĩa sâu xa, khả dĩ biến đổi cuộc đời con không? (Đường Hy Vọng, số 238)
Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh. Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình. Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh. (Lm Tiến Lộc, Gặp Gỡ Đức Kitô)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường luôn gặp Chúa trong kinh nguyện, trong thánh lễ, nhất là trong Lời Chúa và Thánh thể, cũng như gặp Chúa nơi anh chị em khốn khổ, nhưng chúng con chưa hề biến đổi như ông Giakêu. Xin Chúa thức tỉnh, hồi phục, cảm biến tâm hồn chúng con biết mẫn cảm, nhạy bén nhận ra Chúa đang trông mong, tìm kiếm chúng con trở về đoàn chiên.
Khấn xin Mẹ Mân Côi xoá tan đi những chướng ngại vật, che chắn, khó dễ, cản trở chúng con tìm gặp Chúa, để chúng con sớm được tái sinh trong vòng tay yêu thương của Người. Amen.
.
Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
Ngày ấy, ông Môsê đang đi chăn đàn vật tại núi Sinai. Bất ngờ, ông nhìn thấy bụi gai bốc cháy phừng phực, nhưng bụi gai thì không hề bị thiêu rụi. Quá lạ thường, ông chạy đến để nhìn cho rõ sự tình.
Đến gần, ông nghe tiếng phán từ trong bụi gai rực lửa ấy: “Môsê, bỏ dép ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh”. Môsê bạt vía kinh hồn, càng không thể hiểu nổi điều mình đang chứng kiến tận mắt. Nhưng Đấng ngự giữa bụi gai diệu kỳ ấy chính là Thiên Chúa của tình yêu. Ông khám phá ra rằng, Người là tác giả của ơn giải thoát.
Người ban cho ông mệnh lệnh giải thoát dân của Người ra khỏi tình trạng nô lệ Aicập. Người sai ông đến gặp Pharaô, vua Aicập và nói cho nhà vua biết: Hãy để cho dân tôi đi, hãy giải thoát dân tôi khỏi cảnh nô lệ lầm than, hãy để cho dân tôi đi về miền đất tự do…
Thiên Chúa là Thiên Chúa giải thoát. Người đã ngỏ lời với ông từ trong bụi gai, giữa một cảnh tượng hùng vĩ. Người là Thiên Chúa giải thoát. Người ngự trong bụi gai, đã không làm bụi gai bị thiêu rụi. Và vì là Thiên Chúa giải thoát, ngự giữa đám dân nô lệ, Người trao ban tình yêu, trao ban sức mạnh, trao ban tự do và bình an.
Là Thiên Chúa giải thoát, Người ngự nơi nào, nơi ấy được giải thoát. Nơi Đức Maria, Thiên Chúa mà ngày xưa phán từ giữa bụi gai để giải thoát dân Người, trở nên gần gũi với con người hơn bao giờ hết.
Người không chỉ ngự vào tâm hồn Mẹ, mà còn hóa nên nhục thể, chấp nhận một thân xác lấy từ chính thân xác của Mẹ. Bằng cách ấy, Người đã ngự hoàn hảo nhất, trọn vẹn nhất nơi tâm hồn và cung lòng Mẹ, đến nỗi không thể có bất cứ cuộc ngự trị nào khác sánh ví.
Mẹ đón nhận Người bằng tâm hồn yêu mến, đức tin và một niềm trông cậy không dễ gì lay chuyển. Chẳng những Chúa yêu thích ngự vào lòng Mẹ, mặt khác Mẹ còn vui sướng đón nhận Người, vì thế Người đã giải thoát Mẹ khỏi mọi vướng bận của tội lỗi và thế gian. Một cuộc giải thoát tuyệt vời trên mọi cuộc giải thoát: tinh tuyền, trong trắng và rực sáng giữa triều thần thánh, giữa muôn loài, qua muôn thế hệ.
Hôm nay, Tin Mừng lại mang đến cho bạn và cho tôi một bằng chứng mới về việc Thiên Chúa giải thoát. Ông Giakêô, người thu thuế, đã khôn ngoan mở rộng lòng đón nhận Chúa Kitô.
Chúa Kitô đã vui mừng ngự đến nơi ông. Qua ông, Người sung sướng ngự vào gia đình ông. Người đã ban tặng cả gia đình ông những lời quá sức ngọt ngào, đó cũng chính là ơn cao cả mà mọi người chờ mong: “Hôm nay, ƠN CỨU ĐỘ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
Mặc dù ông chỉ nhìn thấy Chúa như mọi người nhìn thấy. Nhưng ngay việc ông tiếp nhận Chúa, không phải một cuộc tiếp đón xã giao, nhưng là sự đón nhận trong lòng yêu mến của tâm hồn, đã là một sự hiện diện và ngự trị trọn vẹn của Chúa nơi tâm hồn ông. Chỉ cần có thế thôi, chỉ cần lòng người đừng khép lại, nhưng có một chút quảng đại, một chút thiện chí, là Chúa đã có thể ngự vào.
Chúa là Thiên Chúa giải thoát như đã từng giải thoát dân của Người và giải thoát tâm hồn Đức Maria, đã ngự đến trong lòng, đến trong gia đình Giakêô giải thoát ông, giải thoát gia đình ông.
Những hình ảnh thật cảm động mà thánh Luca đã diễn tả qua lời đối thoại của Chúa Giêsu và hành động của Giakêô: “Một người tên là Giakêô, đứng đầu những người thu thuế… chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu… Người nhìn lên và nói với ông: ‘…Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông’. Ông vội vàng tụt xuống, mừng rỡ đón rước Người… Ông Giakêô đứng và thưa với Chúa: ‘…Phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo… Tôi xin đền gấp bốn…”, cho thấy hạnh phúc của kẻ tội lỗi là biết nhận ra mình tội lỗi.
Ông hạnh phúc đến độ, đường đường là quan chức, trưởng của cả một đội thu thuế, vậy mà hành động như một đứa bé: lăng xăng chạy về phía trước để thấy Chúa bằng được. Không thể nhìn thấy, ông trèo lên cây, ngồi trên đó mà nhìn xuống.
Đến khi nghe Chúa gọi, ông lại tụt xuống mừng rỡ trước mặt Người. Ông ngỡ chắc chẳng ai thấy mình vắt vẻo trên nhánh sung. Nhưng ông lầm. Chúa đã thấy ông. Người thấy ông trước khi ông thấy Người. Chỉ với lòng ham muốn gặp gỡ Chúa, Giakêô quên hết, và gác một bên mọi danh dự, chức bậc mình đang có.
Niềm hạnh phúc bất ngờ làm ông ngây ngất. Đường từ gốc sung về nhà ông xa hay gần, ta không rõ. Nhưng chắc chắn đó là con đường đầy ắp niềm vui.
Kể từ đó, ông ý thức thân phận nhỏ nhoi, không phải vì thấp bé, nhưng vì ông biết mình chỉ là người bất xứng; dưới mắt mọi người, chỉ là kẻ tội lỗi, gian ác.
Nhưng suy cho cùng, người bị coi là tội lỗi, gian ác như ông, lại nhận biết mình đến vậy, vẫn là người tốt hơn bất cứ ai chỉ thấy mình cao trọng trong sự thanh sạch, khỏe khoắn trong đường nhân đức, mạnh mẽ trong cơn cám dỗ, lớn lao trong đời sống đức tin, để rồi ngủ vùi trong tự mãn, không thấy bản chất thật của thân phận yếu đuối.
Phía Thiên Chúa, chỉ cần Giakêô có một thoáng nhận ra thân phận mình thôi, Người đã đến với ông.
Ta cũng được như thế, nếu biết mang lấy tâm tình của Giakêô. Thực ra, Chúa vẫn có đó, Chúa chờ ta mở lòng mình để Người xóa khoảng cách tưởng xa vô cùng của Đấng là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối với con người tội lỗi.
Chúa cao sang là thế lại vui mừng quá đỗi khi được ta đón nhận và được trú ngụ trong nhà tâm hồn ta. Vì nếu Chúa nói với Giakêô: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”, Người cũng nói với ta như thế, khi ta biết để Chúa ngự trong ta. Vì Người là Đấng giải thoát, Người ngự nơi đâu, nơi đó được giải thoát.
Nhưng trong lịch sử cứu độ đâu chỉ có dân Chúa, hay Đức Maria, hay ông Giakêô được Chúa giải thoát. Thánh Mathêô, thánh Phaolô, thánh Maria Mađalêna, thánh Augustinô… và không biết bao nhiêu người con của Hội Thánh đã vươn lên từ trong những chặng đường tối tăm nhờ ơn giải thoát của Thiên Chúa.
Cũng vậy, hôm nay nếu có Chúa ở cùng, bạn và tôi sẽ được Người giải thoát khỏi mọi vướng bận của trần gian, của những u mê lầm lạc. Hãy để Chúa ở cùng. Thực ra, Chúa vẫn ngự trong tâm hồn mỗi người. Chỉ cần gìn giữ Thiên Chúa trong cuộc đời mình, ta sẽ hạnh phúc, mạnh mẽ, đáng yêu như Chúa muốn.
Cách hay nhất để giữ ơn Chúa trong đời mình, chẳng cao xa hay khó thực hiện, mà vẫn chỉ là những gì Hội Thánh dạy: chuyên chăm cầu nguyện, siêng năng lãnh bí tích, giữ luật Chúa, luật Hội Thánh, thực hiện bác ái yêu thương với mọi anh em… Ước mong ơn giải thoát của Chúa luôn sống mãi trong ta để ta luôn thuộc về Chúa.
.
Lm Gia-cô-bê Tạ Chúc
Một cuộc gặp chẳng hẹn mà hò, hay có thể nói cuộc hội ngộ quá bất ngờ giữa Chúa Giê-su với viên thuế vụ Gia-kêu. Không biết vô tình hay hữu ý mà Chúa Giê-su đi ngang qua thành Giê-ri-kô, nơi làm việc của ông giàu có Gia-kêu. Từ đây câu chuyện thêm li kỳ và có thể là hiếu kỳ, khi có quá nhiều bất ngờ xảy ra.
Bất ngờ với Gia-kêu
Ông không nghĩ mình sẽ có diễm phúc để gặp được Chúa, khi Ngài đi ngang qua. Vốn là một viên thu thuế mà lại là trùm nữa. Dưới cái nhìn của những người Do Thái. Gia-kêu là người tội lỗi, ông bị mọi người ghét bỏ, lên án và xa lánh. Có lẻ cũng đôi chút mặc cảm, nhưng cũng có khi do hoàn cảnh, công ăn việc làm mà ông đành chấp nhận vậy. Đã vậy, ông còn có một chiều cao hơi khiêm tốn, trước đám đông đang bủa vây Chúa Giê-su, làm sao có thể nhìn thấy Chúa, nếu không đứng ở một vị thế cao hơn mọi người. Nực cười cái sáng kiến hết sức “ hai lúa” của Gia-kêu. Trèo lên nhành cây sung để nhìn Chúa Giê-su khi Ngài đi ngang qua. Và cũng thật thi vị, Đức Giê-su dừng lại và nhìn lên Gia-kêu. Lúc này đám đông như khựng lại, có lẻ không ai ngờ Chúa Giê-su lại dừng lại cách đột ngột như thế. Xem ra có điều gì đó từ bốn ánh mắt gặp gỡ, và cấu thành dòng điện chạy vào con tim. Lúc này đây, vị thế, cách thức, hay mọi ánh nhìn thành kiến xung quanh, không còn ý nghĩa gì. Đức Giê-su không đi nữa Ngài quyết định dừng lại, và lưu lại nhà của Gia-kêu.
Bất ngờ với những người xung quanh
Một pha cứu thua trông thấy, nếu Chúa Giê-su không đứng lại và mở lời: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !” (Lc 19,5), thì chắc Gia-kêu bẽ mặt vô cùng. Mọi người sẽ được phen ném gạch đá dư luận về ông. Vốn đã xấu thi giờ lại xấu hơn nữa. Nhưng không, Đức Giê-su thấy rõ lòng dạ của con người, và những kiếp người. Điều ngược lại đã xảy ra, đám đông dân chúng không thể tin vào mắt mình: Đức Giê-su đã bỏ lại đằng sau, 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc. Ngài vào nhà và cùng ăn uống với gia đình ông Gia-kêu. Hôm đó chắc các ông kinh sư, Pha-ri-siêu, luật sỹ…giận Chúa Giê-su lắm, vì quá bất ngờ khi Ngài lưu lại nơi gia đình của một người tội lỗi.
Bất ngờ vì được ơn cứu độ
Như trong một giấc mơ, Gia-kêu đâu dám mơ cao, nhưng nào ai có thể biết được, ơn cứu độ đã được mang đến cho ông : “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Một ngày hồng phúc cho Gia-kêu, chắc ông đã nở một nụ cười viên mãn, sau bao nhiêu năm tháng đợi chờ, và “ Hôm nay”, một từ ngữ hết sức quen thuộc trong Kinh Thánh lại thuộc trọn về viên thu thuế Gia-kêu.
Tìm thì sẽ gặp, gõ thì sẽ mở cho, trong cuộc sống hằng ngày, xin cho mỗi chúng con biết đi tìm Chúa, qua ơn gọi mà Chúa ban cho từng người. Đối với Chúa, chúng con là vô giá, duy nhất và không thể thay thế. Chúa luôn đi tìm chúng con, xin cho lòng chúng con khắc khoải cho tới khi được an nghỉ trong Chúa. Amen.
.
NGHỆ THUẬT CẢM HÓA LÒNG NGƯỜI CỦA CHÚA GIÊ-SU
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Đứng trước tội nhân hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại trừ… Đó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như Gia-kêu.
Ngay cả Chúa Giê-su, dù Ngài chỉ tiếp đón những người tội lỗi thôi thì cũng đã bị tai tiếng rồi. Khi “Các người thu thuế và các người tội lỗi lui tới với Đức Giê-su để nghe Ngài giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” (Lc 15, 1-2)
Chính thái độ khinh thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên. Còn về phần Chúa Giê-su, Ngài có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và chính cách cư xử cao nhã nầy có một sức cảm hoá thần diệu. Cung cách đối xử của Chúa Giê-su là niềm nở tiếp đón và trân trọng họ, coi họ như bạn bè. Thế nên dư luận hồi ấy đã xem Ngài “là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11,19)
Chúa Giê-su thừa biết Gia-kêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giê-su không nhìn Gia-kêu bằng ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương.
Khi thấy Gia-kêu vắt vẻo trên cành cây chờ xem Chúa Giê-su đi qua, Chúa vui vẻ thân mật vẫy chào ông trước: “Này ông Gia-kêu…”
Chúa Giê-su gọi đích danh ông như đã từng quen biết từ lâu. Việc gọi tên thân mật nầy khiến ta nhớ lại lời Chúa Giê-su nói về quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên tốt và đoàn chiên của mình: “Chiên nghe tiếng của anh và anh gọi tên từng con chiên” (Ga 10,3).
Rồi Chúa Giê-su tiếp: “Xuống mau đi!” Đây không hẳn là lời thúc giục mà chỉ là lời thân mật giữa bạn bè. Rồi Chúa Giê-su lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống đồng bàn với Gia-kêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông.”
Sáng kiến tình yêu của Chúa Giê-su lúc đó chắc hẳn phải khiến cho Gia-kêu sửng sốt. Một bậc thầy khả kính và danh tiếng như Đức Giê-su mà lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi như Gia-kêu ư? Chuyện thực mà tưởng như mơ! Thế là Gia-kêu vô cùng sung sướng đón tiếp Đức Giê-su vào nhà mình.
Thái độ yêu thương, trân trọng và quý mến của Đức Giê-su đối với Gia-kêu đã làm cho ông đổi đời thật sự, một sự thay đổi tận căn ít ai ngờ tới.
Bấy giờ Ông Gia-kêu đứng lên thưa với Chúa rằng : “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Dám đem nửa phần gia sản lớn lao của mình trao ban cho người nghèo khó, lại chấp nhận đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra… quả là một quyết định anh hùng! Thế là từ một người đáng khinh, Gia-kêu bỗng trở thành một người rất đáng khâm phục!
Kho tàng văn học thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.
Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!” Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.
Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người rất khôn khéo mà Chúa Giê-su đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Gia-kêu, biến cải một con người tưởng là ‘hết thuốc chữa’ trở thành một người mới rất đáng khâm phục.
Lạy Chúa Giê-su, trước người lầm lỗi,
Xin cho chúng con thay thế những lời kết án bằng những lời lẽ yêu thương;
Xin cho chúng con biết thay đổi cái nhìn khinh khi bằng cái nhìn tôn trọng;
Xin cho chúng con biết thay thế thái độ xa lánh bằng thái độ tiếp đón ân cần…
Nhờ đó, chúng con sẽ tạo cơ hội cho nhiều anh em lầm lỗi có cơ may phục thiện và đổi mới cuộc đời.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Điệp khúc trong ca khúc ‘ Gặp Gỡ Đức Kitô’, Lm nhạc sĩ Tiến Lộc đã cảm nhận: “ Gặp gỡ Đức Ki tô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình, Gặp gỡ Đức Kitô, nẩy sinh tình đệ huynh.” Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu hôm nay biểu lộ những tâm tình qua điệp khúc ấy.
Trước tiên, ông Giakêu là ai? Ông là người đứng đầu những người thu thuế. Ông giàu có. Nhưng đối với dân chúng ông là một người tội lỗi, vì ông là người tiếp tay với đế quốc Lamã để bóc lột người ghèo và có thể ông trở nên giàu có vì những việc bất chính trong nghề nghiệp của ông. Nhưng trong địa vị xa hoa, giàu sang ấy, hình như ông vẫn chưa thỏa mãn với chính mình. Tự nơi thâm sâu của lòng mình, ông vẫn cảm thấy có một sự trống vắng. Người ta lánh xa thù ghét ông như một phường tội lỗi. Ông nghe dân chúng nói nhiều về ông Giêsu nào đó có quyền lực làm được những việc lạ như cho kẻ chết sống lại, chữa nhiều tật bệnh mà các thầy thuốc đều bó tay… Thế rồi một lần nghe nói ông Giêsu sẽ đi qua thành phố Giêri khô, ông quyết định phải xem cho được nhân vật nổi tiếng ấy.
Ông Giakêu âm thầm trong đám đông để tìm gặp Chúa. ông không dám xuất đầu lộ diện trước quần chúng, hơn nữa ông lại lùn; đám đông sẽ che khuất tầm nhìn của ông. Khi thấy Chúa sắp đi qua, ông liền chạy đến phía trước, leo lên một cây sung. Có thể ông tìm biết Chúa vì tò mò, nhưng từ sự tò mò ấy, ông đã nhận được ơn hoán cải cuộc đời.
Ông đi tìm biết Chúa, nhưng Chúa lại là người đi bước trước. Chúa đã xóa bỏ ranh giới giữa người tội lỗi và người công chính. Dù chưa một lần quen biết, nhưng Ngài đã biết tên ông; và giữa đám đông đang bao quanh, dù ông leo lên cành cây cao, Ngài vẫn thấy ông, đã gọi đúng tên ông và còn gợi ý với ông: “ Hôm nay tôi sẽ ghé nhà ông.” Làm sao một Đấng thánh thiện lại bất kể dư luận để ghé đến nhà một người mà ai cũng cho là tội lỗi, đáng khinh bỉ như thế! Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Còn đám đông lại xầm xì : “ Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Chúa thì xóa bỏ ranh giới giữa người tội lỗi, còn dân chúng lại phân cách với người tội lỗi! Ông mau chóng nhận ra Đấng ấy không phải là một người xa lạ, nhưng là một Đấng gần gũi, khoan dung. Qua việc ghé thăm nhà ông, ông đã đón nhận được ơn cứu độ, được trở thành con cháu Ápraham. Ông đã quyết định chia phân nửa gia tài cho người nghèo và đền bù gấp bốn lần cho những ai ông đã làm thiệt hại. Làm sao một người thu thuế bị mang ta mang tiếng như thế mà trong chốc lát đã có những hành động cách mạng đổi đời. Tiền bạc, địa vị gây cho ông tội lỗi, thì ông lại lấy chính kết quả ấy mà đền bù tội lỗi của ông. Tất cả cũng phát xuất từ lòng thương xót và bao dung của Thiên Chúa. Ông đã nhận ra ân huệ ấy. Giữa ông và Đấng Giêsu không còn gì ngăn cách. Ông tìm và ông đã gặp Thiên Chúa qua lòng yêu thương và khoan dung của Ngài.
“Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên.” (Kn 11:24) “ Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.”( Kn 12:2). Đáp lại khát vọng muốn tìm gặp Chúa, Chúa đã đi bước trước để đến với ông. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã mau chóng biến đổi cuộc đời ông qua cái nhìn yêu thương, tha thứ và khoan dung của Thiên Chúa.
Là những người Kitô hữu, chúng ta cũng đã gặp Chúa, nhưng chúng ta đã biến đổi hay vẫn cứ sống theo nếp sống cũ như người chưa gặp Ngài! Cuộc gặp gỡ Chúa đã làm biến đổi cuộc đời ông Giakêu. Ông đã đón nhận ơn tái sinh và từ đó ông đã nẩy sinh đệ huynh. Còn chúng ta thì sao?
.
Lm. Jos. DĐH.
Đôi mắt, trái tim, sẽ phản ứng rất nhanh nhạy, khi chúng lên tiếng yêu thương, ví như các nhạc sĩ biết hòa trộn lời ca vào âm giai mùi mẫm : đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn ; và con tim đã vui trở lại. Tình yêu đến, có thật là làm cho “mắt sáng” và “tim rung” lên vì sung sướng không ? Ở đây tình yêu nơi “chú lùn”, Đức Giêsu và cả số đông hôm xưa hôm nay, đều ngỡ ngàng bởi lời nói và hành động của ông. Chúng ta đôi lúc vẫn lẫn lộn giữa tình ái và tình yêu, thực ra, tình đời hay tình người cũng dễ biến ta nên dại khờ, lãng mạn, trước tình yêu thật đang lý giải tâm trạng nơi tâm hồn ta.
Cách tiếp cận khá ngộ nghĩnh về “chữ tình” được tỏ bày nơi chú lùn tên Giakêu, Đức Giêsu đã lấy tình yêu để đáp đền cho hành động rất “trẻ con” của ông. Khi đến nơi, Chúa Giêsu nói : “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông !” Nét độc đáo giữa hai người yêu nhau, họ hiểu, họ nhận biết việc phải làm qua ánh mắt, sự rung động của trái tim, không cần phải dùng đến ngôn ngữ hoa mỹ nào cả. Tục ngữ có câu : xanh vỏ đỏ lòng. Đức Giêsu mời gọi đám đông chúng ta, hãy cùng Ngài nhìn Giakêu bằng ánh mắt nhân từ, yêu thương, đừng nhìn ông là tên thu thuế tội lỗi gian tham, bớt xén hại dân…
Tình yêu đến, tình yêu làm thay đổi hình ảnh Giakêu người thu thuế, tình yêu nơi ông trở nên dại khờ, xứng tầm với hình ảnh mới : xem mặt đặt tên. Tình yêu đến, tình yêu không thể im lặng khi người ta nhận mà quên cho đi, tình yêu thật biến đổi ông Giakêu trưởng thành trong đức tin và đức ái. “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản tôi, tôi xin chia cho người nghèo, và nếu tôi chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Tình yêu đến nơi người thu thuế, sẽ không còn là “rung rinh”, với ý nghĩ làm cho két sắt to lớn hay thu tích thêm tiền tài. Chữ tình ở Giakêu sẽ thơm và mùi bền vững hơn từ sâu thẳm tâm hồn, được ông xem là trách nhiệm, là công bằng.
Tình yêu thật không có ranh giới giầu nghèo, không “loáng thoáng” bởi vẻ đẹp hay tính hào phóng bề ngoài ; tình yêu thật không cần thỏa thuận hay điều kiện, mà là cho đi, là chia sẻ. Chúa Giêsu không đến để kêu gọi người thánh thiện đạo đức, Chúa không đến vì người giầu có địa vị, cũng không đến vì ông Giakêu thấp bé, Ngài đến ban “tình yêu cứu độ” cho muôn dân. Cuộc gặp đầy tình yêu thương giữa Đức Giêsu và cuộc hoàn lương trở lại nơi ông Giakêu sẽ còn là giai điệu rung động mọi thời, các bạn đừng lầm tưởng cứ trái đỏ là chín, cứ trái thơm đều là quả mít.
Tiền đến, thần tài đến, tình yêu đến, đều mang chung một ý là vận may đang tới, Đức Giêsu có vô tình đi ngang qua chỗ Giakêu hay không, nếu nghi ngờ, hãy hỏi các nhà chuyên môn. Nơi Giakêu, tự câu truyện đã cho biết ông rất muốn được nhìn xem Thầy Giêsu, vì sợ không nhìn được Thầy, ông đã chủ ý trèo lên cây sung với hy vọng nhìn thấy rõ. Lộ trình Đức Giêsu đi không hề mờ ảo trước đám đông dân chúng, nhưng với Giakêu, cường độ bất ngờ mỗi lúc một tăng dần, từ ánh mắt Chúa dõi nhìn, đến việc gọi tên, và tỏ ý ở lại nhà ông.
Thực hư của quan niệm : nhất lé nhì lùn, mẫu người bị tiếng là xấu người xấu nết, dịch nghĩa rộng hơn, không thể tìm ra người hiền tài trong số “bần nông”, khó thấy người tốt nơi hình ảnh khó coi. Ca dao cũng có câu đáng để ta bớt hồ đồ : tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Người thấp bé không thẩm mỹ, không áp đặt được “đại chúng”, nhưng chú lùn Giakêu đã minh chứng ông không tầm thường, không thể để cái đẹp hình thức đè bẹp nét đẹp tâm hồn của ông. Tình đến, tình đi, hay tình ở lại, tùy tự do của mỗi người. Tình yêu đến với Giakêu, ông đã trân trọng đón nhận, cộng tác và làm cho Tình Giêsu thực sự biến đổi ông nên người toàn diện trong công bằng của đức ái.
Nếu đặt câu hỏi, vì cớ gì Thầy Giêsu đến đồng bàn với người thu thuế, ta sẽ có câu trả lời của Thầy : vì Ta mang tình yêu đến thế gian để cứu chữa những gì đã hư mất. Nếu hỏi Giakêu, ông “tỉnh hay say đó”, cớ sao ông hào phóng đến độ bỏ phân nửa tài sản, bỏ nghề, chỉ vì một lần gặp Vị Thầy Giêsu ? Nếu được trả lời, ông sẽ trả lời ngắn gọn súc tích : bỏ tiền của chưa là gì đâu, tôi còn muốn bỏ mình vì tình yêu Ngài mang tới cho tôi. Vì gặp Ngài tôi sung sướng như thể Rồng đến nhà tôm, như tôi đang sắp chết chìm trong “biển trần” gặp được “phao cứu hộ”. Các bạn hãy mang tình yêu của mình đến với Ngài, các bạn cũng sẽ có cảm nghiệm về tình yêu của Đấng cứu độ, các bạn sẽ vui sướng hạnh phúc và từ bỏ như tôi. Amen.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong những tuần vừa qua, cả nước hướng về miền Trung để chia sẻ với đồng bào những khốn khó do nhân tai và thiên tai gây ra khiến cho hàng chục ngàn người bị ngập lụt, đói khát. Nhờ các trang mạng xã hội, chúng ta có thể thấy, người dân Việt Nam có một tấm lòng hết sức quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với đồng bào ruột thịt. Một anh chàng MC Phan Anh kêu gọi trên facebook chỉ một ngày mà số tiền mọi người nhờ anh chuyển ra miền Trung đã gần 20 tỉ. Còn rất nhiều các cá nhân, tổ chức tư nhân khác nữa cũng đem những nhu yếu phẩm ra cho đồng bào. Những thông tin ấy cho thấy tấm lòng quảng đại chạnh thương của rất nhiều người. Ngược lại cũng có những người đã ăn chặn những đồng tiền đóng góp đó. Một số cán bộ tìm cách cho con cháu, người nhà của mình được nhận quà, còn người nghèo thực sự thì không được, hoặc bị ăn chặn dưới nhiều hình thức. Hành động này cho thấy sự gian dối, vô cảm và ác tâm của những người có trách nhiệm.
Ông Giakêu ngày xưa, dù là một quan chức chính quyền giàu có, là đội trưởng đội thu thuế, nhưng trong cộng đồng Do Thái, ông đã bị coi thường, bị tẩy chay, loại trừ. Ông bị coi là hạng tội lỗi, bởi vì ông thường xuyên tiếp xúc với dân ngoại, đã gian tham để trở nên giàu có. Ông bị khinh coi như những kẻ tham ô phản quốc.
Dù trong mắt người Do Thái, ông là kẻ tội lỗi, nhưng ông lại có một tâm hồn rất đẹp và thiện chí. Ông chỉ nghe đồn về thầy Giêsu nhưng chưa có dịp gặp Ngài. Hôm nay có cơ hội, thầy Giêsu đi ngang qua, không phải vì tò mò cho bằng ông đã nuôi trong lòng sự khát khao tìm kiếm Ngài, ông đã quyết định xem cho biết Đức Giêsu là ai. Lọt trong một đám rất đông, lại vì thấp bé, ông không mặc cảm tự ti hay tự ái, ông quyết định trèo lên cây sung bên đường để xem Đức Giêsu sắp đi ngang qua.
Trong lúc mọi người không quan tâm đến sự hiện diện của ông, thì Chúa Giêsu đã nhìn thấy ông. Ánh mắt của lòng xót thương đã chạm đến tâm hồn Giakêu. Ngài thấu suốt thiện chí thành tâm của ông, Ngài gọi ông: Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay, tôi phải ở lại nhà ông. Chúa Giêsu đã đáp ứng hơn cả sự khát mong của Giakêu. Ngài không chỉ nhìn và gọi tên ông, nhưng Ngài còn muốn bước vào nhà ông và ở lại đó.
Thánh Luca cho thấy, lòng xót thương của Chúa Giêu như dòng suối tuôn trào, đã gặp được một mảnh đất khô cằn nứt nẻ đang khát khao dòng nước. Dòng nước đem lại sự tươi mát, hồi sinh cho mảnh đất và còn làm cho mảnh đất trở nên màu mỡ và trổ sinh hoa thơm trái ngọt. Giakêu đã mở lòng để Chúa Giêsu bước vào tâm hồn khô cằn của ông và biến đổi ông. Không quan tâm đến những lời xì xèo của đám đông, Giakêu như một mảnh đất đã hồi sinh, ông đã được biến đổi hoàn toàn nhờ tình thương Chúa dành cho ông.
Trước đây làm nghề thu thuế, Giakêu chỉ biết vơ vét về cho mình ; trước đây chưa biết Chúa, ông hành xử gian tham dối trá để được lợi ; trước đây cuộc đời ông, tâm hồn ông khép kín bởi chức vị, tiền bạc, của cải, nay khi đón nhận lòng thương xót của Chúa, ông đã được biến đổi, đã mở lòng mình, đã để cho tình yêu tuôn chảy đến người khác. Ông đứng lên công khai thưa với Chúa Giêsu: Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa gia sản tôi có để phân chia cho người nghèo; nếu tôi chiếm đoạt của ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn. Với hành động này, ông đã khai thông được sự bế tắc trong tâm hồn, khai thông được ao tù ích kỷ đã tích tụ lâu ngày trong cuộc đời ông. Từ nay, tâm hồn ông như một dòng chảy, đón nhận nguồn nước tình thương từ nơi Thiên Chúa, và để qua ông, dòng chảy tiếp tục lan tràn tình thương đến với người khác, đặc biệt là những người nghèo và những người bị thiệt hại.
Chúa Giêsu đã thấy thiện chí của ông, đã biến đổi ông, Ngài cũng không chịu thua lòng quảng đại của ông. Chúa Giêsu đã tuyên bố: Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Apbraham, vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất. Với lời tuyên bố này, Chúa Giêsu cho thấy ơn cứu độ Ngài đem đến, hôm nay, đã khởi đầu và đã sinh hiệu quả cho Giakêu và gia đình ông. Sự khởi đầu này bắt đầu từ những con người bị coi là tội lỗi, bị loại trừ khinh miệt, nhưng lại có một tâm hồn rộng mở, đã tin và đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu, đã chấp nhận để cho lời Chúa biến đổi nên những con người mới.
Do sự trợ giúp của Thiên Chúa, ông Giakêu đã bước được một bước dài trong đức tin, ông đã tin thầy Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ. Ông tin rằng, khi ông đón Chúa vào tâm hồn và vào gia đình ông là ông có tất cả. Trước đây, ông tìm niềm vui trong công việc, ông cậy dựa vào tiền bạc và địa vị, nay biết Chúa Giêsu và tin Ngài, những thứ kia chẳng còn giá trị gì nữa, ông không giữ lại cho mình, nhưng cho đi tất cả để được Đức Kitô và ơn cứu độ của Người. Chúa Giêsu còn khẳng định: Bởi người này cũng là con cháu Apbraham. Chúa Giêsu muốn cho những người Do Thái khác thấy rằng, họ tự hào là dòng dõi Apbraham, nhưng họ đã không có đức tin như tổ phụ Apraham, không dám bước theo lời mời gọi của Thiên Chúa như Apbraham. Trái lại, ông Giakêu bị mọi người loại trừ, nhưng Giakêu lại tin vào Thiên Chúa, dám từ bỏ quyền lực địa vị và tiền bạc vì tin vào Chúa Giêsu, như thế, Giakêu mới xứng đáng là con cháu Apbraham.
Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người. Lòng thương xót của Chúa không bao giờ bị giới hạn bởi bất cứ sự cản trở nào. Lòng thương xót của Chúa tuôn trào như sương mai rơi trên mặt đất; Ngài không tìm cách hủy diệt con người, cho dù tội của con người có tràn lan thì lòng thương xót của Thiên Chúa như biển cả nhấn chìm tất cả mọi loài mọi vật trong đại dương yêu thương của Ngài. Sách Khôn Ngoan đã khẳng định như thế. Tác giả còn lý luận rằng: Thiên Chúa yêu thương mọi vật mọi loài, không bao giờ chê bỏ nó, vì nếu Chúa không yêu thương nó, thì Ngài đã chẳng dựng nên nó làm chi.
Ánh mắt cảm thông và trái tim chạnh thương của Thiên Chúa đã đụng chạm đến tâm hồn của Giakêu cũng đang dành cho chúng ta. Cái nhìn của Thiên Chúa không bao giờ là cái nhìn thất vọng, nhưng là cái nhìn khích lệ và nâng đỡ, mời gọi chúng ta chỗi dậy đón Người vào nhà và vào tâm hồn mình. Chúa cũng ngỏ lời với mỗi người như Chúa đã nói với Giakêu : Hôm nay, Ta muốn cư ngụ tại nhà con.
Vì thế, hãy sẵn sàng vượt qua tất cả các mặc cảm tội lỗi và những trở ngại là những lười biếng ngại ngùng để mỗi người vui mừng đón Chúa bước vào tâm hồn qua Bí tích Thánh Thể và Thánh lễ mỗi ngày. Có Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ tìm lại được bình an và niềm vui thật sự. Khi có niềm vui và bình an của Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ không còn những bực bội, nóng nảy, cãi vã nữa, nhưng sẽ sống trong niềm vui, cư xử vui tươi và là người đem niềm vui đến cho người khác. Có Chúa bước vào tâm hồn, giống như Giakêu, chúng ta sẽ không tìm kiếm lợi lộc của thế gian, không thu vén về cho mình, không còn chỉ nghĩ đến bản thân, nhưng biết nghĩ đến, quan tâm đến và chia sẻ cho người khác những gì Chúa đã ban cho mình. Có Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ không còn khép kín trong ích kỷ và cái tôi tự mãn, nhưng biết mở lòng ra với anh em để cảm thông và yêu thương.
Hôm nay, tôi muốn cư ngụ tại nhà ông – Chúa đang muốn vào cư ngụ và dùng bữa với mỗi gia đình chúng ta. Hãy mở rộng cửa nhà để mời Chúa bước vào và dành cho Chúa sự tiếp đón chân thành. Mỗi gia đình hãy dành cho Chúa một vị trí trong bàn ăn và trong sinh hoạt của gia đình, làm cho bữa cơm gia đình đậm đà hơn. Hãy cùng trò chuyện, tâm sự với Chúa mỗi ngày qua các giờ kinh, dù đó là một ngày thành công hay một ngày thất bại. Hãy trao đổi với Chúa về những toan tính, dự định của gia đình và tâm sự với Chúa về những vướng mắc, khó khăn của gia đình. Chúa sẽ giải gỡ những khó khăn cho chúng ta.
Tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, noi gương ông Giakêu, hãy mạnh dạn vứt bỏ khỏi gia đình những nóng nảy cãi vã, sự tham tiền tham việc để có nhiều giờ dành cho Chúa và cho nhau hơn, giúp gia đình mỗi ngày nên tốt hơn, ấm cúng, thuận hòa, hạnh phúc hơn. Amen.
.
JM. Lam Thy
Cách đây 2.000 năm, Do-thái bị đế quốc La-mã đô hộ. Chính quyền La-mã lúc đó đòi hỏi mỗi vùng thuộc địa phải đóng một số thuế đã được định trước, và họ cho bán đấu giá quyền thu thuế trong mỗi vùng. Người mua có thể thu thuế từ dân chúng bao nhiêu tùy ý, miễn là đóng lại cho chính quyền La-mã đủ số tiền đã định trước. Dân chúng bị những người thu thuế bóc lột một cách thẳng tay, rút tỉa đến tối đa, để bỏ vào túi riêng của mình. Người thu thuế là những người làm giàu trên xương máu đồng bào mình, vì thế, họ bị coi là hàng ngũ tội lỗi không thể tha thứ được, là người bị khinh bỉ nhất trong xã hội Do-thái lúc đó. Ông Da-kêu là một người như thế và còn hơn thế nữa, là một đầu sỏ của nhóm người tội lỗi này: ông là Trưởng ban Thuế vụ tại Giê-ri-khô. Có lẽ chính ông Da-kêu cũng nhận ra điều này; đàng khác, chắc chắn ông cũng nghe nhiều người kể lại danh tánh một người tên là Giê-su ở làng quê Na-da-rét, tự xưng là Con Thiên Chúa, đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh cho nhiều người, và một điều đặc biệt là ông Giê-su ấy chỉ chuyên đến với những người nghèo hèn, tội lỗi, tù rạc, bệnh hoạn. Vì thế, Da-kêu muốn tìm cách gặp để xem ông Giê-su là người như thế nào và có thực đúng như những lời đồn đại hay không.
Cơ hội đã tới, khi biết người mình muốn tìm sắp đi ngang qua thành Giê-ri-khô, Da-kêu liền chen vào đám đông thực hiện ý định, chỉ hơi tiếc một điều là dân chúng chen chúc quanh Đức Ki-tô thì quá đông, mà ông lại quá… lùn. Nhưng ông quyết không bỏ lỡ cơ hội, bèn tìm cách leo lên cây cao để nhìn cho rõ, và đó chính là một sáng kiến xuất phát từ lòng ao ước muốn đạt mục đích. Cũng chính từ lòng ao ước ấy mà ông được toại nguyện còn hơn cả sự mong muốn của mình. Đức Giê-su không chỉ đi ngang cho Da-kêu nhìn thấy, mà Người còn gọi đích danh ông và hứa vào tận nhà ông (“Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” – Lc 19, 5). Quả đúng như lời đồn đại về Đức Giê-su, không những thế, Người còn thực hiện đúng những gì Người đã dạy (“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” – Mt 7, 7).
Tất cả những sự kiện xảy ra nhãn tiền đã khiến ông Da-kêu, từ một người mới chỉ nghe danh và tò mò muốn biết Đức Ki-tô là ai và là người như thế nào, đã trở thành một người vững tin và quyết tâm sám hối, sửa chữa lỗi lầm của mình (“Thưa Ngài, đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” – Lc 19, 8). Hành động ấy đã khiến Đức Giê-su xúc động và nói về ông Da-kêu thế này: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 19, 9-10). Lời dạy này mang ý nghĩa gì ?
Có 2 điều cần suy gẫm: Thứ nhất, ông Da-kêu là con cháu tổ phụ Ap-ra-ham, mà tổ phụ Ap-ra-ham là con cái Thiên Chúa, nên ông Da-lêu cũng là con cái Thiên Chúa. Đã là con cái Thiên Chúa thì tất cả đều bình đẳng trong ân nghĩa Chúa, hay nói khác hơn, đã là con cái Thiên Chúa thì tất cả đều được cứu độ, dù cho có bị lạc đường vì tội lỗi thế nào mặc lòng (xc “Con chiên lạc” – Mt 18,12-14) bởi Chúa đã khẳng định chắc nịch: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19, 8). Tuy nhiên, những con chiên bị lạc đường vì tội lỗi ấy khi được Chúa tìm và vui vẻ vác trên vai trở về, liệu có thực lòng muốn trở về đường ngay nẻo chính hay không? Và đó chính là điểm cần suy gẫm thứ hai: Ông Da-kêu khi được gặp Chúa, được Chúa lại thăm tận nhà, ông đã sáng mắt sáng lòng hiểu ra con người thực của mình chứa đầy tội lỗi nhuốc nhơ, hiểu được chính Con Người mà ông tò mò muốn biết là Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, nên ông đã thực lòng ăn năn sám hối và đã được cứu độ. Tất cả gói ghém trong Ánh mắt xót thương của Đấng giàu lòng thương xót.
Đó là ánh mắt biểu lộ sự quan tâm đặc biệt: Da-kêu thật thấp bé, nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Và thật lạ lung, giữa đám đông người chen chúc, dù Da-kêu thấp bé, Chúa vẫn nhìn thấy ông, lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Da-kêu, chắc chắn sẽ làm ông cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa. Đó là ánh mắt khiêm nhường: Cảnh Chúa ngước lên nhìn Da-kêu, thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Da-kêu chắc chắn phải choáng ngợp vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.
Chúa Giê-su còn nhìn Da-kêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng Da-kêu sẽ nên người tốt, sẽ làm lại cuộc đời, nên Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha, quên đi quá khứ tội lỗi của ông, mà hướng về tương lai tốt đẹp. Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Da-kêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Nói cách cụ thể thì đó chính là Ánh Mắt Xót Thương của Đức Giê-su – hiện thân Lòng Chúa Thương Xót.
Suy niệm bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXI/TN-C), người tín hữu thấy rõ được 2 ánh mắt xuất phát từ 2 phía: Ánh mắt của Da-kêu là ánh mắt tin tưởng, phó thác đã “dán chặt vào Chúa Giê-su”. Đối lại với ánh mắt Da-kêu là ánh mắt Đức Giê-su nhìn thấu tâm can Da-kêu nên đã chủ động tìm ông vì Người không muốn ông sống mãi trong tình trạng tội lỗi; đó là ánh mắt nhân từ thương xót. Vâng, chính “Ánh mắt yêu thương của Chúa đã cứu Da-kêu và Mat-thêu khỏi vòng nô lệ tiền bạc; đã giúp người đàn bà ngoại tình và Ma-đa-lê-na không còn kiếm tìm hạnh phúc nơi thụ tạo; đã khiến Phê-rô khóc lóc vì trót phản bội Chúa, và đã hứa Thiên Đàng cho người trộm cướp có lòng ăn năn.” (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót). Quả thật “Với đôi mắt của chúng ta dán chặt vào Chúa Giê-su và ánh mắt xót thương của Ngài, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Sứ vụ của Chúa Giê-su được Chúa Cha trao phó là mạc khải mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa trong sự viên mãn của tình yêu ấy. “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 8.16).” (Tông chiếu Dung Mạo Lòng Thương Xót “Misericordiae Vultus”, số 8).
Như vậy là đã rõ, Lòng Thương Xót Chúa tuôn đổ tràn đầy, không phân biệt nội ngoại, giàu nghèo, sang hèn. Vấn đề đặt ra là anh có nhận ra và phân biệt được đâu là thật và đâu là giả giữa cõi đời chân giả khôn phân này hay không mà thôi. Và khi đã phân biệt được chân giả, thì biết tìm đến chân lý với tất cả lòng tin, với tất cả thiện chí. Chỉ đến khi đó, Thiên Chúa sẽ “…dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin” (2Tx 1, 11). Chắc chắn sẽ có một cuộc đổi đời xảy đến với anh cũng như đã xảy đến với ông Da-kêu thủa xưa. Cũng bởi vì “danh của Chúa chúng ta là Đức Giê-su, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giê-su Ki-tô.” (2Tx 1, 1). Ước được như vậy. Xin cùng dâng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã dạy chúng con phải thương xót như Cha trên trời, và cho chúng con biết: ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha. Xin tỏ cho chúng con thấy nhan thánh Chúa và chúng con sẽ được cứu thoát. Ánh mắt yêu thương của Chúa đã cứu Da-kêu và Mat-thêu khỏi vòng nô lệ tiền bạc; đã giúp người đàn bà ngoại tình và Ma-đa-lê-na không còn kiếm tìm hạnh phúc nơi thụ tạo; đã khiến Phê-rô khóc lóc vì trót phản bội Chúa, và đã hứa Thiên Đàng cho người trộm cướp có lòng ăn năn. Xin cho chúng con biết lắng nghe, như chính Chúa đang gửi đến mỗi người chúng con, những lời Chúa đã nói với người phụ nữ Samaria: “Nếu chị biết nhận ra ơn Chúa!”
Chúa là gương mặt hữu hình của Chúa Cha vô hình, gương mặt của Thiên Chúa đang đem lòng xót thương và tha thứ mà biểu lộ uy quyền trên mọi sự: xin cho Hội Thánh được nên gương mặt hữu hình của Chúa nơi trần gian, gương mặt của Chúa sống lại hiển vinh. Chúa đã muốn các thừa tác viên của Chúa cũng phải khoác lên người sự yếu đuối để biết đồng cảm với những người đang sống trong u mê và lầm lạc: xin cho mọi người đến với các thừa tác viên đều thấy mình được Thiên Chúa tìm kiếm, yêu thương và tha thứ.
Xin Chúa gửi Thánh Thần đến và xức dầu thánh hiến mỗi người chúng con, để Năm Thánh Lòng Thương Xót này trở thành năm được Chúa ban ân sủng, để Hội Thánh Chúa được thêm lòng nhiệt thành mang Tin Mừng đến với người nghèo, loan báo tự do cho những người bị giam cầm và áp bức, và cho người mù lại được nhìn thấy. Nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, chúng con nguyện xin Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen. (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót)
.
SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA TÌNH THƯƠNG
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 19,1-10
(1) Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. (2) Và kìa, có một người tên là Da-kêu. Ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. (3) Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông lại lùn. (4) Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. (5) Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. (6) Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. (7) Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” (8) Còn ông Da-kêu thì đứng mà thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. (9) Đức Giêsu nói với ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham. (10) Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
- Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay nhằm chứng minh Đưc Giêsu là Đấng Thiên Sai, với sứ mệnh “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Cụ thể là ông Da-kêu thủ lãnh các người thu thuế ở Giê-ri-khô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm, nên ông đã gặp được Người và được Người ưu ái đến ở trọ tại nhà ông. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã quyết tâm hoán cải, thể hiện qua việc tình nguyện quảng đại chia phân nửa gia sản phân phát cho người nghèo và sẵn sàng đền bù cho những người đã bị ông làm thiệt hại trước đây.
- CHÚ THÍCH:
– C 1-4: + Đức Giêsu vào thành Giê-ri-khô và đi ngang qua thành: Giê-ri-khô là một thành phố cách Giêrusalem 37 cây số. Có hai thành Giê-ri-khô: Một thành cũ đã bị ông Gio-su-ê phá huỷ, và một thành mới do vua Hêrôđê xây dựng cách nơi cũ không xa. + Có một người tên là Da-kêu: Tên Da-kêu nghĩa là “Người trong sạch”. Ong đứng đầu ngành thu thuế tại thành Giê-ri-khô, nên bị người Do thái liệt vào hạng người tội lỗi.
– C 5-7: + Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”: Đức Giêsu đã biết rõ về con người của Da-kêu trước khi ông gặp Người. Người đã nhìn thấy ông giữa muôn người, biết tên và công khai gọi tên ông. Nhất là Người còn đến ở trọ tại nhà của ông. + Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người: Cảm động trước tình thương và sự ưu ái quan tâm của Đức Giêsu, ông Da-kêu vội vàng tụt xuống khỏi cây sung và đón rước Người về nhà. Da-kêu chỉ muốn thấy mặt Đức Giêsu, nhưng ông lại được Người thương đến ở trọ tại nhà của ông. Lòng ưu ái của Người vượt quá sự mong ước của ông. + Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !”: Theo quan niệm của người Do thái, ai lui tới giao thiệp với người tội lỗi cũng trở nên ô uế và bị khiển trách (x. Lc 5,30). Ở đây, Đức Giêsu không những đã tiếp xúc nói chuyện, mà còn đến ở trọ tại nhà của ông trưởng ngành thu thuế Da-kêu, nên không tránh khỏi sự xầm xì phản đối của đám đông. Qua hành động này, Đức Giêsu cho thấy sứ vụ của Người là đi tìm và cứu chữa những người tội lỗi mà Da-kêu là đại diện.
– C 8-10: + Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo…: Cảm động trước tình thương của Đức Giêsu, Da-kêu đã biểu lộ quyết tâm hoán cải qua việc đền bù những tội lỗi trước đó. Ông tự nguyện chia nửa tài sản để phân phát cho người nghèo và đền trả gấp bốn lần những thiệt hại đã gây ra, trong khi Luật Môsê chỉ buộc đền gấp bốn cho tội trộm chiên mà thôi (x. Xh 21,37). + Hôm nay Ơn cứu độ đã đến cho nhà này: Nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu mà cả nhà ông Da-kêu đã được cứu độ. + Con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham: Do làm nghề thu thuế nên Da-kêu bị coi là kẻ tội lỗi không còn thuộc về dòng dõi của Áp-ra-ham. Nhưng khi ông đã hồi tâm sám hối, ông lại được Đức Giêsu trả lại quyền được làm con cháu của Tổ phụ Áp-ra-ham như trước. + Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất: Câu này cho thấy sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu là đến để tìm kiếm và giúp những kẻ tội lỗi ăn năn sam hối để được cứu độ.
- CÂU HỎI: 1) Tên Da-kêu nghĩa là gì ? 2) Thiện chí của ông Da-kêu được biều lộ qua hành động nào ? 3) Tại sao dân chúng lại trách Đức Giêsu về việc đến ở trọ tại nhà Da-kêu ? 4) Tại sao ông Da-kêu lại được Đức Giêsu tuyên bố là con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham và được cứu độ ? 5) Câu nào nói lên sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).
- CÂU CHUYỆN:
1) NHỮNG KẺ KHỐN CÙNG (LES MISÉRABLES)
Đây là tựa đề một tác phẩm nổi tiếng của văn hào Vích-to Huy-gô (Victor Hugo), tường thuật câu chuyện về cuộc đời của Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp của giết người đã từng bị ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã phải nếm mùi bị mọi người khinh dể xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; Vào trong nhà trọ thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; Đi qua ổ chó, thấy bộ dạng nhếch nhác râu ria của anh, chúng liền thi nhau sủa inh ỏi… Chỉ khi bước vào nhà Đức giám mục My-ri-ê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa tối thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi lòng tham, nên nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao chuồn mất. Nhìn thay bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền đòi khám xét chiếc túi vải anh đang vác trên vai và nhìn thấy mấy cái chân đèn bằng bạc. Anh liền bị giải đến trước mặt vị giám mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không kết tội, mà còn nhận là đã tặng cho anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu, nhưng con phải sám hối để làm lại cuộc đời”. Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương bao dung của ngài. Anh quyết tâm sám hối và sau đó đã trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau, Văn Giang đã chinh phục được tình cảm của mọi người và còn được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng của thành phố. Sở dĩ ông từ một tên tội phạm trở thành mot người lương thiện và được kính nể là do ông đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục My-ri-ê.
2) SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA TÌNH THƯƠNG:
Trong thiền viện của thiền sư SĂNG–GAI (Sengai) có nhiều đệ tử ở chung. Một đệ tử của vị thiền sư có thói quen thỉnh thoảng nửa đêm leo tường ra ngoài đi chơi với chúng bạn mãi đến gần sáng mới quay lại thiền viện. Một đêm kia, thiền sư Săng-gai đi kiểm tra, thấy một chiếc giường trống, rồi còn thấy một chiếc ghế cao để cạnh bức tường phía bên trong thiền viện. Thiền sư liền dời chiếc ghế kia sang chỗ khác và đứng thế vào chỗ đó. Khi anh đệ tử kia quay về, do không thấy thiền sư đang đứng thế chiếc ghế mọi khi, anh ta đã đặt bàn chân lên đầu thầy Săng-gai làm điểm tựa trước khi nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra sự thể thì anh cảm thấy sợ hãi. Nhưng thay vì trách phạt, thiền sư lại mỉm cười nhỏ nhẹ nói với anh rằng: “Trời về sáng đang trở lạnh. Con mau vào phòng mặc áo ấm vào kẻo bị cảm lạnh nhé !” Cảm động trước tấm long từ bi và tình thương khoan dung của thầy, từ ngày đó người đệ tử kia không bao giờ còn dám tái phạm trèo tường đi chơi nữa. Anh chuyên cần học tập và về sau trở thành một học trò giỏi của thiền sư Săng-gai.
3) SỨC MẠNH CỦA LÒNG SÁM HỐI:
Công tước D’Ossome, phó vương xứ Napoli, nước Ý, Một hôm đi thị sát chiến thuyền Galère do một đội nô lệ ngồi chèo. Họ vốn là các tội nhân nặng bị án khổ sai chung thân. Khi gặp mặt công tước, các tù nhân ai cũng ca thán mình vô tội. Duy chỉ có một tù nhân ở góc phía xa là ngồi cúi đầu không nói một lời. Công tước liền bước đến bên và dịu dàng hỏi han. Anh nói: Thưa ngài, tôi chịu phạt xứng với tội tôi đã phạm và tôi chẳng có gì để bào chữa. Công tước quay sang nói với mọi người đi theo: “Người này đúng là một phạm nhân, anh ta không xứng đáng ngồi chung với những kẻ vô tội. Ta ra lệnh trục xuất tên này ra khỏi nơi đây”. Và thế là, chỉ nhờ vào lòng chân thành hối lỗi mà người tù nhân đã được giải phóng khỏi kiếp sống nô lệ.
- THẢO LUẬN: 1) Trong các chuyện trên bạn thích câu chuyện nào nhất? Tại sao? 2) Tuần này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để giúp một tội nhân được ơn hoán cải nên lương thiện hơn ?
- SUY NIỆM:
Tin mừng Luca Chúa nhật hôm nay thuật lại câu chuyện hoán cải của ông Da-kêu làm nghề thu thuế. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với bọn trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, do làm thu thuế phục vụ đế quốc Rôma, nên họ bị dân Do thái đồng hóa với bọn tội phạm và bị khinh dể. Nhưng Đức Giêsu lại có cách hành xử khác đối với những người thu thuế này. Tin mừng hôm nay cho thấy: Người đã gọi đích danh ông Da-kêu, đã đến ở trọ trong nhà ông và còn ngồi đồng bàn ăn uống chung với ông. Việc đó khiến dân chúng có mặt xầm xì phản đối. Tuy nhiên qua lối hành xử như thế, Đức Giêsu cho thấy sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì bị hư mất”. Cảm động rrước tấm lòng bao dung nhân hậu của Đức Giêsu, ông Da-kêu đã nhìn nhận tội lỗi và quyết tâm sám hối để được nên công chính.
1) “NÀY ÔNG DA-KÊU XUỐNG MAU ĐI”:
Da-kêu là một người giàu có nổi tiếng ở thành Giê-ri-cô. Ông là trưởng ban thu thuế của thành phố này. Dĩ nhiên nếu chỉ là nhân viên làm việc ăn lương thì chắc ông đã không thể giàu có như vậy được. Sở dĩ ông có nhiều tiền là do gian lận móc ngoặc với gian thương trong việc thu thuế. Mọi người đều nhìn Da-kêu như một tội phạm đáng khinh, và chính ông cũng cảm thấy lương tâm bất an. Nghe tin Đức Giêsu sắp đi qua khu vực gần nhà, Da-kêu liền chạy tới gần để nhìn xem mặt Người. Nhưng dân chúng quá đông mà Da-kêu lại lùn thấp, nên ông đã chạy về phía trước, trèo lên một cây sung, hy vọng sẽ nhìn thấy mặt Đức Giêsu khi Người đi ngang qua. Khi tới chỗ Da-kêu núp, Đức Giêsu dừng lại ngước nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Da-kêu không ngờ lại được Đức Giêsu ưu ái biết rõ tên và còn ngỏ ý muốn đến ở trọ tại nhà ông là một người tội lỗi ! Ông cảm thấy rất vui khi được Đức Giêsu phục hồi danh dự trước mặt đám đông luôn ác cảm và khinh dể ông. Còn Đức Giêsu cũng bỏ ngoài tai những lời xì xầm phản đối của nhiều người để đến ở trọ tại nhà một kẻ tội lỗi.
Ơn Cứu độ là kết quả của sự gặp gỡ hai chiều: Thiên Chúa đi tìm và tội nhân tiếp nhận. Nếu Đức Giêsu không đi tìm tội nhân thì chẳng ai có thể được ơn cứu độ: “Vì chưng, Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10). Nhưng dù Đức Giêsu có đi tìm mà tội nhân lại né tránh, thì họ cũng không thể nhận được ơn cứu độ. Trong câu chuyện hôm nay, Đức Giêsu đã đi bước trước khi nhìn lên cây sung tìm kiếm Da-kêu đang ẩn núp và nói chuyện với ông và ông đã mau chóng đáp lại. Cuối cùng ông và cả gia đình đã nhận được ơn cứu độ.
2) “NÀY ĐÂY PHÂN NỬA TÀI SẢN CỦA TÔI, TÔI CHO NGƯỜI NGHÈO…”:
Chính ánh mắt bao dung, lời nói âu yếm và thái độ yêu thương của Đức Giêsu đã đánh động tâm hồn chai lì của Da-kêu, thổi bùng lên ngọn lửa hướng thiện còn đang leo lét trong lòng ông. Quả thật, hoán cải là kết quả của một sự cảm nhận về tình yêu của Chúa. Da-kêu bỗng chốc cảm thấy tâm hồn hân hoan và không còn yêu thích tiền bạc như trước. Ông đã sẵn sàng hiến phân nửa tài sản chia cho người nghèo, đồng thời tự nguyện đền trả gấp bốn những thiệt hại đã gây cho kẻ khác. Xin đền gấp bốn nghĩa là Da-kêu nhận biết tội của ông quá nặng và quyết tâm thực thi công bình bác ái. Dù Da-kêu đã trở nên nghèo hơn, nhưng ông lại cảm thấy hạnh phúc hơn vì đã được Đức Giêsu yêu thương đến ở trọ tại nhà ông và ban ơn cứu độ cho cả gia đình ông. Người còn trả lại cho ông tư cách là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham giống như bao người Do thái lương thiện khác khi phán: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 19,9). Trong bữa tiệc vui hôm đó, tuy không còn giàu có như trước, nhưng Da-kêu đã cảm thấy hạnh phúc hơn. Chắc chắn thân thể ông vẫn còn lùn thấp như trước, nhưng tâm hồn ông đã hóa nên cao thượng hơn gấp bội phần.
3) LIÊN QUAN GIỮA HOÁN CẢI VÀ TỪ BỎ:
Bất cứ một cuộc hoán cải nào cũng đòi phải có sự từ bỏ: Một người lương muốn theo đạo Công giáo thì phải từ bỏ ma quỉ, bỏ các điều mê tín dị đoan, các đam mê tội lỗi… để chỉ tin thờ một mình Thiên Chúa và tin vào Đấng Ngài sai đến là Đức Giêsu Kitô. Một người mắc thói xấu cờ bạc, rượu chè, trai gái, hút sách… muốn hồi tâm sám hối cũng phải quyết tâm chừa bỏ các thói hư ấy. Một người buôn gian bán lận, muốn hoán cải quay về với Chúa cũng phải quyết tâm từ bỏ lối làm ăn gian dối ấy… Con tim của Da-kêu đã được hoán cải nhờ sự quan tâm và đối xử nhân hậu của Đức Giêsu. Thi hào người Đức Goethe (1749-1832) đã viết như sau: “Nếu đối xử với một người như “người ấy là”, thì người ấy sẽ trở nên xấu hơn. Nếu đối xử với người ấy như “người ấy phải là”, hoặc như “người ấy muốn là”, thì người ấy sẽ trở nên tốt hơn”. Đức Giêsu hiểu rằng trong tâm hồn Da-kêu còn có phần tốt, muốn làm điều tốt và có khả năng làm điều tốt, nên Người đã khơi phần tốt ấy lên. Mỗi người chúng ta cũng hãy tự hoán cải bằng cách để Đức Giêsu quan tâm đến ta, nói với ta, đến ở trọ trong lòng ta và đánh động con tim của ta.
4) HIỆN NAY VẪN CÒN NHIỀU DA-KÊU:
Đó là những người bị người khác khinh thường loại trừ như: những kẻ mang tiền án tiền sự, những trẻ em bụi đời lang thang không nhà, những cô gái đứng đường đón khách lúc đêm tối, những người nghiện sì-ke ma túy, những người đang tìm hưởng lạc thú trong những quán bia ôm, mượn rượu giải sầu… Họ cần những người có trái tim bao dung nhân ái như Đức Giêsu giúp họ hoàn lương giống như Da-kêu trong Tin mừng hôm nay. Vậy trong những ngày này chúng ta có thể làm gì cụ thể để tỏ lòng khoan dung yêu thương và giúp họ trở về với Chúa?
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊSU. Ngày nay Chúa vẫn thường đến với chúng con trong hình hài của những người nghèo khó ăn xin, những bệnh nhân liệt giường không tiền chữa trị, những người đau khổ cần được ủi an. Chúa cần chút nước giếng của người phụ nữ Samari để uống cho đã khát; Cần năm chiếc bánh và hai con cá của một bé trai dâng hiến để nhân ra nhiều nuôi năm ngàn người ăn no; Cần căn nhà của Da-kêu để nghỉ qua đêm… Chúa khiêm tốn xin chúng con một chút tiền bạc, một chút lòng hảo tâm, một chút sự thương cảm… để sau đó Chúa lại đổ xuống trên chúng con muôn ngàn phúc lộc thiêng liêng gấp bội.
– LẠY CHÚA. Xin dạy chúng con biết đến với tha nhân, biết khám phá ra đốm lửa của sự thiện còn đang cháy leo lét nơi tâm hồn những người đang lạc xa Chúa. Ước gì chúng con biết nhìn các tội nhân công khai bằng ánh mắt nhân từ bao dung của Chúa, dám hy vọng vào thiện chí hoán cải của họ, và kêu gọi mọi người cùng hợp tác để xua tan cái xấu cái ác ra khỏi gia đình, khu xóm, trường học, và công sở … Nhờ đó, thế giới hôm nay sẽ được biến đổi ngày một tốt hơn, chan hòa tình người hơn và an bình hạnh phúc hơn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Cuộc đời của chúng ta thường có nhiều cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà chúng ta biết trước và cũng có những cuộc gặp gỡ bất ngờ. Có những cuộc gặp gỡ chúng ta cố tránh né, nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ mà chúng ta cảm thấy hồi hộp như đi phỏng vấn tại tòa đại sứ để đi đoàn tụ, hay có những sự háo hức mong đợi như về thăm những người thân yêu tại Việt Nam, hay như hẹn hò gặp người yêu, hay gặp một nhân vật nổi tiếng như tổng thống hay Đức giáo hoàng. Hàng tuần chúng ta đến nhà thờ để gặp gỡ Chúa Ki-Tô một cách đặc biệt và thân tình. Chúng ta thấy cuộc gặp gỡ nào cũng để lại những dư âm, những cảm xúc hay có ảnh hưởng đến đời sống chúng ta. Và có những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa có sức hoán cải hay thay đổi hoàn toàn cuộc sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay mang nhiều tính cách và có kết quả bất ngờ, tuy cuộc hành trình của Chúa có mục đích rõ ràng. Khi đến thời điểm, Chúa Giê-su cương quyết lên Giê-ru-sa-lem để bày tỏ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa Cha cho nhân loại. Trên con đường và không bao lâu, Chúa biết không thể dùng đường tắt mà đi, cũng như phải đối diện với nhiều cản trở và gặp gỡ nhiều hạng người khác nhau. Trước hết, Chúa phải đương đầu với sự khinh bỉ và thù hằn của người Samaritan chống đối không cho Chúa đi qua thành của họ, vì vậy, Chúa phải đi đường vòng khó khăn, nguy hiểm và xa hơn. Sau đó, Chúa phải đối diện với những sự dận dữ, muốn trả thù của các môn đệ. Nhưng với một cử chỉ sửa trách nhẹ nhàng và quyết định đi đường khác, Chúa đã hóa tan những cản trở, những sự thù hằn và chống đối.
Trong khoảng đường còn lại, Tin mừng thánh Lu-ca cho chúng ta thấy Chúa gặp và đương đầu với những tình cảnh khó khăn và những cản trở to lớn khi những người Pha-ri-sêu và luật sĩ thù hằn đưa ra những câu hỏi cố ý đánh lừa để tìm cách hại Người. Ngoài ra, Chúa còn gặp những đầy tớ bất lương, sự chống đối của bà con thân thuộc, đối diện không những với ma quỉ mà còn tướng của ma quỉ, đó là chưa kể tới những sự chống đối và tẩy chay của dân chúng, cũng như sự lo sợ và yếu kém của các môn đệ theo Chúa. Nhưng thánh Lu-ca cho chúng ta biết, Chúa đã trấn an các môn đệ với những lời tăng thêm lòng xác tín của các ông vào Chúa: “Dân chúng sẽ chào mừng các con”, “Satan sẽ rơi xuống từ trời”, “Các con sẽ trừ được rắn độc, bò cạp và quyền lực của ma quỉ, và không có sự gì làm hại được các con”, “Tên các con đã được ghi sổ trên trời”, “Cha Ta sẽ ở cùng Ta”, “Lời cầu nguyện của các con sẽ được nghe lời”, “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống.”
Tin mừng cho chúng ta biết, ngày hôm đó Chúa đang đi trên lộ trình ngang qua thành Giêricô để lên thành Giêrusalem. Ngài chỉ đi như vậy thôi hay là còn có một mục đích nào khác nữa không? Câu chót của đoạn Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa không phải chỉ đi lang thang, mà có mục đích rõ ràng, đó là để “tìm cứu vớt những gì đã hư hỏng”, và ngày hôm đó Chúa đã gặp Gia-kêu. Câu chuyện gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và ông Gia-kêu là một trong những câu chuyện đẹp trong Tin mừng của Thánh Lu-ca. Cuộc gặp gỡ này đã biến Gia-kêu từ một người rất xấu trở nên đẹp lạ thường.
Chúng ta nhận thấy mở đầu câu chuyện gặp gỡ, hình ảnh của Gia-kêu rất xấu vì ông được diễn tả như là một người gian dối tội lỗi, bị dân chúng thù hằn, khinh bỉ và tránh xa. Lý do là vì ông làm nghề thu thuế và còn là thủ lãnh thu thuế và giàu có. Nhưng sau đó vào cuối câu chuyện ông đã thay đổi, một sự thay đổi tuyệt vời làm cho Chúa Giê-su cũng phải nhìn nhận: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ.” Sự thay đổi như thế nào, thì chúng ta hãy nghe chính Gia-kêu thưa với Chúa: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Ông bà anh chị em thân mến. Gia-kêu đã được gặp Chúa và cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời không những của ông mà còn cả gia đình của ông. Đây không phải là cuộc gặp gỡ tình cờ, vì như chúng ta biết đối với Chúa Giê-su, mục đích của cuộc hành trình của Người lên Giê-ru-sa-lem là đem tình yêu, lòng thương xót và ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người. Thế nhưng, chúng ta tự hỏi do đâu hay nguyên nhân nào mà Gia-kêu đã thay đổi cuộc đời như thế?
Chúng ta nhận ra hai yếu tố thúc đẩy và tạo nên sự thay đổi cuộc sống của Gia-kêu. Yếu tố thứ nhất là sự khao khát và thôi thúc của chính Gia-kêu. Có lẽ ông đã nghe nói về lời rao giảng, những phép lạ và con người của Chúa Giê-su, cho nên, khi nghe nói Chúa đi ngang qua thành của mình thì ông tìm cách xem mặt Chúa Giê-su. Ông vội vã chạy tới phía trước, nhưng vì sự cản trở của đám đông dân chúng, và nhất là vì thân hình ông nhỏ bé, cho nên ông leo lên một cây sung để xem Chúa Giê-su. Như Chúa Giê-su đã tìm mọi cách vượt qua những cản trở để lên Giê-ru-sa-lem, ông Gia-kêu cũng đã tìm mọi cách để vượt qua những cản trở trong con người của mình là tội lỗi, và cản trở bên ngoài là đám đông dân chúng, để xem thấy mặt và gặp được Chúa. Tình yêu, lòng thương xót, ơn tha thứ và cứu độ của Chúa luôn sẵn đó, chỉ cần Gia-kêu hay chúng ta, chịu khó và hy sinh tìm đến để lãnh nhận là có ngay. Quả thực, chúng ta thấy chính Gia-kêu đã đóng góp một cách hết sức tích cực và chân thành vào sự biến đổi cuộc đời của ông.
Yếu tố thứ hai tạo nên sự thay đổi cuộc đời của ông Gia-kêu là lòng nhân từ và thương xót của Chúa Giê-su. Tin mừng cho chúng ta thấy, Chúa Giê-su đã nhìn lên và gọi ông xuống mau đi. Hơn nữa, chúng ta thấy Chúa còn muốn tháo gỡ những cản trở của dân chúng chỉ trích về khía cạnh tội lỗi cũng như sự không xứng đáng của ông Gia-kêu, để tạo sự mật thiết với ông và gia đình ông, và đem tình yêu tha thứ và ơn cứu độ đến cho gia đình ông. Vì vậy. Chúa đề nghị đến nhà ông: “Hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi.” Và còn cho ông biết “Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất.”
Ông bà anh chị em thân mến. Tin mừng thánh Lu-ca khẳng định cho chúng ta biết nếu cuộc hành trình của chúng ta thực sự có sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tháo gỡ được những cản trở, thay đổi cục diện, tình huống từ hoàn cảnh xấu trở thành tốt, đầy hy vọng và ơn sủng của Chúa, cũng như có sức mạnh biến đổi cuộc sống người khác, như Chúa đã biến đổi cuộc sống của ông Gia-kêu trong Tin mừng hôm nay. Xin Chúa cho chúng ta cũng có một tấm lòng nhân từ như của Chúa và tấm lòng quảng đại như Gia-kêu. Một chút nữa đây, Chúa Giê-su sẽ đến và ngự trong tâm hồn chúng ta. Xin Chúa Giê-su Thánh Thể biến đổi cuộc đời chúng ta trở thành sứ giả đem tình yêu và lòng thương xót của Chúa đến cho mọi người chung quanh.
.